Dzung72c
01-26-2013, 02:17 PM
> Kính thưa Quý Vị, Quý NT và CH...
>
> Nghi thức Phủ Cờ, cho những Cựu Chiến Sĩ QLVNCH khi vĩnh viễn ra đi,
> đã gây ra những tranh cải trong Cộng đồng Người Việt Quốc Gia hải ngoại...
> kẻ chống, người binh...
>
>
> Nhằm mục đích trình bày quan điểm và góp ý về vấn đề tế nhị này,
> Bồ Câu Đỗ Ngọc Uyển đã có bài viết: Luận Về Nghi Thức Phủ Cờ ...
>
>
> Xin được kính, thân chuyển đến Qúy Vị ...mời đọc để tường và tùy nghi thẩm định....
>
>
> ** Cũng xin mời Qúy Vị thưởng thức bài hát: Mai Tôi Chết Cờ Vàng Xin Đừng Phủ...
> Thơ của Nguyễn Ngọc Trân, do Võ Tá Hân phổ nhạc và qua tiếng hát: Nguyễn Ngọc Châu...
>
>
> http://www.youtube.com/watch?v=d8oFQ2UW10E&feature=related
>
>
>
> BMH
> Washington, D.C
>
>
>
>
>
> vnflag.gif
>
> LUẬN VỀ NGHI THỨC PHỦ CỜ
> ~ Đỗ Ngọc Uyển ~
>
> Gần đây, các diễn đàn trên internet có phổ biến bài tự thán rất bi tráng mà tác giả (?) được ghi nhận là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù. Nguyên văn lời nói đầu cùng với bài tự thán như sau:
> Mai Tôi Chết Cờ Vàng Xin Đừng Phủ
> Tướng Lê Quang Lưỡng (cựu Tư lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù/QLVNCH): “Xin mặc đồ đen, không mặc quân phục, nếu muốn đến tiễn đưa tôi lần chót”. Một vị Tướng-lãnh QLVNCH đã trối-trăn: Tôi làm Tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu-cầu đừng phủ quốc-kỳ lên quan-tài tôi, vì tôi biết mình không xứng-đáng được hưởng nghi lễ nầy.
>
> Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
> Xác thân này đâu chết cho quê hương?
> Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
> Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
> Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
> Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
> Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
> Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
> Bao năm trời bao nhiêu người trẻ.
> Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
> Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì??
> Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước.
> Ta giờ đây đã tan bao mơ ước.
> Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ…
> Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
> Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.
> Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
> Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
> Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai??
> Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
>
> Lê Quang Lưỡng (?)
>
> Tuy nhiên, cũng có nguồn tin ghi nhận rằng tác giả bài tự thán trên đây là Nguyễn Ngọc Trân, một chiến sĩ biệt động quân. Đây là tâm sự của hai chiến sĩ cùng chung một cảm xúc bi tráng và tự trọng với tinh thần trách nhiệm rất đáng kính phục.
>
> Bài tự thán bi hùng của Nguyễn Ngọc Trân và những lời “trăn trối” tâm huyết của Tướng Lưỡng đã đánh mạnh vào tình cảm mến phục, thương xót của con người. Xin tôn trọng những lời tự thán và “trăn trối” trên đây của Nguyễn Ngọc Trân và Tướng Lưỡng. Tuy nhiên, với tư cách người lính QLVNCH, tôi viết bài này để trình bày một quan điểm về nghi thức phủ quốc kỳ trên quan tài khi người lính nằm xuống.
>
> Khi mặc bộ quân phục, đứng dưới Quốc Kỳ, nguời lính QLVNCH mang trên vai Danh Dự và Trách Nhiệm đối với Tổ Quốc. Dưới lá Quốc Kỳ, người quân nhân hãnh diện được hy sinh vì Tổ Quốc và coi nhẹ cái chết. Suốt một đời đứng dưới Quốc Kỳ, cầm súng bảo vệ Tổ Quốc, khi nằm xuống trong bất cứ trường hợp và hoàn cảnh nào - ngoài trận địa hay trên giường bệnh tại hậu phương - mọi quân nhân đều được Tổ Quốc ghi ơn và được hưởng mọi nghi thức tang lễ đã quy định trong các huấn thị như Nghi Lễ Phủ Quốc Kỳ, được mai táng tại các Nghĩa Trang Quốc Gia, được Dàn Chào Danh Dự khi hạ huyệt…
>
> “Con chim gần chết tiếng kêu thương; con người gần chết lời nói thành thật.” Chúng tôi tin rằng những lời ‘trăn trối” trên đây của Tướng Lưỡng - trong hoàn cảnh sa cơ thất thế và lưu vong - đã thốt ra từ đáy lòng khi cuối đời nghĩ tới những đồng đội dưới quyền đã hy sinh ngoài mặt trận hay còn đang kéo dài cuộc sống tối tăm, mòn mỏi trong tay quân thù ngay trên quê hương Miền Nam. Tướng Lưỡng cũng thốt ra những lời cay đắng, tự trách mình đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với quê hương. Do đó, Tướng Lưỡng đã nói lời cuối cùng:
> “Xin Đừng Phủ Quốc Kỳ Lên Quan Tài”
> Như đã nói ở trên, chúng tôi tôn trọng những lời “trăn trối” của Tướng Lưỡng, nhưng xin không đồng ý về việc từ chối lễ phủ cờ theo quy chế và nghi thức mà Quân Đội và Tổ Quốc đã ban cho ông. Dù trong hoàn cảnh sa cơ thất thế và lưu vong hiện nay, Tướng Lưỡng nói riêng và tất cả quân nhân các cấp đã từng xông pha trận mạc trong suốt 20 năm để bảo vệ quê hương thân yêu Miền Nam sẽ mãi mãi là những anh hùng của QLVNCH. Họ đựợc Tổ Quốc ghi ơn và xứng đáng được hưởng mọi nghi thức mà Quân Đội và Tổ Quốc đã quy định khi nằm xưống.
>
> Mới đây nhất, với tư cách là đồng minh của VNCH trong cuộc chiến chống cộng tại Việt Nam và ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản xuống vùng Đông Nam Á, Tổng Thống Hoa Kỳ đã trao tặng Huân Chương Legion of Merit (Degree of Commander) cho Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, bằng một sắc lệnh do Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates ký. Sắc lệnh này nêu rõ những chiến công anh hùng của Tướng Lân và Sư Đoàn TQLC/QLVNCH trong thời gian từ 30/3/1972 đến 16/9/1972 khi hoàn toàn tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay quân xâm lăng cộng sản Bắc Việt. Buổi Lễ Trao Tặng Huân Chương được tổ chức ngày 7/3/2009 tại phòng họp của đài phát thanh Radio Saigon, thành phố Houston với sự tham dự của khoảng 20 tướng lãnh và sĩ quan Hoa Kỳ cùng với khoảng 40 sĩ quan QLVNCH. Người đại diện cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert M. Gates để choàng giải Huy Chương Legion of Merit (Degree of Commander) trên ngực Thiếu Tướng Lân là Thiếu Tướng William Eshelman, bạn cùng khoá với Tướng Lân tại trường Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ Quantico. Khi ban thưởng Huân Chương Cao Quý Legion of Merit (Degree of Commander) cho Tướng Lân sau 37 năm kể từ khi tái chiếm tỉnh Quảng Trị, một lần nữa, Tổng Thống Hoa Kỳ - với tư cách là đồng minh của VNCH trong cuộc chiến chống cộng - đã công nhận rằng Tướng Lân là một vị tướng anh hùng của QLVNCH anh hùng, mặc dù QLVNCH đã bị những thủ đoạn chính trị phản phúc của Nixon và Kissinger làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho quân cộng sản Bắc Việt trong tháng 4/1975. Cho tới nay, kể cả Tướng Lân, mới chỉ có 19 vị tướng anh hùng của các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ được ban thưởng huy chương cao quý trên đây.
>
> Lễ phủ cờ là một vinh dự được Quân Đội và Tổ Quốc ban cho quân nhân các cấp khi nằm xưống và là niềm hãnh diện của gia đình họ. Cách đây không lâu, đài truyền hình SBTN từ Nam California có chiếu cảnh phóng viên Thanh Toàn từ Mỹ trở về một vùng quê ở Miền Nam Việt Nam, đến thăm một anh thương binh và trao tặng anh này một bộ quân phục tác chiến như đã hứa trong lần viếng thăm kỳ trước. Người cựu chiến binh thương tật với gương mặt rạng rỡ đã đưa hai tay nhận bộ quân phục tác chiến thân yêu còn mới nguyên nếp gấp. Sống trong lòng địch, khi chết không được phủ cờ, người chiến binh thương tật này chỉ còn một điều mong ước cuối cùng là được mặc bộ quân phục khi nằm trong quan tài thay vì được phủ cờ. Anh chiến binh anh hùng của QLVNCH đã được toại nguyện, và xin cám ơn phóng viên Thanh Toàn đã làm một việc rất có ý nghĩa.
>
> Trong dư luận, có những lời bàn cho rằng trong những ngày cuối tháng 4/1975, một số tướng tá cao cấp, sĩ quan đã bỏ chạy, đào ngũ, chốn ra ngoại quốc, đầu hàng…, và những người này không còn xứng đáng để được hưởng nghi thức phủ cờ khi nằm xuống. Đây là những lời bàn ngang, nông nổi, không xác đáng. Sau đây, xin kể một sự kiện đã đi vào quân sử Hoa Kỳ.
>
> Trong thế chiến II, ngày 26-7-1941, Trung Tướng Douglas McArthur được lệnh tái ngũ và được Tổng Thống Roosevelt bổ nhiệm làm Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ tại Viễn Đông. Bản doanh của Tướng MacArthur đóng tại Thủ Đô Manila, Philippines. Những ngày tiếp theo, Trung Tướng MacArthur được vinh thăng Đại Tướng và được Tổng Thống Philippines Manuel L. Quezon vinh thăng Thống Chế (Field Marshal) của quân đội Philippines. Cuối năm 1941, quân đội Nhật mở cuộc tấn công đánh chiếm Philippines. Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Nhật, Tướng MacArthur đã phải ra lệnh cho lực lượng Mỹ và Philippines rút về phòng thủ bán đảo Bataan, và Bộ Tham Mưu của Tướng MacArthur cũng phải rút về bán đảo chiến luỹ Corregidor. Nhận thấy tình hình rất nguy ngập, Tổng Thống Roosevelt đã ra lệnh cho Đại Tướng MacArthur phải di chuyển khỏi Philippines. Trong đêm 12/3/1942, Tướng MacArthur cùng với gia đình và bộ tham mưu của ông đã di tản khỏi bán đảo Corregidor trên bốn chiếc tầu tuần (PT boats) để đến phi trường Del Monte Airfield trên bán đảo Mindanao và được phi cơ B-17 đưa họ đi Úc Đại Lợi. Sau đó, Tướng MacAthur được bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh Tối Cao Đồng Minh của Chiến Trường Tây Nam Thái Bình Dương. Khi rời khỏi Corregidor, Tướng MacArthur có hứa rằng ông sẽ trở lại và ông đã giữ lời hứa. Ông cùng với bộ tham mưu đã trở lại Philippines ngày 20/10/1944 ngay khi lực lượng đống minh do ông chỉ huy giải phóng được Philippine khỏi tay quân đội Nhât. Trước khi rời khỏi Philippines, Tướng MacAthur đã chỉ định Trung Tướng Jonathan M. Wainwright ở lại thay ông chỉ huy toàn thể lực lượng Mỹ và Phi tại Bataan. Sự đào thoát khỏi Philippines của Tướng Tư Lệnh Chiến Trường MacArthur trong lúc địch quân đang tấn công không phải là một sự đào ngũ hay chạy chốn. Sự đào thoát này là do tình thế đòi hỏi. Nếu Tướng MacArthur ở lại, sự thể sẽ tệ hại hơn, chắc chán ông sẽ bị quân Nhật bắt làm tù binh như Trung Tướng Jonathan M. Wainwright sau này. Tướng MacArthur được vinh thăng Thống Tướng Năm Sao và được vinh danh là anh hùng của nước Mỹ. Ông mất ngày 5/4/1964 trên giường bệnh tại Walter Reed Army Medical Center, và Tổng Thống Johnson đã ra lệnh tổ chức lễ quốc táng. Từ sự kiện trên đây có thể luận ra rằng: Trong tình thế tuyệt vọng của những ngày cuối tháng 4/1975, những vị tướng tá, sĩ quan QLVNCH đã tìm cách thoát ra khỏi Việt Nam là hợp lý vì tình thế bắt buộc và là một quyết định đúng. Họ không đào ngũ hay chạy chốn mà là một hành động can đảm, không buông xuôi số phận trước một tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Nếu họ ở lại, chắc chắn sẽ bị Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam trả thù rất đê tiện bằng nhiều năm đầy ải trong các trại tù khắp nước từ Nam ra Bắc như chúng đã đối xử với những người bị kẹt lại. Những quân nhân này vẫn mãi mãi là anh hùng của QLVNCH. Họ đã chiến đấu suốt 20 năm để bảo vệ quê hương Miền Nam. Họ được Tổ Quốc ghi ơn và rất xứng đáng được hưởng nghi thức phủ Quốc Kỳ khi nằm xuống.
>
> Trở lại trường họp của Tướng Jonathan M. Wainwright, người đã được Tướng MacArthur chỉ định ở lại bảo vệ bán đảo Bataan trong một tình thế mà cơ hội sống còn hết sức mong manh. Nhưng đây là một vinh dự đối với một cấp chỉ huy như Tướng Wainwright. Trước sức tấn công vũ bão của quân đội Nhật và để tránh thương vong vô ích cho quân sĩ, Tướng Wainwright đã phải ra lệnh cho 76.000 quân Mỹ và Phi trên bán đảo Bataan đầu hàng quân Nhật lúc 9 giờ sáng ngày 9/4/1942. Tướng Wainwright bị quân Nhật bắt làm tù binh hơn 3 năm và được quân đội Liên Xô giải thoát khỏi một trại giam tù binh của Nhật tại Manchuria trong tháng 8/1945. Sự đầu hàng của Tướng Wainwright không phải là một sự hèn nhát mà là một hành động can đảm do tình thế đòi hỏi để tránh thương vong vô ích cho binh sĩ dưới quyền. Tướng Wainwright vẫn được tôn vinh là anh hùng của Bataan (hero of Bataan). Ngày 2/9/1945, Tướng Wainwright đứng bên cạnh Tướng MacArthur trên chiến hạm USS Missouri trong một buổi lễ tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của nước Nhật. Sau đó, Tướng Wainwright đã cùng với Tướng Arthur Percival trở lại Philippines để tiếp nhận sự đầu hàng của Tướng Tomoyuki Yamashita, người chỉ huy quân đội Nhật tại Philippines. Tướng Wainwright được vinh thăng bốn sao và được ban thưởng huy chương Medal of Honor. Ông mất ngày 2/9/1953 tại San Antonio vì bị nhồi máu cơ tim và được an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington theo nghi thức đối với một vị tướng anh hùng khi nằm xuống. Từ sự kiện trên đây có thể khẳng định rằng trong tình thế tuyệt vọng của những ngày cưối cùng của tháng 4 đen năm 1975, nếu có một số sĩ quan đã tự quyết định hoặc theo lệnh của “Tổng Thống Dương Văn Minh” mà buông súng là vì tình tế bắt buộc chứ không phải là hành động của những quân nhân hèn nhát. Họ đã chiến đấu đến phút cuối cùng và chỉ buông súng trong hoàn cảnh “thế cùng, lực tận”. Họ vẫn mãi mãi là những quân nhân anh hùng của QLVNCH và rất xứng đáng được hưởng nghi thức phủ Quốc Kỳ mà Quân Đội đã quy định khi nằm xuống.
>
> Cờ VNCH2.jpg
>
> Tóm lại, dù bị sa cơ thất thế trong biến cố 30/4/1975, những người lính thuộc mọi quân binh chủng của QLVNCH đã chiến đấu suốt 20 năm để bảo vệ quê hương Miền Nam thân yêu vẫn mãi mãi là những chiến binh anh hùng của QLVNCH anh hùng. Họ đã được Tổ Quốc ghi ơn qua những Bảo Quốc Huân Chương, Anh dũng Bội Tinh, Chiến Thương Bội Tinh, Chiến Dịch Bội Tinh … Họ Là Những Người Đi Dựng Cờ và rất xứng đáng được hưởng nghi lễ phủ quốc kỳ khi nằm xuống trong hoàn cảnh lưu vong hiện nay.
>
> Trong cuộc chiến chống cộng, QLVNCH đã phải chiến đấu chống lại cả một khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai là Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong thế trận quốc cộng này, VNCH bị đẩy vào cái thế là phải dựa vào sự viện trợ duy nhất của Hoa Kỳ. Nhưng nhận viện trợ của Mỹ mà không làm theo Mỹ thì bị Mỹ giết như trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Và sau này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng bị Nixon doạ giết nếu không chịu ký vào cái “Hiệp Định Đầu Hàng Paris”. Gần đây, những tài liệu giải mật của Toà Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài đã chứng minh rằng Nixon và Kissinger đã đi đêm với Trung Cộng và bán đứng VNCH cho cộng sản. Sử gia Hoa Kỳ Larry Berman, trong tác phẩm “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam”, đã chỉ đích danh hai người này là những kẻ phản bội VNCH. Và QLVNCH đã bị hai kẻ phản bội này làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho quân Việt Cộng chứ không phải quân Việt Cộng đã chiến thắng hoặc chúng ta thua trận trong ngày 30/4/1975. Ngày 29/9/2010, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về “ Kinh Nghiệm của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từ 1945 đến 1975”, chính Kissinger đã thú nhận: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”. Lời thú nhận muộn màng trên đây không làm ai ngạc nhiên. Trên phương diện thuần tuý quân sự, chúng ta không thua trận. Chúng ta luôn luôn hãnh diện là người lính QLVNCH bởi vì chúng ta có Chính Nghĩa và Chính Nghĩa sẽ tất thắng. Hãy ngẩng cao đầu và không bao giờ mang mặc cảm thua trận. Chế độ Việt Cộng - một chế độ độc tài hủ lậu - chắc chắn sẽ bị lịch sử đào thải.
>
> 21 năm xông pha trên tuyến đầu, Tướng Lê Quang Lưỡng đã được ban thưởng những huy chương cao quý của QLVNCH và Quân Lực Hoa Kỳ như sau:
>
> Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
> Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
> Đệ Ngũ Đẳng Bão Quốc Huân Chương
> 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu
> 6 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng, Bạc và Đồng
> 3 Chiến Thương Bội Tinh
> Two Silver Stars with V Device - 1971 - 1972
> Thee Bronze Stars with V Device - 1967 - 1968 - 1970
> One Distinguished Flying Cross
> One Air Medal
>
> Cùng với tên tuổi đã đi vào quân sử, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng - người anh hùng của QLVNCH, người con thương yêu của Tổ Quốc Việt Nam - không bao giờ chết mà chỉ mờ dần đi như hình ảnh những người lính trong điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng đã được Tướng MacArthur nhắc đến trong bài diễn văn giã từ binh nghiệp đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19 tháng 4 năm 1951 như sau:
>
> Old Soldiers Never Die; They Just Fade Away
>
> Đến đây, xin nhắc lại một lần nữa: Chúng tôi thông cảm và tôn trọng những lời ‘trăn trối” của Tướng Lưỡng nhưng xin không đồng ý về sự từ chối lễ phủ cờ theo nghi thức đã được ấn định bởi vì đây là một danh dự mà Quân Đội và Tổ Quốc ban cho tất cả quân nhân các cấp khi nằm xuống và không một quân nhân nào được phép từ chối. Ngoài ra, để bảo vệ Chính Nghĩa Quốc Gia và Danh Dự của người lính QLVNCH, chúng ta phải tiếp tục tổ chức lễ phủ cờ cho bạn đồng ngũ khi nằm xuống. Đây là một nghi thức truyền thống cao quý của QLVNCH. Xin tôn trọng những lời cuối trước khi ra đi của Tướng Lưỡng như một ngoại lệ đặc biệt. Và cũng xin nhắc lại câu danh ngôn đã được truyền tụng: “Xưa nay, không ai lấy thành bại để luận anh hùng.”
>
> Đỗ Ngọc Uyển
> (Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng TT)
> Tháng 1 năm 2013
> Morgan Hill, California
*Bài này do Anh Nguyễn văn Tiến K.72A Online LK.72A&C-Cám ơn Anh.
DZUNGUYEN
>
> Nghi thức Phủ Cờ, cho những Cựu Chiến Sĩ QLVNCH khi vĩnh viễn ra đi,
> đã gây ra những tranh cải trong Cộng đồng Người Việt Quốc Gia hải ngoại...
> kẻ chống, người binh...
>
>
> Nhằm mục đích trình bày quan điểm và góp ý về vấn đề tế nhị này,
> Bồ Câu Đỗ Ngọc Uyển đã có bài viết: Luận Về Nghi Thức Phủ Cờ ...
>
>
> Xin được kính, thân chuyển đến Qúy Vị ...mời đọc để tường và tùy nghi thẩm định....
>
>
> ** Cũng xin mời Qúy Vị thưởng thức bài hát: Mai Tôi Chết Cờ Vàng Xin Đừng Phủ...
> Thơ của Nguyễn Ngọc Trân, do Võ Tá Hân phổ nhạc và qua tiếng hát: Nguyễn Ngọc Châu...
>
>
> http://www.youtube.com/watch?v=d8oFQ2UW10E&feature=related
>
>
>
> BMH
> Washington, D.C
>
>
>
>
>
> vnflag.gif
>
> LUẬN VỀ NGHI THỨC PHỦ CỜ
> ~ Đỗ Ngọc Uyển ~
>
> Gần đây, các diễn đàn trên internet có phổ biến bài tự thán rất bi tráng mà tác giả (?) được ghi nhận là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù. Nguyên văn lời nói đầu cùng với bài tự thán như sau:
> Mai Tôi Chết Cờ Vàng Xin Đừng Phủ
> Tướng Lê Quang Lưỡng (cựu Tư lệnh Sư Đoàn Nhẩy Dù/QLVNCH): “Xin mặc đồ đen, không mặc quân phục, nếu muốn đến tiễn đưa tôi lần chót”. Một vị Tướng-lãnh QLVNCH đã trối-trăn: Tôi làm Tướng không bảo vệ được nước, khi nước mất tôi đã không dám chết theo nước, nên khi tôi chết già yêu-cầu đừng phủ quốc-kỳ lên quan-tài tôi, vì tôi biết mình không xứng-đáng được hưởng nghi lễ nầy.
>
> Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
> Xác thân này đâu chết cho quê hương?
> Súng gươm xưa đã bỏ lại chiến trường!
> Thân chiến bại nhục nhằn nơi đất khách!
> Hơn nửa đời đã tan rồi khí phách.
> Nhớ bạn bè nằm xuống nghĩ mà đau!
> Không quan tài cờ phủ giữa chiến hào,
> Máu thịt đã thấm vào lòng đất mẹ.
> Bao năm trời bao nhiêu người trẻ.
> Chết không cần cờ phủ vẫn uy nghi.
> Khi nằm xuống bạn nào đã cần gì??
> Chỉ ước muốn thân này dâng đất nước.
> Ta giờ đây đã tan bao mơ ước.
> Chuyện ngày xưa chỉ còn thấy trong mơ…
> Ngày về quê càng lúc càng xa mờ.
> Thời gian vẫn lạnh lùng theo năm tháng.
> Tuổi càng cao lòng càng nghe mặn đắng!
> Xót thân này khi chết bỏ lại đây!
> Nơi xứ người bạn hữu chẳng còn ai??
> Mai tôi chết cờ vàng xin đừng phủ.
>
> Lê Quang Lưỡng (?)
>
> Tuy nhiên, cũng có nguồn tin ghi nhận rằng tác giả bài tự thán trên đây là Nguyễn Ngọc Trân, một chiến sĩ biệt động quân. Đây là tâm sự của hai chiến sĩ cùng chung một cảm xúc bi tráng và tự trọng với tinh thần trách nhiệm rất đáng kính phục.
>
> Bài tự thán bi hùng của Nguyễn Ngọc Trân và những lời “trăn trối” tâm huyết của Tướng Lưỡng đã đánh mạnh vào tình cảm mến phục, thương xót của con người. Xin tôn trọng những lời tự thán và “trăn trối” trên đây của Nguyễn Ngọc Trân và Tướng Lưỡng. Tuy nhiên, với tư cách người lính QLVNCH, tôi viết bài này để trình bày một quan điểm về nghi thức phủ quốc kỳ trên quan tài khi người lính nằm xuống.
>
> Khi mặc bộ quân phục, đứng dưới Quốc Kỳ, nguời lính QLVNCH mang trên vai Danh Dự và Trách Nhiệm đối với Tổ Quốc. Dưới lá Quốc Kỳ, người quân nhân hãnh diện được hy sinh vì Tổ Quốc và coi nhẹ cái chết. Suốt một đời đứng dưới Quốc Kỳ, cầm súng bảo vệ Tổ Quốc, khi nằm xuống trong bất cứ trường hợp và hoàn cảnh nào - ngoài trận địa hay trên giường bệnh tại hậu phương - mọi quân nhân đều được Tổ Quốc ghi ơn và được hưởng mọi nghi thức tang lễ đã quy định trong các huấn thị như Nghi Lễ Phủ Quốc Kỳ, được mai táng tại các Nghĩa Trang Quốc Gia, được Dàn Chào Danh Dự khi hạ huyệt…
>
> “Con chim gần chết tiếng kêu thương; con người gần chết lời nói thành thật.” Chúng tôi tin rằng những lời ‘trăn trối” trên đây của Tướng Lưỡng - trong hoàn cảnh sa cơ thất thế và lưu vong - đã thốt ra từ đáy lòng khi cuối đời nghĩ tới những đồng đội dưới quyền đã hy sinh ngoài mặt trận hay còn đang kéo dài cuộc sống tối tăm, mòn mỏi trong tay quân thù ngay trên quê hương Miền Nam. Tướng Lưỡng cũng thốt ra những lời cay đắng, tự trách mình đã không hoàn thành nhiệm vụ đối với quê hương. Do đó, Tướng Lưỡng đã nói lời cuối cùng:
> “Xin Đừng Phủ Quốc Kỳ Lên Quan Tài”
> Như đã nói ở trên, chúng tôi tôn trọng những lời “trăn trối” của Tướng Lưỡng, nhưng xin không đồng ý về việc từ chối lễ phủ cờ theo quy chế và nghi thức mà Quân Đội và Tổ Quốc đã ban cho ông. Dù trong hoàn cảnh sa cơ thất thế và lưu vong hiện nay, Tướng Lưỡng nói riêng và tất cả quân nhân các cấp đã từng xông pha trận mạc trong suốt 20 năm để bảo vệ quê hương thân yêu Miền Nam sẽ mãi mãi là những anh hùng của QLVNCH. Họ đựợc Tổ Quốc ghi ơn và xứng đáng được hưởng mọi nghi thức mà Quân Đội và Tổ Quốc đã quy định khi nằm xưống.
>
> Mới đây nhất, với tư cách là đồng minh của VNCH trong cuộc chiến chống cộng tại Việt Nam và ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản xuống vùng Đông Nam Á, Tổng Thống Hoa Kỳ đã trao tặng Huân Chương Legion of Merit (Degree of Commander) cho Thiếu Tướng Bùi Thế Lân, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, bằng một sắc lệnh do Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert M. Gates ký. Sắc lệnh này nêu rõ những chiến công anh hùng của Tướng Lân và Sư Đoàn TQLC/QLVNCH trong thời gian từ 30/3/1972 đến 16/9/1972 khi hoàn toàn tái chiếm tỉnh Quảng Trị từ tay quân xâm lăng cộng sản Bắc Việt. Buổi Lễ Trao Tặng Huân Chương được tổ chức ngày 7/3/2009 tại phòng họp của đài phát thanh Radio Saigon, thành phố Houston với sự tham dự của khoảng 20 tướng lãnh và sĩ quan Hoa Kỳ cùng với khoảng 40 sĩ quan QLVNCH. Người đại diện cho Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert M. Gates để choàng giải Huy Chương Legion of Merit (Degree of Commander) trên ngực Thiếu Tướng Lân là Thiếu Tướng William Eshelman, bạn cùng khoá với Tướng Lân tại trường Thuỷ Quân Lục Chiến Hoa Kỳ Quantico. Khi ban thưởng Huân Chương Cao Quý Legion of Merit (Degree of Commander) cho Tướng Lân sau 37 năm kể từ khi tái chiếm tỉnh Quảng Trị, một lần nữa, Tổng Thống Hoa Kỳ - với tư cách là đồng minh của VNCH trong cuộc chiến chống cộng - đã công nhận rằng Tướng Lân là một vị tướng anh hùng của QLVNCH anh hùng, mặc dù QLVNCH đã bị những thủ đoạn chính trị phản phúc của Nixon và Kissinger làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho quân cộng sản Bắc Việt trong tháng 4/1975. Cho tới nay, kể cả Tướng Lân, mới chỉ có 19 vị tướng anh hùng của các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ được ban thưởng huy chương cao quý trên đây.
>
> Lễ phủ cờ là một vinh dự được Quân Đội và Tổ Quốc ban cho quân nhân các cấp khi nằm xưống và là niềm hãnh diện của gia đình họ. Cách đây không lâu, đài truyền hình SBTN từ Nam California có chiếu cảnh phóng viên Thanh Toàn từ Mỹ trở về một vùng quê ở Miền Nam Việt Nam, đến thăm một anh thương binh và trao tặng anh này một bộ quân phục tác chiến như đã hứa trong lần viếng thăm kỳ trước. Người cựu chiến binh thương tật với gương mặt rạng rỡ đã đưa hai tay nhận bộ quân phục tác chiến thân yêu còn mới nguyên nếp gấp. Sống trong lòng địch, khi chết không được phủ cờ, người chiến binh thương tật này chỉ còn một điều mong ước cuối cùng là được mặc bộ quân phục khi nằm trong quan tài thay vì được phủ cờ. Anh chiến binh anh hùng của QLVNCH đã được toại nguyện, và xin cám ơn phóng viên Thanh Toàn đã làm một việc rất có ý nghĩa.
>
> Trong dư luận, có những lời bàn cho rằng trong những ngày cuối tháng 4/1975, một số tướng tá cao cấp, sĩ quan đã bỏ chạy, đào ngũ, chốn ra ngoại quốc, đầu hàng…, và những người này không còn xứng đáng để được hưởng nghi thức phủ cờ khi nằm xuống. Đây là những lời bàn ngang, nông nổi, không xác đáng. Sau đây, xin kể một sự kiện đã đi vào quân sử Hoa Kỳ.
>
> Trong thế chiến II, ngày 26-7-1941, Trung Tướng Douglas McArthur được lệnh tái ngũ và được Tổng Thống Roosevelt bổ nhiệm làm Tư Lệnh Lục Quân Hoa Kỳ tại Viễn Đông. Bản doanh của Tướng MacArthur đóng tại Thủ Đô Manila, Philippines. Những ngày tiếp theo, Trung Tướng MacArthur được vinh thăng Đại Tướng và được Tổng Thống Philippines Manuel L. Quezon vinh thăng Thống Chế (Field Marshal) của quân đội Philippines. Cuối năm 1941, quân đội Nhật mở cuộc tấn công đánh chiếm Philippines. Trước sức tấn công mãnh liệt của quân Nhật, Tướng MacArthur đã phải ra lệnh cho lực lượng Mỹ và Philippines rút về phòng thủ bán đảo Bataan, và Bộ Tham Mưu của Tướng MacArthur cũng phải rút về bán đảo chiến luỹ Corregidor. Nhận thấy tình hình rất nguy ngập, Tổng Thống Roosevelt đã ra lệnh cho Đại Tướng MacArthur phải di chuyển khỏi Philippines. Trong đêm 12/3/1942, Tướng MacArthur cùng với gia đình và bộ tham mưu của ông đã di tản khỏi bán đảo Corregidor trên bốn chiếc tầu tuần (PT boats) để đến phi trường Del Monte Airfield trên bán đảo Mindanao và được phi cơ B-17 đưa họ đi Úc Đại Lợi. Sau đó, Tướng MacAthur được bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh Tối Cao Đồng Minh của Chiến Trường Tây Nam Thái Bình Dương. Khi rời khỏi Corregidor, Tướng MacArthur có hứa rằng ông sẽ trở lại và ông đã giữ lời hứa. Ông cùng với bộ tham mưu đã trở lại Philippines ngày 20/10/1944 ngay khi lực lượng đống minh do ông chỉ huy giải phóng được Philippine khỏi tay quân đội Nhât. Trước khi rời khỏi Philippines, Tướng MacAthur đã chỉ định Trung Tướng Jonathan M. Wainwright ở lại thay ông chỉ huy toàn thể lực lượng Mỹ và Phi tại Bataan. Sự đào thoát khỏi Philippines của Tướng Tư Lệnh Chiến Trường MacArthur trong lúc địch quân đang tấn công không phải là một sự đào ngũ hay chạy chốn. Sự đào thoát này là do tình thế đòi hỏi. Nếu Tướng MacArthur ở lại, sự thể sẽ tệ hại hơn, chắc chán ông sẽ bị quân Nhật bắt làm tù binh như Trung Tướng Jonathan M. Wainwright sau này. Tướng MacArthur được vinh thăng Thống Tướng Năm Sao và được vinh danh là anh hùng của nước Mỹ. Ông mất ngày 5/4/1964 trên giường bệnh tại Walter Reed Army Medical Center, và Tổng Thống Johnson đã ra lệnh tổ chức lễ quốc táng. Từ sự kiện trên đây có thể luận ra rằng: Trong tình thế tuyệt vọng của những ngày cuối tháng 4/1975, những vị tướng tá, sĩ quan QLVNCH đã tìm cách thoát ra khỏi Việt Nam là hợp lý vì tình thế bắt buộc và là một quyết định đúng. Họ không đào ngũ hay chạy chốn mà là một hành động can đảm, không buông xuôi số phận trước một tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Nếu họ ở lại, chắc chắn sẽ bị Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam trả thù rất đê tiện bằng nhiều năm đầy ải trong các trại tù khắp nước từ Nam ra Bắc như chúng đã đối xử với những người bị kẹt lại. Những quân nhân này vẫn mãi mãi là anh hùng của QLVNCH. Họ đã chiến đấu suốt 20 năm để bảo vệ quê hương Miền Nam. Họ được Tổ Quốc ghi ơn và rất xứng đáng được hưởng nghi thức phủ Quốc Kỳ khi nằm xuống.
>
> Trở lại trường họp của Tướng Jonathan M. Wainwright, người đã được Tướng MacArthur chỉ định ở lại bảo vệ bán đảo Bataan trong một tình thế mà cơ hội sống còn hết sức mong manh. Nhưng đây là một vinh dự đối với một cấp chỉ huy như Tướng Wainwright. Trước sức tấn công vũ bão của quân đội Nhật và để tránh thương vong vô ích cho quân sĩ, Tướng Wainwright đã phải ra lệnh cho 76.000 quân Mỹ và Phi trên bán đảo Bataan đầu hàng quân Nhật lúc 9 giờ sáng ngày 9/4/1942. Tướng Wainwright bị quân Nhật bắt làm tù binh hơn 3 năm và được quân đội Liên Xô giải thoát khỏi một trại giam tù binh của Nhật tại Manchuria trong tháng 8/1945. Sự đầu hàng của Tướng Wainwright không phải là một sự hèn nhát mà là một hành động can đảm do tình thế đòi hỏi để tránh thương vong vô ích cho binh sĩ dưới quyền. Tướng Wainwright vẫn được tôn vinh là anh hùng của Bataan (hero of Bataan). Ngày 2/9/1945, Tướng Wainwright đứng bên cạnh Tướng MacArthur trên chiến hạm USS Missouri trong một buổi lễ tiếp nhận sự đầu hàng vô điều kiện của nước Nhật. Sau đó, Tướng Wainwright đã cùng với Tướng Arthur Percival trở lại Philippines để tiếp nhận sự đầu hàng của Tướng Tomoyuki Yamashita, người chỉ huy quân đội Nhật tại Philippines. Tướng Wainwright được vinh thăng bốn sao và được ban thưởng huy chương Medal of Honor. Ông mất ngày 2/9/1953 tại San Antonio vì bị nhồi máu cơ tim và được an táng tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington theo nghi thức đối với một vị tướng anh hùng khi nằm xuống. Từ sự kiện trên đây có thể khẳng định rằng trong tình thế tuyệt vọng của những ngày cưối cùng của tháng 4 đen năm 1975, nếu có một số sĩ quan đã tự quyết định hoặc theo lệnh của “Tổng Thống Dương Văn Minh” mà buông súng là vì tình tế bắt buộc chứ không phải là hành động của những quân nhân hèn nhát. Họ đã chiến đấu đến phút cuối cùng và chỉ buông súng trong hoàn cảnh “thế cùng, lực tận”. Họ vẫn mãi mãi là những quân nhân anh hùng của QLVNCH và rất xứng đáng được hưởng nghi thức phủ Quốc Kỳ mà Quân Đội đã quy định khi nằm xuống.
>
> Cờ VNCH2.jpg
>
> Tóm lại, dù bị sa cơ thất thế trong biến cố 30/4/1975, những người lính thuộc mọi quân binh chủng của QLVNCH đã chiến đấu suốt 20 năm để bảo vệ quê hương Miền Nam thân yêu vẫn mãi mãi là những chiến binh anh hùng của QLVNCH anh hùng. Họ đã được Tổ Quốc ghi ơn qua những Bảo Quốc Huân Chương, Anh dũng Bội Tinh, Chiến Thương Bội Tinh, Chiến Dịch Bội Tinh … Họ Là Những Người Đi Dựng Cờ và rất xứng đáng được hưởng nghi lễ phủ quốc kỳ khi nằm xuống trong hoàn cảnh lưu vong hiện nay.
>
> Trong cuộc chiến chống cộng, QLVNCH đã phải chiến đấu chống lại cả một khối Đệ Tam Quốc Tế được uỷ nhiệm cho bọn tay sai là Băng Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong thế trận quốc cộng này, VNCH bị đẩy vào cái thế là phải dựa vào sự viện trợ duy nhất của Hoa Kỳ. Nhưng nhận viện trợ của Mỹ mà không làm theo Mỹ thì bị Mỹ giết như trường hợp Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Và sau này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cũng bị Nixon doạ giết nếu không chịu ký vào cái “Hiệp Định Đầu Hàng Paris”. Gần đây, những tài liệu giải mật của Toà Bạch Ốc và Ngũ Giác Đài đã chứng minh rằng Nixon và Kissinger đã đi đêm với Trung Cộng và bán đứng VNCH cho cộng sản. Sử gia Hoa Kỳ Larry Berman, trong tác phẩm “No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam”, đã chỉ đích danh hai người này là những kẻ phản bội VNCH. Và QLVNCH đã bị hai kẻ phản bội này làm cho tan rã để mang lại thắng lợi cho quân Việt Cộng chứ không phải quân Việt Cộng đã chiến thắng hoặc chúng ta thua trận trong ngày 30/4/1975. Ngày 29/9/2010, trong cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về “ Kinh Nghiệm của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á từ 1945 đến 1975”, chính Kissinger đã thú nhận: “Sự thảm bại tại Việt Nam năm 1975 là do Hoa Kỳ chứ không phải do VNCH”. Lời thú nhận muộn màng trên đây không làm ai ngạc nhiên. Trên phương diện thuần tuý quân sự, chúng ta không thua trận. Chúng ta luôn luôn hãnh diện là người lính QLVNCH bởi vì chúng ta có Chính Nghĩa và Chính Nghĩa sẽ tất thắng. Hãy ngẩng cao đầu và không bao giờ mang mặc cảm thua trận. Chế độ Việt Cộng - một chế độ độc tài hủ lậu - chắc chắn sẽ bị lịch sử đào thải.
>
> 21 năm xông pha trên tuyến đầu, Tướng Lê Quang Lưỡng đã được ban thưởng những huy chương cao quý của QLVNCH và Quân Lực Hoa Kỳ như sau:
>
> Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
> Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương
> Đệ Ngũ Đẳng Bão Quốc Huân Chương
> 21 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu
> 6 Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng, Bạc và Đồng
> 3 Chiến Thương Bội Tinh
> Two Silver Stars with V Device - 1971 - 1972
> Thee Bronze Stars with V Device - 1967 - 1968 - 1970
> One Distinguished Flying Cross
> One Air Medal
>
> Cùng với tên tuổi đã đi vào quân sử, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng - người anh hùng của QLVNCH, người con thương yêu của Tổ Quốc Việt Nam - không bao giờ chết mà chỉ mờ dần đi như hình ảnh những người lính trong điệp khúc của khúc ballad nổi tiếng đã được Tướng MacArthur nhắc đến trong bài diễn văn giã từ binh nghiệp đọc tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 19 tháng 4 năm 1951 như sau:
>
> Old Soldiers Never Die; They Just Fade Away
>
> Đến đây, xin nhắc lại một lần nữa: Chúng tôi thông cảm và tôn trọng những lời ‘trăn trối” của Tướng Lưỡng nhưng xin không đồng ý về sự từ chối lễ phủ cờ theo nghi thức đã được ấn định bởi vì đây là một danh dự mà Quân Đội và Tổ Quốc ban cho tất cả quân nhân các cấp khi nằm xuống và không một quân nhân nào được phép từ chối. Ngoài ra, để bảo vệ Chính Nghĩa Quốc Gia và Danh Dự của người lính QLVNCH, chúng ta phải tiếp tục tổ chức lễ phủ cờ cho bạn đồng ngũ khi nằm xuống. Đây là một nghi thức truyền thống cao quý của QLVNCH. Xin tôn trọng những lời cuối trước khi ra đi của Tướng Lưỡng như một ngoại lệ đặc biệt. Và cũng xin nhắc lại câu danh ngôn đã được truyền tụng: “Xưa nay, không ai lấy thành bại để luận anh hùng.”
>
> Đỗ Ngọc Uyển
> (Khoá 4 Thủ Đức/ Binh Chủng TT)
> Tháng 1 năm 2013
> Morgan Hill, California
*Bài này do Anh Nguyễn văn Tiến K.72A Online LK.72A&C-Cám ơn Anh.
DZUNGUYEN