PDA

View Full Version : Cựu Đại Tướng CAO VĂN VIÊN



gunship
01-24-2013, 10:56 PM
Trong khi Nhà báo Huy Đức vừa tung ra cuốn sách “Bên thắng cuộc” giá 40 USD làm nóng thị trường sách thì Long Điền (nguyên Sĩ quan Tham Mưu Chính Trị QLVNCH) cũng công bố sách tìm hiểu lịch sử “Cuộc Chiến Việt Nam 1945 - 1975″, 1124 trang gồm 2 tập, giá 50 USD.
Qua 45 nhân vật lịch sử bao gồm 15 nhân vật phía Quốc Gia, 15 nhân vật phía Cộng Sản và 15 nhân vật phía Quốc Tế. Tác giả bỏ công sưu tầm các văn khố, thư viện, tài liệu lịch sử Việt Nam và quốc tế, để đưa ra các nhận định về Cuộc Chiến Việt Nam 1945 - 1975 của các nhân chứng lịch sử từ các nhật ký, hồi ký, các lời phát biểu của chính nhân vật đó.
Để soi chiếu Lịch sử nhìn từ nhiều phía, xin giới thiệu cùng bạn một phần của cuốn sách đã được công bố trên mạng. Dưới đây là phần viết về Đại tướng Cao Văn Viên Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH :


Cao Văn Viên (1921-2008)Đại Tướng Cao Văn Viên sanh ngày 11/12/1921 Tại thành phố Vạn Tượng , Lào Quốc. Gia cảnh Vợ và 4 con, Ông có bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp tại trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn.
- Tốt nghiệp Trường Quân Sự Cap Saint Jacque (Vũng Tàu ) năm 1949
- Tốt nghiệp Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp, Forth Leavenworth, Hoa Kỳ
- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLVNCH
- Chứng Chỉ Phi Công KQVNCH
- Chứng Chỉ Nhảy Dù QLHK
- Chứng Chỉ Phi Công Trực Thăng Hoa Kỳ
Tướng Cao Văn Viên là một trong năm Đại Tướng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và cũng là vị Tướng giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng trong thời gian lâu nhất (1965-1975).
Ông sinh ngày 11 tháng 12 năm 1921 tại Vientiane, Lào ( vì vậy mà ông có tên là Viên ). Sau khi tốt nghiệp trường trung học Pavie làm nghề huấn luyện viên thể thao trung học. Ông đã bị quân Nhật bắt giữ khi chính quyền Pháp thua trận ở Đông Dương năm 1945.
Sau đó ông trốn về Việt Nam và đến năm 1949, ông gia nhập quân đội và được đưa đi học khóa đào tạo sĩ quan tại trường Võ bị Cap Saint Jacques (Vũng Tàu). Khóa nầy gồm 124 khóa sinh, có 21 người trúng tuyển và được mang cấp bậc Thiếu Úy (Sous-Lieutenant). Thiếu Úy Cao Văn Viên đỗ thủ khoa. Sau khi tốt nghiệp, ông được đưa về phục vụ tại Bộ Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, giữ những chức vụ như sĩ quan phòng tuyển mộ nhập ngũ, phòng báo chí Bộ Quốc Phòng.
Năm 1951 ông được thăng cấp Trung Úy và được bổ nhiệm chức vụ Phó Trưởng Phòng Hành Chánh, rối Trưởng Phòng Báo Chí và Thông Tin. Sau đó ông được đi thụ huấn khóa Chiến Thuật rồi về làm Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 10 trong năm 1952 tại Bắc Việt.
Năm 1953, ông được thăng cấp Đại Úy và được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Ban 2 rồi Trưởng Ban 4 Lực Lượng Dã Chiến Hưng Yên .
Năm 1954, sau Hiệp định đình chiến Geneve rút về Nam, Ông được chỉ định chỉ huy Tiểu Đoàn 56 tiếp thu Tỉnh Quảng Ngải. Năm 1955, ông được thăng cấp Thiếu Tá, khi chế độ Việt Nam Cộng Hòa được thành lập, ông được chỉ định làm Trưởng Phòng 4 (Tiếp vận) Bộ Tổng Tham Mưu và sau đó ông được theo học trường Command and General Staff College (Đại Học Chỉ Huy và Tham Mưu ), ở Fort Leavenworth, tiểu bang Kansas, Hoa Ky.
Năm 1956, trở lại Việt Nam, với cấp bực Trung Tá, Ông được đề cử làm Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống.
Ngày 12/11/1960, ông được cử làm Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù và thăng cấp Đại Tá thay thế Đại Tá.Nguyễn Chánh Thi vừa tham gia đảo chính thất bại vào ngày 11 tháng 11 năm 1960.
Trong cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông là một trong những số ít sĩ quan cao cấp trung thành với Tổng thống Ngô Đình Diệm, không đứng về phe đảo chính do các Tướng Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim tiến hành. Vì vậy ông bị tước quyền chỉ huy Lữ Đoàn Nhảy Dù trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên do sự can thiệp của Tướng Tôn Thất Đính và Tướng Trần Thiện Khiêm nên ông chỉ bị cách ly mà không rơi vào số phận bi thảm như các Đại Tá Hồ Tấn Quyền và Lê Quang Tung.
Sau ngày đảo chánh hơn một tuần, do sự dàn xếp của Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham mưu Trưởng Liên Quân, ông nhận được sự vụ lệnh về nắm lại chức vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù. Cuối tháng 1-1964, với cương vị Tư Lệnh Nhảy Dù, Tướng Viên là thế lực chính phía sau cuộc chỉnh lý của hai Trung Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm hạ bệ Tướng Dương Văn Minh.
Sau chiến thắng trận Hồng Ngự ngày 4/3/1964 ( Đại Tá Viên đã đích thân chỉ huy cuộc hành quân của Chiến Đoàn Nhảy Dù với 2 Tiểu Đoàn 1, và 8 chận đánh một lực lượng cộng sản cấp Trung Đoàn tại Giồng Bàn, Hồng Ngự sát biên giới Miên Việt, và ông bị thương ở cánh tay phải, Cố Vấn Trưởng của Tiểu Đoàn 1ND là Đại Úy Mc Cathy bị tử thương ) ông được đặc cách mặt trận vinh thăng Thiếu Tướng và bàn giao nhiệm vụ Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù cho Trung Tá Dư Quốc Đống, đáo nhậm chức vụ Tham Mưu Trưởng Liên Quân (Bộ Tổng Tham Mưu ) và đến cuối tháng 6 năm đó, ông được đề cử giữ chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn III.
Sau cuộc chính biến ngày 19/2/1965, Hội đồng Tướng lảnh gạt bỏ Tướng Nguyễn Khánh ra khỏi chính quyền, ông được thăng cấp Trung Tướng và được đề cử giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng vào ngày 14 tháng 10 năm 1965, thay Tướng Nguyễn Hữu Có ( lúc đó kiêm nhiệm). Năm 1967, khi Tướng Nguyễn Hữu Có bị bãi chức, ông kiêm nhiệm chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng trong một thời gian ngắn. Cũng trong năm này, một lần nữa ông được sự tin tưởng của Hội Đồng Tướng Lãnh là một sĩ quan không liên hệ phe phái chánh trị khi ông được vinh thăng Đại Tướng.
Tháng 2/1966, ở hội nghị thượng đỉnh Honolulu, Tướng Viên đã đề nghị với Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson về một chiến lược cô lập CSBV bằng cách lập một hàng rào phòng thủ dọc theo vĩ tuyến 17, hoặc là đánh thẳng qua các cơ sở hậu cần của CSBV ở Hạ Lào và Quảng Bình-Vĩnh Linh. Phía Hoa Kỳ không chánh thức trả lời, nhưng tài liệu cho thấy đầu năm 1967 đại tướng William Westmoreland đã ra lệnh cho MACV soạn thảo dự trù một kế hoạch tấn công qua Lào có tên là Hành Quân El Paso.
Trong thời gian biến động của hai năm 1966-67, Tướng Viên tham dự vào nhiều quyết định quân sự và chính trị trong nội bộ của Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
Trong vụ Phật Tử dấy loạn ở Miền Trung khởi đầu từ tháng 3/1966, Phật giáo chia làm hai khối: Ấn Quang chống Chính phủ và VN Quốc Tự thân chính phủ. Mặt khác, một số Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và SĐ1 có cảm tình với thành phần tranh đấu chống chánh phủ như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và Huỳnh Văn Cao thì lừng khừng. Vì thế có một lúc Miền Trung gần như không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như một số quân nhân, công chức…cùng các thành phần quá khích đem bàn thờ Phật xuống đường biểu tình. Phong trào có nguy cơ lan tràn đến Miền Nam. Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lịnh lực lượng Cảnh Sát phải ra Đà Nẳng để theo sát tình hình và hành động tại chổ. Nhưng hai tuần sau, tình hình càng thêm tồi tệ nguy kịch.
Ngày 15/5/1966 Tướng Viên quyết định can thiệp. Ông ra lệnh cho các đơn vị Tổng Trừ Bị bất thần chuyển quân ra Đà Nẳng ngay đêm đó, nhập chung với 4 Tiểu Đoàn khác thuộc một Trung Đoàn của SĐ1BB giao cho Đại Tá Ngô Quang Trưởng (đang là Tư Lệnh Phó SĐND) chỉ huy tiến vào Thành Phố Huê và Đà Nẳng để giải tỏa các lực lượng võ trang chống đối. Và rồi cuộc hành quân cương quyết này đã hoàn thành êm đẹp không một thiệt hại nhân mạng.
Vào năm bầu cử Tổng Thống 1967 ông là sĩ quan đại diện cho Hội Đồng Quân Lực giải quyết sự bế tắt giữa Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu Tướng Kỳ, khi cả hai đều muốn tranh cử chức Tổng Thống trong và dưới sự ủng hộ của quân đội. Hội Đồng Quân Lực định đưa Tướng Viên lên chức Quốc Trưởng vì ông là vị tướng có thâm niên nhứt, nhưng Ông đã một mực từ chối vì nhận thức lương thiện khả năng của mình.
Trong suốt thời gian giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng, ông được đánh giá là một Tướng Lảnh có thực tài và không liên quan đến các hoạt động chính trị. Tuy nhiên từ năm 1969 trở đi, vai trò của Tướng Viên như một Tổng Tham Mưu Trưởng bị lu mờ khi Tổng Thống Thiệu bắt đầu trực tiếp điều khiển quân đội thay vì qua hệ thống quân giai của Bộ Tổng Tham Mưu. Tổng Thống Thiệu đã tập trung hết quyền bính trong tay, đã cho thiết lập một hệ thống truyền tin tại dinh Độc Lập để liên lạc thẳng với các Quân Khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm Tư Lệnh Vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu chỉ còn giữ vai trò tuân hành và thị chứng. Do đó, ông đã nhiều lần xin từ chức nhưng không được chấp thuận. Vì vậy ông chỉ có thể phản ứng bằng cách tiêu cực.
Sau cuộc rút lui thất bại ở Quân đoàn II và Quân đoàn I, và khi tình hình quân sự trở nên bi đát, Tướng Viên có xin bác sĩ Phạm Hà Thanh (Cục Trưởng Cục Quân Y) thuốc độc loại Cyanid để thủ thân, vì biết chắc chắn nếu bị bắt ông sẽ bị cộng sản hành hạ một cách tàn bạo.
-Hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng” của tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở mãi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: “Tôi đã xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn phòng làm việc mà thôi!”
“Năm 1975, trước sức ép của dư luận và áp lực quân sự của quân Cộng sản, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức. Không lâu sau đó tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh, Ông đã trình lên Tổng Thống Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu đã xin từ năm năm về trước. Tổng Thống Hương đã thông cảm và ký sắc lệnh cho ông về hưu. Trong khi chờ đợi tân Tổng Thống Dương Văn Minh chính thức bổ nhiệm Tổng Tham Mưu Trưởng mới, Tướng Viên chỉ định Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bô TTM, xử lý thường vụ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng. Sau đó ông được di tản ra Hạm Đội 7 vào trưa thứ Hai, 28/4/1975. di tản sang Mỹ, và định cư tại Arlington.
Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức mọi người từng biết ông – thân hữu, bạn đồng đội – hình ảnh của lòng chung thủy, không a dua, không phản trắc, từ tốn, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp trên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một nhà Tướng phi chính trị nhưng bị thời thế cuốn hút vào chính trường. Sau 1975, ông sống bình lặng tại Arlington, Virginia. Thời gian gần đây ông sống cô đơn trong viện dưỡng lão. Ông mất vào lúc 6.15 sáng ngày 22 tháng 1 năm 2008, hưởng thọ 87 tuổi (1921-2008)
Nhận định về nhân cách và sự nghiệp ĐT Cao Văn Viên do nhà báo Trần Đông Phong viết:
“Kể từ khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, tiền thân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thành lập dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, người nắm giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu lâu đời nhất, từ 1965 đến 1975, tưc là gần 10 năm, là Đại Tướng Cao Văn Viên, kế đó là Thống Tướng Lê Văn Tỵ, gần 8 năm, từ 1955 đến 1963, còn những vị khác thì thời gian họ nắm giữ chức vụ này rất ngắn ngủi, có người chỉ chừng vài năm, có người chỉ chừng vài tháng mà thôi. Tuy nhiên trong số những vị này, Đại Tướng Cao Văn Viên là người duy nhất đã nắm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng khi quân số của Quân Lực VNCH lên đến trên 1 triệu người cả nam lẫn nữ và vào những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, ông đã được Tổng Thống Trần Văn Hương bổ nhiệm làm Tổng Tư Lệnh QLVNCH, một chức vụ mà trong suốt thời Đệ Nhị Cộng Hòa do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm giữ…..
“Ông Cao Văn Viên sau đó có nói thêm rằng ông “thoát chết trong đường tơ kẻ tóc” vì vào ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông đã bị còng tay tại Bộ Tổng Tham Mưu vì không chịu tham gia với phe đảo chánh.
“Đại Tướng William C. Westmoreland, Tổng Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam đã nói về Đại Tướng Cao Văn Viên như sau : “tôi rất thán phục Đại Tướng Cao Văn Viên vì tính tình chân thật, trung tín, ít nói, thông minh, lịch duyệt như là một nhà ngoại giao… Lúc ông Diệm bị lật đổ, ông Viên là tư lệnh Nhảy Dù. Mặc dù bị đe doạ đến tính mạng, ông Viên vẫn một lòng trung thành với tổng thống nên không chịu tham gia đảo chánh. Do đó sau khi đảo chánh, ông bị cầm tù và lên án tử hình. Nhưng vì ảnh hưởng cuả ông quá mạnh nên cuối cùng được trả tự do và được trở lại nắm quyền…”
“Tướng Cao Văn Viên Đã Xin Từ Chức 5, 6 Lần.
“Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin TT Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm,) đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khoẻ kém (có kèm theo giấy bác sĩ chứng nhận). Trong một cuộc phỏng vấn thu hình dành cho Tiến Sĩ Lâm Lễ Trinh tại Virginia vào năm 2006, cựu Đại Tướng cao Văn Viên cho biết ông đã xin từ chức tất cả là 6 lần”
Lâm Lễ Trinh: Mạn đàm Với ĐT Cao Văn Viên,” ngày 27 tháng 2 năm 2006 đã viết về đại tướng Cao Văn Viên như sau:
“….Là một tướng lãnh trước tình thế hổn loạn ở miền Trung do một nhóm Phật Giáo thân cộng chủ trương phá hoại, ông đã cương quyết đặt quyền lợi Dân Tộc lên trên hết:
“Tôi ra lệnh chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng Ngãi nói là để không vận về Sàigòn, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12 giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5, giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành quân cương quyết này đã đem lại kết quả.”
“Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hảy để cho hậu thế lượng định và phân xét”.
-Trả lời cuộc phỏng vấn cuả L/S lâm Lể Trinh 9 tháng 5 năm 2006 Đại Tướng Cao Văn Viên có những nhận định về cuộc chiến VN như sau:
“Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lãnh đạo. Với một đồng minh như Hoa kỳ, thử hỏi làm gì được? Đồng minh với Mỹ khó hơn là kẻ thù của Mỹ. VN không phải là quốc gia đầu tiên thí nghiệm bài học đau đớn này! VNCH chỉ là một con cờ trong chiến lược toàn cầu của đại cường Hoa kỳ. Chiến lược ấy đạt được mục tiêu sau khi Nixon gặp Mao Trạch Đông năm 1972 tại Bắc kinh…”
Nhận định về con người của đại tướng Cao Văn Viên, Ông Lâm Lể Trinh viết :
“Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong ký ức các người từng biết ông – thân hữu, bạn đồng đội như kẻ bất đồng ý kiến – hình ảnh của lòng chung thủy, “trước sau như một”, không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê bình, chủ trương đoàn kết trong tình huynh đệ chi binh.”
Long Điền tóm lược các nhận định của Đại tướng Cao Văn Viên về cuộc chiến Việt Nam như sau:
1-Ông Cao Văn Viên mặc dù lên đến cấp bậc đại tướng, giử chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH một chức vụ cao nhất trong quân đội nhưng ông không hề có tham vọng chính trị mà chỉ muốn thi hành các nhiệm vụ trong Quân Lực VNCH giao phó.
2-Ông gần như không tham gia vào các cuộc đảo chánh dù có bị mua chuộc hoặc ép buộc bởi các phe đảo chánh.
3-Trong biến động Miền Trung 1966 ông là một trong những nhân vật có công trong việc dẹp loạn Cộng Sản với ý đồ lợi dụng Phật Giáo để cướp chính quyền.
4-Ông Cao Văn Viên là một tướng lãnh gương mẫu về tư cách, đạo đức, tình chiến hữu xứng đáng làm gương cho các quân nhân QLVNCH.
_____
Nội Dung cuốn sách: Cuộc chiến Việt Nam 1945-1975 (Long Điền)
Chương Một : Mục đích quyển sách. (Từ trang 5-16)
Chương Hai :Nhận định cuộc chiến : (16-959)
I-Nhận định cuộc chiến Việt Nam của phía Quốc Gia: (14-180)
1-Quốc Trưởng Bảo Đại, (14-27)
2-Tổng thống Ngô Đình Diệm, (27-49)
3-Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, (49-64)
4- Tổng thống Trần Văn Hương, (64-66)
5-Chủ tịch Hạ Viện Nguyễn Bá Cẩn, (66-69)
6-Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH (70-96)
7- Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy, (96-110)
8-Sử gia Trần Trọng Kim, (111-115)
9-Sử gia đại tá Phạm Văn Sơn, (115-120)
10 Sử gia Hoàng Cơ Thụy, (120-123)
11-Sử gia Trần Gia Phụng, (123-142)
12-Nhà nghiên cứu sử Minh Võ, (142-147)
13-Luật Sư Lâm Lể Trinh, (147-166)
14-Sử gia Hứa Hoành, (166-170)
15-Sử gia tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu. (170-180)
II-Nhận định cuộc chiến Việt Nam của phía Cộng sản thân Cộng sản: (181-589)
1- Hồ Chí Minh,chủ tịch đảng Cộng sản VN (181-228)
2- Phạm Văn Đồng, thủ tướng (228-234)
3- Võ Nguyên Giáp, đại tướng (234-264)
4-Lê Duẩn, Tổng Bí Thư (264-268)
5- Trường Chinh,Tổng Bí Thư (268-292)
6- Võ Văn Kiệt,Thủ Tướng (292-318)
7- Trần Văn Giàu, Sử gia (318-369)
8- Trần Quốc Vượng ,Sử gia (370-384)
9-Nguyễn Văn Trấn, nhà báo (384-412)
10- Trần Bạch Đằng, Chính trị gia (412-423)
11 Tố Hữu, ủy viên Bộ Chính Trị (423-445)
12-Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí Thư (445-459)
13-Nguyễn Mạnh Tường, trí thức yêu nước (460-499)
14-Bùi Tín, đại tá Phó Biên Tập báo Nhân Dân (499-532)
15-Nguyễn Minh Cần, nhà văn CSVN (532-589)
c-Nhận định cuộc chiến phía Quốc Tế :
1-Harry S. Truman,tổng thống Hoa Kỳ (591-595)
2-Winston Churchill, Thủ tướng Anh (596-615)
3-Josef Stalin, Tổng Bí Thư đ ảng CS Liên Xô (615-635)
4-John Kennedy,Tổng Thống HK (635-642)
5-Richard Nixon. Tổng Thống Hoa Kỳ (642-653)
6-Henry Kissinger, Ngoại trưởng Hoa Kỳ (653-681)
7-Bill Laurie, sử gia (681-705)
8-Mark Moyar, sử gia (705-752)
9-Stephen Young, Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ (752-761)
10-W.Westmoreland, Đại tướng TTM Trưởng Lục Quâ n Hoa Kỳ (761-827)
11-Vanuxem, Đại tướng Pháp (828-850)
12-Pierre Darcourt, Sử gia (850-868)
13-Michel Tauriac, Nhà văn,nhà báo Pháp.(868-886)
14-Rudolph J.Rummel,Sử gia. (886-894)
15-Lewis Sorley, GS Đại Học Chiến tranh Hoa Kỳ (894-915)
Chương Ba :Sự tác hại của cuộc chiến do Cộng sản Việt Nam chủ mưu (915-915)
Chương Bốn :Đường hướng đấu tranh tương lai cho một nước Việt Nam Dân Chủ và Tự Do thật sự (916-916).
Chương Năm :Kết luận (917)
Chương Sáu: Phụ chú (918)
INDEX:
a.Các danh nhân và địa danh có nói đến trong sách dùng để tra cứu.

b. Hồ sơ mật và giải mật của Hoa Kỳ,Việt Nam (CS và không CS) và quốc tế liên quan đến chiến tranh Việt Nam 1945-1975.

c. Hồ sơ tội ác của CSVN: Hồ sơ tội ác đối với các đảng phái Quốc Gia, Hồ sơ tội ác đối với các tôn giáo, Hồ sơ tội ác CSVN thủ tiêu, ám sát, cướp đoạt tài sản dân VN.

d. Bản đồ Đông Dương sau ngày 2 tháng 9 năm 1945.

e. Sách tham khảo.
Một quyển sách biên soạn công phu, từ "Bên thua cuộc" và là một phần Sự Thật đã được dần phơi bày.
Bộ sách “Cuộc Chiến Việt Nam 1945-1975” gồm 2 tập, giá một bộ là 50 Mỹ Kim (Miển cước phí trong nước Mỹ) xin liên lạc với tác giả qua email: vuonggiau@yahoo.com Điện thoại 850-485-5145
(Theo Blog NguyenTrongTao)

gunship lượm lặt
1-24-2013

BachMa
01-28-2013, 04:48 AM
January 25, 2008

Đại tướng của tôi
Giao Chỉ

Bài viết về đại tướng Cao văn Viên gồm có ba phần, ghi nhận vào ba thời gian khác nhau. Năm 2003, năm 2005 và năm 2008.

Mon General: Tháng 10-2003

Mùa Đông năm nay, niên trưởng Cao Văn Viên sẽ trải qua những ngày băng giá khó khăn. Năm nay 82 tuổi, ông mới bị té ngã. Tưởng đã quỵ luôn, nhưng một lần nữa y khoa Hoa Kỳ đã đỡ vị Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng của QLVNCH đứng lên để tập cho ông đi lại từng bước ngắn. Chắc chắn là các bác sĩ và chuyên viên Mỹ đều không biết vị cao niên Á Châu này là người đã từng làm chức vụ gì ở Việt Nam. Bởi vì hàng ngày cũng không có nhiều người đến thăm ông. Sau trận té gẫy xương chậu, chân ông đã sưng thật to, nhưng mãi cả mấy tuần lễ sau ông mới có cơ hội chiếu điện và chữa trị chính thức. Trước đó ông tự soa lấy bằng dầu nóng và mùi Nhị Thiên Đường thơm ngát cả căn phòng tại khu chung cư cao niên lầu hai của quận Fairfax miền Virginia. Ông đang cố gắng đứng lên tập đi trở lại trong một chương trình hồi phục để tránh phải ngồi xe lăn là điều mà tuổi già rất quản ngại.
30 năm trong quân ngũ, ông Cao Văn Viên chỉ sống với cấp trên và cấp dưới. Riêng cá nhân ông, gần như không có nhiều bằng hữu tương giao để chén tạc, chén thù. Gần 30 năm sống cuộc đời di tản, vị Đại Tướng đứng đầu Bộ Tổng Tham Mưu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bây giờ cũng vẫn tiếp tục độc hành. Ông luôn luôn cố tránh liên hệ vào các tranh chấp chính trị ngay từ lúc còn trong quân đội cũng như trong hoàn cảnh di dân tỵ nạn hiện nay.Từ khi người vợ quán xuyến của ông qua đời, rồi đến người con trai duy nhất của ông cũng vắn số, ông Cao văn Viên đã trải qua những mùa đông cô độc ở Nữu Ước, hoàn toàn xa cách mọi người. Ông đi chợ nấu ăn lấy, đóng vai ông già Á Châu vô danh giữa chốn đô thị phồn hoa đông đảo nhất thế giới. Những năm gần đây ông dọn về ở luôn trong một căn hộ của khu chung cư ở miền Đông Hoa Kỳ, bên cạnh Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Nơi đây đa số là người già Đại Hàn.

Ông tiếp tục đi chợ và nấu ăn lấy. Cô con gái lớn trưởng thành của ông đã tốt nghiệp luật, đi dạy học, lập gia đình và làm việc ở nơi xa. Đời sống đã không cho phép cha con được gần nhau và vị tướng già cũng đã quen sống như thế. Bây giờ thực ra ông cũng không có nhiều nhu cầu. Người già ở Hoa Kỳ lợi tức thấp hoặc không có lợi tức được lãnh bao nhiêu thì niên trưởng Viên của tôi cũng lãnh được bằng đó. Số tiền này đã dành trả hết cho gian phòng ông đang cư ngụ. Trung tá Tâm là một sĩ quan hiếm hoi trong số các thân hữu quân ngũ còn lại quanh ông. Vâng, chính cái anh Tâm đó đang tìm cách xin cho niên trưởng của anh vào một Nursing Home có người săn sóc ngày đêm. Đó là nhu cầu thực tế và là một ước mơ nhỏ bé của một con người đã một thời mang hình ảnh lớn lao của quân đội chúng ta. Vào đầu thập niên 50, gặp nhau tại tiểu khu Hưng Yên, bên bờ sông Hồng Hà có 3 sĩ quan Việt Nam còn trẻ. Trung úy Nguyễn Văn Thiệu, quê Phan Rang miền Trung, lém lỉnh tinh ranh. Đại úy Trần Thiện Khiêm quê miền Nam, ít nói, thâm trầm. Trung úy Cao Văn Viên, quê miền Bắc, cao lớn, trắng trẻo và đẹp trai nhất. Nếu coi đây là nhóm bạn đầu đời quân ngũ thì quả thực họ đã từng là chiến hữu. Và Trung úy Cao văn Viên lại là niên trưởng.

Ông Viên tuy người Bắc nhưng thực ra vì cha mẹ làm ăn bên Lào nên ông ra đời tại Vạn Tượng và Thủ Đô Vientian là dấu ấn của thân phụ đặt tên cho con trai. Vào thời còn trẻ trung, các sĩ quan quốc gia bắt đầu trưởng thành trong vòng tay của quân đội Liên Hiệp Pháp. Các ông quan một, quan hai còn đeo trên vai những gạch kim tuyến vàng chóe với tương lai mở rộng một đời binh nghiệp. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng Trung úy Thiệu sẽ trở thành Tổng Thống. Đại úy Khiêm trở thành Thủ Tướng và Trung úy Viên trở thành Đại Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là chuyện sau này. Định mệnh quả nhiên đã có những ước hẹn với lịch sử. Cả ba người chiến binh Bắc Trung Nam, cùng thăng trầm với chiến tranh, với đất nước để cùng thăng tiến. Họ làm việc với nhau, họ chia nhau những chức vụ tối cao của quân đội và chính quyền. Cùng yểm trợ nhau, nhưng đồng thời cũng rất xa cách dù ở bên trong hay bên ngoài công vụ. Họ không còn ngồi với nhau những giây phút tửu hậu trà dư. Ông Viên đã nói rằng mối liên hệ của ông với Tổng Thống Thiệu hoàn toàn là công vụ. Các niên trưởng của tôi khi nói chuyện đều thưa gửi với nhau bằng chức vụ. Thưa Tổng Thống, Thủ Tướng, Đại Tướng vân vân. Khách sáo vô cùng. Cái thời toa moa ngày xưa ở Secteur Hưng Yên bây giờ đã xa lắm rồi, chẳng ai còn nhớ nữa.
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359349716.jpg
Với sĩ quan Cao Văn Viên, từ cấp Úy lên cấp Tá, ông luôn luôn là người cần mẫn và hòa nhã. Bước ngoặt của đời ông là cánh chim bằng nhảy dù trên ngực áo. Khi ông còn là Trung Tá tại Tham Mưu Biệt Bộ lúc đó ông Nguyễn Chánh Thi đang coi Liên đoàn Nhảy dù. Cả hai cùng là bạn cũ. Thi rủ Viên học nhảy dù để gột rửa bớt cái vẻ sĩ quan văn phòng. Nhảy thì nhảy. Trung tá Viên lấy bằng Dù và tiếp tục ngồi bên Tham Mưu Biệt Bộ thời kỳ ông Diệm còn đang tại chức. Đảo chính xẩy ra, Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Dù chạy qua Cam Bốt. Tổng thống Diệm vừa thoát nạn, ngó tới ngó lui thấy ông sĩ quan thân cận gần gũi có bằng cấp nhẩy dù bèn đưa qua nắm liên đoàn Mũ Đỏ. Từ đó ông Cao Văn Viên bắt đầu làm tư lệnh và cuộc đời đi vào khúc quanh mới. Nhảy dù vốn là đơn vị ưu tú của quân đội, nhưng mũ đỏ đang bị thất sủng vì cú đảo chánh hụt. Giai đoạn này là lúc thử thách của cả vị tư lệnh lẫn các tiểu đoàn nhảy dù. Hai bên thăm dò lẫn nhau. Ông Viên trở thành một vị Đại Tá tư lệnh hăng hái xông xáo từ kỹ thuật nhảy dù đến các chiến trường trên khắp bốn quân khu. Ông lấy bằng huấn luyện viên Dù và nhảy biểu diễn tự điều khiển cùng với các cố vấn Hoa Kỳ. Cuộc đảo chánh ông Diệm lần thứ hai mới là giai đoạn đặc biệt của Đại tá Cao Văn Viên. Trong khi hầu hết các tư lệnh quân đội đều ngả theo cách mạng thì riêng mình ông từ chối. Đó là hành động mà sau này ông cũng không chắc là một thái độ khôn ngoan. Ông Viên thực sự cũng không muốn đóng vai anh hùng, nhưng chỉ muốn giữ tấm lòng chung thủy. Đã có những người chống đảo chánh bị giết chết như vị Tư lệnh Hải quân, Tiểu đoàn trưởng Nhảy dù và sau này chính anh em Tổng thống Diệm cũng bị giết chết. Nếu viên Tư lệnh Nhảy dù không chịu theo cách mạng mà bị thanh toán thì cũng là chuyện có thể xảy ra. Nhưng chính bà vợ quán xuyến và can đảm đã lên tiếng khi ông chồng bị giam riêng một chỗ. Bà Viên đã quyết liệt can thiệp trực tiếp với tất cả các tướng lãnh đảo chánh mà ngày hôm trước vẫn còn là anh em thân hữu với gia đình ông. Cho đến sau này ông Viên vẫn còn ghi nhớ thái độ mạnh mẽ của người vợ đã cứu sống ông trong năm đảo chánh. Ông cũng không ngần ngại mà nói thẳng ra như thế. Sau khi cách mạng thành công, ngôi sao bản mệnh của ông lại trở nên rực rỡ. Phe thân hữu của Đệ Nhất Cộng Hòa tuy đang bị thất thế nhưng vẫn kín đáo ca ngợi thái độ của vị Tư lệnh Nhảy dù. Ngay cả các tướng lãnh và sĩ quan phe cách mạng cũng đều vì nể thái độ của ông. Ông Cao Văn Viên gần như là người duy nhất không theo cách mạng nhưng vẫn được tiếp tục về chỉ huy nhảy dù.

Định mệnh vẫn tiếp tục chiều đãi. Ông tham dự hành quân Cao Lãnh miền Tây đạt chiến thắng và bị thương. Thêm vào chiến thương bội tinh với ngôi sao đỏ, ông lên Thiếu Tướng với hai sao lấp lánh trên cổ áo và nón đỏ vẫn đội trên đầu.Trong thời gian đảo chánh ông Diệm xảy ra, ông Cao Văn Viên đã không có những kỷ niệm tốt đẹp với tướng Dương Văn Minh. Mấy năm sau, vào giai đoạn chỉnh lý bắt các tướng cách mạng giam lỏng trên Đà Lạt và cô lập Big Minh thì cũng toàn là lính Nhảy dù của ông Cao Văn Viên. Vì vậy lại thêm một kỷ niệm không đẹp giữa hai người. Đó cũng là lý do mà sau này ông nghĩ rằng không thể ngồi lại trong chính phủ Dương Văn Minh. Phải chăng đây cũng là một cái cớ chính thức để có thể ra đi vào đúng thời điểm cần thiết. Tuy nhiên, đó là câu chuyện 75. Trở lại với giai đoạn giữa thập niên 60, từ giã nhảy dù, tướng Viên về làm Tư lệnh Quân đoàn III và sau cùng lên chức Tổng Tham Mưu Trưởng. Với chức vụ quan trọng nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tướng Viên là người có vóc dáng đường bệ nên trong các cuộc thăm viếng đơn vị, hình ảnh của ông cạnh các tướng lãnh Hoa Kỳ đem lại niềm hãnh diện cho các binh đoàn. Lớn tuổi hơn các tướng lãnh cùng thời, nhưng ông có khuôn mặt trẻ trung và giữ được thân thể gọn gàng của một cựu huấn luyện viên thể dục lúc còn niên thiếu. Và mặc dù có dư luận chê trách, nhưng tướng Viên vẫn thực sự là người hiếu học ngay từ lúc còn làm Tư lệnh Quân đoàn III. Ông rất chịu những bài giảng về triết học bay bướm của thầy Trần Bích Lan tức nhà thơ Nguyên Sa đã một thời là Trung úy Quân nhu. Phần lớn các tư lệnh quân chủng và các quân đoàn đều kính nể vị Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng vốn từ bên Nhảy Dù đi lên. Ngay cả sau này khi các Tư lệnh Quân đoàn liên lạc thẳng với Tổng thống Thiệu những vẫn giữ lễ độ lịch sự với Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Viên có biệt nhãn với ngành Tiếp Vận vì ngày xưa ông đã từng là trưởng phòng 4 đầu tiên dưới thời quân đội quốc gia phôi thai năm 1954. Mặt khác, ông cũng giữ mối thiện cảm và theo dõi các hoạt động của binh chủng mũ đỏ mà ông luôn luôn hãnh diện đã góp phần trong binh nghiệp. Tướng Viên cũng được sự tin cậy và vị nể của các giới chức Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính ông cũng tự nhận thấy chưa bao giờ nghĩ đến ngày có thể lên đến chức tước lớn lao như vậy. Ông luôn luôn mong được làm tròn nhiệm vụ, nhưng ông không phải là hàng tướng lãnh nóng nẩy ồn ào, lấy gậy chỉ huy đập vào đầu sĩ quan, hay la hét thuộc cấp tối ngày. Tướng Viên cảm nhận vai trò phối hợp của một vị Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân như bên Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ chứ không phải là Tổng Tư Lệnh ban hành các lệnh trực tiếp. Như ông đã giãi bày trong tác phẩm mới xuất bản, khi nhận thấy bị Tổng thống Thiệu qua mặt dành trực tiếp quyền điều hành bộ máy chiến tranh thì ông lặng lẽ lui vào vai trò tư vấn cho đến khi xin từ nhiệm.

Tháng 10-2003 khi dịch giả Nguyễn kỳ Phong cho phát hành bản Việt ngữ tác phẩm của Đại tướng Cao Văn Viên, phóng viên BBC Luân Đôn có hỏi đi hỏi lại Kỳ Phong nhiều lần một câu hỏi. Đó cũng là thắc mắc của rất nhiều thính giả và độc giả. Tại sao Đại Tướng bị thất sủng, xin từ nhiệm lại không được chấp thuận. Dịch giả Kỳ Phong không thể thay mặt tác giả mà trả lời cho suôi câu hỏi phức tạp này. Quả thực đã có lúc ông Thiệu muốn tìm người thay ông Viên nhưng không phải là dễ dàng. Chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng phải lựa chọn trong các Tư lệnh Quân đoàn xuất sắc. Tướng Ngô Quang Trưởng với sự yểm trợ của phía Hoa Kỳ cũng không phải là người làm ông Thiệu an tâm. Tướng Đỗ Cao Trí cũng đã được phía Hoa kỳ tiến cử trong danh sách nhưng ông Trí vừa nghe tin đã tuyên bố lăng nhăng nên đã làm ông Thiệu quản ngại và gạch tên ngay cả trước khi trực thăng của ông Trí lâm nạn. Đối với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, việc thay thế tướng Cao Văn Viên chưa phải là nhu cầu cấp thiết. Ông Thiệu hoàn toàn yên tâm với một vị Tổng Tham Mưu Trưởng dứt khoát không chịu tham dự vào các cuộc đảo chánh chính trị. Ông không sợ ông Viên làm phản. Trước sau như một tướng Viên đã kiên định như thế. Thông thường ông Viên thân với tướng Kỳ hơn là gần gũi ông Thiệu. Nhưng không bao giờ ông Kỳ rủ được ông Viên tham gia đảo chánh ông Thiệu, ngay như vào giờ thứ 25 của thời điểm năm 75.

Ông Thiệu và ông Viên, như trên đã viết ra, các niên trưởng của tôi sinh hoạt xa cách và khách sáo. Không có cái kiểu như thời kỳ còn ở Hưng Yên: «Này, Moi làm ở État Major lâu quá, thôi Toi kiếm thằng khác để Moi nghỉ một thời gian. Việc gì Toi cũng chơi thẳng với các Quân đoàn như thế thì còn cần Moi ở đây làm gì?» Không, các Xếp của tôi không ăn nói lăng nhăng như vậy. Đại Tướng thưa rằng xin Tổng Thống cho tôi tạm nghỉ vì sức khỏe. Tổng Thống nói là xin Đại Tướng vui lòng tiếp tục ở lại một thời gian. Bây giờ là lúc khó khăn, quân đội cần ổn định v.v… Và Đại tướng Viên có lúc đã nhờ quân nhu tìm cho một số dụng cụ làm vườn để thực sự chuẩn bị vui thú điền viên, nhưng khi ông Thiệu nói như vậy đành chần chờ ở lại Bộ Tổng Tham Mưu cho qua ngày. Cũng phải ghi lại là trong chức vụ cao cấp nhất của quân đội, tướng Viên đã có lần phác thảo kế hoạch tấn công ra Bắc và đó là một trong các phương cách tự vệ mãnh liệt nhất. Tuy nhiên chắc chắn rằng phía Hoa Kỳ hoàn toàn không yểm trợ và ông Thiệu không thể nào đơn phương quyết định được. Thêm vào đó, một trong các quyết định quan trọng nhất của tướng Cao Văn Viên là xử dụng tướng Đồng Văn Khuyên từ Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy 3 Tiếp Vận lên Tổng Cục Trưởng, Tổng Cục Tiếp Vận rồi là Tham Mưu Trưởng Liên Quân. Ông Khuyên đã không phụ lòng tin cậy của tướng Viên trong các chức vụ này và đặc biệt ông cũng được Hoa Kỳ hoàn toàn yểm trợ. Và chính guồng máy Tiếp Vận với viện trợ Mỹ là con bài tẩy của chiến tranh Việt Nam.
Trong phần ghi chú của tác giả Cao Văn Viên viết trong tác phẩm Việt ngữ mới phát hành, một đề nghị chiến lược tối mật quan trọng nhất cho chiến tranh Việt Nam là việc bỏ đất, triệt thoái do Tổng Cục Tiếp Vận, Tổng Tham Mưu soạn thảo. Hoàn toàn dựa vào bài toán quân viện, nghiên cứu khả năng thực sự giữ đất, giữ dân, Việt Nam Cộng Hòa muốn tồn tại thì phải thu về các vùng đồng bằng và duyên hải. Kế hoạch phải áp dụng ngay từ sau Hiệp Định Paris chứ không thể căng mỏng quân lực ra khắp nơi theo kiểu dành dân lấn đất và chôn chân các đơn vị Tổng Trừ Bị tại các tiền đồn. Đại tướng Viên đã chỉ thị tướng Đồng Văn Khuyên lên trình riêng Tổng Thống để rồi không hề nghe được bất cứ một chỉ dấu gì của ông Thiệu cho đến những ngày đau thương 30 tháng 4-1975.

Chuyến đi thăm: Tháng 4-2005
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359348698.jpg
Ba mươi năm trôi qua như một giấc mộng dài. Tháng tư năm 2005 từ San Jose CA, chúng tôi lên thủ đô tổ chức họp mặt anh em chiến hữu trại Trần Hưng Đạo. Đây chính là tổng hành dinh của bộ Tổng tham Mưu ngày xưa. Ba mươi năm hội ngộ, gặp lại lần đầu nhưng ai cũng biết đây là lần cuối. Đại tướng lấy lý do già yếu nên không đến được. Hội họp xong, tôi nhờ trung tá Tâm đưa đến thăm ông. Tháng tư là tháng không vui mà cảnh trí nơi ông ở trông thật là buồn. Tâm nói rằng, đại tướng rất đúng hẹn và rất nguyên tắc. Khi chúng tôi bước vào phòng khách của khu cao niên Á châu, «Mon General» đã đứng chờ sẵn, quần áo chỉnh tề. Hình ảnh của vị tướng lãnh cao lớn mang 4 sao, áo hoa dù, mũ đỏ không còn nữa. Đại tướng của tôi bây giờ là một cụ già tóc bạc lưng còng, vóc dáng nhỏ bé, chỉ còn lại cặp mắt long lanh, và tiếng nói dịu dàng. Chúng tôi ngồi xuống bên nhau nói chuyện không có chủ đề. Trung tá Tâm ngồi một bên luôn luôn để ý săn sóc cho ông cụ. Bao nhiêu câu hỏi cần tìm hiểu vị niên trưởng mà tôi đã chuẩn bị bây giờ buông suôi hết. Nào là rút quân, nào là tử thủ, từ chuyện ông Thiệu đến chuyện ông Kỳ, chuyện Mỹ, chuyện Tàu. Trong cái buổi chiều buồn và ảm đạm đó, tôi chợt thấy tất cả đều trở nên vô nghĩa. Toàn quân, toàn dân, cấp trên cấp dưới, bây giờ không quá khứ, chẳng vị lai. Lời người xưa còn vẳng bên tai. Bại binh chi tướng, bất khả ngôn dũng. Tướng lãnh thua trận, không thể nói mạnh. Bây giờ là tháng tư, 30 năm sau ngồi đây mà đổ tội cho ai. Nhất tướng công thành, vạn cốt khô. Mà công thành, có thành công cho cam. Tôi không hỏi và ông cũng chẳng nói. Tôi đưa cả hai tay cho ông nắm thật chặt. Hình như có một lời ca từ 50 năm trước trong bài Tình Lính: Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay; Ông nắm thật chặt và Ông bắt đầu giảng cho tôi về Thiền Tông và Phật Pháp. Chẳng có thu thanh, thu hình phỏng vấn gì cả. Hai mươi năm chinh chiến điêu linh và ba mươi năm lưu lạc tù đầy của cả đạo quân nay bỏ qua một bên để ngồi bàn về đường đi của Phật. Trước khi chia tay, tôi ngỏ lời xin đại tướng một di vật cho viện Bảo tàng. Ông nói: Tôi có còn gì đâu. Bèn hỏi rằng hôm niên trưởng ra đi đem theo cái gì. Ông cho biết có cầm cái cặp. Bên trong có cuốn sách viết về đạo Phật. Tôi xin ông cuốn sách đó, có bút tự ghi dấu của đại tướng. Quay sang anh Tâm, tôi xin xác nhận, khi nào… Chúng tôi ra xe, ông cụ đứng ngó theo…Giữa những người lính trẻ ngày xưa, cuộc ra đi nào cũng có thể là lần cuối. Bây giờ chúng tôi là những người lính già, chắc chắn phải hẹn nhau gặp lại ở nơi khác.

Lần cuối. Tháng Giêng 2008
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359348718.jpg
Giây phút.. khi nào.. đã đến. Đại tướng Cao văn Viên ra đi ngày 22 tháng 1 năm 2008 tại Fairfax, Virginia. cũng không xa nơi ông cư ngụ những ngày sau cùng. Gia đình tuy đơn chiếc nhưng chiến hữu rất đông đảo. Những vị niên trưởng lừng lẫy của tôi, quý vị do thời thế tạo nên. Lúc còn trẻ tôi có thể đã kỳ vọng và trách cứ quý vị rất nhiều, nhưng bây giờ cấp dưới chúng tôi cũng già rồi, tôi đã suy nghĩ khác đi nhiều. Quả thực chúng ta không thay đổi được định mệnh và không vượt qua được thời thế. Tôi cũng đã từng là anh Thiếu Úy trẻ Bắc kỳ của mùa thu 54, bây giờ cũng đã cao niên như mọi người. Tôi bao dung với chính tấm thân già của mình. Nhìn cuộc đời nhẹ nhàng hơn và tôi thông cảm với niên trưởng Cao Văn Viên. Tôi vẫn hình dung những buổi chào cờ đầu năm ở Bộ Tổng Tham Mưu. Lá cờ sao của Đại Tướng Tổng Tư Lệnh bay trên nhà lầu chính. Tướng Cao Văn Viên đội mũ đỏ, áo hoa dù đứng giữa hàng quân để đọc nhật lệnh tại Vũ Đình Trường Tổng Tham Mưu mênh mông. Hàng chục ông tướng xếp hàng ngang. Trên 50 cấp Đại Tá xếp hàng dọc. Các sĩ quan, HSQ và binh sĩ của các phòng sở với đủ mọi loại quân phục Liên Quân. Bên trái là đoàn xe với quân cảnh hộ tống thật uy nghi lẫm liệt. Phía xa là trực thăng riêng đậu chờ sẵn.

Cách đó thật xa hơn nữa về cả không gian lẫn thời gian là hình ảnh Trung úy Cao Văn Viên trẻ trung của Secteur Hưng Yên trên chiến trường Bắc Việt. Rồi đến những ngày qua khi niên trưởng Cao Văn Viên sống một mình từ Nữu Ước đến DC. Ông chậm chạp đi bộ từ chợ về nhà, leo lên lầu hai của căn phòng nhỏ, tự mình chuẩn bị bữa ăn. Sáng nay ông ăn món gì? Bánh mì trứng hay trứng bánh mì? Ông có uống sữa hay không? Ông còn nhớ gì đến chuyện di tản ở miền Bắc 54. Chuyện di tản ở miền Nam 75. Trung úy Thiệu ngày xưa nay đã đi xa rồi, Đại úy Khiêm ngày xưa vẫn im lìm như thuở nào. Và Trung úy Viên ngày xưa mãi mãi vẫn cô đơn. Tuổi trẻ và danh vọng rồi cũng qua đi. Ai rồi cũng chỉ còn lại một mình. Khi ra đi lần cuối cũng chỉ có một mình. Tất cả quý niên trưởng và chúng tôi ai cũng muốn sống lại cái thời đeo lon cấp Úy của tuổi hoa niên. Phải mà được làm lại từ đầu thì chúng ta sẽ làm biết bao nhiêu điều tử tế hơn, đẹp đẽ hơn, cho bản thân, cho chiến hữu và cho đất nước.
“Tuổi hoa niên cùng mặc áo chinh y
Lòng mở rộng giữa dòng đời ấm áp
Tám mươi năm, kiếp người như gió thoảng
Chiều cô đơn về chậm hồn cao niên.”

Giao Chỉ
(NguaTrang sưu tầm)

BachMa
01-28-2013, 05:23 PM
Bài viết cuối của Đại tướng Cao Văn Viên
Cao Văn Viên


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1359393647.jpg

Lời tòa soạn: Đại tướng Cao văn Viên ra đi không để lại hồi ký. Năm 1976 ông soạn thảo cuốn The Final Collapse cho Quân sử Hoa Kỳ viết về những ngày cuối của VNCH. Năm 1977 tiến sĩ Nguyễn tiến Hưng xuất bản cuốn The Palace File có nhiều đoạn phê bình đại tướng Viên và bộ TTM, QLVNCH. Final Collapse bản Anh ngữ đến năm 1983 mới được phát hành giới hạn. Năm 2003 cuốn này mới được dịch ra Việt ngữ bởi ông Nguyễn Kỳ Phong. Nhân dip này, đại tướng Cao văn Viên viết thêm lời Bạt để trả lời một số vấn đề và đồng thời cải chính những tin tức mà ông cho là không đúng. Chúng tôi xin trích lại một số các đoạn quan trọng sau đây:

LỜI BẠT
Trích trong cuốn Những Ngày Cuối của VNCH.
Tác giả: Đại tướng Cao Văn Viên. Bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, 2003.

Trong bản Việt ngữ này tác giả (Cao văn Viên) muốn nói đôi lời để giải thích thêm về một hai chú thích ở bản Anh ngữ. Tác giả muốn nói thêm về chú thích số 5 ở Chương 9, và phần nói về cơ cấu, nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu. Tác giả viết rất ngắn ở bản Anh ngữ, nhưng sau này, có nhiều sách vở đã tường thuật lại các sự việc không chính xác nên tác giả thấy cần có những chú thích bổ túc.

Trong những năm 1970 và 1971, tác giả đã đệ đơn xin Tổng thống Thiệu cho về hưu ít nhất là 3 lần. Lý do là vì tác giả đã ở chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng quá lâu (trên 5 năm), đã đủ thâm niên quân vụ cùng sức khỏe kém. Lý do tác giả hành động như vậy vì vào khoảng giữa năm 1970, sau một buổi họp với Đại tướng Creighton Abrams (tư lệnh MACV) ông ta cho biết, theo tin Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu có ý định cho Trung tướng Đỗ Cao Trí thay thế tác giả. Chờ đợi mãi không thấy lệnh thay thế, tác giả cảm thấy mình không còn được “sủng ái” nên đã xin về hưu.

Trong thời điểm đó, các đối lập chính trị và tay chân thân tín của họ bị loại hay vô hiệu hóa. Với đa số dân biểu, nghị sĩ thân chánh quyền trong Quốc Hội cùng sự thành lập đảng Dân Chủ, ông Thiệu ở vào thế mạnh. Ngoài ra một số phụ tá trẻ của ông nêu ý kiến nên thay thế các phần tử mà họ cho là già nua và quan liêu. Họ thường nói, muốn có một căn nhà tốt cần thay thế các viên gạch cũ hay các bộ phận vô dụng, và nếu cần, hủy bỏ luôn căn nhà cũ.

Nhưng tại sao ông Thiệu không thay tác giả như đã có ý định? Có thể ông Thiệu nghĩ rằng tác giả không có tham vọng chính trị, và trong quá khứ không phản ông Diệm nên cố giữ lại để có sự ổn định trong quân đội.

Nhưng những gì tác giả nghĩ chỉ là giả thuyết mà thôi. Ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, ở vào một hoàn cảnh mập mờ, tác giả không thể nào hăng say phục vụ như trước nữa. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp, tác giả vẫn làm việc như thường, chờ ngày thay thế.

Khi Hiệp Định Ba Lê 1973 được ký kết, quốc sách “Bốn Không” ra đời, lúc mà tất cả hoạt động quân sự có ảnh hưởng đến chính trị, thì các buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân Đoàn, Quân Khu, cùng với các tư lệnh Binh Chủng như Không Quân và Hải Quân… được diễn ra trong Dinh Độc Lập, thay vì ở Bộ Tổng Tham Mưu như thường lệ. Buổi họp được đặt dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu như là Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó Tổng thống Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng cho các nơi. Như vậy, Tổng thống Thiệu đã đạt được thế thượng phong tuyệt đối, tập trung mọi quyền Hành Pháp, Lập Pháp và quân đội vào một mối duy nhất.

Tình hình quân sự và chính trị trước và sau ngày Tổng thống Thiệu từ chức (21-4-1975) đã được nói đến trong sách rồi, không cần nhắc lại ở đây. Tối Chủ Nhật 27 tháng 4, sau khi Quốc Hội biểu quyết trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh, vì thời gian quá gấp rút, theo hệ thống quân giai, tác giả trình miệng với Trung tướng Trần Văn Đôn, đang là Tổng Trưởng Quốc Phòng trong Nội Các của Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, trình lên Tổng Thống Trần Văn Hương nguyện vọng được về hưu của tác giả đã xin từ năm năm về trước. Tổng thống Hương biết rõ chuyện này nên đã ký sắc lệnh cho tác giả về hưu.

Tác giả không hợp tác với tướng Minh vì ông ta có ý định giết tác giả trong cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11-1963. Tác giả cũng không thể phục vụ cho một chính phủ liên hiệp, và lý do quyết định nhất là đã ở chức vụ này quá lâu (gần 10 năm), sức khỏe kém và đã xin về hưu 3 lần rồi. Khi biết đã được phép giải ngũ, tác giả liên lạc với Phòng Tùy Viên Quân Sự Hoa Kỳ (DAO) để xin di tản ra Đệ Nhất Hạm Đội

Tiện đây, có mấy việc cũ cần được nêu lên cho chính xác:

Trưa ngày 1 tháng 11-1963, khi trình diện Tổng Bộ Tham Mưu (BTTM) để nhận lệnh hành quân (lúc đó tác giả là Đại Tá, Tư Lệnh Lữ Đoàn Nhảy Dù) tác giả được đưa lên gặp tướng Dương Văn Minh thay vì tướng Trần Thiện Khiêm (Tham Mưu Trưởng Liên Quân) như thường lệ.

Tướng Minh hỏi: “Tụi Moi đảo chánh, Toa nghĩ sao?”

Tác giả trả lời: “Đảo chánh là một quốc gia đại sự, sao tới giờ phút này Trung Tướng mới cho tôi hay?”

Đó là nguyên văn câu hỏi và câu trả lời, không hơn không kém. Trong khi đó, một sĩ quan tùy viên của tướng Minh chĩa súng Carbine vào lưng tác giả. Vài phút sau, Đại tá Đỗ Mậu (Giám Đốc An Ninh Quân Đội) kêu tác giả lên đài phát thanh tuyên bố theo phe đảo chánh. Tác giả trả lời là không có gì để tuyên bố cả. Tác giả bị giam giữ tại BTTM và chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc nhờ cảm tình của một số Tướng Tá (theo phe đảo chánh) và sự can thiệp của vợ mình.

Sáng ngày 2 tháng 11-1963, tác giả được trả tự do ra về. Vợ tác giả thuật lại: Sau khi cuộc đảo chánh bùng nổ, Tổng thống Diệm điện thoại hỏi tác giả ở đâu. Sau khi biết tác giả lên BTTM họp và có lẽ bị giam giữ ở đó, Tổng thống Diệm dặn người nhà liên lạc với tác giả và nói tác giả điện thoại thẳng cho ông. Chừng một tiếng sau, Tổng thống Diệm điện thoại một lần nữa. Khi được biết không còn hy vọng, Tổng thống Diệm không nói gì thêm và cũng không khi nào ngỏ ý đến nhà tác giả. Ngoài ra cũng không ai mời Tổng thống Diệm đến nhà tác giả như tin đồn.

Về cơ cấu và nhiệm vụ của Bộ Tổng Tham Mưu và vai trò của tác giả.

Năm 1965 – 1967: Tổng Tham Mưu Trưởng (TTMT) là thành viên trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (UBLĐQG; 1965 – 1967) nên về phương diện thuần túy quân sự giới chức này chỉ tham khảo ý kiến của hai vị Chủ Tịch (Hành Pháp và Lãnh Đạo) khi cần thiết. Trong thời gian này, gần một năm, TTMT cũng kiêm nhiệm luôn chức vụ Tổng Trưởng Quốc Phòng

Vào cuối năm 1967 khi tướng Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Văn Thiệu đắc cử trong cuộc bầu cử Tổng Thống, Bộ TTM trở về vai trò cũ, tác giả chỉ giữ chức vụ Tổng TMT, còn chức Tổng Trưởng Quốc Phòng thì được trao lại cho người khác.

Tuy vậy, trong cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa của cộng sản vào năm 1968, trước một tình hình nguy hiểm cho sự sống của đất nước, tác giả đã tự lấy quyết định cần thiết để lật lại thế cờ. Cộng sản phân tán lực lượng, đánh vào trung tâm điểm các tổ chức hành chánh và quân sự của ta. Ngay tại Sài Gòn – Chợ Lớn, các cơ quan đầu não của chính phủ đều bị đánh phá hay chiếm giữ. Tuy nhiên, nếu một người bị chém đầu thì không thể nào sống, nhưng chỉ bị thương ở tay chân thì còn cứu chữa được. Dựa theo lý do đơn giản đó, tác giả thấy Sài Gòn – Chợ Lớn cần phải được giải tỏa trước nhất.

Trước Tết Mậu Thân, các đơn vị Nhảy Dù, TQLC và một số đơn vị Biệt Động Quân được tăng phái cho các quân khu, quân đoàn. Tại thủ đô chỉ còn lại một tiểu đoàn Nhảy Dù duy nhất. Nửa đêm về sáng, khi phi trường Tân Sơn Nhất bị tấn công, ba đại đội Nhảy Dù được dùng để tăng cường phòng thủ phi trường. Trong thời gian đó, trường Anh Ngữ Quân Đội và đại đội Tổng Hành Dinh thuộc Bộ TTM bị một toán dặc công đánh chiếm và cố thủ. Thấy tấm bảng đại đội “Tổng Hành Dinh,” địch tưởng đã chiếm được Tổng Hành Dinh (tức là BTTM) của chúng ta nên không di chuyển ra chiếm tòa nhà chánh – nơi đó mới là Tổng Hành Dinh BTTM, với văn phòng Tổng Tham Mưu, Tham Mưu Liên Quân, cùng với trung tâm truyền tin, phòng mật mã và máy móc siêu tuần số quan trọng. Nơi này chỉ cách chỗ cộng sản chiếm giữ chừng 300 thước. Đại đội Nhảy Dù còn lại được điều động qua BTTM để tiêu diệt toán đặc công ở đó.

Trước một tình thế mong manh và nguy hiểm như vậy, tác giả lấy quyết định rút hết các đơn vị đang tăng phái ở các quân đoàn bằng cầu không cận và trực thăng. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, tất cả các sân vận động, sân đá banh và trường đua Phú Thọ trong đô thành được sử dụng như bãi đáp trực thăng. Khi tập trung được quân số ước lượng chừng 20 tiểu đoàn, tác giả đích thân chỉ huy cuộc hành quân Trần Hưng Đạo, đánh bật cộng quân ra khỏi ngoại ô Sài Gòn. Các lực lượng Cảnh Sát, Địa Phương Quân và Nghĩa Quân được sát nhập để tham gia cuộc hành quân này. Cuộc hành quân cũng có sự hợp tác chặt chẽ của các đơn vị Hoa Kỳ và đồng minh có mặt chung quanh thủ đô. Sau khi cộng sản bị đánh bật ra khỏi thủ đô, quyền chỉ huy lại được trả về cho tư lệnh quân đoàn – quân khu.

Một điểm đặc biệt là các quân nhân thuộc các bộ tham mưu, các nha sở, các kho xăng hay các cơ xưởng quân đội đều được đoàn ngũ hóa thành các đơn vị chiến đấu (chỉ để lại số quân tối thiểu điêu hành cơ cấu) để hành quân các vùng lân cận. Vì số sĩ quan ở các bộ tham mưu đông nên người ta thấy sĩ quan cấp thiếu úy, trung úy giữ vai trò khinh binh và sĩ quan cấp trung tá chỉ huy đại đội.

Khi giải tỏa xong thủ đô, các đơn vị tổng trừ bị và Biệt Động Quân lại được tăng phái trở lại các quân khu – quân đoàn.

Năm 1971 – 1972: Hai năm 71 – 72 là khúc quanh quan trọng trong đời sống quân ngũ của tác giả. Như đã nói phần trước, tác giả đã xin Tổng thống Thiệu về hưu ba lần nhưng không được nên phải làm việc như thường tuy kém phần hăng say như năm năm về trước. Vai trò của BTTM vẫn không thay đổi trong thời gian này.

Cuối năm 1971 là năm bầu cử Tổng Thống. Lần này Tổng thống Thiệu ra ứng cử với ông Trần Văn Hương. Các liên danh khác bị loại ra vì không đủ điều kiện ấn định bởi luật bầu cử, nên báo chí rêu rao đây là màn “độc diễn” của Tổng thống Thiệu.

Trước ngày bầu cử, sau một buổi họp quân sự với các Tư lệnh Quân Đoàn, Tư lệnh các Quân chủng Không và Hải quân, TTMT, và Tổng trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng thống Thiệu hỏi các tướng lãnh về cuộc bầu cử sắp tới. Các tướng lãnh có mặt đều nhiệt liệt ủng hộ liên danh Thiệu – Hương. Khi được hỏi, tác giả trả lời là Tổng Thống đã có quyết định, nên không có ý kiến gì thêm.

Khi cộng sản mở cuộc tấn công công khai miền Nam qua khu phi quân sự trong năm 1972, cuộc tấn công mà báo trí mệnh danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa.” Với sự hỗ trợ hùng hậu của Hoa Kỳ như pháo đài bay B-52 và tất cả các loại phi cơ Không lực và Hải lực Hoa Kỳ, Quân Lực VNCH đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tổng tấn công của cộng sản, đặc biệt là tại Quảng Trị, Kontum và An Lộc. Lần này BTTM di chuyển nguyên Sư đoàn 21 Bộ binh từ Quân đoàn IV lên quân đoàn III để giải tỏa An Lộc.

Năm 1973 – 1975: Khi Hiệp Định Ba Lê được ký kết và quốc sách “Bốn Không” ra đời, và khi Tổng thống Thiệu thực sự là Tổng Tư Lệnh Tối Cao Quân Lực VNCH, thì BTTM trở thành Bộ Tham Mưu của Tổng Thống. Ông Thiệu ra lệnh thẳng cho các tư lệnh quân đoàn, Không quân và Hải quân, và liên lạc thẳng với Tham Mưu Trưởng Liên Quân BTTM. Hoa Kỳ biết chuyện này nên trưởng phái đoàn Hoa Kỳ, tướng Weyand, khuyến cáo chánh phủ nên dành nhiều quyền hành cho BTTM hơn.

Tóm lại, dù ở thời kỳ nào, BTTM vẫn làm đầy đủ vai trò của nó nhất là trong những năm 1968 và năm 1972. Khi có Hiệp Định Ba Lê, BTTM cho thi hành hữu hiệu kế hoạch Trần Hưng Đạo II để phá vỡ mưu mô “lấn đất dành dân” của cộng sản. BTTM là một tổ chức có thể nghiên cứu, thiết kế, phối hợp và kiểm soát tất cả vấn đề quân sự, như kế hoạch Trần Hưng Đạo I và II đã nói trên. Cả Phòng 3 và trung tâm hành quân liên tục theo dõi chặt chẽ tình hình quân sự trên toàn quốc và sẵn sàng cung cấp hay thuyết trình các tin tức quân sự khi cấp trên đòi hỏi.

Hai thí dụ điển hình:

1. Quân đoàn I không báo cáo cho BTTM về việc Sư đoàn 1 BB rút ra khỏi Huế về phía Nam. Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 BTTM biết được việc này qua một giới chức khác. Ngay sau đó, trong một buổi họp tại Dinh Độc Lập, tác giả trình cho Tổng thống Thiệu biết việc trên.

2. Việc các tướng lãnh thuộc Quân đoàn 1 đã rút trên chiến hạm HQ-4 cũng không được báo cáo về BTTM. Qua hệ thống truyền tin của Hải quân và Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, tướng Thọ khám phá ra việc này.

Vì là cơ quan đầu não của Quân Lực VNCH nên BTTM lúc nào cũng có toán trực làm việc 24 trên 24 giờ. Trong những năm 1968, 1972, 1974 và 1975, khi tình hình quân sự khẩn trương, toàn thể BTTM đều “cấm trại,” nghĩa là toàn thể nhân viên phải làm việc và ăn ngủ trong doanh trại.

Cao Văn Viên
(NguaTrang sưu tầm)