PDA

View Full Version : Thơ Văn Trịnh Khải Hoàng



hoangminhuyen
10-25-2012, 06:30 PM
SỰ THÀNH LẬP VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG
Trịnh Khải Hoàng.


Vạn hoá đại toàn ai khá biết ?
Cổ lai muôn sự lý tuỳ trung.

Bài Viết nầy như một ghi chép lại Sinh Hoạt Võ Đường Thần phong từ ngày 01- 12 - 1966 đến ngày 30 -04-1975. Từ sau đó vì hoàn cảnh chính trị tại Việt Nam đã không cho phép sinh hoạt…! Nên đại đa số những Võ Sư-Võ Sinh xuất thân từ Võ Đường Thần Phong đã viễn phố, thanh bần thôn dã với đời thường…rất thường là quên đi một thời quá khứ “Con Nhà Võ”, thứ dĩ vãng “Đạo Trường Tiên Cách” để ngang tàng, trịch trượng chỉ đời mà thốt:

Án thượng hữu Thư
Thư thượng hữu Sư.

Quẳng gậy trường giang, Ta lên rừng làm đạo sĩ.
U mặc cộng nghiệp kham khổ hoà trong dòng đời trầm luân, thân cư trần mà chẳng muốn nhiễm uế trần …Khí tiết “con nhà Võ Đạo Đông Phương” làm sao và làm chi …?

Ta quẳng hết trở về hoang dã…
Để mắt ai buồn biêng biếc cả trời thu !
Khi mà thời hôn ám:
Bồ Tát cao xanh còn mắc cạn
Huống chi thân cá chậu chim lồng !
Thuỷ chung tương hoán hà phi xứ
Lai khứ thường niên hà thị tâm.

Yá…á…á.h…!!! Tiếng thét vang lanh lãnh đất trời…!!!... Chunbi YdanDapchagi(thủ thế và tung cước pháp) lung linh trong bóng đêm, Anh Hùng Vọng Nguyệt gọi hồn tiền nhân Nước Việt 5000 năm từ đỉnh Thái Sơn đến Động Đình Hồ, mà núi Ngũ Lĩnh còn mây bạc đầu vần vũ bao phủ, thách thức tráng sĩ chí Việt Thường huớng về Bắc phương, tranh cuộc can qua đòi về đất cũ để tế Lễ Gia Tiên, giải niềm u uất của Anh Hồn Tổ Việt xưa kia đã lưu ngụ phảng phất trên 18 bình nguyên Trung Quốc ngày nay dưới sự thống trị của nòi Hán đương quyền…Dã hạc rừng hoang, sương khuya ướt đẫm y hàn…! Nầy Thư Cưu…! Nầy Kiếm Báu…! Ta ngẩn mặt nhìn trăng sáng đêm nay tâm sự lênh đênh tận cùng với Anh-Em ta lưu lạc bốn phương… mà mơ:

“Trống trường thành lung lay bóng nguyệt,”
“Khói cam tuyền mờ mịt thức mây…”!

Có ai không…? Cùng ta ngâm khề khà một khúc cổ phong…Dịch Lý hề:

Thái Cực, Thái Hư Lý sinh Khí
Vô Cực, Thái Hư Khí sinh Lý
Thừa Khí động tĩnh sinh Âm-Dương
Âm-Dương chi phần vi Thiên-Địa…

Hay chếnh choáng men rượu nồng cay…cay… lực bạt sơn hề khí phách…! Lãng du muôn phương… ngày cuối năm gặp lại Huynh-Đệ nơi quê nhà, quê người…sau năm 1975:

Ôi…trai trẻ một thời oanh liệt quá…!
Kiếm trên vai vô địch mấy sông hồ
Và ngạo khí tưởng chừng như sắt đá
Giữa ngàn năm sinh tử chẳng nhấp nhô…

Để rồi tiễn nhau nơi phi trường, Bạn vẫn cố hương, Tôi viễn xứ …!

Nếu cuộc đời là hữu phùng, hữu biệt
Thì tôi xin mây trắng mãi ngàn phương…
Nếu cuộc đời là sầu đa lạc thiểu
Sao chân cầu còn lưu nước trường giang
Ai đã qua song còn ngoảnh vời cố quận ?
Thiên lãng xa ải nhạn hướng đâu tìm…?

Tuy vậy ở mọi hoàn cảnh…Những Võ Sư xuất thân từ Võ Đường Thần Phong với chân Tài bởi công phu hàm dưỡng, tôi luyện tinh tuyệt và tinh thần “Kẽ Sĩ Đông Phương” cũng đã được những Giới Chức có “Mắt Xanh Tinh Đời” đương quyền đắc dụng để huấn luyện, đào tạo cho lớp hậu duệ Võ Sư, Võ Sĩ, Tuyển Thủ đại diện cho Quốc Gia Việt Nam,France, Australia, Canada, Russia, Arab,… tham dự Tranh Giải Thái Cực Đạo Á Châu, Thế Vận Hội,… thành tích vẻ vang thắng lợi, đoạt huy chương vô địch làm rạng danh người Việt Nam !!! Một đôi khi bởi tính chất cùng là Việt Nam trên Võ Đài phân tranh cao thấp với những tuyển thủ khác chủng tộc…Sự tương thân, tương trợ đã tự vượt qua “Địa Lý Chính Trị” để giành phần thắng lợi cho Võ Sĩ Việt Nam và cũng vì chợt nhận ra được“Nó” là Võ Sinh học trò của Võ Sư Thần Phong…Võ Đường Thần Phong từ một quê nhà Việt Nam mà nay đã vượt biên giới lãnh thổ…Những Võ Sư Thần Phong đã mở lớp huấn luyện Võ Thuật phổ biến Việt Nam Thái Cực Đạo đến nhiều quốc gia Âu Châu, Mỹ Châu, Trung Á…mà tổng kết sĩ số võ sinh đã nhiều đáng kể… Những mong bài viết nầy sẽ được Lưu Tâm bởi Thượng Đại Nhân không “cưỡi ngựa xem hoa” vì thực chất Võ Đạo Việt Nam đã được trân trọng trong Lịch Sử Việt Nam với bao cuộc chiến chống ngoại xâm để giữ nước và mở nước… và ngày nay, những đóng góp của những Võ Sư Thần Phong như một phần hữu ích lành mạnh hoá thế hệ thanh niên, trước những tệ trạng xã hội suy đồi đạo đức làm băng hoại luân thường, đạo lý …dẫn đến quốc phá, gia vong ! Mong lắm thay.


Võ Đường Thần Phong từ năm 1966-1969 thuộc Phòng Huấn Luyện, toạ lạc tại cánh trái trong khuôn viên Bộ Tư Lệnh Không Quân , Căn Cứ Phi Trường Tân Sơn Nhất, Miền Nam Việt Nam, là Võ Đường tiên khởi của toàn thể Hệ Thống Võ Đường Thần Phong về sau.
Võ Đường Thần Phong từ năm 1969-1973 toạ lạc tại đường Lê Văn Lộc kế cạnh Khối Chiến Tranh Chính Trị, Sư Đoàn 5 Không Quân Việt Nam, Căn Cứ Phi Trường Tân Sơn Nhất. Võ Đường nầy được Công Binh Đại Hàn xây đựng khang trang với tiêu chuẩn huấn luyện chuyên môn Võ Thuật Tae Kwon Do, Aikido, Judo,… với toàn bộ vật liệu và công sức kiến tạo của Chính Phủ Đại Hàn Dân Quốc để làm Tặng Phẩm Văn Hoá cho Quân Chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hoà.
Võ Đường Thần Phong từ năm 1974-1975 toạ lạc gần kề Căn Cứ Trực Thăng vốn trước là Cơ Sở PX của Không Quân Hoa Kỳ trong Căn Cứ Phi Trường Tân Sơn Nhất, Miền Nam Việt Nam.
Võ Đường Thần Phong Dân Sự từ năm 1971-1975 toạ lạc tại khuôn viên Nha Căn Cứ hàng Không Dân Sự, Phi Cảng Tân Sơn Nhất, Miền Nam Việt Nam.
Võ Đường Thần Phong Dân Sự Thứ Nhì từ năm 1972-1975 toạ lạc tại Quận Tư, Khánh Hội, Thành Phố SàiGòn, Miền Nam Việt Nam.

NHÂN SỰ ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG CỦA VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương là Vị Sáng Lập nên Võ Đường Thần Phong và Hội Võ Thuật Thần Phong từ năm 1966.
- Trung Tướng Tư Lệnh Không Quân Trần Văn Minh, chỉ thị cung ứng những nhu cầu cần thiết cho Võ Đường Thần Phong khi hữu sự.
- Thiếu Tướng Nguyễn Xuân Lành, Bộ Tư Lệnh Không Quân , Chuẩn Tướng Võ Dinh, Tham Mưu Không Quân, luôn khuyến khích tinh thần và giúp đỡ Võ Đường.
- Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân, hổ trợ cần thiết cho sinh hoạt của Võ Đường.
- Đại Tá Trần Đình Hoè, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Không Quân là Vị Ân Nhân với tấm lòng hào sản luôn trợ giúp cho Anh-Em của Võ Đường những nhu cầu rất hữu sự và thiết thực.
- Đại Tá Đinh Thạch On, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Không Quân cũng là Vị Võ Sư Aikido (Hiệp Khí Đạo) của Võ Đường từ Năm 1972-1975. Ông là Vị Ân Nhân rất đặc biệt có sinh hoạt gắn bó với toàn thể Anh-Em Võ Sư, Võ Sinh thuộc Võ Đường Thần Phong và với tư thế Huynh Trưởng, Ông luôn luôn quan tâm giúp đỡ và bảo trợ cho Võ Đường Thần Phong tiến triển với mọi tình huống từ năm 1966-1975.

GIÁM ĐỐC VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Giám Đốc tạm thời trong ngày tháng tiên khởi là Thiếu Tá Trần Văn Ngưu, Thiếu Tá Trần Đình Hữu, 1966-1967.
- Giám Đốc Võ Đường Thần Phong từ Năm 1967-1968 là Thiếu Tá Trần Như Đẩu. Huyền Đai Judo, Huyền Đai Tae Kwon Do, Võ Sư Thái Cực Quyền, Võ Sư Vĩnh Xuân Quyền, Võ Sư Hồng Gia Quyền La Phù Sơn và đặc biệt Ông rất thiện xảo tâm đắc với bộ môn Bonsai-Non Bộ, hiện tại Ông là Bonsai Master cố vấn phụ trách kỹ thuật cho Hội Việt Mỹ Bonsai (Viêt-America Bonsai Association), … Vì nhu cầu chiến trường từ sau năm 1969, Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà phải chiến đấu khốc liệt với Bắc Quân Việt Cộng trên khắp mặt trận …Thiếu Tá Trần Như Đẩu được điều động trở về lại Phi Đoàn Trực Thăng 211, bay tăng phái chiến đấu và yểm trợ cho các đơn vị Bộ Binh chủ lực trong những cuộc hành quân khắp 4 Vùng Chiến Thuật, và đảm nhiệm thêm chức vụ Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn 4 Không Quân, Căn Cứ Phi Trường Bình Thuỷ, Cần Thơ. Trường hợp của Ông rất đặc biệt tuy không còn là Giám Đốc Võ Đường Thần Phong sau năm 1969. Nhưng với chức vụ Trưởng Khối Sinh Hoạt Chính Huấn thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân và với những ân tình là huynh trưởng của Anh-Em Võ Sư, Võ Sinh của Võ Đường , Ông vẫn được Bộ Tư Lệnh Không Quân đề cử về Võ Đường với trách nhiệm là Trưởng Phái Đoàn Võ Thuật của toàn thể 6 Căn Cứ Không Quân Việt Nam mỗi khi Võ Đường Thần Phong đại diện cho Quân Chủng Không Quân tham dự những cuộc Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc và cũng đảm nhận Cục Phó Tổng Cục Thái Cực Đạo Quân Đội khi dẫn dắt Phái Đoàn Võ Thuật Việt Nam xuất ngoại để tham dự các Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Á Châu.

- Giám Đốc Võ Đường Thần Phong từ Năm 1969-1970 là Thiếu Tá Nguyễn Trúc Lân, Huyền Đai Aikido.
- Giám Đốc Võ Đường Thần Phong từ Năm 1970-1971 là Thiếu Tá Lê Đình Thuận, Huyền Đai Aikido.
- Giám Đốc Võ Đường Thần Phong từ Năm 1972-1973 là Thiếu Tá Cát Văn Khôi, Huyền Đai Aikido.
- Giám Đốc Võ Đường Thần Phong từ Năm 1973-1975 là Thiếu Tá Sĩ Phú.

MỸ THUẬT VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Từ khởi đầu thành lập Võ Đường Thần Phong. Thiếu Tá Trần Như Đẩu với Chức Vụ Giám Đốc Võ Đường và sau là Trưởng Khối Sinh Hoạt Chính Huấn thuộc Bộ Tư Lệnh Không Quân, Ông đã đề cử Hoạ Sĩ Lục Phú. Khối Chiến Tranh Chính Trị đề cử Hoạ Sĩ Trúc Việt công tác trang trí Mỹ Thuật toàn thể cho Võ Đường Thần Phong.

VÕ SƯ ĐẠI HÀN TẠI VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Võ Sư Kang Dong Kil là Hàn Lâm Học Sĩ Viện Hàn Lâm Đại Hàn Dân Quốc, Sĩ Quan Tuỳ Viên Văn Hoá của Tổng Thống Pak Chung Hi, Đại Hàn Dân Quốc, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do, phụ trách giảng huấn từ những ngày khởi đầu gây dựng nên Võ Đường Thần Phong từ Năm 1966-1968.
- Võ Sư Đại Uý Tá Lee Sha Un, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do, nói thông thạo tiếng Việt, được Bộ Tư Lệnh Quân Lực Đại Hàn đề cử để hổ trợ Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương thành lập Võ Đường Thần Phong cho Quân Chủng Không Quân, trong Chương Trình Võ Thuật Hoá Quân Đội của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hoà với sự hợp tác của Chính Phủ Đại Hàn qua Bộ Tư Lệnh Quân Lực Đại Hàn phụ trách huấn luyện và phát triển môn võ Tae Kwon Do (Thái Cực Đạo). Võ Sư Lee phụ trách huấn luyện Võ Thuật cho Võ Đường Thần Phong từ năm 1966-1969 và là Vị Sĩ Quan có công đề xuất và vận động với Trung Tướng Cher Moon Sin và Đại Tướng Lee Sai Ho, Tư Lệnh Lực Lượng Đại Hàn tại Việt Nam thỉnh nguyện với Chính Phủ Đại Hàn chương trình xây dựng cho Không Quân Việt Nam một ngôi Võ Đường khang trang từ năm 1968 đến 1969 thì hoàn tất.
- Võ Sư Thượng Sĩ Kang Tae Ho, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ năm 1966-1969.
- Võ Sư Trung Sĩ Lee Keun Tae, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae kwon Do phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ năm 1966-1969.
- Võ Sư Cho Sun Taik, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do, phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ Năm 1969-1970.
- Võ Sư Thượng Sĩ Cher Hyung Ho, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng, phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ Năm 1969-1970.
- Võ Sư Kim Byung Wuon, Huyền Đai Đệ Ngũ Đẳng, phụ trách huấn luyện võ thuật từ Năm 1970-1971.
- Võ Sư Trung Tá Kim Bong Sik, Huyền Đai Đệ Lục Đẳng, Trưởng Phái Đoàn Võ Sư Đại Hàn tại Việt Nam, phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ Năm 1970-1972 và là Vị Mạnh Thường Quân luôn giúp đỡ Võ Đường Thần Phong với mọi ưu tiên từ Quân Đội Đồng Minh Đại Hàn Tại Việt Nam.
- Võ Sư Thượng Sĩ Her Man, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do, phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ năm 1970-1972.
- Võ Sư Shu Jung Do, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng Tae Kwon Do 1972-1973.
- Võ Sư Chung Tae Kap, Huyền Đai Đệ Lục Đẳng, phụ trách huấn luyện Võ Thuật từ năm 1972-1973.
- Ngoài Ra còn có những Vị Võ Sư Đại Hàn với trình độ tuyệt hảo xuất sư như Võ Sư Kim (BatMan), Huyền Đai Đệ Lục Đẳng Tae Kwon Do là Vị Võ Sư Trưởng của Quân Trường Đào Tạo Sĩ Quan Thủ Đức và Võ Sư Pak, Huyền Đai Đệ Lục Đẳng, Trưởng Phái Đoàn Võ Sư Đại Hàn từ năm 1964-1969 vẫn thường đến thăm viếng và huấn luyện đặc biệt cho Võ Sư và Võ Sinh tại Võ Đường Thần Phong.

VÕ SƯ VIỆT NAM TẠI VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Tổng Cục Thái Cực Đạo Việt Nam (Trường Sĩ Quan Thủ Đức) để cử Võ Sư Cố Vấn Woòng Mậu Thoòng, Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng Thái Cực Đạo, Võ Sư Nguyễn Văn Năng, Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng Thái Cực Đạo. Hai Vị Võ Sư nầy đã cố vấn và làm phụ tá các Võ Sư Đại Hàn để huấn luyện cho khoá sinh trong tinh thần tương trợ rất tốt đẹp từ những ngày đầu tiên thành lập Võ Đường Thần Phong.
- Từ ngày đầu tiên thành lập nên Võ Đường Thần Phong, từ năm 1966-1968. Võ Sư Kim Phúc Nam đã mang đẳng cấp cao nhất tại Võ Đường là Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng vì Ông đã tốt nghiệp Khoá Thái Cực Đạo Đầu Tiên do Phái Đoàn Võ Sư Đại Hàn đào tạo Võ Sư Huấn Luyện cho Quốc Gia Việt Nam và cũng với duyên trường đặc biệt Ông được Đại Uý Lee Sha Un cứu xét thâm niên võ học rồi để cử về Bộ Tư Lệnh Đại Hàn để thi Huyền Đai Đệ Tam Đẳng (1968-1969). Vì là quân nhân Không Quân nên Võ Sư Kim Phúc Nam được đề cử, thuyên chuyển về Võ Đường làm phụ tá cho các Võ Sư Đại Hàn giảng huấn và là Võ Sư thực thụ huấn luyện cho các khoá sinh từ năm 1966-1969. Từ sau năm 1969, Ông trở lại phần sở thuộc Phòng Huấn Luyện Không Quân và được biệt phái về Võ Đường để hợp cùng với Các Võ Sư Đại Hàn (bậc Thầy) phụ trách huấn luyện cho Tuyển Thủ của Võ Đường mỗi khi có cuộc Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc.
- Khoá Tae Kwon Do Thứ Nhất của Võ Đường Thần Phong khai giảng ngày 1 tháng 12 năm 1966 đến năm 1968, thu nhận 43 khoá sinh tình nguyện từ các phần sở trong Quân Chủng Không Quân. Họ đã học tập khổ luyện suốt 2 năm dài và tốt nghiệp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng sau kỳ thi thực nghiệm tài năng cam go…Một số ít được tuyển dụng làm Võ Sư Huấn Luyện thực thụ cho Võ Đường Thần Phong từ năm 1968-1975 gồm có những:
- Võ Sư Nguyễn Văn Lợi, phụ trách huấn luyện cho Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong lớp buổi chiều Thứ 3-5-7.
- Võ Sư Trương Văn Nhiều, phụ trách huấn luyện cho Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong lớp buổi chiều Thứ 2-4-6.
- Võ Sư Huỳnh Văn Phúc, phụ trách huấn luyện cho Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong lớp buổi sang Thứ 2-4-6.
- Võ Sư Nguyễn Ngọc Diệp, phụ trách huấn luyện cho Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong lớp buổi sang Thứ 3-5-7.
- Võ Sư Phan Văn Đức, phụ trách huấn luyện cho Quân Nhân lớp buổi tối. Còn lại tất cả những Võ Sư cùng tốt nghiệp Khoá Thứ Nhất của Võ Đường Thần Phong nầy được trở về phần sở để huấn luyện Võ Thuật Tae Kwon Do cho 6 Sư Đoàn Không Quân Việt Nam.
- Khoá Tae Kwon Do Thứ Nhì thu nhận võ sinh được khai giảng vào ngày 3 tháng 6 năm 1968 để tiếp tục huấn luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo (Tae Kwon Do) và Hiệp Khí Đạo(Aikido) cho giới Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong. Phụ trách huấn luyện chính vẫn do Thầy Võ Sư Đại Hàn và Võ Sư Việt phụ tá cho đến năm 1973 thì theo Chương Trình Rút Quân Đội Đồng Minh Rời Khỏi Việt Nam, Võ Đường Thần Phong không còn có Võ Sư Đại Hàn phụ trách huấn luyện nữa…! Nhưng ở giai đoạn từ sau năm 1968 những Võ Sư Việt tốt nghiệp Huyền Đai của Khoá Thứ Nhất Võ Đường Thần Phong được tuyển lưu giữ để thành Võ Sư Huấn Luyện được phân nhiệm giảng huấn thực thụ cho các Khóa Huấn Luyện về sau mãi cho tới năm 1975. Những Võ Sinh của Khoá Thứ Nhì sau 2 năm thụ huấn đến tháng 6 năm 1970 đã dự thi và tốt nghiệp với đẳng cấp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng. Một số tân đai đen trúng tuyển kỳ thi nầy xuất thân từ Lớp Thiếu Niên Thần Phong như: Trịnh Khải Hoàng, Trần Văn Lạc, Hoàng Thuỵ Thông,…đã trở thành Võ Sư, Tuyển Thủ ưu tú… được Ban Giám Đốc Võ Đường Thần Phong đề cử tiếp nối truyền thống Huấn Luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo cho 2 Võ Đường Thần Phong Dân Sự là:

- Võ Đường Thần Phong Phi Cảng Tân Sơn Nhất.
Sáng Lập: Võ Sư Nguyễn Văn Lợi
Giám Đốc: Bà Đặng Thị Tiên
Võ Sư Trịnh Khải Hoàng, Võ Sư Trần Văn Lạc, phụ trách huấn luyện cho võ sinh Võ Đường Thần Phong Dân Sự Phi Cảng Tân Sơn Nhất từ năm 1971-1974. Những võ sinh theo học Khoá Thứ Nhất ở Võ Đường Thần Phong nầy đến năm 1973 đã đạt được đẳng cấp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng.

- Võ Đường Thần Long(Thần Phong) Dân Sự 2, Quận Tư, Thành Phố SàiGòn.
Giám Đốc là Võ Sư Huỳnh Văn Phúc.

Võ Sư Trịnh Khải Hoàng, Võ Sư Nguyễn Ngọc Diệp phụ trách huấn luyện từ năm 1972-1975. Những võ sinh theo học ở Võ Đường Thần Phong nầy đến năm 1974 đã đạt đẳng cấp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng.
Sau năm 1975. Định cư tại Hoa Kỳ, những Võ Sư Võ Đường Thần Phong vẫn tiếp tục truyền thống Huấn Luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo nên:

Võ Sư Nguyễn Văn Lợi, Võ Sư Trịnh Khải Hoàng, Võ Sư Lê Văn Xuân mở các lớp huấn luyện Thái Cực Đạo tại thành phố Lawn Dale và Hawthorne, Nam California.
Sau năm 1975, Võ Sư Trần Văn Lạc, Võ Sư Hoàng Thuỵ Thông mở lớp huấn luyện Thái Cực Đạo tại thành phố San Antonio, Texsas.

Võ Sư Trương Nguyên Thuận mở Võ Đường Thần Phong tại Bắc California, Washington, Houston, Tx,…Võ Sư Trương Nguyên Thuận là nhân sự đắc lực có công gầy dựng lại Hệ Thống Võ Đường Thần Phong và gìn giữ đúng khuôn mẫu, truyền thống Nguyên Thuỷ Huấn Luyện Võ Đường Thần Phong Không Quân Việt Nam, nơi mà Võ Sư Trương Nguyên Thuận đã xuất Sư. Năm 1989, Võ Sư Phan Văn Đức được định cư tại Hoa Kỳ. Võ Sư Trương Nguyên Thuận đã bàn giao nhường lại Võ Đường Thần Phong tại Bắc CaliFornia cho Võ Sư Phan Văn Đức. Năm 1991 Võ Sư Đức đổi danh hiệu Thần Phong Martial Arts Association thành Intercontinental Martial Arts Federation cho đến năm 2000, lại một lần nữa đổi danh hiệu trở thành Thần Phong The Planet Martial Arts Federation. Nhưng sự chuyển đổi thành “Hệ Phái Thần Phong mới và khác biệt” như trên chỉ là sự quyết định của riêng cá nhân Võ Sư Phan Văn Đức ! Năm 2010, Võ Sư Trương Nguyên Thuận và một số Võ Sư kỳ cựu Thần Phong đã có chuyến đi thủ đô Seoul (Hán Thành) tham dự The World Tae Kwon Do và gặp lại vị Thầy khả kính Võ Sư Kim Byung Wuon đang là Đương Kim Chủ Tịch Kỹ Thuật của Tổng Cục Thái Cực Đạo Thế Giới, phái đoàn được Thầy khuyến khích và góp ý là nên gìn giữ Võ Phái Thần Phong Nguyên Thuỷ với “Danh” Thần Phong International Martial Arts federation.

AIKIDO TẠI VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Từ tháng 6 năm 1968 Võ Đường Thần Phong đã khai giảng Khoá AiKiDo (Hiệp Khí Đạo) do Võ Sư Nguyễn Đăng Đức, Huyền Đai Đệ Tam Đẳng Hệ Phái Yoshikan, Võ Sư Lê An Ninh , Huyền Đai Đệ Tam Đẳng Hệ Phái Yoshikan, phụ trách huấn luyện cho giới Quân Nhân và Thiếu Niên Thần Phong cho đến năm 1970-1975 thì số võ sinh theo học Khoá Thứ Nhất Aikido nầy đã đạt được từ đẳng cấp Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng tới Huyền Đai Đệ Tam Đẳng Hiệp Khí Đạo và Họ đã trở thành Võ Sư Aikido phụ trách huấn luyện tiếp tục cho các Khoá Võ Thuật Aikido về sau như: Võ Sư Đinh Thạch On, Võ Sư Bùi Văn Chúc, Võ Sư Trần Bảo Lộc, Võ Sư Bùi Văn Tạc, Võ Sư Nguyễn Văn Ngọc, Võ Sư Lê Đình Thuận, Võ Sư Nguyễn Trúc Lân,…mãi cho đến năm 1975.

JUDO TẠI VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Từ năm 1971, Võ Đường Thần Phong đã khai giảng Khoá Nhu Đạo (Judo) do Võ Sư Đỗ Thành Hưng Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng, Võ Sư Nguyễn Lục Phú( Hoạ Sĩ Lục Phú) Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng phụ trách huấn luyện.

THIẾU LÂM BẮC PHÁI TẠI VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

- Từ năm 1972, Võ Đường Thần Phong đã tổ chức khai giảng Khoá Thiếu Lâm Bắc Phái do Lão Võ Sư Tám Kiểng, phụ trách huấn luyện cho đến năm 1975.

SINH HOẠT CỦA HỘI VÕ THUẬT THẦN PHONG

Nguyên Thuỷ, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu và những nhân sự có thẫm quyền trong Hội Đồng Chính Phủ, nhận xét Tinh Thần Chiến Đấu của Lực Lượng Thanh Niên Hwa Rang, Korea đã dụng môn võ Tae Kwon Do chiến đấu rất hữu hiệu, đã góp phần trong công cuộc giành lại độc lập cho quốc gia Đại Hàn…Nên Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã thực hiện Chương Trình Võ Thuật Hoá Quân Đội và chỉ thị Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà thi hành Chương Trình Huấn Luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo trong tất cả Quân Binh Chủng. Vì vậy Cố Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương khi hãy còn với Chức Vụ Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn 33 Chiến Thuật (1966), hợp cùng với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoa (Khoa Đen), Đại Uý Trần Bá Hợi(Hợi Chân Voi) là 5 nhân sự tiền phong đã thành lập Biệt Đoàn 83 Thần Phong (huy hiệu phi đoàn Thần Phong là một Đầu Rồng với 5 Ngôi Sao trắng nổi trên bầu trời xanh) nên cũng được gọi là Phi Đội Thần Phong, phi đội đặc biệt nầy đã bí mật Bắc Tiến với những chuyến bay cãm tử không thám và oanh kích miền Bắc Việt Nam sau ngày chia đôi đất nước…và sau nầy những người trong số là những nhân sự cao cấp Chỉ Huy Cơ Quan Đầu Não Không Quân Việt Nam Cộng Hoà tại Căn Cứ Phi Trường Tân Sơn Nhất, Miền Nam Việt Nam. Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương với bản tính nghệ sĩ hào hoa và anh hùng…Ông là Người có lý tưởng kiến thiết Quốc Gia, yêu chuộng các bộ môn nghệ thuật thể hiện Văn Hoá và Võ Thuật Tae Kwon Do xuất xứ từ Đại Hàn được Ông mộ chuộng …Ông thường có sinh hoạt với các văn nghệ sĩ, giới trí thức sáng tác văn học… và với kỳ vọng muốn trang bị cho quân nhân Không Quân dưới quyền chỉ huy của Ông trở thành những Chiến Sĩ Quốc Gia đấu tranh phải có đầy đủ thể chất khoẻ mạnh, cường tráng với tính chất tinh thần Võ Sĩ Đạo Đông Phương kinh qua những khoá học tập Văn Hoá-Võ Thuật do Khối Chiến Tranh Chính Trị, Phòng Huấn Luyện, Chính Huấn …do Ông đề xuất và bắt buộc giới quân nhân song hành học tập và nhiệm vụ tại phần sở vẫn phải chu toàn…Riêng với bộ môn Võ Thuật Tae Kwon Do (Thái Cực Đạo), Ông trưng dụng Phòng Huấn Luyện tại Bộ Tư Lệnh Không Quân làm thành Võ Đường Thần Phong đầu tiên, và để tổ chức Hội Võ Thuật Thần Phong, Ông trân trọng viết thư đệ đạt với Tổng Thống Pak Chung Hi (Phát Chung Hi) của Đại Hàn Dân Quốc, thỉnh mời những Võ Sư tài năng xuất chúng trong Quân Đội Đại Hàn sang Việt Nam để huấn luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo tiên khởi cho Không Quân Việt Nam Cộng Hoà. Tổng Thống Đại Hàn Dân Quốc chấp thuận và ưu ái đề cử Vị Hàn Lâm Học Sĩ của Hàn Lâm Viện Đại Hàn đương là Vị Tuỳ Viên Văn Hoá đặc biệt của Tổng Thống là Võ Sư Kang Dong Kil Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng, nói được thông thạo tiếng Việt qua Việt Nam cùng với những Võ Sư Quân Đội Đại Hàn như Đại Uý Lee Sha Un, Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng nói được tiếng Việt, Thượng Sĩ Kang Tae Ho Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng, Trung Sĩ Lee Keun Tae Huyền Đai Đệ Tứ Đẳng tổ chức huấn luyện gầy dựng cho Quân Chủng Không Quân Việt Nam một Nền Võ Thuật Thái Cực Đạo là một trong những Nét Đặc Trưng của Nền Văn Hoá Hàn Quốc từ khởi nguyên khai sáng Võ Đường Thần Phong. Vì vậy chính Cố Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương là Vị Sáng Lập nên Võ Đường Thần Phong và Hội Võ Thuật Thần Phong. Tuy là Vị Sĩ Quan chỉ huy cao cấp của Binh Chủng Không Quân nhưng Ông đặc biệt đối đãi với Võ Sư, Võ Sinh Võ Đường Thần Phong và thanh Thiếu Niên Thần Phong cũng do Ông Sáng Lập trong tình huynh đệ tương thân tương ái …! Ông bị tử trận khi trực tiếp chỉ huy trận đánh giải toả áp lực của quân Việt Cộng tại Mặt Trận Đất Thánh Tây là vòng đai Phi Trường vào tháng 5 năm 1968 ! Ông là Vị Sĩ Quan cao cấp nhất của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tử trận đầu tiên tại chiến trường kể từ khi cuộc chiến Quốc-Cộng khai nguồn ! Cái chết của Ông là một mất mát lớn của Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và cũng là đại tang cho Võ Đường Thần Phong và Liên Đoàn Thiếu Niên Thần Phong do Ông thành lập…Ôi…còn đâu:
Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến đấu, cố chiếm chiến công ngang trời…đi không ai tìm xác rơi ? Đến lúc Đất Nước muốn bao người con thân yêu ra đi, hối tiếc tấm thân làm chi ? Ta là đàn chim bay trên cao xanh, khi nhìn qua khói thấy kinh thành tan…! Đôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh. Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng…
Và Ôi…còn đâu:

Em là cô gái bên song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn ngồi trên nhung lụa…

Và còn đâu nữa :

Anh đến thăm Em một chiều mưa
Mưa dầm dề làm trơn ướt lối về…

Và còn đâu nữa:

Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trên vòm trời nầy
Giờ nằm xuống…trong nghĩa trang nầy có loài chim thôi…!


Cái mất mát nầy đã ghi đậm đấu ấn trong tâm tình của Võ Đường Thần Phong (Kamikaze) và Đoàn Thiếu Niên Thần Phong…cho mãi đến hôm nay ghi chép lại nguyên thuỷ Võ Đường… Nhớ đến Huynh trưởng Lưu Kim Cương…biết nói sao cho vừa !
Khai giảng lớp Thái Cực Đạo đầu tiên Năm 1966 và để đánh dấu Kỷ Niệm Khởi Nguyên, chính Thầy Hàn Lâm Học Sĩ Võ Sư Trưởng Kang đã thủ bút thảo Thư Pháp ban cho Võ Đường Thần Phong 3 chữ đại tự: Túc Quyền Đạo. Bức Thư Pháp nầy đã được trân trọng treo cao để tất cả Võ Sư, Võ Sinh của Võ Đường Thần Phong chiêm nguỡng mãi cho đến năm 1975. Cùng thời gian Ông cũng dẫn giảng khúc chiết Tinh Thần Võ Đạo Đông Phương:
Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ, Nhẫn Nại, Khắc Kỷ, Bách Chiết, Bất Khuất
Và những Điều Tâm Niệm mà tất cả Võ Sinh xuất thân từ Võ Đường Thần Phong đều phải tuyên đọc hằng ngày trong lớp học sau khi chào quốc kỳ Hàn-Việt và hành lễ chào kính Võ Sư đương nhiệm:

1- Quyết tâm rèn luyện tinh thần thượng Võ và thân thể cường tráng.
2- Quyết đoàn kết chặc chẻ trong tinh thần tương thân, tương ái.
3- Tuyệt đối tuân lời Võ Sư và giữ đúng kỷ luật của Hội
Những Điều Tuyên Thệ:
1- Chúng ta sẽ là rường cột vững chắc cho xứ sở của chúng ta do nhờ luyện tập môn võ Thái Cực Đạo.
2- Chúng ta sẽ là đồ đệ của lý tưởng, của công bằng, của tự trọng ngay giữa chính chúng ta.
3- Chúng ta sẽ là ngưòi bảo vệ kẻ yếu và duy trì hết sức lễ độ, danh dự, tình huynh đệ và sự tương trợ lẫn nhau.
4- Chúng ta sẽ chỉ xử dụng môn võ Thái Cực Đạo để tự vệ chính đáng mà thôi.

THÀNH TÍCH TRANH GIẢI VÔ ĐỊCH THÁI CỰC ĐẠO TOÀN QUỐC

- Năm 1968, Võ Đường Thần Phong đã tham dự chính thức Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo với những Tuyển Thủ Toàn Đội Đai Đen: Kim Phúc Nam, Nguyễn Văn Lợi, Phan Văn Đức. Đai Nâu: Lê Văn Châu,…
- Giải Cá Nhân Thiếu Niên Đai Nâu: Trần Văn Lạc, Trịnh Khải Hoàng.
- Năm 1969, Võ Đường Thần Phong đã tham dự và ở vòng Chung Kết tranh chức Vô Địch với Toàn Đội Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến với những Tuyển Thủ Đai Đen: Kim Phúc Nam, Nguyễn Văn Lợi, Phan Văn Đức và Tuyển Thủ Đai Nâu: Lê Văn Châu, Đặng Văn Phát, Phạm Văn Khiết. Đội Tuyển Võ Đường Thần Phong đã chiến thắng vẻ vang Đoạt Giải và Thủ Kỳ Vô Địch Thái Cực Đạo Lần Thứ Nhất.
- Năm 1970, Võ Đường Thần Phong với những Tuyển Thủ: Lê Văn Châu, Phan Văn Đức, Hoàng Thuỵ Thông và Tuyển Thủ Đai Nâu đã loại tất cả Đấu Thủ để vào Chung Kết tranh đoạt chức Vô Địch Thái Cực Đạo với Toàn Đội Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến… và lại một lần nữa Võ Đường Thần Phong chiến thắng Đoạt Giải và Thủ Kỳ Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Lần Thứ Nhì.
- Năm 1971, Tuyển Thủ Toàn Đội của Võ Đường Thần Phong: Đai Đen: Lê Văn Châu, Trịnh Việt Trí, Lâm Hal. Đai Nâu: Đỗ Thành Hưng, Nguyễn Văn Ba, Nguyễn Lục Phú đã đấu hạ tất cả những đối thủ để cùng vào vòng Chung Kết với Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến. Đây là trận chiến của “Long Hổ Tranh Hùng” vang dội khắp Quân Binh Chủng Việt Nam Cộng Hoà và toàn thể giới Võ Thuật Dân Sự và lại một lần nữa Tuyển Thủ Võ Đường Thần Phong đã chiến thắng đội Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến Lần Thứ Ba. Võ Đường Thần Phong Đoạt Giải và Thủ Kỳ Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Lần Thứ Ba và Theo Qui Luật Quán Quân với Ba Lần Đoạt Chức Vô Địch nên Võ Đường Thần Phong Thủ Kỳ Quán Quân vĩnh viễn. Bộ Tư Lệnh Quân Đội Đại Hàn phải đề xuất Tân Kỳ Vô Địch cho những lần thứ Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo về sau.
- Năm 1972, Võ Đường Thần Phong quyết định không tham dự Tranh Giải Thái Cực Đạo Toàn Quốc ở Giải Toàn Đội Tuyển như mọi năm, mà chỉ tranh đoạt những Giải Kỹ Thuật Cá Nhân và cũng đã thành công xuất sắc đoạt được nhiều Giải Cá Nhân trong Kỳ Tranh Giải Thái Cực Đạo Toàn Quốc Năm 1972. Kết quả Toàn Đội Tuyển Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến đã chiếm Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Năm 1972.
- Năm 1973, Võ Đường Thần Phong ghi danh tham dự Tranh Giải Thái Cực Đạo Toàn Quốc với lực lượng hùng hậu gồm có đến 2 Toàn Đội Tuyển Thủ:

Toàn Đội Tuyển Thủ Võ Đường Thần Phong A
Toàn Đội Tuyển Thủ Võ Đường Thần Phong B

Đặc biệt trong lần tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Năm 1973. Đội Tuyển Thủ Thần Phong gồm có: Kim Phúc Nam, Lê Văn Châu, Trịnh Việt Trí, Lâm Hal, Nguyễn Văn Vạn, Phan Văn Đức, Đinh Tường, Thái Bình Hoà, Đào Phúc Thế, Võ Hồng Sinh, Nguyễn Văn Thành,… Ban Giám Đốc Võ Đường đã hội ý và đặc biệt một lần nữa tuyển chọn đề cử Tuyển Thủ xuất Thiếu Niên Thần Phong là Hoàng Thuỵ Thông trong vị thế Toàn Đội Đai Đen, với dáng “Bạch Diện Thư Sinh” phảng phất nét văn nhân, nghệ sĩ như sĩ tử với trường thi và “bầu rượu túi thơ” hơn là Võ Sĩ … trai trẻ…Nhưng ý chí đanh thép quyết thắng, tài năng vượt bậc! Tuyển Thủ Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng Hoàng Thuỵ Thông với thế Paldal DapChagi chính xác, lực dũng mãnh thần tốc đã đá văng xuống bục đấu thủ xuất sắc hàng đầu của đội Mãnh Hổ Thuỷ Quân Lục Chiến tên Vương Văn Hoài ở những giây phút đầu tiên của trận đấu…Tuyển Thủ Hoài của Đội Thuỷ Quân Lục Chiến là hảo thủ! Anh Hoài tài năng xuất sắc có danh tiếng được hâm mộ và khen tặng trong giới Võ Thuật Thái Cực Đạo là ”Hoài Mãnh Hổ, Hoài Cọp Biển” là Em Kết Nghĩa của Võ Sư Nguyễn Văn Đào “Đào Biduki”còn gọi là “Đào Mông Cổ” là Đệ Nhất Tuyển Thủ của Đội Tuyển Cọp Biển Thuỷ Quân Lục Chiến và cũng là Võ Sư kỳ cựu phụ trách huấn luyện Võ Thuật Thái Cực Đạo của Binh Chủng Thuỷ Quân Lục Chiến…Cả hai hảo thủ danh tiếng nầy ít khi bị bại với những đấu thủ nào khác…Nếu không phải là Tuyển Thủ Võ Đường Thần Phong trong suốt cả thời gian từ khi Quân Đội Đại Hàn đem môn Võ Thái Cực Đạo vào miền Nam Việt Nam truyền bá và tổ chức hằng năm Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc…!.

Kết thúc cuộc Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Năm 1973:
Toàn Đội A Võ Đường Thần Phong Đoạt Giải Nhất Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc Năm1973
Toàn Đội B Võ Đường Thần Phong Đoạt Giải Nhì Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn QuốcNăm 1973.
Đến năm 1974 vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phải đơn độc chiến đấu oai hùng lẫm liệt với đại quân Chính Qui Bắc Việt trên khắp chiến trường ở 4 vùng chiến thuật… Nên chương trình Tranh Giải Vô Địch Thái Cực Đạo Toàn Quốc được tổ chức giới hạn với sự tham gia của những tuyển thủ thuộc hệ phái Võ Đường Dân Sự. Võ Đường Thần Phong chỉ tham dự tranh giải Cá Nhân Thiếu Niên với Tuyển Thủ Thiếu Niên Thần Phong: Huỳnh Phi Hùng đã đoạt Huy Chương Bạc.

CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN CỦA VÕ ĐƯỜNG THẦN PHONG

Võ Đường Thần Phong đã Tổ Chức Những Khoá Huấn Luyện như sau:
Khoá Đào Tạo Võ Sư Huấn Luyện Viên lần Thứ Nhất khai giảng Năm 1966-1968.
Khoá Huấn Luyện cho Võ Sinh Thái Cực Đạo, Hiệp Khí Đạo lần Thứ Nhì vào ngày 3 tháng 6 năm 1968. Rồi từ sau đó cứ mỗi Tam Cá Nguyệt, Võ Đường Thần Phong mở Khoá thu nhận Võ Sinh. Mỗi năm Võ Đường Thần Phong mở 20 Lớp Huấn Luyện: 2 Lớp Buổi Sáng cho Ngày Thứ 2-4-6 và Ngày Thứ 3-5-7 và 2 Lớp Buổi Chiều cho Ngày Thứ 2-4-6 và Ngày Thứ 3-5-7 và 1 Lớp Buổi Tối cho Quân Nhân Không Quân. Sĩ số Võ Sinh mỗi lớp thường là 50-60.

Mỗi Tam Cá Nguyệt, Võ Đường Thần Phong Tổ Chức một Kỳ Thi Tuyển cho Đẳng Cấp Đai:
Đai Trắng cấp 8, thời gian thụ huấn 3 tháng để ứng thi Đai Xanh.
Đai Xanh cấp 6, thời gian thụ huấn 3 tháng để ứng thi Đai Nâu.
Đai Nâu cấp 4, thời gian thụ huấn 3 tháng để ứng thi Đai Nâu cấp 2-3.
Đai Nâu cấp 2, thời gian thụ huấn 3-6 tháng để ứng thi Đai Nâu cấp 1.
Đai Nâu cấp 1, thời gian thụ huấn 6 tháng để ứng thi Đệ Nhất Đẳng Huyền Đai.
Huyền Đai Đệ Nhất Đẳng, thời gian thụ huấn 2 năm để ứng thí Đệ Nhị Đẳng Huyền Đai.
Huyền Đai Đệ Nhị Đẳng, thời gian thụ huấn 3 năm để ứng thí Đệ Tam Đẳng Huyền Đai.

Suốt trong những năm tháng dài từ 1966-1975, Võ Đường Thần Phong đã Được sự ưu ái, bảo trợ của những Sĩ Quan Không Quân có tấm lòng yêu chuộng Võ Thuật mà Huynh-Đệ tương thân, tương ái. Nhưng đặc biệt nhất toàn thể Võ Sư, Võ Sinh xuất thân từ Võ Đường Thần Phong trân trọng cám ơn Đại Tá Đinh Thạch On với chức vụ là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Không Quân, Ông đã thương mến “Anh-Em Võ Đường Thần Phong” mà hết lòng che chở, bảo trợ …từ sau Chuẩn Tướng Lưu Kim Cương đã “Cánh Chim bỏ đường bay” ! Và cám ơn Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân, Trung Tá Lý Ngọc An, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị, Trung Tá Bùi Hoàng Khải, Trưởng Phòng Chính Huấn đã quan tâm giúp đỡ Võ Đường Thần Phong từ năm 1966-1975…và cũng không thể nào quên được Thiếu Tá Trần Như Đẩu và Chị Thiếu Anh như “Chiêu Anh Quán” với tấm lòng hào sản, quảng đại Anh Chị đã “Đãi Hiền” “Anh Em Võ Đường Thần Phong” như mái ấm gia đình từ năm đầu thành lập Võ Đường Thần Phong 1966-1975 “tan hàng” rồi tiếp tục tại hãi ngoại từ sau năm 1975 mãi cho đến nay. Chân thành tuyên dương “Mạnh Thường Quân” Việt Nam thuộc Võ Đường Thần Phong.

VÕ PHÁI THẦN PHONG TRONG NỀN VÕ ĐẠO ĐÔNG PHƯƠNG

Văn dìu cánh phượng yên trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương

Trong cái Tâm phân biệt, Văn và Võ thường được tách bạch hiểu như hai thành phần đối nghịch với những đặc tính tương phản nhau như Âm với Dương như cứng với mềm…
Văn Phong với vẻ hoà nhã, lễ độ dễ dược Người cãm mến thân cận.
Võ Cách với dáng mạnh bạo, uy nghiêm thường làm cho chúng Nhân e dè xa lánh…!
Tuy đối chọi với nhau, nhưng Văn và Võ là những bổ túc cần thiết cho nhau để tránh những khuyết điểm nguy hại do sự nghiêng lệch quá độ trong chủ trương đa Văn hay thuần Võ. Đa Văn thường dễ trở thành bạc nhược, tiêu cực, tuỳ thuộc, thiếu năng lực phản kháng trước nghịch cảnh. Còn đa Võ lại dễ trở thành bạo hành, quá khích, ngạo mạn và hiếu chiến…Do đó sự phối hợp Văn-Võ ở mức độ hài hoà đã trở thành một tiêu chuẩn được Cổ Nhân đề cao qua mẫu Người Lý Tưởng đầy tài năng, kiêm gồm lẫn cả Văn Mô-Võ Lược, thích nghi được trong mọi hoàn cảnh.

Trong sơ lược về Võ Phái Thần Phong trong nền tảng Võ Đạo Đông Phương để cho tất cả những Võ Sư và Võ Sinh đã được học luyện từ Võ Đường Thần Phong thuộc Quân Chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hoà tùng sự tại Căn Cứ Phi Trường Tân Sơn Nhất, Sư Đoàn 5 Không Quân là Võ Đường Mẹ và 5 Võ Đường ở 5 Căn Cứ Không Quân trong 4 Vùng Chiến Thuật và 2 Võ Đường Thần Phong Dân Sự là Thần Phong Phi Cảng Tân Sơn Nhất, Võ Đường Thần Long ở Quận 4 Khánh Hội…từ năm 1966 đến ngày 30-4-1975…cho đến những Võ Đường Thần Phong ở Hải Ngoại như Mỹ Quốc (America), Nước Úc Đại Lợi (Australia), Pháp Quốc (France),…từ sau năm 1975 đến hiện tại…Bài viết nầy chỉ xin xét và trình bày riêng về thể dụng của Võ như một phương thế luyện tập Thân-Tâm của Người Xưa để Thành Nhân và Giúp Đời :” Dĩ Võ Tải Đạo” cùng theo một hướng như Văn trong cái tinh thần “Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ” cùng về một tâm đìểm bằng những đường lối khác nhau…

Theo nguyên nghĩa Võ đối nghịch với Văn: Văn là vẻ đẹp, là lễ phép…là cách dùng Lễ để cảm con người, còn Võ là dùng sức mạnh để bắt người phục và Đạo là con đường đi, cái Lý đúng mà kẻ Hành Giả phải noi theo để đi tới Giác Ngộ nếu không muốn sa vào những mê lầm sai trái…! Gộp chung hai chữ Võ Đạo có nghĩa là con đường chính đáng mà kẻ học Võ phải hướng theo, cái nguyên Lý căn bản trong phương pháp dùng sức để hàng phục chúng nhân mà kẻ học luyện Võ phải tuân hành…

Thông thường trong cuộc sống hàng ngày, người ta chỉ được thấy, nghe nói đến Võ trên mức độ thấp nhất của nó qua danh từ Võ Thuật, có nghĩa là kỹ thuật, phương cách để luyện tập thân thể cho được khoẻ mạnh, chiêu thức tinh xảo…đủ để tự vệ và chế ngự kẻ hung đồ…Cũng bởi chỉ vì trình bày giới hạn trong Võ Đường Thần Phong là Võ ở mức độ Thuật nên Võ đã mang một tính chất đa nguyên với những màu sắc môn phái và địa phương. Chính vì chỉ “Nhìn” Võ ở bình diện Thuật mà đã có những đụng chạm, khích bác giữa những cá nhân học Võ và môn phái…còn quá chấp Ngã ! Do đó Võ phải được nhìn ở tầng cấp cao hơn, ở cái thể dụng tới đích điểm tối hậu, tức là con đường đưa ta tới Đạo tới Chân Lý. Cái Chân Lý phổ quát đúng cho mọi người, mọi thời. Cái Chân Lý phổ quát còn có thể gọi là Thiên Tâm lòng Trời, mà Trời và Người thì có liên lạc chặc chẻ “Thiên-Nhân Tương Dữ”. Hiểu được Thiên Tâm tất cũng hiểu đưọc Nhân Tâm và hiểu được Nhân Tâm tất cũng suy ra để hiểu được Ngã Tâm…là cái Tâm của Chính Ta, khi hiểu đựợc Người, khi biết được Ta, thì cái yếu tố “Tri Kỷ Tri Bỉ” mà Tôn Tử thường đề cập tới trong Võ Kinh phải được nằm gọn trong Tay kẻ học Võ. Đạt tới mức độ đó tức là đã đạt Đạo, đích điểm cao nhất của Võ học…Qua hình ảnh của Tổ Sư Đạt Ma (Bodhi Dhamma), của Tổ Sư Trương Tam Phong-Thái Cực Quyền (TaiChiChuan),của Tổ Sư Morihei Ueshiba-Hiệp Khí Đạo(Aikido), của Tổ Sư Jigoro Kano-Nhu Đạo(Judo,Kodokan), của Tổ Sư Funa Koshi Gichin-Không Thủ Đạo(Shotokan,Karatedo), của Tổ Sư Thái Cực Đạo(Tae Kwon Do)…Những người không muốn tranh thắng nên không hề bại vong, thực hiện được điều tối thượng trong Võ học là “Thần Võ Bất Sát” tức là Võ Nghệ khi đã tu tập đến mức độ siêu phàm nhập thánh thì chẳng cần phải đánh giết ai mà cũng làm cho chúng nhân hàng phục và còn cảm mến vì đức hiếu sinh của Tâm hồn đã hoà cùng Thiên Địa.

Con Người là một toàn thể được hiểu là một kết hợp bao gồm ba phần Thân, Tâm, Trí và sự tồn tại của một cá nhân ở trong cuộc đời không thể thiếu một trong ba yếu tố nầy:
- Thân phải được nuôi bằng thực phẩm bổ dưỡng để khoẻ mạnh, sinh tồn, phải được thường xuyên luyện tập để Mạnh. Sự suy nhược, bệnh hoạn là những trở ngại đầu tiên hạn chế sự sống.
- Trí phải được phát triển bằng kiến thức, vì biết là trục của sống, sức sống và giới hạn sự sống tỷ lệ thuận theo cái Biết. Sự biết càng nhiều sâu xa và đa diện thì sự sống, cuộc đời của cá nhân đó càng phong phú, càng cao rộng bao la…Một trí thức hẹp hòi thì tầm nhìn cũng thiển cận và do đó vũ trụ bao quanh cũng thu nhỏ như miệng giếng qua cái nhìn bó chặt của con ếch ngồi nơi đáy giếng…!
- Tâm là chủ của Thân và Trí, nơi phát xuất của thất tình, chổ biểu lộ của ý chí, Tâm cũng phải được nuôi dưỡng bằng những lý tưởng cao đẹp, những tình cảm đôn hậu đầy nhân ái…không thể thả buông thả bông lông như ngựa hoang, trôi bồng bềnh như thuyền lạc bến. Tâm phải có chủ đích, Chí là nơi đến của Ý Tưởng. Không chủ đích, thiếu ý tưởng thì Tâm làm sao đìều động được sức của Thân, Lực của Trí mà mong nên công trạng, sự nghiệp. Đó là những người sống trong mê, chết trong say. Không tạo được một lợi ích nào cho chính bản thân, thì nói chi xa vời tới gia đình, tông tộc, xã hội, quốc gia…!

Tiến Trình Của Võ Đạo: Khởi điểm từ cái Ta với cái Tâm. Người ta có nhiều lý do để đến với Võ Học, mỗi lý do đều biểu lộ những mức độ giác ngộ cá nhân khác nhau về sự ứng dụng của Võ. Đa số đều nhìn Võ ở khía cạnh Thuật dùng để luyện Thân ngõ hầu mong đạt được Võ, được sống khoẻ mạnh, hưởng hạnh phúc một đời ít bệnh, vô bệnh tật, nghĩa là Võ Thuật được quan niệm như một bộ môn thể dục: vận động thân thể cho có sức khoẻ hoặc thể tháo: vận động thân thể theo những qui tắc đã định rõ. Có người học Võ để tự vệ chống lại những áp bức của những kẻ côn đồ ỳ mạnh hiếp yếu. Có người học Võ với Đại Nguyện là để lập thân và giúp đời, phò nguy cứu khốn. Tất cả nhũng lý do đều tốt và ơn ích của Võ học đem lại được nhiều hay ít cũng tuỳ theo tài năng của từng cá nhân qua thời gian và công phu luyện tập. Đường dài tất phải đi lâu. Đích cao tất phải bền chí. Thân phải luyện để có được thủ pháp, thân pháp linh hoạt…Trí cũng phải luyện để nhìn được cái lý nhất quán của Tam Tài bao gồm đủ Thiên-Địa-Nhân để từ đó mà giác ngộ hoà hợp trong Thái Dịch cái ngô tâm và cái vũ trụ chi tâm. Cái Nội và cái Ngoại, cái Tiểu Ngã hữu hạn và cái Đại Ngã mênh mông vô cùng theo cách thức: Nhân Pháp Địa, Địa Pháp Thiên, Thiên Pháp Đạo. Ở mức độ thượng thừa nầy Võ Đạo không còn phân biệt Đông Tây, không bị lệ thuộc vào màu sắc địa phương mà trở thành kiến thức quí báu chung cho cả nhân loại. Kiến thức đó phục vụ cho cả loài người trên con đường tu tập để tiến hoá không ngừng, làm chủ chính mình để rồi chinh phục Nhiên Giới, sắp xếp lại Nhân Giới cho nơi… nơi được ổn định, cho người…người được an lạc, tự tại, thong dong sống một đời nội thánh ngoại vương theo lý tưởng Nhân làm Chủ cao đẹp: “ Nhân Linh Ư Vạn Vật”.
Và những bậc Tổ Sư đã thành đạt trong Võ Đạo, với cái Tâm hư không, với tấm lòng rộng mở ra với đời có lẽ đâu còn chấp chước với những mê lầm, hạn hẹp để phân chia so đo, kèn cựa như những kẻ thường nhân.
Do quan niệm truyền thống Á Đông đề cao sự hài hoà nhu thuận trong mối tương quan xã hội nên Lễ Nghĩa là bài học đầu tiên của kẻ nhập môn thọ giáo dù là học Văn hay Võ. “Tiên Học Lễ Hậu Học Văn” là vậy! Đạo Trường, Võ Phái nào cũng có những Môn Quy riêng để Môn Sinh theo đó mà sinh hoạt cho đúng cách. Dù dài ngắn khác nhau, khó dể không đồng đều, nhưng tất cả những điều tâm niệm đúc kết trong môn quy đều không ra ngoài Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ, thành những bậc Đại Nhân, Quân Tử, Thánh Hiền…

Quân Sư Phụ: Là một Ý Niệm đặc biệt của Á Đông đề cao công nghĩa trên tư tình, tập thể trên cá nhân. Bậc Quân Chủ được trọng vọng bởi vì Tài Đức khéo nuôi đưọc trăm họ, tạo được sự an cư lạc nghiệp cho muôn dân được an vui. Bậc Sư Thầy được tôn kính bởi vì có công dạy dỗ, đào tạo những tài năng xuất chúng trong công nghiệp an bang tế thế. Còn song thân Phụ Mẫu là bậc sinh thành có công nuôi dưỡng, so với Cha Mẹ, công Thầy Sư cao hơn một bậc. Không có thầy khai trí dạy bảo làm sao có được bản lãnh hơn đời để dương danh cùng thiên hạ làm đẹp mặt Cha Mẹ, Giòng Họ. Cũng vì vậy mối tình Thầy-Trò thật là thắm thiết. Dù phiêu bạt giang hồ tứ xứ môn sinh thường hằng năm trở về qui tụ dưới mái Đạo Trường để vấn an hay chúc thọ Thầy, hoặc giả nếu Ân Sư đã mãn phần, tiêu dao cực lạc, đồng môn huynh đệ quay quần tưỏng nhớ công đức tiền nhân. Đã có những người công thành danh tọại, đưòng hoạn lộ thênh thang, vinh hoa nơi chốn triều đình nhưng khi nghe tin Thầy quá vãng đã xin từ quan lui về cư tang để cho tròn Ân Nghĩa. Do đó cũng thật dễ hiểu, đối với môn sinh của Danh Gia Chính Phái, tội danh nặng nhất là:”Khi Sư Diệt Tổ” với hình phạt thật khắc nghiệt là tử hìnhvà bị khai trừ ra khỏi Võ Phái chịu sự khinh khi của Võ Lâm Đồng Đạo.

Mối Tương Quan Sư Đệ: Là mối tương quan hai chiều. Ở đệ tử là sự quyết tâm tầm Sư học Đạo. Còn nơi Sư Phụ là mong tìm kiếm được đệ tử có căn cốt, cơ duyên…để trao truyền sở đắc của cả đời công phu nghiên cứu luyện tập. Chuyện tích “Trương Lương Hiến Hài” được kể là một điển hình của mối tương quan hai chiều nầy. Trương Lương người nước Hàn, giòng dõi quí phái năm đời kế tiếp nhau làm Tể Tướng. Khi triều đại nhà Tần thống nhất trị vì thiên hạ, nước Hàn bị diệt, Trương Lương nuôi chí phục quốc, trả thù nhà, nên bán hết cơ ngơi đìền sản, tư trang thu lấy tiền để mưu cầu việc lớn. Khi nghe Tần Thuỷ Hoàng xuất cung du thưởng lãm cảnh đẹp quanh vùng, Trương Lương đã cùng với mấy đồng chí, mình giắt dao nhọn, chuỳ đồng nằm phục bên đường chờ đợi xa giá Tần Thuỷ Hoàng qua sẽ cùng vùng lên xông vào ám thích Tần Vương. Nhưng việc bất thành, Trương Lương phải cải dạng lẩn trốn. Trên bước đường bôn tẩu, một ngày đẹp trời Trương Lương gặp Hoàng Thạch Công dưới hình dạng là một lão Hủ cưỡi lừa đi tới, hai bên đi nghịch chiều nhau trên con đường nhỏ chênh vênh cạnh một dòng suối. Giữ Lễ tôn kính bậc trưởng thượng, Trương Lương nép mình vào vệ đường nhường chổ cho lão Hủ cưỡi lừa đi qua rồi mới tiếp bước. Trong lúc nhường tránh lối đi cho nhau, lão Hủ lúng túng quơ chân làm rơi một chiếc hài xuống vách đá kề bên giòng suối. Không một chút ái ngại, lão Hủ đưa tay vẫy gọi Trương Lương lại, chỉ vào chiếc hài rách mà nói:”Nầy tiểu tử, hãy lượm lại hài cho ta…”! Không quản khó chịu vì thái độ ngạo mạn của ông lão quê mùa, Trương Lương cẩn thận leo bám xuống vào vách đá cheo leo nhặt chiếc hài rách được rồi, lễ phép cung kính quì dâng đưa hài cho lão Hủ. Thản nhiên lão Hủ buông thỏng một câu:” À...thằng nhỏ nầy dạy được đây…”! Nghe nói, Trương Lương vội thi Lễ vòng tay, khấu đầu xin được chỉ dạy.Lão Hủ xua tay hẹn vào buổi tối khi trăng lên. Đúng hẹn, tới nơi Trương Lương đã thấy lão Hủ ở đó tự bao giờ! Lão Hủ đã lớn tiếng mắng Trương Lương là vô lễ vì đã để cho bậc Trưởng Thượng chờ đợi ! Lão Hủ xua đuổi Trương Lương trở về và hẹn lại đêm hôm sau vào lúc nữa khuya trăng xế. Lần thứ nhì nầy Trương Lương đến nơi hẹn sớm hơn một trống canh. Nhưng lạ thay ! Lão Hủ cũng đã hiện diện tại nơi hẹn tự bao giờ ? Lại một lần nữa Trương Luơng bị khiển trách thậm tệ…rồi lão Hủ ban cho Trương Lương lần hẹn nữa vào đêm hôm sau! Ngày hôm sau Trương Lương đến thật sớm từ khi mặt trời chưa khuất bóng, kiên tâm chờ đợi… Lão Hủ xuất hiện vào lúc nửa khuya và Trương Lương được Thầy thu nhận làm Đệ Tử. Nhờ được sự chân truyền giàng dạy của Hoàng Thạch Công, Trương Lương đã có được Tài năng, bản lãnh xuất chúng hơn đời, trở thành một nhân vật lỗi lạc …phò Lưu Bang diệt Tần lập nên nhà Hán, danh thơm lưu hậu thế…!

Với quyết tâm “Tầm Sư Học Đạo”, Trương Lương đã làm tất cả những gì bất kể khó khăn cực nhọc để được thu nhận làm Đồ Đệ của Hoàng Thạch Công đã thể hiện :”Không Thầy Đố Mầy Làm Nên”!

Với tâm trạng “Chọn Mặt Gởi Vàng”, ước mong tầm được một truyền nhân để ký thác những tâm đắc, sở đắc… của cả đời tu luyện, Hoàng Thạch Công đã thử thách bản chất và tư cách của Trương Lương trước khi quyết định thâu nhận làm đệ tử. Trương Lương biết nhường bước cho bậc trưởng thượng là Lễ, biết và có thái độ giúp đỡ người già yếu khi xuống vách đá thu nhặt chiếc hài rách cho Hoàng Thạch Công là Nghĩa, biết giữ đúng hẹn là Tín, bị sĩ nhục vô cớ mà không phẩn nộ, nhẫn nhịn để hoàn thành tâm nguyện là Trí. Hoàng Thạch Công đòi hỏi môn đệ phải có đủ Lễ-Nghĩa-Trí-Tín là một đòi hỏi cao nhưng chính đáng của những bậc Sư Phụ thận trọng, ý thức được sự liên đới trách nhiệm mà mình phải nhận lãnh trên hành động tương lai của đám môn sinh mà mình ra công đào tạo. Hình phạt “Tru Di Tam Tộc” xưa còn bắt tội cả người Thầy truyền dạy tài năng cho nghịch tặc, phản đồ làm nhiểu loạn phương hại cho Quốc Gia Xã Tắc ! Đó cũng là cái lý do giải thích tại sao nhiều môn học tuyệt kỹ của Đông Phương bị mai một thất truyền.. ! Nhiều bậc Tôn Sư nếu không tìm được truyền nhân có căn cơ duyên đành chịu cảnh “Tuyệt Tự, Tuyệt Học” tinh thần, cam lòng để sở học mai một chứ nhất định không chịu thâu nhận những đệ tử không đủ tiêu chuẩn ! Để biết người Cổ Nhân thường có nhiều phương cách như áp dụng khoa Lý Số, Tướng Mệnh…Nhưng tạo ra những hoàn cảnh đặc biệt để thử thách trực tiếp một người với những ứng biến cấp thời qua ngôn ngữ hoặc hành động vẫn là phương pháp hay nhất. Nó cho ta nhìn được bản chất, bản lãnh của đối tượng một cách chính xác. Đó là xét người bằng Tâm Tướng, Thần Tướng, tránh được những sai lầm của phép chỉ xét bằng Hình Tướng giới hạn mà thôi.

Tài Năng: Là điều ai…ai cũng yêu thích và tìm kiếm. Trong thực tế, kẻ có tài năng xuất chúng tất có danh vọng, địa vị, quyền thế…những thứ mà lòng người mê luyến, ái mộ…! Tuy nhiên, với xã hội Á Đông vốn trọng Lễ Nghĩa, yếu tố Tài Năng được đặt sau yếu tố Đức Hạnh, yếu tố Bản Chất phải trên trước yếu tố Bản Lãnh. Những thành ngữ, phương ngôn như:” Tốt Gỗ Hơn Tốt Nước Sơn” hoặc “Cái Nết Đánh Chết Cái Đẹp” chỉ là những cách diễn đạt linh động theo thực tế của tinh thần trọng công ích hơn tư lợi, được kết tinh qua những nghi thức sinh hoạt Lễ Nghĩa. Nhìn xa và so sánh thái độ dứt khoát lựa chọn đặt Đức Hạnh trên Tài Năng của xã hội Á Đông xưa có những nét tương tự với Ý Niệm “Safety First” của xã hội kỹ thuật Tây Phương là An Toàn cho cá nhân và tập thể phải được đề cao với ưu tiên đệ nhất, hoặc ý niệm “Vô Năng Lực” được áp dụng trong luật pháp để triệt tiêu quyền hành xử của một cá nhân nào đó nếu xét ra là họa hại xảy đến cho đương sự và những người sống kế cận. Đức Hạnh như một bảo đảm tất yếu cho tài năng không bị xử dụng cho những ác thế lực gây hại cho xã hội. Do đó, có Tài Năng nhưng phải có Đức Hạnh. Tài càng cao, Đức càng phải to lớn để làm nền tảng của sự bảo đảm an toàn cho tập thể càng phải được vững chắc và đây chính là tiêu chuẩn căn bản để phân biệt Chính-Tà, Thiện-Ác…Những kẻ tà, ác theo hắc đạo đều là phường “Hữu tài vô hạnh” lợi dụng cái tài năng hơn người cho những lợi ích riêng tư cá nhân, của bè phái. Chúng hành xử theo tư dục mà không kể đến công tâm, thiên lý. Tài càng cao, Đức phải càng lớn để dung chứa, Vị càng trọng mà vô Đức càng tạo nên những tai hoạ to lớn! Những tên đại gian, đại ác phạm những trọng tội như buôn dân, bán nước, làm đảo lộn cương thường, loạn xã hội …đâu phải là những “tay” mơ, bất tài, vô tướng…! Chúng đều thường có hình tướng tốt, tài năng hơn người, nhưng cái Tâm lại không được uốn nắn theo đạo lý, nuôi dưỡng theo nhân luân, mà lại để phóng túng chạy theo tư dục, tà ý, đi vào con đường bất nghĩa, phi lễ, vô liêm sĩ…!

Học Võ: Ai…ai cũng mong đạt mức thượng thừa, dương danh chốn võ lâm, thành những bậc Tôn Sư khả kính. Đó là một con đường dài đòi hỏi nhiều năm trường dầy công phu hàm dưỡng tu luyện và con đường dài đó thiệt lắm chông gai nhiều kẻ đi mà ít người tới đích…Tuy nhiên người học luyện Võ sẽ có được những lợi ích thực tế như thân thể cường tráng. sức lực hơn người, lòng tự tin, tinh thần dũng cảm, phong thái uy nghiêm, lối sống có kỷ luật…Mức độ cao thấp của những phẩm tính vừa nêu ra vào công phu luyện tập toàn diện Thân-Tâm-Trí của từng cá nhân. Luyện Thân thì sẽ có Thân Pháp siêu quần, luyện Trí tức có sự linh động, quyền biến, còn luyện Tâm sẽ có được Ý Chí cương quyết nhưng nhu hoà thuận lý. Trong ba thứ trên luyện Tâm là khó nhất và đòi hỏi công phu tu tập dài cả một đời người, đôi khi lại hư hỏng vào phút cuối chỉ vì một phút cạn nghĩ…! Điền Vi, Hứa Chữ là hai nhân vật Võ nổi danh thời Tam Quốc, được Tào Tháo tin yêu luôn giữ bên mình cũng bởi vì có Tài năng. Chỉ vì một chút yếu lòng mà Vu Cấm trở thành hèn nhát trước cái chết mà thù địch đưa ra ép mình nên đã xin hàng dù là tạm thời. Sau Tào Tháo tha cho không giết, nhưng cho vẽ hình biếm họa cảnh Vu Cấm phủ phục xin tha chết để làm gương cho thuộc hạ về cái vô liêm sĩ của kẻ làm Tướng mà thiếu đức Dũng ! Tiêu chuẩn là:”Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục”(Thà chết chứ không chịu nhục)! Đạo làm Tướng.

Trong Lịch Sử Việt Nam: Những sự kiện những Vị Võ Tướng có Tài năng siêu xuất cứu nước, phò nguy như Ngô Quyền với Trận Chiến Trên Sông Bạch Đằng Thắng Quân Nam Hán, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đuổi giặc Hán ra khỏi bờ cõi, Bà Triệu Thị Trinh là Nữ Tướng Soái Nước Việt với tuổi 16 đã khởi binh đánh dẹp giặc Tàu, Lý Thường Kiệt với công trạng Phạt Tống Bình Chiêm, Vua Đinh Tiên Hoàng đã Thống Nhất Loạn Mười Hai Xứ Quân, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn với những chiến công hiển hách đại thắng quân Nguyên Mông, Vua Quang Trung với tài thao lược dụng binh thần tốc đã đánh tan giặc Thanh, …như Hoàng Diệu đã thắt cổ tuẩn tiết khi để thất thủ Thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương xé toạt vải băng bó vết thương do Pháp chữa trị để được chết, Trần Bình Trọng khí khái khước từ trước sự chiêu dụ của giặc Tàu mà Tuyên Ngôn:” Ta thà làm quỉ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc”…và còn nhiều nữa …Chỉ là hành động ứng dụng được bốn Chữ: Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ mà kẻ theo Nhân Đạo, Đạo làm Người cho dù là bằng con đường Văn hay Võ đều phải tuân theo. Cũng bởi vì theo Nhân Đạo nên Á Châu (Đông Phương) có tập tục Thờ Anh Hùng, Liệt Sĩ, những Nhân Thần, những Người đã hoàn thành Nhân Cách theo tiêu chuẩn Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ làm nên những công trạng ân ích cho Quốc Gia-Dân Tộc là gương soi sáng cho hậu thế noi theo.

ThầnVõ Bất Sát: Là mức độ tuyệt vời. đạt Đạo. Người đạt mức độ đó sẽ không có đối thủ là vì Tài Năng hơn người đã quá rõ ràng không cần động thủ để phân thắng bại. Tuy nhiên Tài năng siêu quần chưa đủ, cần phải có tấm lòng đôn hậu, rộng rãi bao dung, lượng thứ được cả với kẻ thù khi họ ngã ngựa, thất thế…biết trở về Chính Đạo. Chỉ có tấm lòng cao rộng như trời biển, lấy Đức Hoà Thuận, Hiếu Sinh…làm đầu, chứ không phải tham vọng dành tước hiệu “Võ Lâm Chí Tôn” hoặc “Bách Chiến Bách Thắng”…mới có thể biến hoá Thù thành Bạn, cảm hoá được ác tính, tị hiềm gây ra bởi hư danh và tư lợi thường tình trong thế nhân.

Thắng Chúng Nhân: Nhất là thắng những đối thủ tài năng là một điều không dễ. Những cuộc so tài, thử sức rất là cam go có thể đến độ sinh tử, nhất là khi cuộc giao đấu được xem là để giải quyết vấn đề danh dự của cá nhân hoặc môn phái…Nhưng xét ra còn dễ hơn là thắng đuợc chính mình…So sánh về mức độ thời gian thì thắng người chỉ là những Trận Chiến trong một Cuộc Chiến để tự thắng với mục đích để Thành Nhân Chi Mỹ, thành Người có tư cách cao đẹp. Để xét về sự thành đạt nầy người xưa đã đưa ra ba tiêu chuẩn như sau:
-Uy Vũ Bất Năng Khuất: Không hèn nhát trước bạo lực của kẻ thù cho dù phải chết.
-Bần Tiện Bất Năng Di: Dù nghèo đói vẫn giữ lý tưởng an bần, lạc đạo.
-Phú Quí Bất Năng Dâm: Giàu sang không vì vậy mà mất điều độ trở thành kiêu sa.

Đây là những thử thách khó khăn nhất để thử thách tiêu chuẩn Lễ Nghĩa, Liêm Sĩ của một Người tương tự như Vũ Môn dành cho loài Thuỷ Tộc trong cuộc vuợt thi để được Hoá Long. Cuộc thi thật khó khăn với những cố gắng kéo dài cả đời, đôi khi phải đến độ Sát Nhân để Thành Nhân ! Xét cho cùng…cũng chỉ bởi làm Người có Nhân Cách không phải là một đìều dễ !

Sơ lược về tinh thần của Võ Phái Thần Phong sinh hoạt ở Võ Đường Thần Phong trong nền tảng Võ Đạo Đông Phương cho dù chỉ Xuất Nhân từ năm 1966 đến 1975 …Nhưng những Võ Sư của Võ Đường đã hướng dẫn Võ Sinh thuộc Võ Đường Thần Phong không chỉ ở phần huấn luyện Võ Thuật mà còn giảng huấn nêu cao Tinh Thần Võ Đạo Đông Phương chính là một hình thức Tu Tập mà khởi đìểm là cái Ta bao gồm đầy đủ Thân-Tâm-Trí song hành …Tiến trình nầy chính là sự kết hợp và phát triển hoà giải những thành phần khác biệt đến độ đối chọi với nhau trong bản chất, nhưng lại cần thiết trong việc bổ túc lẫn nhau để làm nên một toàn thể độc đáo là từ những Võ Sinh sơ cơ ban đầu được nung đúc Tinh Thần Võ Đạo Đông Phương là Con Người nói một cách khác đó là tiến trình thăng hoa, biến thể của Âm-Dương, Ngũ Hành vận chuyển chu lưu trong vòng Tiểu Chu Thiên của cơ thể đi từ Hữu Hình sang Vô Hình, lên cao qua những mức độ như vật thực được tiêu hoá để sinh Huyết, Huyết sinh Khí, Khí sinh Thần. Đừng xét cái mâu thuẩn phiến diện bề ngoài giữa Võ, lấy thế lực làm chính, lấy cái thắng thế chế ngự, đã thương, giết tróc, sát hại làm Uy kết hợp, một cách kết hợp kỳ lạ với Đạo, lấy sự hài hoà trật tự làm căn bản, lấy cái lý tự nhiên làm nguyên tắc để tất cả Người-Vật, Cây Cỏ…vạn vật đều phát triển hợp lý trong môi sinh được gọi là Thế Giới, là Vũ Trụ nầy. Đó là sự mâu thuẩn cần thiết của Nguyên Lý Âm-Dương căn bản khi xét như hai thành phần riêng biệt. Nhưng trong tiến trình kết hợp thống nhất để làm nên một toàn thể thì chống lại và nâng đỡ cho nhau và bổ túc cho nhau vì: Cô Dương bất sinh, cô Âm bất trưởng ! Nói khác đi Võ chỉ là một khởi điểm, một trợ duyên giúp Ta tìm được Đạo lớn: Nhân Đạo, Đạo làm Người…mà đã là Người ai…ai cũng phải hoàn tất để Thành Người. Võ Sư, Võ Sinh… của Võ Phái Thần Phong từ trong Nước Việt Nam vào thời điểm khởi đầu năm 1966 đến 1975 và tại hải ngoại từ sau năm 1975 mãi cho đến hiện tại tháng 12-2011 đã sinh hoạt trong môi trường Võ Thuật… Nhưng những Võ Sư Xuất Sư từ Hệ Thống Võ Phái Thần Phong nguyên thuỷ luôn song hành giàng huấn Nguyên Lý Võ Đạo Đông Phương và Kỹ Thuật Võ Thế đạt Tinh Thiện Xảo truyền thừa cho Võ Sinh để thành toàn đóng góp nhân tài cho nền Võ Đạo Đông Phương. Mong lắm thay.
Ban Tu Thư Võ Đường Thần Phong

Võ Sư Đinh Thạch On,Võ Sư Trần Như Đẩu,Võ Sư Lê Đình Thuận,Võ Sư Cát Văn Khôi,Võ Sư Nguyễn Đăng Đức,Võ Sư Lê An Ninh,Võ Sư Bùi Văn Chúc,Võ Sư Trần Bảo Lộc, Võ Sư Bùi Văn Tạc, Võ Sư Nguyễn Văn Ngọc,Võ Sư Kim Phúc Nam,Võ Sư Nguyễn Văn Lợi,Võ Sư Trương Văn Nhiều,Võ Sư Huỳnh Văn Phúc,Võ Sư Nguyễn Ngọc Diệp, Võ Sư Đỗ Thành Hưng, Võ Sư Nguyễn Lục Phú,Võ Sư Nguyễn Xuân Tính, Võ Sư Trương Nguyên Thuận,Võ Sư Trần Văn Lạc,Võ Sư Hoàng Thuỵ Thông,Võ Sư Trịnh Khải Hoàng,Võ Sư Lê Văn Xuân,Võ Sư Trương Bích Vệ, Võ Sư Huỳnh Phi Hùng, Võ Sư Trương Đông Giang, Võ Sư Phan Hồng Hổ, Võ Sư Michael Hoà Vũ, Võ Sư Nguyễn Văn Tấn, Võ Sư Phan Cao Trí, Võ Sư Cao Hoàng Nam, Võ Sư Roy Grills, Võ Sư Mai Thanh Long, Võ Sư Trần Quí Chiến.

Thành Kính Tưởng Niệm
Thành Kính Tưởng Niệm Những Võ Sư Thần Phong Đã Từ Biệt Thế Gian: Võ Sư Nguyễn Trúc Lân, Võ Sư Lê Văn Châu, Võ Sư Phan Văn Đức, Võ Sư Lâm Hal, Võ Sư Nguyễn Văn Vạn ! Quí Vị Đã Lưu Lại cho Huynh - Đệ, Bằng Hữu, Đệ Tử,…Thần Phong những Ân Tình Lưu Luyến…Nghĩa Tử Nghĩa Tận:

Nếu xưa là hạt là sương
Thì nay như khói vô thường bay đi
Ta chưa luyến ái điều gì
Ví như huyễn mộng trần gian xá gì…!

Thôi hãy bay đi Cánh Thần Phong đã một thời lướt gió:

Đàn chim dù bay càng xa ngàn phương…cũng rồi vùi thân đời quên lấp chìm…!

Phất tay phủi nợ trần gian nhé
Dậm lý về mái tóc vẫn xanh…

Vâng, Thế Hệ Hậu Duệ của Võ Sư Niên Trưởng Thần Phong đã và đang là Võ Sư, Võ Sinh vượt qua biên cương Quốc Gia Việt Nam, phát triển đến Hãi Ngoại với hành trang Văn Hóa Võ Thuật tô điểm xứ người hy vọng sẽ làm rạng Danh Việt Nam.

Trọng Kính
Trịnh Khải Hoàng

hoangminhuyen
10-25-2012, 06:49 PM
Thiên Trúc Hạc


Trịnh Khải Hoàng

Núi Ngũ Lĩnh buổi sớm mùa Xuân khi lũ Hạc hãy còn mãi mê điểm những giọt sương tinh khiết động trên nhánh Tùng xanh biếc. Thầy trò lão Đạo Sĩ ngồi kiết già tĩnh tọa trên phiến đá hoa cương: Một già vận đạo bào trắng, râu tóc bạc phơ, người trẻ là thiếu nữ tuổi chừng đôi tám vẻ đẹp thanh tú, dáng ngọc, thân thanh thoát khinh an nhẹ nhàng phảng phất Tiên Nữ quý cách trong y lụa màu hoàng yến…Lão Đạo Sĩ cất tiếng giọng trầm và rõ:
- Việt Nữ con, ... Hãy quán Tâm an trú tại Đan Điền, dụng Ý dẫn Khí đến cánh tay thấu suốt thân kiếm ... kiếm khí phóng đi vô tận hư không ...

Thiếu nữ đứng lên xoay chuyển: Thân, Thủ, Bộ, Pháp, Trụ, Tấn, hướng kiếm chênh chếch đỉnh núi. Tiếng nàng trong suốt như ngọc phỉ thúy phong linh nhã nhạc ở cõi Trời Sắc Giới:

- Bạch Sư Phụ ... Thân kiếm là cánh tay nối dài ý kiếm hội nhập Thân Tâm, kiếm khí vút tận hư không đo Âm Dương ...
Lão Đạo Sĩ đắc ý cười phất phơ chòm râu bạc bay nhẹ trong gió sớm!

- Hà ... hà ... Tuyệt! Ta đã biết ... Việt Nữ, con khá lắm! Nào, bây giờ con hãy thu thúc Tâm Thức rồi trải rộng chung quanh thân. Quán mọi động tĩnh để khắc chế, điều phục trong tầm xa một trượng, hai trượng, ba trượng, mười trượng, hơn nửa và mười phương …

Thiếu Nữ trụ tấn yên lặng, đôi mắt khép lại vừa đủ khuất ánh sáng. Tâm Thức như tịch tỉnh, nhưng vòng quán niệm chu tri và Tuệ giác buông tỏa trãi rộng lan dần đầy khoảng không gian mười phương bao phủ chung quanh nàng như tinh cầu vi diệu…tiếng lá rơi lững lờ rớt nhẹ trên mặt đất, giọt sương gieo ngọn cỏ … mọi động tỉnh nàng đều biết được trong tầm Tâm quán trãi rộng và lưỡi kiếm luôn chực chờ phóng vút đi để kết liễu mọi vật gì sẽ làm va chạm đến thân nàng…Bỗng … “Xoẹt” ánh kiếm lấp loáng phóng tới như sao băng chém đứt lìa nhánh Tùng trên tay lão Đạo Sĩ thành nhiều đoạn mà lão vừa khẻ động cổ tay xuất chiêu định tấn công nàng cách ngoài mười trượng. Kiếm Pháp tinh luyện, nhanh, phẳng, sắc bén không để lại chút xơ nơi vết cắt của cành Tùng xanh tươi vừa rơi xuống thảm cỏ .

- Tuyệt! Tâm quán hư không, băng bộ như chớp, kiếm pháp tinh nhuệ. Con đã đạt của ta Tĩnh Tuệ Kiếm Pháp mất rồi!
Lão Đạo Sĩ gật gù khen ngợi, khiến vẻ mặt Thiếu Nữ hân hoan, rạng rỡ như hoa đào xinh tươi trước vầng dương vừa nhô lên đỉnh núi.
- Sư phụ quá khen! Con chỉ cố gắng thôi…!
Có chút nũng nịu thâm tình trong lời nói của Thiếu Nữ .
- Việt Nữ, Con nhìn … để quán, nghe … nhập tâm. Ta sẽ diễn và đọc khẩu quyết truyền dạy cho con Lục Chiêu Thái Cực Kiếm Pháp của giòng phái Việt Tiên Đạo ta. Con hãy dụng tuệ giác mà lãnh hội. Ta xuất chiêu đây:
Lão Đạo Sĩ bật gươm ra khỏi vỏ, ánh thép xanh biếc ngời sắc lạnh. Người và kiếm tiến thoái nhịp nhàng, uyển chuyển như phượng múa rồng bay, có lúc kiếm pháp rơi lững lờ chao lượn như lá vàng trước gió, đôi khi luân vũ như giải lụa kiếm quang bao che phủ cả một góc trời … Lũ Hạc ngơ ngẩn nhìn có con vỗ cánh kêu “oắc…oắc” ắt hẳn thích thú xem lẫn kinh thần lạc thể!

Tiếng lão Đạo Sĩ giảng khấu quyết xen lẫn trong gió kiếm âm thanh trầm bỗng vang nhẹ núi rừng:
- Nhất kiếm ỷ thiên hạ: Kiếm không Khách với Hình, không chủ ở Ý . Tâm không nệ thua, Tánh không sợ chết.

Thời: Phát huy toàn vẹn được Tinh Hoa kiếm pháp.
Nên: Khí thế không ngưng trệ ở cổ tay và Thần thức không thu động ở mắt. Hình kiếm không thực. Ý kiếm không hư .
Đối Thủ: Lấy hư thực phiếm luận mà đo lường khinh trọng ắt chuốc lấy thất bại!

- Bạch Mai Phất Vũ: Kiếm thủ ngang phóng đi chênh chếch. Thượng Vị hội Thần, Hạ Vị gom Ý . Thần thức thu liễm ở Ý , hành Hỏa , bộ Càn, xuất thủ nhanh, cổ tay chùn, bật kiếm nương bộ Khôn.

- Tán Hoa Nữ: Kiếm rơi hình lững lờ … Ý bộc Khí bao phủ quanh. Địch tiến ta cùng tiến sơ hở ở tinh Hư .

- Diệp Thùy Ấm: Ý hợp Lưỡng Nghi nên không tận … Chiêu Tán Thái Hư nên không cùng … Giữa cái buông thỏng không Ý, không Chiêu hình thành nên: Đạo Thái Cực thì không không tận … không không cùng … ở cái rõ rệt mà chế lửng lờ không. Khi mà ta Tịnh địch Động thì lấy Thổ thức làm gốc.

- Điểm Lập Thiên Tà Phi Quỳnh: Xung hư tụ Khí, Kiếm hư tụ Sắc, Thái Hư tụ Thần, Âm hư tụ Tinh. Hội nhập lại ở một vị trí lả lơi của nàng Phi Quỳnh chân chuyển Địa Hỏa, thân đo Âm Dương.

- Nhị Hợp Phong Vân Kiếm: Hình hội với Ý đắc dụng được Tinh. nhưng Khí bị khoấy, Thần cô động. Tiện dụng về Thủ. Ý hội với Khí đắc dụng Tinh và Thần hình nên lửng lờ. Tiện dụng về Công.

Ý chừng Thiếu Nữ đã liễu ngộ và thu thập xong kiếm pháp. Lão Đạo Sĩ ngừng tay gươm. Thầy trò đến ngồi trên phiến đá cũ. Giọng ôn tồn lão lý giảng cùng Thiếu Nữ:
- Việt Nữ con! Hãy lắng nghe ta dẫn giải Lý nhập Kiếm Đạo mà con đã chuyên luyện bấy lâu nay … Kẻ học luyện Kiếm Đạo phải thấu đáo: Thần luôn Toàn. Khí Tiên Thiên vốn Chân mà khí Hậu Thiên thường Bất Túc. Kiếm là hình của Khí. Vì thế trong phép luyện kiếm xem Khí là chủ, Ý là khách, Chiêu thức là trở ngại …! Chiêu thức biến hóa do Ý kiếm và Ý kiếm cũng chỉ mượn Danh để diễn đạt kiếm Khí, mà kiếm Khí kết động từ Thần. Việt Tiên Đạo ta xem luyện kiếm như Tu Thân: Bao nhiêu vọng tưởng ngủ ngầm trong Tâm như: si mê, chấp nê vào pháp, tham lam nôn nóng thành tựu, tàn bạo, sân hận, thiếu đức hiếu sinh đều được xem là thể Trược của Tâm...! Ý là khách: Chỉ là cái bề ngoài huê dạng của vạn vật. Những gì rõ ràng như nhất, thường không được người đời cũng như kẻ luyện kiếm sơ cơ ham chuộng. Họ chỉ thích và mê tưởng những chiêu thức kiếm biến hóa trùng trùng hư ảo như long phi phượng vũ … Biến hóa càng kỳ diệu, được xem như tuyệt chiêu sở đắc …! Bản ngã này dù to hay nhỏ đều là trở ngại khiến không thể hóa đặng nên Kiếm Khí. Nhưng mãi lo diệt Ngã, Ngã càng vi tế đến mức không nhận định được nửa … rồi mê lầm tưởng đã đạt đến vô ngã tối thượng … Cũng chỉ là cột thêm lớp dây trở ngại ràng buộc mà thôi! Hầu hết những Võ Sĩ Đạo, Kiếm Sư, Hiệp Khách Giang Hồ,… đều từ khởi niệm lệch lạc này mà si mê miên man trong giấc điên đảo mộng tưởng đại ngã trong Chân Đế vô ngã vậy…!

Lão Đạo Sĩ ngừng nói, dùng gậy trúc vẽ trên phiến đá hình Thái Cực rồi giảng tiếp:
- Con nhìn xem trong hình tượng của Thái Cực, ở khoảng giữa giao nhau của Âm- Dương là chổ không trắng, không đen, để đo lường và cân bằng hai cực. Bởi vô minh khởi Niệm lệch lạc mà bên tiêu, bên trưởng!... Lý: Thừa khí Động Tỉnh sinh Âm-Dương, càng tiêu trưởng mà nên Hậu Thiên. Lý: Âm-Dương chi phần vi Thiên Địa. Vậy những gì ta nói con nên hiểu theo lẽ ngược xuôi: Thái Cực, Thái Hư, Thần sinh Khí; Thái Hư, Vô Cực hoàn hư Thần. Luyện Tinh hóa Khí, Khí hóa Thần. Khí hội tuần Nguyên: Tam Hoa kết thành tụ Đỉnh. Khí là linh hồn của vạn vật bàng bạc khắp nơi … Luyện Khí để nhập Thần, Thần Minh thì hòa cùng Trời Đất mà nên Đạo vậy. Với những Hành Giả nhập Thiền Định, Ngũ Uẩn: Sắc Pháp, Danh Pháp: Thọ, Tưởng, Hành, Thức lắng động ví như ngọn đèn tắt. Tâm khinh an lạc tự bản chất không là trở ngại. Nhưng Tâm dính mắc vào an lạc lại là trở ngại! Hiểu thấu tính chất này là Trí Tuệ nhưng ngay cả Trí Tuệ Minh Sát Tứ Đại Niệm Xứ: Tâm, Thọ, Thân, Pháp cũng là vô thường, khổ não, vô ngã …lại nữa dụng Tâm quán Thọ mọi hiện tượng xảy ra trên Thân cũng chỉ là Tri Chứng những gì thuộc về quá khứ mà thôi, không phải là hiện tại như: Như, không chấp Sắc thì lại chấp Danh…! Tất cả chỉ là Sinh Diệt! Tưởng là tu chứng Niết Bàn, quả là đáng thương thay! Quả của Thiền Định cho dù công phu thâm sâu cũng cũng chỉ là Thọ Lạc, muội Tâm, khô Định và vẫn còn hệ lụy trong tưởng Vi Tế và Vô Minh mà thôi…những Tâm bất thiện tiềm ẩn vẫn còn có thể xuất hiện…! Vì vậy Đức Thế Tôn thương xót chúng sinh sống trong vô minh tầm cầu Đạo Cao Thượng mà giảng dạy cho Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) để thấu triệt Bản Chất của Tục Đế, Chân Đế và sự vận hành của lộ trình Tâm (Cittavĩthi), dụng chánh niệm Tuệ Minh Sát tận diệt mọi ô nhiễm trong Tâm mà thoát khỏi cảnh Nhất Thiết Khổ Ách Sinh Tử vậy. Giác Ngộ là chứng đắc Đạo và Quả Niết Bàn (Nibbãna) chứ không phải thứ kiến văn hiểu biết trong Tục Đế của phàm phu…!
Việt Nữ con! Kiếm là vật vô tri, vô giác dấy máu chúng sinh mà không tội với Đất Trời. Nhưng Tâm kẻ dụng kiếm phân biệt Nhân Ngã mà Thiện Ác mà Phúc Tội sinh. Luật tuần hoàn: Thành Trụ Hoại Diệt là lý biến thể của dòng sống cho mọi loài, mọi vật…hoại diệt mà không mất, thành trụ mà không thêm hơn. Nên Tâm là chủ của Thân và Trí là nơi chất chứa và phát xuất của Thất Tình, chổ biểu lộ của Ý Chí…Phàm nhân trong đời thường còn vướng mắc trong vạn cảnh cũng cần cầu học Cao Thượng Pháp trau giồi luyện Tâm cần phải nuôi dưỡng bằng lý tưởng cao đẹp, những tình cảm đôn hậu đầy nhân ái … Không thể thả mặc cho Tâm Viên Ý Mã trôi bồng bềnh như thuyền lạc bến …! Tâm không lý tưởng thì làm sao điều động được sức của Thân, lực của Trí mà mong nên đặng công phu sự nghiệp. Đó là sống trong mê, chết trong say chẳng đặng ích lợi gì cho nhân thế …! Dù vậy con cũng hãy để Thân con sống nơi trần mà chẳng nhiễm trần, Tâm hòa cảnh ngộ mà chẳng bị cảnh ngộ chuyển Tâm. Trước lợi danh không ham mê nghèo khó chẳng bận lòng. Đem sở học Tâm Đạo mà phù bình trị loạn, độ đời cứu giống nòi Bách Việt thoát khỏi ngạ quỷ trầm luân:

“Chi Lan Sinh Ư Thâm Lâm Bất Dĩ Vô Nhân Chi Bất Hương
Quân Tử tu Đạo lập Đức bất dĩ khốn cùng nhi cải tiết”.

Thôi! Con hãy đi… đi …! Ta đã biết ngày con trở lại, lũ Hạc sẽ đón con về trên đỉnh Kim Cang. Bước ra đi như lúc trở đường… Tâm vô trụ, Thân con thênh thang rong duỗi dậm trường… Hồng Hạc! Các con hãy đưa tiễn Việt Nữ đệ tử yêu quý của ta xuống núi... Bạch Hạc! Từ nay ta bế am tọa Thiền chớ kêu vang làm kinh động núi rừng…! Lão Đạo Sĩ nhìn quán rãi Tâm đầy Từ lực của người đến Việt Nữ đệ tử Tâm đắc lần chia ly rồi an nhiên quay bước trở bộ về Am Phù Vân…âm vang thinh không trầm bổng lời Thơ Kệ hòa lẫn gió ngàn thẫm thấu cây cỏ, hoa lá, thú rừng, chim muông cho chí tới những giọt sương tan muộn …như hòa hài hòa vào cõi an nhiên tự tại…dù nghĩa Văn và lời ngôn động-tĩnh vô thường trong thế sự đầy vơi mang… mang tục lụy…Vì:

là hạc là sương
Luyến lưu nào đọng mà vương dấu hài
Trời cao biển rộng sông dài…
Chút thân huyển nọ trần ai xá nào.

Cho dù Thiên-Địa phong trần:

Vổ cánh bay đi con !
Vổ cánh bay đi con !
Mắt đã nở triều dương xanh đầu núi
Vổ cánh bay đi con !
Kẻo Sơn-Hà luống tuổi
Nầy sông,
Nầy hồ,
Nầy lồng lộng trời cao…
Vổ cánh bay đi con !
Gió Thanh Lương cũng phơi phới rạt rào
Xuân đâu đó về vây quanh tuổi ngọc…?
Vổ cánh bay đi con !
Bay giữa chiều nắng độc,!
Bão hãy còn chờ bên khe đá đầu truông…
Gió Tây-Đông thổi rạp đỉnh mây hồng
Lúc xơ xác cánh con cứ ruỗi !
Vổ cánh nữa đi con !
Dù sức nay đã đuối !
Hoa Hồng nào mà không có gai ?
An lạc nào mà không khổ đau ?
Lúc nhập cuộc trán hằn lên ưu lự
Vổ cánh nữa đi con !
Thênh thang sông hồ mà thăm thế sự…
Thịnh ở trong suy,
Nhược ở trong cường…
Cát lấp biển Đông,
Xanh cũng hóa hường…
Trạng thái đầy vơi ai ngồi đong đấu ?
Trong chén lụy niềm vui còn đậu,
Rổ mặt đen khuôn vóc hài nhi !
Vổ cánh nữa đi con !
Thăm Tam Thế còn gì ?
Hãy tha một cọng rơm về quê nhà xây tổ !
Một cọng rơm thôi,
Cũng là quá đủ
Cho mười phương đoàn tụ một nhà.
Vổ cánh nữa đi con !
Dù máu đã thấm da !
Hay tin tưởng vào sao Mai và Bình Minh sẽ rạng…?
Hãy vổ cánh nữa đi con !
Với nụ cười Viên Mãn…
(Vổ Cánh Nữa Đi Con- Triều Tâm Ảnh)

Thiếu Nữ lạy tạ Sư Phụ xong, chân không muốn bước đi mau …! Lũ Hạc kêu “Oang … oắc” thúc giục Việt Nữ hành trang xuống núi như sợ trể độ đường…! Đến chân núi, Thiếu Nữ thấy thấp thoáng bóng lão tiều phu ung dung tự tại hao hao dáng Sư Phụ nàng, vai vác bó củi miệng nghêu ngao hát:

“Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự,
Lô Sơn yên tỏa chiết giang triều”
Mấy cuộc cười vui hề lần tương biệt
Về Nam San hay Đông Độ mù khơi…
Lũ mây Tần quyền quyện lửa ngàn nơi
Sông Hán lạnh những dấu hài Nam Cực !
Vòng tay Đông Phương bao quanh địa ngục
Mắt Tây Nhung mấy rợ sử còn
Sa mạc mình bao cọng cỏ thơm
Ai hạt đắng gieo mầm đất Phật ?
Chí Bồ Tát đâu sờn tâm bảo mật
Mấy triệu Dhàràni chuyển điệu nghĩa về
Đứng trên non cao cười nghạo nghễ sơn khê
Vỗ tay ta hát chờ Đất Trời tịch diệt .

Trịnh Khải Hoàng

hoangminhuyen
10-25-2012, 07:13 PM
Bậc Anh Thư Trong Dòng Sử Việt
Trịnh Khải Hoàng

Thiên Địa phong trần
Hồng Nhan đa truân
Du du bỉ thương
Hề thùy tạo nhân ?

Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy ?

Lorsque la guerre éclate fait du créateur
Le sexe aux jones roses souffre mille misères
O ciel bleu ! Qui en êtes témoin de là haut
Qui a été cause de cet état de choses ?

When all through earth and heaven rise dust storms
How hard and rough, the road a womanwalks !
O thou that rulest in yonder blue above
Who is the causes and and maker of this woe ?
(Chinh Phụ Ngâm)
Theo dòng lịch sử Việt và những khám phá, khai quật của những nhà khoa học khảo cổ từ lục địa cổ đại là Trung Hoa hiện nay từ vùng Động Đình Hồ, Ngũ Lĩnh…xuôi Nam chạy dài đến Đông Sơn miền Bắc Việt Nam, cho chúng ta kiến văn, hiểu biết về Chủng Tộc Việt đã sinh sống và tiến hoá trãi dài hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến. Trong dòng thời gian nhiều thiên niên đại nước chảy đá mòn, thương hải vi tang điền, vân sơn cũng cau mặt với biến thiên tuế nguyệt thời gian khôn lường…và Người Phụ Nữ Việt cũng đã luôn song hành, gắn bó sinh mệnh, cuộc đời của mình theo Chồng, cưu mang nuôi dưỡng con cái di dời theo cảnh ngộ, vượt qua bao vùng địa lý hiểm trở, gian nan xuôi về phương Nam cho đến thời cận đại định cư sinh sống chí mũi Cà Mau để tạo dựng cuộc sống an cư hạnh phúc trong mái ấm gia đình đơn sơ…! Nhưng thân phận của Người Phụ Nữ Việt vô thường an hưỡng được cái hạnh phúc bình yên đó được bao lâu…khi Đất Nước Việt bị hoạ Bắc thuộc, thời nô lệ gần 1000 năm, hết giặc Tàu xâm chiếm lại bị giặc Tây (France) đô hộ gần một thế kỷ, tiếp đến phải gánh chịu cuộc chiến tranh Quốc-Cộng đã huỷ hoại Con Người, và tài sản của Đất Nước đến tận cùng của bờ vực diệt vong…! Xây dựng thì phải cần đến sức người, tài vật và thời gian dài lâu mới đạt thành quả…Nhưng phá hoại thì rất nhanh và tiêu huỷ hệ luỵ thật đáng tiếc không lường…!
Từ xa xưa Chủng Tộc Việt an cư trên vùng địa lý của Châu Á, giáp ranh là biển Thái Bình Dương, phong điền vũ thuận thú rầy an thôn, thời tiết không quá khắc nghiệt khi mùa Đông đến và chướng khí thay đổi theo tứ thời, bát tiết tuần hoàn của Đất Trời hạnh thông như hậu đãi cho giống Dân Việt với bản chất thông minh, siêng năng, cần cù và quả cảm…ứng biến thích nghi với vạn cảnh để tồn tại và tiến hoá theo dòng biến thiên của tạo hoá…Thuận tiện như thế, Người Phụ Nữ Việt không còn quá sợ hãi trước hiễm nguy của thiên nhiên, thú dữ…Họ dạn dĩ bước ra khỏi hang động, hóc núi, lều che, nhà tranh vách đất… nơi ẩn cư thường nhật năng động hái rau, bắt cá, bơi lội săn tìm thuỷ sản từ các dòng suối cạn, con sông xâu quanh vùng cho đến thám hiểm đến tận ven bờ biển Thái Bình Dương lặn lội săn bắt ngọc trai, san hô, tôm cua ốc cá …dần theo thời gian Họ đã biết canh tác trồng trọt để gặt hái hoa mầu tiêu dùng và dự trữ phòng khi hữu sự, phụ giúp Chồng nuôi dưỡng con cái…Vì thế dần theo thời gian vai trò và vị thế của Người Phụ Nữ Việt được trân trọng hơn trong mái gia đình Mẫu Hệ, nhưng lại Phụ Hệ ở cộng đồng bên ngoài.
Thể hiện Người Phụ Nữ Việt với nhân dáng xinh xắn đầy nữ tính, thu hút quyến rũ ngầm, tiềm ẩn qua nét duyên dáng nhẹ nhàng mãnh mai quí cách…chỉ cần một ánh mắt, mái tóc đen huyền thả hững hờ che lấy bờ vai, tà áo dài tha thướt trong gió chiều thổi nhẹ hây hây…cũng làm say đắm bao tâm hồn người quân tử thương hương, quí ngọc, ước mơ, mộng tưởng, thầm yêu, trộm nhớ có thể làm si mê chết người Tình thiên thu…! Người Phụ Việt đẹp thanh tú nhưng sức chịu đựng kham khổ bền bỉ phong trần với cảnh ngộ mưa dầm , nắng dãi của cuộc đời …lắm khi bỉ cực, éo le…với quần vãi, áo the cánh thô sơ nhuộm mầu đen, nâu hoại sắc, chiếc khăn thâm khoát che phủ đầu trần mà mái tóc đen mượt còn thoảng hương thơm mùi hoa chanh, hoa bưởi, hoa ngâu, bồ kết…mới gội buổi chiều qua, đôi chân trần đạp lên trên gò đất giồng nhiều cỏ may hoang dại, trên ruộng đồng lấp xấp nước mưa đầu mùa, trên nương rẩy với những nhác cuốc vỡ đất mới, hứa hẹn mùa ngô khoai bụ bẩm, lúa vàng nặng trĩu hạt, hoặc giả nhễ nhại cực khổ dầm mình dưới đầm lầy dạ trạch, sông hồ tảo tần sớm hôm mua bán ven sông…Bằng với sức lao động, cần cù, nhọc nhằn, siêng năng của chính bản thân canh tác trên đất đai mầu mỡ hoặc nắng hạn, mưa dầm …mà tổ tiên, tiền nhân đã bao đời không tiếc máu xương xã thân chiến đấu để mở mang, gìn giữ, bảo vệ cho được vẹn toàn biên cương đất nước. Người Phụ Nữ Việt thu hoạch, gặt hái hoa mầu để và đã sinh sản nuôi dưỡng bao thế hệ con cháu Anh Thư-Tuấn Kiệt cống hiến cho Nước Việt suốt chiều dài Dòng Lịch Sử Việt Nam với hơn Bốn Ngàn Năm Văn Hiến.
Trong suốt chiều dài của dòng Lịch Sử Việt khi đất nước vào cuộc chinh chiến điêu linh, khói lửa lan tràn khắp mọi ngã đường, tang thương phủ trùm trên thân phận con dân nước Việt…! Giặc đến xâm chiếm xóm làng, giặc giết Cha Mẹ, giặc giết Chồng, Con, giặc xâm phạm mồ mã Gia Tiên…! Người Phụ Nữ Việt đã đứng lên với hàng giáo dựng, tay kiếm tay cờ anh dũng thao lược khởi nghĩa, dậy binh biến đánh đuổi quét sạch quân thù ra khỏi bờ cỏi, biên cương nước nhà…Họ là Bậc Thánh Nhân Anh Thư Nước Việt từ thời lập quốc tới cận đại Lưu Danh Thơm Trong Dòng Sử Việt mãi …mãi cho đến nghìn sau…Lịch Sử Đã Ghi Chép Rằng:
Man Hoàng Thái Hậu (Mẹ của Hai Bà Trưng) xuất thân trong hệ phái Quí Tộc, Bà là cháu ngoại của Lạc Vương, kết hôn với Vị Lạc Tướng sinh đặng hai con gái tên Trắc và Nhị, chồng mất Bà ở vậy nuôi con dạy bảo chí tình, lại còn khuyến khích học tập Văn ôn, Võ luyện, trách nhiệm với Nước Nòi…trong cuộc khởi binh của Hai Bà :Trưng Trắc Và Trưng Nhị chống giặc nhà Hán đô hộ nước Ta, đạt chiến thắng, chiếm lãnh thu phục được 62 thành trì…mà động lực chính yếu là công sức của Man Hoàng Thái Hậu khởi nguồn. Khi Bà đươc hung tin khấp báo Hai Bà Trưng bị bại binh ở chiến trận sau cùng, Bà lên ngựa thúc quân cứu viện, ác chiến với quân thù, quân tình thế yếu…! Bà ngẩng mặt ngước lên trời xanh mà than rằng: “ Quả Bất Phục Chúng…” xong, bèn nhẩy xuống sông tuẫn tiết !
Năm Giáp Ngọ 34 Kiến Võ Thứ 10, Hán Quang Vũ. Hai Bà Trưng: Trưng Trắc và Trưng Nhị là con gái của Lạc Tướng và Man Hoàng Thái Hậu ở huyện Mê linh, Làng Hạ Lồi, Tổng Yên Lãng, Tỉnh Phúc Yên. Hoạ Bắc Thuộc. Hai Bà Trưng khởi nghĩa, dấy binh tấn công vào thành Liên Châu, Liên Lâu và các quận huyện thu đoạt được 62 thành. Đánh đuổi quân Nam Hán ra khỏi bờ cõi đất Giao Châu ( Việt Nam). Hai Bà lên ngôi,xưng Vương thiết lập kinh đô tại Mê Linh nguyên quán của Hai Bà. Thoát khỏi ách đô hộ. Nền Tự Chủ của Quốc Gia được khởi đầu từ năm 40-43 (CN).
Từ tháng Chạp năm Tân Sửu 41, Nhà Đông Hán phong cho Danh Tướng có tài, thao lược là Mã Viện chức Phục Ba Tướng Quân và đề cử thống lãnh đại binh sang Giao Châu chiến phạt với Hai Bà. Mã Viện cử Trung Lang Tướng là Lưu Long, Thuỷ Sư Đô Đốc là Đoàn Chí chỉ huy hai vạn (20 000) quân Thuỷ Lục tấn công quân của Giao Châu. Hai Bà Trưng cử Nữ Tướng Soái là Thánh Thiên Công Chúa nghêng chiến đánh bại quân Hán, giết được hơn 1000 quân thù…Quân Hán đại bại rút về cố thủ ở mạn Cao Bằng, Tuyên Quang xin viện binh cứu nguy! Hai Bà Trưng liền truyền lệnh cho Thánh Thiên Công Chúa cấp tốc đem đại binh tấn công truy sát. Mã Viện thừa cơ hội quân Nam còn không nhiều đóng giữ thành trì chính yếu Mê Linh, đã đưa quân đến đánh áp. Nữ Tướng Thánh Thiên hay tin khẩn báo đã vội đem quân trở về cứu giá…Nhưng đã không còn kịp nữa ! Bị bại binh và quân giặc truy đuổi bức bách Hai Bà chạy đến xã Hốc Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây liền nhẩy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết, nhầm vào ngày mồng 6 tháng 2 năm Quí Mẹo, Âm Lịch!
Sử Gia Tư Mã Thiên của nhà Hán đã chép: Nam Man Trưng Trắc bạn, Đế sử Mã Viện bình chi ( rợ phương Nam làm phản loạn, Vua sai Tướng Mã Viện dẹp yên). Tuy là Sử cuả Tàu lăng mạ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nhưng kinh qua chỉ dấu đấy Ta được hiểu biết chứng thực và xác định trong Dòng Sử Việt là: Bậc Anh Thư Nước Việt Hai Bà Trưng Đã Vị Quốc Khởi Nghĩa, Dấy Binh Đánh Đuổi Giặc Hán Ra Khỏi Biên Cương, Bờ Cõi Nước Nhà. Giải Hoạ Bắc Thuộc.
Trong cái tịch tĩnh của Tâm Thức quán xét chuyện biển dâu, thăng trầm lịch sử, đốt lò hương cũ, cảo thơm lần giở…Chúng ta hãnh diện, cãm kích với Tiền Nhân Bậc Anh Thư, Tuấn Kiệt của giống nòi Việt và cũng đau xót căm phẩn với bọn lãnh đạo Việt Gian Cộng Sản (VGCS) chúng cường quyền chiếm đoạt cả nuớc lại hèn hạ cắt đất, dâng biển cho kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng và đem dân làm lao nô xứ người…Quả là Nhục Quốc Sĩ !
Lần theo Dòng Sử Việt: Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống giặc Hán, giải Hoạ Bắc Thuộc từ hai ngàn năm trước, ta đã biết có rất nhiều Bậc Anh Thư Nước Việt tay nắm chặc cung kiếm, phất cờ phướng tung hoành xông pha nơi chiến trường, chém Tướng đoạt Thành như: Nữ Tướng Soái Thánh Thiên Công Chúa, Nữ Tướng Bát Nàn Công Chúa, Nữ Tướng Hoàng Thiệu Hoa, Nữ Tướng Phùng Thị Chính, Nữ Tướng Lê Chân, Nữ Tướng Cao Nhự…Lịch Sử là Chính Trị của thời quá khứ, qua Lịch Sử ta hiểu biết và Tầm học cái Sở Dụng của Lịch Sử, đãi lọc, học luyện cho đạt cái Tinh Tuý Sử Hồn, Chu Tri tức Mộ, quyền biến, phương lược, ứng dụng sở học mà Bảo Quốc-An Dân. Xuyên suốt qua cuộc khởi nghĩa, dấy binh của Hai Bà Trưng chống giặc Hán thời kỳ Bắc Thuộc, chúng ta hiểu rằng từ cơ cấu, kiến trúc gia đình, hệ thống làng xã, dinh điền, hương đản, văn hoá, binh bị, võ công,Tính và Tình của Người Việt, Tiền Nhân của chúng ta từ hai ngàn năm trước…Nhất là Tính chất khí phách, võ công của Phụ Nữ Việt quả là thật tuyệt vời …hỏi cả hoàn vũ đã có ai sánh cùng…?
Vì Tình: Nam Nữ thề non hẹn biển, tình duyên trắc trở không vẹn nghĩa thành đôi, bị phân ly, chia cắt…họ có thể tự vẫn chết theo nhau, chết bên nhau…cho trọn vẹn chữ Tình ở chốn tuyền đài…
Lòng ta ôm một khối tình
Tình trong giây phút trở thành thiên thu…!
Đấy là Tình của Phàm Nhân, chết vì Tình cũng được đời thương cãm, tội nghiệp…! Dệt nên Thi Văn lãng mạn, tình tứ cho đời thưởng thức mua vui, giải sầu muộn…hay lắm đấy, đẹp lắm đấy…! Nhưng Tình Yêu ơi ! Chết vì Tình, Chết vì Chung Tình…
Nghi ngút đầu gềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương ?
Nhưng cái chết vì Tình yêu lứa đôi Nam Nữ không có Bệ Thờ trong Tâm của bao người thế hệ sau Tôn Kính, Thờ Phượng! Chỉ có cái chết vì Tình Yêu Tổ Quốc, Dân Tộc mới là cái chết đầy ý nghĩa cao thượng tối linh mà người đời trân trọng đặt trên Bệ Thờ vói thiên thu nghìn sau… và tuy Đất Trời vô thuỷ vô chung, thiên nhiên vô vi, vô cãm, hư vô lồng lộng, vật thụ vô tình…cũng lắm khi Trời chuyển cơn giông bão hoặc mây kết xây thành âm u, mưa tuôn như nhỏ lệ, Đất lành trở hanh, khí uất sụt sùi, tuế nguyệt vân sơn cau mặt cãm kích với tang thương khi Kẽ Sĩ Bậc Tuấn Kiệt- Anh Thư của Quốc Gia Dân Tộc nào Vị Quốc Vong Thân Cho Chính Nghĩa vì: Nhân Tối Linh Ư Vạn Vật.
Anh Thư Nước Việt Bà Triệu Thị Trinh, 16 tuổi đã khí khái dõng dạc tuyên ngôn:” Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh,đạp đầu sóng dữ chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân lành thoát nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu, cong lưng làm tỳ thiếp cho người ta “. Bà chiêu binh khởi nghĩa, mặc áo giáp màu vàng cởi voi chỉ huy nghĩa binh xông trận chém Tướng, giết quân thù, đoạt thành trấn thủ…làm khiếp đảm giặc Tàu…! Được Tôn Danh là Nhuỵ Kiều Tướng Quân nêu gương sáng chói trong Lịch Sử Việt Nam.
Anh Thư Nước Việt Ỷ Lan Phu Nhân, nguyên quán Bắc Ninh, Bà là Nguyên Phi của Vua Lý Thánh Tông, Bà là người Kiệt Xuất có biệt tài Chính Trị, Kinh Bang Tế Thế, khi nhà Vua thân chinh phạt dẹp loạn Chiêm Thành nơi sa trường…Bà Nguyên Phi Ỷ Lan thay Chồng Nhiếp Chính an định triều chính, xã tắc…Đấng Quân Vương cũng phải thẹn mình trên đường lui binh thất bại…! Khi biết tài quản trị của Phu Nhân khiến Vua phải quay Binh trở lại quyết tử chiến với quân thù và đoạt chiến thắng huy hoàng.
Anh Thư Nước Việt Bậc Mẫu Nghi Thiên Hạ, tục danh Nguyễn Thị Bích Câu là Vợ của Vua Trần Duệ Tôn. Bà đã viết Kê Minh Thập Sách nêu ra 10 điều giúp Vua trị quốc để được cường thịnh. Nhưng rất tiếc Nhà Vua đã không áp dụng ! Mười điều trong Kê Minh Thập Sách như sau:
1- Bền vững gốc nước, trừ kẽ bạo loạn thì dân chúng được yên.
2-Giữ nếp xưa, việc phiến bỏ thì triều cương không rối.
3-Trị kẽ lạm quyền để trừ mọt nước.
4-Đuổi bọn nhũng lại để bớt vơ vét của cải của dân.
5- Mở lối Nho Phong để ngòi lửa đóm được rạng soi cùng mặt trời, mặt trăng.
6-Tìm lời trực gián để đường ngôn luận được mở rộng như của thành.
7-Trong việc kén quân nên lấy hạng có dũng lực hơn là hạng có vóc dạc lớn.
8-Chọn Tướng nên dùng người thao lược hơn là bậc thế gia.
9-Khí giới cốt tinh nhuệ hơn là hoa hoè.
10-Tập trận pháp cần chỉnh tề không cần múa nhẩy.
Anh Thư Nước Việt Huyền Trân Công Chúa là con gái yêu quí của Vua Trần Nhân Tôn, được Vua Chiêm Quốc là Chế Mân cầu hôn với sính lễ là hai Châu Ô-Lý. Huyền Trân Công Chúa về Chiêm Quốc làm Hoàng Hậu được tròn một năm thì Vua Chiêm băng hà! Theo phong tục của người Chiêm bà phải lên giàn hoả thiêu cùng với xác nhà Vua! Nhưng Bà được Triều Đình Đại Nam cử Thượng Tướng Trần Khắc Chung thay mặt Triều Đình viếng phúng điếu rồi lập mưu kế cứu Huyền Trân Hoàng Hậu, hộ giá trở về lại Đại Nam. Huyền Trân Công Chuá là Cành Vàng Lá Ngọc đã vì lợi ích mở mang giang sơn bờ cõi Quốc Gia Đại Nam mà ưng thuận hy sinh kết hôn với Vua Chiêm Quốc. Bà đã làm rạng danh Bậc Anh Thư Nước Việt trong Lịch Sử còn lưu mãi với nghìn sau.
Đã có biết bao Anh Thư Nước Việt xuất thân từ hạng dân dã đến bậc đài các vương quyền…thông minh tú lệ, khí phách chẳng kém gì Nam Nhi Tuấn Kiệt, Đại Trượng Phu địch quốc sơn hà…đã xã thân báo đền ơn nước, phước nhà xem tấm thân ngà vóc ngọc, châu báu nhẹ tợ lông hồng, sẳn sàng quẳng vứt bỏ phấn son, hương liệu, quần là áo lượt, vòng xuyến nữ trang…để can trường dũng lược bó chẻn chiến y, vai mang cung kiếm phất cờ khởi nghĩa uy nghi trên thớt voi, chiến mã xông pha trận mạc chém Tướng đoạt Thành trì phò nguy sơn hà xã tắc, cứu dân lành thoát cảnh điêu linh lầm than vì bị giặc thù xâm chiếm nước non bờ cõi…Bậc Anh Thư Nước Việt xưa đã vang lừng lẫm liệt trong chiến sử Việt Nam còn lưu hậu thế…! Mà nay giở lần trang Cổ Sử còn cãm đâu đây trong bàng bạt của heo may đất trời se lạnh cơn gió nhẹ chớm Thu có ẩn tàng hồn thiêng sông núi, khí phách anh linh của Tiền Nhân Bậc Anh Thư, Tuấn Kiệt Việt Nam hiển thánh nhắc nhở cho thế hệ con cháu hậu sinh phải thành Tâm, chánh Trí cương nghị dấn thân học luyện, tiếp thu những tinh hoa sở học, văn hoá, võ công của Tiền Nhân mà đứng vào trận tuyến của người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà làm cuộc cách mạng đánh đỗ bạo quyền Việt Gian Cộng Sản để cứu nguy Dân Tộc Đất Nước thoát khỏi hiểm họa diệt vong vì lũ Việt gian cắt đất dâng biển cho kẽ thù truyền kiếp phương Bắc.
Trên phương tiện truyền thông báo chí của thế giới Tây phương tự do dân chủ và luôn ngay cả 600 tờ báo phát hành trong nước Việt Nam, công cụ tuyên truyền, bưng bít thông tin của đảng và nhà nước …đọc báo kiểm tin ta vẫn thấy có đăng tải rất nhiều tin tức bắt bớ, xử phạt, thưa kiện, những tụ điểm tổ chức, môi giới mua bán gái Việt mại dâm xuyên quốc gia, phụ nữ Việt bị khuyến mại chào hàng rao bán ngoài phố chợ tại Singapore, TháiLand, HồngKông, Đài Loan, Đại Hàn, PhiLipine, Mãlai, Indonésia, Kampuchia,Lào…như gà vịt gia cầm, súc vật để làm nô lệ tình dục cho ngoại nhân háo dâm mạt hạng…! Từ những hẽm hóc u tối nghèo nàn của thôn xóm làng quê Kampuchia, TháiLand, Lào, Philipine,MãLai, Indonésia,… cho đến những động đĩ điếm hạ tiện của những khu phố bình dân đông người ở HồngKông, ĐàiLoan, Trung Cộng cho chí đến khá giả kinh tế Nhật Bản, Hoà Lan, Chezch, Nga, Italy, Pháp…đều có phụ nữ Việt bị lừa bán qua đường dây SexTour cho bọn đầu nậu ngoại quốc như mặt hàng xuất cảng trong bóng tối quyền lực, để phục vụ cho nghành mại dâm mà bọn chủ mưu là cán bộ có chức quyền nhà nước Việt Gian Cộng sản…! Trong Dòng Lịch Sử Việt có thời đại nào mà Nhân Phẩm của Phụ nữ bị chà đạp rẻ khinh như thời đại Việt Gian Cộng Sản đương quyền ?!
Những ai còn bị kẹt lại tại Sàigòn sau ngày 30-401975 chắc hẳn còn nhớ tên Nguyễn Hộ, lãnh đạo Vgcs miền Nam đã phát ngôn:” …Ta bắt bỏ tù ngụy, đày ải ngụy, Ta chiếm đoạt nhà cửa, tài sản ngụy, Ta chơi vợ, con gái ngụy…” ! Đây là ngôn từ “kinh điển“ của giới lãnh đạo đảng và nhà nước Vgcs. Chúng có khác nhau về hình thể, nhưng bản chất: tâm địa gian ác, thâm độc, vô nhân, vô luân, đê tiện, hèn hạ và vô học thì giống nhau…!
Đảng và Nhà Nước Việt Gian Cộng Sản thi hành kế sách với “Chiến Dịch Hoa Nở Về Đêm” chúng đã truyến mật lệnh cho các cán bộ chức quyền địa phương thi hành : Phá vỡ nền tảng gia đình trong xã hội miền Nam sau khi bắt bỏ tù “Ngụy Quân, Ngụy Quyền”, chế độ lý lịch, “quản lý” nhu yếu phẩm chặt chẻ, cấm đoán thương mãi, bao vây kinh tế…tạo ra tình trạng nghèo đói …Người Phụ Nữ Việt là Vợ, Con Gái của Chồng, Cha là Người Tù “Ngụy Quân, Ngụy quyền” phải bị sống trong hoàn cảnh khó khăn từ vật chất đến tinh thần, một số trường hợp bị vây khốn và đẩy dần đến rơi ngã vào tay đám cán bộ đương quyền o- ép, hù dọa,dụ dổ, tán tỉnh, mua chuộc…để có hoàn cảnh thuận lợi thăm nuôi Chồng, Cha ở các trại tù xa tít mãi tận miền rừng núi hoang vu Bắc Việt…! Vài năm sau Người Tù “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” bị giam hãm trong trại tù được thiết lập trong vùng sơn lam, chướng khí, thời tiết khắc nghiệt, điều kiện vệ sinh, ăn uống dinh dưỡng thiếu thốn, bệnh tật, tai nạn lao khổ không có thuốc thang chữa trị…Người Tù kiệt quệ sẽ đi tới tình trạng chết dần mất…Đảng và Nhà Nước cho lệnh thăm nuôi. Trong Chiến Dịch Hoa Nở Về Đêm, bọn cán bộ miền Bắc cho lệnh dựng “nhà nghĩ mát” cách xa trại giam tù vài ba Km, không có nhà ở và làng xóm của người thường dân quanh vùng, Trại giam tù cách xa nhà ga, thành phố, thị dân cả trăm Km hoang vắng, đường xá, phương tiện chuyên chở không có, đôi khi phải thuê xe trâu, xe bò, xe thổ mộ để đến trại tù thăm nuôi…! Theo qui định thăm nuôi của trại giam: 5:00 Pm (giờ chiều) thân nhân thăm nuôi phải rời trại giam, Vợ, Con Gái của Người Tù phải trở lại thành phố để có phương tiện chuyên chở về Nam, lỡ dỡ di chuyển Họ phải ngủ lại qua đêm nơi “nhà nghĩ mát”…Lợi dụng đêm tối hoang vắng, thân Phụ Nữ thế cô…bọn cán bộ Cộng Sản Bắc Việt cưỡng hiếp Vợ, Con Gái đi thăm nuôi Tù Nhân. Đây là chuyện đau thương tột cùng mà Người Phụ Nữ Miền Nam bị vùi dập, lăng nhục trong bóng đêm của Chiến Dịch Hoa Nở Về Đêm…! Tác nhân là bọn lãnh đạo Đảng và Nhà Nước Việt Gian Cộng Sản “cực kỳ” gian manh, hiểm độc gây nên thãm cảnh đoạn trường…!
Phụ Nữ họ là cô gái còn đang e ấp tha thướt trong tà áo dài với sách vỡ học trò cầm tay, mộng mơ len lén nổi buồn vu vơ mùa hoa Phượng nở và tiếng ve sầu kêu vang… cãm tình viết dệt nên mấy bài thơ làm lưu bút ngày xanh và trang thư màu hồng còn thơm mùi mực tím, hoặc giã hát nho nhỏ lời ca trử tình hay tụm năm, tụm ba bàn tán cợt đùa cười khúc khích kể chuyện “bức thơ tình” vụng dại của “ chàng” ngớ ngẩn hàng xóm bên nhà mới gởi để “cua” tao…!!! Cô gái nhỏ quay quần đoàn tụ trong bữa ăn chiều, cười nói huyên thuyên hạnh phúc với Ông Bà, Cha Mẹ, Anh Chi Em…!!!
Phụ Nữ họ là Người Chị trẻ chưa chồng còn đang ở trong mái gia đình phụ việc quán xuyến với Cha Mẹ chăm lo săn sóc đám em thơ dại cho chúng học hành tới nơi tới chốn…Chẳng may Cha Mẹ mất sớm, Quyền Huynh Thế Phụ, gánh vác việc gia đình lắm khi phải hy sinh cả hạnh phúc riêng tư và tuổi xuân của mình để buôn tần bán tảo mà nuôi nấng dạy dổ các em cho chúng trưởng thành nên người thì duyên phận Chị đã lỡ làng, thuyền hoa khách tình quân đã lỡ chuyến sang sông !
Phụ Nữ Việt họ là Mẹ là Vợ Hiền hy sinh cả cuộc đời cho Chồng cho Con không quản thân mình …biết nói sao…! Biết viết sao cho đủ, cho vừa cái biển trời bao la của Tình Mẹ của Vợ Hiền Việt Nam…? Định Nghĩa chăng ? Tất đóng khung cái vô cùng như vô thuỷ vô chung, Tình Mẫu Tử, Nghĩa Vợ Hiền vào cái chật hẹp của định nghĩa là vô tri, thiểu trí và là vô học đến tận cùng…! Chỉ mỗi một tiếng “Mẹ” thôi thật là thiêng liêng và an tâm, ấm áp trong vòng tay yêu thương che chở của Mẹ Hiền và chỉ với Mẹ thôi là con được bình yên…cho dù con còn trẻ dại hoặc lớn khôn lịch lãm với muôn ngàn cảnh ngộ tuổi đời Thất Thập Cổ Lai Hy…ở với Mẹ con luôn là trẻ dại…!
Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào
Tình Mẹ tha thiết như dòng sông hiền ngọt ngào
Câu hát âm điệu của bản nhạc Lòng Mẹ của Nhạc Sĩ Y Vân tuy gói ghém giới hạn trong khuôn nhạc và từ ngữ lời ca, nhưng nó đã chuyên chở cái bao la biển trời, không cùng của Lòng Mẹ mà có mấy ai là Người Việt Nam nghe qua không khỏi bùi ngùi thương cãm rơi lệ chạnh lòng nhớ đến Mẹ Hiền đã quá vãng hoặc chong đèn đêm mõi mắt chờ đợi đứa con viễn xứ trở về làng xưa, xóm cũ, mái tranh nghèo, giàn mướp trổ đầy hoa vàng…về với Mẹ Hiền.
Năm xưa tôi còn nhỏ
Mẹ tôi đã qua đời
Lần đầu tiên tôi hiểu
Thân phận kẻ mồ côi
Quanh tôi ai cũng khóc
Yên lặng tôi sầu thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là bớt khổ đi rồi
Chuông Chùa nhẹ rơi rơi
Hoàng hôn phủ nắm mộ
Biết rằng tôi mất Mẹ
Là mất cả bầu trời…!
Vậy mà trong thời đại của bọn Việt Gian Cộng Sản cầm quyền, báo chí trong nước của chúng có đăng tin loan tải : Mẹ ruột lừa bán hai con gái vị thành niên cho chủ động mại dâm mãi tận Kampuchia và tin tức phóng sự trên trang báo khác: Tại Quảng Ngãi Mẹ ruột và con gái cùng hành nghề mại dâm để sinh sống…! Nội nhật, nếu chúng ta thu gom số báo được phát hành trong nước đọc để kiểm tin, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều bản tin như thế…!
Bọn lãnh đạo Việt Gian Cộng Sản trong nước đã giết hại lương dân và gây biết bao tội ác đối với Dân Tộc- Đất Nước. Chúng rất sợ hãi rồi sẽ có một ngày quay lại vòng nạn oan khiên, quần chúng nổi dậy với súng gươm giáo mác cuốc sẻng…như bảo lửa nổi lên, cuồng phong truy lùng săn tìm chúng và thân nhân của chúng mà bắn giết tàn sát trả thù như luật tuần hoàn nhân quả vay trả và trả vay để rửa thù phục hận…! Vì vậy chúng phải đề cương quốc sách đồi truỵ tạo ra những dịch vụ, chương trình kinh doanh ăn chơi hưởng thụ tha hoá ở mọi tầng lớp quần chúng, nhất là giới trẻ... để phá vỡ nền tảng gia đình, đạo đức, luân lý, kỷ cương…Thanh niên thiếu nữ chỉ biết lao vào việc làm sao để có tiền ăn chơi trác táng và sẳn sàng làm tất cả tệ đoan chỉ để có được tiền …!...và trong vòng quản trị của giới lãnh đạo Việt Gian Cộng Sản. Bàn Tay dân chúng đã nhúng chàm đen tối tội lỗi…!
Khi Phụ Nữ Việt bị bạo quyền Vgcs và thân nhân của chúng chiếm lĩnh hầu hết tất cả sinh kế, nghề nghiệp để mưu sinh thì Họ phải đứng lên cùng với đại khối quần chúng làm cuộc cách mạng dân sinh để đánh đổ bọn chúng mà giành lại quyền dân sinh cho chính mình.
Khi Phụ Nữ Việt bị bạo quyền Vgcs và thân nhân của chúng cướp tước đoạt nhân phẩm, buôn bán và xử dụng Phụ Nữ như mặt hàng kinh doanh ngành nghề mại dâm…Họ phải đứng lên cùng với đại khối quần chúng làm cuộc cách mạng dân quyền, đánh đổ bọn chúng, giành lại nhân quyền cho chính mình.
Khi Phụ Nữ Việt bị bạo quyền Vgcs và thân nhân tước đoạt quyền công dân, trấn áp, tù tội mất hết cả sự tự do căn bản của con người…Họ phải đứng lên cùng với đại khối dân tộc làm cuộc cách mạng dân chủ, đánh đổ bọn chúng, giành lại dân chủ cho chính mình.
Nếu cứ mãi ấu trỉ, thờ ơ, ngu tối sợ khó, sợ khổ và tiếc máu xương thì phải chịu kiếp tôi đòi, đọa đày nô dịch trong đất nước của mình sẽ dẫn đến họa diệt vong…! Vì Tự Do Dân Chủ Hạnh Phúc Ấm No không thể tự nhiên mà có được khi tất cả những quyền căn bản đương nhiên của Dân Tộc -Đất Nước bị bọn cường quyền Việt Gian Cộng Sản cưỡng chiếm, tước đoạt.
Đại giá của cách mạng là sự thành công.
Đại giá của sự thành công phải đánh đổi bằng máu xương. Không có đổ máu, không thể thay đổi được thời cuộc.
Trịnh Khải Hoàng - Ban Chủ Trương Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hoà.

hoangminhuyen
10-25-2012, 07:24 PM
Tà Áo Noél


Trịnh Khải Hoàng

Buổi chiều trời âm u rồi chuyển dần đến cơn mưa lớn. Tôi cố tình không khép vội cánh cửa sổ, để mặc những bụi mưa bay tạt vào phòng làm lấm ướt bức tranh vẽ bỏ dỡ cùng dăm quyển sách trên bàn ..., Vẫn lười biếng, tôi thu mình dưới lớp chăn ấm quấn đến tận cổ nằm nghe mưa rơi đều trên mái ngói. Tôi thích và yêu mưa vô cùng ! Mưa ở đâu ? Từ miền núi đồi hoang vu xa lạ, ngang bao bao cánh đồng mang theo tan tác hơi lạnh của cây cỏ gãy đổ khiến tôi xao xuyến tâm hồn ... ! Tôi tự hỏi có bao nhiêu khách bộ hành dừng chân trú mưa dưới mái hiên nhà người, hoặc những hàng cây ven đường ... có cô bé Mitsuko tôi mến không ? Ngoài đường phố chắc tiêu điều biết mấy ! .

Buổi chiều sắp tàn. Tôi khoát áo lấy xe Vespa đến nhà Mitsuko, đưa nàng dạo quanh vài con đường hãy còn lấp loáng nước mưa, suốt những đoạn đường cô bé thích thú nói cười tự nhiên, đôi lần vòng tay ôm chặc lấy tôi và trách nhẹ mỗi khi xe chạy lên những ổ gà lồi lõm, hoặc im lặng không biết lại giận hờn hay buồn chi ? Mitsuko dạo này chợt buồn, chợt vui như mưa bóng mây phút chốc mưa và chóng tạnh. Khi thương mến ai, ta thường muốn hiểu và chia xẻ tâm tình cùng họ rất nhiều, ... Nhưng mỗi lần cô bé im lặng hoặc hờn dỗi, tôi giả vờ thản nhiên như không hay biết và cũng rất bối rối, đáng tiếc khi cô cúi đầu che đậy những giọt nước mắt âm thầm rơi ! Sau cùng thường kết thúc bằng những tiếng cười khúc khích của cô bé qua những câu chuyện vui mà tôi kể để trêu ghẹo, và cũng là thái độ xin lỗi rất ư là nịnh đầm với Mitsuko, kèm theo vài dòng thi văn theo lời yêu cầu của “nạn nhân” Mitsuko Nakashima Okita !

Tóc mây em vẫn còn dài
Phải em nuôi cánh Liên Đài tặng anh ?
Thuyền Từ ghé bến mắt xanh
Như Lai bỗng nở trong tranh nụ cười !
Một thương chín bỏ làm mười
Hai thương em đã cùng người sang sông
Đây anh uống cạn chén lòng
Nở ra một đóa tình không rạng ngời !
Từ em thuở ấy vào đời
Cớ sao tóc thả mây trời gió bay ?
Anh về nuôi mộng nào hay
Tĩnh ra mới biết hồn say phấn kỳ !
Thôi em mở cửa từ bi
Cho anh gởi chút tình si cuối cùng
Bích Liên

Từ khi vào Lính đến nay đã hơn hai năm. Bây giờ ở đây miền cao nguyên với những cơn mưa lớn như không muốn tạnh và giá rét của núi rừng buổi về chiều làm se da, chùng dạ kẻ quanh năm suốt tháng hành quân liên tiếp từ mùa khô ở chiến trưỡng: Trị Thiên, Mai Lĩnh, Phong Điền, Thạch Hãn, Gio Linh, Cửa Việt ... Những địa danh cùng với cảnh người dân hiền lành, nghèo khổ, hoạn nạn bồng bế, dắt dìu nhau trong kinh hoàng cố vượt qua khỏi vùng lửa đạn giặc Cộng chiếm đóng, nghe lạ tai và xa tầm mắt nhìn của thị dân may mắn cư ngụ trong những thành phố lớn xa hoa và bình yên ! Đầu mùa mưa xuôi quân về Nam, miền đồng bằng lấp xấp nước với những cuộc hành quân: Lam Sơn, Tháp Mười, Kiến Phong, Cao Lãnh, Đức Hòa, Đức Huệ, ... Và đám mạ non chờ cấy. Chiều nay dừng quân ở đây nhìn dãy núi rừng mầu tím thẫm chạy dài ... Chạnh lòng nhớ những chiều mưa qua thành phố với cô bé Mitsuko mắt huyền, tóc cắt ngắn như Poupée Nhật Bản trong tà áo màu thiên thanh trên đấy tôi vẽ cánh quỳnh lan tặng nàng vào dịp Giáng Sinh năm trước .

Mưa từ rừng núi bao la
Mang theo tan tác ngang qua phố chiều
Đường xưa phố cũ tiêu điều !
Chiều nay có kẻ quạnh hiu một mình !
Nhìn mưa chạnh nhớ người tình
Cánh Quỳnh năm trước bóng hình em đâu ?
Mưa chi để mắt em sâu ?
Ở đây rừng núi gọi sầu hư vô !
Xuyên Đảo Phương Tử Mitsuko
Kimono ngày trước em còn giữ không ?
Trịnh Khải Hoàng

Thời gian và đời Lính xuôi ngược đã làm tôi thay đổi nhiều … Nhưng vẫn không tránh khỏi cảm giác xúc động ngày trở về nhìn lại hàng hiên nhà tôi phủ đầy những xác lá khô, có mớ đã rã mục ẩm ướt, … Lâu lắm rồi không có người chăm sóc, quét dọn giàn Antigône gẫy đổ trơ giây, hoa đỏ tàn tạ chen lẫn với rợ hoang mọc đua vượt tiêu điều ! Chẳng buồn dọn dẹp để cảnh tan tác yên vậy, tôi ngồi ở hàng hiên nhìn buổi chiều mùa Đông chầm chậm qua, dăm con chim se sẻ bay về nấp trên mái ngói gọi nhau chim chíp … Mitsuko bước qua cổng, vẫn dáng người quen thuộc ấy, nhưng bây giờ nàng đã là thiếu nữ hơn trước, tóc huyền thả dài, ánh mắt hẵn đen hơn, … Và trời dù tối tôi vẫn nhìn thấy môi nàng hồng hơn xưa, hoa nở đâu đây mà hương nhẹ bay thoảng không gian ? Nàng nói :
- Em vẫn đi ngang qua đây như mọi ngày và nghĩ anh sẽ trở về vào dịp Giáng Sinh năm nay … Thật đúng như vậy. Anh không chào em há !
- Chào “Nhi Đồng” … em lớn quá ! Không biết có còn là nhi đồng của anh như ngày trước ? …
- Em vẫn thích được anh gọi là “Nhi Đồng” như trước. Anh đi khỏi không ai gọi em như thế, em tưởng chừng mình đã mất đi những ngày thân ái được anh nuông chìu với bao kỷ niện êm đềm xưa ! Nghe Mitsuko nói, tâm tình của tôi có nhiều âm điệu như tơ vương luyến ái khó diễn tả, tỏ bày là tôi đã âm thầm yêu nàng ! Ngại ngùng tôi lẫn tránh bắt quàng sang chuyện khác:
- Mitsuko còn tiếp tục đọc sách Triết không ?
- Dạ không anh. Nói anh đừng cười em nhé ! Em có cảm tưởng mấy ông Triết Gia sống trong hư hư - thực thực … họ cố tình dùng những từ ngữ phức tạp, tối nghĩa … để diễn giải những vấn đề vốn dĩ giản dị và thường tình …

Tôi mĩm cười với ý nghĩ ví von pha lẫn có chút tinh nghịch của Mitsuko, mà đúng lắm ít ra cho riêng tôi và cô bé “Tri kỷ thế sự nan” này. Ôi … thương thay và tội nghiệp cho thế gian động loạn vì có thêm hậu Bá Nha, Tử Kỳ như chúng tôi ! Tôi góp ý “bình loạn” thêm với nàng bên tám lạng người nửa cân:
- Anh cũng nghĩ Quân Tử đại trí giả ngu; Tiểu Nhân đại ngu giả trí … hi … hi … , như rứa, như ri: Này “nhi đồng” ! Từ con người sống không như Chân Lý sinh ra Tôn Giáo, không hiểu biết Tôn Giáo sinh ra Giáo Lý, lại không hiểu Giáo Lý sinh ra Triết, và rồi con người khó hiểu Triết sinh ra Triết Học, … Vậy từ có Triết Học tức loài người đã xa Chân Lý lắm rồi ! Xưa Ông Khuất Nguyên ở bên Trung Hoa trầm mình dưới sông Mịch La mà tự tử, nếu còn tại thế nghe tôi “luận loạn” đục ngầu như thế này, có lẽ Ông phải trồi lên khỏi sông Mịch La tha phương cầu thực qua Việt Nam bán “chí mè phủ”, “lục tàu xá”, … ế ẩm, buồn đời đến cầu Trương Minh Giảng nhảy xuống thêm lần nửa cũng nên ! Đã bảo:

Hoa úa khinh cài thân Ngọc Nữ
Bút cùn hí họa giáng Tiên Đồng

Nhưng cũng có nhiều đêm thao thức phiền muộn nhận chân chính mình:
Tóc mấy sợi bạc dần xuân xanh cũ
Kinh Thư còn mò mẫm mấy trang ngoài
Đêm thức giấc tủi mình sao ám độn
Qua song thưa trăng đã gác non đoài

- Anh còn nhớ Mary không ? cô bạn Mỹ tóc vàng để dài quá lưng đó !
Mitsuko hỏi. Nhưng tôi không vội trả lời nàng vì thường khi cô ả bất chợt hỏi hoặc chuyển đề tài tất không bình thường .
- …
- …

Mary tặng anh phiến đá Genuine vào dịp Noél hai năm trước ... anh có nhớ không ?
- À ... anh nhớ ra rồi, bây giờ cô ấy ra sao ?
- Mary đã lập gia đình ... Em có chuyện này vui lắm ! Một hôm Mary rủ em đi dạo phố xem người - người qua lại mua bán, em từ chối vì sẽ phải đi dự thính buổi diễn thuyết về Kant và Triết Lý của ông. Mary lãi nhãi thuyết phục mãi, em phát cáu bèn nói với cô ta: “Mary chẳng Triết Lý tí nào cả, suốt ngày cứ lê la ngoài phố chợ, có gì với cảnh người người bon chen ngược xuôi đó chứ… ?”. Anh có biết Mary trả lời với em ra sao không ?
- ...
- Cô ả cũng nổi tí ti sân si và hờn mát trách em: “Này, này ... Mitsuko Nakashima Okita diễn Nôm là cô Xuyên Đảo Phương Tử, cô không muốn nghe, thấy sự thật hiển hiện trước mắt, xảy ra hằng ngày ở trong chợ đời và vạn cảnh chung quanh…mà chỉ mê thích nghe người ta phô diễn dỡ và nói dối thôi ... thật đáng tiếc vô cùng…!”. Em đang giận cũng phải phì cười…!!! Chợt nghĩ Mary nói rất có lý, đời sống đang hiện hữu, thường hằng ... tại sao em cứ mãi vu vơ quan tâm ham mê những chuyện không đâu ? Sau đó em không còn đọc những gì… gì ... về Triết nữa cả !

Tôi mỉm cười với câu chuyện vui… vui của Mitsuko và Mary…!!! Tôi hiểu và thường ba phải nịnh đầm tán thán với mấy cô ả Triết Gia, chiếc cành ... không qua khỏi ngọn cỏ, dễ thương, hồn nhiên chưa nhiễm vết nám và nét hằn của cuộc đời này .
- Anh biết em suy nghĩ gì không ?
- ...
- Người ta bảo “Triết” rồi thì định nghĩa và xếp đặt thành hệ thống này, hệ thống nọ, ... Như vậy có phải chăng họ đóng khung và giới hạn Triết rồi không ? ... !
- ...
- Em sống với hiện tại của chính mình, có nghĩa là: Không than van vì những hoàn cảnh bất toại ý buồn phiền, hoặc tiếc nuối quá khứ an vui hạnh phúc thời qua, và cũng chẳng bất mãn hiện tại để mong cầu tương lai tốt đẹp hơn sẽ đến ... Vì em nghĩ tương lai mong cầu, ước muốn được, ... nếu có đến rồi cũng sẽ với rất nhiều thiếu xót mà thôi ! Tự do là sống ung dung trong ràng buộc; hạnh phúc là tự tại giữa khổ đau phải không anh ?
- À ... Triết Lý lắm đấy! Anh có cảm tưởng em giống như bà giáo già của anh lắm vậy .
- Em lớn rồi chứ bộ, ... anh cứ bắt “nhi đồng” nhỏ hoài sao ?
- Ồ, thì lớn lắm ! Tôi đưa tay làm dấu cao lớn bằng khoản một ngón tay út! Mitsuko ngéo ngón tay tôi rồi cười !!!

- Em đang đọc sách Zen của Daisetz Teitaro Suzuki hay lắm để hôm nào em kể cho anh nghe ! Ông ta luận: “Rễ Thiền mọc ở Ấn Độ, cây Thiền lớn ở Trung Hoa và hoa Thiền nở tại Nhật Bản”, ... Quê hương của cha mẹ em .

- Thiền trực ngộ vô ngôn tự, sao ông Suzuki luận thuyết nhiều và rườm rà thế ? Hay là cô Phương Tử của xứ Phù Tang định ví von bởi chính vì thế nên chư Tăng Nhật Bản cưới vợ, nhập “Thiền The” sinh nhiều Thiền nhi đồng ấu, nam nữ, đực cái, trống mái đầy đàn, đầy đống,… để hoa Thiền Hộ Sản, Bảo Sanh Đường, Điền Trung Đủ Thứ Lang, Xuyên Đảo Phương Tứ Xứ, Sơn Hà Chi Đạo Tặc,…nở rộ như hoa Anh Đào khắp nước Nhật chăng? Tôi trêu nàng .

Biết tôi cố tình trêu ghẹo, Mitsuko giả vờ nổi máu truyền thống Samurai (chắc có tí xíu mỏng… mỏng thôi!) Nàng vung tay như Samurai Miyamoto Musashi kiếm sĩ Nhật Bản tuốt gươm Sho-Dai Kunimune Tachi ra khỏi vỏ và chém “xoẹt” ngang đầu tôi ... rồi cười cợt ra điều thích thú ! Cô ả mới luận Thiền xong lại giở thói sát sinh , ... Tôi thiện tai ... thiện tai ... mở Tứ Vô Lượng Tâm rất ư là Tăng Chi Bộ Kinh giảng rằng: Evam me sutam, Như thị ngã văn, tôi nghe như vầy ... một thời Đức Phật ngự tại ... ngự tại (chết mất quên địa danh rồi!) có vị Chư Thiên ... Chư ... (lại quên luôn danh tánh!) đảnh lễ Đức Phật xong bèn hỏi rằng:
- “Bạch Đức Thế Tôn bằng phương pháp nào Đức Thế Tôn nhập Niết bàn…?”. Đức Phật trả lời:
- “Như Lai không đứng lại, không bước tới và Như Lai nhập Niết Bàn…”. Đức Phật biết được chư Thiên ... chưa lãnh hội được Pháp! Ngài bèn giảng thêm: “Vì đứng lại tất bị chìm đắm, bước tới sẽ trôi lăn ...!”.Và chư Thiên ... À không, Dạ Xoa Nakashima Phương Tử đoạn lìa mọi triền cái không còn thói tham, sân, si, ... thân tâm khinh an, phỉ lạc bước vào vườn Yêu ... hi ... hi !!! Nhưng Mitsuko không phải tay vừa, đã bảo: “Trời sinh Du sao lại còn sinh Lượng…!” ? Cô ả thể hiện nữa phần dòng nhà con cháu Japon Thái Dương Thần Nữ không để kém phần thua thiệt “bèn” nhanh nhẩu chanh chua me khế, tân toan, ôn hàn táo thấp nhiệt kê toa đáp lễ tận tình:

- Anh biết không ?... Có một chú Tiểu vốn tính vừa ba xạo, lại thêm tật nhiều chuyện, hay nghe ngóng chuyện thị phi thiên hạ rồi đem về chùa kể trình lại cho sư phụ:“Bạch Thầy, chị Mỹ ngoại tình bị người biết được, gả Hồ điêu ngoa gian dối như vẹm, chú Phú Lang Sa thập thò muốn trở lại mảnh vườn xưa đã bị bạn hữu hất chân ... anh Hoàng hay phịa chuyện và không săn sóc cưng chìu bổn cô nương ...! Sư Cụ khoát tay ra dấu ngưng lại và bảo: “Tĩnh Ngạn ... Hãy để rác rưởi yên ở đống rác hoặc phụ giúp người dọn dẹp, ... Cớ sao con mang về Chùa nhiều vậy ?”!

Kinh hãi thật! ... Tôi chỉ mới đụng chạm chủng tộc nhẹ nhàng và nhỏ xíu như móng tay mà cô Poupée Nhật Bản dễ thương của tôi phút chốc trở mặt chua ngoa ví von và áp tặng cho tôi ngang hàng với rác rưỡi... hi ... hi !!! Tuy trêu ghẹo và sát phạt nhau tận tình,… nhưng: “Quân Tử thức tự đa ưu hoạn” hãy cứ để cho cô ả tưởng bở là: “Lão Ô bách tuế bất như Phượng Hoàng sơ sinh” mà lị, vả lại dù cho:
Đá dựng ngàn năm hoang đường khói độc
Nhìn thăng trầm biển khóc tình duyên

Hai chúng tôi như tự tiền kiếp vô thuỷ, vô chung nào đó đã từng có gì… gì với nhau mà:
Còn luân hồi là ta còn nhập cuộc
Còn ra đi còn trở lại bên người

Và những năm chờ, tháng đợi để được vài ba ngày phép ngắn ngủi được gần bên nhau, không đặng bao lâu lại phải xa nhau, đời Lính gian khổ nay đây, mai đó khiến những ước mơ cuộc sống bình thường và giản dị cũng khó mà thực hiện, mỗi khi dừng quân trú đóng ở vùng tạm bình yên, qua vọng gác đêm trăng tôi nhớ Mitsuko và có lẽ nàng cũng tựa bên khung cửa sổ nhìn theo trăng mà nghĩ đến tôi. Hai chúng tôi có giao hẹn với nhau như vậy:
Sương đêm đêm nhỏ buồn trên phiến lá
Nhớ trăng từ muôn kiếp trước xa xôi ...!

Nhưng bây giờ ở đây bên cạnh Mitsuko bỗng dưng tình cảm tôi lại e ngại và ngập ngừng biết mấy ...? Tôi thoáng buồn man mác nhìn vào khoảng chiều hôm trước mặt như lỡ chuyến tàu đêm…!
- Anh trở về với nhiều thay đổi và không biết có muộn màng không?
Tôi vụng về hỏi nàng như trai mới lớn tỏ tình lần đầu tiên!
- Em nghĩ thật đúng lúc và biết rõ tâm tư, tình cảm của mình ... cũng như hoàn cảnh hiện tại và mai sau thật tri túc ... em mong anh về mà! Những chiều tan học về em thường đi ngang qua đây ngóng trông anh đã về chưa ? Em luôn nhớ đến anh! Mitsuko nói nhỏ câu cuối thẹn thùng! Tôi rất xúc động và cảm thấy có lỗi với nàng vô cùng,… đã hơn hai năm qua tôi chẳng viết gởi cho nàng lá thơ! Nhưng trong thâm thẫm tâm tưởng tôi luôn nhớ đến nàng! Tôi như Hạc nội mây ngàn:
Hỡi gió hãy ru ...
Lũ Hạc nội mây ngàn
Về đây chung điệu hát
Trường ca Thành Nội cũ ...
Này, Hồ Gươm liễu buông dáng rũ
Chiều sương mù lành lạnh hơi Thu
Đền Quan Thánh lấp lánh ánh trăng vàng
Chuông chùa điểm sáng
Huế ơi! Lăng Tẩm cung Đình
Xa xưa lắm ... tiếng vang rền xa mã
Đây Gia Định miền Lục Tỉnh
Câu hò sao đậm tình ...!
Hẹn nhau mùa lúa chín
Anh với mình nên duyên
Tiếng loa vang gọi Chàng
Lòng Thiếu Nữ rộn ràng!
Hối tiễn bạn tình lang
Lên đàng trời vừa hừng sáng
Gởi theo ánh mắt mơ màng
Chiều mưa Đồng Tháp nhớ hàng quân qua
Trịnh Khải Hoàng

- Đưa Anh đến thăm Ba, Mẹ em, khuya nay anh đưa em đi lễ ...
- Vâng ... đi với em!
Tiếng nàng nhỏ nhẹ vừa đủ để tôi nghe như sợ gió đêm sẽ làm tan loãng hết.

Trên đường đi đến ngôi giáo đường… đôi khi tôi dừng bước để được nhìn gió khuya lay động vờn tà áo Mitsuko bay phất phơ ... Nàng có biết lòng tôi hạnh phúc lắm không ? Tôi hát nhỏ bản nhạc lời thơ rất Tình Tứ gởi nàng âm thầm:
Lại một noél nửa
Mấy mùa giáng sinh rồi
Anh ở đồn biên giới
Trông về một khung trời!
Nhất Tuấn

- Đi anh ! ... cứ nhìn em hoài xấu hổ chết ...!
Tôi thấy ánh mắt Mitsuko như vì sao huyền diệu trong đêm, má nàng thoáng thẹn thùng, tim tôi reo vang, ... ! Ngoài kia chuông nhà thờ đổ rền bấy giờ người ta làm lễ nửa đêm .

Trịnh Khải Hoàng