PDA

View Full Version : Đời Nhảy Toán - Lôi Hổ



Longhai
10-13-2012, 11:00 PM
Đời Nhảy Toán - Lôi Hổ


Đoàn 1 Liên Lạc / Chiến Đoàn 1 Xung Kích


1-
Tiểu đoàn Phi-Hổ Nùng . Lúc này chỉ còn một đại đội. Người Mỹ đã sa thải một số Biệt-kích-quân không đủ khả năng. Riêng tôi sau chuyến hành quân tập kích vừa qua. Được chấp nhận trong cuộc thi tiếng Anh. Với chức vụ thông ngôn và theo lời tôi yêu cầu…

Cuối năm 1969, tôi thuyên chuyển sang Đại-đội-thám -sát (ReconCompany) và nhận thông ngôn Toán Indiana. Toán này đang chờ bổ sung bởi chuyến xâm nhập vừa qua, toán chỉ còn trở về người toán phó Mỹ và hai Biệt-kích-quân.

Thời điểm này, đầu năm 1970. Chương trình Biệt-kích của Nha-kỹ-thuật không còn ở mức quan sát viên như trước. Chuyển qua giai đoạn hành động. Những sĩ quan, hạ sĩ quan đến trại mỗi ngày một đông. Hai toán chờ bổ sung. Indiana và Idaho được chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật với tên mới Thăng-Long và Bắc-Bình.

Toán chúng tôi, Indiana bổ sung quân số xong, đươc nhận tên mới Thăng-Long. Toán trưởng Thiếu úy Bửu-Chính, toán phó Trung sĩ Lê Nam. Toán được đưa về Trung-tâm-huấn-luyện Long-Thành ở thành phố Biên-Hòa thụ huấn.

Trở lại trại CCN-Đà-Nẵng, cái nắng hầm hập của ngày hè thật khó chịu. Gió biển không đủ để đẩy lùi cái nắng nóng. Cầm tờ phép năm ngày cộng thêm hai ngàn đồng tạm ứng trên ban lương. Toán tha hồ vung vít ngoài phố. Riêng tôi và Thiếu úy Bửu Chính có chương trình riêng. Ngày đầu về Phước-tường thăm nhà tôi, rồi sáng hôm sau trực chỉ Huế. Xe đến Nam-ô, nhìn ngọn núi cao vợi án ngữ mà khâm phục ông cha ta với công mở cõi. Xe đợi giờ để lên qua đèo. Gió biển hắt thêm cái nóng từ cát trắng và những cụm phi lao thấp tè chẳng che được mát trộn lẫn mùi tanh nồng của biển theo gió hắt lên đi qua cái làng chài bên tay mặt. Chiếc xe gầm gừ leo dốc chậm chạp, mặt đường nhỏ hẹp bên vách đá thẳng đứng và vực thẳm bên này. Dưới chân nước biển xanh ngắt. Ngồi nghỉ trên trạm dừng chân đỉnh đèo, không khí trong lành, cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bằng cảm nhận giây phút chợt đến, lòng tôi như thoát tục lâng lâng bay bổng, nhẹ tênh cùng cảnh vật. Tiếng ơi ới gọi nhau lên xe làm tôi bừng tỉnh ngất ngây. Bửu Chính sau lưng nắm tay tôi:

"Làm chi mà đừ người ra rứa, bộ lạ lắm sao…"

Trấn tỉnh, tôi cười nói với hắn:

"Cảnh đẹp quá, tớ đang nghĩ tới Hoàng-thân Tôn-thất-Mỹ, tới được đỉnh đèo ngài tức cảnh sinh tình, cùng phu nhân thoát tục, hì hụp. Kết quả thượng mã phong, để lại tiếng khóc của phu nhân…"

Nghe động đến gia tộc của hắn, nhăn mặt miệng chửi thề kéo tôi vào xe xuống đèo nhưng xe cũng chậm như lúc lên.


2
Ngồi trong xe lắm lúc giật mình, tưởng tượng chỉ cần một sơ sẩy hoặc xe hư là có thể lao thẳng xuống núi tắm biển. Phía tay mặt xuất hiện bên dưới phong cảnh tuyệt vời. Một cái lõm biển chạy vòng dài theo núi, mây lãng đãng dấn trôi, cát trắng mịn leo lên như muốn lấn đá núi, xa xa thấp thoáng vài con tầu cá điểm lồng vào mầu xanh biển cả. Ba ngày vui chơi ở Huế, Bửu Chính đáng mặt thổ địa… Ngạc nhiên đầu khi về tới nhà hắn. Mọi người đều gọi hắn là mụ, mụ Chính. Hàng cây cảnh tuyệt đẹp ngoài sân chạy theo dãy hàng hiên vắng lặng treo những lồng chim. Dưới tàn xanh xum xuê cây Ngọc-lan tỏa mùi thơm ngào ngạt. Cảnh tĩnh lặng như muốn dấu đi hay hắt bỏ mọi cuộc sống náo nhiệt. Ngồi trên sập gụ. Hai mẹ con đối đáp hỏi nhau bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, tiết kiêm lời nói và người đàn ông đứng tuổi sau lưng, khi đặt ba tách trà rồi lui đứng đó im lìm. Bà mẹ Bửu Chính quay sang hỏi chuyện tôi. Trong sự e dè tôi chậm rãi trả lời. Vài cái bánh trong cái dĩa to được đưa lên và những người trong nhà nghe chuyện chạy lại thăm cũng chỉ nói ít, phần đông vòng tay cúi đầu chào, khép nép. Cả buổi chiều dành cho gia đình tôi chứng kiến nhiều phong tục cũng như lễ nghi, phép tắc khác thường. Tỏ ra người lớn Bửu Chính nét mặt luôn trang nghiêm, cử chỉ khiêm tốn. Có những ông bà đã già gặp hắn vẫn phải cúi đầu, gập mình chào hỏi. Bữa cơm tối gia đình, lần đầu tiên tôi mới thưởng thức được cái mùi trong chất gạo ngọt nồng hương lúa, dai, dẻo của gạo đặc sản xứ Huế, gạo De An-cựu. Ăn với chim sẻ quay dòn. Trên chiếc Honda dame xanh. Bửu Chính chở tôi thăm thú kinh thành, lăng tẩm, hồ vọng… Có khi xa tít ngoại thành qua những đồng lúa, ao sen, e ấp quanh hàng cây cao chạy dài xa tận đồi dốc thoải, ngắm mà mê cả mắt. Bầy chim trắng bay theo đội hình chữ V xa xa một con vẻ già yếu, đang cố theo sau.

Buồi chiều sông Hương vắng lặng, trên bờ thưa thớt, người ta đợi nắng khuất. Đúng như vậy, mọi sinh hoạt đều đổ dồn ra, chả mấy chốc mà náo nhiệt, những đôi gánh đặc trưng bán đồ ăn quà, đến cái thúng đội trên đầu bán hột vịt lộn, mà cô hàng chỉ rao có một tiếng, nghe lầm tưởng đến cái danh vật muôn thủa mà phát ớn, mặt đỏ bừng… Dưới dòng sông đò cũng tấp nập chẳng kém, inh ỏi trao đổi thuê mướn, ngã giá. Tay chỉ bên kia sông nơi sản xuất thứ gạo de nổi tiếng. Trên đồi chùa Thiên-mụ cô đơn lặng lẽ.


3
Hai đứa bước xuống con đò thuê, khá lớn so với đò xung quanh. Ra giữa giòng, đò xuôi về hướng hạ lưu. Không gian êm đềm, sông nước tạo cảnh hữu tình. Trăng đã lên, sao sáng lung linh. Chiếc ghe con cập vào con đò đang neo, mang lỉnh kỉnh những thức ăn cùng hai kiều nữ sông Hương, bạn học của Bửu Chính lúc hắn chưa đi lính. Qua màn giới thiệu, với ánh mắt linh hoạt, nhưng cử chỉ e thẹn nhẹ nhàng. Người đàn ông chủ đò sáp xếp đồ ăn cùng rượu và hai tiểu thư bắt đầu vào cuộc vui đờn hát. Ly rượu đầu trang trọng giao hảo với tiếng cười không ngớt. Bầu không khí nhịp nhàng chuyển động. Bửu Chính tỏ ra thích thú hết cỡ với những bài hát hò đặc giọng, đôi lúc nhẩy nhổm lên với tiếng mõ đúng điệu nhịp, tay vỗ vẻ suýt soa… Chưa quen với bàn tiệc kiểu này, tôi chỉ biết làm theo và bắt chước. Ngừng tiếng đàn hát hai ả chia nhau tôi và Bửu Chính… Nói cười ngọt lịm chẳng thua tiếng hát… Có lẽ còn dễ nghe và khoan khoái hơn… Rót vào tai êm ả, mê ly… Cùng rượu nồng thi nhau biến hết. Chả mấy chốc,đêm vắng lặng, bóng trăng đã ngả xuyên qua lỗ vách liếp đò… Cả bốn người có vẻ khật khừ, những câu hát chợt nổi, ngắn không bài bản, tuôn ra tùy hứng… Tự nhiên bàn tay sôi nổi đi tìm cảm giác rồi những tiếng cười ré lên "Nhột, mần chi mà nhẽo rứa" Cứ thế, trong đỉnh của sự cợt nhã… Lúc ngối lúc lăn. Ông chủ đò đã mang ra chai rượu thứ hai. Dĩa gà luộc to lớn và chén muối tiêu chanh ngổn ngang như chiến trường tàn cuộc. Cái phao câu gà cứ bị đẩy qua lại tênh hênh một mình như thách thức. Vai đã ghì vai và miệng mặt cũng gần nhau phà hơi thớ nóng chẩy… Thoạt tiên ngần ngại, dần dà bạo dạn hẳn lên. Ngọn đèn chao đi theo con gió đêm lạnh và đỉnh điểm cuộc vui bày ra trong những cái lắc lư, sóng vỗ mạn đò… Đờn một bên, mõ một nẻo, quấn lấy nhau trong tiếng kêu trầm thống, thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nã. Ngọn đèn gió đã tắt đi từ bao giờ, ngoài kia ánh trăng soi rõ làn sương mù như đang e ấp với giòng sông. Đò đêm nay, lần đầu tiên khám phá mê cung, tôi mất đi cái đáng nhớ cuộc đời… Nhưng dù sao nét lãng mạng của cuộc chơi đã xóa ngay trong trí những băn khoăn, thẫn thờ… Lăn tùm xuống sông trong nước lạnh giá, tôi khoan khoái tháo bỏ những vết sước trên thân thể. Bơi hai vòng quanh đò, thầm nghĩ đã sạch sẽ. Vào trong khoang nằm vật xuống ngủ lăn như chết.


4
Năm ngày nghỉ phép, tràn đầy những cuộc vui, tâm hồn thoải mái. Toán cũng đã dần tề tựu. Sáng nay thiếu úy Chính được gọi lên phòng hành quân (TOC) Nhận mục tiêu và dự thuyết trình sơ khởi. Chiều đến lên kho lãnh đồ trang bị hành quân. Sau cơm chiều, chiếc xe jeep đưa toán nhập khu cấm (Isolation). Nghĩa là từ giờ phút này cho đến lúc kết thúc hành quân. Toán không được giao tiếp với bên ngoài. Cuộc thuyết trình hành quân chính thức bắt đầu vào lúc tám giờ tối. Thiếu úy Bửu Chính và Trung sĩ Lê Nam dự thuyết trình. Bốn đứa tôi coi TV và tán gẫu chờ đợi. Khoảng hai tiếng sau Chính và Nam trở về thông báo hành quân và phân nhiệm vụ cho mỗi người… Toán chúng tôi sẵn sàng hành quân với thành phần: Hai cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật và bốn Biệt-kích-quân (Special Commando Unit) SCU. Toán Thăng-long cùng tám chiếc Kingbee H34 vừa mới đến bãi trực thăng trại lên đường bay ra Quảng-trị. Nơi đặt Căn-cứ-xuất-phát nắm trong khu vực Sư-đoàn 101 nhẩy dù Mỹ… Khoảng mười giờ sáng, một Trung sĩ người Mỹ đến thông báo toán trưởng chuẩn bị đi xem bãi đáp xâm nhập.

Thiếu úy Bửu Chính cử tôi đi thay thế. Ngồi trên xe ra phi trường. Chiếc OV10 đậu sẵn chờ đợi… Lần đàu tiên tận mắt tay sờ… Lòng thán phục nền kỹ thuật tuyệt vời, nét thiết kế mỹ thuật, kiến trúc vững chãi và mọi vật hoàn hảo đến từng chi tiết. Người Đại úy phi công dẫn tôi leo lên buồng lái phía sau, tay chỉ vào cái khoen mầu vàng chữ D ngang, chốt an toàn mầu đỏ bên dưới. Hệ thống cấp cứu này nằm dưới giữa chân ghế của phi công và giảng giải”:

“Mệnh lệnh tôi sẽ truyền cho bạn, hãy nhìn vào gương chiếu hậu trước mặt tôi. Trường hợp khẩn cấp, tiếng báo động reo vang và xin để ý khi nào tôi hô: "Emergency… go"

Bạn hãy rút cái chốt an toàn dưới khoen vàng đồng thời nắm khoen chữ D kéo mạnh lên trên. Đó là ghế thoát hiểm.”

Rời phi trường chiếc Covey lên cao bỏ lại sau lưng biển xanh. Núi cao trước mặt và dãy đồi xanh ngắt bất chợt dâng lên dãy núi đá loang lổ. Ngọn núi lẻ loi dẫn vào lòng chảo Khe sanh. Không hổ danh là loại trinh sát cơ tối tân. Từ ghế ngồi, phi công có thể quan sát mọi hướng, kể cả dưới bụng phi cơ. Chính sự thon nhỏ đã lấy hẳn sự che khuất tầm nhìn, đáng nói hơn bao phủ trên đầu hoàn toàn bằng kiếng trong… Đặc biệt không có cửa hông, người phi công phải leo qua thành máy bay đề vào ghế ngồi. Tiếng gọi trong mũ bay, nhìn lên kiếng chiếu hậu phía trước, gương mặt Đại úy phi công nhìn tôi tay chỉ và giọng nói trong mũ bay:

"Sửa soạn vào mục tiêu thả toán Lôi-hổ"

Tôi cười ra dấu hiệu tốt, lòng thích thú vì ở vào vị trí đi Covey thả toán… Nhớ lại buổi chiều khi toán tôi vào khu cấm, cũng là lúc toán của Đại úy Minh, sau này là Chỉ huy trưởng Đoàn 2…Cùng toán phó Trung sĩ Ban (Phạm văn Ban) và bốn Biệt kích quân lên xe ra phi trường. Chiếc Covey đang vòng trên khu vực bãi đáp. Sáu chiếc trực thăng lộ rõ dần. Tiếng người phi công gọi tôi:

"Chú ý chuẩn bị, tôi xuống để chỉ điểm bãi đáp"

Toàn bộ trực thăng đã ở trên mục tiêu. Covey đang liên lạc với trực thăng và lao nhanh xuống. Tôi nghe thấy tiếng chú ý và tiếng hô Bingo của phi công và trên những chiếc trực thăng nhìn xuống. Covey là điểm còn tiếng Bingo là bãi đáp. Covey lao vút lên và đảo vòng. Dưới kia chiếc Gunship đang bắn dọn bãi. Nhanh và chuẩn cuộc thả toán xâm nhập chỉ trong vòng mười phút.


5
Covey và trực thăng đang vòng vòng, chờ báo cáo của toán, tín hiệu tốt đẹp. Sự yên tĩnh dần được trả lại cho bầu trời. Covey đưa tôi đi xem bãi đáp. Bầu trời xanh ngắt, ánh nắng vào trưa chói chang. Dưới kia hiện ra dãy đồi núi đá loang lổ và cây cao thưa thớt. Đó là sườn của ngọn núi đá cao, vách thẳng đứng một bên, phía dưới một mầu xanh rì chạy dài tít mù… Nhìn lên phi công theo tiếng gọi:

"Hải, bãi đáp là hố bom"

Theo tay chỉ, toàn bộ bãi đáp tôi nhận ra ngay… Lác đác xung quanh là những cây cao cạnh cái hố bom rộng.

"Đại úy, bay lại một lần nữa để xem địa thế".

Quan sát với địa thế như vậy, toán phải thật nhanh chóng ẩn mình. Tôi chọn đám bụi rậm chạy dài theo hướng nam để ẩn nấp trước khi lấy lại phương hướng xâm nhập mục tiêu. Trên đường về, cảm giác nhẹ nhõm, tự mãn được trên chiếc Covey. Một dịp hiếm có và hãnh diện vì rất ít mục tiêu phải cần đến bay không thám. Tường trình với toán về bãi đáp, chúng tôi thống nhất cách hành động… Thiếu úy Bửu Chính lúc này mới thổ lộ:

"Tau không chịu nổi những cú xuống nhanh và lên gấp của máy bay".

Qúa trưa ngày hôm sau Thiếu úy Chính và Trung sĩ Nam lên dự thuyết trình không quân. Sau thuyết trình (Briefing) toán chúng tôi có một tiếng đống hồ chuẩn bị. Mọi người phải thắt đai dây sì líp qua hai háng, móc sắt sẵn sàng trước bụng. Đôi găng tay được phát đề chống cái nóng cọ sát giữa tay nắm và giây tụt. Bốn chiếc UH1 Huey và hai Huey Gunship trên sân, phi hành đoàn lục tục lên máy bay. Thiếu úy Bửu Chính và tôi (Nguyễn văn Hải) lên chiếc đầu. Cón lại Trung sĩ Nam (Lê Nam) cùng Sơn (Lê văn Sơn) Mẫn (Đặng văn Mẫn) Phùng (Trần Phùng)…Sơn, Mẫn, Phùng và tôi đều là Biêt-kích-quân… Theo thuyết trình Chính và tôi trên một trực thăng đổ bộ trước, tiếp đến chiếc thứ hai sẽ đổ bốn người còn lại. Dây tụt dài ở mức ba mươi mét. Một Thượng sĩ Mỹ kiểm soát xem móc sắt trước bụng đã được gài vào dây tụt hay chưa… Mọi việc hoàn tất bằng cái dấu hiệu number one của Thiếu-tá Trưởng căn cứ. Đoàn trực thăng cất cánh. Ánh nắng chiều xuyên ngang rọi trực tiếp mầu vàng khè chói lọi vào cứa trực thăng, quang cảnh bên dưới một mầu xanh thẫm chứa dấu bí hiểm. Quay sang phía cửa bên kia ra dấu hỏi Chính tốt chưa? Ông toán trưởng mới toanh của toán tôi mà cả buổi chiều qua Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) Đại đội trưởng Đại đội Thám-sát đặc biệt lưu tâm và truyền thêm nghề "Nhảy Toán"… Đoàn trực thăng và cả Covey đang trên mục tiêu, tôi nhận ra rõ khoảng núi đá thẳng đứng mà bên kia mới là bãi xâm nhập. Chiếc Gunship lao xuống, loạt rocket phóng xuống bãi đáp đồng thời cây đại bác 20ly bên hông khạc ra những loạt lửa dài. Người Thượng sĩ Mỹ ra hiệu. Trưc thăng từ từ đứng trên hố bom.

Tay trên tay dưới trong sợi dây tụt, chân chạm càng máy bay, tôi búng người lao xuống mắt hướng về phía dưới. Tay mặt nhấp siết hai lần dây tụt để giảm bớt lực xuống và rồi theo mắt nhìn dưới đất, ghì sợi dây một lần nữa, chân vừa chạm đất. Đưa tay tháo cái móc sắt khỏi dây tụt. Bên kia Chính cũng vừa xong. Trực thăng kế tiếp và bốn người còn lại xuống đất an toàn… Đúng như dự đoán cách bãi đáp không xa, khu rừng chồi quả là nơi che chắn lý tưởng. Thật nhanh chúng tôi biến vào khu rừng và yên tâm với địa thế hiện tại, nghe ngóng động tĩnh. Tôi báo cáo với Covey toán an toàn và đang di chuyển… Muỗi nhiều, tiếng vo ve săn đuổi. Toán phải dừng lại thoa thuốc muỗi. Tôi nói với Sơn đi đầu quan sát tìm chỗ ngủ.


6
Trung sĩ Nam và Phùng vừa gài xong hai trái mìn Claymore phòng thủ. Trời tối đen như mực, bên một hòn đá lớn, dựa lưng vào ba lô, nghe tiếng nhạc rừng trời đêm. Cảm giác lẻ loi một mình chân bỗng run lên lành lạnh. Dù rằng quanh đây đồng đội luôn phát ra những tiếng cựa quậy, đổi thế nằm. Thiếu úy Chính đang ho vào vặt áo bịt lên miệng, kèm theo hắt hơi đứt quãng, khô trong họng. Hắn đang dị ứng với núi rừng đêm lạnh. Một vệt ánh sáng mờ vừa chiếu qua, nhỏm người dậy nhìn lên chợt hiểu. Trên đồi bên kia, địch đang truyền tin cho nhau bằng ánh đèn pin. Tiếng ầm ì, ầm ì như mỏng manh trong gió vọng lại có lẽ còn nhỏ hơn nhiều so với cái cựa mình của đồng đội. Ánh đèn pin trên kia vẫn lúc mở lúc tắt theo cái khóa truyền tin. Bầu trời muôn ngàn sao, bất chợt một sao xẹt tạo một vệt ánh sáng đâm xuống hướng nam. Tiếng xe chạy mỗi lúc một rõ dần. Vẻ nặng nề chở nặng hay xe đang lên dốc. Ngọn đèn pha loang loáng có lúc bị che khuất bởi vật cản hay lùm cây bên đường. Ánh đèn pha lúc này rọi thẳng về hướng chúng tôi chỉ cách nhau khoảng một trăm mét…Chúng tôi đang ngủ cạnh con đường. Tiếng động cơ tạo sự rung động lan truyền theo đất và cả không khí âm vang dậy núi rừng. Thấp thoáng bóng người đi bộ theo hai bên xe. Nhờ ánh đèn pha, nhìn kỹ có người đeo súng quần áo bộ đội xen lẫn đám người ăn mặc thường tay cuốc tay sẻng. Ngang tầm chỗ toán đang ẩn núp. Bốn chiếc xe và đoàn người đột nhiên dừng lại. Đã có lệnh truyền trong cái lao xao tiếng người nhưng chẳng rõ họ đang nói gì?…Lại gần Thiếu úy Chính, tôi bàn định… Phải di chuyển ngay trong đêm, cứ thẳng hướng mục tiêu. Để tránh xa cái con đường nguy hiểm này. Nam và Phùng đã tháo xong hai trái mìn. Toán lên đường mò mẫn trong đêm tối. Ánh sáng lân tinh từ chiếc la bàn của Sơn thi thoảng chợt lên rồi lại tắt… Tiếng gà gáy từ bên dưới núi vang lên, vọng lại xa hơn tiếng thú rừng vẻ buồn tình hay cả hứng tình hú gọi, gầm gừ hoặc vui thú reo vang. Di chuyển trong đêm tối thật vất vả, nhưng nhờ vào địa thế trống trải không phải mở đường, cái khó và mệt trong lúc này chính là độ dốc. Núi mỗi lúc một cao làm trì nặng đôi chân. Một tiếng hú lớn ngân vang, phía trên xa có tiếng đáp lại, đồng ca với đàn gà gáy dồn dập dưới dốc núi ngụ ý như đón chào ngày mới… Mệt thì nghỉ rồi lại leo… Nhắc Thiếu úy Chính căn hướng đi cho đúng, thầm nghĩ sao mục tiêu cứ ở mãi trên cao … Làn gió lạnh buốt hắt cuộn vào như ôm chặt chúng tôi, kèm theo mây mù giăng giăng trong cái sáng mờ mờ, đầu tiên của một ngày. Ngồi nghỉ lại bên tảng đá lớn quanh gốc cây. Toán chuẩn bị lương thực cho một ngày. Đun nước sôi trong cái ca nhôm, đổ nước vào hai bịch gạo sấy pha cà phê và tận hưởng điếu Capstan… Thèm muốn chết… Bửu Chính đang lo soạn bức điện và định hướng trên bản đồ vị trí con đường đêm qua. Ăn sáng xong toán bắt đầu di chuyển. Cây rừng không rậm cũng chẳng thưa tạo được tầm nhìn tốt nhưng cũng rất dễ để lộ tung tích… Đành vậy còn hơn khu rừng thưa đêm qua. tiếng ò ò của Covey bao vùng, chiếc O2 (FAC) còn nếu OV10 thì ấm hơn ì ì. Toán dừng lại , tôi bảo Mẫn bật điện đàm… Covey đang gọi tôi trả lời và chuyển ngay bức điện… Tiếp tục di chuyển theo triền dốc thoai thoải, khu rừng này có cái sướng là không có lấy mợt con vắt…Tiếng người ho làm chúng tôi theo tự nhiên ngồi thụp xuống, nhìn vào chỗ phát ra tiếng ho, chả thấy gì?. Lại ho nữa, lần này sặc sụa…


7
Rồi tiếng nói như còn ngái ngủ, chậm rãi "Ho mãi vậy để tớ ngủ, đắp cái khăn vào cổ đi" Chúng tôi đồng nhìn nhau, tôi tự hỏi chẳng lẽ là ma, mà ma sao nói được… Chợt hiểu tôi lấy tay chỉ chỉ xuống đất và những cái gật đầu đồng tình. Phất tay ra hiệu lẩn trốn, di chuyển trong thế khum khum…Một bóng người chui ra từ đất phía bên kia triền dốc vừa ngáp vừa sững sờ nhìn chúng tôi. Người gần nhất là Trung sĩ Nam. Cây Car 15 của hắn nổ khoảng nửa băng, phát một. Bóng người đổ ra sau. Toán lập tức ra sức nhắm chạy theo nhau mau mau thoát càng xa càng tốt…Một địa thế có vẻ thuận lợi cho tác chiến. Tôi gọi mọi người dừng lại, đổi ba lô cho Mẫn rồi bật máy liên lạc với Covey…Ngay tức khắc có tiếng trả lời, tôi báo đụng địch và xin trợ giúp khẩn cấp…Covey trả lời đến ngay. Chúng tôi tiếp tục di chuyển, càng đi dốc càng cao, cây ít nhưng đá thì nhiều. Lúc này Covey đã trên đầu và gọi…

-“ Zulu Romeo đây Oscar November, cho xin số nhà đi.”

Cái ánh nắng buổi sáng bởi những tảng sương mù che khuất nên tôi đành nói với thiếu úy Chính cho một người cầm panel ra khoảng trống mé ngoài phía thung lũng chờ máy bay…Nhớ mật hiệu mầu cam.

- “Oscar november, tôi đang ở hướng tám giờ, anh vòng sang phải qua thung lũng, ngay trên núi.”

-“Oscar november đây Zulu Romeo, cứ tiến tới hướng 11 giờ…12 giờ. Panel mầu cam đang chờ trước mặt.”

-“Ok thấy rồi bạn nên cố lên phía trên, có những tảng đá cao, ít cây rất dễ cho không trợ, sẽ có ngay đồ chơi, đang xin cho bạn triệt xuất.”

-“Cám ơn Oscar november, thoát.”

Chúng tôi đi thêm 100 mét, quả đúng những tảng đá mọc chen cùng cây thấp. Bãi lý tưởng để câu dây trệt xuất. Lập ngay vị trí phòng thủ. Bời chắc chắn địch sẽ theo chân chúng tôi. Trungsĩ Nam vừa gài xong trái Claymore và hai trái mìn M14… Toán chờ đợi. Trái mìn M14 nổ tung và rồi những tràng đạn tới tấp, sối sả của địch bắn vào. Cây M79 của Phùng nổ ác liệt tạo nên bụi khói che chắn tầm nhìn. Với vị trí lúc này ở vào địa thế cao chơi từ từ lựu đạn là tốt nhất…Một tiếng nổ lớn và rồi loang theo những lửa và sức nóng. Trái B40 của địch nổ tung trên tảng đá lớn. Loạt hơi nóng bao trùm đánh bạt cái lạnh ban sáng. Chúng tôi ở vào vị thế vượt trội và sau màn lựu đạn và M79. Địch có vẻ chững lại, cùng lúc chiến trường yên ắng nặng nề. Liên lạc báo cáo nhanh với Covey. Tôi nhắc Trung sĩ Nam "Coi chừng trái Claymore, tụi nó sắp tấn công". Một tiếng xẹt, vèo ngay trên đầu, cây 79 của Phùng vừa phát hiện tên xạ thủ B40 của địch. Ôm trọn trái 79, rồi tiếng nổ và tên địch gập xuống như ai đó gấp tờ giấy…Không nghe tiếng nổ trái B40 của địch…Có lẽ đang xuống thung lũng. Vẫn cái bấm mìn trước mặt, Trung sĩ Nam đang loay hoay móc thêm lựu đạn. Tiếng hô xung phong vang dội, đám địch xuất hiện vừa bò vừa bắn dữ dội lên trên. Những cây Car 15 giờ đây mới nổ dòn…Xác người xấp ngửa thấy rõ làn đạn cày sới cùng những co giật thân mình. Lợi thế trên cao quả là tuyệt vời. Qua đi những khói bụi đám đông lố nhố dăng hàng lum khum, tay súng nổ dòn nhào lên. Trái mìn Claymore nổ tung khói lửa bụi mù. Bên này địch vẫn tiếng hô, thét áp đảo. Thiếu úy Chính đứng hẳn lên hô :

“Chạy lên phía trên mau.”

Rồi không đợi ai hắn tiến lên trước. Đúng với chiến thuật mìn nổ là lúc mở đường máu…Chạy một đỗi, chiếc Covey đang trên đầu…Xa xa hai chiếc Khu trục A1 Skyraider…Tôi đề nghị với Chính. Lập ngay phòng thủ gài luôn trái mìn của Phùng đang gọi Covey xin không kích. Tôi thấy Phùng từ nơi gài mìn hớt hãi chạy lên, bỗng quay lại nổ một trái 79.


8
Tôi hét vào trong máy.

-“Oscar november, tôi đang bị bao vây, địch tấn công . Oanh kích ngay vào trái khói vàng…”

Tháo trái khói đeo nơi ngực, tôi liệng thẳng xuống hướng địch. Ngay lập tức tấm panel vàng cũng được căng lên giữa toán… Loạt đạn 20 ly phầm phập nổ liên tục. Chiếc A1 như ngừng lại, nhìn thấy cả tia lửa nơi nòng súng…Chiếc thứ hai cũng đang từ từ chúc đầu nổ dòn đạn 20 ly. địa thế quá gần để không thể thả bom chùm… Bên trên chiếc Covey bỗng lao vụt xuống phóng một trái khói. Chiếc A1 đầu tiên lúc này tách ra tấn công vào vị trí Covey mới phát hiện. Tiếng bom nồ đinh tai không dứt kèm theo bên trận tiếng hô xung phong lanh lảnh…Bỗng chốc địch tràn ngập. Súng nổ ầm vang. Cạnh tôi Phùng thét nghe rợn người, cây M79 văng khỏi tay hắn, lồng ngực thấm đẫm máu…Nằm lăn người qua một bên, tôi quăng vài trái lựu đạn và vội tiếp vào súng băng đạn mới…Cả hai bên cùng nấp vào những phiến đá chơi trò cút bắt. Bên kia Thiếu úy Chính ra dấu Sơn chết rồi. Hai chiếc A1 vẫn tấn công vào mục tiêu. Khẩu phòng không bị Covey phát hiện giờ đây im tiếng. Trong máy Covey đang gọi:

-“Zulu Romeo, bạn chuẩn bị triệt xuất di chuyển nhanh lên phía trên 100 mét. A1 sẽ can thiệp phía sau, bỏ lại hai người chết.”

Thông báo cho Thiếu úy Chính. Mò tay vào túi bi đông đựng lựu đạn tôi lấy hết số lựu đạn của Phùng, rồi nắm lấy cái bấm mìn chờ lệnh… Những trái bon napalm tạo một vệt lửa chạy dài, cách chúng tôi chỉ vào khoảng 50 mét…A1 đã quen với vị trí mục tiêu…Nhờ vào địa thế và khẩu B40 của địch đã bị diệt, thêm vào sự tham chiến của hai Khu trục cơ. Toán chúng tôi mới giằng co được cho tới lúc này…Sáu trực thăng đã có mặt trong vùng, tạo nên sự sinh đông phấn khởi. Hai chiếc Huey Gunship thế chỗ cho Khu trục cơ.Trên kia Covey dục Toán cố di chuyển…Bằng một hiệu lệnh gật đầu đồng ý. Trái Claymore nổ tung, khói và bụi đất che chắn sau lưng. Toán vội vã chạy lên đỉnh cao hơn. Đành bỏ lại Sơn và Phùng. Hai Gunship thay nhau yểm trợ…Đến được một phiến đá bằng rộng, đường kính khoảng 10 mét. Đưa tấm panel lên làm ám hiệu, Mẫn đang ngửa cổ nhìn trực thăng…Súng địch tới tấp từ hông của toán…À, tụi này đi vòng mong chiếm đỉnh cao, nhưng sợ máy bay phát hiện…Giật mình nhìn lại ,Mẫn chân vẫn còn quì nhưng người gập xấp trên phiến đá. máu tuôn ra lai láng…Tôi gọi Covey báo cáo, nhưng sao máy câm nín…Hiểu rồi lúc ngã xuống vì bị tấn công, nhớ lại một cái gì như ai đánh vào vai rất mạnh, nhìn qua sau vai, cời bỏ cái ba lô để kiểm soát…Đạn cày nát nắp ba lô tạo một đường rách dài lộ ra phần trên máy truyền tin nát bét…Rút vội cái máy P90 mở làn sóng cấp cứu…Có ngay tiếng hỏi :

"Làn sóng cấp cứu nào lên với tần số"

-“Đây Zulu Romeo, máy truyến tin của tôi bị bắn nát. Xin chuyển làn sóng cấp cứu…Thêm một toán viên chết.”

-“Ok Zulu Romeo nhận rõ, trực thăng sẽ câu bạn lên khi nào tình hình cho phép, chuẩn bị sẵn sàng, móc và đưa người chết về.”

-“Oscar November, roger that.”

Sự can thiệp chính xác vào địch bên hông vị trí toán. Viên phi công trực thăng đã thấy rõ địch quân bên dưới…Đã ngớt tiếng súng, thỉnh thoảng thẩy vài trái lựu đạn phòng ngừa, chúng tôi ghìm súng chờ đợi. Chiếc Gunship vừa vút lên cũng là lúc Covey gọi tôi”

-“Zulu Romeo, chuẩn bị trực thăng đang xuống bãi.”


9
Đưa tấm panel mầu cam về phía trực thăng đang từ từ tiến đến. Ba người đã chuẩn bị cho câu dây. Hai chiếc móc dây đai dù qua háng đã được gài. Trung sĩ Nam gài móc dây cho xác Mẫn đang nằm dài trên phiến đá. Ở bên này theo gió mùi máu tanh hòa lẫn khói thuốc súng tạo cảm giác nôn nao lợm giọng. Chiếc Gunship vụt qua. Khẩu đai liên tự động sáu nòng vãi như mưa đạn xuống bên sườn đồi. Trực thăng đứng trên đầu đang thả xuống bốn sợi dây câu, bỗng chao đi đầu chúc thẳng xuống thung lũng. Tiếng súng lại vang lên pha lẫn tiếng rocket nổ ầm ầm của chiếc Gunship theo sau… Bất giác nhìn xuống thung lũng một đám lửa khói bốc cao, thầm nghĩ những người chiến sĩ đang đi lên với Thượng-đế…Có tiếng Covey:

-“Zulu Romeo, bỏ lại người chết bạn có mười phút để ra khỏi nơi tồi tệ đó. sẽ dùng hỏa lực…Thoát mau đi.”

Đứng vội lên tôi nói với Nam và Chính chạy đi mau lên…Băng nhanh vào hàng đá núi, chúng tôi chạy dần lên cao, mặc cho địa thế hiểm trở, nhưng nơi đây nơi lý tưởng cho tác chiến. Phân thành ba góc, Trung sĩ Nam trải ngay tấm panel. Tôi gọi Covey:

-“Oscar november địa điểm mới, anh thấy thế nào?”

-“Zulu Romeo tốt chuẩn bị triệt xuất.”

Một chiếc UH1 Huey đang gần lại chúng tôi. Hỏa lực trên Gunship đạn cày sới tung tóe nhiều nhánh cây chồi gẫy gập. Trực thăng đang ở trên đầu, sức gió từ cánh quạt vẹt hẳn hàng cây…Chiếc Gunship thứ hai bắn ra những trái rocket có tiếng nổ phụ. Loại rocket phóng ra những đinh kim để chống biển người, cốt che chắn cho trực thăng. Người Mỹ phụ trách thả, rước toán đang buông dây câu…Rõ như ban ngày, người xạ thủ trực thăng rời tay súng, người gập thẳng vào giá súng, tay soãi lỏng, ngay chỗ tôi đứng chờ dây câu những giọt máu tong tong chảy xuống in đậm vào hàng đá tảng dưới chân. Lập tức trực thăng rú lên cất thẳng lên cao rồi vụt biến. Điên cuồng Gunship lúc này xuống thấp hơn. loạt đại liên và đạn 40 ly tự động tựa mưa rào trút xuống. Cùng lúc tiếng súng của địch bên dưới ầm vang…Vội thẩy mấy trái lựu đạn.
Tiếng Covey gọi tôi:

-“Zulu Romeo, bạn hãy cố cầm cự, Gunship sẽ ở cùng bạn, mọi thứ sẽ trở lại ngay…Cố lên.”

-“Oscar november, nhận rõ xin bạn cố gắng. hỏa lực của tôi đang hết dần.”

Hai trực thăng vẫn trút xuống thép và lửa nhưng thời gian tác xạ lâu dài hơn không tới tấp như trước…Nó đang câu giờ.

Chiếc Covey O2 sơn mầu rằn ri lao nhanh xuống phía đồi và đang thắng vút lên. Một trái khói trắng bốc cao.Chiếc F100 cũng sơn mầu ràn ri, không biết đến từ lúc nào lao nhanh xuống từ bụng phi cơ ba trái bom được nhả ra ngay trái khói chỉ điểm. Ba tiếng nổ dậy đất ầm vang cột khói bốc cao đen kịt. Tôi còn thấy rõ đường đạn đỏ theo máy bay…Những tiếng nổ tiếp theo sau liên tục. Một cột khói đen như cái nấm khổng lồ, bên trong nhìn rõ ngọn lửa sắc lẻm tung hoành. Chiếc F100 đã đánh trúng mục tiêu, bằng ngay mấy trái bom đầu.


10
Thật ngoạn mục khi chứng kiến cảnh những hòn than lửa bắn nối đuôi nhau vào chiếc F100 đang lao xuống bung ra một lúc ba trái bom mà không thèm bốc lên cao, đang bay gần như sát cụm rừng. Tiếng nổ ầm vang như sấm. Một biển lửa bao phủ mục tiêu. Phi cơ dần vút lên cao, giờ chỉ còn chấm nhỏ rồi mất hẳn trên bầu trời. .. Trận không kích thành công.

Nơi chúng tôi chận chiến bỗng ngưng hẳn…Một cuộc chơi mới chăng?…Đã có tiếng trực thăng từ hướng đông vọng lại. Những đốm đen từ bầu trời to dần. Sáu chiếc trực thăng đang bay tới.

-“Zulu Romeo, bạn thấy chiếc OV10 chưa? hắn sẽ thay tôi giúp bạn. Tôi chì còn đủ xăng để bay về, tạm biệt.”

Ngay sau đó tiếng Covey gọi :

-“Zulu Romeo, tôi thấy quả cam của bạn rồi. Chờ dọn bãi, hãy chuẩn bị trực thăng sẽ đến từ thung lũng, ghé vào bốc bạn ra. Không sử dụng dây câu.”

-“Oscar november. Roger that.”

Chiếc Cobra bổ xuống trút những viên đại liên, rồi tiếng nổ của đạn 40 ly(M79). Tiếng súng của địch bên dưới vẫn từng chặp sối sả cặp kè theo chiếc Cobra…Bốn chiếc Kingbee H34, thuộc phi đoàn 219. Không quân Việt Nam Cộng Hòa. Phi đoàn được mệnh danh "Thần Phong" bởi thành tích anh hùng, rất liều mạng trong chuyến thả và rước toán Biệt-kích…Huyền thoại về những phi công được danh xưng Cowboy hay Mustachio được loan truyền và mãi là những hiệp sĩ hào hùng bất diệt. Mặc cho tầng đạn từ Cobra. Bên dưới địch quân vẫn bắn lên như mưa mỗi khi trực thăng xuống tác xạ. Người phi công Cobra như hiều được tình hình và đã quen mục tiêu…Bây giờ họ đổi chiến thuật. Xạ kích từ trên cao rồi quay ngoắt về hướng thung lũng…Tiếng súng chát chúa rồi thấy rõ những vết đạn xoáy tung những hòn đá nhỏ rớt trên đầu và cổ. Nhìn ra hai tên địch vừa bò lên nằm im bất động. Lựu đạn lại được tận dụng…Cũng may loại lựu đạn đặc chế cho Biệt kích là loại nhỏ, nhẹ nên mỗi người chúng tôi có thề mang theo hành quân khoảng ba mươi trái…

-“Zulu Romeo, bạn có hai phút chuẩn bị, trực thăng đang đáp.”

Chiếc Kingbee bay theo sườn núi phía thung lũng sát những cây chồi rừng. Người xạ thủ đang vãi đạn trên đường hạ xuống. Chỉ còn vài mét nữa, cố chịu sức gió từ cánh quạt, chúng tôi khom lưng lao thẳng về phía cửa trực thăng. Chỉ còn cách trong gang tấc. Bỗng trực thăng nhổm lên, phía sau đuôi kêu ầm ầm…Vội nằm lăn xuống đá…Trực thăng giống như con diều mất gió ngửa bụng lao về hướng thung lũng xoay tròn như con cù…Rớt dần…dần cho đến khi ánh lửa và khói bốc cao…Chứng kiến sự việc, tự dưng ứa nước mắt. Nằm đây mà hồn tôi nao nao. Một nỗi buồn khôn tả ập vào tâm trí. Trong thân thể sức lực gần như chẳng còn…Đành nằm buông xuôi ăn vạ vậy…Đạn và rocket từ Cobra vẫn bốc lên những tầng khói, gió hắt lên bao trùm chiến trường mùi thuốc nổ khét lẹt hòa lẫn cây rừng tỏa hương ngai ngái, nồng nã. Ba chiếc Kingbee còn lại đang quần đảo bên trên chiếc Covey…Họ đang bàn tính gì chăng?. Hai chiếc Cobra vẫn thay nhau kềm mục tiêu. Một Kingbee đang tách đoàn ba chiếc… Từ hướng thung lũng, hạ độ cao ngang tầm sườn núi bay thằng vào chúng tôi. Trực thăng rú lên rồi từ từ hạ xuống ngay sát chỗ toán. Gập người đề tránh sức gió, chỉ còn khoảng một hai mét. Nhổm người lên lao nhanh vào bụng máy bay…Qua khung cửa trực thăng đụn mây trắng vun vút đi ngang nhanh đến chóng mặt. Một áp lực nào đó như đè chúng tôi xuống sàn. Bằng vào cái hất ngược, trực thăng quẹo gấp sang trái, thấy cả trời mây và cảm giác trì nặng, thổn thức…Trực thăng đang thẳng xuống thung lũng rồi dần dần bốc lên cao…Một màn bốc toán ngoạn mục, đầy tính oai hùng, sáng tạo và một nét đẹp, tuyệt đẹp trong hành động…Tôi thở phào soài người trên sàn, tứ chi gần như không cảm giác…Trong bụng tiếng sôi eo éo và cơn đói tràn dâng… Miệng ứa nước miếng.

vinhtruong
10-16-2012, 04:46 PM
Toán Strata đột nhập Trường Sơn Tây: [Short Term Road And Target Acquisition]

Hạ Lào, Xa lộ Harriman huyền biến hay mưu đồ trò chơi Khổ Nhục Kế? bắt mấy thằng Cu Mỹ phải dấn thân, riêng KQVN thì chả bao giờ biết được 4 điểm hậu cần quan trọng mà Không Hải Quân Mỹ không được dội Bom, dù khi bay ngang qua bị dưới đất khai hỏa lên, như dưới 3 chân đè Đèo Mụ Giạ, Đèo Ban karai, Đèo Ban raving, cùng hậu cần 611. Biện-pháp, phi cơ Mỹ khi oanh tạc Bắc Việt đều có 2 phi công, người lo oanh kích còn người kia lo theo dõi nội quy ROE không cho phép phi-công đụng đến 4 mục tiêu trên, làm trở ngại hoàn thành định kiến-1, (axiom-1: Vì đây là trò chơi chiến tranh nên phải có điều-lệ gọi là ROE (Rule Of Engagement) [axiom-1: giao miền nam cho Hà Nội] Vì chỉ cần 1 viên đạn 20ly thì tất cả sẽ tan tành như xác pháo ngay sau đó, một phi cơ chiến thuật lỡ dại F-100 vi phạm vùng cấm được gọi là, “SAM enveloped” bị BV bắn hạ, (xin đọc trang 161-167, Vol-1 “The Ban Karai Pass where one Supersabre F-100 had gone down” một chết, một nhảy dù được cứu thoát).

Harriman, con người đa nghi, muốn chắc-ăn “Làm sao xác định Đoàn 959 có xuất hiện tại nam Lào để dự trò chơi chiến tranh?” Riêng Ðoàn 559, Nhóm Phản gián CIA đã xác định đang hoạt động tích cực tại khởi nguyên mở mang đường Xa lộ Harriman mà cũng là hậu cần 611 (tên hành lang Đường mòn HCM) tại phía Tây vùng Phi quân sự (Tchepone) Còn Ðoàn 759 chuyển vận tiếp tế bằng đường biển đã bị Miền Nam đánh chìm một tàu tại Cà-Mau 1962, tượng trưng một chiếc tàu hạng nhẹ do Trung Cộng sản xuất, viện trợ thành lập Ðoàn vào tháng Bảy, năm 1959. Còn Ðoàn 959 thì sao? W.Colby, (người Trung úy tình báo quân đội OSS, hồi Ðệ-2 thế chiến đã báo cáo cho đại-sứ Mỹ tại LX, W.A Harriman là hồng quân LX đã vào Bertlin, tức khắc Harriman ra lệnh quân Nhảy Dù Mỹ phải nhảy vào Berlin để chụp tay trên những nhà bác học Ðức) được lệnh phải phối-kiểm-chứng sự có mặt của Ðoàn 959 (Pathet Lào cùng BV) dự phần trò chơi chiến tranh tại nam Lào hay không?

Nhìn tổng quát, xê dịch qua phía nước Lào chưa đầy chục cây-số thì đất đai có vẻ phì-nhiêu hơn, các con suối nước không chảy xiết như bên Trường-Sơn Đông mà chảy êm ái qua phía Tây, lượn khúc để nhập vào con Sông Sé-Kông rồi nhập vào các phụ lưu Sông Mê-Kông, nơi đây một thị trấn nhỏ chiến lược có tên là Attopeu mà tình báo Mỹ đang đặt cặp mắt xanh vào đó. Vì thế mới có cuộc hành quân “Lôi-Vũ” do đích thân trùm Tình báo William Colby tổ chức và điều hành. CIA đặt tên cho cuộc hành quân nầy là STRATA Infiltration: [Short Term Road And Target Acquisition] trải dài gần 900 miles từ đèo Mụ Giạ, Ban-Karai, Ban Raving, Tchepone đến Attopeu, và đây là trục sẽ phát hoạ ra Trường Sơn Tây, tương lai là Xa lộ Liên Bang Ðông Dương theo dự tính của Nhóm tham mưu Harriman để đối chọi với xa-lộ Trung Quốc lén lút thiết lập con đường từ Côn-Minh chạy xuống đến bờ biển Ấn-độ-dương xuyên dọc theo nước Miến Điện với âm mưu thôn tính Úc Châu. Tướng Võ Nguyên Giáp sau một thời gian bị thất sủng ngồi chơi xơi nước cùng với Cụ Hồ một thời gian vừa phải (decent interval) rồi sẽ được CIA qua KGB phục hồi nắm lại quân đội để làm Tư lệnh cuộc hành quân Lam Sơn 719 do NSC (National security Council) chủ đạo trong tương lai. Sau một thời gian dài vận chuyển tiếp liệu được sơ-tán tràn ngập trên hành lang đường mòn Hồ (đường 559) từ 1965-1970 (đại tá nhị-trùng Bùi Tín sẽ báo cáo cho Mỹ (Donald Rumsfeld) biết để rồi mở cuộc hành quân được gọi (theo danh từ chính trị) càn quét, nhưng khi đại đa số chiến cụ đã được sơ tán vào miền nam của hành lang 559. Sau đó Pentagon sẽ mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 để tiêu hủy chiến cụ, trong đó phải kể phần lớn là trực thăng, vì những thứ quỷ nầy theo quy định làm ăn cũa WIB là không bao giờ đem thứ quỷ nầy trở lại Mỹ.

Ở Kontum, Colby đặt ban chỉ huy hậu-cứ tại Trung-Đoàn 42/Sư Đoàn 22, còn ở gần giới tuyến Bến Hải, đặt hậu-cứ tại Quận Hương-Hoá, tức Khe-Sanh, Thiếu-Tá LLĐB, Trần Khắc Kính chỉ là Sĩ-quan liên-lạc, phụ tá cho Colby, lo công việc liên lạc hành quân giữa các Toán nhảy thám-sát và các địa phương. Các cuộc hành quân Strata nầy do CIA toàn quyền điều động trực tiếp và tài trợ không giới hạn, mà buổi sơ khai gọi là Biệt Kích Gián Điệp và Queen Bee cho đoàn viên H-34 về trực thăng, phia Việt chỉ là phương tiện cho CIA. Thế thì phi công Gián điệp Biệt kích khác nhau ở chỗ nào? “Máy bay gián-điệp luôn-luôn có đặt chất nổ sẵn trên đó, nếu bị rớt xuống vùng đất địch, thì phải phá cho nổ ngay tại chỗ; máy bay không số, không cờ, sơn màu ngụy trang lá rừng, để phi-cơ ở trên cao ngó xuống không thấy, vì tiệp với núi rừng. Phi-hành đoàn không được mang theo giấy tờ tùy thân, thẻ bài kim loại, nếu bị địch bắt cũng không nhận mình là người của miền nam, kể cả nước nơi mình sanh ra và lớn lên cũng không nhận mình là công dân của nước họ, không được mang theo thuốc lá của Mỹ, phi hành đoàn trang bị súng y chang như Toán Gián điệp Biệt kích hành quân dưới đất, cũng súng tự-sát tí-hon 6 ly 35, Tiểu-liên và súng lục 9 ly của Thụy-Điển không có khắc số súng trong điều kiện bí mật, và chỉ để tự vệ mà thôi, bá súng có thể xếp gọn lại, hay nói cách khác là không được dùng súng của Mỹ. Áo quần Bà-Ba đen đi dép râu hoặc là giày tùy-tiện. Còn Phi-công Kingbee là bay trong phần đất của mình, nên phải mặc quân-phục của Việt-Nam Cộng-Hòa, tên Kingbee được đặt ngay sau khi thành lập Phi-đoàn 219. Các động thái cũng như hình thức chỉ có khác bấy nhiêu đó thôi giữa đoàn viên Kingbee và Queenbee mà phía CIA gọi là CAS Flight Group [Combined Area Studies của Project Delta Group].

Giữa năm 1961, được biết nơi thị trấn Attopeu, do Trung-Tá Khâm-Không, Chỉ-huy Trưởng Yếu-khu Attopeu. Tình hình nơi đây được biết, chính phủ Lào chỉ kiểm soát được từ Mường-May đến Mường-Cao, nằm ở hữu ngạn Sông Sé-Kông, cách Mường-May khoảng 12 cây số về hướng Đông mà thôi. Còn như bên kia Sông Sé-Kông là vùng Pathet-Lào thường hoạt động, nơi đó có con đường mòn chiến lược giao liên từ Bản Phya-Ya tới Bản Tà-Xẻng Cuộc hành quân ‘Lôi-Vũ’ đầu tiên trên đất Lào được thực hiện vào tháng August/ 1961 do hai Toán 7 và 8 bí mật nhảy xuống, mỗi Toán gồm 6 người với vũ khí Tiểu-liên Tiệp-Khắc, nhiệm vụ chỉ thám sát, tránh tuyệt đối không đụng độ. Tiếp theo, Toán 1 được thả xuống phía tả ngạn sông Sé-Kông, gần ranh giới giữa 2 tỉnh Attopeu và Saravane, ở phía Đông Cao nguyên Boloven; ngay ngày hôm sau, các Toán 2, 3 và 6 được tiếp tục thả xuống. Các Toán đã được chỉ định trước, chia ra từng vùng khu, khoanh vòng trong bản đồ, vùng trách nhiệm để lục lọi quan sát. Mỗi Toán hành quân cách nhau chừng vài cây số như đã ấn định trong vòng chu-vi bản đồ, sau cùng, Trung-úy Toán-trưởng Cao-Ngọc-Huân chỉ-huy tổng quát được thả xuống sau hết, đó là Toán 4 chỉ huy.

Các Toán 1, 2, 3 và 6 hoạt động trong vùng Phy-Ya, đến đầu tháng October/1961, được lệnh triệt thoái về nơi an toàn gần biên giới Việt-Lào, khi đến mí bìa rừng cạnh chân núi thì được chúng tôi dùng Trực-thăng H.34 sơn màu ngụy trang, không cờ, số bốc về. Giữa tháng October /1961, đến phiên, hai Toán 5 và 10 được thả xuống nam Bản-Đông, gần Mường-Nông, một Huyện đang do nhóm Đại-úy Không-Le phe Hữu kiểm soát, nơi đây có một con đường mòn huyết mạch nối liền từ Bản-Đông đến Mường-Nông rồi vào tỉnh lỵ Saravane. Đây cũng là vùng mà quân Pathet-Lào phối-hợp với lính Bắc-Việt, thuộc Đoàn 959 dùng bảo vệ sự chuyển quân và tiếp liệu lén lút vào Miền-Nam Lào đến ba biên giới. Harriman rất mừng vì BV ngoan ngoản theo lệnh KGB tham dự trò chơi.

Mọi việc đang diễn tiến vô cùng tốt đẹp với những kết quả thu lượm được rất đáng khích lệ, thì thình lình có lệnh William Colby bảo phải rút ra khỏi Nam Lào khẩn cấp, dĩ nhiên là có mật lệnh của Harriman cho Colby, vì đã “kiểm chứng” được sự có mặt của quân Bắc-Việt và Pathet Lào để tham dự trò chơi chiến tranh CIP/NLF. Trong thời Đệ II Thế chiến, Harriman và Colby là cặp bài trùng, mọi diễn tiến xảy ra khi Hồng-quân Liên-Xô tiến về Berlin, Trung-úy OSS, W.Colby phải báo cáo cho Harriman kịp thời, lúc đó Harriman là Đại-sứ Hoa-kỳ ở Liên-Xô. Mục đích chính là chụp cho được nhiều nhà Bác-học Đức càng nhiều càng tốt, nhưng lại muốn tiết kiệm sinh mạng quân sĩ Mỹ. Sư-Đoàn Dù chỉ nhảy vào Berlin đúng lúc và đúng chỗ để chụp các nhà Bác-học Đức trên tay Liên-Xô. Harriman lợi dụng Nhóm Bác-học nầy cho quyền lợi Tư-bản về phát triển kỹ nghệ chiến tranh qua thế-hệ “phản-lực” giữa Liên Xô cùng Hoa Kỳ trong một bó [package Aid to Russia 1941-1946 Plan]. Thật là may mắn, Hoa kỳ đã vồ-chụp được nhà bác học Ðức Dr. Werner von Braun và một số khoa học gia Đức về hỏa tiễn chạy qua phía Mỹ và trốn khỏi bị rơi vào tay Soviet. Prescott Bush, chủ tịch Hội đồng Kỹ nghệ chiến tranh WIB bèn đi thẳng vào ngay chương trình dọ thám qua vệ tinh [American Spy Satellite Program] qua đó Hoa kỳ mới phát hiện được những tài nguyên thiên nhiên nằm sâu dưới thềm lục địa, trong đó có ở Việt Nam và đảo Lý Ngư gần Nhật/Trung, cũng như nằm sâu dưới lớp tuyết vùng Tây Bá Lợi Á và những nước Cộng hòa Trung-Á trong âm mưu tương lai của Harriman dùng “tối huệ quốc” [US Freedom-Support-Act] dụ khị họ sau nầy trong thế chiến lược Eurasian, làm cho người dân 8 nước Cộng Hoà nầy sẽ được hưởng mực sống cao hơn dân Moscow.

Hành-pháp Kennedy khi nắm chính quyền đã thực tâm quan niệm rằng phải thực hiện một nước Lào trung lập thật sự, Kennedy không muốn dính dấp quân sự ở vùng quá xa-xôi nầy; Tất cả các lực-lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi Lào và cấm xử dụng lãnh thổ Lào vào các mục tiêu quân sự, sẽ có Hiệp ước hoà-bình tại Lào vào ngày 23/July/1962 do Kennedy chủ trương. Một chính phủ trung lập do Souvanna-Phouma lãnh đạo sẽ cai-trị toàn lãnh thổ Lào. Nhưng có ai biết được chính sách Mỹ không nằm trong tay của tổng thống Mỹ mà nằm trong tay Đại-đế-1 dấu mặt William Averell Harriman. Cái gọi là W.A Harriman được TT Kennedy ủy nhiệm công việc tái lập Hiệp-định hoà bình trung lập cho nước Lào, nhưng ông lại làm theo kế hoạch của riêng ông như Free-wheeling-Diplomat với Nhóm học-giả xuất chúng đã thiết kế từ 1950 bằng một Tam đầu chế Skull and Bones.

Sách lược khai phá Trường Sơn Tây từ đèo Mụ-Giạ băng ngang qua phần đất của lãnh thổ Lào, như Tchepone và Attopeu, đó là khúc đường dài 900 miles đến Ba biên giới Việt-Miên-Lào là mục tiêu siêu chiến lược cho mai hậu; nhưng phải do công cụ gián-tiếp mà nhiệm vụ lại là “trực-tiếp” khai phá, do quân lính CSBV mở mang con đường Trường Sơn Tây. Trong khi các tưởng lãnh BV từ Văn Tiếng Dũng trở xuống, thích xuyên qua Trường Sơn Đông hơn, vì lý do di-chuyển trong một tháng mà Trường Sơn Tây phải mất 4 tháng. Riêng chỉ trừ công cụ gián tiếp Võ Nguyên Giáp, vì là thành viên OSS (trong hình giải mật trang 32, tập-1) là chấp nhận đánh trận xa không đánh trận gần – Thuốc khai quang sẽ phóng đường (tracking) làm dấu hiệu vàng lá và trống trải, kèm theo hàng trăm ngàn cây “sensor-antenna” ghi-chuyển-âm được thả xuống dọc theo hành lang, móc trên cành cây hoặc ghim xuống đất để “kiểm chứng” âm thanh, theo dõi các hoạt động của quân BV. Arc Light B.52 sẽ phá và bình địa những vùng núi đá qua chiến dịch Rolling-Thunder, nếu như làm đường theo kiểu phương giác-từ, phát xuất từ dưới đất, phóng thẳng theo đường chim bay sẽ có vô-vàn trở ngại, như phải làm quá nhiều cầu-cống, lên xuống quá nhiều dốc đứng, thay vì chỉ lệch qua Trái hay Phải vài độ giạc, đã dễ làm đường mà ít tốn phí nhiều công xây dựng cầu cống chằng chịt qua những con suối dưới đó. “Con người dẫm chân mò-mẫm trên mặt đất mới thật sự là “Hoàng-đế của sự khai phá đường xá” Có một điều nên ghi nhớ “Quân sự yểm trợ Kinh-tế, theo định luật Malthus”.

Sau khi đã biết chắc Hà Nội chịu chấp nhận trò chơi CIP/NLF qua toán Lôi-Hổ thám sát, Harriman làm một cú dò la tin tức: Tháng 6 năm 1962, vào một buổi sáng chúa nhựt không đẹp trời cho lắm, Harriman và một nhà ngoại giao trẻ tuổi William H Sulliam đã bí mật đến họp với phái đoàn BV tại Genève để thăm dò quan điểm của Hà Nội. Harriman lái xe đậu bên lề đường gần Ga Xe lửa để tránh các viên chức của phái đoàn VNCH ở bên kia đường có thể nhìn qua trông thấy Harriman và Sulliam đi ngả cửa sau của một khách sạn nhỏ do người Miến Ðiện làm chủ, rồi leo lên cầu thang để đến gặp Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm và Ðại tá Hà Văn Lâu của Hà Nội. Họ đang nóng lòng chờ hai ông đến, sau khi trà dư qua lại thăm hỏi xã giao.

Harriman đi thẳng vào vấn đề: “Trong thời gian chiến tranh, cá nhân Tôi có nghe nói Ðồng minh chống lại việc Pháp trở lại Ðông Dương, nhưng sau đó Hoa kỳ không thể làm gì được để ngăn chận việc nầy!” (Làm sao những vị nầy hiểu được trước mặt họ là người nắm giữ chính sách Mỹ quyết tâm khuấy động chiến tranh lần thứ-2 để đáp ứng nhu cầu quyền lợi của Bọn Ðại tư bản WIB, chính họ đã bí mật chỉ thị cho Ðại tá OSS, Alfred hướng dẫn quân đội Pháp đổ bộ tại Hải phòng 6/3/1946) để khuấy động lại chiến tranh lần thứ-1 (1946-54) cho quyền lợi WIB Bones. Ông Ung Văn Khiêm cũng nói rằng: “Tôi cũng nghe như vậy và rất ngạc nhiên khi thấy Hoa kỳ chấp nhận việc Pháp trở lại các thuộc địa cũ!” (Ðại tá OSS Alfred Kitts nếu không phải là hướng dẫn viên nhưng ít nhứt cũng là một nhân chứng a tòng với quân đội Pháp trở lại Ðông dương vào ngày 6/3/1946 tại bờ biển Hải Phòng do sư chủ đạo của Harriman. Tháng 7/1946, theo lệnh tình báo quân đội OSS, Cụ Hồ đang ở Pháp cho lệnh Võ Nguyên Giáp mở cuộc tổng tấn công VNQDÐ từ Thanh hóa trở ra, Tướng Giáp công khai hợp tác với Bộ tư lệnh Pháp ở Bắc Việt qua tình báo OSS giới thiệu [2 điệp-viên trẻ Lucien Conein và Russell Flynn Miller nói tiếng Pháp rất giỏi] Tướng Giáp xin Pháp giúp pháo binh tấn công VNQDÐ và ÐMH. Ngày 12/7/1946, Tướng Giáp mở cuộc tấn công vào trụ sở VNQDÐ ở phố Ðỗ Hữu Vệ, Cửa Bắc và Quan Thánh. Chiến xa Pháp hỗ trợ Việt Minh theo lời yêu cầu của Giáp, chặn các ngả đường giúp VM mở cuộc tấn công. Chiến xa Pháp bắn đại liên và trung liên xối xả (xem Võ Nguyên Giáp, “Những tháng năm không thể nào quên” [Des journees inoubliables] bản dịch pháp-văn HN 1975, tr.290-295).

Cán Bộ Tình Báo OSS ai cũng thông thạo tiếng Pháp (trích dịch của CTD – Jean Sainteny, Histoire d’une paix manqué, Paris 1953,p.171) Cụ Hồ nghe theo sự hướng dẫn của OSS thoả hiệp với Pháp để dựa vào Pháp thanh toán Phe đối lập tạp nhạp. (Sau nầy CIA cũng nhờ Tướng Trịnh Minh Thế cùng hiệp với quân đội Quốc-Gia dẹp các lực lượng đối kháng tạp nhạp) và để cho Quân đội Pháp tiến vào Bắc bộ qua cảng Hải Phòng do ĐạiTá Alfred Kitts Tình báo OSS hướng dẩn.- Kitts theo nguyên tắc tình báo đã đích thân làm nhân-chứng toán quân Pháp đầu tiên đổ bộ trên bờ biển Hải Phòng vào ngày 6-3-1946. Quân đội Pháp trang bị từ chân tới đầu đều là trang cụ làm ra tại Mỹ; ngay đến những trang-cụ nặng như tàu đổ bộ, xe-cộ trang bị quân dụng đều thặng-dư làm ra vào chiến tranh thứ II. Những Sĩ quan Việt Minh nhìn quân đội Pháp tiến vào bằng cặp mắt căm thù; nhưng ngặt nỗi Cụ Hồ lại cứ tin theo Mỹ khuyến dụ nên để cho quân đội Pháp thành lập những trại lính tại Hải Phòng cũng như tại Hà nội và những thành phố khác. Và cũng không bao lâu quân đội Pháp lại nghe theo bọn OSS (Cụ Hồ và Pháp đều nghe theo lời khuyến dụ của Phản gián OSS vì miệng đã cắn nhằm viện trợ Mỹ) bắn xối xả vào quân đội Việt Minh có nghĩa là gây chiến để có cớ bọn buôn súng Mỹ giải tỏa số vũ-khí thặng dư đồng thời thí nghiệm và phát triển loại vũ-khí mới vào một nơi xa-xôi không bị bẩn-đục môi trường sống tại Mỹ!

Như Tôi đã có trình bày nhiều lần, “Việt Nam có thể tránh khỏi cuộc chiến 9 năm với Pháp, đi từ tự trị đến độc lập như Philippines. Dù tham vọng và ngoan cố thế nào, Pháp cũng phải trả lại độc lập cho Việt Nam như Hòa Lan ở Nam Dương, Anh ở Ấn Ðộ… nhưng Harriman [Thủ lảnh Skull and Bones] không muốn vậy vì khẩn thiết sẽ phải hoàn thành kế hoạch 1960-CIP [Counter Insurgency Plan].

Có một điều rất buồn cười, một hôm chiếc xe Jeep của Đại-tá Alfred Kitts dù có treo cờ Mỹ, nhưng Việt Minh vẩn bắn xối xả vào; Sáng hôm sau một Đại-úy Việt Minh phải đi xin lỗi vị Đại tá Kitts nầy vì sự nhầm lẫn. Họ đều mặc cùng trang phục, cùng xe Jeep giống nhau thì VM làm đếch gì biết phân biệt được, vả lại họ đều là người da trắng. Cụ Hồ ra lệnh coi cho kỹ không phải là người Mỹ thì mới bắn. Các bạn có ý kiến gì về vụ nầy!? Hồ Chí Minh theo lệnh OSS chuẩn bị một cuộc chiến lâu dài và gian khổ gọi là “tiêu thổ kháng chiến” chống Pháp để cho Mỹ giải tỏa hết số bom đạn tồn kho sau thế chiến-Hai! Nếu chúng ta không bị cái nhóm (WIB) Kỹ Nghệ Chiến Tranh của Mỹ để con mắt cú-vọ đầy tham vọng thì cũng như 60 nước thời đó trên thế giới sẽ phục hồi lại nền độc lập đương nhiên vào thời điểm sau Thế chiến thứ 2. Việt Nam có thể tránh khỏi cuộc chiến 9 năm với Pháp, đi từ tự trị đến độc lập. Dù tham vọng và ngoan cố cách nào đi nữa, Pháp cũng phải trả lại độc lập cho Việt Nam như Hòa Lan ở Nam Dương, Anh ở Ấn Độ v.v… Dĩ nhiên, đem lên bàn cân thì sự căm thù của Cụ Hồ về sự lừa bịp của Mỹ hơn gấp nhiều lần hai vị Tổng-thống Diệm, Thiệu. Dĩ nhiên người Việt chúng ta rất quý mến người Mỹ, nhưng với chính sách Mỹ thì thật rất buồn lòng! Cộng-Sản là phương tiện, cứu cánh là cứu nước, trong hoàn cảnh nầy Cụ Hồ bị Harriman xô đẩy phải vướng dây thòng-lọng của khối CS mỗi ngày mỗi siết chắc hơn mà cũng theo mưư đồ của Harriman. Đó là định luật đương nhiên! Sự kiện nầy sẽ phải trả lại tính trung thực cho lịch sử mà chỉ có lịch sử mới có quyền phán quyết công bằng, còn bây giờ coi như thời buổi nhiễu nhương tranh tối tranh sáng, người viết vô cùng e ngại dù rằng chứng cớ rành rành trong thư-viện (Library of Congress). Nhưng chắc chắn chỉ có lịch sử mới phán quyết, cá nhân, đoàn thể, phe nhóm nên im cái miệng lại đừng cho rằng mình biết quá nhiều mà sự thật không biết gì cả!

. Đến chừng nào thì Cụ Hồ mới hết tin Mỹ? Vì những năm trước đó, sau khi gia nhập OSS 1943, vào một buổi trưa, trên Miền Sơn Cước xa-xôi thuộc vùng Tây Bắc Hà-Nội, bầu trời tuy nhiều mây, nhưng không xấu lắm, chiếc Phi-cơ vận tải hai chong-chóng CAT-46, không cờ số, lấp-lánh trần-trụi với lớp vỏ sáng lòe màu Nhôm, đang thả dù các khẩu súng Trung-Liên BAR, Garant, và Carbine xuống mật khu vùng Tây Bắc Châu-Thổ, xuôi lên thượng nguồn sông Hồng-Hà, mật khu Pat-Pó để giúp Cụ Hồ chống quân phiệt Nhật, đồng thời Toán NCO của OSS sẽ huấn luyện cho Trung-đội võ trang tuyên truyền của Võ-Nguyên-Giáp và Văn-Tiến-Dũng làm phó; Ngoài ra Bác-sĩ Mỹ, ông Paul Hoaglant, thành viên của phái bộ “Deer Team Mission” lo săn-sóc bệnh hoạn cho Cụ Hồ đang bị sốt rét rừng và kiết lỵ (hình giải mật trang 32).

Sau khi bị Mỹ phỉnh gạt, Cụ Hồ trực diện một cuộc khủng hoảng Kinh-tế một cách trầm-trọng do giặc Pháp để lại: Mất mùa, hạn hán, cầu-kỳ sụp đổ, đặc biệt là sự thất bại thê-thảm từ năm 1954 đến năm 1956 của chính sách cải cách ruộng đất. Nhưng sau đó để xoa dịu dư luận, Cụ đã phải hy-sinh Tổng bí-thư Trường Chinh và một số Cán-bộ thân tín; Cụ Hồ ra lệnh đầu năm 1957 rút trên 100.000 quân từ Nam về Bắc. (Đọc Stanley Karnow “Việt-Nam A history” Editions Viking, New-York, năm 1983, trang 225) Nhờ vậy, nhiều cơ sở Việt Cộng tại đồng bằng sông Cửu-Long bị phía VNCH tiêu hủy, dân chúng sống được một thời gian tuyệt-đối an-bình từ năm 1954 đến năm 1959; cũng thời gian ấy, Cụ Diệm đã hai lần triệt hạ các cuộc nổi loạn tại Nông-thôn, vào năm 1956 và lần nữa vào năm 1958 làm Harriman vô cùng lo lắng cho ảnh hưởng thành quả của thế siêu chiến lược toàn cầu Eurasian).

Có ai hiểu đây là nguyên cớ chính mà Harriman quyết loại Cụ Hồ ra khỏi cơ quan quyền lực!? . Từ 1957 đến 1959 là thời gian sóng gió nhứt trong nội bộ lãnh đạo đảng, và đây là khúc quanh lịch sử đánh dấu ngày đại hội đảng thứ 15, vào tháng 4, 1959, qua sức ép của trục Ma-Quỷ [CIA và KGB] đã cưỡng bức Cụ Hồ rời khỏi cơ quan quyền lực, nhưng vẫn còn giữ chiếc ghế Chủ tịch đảng hư vị, và nếu Hồ chết thì để chiếc Ghế-Trống muôn đời không ai được ngồi trên đó, nhưng trục Ma Quỷ lại huyền biến chiếc ghế nầy như bức tường Thép để cho đảng CS cầm quyền núp dưới chiếc ghế đó bằng hệ thống cai trị siêu Mafia trong bí-mật… đến 50 năm sau (1959-2009) … Ðã đến lúc phải nên làm sáng tỏ thêm câu nói trên của Thượng Nghị Sĩ Mc Cain tại Paris, Cụ Hồ là người quốc gia, cái đỉnh cao trí tuệ lại khai-thác các nhà truyền giáo như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, đúng 50 năm sau: Ngày 11/7/2009 (1959-2009) Trần Quốc Bảo, giám đốc sản xuất cuốn phim (dĩ nhiên CIA đưa các tài liệu mật và Linh mục Lễ mới thực là người đứng mũi chịu sào) DVD, “Sự Thật Về Hồ Chi Minh” là người yêu nước, có công giành được độc lập cho dân tộc, thống nhứt đất nước… thì dân tộc Việt vẫn phải mãi mãi nhớ ơn Hồ Chi Minh! “Giá trị mà Cụ Hồ Chí Minh coi trọng nhứt trong suốt cuộc đời mình là những giá trị của nền “CỘNG-HÒA” dựa trên cơ sở “TỰ-DO, BÌNH-ÐẲNG, BÁC-ÁI” Thêm vào câu nói dưới đây chưa được phối kiểm mà tự vì người viết suy diễn qua 20 năm miệt-mài nghiên cứu nơi thư-viện. Một hôm, tại Congress Library tình cờ tìm thấy: “Cụ Hồ khi còn ở trong tù đã được OSS móc nối, và đã được Quốc Dân Ðảng thả tự do qua Tướng Trương Phát Khuê, vào tháng Tám, 1944 Cụ Hồ được QDÐ Trung Hoa thả và chuẩn bị về Việt Nam để vào mật khu Pat-Pó chống lại quân phiệt Nhựt theo mưu-đồ của OSS và chính OSS, bởi điệp-viên 19 sẽ nhảy dù tiếp tế súng đạn xuống Pat-pó để giúp Cụ sau nầy, như huấn luyện quân-sự cho Trung đội Võ trang tuyên truyền của Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng là trung đội phó. Lời tâm sự đáng chúng ta ghi nhớ khi tỏ-bày với Tướng Trương Phát Khuê, “Tuy tôi là người Cộng Sản, nhưng bây giờ vấn đề mà tôi quan tâm không phải là chủ nghĩa CS mà là độc lập tự do cho dân tộc; Tôi xin hứa với ngài một lời hứa đặc biệt trong vòng 50 năm tới sẽ không còn thực hiện chủ nghĩa CS ở Việt Nam [Vì đã đến 50 năm sau, 1945-1995 theo lộ-đồ thiết lập bang giao, chỉ còn có Cụ Giáp còn sống, nên Giáp luôn luôn ở phía Mỹ như vẫn còn là một thành viên OSS trung thành kết nạp từ Patpó 1945] 1995 là ‘điểm-mốc’ giải thể chế độ CS tại VN thành Bộ chính trị Tư bản Ðỏ để thu-gọn cung-cách trao đổi bằng đưa nguyên liệu qua tay Trái, rút về bằng tay Phải với dollar Xanh qua trương mục tín dụng ngân hàng thâu gọn trong tay một số ít người mà Mỹ yêu quý như “đại-cồ tư-bản Ðỏ” vào các trương mục tại Hoa Kỳ, trong ấy Việt Kiều cũng được đặc-ân dễ-dãi, vui vẻ hàng năm gởi về hàng tỹ dollar, các nước Nhựt, Nam Hàn, Thái Lan, Phi, Mã-lai… cũng vui vẻ giúp Mỹ một tay xây dựng hậu chiến. Tiền ở đâu mà VN phát triển to thế!? Nhưng họ lại cứ kích-thích truyền thông văn hóa thúc đẩy Việt-kiều mãnh liệt với luận cứ hung-hãn tấn công CSVN hầu che dấu kín-đáo, làm lu-mờ âm mưu độc-ác của WIB về “cuộc bỏ phiếu bằng chân” tạo nên một nghĩa trang vĩ đại nằm sâu dưới đáy biển Thái Bình Dương mà Việt kiều đang trong cơn mê ngủ. Tuy nhiên cái đỉnh cao trí tuệ nầy cũng chứng minh cho Việt kiều thấy rằng “What you get what you pay”.

Trong khi quốc tế CS cho rằng Hồ khẳng định: “Ðối với các dân tộc thuộc địa ở phương đông, chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” điều quan tâm của Cụ Hồ không phải là chủ nghĩa CS mà là độc lập, tự do của Việt Nam (dĩ-nhiên cái thế lực ghê gớm 6 người nầy sẽ phục hồi danh dự cho Cụ Hồ, sau khi buộc phải phản bội Cụ vì quyền lợi sống còn, và hiện nay, đầu thế kỷ 21, đang hé mở như chúng ta cũng đang ngạc nhiên qua những tin tức giựt-gân từ truyền thông văn hóa làm đảo lộn khá nhiều về thành kiến đã đong đá trong khối ốc chúng ta tự bấy lâu nay; Tôi đưa ra một sự kiện đáng chú-ý: Ngày 25/4/2005 qua The News-week Paris Match, có một cuộc phỏng vấn dành cho cựu tù binh Thượng nghị sĩ John McCain, người đã bị cai tù Hà-Nội hành hạ đến nỗi ông phải toan tự sát 2 lần nhưng đều thất bại. Ông tuyên bố: (vì quyền lợi dân tộc, lương tâm kẻ sĩ, hay một siêu thế lực trong bóng tối cần tiếng nói của ông để giải bày bí mật của lịch sử đã đến điểm mốc thời gian phải toát ra từ cuối đường hầm tăm-tối, và hiện tại đang xán lạn đối với McCain trong sự tài trợ để trở thành một tổng thống tương lai? thể theo tạ-từ của Emperor-1 nhưng với Emperor-II thì lại chọn Thái-tử George-Bush con của mình) “Les Sud Vietnamiens n’ont jamais cruque le gouvernement en place à Saigon était legitime. Ils savaient que Hồ Chí Minh était un nationaliste qui rechercherait l’unification du pays” Người dân miền Nam không bao giờ cho rằng chánh phủ hiện tại Saigon là hợp pháp. Họ cho rằng Hồ Chi Minh mới là người quốc-gia tìm kiếm sự thống nhứt đất nước. Và chắc chắn một thời gian ngắn sau đó, cái thế lực ghê-gớm nầy sẽ cho ra nhiều tài liệu minh xác Cụ Hồ phải được vinh danh vì chiến công cứu nguy dân tộc, nhưng họ lờ đi cái đoạn (1954-1975) “kỳ đà cản mũi” vì quyền lợi hẹp hòi của chúng mà buộc phải có được sự hoàn tất cho xong chiến lược CIP [Vì sự hạn hẹp của đề-mục nầy, xin đọc giả nghiên cứu thêm chi tiếc nơi Chapter-9: Comment, critical analysis/ The New Legion]. Dĩa DVD nầy cũng không khác gì cuốn phim “Chúng Tôi Muốn Sống” 1955, do CIA Mỹ tài trợ có sự trợ giúp kỹ thuật của Phi Luật Tân. Hậu thuẫn cuốn DVD nầy quy tụ nào là giáo-sư, luật-sư, kỹ-sư, bác-sĩ… họ đều là những tinh hoa của người Việt hải ngoại. Cuốn phim nầy theo tôi nghĩ nó có nhiều giá trị, vì có những nhân chứng sống động là những nhà nghiên cứu thật sự nổi tiếng, trong đó có những nhà nghiên cứu ngoại quốc, họ dựa theo những tài liệu của nhiều tác giả có giá trị khác nhau ở trên thế giới, rồi đúc kết lại (sách tài liệu trong Library of Congress). Cuốn phim nầy sẽ bị những người chống cộng cuồng tính hung-hãn tấn công… trong khi chúng ta đối xử lịch sự có văn hoá với kẻ thù tại sao không thể đối xử lịch sự có văn hoá với những người không đồng quan điểm với mình? Một siêu thế lực “Bố-Già” quyền hạn bao la cưỡng bức giao cho tam đầu chế Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Mai chí Thọ từ 1959 cho mục tiêu chiến lược EurAsian …

QUEENBEE-1

dnchau
05-16-2015, 01:16 AM
Chuyện Biệt Kích Đời Nhảy Toán
Lôi Hổ Nguyễn Văn Hải

http://1.bp.blogspot.com/-JhZD-j9Vek4/T6r4ex89-BI/AAAAAAAAB6k/I7k1bCzB6S4/s200/5201667432_5a6f5c6b00.jpg

1-
Tiểu đoàn Phi-Hổ Nùng . Lúc này chỉ còn một đại đội. Người Mỹ đã sa thải một số Biệt-kích-quân không đủ khả năng. Riêng tôi sau chuyến hành quân tập kích vừa qua. Được chấp nhận trong cuộc thi tiếng Anh. Với chức vụ thông ngôn và theo lời tôi yêu cầu...
Cuối năm 1969, tôi thuyên chuyển sang Đại-đội-thám -sát (Recon
Company) và nhận thông ngôn Toán Indiana. Toán này đang chờ bổ sung bởi chuyến xâm nhập vừa qua, toán chỉ còn trở về người toán phó Mỹ và hai Biệt-kích-quân.
Thời điểm này, đầu năm 1970. Chương trình Biệt-kích của Nha-kỹ-thuật không còn ở mức quan sát viên như trước. Chuyển qua giai đoạn hành động. Những sĩ quan, hạ sĩ quan đến trại mỗi ngày một đông. Hai toán chờ bổ sung. Indiana và Idaho được chuyển giao cho Nha-kỹ-thuật với tên mới Thăng-Long và Bắc-bình.
Toán chúng tôi, Indiana bổ sung quân số xong, đươc nhận tên mới
Thăng-long. Toán trưởng Thiếu úy Bửu-Chính, toán phó Trung sĩ Lê Nam. Toán được đưa về Trung-tâm-huấn-luyện Long-thành ở thành phố Biên-hòa thụ huấn.
Trở lại trại CCN-Đà-nẵng, cái nắng hầm hập của ngày hè thật khó chịu. Gio biển không đủ để đẩy lùi cái nắng nóng. Cầm tờ phép năm ngày công thêm hai ngàn đồng tạm ứng trên ban lương.Toán tha hồ vung vít ngoài phố. Riêng tôi và Thiếu úy Bửu Chính có chương trình riêng. Ngày đầu về Phước-tường thăm nhà tôi, rồi sáng hôm sau trực chỉ Huế. Xe đến Nam-ô, nhìn ngọn núi cao vợi án ngữ mà khâm phục ông cha ta với công mở cõi. Xe đợi giờ để lên qua đèo. Gio biển hắt thêm cái nóng từ cát trắng và những cụm phi lao thấp tè chẳng che được mát trộn lẫn mùi tanh nồng của biển theo gió hắt lên đi qua cái làng chài bên tay mặt. Chiếc xe gầm gừ leo dốc chậm chạp, mặt đường nhỏ hẹp bên vách đá thẳng đứng và vực thẳm bên này. Dưới chân nước biển xanh ngắt. Ngồi nghỉ trên trạm dừng chân đỉnh đèo, không khí trong lành, cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Bằng cảm nhận giây phút chợt đến, lòng tôi như thoát tục lâng lâng bay bổng, nhẹ tênh cùng cảnh vật. Tiếng ơi ới gọi nhau lên xe làm tôi bừng tỉnh ngất ngây. Bửu Chính sau lưng nắm tay tôi "Làm chi mà đừ người ra rứa, bộ lạ lắm sao..."Trấn tỉnh, tôi cười nói với hắn "Cảnh đẹp quá, tớ đang nghĩ tới Hoàng-thân Tôn-thất-Mỹ, tới được đỉnh đèo ngài tức cảnh sinh tình, cùng phu nhân thoát tục, hì hụp. Kết quả thượng mã phong, để lại tiếng khóc của phu nhân..."Nghe động đến gia tộc của hắn, nhăn mặt miệng chửi thề kéo tôi vào xe xuống đèo nhưng xe cũng chậm như lúc lên.
http://2.bp.blogspot.com/-LC3IVisrRJw/T6r6DWq3UkI/AAAAAAAAB60/4T42TyO4t1o/s1600/BKQ21.jpg

Ngồi trong xe lắm lúc giật mình, tưởng tượng chỉ cần một sơ sẩy hoặc xe hư là có thể lao thẳng xuống núi tắm biển. Phía tay mặt xuất hiện bên dưới phong cảnh tuyệt vời. Một cái lõm biển chạy vòng dài theo núi, mây lãng đãng dấn trôi, cát trắng mịn leo lên như muốn lấn đá núi, xa xa thấp thoáng vài con tầu cá điểm lồng vào mầu xanh biển cả. Ba ngày vui chơi ở Huế, Bửu Chính đáng mặt thổ địa...Ngạc nhiên đầu khi về tới nhà hắn. Mọi người đều gọi hắn là mụ, mụ Chính. Hàng cây cảnh tuyệt đẹp ngoài sân chạy theo dãy hàng hiên vắng lặng treo những lồng chim. Dưới tàn xanh xum xuê cây Ngọc-lan tỏa mùi thơm ngào ngạt. Cảnh tĩnh lặng như muốn dấu đi hay hắt bỏ mọi cuộc sống náo nhiệt. Ngồi trên sập gụ. Hai mẹ con đối đáp hỏi nhau bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, tiết kiêm lời nói và người đàn ông đứng tuổi sau lưng, khi đặt ba tách trà rồi lui đứng đó im lìm. Bà mẹ Bửu Chính quay sang hỏi
chuyện tôi. Trong sự e dè tôi chậm rãi trả lời. Vài cái bánh trong cái dĩa to được đưa lên và những người trong nhà nghe chuyện chạy lại thăm cũng chỉ nói ít, phần đông vòng tay cúi đầu chào, khép nép. Cả buổi chiều dành cho gia đình tôi chứng kiến nhiều phong tục cũng như lễ nghi, phép tắc khác thường. Tỏ ra người lớn Bửu Chính nét mặt luôn trang nghiêm, cử chỉ khiêm tốn. Có những ông bà đã già gặp hắn vẫn phải cúi đầu, gập mình chào hỏi. Bữa cơm tối gia đình, lần đầu tiên tôi mới thưởng thức được cái mùi trong chất gạo ngọt nồng hương lúa, dai, dẻo của gạo đặc sản xứ Huế, gạo De An-cựu. Ăn với chim sẻ quay dòn. Trên chiếc Honda dame xanh. Bửu Chính chở tôi thăm thú kinh thành, lăng tẩm, hồ vọng...Có khi xa tít ngoại thành qua những đồng lúa, ao sen, e ấp quanh hàng cây cao chạy dài xa tận đồi dốc thoải, ngắm mà mê
cả mắt. Bầy chim trắng bay theo đội hình chữ V xa xa một con vẻ già yếu, đang cố theo sau.
Buồi chiều sông Hương vắng lặng, trên bờ thưa thớt, người ta đợi nắng khuất. Đúng như vậy, mọi sinh hoạt đều đổ dồn ra, chả mấy chốc mà náo nhiệt, những đôi gánh đặc trưng bán đồ ăn quà, đến cái thúng đội trên đầu bán hột vịt lộn, mà cô hàng chỉ rao có một tiếng, nghe lầm tưởng đến cái danh vật muôn thủa mà phát ớn, mặt đỏ bừng...Dưới dòng sông đò cũng tấp nập chẳng kém, inh ỏi trao đổi thuê mướn, ngã giá. Tay chỉ bên kia sông nơi sản xuất thứ gạo de nổi tiếng. Trên đồi chùa Thiên-mụ cô đơn lặng lẽ.
3
Hai đứa bước xuống con đò thuê, khá lớn so với đò xung quanh. Ra giữa giòng, đò xuôi về hướng hạ lưu. Không gian êm đềm, sông nước tạo cảnhhữu tình. Trăng đã lên, sao sáng lung linh. Chiếc ghe con cập vào conđò đang neo, mang lỉnh kỉnh những thức ăn cùng hai kiều nữ sông Hương, bạn học của Bửu Chính lúc hắn chưa đi lính. Qua màn giới thiệu, với ánh mắt linh hoạt, nhưng cử chỉ e thẹn nhẹ nhàng...Người đàn ông chủ đò sáp xếp đồ ăn cùng rượu và hai tiểu thư bắt đầu vào cuộc vui đờn hát. Ly rượu đầu trang trọng giao hảo với tiếng cười không ngớt. Bầu không khí nhịp nhàng chuyển động. Bửu Chính tỏ ra thích thú hết cỡ với
những bài hát hò đặc giọng, đôi lúc nhẩy nhổm lên với tiếng mõ đúng điệu nhịp, tay vỗ vẻ suýt soa...Chưa quen với bàn tiệc kiểu này, tôi chỉ biết làm theo và bắt chước. Ngừng tiếng đàn hát hai ả chia nhau tôi và Bửu Chính...Nói cười ngọt lịm chẳng thua tiếng hát...Có lẽ còn dễ nghe và khoan khoái hơn...Rót vào tai êm ả, mê ly...Cùng rượu nồng thi nhau biến hết. Chả mấy chốc,đêm vắng lặng, bóng trăng đã ngả xuyên qua lỗ vách liếp đò...Cả bốn người có vẻ khật khừ, những câu hát chợt nổi, ngắn không bài bản, tuôn ra tùy hứng...Tự nhiên bàn tay sôi nổi đi tìm cảm giác rồi những tiếng cười ré lên "Nhột, mần chi mà nhẽo rứa" Cứ thế, trong đỉnh của sự cợt nhã...Lúc ngối lúc lăn. Ông chủ đò đã mang ra chai rượu thứ hai. Dĩa gà luộc to lớn và chén muối tiêu chanh ngổn ngang như chiến trường tàn cuộc. Cái phao câu gà cứ bị đẩy qua lại tênh hênh một mình như thách thức. Vai đã ghì vai và miệng mặt cũng gần nhau phà hơi thớ nóng chẩy...Thoạt tiên ngần ngại, dần dà
bạo dạn hẳn lên. Ngọn đèn chao đi theo con gió đêm lạnh và đỉnh điểm cuộc vui bày ra trong những cái lắc lư, sóng vỗ mạn đò...Đờn một bên, mõ một nẻo, quấn lấy nhau trong tiếng kêu trầm thống, thịt gọi thịt, da gọi da, nhịp tim gọi nhịp tim hào hển, háo hức, nồng nã. Ngọn đèn gió đã tắt đi từ bao giờ, ngoài kia ánh trăng soi rõ làn sương mù như đang e ấp với giòng sông. Đò đêm nay, lần đầu tiên khám phá mê cung, tôi mất đi cái đáng nhớ cuộc đời... Nhưng dù sao nét lãng mạng, hoành tráng của cuộc chơi đã xóa ngay trong trí những băn khoăn, thẫn thờ...Lăn tùm xuống sông trong nước lạnh giá, tôi khoan khoái tháo bỏ những vết sước trên thân thể. Bơi hai vòng quanh đò, thầm nghĩ đã sạch sẽ. Vào trong khoang nằm vật xuống ngủ lăn như chết.
http://2.bp.blogspot.com/-_HfX82F3Tfc/T6r7dHIyc-I/AAAAAAAAB7E/UGr4poL4x44/s1600/5175754915_0efa7f92fc.jpg
4
Năm ngày nghỉ phép, tràn đầy những cuộc vui, tâm hồn thoải mái. Toán cũng đã dần tề tựu. Sáng nay thiếu úy Chính được gọi lên phòng hành quân (TOC) Nhận mục tiêu và dự thuyết trình sơ khởi. Chiều đến lên kho lãnh đồ trang bị hành quân. Sau cơm chiều, chiếc xe jeep đưa toán nhập khu cấm (Isolation). Nghĩa là từ giờ phút này cho đến lúc kết thúc hành quân. Toán không được giao tiếp với bên ngoài. Cuộc thuyết trình hành quân chính thức bắt đầu vào lúc tám giờ tối. Thiếu úy Bửu Chính và Trung sĩ Lê Nam dự thuyết trình. Bốn đứa tôi coi TV và tán gẫu chờ đợi. Khoảng hai tiếng sau Chính và Nam trở về thông báo hành quân và phân nhiệm vụ cho mỗi người...Toán chúng tôi sẵn sàng hành quân với thành phần: Hai cán bộ thuộc Nha-kỹ-thuật và bốn Biệt-kích-quân
(Special Commando Unit) SCU. Toán Thăng-long cùng tám chiếc Kingbee H34 vừa mới đến bãi trực thăng trại lên đường bay ra Quảng-trị. Nơi đặt Căn-cứ-xuất-phát nắm trong khu vực Sư-đoàn 101 nhẩy dù Mỹ...Khoảng mười giờ sáng, một Trung sĩ người Mỹ đến thông báo toán trưởng chuẩn bị đi xem bãi đáp xâm nhập.
Thiếu úy Bửu Chính cử tôi đi thay thế. Ngồi trên xe ra phi trường.
Chiếc OV10 đậu sẵn chờ đợi...Lần đàu tiên tận mắt tay sờ...Lòng thán phục nền kỹ thuật tuyệt vời, nét thiết kế mỹ thuật, kiến trúc vững chãi và mọi vật hoàn hảo đến từng chi tiết...Người Đại úy phi công dẫn tôi leo lên buồng lái phía sau, tay chỉ vào cái khoen mầu vàng chữ D ngang,chốt an toàn mầu đỏ bên dưới. Hệ thống cáp cứu này nằm dưới giữa chân ghế của phi công và giảng giải...Mệnh lệnh tôi sẽ truyền cho bạn, hãy nhìn vào gương chiếu hậu trước mặt tôi. Trường hợp khẩn cấp, tiếng báo động reo vang và xin để ý khi nào tôi hô "Emergency...go" bạn hãy rút cái chốt an toàn dưới khoen vàng đồng thời nắm khoen chữ D kéo mạnh lên trên. Đó là ghế thoát hiểm. Rời phi trường chiếc Covey lên cao bỏ lại sau lưng biển xanh. Núi cao trước mặt và dãy đồi xanh ngắt bất chợt dâng lên dãy núi đá loang lổ. Ngọn núi lẻ loi dẫn vào lòng chảo Khe sanh. Không hổ danh là loại trinh sát cơ hiện đại. Từ ghế ngồi, phi công có thể quan sát mọi hướng, kể cả dưới bụng phi cơ. Chính sự thon nhỏ đã lấy hẳn sự che khuất tầm nhìn, đáng nói hơn bao phủ trên đầu hoàn toàn bằng kiếng trong...Đặc biệt không có cửa hông, người phi công phải leo qua thành máy bay đề vào ghế ngồi. Tiếng gọi trong mũ bay,nhìn lên kiếng chiếu hậu phía trước, gương mặt Đại úy phi công nhìn tôi tay chỉ và giọng nói trong mũ bay "Sửa soạn vào mục tiêu thả toán Lôi-hổ" Tôi cười ra dấu hiệu tốt, lòng thích thú vì ở vào vị trí đi Covey thả toán...Nhớ lại buổi chiều khi toán tôi vào khu cấm, cũng là lúc toán của Đại úy Minh, sau này là Chỉ huy trưởng Đoàn 2...Cùng toán phó Trung sĩ Ban (Phạm văn Ban) và bốn Biệt kích quân lên xe ra phi trường. Chiếc Covey
đang vòng trên khu vực bãi đáp. Sáu chiếc trực thăng lộ rõ dần. Tiếng người phi công gọi tôi "Chú ý chuẩn bị, tôi xuống để chĩ điểm bãi đáp" Toàn bộ trực thăng đã ở trên mục tiêu. Covey đang liên lạc với trực thăng và lao nhanh xuống. Tôi nghe thấy tiếng chú ý và tiếng hô Bingo của phi công và trên những chiếc trực thăng nhìn xuống. Covey là điểm còn tiếng Bingo là bãi đáp. Covey lao vút lên và đảo vòng. Dưới kia chiếc Gunship đang bắn dọn bãi. Nhanh và chuẩn cuộc thả toán xâm nhập chỉ trong vòng mười phút
http://1.bp.blogspot.com/-wrecCbwSxB8/T6sItabkonI/AAAAAAAAB78/zOqQ6hF4yx8/s320/danang.jpg

5
Covey và trực thăng đang vòng vòng, chờ báo cáo của toán, tín hiệu tốt đẹp. Sự yên tĩnh dần được trả lại cho bầu trời. Covey đưa tôi đi xem bãi đáp. Bầu trời xanh ngắt, ánh nắng vào trưa chói chang. Dưới kia hiện ra dãy đồi núi đá loang lổ và cây cao thưa thớt. Đó là sườn của ngọn núi đá cao, vách thẳng đứng một bên, phía dưới một mầu xanh rì chạy dài tít mù...Nhìn lên phi công theo tiếng gọi "Hải, bãi đáp là hố bom" theo tay chỉ. Toàn bộ bãi đáp tôi nhận ra ngay...Lác đác xung quanh là những cây cao cạnh cái hố bom rộng."Đại úy, bay lại một lần nữa để xem địa thế". Quan sát với địa thế như vậy, toán phài thật nhanh chóng ẩn mình. Tôi chọn đám bụi rậm chạy dài theo hướng nam để ẩn nấp trước khi lấy lại phương hướng xâm nhập mục tiêu. Trên đường về, cảm giác nhẹ nhõm, tự mãn được trên chiếc Covey. Một dịp hiếm có và hãnh diện vì rất ít mục tiêu phải cần đến bay không thám. Tường trình với toán về bãi đáp, chúng tôi thống nhất cách hành động... Thiếu úy Bửu Chính lúc này mới thổ lộ "Tau không chịu nổi những
cú xuống nhanh và lên gấp của máy bay". Qúa trưa ngày hôm sau Thiếu úy Chính và Trung sĩ Nam lên dự thuyết trình không quân. Sau thuyết trình (Briefing) toán chúng tôi có một tiếng đống hồ chuẩn bị. Mọi người phải thắt đai dây sì líp qua hai háng, móc sắt sẵn sàng trước bụng. Đôi găng tay được phát đề chống cái nóng cọ sát giữa tay nắm và giây tụt. Bốn chiếc UH1 Huey và hai Huey
Gunship trên sân, phi hành đoàn lục tục lên máy bay. Thiếu úy Bửu
Chính và tôi (Nguyễn văn Hải) lên chiếc đầu. Cón lại Trung sĩ Nam (Lê Nam) cùng Sơn (Lê văn Sơn) Mẫn (Đặng văn Mẫn) Phùng (Trần Phùng)...Sơn, Mẫn, Phùng và tôi đều là Biêt-kích-quân...Theo thuyết trình Chính và tôi trên một trực thăng đổ bộ trước, tiếp đến chiếc thứ hai sẽ đổ bốn người còn lại. Dây tụt dài ở mức ba mươi mét. Một Thượng sĩ Mỹ kiểm soát xem móc sắt trước bụng đã được gài vào dây tụt hay chưa...Mọi việc hoàn tất bằng cái dấu hiệu number one của Thiếu-tá Trưởng căn cứ. Đoàn trực thăng cất cánh. Ánh nắng chiều xuyên ngang rọi trực tiếp mầu vàng khè chói lọi vào cứa trực thăng, quang cảnh bên dưới một mầu xanh thẫm chứa dấu bí hiểm.
Quay sang phía cửa bên kia ra dấu hỏi Chính tốt chưa? Ông toán trưởng mới toanh của toán tôi mà cả buổi chiều qua Đại úy Ginh (Trần trung Ginh) Đại đội trưởng Đại đội Thám-sát đặc biệt lưu tâm và truyền thêm nghề "Nhảy Toán"...Đoàn trực thăng và cả Covey đang trên mục tiêu, tôi nhận ra rõ khoảng núi đá thẳng đứng mà bên kia mới là bãi xâm nhập. Chiếc Gunship lao xuống, loạt rocket phóng xuống bãi đáp đồng thời cây đại bác 20ly bên hông khạc ra những loạt lửa dài. Ngưới Thượng sĩ Mỹ ra hiệu. Trưc thăng từ từ đứng trên hố bom. Tay trên tay dưới trong sợi dây tụt, chân chạm càng máy bay, búng người lao xuống mắt hướng về
phía dưới. Tay mặt nhấp siết hai lần dây tụt để giảm bớt lực xuống và rồi theo mắt nhìn dưới đất, ghì sợi dây một lần nữa, chân vừa chạm đất. Đưa tay tháo cái móc sắt khỏi dây tụt. Bên kia Chính cũng vừa xong. Trực thăng kế tiếp và bốn người còn lại xuống đất an toàn...Đúng như dự đoán cách bãi đáp không xa, khu rừng chồi quả là nơi che chắn lý tưởng. Thật nhanh chúng tôi biến vào khu rừng và yên tâm với địa thế hiện tại, nghe ngóng động tĩnh. Tôi báo cáo với Covey toán an toàn và đang di chuyển...Muỗi nhiều, tiếng vo ve săn đuổi. Toán phải dừng lại thoa thuốc muỗi. Tôi nói với Sơn đi đầu quan sát tìm chỗ ngủ.
6
Trung sĩ Nam và Phùng vừa gài xong hai trái mìn Claymore phòng thủ. Trời tối đen như mực, bên một hòn đá lớn, dựa lưng vào ba lô, nghe tiếng nhạc rừng trời đêm. Cảm giác lẻ loi một mình chân bỗng run lên lành lạnh. Dù rằng quanh đây đồng đội luôn phát ra những tiếng cựa quậy, đổi thế nằm. Thiếu úy Chính đang ho vào vặt áo bịt lên miệng, kèm theo hắt hơi đứt quãng, khô trong họng. Hắn đang dị ứng với núi rừng đêm lạnh.
Một vệt ánh sáng mờ vừa chiếu qua, nhỏm người dậy nhìn lên chợt hiểu. Trên đồi bên kia, địch đang truyền tin cho nhau bằng ánh đèn pin. Tiếng ầm ì, ầm ì như mỏng manh trong gió vọng lại có lẽ còn nhỏ hơn nhiều so với cái cựa mình của đồng đội. Ánh đèn pin trên kia vẫn lúc mở lúc tắt theo cái khóa truyền tin. Bầu trời muôn ngàn sao, bất chợt một sao xẹt tạo một vệt ánh sáng đâm xuống hướng nam. Tiếng xe chạy mỗi lúc một rõ dần. Vẻ nặng nề chở nặng hay xe đang lên dốc. Ngọn đèn pha loang loáng có lúc bị che khuất bởi vật cản hay lùm cây bên đường. Ánh đèn pha lúc này rọi thẳng về hướng chúng tôi chỉ cách nhau khoảng một trăm mét...Chúng tôi đang ngủ cạnh con đường. Tiếng động cơ tạo sự rung động lan truyền theo đất và cả không khí âm vang dậy núi rừng. Thấp thoáng bóng người đi bộ theo hai bên xe. Nhờ ánh đèn pha, nhìn kỹ
có người đeo súng quần áo bộ đội xen lẫn đám người ăn mặc thường tay cuốc tay sẻng. Ngang tầm chỗ toán đang ẩn núp. Bốn chiếc xe và đoàn người đột nhiên dừng lại. Đã có lệnh truyền trong cái lao xao tiếng người nhưng chẳng rõ họ đang nói gì ?...Lại gần Thiếu úy Chính, tôi bàn định...Phải di chuyển ngay trong đêm, cứ thẳng hướng mục tiêu. Để trành xa cái con đường nguy hiểm này. Nam và Phùng đã tháo xong hai trái mìn . Toán lên đường mò mẫn trong đêm tối. Ánh sáng lân tinh từ chiếc la bàn của Sơn thi thoảng chợt lên rồi lại tắt...Tiếng gà gáy từ bên dưới núi vang lên, vọng lại xa hơn tiếng thú rừng vẻ buồn tình hay cả hứng tình hú gọi, gầm gừ hoặc vui thú reo vang. Di chuyển trong đêm tối thật vất vả, nhưng nhờ vào địa thế trống trải không phải mở đường, cái khó và mệt trong lúc này chính là độ dốc. Núi mỗi lúc một cao làm trì nặng đôi chân. Một tiếng hú lớn ngân vang, phía trên xa có tiếng
đáp lại, đồng ca với đàn gà gáy dồn dập dưới dốc núi ngụ ý như đón chào ngày mới... Mệt thì nghỉ rồi lại leo... Nhắc Thiếu úy Chính căn hướng đi cho đúng, thầm nghĩ sao mục tiêu cứ ở mãi trên cao...Làn gió lạnh buốt hắt cuộn vào như ôm chặt chúng tôi, kèm theo mây mù giăng giăng trong cái sáng mờ mờ, đầu tiên của một ngày. Ngồi nghỉ lại bên tảng đá lớn quanh gốc cây. Toán chuẩn bị lương thực cho một ngày. Đun nước sôi trong cái ca nhôm, đổ nước vào hai bịch gạo sấy pha cà phê và tận hưởng điếu Capstan...Thèm muốn chết...Bửu Chính đang lo soạn bức điện và định hướng trên bản đồ vị trí con đường đêm qua. Ăn sáng xong
toán bắt đầu di chuyển. Cây rừng không rậm cũng chẳng thưa tạo được tầm nhìn tốt nhưng cũng rất dễ để lộ tung tích...Đành vậy còn hơn khu rừng thưa đêm qua. tiếng ò ò của Covey bao vùng, chiếc O2 (FAC) còn nếu OV10 thì ấm hơn ì ì. Toán dừng lại , tôi bảo Mẫn bật điện đàm...Covey đang gọi tôi trả lời và chuyển ngay bức điện...Tiếp tục di chuyển theo triền dốc thoai thoải, khu rừng này có cái sướng là không có lấy mợt con vắt...Tiếng người ho làm chúng tôi theo tự nhiên ngồi thụp xuống, nhìn vào chỗ phát ra tiếng ho, chả thấy gì?. Lại ho nữa, lần này sặc sụa...

7
Rồi tiếng nói như còn ngái ngủ, chậm rãi "Ho mãi vậy để tớ ngủ, đắp cái khăn vào cổ đi" Chúng tôi đồng nhìn nhau, tôi tự hỏi chẳng lẽ là ma, mà ma sao nói được... Chợt hiểu tôi lấy tay chỉ chỉ xuống đất và những cái gật đầu đồng tình. Phất tay ra hiệu lẩn trốn, di chuyển trong thế khum khum...Một bóng người chui ra từ đất phía bên kia triền dốc vừa ngáp vừa sững sờ nhìn chúng tôi. Người gần nhất là Trung sĩ Nam. Cây Car 15 cùa hắn nổ khoảng nửa băng, phát một. Bóng người đổ ra sau. Toán lập tức ra sức nhắm chạy theo nhau mau mau thoát càng xa càng tốt...Một địa thế có vẻ thuận lợi cho tác chiến. Tôi gọi mọi người dừng lại, đổi ba lô cho Mẫn rồi bật máy liên lạc với Covey...Ngay tức khắc có tiếng trả lời, tôi báo đụng địch và xin trợ giúp khẩn cấp...Covey trả lời đến ngay. Chúng tôi tiếp tục di chuyển, càng đi dốc càng cao, cây ít nhưng đá thì nhiều. Lúc này Covey đã trên đầu và gọi...
- Zulu Romeo đây Oscar November, cho xin số nhà đi.
Cái ánh nắng buổi sáng bởi những tảng sương mù che khuất nên tôi đành nói với thiếu úy Chính cho một người cầm panel ra khoảng trống mé ngoài phía thung lũng chờ máy bay...Nhớ mật hiệu mầu cam.
- Oscar november, tôi đang ở hướng tám giờ, anh vòng sang phải qua thung lũng, ngay trên núi.
-Oscar november đây Zulu Romeo, cứ tiến tới hướng 11 giờ...12 giờ. Panel mầu cam đang chờ trước mặt.
-Ok thấy rồi bạn nên cố lên phía trên, có những tảng đá cao, ít cây
rất dễ cho không trợ, sẽ có ngay đồ chơi, đang xin cho bạn triệt xuất. - Cám ơn Oscar november, thoát.
Chúng tôi đi thêm 100 mét, quả đúng những tảng đá mọc chen cùng cây thấp. Bãi lý tưởng để câu dây trệt xuất. Lập ngay vị trí phòng thủ. Bời chắc chắn địch sẽ theo chân chúng tôi. Trungsĩ Nam vừa gài xong trái Claymore và hai trái mìn M14... Toán chờ đợi. Trái mìn M14 nổ tung và rồi những tràng đạn tới tấp, sối sả của địch bắn vào. Cây M79 của Phùng nổ ác liệt tạo nên bụi khói che chắn tầm nhìn. Với vị trí lúc này ở vào địa thế cao chơi từ từ lựu đạn là tốt nhất...Một tiếng nổ lớn và rồi loang theo những lửa và sức nóng. Trái B40 của địch nổ tung trên tảng đá lớn. Loạt hơi nóng bao trùm đánh bạt cái lạnh ban sáng. Chúng tôi ở vào vị thế vượt trội và sau màn lựu đạn và M79. Địch có vẻ chững lại, cùng lúc chiến trường yên ắng nặng nề. Liên lạc báo cáo nhanh với Covey. Tôi nhắc Trung sĩ Nam "Coi chừng trái Claymore, tụi nó sắp tấn công". Một tiếng xẹt, vèo ngay trên đầu, cây 79 của Phùng vừa phát hiện tên xạ thủ B40 của địch. Ôm trọn trái 79, rồi tiếng nổ và tên địch gập xuống như ai đó gấp tờ giấy...Không nghe tiếng nổ trái B40 của địch...Có lẽ đang xuống thung lũng. Vẫn cái bấm mìn trước mặt, Trung sĩ Nam đang loay hoay móc thêm lựu đạn. Tiếng
hô xung phong vang dội, đám địch xuất hiện vừa bò vừa bắn dữ dội lên trên. Những cây Car 15 giờ đây mới nổ dòn...Xác người xấp ngửa thấy rõ làn đạn cày sới cùng những co giật thân mình. Lợi thế trên cao quả là tuyệt vời. Qua đi những khói bụi đám đông lố nhố dăng hàng lum khum, tay súng nổ dòn nhào lên. Trái mìn Claymore nổ tung khói lửa bụi mù. Bên này địch vẫn tiếng hô, thét áp đảo. Thiếu úy Chính đứng hẳn lên hô : Chạy lên phía trên mau. Rồi không đợi ai hắn tiến lên trước. Đúng với chiến thuật mìn nổ là lúc mở đường máu...Chạy một đỗi, chiếc Covey đang trên đầu...Xa xa hai chiếc Khu trục A1 Skyraider...Tôi đề nghị với Chính. Lập ngay phòng thủ gài luôn trái mìn của Phùng đang gọi Covey xin không kích. Tôi thấy Phùng từ nơi gài mìn hớt hãi chạy lên, bỗng quay lại nổ một trái 79.
http://4.bp.blogspot.com/-Qy8p6__lHmo/T6sDQ_uTnuI/AAAAAAAAB7Q/tYsuSPIGKas/s1600/bkdontresize3.jpg

8
Tôi hét vào trong máy.
- Oscar november, tôi đang bị bao vây, địch tấn công . Oanh kích ngay vào trái khói vàng... Tháo trái khói đeo nơi ngực, tôi liệng thẳng xuống hướng địch. Ngay lập tức tấm panel vàng cũng được căng lên giữa toán... Loạt đạn 20 ly phầm phập nổ liên tục. Chiếc A1 như ngừng lại, nhìn thấy cả tia lửa nơi nòng súng...Chiếc thứ hai cũng đang từ từ chúc đầu nổ dòn đạn 20 ly. địa thế quá gần để không thể thả bom chùm... Bên trên chiếc Covey bỗng lao vụt xuống phóng một trái khói. Chiếc A1 đầu tiên lúc này tách ra tấn công vào vị trí Covey mới phát hiện. Tiếng bom nồ đinh tai
không dứt kèm theo bên trận tiếng hô xung phong lanh lảnh...Bỗng chốc địch tràn ngập. Súng nổ ầm vang. Cạnh tôi Phùng thét nghe rợn người, cây M79 văng khỏi tay hắn, lồng ngực thấm đẫm máu...Nằm lăn người qua một bên, tôi quăng vài trái lựu đạn và vội tiếp vào súng băng đạn mới...Cả hai bên cùng nấp vào những phiến đá chơi trò cút bắt. Bên kia Thiếu úy Chính ra dấu Sơn chết rồi. Hai chiếc A1 vẫn tấn công vào mục tiêu. Khẩu phòng không bị Covey phát hiện giờ đây im tiếng. Trong máy Covey đang gọi.
- Zulu Romeo, bạn chuẩn bị triệt xuất di chuyển nhanh lên phía trên 100 mét. A1 sẽ can thiệp phía sau, bỏ lại hai người chết.
Thông báo cho Thiếu úy Chính. Mò tay vào túi bi đông đựng lựu đạn tôi lấy hết số lựu đạn của Phùng, rồi nắm lấy cái bấm mìn chờ lệnh...Những trái bon napalm tạo một vệt lửa chạy dài, cách chúng tôi chỉ vào khoảng 50 mét...A1 đã quen với vị trí mục tiêu...Nhờ vào địa thế và khẩu B40 của địch đã bị diệt, thêm vào sự tham chiến của hai Khu trục cơ. Toán chúng tôi mới giằng co được cho tới lúc này...Sáu trực thăng đã có mặt trong vùng, tạo nên sự sinh đông phấn khởi. Hai chiếc Huey Gunship thế chỗ cho Khu trục cơ.Trên kia Covey dục Toán cố di chuyển...Bằng một hiệu lệnh gật đầu đồng ý. Trái Claymore nổ tung, khói và bụi đất che chắn sau lưng. Toán vội vã chạy lên đỉnh cao hơn. Đành bỏ lại Sơn và Phùng. Hai Gunship thay nhau yểm trợ...Đến được một phiến đá bằng rộng, đường kính khoảng 10 mét. Đưa tấm panel lên làm ám
hiệu, Mẫn đang ngửa cổ nhìn trực thăng...Súng địch tới tấp từ hông của toán...À, tụi này đi vòng mong chiếm đỉnh cao, nhưng sợ máy bay phát hiện...Giật mình nhìn lại ,Mẫn chân vẫn còn quì nhưng người gập xấp trên phiến đá. máu tuôn ra lai láng...Tôi gọi Covey báo cáo, nhưng sao máy câm nín...Hiểu rồi lúc ngã xuống vì bị tấn công, nhớ lại một cái gì như ai đánh vào vai rất mạnh, nhìn qua sau vai, cời bỏ cái ba lô để kiểm soát...Đạn cày nát nắp ba lô tạo một đường rách dài lộ ra phần trên máy truyền tin nát bét...Rút vội cái máy P90 mở làn sóng cấp cứu...Có ngay tiếng hỏi "làn sóng cấp cứu nào lên với tần số"
- Đây Zulu Romeo, máy truyến tin của tôi bị bắn nát. Xin chuyển làn sóng cấp cứu...Thêm một toán viên chết.
- Ok Zulu Romeo nhận rõ, trực thăng sẽ câu bạn lên khi nào tình hình cho phép, chuẩn bị sẵn sàng, móc và đưa người chết về.
- Oscar November, roger that.
Sự can thiệp chính xác vào địch bên hông vị trí toán. Viên phi công
trực thăng đã thấy rõ địch quân bên dưới...Đã ngớt tiếng súng, thi
thoảng thẩy vài trái lựu đạn phòng ngừa, chúng tôi ghìm súng chờ đợi. Chiếc Gunship vừa vút lên cũng là lúc Covey gọi tôi.
- Zulu Romeo, chuẩn bị trực thăng đang xuống bãi.

9
Đưa tấm panel mầu cam về phía trực thăng đang từ từ tiến đến. Ba người đã chuẩn bị cho câu dây. Hai chiếc móc dây đai dù qua háng đã được gài. Trung sĩ Nam gài móc dây cho xác Mẫn đang nằm dài trên phiến đá. Ở bên này theo gió mùi máu tanh hòa lẫn khói thuốc súng tạo cảm giác nôn nao lợm giọng. Chiếc Gunship vụt qua. Khẩu đai liên tự động sáu nòng vãi như mưa đạn xuống bên sườn đồi. Trực thăng đứng trên đầu đang thả xuống bốn sợi dây câu, bỗng chao đi đầu chúc thẳng xuống thung lũng. Tiếng súng lại vang lên pha lẫn tiếng rocket nổ ầm ầm của chiếc Gunship theo sau...Bất giác nhìn xuống thung lũng một đám lửa khói bốc
cao, thầm nghĩ những người chiến sĩ đang đi lên với Thượng-đế...Có tiếng Covey.
- Zulu Romeo, bỏ lại người chết bạn có mười phút để ra khỏi nơi tồi tệ đó. sẽ dùng hỏa lực...Thoát mau đi.
Đứng vội lên tôi nói với Nam và Chính chạy đi mau lên...Băng nhanh vào hàng đá núi, chúng tôi chạy dần lên cao, mặc cho địa thế hiểm trở, nhưng nơi đây nơi lý tưởng cho tác chiến. Phân thành ba góc, Trung sĩ Nam trải ngay tấm panel. Tôi gọi Covey.
- Oscar november địa điểm mới, anh thấy thế nào?.
-Zulu Romeo tốt chuẩn bị triệt xuất.
Một chiếc UH1 Huey đang gần lại chúng tôi. Hỏa lực trên Gunship đạn cày sới tung tóe nhiều nhánh cây chồi gẫy gập. trực thăng đang ở trên đầu, sức gió từ cánh quạt vẹt hẳn hàng cây...Chiếc Gunship thứ hai bắn ra những trái rocket có tiếng nổ phụ...Loại rocket phóng ra những đinh kim để chống biển người, cốt che chắn cho trực thăng. Người Mỹ phụ trách thả, rước toán đang buông dây câu...Rõ như ban ngày, người xạ thủ trực thăng rời tay súng, người gập thẳng vào giá súng, tay soãi lỏng, ngay chỗ tôi đứng chờ dây câu những giọt máu tong tong chảy xuống in đậm vào hàng đá tảng dưới chân. Lập tức trực thăng rú lên cất thẳng lên cao rồi vụt biến. Điên cuồng Gunship lúc này xuống thấp hơn. loạt đại liên và đạn 40 ly tự động tựa mưa rào trút xuống. Cùng lúc tiếng súng của địch bên dưới ầm vang...Vội thẩy mấy trái lựu đạn.
Tiếng Covey gọi tôi.
- Zulu Romeo, bạn hãy cố cầm cự, Gunship sẽ ở cùng bạn, mọi thứ sẽ trở lại ngay...Cố lên.
-Oscar november, nhận rõ xin bạn cố gắng. hỏa lực của tôi đang hết dần. Hai trực thăng vẫn trút xuống thép và lửa nhưng thời gian tác xạ lâu dài hơn không tới tấp như trước...Nó đang câu giờ.
Chiếc Covey O2 sơn mầu rằn ri lao nhanh xuống phía đồi và đang thắng vút lên. Một trái khói trắng bốc cao.Chiếc F100 cũng sơn mầu ràn ri, không biết đến từ lúc nào lao nhanh xuống từ bụng phi cơ ba trái bom được nhả ra ngay trái khói chỉ điểm. Ba tiếng nổ dậy đất ầm vang cột khói bốc cao đen kịt. Tôi còn thấy rõ đường đạn đỏ theo máy bay...Những tiếng nổ tiếp theo sau liên tục. Một cột khói đen như cái nấm khổng lồ, bên trong nhìn rõ ngọn lửa sắc lẻm tung hoành. Chiếc F100 đã đánh trúng mục tiêu, bằng ngay mấy trái bom đầu.

10
Thật ngoạn mục khi chứng kiến cảnh những hòn than lửa bắn nối đuôi nhau vào chiếc F100 đang lao xuống bung ra một lúc ba trái bom mà không thèm bốc lên cao, đang bay gần như sát cụm rừng. Tiếng nổ ầm vang như sấm. Một biển lửa bao phủ mục tiêu. Phi cơ dần vút lên cao, giờ chỉ còn chấm nhỏ rồi mất hẳn trên bầu trời. .. Trận không kích thành công.
Nơi chúng tôi chận chiến bỗng ngưng hẳn...Một cuộc chơi mới
chăng?...Đã có tiếng trực thăng từ hướng đông vọng lại. Những đốm đen từ bầu trời to dần. Sáu chiếc trực thăng đang bay tới.
- Zulu Romeo, bạn thấy chiếc OV10 chưa? hắn sẽ thay tôi giúp bạn. Tôi chì còn đủ xăng để bay về, tạm biệt.
Ngay sau đó tiếng Covey gọi.
- Zulu Romeo, tôi thấy quả cam của bạn rồi. Chờ dọn bãi, hãy chuẩn bị trực thăng sẽ đến từ thung lũng, ghé vào bốc bạn ra. Không sử dụng dây câu.
- Oscar november. Roger that.
Chiếc Cobra bổ xuống trút những viên đại liên, rồi tiếng nổ của đạn 40 ly(M79). Tiếng súng của địch bên dưới vẫn từng chặp sối sả cặp kè theo chiếc Cobra...Bốn chiếc Kingbee H34, thuộc phi đoàn 219. Không quân Việt Nam Cộng Hòa. Phi đoàn được mệnh danh "Thần Phong" bởi thành tích anh hùng, rất liều mạng trong chuyến thả và rước toán Biệt-kích...Huyền thoại về những phi công được danh xưng Cowboy hay Mustachio được loan truyền và mãi là những hiệp sĩ hào hùng bất diệt. Mặc cho tầng đạn từ Cobra. Bên dưới địch quân vẫn bắn lên như mưa mỗi khi trực thăng xuống tác xạ. Người phi công Cobra như hiều được tình hình và đã quen mục tiêu...Bây giờ họ đổi chiến thuật. Xạ kích từ trên cao rồi quay ngoắt về hướng thung lũng...Tiếng súng chát chúa rồi thấy rõ những vết đạn xoáy tung những hòn đá nhỏ rớt trên đầu và cổ. Nhìn ra hai tên địch vừa bò lên nằm im bất động. Lựu đạn lại được tận dụng...Cũng may loại lựu đạn đặc chế cho Biệt kích là loại nhỏ, nhẹ nên mỗi người chúng tôi có thề mang theo hành quân khoảng ba mươi trái...
- Zulu Romeo, bạn có hai phút chuẩn bị, trực thăng đang đáp.
Chiếc Kingbee bay theo sườn núi phía thung lũng sát những cây chồi rừng. Người xạ thủ đang vãi đạn trên đường hạ xuống. Chỉ còn vài mét nữa, cố chịu sức gió từ cánh quạt, chúng tôi khom lưng lao thẳng về phía cửa trực thăng. Chỉ còn cách trong gang tấc. Bỗng trực thăng nhổm lên, phía sau đuôi kêu ầm ầm...Vội nằm lăn xuống đá...Trực thăng giống như con diều mất gió ngửa bụng lao về hướng thung lũng xoay tròn như con cù...Rớt dần...dần cho đến khi ánh lửa và khói bốc cao...Chứng kiến sự việc, tự dưng ứa nước mắt. Nằm đây mà hồn tôi nao nao. Một nỗi buồn khôn tả ập vào tâm trí. Trong thân thể sức lực gần như chẳng còn...Đành nằm buông xuôi ăn vạ vậy...Đạn và rocket từ Cobra vẫn bốc lên những tầng khói, gió hắt lên bao trùm chiến trường mùi thuốc nổ khét lẹt hòa lẫn cây rừng tỏa hương ngai ngái, nồng nã. Ba chiếc Kingbee còn lại đang quần đảo bên trên chiếc Covey...Họ đang bàn tính gì chăng?. Hai chiếc Cobra vẫn thay nhau kềm mục tiêu. Một Kingbee đang tách đoàn ba chiếc... Từ hướng thung lũng, hạ độ cao ngang tầm sườn núi bay thằng vào chúng tôi. Trực thăng rú lên rồi từ từ hạ xuống ngay sát chỗ toán. Gập người đề tránh sức gió, chỉ còn khoảng một hai mét. nhồm người lên lao nhanh vào bụng máy bay...Qua khung cửa trực thăng đụn mây trắng vun vút đi ngang nhanh đến chóng mặt. Một áp lực nào đó như đè chúng tôi xuống sàn. Bằng vào cái hất ngược, trực thăng quẹo gấp sang trái, thấy cả trời mây và cảm giác trì nặng, thổn thức...Trực thăng đang thẳng xuống thung lũng rồi dần dần bốc lên cao...Một màn bốc toán ngoạn mục, đầy tính oai hùng, sáng tạo và một nét đẹp, tuyệt đẹp trong hành động...Tôi thở phào soài người trên sàn, tứ chi gần như không cảm giác...Trong bụng tiếng sôi eo éo và cơn đói tràn dâng... Miệng ứa nước miếng.