PDA

View Full Version : Đi tìm quá khứ



thanphongkingwood
08-30-2012, 11:28 PM
Đ I T Ì M Q U Á K H Ứ
ngày 6.08.12

Chuyến về từ Las Vegas, máy bay dừng lại ở phi trường Phoenix để đổi tàu. Phải ngồi chờ cả tiếng đồng hồ để đáp chuyến bay về lại Houston. Xuyên qua khung cửa sổ, bên ngoài nắng vàng rực rỡ. Phi cơ lên xuống liên tục làm tôi nhớ về những tháng ngày bận rộn bay hành quân năm xưa. Tự hỏi không biết bây giờ phi trường Tân Sơn Nhất ra sao? Không biết lượng máy bay hành khách có lên xuống dập dìu như ở phi trường này? Tôi dán mắt vào khung cửa kính, nhìn ra ngoài đường băng mà lòng có chút bùi ngùi.

Nhìn chán mắt, tôi ngồi xuống mở computer để đốt bớt thì giờ chờ đợi. Tôi lựa chỗ ngồi sát cửa kính để có thể nhìn ngắm ra ngoài và cạnh ổ điện để gắn vào máy laptop. Cục pin trong máy bị hỏng rồi, vẫn chưa có dịp thay nên máy không thể sử dụng được nếu không nối vào ổ điện. Đang mải mê đọc email chợt nghe tiếng nói thanh tao
- Xin lỗi, tôi có thể ngồi đây được không?

Tôi ngẩng mặt lên… tim tôi bỗng rung động, trí óc tôi chạy đua về dĩ vãng! Tôi nhìn chằm chằm vào người đối điện, tâm trạng ngổn ngang quên luôn việc đáp ứng. Một cô bé tóc vàng thả xuống ngang lưng, khoảng chừng trên 20 tuổi, dáng người mảnh mai, đôi mắt đen tròn, vẽ mặt thanh tú… có tất cả vóc dáng của một cô bé tôi đã gặp năm xưa trong những ngày khởi đầu cho cuộc đời dâu bể của một gã tha hương! Làm sao người có thể giống người nhường ấy?!

- Thưa ông tôi có thể ngồi vào cái ghế trống bên cạnh của ông được không?

Tôi giật mình, vội vã đứng dậy, dời cái xách tay khỏi ghế trống, đưa bàn tay ra dấu mời gọi
- Ồ xin lỗi, cho tôi xin lỗi! Vâng mời cô tự nhiên!

Vừa an định trong ghế, cô nhỏ bỗng hỏi
- Dường như ông thấy tôi giống một người quen lâu chưa gặp phải không?

Trời ơi là trời, vẫn cái giọng điệu thông minh quyết đoán của người con gái năm xưa! Tôi thật sự xúc động
- Xin lỗi cô về sự bất nhã vừa rồi. Vâng, đúng vậy, cô giống một cô nương tôi quen cách nay gần 36 năm. Chẳng những thế, cô còn giống luôn giọng nói và cách nói chuyện của người đó!

Cô nhỏ bật cười
- 36 năm trước tôi còn chưa biết tôi ở đâu, cha mẹ tôi là ai! Nhưng làm sao ông có thể nhớ được lâu vậy? Chắc là ông và cô đó phải có một kỷ niệm nào đặc biệt lắm phải không?
- Vâng, đúng vậy! Kỷ niệm rất ngắn ngủi nhưng ngọt ngào, không ngờ vẫn tiềm ẩn trong tôi từng ấy thời gian nên vừa gặp cô tôi đã tưởng thời gian quay lại!

Cô nhỏ lại bật cười
- Ông nói chuyện như trong phim. Xin lỗi tôi vô tình đã khơi động chuyện không vui của ông!
- Không phải, chuyện vui chứ, là những kỷ niệm rất vui đã góp phần làm thăng hoa cho một dĩ vãng xa xăm!

Nói vừa dứt câu thì loa phóng thanh thông báo cho hành khách sắp hàng lên máy bay. Cô nhỏ lên trước theo business class. Tôi bâng khuâng, tôi ấm ức trong lòng, chưa kịp hỏi cô nhỏ thêm những điều rất muốn hỏi. Không thể chỉ đơn giản người giống người. Chắc cô nàng phải có mối liên hệ nào đó với cô nương tóc vàng năm xưa. Tôi mường tượng khuôn mặt làm người lớn của cô nhỏ năm xưa ở nông trại bạt ngàn. Tôi như thấy ánh nắng chiều óng ánh vàng cùng với hoàng hôn dần phủ xuống hàng cây hai bên đường chạy như biến, thụt lùi lại đằng sau trong bụi mù. Tiếng vó câu nhịp nhàng, đều đặn trên đường đất, tôi bâng khuâng hít thở dập dồn, cảm giác như có đôi tay trắng nõn nà quấn vòng ngang bụng, nhớ mái tóc rối bay làm nhột nhạt sau gáy cùng với những mẩu đối thoại ngập ngừng, ngượng nghịu của một gã con trai Á đông trước một cô bé Tây phương nhỏ hơn mình cả chục tuổi… Tôi nhớ như in bờ suối mộng mơ, nhớ cảm giác ngây ngất đắm say trong lòng con suối, nhớ đôi mắt đỏ hoe khi nói lời chia tay, nhớ đôi môi tham lam dưới dòng nước mát, nhớ gương mặt phụng phịu khi tôi rời khỏi vòng tay cô nhỏ để nhảy tránh lên bờ. Nhớ cái cottage sau vườn nhà ông bà nội cô bé cho anh em tôi thuê ở vùng nông trại Pearsall…

- Đây là lần thông báo cuối cùng cho chuyến bay United 1241 về George Bush Houston…

Tôi giật mình tỉnh mộng mới biết chỉ còn lại mình tôi đang đứng ngẩn ngơ ngay chỗ check in. Cô nhân viên bật cười: “Are you OK?”

Vừa bước vào lòng phi cơ, tôi đảo mắt tìm ở khoan thượng hạng, thấy cô nhỏ ngồi sát cửa sổ, mắt nhắm nghiền, tai đang nghe nhạc từ chiếc iphone. Khi bước ngang chỗ cô bé đang ngồi, tôi muốn nói một điều gì với cô nhỏ nhưng không tiện vì cửa máy bay đã đóng lại chuẩn bị khởi hành trong khi chỗ ngồi của tôi ở hàng ghế cuối phi cơ. Tôi bứt rứt đi về chỗ ngồi mà lòng miên man suy nghĩ không biết làm sao để nói chuyện thêm với cô bé. Suốt hành trình hơn hai tiếng đồng hồ bay, tôi cứ nhắp nhỏm nghĩ cách… vẫn không thấy cách nào thuận tiện. Có đôi lần tính liều đi về phía trước nhưng ngại ngùng sự đường đột sẽ làm mất phẩm hạnh của mình đối với một cô bé xa lạ, tôi đành dặn lòng để khi xuống khỏi phi cơ sẽ tìm gặp cô bé.

Khi phi cơ vào bến đậu, mọi người như lò xo bung ra khỏi ghế. Tôi cũng vội vã đứng lên trước được vài ba người. Chiếc máy bay 6 hàng ghế ngang, 26 hàng chiều dài không còn chỗ trống thì làm sao tôi có thể len lách lên phía trước?! Tôi chen đầu ngóng về phía trước, thấy loáng thoáng cô bé rời khỏi phi cơ làm tôi càng thêm sốt ruột trong khi số người đứng ngang dọc phía trước dường như không nhúc nhích. Mỗi người một xách tay mà sao lại chậm chạp quá đỗi như thế không biết! Cuối cùng tôi cũng xuống khỏi phi cơ! Tôi đi như chạy, mắt nhìn quanh tìm cái bóng bé nhỏ của cô nàng. Tôi nhanh chóng ra bến xe chờ khách đến với mong ước cô bé chờ xe. Tôi kéo cái carry on của tôi vòng quanh bến xe, mắt dáo dát ngó xuôi nhìn ngược vẫn bặt tăm. Nhìn thật kỷ một hồi lâu, tôi quay trở lại chỗ nhận hành lý với ý nghĩ trong đầu “biết đâu cô nhỏ còn chờ hành lý!”. Tôi đi tới chỗ nhận hành lý của chuyến bay United 1241 từ Phoenix về nhưng vẫn bóng chim tăm cá! Tôi hoàn toàn thất vọng khi người nhà gọi tìm tôi ngoài bến xe chờ!

Đã bao lần tôi tự nhũ lòng hãy quên đi nhưng hình ảnh cô bé gặp hôm nào cứ trộn lẫn vào hình bóng năm xưa! Thật ra chỉ là một kỷ niệm nhỏ nho so với những thăng trầm trong cuộc sống… nhưng không thể nào rời khỏi tâm tư tôi. Tôi biết chắc tôi không có gì để thương tiếc chút kỷ niệm xưa cũ đó nhưng vì tính tò mò làm cho tôi cứ loay hoay với những ý tưởng đi tìm. Nhưng tìm ở đâu? Cách nào? Những câu hỏi cứ quẩn quanh mà câu trả lời không sao tìm ra được.

Một buổi sáng, trời đất âm u, vợ con đã ra hết khỏi nhà từ lúc nào, người đi làm kẻ đi học, căn nhà vô cùng quạnh vắng. Tôi nằm rán trên giường, lắng nghe từng âm thanh xào xạc của gió bên ngoài tạo nên từng hồi phong linh ngân ngân dài bất tận. Ký ức lại lôi kéo tôi trở về với những khắc khoải làm tỉnh hẳn cơn ngái ngủ. Tôi lại loay hoay với hình ảnh cô bé và những kỷ niệm xưa cũ ở Pearshall. Ừ nhỉ, tại sao mình không về Pearsall một chuyến? Nhưng ngay tức khắc là niềm thất vọng tràn trề! Ông bà Nội của cô bé năm xưa đã khá lớn tuổi làm gì còn sống sót đến hôm nay! Nhưng tôi lại hăng hái hẳn lên. Ừ nhỉ! Sao không về thăm lại chốn cũ một lần?!

***

Tôi đem ý niệm về thăm lại Pearsall thảo luận với tất cả nhân sự của 5 gia đình anh chị em và Mẹ tôi. Chẳng những hai chú em thứ bảy và thứ tám – hai chú nhỏ học trò trói gà không chặt đã cùng ra đi với tôi trong ngày Saigon thất thủ năm xưa – hưởng ứng nồng nhiệt, mà Mẹ tôi và chú thứ chín, cô thứ mười là những người mới thoát khỏi thiên đường cộng sản năm 1991, cùng với các con dâu con rễ cũng hăm hở muốn biết nơi chốn tạm dung đầu tiên của anh em chúng tôi ra sao. Chúng tôi thảo luận và cùng đồng ý “không có dịp nào tốt hơn là những ngày nghỉ lễ Phục Sinh sắp tới, vì tất cả mọi người đều được nghỉ làm, nghỉ học.”

Đã dự định thuê một chiếc xe đủ lớn cho 14 người lớn nhỏ cùng đi với nhau cho vui nhưng cho đến gần ngày đi vẫn không tìm được, chúng tôi đành sử dụng 2 chiếc minivan và 1 chiếc xe nhỏ. Cũng may là 9 đứa con cháu lớn, thế hệ thứ ba, có những hẹn hò riêng tư nên mỗi đứa đã đi mỗi ngả chứ không thì có lẽ ít nhất cũng phải thêm hai chiếc nữa thì chắc bất tiện vô cùng!

Ngày lên đường cuối cùng cũng đã đến!
Đầu tháng Tư khí hậu còn mát mẻ, chúng tôi muốn đi từ sáng sớm để vượt chặng đường 275 dặm với hy vọng tìm lại được những người quen cũ. Vì thế, chúng tôi hẹn nhau tập trung ngủ qua đêm ở nhà Mẹ. Mẹ tôi rất vui với một lũ con cháu đầy nhà cùng tiếng cười, tiếng nói thâu đêm. Mẹ tôi năm nay đã 90 tuổi nhưng vẫn còn khang kiện lắm so với những người cùng lứa tuổi. Cụ vẫn còn có thể đi Việt Nam một mình để thăm bà con, thăm mồ mả khi nào muốn đi; Cụ cũng còn thừa minh mẫn ngồi hàng giờ đánh bài “Cát-tê” hoặc “binh xập xám” với con cháu mà không mệt mỏi; còn đủ sức tranh thủ đi chơi xa… nhất là lần này Cụ rất hăm hở!

Đã dự định khởi hành lúc 7g sáng nhưng vì đông người nên cà-rịch-cà-tang đến gần 8g mới ra khỏi nhà. Trên mỗi chiếc xe đều có một lộ trình in sẵn; ai chạy trước, ai theo sau ai; đi bao lâu thì dừng lại đổ xăng, nghỉ mệt, nghỉ bao lâu ở nơi nào…. Nhất nhất đều được nhà tôi hoạch định chi tiết. Gì chứ sắp đặt chương trình chi tiết cho bất cứ công việc gì, du lịch nơi nào không ai có thể làm hơn nhà tôi. Nhiều lúc thấy chi li quá tôi phàn nàn “mất vui” nhưng nhà tôi lại bảo “sắp đặt vẫn phải sắp đặt, không dùng tới thì thôi, nhỡ khi cần thì có, còn hơn nước tới chân không nhảy kịp.” Làm sao tôi có thể cãi lại được với những lý luận chính xác của nàng!

Ba chiếc xe nối đuôi nhau và tôi là người dẫn đường. Lâu lâu phải dừng lại cho “người đổ xăng, xe nghỉ… mệt!” Có Cụ già và con nít trong xe nên không thể phóng một hơi mấy tiếng đồng hồ như bình thường được. Chúng tôi dùng buổi trưa rất nhanh ở San Antonio sau 4 tiếng lái xe. Đoạn đường còn lại gần 60 dặm chúng tôi phải tranh thủ tới nơi càng sớm càng tốt.

36 năm qua với bao nhiêu thay đổi! Nếu không có bản đồ có lẽ tôi không biết chắc chỗ nào là chỗ nào! Trong lòng tôi nôn nao, buồn vui lẫn lộn. Khi quẹo vào con đường chính của Pearshall thì tôi mất định hướng! Con đường ngày xưa chỉ có hai làn xe ngược chiều thô sơ, bây giờ đã là đại lộ 4 làn xe, xây cất quy mô. Hai bên phố xá đẹp đẽ hơn nhiều. Tôi định hướng chạy về hãng bán xe hơi GM ngày xưa nhưng không thấy đâu, chạy thêm chút nữa tìm hãng chuyển vận Dưa Hấu cũ cũng không thấy! Tôi dắt hai chiếc kia chạy xuống rồi chạy lên ngơ ngơ ngáo ngáo như Mán về thành… Hai chú em ra dấu dừng lại, chú thì nói chỗ này, chú chỉ chỗ kia… Rốt cuộc, chúng tôi quyết định dừng lại một tiệm bán tạp hóa để hỏi thăm. Tiệm này đối diện chỗ mà chúng tôi tin ngày xưa có hãng chuyển vận Dưa Hấu to lớn của ông Preston, người đã bão trợ anh em chúng tôi lên đây làm nông trại năm xưa.

Rất may, người chủ tiệm lại là công nhân rất lâu của hãng Dưa Hấu ngày xưa. Ông ta nói là cha con ông Preston đã bỏ nghề cũ vì bị thua lổ quá lớn sau mấy vụ mùa mưa nắng, sâu rầy bất thường. Hãng xưởng cũ bây giờ đã là hãng mua bán nông phẩm của người khác. Hãng bán xe cũng đã đóng cửa khá lâu khi ông Lopez qua đời và ông Richard, partner dọn đi nơi nào không biết. Theo hướng dẫn của người chủ tiệm, chúng tôi chạy ra vùng nông trại, tìm được miếng đất để trailer ngày xưa nơi tạm trú đầu tiên. Chúng tôi dừng xe lại, bước xuống khu đất kỷ niệm. Nỗi hoang vu quạnh vắng ngập tràn trong tâm hồn.

Chú thứ tám nói với Mẹ
- Đây là khu đất đặt trailer ngày xưa chúng con ở khi mới lên nông trại mấy tuần đầu tiên. Chúng con được cấp một xe pick up để ba anh em chúng con lái theo đường này ra nông trại đi làm mỗi ngày. Mẹ coi mấy mươi năm rồi vẫn không có cây cao bóng mát…

Chợt thấy Mẹ tôi khóc và rồi cô em gái út cũng thút thít khóc theo. Tôi hoảng hồn hỏi Mẹ dồn dập thì Mẹ bảo
- Tội nghiệp cho các con của Mẹ! Đã hơn nửa đời người với biết bao dời đổi mà còn thấy thê lương, quạnh quẽ dường này huống chi ngày xưa ba anh em chân ướt chân ráo tới đây không gia đình, không tổ quốc!

Nói xong Mẹ lại khóc òa! Nghe Mẹ nói ba chữ “không tổ quốc” làm tôi cũng xúc động ngập lòng, nước mắt đoanh tròng, cố nén không bật khóc! Anh em chúng tôi cố an ủi Mẹ và em gái một lúc rồi hối mọi người lên xe, chạy vòng quanh những nông trại bao la nhưng vì mùa màng chưa bắt đầu nên trông quang cảnh tiêu đìu, hoang vắng quá! Tôi nghẹn ngào nhớ về một quãng đời!

Theo định hướng, chúng tôi trở lại khu nhà của ông bà Mỹ già ngày xưa. Nếu tôi nhớ không lầm thì ông tên John và bà là Betty. Nhà cửa cũng thay đổi khá nhiều. Nhận ra khu vườn trống xưa kia có cái nhà nhỏ (cottage) mà anh em chúng tôi thuê mướn. Khu xóm vắng hoe dù chỉ mới hơn 4g chiều. Tôi liều gõ cửa nhà. Một ông già Mễ cho biết đây chính là căn nhà cũ của ông bà John và Betty và bây giờ ông ta là gia chủ. Khi xưa chính ông cũng đi làm cho hãng Dưa Hấu của ông Preston, đã nghỉ hưu lâu lắm rồi. Ông ta nói tiếng Anh rất khá, cho biết họ đã mua căn nhà này vài chục năm qua do ông Stephen, con trai ông John, bán lại sau khi ông bà Cụ tiếp nối nhau qua đời trong vòng có một năm. Tôi hỏi thăm

- Vậy ông có biết họ được chôn cất nơi nào không?
- Không xa lắm đâu, gần bên con suối cạn cách đây khoảng 10 phút lái xe.

Ông gật đầu hỏi tiếp
- Anh có muốn thăm viếng mộ phần của họ không?
- Chúng tôi rất hoan hỉ nhờ ông hướng dẫn giùm.

Chúng tôi muốn tìm mua một ít hoa, đèn để viếng mộ nhưng không có. Chỡ ông Mễ già đi ra mộ. Tôi nhìn quanh, nhớ mài mại con đường dẫn ra suối năm xưa. Cũng con đường này cô bé đã cùng tôi phóng ngựa như bay trong một buổi chiều mùa Thu năm ấy! Con đường hồi xưa sao thơ mộng bây giờ lại quá hoang vắng!

Xe dừng lại bên cạnh con suối đã cạn dòng. Hình thế chung quanh đã thay đổi khá nhiều. Tôi tìm đường men theo bờ suối nhưng cây cỏ đã choán ngập lối đi. Nơi tôi bị cô nhỏ xí gạt xô xuống nước năm xưa bây giờ trơ bày đất đá, dòng nước rất gầy, uốn lượn như một con rạch nhỏ. Theo ông Mễ nói thì dòng suối càng ngày càng khô cạn. Bên cạnh không xa là một nghĩa trang nhỏ với mộ phần nhấp nhô. Chúng tôi được hướng dẫn đến đúng ngôi mộ của ông bà John và Betty Tricks nằm cạnh nhau. Đến bây giờ tôi mới biết tên họ chính xác của ông bà chủ nhà cũ. Ông mất tháng 3/1992 còn bà mất tháng 2/1993.

Đứng trước mộ phần tôi lâm râm khấn vái “Kính ông bà, rất lấy làm tiếc chúng tôi đến viếng mộ phần ông bà nhưng không có nỗi một bình hoa mà chỉ có tấm lòng thành khẩn. Không biết ông bà còn nhớ năm xưa đã cho chúng tôi thuê căn nhà cottage sau vườn của ông bà với giá rẻ mạt không? Chúng tôi vô cùng biết ơn ông bà đã đối xử rất tử tế với anh em chúng tôi. Sau bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống tỵ nạn, hôm nay chúng tôi về đây để thăm cảnh cũ người xưa, nhưng người xưa đã không còn ai mà cảnh cũ trông cũng xa lạ quá! Xin ông bà chứng giám tấm lòng thành của Mẹ tôi và tất cả anh em chúng tôi. Cầu xin linh hồn ông bà luôn bình yên trên nơi cõi vĩnh hằng. Nếu ông bà có nghe lời cầu nguyện của tôi, xin cho tôi cơ duyên gặp lại con cháu của ông bà. Thực tình tôi đã gặp một cô bé giống hệt cháu nội Deana của ông bà ngày xưa, giống từ dáng người, tiếng cười giọng nói… không biết cô nhỏ đó có quan hệ gì với con cháu của ông bà hay không?”

Gần 20 năm qua rồi còn gì! Theo lời kể của ông Mễ già, những năm đầu tiên ông bà Stephen có về viếng mộ mỗi năm ít nhất một lần, nhất là vào dịp hè, nhưng mỗi năm mỗi thưa thớt và dường như năm rồi không thấy đâu! Không biết sức khỏe của ông bà ấy ra sao nữa? Ông Mễ nói tiếp

- Lần cuối cùng gặp lại ông trông già đi nhiều còn bà trông vẫn còn khỏe

Tôi hỏi ông già:
- Ông có thấy con gái của ông Stephen đi theo không?
- Rất hiếm khi thấy cô đó.
- Rất hiếm có nghĩa là ông có thấy cô ta?
- Có nhưng không nhớ khi nào.

Tôi nhớ lại cô nhỏ gặp trên máy bay về Houston, buột miệng hỏi:
- Có bao giờ ông thấy con gái của ông bà Stephen dẫn theo một cô bé gái nhỏ tóc vàng?
- Không thấy!
- Không biết hiện giờ họ ở Houston hay nơi nào khác, ông biết không?
- Tôi biết trước kia họ ở Houston nhưng khoảng 10 năm qua không còn liên lạc.

Hy vọng mong manh vừa phực lên đã tắt ngúm! Tôi than thầm trong bụng “thế thì biết đâu mà tìm?!”

TTôi đưa ông Mễ về nhà. Trên đường đi tôi cám ơn ông đã chỉ dẫn cho chúng tôi thăm được mộ phần của ông bà John và Betty. Tôi tâm sự với ông là ba mươi mấy năm rồi tôi mới trở lại chốn này, nơi chốn đã cho tôi rất nhiều kỷ niệm và lòng biết ơn, không biết có còn cơ hội nào khác không. Tôi cũng lấy làm tiếc là đã không có dịp thăm viếng ông bà già Tricks trước khi ông bà qua đời. Ước gì tôi có thể tìm được con cháu của ông bà. Ngẫm nghĩ đời người với hợp tan tan hợp, với sinh lão bệnh tử mà lòng buồn vời vợi.

Đưa ông già vào tới cửa, tôi quay lui ra xe thì ông chợt la lên
- Mister, ông tên là gì?
- Tên tôi là Tuấn
- Oh Mr. Tuấn, Tôi là Tom. Tôi vừa nhớ ra rất có thể tôi còn giữ địa chỉ của ông bà Stephen. Tôi trả dứt cái nợ “second loan” cho ông bà ấy cách nay khoảng hơn 10 năm. Ông chờ tôi mấy phút để tôi tìm xem may ra còn giữ. Dĩ nhiên địa chỉ này đã cũ, không biết có còn giá trị không?

Hy vọng bừng lên làm tôi rất phấn khởi. Có địa chỉ, có tên họ có thể tìm không khó. Đợi một lúc khá lâu làm tôi thắp thỏm. Có đến gần 10 phút đồng hồ mới thấy ông Tom đưa cho tôi một phong bì đã ố vàng.
- Đây rồi! Địa chỉ này ở Houston. Tôi phải lục tìm trong ngăn tủ để giấy tờ nhà nên hơi lâu, xin lỗi Mr. Tuấn. Ông giữ lấy vì tôi không cần nữa!

Ông Tom đưa tôi phong bì và chúc bình an trên đường về. Tôi nghĩ tôi rất may mắn vì ông Tom già bỗng nhiên chợt nhớ tới cái địa chỉ đã bỏ quên cả 10 năm dài. Bóng chiều đã xuống thấp, quang cảnh càng thêm tịch mịch. Ở đây không còn gì lưu luyến nữa, chúng tôi lên đường về lại San Antonio.

Hoàng hôn đã vây quanh, mọi người trong xe yên lặng theo đuổi những cảm nghĩ riêng tư. Mẹ tôi dựa vào ghế xe ngủ ngon lành trong tiếng thở đều đặn. Lòng tôi nao nao buồn. Mới bình minh nôn nao ra đi giờ đã hoàng hôn trên đường về quạnh vắng. Đầu óc tôi vẫn quay cuồng chung quanh việc tìm ra tung tích của cô bé tóc vàng. Có lẽ vì tò mò muốn xác thực cô bé là con của Deana chứ không cố tâm vực dậy một mối tình rất ngắn ngủi, đầy lãng mạng của tuổi xuân thời. Chút cảm tình thơ dại của cô nhỏ đối với tôi ngày xưa chắc không làm ai bận tâm tới nó nữa! 36 năm qua biết bao nhiêu dâu bể trong đời sống mỗi người nên tôi cũng muốn gặp lại để biết cuộc sống của nàng bây giờ ra sao, dáng dấp ra sao… Tôi quyết định về đến nhà sẽ google xem nơi chốn, sẽ lật sổ điện thoại tìm họ Tricks ở vùng này, hoặc tôi sẽ… tôi sẽ đánh liều lái xe tới địa chỉ gõ cửa. Đã nghĩ được cách nên lòng tôi bình an trở lại.

Trên đường về, chúng tôi liên lạc nhau bằng điện thoại và quyết định ở lại San Antonio đêm nay. Nhà tôi lên internet mướn được khách sạn gần Riverwalk với giá cả không đắt lắm cho những ngày nghỉ mùa lễ trọng. Mướn 4 phòng ngủ, 14 người kéo nhau đi về phòng như đi biểu tình! Lấy phòng xong lại kéo một đàn ra bờ sông tìm chỗ ăn tối. Riverwalk rộn rịp người và người. Đèn đóm dọc hai bên bờ sông sáng trưng như những ngày lễ hội.

San Antonio bây giờ đẹp hơn nhiều lần so với “những ngày xưa thân ái” khi anh em chúng tôi bỏ ngang công việc nông trại trở về phố. Nhớ ngày đó ba anh em chúng tôi thật gan cùng mình. Một hôm tôi thức giấc nửa đêm vì tiếng khóc trong mơ của một chú em. Tôi ngồi dậy đến cạnh giường dỗ dành; nhìn hai khuôn mặt trẻ con ngủ không ngon giấc, bất chợt nghĩ về hoàn cảnh hiện tại. Mấy tháng qua, các em không kham nổi công việc nông trại, xin việc làm lao động khác cũng chỉ được đồng lương tối thiểu. Các em còn quá trẻ, các em phải được đi học. Nếu cứ giam mình ở chốn này thì làm sao có tương lai?! Hơn nữa, ở đây xa cách thị thành, chung quanh đều là nông trại bạt ngàn, là chốn đèo heo hút gió thì làm sao có cơ hội liên lạc với gia đình?! Buổi sáng thứ Bảy thức dậy tôi đem ý niệm đó nói với các em thì chúng nó vui mừng thu dọn ngay đồ đạc chất hết lên xe! Ông bà chủ nhà vô cùng ngạc nhiên khi tôi qua thông báo trả nhà, hỏi

- Mấy anh em có buồn gì chúng tôi không, hay là tụi bây không cần phải trả tiền nhà nữa?
- Dạ không! Tôi nói. Cám ơn ông bà rất tử tế với chúng tôi, nhưng chúng tôi phải về phố để có cơ hội liên lạc với gia đình bên Việt Nam.
- Mấy anh em đã xếp đặt chỗ ở ngoài phố rồi phải không?
- Thưa ông bà, chúng tôi về đó sẽ tính.

Nói xong là lên xe trước đôi mắt bàng hoàng của ông bà Mỹ già! Chúng tôi chất hết đồ đạc quần áo lên chiếc xe Chrysler cũ 8 máy, to dềnh dàng, rời nông trại chạy một mạch về phố khi trời đã nhá nhem tối mà không có ai thân thuộc. Không còn nhớ tôi đã hỏi thăm ai và được chỉ dẫn cách nào đó mà tìm đến ngủ tạm chỗ homeless shelter qua một đêm! Tôi còn nhớ đêm đó đang mơ màng trong giấc ngủ không bình an, tôi bỗng giật mình nghe tiếng khóc gọi “mẹ ơi, mẹ ơi” của chú em nhỏ nhất. Thế là ba anh em cùng thức nhớ nhà cả đêm. Ôn lại bao nhiêu kỷ niệm của gia đình. Gọi tên tất cả những người ruột thịt, rồi cùng nhau âm thầm khóc… Vừa 6g sáng họ đã đánh thức tất cả mọi người dậy, phát cho mỗi người một chén cháo xong biểu phải ra đi với lời dặn là nếu cần chỗ ngủ tạm có thể quay trở lại vào khoảng 7 giờ chiều. Nghĩ lại mà cũng thấy lạnh mình, đúng là “điếc không sợ súng”. Đã nhiều lần về thăm lại San Antonio, tôi cố tình tìm kiếm căn shelter ngày nọ nhưng thật tình không còn biết phương hướng nào của thành phố du lịch sang trọng này nữa!

Đêm San Antonio thanh bình, có lẽ mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ sau một ngày di chuyển vất vả lại đi dạo khá lâu ở Riverwalk. Riêng tôi cứ trằn trọc, khắc khoải ôn lại một quãng đời 36 năm tha hương như xem một thước phim chiếu chậm… cho đến khi tôi chợt nhớ tôi đang có Mẹ và đại gia đình anh em một bên, lòng tôi tràn ngập niềm vui. Hạnh phúc đó đã đưa tôi đi vào giấc ngủ muộn màng, đầy mộng mị.

***

Cả một tuần lễ sau khi ở Pearsall về, dù bận bù đầu với công việc nhưng tôi vẫn nghĩ tới việc truy tìm “chân dung quá khứ”. Tôi thử tìm bằng google với địa chỉ của ông Tom cho. Biết rõ ràng nơi tọa lạc của căn nhà – phía tây bắc thành phố Houston – chỉ cách nơi tôi ở khoảng 45 phút lái xe. Chuyện lái xe đến tận nơi không phải là trở lực chính mà do vì hồi hộp, không tiên liệu được phản ứng của cô bé ngày xưa nay đã là một người đàn bà trên 50 tuổi; sợ cô ấy đã quên rồi những vụng dại một thời, sợ sẽ không biết đối xử làm sao khi đối diện chồng con của nàng, sợ sự lạnh nhạt rớt xuống phủ phàng trên vai đời nặng trĩu thời gian…

Cuối cùng tôi chọn giải pháp viết thư gửi qua bưu điện. Tôi không thể đếm được đã viết bao nhiêu lần. Ban đầu còn kiên nhẫn nắn nót viết tay. Viết rồi xé bỏ, rồi viết rồi xé, lại viết lại vo tròn cho vào sọt rác… Tôi ngồi thừ người tự trách “tại sao mình lại quan trọng hóa vấn đề như vậy?! Chỉ là một người quen biết thuở xưa, chỉ là một người bạn ở thủa thiếu thời!”



Houston, ngày… tháng… năm 2012

Chào Deana,
Chắc Deana rất ngạc nhiên khi nhận được thư này. Không biết cô còn nhớ ba anh em Tuấn, người Việt Nam tỵ nạn năm 1975, hay hát nhạc “nhớ nhà”, thuê căn cottage của ông bà Nội cô ở Pearsall?
Hiện giờ cả ba anh em chúng tôi đều ở Houston. Vâng, đã 36 năm qua! Cuộc đời đã có quá nhiều thay đổi sau những thăng trầm của cuộc sống tha hương. Nhưng chúng tôi vẫn không quên những kỷ niệm đầu tiên khi đặt chân đến Mỹ quốc. Tôi vẫn không quên tấm lòng tử tế của ông bà nội của cô và một vài người khác ở Pearsall đã giúp đỡ anh em chúng tôi trong thời gian đầu. Vì thế, mới tháng trước đây, chúng tôi đã trở lại Pearsall với hy vọng có thể thăm viếng ông bà và những người quen cũ. Rất tiếc, những người quen biết cũ đã không còn ai ở đó! Tôi được ông Tom, chủ nhà mới hướng dẫn chúng tôi ra thăm mộ phần của ông bà nội của cô và cho chúng tôi địa chỉ này.

Tôi viết mấy dòng thăm hỏi cô với hy vọng cô vẫn còn ở Houston. Cho tôi kính lời thăm và chúc sức khỏe đến Ba Mẹ của cô. Nếu nhận được thư này mong cô cho biết. Có thể liên lạc bằng email nếu tiện. Email của tôi tuan@gmail.com.

Chúc cô luôn bình an trong sự bảo bọc của Thiên Chúa.

Bạn cũ,
Tuấn

Tái bút: Tôi tình cờ gặp một cô nhỏ tóc vàng, rất giống cô thuở xưa, trên chuyến phi cơ từ Phoenix về lại Houston vài tháng trước. Cô nhỏ đó rất giống cô từ vóc dáng đến tiếng cười và cách nói chuyện. Thật sự mà nói, chính vì hình dáng cô bé này đã mang chúng tôi trở lại thăm Pearsall. Không biết sao lòng tôi vẫn hoài nghi cô nhỏ đó có liên quan đến cô? Chỉ là một thắc mắc cứ đeo đẳng theo tôi, nếu không phải xin cô bỏ qua, Deana nhé.

Thư đã gửi đi như cánh nhạn biệt tăm cuối trời quên lãng. Rất có thể địa chỉ đó bây giờ đã là của người khác. Rất có thể Deana không còn quan tâm đến hạnh ngộ ngày xưa. Có thể nàng không thấy hứng thú gì khi nhắc về một chút kỷ niệm ấu thơ… Tôi chỉ còn biết lặp đi lặp lại điệp khúc “Nhật Ký Đời Tôi”… Thôi thế là thôi, là thế đó, dĩ vãng là thơ đem thơ về ghép nhạc thành khúc tình ca, thôi thế là thôi là thế rồi, hiện tại ước mơ nhiều, cuộc đời rồi đây biết bao giờ mới… gặp Deana. Ừ nhỉ, chuyện của tôi cũng có thể viết thành thơ, có thể đem ghép thành nhạc làm khúc tình ca cho vui một quãng đời! Tôi cố quên đi với những tất bật của đời sống nhưng sao tôi vẫn không đành lòng!

Một ngày cuối tuần lái xe về hướng Bellaire, khu thương mại Việt Nam, thay vì đi theo con đường thường lệ, tôi lại vòng xe qua địa chỉ nhà nàng. Tôi chạy qua chạy lại vài vòng rồi đánh bạo dừng xe trước ngõ vào nhà bấm chuông cửa. Lòng tôi vô cùng hồi hộp, nửa mong có người ở nhà nửa không. Bấm chuông một lúc vẫn không thấy ai trả lời, tôi vừa thấy nhẹ nhõm vừa có chút thất vọng. Lên xe suy nghĩ lại toàn bộ câu chuyện tôi bỗng bật cười! Đã từng tuổi này mà sao tâm tình giống như ngày niên thiếu. Vẫn những đợi mong, vẫn những khắc khoải, vẫn những ngại ngùng! Dường như lòng tôi đã dứt khoát “không tìm kiếm nữa”. Tôi thở ra như trút bỏ tất cả những khúc mắc trong lòng, tiếp tục hát chế lời bản Nhật Ký Đời Tôi của nhạc sĩ Thanh Sơn: “Ngày biệt ly chúng mình chưa nói hết câu tạ từ. Bao năm cách biệt, bao năm thăng trầm hết rồi tình nghĩa xưa. Nhớ đến cũng buồn, mà ai kia quên rồi, nhật ký đời tôi ghi thêm một lần vui!” Đúng vậy, ngày đó biệt ly chẳng những không nói được với nhau một câu tạ từ mà tôi phải lẫn tránh nàng vì mặc cảm tỵ nạn, vì tuổi vị thành niên của cô bé, vì hình bóng của “ai đó” cứ ngự trị trong đầu tôi với đôi mắt nhìn lăm lăm nghiêm khắc.

Khi tôi không còn nhớ nghĩ đến câu chuyện ngày xưa thì dĩ vãng lại ào ạt trở về.
Một chiều đi dạy về muộn, lục thùng thư thấy có một tấm thiệp, hình thức của thiệp cưới. Tôi vui vẻ nghĩ nhanh trong bụng “chắc là con cái của bạn bè lại đám cưới”. Nhưng khi nhìn tên và địa chỉ người gửi đóng bằng con dấu của Trường Đại Học UCCS tôi thật ngỡ ngàng, lạ lẫm vì trong đó có chứa cái tên Deana.
Prof. Deana Florence
© University of Colorado Colorado Springs
1420 Austin Bluffs Pkwy,
Colorado Springs, CO 80918

Rõ ràng phong bì đề tên và địa chỉ của tôi nên không thể nhầm lẫn với ai khác. Tôi mang vào thư phòng bóc ra đọc quên cả cởi giày. Đây không phải là thiệp cưới mà là thiệp cám ơn. Mặt thiệp màu lá non thanh nhã, có hình một bó hoa nhiều màu sắc. Phía trên chữ in sẵn khá lớn “Với Tất Cả Sự Biết Ơn Của Chúng Tôi” (With Our Thanks); dưới cùng có in câu: “Đối với một số người nhất định nào đó, sự ân cần, chu đáo chỉ là một cách sống” (For certain people, thoughtfulness is just a way of life.) Trang thứ ba ở ngay giữa có in câu: “Cám ơn đã là một trong những người đó” (Thanks for being one of those people.) Ở trang hai và một phần trang ba, Deana đã nắn nót viết bằng tay, nét chữ thảo rất ngay ngắn và mềm mại./p>

Tuấn quý mến,

Xin lỗi đã chậm trả lời thư. Rất chậm là đàng khác! Có lẽ Tuấn đã quên gửi thư cho tôi lúc nào rồi phải không?Tôi đã nhận thư của Tuấn mấy tháng trước do con gái của tôi mang về từ Houston. Vâng, con gái tôi tên Linda, con bé tóc vàng Tuấn đã gặp trên chuyến bay từ Phoenix về. Tôi đã ngạc nhiên cùng cực (extremely surprised) khi nhận ra Tuấn là người gửi thư! Không thể tưởng tượng được với bao nhiêu thời gian đó, với bao nhiêu thay đổi trong cuộc đời Tuấn vẫn còn nhớ nghĩ đến tôi làm tôi vô cùng xúc động đến ứa lệ. Sau khi đọc thư Tuấn, tôi có nói sơ về mối quan hệ của chúng ta và nhờ con bé diễn tả lại vóc dáng của Tuấn. Con bé nói “ông đó có râu, trông còn trẻ như mẹ, cao và to lớn hơn con rất nhiều, vâng người Á Đông. Ông đã nhìn con sửng sốt khi vừa mới thấy con. Ông ta nói con rất giống một người con gái ông đã gặp 36 năm về trước. Con buồn cười vì nghĩ chắc ông ta đã lầm con với ai đó chứ làm sao biết ông ta đang nói về mẹ; vì thế, con hoàn toàn không để tâm; vừa lúc đó lại đến giờ lên phi cơ, và rồi không còn cơ hội nào gặp lại ông ta một lần nào khác dù đi cùng chuyến bay!”

Cám ơn Tuấn vẫn còn nhớ nghĩ đến chúng tôi. Đặc biệt cám ơn gia đình Tuấn đã thăm viếng mộ phần của ông bà Nội của tôi ở Pearshall. Chính tôi cũng rất yêu mến ông bà Nội của tôi. Chuyện rất dài dòng nhưng hoàn cảnh chưa thuận tiện để nói. Tôi biết chắc là Tuấn cũng vậy. Chỉ muốn cho Tuấn biết hiện thời chúng tôi đang ở và làm việc tại Colorado Springs. Mẹ tôi cũng vừa bán được căn nhà cũ cách đây một tháng và đã dời về ở chung với chúng tôi. Ba tôi đã mất năm rồi!
Cho tôi gửi lời thăm hết mọi người, đặc biệt hai người em trai của Tuấn. Chúc bình an và hy vọng có dịp sẽ liên lạc với Tuấn sau.

Bạn cũ,
Deana Florence (Deana Tricks)


Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần như tìm kiếm một điều gì đó trong những lời thư. Tôi đọc cái thông điệp của tấm thiệp và nghĩ rằng chắc lẽ Deana đã chọn lựa từ hàng chục tấm thiệp in sẵn khác. Có lẽ nó mang một ý nghĩa gì hơn là tôi nghĩ.

Dòng tư tưởng tôi bị gián đoạn khi có tiếng nhà tôi mời cơm tối. Tôi ngồi vào bàn ăn, có lẽ cái mặt còn bâng khuâng nên bị nàng thắc mắc:
- Anh đọc thư ai mà lâu vậy?
- Thiệp cám ơn của gia đình nhà Tricks mà mình đã thăm mộ hôm ở Pearsall.
- Chắc thư của cái cô tóc vàng anh quen hồi xưa chứ gì? Nàng nheo mắt châm chọc. “Chắc có gì lâm ly bi đát lắm nên đọc hơi lâu đó nha”.
- Đâu có gì, họ cám ơn mình đã đến thăm mộ phần của người thân, em đọc không?
- Thư của anh mà em đọc làm chi!

Đặc biệt của nhà tôi là chưa bao giờ mở bất cứ thư nào có tên của tôi. Cho dù nàng là người lấy thư cũng để riêng đó cho đến khi tôi mở đọc. Ngày xưa, khi tôi phải đi làm ở California một thời gian khá lâu, nàng đã gom thư hàng tuần gửi sang cho tôi. Tôi rất nể phục và quý mến tính cách này của nàng.

Ăn tối xong tôi ngồi vào computer đọc thư như thường lệ nhưng đầu óc tôi lại nghĩ tới trường hợp của Deana. Chữ “Prof.” mà ở Đại Học chắc là Giáo sư. Họ Florence chắc là họ của chồng nàng. Thế là mọi thắc mắc đã được trả lời. Con bé tóc vàng của Deana đúng là hai giọt nước. Rất tiếc bà Susan cũng đã dọn đi rồi sẽ không có dịp để thăm bà lần nữa. Phải chi hôm đó được nói chuyện rõ ràng với cô bé thì tôi đã thăm được bà trước khi bà dọn đi. Đúng là mọi việc ở đời đều không như mình mong muốn, người gặp người cũng phải có duyên có phận với nhau mới được. Nhưng dù thế nào đi nữa lòng tôi cũng đã bình an trở lại. Tôi không hiểu sao Deana không dùng phương tiện email. Cũng có thể cô ta đã gửi thiệp thay email để chứng tỏ sự trang trọng thay cho lời cám ơn suông. Cũng có thể muốn hạn chế sự liên lạc. Cũng có thể có những tế nhị cần thiết nào đó của một nữ Giáo sư với tuổi đời 53. Nhưng dù gì đi nữa, trang sách cũng đã được đóng lại trọn vẹn và đời sống vẫn sẽ tiếp tục đi về phía trước theo chiều quay kim đồng hồ. Kỷ niệm xưa cũ là những hình ảnh đẹp của một phần đời làm thăng hoa cho những ngày vừa xa quê hương buồn tủi năm nao.

22.03.2012

thanphongkingwood
09-08-2012, 09:28 PM
Tạp ghi

KÝ ỨC
Yên Sơn

Bây giờ đang là tháng cuối của mùa Hè Texas.
Sáng sớm Chủ Nhật, cả rừng thông Kingwood đứng mơ màng trong lớp sương rất mỏng, xám đục. Cả lũ ve sầu dường như cũng đang mơ ngủ. Sáng hôm nay thời tiết rất thu, không hừng hực nóng như buổi sáng hôm qua. Tôi xem xét chiếc xe đạp đã nằm yên trong nhà chứa xe từ bao nhiêu tháng qua, bôm hơi thêm và đạp về hướng Green Belt.

Không biết có nơi nào ở Texas giống như ở Vùng Kingwood, nơi tôi cư ngụ hơn 20 năm qua hay không? Ở đây, người ta thiết lập một hệ thống Green Belt để cho cư dân trong vùng sử dụng vào các việc tập thể dục trong ngày, dắt chó đi bộ hoặc chạy bộ, chạy xe đạp. Người dắt chó đi chơi phải mang theo bao rác nhỏ dùng vào việc giữ vệ sinh chung cho môi trường. Green Belt là một hệ thống con đường nhỏ cong queo dài như vô tận, nối liền tất cả các khu nhà trong vùng lại với nhau, nếu đạp xe đạp cả ngày có lẽ cũng không hết. Toàn bộ con đường lát xi-măng sạch sẽ, màu xam xám, rộng hơn một thước tây, uốn lượn trong từng khoảng rừng thu hẹp giữa các khu gia cư, cây cỏ được cắt xén bảo trì thường xuyên, thỉnh thoảng năm ba tuần thấy có anh cảnh sát đạp xe đạp dọc theo đường để duy trì an ninh, trật tự. Dù vậy, bao nhiêu năm chúng tôi sinh sống ở đây chưa hề nghe thấy bất cứ một vấn đề gì về Green Belt, có chăng chỉ một vài than phiền về ai đó dắt chó đi chơi quên mang theo bọc rác. Suốt đường đi bóng cây rừng rợp mát rất đẹp, nhất là vào dịp mùa Xuân hoa dại đây đó nhiều màu sắc. Dân cư Vùng Kingwood càng ngày càng tăng trưởng. Hiện có đến cả trăm ngàn dân. Kingwood vốn là một thành phố riêng biệt nhưng hơn 10 năm qua bị Houston cưỡng bức sáp nhập mặc cho dân chúng trong vùng quyết liệt phản đối. Những vụ kiện đòi độc lập đối với Houston vẫn tiến hành nhưng có lẽ cũng chẳng đi về đâu.

Suốt dọc hai bên đường Green Belt xe đạp chạy qua, hậu quả mùa hè năm trước còn nhan nhãn là những cành gãy, cây khô đã được cắt bỏ, chất từng đống gọn gàng. Nhìn từng đống gỗ tự nhiên lòng tôi buồn quá đỗi! Nỗi buồn kéo tuột tôi về một dĩ vãng xa xôi nhưng lúc nào cũng chực chờ trong tiềm thức. Những bụi khói của rơm rạ, mo nan, lá mía khô… đã bao lần làm cay mắt mẹ khi nấu ăn trong suốt những tháng năm nghèo túng năm xưa đang làm cay mắt tôi lúc này. Tôi cũng nhớ tôi đã nhiều lần góp phần đi tìm củi để nấu cơm! Củi ở đâu mà tìm trong khi rừng thì xa, xe đạp không có?! Ngoài việc lượm mo nan, gom lá tre, lá mía hoặc cành khô ở mấy lùm tre chung quanh làng, nhặt một ít rơm rạ còn sót lại ở ngoài ruộng sau các vụ mùa! Có một lần Mẹ sai tôi đi tìm củi vì cây rơm sau nhà đã gần cạn. Chỉ nghe biểu đi tìm củi mà không chỉ cho tôi tìm nơi đâu! Loanh quanh trong xóm cả buổi không tìm được lại gặp lũ bạn rủ nhau tắm sông, chơi đá banh, đánh đáo, cút bắt cả buổi chiều. Tuổi còn bé ai mà không ham chơi? Khi trời sẫm tối mới giật mình là phải có củi về nhà. Tôi thật sự lo sợ không biết làm sao, cứ đi lang thang chưa dám về. Bỗng nhiên lòng mừng khấp khởi khi thấy có một hàng rào gỗ của nhà hàng xóm có cây cột gỗ nhỏ đứng trơ trụi, ngả nghiêng… Ngó trước ngó sau không thấy bóng dáng ai, tôi vận dụng cơ bắp nhỏ xíu trộn với mồ hôi kéo lên hăm hở mang về! Tưởng sẽ thoát khỏi bị rầy la việc đi chơi cả buổi, ai nhè mới vào đến sân đã thấy Mẹ tôi đứng trước cửa, tay cầm cây roi nhịp nhịp, hỏi cây gỗ lấy ở đâu, tôi co rúm người nói thật… bị Mẹ quất cho mấy roi rồi bắt tôi vác cây gỗ theo Mẹ tới nhà ông Nghị hàng xóm xin lỗi và trả lại. Ông hàng xóm quái ác còn xúi Mẹ tôi nhịp thêm vài roi vào mông nữa, rồi bắt tôi hôm sau phải trở lại đào lỗ chôn xuống đàng hoàng! Trên đường về Mẹ còn dặn đi dặn lại từ nay trở về sau đừng bao giờ lấy bất cứ cái gì của người khác nếu không có sự đồng ý.

Nói tới cây rơm, tôi lại nhớ cái khuôn mặt nhỏ xíu của nhỏ Lan, con ông Sáu Hòe ở gần nhà. Vâng, con nhỏ dáng dấp nhỏ hơn tôi, cũng xấp xỉ tuổi tôi mà sao nó lanh đáo để. Lúc nào cũng hành xử như chị người ta không bằng! Trong xóm có một lũ 5, 6 đứa con trai lẫn con gái thường chơi đùa với nhau, không biết sao đứa nào cũng coi nó như là một thủ lãnh. Và tôi cũng tình nguyện nghe theo nó bất cứ việc gì; có lẽ vì nể sự bậm trợn của nó, cũng có thể vì nó trắng da dài tóc, nhất là nó hay lùi khoai lang để dành cho tôi sau những lần đi học về. Trong lớp nó ngồi với lũ con gái ngay trước bàn tôi. Nó giỏi văn tôi giỏi toán nên giúp đỡ nhau khi cần thiết. Có một lần tôi mang họa cũng vì nó. Đó là một ngày đẹp trời trong giờ văn, tôi nghịch lén cột hai tà áo dài của hai đứa con gái với nhau, khi một đứa đứng dậy đi nộp bài… hai chiếc áo bị tét rách một phần, hai đứa ôm bụng khóc thét lên. Thằng bạn ngồi một bên sợ bị phạt lây nên tố giác liền với Thầy giáo! Thế là tôi bị Thầy bắt quỳ gối, úp mặt vào tường, quất cho năm thước bảng tê mông. Thầy bảo hai đứa con gái đi học về đem áo tới nhà cho Mẹ tôi sửa lại và phạt cấm túc hai hôm! Trên đường về tôi năn nỉ cả hai đứa nó đừng mang áo tới nhà bắt đền, nếu không thì tôi bị đánh đòn đau tôi sẽ nghỉ chơi với tụi nó, tôi sẽ không giúp toán tụi nó nữa! Vậy mà nó im re chỉ thì thầm với con bé kia làm tôi sợ điếng người! Về gần tới nhà nó mới tuyên án rằng tha! Tôi mừng quá ôm chằm lấy nó, chưa kịp nói chữ cám ơn, nó la bài hãi đẩy tôi ra rồi chạy biến dạng về nhà! Hôm sau tôi phải giả bệnh ở nhà hai hôm, còn nó thì vẫn làm mặt giận; được cái, hai ngày tôi bị cấm túc nó chép giùm bài đem về cho tôi đầy đủ nhưng đưa bài xong với lời dặn thì biến mất liền.

Nhưng chỉ sau đó vài tuần nó lại rủ chơi cút bắt sau khi đi học về. Lũ chúng tôi 3 đứa bị nó chia phe. Nó nói để cho công bằng mỗi bên một trai một gái. Nó bắt tôi vào phe của nó đi trốn mặc dầu tôi phản đối muốn ở khác phe - vì tôi tính trước nếu tôi thắng nó tôi sẽ bắt nó cõng tôi đi một vòng. Nó bảo tôi chạy theo nó trốn ở gốc rơm sau vườn. Tôi bảo mỗi đứa trốn một nơi kẻo tụi kia dễ bắt được cả hai. Nó nắm tay tôi kéo ghịt moi cây rơm chui vào, lấy rơm che kín mít. Chúng tôi nằm im thin thít, hồi hộp một lúc khá lâu nhưng không nghe động tỉnh gì hết, tôi nghĩ hai đứa kia chịu thua rồi nên tính chui ra, nó kéo lại và ôm ghì tôi không nhúc nhích được. Trong khoảnh khắc thảng thốt đó nó hôn vội lên môi tôi ướt nhẹp rồi chạy tuốt tìm hai đứa kia bắt cõng trên lưng!

Và cũng từ hôm đó càng ngày nó càng xa cách hơn. Cho tới năm sau khi sinh hoạt ở chùa. Trong đêm tập văn nghệ nó bỗng dưng than mệt và kêu nhức đầu. Nó nhờ tôi hỏi mượn chai dầu cù là của Thầy đem vào phòng cho nó. Nó nằm rên hừ hừ, biểu tôi xức lên hai bên thái dương, chà xát nhẹ nhẹ, rồi tới sau ót… xong nó nằm sấp xuống biểu tôi thò tay vào bên trong bóp chung quanh đốt xương thứ sáu giùm nó?! Tôi hơi mắc cỡ nói với nó tôi ra nhờ chị trưởng đoàn; nó không chịu, nói tay con trai mạnh bóp tốt hơn! Tôi chột dạ làm theo lời chỉ dẫn của nó. Bàn tay tôi run run thọc sâu vào lưng áo… ôi da thịt con gái mát rượi chuyền hơi lạnh vào tận tim tôi! Thật tình tôi không biết đốt thứ sáu nằm ở đâu, mà ai dạy cho nó phải bóp đốt thứ sáu? Vì thế tôi cứ bóp tới bóp lui vớ vẩn mà sao nó cũng nằm im re không rên như trước nữa. Tôi cảm nhận nó cũng đang run như tôi. Đó là lần đầu tiên lòng tôi biết rạo rực, rung động! Cứ thế, cả hai im lặng được một lúc khá lâu tôi tiếc nuối lấy tay ra, hít một hơi dài lấy lại bình tỉnh, rồi không ai nói với ai thêm một lời nào nữa, nó có vẻ bẽn lẽn còn tôi thì bối rối, thuận chân bước ra ngoài, ngó trước ngó sau rồi chạy một mạch về nhà như tên ăn vụng!

Đó cũng là lần sau cùng tôi và nó có những khoảnh khắc riêng tư với nhau. Năm sau, tôi theo gia đình vào Nam lập nghiệp trong khi Ba Mẹ nó nhất định ở lại với đất hương hỏa khô cằn sỏi đá! Hôm tiễn tôi lên đường, trong lúc người lớn bận rộn hành trang, nó đến bên tôi với đôi mắt đầy lệ, mếu máo dặn dò xong ôm vội tôi thật chặt rồi chạy mất. Khi xe lăn bánh tôi dõi mắt tìm, thấy nó lấp ló đứng ở góc nhà khóc sướt mướt vẫy tay từ biệt!
Mối tình cảm thơ ngây đó đã theo tôi suốt một quãng đời ấu thơ cho dù những tất bật của đời sống mới có làm cho đầu óc tôi què quặt. Qua bao nhiêu thăng trầm với cuộc sống, tôi và nó không còn dịp nào để gặp lại nhau. Lời hẹn ước trở về thăm không bao giờ có thể thực hiện được dù thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ nghĩ về nó.

Tôi lại nghĩ tới những gian lao của thuở ban đầu ở một nơi gọi là “dinh điền” - Đây là chính sách khẩn hoang lập ấp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm muốn đưa dân Miền Trung vào những nơi trù phú nhưng rừng núi bạt ngàn để xây dựng cuộc sống mới. Ban đầu kêu gọi, khuyến khích di dân tình nguyện. Nghe Ba Mẹ tôi thảo luận với nhau rằng 6 đứa con cần có tương lai mà đất hương hỏa không còn đủ cho nhiều thế hệ về sau; rằng đây là cơ hội hiếm có... Mặc dù Ba Mẹ có thảo luận với chúng tôi, mặc dù chúng tôi không muốn xa trường, xa bạn nhưng Ba Mẹ tôi đã quyết định tạo dựng tương lai cho chúng tôi nên đã trở thành gia đình đầu tiên ghi danh cùng với một số bạn bè có cùng hoàn cảnh.

Nơi gia đình chúng tôi và một số người đầu tiên sẽ đến là Xã Võ Đắt, Huyện Đức Linh, kéo dài từ biên giới thị trấn Gia Rây qua hết Mepu, tây giáp Định Quán, Lâm Đồng, đông giáp tỉnh lỵ Bình Tuy nhìn ra biển Đông.


Bắt đầu từ con lộ đất đỏ duy nhất đầy bụi mù, xuyên qua mấy chục cây số rừng rậm; con đường chỉ vừa cho một chiếc xe đi qua. Một đoàn xe vận tải, khoảng 10 chiếc, từ Quảng Ngãi chạy vào qua ngả ba Gia Rây, tới một khu gọi là Võ Đắt thì dừng lại. Đó là một buổi chiều tối, ánh sáng lù mù, cảnh vật chung quanh trông rất hoang sơ tiêu đìu. Hai bên con lộ vừa được ủi thẳng tắp không bao lâu, màu đất đỏ hãy còn rất mới, là hai dãy nhà lụp xụp vừa mới cất bằng cây rừng, rất đơn sơ với mái và vách che toàn bằng lá làm nón, chen lẫn giữa muôn trùng gốc cây lớn nhỏ bị xe ủi đất ủi đứt lưng chừng, lởm chởm, nghiêng nghiêng chỉa xéo lên trời. Ba tôi là người đầu tiên rời khỏi cabin của chiếc xe vận tải đầu đàn, đặt chân xuống mặt đất xa lạ sau gần ba ngày di chuyển miệt mài trên một chặng đường dài như vô tận, khởi đi từ miền đất khô cằn sỏi đá miền Trung. Tiếp theo là những gia đình bè bạn cùng làng, cùng xóm với ông, rời Quảng Ngãi thân yêu để vào đây, quyết tâm xây dựng một đời sống tốt đẹp hơn cho gia đình và tìm kiếm một tương lai sáng lạn hơn cho con cháu.

Nguyên cả vùng này, Võ Đắt khởi đầu là một vùng rừng núi bạt ngàn, những thảo nguyên mênh mông, với nhiều chim muông và thú dữ, cùng với con sông La Ngà, ngọn đồi Bảo Đại, và dãy Núi Dinh chìm khuất sau những rừng cây rậm lá. Đi sâu vào rừng, có khoảng vài chục gia đình người thiểu số sinh sống, rất rải rác, bằng nghề săn bắn và trồng lúa trên rẩy…

Tôi vẫn nhớ những ngày đầu tiên phải đi tìm nước vì nước máy chứa đựng rất nhiều phèn và màu đỏ của đất mà các gia đình thay phiên bơm xả bớt mỗi ngày trước khi lấy. Đã vậy, bao nhiêu gia đình mà chỉ có hai giếng nước nên mỗi lần lấy được quả là trần ai! Anh em chúng tôi phải đi bộ ra suối khá xa nhà để lấy nước về. Suối nước trong veo, mát lạnh. Mỗi lần đi lấy nước là chúng tôi có cơ hội bơi lội rất thoải mái ở hạ nguồn trước khi đem nước về… Ôi tuổi trẻ vô tư! Bây giờ nghĩ lại thấy thương, thấy thèm!

Đầu thập niên 1990’s tôi có việc gia đình cần kíp nên phải trở lại Việt Nam. Sau khi giải quyết việc gia đình, còn lại mấy ngày tôi quyết định đi xe đò về thăm lại Miền Trung, thăm họ hàng sau bao năm dài xa cách. Họ hàng thì đông vô số kể mà thời gian và phương tiện quá hạn hẹp; vì thế, tôi không thông báo cho bất cứ ai. Tôi về thẳng nhà thờ chính ở Mỹ Khê lạy mừng Tiên Tổ (lúc này Tổ đường của Giòng Họ chưa được xây dựng tươm tất như bây giờ); xong nhờ người thân đưa đi thăm một số bà con rất giới hạn; tôi xin những bà con tôi đến thăm đừng tiết lộ về việc tôi đã về đến đây để tránh bị rầy la. Tôi về thăm căn nhà ngày thơ ấu bây giờ gia đình Chú Út của tôi đang ở, trực nhớ đến… “con” Lan con ông Sáu Hòe hang xóm. Hỏi thăm mấy đứa em con Chú, đứa nọ ngó đứa kia cười nói không biết. Tôi được Hạnh, con gái đầu của chú Út đưa tôi tới ngôi trường ngày xưa theo yêu cầu. Ngôi trường không còn dáng vẻ xưa cũ nữa mà đã được xây cất nề nếp. Theo Hạnh, ngôi trường đã được xây cất lại trước 1975, sau này có tu bổ thêm một ít. Nhìn ngôi trường thân yêu lòng tôi chùng xuống cùng với dĩ vãng hiện về. Con đường ngày xưa tôi đi học dường như khá dài sao bây giờ chỉ cách một khoảng ngắn. Tôi bỡ ngỡ hỏi Hạnh thì nó bảo vẫn chỗ cũ. Xóm làng xưa bây giờ cũng khác lạ quá chừng! Tôi không tìm được những lũy tre xanh quanh làng; không tìm được những con đường, những ruộng mía, những nơi tôi từng chơi đùa với bạn bè. Con sông ngày xưa với bao nhiêu kỷ niệm, cách xa nhà một khoảng đất mênh mông bây giờ đã lấn sát bên sân sau vì bên bồi bên lở!

Tôi đang dùng cơm chiều với gia đình Chú thì Bé Nga, con của Hạnh vào cho biết là “Dì Lan” con ông Sáu Hòe vừa tới cửa nhà xong quẹo xe chạy đi. Quẹo gấp quá bị té trầy cả chân nhưng cũng lính quýnh lên xe phóng mất rồi! Hỏi ra mới biết là các em đã âm thầm báo tin cho Lan… Thật bất ngờ làm tôi vừa bối rối vừa hồi hộp!

Sau bữa cơm, tôi đi với Hạnh đến nhà Lan. Honda chạy khoảng mười phút. Cửa trước không đóng nhưng Hạnh cũng gõ vào vách, thấy đứa con trai nhỏ ra chào dì rồi dắt chúng tôi vào nhà. Đứa bé nói bà Ngoại đang đau chân nằm trong phòng. Tôi hồi hộp, lúng túng không biết làm gì. Hạnh bước vào phòng thăm Lan, tôi dợm bước theo bị Hạnh ra dấu chận lại. Một lát sau Hạnh trở ra biểu tôi cùng đi về. Dọc đường Hạnh nói với tôi “chị Lan nói biết tin anh về mừng lắm, tính chạy tới thăm nhưng bây giờ thì không muốn gặp anh nữa. Chị Lan nói sợ anh thất vọng khi nhìn thấy chị; chị nói anh cứ giữ những hình ảnh tốt đẹp trong lòng là đủ rồi!” Lòng tôi bồi hồi thương cảm, nói với Hạnh là tôi muốn gặp lại thăm chị Lan và gia đình. Hạnh nói,” em đã năn nỉ chị Lan giùm anh rồi nhưng chị đã cương quyết không muốn gặp anh”. Tôi không thể làm liều nên đành chấp nhận dù trong lòng bứt rứt cả đêm dài. Sáng hôm sau, tôi ra tỉnh sớm để đón xe đò trở lại Saigon sau khi nhờ Hạnh gửi tặng gia đình Lan một món quà nhỏ.

Đã hơn năm mươi mùa xuân qua! “Ôi tuổi trẻ vô tư! Bây giờ nghĩ lại thấy thương, thấy thèm!” Những tân khổ của một đời sống mới sau khi vào Nam đã dẫn dắt, đưa đẩy tôi trôi dạt ở chốn này để nhớ về nơi chốn cũ, kỷ niệm xưa với lòng biết ơn sâu sắc đối với Ba Mẹ tôi và để yêu thương một đất nước tội tình, nơi mà đồng bào tôi đang sống quằn quại dưới ách cai trị của tập đoàn bắc bộ phủ “hèn với giặc, ác với dân”!!!


Dường như tôi đã chạy quá xa khi mải mê với những dòng ký ức! Nắng đã lên cao dù con đường Green Belt vẫn mát mẻ một cách hấp dẫn. Phải mất hơn tiếng đồng hồ tôi mới đạp về đến nhà. Pha cho tôi một ly cà phê rồi ngồi xuống ghi lại dòng tư tưởng ngọt ngào đã tràn ngập lòng tôi trong buổi sáng dịu êm của những ngày cuối hạ.


Yên Sơn
Cuối Hè 2012

thanphongkingwood
09-21-2012, 03:04 AM
LỠ MỘT CHUYẾN ĐI

Thường Tuấn không cần xem lại “spam folder” trong email trước khi xóa bỏ. Khi nào thấy nhiều quá, Tuấn chọn tất cả và xóa sạch một lúc. Mỗi ngày có 24 tiếng đồng hồ, ngoài giờ ngủ nghỉ và làm việc, Tuấn ngồi thiền trên net. Internet là biển học mênh mông, là phương tiện truyền thông đại chúng hữu hiệu và nhanh nhất; cũng là phương tiện để con người lợi dụng làm nơi xả rác bừa bãi, sử dụng diễn đàn để bôi xấu nhau, quy chụp, dựng chuyện hàng giờ, hàng phút với chữ nghĩa, ngôn ngữ làm bực mình, bẩn mất, hoặc nhiều khi làm người ta phẫn nộ. Người sử dụng internet nếu không khéo léo, không biết cách đề phòng có thể đưa đến việc hỏng máy, mất tư liệu vì những con bọ điện tử nguy hiểm. Càng ngày người ta càng phát minh ra những phương pháp phòng ngừa và giáo dục phương cách gửi, nhận email. Với Tuấn, ngoài việc khóa sổ một số tên người gửi có vấn đề, số thường viết nhảm còn lại Tuấn cho hết vào spam folder (hộp thư rác) rồi xóa sạch không cần chọn lọc.

Thời gian gần đây rất có nhiều đề tài viết và thảo luận về việc Trung Cộng ngang ngược xâm chiếm biển đảo Việt Nam. Thật là đau lòng và tủi nhục để thấy mình bất lực. Để theo dõi cập nhật tình hình, Tuấn tìm đọc bất cứ nguồn nào, từ đâu, do ai viết, ai chuyển! Vì vậy, trước khi xóa “hộp thư rác” như thường lệ, Tuấn lại chịu khó dò tìm các chủ đề liên quan. Và cũng vì thế, “trang sách cũ những tưởng đã được đóng lại trọn vẹn” lại có dịp mở ra… Tuấn bắt gặp một email với tên người gửi… như cơn gió chướng làm mặt hồ nổi song “deana.florence@uccs.edu”

Colorado Springs, ngày…. Tháng…. Năm…
Chào Tuấn,

Đây là email thứ hai và chắc là email cuối cùng nếu không nhận được thư hồi âm của Tuấn. Thư trước, cách nay gần hai tháng, Deana dùng hộp thư riêng deanat1958@gmail.com gửi đi nhưng không thấy Tuấn trả lời. Deana nghĩ rất có thể Tuấn không nhận được hoặc đã vô tình xóa bỏ vì không nhận biết một email lạ! Vì thế, lần này Deana dùng tên quen để hy vọng Tuấn nhận được. Rất mong hồi âm qua địa chỉ gmail. Email ở trường học rất bất tiện!

Muốn nói cho Tuấn biết, Deana đã về thăm Pearsall một mình cách nay một tháng. Thăm mộ phần của ông bà nội… Pearsall không còn dễ thương, thơ mộng; không còn vui như những ngày xa xưa. Pearsall có vẻ tàn tạ như một người con gái đã qua hết xuân thì!

Deana Tricks

Chỉ một đoạn thư như vậy mà Tuấn đọc đi đọc lại bao nhiêu lần. Nỗi tiếc nuối lẫn thắc mắc cứ dằn vặt trong lòng. Deana viết gì trong thư trước nhỉ? Rất có thể nàng báo tin sẽ về thăm lại Pearsall. Có phải nàng muốn Tuấn gặp nàng ở đó. Nếu không vậy sao lại nói cho Tuấn biết nàng về Pearsall một mình mà không cùng đi với chồng con?! Dường như có điều gì bất thường đã xảy ra trong cuộc sống của Deana? Tuấn nhớ mang máng trong thư cũ Deana có nói một điều gì đó rất khó hiểu. Tuấn lục thư đọc lại cẩn thận, thấy có câu “Chuyện rất dài dòng nhưng hoàn cảnh chưa thuận tiện để nói”. Chuyện gì đã xảy ra cho nàng nhỉ?

Houston, ngày… tháng… năm…

Deana quý mến,
Rất vui mừng nhận được email của Deana. Tôi rất lấy làm hối tiếc đã không nhận được thư trước của Deana. Chắc chắn thư của Deana nằm trong “hộp thư rác” và tôi đã vô tình xóa bỏ. Deana nói rất đúng, nếu không phải là tên Deana Florence chắc email này cũng chịu chung một số phận như thư trước. Nếu đã như vậy chắc là sẽ là một ân hận lâu dài! Deana vẫn rất thông minh như ngày nào. Chắc có lẽ sinh viên của Deana rất nể phục và yêu thích giáo sư của họ… một người vừa xinh đẹp vừa thông minh xuất chúng.
Đọc email của Deana tôi có cảm nhận có một điều gì đó đã xảy ra cho Deana phải không? Deana không cần trả lời nếu là những điều không tiện nói.
Có phải trong email trước có đoạn nói là Deana sẽ về thăm mộ ông bà ở Pearsall vào dịp Lễ Tưởng Niệm ông bà Nội và cuối tháng Hai đầu tháng Ba vừa qua? Bây giờ cũng đã gần đến mùa nghỉ hè. Tiếc nhỉ! Tôi cũng mới thăm Pearsall năm rồi; với tôi, dù gì đi nữa Pearsall không tàn tạ đến nỗi như Deana nói, nó vẫn có cái vẻ đẹp riêng biệt của nó, vẫn có những nét quyến rũ tuyệt vời, vẫn thênh thang đồng cỏ, vẫn mộc mạc tình người dù đã trải qua hơn một phần ba thế kỷ… Rất có thể Deana đã sống quen với môi trường của một thành phố lớn; rất có thể trong ký ức của Deana là những con đường ngựa phi nước đại dài thênh thang, những cánh đồng hoa trái bao la bất tận trong những chiều mùa Hạ biêng biếc năm nào. Rất có thể Deana đã không còn tìm thấy con suối giữa cánh đồng với dòng nước trong veo, mát lạnh của ngày xưa… Vâng, tôi cũng đã đứng tần ngần bên bờ suối cạn nhìn dòng nước gầy nhom len lách giữa những bờ đá lồi lõm, trơ trụi trong một không gian bao la tĩnh lặng như tờ!
Dù sao đi nữa, tôi cũng mong chúng ta giữ liên lạc với nhau, mong có ngày gặp lại. Cầu chúc mọi sự tốt đẹp luôn ở với gia đình Deana. Chúc cô bé Linda thông minh, xinh đẹp, và nhất định thành công trên đường đời sau này như mẹ của nó. Mẹ của Deana, bà Susan Tricks vẫn còn ở chung chứ? Xin kính gửi lời chào. Nguyện xin Thiên Chúa toàn năng ban cho mọi người một đời sống an bình và hạnh phúc.

Bạn cũ,
Tuấn

Viết một mạch xong bức thư, đọc đi sửa lại nhiều lần trước khi nhấn nút gửi. Thế mà sau khi gửi đi rồi lại thấy áy náy trong lòng! Tuấn bứt rứt tự trách mình sao không giữ lại những điều nên giữ. Nhắc làm gì những kỷ niệm xưa cũ cho bận lòng nhau?! Dù gì cũng chỉ là tình cảm sơ giao năm xưa trong một hoàn cảnh ngang trái – Cô bé học trò mỹ miều 17 tuổi đầu muốn làm người lớn với một chàng thanh niên Á đông đầy mặc cảm thua thiệt vừa chân ướt chân ráo rớt xuống hố thẳm của cuộc đời. Dù gì cũng đã 37 năm qua không thư từ, không liên lạc; dù gì mỗi người cũng đang đi theo mỗi hướng cuộc đời riêng lẻ!

Dù vậy, sau khi thư gửi đi Tuấn vẫn mong đợi hồi âm với tâm trạng bồn chồn. Không biết Deana nghĩ gì sau khi đọc thư? Có xúc động để nhớ về một đoạn đời hay chỉ dửng dưng mỉm cười? Nhưng điều thắc mắc nhất vẫn là tại sao Deana lại cho Tuấn biết đã về Pearsall một mình. Chắc đã có những thay đổi bất ngờ trong cuộc sống của nàng? Việc nàng muốn gặp lại nhau, Tuấn nghĩ đơn thuần là có thể nàng cũng tò mò như Tuấn, muốn biết người năm xưa bây giờ ra sao, cuộc sống ra sao. Muốn gặp lại nhau trong khung trời ngày cũ để nói cho nhau nghe những thăng trầm từ khởi điểm đó và để cùng tưởng tiếc một thời đã qua. Nói cho đúng ra, đâu có ai dễ gì quên một kỷ niệm tuyệt vời thuở ban đầu ấy khi vô tình có người mở banh khung cửa quá khứ trước mắt mình?!

“Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên”
Thế Lữ

Tuấn chờ đợi trong mỏi mòn. Ngày một ngày hai, rồi năm hôm mười bữa vẫn bặt tăm. Tuấn buồn bã cho rằng chắc thư đã không đến! Đợi thêm vài hôm nữa vẫn không thấy, Tuấn đánh liều gửi qua email của trường học. Nhưng vẫn bặt vô âm tín! Những sôi nổi sau khi nhận thư Deana đã lắng xuống theo thời gian. Tuấn đã nguôi ngoai chấp nhận cái bất như ý của cuộc sống. Đã nhiều lần Tuấn tự hỏi thật sự mình muốn gì trong mối liên hệ với Deana? Chắc chắn không ai ngu dại gì đem hạnh phúc gia đình ra đùa giởn. Mà có chắc gì Deana, một giáo sư đại học danh tiếng lại có tình ý gì với một người sơ giao xa lắc xa lơ trong dĩ vãng?

Rồi khi những chiếc lá vàng đầu tiên rơi làm duyên, theo từng cơn gió se lạnh, trên sân cỏ trước hiên nhà báo hiệu thu về, email của Deana cũng tới! Tâm tình của Tuấn giống như con “groundhog” thức dậy sau một giấc ngủ qua mùa đông dài. Trước khi vào giấc miên trường, con groundhog ăn uống đầy đủ nên khi thức dậy vẫn tỉnh táo như thường. Con groundhog ngủ cả mùa đông trong khi tâm tình của Tuấn ngủ hết mùa hạ sang đến chớm thu. Tuấn đã không hề chuẩn bị cũng chẳng đợi chờ, bỗng nhiên Email của Deana tới làm Tuấn ngỡ ngàng, buồn vui lẫn lộn…


Colorado, ngày… tháng… năm…

Tuấn quý mến,
Tuấn bất ngờ lắm phải không? Nếu Deana nói xin lỗi chắc chắn không làm cho Tuấn hài lòng. Đời sống có những biến đổi ngoài ý muốn. Hồi âm chậm cho Tuấn cũng ngoài ý muốn! Deana đã nhận cả hai thư của Tuấn gửi. Deana biết Tuấn trông mong nhưng rất tiếc không thể làm khác hơn được! Tuấn vẫn khỏe mạnh và bình an chứ? Để chuộc lỗi, Deana sẽ kể sơ lược chuyến đi Pearsall cho Tuấn nghe nhé? Nhưng trước hết, Deana gửi lại thư trước mà Tuấn không nhận được vì Deana biết Tuấn rất thắc mắc trong thư đó Deana đã viết gì phải không? Deana cắt và dán nguyên bản sau đây:

Hẹn gặp ở Pearsall
Deanat1958@gmail.com Wednesday, February 15, 20… 12:47 PM
To: “Tuan”

Hello Tuấn,
Cuối tuần trước tuần lễ nghỉ của Khóa Mùa Xuân (Spring Break )sắp tới Tuấn có dự định đi chơi đâu với gia đình không? Nếu không có chương trình gì, hy vọng gặp Tuấn ở Pearsall. Deana sẽ đi một mình về Pearsall để thăm viếng mộ phần của ông bà Nội nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày ông Nội qua đời. Không cần thắc mắc, gặp nhau sẽ nói chuyện nhiều hơn. Buổi tối thứ Bảy Deana sẽ nghỉ tại khách sạn La Quinta Inn and Suites, số 170 Medical Dr., Pearsall; dự định trưa Chủ Nhật trở lại Colorado Springs. Dù Tuấn có đi hay không Deana cũng sẽ về đó trong dịp này. Nếu may mắn chúng ta sẽ gặp lại nhau, không cần phải hồi âm.
Thân mến,
Deana Florence

Tuấn có lấy làm tiếc là chúng ta đã mất cơ hội gặp gỡ hiếm hoi không? Nhưng dù sao chuyện cũng đã qua khá lâu rồi. Nếu việc chúng ta gặp lại là do ý Chúa thì ngài sẽ sắp xếp. Deana đặt trọn niềm tin và cuộc sống này trong tay Chúa.

Lúc 2g, chiều mồng 10 tháng 3, Deana về tới San Antonio, thuê xe và chạy thẳng về khách sạn. Lúc phi cơ đáp xuống phi trường, trong lòng Deana đã bắt đầu hồi hộp, cứ tưởng tượng Tuấn sẽ đứng chờ ở lobby khách sạn. Không biết Tuấn sẽ nhận ra được Deana hay không nữa. Riêng Deana đã biết Tuấn rồi qua hình ảnh trong trang nhà. Không biết chúng ta cùng già với nhau hay không nhưng nhìn hình ảnh của Tuấn là nhận biết ngay. Tuấn thay đổi rất ít.

Trong email nhận được, thấy dưới tên của Tuấn là phần giới thiệu Trang Nhà nên Deana tò mò vào xem cho biết. Trang nhà của Tuấn rất đẹp, rất thanh nhã, rất chuyên nghiệp. Tuấn tự làm hay đã thuê người chuyên môn? Deana đã đi loanh quanh khắp các trang khác nhau và lọt vào trang hình ảnh. Hình ảnh nhiều vô số. Thấy có hình Tuấn chụp ở vài nơi mà Deana đã có dịp viếng thăm, đó là Tokyo và Seoul. Deana cố tình tìm bài viết nào bằng tiếng Mỹ để hiểu thêm về Tuấn nhưng rất tiếc toàn là tiếng Việt. Deana ao ước đọc hiểu được những tâm tư của Tuấn qua văn thơ. Có một bài với tựa đề ghi trong chú thích “Un Peu de Soleil Dans l’Eau Froide hay ‘Sunlight on Cold Water’ của Sagan, Francoise”, có lẽ Tuấn viết về Deana (?), thấy có hình cô bé tóc vàng cưỡi ngựa (dĩ nhiên không phải là Deana), thấy một số hình ảnh minh họa giống hoàn cảnh của chúng ta năm xưa. Lướt qua bài viết thấy có nhắc tới tên Deana trong đó nữa. Deana vô cùng tò mò và có một chút xúc động. Dù không hiểu nhưng Deana nghĩ Tuấn viết hồi ký về thời gian chúng ta quen nhau. Đây cũng là một lý do Deana muốn gặp lại Tuấn…

Suốt chặng đường gần 60 dặm Deana chìm đắm trong suy tư và hồi hộp. Khi đậu xe ở trước cửa khách sạn để vào quày lấy phòng, Deana ngồi trong xe một lát để lấy lại bình tĩnh, ngó nhanh vào phòng khánh tiết… có hơi thất vọng một chút nhưng lại thấy an tâm. Sau khi lấy phòng, Deana nằm lì trong phòng, có đi xuống phòng khánh tiết vài lần với hy vọng cho tới gần tối! Đến lúc này biết chắc là Tuấn không đến nên Deana quyết định lái xe loanh quanh các nẻo đường. Việc đi thăm mộ dự định vào sáng Chủ Nhật sau khi xin lễ ở nhà thờ. Pearsall có thay đổi nhưng nỗi quạnh vắng vẫn muôn đời như thế. Nơi nào cũng toàn thấy u trầm, một sự yên tĩnh đến buồn nản. Deana đã đến căn nhà cũ chào ông Tom xong chạy đến nơi thuê ngựa. Tuấn có biết không, rất lâu rồi Deana không còn cưỡi ngựa thường xuyên như khi còn trẻ nữa, một phần vì những bận rộn chung quanh cuộc sống; một phần cũng vì… không muốn gợi lại những u uất trong lòng!

Deana dong ngựa dọc theo những con đường đất đỏ bụi mù. Không hẳn giống như những con đường cũ mà chúng mình đã đi qua nhưng cũng vẫn nông trại bạt ngàn, khắp nơi một màu xanh ngát. Những hệ thống tưới nước vẫn y như cũ, đang hoạt động, nằm ngang dọc khắp chốn. Và cứ thế, Deana phóng nước đại cả giờ trên cánh đồng bất tận cho đến khi người và ngựa đầm đìa mồ hôi cùng lúc bóng đêm lặng lẽ rơi xuống chung quanh, Deana mới về trả ngựa. Trên đường lái xe về lại khách sạn, Deana thấy mình đi lại con đường về nhà cũ một cách máy móc… Nhìn nơi chốn đó lòng gợn lên một chút luyến tiếc!

Về tới khách sạn, Deana không buồn thay đồ, điều chỉnh máy lạnh tối đa, nằm vật ra giường đi vào giấc ngủ với một thân thể ê ẩm, mệt nhoài. Khi tỉnh dậy thì nhà hàng đã không còn mở nữa, Deana chỉ ăn đỡ thỏi chocolate mua ở chiếc máy đặt cuối hành lang. Đêm thật khó ngủ, tiếng máy lạnh rì rào đưa Deana vào những mộng mị lạ lùng.

Buổi sáng sau khi đi lễ đọc kinh cầu nguyện, Deana tới thăm mộ ông bà Nội xong đi dọc bờ suối gần như cạn dòng, nghĩ mông lung về một thời con gái… Đi thơ thần dọc theo bờ suối cạn được một lúc, thấy nơi đây không còn gì để lưu luyến, Deana quyết định rời khỏi Pearsall sớm hơn dự trù để về lại Colorado Springs.

Rất có thể Tuấn lạ lùng tại sao Deana đi một mình phải không? Tuấn còn nhớ thư đầu tiên Deana có nói “có chuyện dài dòng không tiện nói…”? Vâng, đó là lúc chồng của Deana, anh Joseph cũng là một Giáo sư lỗi lạc trong Ban Điều Hành của trường UCCS, vừa mới qua đời vì bệnh ung thư tụy tạng! Rất khó để chịu đựng hai cái tang lớn chỉ vỏn vẹn hơn một năm! Dù vậy, Tuấn không cần phải lo cho Deana nữa, thời gian và công việc ngập đầu đã làm nguôi ngoai; vả lại, đời người ai rồi cũng phải ra đi. Rất có thể anh ấy hạnh phúc hơn Deana vì có cả hai bên gia đình và vợ con chăm sóc cho tới giây phút cuối cùng. Anh ra đi về với Chúa rất nhẹ nhàng, thanh thản như đang trải qua một giấc ngủ dài. Mẹ Deana sợ Deana đơn chiếc nên dọn về ở chung sau đó. Hôm đi Pearsall, Deana có đề nghị với Linda cùng đi nhưng con bé nghịch ngợm nói để mẹ được tự do với con mắt nheo nheo thật buồn cười!

Sau khi ở Pearsall về, Deana lại bù đầu với công việc. Vừa nghỉ hè thì đi du lịch Âu châu với Mẹ và con gái, về lại thì phải dạy khóa hè thứ hai vừa xong… ôi cả trăm thứ chuyện trên đời; vì thế, chậm thư cho Tuấn. Bây giờ thì Tuấn đã hiểu hết rồi, hy vọng không còn phiền trách Deana nữa. Nếu không có gì bất thường xảy ra, Deana dự định làm việc ở đây cho tới 60 tuổi sẽ về nghỉ hưu và tiếp tục du lịch vòng quanh thế giới. Khí hậu ở đây rất hợp với Deana và gia đình cho nên không muốn có bất cứ một thay đổi nào nữa.

Sự liên hệ của chúng ta, mong giữ được tình bạn chân thật lâu dài. Cũng như Tuấn, Deana là người thích văn chương, tâm hồn lãng mạn, thích cái hay, cái đẹp nhẹ nhàng nhưng rất thẳng thắn, thành thật. 37 năm qua đã là một quãng thời gian khá dài, rất dài cho những thăng trầm của cuộc sống nhưng mỗi chúng ta vẫn còn nghĩ đến nhau là một điều rất đặc biệt. Deana mong gặp lại Tuấn cũng như Tuấn mong gặp Deana chỉ để chia sẻ buồn vui của cuộc sống, muốn biết nhau đã làm gì trong thời gian lâu dài đó mà thôi. Mỗi chúng ta đã có một con đường nhất định để đi và thời gian còn lại không là bao nên không cần phải bạc tóc vì những ảo tưởng không lối thoát.

Sẵn đây, Deana mời Tuấn cố gắng đi Colorado Springs một chuyến vào dịp nghỉ mùa đông năm nay, cũng là dịp Linda xong bốn năm Đại học. Linda là đứa con duy nhất của chúng tôi, không có bố trong ngày ra trường chắc nó rất buồn! Deana chắc chắn rằng Mẹ của Deana sẽ rất ngạc nhiên gặp lại Tuấn. Deana sẽ không nói gì về Tuấn với bà cho tới khi gặp mặt.

Cầu xin Chúa luôn bảo vệ Tuấn và gia đình.

Bạn cũ,
Deana Florence

**********

Đọc xong một lá thư dài, chứa đựng bao điều muốn biết. Deana như đọc được những tâm tư sâu kín của Tuấn làm Tuấn hối tiếc đã lỡ mất một cơ hội gặp lại nàng. Tuấn in bức thư ra rồi nằm thư thả đọc đi đọc lại nhiều lần cho tới lúc Tuấn mệt nhoài… Deana đó, vẫn có những chủ quan đáng yêu, với những quyết đoán không ngần ngại cùng với sự thông minh tuyệt đỉnh. Nhưng dù gì cũng là một điều đáng ngạc nhiên vì hơn 37 năm trước hai người chỉ có quen nhau vài ba hôm, cùng cưỡi ngựa với nhau một buổi, cùng “ngã xuống suối một lần”, thế nhưng hai người lúc nào cũng chứng tỏ hiểu thấu lòng nhau! Tuấn e dè tự hỏi “không biết anh chàng Joseph có một người vợ thông minh, sâu sắc như vậy đã là họa hay phước”. Trong tâm tư Tuấn như có một thúc giục muốn có cơ hội ngồi đối mặt với nàng một lần, để nhìn thật kỷ, để quan sát từng cử chỉ, từng lời nói thoát ra từ con người đó, đầu óc đó, từ đôi môi một thời tham lam, ngọt lịm bên hông ngựa giữa hoàng hôn bao la hay dưới làn nước mát lạnh của dòng suối thơ mộng ngày nào. Tuấn bâng khuâng không biết làm sao có thể thực hiện được chuyến đi Colorado Springs! Thời gian bây giờ tới cuối năm không còn bao xa và không biết sẽ trả lời thư cho nàng bằng cách nào?!

Tuấn ngủ vùi với lá thư trên ngực và với một nan đề chưa có hy vọng tìm ra giải pháp!

Yên Sơn

thanphongkingwood
10-05-2012, 03:29 PM
TRỘM VIẾNG NHÀ
Yên Sơn

Trong lúc tôi đang sửa soạn để dạy lớp 6 giờ chiều thì điện thoại tay reng. Thấy số điện thoại của nhà tôi thoáng trong đầu một chút lo âu. Thường thì nhà tôi không gọi điện thoại trong giờ này trừ phi có chuyện gì quan trọng. Ví dụ như xe hư dọc đường, tai nạn giao thông, phải về trễ vì công việc gấp rút trong sở…

- Anh ơi nhà bị ăn trộm!

Nghe tiếng nói đầy lo âu và sũng nước mắt của nhà tôi làm tôi cũng bồn chồn và bối rối không ít:
- Em chạy qua báo cho ông John nhà bên cạnh biết, gọi cảnh sát và anh sẽ về ngay.

Tôi gọi điện thoại cho học trò lớn gần trường nhất tới dạy thế; nhờ một phụ huynh ngồi nán lại đợi giùm, xong phóng ra xe.

Về đến nơi đã thấy xe cảnh sát đậu trong đường xe rồi. Trên lối vào nhà để xe đầy những cành cây nhỏ, dường như người làm vườn vừa cắt xén liếp cây hàng rào mà chưa dọn kịp! Vào trong, thấy nhà tôi đang trả lời những câu hỏi của cô cảnh sát đang ghi ghi chép chép giữa những ngổn ngang, bừa bộn trong phòng ngủ như một bãi chiến trường sau một cơn bão táp khốc liệt! Nhà tôi chạy lại ôm tôi nói giọng nghẹn ngào:
- Trộm đã lấy tất cả nữ trang của em rồi!

Tôi ôm chặc nàng vào lòng như san sẻ nỗi buồn phiền và đau xót, nghẹn ngào an ủi:
- Vận xui đành chịu chứ biết sao! Người xưa có nói “của đi thay người” mà em, miễn chúng ta còn khoẻ mạnh mình còn có thể mua sắm lại được em à!
- Đành là vậy nhưng nhiều vật kỷ niệm của Má để lại, của đời sống vợ chồng mình hơn ba mươi năm qua dù có tiền cũng không thể mua lại được!
- Đành vậy chứ biết sao hơn, kẻ trộm chắc đã xa chạy cao bay rồi!

Nguời cảnh sát phải vất vả nhón từng bước một để đi loanh quanh quan sát chỗ này chỗ kia như cố tìm một dấu vết, cuối cùng nói với chúng tôi là kẻ trộm rất chuyên nghiệp nên không để lại một dấu vết nào khả nghi; hơn nữa, trời đã mưa sau khi kẻ trộm rời khỏi hiện trường.

Trước khi ra về, cô cảnh sát khuyên chúng tôi là nên báo ngay cho bảo hiểm và nên che chắn chỗ cửa sổ bị đập vỡ; khuyên nhà tôi nên làm bảng chi tiết những thứ bị trộm và nộp lên sở cảnh sát càng sớm càng tốt.
Cô cảnh sát vừa ra khỏi nhà thì đã thấy chị tôi xuất hiện. Có lẽ nhà tôi đã thông báo cho chị nên chị tới với khuôn mặt buồn bã, an ủi chúng tôi, nhất là nhà tôi. Thế rồi ba chị em dọn dẹp những hổn độn trong phòng. Một lúc sau cô con gái cũng được mẹ báo cho biết nên hối hả từ trường về. Tôi loay hoay lo đóng tạm chiếc cửa sổ hư hại xong vào tiếp tay dọn dẹp với mọi người. Thế mà mãi đến hơn 11 giờ khuya chỉ mới tạm xong. Chị tôi ra về và chúng tôi cũng nghỉ tay để dùng buổi ăn tối trong ảm đạm.

Sau một đêm ngủ không đầy giấc, vợ con tôi cũng trở dậy và đi làm như thường lệ; tôi ở nhà một mình tiếp tục dọn được cái gì thì dọn. Sau 8 giờ sáng, tôi gọi hãng bảo hiểm để tường thuật sự việc đã xảy ra. Người đại diện bảo hiểm hỏi tôi hàng mấy chục câu hỏi muốn điên cái đầu, cuối cùng họ mở hồ sơ và cho chúng tôi số dữ kiện cùng những số điện thoại liên lạc để lấy hẹn sửa chữa khung cửa sổ hư hại. Họ cho một cái hẹn vài ngày sau sẽ đến nơi điều tra. Tôi la trời thì họ bảo tôi hãy cứ đóng tạm việc che chắn. Tôi gọi vào sở cho nhà tôi biết để viết xuống bảng chi tiết ngay cho sở cảnh sát để có hồ sơ nộp cho bảo hiểm

Sau khi dứt điện thoại với bảo hiểm, tôi gọi những số điện thoại họ cho nhưng ai cũng hẹn vài ba hôm mới có thể đến được! Cuối cùng tôi gọi ông em làm xây dựng của tôi để lo việc sửa chữa.

Hai hôm sau, đại diện hãng bảo hiểm tới nhà làm bản tường trình, xong họ viết một cái chi phiếu tại chỗ đền bù chỗ cửa sổ hư hại. Cầm tấm chi phiếu mấy trăm đồng trong tay mà lòng cay đắng nhưng cũng tự an ủi “có còn hơn không!”

Để làm một bảng chi tiết về những đồ đạt đã mất không phải là một chuyện dễ làm. Nhà tôi ngoài những giờ giấc làm việc ở văn phòng, nàng đã tốn hơn hai ngày đêm để lục lọi, tìm kiếm những hóa đơn mà tụi trộm đã tung hê rải rác chung quanh phòng lẫn lộn với bao nhiêu thứ khác; chưa kể những món kỷ vật không có giấy tờ! Nhà tôi đã gọi văn phòng bảo hiểm để xin thêm thời gian. Trước khi gần hoàn tất công việc ghi chép, nhà tôi được văn phòng bảo hiểm gọi vào nơi làm việc cho biết là theo hợp đồng bảo hiểm của chúng tôi đang có không có khoản đền bồi cho nữ trang và vàng bạc! Họ nói khoản này phải mua bảo hiểm riêng, còn hơp đồng bình thường của căn nhà chỉ đền tối đa là $2,500.00 chưa kể deductible (10% trị giá bảo hiểm nhà). Mà 10% trị giá nhà là kể như chẳng đền bồi gì cả! Là zero, là zip, là mậu lúi, là nada, là ne pas… Cả hai chúng tôi vô cùng thảng thốt vì đâu có ai cho mình biết từ hơn mười mấy năm qua! Nhà tôi nói trong nước mắt “thế là kể như tất cả đã đội nón ra đi! Biết vậy mình đã không cần báo cho bảo hiểm biết làm gì để tương lai gần lại bị tăng lên và có tỳ vết trong hồ sơ!” Dù vậy hãng bảo hiểm cũng khuyên chúng tôi nên cứ nộp cho họ bảng chiết tính! Nhà tôi không phải tìm kiếm gì nữa, nộp bảng sơ lược đã viết… Ngó vào bảng liệt kê tôi đã thấy dù cho không có tiền deductible, số tiền $2,500 đền bồi chỉ bằng một phần rất nhỏ so với trị giá đồ đạc bị trộm đã ghi xuống! Tôi lại an ủi nhà tôi cũng chính là tự an ủi mình với cái câu cũ rích, “của đi thay người”

Khi mọi việc đã lắng xuống, nhà cửa đã sắp xếp, sửa sang lại như xưa và không khí trong nhà cũng bớt nặng nề, tôi gọi chị tôi nhờ chị tìm mua giùm một bộ nữ trang tặng nhà tôi để bù đắp phần nào mất mát. Chị tôi vốn là “nhà sưu tầm đồ cổ và nữ trang”, lại rất hợp gu với nhà tôi về những thứ này”.

Vài hôm sau nhà tôi chuyển email cho tôi những thư từ của các chị:

Kingwood, ngày… tháng… năm…

NB thương,
Chị rất thông cảm và chia sẻ sự mất mát khá lớn của em, nhất là những vật kỷ niệm của Má cho em và của vợ chồng sắm sửa trong những dịp wedding anniversairies. Wow hơn 30 năm dành dụm chứ ít sao! Chị biết rất khó để quên những “công việc thường nhật” của em mỗi buổi sáng. – (công việc thường nhật mỗi buổi sáng của nhà tôi là thức dậy sớm tắm gội, trang điểm và lựa chọn những món nữ trang thích hợp với màu sắc và trang phục cho mỗi ngày đi làm) – Mặc dù chị vẫn biết em rất giàu nghị lực và ít để lộ những lo âu buồn phiền trong lòng nhưng những người thân yêu chung quanh em thì ngược lại kể cả chị. Những xui xẻo xảy ra cho em cũng làm chị không còn thích thú đeo nữ trang nữa; mỗi lần chị lấy ra định mang vào người lại nghĩ đến em nên chị buồn bã bỏ lại vào hộp cất đi.

Thôi em đừng buồn! Chúng mình sẽ từ từ mua sắm lại và như vậy em sẽ có những món đồ mới lạ hơn. Chúng ta còn khoẻ mạnh nhất định chúng ta còn có dịp để bù đắp những mất mát. Hãy nghĩ về những món nữ trang bị trộm mất như của bố thí cho họ sống qua ngày. Hãy nghĩ sự xui xẻo này như là một sự trao đổi bình yên cho con trai lớn của em đang sống trong sự an toàn trên nước Mỹ thay vì phải đi chiến trường Iraq hoặc Afghanistan. Chúng ta cũng rất may mắn là vẫn còn bao nhiều người thân mạnh khoẻ ở chung quanh; chắc ở thế giới bên kia Ba Má chúng ta vẫn luôn che chở, bảo bọc cho sự bình an của mọi người. Một điều nữa là chị sẽ cho NB một món nữ trang của chị mà NB vẫn thích.
Thương em nhiều,
Chị C

Concord, ngày… tháng… năm…

Hello NB,
Trong khi chờ chị C tìm kiếm những nữ trang mới cho NB, chị sẽ gửi tặng NB chiếc nhẫn NB rất ưa thích khi chị em chúng ta cùng đi mua năm nào. Đó là chiếc “princess cut”. Chị đã định tạo sự bất ngờ cho NB khi trao tận tay trong dịp qua dự đám cưới của cháu mình, nhưng chị nghĩ cho NB biết trong lúc đang xuống tinh thần như một lời an ủi chân tình nhất của chị. Chị sẽ mang qua cho NB trong dịp tháng 10 sắp tới.
Chị D

Walnut Creek, ngày… tháng… năm…
NB ơi,
Chị rất buồn nghe tin nhà hai em bị mất trộm. Mấy hôm nay chị cũng buồn lây và suy nghĩ hoài. Cuối cùng đành tự an ủi “của đi thay người!”

Chị hiểu là vụ mất trộm này không những hao tổn vật chất mà còn nặng nề về tinh thần. Hình dung NB sáng sáng sửa soạn đi làm, đến cái bàn phấn lục lọi những hộp nữ trang… bây giờ đã không còn ở đó nữa, chắc là một sự trống vắng, hối tiếc ghê lắm! Nghĩ đến gương mặt buồn bã và thất vọng của NB, chị ứa nước mắt!

Em biết không, đã nhiều năm rồi chị không khóc nữa, hay không còn khóc được nữa, không phải vì mình đã chai đá, mà vì chị đã tập được cho mình nhìn cuộc đời vô thường và mọi sự ở đời sắc sắc, không không.

Chị không gọi cho em ngay – tuy rất muốn gọi – vì không muốn làm em thêm mũi lòng. Ý tưởng đầu tiên của chị là đi ra ngân hàng lấy cái hộp deposit box và soạn ra một ít nữ trang gởi cho NB.

Chị ngồi đây, viết cho NB email này và nhớ lại lúc chị qua Texas năm xưa… nhớ một hôm mấy chị em cùng nhau vui vẻ, “hăng hái” đi mua nữ trang. Chị cố nhớ lại món nữ trang nào NB thích nhất. Chị nhớ lúc mua bộ perles và các em nói, “em thích cái này, sau này chị ‘để lại’ cho em nha, v.v…” rồi tụi mình rũ ra cười với nhau.

Ờ héng, sao chị phải đợi đến lúc mình về chầu ông bà mới “để lại” cho các em? Chị sẽ soạn ra và gởi cho NB trước tiên. Chẳng những để nói với em là chị thương em rất mực, nghĩ đến em nhiều lắm, mà còn để được cái thú vui nhìn thấy các món nữ trang đó trên cổ, trên tay của em nữa.
Ceci dit, je m’en vais maintenant ………..
Thương
Chị M

Kingwood, ngày… tháng… năm…
Các chị thương mến,
Em rất xúc động để biết em được các chị thương yêu nhiều đến thế! Chị C đã cho em mấy món nữ trang quý hiếm và đắt tiền của chị; chị D nhường lại cho em chiếc nhẫn yêu thích đặc biệt; chị M lại hứa cho bộ Perles đắt giá nữa! Em nghẹn ngào viết mấy dòng này để chân thành cảm nhận tình cảm thân thiết và sự hỗ trợ tinh thần của các chị dành cho em trong lúc này. Đặc biệt cám ơn chị C luôn an ủi và khuyến khích em mấy hôm nay; thật tình nỗi buồn đau của em cũng đã nguôi ngoai đi rất nhiều!
Em thật là quá may mắn được làm em của các chị. Phải nói là quá may mắn để có những người chị tuyệt vời!!!

Thương các chị nhiều,
Em NB

Đọc xong những dòng thư qua lại của mấy chị em tôi cũng ứa nước mắt xúc động trước tình nghĩa ruột thịt. Tôi rất may mắn có một đại gia đình trên dưới hài hòa, trong ngoài đầm ấm, thương yêu, giúp đỡ nhau hết lòng.


******

Mấy hôm nay nhà tôi thấy tôi lăng xăng khảo giá mấy hãng Home Security, nàng phán “Anh cứ đợi mất gà mới lo làm chuồng!” Quả thiệt đúng như vậy, “ở đời đâu có cái dại nào giống cái dại nào” nên tôi cứ mò mẫm “làm chuồng sau khi đã mất gà” nhiều thứ chuyện khác nhau. Tôi lại triết lý vụn để tự an ủi “tất cả những gì xảy ra trên đời này cũng đều có lý do của nó”; và “con người ai cũng có số mệnh”; chuyện “Tái Ông mất ngựa” vẫn được truyền tụng trong nhân gian; biết đâu rủi cái này được may cái khác. Cái may trước mắt là thằng lính không bị đưa đi những chiến trường khốc liệt trong lúc này; cái may to tát nữa là những người thân yêu hai bên đều được mạnh khoẻ, được sống đầm ấm, hạnh phúc trong tình thương yêu đại gia đình.

thanphongkingwood
10-20-2012, 07:02 PM
BUỔI CHIỀU XUỐNG PHỐ VỚI VỢ CON
ngày 23.01.12

Những ngày nghỉ lễ Giáng Sinh đã vội vàng qua. Hôm nay đã là ngày thứ Sáu cuối năm, đứa con trai út phải quay lại Austin với công việc của nó. Thằng Út đã ra trường với ngành phim ảnh và xin ở lại thủ phủ để có cơ hội tìm việc liên quan đến chuyên môn. Vẫn biết là một ngành nghề đòi hỏi rất khó khăn và có nhiều cạnh tranh nhưng vì nó quá ưa thích nên cả nhà cũng phải hỗ trợ nó hơn suốt 4 năm qua. Hôm nay ra đi, nó có quá nhiều đồ đạc phải mang theo gồm có thức ăn của Mẹ nó nấu không tiện đi xe buýt Greyhouse; vì thế thằng anh lớn tình nguyện đưa em đi. Houston và thủ phủ Austin cách nhau 3 giờ lái xe cho quãng đường dài gần 200 dặm, qua nhiều thị trấn nhỏ và luôn luôn có cảnh sát rình rập.

Đời sống sinh viên xa nhà 4 năm qua đã cho nó ý niệm tự lập, tự lo kể cả việc nấu ăn. Thằng Út lại là đứa thích nấu ăn, nó hay gọi Mẹ nó để hỏi cách nấu món này món khác. Dù vậy, khi nào về thăm nó đều ăn uống rất ngon lành và thường nói “món ăn nào của Mẹ nấu cũng ngon tuyệt vời!” Thế nên khi ra đi, Mẹ nó cũng gói ghém tất cả tình yêu thương vào những hộp đồ ăn hạp khẩu.

Sau buổi cơm trưa, hai cậu con trai ra đi mang theo cả tiếng nói, tiếng cười và niềm vui trong những ngày qua làm cho căn nhà trở nên trống trải. Cũng may còn cô con gái rượu đang ở nhà. Con bé năm nay đã gần hăm chín tuổi nhưng chưa chịu có chồng. Thấy bạn bè hết người này đến người khác lên chức ông nội, ông ngoại, khoe cháu trai, cháu gái ỏm tỏi trên net thấy bắt ham, thế mà với mấy đứa con của chúng tôi chúng coi chuyện lập gia đình là chuyện của người khác, mỗi lần hỏi tới thì đều nghe “tụi con chưa sẵn sàng”!

Lòng buồn buồn, tôi đề nghị với nhà tôi và con gái tìm chỗ đi chơi cho khuây khỏa. Suy nghĩ một lát, nhà tôi nói hay là mình đi xuống công viên Discovery Green dưới phố chơi cho biết. Theo cô con gái, Discovery Green đã được hình thành từ năm 2008, thế mà chúng tôi chưa từng biết đến mặc dù thỉnh thoảng cũng có việc đi ngang qua khu phố này nhưng không hề để ý. Theo con gái cho biết, đây là một khu công viên nhỏ nhưng rất đẹp. Tôi đề nghị con gái dẫn đường vì cô nhỏ là người nói cho chúng tôi biết nơi này. Cô nhỏ không muốn đi nhưng tôi nói “lâu rồi Ba Mẹ chưa có dịp đi chơi với con, hơn nữa anh em của con đi hết rồi ở nhà buồn lắm”! Có lẽ cô nhỏ cũng cảm nhận được tấm lòng của tôi nên đồng ý cùng đi. Riêng tôi rất vui được đi chung với con để nhớ về những ngày xa xưa, lúc chúng nó còn bé, đi đâu cũng tíu tít một bên.

“Những ngày xa xưa”! Thật sự nghĩ lại chỉ là giấc mộng dài. Chỉ như mới ngày nào đây tôi phải bỏ công việc làm đòi hỏi travel 60% khi chúng nó đang ở thời “teen age”; chỉ như mới ngày nào đây chúng tôi dọn nhà về Houston từ Thung Lũng Hoa Vàng Silicon Valley, California….

Discovery Green nằm ngay trung tâm thành phố, trước mặt Georgia R. Brown Convention Center, nằm giữa hai cầu trường nổi tiếng của Houston Rocket Basketball Toyota Center và Houston Astro Baseball Minutes Park. Convention Center cũng là nơi đốt pháo bông tưng bừng hàng năm vào các dịp Lễ Độc Lập và New Year. Diện tích toàn khu gần mười hai mẫu đất nhưng hoa kiểng xanh tươi; nhiều sân chơi dành riêng cho trẻ em; có sân trượt băng ngoài trời đông nghẹt người; có hồ nước thiên nhiên khá rộng in bóng cỏ cây và những sinh hoạt chung quanh; có sân phun nước rất đẹp, hấp dẫn lũ con nít đùa nghịch với những tiếng nói cười rộn rã; có một quả đồi nhỏ với kỳ hoa dị thảo chung quanh; có một khoảng đường dài rợp bóng cây rất thơ mộng, lủng lẳng những lồng đèn đầy sắc màu to nhỏ đủ cỡ như mặt trời mặt trăng, in hình những người nổi tiếng Houston, rực rỡ hai bên đường khi hoàng hôn phủ xuống. Kế bên con đường này là một nhà hàng trông rất sang trọng, trong ngoài thiết kế hoa mỹ, đắt tiền.

Có lẽ thành phố chuẩn bị đón giao thừa vào đêm hôm sau nên có nhiều chỗ treo đèn kết hoa rực rỡ, có vài xe hoa đậu sẵn trên đường, có sân khấu lộ thiên rất lớn với những giàn âm thanh xếp đặt sẵn sàng bên cạnh một căn lều vĩ đại nhưng còn trống. Theo cô con gái thì hàng ngày công viên này cũng rất nhộn nhịp, những người làm việc trong phố gần bên thường ra đây đi bộ, tập thể dục thư giản, ăn trưa ngoài trời. Một nơi đẹp đẽ như vầy mà phải đợi 20 năm hơn chúng tôi mới có dịp biết đến. Quả là “bụt nhà không thiêng”. Thường người ta đi du ngoạn đó đây là cốt ý tìm những nơi có vẻ đẹp thiên nhiên hay những công trình nhân tạo đặc trưng để chiêm ngưỡng; trong khi đó chung quanh nơi mình ở có những kỳ tích, thắng cảnh thì lại ít biết tới!

Texas là tiểu bang rộng lớn hàng thứ hai Nước Mỹ sau Alaska với khoảng 268 ngàn dặm vuông, lớn hơn hai lần so với Việt Nam (128 ngàn dặm vuông). Thành phố Houston rộng lớn nhất của tiểu bang với 600 dặm vuông nhưng chỉ có 2.3 triệu dân cư (trong đó có khoảng 160 ngàn người Việt Nam) so với Saigon 800 dặm vuông và gần 9 triệu dân cư. Ngoài ra, Houston còn có rất nhiều địa điểm cho du khách thăm viếng rải rác khắp thành phố. Nếu ai muốn biết Houston có gì lạ cứ việc tìm trong google “what to do in Houston”, quý vị sẽ thấy hàng mấy chục danh lam thắng cảnh từ trung tâm thành phố ra tới các vùng ngoại ô, chắc chắn sẽ làm quý vị bận rộn suốt một tuần lễ thăm viếng chưa hết.

Chúng tôi đi loanh quanh chụp hình, thưởng lãm phong cảnh và những sinh hoạt sinh động cho tới lúc trời sụp tối, khi nỗi buồn lắng xuống là lúc cơn đói nổi lên. Ba chúng tôi vào nhà hàng Vạn Lộc, là quán ăn gia đình trong khu phố thương mại sầm uất của người Việt Nam khoảng 10 năm trước. Những bảng tên đường dọc ngang bằng tiếng Việt cũng đã biến mất khi hầu hết cơ sở thương mại của người Việt dọn về Khu Southwest, nằm hầu hết trên đại lộ Bellaire Boulevard, nhiều nhất là bên ngoài Xa lộ vòng đai số 8. Ngoài ra, hàng quán và cơ sở thương mại Việt Nam cũng xây cất, thuê mướn rất nhiều nơi trên các con đường lân cận như: Bissonnet, Beechnut, Harwin cả mấy dặm dài ở mỗi con đường.

Thương mại Việt Nam ngoài Khu Southwest còn có các khu South Belt (South I-45), khu Northwest (xa lộ 290), Khu Veteran Memorial (North I-45)… mỗi nơi mỗi vẻ nhưng cũng rất nhộn nhịp dù không thể so sánh được với Khu Bellaire Southwest.

Những món ăn thuần túy gia đình vẫn là Cá kho tộ, Canh chua Cá Bông Lau, Cải Làn xào dầu hào, vậy mà tôi ăn rất ngon miệng, có lẽ vì đói sau vài tiếng đồng hồ dạo quanh dưới phố và trong lòng thoải mái, vui vẻ với sự có mặt của vợ và cô con gái rượu bên cạnh suốt cả buổi chiều. Chúng tôi về tới nhà chưa lấy gì muộn lắm nhưng cô nhỏ đã xin đi ngủ sớm, còn hai chúng tôi thay vì xem phim chung với nhau thì lại mỗi người ôm một chiếc laptop “tiếp tục” hát “một ngày, ngày đã qua…”

“Một ngày, ngày đã qua! Ôi một ngày, ngày chóng qua! Một chiều một ngày âm thầm đã đã trôi đi không còn gì. Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè! Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương…”

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1350760092.mp3

Cuối năm 2011

thanphongkingwood
11-01-2012, 07:13 PM
KHÚC KHUỶU DÒNG ĐỜI
Yên Sơn

Buổi sáng thứ Tư trong tuần mà điện thoại trong phòng làm việc của hắn reo liên tục, vừa hết cú này sang qua cú khác! Trong lúc hắn đang tìm mọi cách để giải quyết trục trặc hệ thống server của một khách hàng “nặng ký” qua điện thoại thì thằng Quản Đốc tới bảo là lên văn phòng gặp hắn sau khi giải quyết xong vấn đề của khách. Hắn giật mình nhưng đang nói chuyện với khách nên gật đầu ra dấu “nhận hiểu” và tiếp tục cuộc điện đàm.

Gác máy điện thoại xong, hắn ôn lại cuộc điện đàm vừa qua để kiểm soát thử mình có nói điều gì vi phạm “guideline” của hãng hay không. Chuyện “lỡ lời, thiếu kiên nhẫn, mất bình tĩnh” với các ông bà nội khách hàng cứng đầu, ta đây, mất lịch sự vẫn không tránh khỏi mặc dù công ty đã có những biện pháp nghiêm cấm nhân viên làm mất lòng khách hàng ở bất kỳ hoàn cảnh nào, khía cạnh nào hoặc hình thức nào. Tất cả các kỹ sư trong Technical Depatment này đều được cấp trên tặng cho những “sản phẩm” làm bằng mủ nhẹ, để “hả giận” nếu gặp nhằm những khách hàng khó ưa, xấc láo. Dù vậy, chuyện các “ngài kỹ sư” đá thùng rác, dộng bàn, dộng vách, hoặc những tiếng kêu trời sau khi “mute” đầu dây điện thoại, rồi vò đầu bứt tóc, than vãn như bọng vẫn xảy ra trong “khu phố” như cơm bữa… Gọi là “khu phố” vì mỗi giám thị trông coi một khu, có khoảng chừng 20 văn phòng lỡ (partition) nằm sát vách nhau. Công ty có “auditting department” để kiểm soát tất cả các cuộc điện đàm của nhân viên với khách hàng. Rất nhiều khi giám thị hoặc quản đốc cũng theo dõi nhân viên dưới quyền tại văn phòng của họ. Việc Giám thị hoặc Quản đốc bỗng nhiên xuất hiện mời lên văn phòng cũng không phải là điều xa lạ gì đối với nhóm kỹ sư trong department này. Bản thân hắn cũng đã vài lần bị sao quả tạ. Nhất là có một lần thằng khách hàng trời đánh gọi hắn là “stupid Chinaman”! Vốn liếng tiếng Mỹ của hắn đâu có tệ nhưng có lẽ nước mắm đã ướp đầu lưỡi hắn cứng cáp hơn nên dù có sửa đổi cách mấy cũng không thể qua mặt những người sành sõi âm giọng ngoại quốc. Ngoài ra, lâu lâu cũng có đồng nghiệp chửi khách hàng thẳng tay, chửi luôn cấp trên xong tự động ra về nghỉ việc. Ôi! Cái thời buổi thị trường Computer cạnh tranh nhau một cách gắt gao; thời buổi mà các công ty điện toán đua nhau đưa “job” ra nước ngoài để có thể cắt giảm chi phí tối thiểu, để có thể hạ thấp giá thành sản phẩm tối đa mong bảo tồn market share, quả thật vô cùng chua cay cả cho chủ lẫn người làm. Ôi! Quả là thời buổi gạo châu củi quế!

Dò đi dò lại không thấy có vấn đề gì rong những cuộc điện đàm từ sáng tới giờ, hắn yên tâm logged out, đứng lên đi về phía văn phòng. Vừa đi vừa suy nghĩ lung tung. Không biết có chuyện gì đây, không lẽ được báo tin nghỉ việc?!? Không thể thế được mặc dù công ty đang dần dần sa thải nhân viên! Không thể có chuyện sa thải hắn trong lúc department còn quá nhiều đồng nghiệp “non tay ấn”, nhiều nhân viên có tiếng lười biếng, hoặc có thành tích “con rùa”! Hắn nghĩ là hắn sẽ phải là nhóm người ra đi cuối cùng của department nếu việc cắt giảm nhất định phải xảy ra. Hắn tự tin lắm vì ngoài tài giải quyết vấn đề cho khách hàng nhanh chóng, giải quyết nhiều vụ khó khăn mà nhóm kỹ sư “tiền tuyến” đầu hàng. Hắn lại có thâm niên công vụ nữa, đã từng được nhiều tưởng thưởng từ cấp trên với thành tích siêng năng – không bao giờ từ chối làm giờ phụ trội, làm cuối tuần; tình nguyện làm ngày lễ hoặc có ai yêu cầu làm thế – Hơn thế nữa, hắn đã từng được tuyên dương là “nhân viên xuất sắc của tuần, của tháng” – mặc dù cũng có vài lần bị giám thị bắt gặp quả tang hắn đang ngồi miệt mài viết email riêng tư mà không bị khiển trách. Trên tất cả những điều như đã kể, hắn còn hơn đồng nghiệp về tính tình vui vẻ lẫn chuyên môn. Luôn sẵn lòng giúp đỡ đồng nghiệp khi họ gặp khó khăn dealing với khách hàng! Hắn đã có trong tay những chứng chỉ đòi hỏi trong ngành nghề; đặc biệt nhất, hắn đã lấy xong bằng MCSE (Microsoft Certified System Engineer) tháng rồi, sau hơn một năm dài miệt mài vừa học vừa ngủ gục sau giờ tan sở. Hắn hãnh diện lắm vì hắn là một trong số bảy người có bằng cấp này trong cả technical support department hơn hai trăm mạng. Trời ơi, thi xong bảy cái test khác nhau của cấp bằng này là cả một cố gắng phi thường cho một người vừa làm toàn thời gian, vừa đi học chứ phải dễ dầu gì đâu. Cả tháng nay hắn vẫn trông chừng bao giờ được tăng lương mặc dù có sự cắt giảm nhân viên đang xảy ra! Chỉ cách năm bảy năm trước, ai có được bằng MCSE cũng được bảo đảm số lương tối thiểu là sáu chục xấp. Dù bây giờ có phổ thông đi nữa, giá trị của nó cũng còn là niềm hãnh diện và phúc lợi cho người sở đắc trong lãnh vực điện toán. Hắn tự trấn an “không thể nào đâu” khi bước vào văn phòng Quản đốc.

Trong văn phòng đã có thằng Giám thị khu vực của hắn ngồi đó. Quản đốc lịch sự mời hắn ngồi đối diện với thằng Giám thị, xong tự đứng lên đóng cửa văn phòng. Dù việc đóng cửa văn phòng bao giờ cũng xảy ra để giữ riêng tư cho cuộc thảo luận, nhưng bỗng nhiên làm hắn hồi hộp lạ thường, nhất là không khí nghiêm trọng trong văn phòng lúc này. Hắn ngước mắt nhìn gương mặt của thằng Giám thị rồi hướng về phía người Quản đốc! Trong đầu hắn bỗng nhiên mất cả tự tin “không thể như thế được!” Anh chàng Quản đốc là một người Mỹ trắng khoảng 40 tuổi, bình thường nói năng nhã nhặn, lịch sư, tính tình phóng khoáng và vui vẻ. Từ lúc anh chàng về làm Quản đốc department này đến nay, cũng đã hơn bốn năm rồi, dường như hắn chưa bao giờ thấy anh chàng nghiêm nghị như hôm nay. Lòng hắn xao xuyến khi nghe anh chàng hỏi:

- Anh nghĩ là chúng ta sẽ nói chuyện gì hôm nay?
- Chắc chắn không phải tôi có vấn đề gì với khách hàng phải không?
- Cứ đoán đại thử (take a rough guess)!
- Tôi được tăng lương?
- Không! – anh chàng Quản Đốc tránh ánh mắt hắn.
- Các anh đừng nói với tôi là tôi sắp phải ký giấy nghỉ việc đó nha!
- Thật là điều không may mắn, nhưng đó là sự thật! – anh chàng Quản đốc nghiêm nghị.

Hắn mở to mắt như không nghe, không tin điều hắn vừa nghe:
- Tôi hy vọng các anh không đùa dai với tôi đấy chứ?
- Rất tiếc! – anh chàng nói giọng đưa đám – Chúng tôi cũng ngạc nhiên như anh!
- Tại sao? – hắn cao giọng như muốn gào lên.
- Lệnh của cấp trên và không có giải thích!
- Là Quản đốc, là Giám thị các anh hẳn phải biết họ cho nhân viên nghỉ việc dựa trên căn bản nào chứ?
- Chúng tôi ao ước có được câu trả lời thỏa đáng cho anh! Nhưng tôi biết chắc một điều anh cũng biết là department này sẽ dần dà đóng cửa. Việc chúng ta đang làm sẽ là việc của một công ty bên Ấn Độ mà anh đã giúp huấn luyện cho họ từ mấy tháng qua.
- Thì ra là vậy! Nhưng sao tôi lại là người đi sớm?
- Anh biết mà! Lương bỗng của mỗi người chúng ta bằng lương của năm, bảy ngườy kỹ sư bên Ấn Độ làm cùng công việc!
- Tôi thật sự không tin là tôi bị nghỉ việc vì lương cao. Các anh biết đó, tôi đã hoàn tất văn bằng MCSE mà vẫn chưa được tăng lương tương xứng!
- Nếu anh được giữ lại chắc là người ta phải trả lương tương xứng. Tôi chỉ đoán vậy thôi nha, và nên giữ điều đối thoại này tại văn phòng này.
- Tôi hiểu rồi!!! Department này trước sau gì cũng đóng cửa và người ta không muốn có thay đổi gì trong ngắn hạn?
- Không ý kiến!

Vừa nói, chàng Quản đốc vừa đưa ra xấp hồ sơ và chỉ cho hắn ký vào những nơi cần ký. Hắn ngỡ ngàng như người đi trong mộng, e dè cầm bút mà trong đầu vẫn tự hỏi tại sao. Vừa ký giấy vừa hỏi cả hai tên những câu hỏi không ai có câu trả lời. Liệu hắn có bị đối xử bất công, hay bị kỳ thị chủng tộc hay bị phân biệt tuổi tác gì không? Hắn chỉ là một trong hai người kỹ sư Việt Nam trong department này, mà anh bạn kia đã bị cho nghỉ cả tháng rồi. Sau cùng, cả hai ông xếp bắt tay và chúc hắn may mắn. Cho hắn biết là hắn từ từ dọn văn phòng, hắn vẫn được trả lương cho đến thứ Sáu. Chiều thứ Sáu, trước khi ra về, giao chìa khóa văn phòng và công việc cho Giám thị. Và còn nói thòng một câu:
- Nếu anh tin rằng anh bị đối xử không công bằng thì cứ liên lạc với sở lao động!

Điều phải đến đã đến!
Ai cũng biết chuyện gì tới sẽ tới, nhưng thường “những sự tới” hay xuất hiện bất thình lình, rất đột ngột làm người ta hụt hẫng, chới với, bàng hoàng và không biết phản ứng ra sao hết! Bước chân ra khỏi văn phòng, hắn đã thấy có vài cặp mắt nhìn hắn như dò hỏi. Hắn thản nhiên bảo đồng nghiệp là việc gì chúng ta lo sợ xảy ra thường xảy ra rất mau, thế thôi! Về lại văn phòng, hắn gieo mình xuống ghế, đầu óc nặng trĩu những u hoài. Một vài người bạn sát bên qua thăm hỏi và chia buồn với hắn. Hắn trực nhớ lại những tiếng xầm xì, thương hại cũng có, phiền trách chê bai cũng có của một số đồng nghiệp về một đồng nghiệp khác bị nghỉ việc vào đầu tuần (anh ta ký giấy nghỉ việc rồi về văn phòng đập phá sau khi khóc lóc là mới mua nhà, mua xe… bị an ninh của hãng còng tay dẫn đi), hắn quyết định chọn thái độ phớt lờ, nói cười tự nhiên dù trong lòng là những tơ vương trăm mối. Không trăm mối sao được khi kỹ nghệ điện toán càng ngày càng sa thải nhân viên, khi những kỹ sư trẻ ra trường rất khó khăn để tìm được một công việc trong ngành nghề này, nhất là hardware; nếu có được thuê mướn cũng chỉ được đồng lương không tương xứng! Không trăm mối sao được khi ngành hardware điện toán được các hãng xưởng đua nhau đem ra nước ngoài! Dù có MCSE, nhưng bao nhiêu kinh nghiệm của hắn đều thuộc hardware! Không bi quan sao được khi tuổi đời đã quá giới hạn để cạnh tranh công việc với sinh viên mới ra trường với số lương tối thiểu; hoặc can đảm nào để “làm lại từ đầu”! Nghĩ tới bốn chữ này tự nhiên hắn rùng mình! Từ ngày qua Mỹ tới nay, 28 năm có dư, hắn đã phải năm lần bảy lượt “làm lại từ đầu”!? Khi còn trẻ người ta không ngại lắm, nhưng ở Mỹ, qua tuổi bốn mươi rất khó bon chen, huống hồ chi… Dù không một hãng xưởng nào đặt điều kiện tuổi tác khi thuê mướn nhân viên (nghiêm cấm là đằng khác. Ở Mỹ, luật sư nhiều tương đương với kỹ sư, bác sĩ…. ở một đất nước mà hở ra một chút là có thưa có kiện, dễ đáo tụng tiền đình), nhưng luật bất thành văn ai ai cũng hiểu, cũng áp dụng. Kinh nghiệm này hắn học được qua các khóa Quản Trị sơ cấp và Trung cấp của hệ thống nhà hàng hamburger Wendy’s International khi làm supervisor rồi manager cho một nhà hàng ở miền Bắc California. Cũng như trong các khóa Quản trị nhân viên, khi làm International Sale and Marketing Assistant Director cho hãng Schwan’s Asian Foods.

Hắn muốn gọi điện thoại cho vợ để thông báo tin buồn, nhưng nghĩ đi nghĩ lại là không nên làm nàng phiền muộn trong lòng đang khi làm việc. Hắn ngồi thừ người suy nghĩ hết chuyện nọ đến chuyện kia, đầy những âu lo, và bấp bênh trước phiền mắt! Không âu lo sao được khi cả hai đứa con lớn đang học đại học, đứa nhỏ đang ở cấp trung học! Không âu lo sao được khi hai vợ chồng đều phải đi làm tất bật mỗi ngày để thanh thỏa cuộc sống vật chất với hàng trăm thứ nợ, để con cái khỏi phải vay mượn tiền học, tránh được cho con những số nợ khổng lồ sau khi ra trường. Thế mà bây giờ chỉ còn lại một người! Liệu với số tiền dành dụm lâu nay và số bồi hoàn nghỉ việc sẽ chống đỡ được bao lâu. Đời sống của hắn chắc chắn sẽ vô cùng xáo trộn. Nhưng trên tất cả, câu hỏi vẫn lởn vởn trong đầu “rồi mình sẽ làm gì, đời sống sẽ ra sao”?! Hắn không đủ tự tin là sẽ dễ tìm được việc làm trong ngành nghề này. Càng suy nghĩ càng tức và tiếc. Khổ công chăm chỉ sách đèn cả năm trời, vừa thi đậu đã thành vô dụng! Nếu biết thế, tội gì!

Nếu biết thế, tội gì! Hắn bỗng bật cười! Dường như câu này rất ư thân thuộc, nhất là ngày bỏ nước ra đi! Khi bỏ nước ra đi để lại một người nguyện ước trăm năm mà hắn vẫn trân quý, yêu mến, giữ gìn sau bao nhiêu tháng năm thân thiết. Nếu biết là sẽ chạy thục mạng thì đêm trước đó hắn đã bỏ sở chạy ra Saigon đón nàng cùng đi. Khi bỏ nước ra đi, trong nhà băng hắn để dành hơn nửa triệu bạc. Hắn đã phải giới hạn chi tiêu tối đa, dè sẻn từng đồng để dự định với nàng một đám cưới cho rỡ ràng với bạn bè hai bên! Chưa kể “nếu biết thế” đã rất nhiều lần đến với hắn trong những thăng trầm cuộc sống tha hương

Hắn bước ra khỏi văn phòng tính đi lấy café. Hắn vẫn uống café cả ngày đó mà, nhất là sau những cú phone hóc búa! Đồng hồ đã chỉ 3giờ chiều, hắn sực nhớ là hắn đã bỏ cơm trưa mà không thấy đói. Hắn tự hỏi “mình ở lại làm gì, mình đã là free man rồi mà, đâu có ai bắt buộc mình phải tiếp tục làm việc khi đã được thông báo cho nghỉ việc!” Hắn thu xếp rời văn phòng sau khi chào thằng giám thị.

Con đường dài cả tiếng đồng hồ với tốc độ trung bình 70 dặm một giờ đã đưa hắn đi về mỗi ngày hai bận, ròng rã hơn 5 năm qua, hôm nay xe cộ dường như thưa thớt! Thói quen nghe nhạc trên đường cũng trở thành ồn ào khó chịu. Hắn tắt máy, mở toang các cửa sổ cho gió lộng ào ạt vào xe. Dù là tháng cuối cùng của mùa xuân ở Houston, Texas nhưng khí hậu đã có vẻ oi nồng như đầu hạ, không như ở vùng “Thung Lũng Hoa Vàng” phía bắc, hoặc Orange County phía nam của California – những nơi mà hắn đã từng ở qua. Hắn cố không nghĩ tới chuyện không vui hôm nay, nhưng không thể nào đẩy lui những ưu tư đang dày xéo trong tâm thức được! Không biết gia đình hắn sẽ phản ứng ra sao! Nhất là gương mặt sầu não của “con gái rượu” – nó vẫn gọi nó là daddy’s girl. Nhớ lần thất nghiệp trước, con bé mới có 14 tuổi mà đã cảm nhận được nỗi vui niềm buồn của bố nó. Nó cứ quấn quít một bên, khi nào gặp hắn ở nhà, sau giờ về học mỗi ngày. Nó cứ nói: “bố đừng buồn nghe bố, bố sẽ tìm được việc sớm mà”. Hoặc: “con sẽ không đòi học lái xe khi con 16 tuổi, con sẽ không đòi mua xe mới, con sẽ học giỏi, sẽ rất ngoan, sẽ không đi học đại học xa nhà…” Mới đó mà nó đã học năm thứ ba rồi, vẫn như ngày còn bé, vẫn là con gái rượu, vẫn loanh quanh chuyện trò với bố những vui buồn hàng ngày, đã giữ lời hứa chỉ học lái xe để đi học đại học trong thành phố, đã không vòi mua xe mới khi ra trường “top ten”. Hắn thật sự không sợ vợ hắn buồn mà chỉ lo con gái!!!

Hắn lắc đầu thật mạnh, cố xua đuổi hình ảnh không vui làm tay lái chao đảo. Chiếc xe lạng qua bên trái một chút, tiếng bóp kèn cùng với tiếng va chạm đụng xe… Hắn điếng người, tìm cách tấp nhanh vào lề phải cùng lúc với chiếc xe kia. Người tài xế là một anh trung niên da màu, mặt mày giận dữ, dùng tiếng Đức xả láng với hắn khi hắn vừa bước xuống xe. Thấy tài xế không việc gì hắn thật hú vía, ngỏ lời xin lỗi! Hắn nói là hắn có bảo hiểm, đề nghị trao đổi chi tiết không cần chờ cảnh sát nhưng tên tài xế không chịu, nhất định gọi cảnh sát. Trong khi anh chàng gọi cảnh sát, hắn có dịp quan sát cả hai xe. Ở cửa sau bên trái của xe hắn đã như chiếc bánh tráng nhúng nước trong khi đầu bên phải xe anh chàng cũng bể hết đèn và móp thật sâu. Cả hai xe đều là xe Nhật Bản! (người miền nam nước Mỹ rất chuộng xe Nhật Bản trong khi dân miền bắc bao giờ cũng rất bảo thủ, 90% người dân chỉ mua xe Mỹ).

Nỗi bực bội càng thêm bực bội khi nắng chiều vẫn còn rọi xuống chang chang. Đứng ngoài nắng chờ cảnh sát tới biên phạt quả là không thể không phiền! Mãi tới gần tiếng đồng hồ sau mới lãnh xong cái giấy phạt về tội bất cẩn (reckless driving). Càng phiền não hơn khi sực nhớ là xe mình chỉ có bảo hiểm một chiều! (khi có tai nạn mà mình là người có lỗi thì hãng bảo hiểm chỉ đền cho người ta). Chao ôi nào là đóng tiền phạt, tiền sửa xe, bảo hiểm sẽ tăng giá… và sự bất an của gia đình trong những ngày tháng tới!!!

************

Đang ngủ ngon giấc thì con bé vào gọi dậy ăn cơm tối. Nhìn đồng hồ thấy đã 8g. Trên bàn ăn có đông đủ mọi người, nhất là thằng con trai lớn rất ít gặp. Rất ít gặp vì nó đi chơi với bạn bè nhiều hơn ở nhà. Học bao nhiêu năm rồi mà vẫn chưa tới đâu, trong khi bạn bè trang lứa của nó đã xong đại học, đứa học thêm, nhiều đứa đã đi làm! Ít gặp vì khi nào gặp cũng bị hắn la rầy nên tránh mặt! Đang muốn hỏi chuyện nó nhưng thấy tia nhìn khác lạ của vợ khiến hắn chợt nghĩ lại thân phận mình! Hắn im lặng ngồi xuống, cảm nhận như có điều bất thường.

Xong bữa cơm, đang khi mấy mẹ con dọn bàn, thằng con lớn mời mọi người ngồi lại vì nó có chuyện muốn nói. Hắn ngạc nhiên lắm, không biết chuyện gì mà trông nó nghiêm trang chưa từng thấy. Trực nghĩ tới vẻ mặt nghiêm trang của thằng Quản đốc hôm nay ở sở, hắn nhột nhạt trong lòng, ngồi yên lặng. Hắn đã tính khi mẹ con dọn bàn xong thì hằn sẽ nói về chuyện hôm nay, chưa kịp lên tiếng thì thằng con đã làm hắn lên ruột:

- Thưa Ba Mẹ, con xin lỗi đã làm phiền lòng Ba Mẹ từ mấy năm nay, con không thể nào chú tâm vào sách vở được! Những điều con sắp nói ra đây, hy vọng không làm Ba Mẹ và các em thất vọng. Con đã suy nghĩ nhiều về đề nghị của Ba Mẹ năm trước là nếu con không thể học được thì nên đi vào quân ngũ một thời gian! Lúc đầu con rất buồn lòng Ba Mẹ, nhưng càng ngày con càng thấy là con không còn lối thoát nào hơn! Con đã lén Ba Mẹ nộp đơn vào quân đội, muốn làm pilot như Ba hồi xưa nhưng họ nói con cao quá (6 feet 5), vì thế con làm đơn xin gia nhập Bộ Binh từ nhiều tháng nay. Con đã hoàn tất việc khám sức khỏe và xong phần điều tra lý lịch cá nhân. Hôm nay con nhận được giấy báo trình diện nhập ngũ. Con phải đi ngày thứ Bảy tới này. Con sẽ đi về ngành thẩm vấn điều tra Quân đội. Đó là tất cả những gì con muốn nói hôm nay. Một lần nữa con xin lỗi Ba Mẹ đã không học hành thành đạt như Ba Mẹ mong ước!

Thằng con nói một hơi, nửa Việt nửa Mỹ, nhưng mạch lạc, rõ ràng. Mẹ nó với nét mặt âu lo và phảng phất buồn, hỏi chương trình huấn luyện ra sao, ở đâu? Nó cho biết là 3 tháng huấn nhục (boot camp) và căn bản quân sự ở Fort Sil, Oklahoma; 4 tháng tiếp học ngành chuyên môn ở Fort Huachuca, Arizona; xong sẽ về trường Sinh Ngữ Quân Đội ở Monterey, California để học tiếng Trung Hoa 2 năm. Sau đó sẽ được bổ nhiệm đi Châu Á!

Hắn ngồi yên lặng từ đầu tới cuối, lòng đắm chìm trong những buồn vui lẫn lộn, mắt ngó thằng con chăm chăm. Vui vì cuối cùng nó đã thấy được những lỗi lầm và có thể tự quyết định điều đúng đắn. Nhưng buồn ơi thấy con như chim chưa đủ lông cánh đã bay vội vào giông bão cuộc đời! Mặc dù cả năm qua ít thấy mặt nó ở nhà nhưng dù sao nó cũng còn đi đi về về, chỉ ham chơi hơn sách vở chứ không có rượu chè hút xách gì cả. Hắn thấy như có chút hụt hẫng, mất mát!
- Anh nghĩ sao mà không nói với con một lời như vậy? – Mẹ nó hỏi.

Không hiểu sao hắn lại trả lời cụt ngủn:
- Thì dù gì nó cũng đã tự quyết định rồi mà!
- Ba không giận con chứ? – thằng con e dè phân trần – Con chỉ muốn surprise Ba Mẹ và các em thôi chứ không cố tình dấu diếm Ba Mẹ đâu!

Mẹ nó vội đỡ lời:
- Thì mấy năm trước anh đã không khuyến khích nó đi Quân Đội là gì?!
- Ba không có gì để nói, chỉ muốn mọi sự tốt lành cho con! Ba không giận con nhưng thấy không được vui trong lòng, cảm thấy có cái gì mất mát!

Nói xong hắn đứng dậy rút vào phòng đọc sách. Không muốn nói gì thêm trong lúc này khi thấy mặt mấy mẹ con buồn dàu dàu và không khí khá buồn tẻ! Một ngày thôi! Một ngày ngắn ngủi mà có bao nhiêu là điều oan trái xảy ra! Dù sự nhập ngũ của con trai lớn không hẳn là sự mất mát nhưng sao cảm giác cứ bùi ngùi! Dù sự mất việc không là một điều mới mẻ trong tình trạng kinh tế chung hiện nay, nhưng kéo theo tai nạn đụng xe quả nhiên là một đại họa trong lúc này! Nếu người ta hay ví “Sông có khúc, người có lúc” thì đây quả là một khúc khuỷu nguy hiểm của dòng sông, là một trong những lúc khó khăn nhất trong đời tỵ nạn của hắn vậy!


Mời quý ACE nghe bài nhạc mới có nhiều ý nghĩa:

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1352166658.mp3

thanphongkingwood
11-19-2012, 03:00 AM
NHỮNG NGÀY HẠNH PHÚC NGẮN NGỦI
ngày 13.05.11

Chiều thứ Sáu nào lớp võ cũng đông nghẹt học trò! Cái phòng rộng gần hai ngàn năm trăm square feet, bỏ ra một khoảng trống cho phụ huynh ngồi, một văn phòng nhỏ phía trước; hai phòng thay quần áo, hai phòng vệ sinh, một nhà bếp trải hết chiều ngang phía sau, sâu 5 feet; còn lại là khoảng trống không làm sân tập với đầy đủ dụng cụ cần thiết có thể di dời được, vậy mà chỉ còn đủ chỗ cho võ sinh quơ tay múa chân trong sự chật hẹp hữu hạn. Lớp thứ Sáu nào cũng đông vì ngày thứ Sáu là ngày tập đấu! Thời nào cũng vậy, nơi chốn nào cũng thế, dân mình hay dân ngoại quốc cũng chẳng khác gì… Đấu là lãnh vực hào hứng nhất trong tiến trình học võ. Thế mà hai đứa con huấn luyện viên lại xin phép cho nó “đi đưa quà sinh nhật cho đứa bạn thân”!

- Ngày mai, giờ khác có được không?
- Dạ tụi con đi khoảng nửa tiếng về ngay! Tụi con muốn “surprise”… đứa bạn thân muh! Please Ba! Về ngay Ba nha!
- Tại sao phải đi hai đứa?
- Dạ bạn chung của tụi con mà!
- Nó là ai mà quan trọng dữ vậy?
- Con không nói bây giờ nhưng Ba gặp nó rồi!
- Mấy con không thấy học trò quá đông Ba rất cần giúp sao?
- Có mấy huyền đai phụ Ba kìa!

Thấy tụi nhỏ lầu bầu sắp đâm bực mình mà học trò thì nhốn nháo, phụ huynh ngồi chật phòng, hắn đành gắt nhỏ:
- Thôi đi ngay đi rồi về liền nha, đúng là lộn xộn!


**********

Đang lu bu với tụi nhỏ, hắn nghe tiếng cửa mở và tiếng đứa con gái la lên:
- Daddy, we’re back (tụi con về rồi đây, Ba)
- Còn ở đó mà la, vào giúp học trò ngay đi!

Hắn chỉ trả lời con bé mà không quay nhìn. Tiếng con bé lại kêu lên:
- Ba ơi bạn con chào Ba nè!

Sắp nổi quạu mà cũng quay nhìn. Oh là là… thằng lính!!!

Tự nhiên thấy nó như một người Mỹ to con, oai nghiêm trong bộ quân phục tác chiến rằn ri quen thuộc! Hắn bước như chạy về phía cửa… tất cả mọi người dường như đang chăm chú nhìn cha con hắn, hắn phải chậm lại, dấu tất cả nỗi vui mừng trong tim và từ tốn ôm choàng thằng lính trong vòng tay rất chặt. Nỗi mừng vui làm nghẹn ngào, hắn cố nói một câu nghe đứt quảng:

- Welcome back my son!

Hắn cảm thấy như muốn nghẹt thở vì vòng tay mạnh bạo của thằng lính! Một tràng pháo tay thật dài của Phụ huynh và học trò nói lời chào đón.

Thằng lính đã ở lại trường chờ hắn đến cuối giờ dạy. Chúng nó lại kêu gọi sự gia nhập của hắn trong kịch bản chào mừng mẹ chúng nó. Hắn vào nhà như thường lệ bằng cửa sau, ngồi tại bàn ăn để nhìn vợ hắn đang lui cui sửa soạn bữa ăn tối cho bố con hắn và chờ màn kịch vui sắp diễn. Thằng lính vào nhà cửa trước, âm thầm đến sau lưng mẹ nó, dường như để tránh cho mẹ nó bị đứng tim nên con bé kêu lên

- Mẹ ơi mẹ xem cái này nè!

Mẹ nó quay lại và đánh rơi những gì đang cầm trên tay, mắt mở to, đứng bất động ngỡ ngàng! Phải đến cả chục giây đồng hồ mới kêu thét lên mừng rỡ: “con”, rồi mẹ con ôm chằm nhau trong nghẹn ngào, vui sướng!

Gia đình hắn đang sống trong hồi hộp và chờ đợi từng ngày thằng lính trở về. Cuộc sống vẫn ngày lại ngày qua với những tất bật cơm áo. Bỗng nhiên thằng lính trở về! Dù chỉ là hai tuần nghỉ phép ngắn ngủi cũng đã làm xáo trộn tất cả những bình lặng trong đời sống hằng ngày của gia đình hắn. Sự có mặt của nó đã mang lại một sinh khí mới, một niềm hạnh phúc tuyệt vời, chưa từng có cho cả gia đình! Những tiệc tùng, hội họp, vui chơi không kể giờ giấc của anh em chúng nó và bè bạn đã làm cho vợ chồng hắn theo hụt hơi trong niềm vui và hãnh diện. Ngoại trừ những lần thăm Nội và gia đình các cô chú, hai tuần lễ nó chỉ loanh quanh ở nhà hoặc tụ họp chơi game, xi-nê, ăn uống với mấy người bạn thời Trung học cùng với hai anh em con dì đồng lứa tuổi về từ California ngày hôm sau. Té ra sự xuất hiện đột ngột của thằng lính chỉ là sự đột ngột cho riêng vợ chồng hắn! Rõ ràng mấy anh em chúng nó đã “ăn rơ” với nhau cho Ba Mẹ một sự đả kích ngoạn mục!

Trong bữa ăn tối, mẹ nó hỏi:
- Con muốn ăn món gì ngày mai mẹ làm.
- Dạ món gì mẹ nấu cũng ngon. Suốt lộ trình vận chuyển trong hai ngày liên tục, từ Bagdad qua Kuwait, tới Scotland, về Dallas và ngay cả lúc hạ cánh xuống Houston… con mong ước sớm tới nhà để được ăn cơm nóng.

Dường như có tiếng rên khẽ của me nó vì xúc động! Trong lúc ăn nó kể chuyện có gặp cặp vợ chồng người Mỹ xa lạ, ở phi trường Dallas, xin được mời nó bữa ăn sáng vì họ nói họ rất cảm kích những người đang chiến đấu trong hiểm nguy ở một đất nước xa lạ nhằm bảo vệ sự bình yên, thịnh vượng cho họ cũng như nhân dân Hoa Kỳ! Nó nói lần đầu tiên mới nghe được có người với cái nhìn rất thật tế đúng với quan điểm của nó từ khi cuộc chiến Iraq bắt đầu. Nghe câu nói này, hắn giơ bàn tay “hi five” biểu đồng tình với thằng lính vì hắn đã và đang nhìn cuộc chiến như là một thế võ tự vệ sau thảm cảnh 9/11. “Nếu bị địch tấn công ta phải đỡ từ xa, nếu để sát người quá có khi vô dụng”; hoặc là “cách phòng thủ tốt nhất vẫn là cách tấn công như vũ bão để địch thủ không đủ thì giờ trả đòn”. Có lẽ cách diễn dịch này đã cho hắn sự đồng tình với hai ngài Tổng Thống Bush.

Dù vậy, khi nghĩ về trận chiến năm xưa, hắn không khỏi cay đắng và bi phẩn! Gốc rễ sự sa lầy và thua trận của quân đội Hoa Kỳ ở chiến trường Việt Nam là do những sách lược tồi tệ của đám chính trị “da” rỗng ruột, gây nên lòng phẫn nộ của dân chúng Hoa Kỳ, đưa tới một hậu quả tàn khốc cho toàn dân Việt Nam! Sự hy sinh sinh mạng của năm mươi tám ngàn quân nhân Hoa Kỳ và đồng minh cùng hàng triệu người Việt hai miền Nam Bắc cho cuộc chiến, vì vậy, trở nên oan uổng! Sự bỏ rơi miền Nam Việt Nam năm xưa là một sự ác độc, vô lương tâm, thiếu trách nhiệm của những người ngồi nhà mát ăn bát vàng, của những cơ quan truyền thông thiếu trung thực! Là một vết nhơ lịch sử, là một nỗi nhục khó quên! Hắn cầu mong bài học đau thương đó không lặp lại để người dân Mỹ ngẩng cao đầu trong niềm hãnh diện là con dân của một nước siêu cường; để nước Mỹ luôn xứng đáng là quốc gia lãnh đạo trong trận chiến bảo vệ tự do và nhân quyền cho thế giới. Tuy nhiên, cuộc chiến Iraq càng ngày càng có những chỉ dấu tồi tệ, đáng lo! Người ta bắt đầu xôn xao bàn tán về kết quả đau thương của cuộc chiến Việt Nam có thể tái diễn.

Thật sự là hắn có biết thằng lính sẽ được đi phép trong tháng Sáu như trong một mẫu tin ngắn nó nhắn lại sau khi được hỏi bao giờ con về phép: “Ba ơi con nghĩ chắc là trong tháng Sáu trừ phi cấp trên quyết định gây khó dễ cho con, haha!”… Trong thâm tâm hắn nghĩ giá mà nó về phép trong tuần lễ sinh nhật của nó thì hay biết mấy! Thế mà đã gần nửa tháng Sáu, và ngày mai đã là sinh nhật của nó rồi, nó biệt tăm! Những tin tức chiến trận ở Iraq vẫn nhan nhản trên báo hàng ngày, hắn chỉ lo sợ thằng lính có thể bị cúp phép bất cứ lúc nào! Hắn có dọ hỏi hai đứa em nó cũng chỉ ậm ừ! Nói chuyện về chiến trường với thằng lính kể như zero! Cái gì nó cũng bảo không thể nói được! Hắn cũng thông cảm vì ngành nghề của nó nên lâu ngày trở thành thói quen! Lo lắng cứ lo lắng, bận tâm tiếp tục bận tâm mà không thể dò hỏi chi tiết gì được!

Một lần cả gia đình đang chuyền nhau điện thoại hỏi thăm nó, bất thình lình nghe tiếng còi hụ inh ỏi và tiếng nói gấp gáp của nó qua phone “Ba, Ba! I gotta go! Xin lỗi Ba, it’s an emergency!”… đã làm cho cả gia đình thắt ruột và hắn nghĩ chắc là đơn vị vừa bị bọn du kích tấn công bất ngờ! Sau này có dịp hắn hỏi thăm thì nó lại nói đó không phải là điều bất thường! Chuyện đối mặt kẻ thù vẫn xảy ra bất cứ ở đâu, bất cứ giờ phút nào vẫn như cơm bữa!

Gia đình rất lấy làm an ủi vì thằng lính vẫn thường xuyên liên lạc về gia đình bằng mọi phương tiện có thể được – internet, Instant Messenger, điện thoại. Nếu trong vòng hai tuần lễ không nghe thấy tin tức của nó là cả nhà cứ trông ngóng, quýnh quáng lên! Có một dạo thằng con bặt tin rất lâu, gia đình xôn xao, lo lắng, thay nhau viết thư và tin nhắn. Một hôm, trong giờ nghỉ ở lớp học, hắn mở hộp thư và nhận được thư của nó. Hắn vui mừng chi xiếc, đọc ngấu nghiến từng chữ từng câu.

“Ba thương mến, con vô cùng sung sướng để nhận được thư Ba và gia đình. Thư từ của gia đình, cũng như những gói quà thân thương đối với đám lính xa nhà của tụi con bao giờ cũng là món quà vô cùng quý báu. Nhất là những lúc tinh thần và thể chất kiệt quệ! Con nghĩ chắc Ba đã có thừa kinh nghiệm rồi! Con xin lỗi là phương tiện liên lạc ở đây rất khó khăn và thực tế con không có đủ thì giờ! Con luôn luôn nhớ nghĩ đến Ba Mẹ và gia đình kể cả trong giấc ngủ hiếm hoi! Hôm nay con ‘ăn gian giờ’ để viết thư này cho Ba Mẹ và gia đình.

Đời sống và sinh hoạt hàng ngày ở đây, Iraq, thật tình con không biết bắt đầu từ đâu và dĩ nhiên không thể đi vào chi tiết để bảo toàn bí mật quân sự. Mặc dù mỗi ngày có những việc nhất định của một quân nhân chiến đấu phải làm, nhưng cũng rất nhiều công việc cá biệt rất bề bộn và căng thẳng, khó có thể diễn đạt bằng lời nói. Dĩ nhiên thời gian ở đây dường như không đủ để làm tất cả những công việc cần thiết. Mỗi ngày đều làm việc cật lực từ 16 đến 20 tiếng đồng hồ; nào là canh phòng cẩn mật, nào là hành quân, thu lượm và phân tích tin tức tình báo, viết tường trình cho sở, lau chùi vũ khí, tắm rửa, giặt giũ, ăn uống gấp gáp… nếu ngày nào con ngủ được 5 tiếng đồng hồ, dù với những cơn ác mộng, thì đó là niềm hạnh phúc vô biên! Mọi người phải tìm cách làm việc và làm việc để tránh áp lực và căng thẳng.

Cuộc sống không hào nhóang, không nổi bật như mọi người tưởng đâu, nếu không nói có nhiều lúc cảm thấy trống trải, mệt mỏi lẫn bi quan! Dù vậy, Ba đừng hiểu lầm con. Con bao giờ cũng muốn chu toàn trách nhiệm và nổ lực phấn đấu để làm việc cần làm và giữ vững tinh thần để tin rằng binh sĩ và quân đội Hoa Kỳ đang tận lực giúp nhân dân Iraq có được tự do, no ấm; giúp đất nước Iraq vãn hồi hòa bình trong an ninh trật tự và thịnh vượng! Mặc dù trong thực tế, đôi khi rất khó để lạc quan vì trong dân chúng không rõ bạn thù và một số người trong chúng con cũng có những hành động cẩu thả vô trách nhiệm!

Trong mọi tình huống, điều con có thể nói một cách an toàn là những kinh nghiệm trải qua đã làm cho con cay đắng và một chút ngờ vực (all in all, I can safely say that the whole experience has made me bitter and a bit of a cynic). Con hứa sẽ tìm cách gọi điện thoại cho Ba Me. Con rất vui mừng sửng sốt, mà con chắc Ba Mẹ cũng vậy (!), vì con mới được biết là tất cả quân nhân đang phục vụ trên chiến trường Iraq bị triển hạn thêm ba tháng!

Vậy mà trước lúc lên đường thượng cấp còn dõng dạc hứa hẹn ‘chúng tôi bảo đảm thời gian phục vụ chiến trường của các bạn không quá một năm’. Bây giờ con đã biết là không nên tin tưởng những gì người ta hứa hẹn, chỉ có thể biết chắc khi việc đó đã xảy ra rồi! Nhưng Ba ơi! Ba cũng biết rồi ‘người ta không sợ thua trận chiến quân sự ở đây mà chỉ sợ thua trận chiến bên nhà!’ Hay nói khác hơn, quân đội Hoa Kỳ không thể nào thua trên chiến trường mà chỉ sợ thua từ trong hậu tuyến! Truyền thông báo chí chỉ thổi phồng những điều bất lợi trong khi có quá nhiều thành quả thì không thấy nhắc đến!

Ba ơi con rất nhớ Ba Mẹ và các em mỗi ngày. Con hy vọng sẽ được về phép thăm gia đình sớm. Ba Mẹ đừng quá lo cho con vì ở đây tụi con phải ngủ với đôi mắt mở rộng và không khi nào ra khỏi cổng nếu không cùng đi với đơn vị có trang bị hỏa lực hung hậu cả!

Thằng lính.”

Con ơi! Con có biết những điều con viết trong thư của con là những thực tế oan nghiệt, phũ phàng cho đất nước của Ba hơn ba mươi hai năm về trước không!?

Nhớ mùa lễ Tạ Ơn năm trước, gia đình hắn nhận được một đoạn phim ngắn của thằng lính qua “youtube”. Không nói thì ai cũng biết là gia đình cảm kích biết bao khi thấy được đứa con thân yêu qua video webcam. Không biết vì bản tính hề của nó hay hoàn cảnh không cho phép nên nó chỉ nói chuyện bằng cách viết từng hàng chữ trên giấy cứng. Mỗi bản nó chiếu đủ giờ cho đọc rồi thay ngay bản khác. Từng bản lần lượt: “Con chào Ba Mẹ và gia đình”, “Con vẫn khỏe”, “happy thanksgiving Ba Mẹ và các em”, “con biết nhà mình sắp ăn gà tây”, “Con chỉ nhớ món ăn của Mẹ nấu”, “con nhớ cơm nóng dẽo của người Việt”, “bây giờ là 2g sáng, mọi người đang ngủ”, “chỉ có lúc này con mới có giờ”, “thời tiết ở đây rất nóng”, “nghe nói mùa hè có thể hơn 120◦F”, “quân phục và thiết bị nặng phải mang suốt ngày”, “con chỉ mới vừa thay quần áo”, “con phải đi ngủ ngay bây giờ”, “con chào Ba Mẹ và các em”, “chúc mọi người bình an”, “thằng lính”. Xong nó nhe răng cười, làm mấy cử chỉ hề rồi biến mất! Cả gia đình ngồi lặng đi một lúc lâu khá lâu vì vẫn còn xúc động về những câu viết của thằng lính. Và đó là lần duy nhất gia đình nhìn được mặt nó kể từ ngày ra đi! Trông nó gầy rạc, mặt rám nắng nhưng dáng vẻ khỏe mạnh cũng yên lòng.


**********

Ngày vui bao giờ cũng qua mau! Quay qua quay lại đã hết một tuần! Thật sự những ngày qua thời gian đi như bay! Những tiếng nói cười rộn rã của lũ trẻ, sự lui tới tấp nập của bạn bè thằng lính cho hắn sống lại những cảm giác năm xưa những lần về phép! Hắn mỉm cười và có chút ân hận là “năm xưa” hắn đã tệ quá so với thằng lính bây giờ! Những lần hắn đi phép thường là đàn đúm với bạn bè, sáng say chiều xỉn đã làm buồn lòng không ít cho cha mẹ, anh em! Hắn hay so sánh hai môi trường, hai hoàn cảnh, hai thế hệ để tự an ủi phần nào.

Cuối tuần lễ đầu tiên là đám cưới của Jason White, bạn thân của thằng lính và cũng là võ sinh cũ của hắn. Tụi nó đã quen nhau từ thời trung học đệ nhất cấp. Jason đang là giảng sư đại học Rice và cô vợ sắp cưới lại là con của một người Việt Nam gốc Trung Hoa, là một bác sĩ trong tương lai rất gần. Cô dâu không nói được tiếng Việt trong khi Ba Mẹ cô ấy nói rất sành sõi! Mãi sau ngày cưới hắn mới biết là chúng đã ước hẹn với nhau, thằng lính sẽ làm phụ rễ chính và đám cưới sẽ xảy ra khi thằng lính về phép. Vì là chỗ thân tình nên gia đình hắn cùng với thằng con tất bật với đám cưới như một phần tử của gia đình. Bạn bè của chúng, một số lại là võ sinh cũ hơn mười năm qua, hoặc là những đứa đã nhiều lần lui tới nhà hắn, nên buổi tiệc cưới của Jason cho hắn cái cảm nhận thân tình trong không khí tưng bừng và vui nhộn. Đã lâu lắm hắn không uống được nhiều rượu như buổi tối hôm đó, hắn cụng ly liên tục với đám trẻ. Có lẽ chúng nó rất ngạc nhiên để thấy được phía bên kia của một võ sư nghiêm khắc! Trong lúc mọi người chúc tụng Jason, hắn tới bên thằng lính định hỏi bao giờ tới phiên con; thằng lính dường như đã cảm nhận nên cười nói:
- Ba, I know what you’re gonna tell me but don’t even think about it! (con biết Ba sắp nói với con điều gì nhưng chớ có nghĩ đến điều đó Ba ơi!)

Những ngày kế tiếp lũ chúng nó kéo nhau đi biển sớm, đi café khuya, đi ăn chỗ này, đi tiệc tùng chỗ khác. Vợ chồng hắn không tham dự vào những cuộc vui bên ngoài vì muốn chúng nó có dịp chơi đùa với nhau thoải mái. Những lúc nó ở nhà trò chuyện với hắn, hắn đều muốn hỏi những sinh hoạt hàng ngày của nó ra sao nhưng đều bị từ chối một cách khéo léo. Sau vài ba lần như vậy, thằng lính nói:

- Ba ơi con muốn có hai tuần nghỉ phép thật an bình với gia đình và bè bạn; chuyện chiến trường con đã dứt khóat bỏ lại sau lưng một khi con ngồi được trên phi cơ đi phép. Có điều này con muốn nói cho Ba biết trước để Ba chuẩn bị tinh thần, và chỉ nói cho Ba thôi! Theo lịch trình đơn vị của con sẽ trở về Mỹ vào tháng giêng 2008; và sẽ phải lên đường đi chiến trường Afghanistan, sau khi nghỉ ngơi sáu tháng! Mỗi lần đi như vậy ít nhất là một năm! Kỳ hạn giải ngủ của con vào tháng 11, 2008! Như vậy, ít nhất con còn phải ở trong quân đội cho đến khi hoàn thành đợt chuyển quân thứ hai!

Rồi thằng lính bật cười nói tiếp:
– Quân đội đã tốn khá nhiều tiền và công sức huấn luyện cho ngành nghề của con thì làm sao con được giải ngủ dễ dàng vậy Ba há! Con đã dự định vào tháng 11 năm sau, khi ra khỏi quân đội, con sẽ tiếp tục việc học cùng với Bảo-Quốc; hai anh em cùng học với nhau, con chắc sẽ có kết quả tốt sớm hơn dự đinh… nhưng bây giờ mọi toan tính chắc phải hoãn lại thêm một thời gian nữa, nếu không có gì thay đổi khá hơn!


**********

Hắn giật mình tỉnh giấc bởi những tiếng động và tiếng nói cười của lũ con và bạn bè của chúng. Đêm qua hắn đi ngủ rất muộn mà chúng nó vẫn còn thức chơi games với nhau. Wow! 3 đứa con và 6 đứa bạn thi nhau thức đêm! Thỉnh thoảng những trận cười bất chợt trong đêm làm hắn choàng tỉnh giấc để sung sướng biết rằng thằng lính của hắn vẫn đang an toàn trong tình thương yêu của gia đình và bè bạn. Cũng giống như hai anh chị em con dì không muốn rời tay vào buổi chiều hôm qua khi phải lên phi cơ trở về.

Lũ nhỏ như cố bám víu vào những phút giây cuối cùng của hai tuần lễ nghỉ phép của thằng lính. Cũng như lũ nhỏ, hai tuần qua là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của hắn và gia đình. Đêm nào hắn ngủ cũng rất ngon giấc, bữa ăn nào cũng rất ngon miệng trong tiếng nói cười rôm rả của mọi người! Hai tuần lễ vụt qua như giấc mơ và sáng nay thằng lính phải lên đường sớm để trở lại đơn vị ở chiến trường Iraq mù xa!

Sương buổi sáng phủ mờ cả rừng thông Kingwood. Vạn vật vẫn còn chìm đắm trong giấc ngủ uể oải đầu hạ, kể cả mấy cành hoa điệp ngậm đầy sương, nhô ra dửng dưng trên lối đậu xe bên hông nhà! Ba chiếc xe rời chỗ đậu lầm lũi đi về hướng phi trường. Hắn lại liên tưởng đến “những chuyến đi về” năm xưa mà nhớ thương vô vàn về người cha yêu quý giờ không còn nữa! Lòng buồn bã rưng rưng nhưng hắn cũng thấy an ủi vì nghĩ đến Mẹ hắn vẫn còn khỏe mạnh đang sống chung với chú em út chỉ cách gần một giờ lái xe. Trong thâm tâm hắn gọi thầm “Mẹ ơi con thương Mẹ lắm”! Phải, trong ca dao tục ngữ Việt Nam có câu: “nuôi con mới biết lòng cha mẹ”. Câu nói này đâu xa lạ gì với hắn, nếu không nói hắn đã thuộc nằm lòng, nhất là kể từ lúc thằng lính, đứa con trai lớn, chào đời, vậy mà ngay lúc này nghe thấm thía vô cùng! Thiếu gì chuyện con người ta đã biết, đã được dạy nhưng chỉ như con vẹt thuộc lòng câu nói đầu môi, đợi đến khi chính bản thân trải nghiệm mới thấy ra thì nhiều thứ cũng đã muộn màng! Thế mới biết kinh nghiệm bản thân bao giờ cũng là vốn liếng quý báu mà học lực khó có thể thay thế được.

Sau khi gửi xe, tất cả mọi người lục tục theo chân thằng lính vào phòng soát vé. Nhìn lũ nhỏ dã dượi, mắt đỏ ngầu như có những hạt sương làm nặng đầu cánh lá, hắn không nghĩ là lũ nhỏ xúc động vì cảnh kẻ ở người đi mà có lẽ vì thiếu ngủ đêm qua, hay là sự tương lân với hai đứa em của thằng lính thỉnh thoảng quay đi để dấu những giọt chia ly lăn dài trên má! Những đứa này là bạn thân của thằng lính và em gái của nó từ thời trung học cho đến giờ, cả nam lẫn nữ. Nhóm trẻ tuổi trước mắt, trừ thằng con trai út của hắn vừa xong trung học, có đứa đã thành đạt với công việc và địa vị vững vàng trong xã hội; đã là giáo sư đại học nổi tiếng, là những kỹ sư giỏi của các hãng xưởng trong vùng… còn thằng lính thì chọn xông pha lửa đạn… thế mà chúng vẫn có nhau, vẫn rất thân thích với nhau. Nhớ trong dịp sau Tết vừa qua, chúng nó đã cùng nhau mang đến tặng cho vợ chồng hắn chậu hoa lan tươi đẹp kèm theo tấm card viết: “we all thankful and appreciate you both and your family for giving us love and care as your own children ever since” (chúng cháu rất biết ơn và trân quý hai bác cũng như gia đình vì lúc nào cũng thương yêu và đối xử tốt với chúng cháu như con cháu trong nhà).

Hắn nhìn chừng mẹ thằng lính… ô kìa! Đêm qua thấy nàng ngủ say mà sao mắt cũng đỏ hoe! À thì ra nàng vẫn chỉ là một trong những bà mẹ đoan hậu với tấm lòng thương con bao la như biển thái bình! Wow thằng con yêu lại sắp phải xông vào sương gió hiểm nguy, nơi mà bậc làm cha mẹ không thể đăt chân tới, hỏi ai không buồn, không thương, không lo lắng, không bất an! Hắn chợt rùng mình rồi tự nguyền rủa vì một ý nghĩ đen tối thoáng hiện trong cái đầu óc trở trăn “biết đâu… biết đâu… trời ơi suy nghĩ gì mà dại dột hết sức, ngu dại hết biết!” Hắn chợt quay qua nhìn con, mở rộng vòng tay ôm chặt thằng lính vào lòng. Hắn thuộc vào dạng người cao ráo mà khi đứng với thằng lính chỉ mới khỏi đầu vai! Ai bảo là dân Việt Nam bé nhỏ! Có lẽ cuộc sống kham khổ quá, thiếu thốn quá nên con người không thể phát triển nỗi, thế thôi! Hắn cố gắng nói cười tự nhiên để không vẽ thêm chi tiết vào bức tranh chia ly buồn não nuột.

Thằng lính cố ngồi lại với mọi người cho tới giây phút cuối mới vội vã chạy vào cổng an ninh. Mọi người nhìn theo cho tới khi bóng nó mất hút bên trong trạm kiểm soát. Hắn chờ đợi bàn tay vẫy của thằng lính trước khi không còn nhìn thấy; nhưng không, nó đã không một lần quay nhìn lại! Ai mà không ghét cảnh chia ly! Hắn đứng yên, hụt hẫng trong khoảng trống mất mát to lớn! Vừa quay lại đã bắt gặp vòng tay của mẹ nó với đôi mắt mọng nước và câu nói mỏng manh nghe thảng thốt “con đã đi rồi hả anh”!


**********

Trên đường về buồn tênh! Hai đứa em ngồi băng sau lặng yên không một tiếng nói cười như những ngày qua. Hắn biết mọi người đang buồn lắm như tâm sự của hắn lúc bấy giờ! Hắn cũng nghĩ thằng lính chắc đang cảm thấy cô độc dữ lắm như tâm trạng của hắn trong những ngày tháng năm xưa khi phải trở về đơn vị sau những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Lòng hắn dào dạt niềm thương yêu vô bờ. Thương nhớ mẹ cha, thương cho hắn ở một thời bão nổi, thương cho thằng lính xông pha nơi chiến trường xa lạ!

Về tới nhà thấy nhà trống trải quá! Đứa con trai út rút vào phòng ngủ; vợ hắn và đứa con gái loay hoay một lát lại muốn đi làm. Có lẽ họ không muốn nhìn căn nhà trống vắng chỉ tạo buồn lòng thêm. Trước khi rời nhà vợ hắn còn nói “anh ở nhà an ủi con trai nhỏ nha anh”.

Hắn pha ly cà phê phin, để nó rơi từng giọt thánh thót trên chiếc bàn sân sau, dưới chiếc dù che nắng, ngồi lặng ngắm cỏ cây với muôn ngàn hình ảnh những ngày qua để luyến tiếc và xót thương thằng lính! Lòng lại dạt dào tưởng nhớ người cha! Cha ơi! Năm xưa… làm sao cha đã có thể “handled” được sự vắng mặt của ba đứa con trai đầu cùng một lúc trên ba chiến trưởng hung hiểm khác nhau!? Hắn thật sự ước ao phải chi Ba còn sống, ở bên hắn ngay lúc này, chắc chắn hắn sẽ sà vào lòng Người như bé thơ để cảm nhận tấm lòng trời biển!

2008

Mời quý vị xem hình ảnh thật ở đây:
http://thovanyenson.com/?p=3970

thanphongkingwood
12-19-2012, 08:01 PM
Tiễn con đi chiến trường Iraq

Đang lái xe, suy nghĩ mông lung trên đường từ nhà đến trường; tiếng reng của cell phone làm tôi giật mình, rung tay lái:
- Ba ơi Ba, con là PQ đây!
Tôi vui mừng nghe tiếng nói của đứa con xa mặc dù nó mới về phép mấy tuần trước đây để dự đám cưới của chú em trai họ dì cậu của nó. Con cái mặc dù bao lớn, người làm cha mẹ vẫn thấy chúng trẻ thơ, cần được săn sóc:
- Con khoẻ không?
- Dạ thưa Ba con rất khoẻ, con có võ mà, con là Lục quân mà!

Nó cười thành tiếng làm tôi cũng cười theo. Nó thường trả lời chúng tôi như vậy mỗi khi được hỏi về tình trạng sức khoẻ. Nó có tính khôi hài giống tôi, theo lời mẹ nó nói. Cũng theo mẹ nó, như bất cứ bà mẹ nào trên cõi đời này, cái thói hư tật xấu gì của con cũng giống bố; ví dụ như cái tính ham bạn, mê chơi, hút thuốc, uống rượu của nó...
- Con gọi thăm Ba hay có chuyện gì không con?
- Dạ cả hai!
- Chuyện gì quan trọng không con?
- Dạ con đang làm giấy tờ để đi Iraq! Có một cái form cần quyết định của Ba trước khi con điền. Câu hỏi là nếu con bị tử nạn, Ba muốn gia đình tự lo việc chôn cất cho con hay để cho Quân đội sắp đặt theo truyền thống của họ?
Tôi nghẹn ngào, thảng thốt! Như có ai vừa đâm sâu một mũi nhọn vào tim dù biết đây chỉ là hình thức giấy tờ tự nhiên. Vậy mà tôi vẫn xúc động, ngay cả lúc này ngồi viết ra những lời đối thoại với con. Dù tôi cũng đã từng sống trên bờ sinh tử trong cuộc chiến năm xưa; dù biết trước sau gì con tôi cũng tham dự chiến trường Iraq, vậy mà tôi cứ lo, cứ buồn. Bạn bè vẫn hỏi tôi có lo lắng gì khi con đi Iraq, tôi vẫn nói dối một cách tỉnh bơ "lo thì được cái gì, cho con đi lính thì phải chấp nhận"... nào là mình đã ở trong lòng cuộc chiến năm xưa, thô bạo hơn, khốc liệt hơn mà mình đâu có sợ!!! Nói chỉ để giữ vững tinh thần cho mẹ và các em nó, che lấp những nỗi lo sợ ám ảnh của một người cha trước mặt mọi người, chứ làm sao an tâm cho được! Chẳng thà chính mình tham dự còn đỡ lo hơn. Tôi chạnh lòng nghĩ tới cha tôi cứ mỗi lần loay hoay trong trách nhiệm làm cha, tôi lại nghĩ đến người! Tôi chỉ có một đứa con đi quân đội, trong khi Ba Mẹ tôi có tới ba người và hai đứa ở tuổi động viên! Tôi nhớ thương Ba Mẹ tôi quá đỗi! Nhớ những năm còn đi học, hai anh tôi trong quân ngũ; tôi đã nhiều lần thấy sự âu lo của Ba Mẹ tôi mỗi khi nghe tin qua đài phát thanh cho biết có đụng trận ở những nơi các anh tôi trú đóng. Nhất là Ba tôi. Bao giờ Người cũng tỏ ra cứng rắn với tinh thần chịu đựng và chấp nhận. Thế nhưng, giữa những đêm thâu tôi tình cờ bắt gặp Người ngồi hút thuốc ngoài hiên, mắt nhìn mông lung về hướng trời xa với những tiếng thở dài đầy ấp âu lo, với bao nỗi băn khoăn, trăn trở.

- Ba! Ba có nghe con nói gì không Ba?
- À, Ba... Ba... Ba cũng không biết nữa tôi ngập ngừng trả lời, trong khi đầu óc như tê điếng trong nỗi muộn phiền.
- Chỉ có một trong hai chọn lựa; hoặc gia đình tự lo hay là Quân Đội họ lo hết!
- Ba không biết Mẹ con muốn sao, theo Ba thì Ba muốn...

Trong đầu óc tôi chớp nhoáng những ý nghĩ đen tối... nếu nhỡ con mình... một ngày nào đó... ôi kinh khủng quá... làm sao đây? Làm sao đây? Mình phải tự lo cho con mình chứ, mình phải được nhìn thấy nó... lần cuối cùng chứ!
- Ba nghĩ thôi hay là để gia đình lo!?
- Ba quyết định vậy hở Ba?
- Ba thật sự không biết nữa con à! Con có thể chờ hỏi ý kiến Mẹ được không? - Tôi nghẹn ngào như đang muốn khóc!
- Ba chờ con một chút để con hỏi Sergeant của con có thể có quyết định sau được không nha Ba?
- Ừ con hỏi thử và Ba gọi Mẹ con hỏi ý kiến, rồi lát nữa Ba gọi lại cho con?
- Dạ Ba!

Tôi cúp máy mà lòng vẫn bâng khuâng! Tôi gọi nhà tôi ở sở làm, thuật lại cuộc điện đàm giữa hai cha con. Nhà tôi nói ngay rằng đâu có gì để phải suy nghĩ, nếu con có hy sinh trong công vụ thỉ hãy để quân đội họ lo chứ mình biết gì mà lo! Tôi muốn chia sẻ với nhà tôi những băn khoăn, những xúc cảm mà tôi đang có, nhưng lại thôi vì tôi phải cố gắng hành xử vai trò trụ cột gia đình. Bỗng nhiên tôi có sự so sánh "cách sống, cách suy nghĩ" giữa Ba Mẹ tôi và vợ chồng tôi... tính tình nhà tôi chẳng khác mấy với Mẹ tôi, có nghĩa là cả hai đều cứng rắn hơn chồng! Tôi lại thở ra chấp nhận, có lẽ ông trời sắp đặt để người này hổ tương người kia trong cuộc sống chung! Tôi gọi lại cho thằng lính với quyết định là để cho quân đội lo, và hỏi nó bao giờ nó lên đường.
- Con không nói cho gia đình biết được vì sự bảo mật của quân đội!
- Vậy làm sao Ba Mẹ và các em biết lúc nào lên thăm và tiễn chân con?
- Ba Mẹ với các em đâu cần phải đi vất vả vì con cũng mới về thăm nhà hơn nửa tháng trước!
- Nhưng... các em muốn thăm con trước khi con lên đường vì con đi cả năm dài mới về kia mà!
- Nếu vậy, theo con nghĩ, Ba Mẹ và các em nên đi Colorado khoảng cuối tháng Chín. Con không thể nói gì hơn được!
- Whoa! Như vậy chỉ còn có hai tuần lễ nữa! Nhưng cũng được, Ba quyết định là gia đình sẽ lên thăm con mấy ngày vào tuần lễ cuối tháng Chín. Con sắp xếp trước để có thì giờ chơi với Ba Mẹ và các em mấy hôm.
- Dạ, con chắc là con có thể xin phép được! và chiều nay con sẽ email hướng dẫn để Ba Mẹ biết đường tới căn cứ của con.

*

Mùa thu Colorado tuyệt đẹp! Xa lộ xuyên bang 25 Bắc Nam ngoằn ngoèo, nối liền thành phố Denver với căn cứ Lục Quân Fort Carson ở Colorado Spring. Hơn 100 dặm đường với những núi đồi chập chùng. Có nhiều khu đồi hoặc sườn núi toàn lá vàng! Mùa thu hiển hiện trong buổi sáng ngập đầy hơi lạnh, bầu trời xanh ngắt với vài dải mây trắng lượn lờ trong ánh nắng vàng mong manh như lụa mỏng. Trên đầu những ngọn núi cao đã có tuyết trắng lốm đốm. Trong đầu tôi chợt nhuốm lên một sự so sánh giữa cái oi nồng nóng bức của xứ Houston và hơi lạnh mùa Thu nơi này; giữa cái phẳng lì, thẳng tắp của đất đai Texas và những đồi núi thơ mộng đang trải dài trong tầm mắt tham lam của tôi. Có lẽ với tâm hồn lãng mạn, với đầu óc mộng mơ tôi thích hợp hơn với cảnh trí nơi đây, ngoại trừ mùa băng tuyết.
Tôi đã từng sống một thời gian ngắn ở Tulsa, Oklahoma; ở Nashville, Tennesse... tuyết giá đã khiến tôi chạy thục mạng về miền nắng ấm California như chạy theo tiếng gọi vô hình nào đó để rồi tôi gặp nhà tôi. Rồi dòng đời đưa đẩy, rồi đời sống áo cơm đã khiến cho gia đình chúng tôi trở thành dân cao bồi Houston, Texas hơn một phần mười thế kỷ nay! Vâng, phải dùng chữ "thế kỷ" mới lột tả được hết những nỗi thăng trầm của một quãng đời người!
- Ba có cần xem lại bản đồ không Ba, sao chạy xa quá vậy? con gái tôi hỏi.
- Theo bản chỉ dẫn của anh con thì khoảng nửa tiếng nữa sẽ tới căn cứ.

Mặc dù thằng con mới về thăm nhưng cả gia đình ai cũng rất nôn nao để gặp lại nó! Nhất là hai đứa nhỏ - anh em chúng nó rất gắn bó với nhau từ thuở ấu thơ cho đến bây giờ. Một đứa bị la rầy thì hai đứa kia tìm cách bênh vực. Giống như tất cả các anh chị em của mỗi gia đình riêng của chúng tôi, ai cũng sẵn lòng hy sinh cho người khác. Có lẽ nhờ cái gia phong đó nên con cái cũng sống trong nề nếp.

*

Xe dừng ở trạm gác trước cổng vào căn cứ để nhân viên quân cảnh kiểm soát những xe cộ ra vào. Họ yêu cầu tất cả mọi người rời khỏi xe và mở tung tất cả cửa xe, từ đầu máy cho tới những nơi chất chứa đồ đạt, giấy tờ.
Sau 15 phút khám xét, họ để chúng tôi đi tự do sau lời chỉ dẫn đến nơi thằng con trú đóng. Sau khi quanh quẹo hơn 10 phút lái xe, chúng tôi dừng lại trước một trong những dãy chung cư 4 tầng. Thằng con và các bạn, cả nam lẫn nữ, đã chào đón chúng tôi tại bãi đậu xe.

Vừa mở cửa xe, hai đứa nhỏ đã phóng tới ôm chầm lấy anh chúng nó cứ như đã không gặp nhau đến cả năm dài! Tôi chạnh lòng nghĩ tới những ngày tháng sắp tới... một năm dài nó sẽ ở vùng hỏa tuyến với biết bao nhiêu hiểm nguy chờ đợi, bao nhiêu sương gió dạn dày! Tôi chợt bùi ngùi nhớ nghĩ đến chiến trường xưa, nhớ bạn bè kẻ còn người mất, nhớ thương những anh hùng vô danh và gia đình của họ trong cuộc chiến cốt nhục tương tàn, để cuối cùng sẩy đàn tan nghé, hàng triệu người phải đau lòng bỏ nước xa quê, sống đời lưu lạc! Tôi cũng xót thương cho mấy chục ngàn lính Mỹ đã nằm xuống trên một quê hương, mà với họ hoàn toàn xa lạ, không có hận thù. Tôi xúc động đến trào nước mắt nên vội quay đi như đang quan sát chung quanh doanh trại cho lòng lắng xuống.

Thấy có vài nữ quân nhân rất trẻ, dáng dấp Á đông, tôi hỏi và thằng con cho biết họ là công dân Mỹ gốc Đại Hàn và Trung Hoa, ở cùng building với nam quân nhân, chỉ khác tầng lầu. Họ cũng sẽ đi Iraq chuyến này. Tôi tự hỏi không biết nam nữ có thể "chung sống hòa bình" ra sao? Nhớ xưa kia trong căn cứ Tân Sơn Nhất cũng có nữ quân nhân nhưng họ được ở một khu riêng biệt, vậy mà cũng có lắm câu chuyện tình lâm ly bi đát! Tôi buột miệng hỏi thằng con:
- Ở chung nam nữ không sợ "rắc rối" sao con?
- Đâu có sao Ba, kỷ luật nghiêm ngặt lắm!
- Yeah right! tôi tỏ vẻ nghi ngờ.
- Con nói thiệt mà!
- Ừ thì Ba... tin con!

Bạn bè thằng con đã tản mác sau lời mời buổi cơm tối với gia đình chúng tôi. Theo đề nghị của thằng con, chúng tôi phải chờ đợi tại chỗ vì không được vào trong cư xá dù chỉ để giúp nó xếp đồ đạc cá nhân, không cần dùng đến, gửi chúng tôi mang về giữ ở nhà. Sau hơn nửa tiếng đồng hồ, thằng con khệ nệ mang xuống hai vali đầy ắp, và chúng tôi trực chỉ nơi tạm trú. Nơi tạm trú của chúng tôi trong những ngày ở Colorado Spring là ngôi nhà của đứa cháu gái con của một người bạn thân thiết.

*

- Phát à, đơn vị của PQ sắp chuyển quân sang Iraq đầu tháng tới, gia đình tao sẽ đi Colorado thăm nó trước khi nó lên đường, nhân tiện mầy cho tao số điện thoại của bé Thảo để tụi tao gọi thăm cháu!
- PQ đi bao lâu vậy?
- Một năm!
- Ừ thì cũng như thằng Hưng, chồng con Thảo, cũng đi cả năm đó mà! Don’t worry my man, the situation is not as bad as the media sound like (đừng lo mầy ơi, tình hình không tồi tệ như tụi báo chí truyền thông loan tải đâu)!
- Tao biết rồi! Chiến tranh Việt Nam xưa kia cũng thế! Mình thua là do đám giặc ôn này, thua do lũ chính trị ngồi nhà mát ăn bát vàng, nhất là tụi Đảng Dân Chủ gà mái!
- Mầy nhắn với PQ là tao gửi lời chúc nó lên đường bình yên!
- Tao sẽ nói lại!
- Ừ, gia đình mầy lên đó ở nhà con Thảo cho tiện. Nhà nó cũng gần căn cứ, rộng thênh thang, không có ai khác hơn ngoài nó. Nghe con Thảo nói PQ thỉnh thoảng vẫn đến nhà dùng cơm với chị nó.
- OK, để tao nói chuyện với con bé!

Gọi là con bé nhưng thực ra Thanh Thảo đã có số tuổi của một đời tỵ nạn. Cuối tháng tư bảy lăm, con bé một tuổi với hai bím tóc dài, đôi má phính và đôi mắt tròn đen, kinh mang khóc sướt mướt, bám chặt mẹ nó chạy xấc bấc xang bang theo ba rời khỏi cư xá sĩ quan giữa tiếng bom nổ đạn bay từ phía giặc thù! Con bé bây giờ đã là một Tiến sĩ giỏi dang, là vợ của một Trung úy bộ binh, đang mong ngóng nhớ thương chồng từ chiến trường Iraq xa xăm, nơi mà bạn và thù rất khó phân biệt! Thấy hoàn cảnh Thảo tôi càng thương kính những người vợ lính ngày xưa vì ít ra Thảo còn có nhà cửa tươm tất, có công ăn việc làm đàng hoàng và đang sống trong một đất nước giàu mạnh, tự do, an ninh!

Ba của Thanh Thảo với tôi là đôi bạn thân từ những ngày đầu bước chân vào quân ngũ. Chúng tôi cùng vào lính một lượt, cùng quân trường, cùng học sinh ngữ, cùng trường bay, cùng phi đoàn, cùng sở thích đánh bóng chuyền. Khi nó cưới vợ thì tôi làm phù rễ... rồi cùng nhau chạy, cùng trại tỵ nạn, cùng người bảo trợ, cùng có công việc làm đầu tiên trên đất nước này đi làm thợ vịn bán thời gian cho một anh chàng sửa chữa nhà cửa gặp ở nhà thờ ngày Chủ Nhật đầu tiên ra khỏi trại tỵ nạn - rồi cùng một thời làm nông dân trên nông trại Mỹ nắng cháy da! Chỉ có khác là Phát đã có gia đình còn tôi vẫn lông bông đi đây đi đó một quãng thời gian khá dài! Đã bao lần hợp tan tan hợp, cuối cùng bây giờ lại ở gần nhau! Tôi không biết nó thương tôi bao nhiêu nhưng tôi thương nó như anh em ruột thịt! Tôi thương con bé Thảo vô vàn tại vì nó là hiện thân của bao nỗi thăng trầm trong cuộc sống ly hương của chúng tôi. Mỗi lần nhìn Thảo là đầu óc tôi như cái máy chiếu phim cũ chạy rè rè chiếu lại nhiều khúc phim đầy rẫy những kỷ niệm cùng những nỗi vui buồn của
một thời!

Trước ngày đi Colorado tôi đã gọi điện thoại cho Thanh Thảo và được biết Thảo sẽ về lại Houston dự đám cưới của một người bạn thân trong dịp chúng tôi có mặt ở Colorado Spring; tuy nhiên, Thảo vẫn một mực yêu cầu chúng tôi nên ở nhà của Thảo vì nhà rất rộng, đầy đủ tiện nghi, gần căn cứ rất thích hợp cho không khí sinh hoạt của gia đình, lại không phải tốn kém!
- Bác ở nhà con cũng giúp được cho con một việc quan trọng!
- Việc gì con?
- Bác nhớ giúp mở nước cho sân cỏ mới trồng chung quanh nhà và tưới nước giùm con mấy chậu hoa mới mua!

*

Từ căn cứ chạy về nhà của Thanh Thảo có đến nửa tiếng đồng hồ vậy mà nó nói "gần"! Quãng đường dài hơn mười dặm, từ Xa lộ xuyên bang 25 về phía đông, có nhiều chỉ dấu phát triển mạnh với những building nhiều tầng, những khu shopping to lớn đang được xây cất, nhất là ở những ngả tư đường chính; nhiều khu nhà mới thành hình, rải rác khắp nơi chen lẫn giữa những cánh đồng thênh thang hai bên đường.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đã tới nhà Thanh Thảo, một căn nhà rất khang trang còn thơm mùi sơn mới trong một khu subdivision tân lập. Vừa vào trong nhà đã thấy một cái "note" viết tay để trên quày nhà bếp:

"Kính hai bác, con rất tiếc là con không thể ở lại để đón tiếp hai bác và các em vì đám cưới của một người bạn thân không thể không đi được! Con mong hai bác và các em có được những ngày vui vẻ ở đây. Hai bác coi nhà này như nhà của hai bác. Con vừa mới mua mấy bộ khăn tắm và vật dụng cần thiết để hai bác và các em sử dụng; đồ ăn trong tủ lạnh, trong nhà bếp là con mua để hai bác và các em dùng. Beer trong tủ lạnh con cũng cố ý mua cho bác trai, không mua thuốc lá vì không muốn khuyến khích bác hút thuốc có hại cho sức khỏe". Cỏ và hoa chung quanh nhà con đã nhờ ông hàng xóm tưới, nếu bác trai sợ bị thất nghiệp thì bác cần thảo luận với ông ấy (vẽ cái mặt cười với một con mắt nheo)! Con chỉ nhờ bác chăm sóc mấy chậu hoa trong nhà. Chúc hai bác và các em luôn vui vẻ.

Con Thảo

Đọc xong cái note, chúng tôi rất lấy làm cảm động về sự chu đáo của cháu, thấy càng thương mến con bé vô vàn! Nhà cửa rất gọn gang, ngăn nắp. Cách trưng bày tuy đơn giản nhưng rất nghệ thuật. Tôi ngỏ ý khen thì PQ nói là nó có góp phần ý kiến.

Sau những thảo luận về buổi cơm chiều với các con, chúng tôi quyết định ở nhà để các cháu có những giờ phút thoải mái và tự nhiên với nhau hơn. Xong buổi cơm tối, chúng nó kéo hết về nhà rất đông có tới bốn nữ quân nhân trong bọn - và bày ra những trò chơi tập thể và uống bia xả láng. Cái hoạt cảnh này nhắc tôi nhớ tới bạn bè của một thời quân ngũ năm xưa! Mãi đến khuya cả bọn mới tan hàng và hẹn gặp nhau sớm sáng hôm sau. Một số đông ra về chỉ còn vài đứa ngủ lại, nằm rải rác quanh phòng khách.

Buổi sáng tôi thúc giục các cháu dậy sớm để chuẩn bị cho những dự định hôm nay. Khi xong buổi ăn sáng, PQ và bạn bè liên tục thảo luận với nhau qua điện thoại cầm tay về những sinh hoạt hôm nay, trong khi tôi ra ngoài mở nước tưới cây cỏ. Ông hàng xóm đến bên tôi nói chuyện, hỏi tôi có phải là uncle của chủ nhà hay không. Ông nói là ông qua dự định tưới cỏ giùm nhưng thấy tôi đã làm. Ông là một trung niên da trắng, nói chuyện rất thân mật, và luôn miệng khen ngợi Thảo làm tôi cũng thấy hãnh diện trong lòng.

Sau khi tôi vào nhà ăn sáng cùng gia đình một lúc khá lâu thì một số bạn bè của PQ cũng lục tục kéo tới, số khác thì hẹn ở đầu đường xa lộ 25. Lúc mọi người lên xe, tôi nhìn đồng hồ thấy gần 12g trưa!!! Chúng tôi dành mọi ưu tiên cho PQ để mong nó, bạn bè, và các em có cơ hội vui chơi với nhau trong khoảng thời gian ở đây, nên không có bất cứ một ý kiến nào dù nó vẫn muốn chúng tôi ngỏ ý. Cuối cùng thì chúng nó quyết định đi Denver chơi ở Six Flagg Park.

Bốn chiếc xe chật ních người nối đuôi nhau chạy suốt quãng đường gần một trăm dặm! Đến nơi thì đã gần hai giờ chiều! Tôi đề nghị với nhà tôi là thả chúng nó xuống đi chơi với nhau còn mình đi thăm phố xá, khi nào xong chúng nó gọi cho mình quay lại đón. Tôi điện thoại cho Nguyễn Mai, Nguyễn Minh Hoàng, Đoàn Sáu... những thằng bạn một thời sinh tử với nhau lâu ngày chưa gặp lại, nhưng rất tiếc người thì đi làm xa, người thì chỉ có thể để lại lời nhắn.

Phố xá Denver cũng như bất cứ phố xá nào của các thành phố lớn nước Mỹ! Có nghĩa là rất tấp nập xe cộ, hàng quán trong những ngày cuối tuần. Nắng vàng như lụa mỏng, vài cơn gió nhẹ làm lá vàng rơi lả tả trong nắng từ hai hàng cây bên đường, đẹp như bức tranh vẽ. Thời tiết quá tuyệt vời cho nên người đi bộ chen chúc nhau trên khắp nẻo đường phố. Đặc biệt con đường 16 thẳng tắp, xe điện chạy hai bên, ở giữa như khu công viên, đầy bóng mát từ những hàng cây cao và các dinh thự chung quanh. Người ta đặt nhiều loại kiosks bày bán những hàng mỹ nghệ và trang sức như ở dưới phố Las Vegas. Cũng có ban nhạc lưu động đàn hát rất vui, lôi kéo một số khán giả mộ điệu như đường phố San Francisco hay Khu French Quarter ở New Orleans. Người đi bộ, thỉnh thoảng bỏ vào hộp đựng tiền những đồng bạc biết ơn!

Chúng tôi đi dọc mấy block đường, chen lấn cho vui và xem tranh vẽ. Cuối cùng chúng tôi cũng vào ngồi một quán café rộng lớn bên đường, đông nghẹt khách để gọi café và ngồi thư giãn, ngắm ông đi qua bà đi lại! Trong lòng tôi rất thanh thản, rất bình yên! Giá cuộc sống mãi được thế này, con người ta sẽ dễ quên đi thời gian và những bon chen khắc nghiệt của đời sống thì tốt biết mấy!

Chúng tôi về lại nhà gần 9g tối. PQ xin cho các em đi chơi với bạn bè, còn chúng tôi lại ở nhà coi phim truyền hình. Thực ra chúng tôi rất muốn cùng chung vui với các con trong tất cả các sinh hoạt của chúng, nhất là chúng tôi sắp phải xa PQ cả năm dài đăng đẳng một ý nghĩ đen tối lâu lâu cứ xâm chiếm tâm hồn tôi làm cho tôi lắm khi bàng hoàng - nhưng nghĩ rằng lũ chúng nó chơi đùa với nhau vẫn thích hơn, thoải mái hơn khi không có sự hiện diện của ba mẹ!
Lũ trẻ đi mãi hơn 1g sáng mới về, thấy chúng tôi vẫn thức đợi, chúng xin lỗi và đi ngủ. Tôi trằn trọc không ngủ được mặc dù thường ngày tôi rất dễ ngủ. Cứ nghĩ tới ngày mai sẽ xa con trong một thời gian dài, nghĩ tới những rủi may trong trận chiến với súng đạn vô tình ở một đất nước hoàn toàn xa lạ mà thương xót cho con vô vàn.

Tôi chợp mắt được một lúc thì trời đã sáng. Thấy các con vẫn còn ngủ, tôi ra sân mở nước tưới cỏ. Lòng vẫn buồn vời vợi! Tôi lại nghĩ thương ba mẹ tôi đến xót xa khi phải lo lắng, mong ngóng ba đứa con trai ở ba chiến trường khắc nghiệt! Tôi nhớ lại Ba tôi như lịm đi không nói một lời cả ngày dài khi được tin anh cả tôi đã hy sinh đền nợ nước! Tôi bỗng rùng mình thảng thốt, nước mắt đoanh tròng! Không biết tôi thương nhớ Ba tôi hay tôi thương mông lung cho chính tôi!

*

Có trì hoãn gì thì giờ chia tay với thằng lính cũng đã tới! PQ nhờ bạn tới đưa nó theo tiễn chân chúng tôi tới phi trường, nhưng tôi nghĩ ra tới phi trường tôi còn phải trả lại xe thuê, rồi phải vội vã vào cổng cho kịp giờ lên máy bay... như vậy việc tiễn đưa của nó chẳng được việc gì mà đường xá khá xa xăm, trong khi đó nó lại phải làm phiền người khác lái xe riêng chạy theo! Tôi phân tích sự việc nên nó cũng buồn lòng lưu luyến chia tay với gia đình!

Nắng vẫn vàng và mỏng như lụa đậu trên những khóm cây làm rực rỡ mùa thu hai bên sườn đồi! Trong xe im phăng phắc, mỗi người như đang bận theo đuổi những ý nghĩ riêng tư. Tôi nhìn hai chị em ngồi đằng sau qua kính chiếu hậu, thấy dường như chúng đang rưng rưng nước mắt! Nhà tôi im lặng không nói gì nhưng tôi cũng chủ quan nghĩ rằng nàng cứng rắn hơn lòng tôi đang mềm nhũn! Con đường hơn 100 dặm dài mà chúng tôi đã từng chạy lên chạy xuống mấy lần, không nói ai cũng có thể hiểu tại sao nó có vẻ dài hơn mong đợi!

Những người lính Mỹ đã rời chiến trường Việt Nam trong đau thương và tủi nhục hơn ba thập niên trước; tôi cầu mong con trai tôi và hàng trăm ngàn quân nhân Mỹ đang ngày đêm cận kề sinh tử tử sinh sẽ không bị bán đứng bởi lũ chính trị gia ngồi ở văn phòng, hoặc do sự vô trách nhiệm của đám truyền thông báo chí. Tôi cầu mong họ trở về nước từ chiến trường Iraq trong huy hoàng của một chiến thắng rực rỡ và trong niềm hãnh diện và hoan lạc của toàn dân.

thanphongkingwood
01-01-2013, 10:41 PM
Thằng Lính" Trở Về


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1357185487.jpg

Khu Welcome Center là một doanh trại đặc biệt, nằm giữa lòng đại bản doanh của căn cứ bộ binh Fort Carson, thành phố Colorado Spring, dành làm nơi tiễn đưa binh lính lên đường đi các chiến trường xa cũng như chào đón họ trở về sau khi hoàn tất một “tour” nhiệm vụ. Hai bên đường, từ khu khách sạn dẫn đến trung tâm, phủ đầy tuyết trắng xóa - Khu khách sạn gồm rất nhiều building giống hệt như những khu doanh trại của lính, tụ lại một nơi được quân đội tổ chức và quản lý nhưng không khác gì những khách sạn bề thế nổi tiếng của tư nhân bên ngoài. Chỉ khác biệt là họ không tính thuế và giá cả rất thấp cho những phòng ốc sang trọng và đầy đủ tiện nghi. Khu khách sạn dành riêng cho thân nhân và gia đình tạm trú trong thời gian thăm viếng - Những khóm cây trụi lá trơ cành trông rất thơ, rất mộng đứng thi gan trong cái lạnh tái tê của mùa đông Colorado! Từ tối qua đến nay tuyết ngưng rơi làm lũ nhỏ có vẻ thất vọng! Dù vậy, chúng nó cũng xin hắn dừng xe lại để được chạy nhảy một lúc trong những mặt phẳng phủ đầy tuyết trắng xóa. Dân Houston, dân Vùng Bay Area có khác, lúc nào cũng trông mong được nhìn ngắm và được đi trong tuyết rơi.

Không biết những gia đình khác đã đến “trung tâm chào đón” từ lúc nào, nhưng khi gia đình hắn tới nơi lúc 12:30 trưa đã thấy chật ních những người và người ở một bên khán đài, nơi dành riêng cho gia đình và thân nhân ngồi chờ đón. Căn phòng đợi rộng lớn như cầu trường của một đội bóng rỗ chuyên nghiệp đầy những tiếng nói cười và âm nhạc ồn ào như một trung tâm mua bán trong mùa lễ tết. Sự sốt ruột đã làm tiếng ồn ào tăng lên theo từng tiếng đồng hồ trôi qua! Giờ G là giờ để người thân trong gia đình được mừng đón người thân yêu của họ trở về, đựơcôm chặc trong vòng tay đứa con, hoặc chồng, vợ, cha, mẹ, hoặc anh, chị, em bằng xương bằng thịt sau hơn 500 ngày họ miệt mài trong tử sinh trên chiến trường Iraq. Giờ G là 1 giờ trưa, rồi 2 giờ, rồi 3 giờ… và bây giờ đã là 6 giờ chiều! Ban tổ chức liên tục trấn an mọi người là những người thân yêu của họ đã có mặt trên đất Hoa Kỳ, nhưng họ không hề nói đang ở đâu và tại sao. Có lẽ ai cũng đã quen thuộc với ngôn từ “bí mật quân sự” nên chỉ sốt ruột chờ đợi. Cứ mỗi lần người trong ban tổ chức lên máy vi âm thì tất cả mọi tiếng ồn ào im phăng phắc, hàng ngàn cặp mắt hướng về người phát ngôn với trái tim hân hoan để rồi thất vọng và sốt ruột tiếp tục đợi chờ.

Hắn suy nghĩ mông lung, hồi hộp một cách kỳ lạ, niềm lo âu vô hình cứ lẩn quất trong lòng. Hắn nghĩ tâm hồn hắn sẽ thật sự bình yên khi ôm được “thằng lính” bằng xương bằng thịt trong vòng tay siết chặc của mình. Hắn không biết đã uống hết bao nhiêu ly cà phê mà cả người thấy nhộn nhạo; giá có một cốc rượu mạnh mới có thể có được sự kiên nhẫn đợi chờ. Hắn lướt mắt khắp gian phòng cùng chia sẻ với những gương mặt âu lo, những ánh mắt đoài đoạn vì nhớ mong của những người vợ trẻ, của những cha mẹ anh chị em, và thương ơi là thương những trẻ thơ vẫn vô tư nô đùa chạy nhảy. Mấy tuần lễ trước hắn có một giấc mơ khủng khiếp làm bàng hoàng khi thức dậy mà không dám hở môi chia sẻ với bất cứ một ai! Sự lo âu càng lúc càng tăng theo tỷ lệ nghịch với ngày N “thằng lính” trở về. Hắn cứ suy nghĩ vẩn vơ về những cái “huông” trong đời quân ngủ hắn đã từng nghe thấy, từng chứng kiến. Cứ năm ba ngày không liên lạc được với “thằng lính”, cứ mỗi lần nghe tin tức bom tự sát nổ chỗ này, chỗ kia và quân nhân tử nạn trên chiến trường Iraq là hắn quýnh quíu! Trong tình trạng đó đã hình thành một ác mộng! Trong mơ, hắn đã như người điên loạn chạy nhảy qua những khu rừng tăm tối, rồi bay chơi vơi trong một khoảng không gian xám đục, rồi rơi xuống nhiều tầng địa ngục... sau khi nhận lá cờ Hoa Kỳ xếp gọn hình tam giác từ tay hai người lính Mỹ trong quân phục đại lễ kính cẩn trao cho hắn với câu nói gọn lỏn “we’re so sorry” (chúng tôi rất lấy làm ân hận) rồi lặng lẽ quay gót!

Bỗng thời gian như ngưng lại, không gian như đặc quánh làm cho căn phòng càng rộng thênh thang, hàng ngàn con tim như ngừng đập và hàng ngàn cặp mắt đổ dồn vào phía cổng sau, nơi mà vị sĩ quan điều khiển “Chương Trình Chào Đón” cho biết là những đứa con yêu của đất nước này sắp xuất hiện trước những tấm lòng trời biển và niềm kiêu hãnh của hàng ngàn thân nhân đang ngóng đợi. Nếu không có hàng trăm chiếc xe đủ cỡ, đủ loại đậu trước sân của khu “Welcome Center”; nếu không vào bên trong building, người ta sẽ không thể biết là trong lòng building này đang chứa đựng mấy ngàn người già trẻ lớn bé! Hắn có cảm tưởng người ta sẽ giật mình nếu ai đó làm rơi chiếc kim may trong giây phút này.
Hàng ngàn tiếng hò reo không hẹn cùng cất lên òa vỡ khi ba cánh cửa lớn vừa được mở rộng cùng một lúc, bóng dáng của ba người lính dẫn đầu trong bộ đồ trận rằn ri màu cát sa mạc uy dũng bước vào! Người hắn tê điếng, hai mắt mở to hết cỡ dán chặc lên từng bóng dáng người lính xuất hiện. Bỗng chốc, mắt hắn như có màn sương mỏng làm nhạt nhòa hình ảnh của “thằng lính” cao nhòng vừa bước qua ngưỡng cửa. “Thằng lính” người Việt Nam mà cao trội hơn ai hết trong hàng quân của một tiểu đoàn lính Mỹ. “Thằng lính” là người thứ ba, ở hàng đầu, nón bê-rê phủ sụp như đang ngó xuống những bước chân đều của hàng quân duyệt qua khán đài danh dự. Hắn dõi theo từng bước đi của “thằng lính” cho tới lúc vị sĩ quan điều khiển đoàn quân ra lệnh cho những bước quân hành dừng lại và quay phải hướng lên khán đài, nơi hàng ngàn thân nhân đang hò reo vỡ lỡ! Nón bê rê của “thằng lính” vẫn phủ sụp che tầm mắt! Hắn lướt nhanh một dọc qua hàng quân, để ý dường như không có cặp mắt lính nào ngó lên khán đài trước mặt họ, nơi mà những ánh mắt thiết tha đang vui mừng chờ đợi họ. Dường như ai cũng cố gắng kềm hãm nỗi vui sướng, nỗi xúc động trong lòng!

Sau khi cử hành nghi lễ chào quốc kỳ một cách trang trọng và bài hát “lục quân hành khúc” chấm dứt, Thiếu Tướng chỉ huy trưởng của căn cứ ngỏ lời chào mừng quan khách và đoàn quân trở về bằng một bài nói ngắn gọn, đại lược như: “Kính thưa toàn thể quý vị, chúng tôi rất lấy làm tiếc về sự chậm trễ của buổi lễ vì thời tiết quá xấu trên hành trình trở về của đoàn quân. Hân hoan chào mừng quý thân nhân có mặt trong buổi lễ hôm nay. Cám ơn sự kiên nhẫn và thông cảm của quý vị”. Hân hoan chào mừng các bạn đã bình yên trở về; các bạn đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ rất cam go được giao phó, các bạn là niềm hãnh diện của đất nước và nhân dân Hoa Kỳ. Chúng tôi thành tâm cám ơn sự hy sinh cao cả của các bạn và gia đình, đặc biệt các gia đình và các quân nhân bị thương vong trên chiến trường Iraq. Chúng tôi cũng kính cẩn nghiêng mình trước những vong linh của hơn ba ngàn binh sĩ đã nằm xuống trong cuộc chiến! Quân đội và nhân dân Hoa Kỳ quyết không để sự hy sinh cao cả đó bị phí phạm. Với tất cả những nổ lực và quyết tâm không ngừng nghỉ của quân đội và chính phủ Hoa Kỳ, chúng ta có quyền hy vọng sự ổn định và sự tự do no ấm của nhân dân Iraq sẽ được tái tạo trong một ngày không xa. Việc làm của chúng ta ngoài mục đích nêu trên còn là việc cần làm để bảo vệ an ninh cho đất nước và nhân dân Hoa Kỳ nữa. Chúng ta không muốn có một 9/11 khác xảy ra! Một lần nữa, chúng tôi xin hân hoan chào mừng các bạn đã trở về bình yên, cầu chúc các bạn và gia đình có những ngày sum họp trong hạnh phúc tuyệt vời!”

Sau những dặn dò cần thiết của các cấp chỉ huy, đám lính được lệnh tan hàng. Mọi người đổ xô nhau ùa ra sàn tìm người thân yêu của mình. Hai đứa em và cô bạn gái của “thằng lính” cũng lập tức biến mất! Hắn cố giữ vẻ điềm đạm để cùng vợ bước về hướng “thằng lính” đứng lúc nãy. Những đứa bạn lính của nó, hoặc còn ở lại căn cứ, hoặc đã về trước, ôm chằm nhau cả lũ, rồi hai đứa em, rồi cô bạn gái của nó thay phiên nhau ôm cứng như không muốn rời. Nhìn hoạt cảnh sum họp chung quanh với bao nhiêu tiếng cười, bao nhiêu dòng lệ ướt đẵm mắt môi, hắn liên tưởng tới đôi mắt đẵm lệ của Mẹ, những nghẹn ngào của Ba trong những lần hắn về phép năm xưa, niềm cảm xúc tuôn trào với bao nhớ thương và ân hận về những khiếm khuyết và chểnh mảng của hắn khi Ba hắn còn tại thế! Ba ơi! Con biết đã quá muộn màng để nói với Ba một lời xin lỗi. Vâng thưa Ba, lời Ba mượn câu cách ngôn để dạy dỗ con khi còn vừa tập tễnh vào đời,“nuôi con mới biết lòng Cha Mẹ”, phải đợi chừng này tuổi con mới thật sự hiểu ra! Hắn cố kềm giữ không để rơi nước mắt trước đám đông và kiên nhẫn đợi tới phiên mình sau khi mẹ nó mừng mừng tủi tủi buông ra. Ôi hạnh phúc biết bao khi hắn ôm được thằng con yêu quý trong vòng tay của mình. Lòng hắn thật sự bình an và sung sướng đến muốn bật khóc! Bây giờ thì hắn biết chắc “thằng lính” của hắn đã mạnh khỏe trở về và cơn ác mộng không còn là một nỗi ám ảnh khôn khuây trong lòng hắn nữa.

Sau một khoảng thời gian mừng mừng tủi tủi khá lâu, tiểu đoàn được lệnh tan hàng để theo các cấp chỉ huy về doanh trại làm thủ tục nhận cư xá trước khi được đi phép 48 giờ. “Thằng lính” chỉ đường đến khu cứ xá độc thân cho hắn chạy theo. Nó nói làm thủ tục nhận phòng rất nhanh vì mọi chuyện đã được xếp đặt trước. Khi đến nơi thì thấy “thằng lính” đang chuyển những dụng cụ cá nhân lên phòng. Hắn thấy chiếc ba lô kềnh càng của “thằng lính” vừa được “unload” từ một quân xa xuống cùng những vật dụng cá nhân của nó, hắn tính giúp mang lên phòng trên lầu hai, nhưng trời ơi nặng oằn cả lưng! Anh em “thằng lính” vội vàng khuyên ngăn để cho chúng nó mang lên. Thằng em cũng to con, cao lớn hơn Bố chứ có ốm yếu gì đâu, vậy mà nó vừa mang lên đã vội vàng để ngay xuống! “Thằng lính” cười rồi khoác lên lưng một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Nó nói là tất cả quân nhân đều phải mang như vậy trên lưng mỗi ngày ít nhất tám tiếng đồng hồ trở lên, chưa kể tới vũ khí đạn dược! Hắn nghe mà bái phục cho thể lực của một người lính Mỹ. Hắn tự hỏi với sức nặng đó làm sao có thể trèo đèo, băng rừng, vượt suối, xông trận nhanh chóng cho được?! Ôi! Lính Mỹ có khác! Bao giờ cũng được trang bị tối đa! Hắn chạnh lòng nghĩ tới thân phận của những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa, đi vào những nơi hung hiểm mà chỉ trang bị với nhiều thiếu thốn kiệm ước! Ôi sao thuơng mến lẫn cảm phục vô vàn!

Gia đình hắn đã ở lại Fort Carson chơi với “thằng lính” đến hết 48 giờ phép của nó. Suốt ngày chỉ loanh quanh sáng trưa chiều tối đi thăm các nhà hàng quán xá khác nhau, hoặc kéo nhau đi thăm những gia đình bạn lính của nó ở ngoài thị trấn, hoặc lũ nhỏ chơi với nhau những trò chơi điện tử “thằng lính” có sẵn hoặc mua về từ khu mua sắm trong căn cứ (Post Exchange). Những ngày còn lại trời cũng chẳng chìu lòng lũ nhỏ vì tuyết trắng chẳng rơi và nắng vàng vẫn rực rỡ mỗi ngày; ban đêm lại vô cùngrét buốt. 48 giờ phép cũng ra đi vội vàng, gia đình bịn rịn chia tay “thằng lính” với cái hẹn hai tuần sau “thằng lính” sẽ được nghỉ phép 4 tuần lễ.

Về đến nhà mấy hôm, “thằng lính” gọi hỏi ý kiến của hắn:
- Ba cho con ý kiến là con nên làm sao. Con phải trả lời ngay cho cấp trên củacon biết. Tháng 10 tới là kỳ hạn 5 năm của con, đúng ra là con sẽ hết “giao kèo”, từ giã vũ khí về đi học lại với em con, nhưng thời gian từ bây giờ đến tháng 10 nhiều hơn 6 tháng dưỡng quân, có thể con sẽ bị điều động trở lại Iraq hoặc đi chiến trường Afghanistan. Trong bộ binh, mỗi khi chuyển quân đi chiến trường xa, thường là phải ít nhất một năm mới trở về. Khi trở về là con mãn hạn! Tuy nhiên, Ba còn nhớ 3 năm “option” trong giao kèo của con không? Quân đội cho con một chọn lựa! Nếu con “tình nguyện exercise” thì tháng Sáu tới con có thể chọn đi phục vụ bất cứ ở đâu, nước nào trong “tour” kế tiếp; nếu đợi đến khi quân đội cần, “quân đội exercise” thì con sẽ mất quyền chọn lựa!

Đầu óc hắn quay cuồng chớp nhóang vì đâu có nhiều thì giờ suy nghĩ, trong thoáng chốc hắn đã có câu trả lời:
- Well, dường như con không có chọn lựa nào tốt hơn là “tình nguyện exercise”. Vì theo Ba hiểu rất có nhiều khả năng quân đội sẽ exercise để cover thời gian cho cái tour kế tiếp! Vì họ không thể cho con ra khỏi quân ngũ trước khi hoàn thành đợt chuyển quân, và họ không có lý do chính đáng giữ con lại trong quân đội nếu không exercise option triễn hạn. Hơn nữa, các cơ quan truyền thông đã và đang nói về sự khó khăn trong việc tuyển mộ tân binh của quân đội Mỹ; nghe nói Quân đội cho nhiều quyền lợi (incentives) cho những người tình nguyện sau này; chưa kể tới việc quân đội đã tốn kém khá nhiều để đào tạo một người lính chuyên ngành như con mà không nghĩ tới việc sử dụng tối đa tài nguyên của đất nước!
- Con cũng đã nghĩ như Ba nói!
Ngưng một chút, “thằng lính” nói tiếp:
- À ba! Nói về “incentive”. Quân đội hứa cho con một số tiền thưởng nếu con” tình nguyện exercise”. Con dự định cho các em một nửa, và đưa Ba Mẹ một nửa để sửa sang nhà cửa hoặc để Ba Mẹ chi dụng tùy nghi!
Hắn xúc động về tấm lòng hiếu để của “thằng lính”. Chỉ cần nó biết nghĩ như vậy cũng quá đủ:
- Con cứ để dành tiền chi dụng, Ba Mẹ không cần tiền trong lúc này, chỉ cầu mong cho con luôn được bình yên và mạnh khỏe, vui vẻ là Ba Mẹ sung sướng rồi! Con cho tiền em con cũng được, cho nó để dành cho việc học nếu một lúc nào đó Ba Mẹ không còn lo được nữa!
- Ba nói với con là Ba đã quyết định sống tới 100 tuổi rồi mới tính sau mà!
- Ha ha! Dĩ nhiên là vậy rồi! Ba muốn nói tới một lúc nào đó… Ba Mẹ cần tiền để đi du lịch thì sẽ phải nhờ các con lo cho em thôi!
- Ukie dukie Ba, Hahaha! Nghe vậy được hơn (It sounds about right) Ba!

***

Hai tuần sau “thằng lính” về nghỉ phép một tháng.
Đời sống bình thản mỗi ngày của gia đình lại bị đảo lộn chung quanh sinh hoạt của con, tất bật với những niềm vui mở ngõ, và rộn rịp bạn bè. Hắn để ý thấy “thằng lính” của hắn đã thật sự trưởng thành; tâm tính có nhiều thay đổi; uống rượu và hút thuốc lá liên miên; cử chỉ, nói năng có vẻ từ tốn hơn nhưng lại rất nhạy cảm. Có một tối hai bố con ngồi tâm sự với nhau rất khuya, sau khi bạn bè nó đã ra về; khi những chai bia cuối cùng được hai bố con chia đều thanh toán. Giọng nó chùng xuống bùi ngùi nói về vài người bạn chiến đấu đã vĩnh viễn không thể trở về! Những người này, trong vài trường hợp khác nhau, đã ngã gục trong tầm mắt đau đớn của nó mà không ai có thể làm gì hơn trong những hoàn cảnh quá bất ngờ như vậy! Nó nói những lúc như vậy nó thực sự không còn biết ai là ai, chính nghĩa, tà nghĩa gì hết ráo, nó ao ước được nổi điên lên, muốn gầm thét, muốn tiết hận vì lòng thương xót bạn bè... vậy mà đành ngồi chết lặng nhìn bạn mình gục chết bằng đôi mắt mở toang ứa máu! Nó cũng nhắc đến những người bạn khác đã bị thương tật trong những cuộc hành quân tảo thanh hoặc để bảo an dân chúng. Nó cảm thấy nó quá may mắn được trở về với nguyên vẹn hình hài dù tinh thần nó vô cùng sa sút... “Thằng lính” tỏ vẻ phiền muộn về chiến trường, nơi mà bạn và thù không rõ mặt; nơi mà giặc thù dùng tất cả những thủ đoạn dã man, hèn mạt kể cả việc sử dụng đàn bà con nít cho những tín điều ngu xuẩn; nơi mà mỗi người lính Mỹ luôn luôn ý thức rằng mình là những tấm bia di động từ những phút giây đầu tiên ra khỏi căn cứ!

Hắn chia sẻ với con những kinh nghiệm chiến trận bản thân, những đớn đau tương tự cho bạn bè hy sinh trong trận chiến, nhất là lần hắn đã phải nuốt lệ, vắt tim trút hết hỏa lực lên đầu của đơn vị anh mình khi căn cứ của anh bị giặc thù tràn ngập! Hắn vừa kể vừa thấy hiển hiện trước mắt qua màn lệ mỏng sự kiện đã gần 33 năm qua! Hắn cũng chia sẻ với con về những khó khăn tương tự cho những người lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam năm xưa. Hắn có nhắc tới vụ Mỹ Lai, nơi mà một đại đội lính Mỹ đã tàn sát cả một làng gần 400 nhân mạng, kể cả đàn bà con nít. “Thằng lính” nói rằng nó hiểu được cái động cơ của việc làm tàn ác đó, nhưng tàn sát từng đó người để trả thù là một hành động dã man, là những người lính vô kỷ luật, thiếu nhân tính, rất đáng trách phạt tối đa. Hắn công nhận điều nhận xét của “thằng lính” rất chí lý nhưng so với việc tàn sát hơn sáu ngàn thường dân vô tội ở Huế, trong dịp Tết Mậu Thân, của Việt Cộng, chưa kể những vụ giết người hàng loạt trong cùng thời điểm trên khắp miền nam Việt Nam, là cả một trời khác biệt! Một người lính Mỹ giết một người ngoại quốc trên chiến trường với tội danh không rõ đã là một hành động không thể tha thứ rồi, huống chi cùng đồng bào với nhau mà có thể lang sói đến độ thảm sát một tập thể khổng lồ như vậy chỉ để phục vụ cho những tham vọng điên cuồng của người Cộng Sản!
“Thằng lính” thật sự “shocked” khi biết chi tiết này. Nó bảo có loáng thoáng nghe qua nhưng không thể tưởng tượng cái độ dã man, tàn ác như vậy hiện hữu!
- Nếu có thì giờ con lên net truy tìm hồ sơ Mậu Thân Offensive, về chiến tranh Việt Nam của nhiều tác giả ngoại quốc thì con sẽ hiểu rõ tại sao hơn hai triệu người Việt phải đau lòng bỏ nước ra đi, tại sao chúng ta có mặt trên đất nước này. Ba vô cùng thông cảm tâm tư của con, những điều Ba nói cho con hôm nay là nói với một người trưởng thành, là một người có trách nhiệm và hiểu biết để con thấy rằng Ba và nhiều bạn bè, nhiều người Việt lưu vong đã và đang sống với những ẩn ức kinh mang như vậy suốt ba mươi mấy năm qua! Nhưng con ơi, đời sống vẫn phải tiếp tục đi tới vì trái đất vẫn quay và ngày mai mặt trời sẽ mọc, chúng ta không thể ngồi một chỗ để đau thương, để phẩn hận.
- Con cám ơn Ba đã cho con biết nên làm gì, nghĩ gì mà những người counselors con gặp qua không nói được!
Tự dưng hai bố con không hẹn mà cùng đưa tay đập đập lên vai nhau như an ủi, như thông cảm! Đêm lắng xuống thật sâu, thật yên tĩnh. Bố con “thằng lính” ôm chặc nhau để chia sẻ với nhau những đau thương mất mát trong đời…
Những ngày vui bao giờ cũng qua rất mau! Mới đó mà “thằng lính” đã tiêu xài hết bốn tuần phép một cách hào phóng. Trước ngày đi vài hôm, “thằng lính” được dì Châu, chị của mẹ nó, mời tham dự buổi tiệc mừng xuân của nhóm “Hi Neighbor” ở Kingwood Country Club. Nhóm hầu hết là các bà Mỹ trắng trung lưu trở lên, trong đó có vài người Á châu mà dì của nó là một hội viên năng động. Dì Châu được nhóm yêu cầu đứng ra tổ chức Tết theo truyền thống Á châu. Dì Châu muốn giới thiệu tập tục, văn hóa ngày Tết của người Việt nên đã mời nhóm sinh viên Việt Nam thuộc các trường Đại học Houston trình diễn những màn ca vũ nhạc và múa Lân rất đặc sắc. Các em sinh viên đã làm cả hội trường gần hai trăm người nhiệt liệt tán thưởng và tỏ lòng biết ơn bằng những bao lì xì màu đỏ thẵm và những tràng pháo tay không dứt. Khi phần trình diễn chấm dứt, dì Châu lên sân khấu cám ơn Nhóm đã cho cơ hội giới thiệu văn hóa và tập tục ngày Tết của ngươi Việt Nam. Sau cùng, Dì đặc biệt giới thiệu người khách danh dự trong buổi tiệc là một công dân của Kingwood và là một “hero” vừa trở về từ chiến trường Iraq sau 15 tháng phục vụ. Đặc biệt người khách danh dự này lại là “cháu của tôi”! Giọng của Dì xúc động và cả hội trường đồng loạt đứng lên vỗ tay chào mừng! “Thằng lính” bị bất ngờ nên có vẻ lúng túng, ngượng nghịu đứng lên, cúi đầu chào mọi người trong khi hắn cúi xuống xúc động tới ứa nước mắt!

Vài ngày sau khi “thằng lính” trở lại đơn vị, Mẹ của nó đã nhận một email ngắn gọn nhờ chuyển cho dì Châu để cám ơn dì Châu và nhờ dì chuyển đạt đến mọi người trong Nhóm:
“Con xin cám ơn dì Châu về tình thương yêu dì dành cho con, và cám ơn dì đã trang trọng giới thiệu con với Nhóm Hi Neighbor trong buổi tiệc Mừng Xuân ở Kingwood Country Club vừa qua. Con đã vô cùng ngạc nhiên để được giới thiệu và xúc động trước tấm chân tình của mọi người dành cho con hôm đó. Con nhờ dì chuyển lòng biết ơn của con đến mọi người. Chúng con, những người lính chiến, rất thường nghe sự tán dương và lời cám ơn của các cấp trên nhưng rất ít có dịp nghe từ những người mà chúng con thề phải bảo vệ (We, as soldiers, often hear praise and thanks from our superiors, but not often enough from those whom we’ve sworn to defend). Thành thực mà nói, nghe những tràng pháo tay nồng nhiệt và nhìn thấy những nụ cười thân thiện làm cho con thấy vô cùng hãnh diện để phục vụ đất nước tuyệt vời của chúng ta (made me extremely proud to serve our wonderful country). Một lần nữa con xin chân thành cảm tạ”

Hôm nay đã hơn nửa tháng Hai rồi, và “thằng lính” cũng đã cho biết sẽ có mặt ở nhiệm sở mới, miền Nam nước Đại Hàn, vào đầu tháng Sáu! Hắn buông viết, thở ra một hơi dài, mỉm cười đứng dậy ra ngoài sân đốt cho mình một điếu thuốc lá.

Hắn không còn hút nhiều thuốc lá như những năm xưa, chỉ lâu lâu mới cầm điếu thuốc trên tay để theo khói thuốc quay về khung trời xưa cũ tìm lại những kỷ niệm một đời người, để tưởng tiếc tuổi ấu thơ đã cất cánh bay xa! Bên ngoài hơi lạnh gây gây, trăng 18 đã nhô lên khỏi rừng thông, sáng rực rỡ soi rọi tấm lòng của một người cha với nhiều trăn trở. Hắn hút một hơi dài rồi thở khói thành vòng tròn quen thuộc nối đuôi nhau bay lên cao xa dần, xa dần… Hắn dõi mắt theo làn khói mỏng về phía trời xa, nơi mà “thằng lính” có lẽ đang ngon giấc, phiêu bồng trong giấc mộng mơ về một nơi chốn chưa từng đặt chân qua!Viết ở rừng Kingwood
Tháng Hai 2008

thanphongkingwood
01-10-2013, 07:40 PM
MỘT THOÁNG HƯƠNG XƯA
ngày 25.03.11

Ta ngồi chép lại pho tình cũ
Gọi trái tim đau nhỏ mực buồn
Yên Sơn

Thư hắn nhận được trong một buổi chiều tháng 12/77, sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hắn vô cùng sung sướng khi thoáng thấy phong bì có viền xanh đỏ chung quanh trên tay anh Khang, người bạn cho hắn thuê phòng, hắn biết chắc đó là thư đến từ Việt Nam. Hắn gần như giật lấy lá thư. Anh Khang nheo mắt cười nói với hắn: “Thư của bà bác nào đó mà làm gì dữ vậy?” Nhìn địa chỉ người gửi, thấy tên mẹ của Thu Dung, hắn càng hồi hộp hơn! Hắn nhủ thầm “Thu Dung ơi! Hơn một năm rồi không có tin tức nào của em”! Hắn không kịp thay quần áo, chưa cởi cả giày, hắn cẩn thận mở thư ra đọc…

Vừa đọc hàng chữ đầu: “Tuấn thương mến, Bác viết thư này báo tin cho con rõ là con gái của Bác, Thu Dung, đã lập gia đình rồi!”, mắt hắn đã như hoa lên, trước mặt tối sầm lại! Hắn vội vào phòng riêng đóng cửa, buông mình trên giường, căng mắt đọc lại từng dòng, từng chữ!

Sàigòn, ngày… tháng… năm…

Tuấn thương mến,
Bác viết thư này báo tin cho con rõ là con gái của Bác, Thu Dung, đã lập gia đình rồi. Dù lập gia đình với người không yêu mà chỉ là một ân nhân cứu mạng. Cậu ấy là một bác sĩ, thuộc chế độ cũ, làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy, đã cứu giúp Thu Dung sau một tai nạn xe cộ tưởng đã nguy hiểm đến tính mạng.

Bác biết gần một năm dài chắc cháu lo lắng lắm vì không thấy thư hồi âm của Thu Dung sau cái thư đầu tiên nó gửi cho cháu. Bác nghĩ là cháu phải lo lắng lắm, mong đợi ghê lắm! Bác đã rất vui mừng khi được tin cháu còn sống, nhưng vô cùng hoảng hốt khi biết Thu Dung liên lạc với cháu. Sau lần đó, Bác đã dặn ông phát thư, vốn là người quen biết trong xóm, chỉ đưa thư của cháu tận tay Bác, vì Bác sợ lọt vào tay chồng của nó sẽ làm tan vỡ gia đình. Bác đã nhận đầy đủ thư của cháu gửi về, dù địa chỉ đã thay đổi. Thu Dung cũng nhiều lần gặng hỏi Bác có nhận được thư từ gì của cháu gửi về không, Bác đành lòng nói dối nó! Bác xin lỗi đã đọc hết thư của cháu, những lời lẽ thống thiết, chân tình đối với Thu Dung làm Bác rất nhiều lần rơi nước mắt! Bác không dám đưa thư cháu gửi cho Thu Dung chỉ vì muốn bảo vệ hạnh phúc gia đình của nó. Bác cũng không biết ăn nói với cháu ra sao nên không trả lời.

Tuấn ơi! Cháu tha lỗi cho Bác vì đã nuôi hy vọng cho cháu cả năm nay. Cháu thông cảm cho sự khổ tâm của Bác, cháu nhé? Tuấn ơi! Ngoài bổn phận làm Mẹ muốn bảo vệ tương lai, hạnh phúc cho con, Bác cũng rất yêu mến cháu nên Bác nghĩ rằng thật là không công bằng cho cháu nếu cứ để cháu nuôi hy vọng mà lỡ làng cả tương lai, sự nghiệp của cháu. Thế nên Bác cũng không thể giữ yên lặng hoài, tội nghiệp cho cháu!

Viết đến đây lòng của Bác vô cùng thương cảm, không cầm nổi nước mắt! Cầu xin Chúa ban phước lành cho cháu và hai cậu em. Cháu cũng nên nghĩ đến tương lai, nên lập gia đình và cứ xem như Thu Dung đã chết! Vĩnh biệt cháu!

Bác Đoàn

**********

Hắn bàng hoàng, đau đớn đến nghẹt thở! Hết nằm, tới ngồi, đi đi lại lại quanh phòng, đọc tới đọc lui nhiều lần như muốn lật tung những dòng chữ khắc nghiệt để tìm kiếm những điều khả dĩ cho hắn niềm tin là bà Cụ đã viết cho hắn những điều không thật. Bức thư đã nhàu nát, suy tính đến quẩn trí mà có tìm thấy chút hy vọng nào đâu! Càng suy nghĩ càng thấy vô vọng vì hắn biết bà Cụ rất mực thương yêu con, quý mến hắn. Hắn ngã sấp lên nệm, lấy chiếc gối phủ kín đầu, để mặc cho những đau thương dày xéo! Thế là bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu đợi chờ đều tan biến! Hắn dấu mình trong phòng bỏ cả buổi cơm tối khiến anh chị Khang rất lấy làm lo lắng, lâu lâu lại hỏi thăm cho hắn méo mó cười, nói dối là mình không đói bụng!

Hắn nằm miên man suy nghĩ. Có suy nghĩ gì khác hơn ngoài hình bóng của Thu Dung và thời gian bên nhau trong những ngày xưa cũ! Mà có xưa cũ gì cho cam?! Chỉ mới đây, hơn hai năm mà sao vời vợi mơ hồ! Nụ cười tươi thắm, ánh mắt dịu hiền như đang thấp thoáng mong manh; tiếng nói hồn nhiên tuổi học trò như còn văng vẳng bên tai nhưng sao bỗng nhiên nghe chừng xa lạ! Phải! Xa lạ rồi! Xa lạ vĩnh viễn như nguồn nước cạn sau cơn địa chấn kinh hoàng! Bây giờ em đã làm vợ người ta! Anh và em mỗi bên bờ đại dương có bao lần mây che núi chắn! Những lời hẹn ước cũng tan như bọt nước biển khơi; cơn bão lốc đã đưa em về bến lạ để riêng anh ngơ ngẩn cuối trời! Ngả rẽ cuộc đời dù em đã chọn lựa trong đớn đau và nhiều nước mắt nhưng cũng đã kết thúc mối tình đằm thắm đôi ta! Anh thông cảm với em đã không thể thổ lộ khi viết lá thư duy nhất cho anh năm rồi, vì anh tự đặt anh vào hoàn cảnh của em chắc anh cũng không có đủ can đảm nói lên sự thật!

Không nhận được thư em, anh đã nghĩ có lẽ em đã rất bàng hoàng khi biết anh còn sống, em đã rất đau lòng cho hoàn cảnh chúng ta, có lẽ em đã sống qua một thời gian xáo trộn nhất trong đời. Anh cũng nghĩ tại hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước mình, đâu có ai biết ai còn ai mất sau cuộc bể dâu, nên anh thấy thương em nhiều hơn hờn trách, cho dù con tim anh đang rướm máu! Không, anh không buồn trách gì em, chỉ thương cho anh với bao nhiêu hoài vọng! Chỉ thương cho em trước phong ba bão táp của cuộc đổi đời!

Những suy tư triền miên làm hắn cay mắt, chập chờn đi vào giấc ngủ muộn phiền với bao nhiêu mộng mị! Trong mơ hắn thấy đã vuột tay nàng khi nhảy lên phi cơ vội vã rời thành phố đầy những tiếng bom đạn khắp nơi. Hắn tính nhảy xuống trở lại nhưng bị trượt chân, đập mặt xuống sàn tàu khi máy bay cất cánh. Dường như có bàn tay ai đó lôi lưng hắn lại, khi hắn cố nhoài người ra ngoài cửa nhìn cánh tay vẫy gọi trong tuyệt vọng của Thu Dung càng lúc càng nhỏ dần, ở một khoảng trống đầy sương mù nhưng lố nhố tụi nón cối đang chĩa nhiều họng súng về hướng phi cơ, giữa một cánh đồng bạt ngàn lau sậy…

**********

Đang mơ mơ màng màng bỗng hắn nghe tiếng gõ cửa dồn dập, rồi tiếng anh Khang nói lớn:
-Tuấn ơi dậy đi! Sắp tới giờ lên phi trường đón người tỵ nạn rồi nè!

Hắn không hiểu tại sao anh Khang lại biết hắn cần đón người hôm nay, nhưng hắn cũng ngồi bật dậy, chạy vào phòng rửa mặt, xong vội vã ra đi. Chị Khang kịp lúc dúi vào tay hắn mấy cái bánh sandwich trét bơ đậu phọng biểu hắn ăn cho đỡ đói.

Cũng như những lần trước đón người tỵ nạn, hắn đến phi trường San Francisco sớm hơn cả tiếng đồng hồ. Những chuyến bay có đưa người tỵ nạn vào nội địa Hoa Kỳ thường đến rất khuya và thường không đúng giờ. Lên đến phi trường, hắn xem chuyến bay qua màn ảnh mới biết sẽ đến trễ cả tiếng đồng hồ. Dù phi trường lúc nào cũng đông đúc người tới kẻ đi, nhưng càng về khuya càng thấy thời gian như càng chậm lại. Hắn uống hết mấy ly café rồi mà vẫn bị con buồn ngủ đè nặng lên mi mắt. Hắn cố nuốt mấy miếng sandwich nhưng sao đắng ngắt đành vất bỏ đi!

Hắn đã tình nguyện làm bán thời gian với Hội Thiện Nguyện USCC (United States Catholic Charity) này từ đầu năm nay, 1977, khi mấy anh em hắn mới chân ướt chân ráo dọn về đây từ vùng nắng cháy San Antonio. Làm ở đây với hy vọng tìm biết được tin tức gia đình, bè bạn. Vì lẽ đó, chuyến đón người Việt tỵ nạn nào hắn cũng là người đầu tiên tình nguyện. Lại nữa, hắn cũng rất lấy làm sung sướng làm người hướng dẫn cho những gia đình mới tới mà không nề lao nhọc. Cũng có rất nhiều lần hắn cùng rơi lệ sung sướng với người mới tới, khi họ biết chắc gia đình họ đã thật sự đặt chân an toàn xuống vùng đất hứa.

Cuối cùng, chuyến bay cũng vào bến đậu! Hắn đứng bật dậy đưa cao tấm bảng có hàng chữ Trần Phi Thọ khi thấy hành khách bắt đầu xuất hiện ở cổng ra. Tấm bảng hắn vừa vẽ vội vã trên một bìa giấy cứng hắn lượm được trong thùng rác khi nãy.

Hắn nóng ruột ngóng cổ đợi chờ, hết người này tới người khác vẫn chưa thấy bóng dáng một người Việt Nam. Hắn bỗng nghiệm ra một điều là hầu hết những người tỵ nạn, luôn là người cuối cùng rời khỏi phi cơ? Theo kinh nghiệm của hắn, ngồi sau đuôi bao giờ cũng mệt hơn nhiều trong những lần phi cơ chuyển hướng hoặc đổi cao độ. Hắn tự nghĩ có thể đó là giao kèo giữa hãng hàng không và Cao Ủy Tỵ Nạn chăng? Hành khách tỵ nạn chắc phải là ưu tiên sau cùng cho đầy chuyến bay!

Gia đình hắn đón lại là những người rời máy bay sau cùng trong một chuyến tàu có cả mấy trăm hành khách. Cặp vợ chồng rất trẻ dắt đứa con gái nhỏ đi chập chững vừa ra khỏi cổng, mắt dáo dác tìm kiếm đầy vẻ lo âu. Hắn vội bước tới:

- Thưa chắc đây là gia đình anh Nguyễn Phi Thọ?
- Dạ xin chào anh, chúng tôi là Nguyễn Phi Thọ tới từ trại Songkla! – người chồng mừng rỡ.
- Chào anh chị! Tôi là Tuấn, nhân viên của hội USCC, đặc trách đón gia đình anh chị về nơi tạm trú! Anh chị yên tâm, mọi chuyện sẽ đâu vào đó!

Hắn bắt tay người chồng thật chặt như cố tình chuyền cho anh sự an tâm. Hắn xoay qua, cúi mình một chút, chào cô vợ. Hắn khựng người khi bắt gặp đôi mắt ngó hắn đăm đăm! Chỉ một thoáng thôi, rất vội vã, rồi bối rối ngó xuống đất, nói lí nhí một điều gì đó nghe không rõ. Hắn bế đứa con gái nhỏ trên tay, tính đưa mọi người ra xe về lại Oakland. Nhưng dường như có cái gì thúc giục, hắn lại xoay qua ngó người đàn bà. Hắn lại bắt gặp đôi mắt quen thuộc đang vừa đi vừa nhìn hắn trân trối và cánh tay đưa lên đầu gở kẹp cho mớ tóc dài phủ bềnh bồng xuống đôi bờ vai nhỏ. Hắn thảng thốt gọi lớn:

- Thu Dung!
- Anh Tuấn!

Thu Dung nước mắt ràn rụa, buông xách tay xuống đất. Hắn trao tay đứa con gái nhỏ cho Thọ rồi quay qua Thu Dung, hai người ôm nhau chặt cứng trong khi hai cha con Thọ ngơ ngác đứng nhìn. Hắn run lên vì sung sướng, quên cả hiện tại. Phi trường bỗng nhiên im vắng lạ lùng, chỉ nghe tiếng tim đập liên hồi như muốn thoát ra khỏi lồng ngực. Giọng Thu Dung sũng đầy nước mắt, thương cảm gọi tên hắn liên hồi. Hắn cũng không cầm nổi nước mắt với bao nhiêu xúc cảm nghẹn ngào.
Hắn bồi hồi đặt môi hôn lên vùng tóc rối, ân cần hỏi:

- Anh mới nhận thư của Má em hồi chiều, nói rằng em đang có chồng Bác sĩ, làm việc tại bệnh viện Chợ Rẫy mà sao gặp lại nơi đây?
- Dạ anh Thọ là Bác sĩ chồng em đây, tụi em vượt biển qua tới Thái Lan hồi đầu năm nay.

Thu Dung xoay về hướng Thọ, tay vẫn ôm chằm lấy hắn. Rất ngỡ ngàng, hắn buông thỏng hai tay, nhẹ nhàng gỡ tay Thu Dung, nhìn Thọ với cảm giác tội lỗi:

- Xin lỗi anh Thọ nha! Gặp lại Thu Dung tôi mừng quá quên cả ý tứ!

Dường như ánh mắt Thọ thoáng một chút khó chịu:
- Không sao anh, tôi hiểu! Chuyện rất dài, khi nào có dịp chúng tôi sẽ kể anh nghe.
- Thôi chúng ta ra xe, tôi đưa gia đình anh chị về nơi tạm trú.

Vợ chồng Thọ và đứa con gái ngồi cả phía sau. Rất im lặng! Hắn muốn gợi chuyện nhưng sao cũng ngại ngùng sau mấy lần hỏi chỉ để nghe câu trả lời ngắn gọn gần như cụt ngủn. Dù vậy, hắn cũng được biết rằng, một bệnh nhân của Thọ vốn là cán bộ cao cấp của quân đội Bắc Việt, đã móc nối và tổ chức vượt biên cùng với gia đình Thọ. Chuyến đi rất may mắn, suông sẻ đến Thái Lan. Ở trong trại không đầy 6 tháng, gia đình Thọ được Hội USCC bảo lãnh đi Hoa Kỳ.

Xa lộ về khuya đường vắng. Từng ngọn đèn đường chiếu màu xám xịt trong sương đêm dày đặc. Hình dạng chiếc cầu Bay Bridge cũng mờ mờ ảo ảo, ẩn hiện trong sương. Hắn rùng mình vì thấm lạnh, vội vàng quay cửa kính lên và bật máy sưởi. Sự im lặng làm cho hắn thấy ngột ngạt khó chịu. Hắn nhìn vào kính chiếu hậu thấy hai người đang dán mắt vào cửa kính nhìn ra ngoài.

- Mình đang qua cầu Bay Bridge, chiếc cầu nối liền San Francisco với Oakland. Cầu này dài hạng nhì ở trong vùng. Cầu dài nhất là cầu San Mateo, nằm ở phía Nam, dài khoảng 12 dặm, sát mặt nước, cách đây không xa lắm; và cây cầu nổi tiếng nhất vẫn là cầu treo Golden Gate, bên phía Tây Bắc thành phố. Nếu không có sương mờ, mình có thể nhìn thấy rất rõ từ Oakland.

- Rồi đời sống trong những ngày tới của chúng tôi ra sao anh Tuấn ? – Thọ hỏi với vẻ âu lo.

- Anh chị đừng lo. Dù thế nào cũng không thể tệ như ở trại tỵ nạn, và chắc chắn tốt hơn cả trăm lần so với Việt Nam bây giờ. Chuyện tương lai thì từ từ tính. Chuyện trước mắt là Hội USCC đã nhờ tôi thuê cho gia đình anh chị một căn chung cư hai phòng ngủ, đầy đủ tiện nghi. Tiền đã trả trước ba tháng. Ngày mai tôi đưa anh chị vào văn phòng làm giấy tờ. Họ sẽ cấp cho mỗi đầu người ba trăm đồng, một lần một, để chi dụng. Người ta hy vọng sau ba tháng anh chị sẽ có thể tự lập. Tôi sẽ tận lòng hướng dẫn cho anh chị như đã từng giúp đỡ người khác. Mong anh chị yên tâm.

- Chúng tôi thật may mắn gặp được anh! Cám ơn Thượng đế và xin cám ơn anh trước!
Thọ mau mắn nói. Hắn cố tình gợi chuyện với Thu Dung:
- Cháu Thảo được bao nhiêu tuổi rồi Thu Dung?

Thời gian ngưng đọng lại để nghe câu trả lời. Hắn lại liếc vào kính chiếu hậu thấy Thu Dung cúi đầu xuống thấp, kéo vạt áo lau vội nước mắt. Tiếng Thọ đỡ lời vợ: “Dạ sắp hai tuổi!” Câu trả lời làm hắn ngờ ngợ tự hỏi: “mới lập gia đình hơn một năm mà sao đã có con gần hai tuổi?” Nghĩ như vậy nhưng hắn không tiện mở lời.

Những giọt nước mắt của Thu Dung làm hắn xốn xang trong lòng. Hắn bâng khuâng nhớ về khung trời cũ, kỷ niệm xưa. Cũng những giọt nước mắt sụt sùi đã rơi thánh thót trong buổi chiều ở vườn cây ăn trái Lái Thiêu, khi hắn nói với nàng nếu một mai hắn không còn hiện hữu, ở lần gặp gỡ sau cùng! Nàng đã khóc vùi, thốt câu: “em sẽ phải sống ra sao nếu không có anh”.

Hắn thầm nghĩ: “Thu Dung ơi, anh mừng cho em vì bây giờ em đã biết sống ra sao khi bên em đã có một người đàn ông khác”. Phải, với nàng, hắn kể như đã chết! Hắn đã không chết tan xác cùng với con tàu trên vùng trời quê hương đất nước, như hắn đã chuẩn bị, mà chết trong đời sống của nàng, chết trong sự chia lìa bất chợt!

Bỗng nghe tiếng kèn inh ỏi, hai vệt đèn sáng chói, rọi thẳng vào mắt làm hắn không nhìn rõ phía trước nhưng biết chắc xe hắn đang trước đầu một xe khác ngược chiều. Tiếng thắng bánh xe kêu rít trên mặt nhựa làm đầu óc hắn tê cứng. Theo phản ứng tự nhiên, chân hắn đạp mạnh lên thắng, lách nhanh tay lái qua bên phải, nghe tiếng va mạnh vào thành cầu, rồi chiếc xe lao thẳng xuống khoảng không gian đen ngòm bên dưới. Hắn cảm thấy nhẹ lâng lâng trong trạng thái chơi vơi chới với. Hắn nghe hai tiếng thét hãi hùng bên tai quyện lẫn vào tiếng hét kinh hoàng của chính hắn. Trong phút giây vô vọng đó, hắn bỗng nhiên thấy bình tĩnh dị thường, vội buông tay lái, xoay người ra phía sau cố nắm bàn tay Thu Dung đang chới với đưa về phía hắn, nhưng có lẽ sức rơi của chiếc xe quá nhanh khiến hắn không tài nào nắm được!

**********

Hắn mở choàng mắt ra thấy anh chị Khang đứng trước khung cửa mở toang. Hắn tự vả vô mặt mình để biết mình quả thật còn sống. Bấy giờ hắn mới nhận ra rằng mình đang nằm dài trên sàn, tay nắm bức thư nhàu nát, cả người ướt đẵm mồ hôi! Hắn bỗng bật ngồi dậy mừng rỡ như điên trước hai cặp mắt kinh ngạc của anh chị Khang. Anh Khang ôm hai vai hắn lắc mạnh:

- Chú Tuấn, chú Tuấn! Chú có sao không, chú đừng làm tôi sợ đó nha!
- Dạ thưa không sao ạ! Tuấn vừa trải qua cơn ác mộng hãi hùng!

Hắn mỉm cười vả lả đứng dậy ngồi ở mép giường. Anh Khang buông hắn ra, thở phào. Chị Khang nhẹ nhàng lên tiếng:
- Trời đất! Cái chú này ngủ mơ thấy gì mà la hét um trời, khiến anh Khang phải tông cửa xông vào vì tưởng chú… ! Hay là lại thấy Việt Cộng rượt đuổi như anh Khang vẫn bị?

- Dạ không, Tuấn thấy sắp bị “head-on” với một chiếc xe chạy ngược chiều trên cầu Bay Bridge, rồi lao thẳng xuống biển đen ngòm!
- Cầu Bay Bridge có từng đi qua, từng đi về riêng biệt làm sao head-on cho được?
- Chắc cha tài xế say rượu chạy lộn đường!
- Dường như chú còn trong mơ!?
- Ừ nhỉ!!!

Hắn mỉm cười tỏn tẻn, với chiếc khăn vắt trên đầu tủ, lau mồ hôi nhễ nhại và nói:
- Thôi anh chị đi ngủ lại đi, Tuấn xin lỗi! Chắc khuya lắm rồi phải không ạ!
- Khoảng 4 giờ sáng rồi! Tối nay chú vẫn chưa ăn. Chú có đói không chị đi nấu cho chú tô mì gói? – Chị Khang ái ngại hỏi.
- Dạ cám ơn chị, Tuấn vẫn không đói! Anh chị đi nghỉ đi, mai còn đi làm sớm!

**********

Hắn tắt đèn nằm vật xuống nệm, vắt tay lên trán, suy nghĩ về giấc mơ như thật vừa qua mà cũng cảm thấy lòng dạ bùi ngùi. Hắn lại bật đèn mở thư ra đọc tiếp dù đã thuộc nắm lòng! Hắn thì thầm trong bóng tối: “Thu Dung ơi, em đã vuột khỏi tầm tay anh ở cuộc sống bon chen này; mỗi chúng ta đã thực sự bước vào ngả rẽ. Em đã quay lưng bước đi, chỉ riêng anh đứng lại trông theo với nhiều nuối tiếc! Anh cầu xin đấng thiêng liêng ban cho em thật nhiều hạnh phúc và may mắn trong đời! Anh biết chắc, rất khó để anh có thể quên được hình bóng của em. Anh cũng chưa biết anh sẽ bắt đầu từ đâu trong cuộc sống tha hương khắc khoải này, sau những hoài mong diệu vợi!”

Hắn cố dỗ giấc ngủ trở lại nhưng không thể nào chợp mắt được. Tiếng kim đồng hồ gõ từng nhịp giữa đêm thanh vắng nghe rõ mồn một làm hắn sốt ruột vô cùng. Hắn ngồi dậy lấy bút viết vội những trào dâng trong tâm khảm:

Ta ngồi chép lại pho tình cũ
Gọi trái tim đau nhỏ mực buồn
Sầu đọng chân mây trời viễn xứ
Vo tròn hoài niệm góc quê hương

2005

thanphongkingwood
01-22-2013, 06:46 AM
Cuối năm tính sổ.
Gửi chia sẻ với quý bạn bè thân hữu vài con số vui của Website www.thovanyenson.com sau 3 năm hoạt động

Thân mến chào tất cả quý độc giả, quý văn thi hữu, và bằng hữu của website www.thovanyenson.com
Cuối năm tính sổ mà chơi
Gửi đến bạn đọc niềm vui, nụ cười
Thi ca, tư tưởng, tình người
Cùng chung, cộng hưởng cho đời thăng hoa

Tính đến ngày 31/12/2012, trang nhà thovanyenson đã tròn 3 tuổi kể từ ngày trình làng, 1/1/2010. Tổng số lượt truy cập (bao gồm những lượt cập nhật của Moderator) là 333,841 lượt và tổng số khách thăm viếng 17,482 người từ 20 quốc gia, theo thứ tự nhiều nhất đến ít nhất: Hoa Kỳ, Việt Nam, Úc châu, Canada, Pháp, Đức, Anh, Nhật, Áo, Nga, Na Uy, Hòa Lan, Hàn quốc, Thụy Sĩ, China, Iraq, Bỉ, Tân Tây Lan, Iceland và Đan Mạch
Một sự bất ngờ thú vị là quốc gia Iraq cũng có người Việt Nam và số lượng truy cập nhiều hơn 4 các quốc gia còn lại và đứng sau China.
Trong thời gian xây dựng năm 2009, moderator đã ra vào, lên xuống tổng cộng 2,022 lần. Số còn lại tính theo năm:
2010: 059,805
2011: 108,645
2012: 162,588
Trong 12 tháng năm 2012, tháng có số lượt truy cập ít nhất là tháng hai với 19,536 lượt; tháng nhiều nhất là tháng 12 có 37,103 lượt. Tuần ít nhất là 4,626 và nhiều nhất là 12,375. Ngày ít nhất với 207 lượt, nhiều nhất là 1,789 lượt

Trang nhà càng lúc càng được biết đến chắc chắn nhờ vào sự giới thiệu và quảng bá của tất cả bạn đọc đến thân hữu của mình. Chân thành cám ơn quý vị, mong quý vị tiếp tục thăm viếng, giới thiệu và chia sẻ tâm tình với Yên Sơn. Ngoài những chia sẻ trên mục Lưu Bút, Yên Sơn còn nhận rất nhiều thư từ qua email. Đặc biệt, một biến cố cảm động là trong lần tổ chức văn nghệ đấu tranh “Từ Munich, Hát Cho Dân Tôi Nghe” ở Đức vào tháng 12/2012, Ban Tổ Chức đã trích bài thơ “Thanh Niên Ơi Giờ Thiêng Đã Điểm” ở trang nhà của Yên Sơn http://thovanyenson.com/?p=3370 để làm một tiết mục đọc thơ tranh đấu. Được BTC cho biết, 2 câu thơ nổi bật trong toàn bài đã được lặp đi lặp lại nhiều lần làm cho hàng trăm con tim thổn thức:
“Thanh niên ơi đừng cúi mặt vong thân
Hồn sông núi đã nghẹn lời kêu gọi”

http://www.youtube.com/watch?v=_XJcG85SrNk&feature=youtu.be

Sau ngày tổ chức, Yên Sơn đã nhận hơn 20 email gửi từ Munich để chia sẻ cảm tưởng cùng những lời khen ngợi. Chân thành cám ơn BTC đã cho YS được cơ hội cùng với mọi người dùng thi ca để tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ, tự do, nhân quyền và không cộng sản.

Sau ngày tổ chức, Yên Sơn đã nhận hơn 20 email gửi từ Munich để chia sẻ cảm tưởng cùng những lời khen ngợi. Chân thành cám ơn BTC đã cho YS được cơ hội cùng với mọi người dùng thi ca để tranh đấu cho một Việt Nam dân chủ, tự do, nhân quyền và không cộng sản.

Nhân dịp đầu xuân mới, Xuân Quý Tỵ, Yên Sơn thân mến chúc tất cả quý độc giả, quý văn thi hữu và bằng hữu một năm luôn an vui, nhiều may mắn và tràn đầy hạnh phúc.

Hoa Kỳ, ngày 31 tháng 12, năm 2012
http://thovanyenson.com/?p=5670

thanphongkingwood
02-10-2013, 10:27 PM
Tạp ghi

SINH HOẠT BUỔI SÁNG

Chuông đồng hồ đỗ 8g sáng làm tôi bật ngồi dậy như cái lò xo. Một ngày mới đã khởi đầu trong khi tôi còn mơ màng trên chín tầng mây! Ngồi bật dậy từ giấc ngủ muộn cũng là một thói quen từ những năm tháng làm việc cật lực ở hãng! Bây giờ đã không còn phải bon chen như xưa, không sợ trễ giờ, không sợ kẹt xe, không cần suy nghĩ lôi thôi về chương trình làm việc trong ngày… Thế nên, ngày tiếp nối ngày nhanh hơn sự mong đợi của tôi. Nội việc làm vệ sinh cá nhân buổi sáng cũng cho tôi cảm tưởng liên tục, nhàm tay!

Tôi ngồi chần chừ trên giường; cái thân muốn nằm xuống tiếp, cái đầu bảo đứng lên. Cuộc nội chiến ngắn gọn trong tâm mau tàn vì… quả thật bên ngoài nắng đã lên cao! Tôi vọt xuống giường nhanh nhẹn như con sóc để dứt khoát chiến thắng cái thân lười biếng! Tiếng chim ríu rít trên cành lá bên hông phòng ngủ nghe vui nhộn. nhắc tôi nhớ lời vợ dặn đêm qua, sáng nay bỏ thêm đồ ăn cho chim tại các chỗ đựng. Tôi kéo màn cửa cho nắng tràn vào phòng làm lũ chim giật mình bay tán loạn. Ánh nắng rực rỡ cuối hạ trải vàng trên hoa cỏ vườn sau, tầng mây cao vút, không gian tĩnh mịch.

Làm công tác vệ sinh xong tôi lại nhớ hôm nay lấy rác. Dự định gom rác khắp các phòng đem ra ngoài. Đặt các bọc rác dưới lầu ở chân cầu thang, tôi leo lên lầu! Trên lầu là giang sơn riêng của 3 đứa con, phần không thích leo cầu thang, phần vì không có việc gì phải lên trên đó trừ khi nào giúp các con lấy rác nếu lâu không thấy chúng nó mang rác xuống. Trừ phòng cô con gái là còn tươm tất, hai phòng của hai cậu con trai… ô là là! Quần áo, sách vở, CD’s bừa bãi khắp nơi như thường lệ…

Nhớ lần trước tôi và bà quận đã vất vả cả buổi để dọn lại cho ngăn nắp, thẳng thớm đã bị chúng nó phàn nàn là không tìm ra đồ đạc của chúng. Với kinh nghiệm bực mình đó, tôi cố ý làm ngơ dù trong lòng rất khó chịu. Tôi chỉ gom các quần áo mặc rồi, chúng vất lung tung đem xuống máy giặt. Thuốc giặt lại hết, tôi đánh xe ra chợ gần nhà để mua. Sẵn dịp ra chợ, tôi gọi điện thoại cho nhà tôi có cần gì không. Nhà tôi cho tôi biết sẵn tiện mua cho nàng ít rau quả, sửa, trứng, đường… Đang tìm mua những thứ nàng cần thì điện thoại reng “anh nhớ sẵn mua luôn cà phê vì nhà đã hết rồi”. Ở chợ về cho xe vào nhà xe mới nhớ là chưa bỏ đồ ăn cho chim, sợ quên nên làm ngay. Bỏ chưa xong đồ ăn tại nhiều chỗ thì đã nghe tiếng xe rác sắp đến, tôi chạy vội vào nhà, lên phòng các con gom nhanh, lượm mấy bọc rác ở chân cầu thang đem ra…. Xe đã tới nhà, chưa kịp lấy rác ở nhà bếp nữa!

Tôi tính ngồi xuống ghế xích đu để thưởng thức không khí man mát của những ngày cuối hạ, trực nhớ đồ mua trong xe chưa đem vào nhà; nhưng sẵn tiện làm cho xong việc bỏ đồ ăn cho chim. Đến chỗ cuối cùng mới thấy cái hộp đựng đồ ăn cho chim đã bị nước vào dính cứng! Tôi phải mang nó xuống, bỏ hết đồ ăn cũ, sửa lại mái che xong cho thức ăn mới vào. Xong đem cất phần thừa lại vào nhà xe, mang đồ đi chợ để vào tủ lạnh. Vừa mở cửa tủ lạnh, chai dressing bên hông rơi xuống vỡ tan tành! Tôi lại lọ mọ quét dọn xong đâu đó, quay lại máy giặt để giặt mớ quần áo ngổn ngang nằm dưới đất.
Trong khi chờ đợi, tôi thay các bao đựng rác trong các phòng. Vào phòng mới nhớ là chưa trải giường! Khi ra tới bếp ngồi xuống mở laptop mới biết đã hơn 12g trưa! Tôi giật mình, từ sáng đến giờ chưa ăn uống gì cả, cơn khát nước ào ạt đến cùng lúc với tiếng cảnh báo của chiếc máy giặt đã xong! Bỏ đồ đạc vào máy sấy, uống nước, ngồi vào máy. Lòng dặn lòng là chỉ lướt qua hai địa chỉ email, một bên Yahoo và một bên Gmail mà thôi, chỉ xem những thư từ, tin tức quan trọng…

Gmail tràn ngập những điều không thể bỏ qua. Có mấy trăm tiêu đề từ các Diễn Đàn Việt ngữ tự động gửi tới. Sau khi chọn lựa bỏ thùng rác hàng trăm thứ, số còn lại vẫn còn lai láng tính cũng hơn con số năm mươi! Nào là “Biển Đông Dậy Sóng”, “Phân tích về cuộc chiến sắp tới”, “Liệu Mỹ sẽ làm gì một khi Trung cộng ra mặt xâm chiếm Biển Đông”, “Phỏng vấn ông bố của lực sĩ Olympic Marcel Nguyễn bên Đức”, Tthư Văn Quang gửi từ Saigon”, “Cộng đồng người Việt San Jose đón Lý Tống ra tù”, “Mỹ thộp cổ hàng chệt gian dối”, “Bốn không ở Singapore”, “Bài thuốc quý trị Prostate”, “thư người bạn nhờ chỉ cách tải phần tiếng Việt và cách sử dụng”, “hình ảnh Bắc Việt từ 1915”, “hiện tình Việt Nam”, “khả năng quân sự của Việt Nam”, “lá thư của đứa cháu con anh lớn bên Việt Nam lâu chưa liên lạc”… Ôi! Cứ thế mà không rời được cái máy!

Loanh quanh đã thấy 2g chiều! Thời gian trôi nhanh kinh khiếp quá! Dẫu không đọc hết email nhưng tôi cũng phải tắt máy đi làm. Trên đường đi lại tiếp tục cơm hàng cháo chợ. Chiều này thế nào cũng nghe my house than phiền “đồ dăn đã nấu sẵn không ăn, cứ ngốn ba cái fastfood không mấy chốc sẽ mập phì như ông Mễ già”…



THAM DỰ RA MẮT SÁCH

Cuối tuần vừa qua tôi đi tham dự buổi giới thiệu tác phẩm thứ 17 “Đường Vào Văn Chương” của nhà văn Đặng Phùng Quân, cựu Giáo Sư Đại Học Văn Khoa Saigon, ở địa điểm đài truyền hình VAN’s TV 57.3 ở khu Bellaire, Houston, Texas.

Trước đó một tuần lễ, trong dịp gặp gỡ trong Đêm Thơ Nhạc Lan Cao, Thầy bảo với tôi rằng “tuần tới trong dịp ra mắt sách của tôi, tôi nhờ anh và một số văn thi hữu lên mỗi người chọn đọc một bài thơ, bất cứ thơ ai viết cũng được, thơ của mình càng tốt, để làm giàu buổi sinh hoạt ra mắt sách”. Ngoài sự quý mến Thầy, tôi còn là một học trò cũ của thầy giữa thập niên 1960’s, dĩ nhiên tôi vui vẻ nhận lời. Xui là tới ngày ra mắt sách tôi lại bị bệnh cảm mạo, bị ho nhiều nên khàn tiếng.

Hội trường VAN’s TV đông nghẹt bạn bè và thân hữu của Thầy trong đó có tôi. Chương trình sinh hoạt rất sôi nổi với những thơ nhạc và các bài nói chuyện rất sâu sắc, súc tích giới thiệu về Thầy và nội dung tác phẩm. Tôi đã nghĩ “thôi không lên nữa” nhưng nghĩ tới nghĩ lui “mình là học trò cũ của Thầy” nên cũng muốn lên chúc mừng Thầy mấy câu và chào đón sản phẩm tâm huyết của Thầy. Tôi được cô Hồng Hạnh, xướng ngôn viên của VAN’s TV mời lên sân khấu. Mặc dù việc đứng trên sân khấu không xa lạ gì với tôi nhưng đứng trước một cử tọa rất chọn lọc cũng hơi khớp.

Sau phần chúc mừng Thầy, tôi nói, “dạ thưa thầy, ngày xưa thầy nói em là học trò tâm đắc của thầy vì khi thầy hỏi cảm nghĩ của em sau khi đọc bài viết của thầy, em đã trả lời em chỉ thấy lơ tơ mơ và không chắc mình hiểu tới đâu, thầy gật gù khen ngợi ‘triết lý là như vậy, là vô biên cương, nó lãng đãng, bàng bạc trong ta; nó có thể mông mênh mà cũng có thể rất đơn giản, vì nếu dễ hiểu thì không còn là triết lý’; vì thế nên em không thuộc bài nào của Thầy mà chỉ thuộc bài của em. Theo ý thầy, em xin diễn ngâm bài thơ “Như Sóng Vỗ Bờ” em đã viết từ năm 2000 như một đóng góp văn nghệ trong ngày vui chào đón tác phẩm mới của thầy.” Tôi xin lỗi khán giả và quan khách trước “vì không được khỏe mấy hôm nay nên nếu không diễn ngâm trọn bài cũng xin được thông cảm”.

Mới vô câu đầu đã thấy giọng mình có đến 2, 3 tông, nhưng tôi cố gắng lựa lọc để không bị bể:

Hoàng hôn bóng ngã thiên đường khép
Ngửa mặt nhân gian ngất ngưởng cười
Chén rượu cay nồng ngày sắp tắt
Trên cành trơ trụi lá vàng… rơi

Thôi nửa đời ta, nửa đời em
Góp lại hư vô với bóng đêm
Một khung trời nhỏ vầng trăng khuyết
Nửa cuộc tỉnh say, ngủ trước thềm

Ta bán cuộc đời ta vay mượn
Đổi dăm bầu rượu, nửa hồ thơ
Một mai ở cuối trời quên lãng
Rảnh nợ tung hê … sóng vỗ bờ

Kìa em nhắp chén kẻo tàn canh
Thương tiếc làm chi chuyện chúng mình
Nửa cuộc phong ba cười gắng gượng
Một đời dâu bể cũng mong manh

Ngâm tới đây bỗng dưng quên mất đoạn cuối… tôi sượng câm, cố nhớ nhưng đầu óc trống lổng, chữ nghĩa theo mây bay. Tôi tính nói một lời gì đó để chữa thẹn nhưng bối rối quá nên xin lỗi đi xuống. Về chỗ ngồi. “My house” nhìn tôi với ánh mắt như thầm bảo “không thuộc bài của thầy còn có thể châm chước được, nhưng bài của em mà em cũng không thuộc thì quả là… bó tay chấm cơm”!

Tôi ngồi suy nghĩ, đáng lẽ tôi nên dừng lại và nói thế này, “thưa Thầy, ai cũng biết cầm bút là một cái nghiệp, như con tằm thì phải nhả tơ… Thầy đã cho ra đời 17 đứa con tinh thần rồi, cầu mong Thầy khỏe mạnh để tiếp tục đi cho trọn kiếp tằm tơ. Nhưng thời gian có chờ đợi ai đâu, mới ngày nào thầy thầy trò trò, tung tăng như bầy chim dưới mái học đường mà nay tóc Thầy đã bạc trắng, em thương Thầy và cũng thương cho em. Rồi cũng đến một lúc nào đó đời người rồi cũng khô cạn, luân hồi vẫn vòng xoay và thế gian chắc không ai thảng thốt…. xong tiếp tục ngâm câu cuối cùng thì hay biết mấy phải không Thầy:

Rồi mốt rồi mai đời khô cạn
Phó mặc trần ai thảng thốt cười
Em ở cuối trời mây lãng đãng
Ta chuyển luân hồi cũng thế thôi



THÁNG TÁM THEO EM TRỞ LẠI TRƯỜNG

Chiều hôm qua trong lớp tập, nghe cha mẹ học trò xôn xao với đề tài mua sắm miễn thuế vào dịp cuối tuần – Ở Houston, theo thông lệ hàng năm, cuối tuần lễ trước tuần lễ tựu trường, tất cả hàng quán bán dụng cụ, đồ đạt cho học sinh, sinh viên đều được bán miễn thuế – Không khí trở lại trường làm lòng tôi cũng phấn chấn dù đã hết cái thời “bụi phấn bảng đen” của những năm về trước. Dù chỉ dạy có bốn năm ngắn ngủi, dù tự quyết định chấm dứt nghề hít bụi phấn nhưng cũng thấy bâng khuâng mỗi mùa tựu trường. Rất có thể dư âm thời học trò còn tiềm ẩn trong tôi cộng thêm những vui buồn của bốn năm bụi phấn.

Tôi chợt nhớ mấy câu thơ cũ làm duyên cho những ngày tháng ở sân trường:

Tháng tám em tôi trở lại trường
Bên ngoài nắng hạ vẫn còn vương
Tóc em lộng gió, hương thoang thoảng
Guốc gỗ reo vui gõ mặt đường

Áo tím em bay trong nắng mai
Đùa con bướm liệng, dáng trang đài
Bước chân nhí nhảnh, môi tươi thắm
Khúc khích tiếng cười, má đỏ hây

Em vô tư quá, ngây thơ quá
Mặc bóng thời gian thảng thốt đi
Với em đau khổ tuồng xa lạ
Ngày tháng hư hao chẳng quản gì
…………..
Tháng tám theo em trở lại trường
Thu về len lén đẫm hơi sương
Trời cao, gió nhẹ, mây lơ đảng
Vạt nắng vàng hanh trải mặt đường
…………
(Trích “Tháng Tám Theo Em Trường Trở Lại”)

Vâng, sáng nay cuối tháng tám đẫm hơi sương, cũng trời cao gió nhẹ, cũng nắng vàng hanh nhưng hâm hấp nóng và tiếng ve vẫn vang vọng khắp nơi trong khu rừng thông. Tôi tản bộ chậm chạp trên lối nhỏ giữa khu rừng hẹp nằm giữa các dãy nhà trong xóm như thường lệ cuối tuần. Chân tôi bước đến đâu tiếng ve im bặt đến đó làm tôi nhớ đến câu thơ dí dỏm của nhà thơ Nguyễn Lập Đông thì phải:

Lần đầu anh ghé môi hôn
Lũ ve đang hát mất hồn im re

Chỉ hai câu thơ thôi thi sĩ đã vẽ được một bức tranh rất sống động, tài tình. Tôi chạnh nhớ đến một kỷ niệm ngọt ngào “Lần đầu anh ghé môi hôn’’ trong một con hẻm tối trước khi chia tay với nàng sau một lần lén hò hẹn. Nụ hôn đó đã làm nàng ngã khuỵu trong vòng tay tôi với tiếng “anh…” thảng thốt nhẹ như hơi thở qua làn môi son hồng cũng đã làm tôi tê điếng.

Chữ “lén hò hẹn” cũng nhắc tôi nhớ đến lần bị Mẹ nàng bắt gặp tôi ngồi tréo chân trên yên xe Vespa dựng trước đầu hẻm chờ nàng “như thường lệ” sau khi đã từ giã gia đình nàng ra về. Chỉ nhớ lại thôi mà cũng còn thấy ngượng ngùng.
Mẹ của nàng vừa khó tính vừa cắc cớ trong khi chúng tôi như đôi nai tơ; vì thế, những thầm lén, toan tính của chúng tôi đều không qua được đôi mắt soi rọi của bà. Ngoài việc bà kiêng kỵ “dân Không Quân” ra, tôi còn thêm cái tội ngoại đạo nặng nề. Việc xin phép bà để được hẹn hò cùng nàng là bất khả. Mãi đến sau khi tôi cố tình canh thức trọn đêm lúc bà nằm bệnh viện thì tình thế có vẻ khả quan hơn nhiều! Đã hơn 40 năm qua, người tình giờ cũng xa biệt mù trong dĩ vãng sao kỷ niệm cứ len lén trở về làm tâm tư bâng khuâng, lòng những bồi hồi, con tim xao xuyến…



THĂM HỒ MUỐI BẤT NGỜ

Một cuối tuần tôi bay về Oakland, California dự đám cưới đứa con cuối cùng của một người bạn một thời sinh tử. Cả hai chặng đường đi về đều ngừng đổi máy bay ở Saltlake City (Hồ Muối). Trong phi trình chỉ thấy đổi máy bay nửa tiếng mỗi lần nên dù có muốn thăm đôi uyên ương, vốn là cựu Bác sĩ Nhảy dù Mạnh và người đẹp đa sĩ (Họa, Ca, Thi, Văn, chủ báo) Mai Phương, cũng không cách nào thực hiện được. Tôi với ông nhảy dù cứ hẹn với hò mãi mà vẫn chưa có duyên gặp gỡ…

Thế nhưng, vì trục trặc kỷ thuật nên chuyến bay về Houston đã bị dời lại gần 4 tiếng đồng hồ sau. Đây là một dịp may hiếm có, tôi liền gọi điện thoại cho cặp uyên ương ngỏ ý muốn gặp nhau… rất tiếc ông nhảy dù đang chuẩn bị đi dạy Việt Ngữ! Đang không biết làm gì với thời gian chờ đợi thì Mai Phương gọi điện thoại trở lại cho biết “ông thầy quyết định mất dạy hôm nay”! “Nhảy dù ơi, ông làm tôi ái ngại quá!”, “không sao đâu, có mấy đệ tử gánh vác rồi”.

Hai mươi phút sau tôi được đón về tổ ấm của hai người! Căn nhà không lớn nhưng thừa tình cảm nồng nàn, nơi đã chứa đựng lũ chim non sống sung túc trong tình thương yêu của ba mẹ chúng, vượt qua mọi thăng trầm cuộc sống. Lũ chim nay đã lớn khôn, đứa nam đứa bắc nhưng hơi hướm vẫn còn tràn ngập căn nhà. Sau khi giới thiệu quán văn nghệ ở một góc vườn đầy nắng, gió mát và tiếng nhạc Trần Thiện Thanh phát ra từ chiếc computer laptop…

Mai Phương tất bật lo nồi cháo lòng đặc biệt, tôi và ông nhảy dù thong dong với cà phê, thuốc lá, nói chuyện không ngừng. Chuyện đời lính, chuyện văn chương, chuyện cộng đồng, chuyện dài Việt Nam, chuyện quá khứ, chuyện tương lai… Chuyện kể nào của ông nhảy dù cũng đầy tính nhân bản, rất chân thật và đầy rẫy tình người… Thấy tôi ho khan, bác sĩ ái ngại “đâu có hút thuốc được phải không?”, “hút lai rai thôi mà”, “hay là làm vài shot có thể bớt ho”, “làm thì làm”! Ông nhảy dù trang trọng đem chai XO Remy Martin ra cho tôi bẻ cổ chụp hình! “Làm vài shot đi, nếu không bớt tôi sẽ cho ông vài viên thuốc”. “Ông là bác sĩ nói sao tôi nghe vậy”. Hai người cụng ly mừng gặp được nhau, chúc nhau sức khỏe, uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn! Mai Phương nhỏ nhẻ mang nồi cháo ra quán vỉa hè ép tôi ăn kẻo lên máy bay đói bụng. Không biết nồi cháo lòng do MP mua hay tự tay nấu nhưng có đủ tim gan phèo phổi và giò cháo quải nữa, rất ngon, rất đậm đà.

Ừ nhỉ, Quán Vỉa Hè… Nhóm QVH chỉ có hơn 10 mạng nhưng gồm nhiều quốc gia, nhiều tiểu bang khác nhau; có đủ cả Bắc Trung Nam đề huề; có già, có trẻ; có nhảy dù, có không quân, có cả các em gái hậu phương nữa… Tôi đã có cơ hội gặp gỡ hầu hết mọi người trừ thầm quyền nhảy dù nay mới gặp và một người tài hoa ở tận trời tây, đó là tiểu thơ 3T’s ở kinh đô ánh sáng Paris ngàn năm văn vật.
Tôi về tới Houston, text mấy dòng thư cám ơn cặp uyên ương Hồ Muối:

Mong gặp nhau, cuối cùng mình đã gặp
Gió giao mùa Hồ Muối rất dễ thương
Nhảy dù cùng với Mai Phương
Ra về lòng những vấn vương, bồi hồi



VIỄN TÂY DU KÝ

Năm trước cô em gái kế tôi – Ánh Hồng – từ Việt Nam qua thăm Mẹ tôi nhân dịp thượng thọ 90 của Cụ. Cô là người ở lại để “giữ gìn mồ mả” thay cho các anh em trai – hai người lớn nhất đã nằm xuống cho cuộc chiến tương tàn; bốn người còn lại chạy tóe khói bằng mọi cách sang Mỹ để không bị lên hoặc bị sống trong thiên đường mù cộng sản đàn em của Tàu phù.

Anh em chúng tôi bàn luận với nhau đưa Ánh Hồng đi chơi một vài nơi để biết đời sống dân Mỹ. Mấy gia đình bàn thảo ráo riết những nơi nên đến, chọn lựa ngày giờ thuận tiện cho mọi người… nhưng cuối cùng chỉ có tổng số 6 người đi được gồm Ánh Hồng và hai dâu, ba anh em trai. Chúng tôi bay sang Las Vegas để xem các show ca nhạc nổi tiếng của Mỹ rồi cùng nhau “tìm mua bóng đèn” cho những sòng bài lộng lẫy. Công việc tiến hành không mấy thuận lợi sau vài hôm, chúng tôi đành thuê xe 8 chỗ ngồi kéo nhau về khảo sát tình hình sinh hoạt của cộng đồng người Việt ở Quận Cam.

Đúng là thủ đô người Việt tỵ nạn! Đi đâu cũng gặp phe mình; đến nỗi gọi lộn số mấy lần cũng đều nghe giọng nói quen thuộc. Sẵn dịp chúng tôi cũng đi đóng phim một ngày ở kinh đô điện ảnh Hồ-ly-vọng (Hollywood). Sau hai hôm tiếp tục hành trình về Bắc Cali.

Đáng lẽ lên đường ngay từ sáng sớm nhưng ai cũng nói “đi chơi chứ đâu phải chạy giặc như năm xưa mà phải vội vội vàng vàng”, phần vì giường nệm khách sạn êm ái quá nên ai cũng dật dựa nằm rán thêm chút, và rồi cứ cà kê dê ngỗng tìm chỗ ăn sáng ngoài phố Bolsa mãi đến trưa mới khởi hành được! Vì thế, thay vì đi theo con đường tình xa lộ 101 sát biển để tha hồ ngắm phong cảnh như dự tính, nhưng thấy thời gian còn lại không bao nhiêu nên anh em đồng ý trực chỉ con đường ngập nắng vàng, xa lộ số 5…

Khi xe gần đến đường đèo 152 về xứ tỏi Gilroy, tôi bỗng nhớ đến Tu Viện Kim Sơn, (574 Summit Rd, Watsonville, CA 95076) trên núi Watsonville nên quyết định cho cô em sùng đạo của tôi và mọi người về thăm chùa một chuyến.

Khi đến chân núi thì nắng chiều đã vàng nhạt. Mặc dù tôi đã từng lên núi rất nhiều lần trong thời gian tôi cư ngụ ở Thung Lũng Hoa Vàng những năm về trước, nhưng thấy xứ tỏi phát triển hơn xưa, đường sá trở nên là lạ một chút, tôi quyết định nghe lời em gái tóc vàng trong GPS (máy dẫn đường) chỉ đường cho… chắc ăn. Thấy cô nhỏ chỉ dẫn theo con đường mới, tôi nghi ngại trong lòng tính quay tìm con đường quen thuộc… nhưng chạy lòng vòng vài con đường vẫn chưa thấy đâu là đâu! Tôi như Tư Ếch về thành, trong khi trời đã nhá nhem tối, mọi người đề nghị nên “vâng lời” cô nhỏ một lần! Thế là tiếng “cải cọ, lải nhải” không còn làm nhức đầu mọi người mà con đường trước mặt càng lên cao càng khúc khuỷu, ngoằn ngoèo.

Con đường rất lạ, đi lên phía sau chân núi so với con đường chính xuyên núi về hướng Watsonville sát bờ Thái Bình Dương, ngay trên chóp núi sẽ là con đường rẽ phải vào Tu Viện mọi lần. Mặc dù con đường được tráng nhựa nhưng rất hẹp, chỉ vừa khít khao cho hai chiếc xe ngược chiều nhau (nếu có bao giờ), một bên là sườn núi thoải thoải cao, một bên là thung lũng mờ mờ sương lam. Mọi người trong xe bỗng dưng im phăng phắc, có lẽ đang hồi hộp. Tôi cố pha trò cho mọi người yên lòng.

Tôi nói “đừng có lo, máy bay anh còn lái ngon lành nhằm nhò gì ba cái xe lẻ tẻ”; “máy bay bay trên trời thênh thang, có ngủ gục một chốc cũng không sao, còn lái xe mà cứ lơ tơ mơ như anh là mất mạng cả lũ!” Biết nói gì hơn, tôi nghêu ngao hát cũng bị bà quận yêu cầu tắt đài để chăm chú vào việc lái xe. Tôi nói rằng con đường thật đẹp, rất nên thơ, rất lãng mạn hay là mình dừng xe một chút để chụp hình?! “Tối rồi anh ơi!”.

Xe tiếp tục quanh quẹo lên đồi, tôi khe khẽ ngâm bài thơ “hoàng hôn bóng ngả thiên đường khép, ngửa mặt haha… ngất ngưỡng cười!”. “Xin ngài chăm chú lái xe”, bà quận lại nhắc! Quang cảnh nên thơ lãng mạn thiệt! Nếu có lần nào về lại Tu Viện nữa tôi nhất định chọn con đường này! Trong bức tranh nhạt nhòe sáng tối của con đường xuyên rừng, leo núi rất gợi cảm, hơi lạnh của núi rừng len lén xâm nhập vào lòng xe, tôi thoáng nghe cô em Ánh Hồng và một vài người bắt đầu đọc kinh cầu nguyện làm tôi bật cười!

Mọi người thở phào nhẹ nhõm khi xe tới cổng Tu Viện Kim Sơn. Nhìn đồng hồ đeo tay thấy đã 6g30 tối. Cổng Tu Viện đã khóa từ 6g chiều mỗi ngày theo lịch trình sinh hoạt ghi trên tấm bảng treo bên cổng. Tôi nhìn mọi người hóm hỉnh ngâm nga…. Cổng chùa đã khép kín rồi, mình dzìa xây lại cuộc đời dở dang, quên đi nắng xế trăng tàn, cho tui trọn nghĩa cho nàng… đi tu! Mọi người xuống xe trong lo lắng! Người ta thường nói “cổng chùa luôn rộng mở” mà sao ở đây cửa đóng then cài im lìm! Từ cổng nhìn vào sâu thẳm không thấy bóng dáng một người! Không gian bốn bề tĩnh lặng. Tôi nói quý vị đừng lo, chúng ta sẽ có cách vào trong tu viện. Tôi tới tấm bảng lấy số điện thoại gọi vào…

Điện thoại di động ở đây rất khó sử dụng. 6 người 6 chiếc điện thoại với hai hãng khác nhau nhưng kết quả không khả quan cho lắm. Phải gọi năm lần mười lượt mới có tiếng trả lời của một phụ nữ. Tôi mừng quá bèn ca bài vọng cổ thiệt muồi, “chúng con ở Texas qua rất muốn thăm viếng Tu Viện nhưng lỡ bước muộn màng; chúng con 6 người hiện đứng trước cổng tu viện và con cũng là chỗ quen biết với ngài Viện chủ từ lâu, xin được vào thăm chùa và xin tá túc qua đêm”. Tiếng người phụ nữ biểu tôi chờ đầu dây để trình lại với vị sư tri khách. Phải đợi một lúc lâu mới có tiếng trả lời cho biết sẽ có người ra mở cổng cho chúng tôi vào bên trong. Chúng tôi an lòng, thẩn thơ nhìn ngắm cảnh vật chung quanh. Ánh trăng rằm đã nhô lên từ chân núi phía đông mờ xa. Đứng trên đỉnh đồi nhìn trăng lên, phía bên kia là đại dương bao la, có chút sương pha bàng bạc làm lòng bồi bồi hồi xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên, núi non hùng vĩ!

Chúng tôi được đưa tới phòng khánh tiết để gặp Hòa thượng Viện chủ Thích Tịnh Từ.
Tôi đã biết Thầy và đi lễ Chùa Từ Quang ở 243 Duboce Ave., San Francsco, từ khi về sống ở Vùng Đông Vịnh (East Bay Area) năm 1977. Và khi Tu Viện Kim Sơn bắt đầu trên đỉnh núi này tôi cũng thường xuyên lui tới, chứng kiến những thay đổi nhanh chóng của chùa. Tôi rất mê phong cảnh và không gian ở đây. Mỗi chiều tà đi bộ trên đồi, mắt dõi nhìn đại dương bao la, tai nghe chim muông ríu rít để thấy lòng thanh tịnh, lâng lâng thoát tục…

Tôi đã dọn về Texas hơn 20 năm qua và Thầy cũng đã gặp hàng muôn ngàn gương mặt thì làm sao Thầy có thể nhớ ra tôi. Tôi kể qua chuyện xưa Thầy cũng vui vẻ ậm ừ. Thầy nhận lời cho chúng tôi ở lại sinh hoạt với tăng chúng một đêm, nói với sư tri khách hướng dẫn cho chúng tôi nhận phòng trọ, hối nhà bếp cho chúng tôi dùng cơm tối. Sự chu đáo và nhiệt tình của Thầy và tăng chúng trong Tu viện làm chúng tôi cảm động và vô cùng biết ơn, cảm thấy chúng tôi may mắn quá sức.

Hôm nay lại là ngày rằm, trời quang mây tạnh, trăng sáng vằng vặc, trông tận biển xa, không gian u trầm. Sau giờ cơm tối, sư tri khách bảo chúng tôi tự do thưởng ngoạn bên ngoài sau khi cho chúng tôi lịch trình sinh hoạt sáng hôm sau. Anh em chúng tôi đi thưởng ngoạn và chụp hình kỷ niệm chung quanh khuôn viên rộng lớn của Tu viện. Nhìn xung quanh thấy Tu viện đã được chỉnh trang rất nhiều dù chưa hoàn tất. Đại sảnh đường vẫn còn là miếng đất rộng lớn chưa khởi công. Kia hòn non bộ, nọ hồ sen bao la, hàng trăm tượng Phật kích cở khác nhau, ngồi đứng khắp nơi, khóm trúc, vườn hoa rải rác đó đây, ẩn ẩn hiện hiện dưới trăng vàng lồng lộng trên cao, mờ mờ ảo ảo, thanh tao rất mực…

Nhìn xuống những triền núi sâu thăm thẳm tôi không thấy sờn lòng mà còn ao ước có thể leo trèo xuống đó khám phá. Chúng tôi đi theo con đường thiền hành dài lê thể bằng đất nhưng bằng phẳng và sạch sẽ. Ôi một khung cảnh thanh tịnh rất lý tưởng cho việc tu học. Tôi nhớ ngày xưa Tu viện có rất nhiều am nhỏ cho các sư sải tịnh tu chung quanh các sườn đồi nhưng nay chỉ còn một số rất ít. Có lẽ Tu viện đã xây cất nhiều phòng ốc nên không còn cần thiết nữa.

Loanh quanh mãi vẫn không thấy mệt nhưng đã quá nửa đêm, chúng tôi lưu luyến quay về phòng ngủ. Phòng ngủ vốn là phòng của các tăng sinh. Anh em chúng tôi được cho 2 phòng, một dành cho nam, một cho nữ; mỗi phòng có giường tầng, giường nệm sạch sẽ thơm tho vô cùng thoải mái. Sau khi tắm rửa cho hết bụi trần, tôi nhẹ nhàng phóng lên tầng trên, chưa thưởng thức hết sự êm ấm của giường nệm thì đã miên man hành thiền trong cõi nghìn trùng.

Bốn giờ sáng, một hồi kiểng vang vọng. Đã biết trước nên mọi người vui vẻ trở dậy sửa soạn dự khóa trà thiền. Chúng tôi được hướng dẫn vào thiền phòng. Một bên dành cho các sư cô và phái nữ, một bên cho các sư thầy và phái nam. Tất cả mọi người chìm đắm trong thiền định, tứ bề thanh tịnh, thậm chí nghe được tiếng thở nhẹ của người kế bên. Với sự tĩnh mịch đêm qua không ai có thể tưởng tượng đông ngần ấy người! Cả một thiền phòng rộng lớn đã đông nghẹt tăng chúng… chỉ có 6 anh em chúng tôi là người thế tục.

Đúng 5g, nghe tiếng chân rất nhẹ của ngài Viện chủ đến nơi an tọa! Mọi người, mọi vật chung quanh như trầm lắng hơn. Thêm khoảng 15 phút thiền định nữa, ngài Viện chủ mời trà mọi người và bắt đầu giảng pháp. Trước mặt mỗi 4 người là một kỷ trà. Một vị sư nghiêm trang rót trà vào tách, khi mọi người đã xong, ngài Viện chủ bưng tách trà lên cùng mọi người cầu nguyện trước khi dùng. Giọng nói của ngài Viện chủ rất trầm ấm, thong thả, nhẹ nhàng làm người nghe cũng lắng được tâm hồn. Tôi thưởng thức buổi trà thiền từng giây phút, nghe những lời luận giảng đạo nghĩa rất bổ ích cho đời sống bon chen mỗi ngày… cho đến 6g thì buổi trà thiền chấm dứt. Mọi người đứng dậy đưa tiễn ngài Viện chủ rồi tuần tự rời phòng.

Chúng tôi được mời ra sân tập thể dục (võ thiền) vào lúc 7g sáng nhưng vì các em ngại nên chỉ đứng trên phòng nhìn xuống sân… cho khỏe. Rất đông tăng chúng với trường côn trên tay tập theo phương pháp hướng dẫn nghiêm túc của một sư thầy. Tôi liên tưởng đến sinh hoạt của tăng chúng Chùa Lâm trên núi Thiếu Thất trong truyện chưởng Kim Dung, mỉm cười thú vị.

Nhìn mãn nhãn, chúng tôi len lén đi ngõ sau ra ngoài núi ngoạn cảnh và tạo dáng chụp hình tiếp tục. Buổi sáng cũng thanh tịnh như đêm qua. Nhìn về hướng biển xa mờ, rừng núi trùng trùng, cỏ cây xanh thắm, hoa cỏ tốt tươi. Anh em lại rủ nhau đi thiền hành. Sau cùng tôi một mình nhàn hạ đi vào những lối mòn xuống sâu dưới chân núi. Lòng thanh thản, nhẹ nhàng không còn cảm nhận được thời gian. Khi tôi trở lại mặt trời đã lên khá cao, đồng hồ chỉ gần 9g sáng. Mọi người thu xếp vào lễ Phật và cúng dường, tỏ lòng cám ơn tăng chúng, chào Thầy Viện chủ và xin chụp hình lưu niệm. Ngài Viện chủ và tăng chúng rất hoan hỷ tiễn chúng tôi xuống núi với lời mời bất cứ khi nào có dịp cứ trở lại tu học.

Xe dừng lại Thung Lũng Hoa Vàng để dùng cơm trưa trong khu Little Saigon, Grand Century Mall, xong trực chỉ Cựu Kim Sơn, qua cầu Golden Gate, vòng về Bay Bridge, lên phía Walnut Creek thăm viếng mấy bà chị, ngủ lại đêm. Trưa hôm sau tất bật lên đường về lại Orange County lúc 7g tối, mướn khách sạn xong, tiếp tục dạo phố Bolsa và dùng cơm tối. Sáng hôm đến phi trường trả xe và lên máy bay về lại Houston nắng ấm, kết thúc chuyến viễn du tìm vàng 8 ngày trong vui vẻ. Dù không ai nói gì nhiều nhưng trong thâm tâm của mỗi người đều cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ và cảm kích sau một chuyến đi dài hơn mấy ngàn dặm đường, nhất là cô em gái Ánh Hồng của tôi.

thanphongkingwood
03-01-2013, 04:07 PM
Midnight Crisis
Yên Sơn

Tui hổng biết, hổng nghe, hổng kinh nghiệm gì với midlife crisis, nhưng tui biết chắc tui có midnight crisis…last night, thảm bại lúm! Đêm qua gió mưa phủ phàng, cá thành phố Houston như chìm trong biển nước! Tui phải đợi tới 10PM mới rời sở cho chắc ăn. Trời vẫn mưa không thấy đường chạy nhưng gần 50 dặm đường về nhà … ôi đường trường xa, con chó nó na con mèo! Tui chạy cũng mịt mù trong mưa!
Tới gầm cầu Beltway 8 và xa lộ 59 thì phần không có đèn đủ sáng, phần mưa như thác đổ nên đèn pha của xe vẫn không thấy rõ, cho nên xe cứ vô tư phóng thẳng vào dòng sông flash flood!!! Xe bị ngập hơn nửa, vội vàng mở cửa phóng ra ngoài thì ôi thôi ai tai, ngập nửa ghế ngồi! Nước cuốn chiếc xe tàng tàng trôi xa! Thằng tui ngoi ngóp dưới nước như con chuột, hì hục đẩy con thuyền xe vào lại vào bờ; nếu không, chắc nước cuốn sẽ đụng vào chân cầu! Mưa và lạnh mà đổ mồ hôi mới thiên tài chứ!

Không gọi được cảnh sát, xe câu nên loay hoay dưới mưa với cái cell vô dụng! Gọi về nhà thì bà quận nghĩ là chạy ra tiếp cứu chồng để nhìn thấy cảnh “anh phải sống” hay sao đó nhưng cũng may là nàng đã không bang vô nước herself trên đường tới. Đành chỉ có cell la trời ở gần nhà! Thằng tui loay hoay mãi thì đẩy được chiếc xe lên chỗ cao rồi mò mẫm tát nước để bắt cá! Mưa vẫn rơi nặng hạt và bắt đầu thấm lạnh.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1362222357.jpg

Tui quyết định lên xa lộ tìm cách hitchhike về hướng nhà, cách đó khoảng hơn 20 dặm đường. Vừa đi bộ vừa đưa ngón tay đúng điệu con nhà homeless, chỉ có nước trên đường bắn tung tóe vào người mỗi lần xe chạy qua. Nhìn lại bộ dạng mình đâu có thấy giống Osama gì cho cam mà không có con ma nào chịu mở lòng từ bi bất ngờ cho đi ké ?! Mãi một quảng khá xa dưới mưa dầm thì có một xe ngừng lại, mừng bở hơi tai chạy tới, gặp chú Mỹ đen, trong đầu đã cảm khái: “Mỹ đen mí thương thân phận dân thiểu số!” Chưa kịp mở cửa vô thì thằng ông nụi biểu đưa cho nó $10 để nó cho đi một khúc! Nói với nó lấy check được không vì không có đủ cash! Nó trả lời Cash only! Giời ạ! Con chỉ có $3, biểu nó chạy tới trạm xăng nào đó sẽ đổi tiền mặt! Thằng ông nụi không chịu! Vậy mà nó nỡ lòng cho mình đi bộ dưới mưa để làm thơ tiếp!

Lại tiếp tục làm thơ! Tiếp tục vừa đi vừa giơ tay càng lúc càng nhuyễn nhừ! Mãi lâu mới lại được một xe dừng lại, cô nương Mỹ trắng đi với anh kép và một người bạn và một carseat! Họ nói họ happy to give me a ride! Mừng quên già luôn! Nhưng chỉ đi được một khúc vì họ đi về một hướng khác, ít nhất cũng tới được chỗ trú mưa cho đỡ lạnh! Mưa nhẹ giọt và bà quận vẫn không hy vọng gì tới nơi, nghe qua điện thoại có tiếng mếu máo! Tui tiếp tục đi bộ về hướng nhà và chia đều nhiệm vụ cho hai tay cho đỡ mỏi! Một đỗi nữa thì được một chàng Mỹ trắng trung niên cho lên xe. Chàng cho biết là manager cho tiệm Luther BBQ gần đây mới cào nước trong tiệm xong đi về! Ed nói chuyện rất hiền lành và tình nguyện đưa Tiên Bác về đến nhà nếu có thể.
WOW! Nó về đường khác, nhà mình đường khác mà tình nguyện như vậy làm tui cảm động quá! Để thấy trên đời này, trong cái xã hội kim tiền và thù ngịch này cũng có biết bao tấm lòng nhân ái! Tui nói với Ed là bà quận đang kẹt phía bên kia hồ nước khi chúng tôi đối diện! Tui cám ơn rối rít xong bì bõm lội qua bên kia hồ lên xe về với nàng! Bấy giờ là 1g30 sáng. Được vợ lấn quấn mang đồ ấm, hâm canh nóng và xức dầu cù là … hà hà! Hổng có cù là! Tiên Bác uống mấy ounce rượu tỏi để cho ấm và phòng bê.nh. Xong cấp tốc nhảy lên giường như chuyện tình không suy tư, không mộng mị cho tới khi cái đồng hồ đánh thức la réo um trời! Một ngày đầy triển vọng không khá trước mắt!!!

Dù nói vậy, chứ suốt đêm trong lòng nơm nớp lo sợ xe bị cảnh sát kéo đi thì mất công tìm kiếm và trả thêm vài bớp nữa như không! Bạn dân tôi thời nào cũng vậy! Giúp thí ít thấy chứ phạt thì nhanh nhẩu lắm, cảnh sát là bạn dân mờ!

Sáng sớm thức dậy đưa bà quận đi ra xe bus để mượn xe lo hậu sự! Chạy ra chỗ để xe thì hắn vẫn nằm đấy có thêm vài đứa bạn chung số phận lưu vong đêm qua! Tôi gọi cảnh sát không được, xe kéo không được! Thấy xe cộ ê càng dọc đường rất nhiều nên đánh liều chạy vô sở! Cho tới giờ này vẫn chưa kéo được chiếc xe về shop! Buồn thì buồn chung số phận nhiều người, nhưng có nỗi niềm riêng khó nói đó là chiếc xe không có bão hiểm full coverage vì ỷ nó mới (2001) đã trả nợ hết rồi!

Buồn nào hơn buồn này! Crisis nửa đời chưa nếm mùi nhưng crisis nửa khuya thì !!! ôi thôi, ai tai!… buồn ơi xin chào mi! Vài hàng chia sẻ cho đời lên hương! Ai bảo vui vẻ có nhau, hoạn nạn chia nhau làm chi?

thanphongkingwood
03-28-2013, 09:34 PM
NHỮNG NHÁNH RONG XANH TRÊN DÒNG SÔNG TUỔI NHỎ


Buổi sáng, khi mặt trời chưa thức dậy, hắn đã ở ngoài vườn, tỉa cành tưới nước, vuốt ve những cụm hoa đang khoe sắc. Mấy chậu hoa sứ nở ngào ngạt hương. Hương hoa sứ thơm dịu dàng như một thiếu nữ trang đài đứng trên lầu mộng. Hắn lượm mấy nụ hoa mới rụng dưới cội đưa lên mũi hít thở nhẹ nhàng. Mùi thơm dịu ngọt cho hắn một cảm giác thật dễ chịu và lấy làm tiếc là nó không giữ được lâu như những loại hoa khác. Hắn bỗng mỉm cười nghĩ tới câu “hồng nhan bạc mệnh”! Hương hoa sứ thanh khiết nhưng mong manh như một người con gái trang đài xinh đẹp.

Hôm nay đã là ngày thứ Sáu trong tuần! Hắn có cảm tưởng như hắn chỉ vừa chào ai đó trong ngày thứ Sáu… một hai hôm trước! Thứ Sáu đâu mà rộn rịp thế nhỉ? Thứ Sáu đại diện cho một tuần lễ sắp hết mà càng lúc thấy nó tới nhanh hơn mình tưởng! Tâm lý con người cũng vẫn quanh quẩn như vòng trầm luân của đời sống, như bánh xe nước ở mấy chặng sông Trà, sông Vệ năm xưa: con nít vô tư, hồn nhiên mong chóng lớn, người lớn sợ thời gian, người già thích trở lại cái thuở hồn nhiên vô tư lự! Nghĩ tới cái thời “vô tư lự” lòng hắn bồi hồi chạnh nhớ những kỷ niệm xưa dù có nhiều vết tích cũng đã lờ mờ sương khói.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1364680650.jpg

Nhà hắn bên bờ xe nước sông Vệ, nơi hắn thường bơi lội với lũ bạn sau những buổi tan trường. Học mới lớp một, lớp hai mà hắn đã “bơi lội như rái” – theo lời kể của Mẹ hắn mỗi lần cùng Mẹ ôn lại chuyện xưa. Dưới chân bờ xe nước thường có nhiều tôm càng, cua xanh và cá bống mú. Cá bống sông Trà, sông Vệ mà kho rim tiêu, ăn với cơm nóng thì tuyệt cú mèo. Dòng sông này đã cho hắn khá nhiều kỷ niệm thuở thiếu thời. Một lần vô ý bị cua kẹp dưới đáy nước, hắn hét tướng lên làm nước tràn vô miệng, uống cành hông, từ dưới đáy ngoi được lên mặt nước tưởng như thời gian ngưng lại, may mà không bị chết đuối! Cũng dòng sông này đã cướp mất của hắn một người cô yêu quý! Đó là dịp kỵ giỗ hàng năm của đại gia đình bên Nội. Cô hắn cũng còn rất trẻ, thích bơi lội, biết anh em hắn bơi giỏi nên mỗi lần về là rủ đi tắm sông. Sự tin tưởng của cô đã bị phản bội khi dòng nước nhận chìm cô vì chân cô bị vọp bẻ, và anh em hắn cũng suýt chết đuối theo bà cô giã từ cuộc đời đầy bi lụy! Cũng dòng sông này anh em hắn đã từng nhặt những trứng vịt rơi rải rác nằm sâu dưới dòng nước, trên mặt cát mỗi buổi sáng khi những đàn vịt nuôi, hàng ngàn con được lùa qua; hay những đêm trăng thanh gió mát mang chiếu ra trải trên bải cát trắng phau, nghe người lớn hò đối đáp rồi cùng ngủ qua đêm với các anh chị hàng xóm. Hắn cũng nhớ Mùa Vu Lan năm nào đó rất xa trong ký ức, giọng ca cao vút của một chị huynh trưởng, trong đoàn Phật tử, hát trong đêm văn nghệ trên khán đài lộ thiên nằm trên mặt cát trắng bên dòng sông Vệ. Hắn nhớ hoài giọng hát và gương mặt đó với bài hát Mục Kiền Liên… Đìu hiu gió bóng chiều rơi theo lá thu, có đàn chim bay vấn vơ, chuông chùa xa đưa huyền mơ! Mục Kiền Liên đứng nhìn cảnh đêm dần lan, nhớ Mẹ xót xa tâm hồn, bóng Mẹ biết bây giờ đâu… Không biết là vì vóc dáng của chị đoàn trưởng, hay là vì ánh sáng huyền hoặc của đêm trăng rằm hôm đó mà từng lời ca, từng dáng điệu in hằn lên tâm khảm hắn như một tỳ vết dễ yêu mỗi khi nghĩ đến, nhớ về!
Dòng sông này cũng còn một kỷ niệm nguyên xi những lần hướng dẫn gia đình chạy nấp máy bay oanh kích của giặc Pháp, hoặc các trận đụng độ giữa Việt Minh và Pháp trước ngày đất nước chia đôi, trong các hầm cát bên bờ sông gần nhà hắn mà phía trên của hầm cát là những cụm xương rồng và cây lưỡng long tua tủa gai nhọn. Những hầm cát này đã được lũ trẻ con hàng xóm, bạn bè của anh em hắn cùng đào móc chơi đùa với nhau sau những giờ tan học, hoặc để tránh những cơn nắng hạ khắc nghiệt một thời. Dòng sông này cũng là nguồn thực phẩm nuôi sống cho anh em hắn và biết bao nhiêu gia đình ở hai bên ven sông…

Khi Ba Mẹ hắn quyết định đưa đàn con đi tìm vùng đất hứa ở miền Nam trong chiến dịch khẩn hoang lập ấp của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm, anh em hắn đã bỏ ra mấy ngày, ngồi hàng giờ nơi chốn ấy để thì thầm những lời ly biệt, để gửi lại những tiếc nuối khôn nguôi! Cái quyết định rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, xa lìa gốc gác, mồ mả tổ tiên đã bao đời gầy dựng để xuôi Nam “vì tương lai con cháu” của Ba hắn là một biến cố trọng đại cho gia đình và giòng họ. Cái quyết định đã gây sững sờ không những cho giòng họ mà còn cho cả xóm làng. Ba hắn đã thuyết phục một số bà con và những bạn bè thân cận cùng “đi lập nghiệp” ở một nơi chốn chỉ biết qua giấy tờ và lời thuyết phục từ các cấp chính quyền. Người ta xầm xì, bàn qua tán lại cho là “đi về chốn rừng thiêng nước độc” khiến một số gia đình thay đổi ý định, kẻ ở người đi! Cho tới lúc này, ngồi đây viết những dòng này, hắn cũng cảm nhận cái quyết định của Ba hắn thời đó là một quyết định “dữ dội”, là một sự can đảm phi thường, là một sự liều lĩnh có tính toán! Hắn chợt nhớ nghĩ đến người cha thân yêu, hắn càng cảm phục sự nhìn xa thấy rộng của Người, cái quyết tâm dũng cảm của Người, và càng biết ơn Người!

Nói đến thời kỳ khẩn hoang lập ấp, hắn nhớ ngay đến hai dãy nhà tiền chế nằm hai bên con lộ đất đỏ mù trời duy nhất được ủi vội để chào đón những gia đình mới tới! Lúc đoàn xe vận tải nối đuôi đổ người xuống, sau mấy ngày di chuyển vô cùng vất vả trên đoạn đường dài từ miền Trung mịt mù xa lơ xa lắc, hắn không biết là khoảng thời khắc nào, chỉ nhớ mặt trời đã nằm sâu dưới những tàng cây đầy kỳ bí mà chung quanh là núi rừng dày đặc hoang vu! Có tiếng khóc bất an của một vài người đàn bà và em nhỏ hòa cùng tiếng côn trùng và chim muôn kêu rả rích tạo nên những khúc nhạc thê lương ảm đạm! Những gốc cây trơ trụi còn sót lại chỏi lên khắp nơi, những đống cây khô khổng lồ được xe ủi gom vào từng hàng dài càng làm cho cảnh vật thêm phần u tịch! Hắn nhớ như in vẻ mặt chịu đựng của Mẹ hắn, dấu vội đi những giọt nước mắt lăn dài khi vừa đẩy cửa bước vào một trong hai căn nhà dành cho gia đình hắn. Căn nhà khá rộng nhưng mái lợp bằng tranh, vách ngăn bằng lá. Mẹ nghẹn ngào nói với đàn con “các con ráng chịu khổ một thời gian, chắc chắn mình sẽ được chính phủ giúp đỡ để tạo dựng một đời sống ổn định hơn cho tương lai của các con”!

Hắn nhớ quá thời gian tân khổ nơi này… những cánh đồng hoang vu mênh mông mầu mỡ, những khu rừng bát ngát vô tận, những rừng mai bạt ngàn mỗi khi xuân về tết đến. Những hồ ao, đồng lầy đầy ắp cua cá, con sông La Ngà lặng lờ chứa đựng dư thừa thủy sản… rồi những ruộng lúa mênh mông, những rẫy bắp, nương đậu xanh mướt một màu, rộng bao la cũng theo thời gian cùng với sức người hiên hữu khắp nơi. Rừng rậm và thú dữ càng ngày càng bị đẩy xa, xa tận tầm nhìn… Đặc biệt mỗi khi lên mùa nào đậu, nào bắp, nào lúa tràn ngập khắp nhà từ trước tới sau, từ trong ra ngoài, vun tràn từng đống lớn. Thế mới thấy cái quyết định của Ba hắn là đúng đắn chứ không như những ngày đầu đầy ân hận! Tuy nhiên, hắn vẫn thấy khổ ơi là khổ cho những nhà nông! Trong thâm tâm hắn đã có ý nghĩ “một ngày nào đó mình sẽ lìa xa”… Nhớ ơi là nhớ Cánh đồng lớn, khu rừng Mai, con sông La Ngà, ngọn Đồi Bảo Đại với những hàng cây vú sữa rợp bóng dọc theo con đường trôn ốc từ dưới lên tận đồi cao nhưng nay đã không còn chủ…

Hắn chợt nhớ ngày đầu tiên khai trương khu trường Trung Học Công Lập đệ nhất cấp Võ Đắt. Anh em hắn là một thành phần trong loạt học sinh Trung học đầu tiên vào học trường này. Ngày cắt băng khánh thành, anh em hắn được mặc đồng phục toàn trắng, trông rất oai nghiêm đứng hàng giờ dưới trời nắng chang chang để chờ sự xuất hiện của Cụ Ngô Tổng thống! Mặc bộ đồ đặc biệt này lòng hắn sung sướng xiết bao, hắn thấy như mình lớn hẳn ra, đi đứng trang nghiêm, nói năng chững chạc. Ở nhà, hắn đã phải đứng xoay qua xoay lại “cho Mẹ nhìn ngắm thanh niên của Mẹ một lúc”. Hắn chợt nhớ quá những khuôn mặt thân thương cùng hắn chia sẻ những nỗi vui niềm buồn của một đời học sinh trên cái xứ đất đỏ buồn tênh xa cách thị thành! Nào Tươi, nào Thành, nào Hiền, nào Tư, nào Ánh, nào Thu, nào Hạnh… nay kẻ còn người mất… người phương này kẻ tận mờ xa!

Hình bóng Tươi bỗng nhiên xuất hiện. Tươi là thằng bạn thân nhất từ những ngày khốn khó đầu tiên. Hai đứa cứ quấn quít nhau từ trường về nhà, từ ruộng qua rẫy. Đi đâu, làm gì cũng có hai đứa. Rất lâu năm, hai đứa thường chụm đầu đánh cờ tướng mà bao giờ hắn cũng thua, có may mắn lắm cũng chỉ thí quân theo kiểu lưỡng bại câu thương để thủ huề. Tươi nói “làm sao mầy đánh lại tao được, tao nghĩ trước tới bảy nước cờ”. Hắn nói với Tươi “mầy cũng có đánh lại tao đâu, tướng thư sinh của mầy chỉ cần ba mươi giây là tao cho chổng vó lên trời”! Mỗi lần nghe hắn nói vậy Tươi chỉ cười! Tươi không thích tập võ mặc dầu Ba hắn sẵn sàng dạy võ cho nó. Ba hắn chỉ dạy võ cho mấy anh em trai trong nhà mà thôi, dứt khoát không nhận dạy người ngoài, mà Tươi là trường hợp ngoại lệ, thế mà nó không chịu học mới tức chứ! Cũng vì cái tài đánh cờ của nó mà hắn cũng được hưởng lây khi đi đấu với các người lớn tuổi ở nhiều chỗ khác nhau trong thôn xóm hoặc các làng lân cận. Chiến thắng là những phần quà bánh tình cờ. Vâng, chỉ là những bánh kẹo tầm thường nhưng thời đó, nơi chốn đó đã là một ưu đãi! Bù lại thì hắn cũng giúp bảo vệ cho Tươi những lần gặp những người thua cờ nổi nóng. Mà cái vụ bị nổi nóng, đập bàn cờ, hoàn đi hoàn lại, cãi tới cãi lui luôn là chuyện thường tình!

Sau khi học xong lớp Đệ Tứ, Tươi với hắn tạm chia xa, vì hoàn cảnh gia đình đặc biệt nên Tươi không cùng lên tỉnh thành với hắn và một số bạn học cùng lớp, mặc dù Tươi học rất khá. Tươi ở lại với ruộng vườn cho đến năm 17 tuổi thì tình nguyện gia nhập Địa Phương Quân. Hắn không nhớ rõ Tươi làm chức vụ gì nhưng lâu lâu lại đưa lính đi huấn luyện ở tỉnh lỵ Bình Tuy. Có một lần, trong dịp nghỉ hè, hắn về thăm gia đình thì gặp lúc Tươi phải đưa lính đi. Tươi chạy chọt cách nào không biết mà hắn được cùng Tươi đi máy bay về tỉnh cùng với mấy chục người lính mới. Phải nói đó là lần đi phi cơ đầu tiên trong đời nên hắn rất vui và hồi hộp lẫn hãnh diện.

Sau khi làm xong công vụ, hai đứa tới ở trọ nhà anh Cát, một người bạn vong niên trong lính của Tươi. Buổi tối hôm đó là một đêm trăng tỏ, anh Cát rủ hai đứa mang đầy đủ mùng mền chiếu gối, lò nướng, cần câu… đi câu và ngủ trên biển! Hắn nghe hấp dẫn quá chịu liền. Thế là ba anh em tất bật chuẩn bị cho chuyến đi chơi đêm trên thuyền và trên biển. Anh Cát không quên ghé một tiệm tạp hóa mua theo mấy lít rượu trắng. Đêm hôm đó là một đêm nhớ đời. Câu được con nào nướng con đó trên lò than hồng, gió mát trăng thanh, chén anh chén chú cụng suốt, xỉn hồi nào không hay. Khi thức dậy vào buổi sáng vẫn thấy con thuyền lênh đênh, loanh quanh trong vùng vịnh cách bờ khá xa mà Tươi và anh Cát vẫn đang ngủ ngáy tưng bừng! Ở Bình Tuy có một vùng biển rất đặc biệt. Từ bờ ngó ra Hòn Bà xa xa là một vùng rộng lớn nhưng rất an toàn vì dòng nước chỉ chảy vòng vòng bên trong vịnh, quanh năm sóng yên gió lặng. Phải nói chuyến đi này là một kỷ niệm khó quên. Lòng hắn vẫn luôn bồi hồi xao xuyến mỗi khi nghĩ về!

Hắn lại nhớ Thanh, đứa con gái 16 tuổi như nụ hoa quỳnh vừa chớm nở, hương sắc dịu dàng. Hắn quen Thanh trong những sinh hoạt của gia đình phật tử tại địa phương. Tuổi thiếu niên thuở ấy rất hồn nhiên, trong sáng. Mà người lớn dường như không ai để tâm phân biệt nữ nam như bây giờ. Có một lần cắm trại tại khuôn viên chùa, cả nam lẫn nữ cùng cho ngủ chung trong một “căn lều cộng đồng”, nằm như xếp cá mòi. Cả nam lẫn nữ theo lệnh Thầy được nằm chung với nhau, chỉ cần quay đầu ngược lại nhau. Hắn và Thanh nằm ở giữa. Lúc chưa ngủ hai bên vẫn nghịch ngợm đạp chân nhau, nói cười vô tư lự đi vào giấc ngủ. Lúc gần sáng, khi tiếng chuông mõ khai kinh làm hắn giật mình tỉnh giấc, hắn mới phát giác ra cô bé đang ôm hắn ngủ ngon lành! Đứa con gái 16 tuổi đã trổ mã dậy thì như một đóa hoa xuân phơi phới đang gác tay gác chân lên người hắn! Tự nhiên cả người nổi gai lạnh với cảm giác nhột nhạt khắp châu thân. Hắn cảm thấy nhịp tim loạn xạ, thở hít khó khăn vì hương tóc nồng nàn quyện với mùi thịt da con gái làm hắn ngất ngây ngây ngất, nửa muốn gở ra, nửa muốn ôm chằm. Đầu óc phấn đấu kịch liệt cố nghĩ tới những điều trong sáng. Hắn tự nói cho hắn biết là mình đang ở chùa, là một phật tử thuần thành, là phải tôn nghiêm giới luật! Hắn lẩm nhẩm lặp đi lặp lại năm điều tâm nguyện của người thanh niên Phật tử: “Phật tử quy y Phật Pháp Tăng và giữ giới đã phát nguyện; Phật tử mở rộng lòng thương, tôn trọng sự sống; Phật tử trau dồi trí tuệ, tôn trọng sự thật; Phật tử trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm; Phật tử sống hỷ xả để dũng tiến trên đường đạo”! Hắn băn khoăn tự hỏi không biết Thanh vô tình hay cố ý, và càng lúc càng run hơn! Có lẽ sự run rẩy của hắn và tiếng chuông mõ công phu cũng đã làm cho Thanh thức giấc! Hắn thấy Thanh tự động buông ra và xoay người về hướng khác! Hắn thở phào như trút được gánh nặng dù sự nuối tiếc vẫn lâng lâng. Hắn nhanh lẹ ngồi bật dậy, ra ngoài sân chạy một vòng chùa để cố quên và dấu sự bẽn lẽn!

Mặc dù sau đó cố tránh mặt nhau một thời gian – có thể là tại vì đã có tình ý, và cũng muốn tránh cho nhau những cảm giác ngượng ngùng – nhưng tình cảm của hai người ngày càng thân thiết hơn. Tới một ngày kia, trong buổi sinh hoạt tuần lễ cuối cùng, hắn thông báo với đoàn là sắp đi học xa, Thanh mới tìm cách nói cho hắn biết là chiều hôm sau sẽ để phong thư trên đầu cây chuối thứ tư trên con đường chạy xe đạp nối liền hai xóm nhà. Sáng hôm sau hắn kín đáo leo lên cành mít cao, lén viết thư tình rồi nôn nao chờ đợi buổi chiều để trao đổi. Buổi chiều đang ngồi trước sân ngó mong ra ngõ, hắn thấy Thanh chạy xe đạp ngang qua mà không hề ngó vào như mọi lần. Chờ cho Thanh đi khuất một lúc sau, hắn lấy xe đạp chạy qua con đường nhỏ. Hắn tới cây chuối thứ tư, ngó trước ngó sau mới dò tìm phong thư ẩn dấu. Phần thì hồi hộp, phần lo có người đi qua, tim hắn đánh như trống làng mà tìm mãi vẫn không thấy thư đâu cả. Hắn trở lại đầu đường và đếm số lại, nhưng vẫn không tìm thấy thư của Thanh. Đang ngẩn ngơ, bối rối hắn mới kịp nghĩ hay là cây chuối thứ tư đếm từ bên kia sang? Quả đúng như thế, phong thư được gói ghém rất cẩn thận để phía trong bẹ chuối khuất tầm nhìn. Hắn để thư hắn vào thế chỗ rồi đạp xe ngang nhà Thanh. Thấy Thanh đứng trước hiên nhà, hắn nhẹ gật đầu và quay mặt về phía sau ý nói có thư chỗ đó. Thế là nguyên tuần lễ còn lại, ngày nào cũng lặp đi lặp lại bài bản cũ cho đến ngày hắn khăn gói lên xe đò đi về Long Khánh trọ học. Lúc xe lăn bánh hắn mới thấy bàn tay Thanh kín đáo vẫy chào!

Nhớ về những ngày trọ học ở Long Khánh thì không thể không nhớ một cuối tuần cùng Tư và Thành rủ nhau chạy xe đạp về Võ Đắt. Đoạn đường hơn ba mươi cây số với đồi giốc chập chùng, rừng cây cao rậm, cọp beo không thiếu… với chiếc xe đạp “typical one speed” thời đó nặng chình chịch… thế mà ba đứa quyết định “thử” một chuyến ra sao! Hôm đó trời mưa lất phất, ba đứa đang hân hoan đổ giốc sau khi cặp giò tê tái vượt lên một con giốc dài. Đang ngon trớn bỗng cả bọn xanh mặt, thắng gấp, dùng cả gót giày ép vào bánh xe vì phía trước không xa có một con voi to cao dềnh dàng đứng chắn lối đi. Theo kinh nghiệm người đi rừng dạy lại, ba đứa từ tốn dẫn xe vừa run vừa đi lùi lên đầu giốc… chờ một thời gian khá lâu cho con voi đi khỏi mới ngó trước ngó sau, phóng nước đại qua truông. Nói tới Long Khánh không thể không nhớ những vườn cà phê, sầu riêng, chôm chôm sai trái của mấy người bạn học bản xứ. Nhớ nửa trái sầu riêng con bé nhà hàng xóm khép nép để ở góc bàn học rồi chạy biến về nhà vào một buổi trưa khi hắn đang ngồi ôn luyện bài thi. Nhớ gia đình anh chị Ngữ đã cho ăn cơm tháng suốt mấy năm dài. Nhớ những lần đi biệt tăm cả tuần không dám đụng tới bát đũa vì sợ thịt chó! Hắn đã học được cái tính “không nên giận ai quá 15 phút” của anh Ngữ. Nhớ anh chị với nụ cười nhân hậu, tấm lòng bao dung luôn luôn khuyến khích hắn trong việc học hành!

Nhớ những mũi kim thêu hai con chim yến bay song song trên vùng núi nhỏ ở góc chiếc khăn “mouchoir” trắng mà cô em gái của thằng bạn học chung lớp thẹn thùng gửi tặng khi hắn từ biệt về học Saigon. Cũng vì sự tích này mới nảy sanh ra một bút hiệu mà theo thời gian mất đi dấu sắc (vì có người phê bình chữ “Yến” nghe yếu xìu)! Nhớ tới hãng kem đậu xanh ngon tuyệt vời ở đầu ngõ nhà trọ là nơi lũ học trò xa nhà tụ tập sau những buổi cơm chiều. Nhớ giọng rao hàng của ông Tàu già bán bánh bò bánh tiêu mỗi xế trưa qua xóm, nhớ tiếng gõ lóc cóc hằng đêm của xe bán hủ tíu dạo bên đường của một ông Tàu khác mà hắn vẫn nghĩ chưa có đâu ngon bằng… nhớ ơi là nhớ!

Ôi những kỷ niệm vẫn bám theo hắn cả đời, thật gần nhưng cũng thật xa, xa tít mù trong tiềm thức! Có phải không khi nhìn bóng chiều rơi người ta thường nhớ về những bình minh có muôn sắc muôn mầu, tiếc những giọt sương long lanh trên đầu cánh lá?! Câu tiếng Pháp trong bài Triết học hồi còn lớp 12 làm cho hắn nhớ hoài: “chúng ta không bao giờ có được tâm hồn của buổi chiều hôm nay” (nous n’aurons jamais plus l’âme de ce soir), có thể rất đúng nhưng sao mỗi khi chạnh nhớ về những ngày thơ ấu lòng hắn cũng bâng khuâng rung động, cũng xao xuyến bồi hồi! Tai vẫn như nghe tiếng kẻo kẹt của bờ xe nước, mắt vẫn mơ màng thấy lũ con nít đứng trên bờ cao nhảy tùm xuống dòng sông tuổi nhỏ, mũi vẫn thoang thoảng mùi hương thơm của lúa chín, mùi rạ nặc nồng cuối mùa gặt…

Viết ở rừng Kingwood

thanphongkingwood
04-19-2013, 02:15 PM
Đường Về Ôi Quá Dài!
Yên Sơn

Ba anh em hắn đi làm về từ một hãng bán xe hơi khá lớn trong vùng, nơi mà hắn được mướn làm tài xế giao nhận xe từ dealer này qua dealer các làng xóm lân cận khác; còn hai chú em thì rửa xe và trong những giờ rỗi việc phụ hai bà Mễ già lo sạch sẽ hãng xưởng. Ngày làm 8 tiếng, được trả công $2.00/g. Công việc đỡ vất vả hơn nhiều dù tiền lương hàng tuần có ít hơn; hai chú nhỏ tạm vui vẻ chấp nhận trong hoàn cảnh không còn chọn lựa nào hơn. Nghĩ tới cơn nắng Hạ vừa trải qua, chỉ có một tháng dài mà như vô tận. Cái nắng cháy da còn để lại dấu vết đen đúa trên hai tay trần và mặt mũi anh em hắn cũng thấy rùng mình!

Buổi chiều mùa thu thật dịu yên, ánh nắng vàng chênh chếch trải đều trên những khu dân cư thưa thớt, đường sá không rộn ràng như ở phố, thỉnh thoảng vài chiếc xe chạy thong thả trên con đường tráng nhựa phẳng lì. Lâu lâu lại thấy vài người cưỡi ngựa, buông lỏng dây cương, thong dong bên nhau một cách nhàn hạ. Hãng không xa nhà nhưng anh em hắn cũng dùng xe – chiếc Chrysler 8 máy, đời 68, được ông chủ vừa bán lại với giá $600. Nhà là một cái cottage house (loại nhà khách ngắn hạn) với một phòng tắm, một nhà bếp nhỏ, một phòng ngủ, một phòng khách. Nhà ở phía sau vườn nhà chính, đi qua một khoảng sân rộng trồng đầy hoa và những rau cỏ, nơi mà mỗi sáng ông bà chủ nhà vẫn bên nhau cặm cụi làm vườn. Những luống hoa đủ màu sắc làm tăng vẻ thơ mộng cho căn nhà hắn thuê cũng làm cho anh em hắn đỡ tủi thân.

Đời sống của anh em hắn cũng âm thầm, lặng lẽ trong những nhớ nhung vời vợi. Anh em hắn cứ nêu lên câu hỏi mà không ai có thể trả lời được: “làm sao để biết tin tức gia đình”. Thời gian nhàn hạ về đêm quá nhiều cho những xót xa, cho những xao động, cho những lo nghĩ tương lai! Không lẽ cứ thế này, cứ sống lặng lẽ âm thầm nơi hoang vắng này!?! Không biết bắt đầu từ ngày tháng nào mà cả ba anh em đều uống bia thay nước, thuốc lá cầm tay! Nhiều lúc hắn muốn nói với chú nhỏ không được uống bia, không được hút thuốc, mà biết nói làm sao trong khi hắn liền tay phì phà khói thuốc và đêm về cứ nốc bia khan? Bù lại, anh em hắn rất thương mến, nhường nhịn nhau, ai cũng muốn củng cố tinh thần người khác trong khi chính mình lại thấy bất định vô cùng! Hắn bao giờ cũng được hai chú em nhường ưu tiên tắm trước mỗi chiều đi làm về.

Hai chú thường nói là hắn “quyền huynh thế phụ” nên mỗi mỗi đều nghe lời và luôn nhường nhịn. Í da, hắn muốn dùng cái quyền này nói hai chú nhỏ đừng bày đặt uống bia hút thuốc như hắn nhưng không thể mở miệng được nên đành phải cười trừ! Hắn vẫn luôn ghi nhớ lời dạy bảo của Ba là tập tính công bình và trọng tinh thần dân chủ nên không bao giờ át giọng hoặc chiếm tiện nghi với các em. Quyết định gì cũng đem ra thảo luận để lấy ý kiến số đông; đi chợ thì hầu hết cùng đi cho vui, nấu ăn chia đồng đều, nhưng hai chú nhất định không để cho hắn rửa chén, quét nhà.

Trong khi hai chú chia nhau đứa đọc sách học tiếng Anh – người bạn Mễ ở sở thất nghiệp mang tới hôm qua cùng với cây đàn guitar cho mượn khi biết hắn thích nghêu ngao đàn hát – đứa kia lo nấu cơm tối. Hắn ra ngoài tưới nước mấy cụm cúc vàng trước cửa nhà mà hắn đã theo ông bà chủ đi chợ mua về trồng vào cuối tuần qua. Hắn nhớ hoài câu thơ dễ thương của Nguyên Sa “áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc”, vì không khác gì người thi sĩ tài hoa này viết giùm cho hắn (người con gái để lại Saigon vẫn hay mặc áo dài màu vàng mỗi lần đi chơi với hắn). Buổi chiều mùa Thu Pearsall khí trời dịu mát hẳn ra. Nhìn những cụm hoa vàng lung linh trong gió Thu nhè nhẹ và giữa không gian thinh vắng lạ lùng, từng chiếc lá vàng âm thầm rơi khiến lòng hắn bồi hồi, se thắt! Hắn nhớ cha mẹ, anh em đến xót xa! Hắn chợt nghĩ tới bản nhạc Lòng Mẹ của Y Vân và thèm hát quá chừng! Hắn trở vào lấy cây đàn ra ngồi trên chiếc ghế cũ trước cửa, lòng rưng rưng nhớ mẹ vô vàn

“Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào… Dù cho mưa gió không quản thân gầy Mẹ hiền. Một sương hai nắng cho bạc mái đầu buồn phiền. Ngày đêm sớm tối vui cùng con nhỏ một niềm. Tiếng ru êm đềm mẹ hiền năm tháng triền miên”.

Hát đến đây hắn bỗng nghẹn ngào, giọng lạc đàn lơi! Dạ phải Mẹ ơi! Lặn lội gieo neo nuôi chúng con tới ngày lớn khôn để chúng con đi làm lính, mong lũ con bảo vệ được quê hương gấm vóc; nhưng Mẹ có ngờ đâu hả Mẹ?! Đứa con lớn của Mẹ đã thua đau, thua đậm tưởng đã vùi thây nơi chiến trường, còn hắn và hai em thì thân nay đất khách quê người, lỡ cu-li, lỡ học trò, trôi nổi bơ vơ, không một tin tức gia đình! Hắn chợt hồi tưởng lại khúc phim cũ về người anh ly biệt!

***

Nhớ lại những tháng ngày cuối cùng của Quân đội Miền Nam thật là thê thảm. Anh lớn hắn BĐQ trấn giữ ở Hố Bò, Trãng Bàng… ngày cuối tháng Ba 1975, giặc tràn vào, căn cứ thất thủ, anh gọi Không Quân yểm trợ và hắn ngẫu nhiên đang bao vùng ngay lúc đó…. được điều động tới giãi vây… nhưng thật là vô dụng, giặc tràn ngập căn cứ, ông anh đã yêu cầu trút bom đạn thẳng xuống đầu, nghĩa là ngay giữa lòng quân ta, lúc đó đang đánh cận chiến trong vô vọng với biển người giặc cộng! Hắn nhớ như in trong đầu câu nói tuyệt vọng nhưng đầy cương quyết, dũng liệt của anh:

- Giặc đã tràn ngập căn cứ! Bạn phải trút ngay xuống đầu tôi, tôi thà chết chứ không muốn bị giặc Hồ bắt sống! Vĩnh biệt!

Tiếng máy “cụp” khô khan, căn cứ phía dưới bên cánh trái khói lửa mịt mù! Hắn đã vừa khóc vừa xông vào trận, trút hết hỏa lực xuống trận địa rồi thẫn thờ rời trận địa chết lịm trong nỗi đớn đau cùng cực trong đời!

Cuộc sống hắn xáo trộn tơi bời hết mấy tuần lễ nhưng vẫn đi bay gần như mỗi ngày. Hắn tình nguyện bay, hắn năn nỉ được bay, hắn sôi máu vì hờn căm không còn chỗ chứa. Hắn theo dỏi chiến trường phía Tây, hắn mở rộng tai nghe ngóng tin tức. Đơn vị của anh hắn đã được báo cáo mất liên lạc! Hắn ước ao, hắn cầu nguyện một phép lạ cho anh hắn an toàn trở về!

Bỗng một hôm anh hắn tìm tới chỗ trọ của anh em hắn ngay trong lòng Saigon, với bộ quân phục rách bươm, người ngợm không giống ai, xanh như tàu lá! Hắn còn đang bàng hoàng, thảng thốt, ngỡ như chiêm bao thì anh hắn đã ôm chầm lấy hắn nói quắn quít trong nước mắt! “Em ơi! Hết rồi! Nhà tan, nước mất!” Rồi anh nói luôn một hơi: “Anh về đây chỉ còn anh và thằng đệ tử truyền tin, thầy trò đã băng rừng, lẫn trốn suốt từ ấy đến naỵ. Anh nhục nhã quá, không giữ được căn cứ, không bảo vệ được đồng đội của mình, cả đơn vị hầu như bị tiêu diệt, số còn lại thất lạc nơi đâu không rõ! Rất tiếc anh không đủ can đảm chết theo anh em, anh vẫn nghĩ còn nước còn tát, vẫn hy vọng gở lại mối nhục này! Anh đã về lang thang ở Saigon mấy hôm nay, dự định trình diện để tìm cơ hội phục thù, nhưng thấy tình hình hiện nay không còn hy vọng nữa, anh đến thăm các em xong tìm cách trở về với gia đình, với cha mẹ, anh đã xa lìa gia đình khá lâu rồi!” Đó là ngày 27/4/1975!

Anh em hắn đã ôm nhau khóc sướt mướt! Hắn biết anh lớn là người không sợ trời, không sợ đất, anh đã tình nguyện đi bao nhiêu binh chủng dữ dằn khác nhau, gan lì và dũng mãnh lắm. Trong đời hắn chưa bao giờ thấy anh ấy khóc! Hắn đã năn nỉ anh ở lại với hắn vì tình hình nguy ngập quá mà đường về quê thì đầy bóng giặc thù! Anh bảo hắn yên tâm, nếu anh đã về từ cõi chết thì không còn gì để sợ nữa, anh cần về với cha mẹ và gia đình giữa cơn loạn lạc! Anh em hắn ăn với nhau bữa cơm chia tay đầy nước mắt!

***

Dòng tư tưởng bị đứt đoạn bởi hai bàn tay vịn nhẹ trên vai hắn, hai chú em đã đứng đó từ hồi nào! Thấy mắt chúng đỏ hoe, hắn cũng không thể kềm giữ được những giọt nước mắt của chính hắn! Ba anh em ôm chầm nhau để mặc hao dòng nước mắt nối nhau lăn dài!
Một lúc lâu cơn đau buồn lắng đọng, chú em nhỏ mượn cây đàn dạo tiếp bản nhạc lỡ chừng, ba anh em cùng hát trong sụt sùi ngấn lệ…
Lòng Mẹ chan chứa trên bao xóm làng gần xa. Tình Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để nghe. Lời ru xao xuyến núi đồi suối rừng rặng tre. Sóng ven Thái Bình im lìm khi tiếng Mẹ ru.
…Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu. Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu. Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng nhạt mầu. Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng mẹ yêu.
Vâng Mẹ ơi! Chưa lúc nào trong đời bằng lúc này chúng con mong ước được về nương tựa mẹ cha! Chưa lúc nào trong đời bản nhạc này đã làm chúng con vun tràn niềm xúc động!

Anh em hắn đứng dậy tính đi vào dùng cơm tối nhưng cả ba cùng khựng lại vì một cô nương tóc vàng xuất hiện phía cửa sau đang vẫy tay chào. Có lẽ thấy anh em hắn ngỡ ngàng và nhìn mình chăm chăm, cô bé tiến về phía anh em hắn, cất giọng tự nhiên:
- You guys hát tiếp đi, tôi rất thích nghe loại âm nhạc you guys vừa hát, đó là loại nhạc gì mà tôi chưa từng được nghe. Lời nhạc nói về cái gì mà nghe rất là buồn bã?

Hắn chưa kịp trả lời thì cô bé đã liếng thoắn nói tiếp:
- Tôi chắc đó là nhạc Việt Nam phải không?
- Ủa cô nói chưa từng nghe bao giờ sao cô biết đó là nhạc Việt Nam?
- Tôi nghĩ người Việt Nam chắc phải hát nhạc Việt Nam! Cô bé nheo một mắt.
- Làm sao cô biết chúng tôi là người Việt Nam mà không là Tàu, Nhật, Đại Hàn?
Cô bé nhoẻn miệng cười ranh mãnh, chỉ vào hắn nói tiếp:
- Tôi còn biết you guys đang hát bản homesick (nhớ nhà) và tên you là Twan, là anh lớn trong 3 người, you guys là người tỵ nạn mới tới, mướn căn nhà này được gần hai tuần lễ và đang làm cho hãng bán xe Ford gần đây nữa.
- Tôi chắc là ông bà chủ nhà đã nói với cô. À mà cô liên hệ ra sao với ông bà chủ nhà?
- Họ là ông bà nội của tôi. Buổi trưa tôi vừa đến đây cùng với ba mẹ để thăm ông bà Nội vài hôm trước khi trở lại trường.

Hai chú em hắn nói chuyện sợ mỏi tay nên hắn tự nhiên làm phát ngôn viên cho cả ba. Cô nhỏ tự giới thiệu tên Deana Tricks. Hai chú em cũng lần lượt tự giới thiệu tên và cô nhỏ đưa tay ra bắt tay từng người. Khi bắt tay hắn dường như cô nhỏ cố ý giữ hơi lâu, ngó thẳng vào mắt hắn làm hắn ngại ngùng ngó lãng chỗ khác. Thấy cô nhỏ linh mẫn và thân tình, lại thông minh, lanh lợi, bạo dạn có thừa làm hắn cảm thấy vui vui:
- Cô đến từ đâu, và ở lại bao lâu?
- Chúng tôi ở Houston đến. Phải lái xe hơn bốn tiếng đồng hồ. Mỗi mùa nghỉ hè Ba Mẹ tôi thường cho tôi về thăm Nội trước khi nhập học. Ở đây yên tĩnh và buồn quá, toàn nông trại bao la, tôi chưa bao giờ thích ở lâu nhưng nghe Ba Mẹ tôi nói sẽ ở lại tới Chủ Nhật mới về!
- Cô tới đây được mấy lần rồi?
- Dường như mỗi năm từ lúc tôi có thể nhớ được. Đến nỗi tôi biết mọi ngõ ngách ở đây.
- Ơû đây có gì… “hay” không?
- Nông trại bạt ngàn, chả có gì hơn ngoài một con suối nhỏ có thể tắm được, câu cá được và mấy nơi cho mướn ngựa cưỡi đi chơi!

Chúng tôi chưa kịp nói gì hơn thì cô bé tiếp lời:
- You guys thích đi câu, đi tắm suối và cưỡi ngựa không?
- Câu thì được, thích tắm suối nhưng chưa từng cưỡi ngựa!
- Tôi thích cả ba vì đó là niềm vui duy nhất tôi tìm được ở đây.
- Cô có dự tính làm những công việc đó lần này?
- Dĩ nhiên, Ba Mẹ tôi tính sáng mai đi cưỡi ngựa, còn tắm suối thì lúc nào thích lại đi, cách đây không xa lắm; câu cũng được nhiều cá nữa. Có thể hôm nào tôi xin Ba Mẹ dẫn you guys đi tắm suối, đi câu, đi cưỡi ngựa. You guys nghĩ sao?

Cô nhỏ này quả nhiên rất ư tự nhiên và thân tình, nói những điều muốn nói, làm những điều muốn làm. Hắn đã được học hỏi trong sách vở về phong tục, tập quán, và con người dân Mỹ, và năm xưa cũng đã du học hơn một năm ở bên này, nhưng cũng không khỏi bối rối về sự thân tình của cô nhỏ, nhất là chỉ mới gặp nhau lần đầu. Hắn nghĩ nếu gặp cô nhỏ trong cương vị ngày xưa chắc là dễ chịu hơn hoàn cảnh bây giờ!
- Cám ơn Deana nha, để cuối tuần sẽ tính!
- Còn tính gì nữa, hẹn sáng thứ Bảy nha?
Đang bối rối chưa biết trả lời ra sao thì chú em nhắc hắn đã hơi muộn. Hắn ngó đồng hồ tay, cô bé vọt miệng:
- You guys chưa ăn tối hở? Okay, tôi cũng đi về hẹn ngày mai được nghe you guys hát tiếp nha! Mong sẽ không hát bản homesick nữa nha, nhạc tình thôi! Cô nhỏ nheo mắt chìa tay.

Hắn mỉm cười bóp nhẹ bàn tay xinh xắn đưa ra, chào tạm biệt! Chờ cô nhỏ khuất bóng đàng sau khuôn cửa sau khi vẫy tay chào lần nữa, hắn ngồi vào bàn ăn cùng hai em. Chú em kế vừa bới cơm vừa nói:
- Chết anh Tư rồi, dường như nghe có tiếng sét… hmm, hmm… đâu đây! Dành nói suốt, không cho em út “tập” nói tiếng Anh gì hết!

Nói xong cùng chú nhỏ cười rộ lên. Hắn giơ tay dọa đánh, chú em rụt đầu le lưỡi làm trò hề.
- Tại anh sợ hai đứa nói mỏi tay tội nghiệp đó mà!
- Trời! Người ta đi làm hãng Mỹ rồi à nghen.
- Okay, vậy chiều mai anh làm thinh cho hai chú “tập” héng! Không đòi hỏi viện trợ nha?

Nói xong hắn xô nhẹ vai chú lớn. Chú nhỏ lại nói:
- Ui trời ơi, còn ăn hiếp mấy em nữa. Mới xa chị Ngọc Anh mấy tháng mà đã muốn phụ tình rồi! Em liên lạc được sẽ méc chị ấy biết!

Hắn bỗng tắt biến nụ cười khi nghe nhắc cái tên thân thuộc. Hắn cố nuốt trôi miếng cơm mắc nghẹn lở chừng. Chú em biết lỡ lời nên hai chú cũng lặng yên ăn cơm. Xong chén cơm, hắn âm thầm đứng lên tới tủ lạnh lấy xách bia ra ngồi trước cửa. Chú nhỏ nói theo:
- Anh Tư à, em lỡ lời nhắc nhớ, xin lỗi anh!
- Chú đâu có lỗi gì. Anh vẫn luôn nhớ nghĩ đến chị đó mà. Cũng chỉ là nỗi buồn bất chợt mà thôi!

Ngoài trời màn đêm phủ tràn khắp nẻo, vẻ hoang sơ quạnh quẽ khôn lường. Hắn nghĩ tới Ngọc Anh, nhớ xót xa con người tưởng rằng đã cùng hắn nên duyên nên phận. Nếu chiến tranh không leo thang cao độ thì đã gắn bó nhau một đời! Phải chi hắn không khờ dại như con trừu non, không cả tin là Saigon không thể nào rơi vào tay giặc một cách đường đột, bất ngờ; phải chi hắn liều lĩnh như mấy đứa bạn mang vợ con vào doanh trại ở những ngày cuối thì giờ này có thể nàng đã cùng hắn chia sẻ ngọt bùi, tân khổ; cùng nhau trôi nổi gian truân, trên bước đường hoạn nạn có nhau thì đâu đến nỗi cô tịch dường này! Bây giờ nghĩ lại hắn giận mình sao ngu hết biết! Hắn thở dài thườn thượt, nỗi muộn phiền dâng cao chất ngất: “Ngọc Anh ơi không biết bây giờ em ở đâu, làm gì, có được bình an?”.
Hắn đắm chìm trong niềm thương nhớ bật lên câu hát mơ hồ: “Không còn ai, đường về ôi quá dài, những đêm xa người. Chén rượu cay, một đời tôi uống hoài, trả lại những tin vui cho nhân gian đợi chờ!”. Lời nhạc trong bài “Phôi Pha” của Trịnh Công Sơn tự nhiên ăn sâu vào tiềm thức của hắn chỉ chực trào dâng trong hoàn cảnh bùi ngùi! Hắn không ưa gì họ Trịnh, nếu không nói là căm giận cho sự ngu muội, đâm sau lưng chiến sĩ của người nhạc sĩ thiên phú này; nhưng có một điều hắn không thể phủ nhận họ Trịnh phải là một thiên tài âm nhạc! Phải chi họ Trịnh dùng khả năng thiên phú đó để phục vụ cho ước muốn khiêm nhường của quân dân cán chính miền Nam là được sống trong thanh bình, trong cơm no áo ấm, được hít thở không khí tự do dân chủ. Vâng! Phải chi!!! Cứ quay đầu nhìn lại đoạn đường đi qua hắn thấy mình chao đảo quá, ngu ngơ quá! Cứ phải nghĩ đến cái câu vô nghĩa… phải chi, phải chi!!!

Hắn cứ ngồi miên man chìm sâu trong vũng buồn rầu vô tận với bao nhiêu điếu thuốc, bao nhiêu chai bia. Trong tâm tư lẫm nhẫm hát lời ca buồn: “Thôi về đi, đường trần không có gì, tóc xanh mấy mùa. Có nhiều khi tựa vườn khuya bước về, bàn chân ai rất nhẹ tựa hồn những năm xưa”! Hắn ngủ quên trên ghế trước hàng hiên lúc nào không biết, cho tới khi chú em kế ra dìu hắn vào phòng, hắn mới thấy thấm lạnh, sương đêm ướt đẫm cả tóc tai áo quần! Hắn vừa khật khưởng đi vừa lẩm bẩm hát, giọng nhừa nhựa như âm thanh vọng về từ cõi nào xa lắm: “Không còn ai, đường về ôi quá dài, những đêm xa người! Chén rượu cay, một đời tôi uống hoài, trả lại từng tin vui cho nhân gian đợi chờ”!

thanphongkingwood
05-02-2013, 08:11 PM
HÀNH TRÌNH PHƯƠNG ĐÔNG 2012


Lời nói đầu: “Hành Trình Phương Đông” là một bút ký có thể để nói về chuyến đi chơi về phương đông của một nhóm bạn; cũng có thể là những vui buồn của văn hóa Đông phương đang cố gắng hòa nhập vào xã hội tây phương mỗi ngày một tân tiến. Có những biểu hiện văn hóa Đông phương rất rõ nét, rất đáng quý; cũng có những nề nếp cổ truyền càng ngày càng nhạt phai!

Giữa những ngày đầu xuân thênh thang, tôi đang mơ màng với hoa với cỏ sau vườn. Điện thoại reng khi thằng bạn ở Tampa, Florida gọi nói rằng con gái đầu của nó sắp làm đám cưới vào cuối tháng tư năm nay. Tôi hỏi nó tại sao lựa “cuối tháng tư” làm đám cưới. Nó bảo con nó đã sắp xếp như vậy, phận làm cha mẹ phải nghe theo! Nó phán thêm rằng, ở thời đại này con cái đặt đâu cha mẹ ngồi đó, loạng quạng nó gửi cho một Thiệp Mời đám cưới thì buồn hơn. Tôi chưa biết nói sao thì nó lại hỏi:

- Vợ chồng mầy có đi không thì bảo? Phần riêng tao chỉ có 30 chỗ ngồi và quyết định chỉ mời bạn thân ở gần và những người bên Nội!

Nghe nó nói tôi nổi máu tếu nhanh nhẩu trả lời:
- Tao hân hạnh được đứng trong hàng ngủ bạn thân của mầy nhưng tao ở xa, mầy không mời thì tao cám ơn!
- Bố khỉ, tao không đùa với mầy đâu, cho mầy vài giây suy nghĩ, không đi thì nói một lời?
- Đi thì đi chứ làm gì dữ vậy! Mẹ, mời đám cưới mà cũng hung hăng ra lệnh!
- Vậy thì tốt, mầy nhớ cõng bà quận của mầy theo, nếu không thì khỏi. Có vợ chồng thằng P. và vợ chồng mầy thì tao còn 26 chỗ. Mầy nhớ đừng nói cho đứa nào biết, để từ từ tao tính!
- Cái thằng Mễ đen này uy quyền quá héng! Mà mầy cho tao biết tại sao mầy chỉ có 30 chỗ ngồi trong đám cưới của con gái đầu lòng?
- Chuyện khá dài dòng không tiện nói. Mầy chỉ cần biết là tao chỉ được quyền mời 30 người. Tao đang bối rối không biết tính làm sao với bà con, bạn bè thân thích!
- Ừ không nói thì không nói. Ukie dukie, tao nhận lời qua dự đám cưới cháu!

Tôi gọi nó là thằng “Mễ đen” là vì nó vừa đen thui vừa líu lo tiếng Mễ giống người Mễ thứ thiệt. Tuy vậy, cũng ẵm được một bà vợ sạch nước cản, thích ca hát, thích ăn diện như tiểu thơ thành phố dù ngày ngày cũng theo nó cày sâu cuốc bẫm, chăn Mễ như chồng. Nàng cũng đã một lần dự thi “hoa hậu phu nhân” ở xứ Phơi-Lòi-Da (Florida), dũng lược cùng nó cho ra đời 5 con phượng nhí liền một hơi, xin đẹp, dễ thương hết biết, chạy nhanh như chim trích nên đứa nào cũng là một hảo thủ bóng tròn một thời trung học. Nó đen vì ngoài nước da trời phú lại còn dải nắng dầm mưa hết ngày nọ tháng kia gần trọn cuộc đời tỵ nạn chứ nó không lai giống gì sất. Màu đen nâu nâu mà đàn bà con gái Mỹ rất mơ ước, tốn biết bao nhiêu tiền để ten-tiết mới có được chứ không phải như mấy ông thần cột nhà cháy đâu!

Từ ngày bỏ nghiệp lái máy bay, tan đàn sẩy nghé sang đây, chúng tôi ai cũng như ai, hết nghề này đến ngỗng khác… nhưng không ai trong lũ chúng tôi giàu có như nó. Lang bạt từ phương đông đến miền bắc nước Mỹ rồi về lại miền đông nam, chọn nghiệp nông trang với hàng trăm mẫu đất, trồng cây trái đủ loại, trồng đủ loại rau tươi để cung cấp tất cả các chợ Việt Nam trên nước Mỹ. Ngày ngày gian lao, so gan cùng tuế nguyệt chăn một bầy Mễ Cuba bạn thân của anh ba Nguyễn Minh Triết, nuôi 5 con phượng ăn học ngon lành. Con phượng đầu đàn đã là một bác sĩ giỏi dang, sắp lập gia đình, mấy con phượng tiếp theo đã xong đại học, đứa đi làm, đứa đang thực tập, và con phượng nhỏ nhất cũng đã năm thứ hai đại học rồi…

Nó với tôi cứ mầy mầy tao tao như thuở quân trường dù đứa nào tóc cũng đã sương khói, mắt đã mơ huyền. Tôi với nó học chung thầy ở trường bay, về phục vụ chung một đơn vị, cùng có chân trong đội tuyển volley của Không đoàn nhưng nó và P. là hảo thủ chính, còn tôi chỉ được “rờ-dzẹt” lượm banh, lâu lâu được thế vào, được nó nâng banh cho tôi nhắm lưới mà đập! Đôi khi nó nổi dóa thì tôi cười trừ “làm gì được nhau” chỉ vì tôi to con lớn xác hơn nó!

Bẵng đi một thời gian không lâu nhưng cũng đủ cho một trí óc cùn lụt quên khuấy mất chuyện hẹn hò. Một hôm nó lại gọi điện thoại hỏi tại sao vẫn chưa nhận được hồi âm xác nhận của tôi. Tôi nói với nó là chưa thấy Thiệp Mời biết ngày nào mà lấy vé máy bay. Nó bảo con gái nó xác nhận đã gửi rồi cùng một lúc với P. (một người bạn thân của tôi và nó cũng đang ở Houston), nay P. đã nhận rồi tại sao tôi lại không?

- Tao không phải con mầy cũng không phải ông bưu điện làm sao tao biết được!
- Được rồi, chính tay tao sẽ gửi lại cho mầy. Ngày đám cưới là 28/4.
- Thôi khỏi gửi nữa, tao xác nhận lại là vợ chồng tao sẽ có mặt.
- Nhưng vợ chồng mầy cần cho biết là ăn món gì. Nhà hàng Mỹ chứ đâu phải nhà hàng Việt Nam, tụi nó cần biết mầy ăn món gì!
- Món gì là món gì?
- Hoặc thịt bò với thịt gà hoặc cá với gà.
- Nghe mầy nói tưởng là chúng nó tổ chức lắc bầu cua… ừ thì cho tụi tao đặt một cửa bò, một cửa cá đi.

Mấy ngày sau tôi nhận được một Thiệp Mời đám cưới. Nhìn qua phong bì tôi chợt nhớ là mình đã vất đi cái thiệp tương tự một lần rồi vì tên trong thiệp chỉ có chữ “Le” là có hơi hám tiếng Việt còn lại là tiếng ngoại quốc, lạ hoắc; tên cha mẹ hai bên cũng không có! Chuyện nhận Thiệp Cưới của người lạ là chuyện thường ngày ở huyện. Số đông người Việt Nam tính ưa khoe khoang, ai cũng muốn đám cưới con của mình lớn hơn người khác nên gặp ai thân sơ cũng mời. Có người còn nói nửa khuya đang ngủ bỗng giật mình trực nhớ tới người quen, lại cặm cụi ngồi dậy viết Thiệp Mời kẻo quên! Bởi vậy, trong mùa cưới một gia đình có thể nhận 5, 6 Thiệp Mời mỗi tháng cũng là chuyện thường ở huyện. Thời buổi này mà cứ nhận dài dài như thế thì còn tiền bạc đâu mà “áo gấm về làng thăm cô Thắm” cho được! Rất thường khi hai vợ chồng phải chia nhau chạy sô mỗi nơi một chút cho tròn đạo nghĩa!

Nhìn tấm thiệp thấy nhiều khả nghi, tôi gọi điện thoại hỏi P. mới biết đúng là Thiệp Mời đám cưới con gái thằng Mễ!

Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp về thăm lại bạn bè ở Florida. Lần sau cùng cách đây gần 10 năm, nhân dịp giới thiệu tập thơ “Một Đời Tưởng Tiếc” với bạn bè và độc giả xứ này, tôi đã về nông trại chơi với “thằng Mễ”. Gần một tuần lễ, tôi đã theo nó tập chạy máy cày, cắt rau muống, hái bưởi, hái bầu, bí, khổ qua… đi phi trường gửi rau bỏ mối ở các tiểu bang khác… Một tuần lễ sống lại cảm giác xưa cũ, hít thở được không khí trong lành với hương đồng cỏ nội làm tôi bùi ngùi nhớ về một dĩ vãng xa xăm. Tôi gọi P. sửa soạn chuyến đi. Cái ông thần nước mặn này nữa, rất khó để kéo nó ra khỏi comfort zone (vùng an toàn) của nó. Tôi phải đưa đủ thứ lý do để thuyết phục nó cùng đi với tôi làm một chuyến vui chơi. Tôi liên lạc với những bạn thân của nó và tôi ở một thời sanh tử nói rằng muốn ghé thăm ngày… tháng… Dĩ nhiên ai cũng vui mừng chào đón! Niên trưởng T. ở tận tiểu bang Maryland được “thằng Mễ” chiếu cố và biết được chúng tôi có cả một chương trình khám phá Phơi-Lòi-Da, anh hỏi lịch trình và quyết định bỏ vé máy bay mua rồi, mua vé mới cùng ngày giờ để cùng đi với chúng tôi cho có bầu có bạn.

Ngày N tới. Chúng tôi vui vẻ lên đường. Phi cơ đáp ở Orlando lúc 10g30 đêm, thuê xe tại phi trường chạy một mạch đến Port St. Lucie, nhà của H. vọng cổ mà tôi gọi hắn là “Mễ già cô đơn”, lúc 1g15 sáng. Mễ già cô đơn vốn là công tử Cà Mau, một thời danh gia vọng tộc, khóa 69B. Cũng như nhiều quan không có quân khác, ông Mễ già cô đơn này sau bao nhiêu dời đổi đã từ bỏ mộng vào Whitehouse đưa vợ con về miền Phơi-Lòi-Da nắng ấm an hưởng tuổi về chiều để sáng sáng vác cần câu ra biển, chiều chiều chà láng xe classic collection. Trong nhà đã có hai thằng nẫu khác đợi từ trưa. N. up-side-down (có dịp tôi sẽ nói về nhân vật này) đến từ Minnesota, và AC L. đến từ Atlanta, cũng là niên trưởng hắc ám của chúng tôi. Gặp nhau tay bắt mặt mừng, nói nói cười cười, ăn cháo cá đặc biệt của chủ nhà câu bằng mồi giấy xanh, nâng ly, nâng chai cho tới gần 3g sáng mới chịu đi ngủ. Sáng mới 7g đã ồn ào café, thuốc lá. Ông nọ tố ông kia dùng máy cưa cũ rích… Cũng may tôi đi với vợ cho nên được đặc biệt mang máy cưa cùn của mình vào phòng riêng. Khi tôi bò ra khỏi chăn ấm nệm êm đã thấy vợ chồng Mễ già cô đơn dọn bữa ăn sáng. Không biết chuyện ở đâu mà nhiều thế, nói hoài không dứt, toàn chuyện mới nói lại cả triệu lần!

Không biết mặt trời đã lén chạy tuốt lên cao lúc nào giữa lúc vợ chồng brother Pham N. ở Wellington, West Palm Beach gọi ơi ới! N. là bạn cùng khóa với tôi và P. ngày xưa, thuộc trung đội người lùn gây khói lửa, nhưng là một phi công phản lực tài ba của KQ VNCH. Như vậy phe ta cũng bằng số người của phe hắc ám. Ngày thứ Sáu đáng lẽ N. đi làm nhưng mới được nửa buổi đã chuồn êm để về nhà cứu bồ. Hai xe, 7 người trực chỉ hơn 60 dặm đường về hướng nam.

Muốn vào cơ ngơi của vợ chồng N., phải đi qua một cổng gác, xét giấy như vào cổng phi trường không bằng. Tôi gọi vào nhà nói cho N. biết là hầu hết anh em mặc quần sọt nên người ta không cho vào, vợ N. tin thật đòi nói chuyện phải không với ông gác cổng nhưng vì tôi lỡ bật cười nên bể mánh, cùng lúc N. đã đứng ngay trước cổng dẫn đường, đỡ cho chúng tôi phải nghe lời mợ tóc vàng người Anh GPS chỉ chỏ quanh co. Khu nhà rất xin đẹp, hoa cỏ xanh tươi khác thường.

Sau khi ăn sáng xong, lên xe trực chỉ Miami tới nhà Trần C. Trên đường đi liên lạc, Trần C. nói ghé thăm tiệm trước rồi hẳn về nhà. Trần C. là niên trưởng của nhóm này, chỉ đứng hàng sau anh T.. Đại gia TC sở hữu một khu building khá lớn. Theo anh chị nói thì “lúc còn trẻ” anh chị đã dùng hết building mấy chục ngàn square feet để kinh doanh, gửi hàng trang trí nội thất đi khắp nước; nay bầy con đã nên người, đứa kỷ sư, đứa bác sĩ, đã có nội ngoại đề huề, anh chị quyết định thu vén lại chuẩn bị về hưu. Chỉ nhìn vào kho chứa còn lại khoảng 1/5 diện tích gọi là “thu vén” tôi cũng đã nhức đầu hoa mắt với hàng ngàn, hàng vạn món, lớn nhỏ khác nhau.

Rời khỏi tiệm, TC đưa chúng tôi về nhà để ăn uống, tắm rửa. Dự định là chờ nắng dịu xuống sẽ đưa mọi người đi ra biển chữa mắt… tính lui tính tới nhưng mộng không thành vì đồ ăn thức uống ê hề, bạn bè tới chơi, chuyện trò không hết chuyện… Làm sao đi!? Lại nữa, chúng tôi gặp lại một người bạn cùng khóa thuở mới vào lính. Có ai tưởng tượng được hơn 40 năm sau, nơi chân trời góc biển chúng tôi lại trùng phùng, ôi biết bao chuyện để nói! Gặp thêm một đại cồ cựu phi đoàn trưởng phản lực cơ A37, là xếp lớn của Phạm N. ngày nào; thêm một anh bạn cựu KQ khác cùng với bạn câu là ông nghệ sĩ cựu quân nhân VNCH trong vùng. Kế đến là vợ chồng Phạm N. tới, con cháu chủ nhà về… Một nhà đầy rẫy tiếng cười; bàn nhậu sau vườn cũng vô cùng rôm rả với tiếng hát, tiếng đờn của các nghệ sĩ nghiệp dự bất đắt dĩ. Mùi thịt bò nướng lá lốt thơm lừng, cá thịt ngổn ngang và tiếng khui bia nổ lốp bốp không ngừng. Chủ nhà mang thêm hai chai cognac cũng cạn sạch. Đợi khi người khách cuối cùng rời khỏi đồng hổ đã chỉ 3g sáng thứ Bảy!

Ngủ chưa đã mắt thì những tiếng nói chuyện râm rang của các ông thần đã dựng mọi người trở dậy. Không biết bà chủ nhà đã nấu nướng từ lúc nào mà nồi phở to đùng, thơm phưng phức được mọi người tận tình chiếu cố trước khi khăn áo chỉnh tề vượt hơn 230 dặm đường, về hướng tây bắc để dự lễ cưới ở nhà thờ tại Sarasota, vào lúc 1g30 chiều.

Tới nơi trễ mấy phút, lễ cưới đã khai mạc, những lời kinh cầu đã vang rền, chúng tôi êm thắm làm đầy hàng ghế trống phía sau theo dõi cuộc lễ! Bao nhiêu năm chưa gặp lại, 5 con phượng trong y phục cô dâu và phù dâu giờ đã là những thiếu nữ xinh đẹp. Cô dâu giống Mẹ như đúc trong bộ đồ cưới lộng lẫy nói cười. Gần cuối cuộc lễ, thằng Mễ đi xuống thấy nhà tôi đang chụp hình, có lẽ đang vui mừng nên “vung tay quá trán” làm văng cái máy hình trong tay bà quận! Thế thì chết thật, cái máy ảnh kể như đã xong một đời theo tôi du lịch tứ phương. Nhà tôi an ủi “mình có cơ hội xài máy mới”.

Sau khi lễ, vợ chồng H., cùng khóa ở Cali qua, gia nhập vào nhóm. Chúng tôi không biết đi đâu trong thời gian chờ đợi nên kéo nhau đến sảnh đường tiệc cưới để xem có phụ tay vào việc gì không. Đến nơi thì đèn đã treo, hoa đang kết… người ta đang ráo riết chuẩn bị cho tiệc cưới chiều nay. Đặc biệt nhất là kỳ công của thằng Mễ đen đã chìu lòng con gái cưng, chuốc tre làm gần trăm chiếc lồng đèn bằng giấy, hình tròn như những vầng trăng 16, đủ màu sắc, làm luôn cột treo… theo lời yêu cầu của cô dâu. Chúng tôi xớ rớ, đứng ngồi lung tung, tán gẫu dưới những bóng cây ngoài vườn cạnh bờ biển. Có ai đó chạy mua bia giải khát nhưng nhà hàng đòi phạt vạ nên cả lũ đành ngó trời hiu quạnh! Mà trời hiu quạnh thật, bỗng dưng mưa ào ạt tới. Mưa nặng hạt ngập cả sân cỏ làm những bàn ghế sắp xếp ngoài trời ướt sũng, nhân viên nhà hàng chạy tới chạy lui dọn dẹp như đèn kéo quân. Nhìn đám lồng đèn ướt sũng trong mưa làm chúng tôi xót ruột vô cùng, không biết đám lồng đèn chịu được bao lâu! Mưa cứ rơi đều dù đã nhẹ hạt nhưng không thấy nhiều hứa hẹn vì bầu trời vẫn còn nhiều mây đen… Cuối cùng, nhà hàng quyết định Plan B, chưng bày tiệc cưới bên trong và tiệc cưới khai mạc lúc 5g30 chiều.

***

Dịp tham dự đám cưới của con thằng Mễ đen cũng là dịp hội ngộ rất nhiều bạn bè chung đơn vị ngày xưa, hoặc đang ở Florida hoặc rải rác các nơi về như anh Th., Tr., N., H., T., H., L., P., C… Ai cũng tóc bạc, da mồi, nếp thời gian in hằn trên từng khuôn mặt! Chúng tôi rất vui và cảm động gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng, kể cho nhau nghe những thăng trầm dâu bể của một đời tỵ nạn.

Mưa đã ngưng hẳn, trời chiều lồng lộng, gió mát thổi vào từ ven biển sát bên, tạo nên một tiệc cưới tưng bừng, vui nhộn với ca nhạc và dạ vũ ngoài trời. Sau cơn mưa trời đã hoàng hôn. May quá đám lồng đèn vẫn còn trưng dụng được dù những màu sắc đã nhòe nhẹp vì mưa. Đèn điện tử đã được thắp sáng trong mỗi lồng đèn tạo nên một vùng ánh sang huyền hoặc, rất lãng mạn, quyến rũ. Mọi người đổ dồn ra sân, men rượu nồng nàn cùng với tiếng nhạc, hòa lẫn tiếng cười, tiếng hát. Dù vậy, không khí này không mấy hợp rơ với mấy anh chị sáu (bó); vì thế, sau lễ cắt bánh xong, tất cả bạn bè thân quen và các bà quận đều đồng ý kéo nhau về nhà thằng Mễ đen theo lời mời tha thiết của nó, cách tiệc cưới khoảng một tiếng lái xe, để tiếp tục cuộc vui. Đâu dễ gì mà tụ tập bạn bè từ Cali, Maryland, Atlanta, Houston và các thành phố rãi rác ở xứ này về một nơi cùng một lúc.

Được thằng Mễ đen cho quyền tự tung tự tác, về tới nhà là xào là nấu là rượu là bia. Có mấy chef cook nghiệp dư trổ tài nấu nướng, lôi trong tủ lạnh có gì nấu đó thành một buổi tiệc rất đậm màu Lương Sơn Bạc. Khi thằng Mễ về cũng đã hơn 12g đêm mà không khí vẫn rộn ràng, nào chai nào ly vẫn cụng nhau xoành xoạch. Buổi tiệc kéo dài cho đến gần 3g sáng thì rất nhiều người đã cạn bình, hết điện… chưa nói tới việc hẹn ước với một số bạn bè ở Orlando vào sáng ngày mai đúng 9g để đi chơi Disney World. Chúng tôi đi ngủ và từ giã một số bạn bè vì sáng mai sẽ phải lên đường lúc 6g sợ không có dịp nói lời chia tay.

Nhà tôi để đồng hồ báo thức lúc 5g30. Xong phần vệ sinh cá nhân là tôi mò mẫm đánh thức anh T., P., và vợ chồng H. để lên đường. Hơn 6g sáng tinh mơ, trong lúc những cây cưa cũ còn đang làm việc, chúng tôi đã lặng lẽ rời khỏi nhà. Ra tới xe đã thấy hai ông thần nước mặn “AC L.” và “Mễ già cô đơn H.” mò ra tiễn biệt. Mấy ngày ở bên nhau càng thêm quyến luyến chia tay không dứt!

Theo chỉ dẫn chúng tôi tới nhà LHA khoảng 8g. Vào tới nhà đã thấy có vợ chồng LM. Vợ LM nhận diện tôi liền nói là đã gặp “thợ quậy” ở Đại Hội 40 năm của khóa ở Cali mấy năm trước! Thấy hai bà xinh đẹp đang sửa soạn thức ăn sáng. Tôi nghĩ thầm hãnh diện, bạn bè mình đứa nào cũng có vợ đẹp con ngoan. LHA và LM là hai người bạn cùng khóa quân trường với tôi, P., H., và N.. Chúng tôi vẫn thường liên lạc với nhau qua email, diễn đàn của khóa. Riêng LHA thì từ ấy đến giờ làm người nhái thứ thiệt. Tôi đã tưởng chắc gặp nhau bỡ ngỡ lắm nhưng không ngờ khi nhắc chuyện xưa cũ thấy thân thuộc nhau như những đôi tình nhân. Vợ chồng LHA tiếp đón chúng tôi rất niềm nỡ, nồng nàn. Tiếp đến là vợ chồng Phạm N. vượt hơn 160 dặm đường để đến với anh em. Vợ N. mang theo những đặc sản của nàng (bánh và kẹo chuối) để tặng cho mọi người. Được biết nàng đã thức gần trọn đêm qua, bỏ vào bao nhiêu ân tình để làm nên những đặc sản có một không hai này. “Ôi KQ danh tiếng muôn đời! Không bỏ anh em, không quên bạn bè” là vậy! Cám ơn các bạn mình còn có nhau! Không hẹn mà thành hội ngộ khóa vì bỗng dưng có tới 6 mạng cùng thời, cùng khóa từ những tiểu bang xa xăm gặp lại nhau. Vui ơi là vui! Xin một lời cám ơn các bà quận đã không nhăn mặt khi lũ tôi cứ mầy mầy tao tao như một đàn trẻ thơ mới lớn.

LHA cho biết là con cái đã ở xa! Căn nhà đẹp đẽ, rộng thênh thang càng thênh thang hơn. LHA cho biết là có 4 phòng ngủ trên lầu bỏ trống, tối nay ai thích căn nào chiếm căn đó. Bây giờ thì chuẩn bị đi chơi Disney World. LHA đã nghỉ hưu sau khi đã làm cho Disney World mấy chục năm dài. Vợ chồng LM và LHA nói là đã ngán tới cổ sẽ ở nhà chờ chúng tôi chiều về. Vợ chồng Pham N. cho biết là đã rành 6 câu vọng cổ nhưng sẽ đi với chúng tôi cho vui để được thêm nhiều giờ với nhau.

Với sự hướng dẫn tận tình của LHA, của chị Tuyết Nga (một thành viên của Ban Đại Diện chi nhánh Văn Bút Miền Đông Hoa Kỳ), và nhất là của chị Kim (chị của TN) tất cả chúng tôi được một buổi đi chơi Disney World thật vui và mang về nhiều kỷ niệm. Chi TN cũng là một MC tài ba của Orlando trong các sinh hoạt nghệ thuật tại địa phương. Chị có một giọng nói trầm ấm, giọng đọc truyện rất truyền cảm, hấp dẫn người nghe. Chị luôn vui tươi và rất nhiệt tình với bè bạn. Khi biết chúng tôi về Orlando muốn đi chơi Disney World, và thấy chúng tôi thời giờ không có, nên chị đã sắp xếp và tình nguyện làm hướng dẫn viên, đưa chúng tôi đi xem những nơi đáng xem để tiết kiệm thì giờ. Cám ơn tấm lòng ưu ái của chị TN, chị K., và LHA đã giúp cho anh em chúng tôi có một ngày vui trọn vẹn bên nhau. Xin ghi nhận ân tình của hai chị và của bạn tôi.

6g chiều chúng tôi rời Disney World vì vợ chồng tôi được anh chị em trong Văn Bút Miền Đông Nam Hoa Kỳ mời cơm tối gặp gỡ thân mật. Vợ chồng Pham N. phải trở về West Palm Beach vì đường xa diệu vợi. Vợ chồng H., P. và anh T. có hẹn với nhóm Cổ Nhạc một nơi khác trong khi vợ chồng LHA và LM ở nhà chuẩn bị tiệc vui, hối thúc chúng tôi về nhà càng sớm càng tốt.

Tôi không thể rời khỏi buổi cơm tối cho tới gần 9g. Trong buổi cơm tối Văn Bút, ngoài những vị tôi mới gặp mặt lần đầu, tôi đã gặp lại một đại niên trưởng trong đơn vị cũ, anh ĐQV. Ngoài tình chiến hữu, anh còn là một cựu chủ tịch ưu tú của chi nhánh Văn Bút vùng này. Anh biết được có anh T. đồng thời có P. volley nên ngõ ý muốn đến thăm cộng thêm một số văn thi hữu cũng muốn tháp tùng tới nghe đờn ca cổ nhạc. Thế là tôi dẫn đường theo chỉ dẫn của mợ tóc vàng GPS. Có lẽ mợ không cập nhật xứ Phơi-Lòi-Da nên dẫn tôi chạy vòng vòng cả hơn tiếng đồng hồ mới tìm ra địa chỉ thay vì chỉ cần 15 phút từ chỗ nhà hàng! Nhà tôi coi lại option thấy tôi đã tắt “tránh toll road, không quẹo chữ U” nên một khi đi lộn đường là không trở lại, tốn thêm thì giờ vàng ngọc. Cũng may có anh ĐQV dẫn lối chứ không chắc cả đêm làm giàu cho hang xăng. Tôi cứ phải gọi chừng điện thoại cho hai ông bạn già LHA va LM đang ở nhà ngồi chờ dài cả cổ!

Đã đến nơi rồi không thể bỏ về ngang vì tôi còn phải đưa P. về; mà P. cũng như tôi lâu quá mới gặp đàn em, chơi chưa hết trớn… nên cứ dằng dai cho tới quá 12g đêm mới về đến nhà LHA! Vào đến nhà thấy hai ông bạn vàng ngồi uống tì tì với nhau, đồ ăn thức uống còn đầy trên bàn. Hai người đẹp có lẽ đã mòn mỏi chờ không nổi nên đi ngủ rồi. LM hăng hái đòi bẻ ngay cổ chai XO để mừng hội ngộ, nhưng vì đêm đã rất khuya và ai cũng đừ đẫn vì thiếu ngủ. Vã lại, sáng mai 6g chúng tôi sẽ phải lên máy bay và còn phải trả xe nữa nên chỉ xin cùng nhau cạn hết một bình Heinekein nguyên vẹn.

Có lẽ sự ồn ào của mấy thằng tôi, nên hai người đẹp lại mò mẫm ra bếp xem sóc đồ ăn thức uống, chuyện trò với nhà tôi. Tôi xin lỗi luôn miệng, tuy được hai ông bạn vàng biểu tỏ sự cảm thông nhưng tôi thiệt bất an trong lòng! Than ôi! Lỗi tại tôi lỗi tại tôi mọi đàng. Ôi thân này ví xẻ làm nhiều mãnh! Chỗ nào cũng muốn đi làm sao được! Bà quận vẫn thường cằn nhằn cái tật hẹn hò của tôi; lần này cũng chỉ là lối cũ vẫn trong tim, “anh cứ hẹn cho lắm vào, đi đâu cũng lở dở”! Quả thật vậy tôi có tham lam trong tình cảm bạn bè! Nhưng giời ạ! “Cái nết đánh chết không chừa”, biết đôi khi làm phiền lòng bạn bè nhưng không thể nào khác hơn, vì mỗi lần gặp vô vàn khó khăn; mỗi lần đi không phải là chuyện dễ! Tôi cứ nghĩ trong đầu “biết đâu sẽ không còn gặp lại” vì thấy bạn bè cứ chen lấn nhau qua cầu mà phát lo! Các bạn đọc mấy dòng này xin cho tôi một sự cảm thông thay cho một lời xin lỗi.

Gần 3g sáng! Vợ chồng LM nhất định từ giã ra về vì bảo rằng đằng nào cũng sẽ chia tay trong vài giờ nữa! Chúng tôi được tự do chọn phòng. Phòng nào cũng đẹp đẽ, đầy đủ tiện nghi, vô cùng gọn gàng, ngăn nắp. Mới chợp mắt đồng hồ đã reo. 4g30 ra xe! Bạn già LHA nhất định phải đưa chúng tôi ra phi trường, sợ con bé tóc vàng GPS trở chứng như đêm qua, dẫn đi xem nhà cửa, đất đai nữa thì hỏng một trăm việc khác. Bạn tôi ơi! Bạn đâu cần phải vất vả quá vậy, nhưng chân thành cảm tạ tấm lòng bằng hữu! Các bạn đã làm chúng tôi vô cùng cảm động về tất cả những gì các bạn đã dành cho chúng tôi. Tôi rất hãnh diện về tình bạn chúng ta khi mấy ông niên trưởng nói với tôi rằng “sao bạn bè khóa của mầy tao chỉ gặp toàn đại gia và vô cùng tốt bụng”. Tôi rà soát lại trong đầu cũng phải công nhận rằng bạn hữu của tôi chưa gặp một người nào xử tệ với anh em, và các vị phu nhân người nào cũng lịch sự, xinh đẹp, và ai cũng quý mến bạn hữu của chồng. LHA đưa chúng tôi ra tận phi trường mới đành lòng lưu luyến chia tay!

“Cám ơn đời đã cho tôi lũ bạn
Bị làm phiền mà vẫn cứ vui tươi”

Chuyến đi rất vất vả nhưng vui ơi là vui, tạm quên mùa đau thương trong lòng những người lính chiến; mừng gặp lại bao nhiêu bạn bè quý mến. Cám ơn tất cả quý vị phu nhân. Đặc biệt cám ơn cha con ngũ phượng đã tạo dịp tốt để mọi người có cơ hội gặp lại nhau dù ngắn ngủi nhưng đầy rẫy tình người. Chúc con phượng đầu đàn trăm năm hạnh phúc. Chúc mấy con phượng nhí theo chân chị đến bến bờ bình yên. Chúc thằng Mễ đen nguôi nguây dẫu tình đời vẫn bạc trắng như vôi.

Mùa tháng 4

thanphongkingwood
05-22-2013, 08:11 PM
Ôi Đàn Bà Là Những Niềm Đau (*)

Khi Chúa tạo dựng nên đàn ông, Ngài đã nhận thấy hắn sẽ cô đơn, buồn bã biết mấy nếu chỉ có hắn đơn lẻ. Sau ba ngày quan sát và nghiền ngẫm thấu đáo, Ngài lấy xương sườn của người đàn ông để tạo dựng nên hình vóc người đàn bà. Ngài cho rằng người đàn bà là một phần xương thịt của đàn ông thì chắc chắn họ sẽ yêu thương gắn bó với nhau lắm; họ sẽ sống hỗ tương với nhau, nương tựa với nhau, sẽ tâm đầu ý hợp với nhau lắm, sẽ muôn năm hòa bình, sẽ trăm năm hạnh phúc. Nhưng tôi không biết Ngài có tiên đoán nỗi những phiền toái, những hoạnh họe mà người đàn bà mang đến cho người đàn ông hay không? Hay là Ngài nghĩ có thưởng thì phải có phạt! Dĩ nhiên, điều tôi than phiền đây không ăn nhằm, không động chạm gì tới các đấng từ mẫu, các bà mẹ từ bi, nhất là những bà mẹ Việt Nam! Ôi các bà mẹ Việt Nam tuyệt vời, các bà mẹ Việt Nam xứng đáng nêu gương sáng cho thế giới soi chung, chứ không phải lẩm cà lẩm cẩm như câu hát trong bài Khỏe Vì Nước cái gì là “trai nước Việt phải nêu đèn sáng thế giới ngắm chung” mà thời tiểu học tôi đã hát mê man một cách hãnh diện!

Thật vậy, tôi không chắc niềm vui và hạnh phúc của tôi với đàn bà có được bao nhiêu, nhưng phiền não, đắng cay thì ê hề! Họ đã làm cuộc sống tôi thất điên bát đảo, họ đã khiến hạnh phúc của tôi upside down, suốt cuộc sống tôi vui ít buồn nhiều! Tôi ngán ngẩm, tôi lo sợ… cho nên “đã từ lâu, tôi vẫn thường trong bóng đêm, mang nỗi buồn không biết tên. Tôi vẫn thường thề mây hẹn gió tôi muốn lánh xa cuộc đời, tôi muốn quên đi tình người, tôi ước mơ trên cuộc đời không có đàn bà”! Nhưng thưa quí vị, chuyện đời đâu có đơn giản, dễ chịu như vậy! Ông trời chơi điều cắc cớ thích làm ngược những ước muốn đơn giản của loài người! Nhiều thứ mình cầu xin không được mà hễ ghét bỏ, chối từ thì lại cho ngaỵ Tổ tiên, ông bà mình đã thừa kinh nghiệm với cái sự tréo cẳng ngỗng dở khóc dở cười đó nên mới có câu ngạn ngữ “ghét của nào trời trao của đó”!

Thế rồi “bỗng một hôm tôi với nàng quen biết nhau” lại khờ dại, ngu thiệt là ngu “tôi tưởng tình chỉ thế thôi, đâu biết lòng thầm mang niềm nhớ!” Ôi con tim quả thật có lý lẽ riêng của nó mà lý trí không biết tới như lời nói của một triết gia người Pháp mà tôi đã học khi còn lớp đệ nhất (Le coeur à ses raisons, que la raison ne connêtre pas). Nhưng qua những kinh nghiệm đớn đau cũ “tôi muốn lánh nhưng lại tìm, tôi muốn quên nhớ càng nhiều, tôi muốn xa nhưng lại gần… hỡi đàn bà ơi!” Tôi biết tôi lại thêm một lần ngu dại nữa nhưng biết làm sao đây vì tôi biết “ôi đàn bà là những niềm đau, ôi đàn bà là ngọc ngà trăng sao nhưng đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máu”. Đàn bà bao giờ cũng là một cái gì kỳ bí khó hiểu, khó tiên đoán được, chắc chỉ có trời mới biết: “ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua, nhưng đàn bà lạnh lùng đêm nay, ôi đàn bà là vần thơ say, nốt nhạc chua cay”!

Tôi xua tay từ chối, tôi ngán ngẩm, tôi kinh nghiệm, tôi dại khờ, tôi chịu hết nỗi, tôi than thân trách phận, tôi chán cả ông trời thế mà tôi lại là thủ phạm lăn xả vào người ta! Tôi tự hỏi tại sao ông trời lại cho người đàn bà lắm bùa phép như vậy! Tôi đã vướng vào vòng nghiệt oan cả một đời thế sao không thoát? Cứ hết cuộc tình này lại va đầu vào mối tình khác mặc dù đã nguyện xa lánh cuộc đời, đã cố quên bỏ tình người, đã bao lần ước mơ trên cõi đời này không có đàn bà để bây giờ lại thêm một lần ăn năn, hối hận. Thôi “vĩnh biệt người” chỉ vì “thương chút tình nơi xứ xa, tôi biết rằng em sẽ quên” chỉ riêng mình “muôn kiếp buồn lòng tôi sầu nhớ”! Tôi đâu muốn, tôi cũng chẳng mong chờ nhưng “em đã đến như huyền thoại, em đã đi không một lời, ôi thế nhân, ôi cuộc đời… hỡi đàn bà ơi!”

Mùa Noel lại trở về đem niềm vui cho nhân loại, Chúa ơi Chúa có sống lại như lời đã hứa thì xin Chúa một lần thôi, cho lũ đàn ông chúng con ít thuốc giải, hay là Ngài đem lời vàng ngọc khuyên bảo họ giùm. Xin Chúa thêm một lần nữa nói cho đàn bà biết họ là một phần thân thể của lũ đàn ông chúng con, họ có bổn phận phải yêu thương chúng con như chúng con cũng yêu thương người khác. Hay là xin Chúa cứu rỗi linh hồn chúng con, xin cho chúng con không bị cám dỗ và tránh được sự dữ. Chúng con cũng biết là cuộc sống chúng con sẽ hoàn toàn vô nghĩa nếu không có sự hiện diện của họ, nhất là lũ thi văn nhạc sĩ chúng con sẽ không thể nào có được những bài văn mượt mà, những vần thơ hay, nốt nhạc chua cay được! Chúa cũng phải nên từ bi thương giùm cho số phận của những shopping center rẫy đầy trên thế giới, các tiệm hột xoàn, nữ trang đèn sáng rực rỡ khắp nơi… Chúa ơi không có đàn bà thì là một thiệt hại to lớn cho nền kinh tế biết cơ mang nào mà kể…

“Ôi đàn bà là những niềm đau, ôi đàn bà ngọc ngà trăng sao, nhưng đàn bà lại là con dao làm tim nhỏ máụ Ôi đàn bà dịu ngọt đêm qua, ôi đàn bà lạnh lùng đêm nay, ôi đàn bà là vần thơ say, nốt nhạc chua cay”!

Yên Sơn

(*)Trích lời bài ca của Song Ngọc
http://lyric.tkaraoke.com/19081/Dan_Ba.html

thanphongkingwood
06-30-2013, 03:24 PM
Yêu Trăng, Yêu Thu

Không biết hắn yêu trăng từ lúc nào và tại sao hắn lại mê đắm? Hắn vẫn cứ mù mờ, ngập ngừng mỗi khi có người bất chợt hỏi hắn. Nếu có nói gì được, hắn cũng chỉ nghĩ rằng có thể trăng tràn lan trong thi ca, trong cổ tích, trong lời ru ngọt ngào của mẹ hắn khi mẹ hát ru đàn con chín đứa lần lượt chào đờị Trăng cũng rẫy đầy trong văn chương dân gian, khi tiếng chày giả gạo reo vui lồng trong tiếng cười hồn nhiên của những nàng thôn nữ …

Hôm nay, Rằm Thượng Nguơn, ánh trăng sáng long lanh suốt chặng đường 50 dặm từ sở về nhà. Ánh trăng tràn ngập trên những tàng cây đứng yên như mơ hai bên đường lao vùn vụt về phía saụ Thỉnh thoảng hắn lại rướn người về phía trước nhìn lên. Trăng lồng lộng trên cao với vài cụm mây cô đơn bay lơ đảng trên bầu trời xanh thênh thang, đây đó những ánh sao lấp lánh thẹn thùng!

Tiếng xe rầm rì hòa lẩn tiếng nhạc lời ca phát ra từ máy đĩa trong xe tạo thành một thứ âm thanh vời vợi bám chặt vào hồn hắn… Tiếng hát của Diệu Hương như thầm thì với hắn: “mùa thu nơi đây tôi nhớ, nhớ thương thành phố xa mờ, mà bao năm qua tôi đã đi về trên những đường xưa…”. Phải, mùa trăng nào cũng làm hắn nhớ, làm hắn khát khao, hoài vọng! Dẫu biết thời gian không trở lại, vẫn biết một phút đi tới là thúc đẩy đời người đội nón chia ly! Vì… “mùa thu nơi đây lạnh lùng, từ nơi phương xa trời lộng hỏi ai có nhớ ai không, còn tôi nỗi nhớ vô cùng!” Lời hát như ru, câu ca như rót mật vào lòng và trăng vẫn sáng long lanh trên cao, bâng khuâng… Lời ca kéo hắn đi thật xa… Hắn lại rướn người về phía trước, nhìn lên… “mùa thu im trong đêm vắng, có ai hiểu thấu cho lòng, từ nơi con tim say đắm không còn yêu mãi ngàn năm!” Nghe như có chút xót xa khiến tâm hồn hắn chùng xuống, khẩn khoản “về bên tôi xin một lần, một lần thôi hết xa xăm, một lần được thấy ân cần”; vì “mùa thu nơi xưa dịu dàng, giờ trong tôi nghe muộn màng, tình yêu cho em một ngày, rồi một ngày nào đã phai tàn ?” …

Cám ơn Diệu Hương, người nhạc sĩ tài hoa với đôi mắt tròn sâu thẳm. Cám ơn tấm lòng ân cần của người đã gửi. Ở phương đó chắc có ai cũng đang thẩn thờ lặng ngắm ánh trăng!?

Ôi người ơi! Ôi tình ơi!
Con tim thổn thức mà đời dửng dưng
Ngó lên vời vợi từng không
Trăng thu lặng lẽ bâng khuâng nhớ người

2002

*** Viết dựa theo bài nhạc “Mùa Thu Nơi Đây” của ca nhạc sĩ Diệu Hương trong Album Khắc Khoải, Tình ca Diệu Hương.

thanphongkingwood
07-12-2013, 05:37 AM
Chị Tôi
Yên Sơn

Tôi giật mình thức giấc vì những tiếng chim hót líu lo bên ngoài khung cửa sổ. Sợ làm chim giật mình, tôi se sẻ vén màn cửa sổ đủ để nhìn ra ngoài. Lũ chim đủ loại đầy trên cây berry đang tranh ăn những trái berry chín đỏ trĩu cành. Tôi không nhớ tên cây là gì dù chị tôi đã nói mấy lần rồi. Lần sau cùng hỏi chị, chị mắng yêu “chỉ có cái tên thôi mà không nhớ”; “không thèm hỏi chị nữa, cứ gọi nó là berry có chết ai đâu”; “ừ thì berry cũng được”. Loại cây này vào độ cuối xuân và suốt mùa hè cây lá xanh tươi, um tùm; khi chớm thu bắt đầu đơm bông kết trái để chớm đông trái chín đỏ cành. Trái nhiều đến độ lấn át cả màu xanh tươi của lá, mời gọi các giống chim quy tụ về để cùng ăn trái vừa ca hót líu lo khi mùa xuân trở mình. Dưới chân cây có vài chú sóc xinh đẹp với bộ lông mượt mà đang lau hau nhặt nhạnh những trái chín chim làm vung vải dưới đất, ăn thử rồi vất đi. Gia đình nhà sóc không thích loại trái cây này. Dù vậy, cứ mỗi lần chim tụ tập đông đảo trên cành cây, nơi chúng tôi thường để thức ăn mỗi ngày cho chim lui tới, là vài chú sóc sẽ xuất hiện để ăn Chị tôi còn chỉ vẻ là loại thức ăn nào cho chim loại nào. Ban đầu vì không có kinh nghiệm nên thức ăn chim được các chú thưởng thức nhiệt tình. Chẳng những ăn hết thức ăn, sự quấy phá của các chú đã làm cho chim sợ không tới. Tôi cố tình ‘blocked’ đường leo của các chú nhưng vẫn không thể ngăn ngừa sự tinh khôn, ranh mãnh được vì các chú leo lên cây gần bên rồi phóng qua, chuyền tới. Sau đó tôi nghiên cứu làm một cái hình nón bằng thiếc mỏng quanh những gốc cây lân cận nên các chú đành thúc thủ, chỉ phải loanh quanh ở các gốc cây trông cậy vào lũ chim làm vung vải xuống đất để ăn ké.

Như mọi ngày, vợ con tôi đã đi làm từ sáng sớm khi tôi còn ngon giấc với đủ thứ mộng mị cuộc đời. Tôi quen dần với khoảng không gian quạnh vắng trong căn nhà rộng mỗi sáng thức dậy. Sự tĩnh lặng, êm thắm làm lòng tôi man mác, chơi vơi. Thỉnh thoảng vài tiếng khánh ngân ngoài vườn nghe như tiếng chuông công phu mỗi sáng tinh sương từ xa xăm dội lại trong tiềm thức của một thời thơ ấu. Tôi đánh răng xong dự định đi pha cà phê nhưng nghĩ sao lại trở lại nằm vật xuống giường, cuộn mình trong chăn để mặc cho dòng tư tưởng thoải mái, miên man ‘ngược dòng thời gian trở về quá khứ…

Chưa nằm được bao lâu đã có tiếng chuông gọi cửa. Chưa ra tới cửa đã nghe tiếng chị tôi cằn nhằn:

- Trời ơi giờ này mà còn ngủ!

Tôi mở cửa và cố cười với chị:
- Không ngủ thì làm cái gì đây?
- Chị đem mấy đứa làm vườn tới nè.
- Chị là xếp sòng đâu cần tới em.
- Vườn nhà của Sơn thì phải có ý kiến chứ?
- Ý kiến nào của chị em cũng OK hết.
- Ra đây chị chỉ cho

Chị đi trước, tôi theo sau ra vườn. Chị vừa đi vừa chỉ:

Chị sẽ cho tụi nó dời ngọn giả sơn ra góc vườn kia, cái fountain nước đứng chỗ này không được, đem nó tới khoảng sân kia để trên lầu dưới đất gì vẫn thấy được, cắt tỉa mấy cây bằng lăng cho kịp lúc, cắt xén và đào bỏ bớt một bụi cây Oleanders ngay chỗ tháp chùa rồi trồng cây bưởi trong chậu xuống thế chỗ, dời đám cây bên hông garage ra đằng sau, làm lại luống đất để trồng mấy bụi hoa hồng đẹp hơn. Bây giờ là lúc cần đổ mulch và bón phân cho các luống hoa. Coi kìa, bao nhiêu cụm Azelea đang đơm bông mà không tưới nước! Tiếc quá cây Red Bud ra hoa đẹp quá mà lại bị nằm trong góc vườn không thấy, nếu nó không quá lớn mình dời được ra đằng trước thì đẹp biết mấy! Cái sân gạch đỏ, coi nè, cỏ mọc lung tung, chị sẽ bảo tụi nó lột lên làm sạch cỏ và thay bằng những tấm xi-măng cho sân sau rộng rãi hơn. Coi kìa, mấy cây berry cũng cần tỉa bớt cành, nếu tiếc thì ít hôm nữa hẳn cắt…

Chị đi chưa hết một vòng sân đã lòi ra bao nhiêu thứ phải làm! Tôi thót ruột nói với chị:

- Í da, chị làm nhiều vậy lấy tiền đâu trả?

- Sơn mới nói ý kiến gì của chị cũng OK mà? Người ta có tiền làm vườn quanh năm, còn Sơn thì cả năm chỉ làm vài lần. Đã vậy mà không chăm sóc kỹ lưỡng nữa, thấy cái vườn mà phát mệt! Nói thì nói vậy chứ để chị dealing với tụi nó, không đắt lắm đâu. Tụi nó cũng đã làm cho nhà mình bao nhiêu năm rồi mà, có xa lạ gì đâu mà sợ bị ‘chém’.

- Nhiều quá thì chị trả à nghen!
- Xí… không biết ơn còn ở đó vòi vĩnh.
- Okay, okay… thì biết ơn!
- Thôi làm gì làm đi để chị nói chuyện với Jose.

Chị nói xong một mạch rồi bước ra đằng trước gọi Jose đang ngồi ngoài xe chờ đợi.

Jose là chủ của nhóm làm vườn người Mễ, đã nhiều năm làm vườn cho chị hằng tuần và lâu lâu được chị lôi tới làm vườn cho tôi. Tôi thường nói với nhà tôi rằng chỉ có Jose mới chịu nổi sự ‘chi tiết’ của chị tôi. Thường là chị quanh quẩn khi tụi nó làm, biểu tụi nó dời bụi hoa này, trồng cái cây khác; cắt cái này, xén cái kia… xong đứng ngắm nghía thấy không ưng ý thì làm cách khác! Vậy mà chúng nó chỉ cười và làm theo, có lẽ quá quen rồi, hoặt biết là có không chịu cũng không được với chị. Mà cái thằng dễ thương thiệt, chẳng những nó làm ngoài vườn, chị tôi lâu lâu lại nhờ nó khiêng cái sofa này, đổi bộ bàn ghế nọ, treo lại bức tranh kia, dọn cái nhà để xe bừa bộn, treo kèn kết hoa vào mỗi độ lễ tết… cái gì nó cũng làm ráo trọi. Để bù cho cái tính khó khăn của chị, chị cũng tỏ ra rộng rãi với người làm, ngoài việc trả tiền bạc sòng phẳng, đôi khi chị cho nó cái này, lúc biếu cái khác, gửi quà cáp cho vợ con trong các dịp lễ tết; thậm chí còn biếu cả bánh trái chính tay chị làm nữa.

Tôi đi vào nhà pha cà phê rồi ngồi thiền internet. Tôi biết có nói gì cũng thừa. Khi chị tôi thấy cần làm là nhất định nên làm. Chị là người rất thích vườn tược, cây cỏ, hoa kiểng. Mỗi lần sang nhà chị là tôi mải mê ngắm nghía. Không như vườn nhà tôi; vườn nhà chị mùa nào có hoa mùa đó, vườn cỏ lúc nào cũng xanh mượt; đất đá sắp thẳng tắp. Chị biết tôi rất ưa thích giống như chị nhưng lại lười và ít tiền. Ban đầu chị còn nói lai rai nhưng thấy tôi không ‘thăng tiến’ gì cho lắm nên chị ‘take action’ luôn. Chị có con mắt thẩm mỹ tuyệt vời, lại biết chỗ mua bán ‘mọi thứ’ nên luôn luôn được giá rẻ; chị tính toán rất cẩn thận, lại giỏi thuyết phục người khác nên khó ai nói không với chị; vì vậy, tôi tin tưởng chị cũng là chuyện tự nhiên! Khi rời khỏi California về đây, ở vùng Kingwood này, cũng do chị chọn lựa trước. Đây là một thành phố nhỏ, bên ngoài thành phố Houston to lớn, đa số Mỹ trắng hơn 90%, dân chúng hầu hết làm cho các hãng xăng dầu, hãng hàng không Continental, khu đại học và hệ thống nhà thương trong vùng. Chị nói chị đã điều nghiên kỹ lưỡng, khu học chánh ở đây tuyệt vời, rất tốt để nuôi dạy con cái. Lúc đó hai gia đình chúng tôi còn có năm đứa con sàn sàn tuổi nhau ở bậc tiểu học. Nhà tôi thì rất vui khi ở bên chị. Hai chị em rất hợp gu về mọi mặt gồm cả shopping, lục lọi tìm đồ cổ rẻ tiền và nấu nướng… nên rất thương nhau.

Chúng tôi hai cặp bốn người đã từng làm việc chung với nhau bao nhiêu năm trong việc mua bán và quản trị bất động sản ở California nên biết rõ tánh tình nhau, khả năng cũng như cái ưu cái khuyết của nhau. Bây giờ dù mỗi người làm một công việc riêng biệt, nhưng vẫn rất gần gũi, thương mến lẫn nhau. Đã mấy chục năm qua chị vẫn dành ưu tiên trong việc tổ chức bữa ăn Thanksgiving truyền thống tại nhà chị cho tất cả mọi người trong các gia đình anh chị em trong vùng. Có lắm khi chị giữ luôn việc tổ chức bữa ăn ngày Christmas. Ai ở xa về được cũng cố gắng về. Bữa ăn năm nào anh rể tôi cũng muốn mọi người nối vòng tay rồi anh bắt đầu đọc lời cầu nguyện cho những người thân xa trước khi ngồi vào bàn ăn.

Bao nhiêu mùa lễ qua, tên “thằng lính” vẫn đứng đầu trong danh sách cầu an của anh ấy. Nếu có ai hỏi tôi ông anh rể của tôi ra sao, tôi cũng chỉ biết rằng, anh là một người hiền hòa dễ thương hết mực, ngoài việc anh ấy chu toàn phương diện tài chánh cho gia đình, còn chuyện trong nhà ngoài ngõ anh cũng như tôi, tin tưởng tuyệt đối vào các bà. Chị còn tính khi nào con cái thành gia thất dọn ra ngoài ở hết thì mấy chị em từ các nơi xa dọn hết về đây mua miếng đất xây nhà nho nhỏ ở sát nhau cho vui. Cũng vì có chị ở gần nên nhà tôi thường chọn ở nhà mỗi cuối tuần nếu tôi cần đi dự tiệc tùng đình đám, ngoại trừ đi chỗ bạn bè thân thiết; nhà tôi thường nói tôi đi quá nhiều nơi nhiều ngã, quá nhiều bạn bè, đi theo không nỗi! Tôi không than phiền gì về chuyện này, vì ở xa nên mỗi lần đi là phải tận dụng thời gian để thăm viếng, giao tiếp. Và tôi cũng không lo nhà tôi buồn khi tôi cần phải đi xa. Ở đây xa xôi khu đông dân cư Việt Nam, bạn bè ngại lui tới, nhất là khi xăng nhớt tăng vùn vụt. Có đứa nói với tôi rằng “đường đi lên nhà mày không thấy có chỗ nghỉ chân ‘rest area’ nên cực quá!” Tôi nói với bạn bè “tại sao tao đi thăm tụi mày không than xa, mà đứa nào tổ chức cái gì cũng kêu réo um sùm”. “Ai biểu mày chọn ở xa một mình rán chịu”. Thế là hết nói!

Có vài lần chúng tôi bàn định dọn về gần khu Southwest để gần bạn bè và những tiện nghi, nhà tôi nói bây giờ con cái lớn hết rồi đi cũng được nhưng làm sao bỏ chị đi cho đành. Thế là tôi tịt liền, chưa nói con trai út chúng tôi cũng tỏ ý không muốn bán căn nhà nơi nó đã lớn lên từ thuở mới lọt lòng. Bây giờ mặc dù đi học xa nhưng lâu lâu vẫn nhắc nhở ba mẹ khoan nghĩ tới việc dọn nhà. Nó nói trừ phi sau này vì nghề nghiệp tương lai nó phải đi xa, còn không thì nó xin ở lại căn nhà này với kỷ niệm. Chị tôi cũng vậy, rất khó để mang chị ra khỏi vùng này, nơi mà chị thương từng gốc cây, chậu kiểng, góc vườn; nơi mà chị có đủ loại bạn bè cho các bộ môn, nào là tennis, travel, săn sóc vườn cỏ, tổ chức đình đám… bắt chị rời khỏi đây không khác gì mang con cá ra khỏi ao hồ thân thuộc!

Mời quý bạn hữu cùng nghe bài nhạc hay:
http://www.youtube.com/watch?v=KvgF2m_n7T0

thanphongkingwood
07-28-2013, 07:19 PM
Thân mến chia sẻ với tất cả ACE bài viết của một anh bạn quen ở tận Nebraska về bài thơ mới đăng hôm nay.

Chia sẻ với tác giả về bài thơ
THƯ BẠN TỪ TIỂU BANG XA


Bài thơ hay lắm anh Yên Sơn. Đọc mà thấm được cái ray rứt, cái ý chí sắt son, cái kiêu hùng trong tim anh. Nợ cơm áo cứ quanh quẩn bên mình, muốn trổ tài tế thế an bang, cũng chẳng biết tìm đâu ra chỗ đứng, anh nhỉ?

“Bóng chiều và nắng vàng hoe
Đậu trên mái tóc nhoẹt nhòe thời gian”

Nắng Thủy Tinh của Trịnh Công Sơn từng làm rung động không biết bao nhiêu tâm hồn. Nào là:

“màu nắng hay là màu mắt em”, rồi nào là:
“Lùa nắng cho buồn vào tóc em”,
“Chiều đã đi vào vườn mắt em”,

v.v.. Nhưng ánh nắng khiến “ngàn cây thắp nến lên hai hàng”, khiến “Cỏ cây chợt lên màu nắng” kia chỉ đủ cho “hồn buồn dâng mênh mang” và ánh mắt kẻ si tình ngưỡng mộ dáng “em qua công viên bước chân âm thầm” thôi . Riêng nắng vàng hoe của Yên Sơn không “lung linh nắng thủy tinh vàng” mà buồn bã “đậu trên mái tóc nhoẹt nhòe thời gian” của anh. Hình ảnh không man mác ảo diệu như nắng của “Trịnh công Sơn”, không chất chứa kỷ niệm nhiều như “Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát” của Nguyên Sa, và cũng không lãng mạn như “mặt trời đỏ phải lòng con nước lớn” của Trần Lộc, nhưng nó buồn bã , chậm chạp làm sáng thêm “mái tóc nhoẹt nhòe thời gian”. Nó thay thế cho tiếng thở dài, chịu đựng. “Bóng chiều và nắng vàng hoe” diễn tả trọn vẹn nỗi buồn thảm của chiều cuối đời với ánh nắng vàng vẫn còn cố rực đỏ màu hoàng hôn sót lại nơi cuối chân trời, ánh nắng dịu dần cái chí khí hiên ngang của tuổi trẻ còn lưu luyến nét hào hùng ửng đỏ trong buồng tim. Chỉ với hai câu lục bác dùng chữ thật bình dị, rõ ràng nhưng lung linh cả tình và cảnh, khiến người đọc cũng buồn theo cái buồn của Yên sơn và tiếc nuối theo cái tiếc nuối của người chưa tròn chí cả. Chí khí và nỗi buồn đau của Yên Sơn được tỏ lộ thêm trong bốn câu tiếp

"Nói chi tế thế an bang
Tìm đâu ra thuở ngang tàng năm xưa
Bây giờ buồn rớt trong mưa
Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay”

Tất cả chỉ còn là dĩ vãng, tâm trạng như Thế Lữ trong “nhớ rừng”. Con hổ Yên Sơn không “ngậm một khối căm hờn trong cũi sắt”, nhưng tâm trạng có lẽ cũng hao hao giống người vì với Thế Lữ thì “Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ “, hoặc nghẹn ngào hơn, “Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu” và nuối tiếc hơn, “Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối”. Thật vậy, Yên Sơn đã chua chát thốt lời:

“Nói chi tế thế an bang
Tìm đâu ra thuở ngang tàng năm xưa”

Rồi bi đát cuộc đời kéo tới, đến nỗi phải:

"Bây giờ buồn rớt trong mưa
Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay”

Âm vang ngân dài của “buồn rớt trong mưa” nghe não nuột vô cùng.

Đinh Hùng lãng mạn : “Em đến hôm nào, mưa trên vai” trong “Giận hờn”, nhưng Yên sơn lại “Buồn rớt trong mưa” như một tiếng thở dài tiếp nối! Mưa buồn, mưa ngâu, mưa là nước mắt, là cách chia. Buồn rớt mưa ngâu hay buồn như tiếng khóc của người yêu làm mưa trên vai mình cũng chỉ là nỗi buồn của một cặp tình nhân, còn “buồn rớt trong mưa” của Yên Sơn thì trừu tượng hơn, nhưng đoạn trường hơn và bao trùm hơn. Buồn trong tình yêu, tình nhà, buồn viễn xứ, buồn không trả được nợ núi sông, v.v.. và hình như tất cả nỗi buồn của con người đều gói trọn trong đó cả. Ý thật cô đọng nhưng dồi dào chỉ trong bốn chữ. Giá tác giả thay chữ “trong” bằng chữ “theo”, thành “Bây giờ buồn rớt theo mưa” có lẽ ý sẽ thâu hẹp lại cho chính mình hơn, nhưng hơi ambigous vì mang tới hai ý. “Buồn rớt trong mưa”, chữ “trong” hay hơn và rõ ràng cho cảm nhận hơn. Tuyệt hay!

“Nỗi vui thì bất chợt”, có lúc có có lúc không, hoặc có thì hết sức ngắn ngủi, còn thì toàn là đắng cay, áo nảo. Câu thơ "Nỗi vui bất chợt, dư thừa đắng cay” hầu như lột tả được trọn vẹn ý này và ngân dài tiếng than cho sáu câu mở đầu. Hai câu kết tiếp:

"Bạn ơi mình vẫn còn đây
Cũng muốn hẹn có một ngày hồi hương”

đưa đọc giả trở về với thực tại đồng điệu và đồng cảnh với tác giả trong cái phút giây thương cảm đọc xong thư bạn. Hai câu chuyển ý để bước vào thân bài một cách nhẹ nhàng, bình dị nhưng không kém phần tha thiết trong điều mong muốn nhỏ nhoi mà biết bao người đã thực hiện, song với tác giả, thật là to lớn vì ngày hồi hương đó là ngày hồi hương thật sự khi bóng dáng Cộng sản không còn trên quê hương Việt Nam. Ngày nào bạn nhỉ?

"Đọc thư bạn hẹn ngày về quê Mẹ
Nước mắt bỗng dưng từng giọt lăn dài
Chạy soi gương rồi nghĩ tới ngày mai
Vội cúi mặt dấu nỗi buồn man mác”

Ôi! Cái tâm trạng của tác giả cũng là tâm trạng chung của những kẻ lưu vong còn nặng tình quê hương đất nước. Soi gương không phải để xem lại dung nhan hay trang điểm một phần cơ thể, hoặc mang tâm trạng của “ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng” trong ca khúc “Đêm đông”, mà soi gương để xem đôi má nhăn nheo theo thời gian của mình có còn tiếp tục nhăn nheo để còn có ngày về quê Mẹ không. Soi gương rồi, tác giả “Vội cúi mặt dấu nỗi buồn man mác”! Chao ôi! sao buồn chi lạ! Tác giả buồn hay mình cũng đang buồn đây! Nàng tiên với chiếc đủa thần kỳ diệu đâu rồi! Hãy trả lại hay tặng cho tác giả một chút thanh xuân để còn hoàn tất lời hứa với bạn từ phương xa.

"Mái tóc xanh nay điểm nhiều sương bạc
Mắt trũng sâu với nghìn nỗi muộn phiền
Vầng trán cao nhiều lằn nếp oan khiên
Vai trễ xuống vì gánh đời trĩu nặng”

Đọc mấy câu này sao thấy thương Yên sơn quá! Chàng phi công, đẹp trai, dong dõng cao, mang hồn thi sĩ, ngày nào còn lướt gió tung mây diệt thù bảo vệ đất nước mà giờ đây tóc điểm sương, mắt trủng sâu muộn phiền, trán nhăn nếp oan khiên, “vai trễ xuống vì gánh đời trĩu nặng”, sao buồn quá đỗi. Một kiếp tha hương với hai giòng đời u uất như quê hương chia hai của mình ngày trước và đau thương như niềm đau của dân tộc.

"Có những lúc ngó sâu trong thinh lặng
Thấy quê hương vẫy gọi từ trùng xa
Ôi thân trai! Ôi nợ nước tình nhà!
Sao cúi mặt loanh quanh đời cơm áo?"

Tiếng gọi của quê hương vẫn nhiều lần vang vọng trong không gian tịch mịch khi tác giả hướng mắt nhìn vào khoảng không kia. Hình ảnh em bé quê hương, cô gái xuân thì và mẹ già đất nước vẫy tay gọi người trai chí cả đang xa cách trùng dương thấy sao mà thảm thiết. Lời thơ thống thiết, tô đậm vẻ ray rứt trong lòng người trai luống tuổi nhưng tâm huyết còn mãnh liệt hơn cả thời thanh xuân. “Sao cúi mặt loanh quanh đời cơm áo” là cái thực trạng chúng ta ai cũng đương đầu cũng chôn vùi cả tuổi thanh xuân. Câu thơ như một tiếng thở dài mà cũng là một dấu chấm hỏi cho chính mình! Yêu quê hương, mong trả nợ núi sông, đánh đuổi giặc thù, nhưng sao lại cứ loanh quanh đời cơm áo? Một câu hỏi thật hay mà câu trả lời có lẽ là tiếng thở dài não nuột. Có những điều trong cuộc sống, mình không muốn làm mà vẫn phai kinh qua. Có những điều mình làm, và làm ngược lại với ý mình!

"Có những lúc đắm chìm trong áo não
Sống một đời vô dụng, kẻ tha hương
Nửa đã qua, nửa còn lại chán chường
Như cát bụi đang chờ ngày hóa kiếp”

Yên Sơn có những lúc chán nãn khi nhìn lại một nửa đời tha hương chưa làm được gì cho đất nước quê hương. Như Trịnh Công Sơn ngậm ngùi trong câu: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi … và một mai tôi trở về cát bụi …” Yên Sơn nhìn nốt nửa đời còn lại đầy dẫy chán chường mà nghĩ mình “như cát bụi đang chờ ngày hóa kiếp”. Chúng ta đến từ cát bụi rồi lại trở về với cát bụi. Ý không mới nhưng kết hợp với ý của ba câu trên tạo nên cảm xúc mạnh cho tứ thơ và thắm thía đời tha hương hơn. Nếu “đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu”, thì không cần phải đợi tới đêm đông, nỗi buồn tha hương và niềm mong ngày về quê mẹ vẫn canh cánh bên lòng mỗi chúng ta.

"Có những lúc muốn đứng lên đi tiếp
Nốt con đường đã bỏ dở năm nao
Nhưng sức tàn, lực kiệt có là bao
Bè bạn cũ mỗi người đi mỗi ngả

Đứa ở lại, đứa vùi thây biển cả
Đứa lỡ thời, đứa cát bụi phù du
Bao nhiêu thằng đau vết cắt trong tù
Bao nhiêu đứa sống cuộc đời kẻ khác”

Có những lúc lòng trĩu nặng u buồn, Yên Sơn cũng muốn đứng lên đi tiếp con đường tung cánh trời xanh, bảo vệ đất nước năm nào; nhưng nhìn lại sức tàn lực kiệt của mình, chỉ còn biết thở dài. Tâm sự này cũng là tâm sự của tất cả chúng ta. Bạn bè tứ tán khắp nơi, ngưòi vùi thây biển cả, kẻ lỡ thời, … và nhất là có người phải “sống cuộc đời kẻ khác. Nghe sao mỉa mai và đau đớn quá!

"Tao đứng lặng giữa trời chiều ngơ ngác
Đọc thư mầy, niềm thương mến trào dâng
Tao như chim đơn lẻ giữa từng không
Mầy, cánh bướm lạc loài trong trời rộng

Ngày trở lại dù không là ảo vọng
Tao hứa với mầy sẽ đợi chờ nhau
Quê hương mình rồi sẽ hết thương đau
Khi giặc chết với thiên đường mù Cộng Sản”

Tám câu kết của bài thơ với bố cục chặt chẻ, đưa đọc giả trở lại với cảm xúc ban đầu. Tác giả đứng lặng giữa trời chiều ngơ ngác với tâm trạng mến thương người bạn sau khi đọc xong bức thư. Hai chữ “ngơ ngác” dùng ở đây thật tuyệt, diễn tả đúng tâm trạng của người đang bị dằn vặt giữa mộng và thực. Cái ngơ ngác ở đây không phải là cái ngơ ngác của Trang Tử trong giấc mơ hóa bướm, mà là cái bàng hoàng đến ngơ ngác trước sự kiện đã xảy ra cho quê hương đất nước, cho mỗi người dân Việt của mình.

Vài hàng “cọng hưởng” với niềm ray rứt của thi sĩ Yên Sơn. Bài thơ thật hay, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc anh Yên Sơn ơi!!!

Thân,

Nguyễn Xuân Đấu – Lincoln, Nebraska

thanphongkingwood
08-22-2013, 04:03 PM
TẢN MẠN CHUYỆN BUỒN VUI
Yên Sơn

Hắn cứ sống với sức sống vươn lên trong cái ảo tưởng, mơ hồ như một người khách lạ Hắn luyến tiếc quá tuổi thanh xuân cho nên rất ít khi hắn công nhận là hắn đã đứng bên kia một nửa cuộc đời! Hắn không sợ già nhưng hắn không muốn chấp nhận. Chưa làm được việc gì nên trò nên trống mà đã già rồi nghe thê thảm lắm! Hắn vẫn thường nói đùa với bạn bè, người quen là hắn sẽ không bao giờ quá 50 tuổi! Ai nghe qua cũng ngơ ngác trước khi hắn cười hiền giải thích: “kế tiếp 50 sẽ là 49 đến 48, 47... 40 rồi quành lại 41, 42... và cứ thế!”

Có thể trong chiến tranh khốc liệt xưa kia, hắn đã không thể sống hết mình, sống buông thả như bao nhiêu người khác. Hắn đã sống một cuộc sống mà người đời thường cho là mẫu mực, nề nếp vì hắn tự nguyện đánh ván bài “được ăn cả, ngã về không”, có nghĩa là nếu số phận an bài cho hắn sẽ làm được gì trong đời thì nhất định không thể chết bất tử được. Hắn lo xây dựng tương lai trước sự ra đi vội vã của bạn bè hàng ngày; hắn cố bồi đắp cho tương lai trong những hoang tàn, đỗ nát, khốc liệt của chiến tranh... Hắn đã nghĩ “nếu có chết cũng nên chọn cái chết oai hùng trong sự thanh bạch bản thân để trả ơn tác tạo của mẹ cha, và để lại cho những người thân yêu niềm thương mến và hãnh diện”. Thế nên ở đơn vị nào, bay loại máy bay nào hắn cũng xông pha, cũng tình nguyện. Hắn không bao giờ từ chối khi có bạn bè nhờ đi bay thế vì bận chuyện riêng tư, chuyện gia đình... dù ở đâu, lúc nào hắn cũng nghe kháo là “đi bay thế rất dễ lên bàn thờ”. Rất điển hình, có thằng bạn cùng tên khác họ với hắn, ngày xưa cùng chung đơn vị, đang ở gần đây. Bạn bè lâu lâu tụ tập lại với nhau để biết là còn có nhau. Bao giờ cũng thế, chuyện mới chỉ là chuyện áo cơm, rất ít; chuyện cũ ai cũng thuộc lòng, nói hoài vẫn như mới! Người bạn bao giờ cũng tìm dịp nhắc lại cho người chung quanh biết là ngày xửa, ngày xưa, khi nó mê đắm vợ nó bây giờ thường hay nhờ vã hắn bay thế... Và cứ thế, tuổi thanh xuân của hắn cứ ngày một ngày hai phiêu bồng với mây, với gió, với nắng, với mưa trên khắp vùng trời miền Nam nước Việt...

Ôi những toan tính rốt cuộc cũng bất chợt chạy bạt mạng theo đoàn người di tản buồn, không một lời từ giã; không biết mình đi đâu, về đâu vào buổi trưa ngày 29 tháng 4 năm 1975 giữa tiếng bom đạn vang rền, giữa những hổn loạn cùng cực! Bất chợt đến nỗi không kịp mang theo người yêu dấu chỉ ở cách phi trường 45 phút chạy Honda! Cũng may là “ngã nhưng chưa về không” mà “ngã” cho hắn thêm nhiều cay đắng, đau thương hơn khi nhận ra mình phải sống đời tha hương, viễn xứ, để lại sau lưng một quê hương nghiệt ngã, rách nát; để lại sau lưng bao tình thâm, nghĩa trọng, bao ơn nợ bạn bè! Những chặng đường hắn đã đi qua từ khi tan đàn sẫy nghé thật lắm gian truân và tủi cực!

Rồi một ngày tháng 12/77 hắn đã rất đau đớn khi tất cả những hy vọng trở về, hy vọng gặp lại người xưa tan biến theo từng dòng chữ nằm gọn trong một bức thư viết tay của một người thân vượt muôn trùng nằm trên tay hắn. Rồi hắn đã như hốt hoảng nhận ra rằng “đã đến lúc nên có một gia đình”!

Lập gia đình không phải với người không yêu, nhưng có lẽ không đủ thời gian mật ngọt cho một chuyện tình, không đủ thời gian cho những lãng mạn rong chơi, nên lắm lúc hắn lại thấy khát khao, xao xuyến khi bất chợt thấy những ngây thơ hồn nhiên, những nhí nhảnh của tuổi thanh xuân trên những cặp tình nhân chân sáo tay đan, sánh bước bên nhau trên biển cát hoàng hôn, dưới sương chiều tản mạn. Những tươi vui, đằm thắm của một người khác phái cũng làm cho hắn rung động, cũng gây cho hắn cái cảm giác bất toàn trong cuộc sống tình cảm riêng tư, và cũng là dịp cho con tim lãng mạn của hắn mơ hoang, mộng hảo. Dĩ nhiên, đâu phải bất cứ ai cũng có thể làm chao động được một tình yêu đã ngủ vùi!

Và cứ thế, ngày một ngày hai, hắn vẫn sống trên quê hương đất nước này như một người khách lạ. Mỗi bình minh, mỗi chiều xuống, mỗi khi ngất ngưởng men say hắn khát khao, ao ước được sống lại khoảng đời thơ ấu, được trở về bên dòng sông xưa một lần tắm mát. Hắn thèm được viết lại một lá thư tình rồi rụt rè, hồi hộp chờ đợi đưa cho người con gái hắn thầm yêu, trộm nhớ khi tiếng trống cuối năm học từng hồi giục giã trong sân trường đầy xác phượng và vang vọng tiếng ve sầu.

thanphongkingwood
09-04-2013, 03:50 AM
MƯA THÁNG BẢY

Cuối tháng Bảy, ở Kingwood, Texas trời mưa!
Cuối tháng Bảy, trời mưa ở cái xứ nổi tiếng nóng bức là một hiện tượng lạ! Mưa rất nhẹ như mưa bụi mùa Thu quê nhà. Hạt mưa đậu lại trên tóc, trên vai áo, trên hoa lá. Hạt mưa làm trở giấc những ký ức nhạt nhòa đã ngủ yên từ trong sâu thẳm. Mưa chỉ đủ để làm ướt mặt như mồ hôi rịn trong những ngày nắng Hạ Saigon! Mưa rất dễ thương như mưa Xuân của những ngày tháng cũ, tay trong tay một thuở học trò. Tôi nghe người ta nói “tháng Bảy mưa ngâu” nhưng tôi chưa hề biết mưa ngâu ra sao nên không biết mưa hôm nay có liên quan gì đến nó hay không. Một điều tôi biết chắc rằng ở đây, Kingwood, Texas chưa nghe ai nói và dường như hiếm khi để thấy mưa trong khoảng thời gian này, thời gian mà đáng lẽ thời tiết nóng bức với độ ẩm rất cao, chứ không mát mẻ, thoải mái, dịu hiền như sáng hôm nay. Hơn nữa, tôi cũng đã ở vùng này 16 năm qua, đâu nhớ có mưa bụi trong những ngày cuối tháng Bảy bao giờ!


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378282450.jpg

Buổi sáng, nhà tôi và con gái đã đi làm từ sớm. Đứa con trai út hãy còn ngủ yên trên lầu. Thanh thiếu niên thời nay thường hay thức ban đêm ngủ trễ ban ngày. Nhà có hai người đàn ông và hai người đàn bà; thế mà hai đàn bà đi làm trong khi hai đàn ông lại ở nhà nhàn rỗi! Tôi muốn bật cười mỗi khi nghĩ tới cái chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy mà cười có được đâu! Cái sự lỡ thầy lỡ thợ làm tôi cay đắng không ít! Kiến thức, kinh nghiệm của mình có thua kém gì ai mà sao vẫn phải luôn tranh đấu, vật lộn với công việc làm ở một đất nước có quá nhiều ngành nghề, lắm cơ hội này! Có thể một thời tôi đã như con ngựa không được che mắt; ngó chỗ nào cũng thấy có đường đi; lại thêm cái lưng quá thẳng, cái đầu quá cứng, tôi đã coi thường mọi khía cạnh “politic” của các hãng xưởng lớn! Bạn bè thân thấy tôi năm lần ba lượt “rốt cuộc cũng trở về khởi điểm, bật cười xuân sắc đã phôi pha” nên cười bảo “tử vi nói mầy có số cư thê, thôi thì cứ hưởng nhàn đi, bon chen làm gì cho mệt, đàng nào rồi cũng về không”! Biết rằng “đằng nào rồi cũng về không” nhưng tôi vẫn chưa cam lòng! Giá trị đời sống con người dù không thể định nghĩa bằng sự thành công về tài chánh, nhưng con người sẽ kém cỏi biết bao nếu suốt đời cứ phải loanh quanh ba chuyện cơm áo! Cũng may chỉ là mấy tháng hè ngắn ngủi; cũng may những buổi sáng đi qua rất nhanh! Nhưng nghĩ cho cùng, việc dạy học của tôi vẫn chỉ là nghề bất đắc dĩ, và việc dạy võ cũng chỉ là sở thích trong khi tôi có thừa khả năng và có đủ điều kiện để làm một cái gì oanh oanh liệt liệt trong đời. Nhưng cũng lắm khi tôi tự nhũ “có lẽ khả năng của mình chưa tới mức, tài giỏi của mình cũng chỉ hạn hẹp, nên cứ phải loay hoay, cứ phải thăng trầm”! Cũng may tôi đã gặp được một người bạn đời hiểu biết và đảm đang với một tấm lòng vị tha, cao thượng. Những khi ngả lòng, nản chí, nhà tôi vẫn bền bĩ đứng bên cạnh với những câu nói quen thuộc: “con người ai cũng có số”, “cái gì cũng có hên xui”, “em hiểu anh cũng đã cố gắng hết mình, nhưng người định đâu bằng trời định”! Tôi biết đó là những câu an ủi nhưng với tấm chân tình và cung cách đối xử của nhà tôi đôi khi cũng giúp tôi vơi bớt những nỗi muộn phiền đầy ắp trong tim!

Chờ cà phê phin nhỏ giọt trên chiếc bàn che dù phía sân sau, tôi rảo bước quanh khu vườn bên những cụm hoa đủ loại đang khoe sắc. Bốn cụm bằng lăng tím, đỏ nở loa thành hình dáng những bình bông vĩ đại do một bàn tay khéo léo sắp xếp; mấy chậu sứ tím cũng đầy hoa bên cạnh cây ngô đồng xanh mướt lá, mấy cành hoa điệp cũng vươn mình hứng mưa cùng với cụm hoa phù dung rực rỡ… Tôi đi rất chậm, mơn man từng nụ hoa trong khu vườn nhỏ. Vài con bướm bay liệng bên những nụ hoa ngậm đầy nước mưa như những chén rượu lưng chừng của người hào sảng. Không gian vô cùng tĩnh lặng và mưa cứ lất phất bay. Nhìn vẻ đẹp và cảnh sắc của vườn sau làm lòng tôi rung động. Đôi chân vui bước dần theo tiếng gọi vô tình nào đó về hướng bờ suối. Suối là một con kênh khá lớn và sâu bên ngoài hàng rào, chia cách hai khu nhà, quanh năm nước chảy. Nước suối chảy phẳng lặng, rất bình an qua những lau lách hai bên bờ. Thỉnh thoảng nhân viên bảo trì khu vực cắt xén rất tươm tất. Mưa lấm tấm không đủ làm lu mờ mặt nước như tấm gương lớn phản chiếu khung trời thu hẹp với những tầng mây xám đục bay bay dưới mặt suối êm đềm. Đó đây vài con ếch nhảy tùm xuống suối tạo nên những vòng tròn tỏa rộng rồi mờ nhạt dần với gợn sóng. Con đường mòn bên bờ suối tưởng chỉ riêng tôi với những bước chân nhàn hạ nhưng thi thoảng cũng có người chạy bộ vượt qua trả lại cho tôi những câu đối đáp chiếu lệ.

Tôi cứ bước vui đến cuối lối mòn nơi cụm thông già nghiêng đầu rù rì năm tháng, rồi quanh về. Mưa đã dứt hẳn hồi nào cũng trong tĩnh lăng. Đã gần nửa buổi sáng mà thôn xóm vẫn như còn chìm trong giấc ngủ làm cho tôi liên tưởng đến những xóm thôn xưa với những bờ tre khóm trúc, những hàng cau cao lêu nghêu, những cây đa to, những cụm dừa rợp lá; với khói lam chiều quyện bên mái nhà tranh. Tai như thoảng nghe tiếng sáo diều, tiếng lịch bịch nặng nề của đàn trâu trở về từ đồng cỏ; mắt như thấy những tấm lụa nhung xanh mướt của đồng lúa non uốn lượn trong gió chiều! Tôi bỗng nhớ thiết tha một thời ấu thơ bên dòng sông Vệ, nhớ đến rưng rưng, nghèn nghẹn vì hối tiếc một khỏang đời khi mà chữ “chiến tranh” chưa hề nghe ai nói! Tôi lại nhớ tới cái bến sông mà người lớn thường hăm he trẻ nít rằng ban đêm có ma. Cái bến sông làm tôi nhớ đời vì một lần lén theo Mẹ đi học ban đêm. Tôi nằm ngủ mê ở băng ghế trống phía sau mà không ai hay biết. Khi giật mình thức giấc thì đã quá khuya không còn một bóng người! Tôi ù té chạy về ngang qua bến sông đó, vừa chạy vừa lắng nghe tiếng thình thịch của bước chân mình mà cứ ngỡ có ma đuổi theo sau làm rợn gáy.


***

Ngồi nhâm nhi tách cà phê đã nguội, nhìn cụm phù dung rực rỡ bên góc vườn! Hoa phù dung nở bốn mùa, đóa hoa rất đẹp, màu đỏ tươi, đài hoa khá lớn. Mỗi sáng nở hàng trăm đóa hoa, rồi tàn lụi khi màn đêm buông xuống! Vài ba ngày tôi lại phải quét dọn những đóa hoa tàn rụng đầy cội. Tôi trồng bụi phù dung ở góc nhà để xe mà bất cứ lúc nào ra vô, đi về đều nằm trong tầm mắt như là một ngẩu nhiên tình cờ nhắc nhở: “đời sống con người có khác chi những đóa phù dung!”. Không, không phải tôi bi quan mà là chấp nhận cái lẽ sắc không của đời người, dù nhiệt huyết trong tôi vẫn chảy, ý chí phấn đấu trong tôi vẫn còn… tôi vẫn cố gắng tiếp tục làm được những việc ích lợi có thể làm để đời sống còn có ý nghĩa hơn.

thanphongkingwood
09-12-2013, 03:33 PM
Giấc Mơ Phi Công
Và Những Chặng Đường Nghiệt Ngã

Thời ngồi trên ghế nhà trường tôi vẫn luôn “nhìn trời cao mà reo, mà mơ ước như diều để níu áo Hằng Nga, nằm bên dải Ngân Hà”. Những mẩu chuyện KQ làm tôi say sưa quên cả sách vở. Thấy các ngài phi công bên súng, bên dao xề xệ trong bộ áo liền quần phởn phơ dưới phố cho tôi mộng mị đêm dài. Nhất là bị ông nhà văn phi công Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh qua cuốn “Đời Phi Công” đưa mơ mộng của tôi vượt lên chín từng trời! Có lần bày tỏ với Mẹ tôi về ước muốn này bị Mẹ át giọng “học hành không xong Ba sẽ bắt về đi cày ruộng chứ ở đó mà mơ với mộng”! Mẹ biết tôi rất sợ sống ở ruộng vườn; rất sợ đời sống kham khổ với đất đai, nhất là đất đỏ cao nguyên dẻo quánh, nắng bụi, mưa… trời ơi là một nỗi cực hình! Tôi đã từng nói với Mẹ “bằng mọi cách con sẽ vượt ra khỏi nơi này”!

Ba Mẹ và các anh em thấy tôi ham học (chẳng qua là trốn việc đồng áng) nên dồn tất cả sự hỗ trợ cho tôi đi học trên thành phố sau khi xong phần Trung học đệ nhất cấp ở quận lỵ. Tôi sung sướng được xa nhà, xa ruộng rẫy, bắt đầu “trắng da dài tóc” từ đó. Đợi khi vừa thấy tên trên bảng kết quả Tú Tài, tôi đã mơ màng làm phi công chiến đấu. Tôi lén cha mẹ nộp đơn xin làm phi công. Trước khi đi, tôi rất tự tin vì nghĩ rằng mình thừa sức nặng, dư chiều cao, mắt sáng như sao, tai thính như dơi, dũng lược con nhà võ… “nhưng ai có ngờ đâu, đời tôi là bể sầu, nay mộng xưa đã hết, ngày vui đã tàn, lòng tôi nát tan”. Trời không chìu lòng người. Nhóm thanh niên nộp đơn khám sức khỏe phi hành của chúng tôi gồm 20 người nhưng không có được một mống bước qua nổi ngưỡng cửa Phi Long, và tôi là người cuối cùng nghe ông nha sĩ ca bản “thôi anh đi về đi, Không Quân đành bái bai cùng anh, duyên không tròn lưu luyến càng thêm đau buồn!” Có lẽ thây nỗi buồn nặng trì nặng trịch trên mặt tôi, ông ta lại hát tiếp, (Thôi tiếc thương mà chi, trông mong gì anh đi về đi, anh đi về đi cho vui lòng mẹ cha”… chỉ vì vài chiếc răng trám! Mộng làm phi công tan tành theo mây gió, thất vọng não nề, tôi tiếp tục vùi đầu vào sách vở theo đuổi ngành y khoa như ước nguyện của Ba Mẹ tôi và gia đình.

Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt. Sân trường, sách vở trở thành món nợ nhàm chán, nặng nề. Đã vậy, mỗi lần ra phố nếu không Cảnh sát cũng bị Quân cảnh xét giấy tờ quân dịch lia chia… nhưng không có gì nung nấu bằng ước muốn trở thành phi công. Thấy KQ vẫn dồn dập tuyển mộ, tôi lại thắc thỏm muốn liều mình nộp đơn lần nữa. Dù Ba Mẹ tôi vẫn “răn đe” cố gắng học hành, không được xao lãng. Ba Mẹ tôi thường nói, sở dĩ gia đình dồn hết mọi nỗ lực cho tôi ăn học vì không muốn tôi gia nhập bất cứ loại lính nào, vì đã có hai anh lớn trong lính rồi! Nhưng trận Mậu Thân như một giọt nước làm tràn ly đầy, tôi quyết định thử thời vận lần nữa.

Có lẽ vì nhu cầu bành trướng của KQ quá cao nên “hú thần hồn” tôi qua được chướng ngại vật cuối cùng “ba chiếc răng trám như cũ”! Chỉ có đậu được vào KQ mà chân tôi đã như đi trên mây, lòng bồi hồi sung sướng, chỉ còn một nỗi lo duy nhất là không biết ăn nói với Ba Mẹ tôi cách nào.

Suy tính thiệt hơn, tôi quyết định giấu biến chuyện nhập ngũ, khăn gói đi thẳng vào Quang Trung học làm đời lính. Chính vì thế, suốt ba tháng quân trường tôi ngoan ngoãn làm con bà phước không một lời oán than. Hàng tháng tôi vẫn nhận tiền ở nhà gửi lên và vẫn tìm cách liên lạc đều đặn như không có gì.

Ba tháng quân trường đã biến một gã thư sinh trắng trẻo thành một anh chàng mặt mày tay chân đen nám, mặt mũi đầy mụn với vai u thịt bắp gồ ghề làm Ba Mẹ và các em giật mình thảng thốt khi tôi đút đầu về quê… thú tội trong lần đi phép mãn khóa đầu tiên. Tôi nghĩ “gạo đã nấu thành cơm” nên hy vọng không bị rầy la quá độ, nhưng… Mẹ tôi vì thương con nên chỉ biết thở dài; các em sờ mó tỏ vẻ hãnh diện với làng xóm; còn Ba tôi nhất định không nhìn mặt trong suốt thời gian ngắn ngủi đó. Tôi ngậm ngùi trở lại đơn vị sau khi năn nỉ Mẹ tôi và những người thân khuyên giải Ba tôi.
Vì nhu cầu huấn luyện khẩn cấp của KQ nên số đông khóa của tôi, thay vì được gửi đi Nha Trang để hoàn tất giai đoạn hai huấn luyện quân sự, lại được gửi vào Trường Sinh Ngữ Không Quân để học tiếng Anh sau khi quanh quẩn “đạp cỏ ở khu nhà ma” một thời gian ngắn. Khu nhà ma là một khu nhà khá lớn trong căn cứ TSN bỏ hoang, cỏ cao quá đầu gối. Cấp trên dùng nơi này để quản trị lũ chúng tôi, những thằng người có một phần lính nhiều phần học sinh. Mỗi sáng chúng tôi vào trình diện điểm danh chiều lại cho về. Không mấy chốc, bãi cỏ hoang chung quanh khu nhà đã tưa gốc chết tiệt!

Rồi cũng đến lúc trình diện học sinh ngữ. Tôi nhớ lão Đại Úy “Quý heo” đã cho chúng tôi chào trại sinh ngữ bằng cách chạy mấy vòng sân, ở một buổi trưa nắng gắt, với xách Marin (loại bao tải xanh cứt ngựa của lính phát) trên vai làm bao nhiêu chàng công tử bột té lên té xuống trông thảm hại vô cùng! Rồi chuyện đâu cũng vào đó, chúng tôi được chỉ định chỗ ở và hôm sau nhập khóa học. Tôi không giỏi Anh ngữ như một vài bạn cùng khóa nhưng cũng không gặp nhiều khó khăn vì tiếng Mỹ đã là sinh ngữ phụ thời còn đi học. Thế nhưng, ngày thi mãn khóa tôi bị thiếu đúng một điểm chỉ vì nghe lời đường mật của các “sư phụ ma giáo” học tủ một bài thi được các sư phụ chuyền tay nhau trước ngày thi. Tôi phải mất một chầu café thuốc lá cung phụng cho các sư phụ. Các sư phụ bảo đảm bài thi hôm đó nhất định phải là “con chó nhảy hàng rào”! Ôi “trời bất dung gian”, con chó của tôi nhảy không qua nổi hàng rào 70 điểm! Âm thoại rất khó nghe, mà vừa nghe vừa cố so sánh với bùa nên không bắt kịp bài thi. Tôi vội vàng vất bùa và chú tâm hơn… nhưng vẫn không cứu vãn được tình thế. Tôi ngậm ngùi nhìn bạn bè tốt nghiệp làm thủ tục đi Mỹ.

May mắn thay! Học lại đâu được vài tuần thì nhận được tin sét đánh ngang tai “làm thủ tục xuất trại để đi du học khóa fixed wing (fixed wing là tên gọi chung cho các loại phi cơ khu trục, A37, F5, vận tải tác chiến, vận tải để phân biệt với Helicopter). Như vậy ước mơ để trở thành phi công phản lực tác chiến của tôi có nhiều cơ hội thành tựu. Nếu nỗi vui mừng ngày xem kết quả đậu Tú Tài ra sao thì ngày nhận tin đi Mỹ học fixed wing làm tôi vui mừng hơn gấp bội.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378999690.jpg

Trường sinh ngữ Lackland AFB ở San Antonio, Texas là trạm dừng đầu tiên cho tất cả khóa sinh phi hành ngoại quốc. Và dĩ nhiên Viêt Nam là một thành phần. Thường khi đã qua được tới Mỹ có nghĩa là vốn liếng Anh ngữ tạm đủ để có thể theo học các khóa huấn luyện. Tuy nhiên, ai cũng phải thi đậu sau ba tháng học tập ở trường sinh ngữ Lackland và làm quen với đời sống Mỹ trước khi nhập trường bay. Chính vì thế, Lackland cũng là chướng ngại vật cho các sư phụ mánh mung ở trường sinh ngữ quân đội bên nhà. Có một số người, sau ba tháng ăn chơi này đã phải khăn gói quả mướp lên đường về nước đi thẳng qua bộ binh.

Xong phần huấn luyện sinh ngữ, khóa chúng tôi được nhập trường bay, loại Cessna T41, ở căn cứ Randolph AFB. Trường bay này tọa lạc ở thành phố ven đô, Universal City, cách 24 dặm về phía đông bắc của San Antonio. Thời gian huấn luyện ở đây dự trù 3 tháng gồm có huấn luyện thể lực, địa huấn (ground school), học bay, học nhảy dù, phòng cao độ. Riêng phần bay bổng, người giỏi nhất mất khoảng 9 giờ bay với Thầy, người yếu nhất cũng phải cần 18 tới 20 giờ huấn luyện trước khi được thả bay một mình trong vòng đai phi đạo. Ở giai đoạn này cũng lắm người bị về nước vì không thể bay một mình trong một thời gian nhất định nào đó. Bị đánh rớt trong giai đoạn này không đến nổi phải bị ra khỏi KQ mà cho cơ hội để phục vụ trong ngành Không Phi Hành hoặc các trách vụ phi hành khác như Điều Hành Viên (Navigator, NOS, IR).


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378999764.jpg

Chờ cho đến người cuối cùng hoàn tất giai đoạn bay T41, khóa chúng tôi lên đường qua Keesler AFB ở tiểu bang Mississippi (cách San Antonio 9 giờ lái xe) để học bay loại Khu trục T28. Khi lên đường đi Mỹ, khóa chúng tôi có hơn 40 khóa sinh, bây giờ còn lại 35 người sau hai trạm đầu tiên gồm luôn một vài người từ khóa trước dồn lại.

Chương trình huấn luyện ở đây dự trù là 6 tháng gồm phần địa huấn, academic rất nặng nề (lý thuyết về không gian, kỹ thuật hàng không, và phi cơ, khí hậu…), học bay ngày, bay đêm, bay đường dài (cross country), không hành định vị (navigation), bay phi cụ, bay hợp đoàn… Trong giai đoạn này, khóa sinh được huấn luyện tổng số khoảng 150 đến 200 giờ bay; nhanh nhất để được bay một mình trong vòng phi đạo (touch and go) là 14 giờ huấn luyện với thầy cho tới 24 giờ tối đa. Nếu sau 24 giờ mà vẫn không thể bay được một mình vì bất cứ lý do gì cũng sẽ bị trả về nước. Giai đoạn này cũng là một gạn lọc đáng kể cho rất nhiều anh em.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378999809.jpg

Sau khi bay solo ở vòng phi đạo (traffic pattern), khóa sinh được tiếp tục bay các phần hành khác gồm phần aerobatic ngoạn mục, solo vùng, rồi solo navigation, cuối cùng là phần bay hợp đoàn… Bay hợp đoàn rất dễ khi bay trước; bay theo là một ám ảnh tưởng không thể vượt qua chặng này… nhưng rồi cũng quen. Thời gian chỉ có 6 tháng mà như đi rất chậm vì ngày dài triền miên với sách vở, lý thuyết rồi ngồi đồng nghe thầy giảng moral về tài bay bổng của mỗi chàng. Có lắm niềm vui, cũng lắm nỗi buồn phiền; lắm điều trái ngang nghe như chuyện đùa… rồi cũng tới ngày mãn khóa. Khóa chúng tôi còn lại 33 người được gắn cánh bay. Ngày được gắn phải nói là một ngày huy hoàng nhất trong cuộc đời bay bổng. Thế là mộng làm cánh chim trời đã thành tựu, chỉ còn nỗi hồi hộp chờ ngày chọn máy bay và đi học tiếp loại phi cơ chuyên biệt.

Không một khóa sinh nào có thể biết trước được mình sẽ được bay loại fixed wing nào cho đến ngày mãn khóa kể cả các Thầy. Cũng có thể cấp trên và các Thầy đã biết trước nhưng khóa sinh hoàn toàn không biết. Nếu được hỏi, thầy và các cấp chỉ huy Việt lẫn Mỹ đều nói tùy vào “tài khóa”, tùy vao khả năng bay bổng của mỗi người”; có nghĩa là tùy vào số tiền viện trợ được chi viện từ quân đội Mỹ và tùy vào nhu cầu huấn luyện của từng thời điểm.

Sau ngày mãn khóa, chúng tôi mới biết tài khóa chúng tôi chỉ toàn các loại vận tải cơ gồm 16 chiếc C123K, 4 chiếc C7 Caribou, một số C47, và một số C119. Một số anh em vui mừng nhưng riêng tôi vô cùng thất vọng, tìm đủ mọi cách xin chờ tài khóa tới hoặc cho về huấn luyện khu trục ở VN. Rất đáng buồn đòi hỏi của tôi không được đáp ứng. Cấp chỉ huy bảo tôi “mầy (you) được ưu tiên chọn trước, cứ chọn bất cứ loại máy bay nào mầy thích trong tài khóa này, thế nào cũng sẽ có cơ hội chuyển ngành về sau”. Mặc dù tôi có ưu tiên số 5 (20 người đổ đầu khóa được ưu tiên thứ tự ưu tiên chọn trước) nhưng tôi buồn bã nói với thầy chọn giùm bất cứ loại nào ông nghĩ là tốt. Thầy tôi cho tôi biết ông ta cũng thất vọng không kém tôi vì ông ta đã là pilot khu trục trước khi nhận về trường huấn luyện. Thầy khuyên tôi nên chọn C123K vì loại vận tải cơ tân tiến nhất trong các loại của tài khóa này. Tôi đặt hoàn toàn tin tưởng nơi ông nên tôi đã gật đầu.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1378999935.jpg

Trạm dừng chân kế tiếp của 16 chàng phi công vận tải C123K là căn cứ Lockbourne AFB, Ohio để huấn luyện chuyên ngành. Máy bay C123K là loại phi cơ to nhất của KQVNCH thời đó. Ngày đầu tiên ngồi trên ghế huấn luyện trong phòng lái tôi thấy mình thật yếu đuối so với sức lực của loại phi cơ này, nó như con voi bất trị so với các loại T41 và T28A/B đã qua… nhất là lúc cất cánh. Dần dà cả tháng sau mới làm quen với nó được. Phi hành đoàn vận tải bay huấn luyện cũng đòi hỏi ít nhất có 4 người: phi công chính (thầy dạy), phi công phụ (khóa sinh), kỹ sư cơ khí, và nhân viên áp tải. Chương trình huấn luyện đề ra là 3 tháng nhưng khoảng hai tháng thì cả phòng huấn luyện C123K bị dời xuống England AFB (còn có tên Maxwell AFB) phía đông của tiểu bang Louisiana. Một tháng sau thì mãn khóa còn nguyên vẹn 16 trự khăn gói quả mướp lên đường hồi hương.

Về nước được cho nghỉ phép vài tuần lễ xong là trình diện phi đoàn liên hệ để tiếp tục huấn luyện check out hành quân. C123K có 2 phi đoàn 421 và 423 và lũ 16 con nai vàng chúng tôi được chia đều cho hai phi đoàn. Sau thành lập thêm phi đoàn 425. Trước tiên tôi về phi đoàn 421 của Thiếu Tá Nguyễn Quế Sơn để huấn luyện check out hành quân, xong cho về phi đoàn tân lập 425 với Thiếu Tá Nguyễn Thế Thân. Vừa bay vừa học bổ túc giai đoạn hai quân sự tại căn cứ TSN trong 3 tháng trường để hợp lệ mang cấp bậc Thiếu úy.

Khoảng hơn một năm sau, để đáp ứng nhu cầu chiến tranh, KQ VNCH được tiếp nhận vận tải cơ khổng lồ C130A, chia ra hai phi đoàn 435 và 437. Tôi được chọn đi phi đoàn 435 của Trung Tá Lâm Văn Phiếu.

Phi cơ C130A là loại phi cơ tối tân hơn C123K rất nhiều, khả năng vận tải rất cao, kỹ thuật tân tiến nên lôi cuốn rất nhiều người muốn được về bay loại phi cơ này. Có nhiều phi công lão luyện ở các loại phi cơ khác được tuyển chọn về từ C47, C119 để học trưởng phi cơ và lũ nhí chúng tôi chờ khóa học làm phi công phụ. Vì số người chờ học quá đông nên lũ cắc ké của chúng tôi dù chưa được ngồi vào ghế lái nhưng vẫn bị chia phiên mang hia, đội mũ đi theo tàu xách thùng bản đồ vài ba lần một tuần. Tình trạng này kéo dài khá lâu làm tôi nản lòng quá sức! Trong khi đó ở vận tải người ta hay đì nhau chí mạng, hoàn toàn không phù hợp với tâm tánh và ý thích của riêng tôi nên tôi gặp không ít những rắc rối vụn vặt đối với cấp trên “bay thì dở nhưng rất thích ra oai”! Tôi cũng muốn lợi dụng hoàn cảnh để được cho qua tác chiến nhưng vẫn không hữu hiệu!

Đã mấy lần tôi xin Không Đoàn trưởng, KĐ phó chuyển qua bay tác chiến nhưng vẫn không được. Khi mức độ nản lòng đã lên cao độ, tôi nhất định xin đổi qua bay loại vận tải tác chiến AC119K, vừa được KQ Hoa Kỳ chuyển giao, dù các cấp chỉ huy đều không muốn. Tôi nói nếu không cho tôi đi tôi sẽ nộp đơn xin ra bộ binh. Sự cương quyết của tôi đã làm phật lòng nhiều người nhưng cuối cùng cũng được thuyên chuyển về phi đoàn Tinh Long 821 (duy nhất) của Trung Tá Hoàng Nuôi. Ở đây vui hơn nhiều, được đi đánh trận hàng đêm. Không ở một chỗ như những loại vận tải khác. Lâu lâu biệt phái Phù Cát, Đà Nẵng. Và tôi xin đi biệt phái dài dài, xin biệt phái thế cho bạn.

Chiến trường Miền Trung lúc bấy giờ rất sôi động nên cũng lắm chàng có gia đình hay “lạnh cẳng”. Ở Saigon hay đi biệt phái tôi cũng xin bay đều đều đến nổi cấp trên hỏi tôi có còn đầy đủ gia đình cha mẹ không, có bạn gái không (?!) Tôi chỉ mỉm cười, đơn giản nói “tôi thích đi bay, thích đi khỏi Saigon náo nhiệt”. Đi biệt phái Đà Nẵng tôi thích hơn nhiều vì ở đây chiến trường nóng bỏng lại có thằng bạn thân gan lì dạy tôi bay trực thăng, chiêu đãi tôi những bữa ăn ngon ngoài phố, cho tôi tháp tùng đi xung trận những ngày tôi được nghỉ bay. Nó thường cười nói như chơi, “nếu có mệnh hệ gì thì hai thằng mình bị dán giấy phạt trên quan tài thay vì ‘truy thăng’… Và tôi cứ thanh thản sống như thế, cứ vô tư như thế ngày qua ngày lại qua ngày cho tới lần sau cùng, trưa ngày 27 tháng 3 năm 1975, tôi theo biệt đội vội vã rời khỏi Đà Nẵng về lại Saigon trong cơn hỗn loạn bỏ rơi Miền Trung.

Về lại Saigon, chiến sự leo thang đáng kể nhưng tôi vẫn sống bình thản, vẫn sinh hoạt như thường ngày, vẫn xin bay đêm dài dài để thấy “giữa lòng trời khuya muôn ánh sao huyền”… cho đến trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975, khi tôi nhận ra là tôi phải cấp tốc rời khỏi Saigon sau khi chứng kiến chiếc Tinh Long 7 của Trang Văn Thành bị bắn rơi gần vòng đai phi trường lúc 7g sáng… Bạn bè mạnh ai nấy tự lo thân, kẻ chạy ngược người chạy xuôi tìm phương tiện ra đi và tôi cũng đội mưa pháo tìm kiếm phi cơ hữu dụng trong vô vọng. May mắn thay, đang lơ ngơ, lớ ngớ gần trạm Hàng Không Quân Sự thì thấy Thiếu Tá Phan Vũ Điện và một số anh em trên xe pick up chạy ngang vẫy tay bảo chạy theo tới chiếc C130 cuối cùng ở gần trạm Hàng Không Dân Sự. Sở dĩ chiếc phi cơ này còn nằm ụ ở đây vì một số phi cụ đã bị hư hỏng chưa có dịp thay đổi; thế nhưng đâu còn chọn lựa nào tốt hơn. Tôi ngồi vào ghế copilot phụ anh Điện phần hành của một phi công phụ để cố đưa chiếc máy bay không hoàn hão rời khỏi phi trường lúc 12g30 trưa, trong hỗn tạp, trong hoang tàn mang theo hơn 100 người khách bất đắc dĩ, bay thẳng qua Utapao, Thái Lan để bắt đầu cho những tháng năm dài ly hương.

*********

Từ một gã học trò mặt trắng tay trơn đến một phi công lỡ vận, lỡ thời chỉ có 7 năm dài qua bao nhiêu chặng đường. Mỗi chặng đường chứa đựng biết bao nhiêu hồi ức, bao nhiều kỹ niệm, có buồn có vui, lắm điều nhiều nỗi kể sao cho hết. Chỉ xin tóm lược qua những chặng đường cho một giấc mơ phi công của riêng tôi để chia sẻ với mọi người. Dù không cao sang như “Đường Minh Đế” nhưng tôi cũng đã được “nhàn du khắp tinh cầu”, cũng đã sống một thời hào hùng bên súng bên dao. Nhìn lại đời sống cũ đã một thời “sống giữa lưng trời, đôi khi nghĩ chuyện đời mỉm cười thôi”.

Mùa Hạ 2013

thanphongkingwood
09-24-2013, 05:36 AM
RA ĐI… Về Phía Mặt trời Lặn

Cứ mỗi lần ngồi vào máy tính muốn viết lại vài mẩu chuyện đời lính của mình là một lần cho trí nhớ chạy lang bang, chạy tung tăng trên những chiến trường khắp vòm trời Miền Nam Nước Việt. Những ngày tháng xa xưa đó như một cuộn phim hấp dẫn, rất dài, quay rất chậm rãi… khiến đầu óc lụ mụ với bao nỗi nhớ niềm thương. Đôi khi nước mắt trào dâng khi tưởng tượng những khuôn mặt bạn bè thân thương đã nằm xuống, đã ra đi với bao nỗi ngậm ngùi.
Hơn 38 năm qua mà tâm hồn tôi vẫn cứ vật vờ, vất vưởng như thế. Thời quân ngủ của tôi chẳng thấm thía gì so với 38 năm thăng trầm xa xứ; thế nhưng nó cứ sống thênh thang, sống bền bĩ và gặm nhấm hồn tôi ở trong buổi xế chiều. Vâng, chưa tròn 7 năm quân ngũ, đúng một phần ba chiều dài của cuộc chiến tranh tự vệ của quân dân Miền Nam… nhưng thương quá là thương!


******

Không ai không biết là tình thế càng lúc càng xấu đi; địch quân đã tiến về sát vòng đai Saigon. Thời gian vài tuần trở lại đã có một số anh em xầm xì chuyện di tản chiến thuật… nào là tử thủ Vùng IV, nào là Côn Sơn, nào là Phú Quốc, nào là Thái Lan, Bangkok… làm tôi bật cười! Vâng, chỉ xầm xì như chuyện bình thường rồi việc ai người đó lo, hồn ai người ấy giữ trong khi đó các cấp chỉ huy hoàn toàn không nói gì đến tình thế hiện tại. Họ vẫn tỉnh bơ điều động công việc bình thường như mọi ngày. Mọi người vẫn đi bay, vẫn cấm trại, vẫn điếu đóm với an ninh phi trường để chạy ra chạy vào giữa cảnh Saigon xôn xao, lo lắng chiến tranh tràn về thành phố.

Trưa 27 tháng 4 năm 1975, tôi còn ngồi ăn ở quán Huế (bán toàn đồ ăn xứ Huế) nằm trên đường Phan Thanh Giản. Quán này của gia đình Thu Dung, một cô bạn cùng hát hò trong Ca Đoàn Hương Xưa mà tôi có cảm tình đặc biệt. Nhân lúc Thu Dung tới ngồi chơi với tôi một lúc, tôi thật sự chỉ nói đùa với Thu Dung nhưng lại với giọng điệu nghiêm chỉnh, “tình hình đen tối quá, em có muốn đi tỵ nạn với anh không?” “Em là chị cả trong gia đình làm sao em có thể ra đi một mình được?” Và đó là câu nói đùa cuối cùng của tôi còn tồn đọng trong tâm tư từ ấy đến nay. Nếu tôi thật sự có ý định ra đi, chắc chắn Thu Dung không phải là ưu tiên đầu tiên mà là người vợ sắp cưới đang ở không xa dưới phố. Dù vậy, tôi cũng ghé đón chú em thứ Tám đang trọ học ngoài phố vào cư xá SQ độc thân ở cổng Phi Long, vì nghĩ rằng có hai anh em ở Saigon nên sống chết cần có nhau vì chúng tôi đã mất liên lạc với đại gia đình từ trước khi đi biệt phái Đà Nẵng và rồi theo Biệt Đội xính vính rời khỏi vùng hỏa tuyến địa đầu trưa ngày 27 tháng 3, năm 1975 để về lại Saigon.

Trưa 28/4, được tin từ một người thân quen ngoài phố, chú em trai thứ Bảy của tôi ở Bình Tuy chạy về tới Saigon bằng đường biển. Tôi vô cùng vui mừng, cấp tốc chạy ra đưa chú vào trại nhờ sự quen biết với an ninh và phòng thủ phi trường. (Tôi quen biết với họ qua Học Viện Võ Thuật Thần Phong, hoặc qua những lần tranh giải bóng chuyền hàng năm giữa các đội tuyển Không Quân, mà đội tuyển KD53CT bao giờ cũng giành chiến thắng sau cùng vào những năm cuối cùng của KQVNCH.) Trong khi đó, Đặng Phước bạn chí thân bay trực thăng ở Đà Nẵng di tản về Saigon ở tạm với tôi vài tuần lễ để đợi lệnh đi Cần Thơ, lại hộc tốc chạy ra phố chiều hôm trước để tìm kiếm vợ khi nghe tin nàng ở Đà Lạt chạy về (cái quyết định này được trả giá cho nhiều năm tù đày, vài lần vượt trại, chục lần vượt biển cho tới hơn 10 năm sau mới chạy thoát được thiên đường mù Cộng sản, hội ngộ với tôi ở bến bờ tự do)! Sau khi ăn trưa với hai chú em, mua ít đồ đạt cần dùng ở khu gia binh, đưa hai chú về phòng dặn dò “chỉ ở yên trong phòng dù bất cứ biến cố gì”. Tôi tất tả vào phi đoàn điểm danh và ứng trực để chờ phi vụ hành quân.

Đêm 28 tháng 4, năm 1975. Tôi vẫn bình thản nhận phi vụ hành quân như mọi lần. Tôi được cắt bay phi vụ Tinh Long 2 từ 8g tối đến 10g đêm. Tôi nhớ như in cảm giác hồi hộp tột độ đêm hôm đó. Mỗi lần nhớ đến lại rùng mình. Cất cánh bay về hướng Lộc Ninh nhưng vừa qua Thủ Dầu Một không bao lâu, chúng tôi đã nằm trên vùng trách nhiệm. Điều đó có nghĩa là chiến trường không còn xa thành phố bao nhiêu. Tôi nói “bình thản” vì không có chọn lựa nào khác và không tin Saigon có thể thất thủ nhanh chóng hơn Nam Vang được. Với đầu óc vô tư của tôi lúc đó, tôi vững tin vào tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân đội Miền Nam sau hơn 7 năm dài làm lính. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng của quân đội Miền Nam, ngoài sức tưởng tượng của thế giới tự do cũng như cộng sản qua hai trận đánh long trời lỡ đất trong dịp Tết Mậu Thân và Mùa Hè Đỏ Lửa, cho tôi niềm kiêu hãnh và tin tưởng.

Chúng tôi bay ở cao độ 10 ngàn bộ trên đường tới vùng trách nhiệm. Vừa tới “đầu ngỏ”, địch quân đã dàn chào chúng tôi bằng đủ loại phòng không, thắp sáng rực trời như màn pháo bông ở lúc cuối cùng của cuộc lễ mừng Độc Lập ở Hoa Kỳ mỗi năm. Hai mươi con mắt mở banh để canh chừng “đóm lửa xanh SA7”. Dưới mặt đất từng đoàn xe vận tải đủ loại của địch quân, nối dài vô tận, mở đèn sáng choang một cách tự tin, nối đuôi nhau chạy về hướng Saigon. Có vài lần anh Trưởng Phi Cơ hỏi ý kiến anh em có chuẩn bị tinh thần để xung trận hay không. Dường như không có một ai trong 9 người còn lại trên tàu có chút ngần ngại nào khi trả lời YES! Ai cũng đang căng thẳng, hồi hộp tột bực; cái chết dù có lởn vởn trong đầu mọi người nhưng không còn có sự chọn lựa nào khác tốt hơn là khai hỏa.
Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhào xuống nhập trận là phòng không cứ như đan lưới, sáng rực trời lại phải vã mồ hôi bay lên cao khỏi tầm phòng không. Phải rất dè dặt sử dụng trái sáng MK24 chống SA7 nhưng cũng đã bắn ra hơn chục lần! Ôi! Không có nỗi khó chịu, hồi hộp nào bằng khi lâm trận mình chưa bắn được viên nào còn địch quân cứ bắn xối xả như mưa! Kinh nghiệm bao nhiêu lần đánh trận, chỉ khi nào mình khai hỏa thì lúc đó mới hết hồi hộp. Nhưng cả 2 tiếng đồng hồ trên vùng, 4 khẩu đại bác minigun 6 nòng và 2 con gà cồ đại pháo 20 ly 6 nòng hôm nay hoàn toàn im tiếng. Chúng tôi không có lấy một cơ hội để khai hỏa vì không thể bay lọt qua được màn lưới phòng không. Ai cũng hiểu đạn minigun không ăn nhằm gì ở cao độ quá 5 ngàn bộ và đại pháo cũng chẳng ăn nhập gì nếu trên 6 ngàn bộ. Tự nhiên tôi có cái mơ ước lạ lùng “Phải chi mình có đầy đủ đạn dược thì cũng bắn xả láng hù dọa địch quân và để cho mọi người bớt hồi hộp”. Chúng tôi rời vùng trong nỗi uất hận sau khi bàn giao vùng trách nhiệm cho Tinh Long 3.

Sau khi hoàn tất nhiệm vụ tôi hối hả chạy về cư xá. Chỉ hơn vài tiếng sau, đạn pháo kích của địch quân bắt đầu ầm vang khắp căn cứ. Vừa tờ mờ sáng, tôi ra khỏi phòng để quan sát chung quanh. Đối diện cư xá là trại huấn luyện binh sĩ KQ; thường ngày ra vào nhộn nhịp giờ đã vắng lặng khác thường. Tôi đảo qua một vòng thu nhặt những súng ống, đạn dược vất bừa bãi đem về phòng với ý nghĩ thừa sức cho ba anh em chiến đấu tới cùng. Xong tôi lấy xe chạy lên khu gia binh, đến ngay tiệm tạp hóa của Tr/S Ngọn (một nhân viên phi hành vừa bay tối qua với tôi) mua thêm nhiều gạo và nước mắm. Mặc dù dọc đường thấy người người ngược xuôi xuôi ngược, tiếng pháo kích ầm vang đây đó nhưng tôi vẫn không hề nghĩ tới là phải tìm phương tiện ra đi. Về tới nơi thấy hai chú em lo lắng hỏi tôi tính sao? Tôi thản nhiên nói rằng “anh em mình có đủ thực phẩm và súng đạn để tử chiến”. Hai chú nhỏ lần đầu tiên trong đời được rờ tới súng đạn nên có vẻ an tâm.
Bỗng nhiên tôi chợt nghĩ tới bạn bè các phòng bên cạnh, tôi đi gõ cửa từng phòng nhưng hoàn toàn vắng tanh. Trước cửa phòng của Nguyễn Đồng Khuyến (bạn cùng khóa C130) có nồi cơm và nồi thức ăn còn nguyên vẹn nhưng cửa khóa, then cài. Tôi mang về phòng nhưng lòng tôi nôn nóng kỳ lạ, vô cùng bất an. Tôi bảo hai chú nhỏ ăn cơm trước, ở kỹ trong phòng, tôi lấy xe chạy vào phi đoàn để xem sự thể ra sao. Chạy ngang qua khu cư xá của nữ quân nhân KQ thấy rộn rịp xe cứu thương, cứu hỏa. Tôi chạy một mạch vào phi đoàn… ôi cảnh tượng hoang tàn, vài quân nhân đang ngược xuôi, dớn dác không ai có cơ hội chào hỏi ai như thường lệ. Tôi chạy vụt về cư xá bốc hai chú em đèo nhau trên chiếc Lambrettit của tôi chạy ra khu đậu Tinh Long tìm kiếm. May mắn gặp một chú em làm ở Phi Đạo chạy theo tôi cùng tôi tìm máy bay. “Tìm được máy bay ông thầy cho em đi với nghe”. “Dĩ nhiên rồi”.
Những nơi chú Phi Đạo hướng dẫn tới đều đã không còn máy bay. Hai xe bốn người chạy tiếp tục tìm hết bãi đậu này sang bãi đậu khác dưới những tiếng hú của đạn pháo kích của địch rót vào phi trường và kẻ chạy đông người chạy tây trong vô vọng…
Cuối cùng tìm được chiếc Tinh Long ở ngay sát Trạm Hàng Không Quân Sự còn khả dụng, mũi tàu đang hướng ra ngoài. Chú em Phi Đạo leo lên cánh cho biết 2 bình xăng đầy và cho biết chỉ một số đồng hồ không quan trọng hư hỏng mà thôi. Sau khi xem tình trạng chung bên ngoài, tất cả đều tốt. Tôi vào phòng lái quay máy… mừng quá, máy nổ ngon lành, một số đồng hồ không quan trọng lắm bị malfunction (kim nằm ở vệt đỏ). Tôi quyết định ra đi. Thò đầu ra cửa sổ phòng lái gọi chú Phi Đạo và hai em nhưng không thấy đâu. Tôi hoảng hốt tắt máy nhảy xuống đất thấy chú em Phi Đạo ngồi trên chiếc xe hơi màu trắng, mui trần đang nổ máy! Chú nói với tôi rằng “thôi anh em ông thầy đi trước, em lấy xe chạy về nhà rước gia đình rồi tìm cách đi sau, xong chạy biến ra phía cổng!” Tôi nghĩ chú ấy vừa lượm được chiếc xe này của ai đó đã bỏ lại nên muốn dùng làm phương tiện về đưa nhiều người thân cùng đi. Nhưng tình hình này nếu chú ấy ra khỏi cổng thì kể như không còn cơ hội ra đi được nữa; có lẽ tôi đang ngẩn ngơ, hốt hoảng nên cũng chẳng nói được lời nào! Hơn nữa, tôi lại đang bậng khuâng tìm kiếm hai chú em. Vừa lúc đó thấy vài người bạn chung phi đoàn xuất hiện bất ngờ, nhảy lên tàu quay máy, taxi ra khỏi bến đậu! Tôi kinh hoàng đứng ngay trước mũi tàu cố khoa tay cản tàu lại nhưng con tàu vẫn phom phom chạy tới làm tôi phải nhanh chân nhảy ra chỗ an toàn, con tàu vẫn tiếp tục đi về phía phi đạo.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1380000642.jpg
Đang đứng lớ ngớ với nỗi lòng vô cùng tức bực thì thấy hai chú em đang chạy về phía tôi! Tôi hét lên “tại sao bỏ đi đâu vậy?” Chú lớn bình tĩnh nói “tụi em xin lỗi anh Tư, hai đứa em không muốn đi, tính chạy về Bình Tuy tìm Ba Mẹ và anh chị em nhưng ra cổng không được, đầy nghẹt người là người, la ó phản đối om sòm nhưng Quân Cảnh bắn chỉ thiên rất gắt, rồi bắn cả xuống đất làm mọi người hoảng sợ lui vào”. Nghe nó nói tôi chợt nhớ tới Ba Mẹ và các em muốn khóc! Chưa biết hành xử ra sao thì nghe thấy anh Phan Vũ Điện chạy xe pick up của KQ ngang qua vẫy gọi “Thuận, chạy theo anh nè, anh đang cần copilot”. Ba anh em vọt chạy theo. Lúc này pháo kích đã rất thưa. Chạy tới phía bắc của phi đạo gần khu Hàng Không Việt Nam, 3 anh em vọt ngay lên tàu cùng lúc với một số đông người ùa tới chen lấn nhau nhảy lên. Tôi và anh Điện làm việc như một chiếc máy, đưa tàu rời khỏi bến đậu hướng thẳng ra phi đạo cất cánh. Đường băng lổ chổ vì đạn pháo kích của địch quân, lấy hết ga cố tăng tốc độ thật nhanh để kéo tàu lên trước khi hết đường băng. Tàu rời khỏi mặt đất rung liên hồi vì chưa đủ tốc độ cần thiết. Anh Điện tăng cao độ thật chậm và tôi ngồi thầm cầu nguyện trong nỗi lo sợ tột cùng.
Tôi nghĩ trong đầu có thể chiếc tàu bị triệt nâng bất cứ lúc nào, tai nghe trên tần số mọi người nói với nhau “phải quẹo trái chỗ Trường Đua Phú Thọ về hướng biển để tránh phòng không của địch quân”. Chưa quân bình được tốc độ mà còn phải quẹo gấp… chết là cái chắc! Anh Điện với bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc già dặn nên bình tĩnh hơn tôi rất nhiều. Anh từ từ đưa con tàu lên cao dần về phía Côn Sơn. Tôi thở phào và đổi tay lái cho anh Điện nghỉ xả hơi chút đỉnh trong khi con tàu vẫn chậm chạp tăng cao độ! Đến lúc này, bình tĩnh mới thấy một buồng lái đầy người, ít nhất 3-4 ông chức sắc cùng chạy với mình trong đó có ông Hoàng Nuôi, Trung tá PDT Tinh Long của tôi! Mỗi ông mỗi ý. Ông thì muốn đi Côn Sơn, ông muốn xuống Dương Đông Phú Quốc, ông muốn đi Bangkok, ông nói Utapao, có ông lại muốn đáp xuống nước (ditching) sát Hạm Đội 7 của Hoa Kỳ đang chờ ngoài khơi (?)… Cải nhau chí chóe làm anh Điện điên đầu quát lên “Các ông làm ơn im giùm, tôi là TPC của chiếc tàu này và tôi là người quyết định”! Tuy vậy vẫn không ngớt tiếng bàn tán xôn xao dù không còn lộn xộn như trước! Cuối cùng anh Điện quyết định đi Utapao. Tôi dò tần số để nghe ngóng tin tức của phe mình và tin tức phi trường…

Đáp xuống Utapao sau hơn hai tiếng bay. Tàu vừa vào chỗ đậu được quân nhân Mỹ hướng dẫn. Trước khi xuống tàu, chúng tôi buộc phải để lại tất cả vũ khí đạn dược. Có khám xét cẩn thận. Chúng tôi được hướng dẫn vào trạm và một đội quân nhân Mỹ túa tới chiếc tàu và sơn bỏ lá cờ VNCH! Chúng tôi hoang mang và đau buồn vô cùng nhưng cũng vừa lúc gặp lại rất đông bạn bè đã tới trước đang ồn ào tranh cãi về gia đình, vợ con đã được đem ra Côn Sơn sáng sớm hôm nay. Bây giờ tôi mới biết là bên C130 đã cho phép một số gia đình đi trước!
Ở Thái Lan vài hôm, khi những gia đình ở Côn Sơn tới nơi, gồm có các ông thần đã lấy máy bay của tôi ngày hôm trước; tôi rất quạu nhưng cũng phải cười trừ vì giờ đây ai cũng chung thân phận. Chúng tôi làm thủ tục kẻ trước người sau chuyển đi trại tạm cư Orote Point, Guam. Ở đây được khoảng tuần lễ, anh em tôi được chuyển lên căn cứ Anderson làm thủ tục đi trại tỵ nạn Eglin AFB.

Nhớ lại câu chuyện vui trong chuyến bay từ căn cứ Anderson tới Eglin AFB. Chúng tôi được di chuyển bằng loại máy bay vận tải không lồ C5 của Không Quân Mỹ nên chuyên chở rất đông người tỵ nạn, đủ mọi thành phần, nhiều binh chủng, kể cả dân sự. Trên đường bay bổng nhiên một số người trên tàu bị chứng đau mắt cấp tính. Các nhân viên phi hành đoàn người Mỹ thông báo trên hệ thống loa phóng thanh trang bị trong lòng tàu
- Chúng tôi cần một vị Bác Sĩ giúp phân phát thuốc men và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh để chống lây nhiễm cho vài bệnh nhân trên tàu?Câu hỏi được lặp đi lặp lại vài lần nhưng vẫn chưa thấy ai lên tiếng, trong lúc tôi cần đi phòng vệ sinh nên đứng dậy tiến về restroom phía trước. Ai ngờ một nhân viên phi hành kéo tuột tôi lên phòng lái hỏi
- Ông là Bác Sĩ hả?
- Tôi không phải nhưng tôi trước có học trường y khoa vài năm
- Vậy thì được rồi, ông có thể giúp chúng tôi phân phát thuốc cho người đang bị đau mắt cấp tính và chỉ dẫn cách giữ vệ sinh chung cho mọi người.
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì anh ta chỉ cho tôi một tủ thuốc tây, mở ra bảo tôi đọc instruction của mấy chai thuốc nhỏ mắt rồi nói lại cho bệnh nhân biết. Họ cũng đưa cho tôi một hộp đựng khăn dùng để cấp phát cho những người đau mắt. Tôi ú ớ không ra lời nhưng… lỡ rồi tới luôn vì cho đến lúc này vẫn chưa có ai lên tiếng. Tôi cầm mấy chai thuốc và xin một bình nước ấm để ngâm hết hộp khăn rồi tiến về những người đang mắc bệnh, đưa cho mỗi người một chai thuốc và một chiếc khăn, chỉ cách dùng theo lời chỉ dẫn in sẵn trên lọ sau khi lau mắt sạch sẽ bằng những chiếc khăn riêng biệt. Tôi đề nghị cho nhóm người này ngồi tách biệt ra một chỗ khác để giảm thiểu sự lây nhiễm. Một số hành khách thấy tôi loay hoay “làm Bác Sĩ” tưởng thật nên lại xin thuốc nhức đầu. Sẵn phân phát luôn một số thuốc nhức đầu, đau bụng cho những người có nhu cầu…

Tôi tưởng tôi cần đi phòng vệ sinh nhưng bị lôi kéo cả tiếng đồng hồ sau mới có giờ đi được (có lẽ ú ớ quá nên quên luôn việc cần làm). Khi tôi về lại chỗ ngồi thì ông thần bạn thân, Phát Volley (vua đánh bóng chuyền của SD5KQ), ngó tôi cười ha hả chế nhạo, “mầy là Bác sĩ hồi nào sao tao không biết”. Tôi ngượng đỏ mặt nhưng cũng cố đùa lại “mầy đừng để bị bệnh tao sẽ đè mấy ra chích vào mông nha con”.

Nhập trại Eglin được vài tuần thì hai gia đình chúng tôi gồm Phát Volley cùng vợ với một con nhỏ và tôi với hai chú em được bà già nuôi người Mỹ làm giấy tờ bảo lãnh về sống cùng gia đình bà ở San Antonio, Texas. Thứ Bảy, ngày 26 tháng 5, năm 1975 lũ chúng tôi xuất trại bằng phương tiện hàng không dân sự. Ngày Chủ Nhật 6 người chúng tôi được bà già đưa đi nhà thờ. Ngày thứ Hai tiếp theo, tôi và Phát đi làm thợ vịn bán thời gian cho một ông hội viên nhà thờ chuyên môn sửa chữa nhà cửa… Và kể từ hôm đó, chúng tôi bắt đầu tự lực cánh sinh, nếm thừa ứa mùi nhục vinh của đời sống tỵ nạn tha hương.

Mùa Hạ 2013

**********

Ghi chú thêm:

1. Phi Đoàn Tinh Long 821 có gần 300 nhân viên phi hành, bay loại Stinger AC119K là loại vận tải tác chiến tối tân nhất của KQ VNCH thời bấy giờ. Chuyên môn yểm trợ chiến trường ban đêm khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Ngoài tổng hành dinh của phi đoàn nằm tại Không Đoàn 53 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 5 KQ, căn cứ Tân Sơn Nhất còn có 2 Biệt Đội, một ở Phù Cát, một ở Đà Nẵng. Biệt Đội luân chuyển mỗi 2 tuần tới 1 tháng tùy theo nhu cầu chiến trường. Giờ hoạt động của Tinh Long từ 6g chiều tới 6g sáng, gồm 6 phi vụ chính, mỗi phi vụ bao vùng ít nhất 2 tiếng đồng hồ và 2 phi vụ ứng chiến.

2. Vài nét về phi cơ AC119K Stinger.
Rất hữu hiệu trong chiến trường chống biển người, chống đoàn xe tăng. Hai động cơ hiệu Wright R-3350s với 3,500 mã lực mỗi máy. Và hai ống phản lực hiệu General Electric J85-GE-17 với lực đẩy 2850 lbs. mỗi chiếc. Hỏa lực trang bị gồm 4 khẩu đại liên 6 nòng, MXU-470/A 7.62 mm “miniguns”, với 21,500 viên đạn cho mỗi khẩu, và 2 khẩu đại pháo 20 mm, M61-A1, 6 nòng với 3,000 viên đạn mỗi khẩu. Tất cả được điều khiển bằng hệ thống điện tử tinh vi.
Nó cũng được trang bị 24 trái sáng hiệu MK 24 để chống hỏa tiễn tầm nhiệt và ống phóng hiệu LAU-74/A. Phi công có thể cho khai hỏa hoàn toàn tự động, bán tự động hoặc tự điều khiển. Chiếc Stinger cũng có một hệ thống radar hồng ngoại tuyến tối tân gồm các máy APQ-136, AAD-4 (FLIR), và hệ thống điện tử báo động APR-25/26 (ECM). Phi hành đoàn tiêu chuẩn có 10 nhân viên, gồm 5 Sĩ Quan (pilot, copilot, navigator, night observation sight (NOS) operator, radar/FLIR operator), và 5 HSQ (1 cơ khí phi hành, 1 nhân viên trái sáng và ba nhân viên vũ khí). Stinger có tốc độ chiến đấu 180 knots/g; thời gian bay khoảng 5 tiếng cộng thêm 30 phút dự trữ). Khả năng của Stinger rất hữu hiệu ở độ cao từ 3.500 – 5.500 ft trên mặt đất (AGL).

Stinger có rất nhiều ưu điểm nhưng có một khuyết điểm quá lớn là to xác và chậm chạp, dễ làm mồi cho cao xạ, phòng không, và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch quân. Chúng tôi thường gọi đùa Stinger là “quan tài bay”! Các loại chiến đấu cơ nhanh như chớp còn bị dính chấu huống gì 180 knots/giờ… nhưng thực sự có ai bao giờ bay tới tốc độ đó ở chiến trận đâu!

VeSau
09-30-2013, 05:56 AM
STM
Ngoc Anh

thanphongkingwood
10-01-2013, 02:13 PM
CHUYỆN TÌNH MÙA CHINH CHIẾN

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1380638462.jpg

Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, “Bình Long anh dũng, An Lộc kiêu hùng” đã kéo hút chúng tôi, binh chủng Không Quân VNCH, vào chiến trận mịt mù khói lửa. Dĩ nhiên các bạn bên tác chiến (trực thăng, khu trục, A37, F5) đối diện với tử sinh đã đành; lũ chúng tôi bên vận tải cũng góp phần không kém. Nào là thả dù tiếp tế, soi sáng chiến trận, không vận chuyển quân, không vận thực phẩm, thuốc men, đạn dược cho các chiến trường. Hai phi hành đoàn C123K hy sinh liên tiếp trong hai tuần lễ liền làm bàng hoàng những anh chàng có chữ thọ trên trán.

Những phi vụ kể trên dĩ nhiên đáng rét nhưng không rét bằng những phi vụ đưa anh hùng tử sĩ về quê.
“Anh hùng” khi ra đi, khí thế phừng phừng với bầu nhiệt huyết, quyết một lòng giữ yên bờ cõi với súng đạn cài tận răng… nhưng khi “tử sĩ” trở về, các anh chỉ nằm im ỉm trong lớp áo quan, dưới lá quốc kỳ phủ kín, mặc cho người thân đau đớn tận cùng. Những tiếng khóc nỉ non, ai oán làm mềm lòng người nghe; uất khí của các anh bao trùm trời đất, bám chặt vào tất cả các vật thể chung quanh làm chùn lòng những người lân cận. Ngay như tôi rất thích bay, rất hay tình nguyện nhưng cũng phải xem trước “lịch trình bay”. Các anh đừng vội giận tôi nhưng thà tôi đi chiến trường còn hơn là đưa các anh về quê, buồn lắm, mặc dầu tôi vẫn thương kính các anh. Tôi rất sợ nghe những tiếng khóc than không dứt của vô số người vợ trẻ con thơ, của cha mẹ hay người thân thích của các anh; nhất là tôi rất sợ cái mùi uất khí! Thử tưởng tượng vài chục người vật vã khóc than liên tiếp suốt chặng đường bay vài ba tiếng đồng hồ cùng với mùi uất khí nồng nặc của cả chục quan tài bám chặt vào râu tóc, áo quần từ đầu đến chân không có phương cách nào trừ khử được… Nào là lá trầu, nào là vôi, nào là dầu thơm, dầu xanh, dầu nhị thiên đường… bất cứ thứ gì nghe mách bảo đều thử qua để mong chống lại mùi tử khí nhưng đều bất lực! Bám chặt đến nỗi tắm gội bằng đủ các hiệu xà phòng, nước thơm; cạo râu, cắt tóc ngắn, giặt giũ bằng tay bằng mọi loại hóa chất (bỏ tiệm giặt nhiều nơi không dám nhận) cũng chả ăn thua gì! Chưa kể đến những lần khí hậu không cho phép hoặc cần phải bay lên cao… không khí loãng làm quan tài bật nắp là một thảm họa khôn lường! Chuyện lên cao làm quan tài bị bật nắp và các ông áp tải phải leo ngồi trên nắp áo quan để trấn giữ cho tử thi không ngồi dậy là chuyện không xa lạ gì với phe vận tải!

Người ta nói, cái gì cũng vậy, đụng riết phải quen, làm riết phải rành… nhưng trời ơi cả một mùa hè dai dẳng vẫn không sao chịu nỗi. Mỗi lần xem phi vụ lệnh là mỗi lần cầu nguyện để được đi chiến trường! Dù vậy, vẫn không thoát được. Anh em vẫn phải chia phiên nhau. Cả một mùa hè mỗi người phải bay ít nhất ba ngày một tuần, cho nên chờ được ngày nghỉ dường như rất khó tới!

Chính cái mùi uất khí đó đã ngăn cản tôi những lần hẹn hò dưới phố, nhất là với người đẹp. Chỉ dám xuất hiện một cách nhanh chóng khi đã làm tất cả mọi thứ để giảm thiểu mùi hôi, vậy mà có lần nàng phải bịt mũi nhăn mày. Chỉ khi nào thấy lâu quá tôi không xuất hiện nàng mới gọi với lời dặn dò “tắm rửa cẩn thận và thay quần áo mới”. Vâng, quần áo bao giờ cũng tươm tất nhưng cái mùi dính chặt vào da thịt thì không cách nào chôn giấu được!

Tôi quen nàng trước lâu Mùa Hè Đỏ Lửa, đã hứa với nàng thế nào cũng đưa nàng đi dạo không gian một ngày (nàng làm việc cho cơ quan DAO của Mỹ trong phi trường nên việc ra vào cổng an ninh rất dễ dàng). Thế nhưng hẹn vẫn chỉ là hò. Nàng đi làm mỗi ngày còn tôi thì mải miết bay tiễn người đi đưa người về liên tục. Chờ đợi, hẹn hò mãi cho tới một ngày nàng báo “ngày N em có thể đi bay với anh với điều kiện không chở quan tài”. Tôi xin với Phi Đoàn Trưởng, ngày N cho bay phi vụ không chở quan tài và cho phép bạn gái đi theo. Ông PDT của tôi vui vẻ nhận lời vì có lần ông ta hỏi tôi “bộ anh không có bạn gái hay sao mà xin đi bay hoài dzậy”.

Ngày N, tôi được cắt bay Saigon, Nha Trang, Đà Nẵng, Saigon. Trong phi vụ lệnh thấy chở một ít hành khách, thực phẩm tiếp tế đi và rước hành khách và thương bệnh binh về. Tôi yên tâm đánh xe rước nàng vào phi đoàn. Nàng mặc chiếc áo dài màu hồng thẩm, để lộ những đường cong tuyệt mỹ với nụ cười tươi trẻ luôn nở trên môi cùng đôi mắt long lanh quyến rũ… đã chiếm cảm tình tất cả mọi người gặp nàng hôm đó, làm tôi sung sướng, hãnh diện vô cùng. Anh NHC Trưởng phi cơ (TPC) ưu ái cho nàng ngồi trên buồng lái chỗ ghế Điều Hành Viên (ĐHV). Khi máy bay bình phi rời khỏi vùng trời Saigon, ông TPC cho nàng ngồi vào chỗ của tôi để “feel” cần lái một lúc. Có lẽ lần đầu tiên trong đời được ngồi trong phòng lái nhìn trời mây bao la, không gian xanh ngát… nên đối với nàng cái gì cũng mới lạ. Tiếng cười trong trẻo, tiếng nói thanh tao của nàng làm cho mấy đoạn đường bay rút ngắn rất nhanh…

Nhưng rồi tai họa đổ ập xuống! Chưa đáp Đà Nẵng đã có lệnh sẽ phải bay ra Huế chở 10 quan tài về lại Saigon! Lệnh trên đã ban xuống không thể không thi hành! Nàng nghe tin bàng hoàng muốn xỉu, mặt mày thất sắc, đôi mắt mọng ướt! Tôi xót xa xin lỗi nhưng không làm cho nàng tươi tỉnh hơn được! Xuống tới Đà Nẵng tôi tìm cách liên hệ với tất cả phi cơ bạn đáp ở đây để gửi nàng về trước; thế nhưng, đã tới giờ cất cánh mà vẫn không tìm ra một ai! Nàng riu ríu theo chân chúng tôi một cách miễn cưỡng.
Trên đường ra Phú Bài tôi cũng cố gắng liên lạc trên tần số xem có ai ở Phú Bài bay về SGN mà không chở quan tài; nhưng vẫn vô phương! Trước khi đáp ở Huế, chúng tôi liên lạc với cơ quan trách nhiệm chuẩn bị vận chuyển quan tài lên tàu ngay lập tức một khi chúng tôi vào bến đậu. Trong khi chờ đợi áp tải làm việc cùng nhân viên trạm, chúng tôi ăn qua quít, vội vã để bay về sớm. Cả PHD không ai nói với ai một lời. Sự vui tươi buổi sáng đã đi vắng cùng với nỗi âu lo, buồn phiền hiện trên nét mặt của nàng làm chúng tôi bất an nhưng dường như không ai biết nói cách nào để an ủi. Nài nỉ mãi nàng mới ăn được một chút, rồi cùng lũ chúng tôi lần lượt lên tàu. Tôi ngại ngần nói với nàng cứ đi thẳng lên buồng lái mà không cần để ý tới ai làm chi. Vừa bước lên nhìn thấy cả chục cổ áo quan bao phủ cờ vàng 3 sọc đỏ là nàng đã hồn phi phách tán. Thấy các gia đình thân nhân khóc than bi thiết khiến chân nàng rụng rời xuýt vấp té. Nàng cố bịt miệng bịt mũi bước thật nhanh lên phòng lái ngồi vào ghế của ĐHV. Mùi tử khí nặng nề khắp nơi khiến nàng không thể cầm giữ sự ói mửa liên tục. Chúng tôi vội vàng quay máy mở cửa phòng lái phóng ra phi đạo kéo vút lên trời, xin phép bay ở cao độ thấp đi dọc theo bờ biển với tốc độ nhanh nhất có thể để mong về Saigon sớm.

Suốt chặng đường dài nàng cứ vật vờ rủ xuống ghế ngồi, hết ói tới mửa, không nói một lời! Chúng tôi dùng hết hai lọ nước hoa nhỏ của nàng và của tôi mang theo trong túi áo; xát lá trầu, đánh dầu gió, dầu xanh trên thái dương; tôi tính bôi vôi vào lòng bàn chân nhưng nàng nhất quyết từ chối. Máy bay đáp xuống Saigon, anh TPC gọi ngay chiếc xe trực của phi đoàn ra đón gấp. Tôi dìu nàng ra xe, toàn thân nàng yếu lã trên tay tôi. Buổi sáng tươi vui, xinh đẹp bao nhiêu bây giờ như đóa phù dung buổi tối, đôi bờ môi tím ngắt, gương mặt xanh xao thất sắc, chân tay rời rã nhũn mềm! Lòng tôi ngập tràn thương cảm và có chút hối hận! Tôi ngỏ lời muốn đưa nàng đi bệnh xá nhưng nàng nhất định đòi về nhà ngay. Chìu lòng nàng, tôi phóng xe ra phố. Lòng tôi âu lo, tự nghĩ phen này “chắc khó tai qua nạn khỏi” mặc dầu không hoàn toàn lỗi của mình.

Mẹ nàng đón chúng tôi ở cửa với vẻ mặt hoảng hốt, rụng rời! Ôi con gái cưng của mẹ! Bà tất tả thoa bóp, lấy khăn ướt lau mặt mày tay chân cho nàng. Lúc này bà cụ mới phát giác, “sao cả hai đứa bây có cái mùi gì làm mẹ muốn nôn vậy?” Tôi đứng như trời trồng chưa biết trả lời ra sao thì nàng khoát tay bảo “anh về nghỉ đi mai mốt trở lại thăm em”. Tôi thẹn thò không nói nên lời, lúng túng cúi đầu chào bà cụ rồi phóng ra cửa biến mất!

Nàng bệnh đúng một tháng và tôi chỉ đến thăm chớp nhóang đúng một lần khi nàng sắp sửa trở lại sở làm. Đó là lần tôi được nghỉ bay hai ngày liên tục, ngâm lâu trong nước ấm, mặc nguyên bộ quần áo mới toanh, dùng loại nước hoa đặc biệt để trấn bớt cái mùi đã thấm vào thịt da râu tóc! Vả lại, chiến trường vẫn sôi động và lũ chúng tôi vẫn phải tiếp tục đưa anh hùng tử sĩ về quê nên dù có muốn đến thăm nhiều hơn cũng không thể được, phần sợ bà Cụ, phần ngại nhìn mặt nàng. Tự nhiên thấy mình có lỗi quá sức! Và cứ thế, càng ngày chúng tôi càng thưa thớt gặp nhau.

Người ta thường nói”xa mặt cách lòng”! Vâng, tình cảm của chúng tôi có phần vơi đi vì mặc cảm cả hai bên. Ôi không gian thênh thang sao không đủ chỗ cho tình yêu của chúng tôi dung thân! Chuyến đưa nàng đi dạo không gian ngỡ sẽ làm cho tình yêu thăng hoa chứ có ai ngờ đâu đó là nguyên nhân làm cho mối tình của tôi và nàng càng ngày càng phai nhạt. Thật ra lòng tôi cũng không còn đủ tha thiết với nàng như xưa. Kịp đến khi tình trạng đưa người về cố quận bớt hẳn đi thì nàng đã bén duyên mới. Và tôi cũng mới làm quen một cô học trò be bé, xinh xinh.

Duyên mới của nàng là một anh bạn phi công trực thăng bị đụng xe rất nặng, nằm chữa trị rất lâu ở bệnh viện Cộng Hòa. Anh bạn quê ở ngoài Trung xa tít nên thân nhân rất khó khăn để ở Saigon chăm sóc. Tôi đưa nàng đến thăm. Nàng xuýt xoa thương cảm. Bác sĩ cho chúng tôi biết là anh bạn sẽ không thể bay lại được nữa, chữa trị xong sẽ giải ngũ. Tính nàng mẫn cảm, xót thương cho sự đơn độc của ông bạn của tôi nên thường xuyên lui tới thăm viếng, an ủi, săn sóc. Có lẽ tấm lòng của nàng chứa đựng sẵn tấm lòng của chị gái, của em gái, của một đấng từ mẫu nên càng ngày càng thấy tình thân ái của nàng đối với ông bạn của tôi có vẻ mặn mà hơn…

Khoảng tháng 3/75 bạn tôi xuất viện và được nàng đưa thẳng về nhà nàng để tiếp tục điều trị tại gia và chính tay nàng đã tận tụy săn sóc bảo dưỡng. Ngày 26/4/75 tôi có ghé nhà thăm mới biết nàng đã đưa Mẹ, anh chị, và bạn tôi di tản theo cơ quan của nàng.

Vài năm sau ở Mỹ, chúng tôi tình cờ gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Bạn của tôi đã hoàn toàn khỏe mạnh. Cả hai người đã đồng tâm hiệp lực xây một mái ấm gia đình trong vô vàn hạnh phúc. Lâu lâu tôi lại có dịp ghé thăm, đôi khi cũng ý nhị nhắc chuyện cũ để cùng cười độ lượng với nhau trong tình cảm bạn bè.

Duyên mới của tôi là một hạnh ngộ bất ngờ.
Tôi được người bạn phi hành, ĐT Khừ, thuê chung phòng trọ ngoài phố, cùng phục vụ chung phi đoàn, bay chung phi vụ tải hàng về Miền Trung, chở khách về Saigon hôm đó mời tôi và Khải sửa (TPC) tham dự tiệc sinh nhật của cô bạn gái của hắn ở ngoài phố. Sau khi về phòng trọ tắm rửa, trau chuốt cẩn thận, ba chúng tôi cùng đi, tạt qua phố sắm sửa chút quà cáp rồi chạy thẳng tới nhà. Đứng chờ cửa, chúng tôi đã nghe nhiều tiếng nói líu lo, tiếng cười dòn tan trong trẻo của các người đẹp. Khi chủ nhân đưa chúng tôi bước vào nhà, tất cả đều ngưng bặt, người chỉ đưa mắt nhìn người với những cái gật đầu cười nụ. Khừ giới thiệu hai chúng tôi với cô chủ nhà và cô chủ nhà giới thiệu 3 cô bạn gái khá xinh của nàng. Chủ nhân cố ý sắp đặt chỗ ngồi cho mỗi cô mỗi chàng, còn gia chủ ngồi ghế đầu bàn, ở giữa. Thật tình tôi không nhớ tôi đã ngồi với ai, ba hoa chích chòe những gì hôm đó. Suốt buổi tiệc tôi chỉ chăm chú tới một cô nương ngồi với Khải sửa (vì thỉnh thoảng tôi bắt gặp nàng liếc nhìn tôi). Nàng mặc áo dài trắng như nữ sinh có thêu hoa lan thanh nhã, trông rất trẻ con (tôi đã nghĩ chắc khoảng đôi tám), gương mặt bầu bĩnh tươi thắm, nước da trắng ngần, đôi môi hồng luôn mỉm cười, rất ít nói, chỉ cười góp, hay cúi mặt e thẹn nếu có ai nói về nàng. Tôi nói chuyện chung chung với mọi người nhưng hay bắt chuyện với nàng vì Khải sửa cũng chỉ hay cười biếng nói. Khi cần phải trao đổi điều gì, nàng chỉ nói lí nhí cho qua chuyện rồi lại ngồi im nhìn, nghe người khác.

Khi tiệc tan, chúng tôi lưu luyến chia tay, phần ai về nhà nấy. Một buổi tiệc vui vừa phải và không để lại trong tôi một đặc biệt nào. Mấy hôm sau, BN - cô chủ nhà gọi điện thoại cám ơn anh em chúng tôi đã tới tham dự và tặng quà sinh nhật cho nàng. Sau một lúc nói năm điều ba chuyện xong, BN hỏi tôi có còn nhớ cô bé ngồi với tôi không? Tôi trả lời “xin lỗi quên cả tên mất rồi”! “Hèn gì TT cũng nói với N là anh có vẻ vô tình”. Tôi đáp, “tôi công nhận là chưa có tình”. “dù vậy lại có người khác hỏi thăm anh” “Ai vậy?”. “Thì N đây nè hihi… nói đùa với anh thôi. Anh còn nhớ cô nàng ngồi với anh Khải không?” “à à cái cô be bé dễ thương đó hả?” “Vậy là anh có tình ý với cô ta rồi!” “Đâu có, BN muốn giới thiệu cô đó cho anh Khải bạn anh mà ?” “Nhưng cô ta không chịu, chỉ hỏi thăm anh thôi!” “Mèn!” “Anh hối lộ cho N, N sẽ nói tốt về anh”. “BN biết gì về anh mà nói tốt?” “Anh Khừ nói hết cho em biết về anh rồi!” “Chết chưa! Nhưng anh có gì xấu đâu mà lo ?” “Có chứ, nhưng em không nói cho anh biết đâu!” “Chỉ giỏi bắt nọn! Anh sẽ dần ông Khừ của em mềm xương”. “Anh Khừ chỉ là bạn bình thường thôi mà!” “Vậy ai là bạn không bình thường của BN?” “Bí mật anh ơi!”. “Ừ thì có ngày cũng sẽ bật mí”. “Em mới quen thôi nhưng dường như người đó không để ý đến em!” “À vậy đúng là không bình thường!” “Thôi bỏ qua chuyện của em, em hỏi lại anh, anh có muốn gặp TD không?” “TD nào?” “Là cái cô nương bé bé dễ thương như anh nói đó”. Nhưng cô nhỏ đó còn bé quá mà!” “Sắp thi vào đại học rồi đó chàng!” “Oh my mine, Thế à! Nhưng gặp bằng cách nào?” “Chỉ cần mời chúng em đi ăn thì sẽ được toại nguyện”…

Sau khi tôi gặp Khải sửa ở phi đoàn để hỏi lại cho chắc ăn. Khải sửa nói không biết gì về cô gái đó. Thế là tuần lễ sau tôi tìm được giờ mời hai cô nương đi ăn nghêu ở đường Nguyễn Tri Phương. BN nói với tôi là sẽ đến nhà nàng xin phép Mẹ nàng và đưa nàng đến chỗ hẹn. Tôi có một chút bỡ ngỡ khi gặp lại hai người. Cả hai rất xinh tươi trong hai bộ đồ đầm khác màu, hợp thời trang buổi tối. Cả hai trông rất khác với tà áo dài trong tiệc sinh nhật hôm nào. Dù nàng vẫn nói ít cười nhiều, nhưng trong ánh mắt nàng, tôi thấy chứa chan thiện cảm. Ngồi với nhau được vài tiếng thì nàng xin phép ra về vì nàng nói Mẹ nàng rất khó. Tôi xin số điện thoại nhưng nàng không dám cho, nói với tôi cứ nhắn với BN là được rồi! Tôi quay ngó BN, nàng dẩu môi cong cớn, “tui hổng phải chim xanh đâu nha, hai người tìm cách tự lo đi!”… Tôi lưu luyến tiễn hai nàng ra xe về.

Nói thì nói vậy, BN vẫn miễn cưỡng đi chơi chung với chúng tôi thêm vài lần nữa. Tôi nói với nàng, “TD cho anh địa chỉ anh sẽ đến nhà thăm chứ thấy BN không vui như lúc đầu nữa.” Nàng nói để dọ ý Mẹ nàng trước đã, khi có vẻ thuận tiện sẽ gọi điện thoại cho tôi biết.

Hẹn lần hẹn cứa cho tới hôm Mẹ nàng nằm ở bệnh viện Quảng Đông mấy hôm, nàng cho tôi biết và hẹn tới bệnh viện thăm bà. Tôi mua hoa, mua cam hồi hộp đến bệnh viện. Nàng giới thiệu tôi là bạn với BN muốn tới thăm. Bà Cụ nằm nhìn tôi từ đầu tới chân rồi nói lời cám ơn. Đêm hôm đó tôi xin phép ở lại bệnh viện với bà dù bà không hoan nghênh cho lắm. Tôi cố thuyết phục bà bằng cử chỉ và hành động nên thức trắng đêm canh giấc ngủ cho bà, hỏi han bà từng li từng tí. Hơn nữa, tôi cũng muốn nhân cơ hội ở gần nàng lâu hơn. Hai đứa chúng tôi ngồi hai đầu băng đá trước cửa phòng cốt để cho bà cụ thấy được. Nàng tỏ ra cảm động và bắt đầu thổ lộ chuyện gia đình. Nàng cho tôi biết, nàng đã xong Trung học Nguyễn Bá Tòng, sắp vào Văn Khoa. Ba nàng làm ở tòa án rất bận rộn nên thường vắng nhà; có 3 chị. Hai chị lớn đã lập gia đình chỉ có chị Tư nghỉ học, trốn ba mẹ gia nhập Thủy Quân Lục Chiến mấy năm rồi! Nàng cho biết Mẹ nàng biết tôi là dân bay nên không mấy thiện cảm và luôn nhắc nhỡ nàng “đề cao cảnh giác”. Nàng nói tôi liệu hồn! Tôi nói, “thiệt oan cho lũ trẻ tụi anh, đứa nào cũng hiền khô, nhất là anh dân ruộng biết gì! Không hiểu mấy ông đàn anh làm gì mà tai tiếng như thế, hay tại người ta ghen ghét Không Quân nên đồn thổi, thêm mắm dặm muối mà thôi! Nàng hứ và lườm tôi với đôi con mắt có đuôi. Tôi nói đùa, “TD nói với Mẹ anh sẽ xin đi Thủy Quân Lục Chiến như chị Tư nha”. “Em xù anh liền!” “Vậy là TD muốn anh mang tiếng xấu nha?” “Khỉ anh!”

Nàng cùng thức với tôi nguyên đêm dù có ngủ gà ngủ gật. Hai đứa co ro ở hai góc phòng canh thức. Đôi lúc tôi ra dấu muốn tới ngồi gần nàng nhưng nàng lắc đầu lia lịa rồi chỉ Mẹ. Tôi làm bộ bò sát đất về phía nàng, nàng vội vả đứng lên tới bên giường bà Cụ. Tôi bịt chăn lên miệng cười thỏa thích! Buổi sáng hôm sau tôi ra về với cõi lòng phơi phới, thấy mùa thu còn ngủ trên cây. Chạy một mạch về phòng trọ, không kịp thay đồ, ngủ vùi một giấc dài tới chiều tối vào phi đoàn nhận lệnh đi bay vào hôm sau.

Có lẽ nàng cũng cố tình cho tôi lấy điểm với bà Cụ cho nên hôm bà Cụ rời bệnh viện, nàng báo cho tôi biết đến đón bà đưa về tận nhà. Và kể từ đó, cái nhìn của bà về tôi càng ngày càng bớt đi phần nghiêm khắc, rồi dần dần tôi được phép đi lễ nhà thờ cùng bà và con gái trong những Chúa Nhật tôi có mặt ở Saigon. Thỉnh thoảng tôi được mời dùng cơm tối với Ba của nàng. Cụ ông tính tình điềm đạm, gương mặt phúc hậu, ăn nói nhỏ nhẹ. Cả ông và bà đều là người Nam nhưng không giống nhau về cách cư xử. Bà khó tính bao nhiêu thì ông dễ tính bấy nhiêu…

Thời gian cứ thế trôi qua. Chiến tranh càng lúc càng khốc liệt và cuộc tình càng lúc càng đằm thắm hơn. Có mấy lần nàng và Mẹ ngỏ lời muốn chúng tôi tiến tới hôn nhân. Nhưng than ơi! “Tiền lính tính liền”, thân tôi chưa lo xong làm sao tôi lo cho nàng được! Hơn nữa, sự chết sống thật sự cận kề, bạn bè đã bao nhiêu đứa lìa đàn gãy cánh ra đi, bỏ lại vợ con tân khổ. Hơn nữa, suốt mùa Hè đỏ lửa tôi đã bao lần rơi nước mắt trước cảnh những người vợ trẻ khóc chồng, cha mẹ khóc con! Tôi nghĩ tới những hangar ở Phú Bài chứa đầy xác chết, dòi bọ lúc nhúc, hôi hám rực trời, chờ thân nhân đưa về cố quận… nên chùn lòng dù rất mực yêu thương nàng. Ông bà biết sự lo âu của tôi nên càng khuyến khích rằng ông bà thừa sức để lo toan cho con gái của họ… nhưng trời ơi thực lòng tôi không thể nhẫn tâm!


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1380638948.gif

Lần lựa mãi, toan tính mãi, hẹn hẹn thề thề… để rồi trưa ngày 29 tháng 4, năm 1975 tôi vượt thoát không có nàng bằng chiếc C130 cuối cùng của căn cứ Tân Sơn Nhất, dù vẫn không biết đi đâu, về đâu!

Đầu tháng 9/2003

thanphongkingwood
10-08-2013, 04:57 AM
Ôi Phi Công… danh tiếng muôn đời

câu chuyện phiếm
mào đầu: chuyện phiếm là chuyện đọc cho vui, xem rồi bỏ mong đừng ai phiền lòng.
Khi nắng chiều sắp tắt ngoài hiên, có một chàng trai trẻ vừa qua tuổi dậy thì (*),
nhìn vào bóng đêm rồi tủm tỉm cười một mình khi ôn lại chuyện năm xưa…


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381207108.jpg

Ngồi lẩm bẩm hát bài Không Quân Hành Khúc của nhạc sĩ Văn Cao, đến câu “ôi phi công danh tiếng muôn đời”, tôi chợt mỉm cười tự hỏi “vì sao phi công lại được danh tiếng muôn đời?” Có quả thật phi công danh tiếng hay chỉ là câu hát của ông nhạc sĩ ưu ái tặng anh em? Hơn bảy năm vui buồn đời phi công tôi chưa từng nghe bất cứ một ai trang trọng nói như vậy; có chăng cũng chỉ là câu lặp đi lặp lại vô số lần “đừng làm mất mặt không quân” hoặc “đừng làm mất mặt phi công”.

Đừng làm mất mặt Không Quân. Đừng làm mất mặt Phi Công. Đừng làm mất mặt Hải Quân. Đừng làm mất mặt Nhảy Dù. Đừng làm mất mặt Mũ Xanh. Đừng làm mất mặt Mũ Nâu. Đừng làm mất mặt Thiết Giáp. Đừng làm mất mặt lính Sư Đoàn. Đừng làm mất mặt Trinh Sát. Đừng làm mất mặt binh chủng. Đừng làm mất mặt KBC. Đừng làm mất mặt Địa Phương Quân. Đừng làm mất mặt Nghĩa Quân. Đừng làm mất mặt Quân Cảnh. Đừng làm mất mặt Cảnh Sát quốc Gia … thậm chí còn có “đừng làm mất mặt Nhân Dân Tự Vệ hoặc Xây Dựng Nông Thôn”… Nói tóm lại, quân binh chủng nào cũng có niềm tự hào, cũng có cái hãnh diện rất riêng của họ. Tập thể Quân Đội Miền Nam Việt Nam luôn luôn căn dặn nhau giữ gìn lễ nghi quân cách thật đáng trân trọng.

Tôi không dám lạm bàn về danh tiếng của những anh em các quân binh chủng khác; càng không dám lạm bàn về những phi công tiền bối của mình! Chắc chắn các tiền bối phải toàn vẹn về mọi mặt mới lọt chân vào thế giới của lớp người đi mây về gió.

Kể từ ngày thành lập Không Quân, ngày 1/7/1955, cho tới lúc tôi được lọt vào trong cổng Phi Long, tháng 12/1968, chỉ có 13 năm thôi nhưng đó là một khoảng cách thênh thang, cách biệt trùng trùng. Bởi lẽ tháng 8/1965, thay vì chuẩn bị thi vào đại học, tôi lại nghe theo lời ong tiếng ve, hăm hở nộp đơn xin làm phi công, rồi ê chề lọt sổ phải trở lại học đường với ve sầu, với phượng vĩ. Cho đến 3 năm sau, khi Không Quân có nhu cầu bành trướng nhanh chóng, tôi mới có cơ hội hát bài ca hạnh ngộ. Mà thật tình tôi đâu có yếu đuối, vàng vọt gì cho cam; ngược lại, ngoại hình tôi rất cân đối trên trung bình, thể lực của một võ sĩ thường xuyên đấu võ đài, sức lực của một gã con trai bẽ gãy ngà voi… thế mà bị rớt đài vì lý do sức khỏe! Lý do sức khỏe chỉ là ba chiếc răng trám! “Mấy ổng” giải thích, răng trám khi lên cao độ sẽ bị hành hạ đau nhức!!! Tôi cố gắng giải thích rằng chỉ bị mẻ trên mặt chứ không phải bị đau răng nhưng ông nha sĩ lạnh lùng nói “no sir, rớt!” Khó khăn là thế!

Số là trước khi nộp đơn đi Không Quân, tôi nghe nói là phải có sức khỏe hoàn hão mới có hy vọng. Tôi biết là tôi rất mạnh khỏe nhưng tôi cũng đi nhà thương khám sức khỏe tổng hợp trước cho chắc ăn. Tất cả đều vượt tiêu chuẩn, tim gan phèo phổi ngon lành, chỉ có ba chiếc răng hàm bị mẻ trên mặt răng. Tôi xin ông nha sĩ trám lại cho bằng phẳng dù nha sĩ nói không cần thiết nhưng tôi muốn “toàn vẹn” nên quả quyết phải làm. Lý do răng hàm mẻ không phải bị đau răng, bị sâu răng mà vì tôi hay biểu diễn nhai ly thủy tinh! Đâu ngờ trò chơi ngu xuẩn của thanh niên mới lớn làm tôi phải lao đao hết mấy năm dài! Như vậy, điều kiện tiên quyết để trở thành phi công KLVNCH là sức khỏe phải hoàn hão ngoài học lực tối thiểu phải có Tú Tài I trở lên, hồ sơ an ninh phải trong sạch, có nghĩa là gia cảnh không liên hệ tới Cộng sản, không có tư tưởng nửa chừng xuân.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381208017.jpg
Phi công cũng phải trải qua các thời kỳ huấn luyện quân sự gắt gao; phải qua khóa huấn nhục kinh hoàng. Khóa này cũng nhằm huấn luyện cho một người biết kính trên nhường dưới, biết tình nghĩa bạn bè, biết thương yêu đồng đội; rèn luyện một ý chí sắt thép, thể chất kiên cường để đáp ứng mọi hiểm nguy, gian khó. Mục tiêu của khóa cũng huấn luyện sự khiêm cung, hòa nhã với mọi người mọi giới và trang bị một mẫu người xứng đáng cho một binh chủng hào hùng, để có đủ điều kiện thực hiện câu châm ngôn của binh chủng, “Không bỏ anh em, không quên bè bạn”.

Sau khi “sống sót” qua các khóa huấn luyện này, phi công tương lai được đưa về các trường sinh ngữ quân đội và phải học thông suốt khóa huấn luyện sinh ngữ cấp tốc khoảng nửa năm dài. Trong tất cả sách giáo khoa đều nói về một đời sống văn minh tây phương; dạy cho khóa sinh những kiến thức phổ thông nơi xứ người; dạy cách giao tiếp, cách đối xử với người bản xứ, dạy ăn cho thanh cảnh, dạy chơi cho thanh lịch. Muốn ra trường, khóa sinh phải có một trình độ hiểu biết thực tiễn bằng sự thi cử khó khăn.

Thi đậu khả năng sinh ngữ xứ mình, phi công tương lai được cho may trang phục đại lễ, tiểu lễ và sắm sửa đồ tuế nhuyễn cho phù hợp với nơi đến để lên đường xuất ngoại và học sinh ngữ tiếp về ngành nghề cho thành thạo. Xong giai đoạn này mới bắt đầu học bay. Học bay từ phi cơ sơ đẳng nhất đến phi cơ tối tân nhất mà Không Quân Việt Nam có được, tùy theo tài khóa và theo từng khả năng của mỗi người. Trong suốt thời gian học tập nơi xứ người, việc học hỏi những điều mới lạ và thi cử dường như vô tận. Có nghĩa là không ai biết chắc được mình sẽ trở thành phi công cho tới khi được ông thầy trang trọng gắn cánh bay trên ngực áo trong một buổi đại lễ mãn khóa.

Sau gần một năm rưởi học hỏi, luyện tập gian khổ nơi xứ người, chàng về nước ngẩng cao đầu trình diện đơn vị, chào kính cấp trên đúng lễ nghi quân cách và tiếp tục được huấn luyện thêm mấy tháng nữa mới có thể theo các đàn anh “vượt trên lưng gió quyết chiến thắng”.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381207298.jpg
Phi công ngày ngày làm “đàn chim bay trên cao xanh”, hòa mình trong một không gian vô tận, mắt nhìn xa, lòng rộng mở. Trong khung cảnh đó nên một phi công biết làm thơ, biết viết văn cũng là một chuyện bình thường. Bình thường như biết ca hát, biết nhảy đầm. Phi công sống trong thời chinh chiến không cần lo nghĩ đến tương lai vì có thể sáng cất cánh chiều thôi không về cũng là chuyện bình thường. Cái may mắn của phi công là dù có gian lao, có hiểm nguy đến đâu cũng là “lính thành phố”. Lính thành phố nên làm mòn nhẵn từng con đường, từng cổng trường, từng khung viên đại học cho đến một ngày “đi không ai tìm xác rơi”, quên mất đường về!


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381208086.jpg
Phi công sống một cuộc sống hào hùng, “lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi, nuối tiếc tấm thân làm chi”. Vâng, hoàn toàn không nuối tiếc, chơi xả láng sáng không cần về, phi vụ phải hoàn tất tốt đẹp. Phi công được rèn luyện phải hào hoa, được dạy ăn phải thanh cảnh, dạy chơi phải thanh lịch cho nên bị người đời hay nói rằng “phi công hào hoa bay bướm”. Đâu phải phi công “bay bướm” mà phi công bị các phe kẹp tóc chọn lựa làm mục tiêu. Không phải “mèo khen mèo dài đuôi” chứ nếu tôi đứng ở chỗ của phe kẹp tóc, tôi sẽ không ngại nói to lên rằng “tại sao không chứ. Họ là con cưng của đất nước; họ thuộc lớp người nhìn xa hiểu rộng, họ là lính thành phố, họ biết ăn nói nhã nhặn, xả giao thanh lịch, sức khỏe hoàn hão, thành thạo nếp sống văn minh, và họ rất tếu…” (không tếu sao được, ngay cả khi thần chết đứng trước mắt chàng vẫn còn có thể ba hoa “để ông cho chúng mầy sinh Bắc tử Nam”) ! Vì thế, phi công bị ganh ghét cũng là chuyện bình thường. Thậm chí có người hát nhại lời “ôi phi công… mang tiếng muôn đời”, hoặc bôi bác “hào hoa anh lính Không Quân, chỉ còn cái quần cũng bán để chơi”… cũng là điều dễ hiểu. Vâng, dù đói nghèo cỡ nào cũng rán “thanh lịch”, dù có lén mua xôi nắm, bánh mì sữa để kẹp đi bay nhưng lúc nào mặt mũi cũng tươi tỉnh, áo quần cũng bảnh bao vì chúng tôi được dạy dỗ rất kỹ rằng “chơi cho thanh lịch mới là chơi, chơi cho đài các xứng đời phi công”… nhưng đâu đến nỗi phải “bán quần” để chơi! Đểu thật!

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381207648.jpg
Dù sao đi nữa, những nét uy dũng trên đây xin trang trọng dành riêng cho các bậc phi công tiền bối trước năm 1968. Từ đó trở về sau, Không Quân tuyển mộ ào ạt dù tiêu chuẩn tối thiểu vẫn còn nhưng được các ông cân đo đôi khi cố tình không thấy những cái nhón chân vô tình, vài tô phở lẻ tẻ, vài ly trà đá cối cho đỡ khát… có sá gì. Các thành phố lớn của miền Nam Việt Nam như Saigon, Biên Hòa, Cần Thơ, Đà Nẵng… đi đâu cũng nhan nhãn Không Quân. Nếu không quen biết thì Không Quân nào cũng vẫn là Không Quân. Phi công nhí chúng em bị tụt giá rẻ rề dù vẫn phải phấn đấu kịch liệt để sinh tồn qua những đoạn đường chiến binh gian khó như các anh. Nhưng dù sao, con nhà tông không có lông cũng có cánh; chúng em vẫn bay bổng như mơ, vẫn hiên ngang đi vào lửa đạn dù biết “đi không ai tìm xác rơi, dù thân mồ quên lấp chìm”, và vẫn hãnh diện ké với cụm chữ dễ thương “ôi phi công danh tiếng muôn đời”. Cám ơn ông nhạc sĩ Văn Cao. Cám ơn Không Quân VNCH. Cám ơn người dân hiền hòa miền Nam nước Việt đã dành nhiều hão cảm đối với Phi Công. http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381207605.jpg


* * * * *

Để giúp mọi người tỉm hiểu thêm về Không Lực VNCH, tác giả xin trích dẫn trong cuốn số 4 thuộc Bộ Quân Sử VNCH do Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu (Khối Quân Sử) thực hiện do Cơ Sở Đại Nam xuất bản năm 1972.

LỊCH SỬ KHÔNG LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA

Ngành KQVNCH được thành lập bởi dụ số 9, ngày 25-6-1951. Tuy nhiên, mãi đến ngày thành lập Bộ Tổng Tham Mưu, một cơ quan phụ trách về Không Quân (KQ) gọi là Ban KQ mới được tổ chức trong thành phần của bộ tham mưu này.

Tháng 4-1952, Trung tâm huấn luyện KQ thành lập tại Nha Trang, ngành KQ mới được kể là thành hình qua việc tổ chức hai khóa huấn luyện hoa tiêu và cơ khí viên đầu tiên. Khóa hoa tiêu mở ngày 1-10-1952 với 9 khóa sinh sĩ quan và 6 khóa sinh hạ sĩ quan. Khóa cơ khí viên mở tháng 11 với 26 hạ sĩ quan học viên.

Trong giai đoạn đầu, ngành KQ chỉ được quy định ở một mức quân số gồm 40 sĩ quan, 120 hạ sĩ quan và 500 binh sĩ. Quân số này vừa đủ để tổ chức một cơ cấu KQ gồm có:
- Một cơ quan chỉ huy là Ban KQ, sau đổi thành Phòng KQ thuộc Bộ Tổng Tham Mưu, dưới quyền một sĩ quan Pháp.
- Một trung tâm huấn luyện đào tạo phi công, quan sát và cơ phí viên.
- Một phi đội liên lạc có nhiệm vụ liên lạc và chuyên chỡ hàng không.
Trung tâm huấn luyện KQ năm 1952 đào tạo được 40 vừa hoa tiêu vừa cơ khí viên; năm 1953 số lượng tăng gấp đôi. Cũng trong thời gian này, một số sĩ quan và hạ sĩ quan được gửi qua Pháp du học.
Trong năm 1953, ngoài phi đội liên lạc tại Tân Sơn Nhất (TSN), phi đội trợ chiến và quan sát số 1 thành lập tại TSN và phi đội trợ chiến và quan sát số 2 tại Nha Trang (1-3-1953).

Những loại phi cơ thông thường mà sĩ quan KQVN đầu tiên được sử dụng là các loại phi cơ quan sát MS.500, Cessna L19A, Morane Saulnier, Marcel Dassault 315.

Đầu năm 1954, Ban KQ đổi thành Phòng KQ, nhưng cơ quan này vẫn giữ nhiệm vụ quản trị nhân viên chứ chưa có quyền hành gì cả.

Tháng 7-1955, ngành KQVN mới được giao cho sĩ quan VN điều khiển. Chức Phụ tá KQ được đề ra thay cho trưởng phòng KQ và chức vụ này tạm kiêm Tư lệnh KQ để lo phát triển cho ngành này trong lúc Pháp đang rút khỏi VN. Bộ Tư lệnh KQ coi như đã thành hình và hoạt động từ lúc này.
Trước khi ngành KQ được chuyển giao, đệ nhất phi đoàn vận tải được thành lập tại TSN (1-6-1955) được gọi là Căn Cứ Trợ Lực KQ số 1. Khi tiếp nhận phi trường Đà Nẵng, Đệ nhất Phi đội trợ chiến và quan sát ở TSN được chuyển ra đây; trước đó Bộ Tư Lệnh KQ bối rối không ít vì không có phương tiện tiếp thu, đã định giao phi trường này cho hàng không dân sự đảm trách. Cuối năm 1955, KQVN thành lập Đệ Nhất phi đoàn tác chiến và liên lạc nhưng phi đoàn này chỉ thực hiện trên giấy tờ, sau phải giải tán vì thiếu phương tiện.

Năm 1956, các căn cứ trợ lực KQ số 2 và số 3 được thành lập liên tiếp tại TSN và Biên Hòa. Mỗi căn cứ lúc ấy được tổ chức: một bộ chỉ huy, các cơ cấu hành quân, một ban công vụ và một ban quân y. Ngoài ra, để điều hành hệ thống không lưu, các phòng không lưu và các đài kiểm soát được thiết lập tại khắp các phi trường. Ngành KQ đã có những hoạt động riêng biệt trên không kể từ chiến dịch Đinh Tiên Hoàng, là chiến dịch tiểu trừ phiến loạn tại Miền nam.

Tính tới cuối năm 1956,ngành không lực của quân đội Quốc gia đã có các căn cứ, đơn vị máy bay thuộc đủ mọi loại như sau:
1. Căn cứ trợ lực KQ số 1 Nha Trang:
a. Trung tâm huấn luyện KQ:
. 21 máy bay Morane Saulnier
. 13 máy bay Cessna L19A
b. Phi đội liên lạc và trợ chiến số 2
. 5 máy bay quan sát MS.500
. 16 Cessna L19A
2. Căn cứ trợ lực KQ số 2 TSN:
a. Phi đội liên lạc:
. 3 máy bay Dakota DC3
. 3 máy bay Beechcraft
. 2 Cessna L19A
. 1 máy bay MS.500
. 6 máy bay Marcel Dassault 315
b. Phi đoàn vận tải:
. 21 máy bay Dakota DC3
3. Căn cứ trợ lực số 3 Biên Hòa:
a. Căn cứ Biên Hò
. 13 Cessna L19A
. 2 Máy bay MS.500
. 3 máy bay Dakota DC3
b. Phi đoàn chiến đấu:
. Hình thức
4. Căn cứ Đà Nẵng:
a. Phi đội quan sát và trợ chiến:
. 12 máy bay MS.500
. 16 Cessna L19A

Tổng cộng: 69 chiếc Cessna L19A, 26 chiếc Dakota DC3, 21 chiếc Morane Saulnier, 20 chiếc quan sát MS.500, 6 chiếc Marcel Dassault và 3 chiếc Beechcraft.


Không Quân VNCH 1950-1970:


http://www.youtube.com/watch?v=VxfcUIUTwew&feature=youtu.be
(*) 60 chưa phải là già,
65 chỉ mới vừa qua dậy thì

thanphongkingwood
10-21-2013, 05:58 AM
Một Mẩu Chuyện Xưa
(Viết khi chợt nhớ về người bạn cố tri Trần Gia và hai Tôn Nữ)
http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382334626.jpg


Sau khi ăn trưa, cà phê cà pháo ngoài chợ Đông Ba, Phi Hành đoàn trở lại phi trường Phú Bài đón hành khách để về Saigon. Buổi trưa Huế bầu trời xanh biên biếc, mây nhẹ như tơ, lòng thanh thản, sảng khoái vô cùng. Tôi đem trả chiếc xe pick up mượn của trạm hàng không quân sự, miệng huýt gió vang vang bài Không Quân Hành Khúc rồi bật cười tự bảo, “mình chẳng cần vượt biên giới, cũng chẳng quyết chiến đấu nên làm gì có chiến công ngang trời được! Nhưng KQVN lướt trên ngàn mây gió là chuyện đương nhiên rồi.”

Đang thảo luận với nhân viên Trạm Hàng Không thì Gia, Sĩ quan Điều Hành Viên của phi vụ, và là bạn trang lứa cùng đơn vị, tới bên nói nhỏ:
- T. ơi! Mi xin giùm ông Trưởng Phi cơ cho tau gởi hai người nhà về Saigon hỉ?
- Răng mi không hỏi thẳng anh ấy?
- Tại mi có thớ hơn tau.
- Thớ cái con khỉ khô. Tôi đáp lời hắn, “nhưng mi gởi ai rứa?”
- Hai O: một đứa em họ, một đứa cháu gọi bằng Cậu.
- Răng khi nảy ngoài phố mi trốn ở mô mà không “chơi đẹp” với anh em?
- Tau phải chạy về nhà đón hai đứa nớ.
- Chứ không phải mi cố ý trốn tránh bổn phận?
- Dù có ở đó cũng mô có đủ tiền mà đãi!
- Mới lãnh lương có tuần lễ mà răng hết rồi? Chắc tại mi bài bạc hết rồi chứ chi?
- Mô có, tau vừa lãnh lường là phải chuộc thẻ lương, phải đóng tiền cơm tháng, phải trả tiền nhà!
- Thôi mi ơi, đừng tả oán nữa nghe ốt dột quá!

Tôi xin anh TPC với lời bảo lãnh thì được nhận lời. Thường anh em trong phi đoàn vẫn giúp đỡ nhau, hoặc giúp anh em KQ các đơn vị khác mỗi khi có nhu cầu cấp bách miễn là không ảnh hưởng đến an ninh hoặc vi phạm an phi.

Những lời đối đáp trên nghe như đùa nhưng không xa sự thật là mấy. Sự thật xót xa cho số phận của những trang hào kiệt đương thời. Lương sĩ quan phi hành được coi là cao so với các sĩ quan cùng cấp bậc ở các đơn vị khác; dù vậy, cũng chẳng thấm vào đâu với đời sống đắt đỏ ở Saigon. Nếu không phải là con cái thuộc gia đình khá giả, không được gia đình tiếp tế, không xin được ở trong cư xá SQ độc thân thì khó lòng xoay xở. Nhiều khi tôi tự hỏi, lương bổng của mình là thế thì mấy ông bạn có gia đình, các anh em HSQ, Binh Sĩ thì họ sống làm sao!? Thế nhưng, dù có phải “giật gấu vá vai” cách nào đi nữa, phe ta vẫn phải ra vào tươm tất, áo quần bảnh bao theo cái truyền thống được nghe từ vào đời.

Gia trở lại phi cơ với hai O áo dài trắng trơn rất nữ sinh, tóc dài rất Huế gọi nhau bằng dì cháu. Tôi đón chào hai nàng sau khi Gia giới thiệu. Dì khoảng đôi mươi, cháu cỡ đôi tám. Bốn con mắt tròn vo, lúng liếng cười nhẹ, lí nhí gật đầu chào rồi cúi đếm bước chân, riu ríu theo sau tôi trước đoàn hành khách xếp hàng lên tàu. Tôi chọn hai chỗ ngồi gần phòng lái cho hai nàng rồi cùng anh TPC làm thủ tục cất cánh. Đi máy bay cũng như đi xe hơi, ngồi càng gần phía trước càng an toàn và đỡ chóng mặt.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382333986.jpg

Về tới Saigon vào lúc chiều đã nhạt nắng. Phi hành đoàn và hai cô nương được xe pick up đưa về phi đoàn. Chúng tôi ký sổ trực cho phi vụ hoàn tất rồi mạnh ai nấy giông. Gia chỉ có một chiếc Honda nên không thể chở cả hai O cùng một lúc. Hắn lại cười cầu tài với tôi, nhờ tôi giúp đưa một O cùng hắn về nhà ngoài phố. Sẵn dịp về nhà ngoài khu Trương Minh Giảng nên tôi vui vẻ nhận lời. Khi Gia hỏi ai muốn đi với tôi, cả hai O đều nhìn nhau không nói. Tôi nói đùa với Gia rằng “mi muốn tau làm em hay làm cháu mi cũng được” rồi đứng nhìn hai O đang xấu hổ cúi gằm mặt nhìn xuống chân. Ngó hai khuôn mặt thẹn thùng ửng hồng đôi má trắng non trông dễ thương chi lạ! Tôi nhìn O cháu buộc miệng nói “O đi với cậu hỉ?” O nhỏ bẽn lẽn chưa biết nói gì, đưa mắt ngó Cậu Dì. Gia vội đỡ lời: “Ừ, Văn Chương đi với cậu T.”

Ra khỏi cổng Huỳnh Hữu Bạc, buổi chiều xe cộ đầy đường phải chen lấn nhau mà đi. Tôi vừa chạy vừa quay lại nói chuyện với cô nhỏ nghe tiếng được tiếng mất. Chỉ biết chắc một điều, tên cô nhỏ là CHTN Văn Chương, học trò Đồng Khánh. Dì CTTN Hoa đang học ở Văn Khoa Saigon, theo dì chơi vài tuần và sẽ trở lại Huế đi học. Tôi nghĩ thầm “lại là con cháu Hoàng tộc”. Xe cộ tấp nập nên phải chen chúc, lạng lách, nhiều lúc phải đạp thắng gấp. Cô nhỏ nói như than “cậu lái xe hai bánh như lái máy bay!” Ban đầu cô nhỏ còn ké né cố giữ cứng vào yên xe, cho đến khi quẹo vào hẻm nhà trọ của tôi thì vòng tay cô nhỏ đã ôm chặt hông tôi từ lúc nào. Thấy xe quẹo vào con hẻm xa lạ, cô nhỏ hoảng hốt buông tay hỏi tôi:
- Cậu chở Chương đi mô rứa?
- Yên chí đi, Cậu ghé ngang phòng trọ thay quần áo để ra phố cho dễ coi hơn. O có thể ngồi chờ cậu ngoài xe.

Phòng tôi mướn ở trong một con hẻm nhỏ đối diện với một bãi tha ma, là phần nối dài của một căn nhà lớn của một gia đình người Bắc, ngó ra đường Bùi Thị Xuân. Lúc này trời đã nhá nhem tối làm cho con hẻm dài hun hút dưới ánh đèn điện vàng vọt mờ nhạt. Gió lồng lộng chạy dọc theo con hẻm và rượt đuổi nhau vi vút trên mấy tàng cây bên ngoài bờ tường ngăn cách. Tôi dừng xe trước cửa phòng, bảo nàng ngồi trên xe chờ tôi một lát nhưng cô nhỏ vọt ngay vào nhà khi cánh cửa vừa hé,
- Cậu ở chỗ chi mà dễ sợ rứa!
Cái giọng Huế ngọt lịm kéo dài chữ rứa nghe như một khúc nhạc vui. Tôi mỉm cười:
- Bộ O sợ ma hả, ma không sợ mình mắc chi mình sợ ma?

Có lẽ chữ ma đánh động thêm nỗi sợ hãi sẵn có nên cô nhỏ quýnh quíu ôm chặt tôi, hơi thở dồn dập. Không biết mùi hương tóc hay hương thơm con gái xông ngạt ngào vào mũi cùng hơi ấm của thân thể nhẹ run của nàng cũng làm tôi tê điếng một lúc. Hai tay tôi quờ quạng trong vùng ánh sáng mờ ảo, đập nhè nhẹ lên lưng nàng để trấn an. Trong một giây thảng thốt, tôi đặt môi hôn nhẹ lên suối tóc huyền “Không răng mô, có chi mà sợ, để Cậu mở đèn,” rồi nhẹ nhàng gở tay nàng ra, bật điện phòng. Có lẽ ánh đèn điện sáng tỏ làm cô nhỏ đỡ hồi hộp. Căn phòng trọ vuông vắn, nhỏ đủ cho một chiếc giường ngủ nho nhỏ, tủ lạnh nhỏ và tủ áo quần cũng nhỏ. Phòng tắm chung nằm ngoài hành lang.
Nàng bẽn lẽn ghé ngồi vào một góc giường, đôi mắt chứa đầy vẻ âu lo nhìn tôi. Tôi lấy lon coca cola mời nàng uống và tỏ ý muốn tắm vội một chút nhưng cô nhỏ không chịu. Cô nói với tôi cần phải về ngay kẻo cậu dì trông chờ. Tôi vội vàng vào phòng tắm dùng khăn ướt lau mình, thay quần áo xong trở lại phòng cầm chìa khóa trên tay
- Cậu đưa O về hỉ ?
Nàng ngó tôi rất nhanh, cười nói nhỏ nhẹ:
- Trông cậu bi chừ giống như một anh chàng sinh viên.
Tôi âm trầm:
- Thì cậu cũng đã là sinh viên mấy năm trước thôi.

Chúng tôi lên xe, bây giờ thì nàng rất tự nhiên ôm hông tôi như cũ và chỉ dẫn cho tôi hướng về nhà ở Quận 2. Màn đêm đã vội vã buông xuống. Phố xá đã lên đèn rực rỡ, xe cộ không còn tấp nập như khi chiều. Tôi cố chọc nàng:
- Cậu đưa O đi ăn kem dừa trước khi về nhà hỉ?
- Không được mô Cậu, mọi người ở nhà chắc đang trông đợi, để hôm khác Chương hứa đi với Cậu.

Khi chúng tôi bước vào cổng đã thấy hai anh em nhà họ Trần đang có vẻ ngóng trông. Hoa hết nhìn tôi lại nhìn Văn Chương.
- Răng mi chạy đi mô mà lâu rứa? Gia hỏi.
- Tau phải ghé ngang phòng trọ thay quần áo nì nì.
- Tau tưởng giao trứng cho ác rồi chớ.
- Kể như may cho mi đó, giao trứng cho ác mà trứng con nguyên lành.

Cả đám cùng cười xòa làm cô nhỏ lính quýnh bước chân. Gia và Hoa nài nỉ tôi ở lại dùng cơm với gia đình, cô nhỏ nhìn tôi với ánh mắt đồng tình nhưng tôi ngại ngần từ chối dù trong lòng cũng muốn ở lại. Tôi bắt tay Gia và lưu luyến từ giã hai nàng sau khi hẹn gặp nhau lần tới…

Phố lên đèn thôi về đi kẻo muộn
Sợ chia ly nên chẳng dám quay nhìn
(thơ Tường Vi Đức quốc)

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382333893.jpg
Đầu Thu 2013

thanphongkingwood
06-26-2014, 06:00 AM
Vui Cùng Kỷ Niệm –
Khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ



http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1381207108.jpg

Người ta thường có khuynh hướng chung là tuổi trẻ thích sống cho hiện tại, lo công danh sự nghiệp để tiến về tương lai trong khi người già thường quay về với kỷ niệm vàng son và quá khứ lộng lẫy của mình. Nhưng người ta cũng nói kỷ niệm đẹp không đẹp như lúc nó xảy ra và quá khứ lộng lẫy thường lộng lẫy hơn nhiều lần so với quá khứ!
Mà giời ạ! Ai nói gì mặc họ. Dù sao những vàng son ấy, lộng lẫy kia cũng làm cho tuổi xế chiều bớt cô đơn, trầm cảm. làm cho con người xích lại gần nhau; cho người ta cái tâm hào phóng, và nụ cười nhăn nheo tuổi đời cũng bỗng tươi thắm hẳn lên để “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt” không cần “le lói suốt năm canh” buồn!

Thời trai trẻ của chúng tôi – thế hệ ‘40 & ‘50 – không có cái may mắn được sống trong một đất nước an bình, thịnh vượng như những quốc gia khác sau Thế Chiến Thứ II. Tham vọng của Hồ Chí Minh đã bị mộng bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản Nga Tàu lợi dụng tối đa để gieo rắc ác mộng kinh hoàng cho cho toàn cõi Việt Nam.
Hiệp Định Genève 1954 vạch rõ lằn ranh Quốc Cộng ở vĩ tuyến 17 tại cầu Hiền Lương đã cho Miền Nam yên bình xây dựng một nền tự do dân chủ nhân bản. Thế nhưng, tập đoàn Cộng Sản Hồ Chí Minh không chịu dừng ở đó, chúng được sự chỉ đạo của quan thầy Nga-Tàu tiếp tục lấn chiếm về nam, gây nên cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt mà người dân Miền Nam nước Việt luôn luôn phải chống đỡ, tự vệ. Để rồi… những chàng trai trẻ áo quần còn tinh tương mùi mực, tóc tai còn vướng vất mùi học trò; những chàng sinh viên mặt non choẹt rời khỏi giảng đường… từ khắp nơi gom về Saigon thành từng đoàn tình nguyện gia nhập quân đội theo chương trình bành trướng của Không Quân. Một trong những đoàn nhóm này, có khóa Sĩ Quan Không Quân Hiện Dịch 4/69.

Khóa 4/69 có lẽ là một khóa khá đặc biệt vì số lượng khác thường đã hình thành 2 Đại Đội (43 & 44) với 380 ông trời con dưới sự quản trị nghiêm khắc của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Trần Văn Hiến thuộc tiểu đoàn “sống mạnh sống hùng” Quang Trung Nguyễn Huệ.
Thử tưởng tượng 380 nhân mạng, sàng sàng tuổi quậy, đến với nhau từ mọi miền đất nước, từ nhiều nguồn gốc gia đình khác nhau để ăn cùng nơi, học cùng chỗ, ngủ cùng lều… không khác gì bắt 380 con cá vừa lớn ở đại dương mênh mông đem nhốt chung trong một ao tù chật hẹp… nếu không có sự nghiêm khắc cần thiết và tài ba lỗi lạc của một người lãnh đạo chỉ huy như Thiếu Tá Trần Văn Hiến và ban tham mưu… ai biết vàng đá sẽ ra sao?!
Rời Quang Trung sau 3 tháng trui rèn khó nhọc… chúng tôi lại được chia đi tứ tán. Hơn 310 Phi Hành học Anh Văn thi đủ điểm rồi đi Mỹ học bay đủ loại phi cơ. Khoảng gần 70 Không Phi Hành chuyển qua quân trường Thủ Đức học quân sự giai đoạn 2 để rồi 6 tháng sau ra trường về lại Không Quân học Anh Văn, một số đủ điểm đi Mỹ học nghề, số còn lại tham dự huấn luyện trong nước đủ loại ngành nghề của binh chủng, rồi lại tung ra khắp 4 Vùng Chiến Thuật để tham dự trong cuộc chiến tranh tự vệ. Cuộc chiến tương tàn này cũng đã cướp dần mòn những tinh hoa của đất nước. Con số 380 nhân mạng ban đầu ấy không ai biết chắc đến nay còn lại bao nhiêu người?!
Biến cố lịch sử 30 tháng 4, 1975 đã làm cho những cánh chim tự do non trẻ đó tan đàn gãy cánh. Một số bay dạt bốn phương, một số khác chịu tù đày, tủi hận…

Để rồi 45 năm sau…
“Tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Tổ ấm ở đây là lần hội ngộ tuyệt vời, kỷ niệm 45 năm ngày rời bỏ học đường đi làm lính chiến. 45 năm! Con số có vẻ đơn giản nhưng chứa đựng biết bao nhiêu tình tự của một đời người. 45 năm cũng thoảng qua như sương khói vô tình đậu xuống những mái tóc xanh cho bạc trắng mái đầu! 45 năm gồm 5, 6 năm bám lưng mẹ cha, mười mấy năm mài ghế nhà trường, 6 năm làm lính chiến … số còn lại có nhiều năm tù tội, bao năm thăng trầm. Có người tới Mỹ tròn 39 năm, có người may mắn đến được bến bờ tự do từ vượt biên vượt biển, bằng chương trình HO, bằng phương tiện đoàn tụ gia đình. Tới Mỹ bằng cách nào cũng phải cong lưng, vùi đầu trong bon chen làm lại cuộc đời!
Làm lại cuộc đời để có cái ăn cái mặc, cái kiến thức như người ta trong thiên đàng của văn minh tiến bộ, của tự do dân chủ nhân bản tuyệt với; để lo cho đàn con Việt lớn lên trong môi trường mới, nối bước cha anh làm vẻ vang nòi giống. Làm lại cuộc đời vì cuộc đời trước không ai tính chuyện tương lai. Cuộc đời trước đã quyết xả thân bảo vệ đất nước. Cuộc đời trước từ những gã thư sinh tay trắng, rời ghế học đường bước vào quân ngũ để cùng hợp đoàn “vượt trên lưng gió quyết chiến thắng”. Cuộc đời trước sống thênh thang từng ngày với mộng ngang trời. Cuộc đời trước là hình ảnh của một phi công bên súng, bên dao, đem sanh tử treo trước mũi tàu bay lao vào chiến trận, sau khi ăn xong gói xôi đậu, hoặc khúc bánh mì vừa mua ở dọc đường trước giờ cất cánh. Cuộc đời trước không ai cố tìm ánh sáng cuối đường hầm, không ai sờn lòng, chùn bước trước những hiểm nguy, thử thách nghiệt ngã của chiến tranh, không ai phân vân sẽ có một ngày “đi không ai tìm xác rơi”.
6 năm làm lính! Nghĩ đi nghĩ lại “đâu có là bao” nhưng sao càng lúc thấy càng dài như chuỗi ngày lưu vong! Có quá nhiều chuyện tưởng kể hoài không hết nhưng thực ra chỉ là những hoài niệm khôn nguôi. Cũng như tôi đã ở Mỹ dài hơn hai phần ba cuộc đời mình mà sao cứ thương cứ nhớ đến ngậm ngùi mảnh đất khô cằn sỏi đá Miền Trung, nơi tôi chào đời và ở đó chỉ có trên dưới 10 năm?!

Hội Ngộ Kỷ Niệm 45 Năm, Khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ ở Orange County, California giữa mùa Xuân năm 2014. Đây là lần tổ chức thứ 6 kể từ lần đầu tiên ở Houston, Texas năm 2007. Vâng, đúng vậy! Phải đợi tới 32 năm sau ngày đau thương đó, lũ chim tả tơi ngày nao mới hoàn hồn để nhớ đến nhau, tìm kiếm nhau. Trải qua bao năm dâu bể, nhất là khi nhìn bóng xế phủ xuống đời mình, anh chị em mới nhận ra cuộc đời là vô thường, chỉ có tình người, tình đồng đội là miên viễn…
Nghĩ lại lần Hội Ngộ đầu tiên, thương vợ chồng Khanh Trùm quá chừng. Hai vợ chồng Khanh Trùm tới Houston, là sĩ quan Không Phi Hành duy nhất. Dù vẫn được tiếp đón niềm nở nhưng anh chị vẫn còn ké né như cô gái mới về nhà chồng khi tiếp xúc với khoảng 35 anh em, “đa số phi hành bỗng dưng thấy lạ”, về từ nhiều thành phố Texas, và một ít từ các tiểu bang xa. Dù vậy, chàng lại có thừa can đảm mang Hội Ngộ lần hai về Orange County cùng với Phú Cối, Yên Ròm và các anh chị em khác trong mốc thời gian 40 năm kỷ niệm sau đó.

Hội Ngộ 40 Năm được tổ chức quy mô (hơn 30 bàn gồm có đại diện các khóa KQ khác và thân hữu), có rất đông anh em về tham dự với truyền thống 3 ngày vui chơi.
Rồi Hội Ngộ 42 Năm được phi công Khu trục Bé Lê và ngài chủ tịch Cộng đồng Việt Nam ở Minnesota Phạm Văn Yến tổ chức với sự quy tụ đông đảo anh em từ bốn phương trời. Có giải quần vợt, vẫn với 3 ngày ăn chơi ăn thiệt xả láng. 4/69ers Minnesota đã làm các hội đoàn quân nhân bạn và thân hữu tại địa phương nể trọng qua việc tổ chức Tiệc Hội Ngộ rất tưng bừng, rất thành công, rất vui vẻ.
Lần Hội Ngộ 44 Năm được hai quan Lê Mâu, Lê Hồng Anh tổ chức ở Orlando, Florida cũng tưng bừng không kém… Vẫn là truyền thống 3 ngày ăn chơi, chen vào giữa là chuyến hải du Bahamas 3 đêm 4 ngày, trên du thuyền Royal Carribean, Monarch of The Sea, khó quên.
Chiều Thứ Năm tiền hội ngộ ở nhà hàng Lạc Việt. Tiệc chào mừng cũng không thiếu phần văn nghệ, dạ vũ như thường lệ. Ăn chơi cho mãi tới khuya. Sáng Thứ Sáu, sau khi cà phê các cái, mọi người hú nhau lần lượt xuống tàu. Trong chuyến đi này, điều đáng ghi nhận là có “Nhơn up-side-down” đáp máy bay từ Minnesota xuống bị trễ chuyến đã làm mọi người lên ruột. Lúc chàng bước chân qua khỏi cầu tàu cũng là lúc tàu nhổ neo rời bến! Cộng thêm chàng Tôn Thất (tình) và nàng ca sĩ Arizona dễ thương không mang đủ giấy tờ nên phải ở lại du dương trên đất liền chờ đợi anh chị em trở lại!
Trong những ngày đêm trên du thuyền, ngoài việc đi thăm biển đảo, ăn uống mệt nghỉ, cả nhóm được cấp một phòng riêng biệt để sinh hoạt với nhau trong suốt hải trình. Chuyến đi như một chất keo sơn, gắn bó anh chị em càng lúc càng thân thiết. 56 nhân mạng với dàn ca sĩ hùng hậu không ngờ. Lại ca lại hát, lại nói lại cười… cuộc vui nào cũng kéo dài như vô tận. Một chuyến đi chơi tuyệt vời dù có vài ba con nhạn ở ngày cuối cùng không chịu nổi sự “lắc lư con tàu đi” khi biển động ngày về.
Sáng Thứ Hai tàu cập bến trở về đất liền. Anh em mỗi người tự lo cho đến 5 giờ chiều lại họp nhau lần cuối, dự tiệc tiễn đưa các Kinh Kha thời đại về cố quận, ở tư gia Lê Mâu. Dù tổ chức vội vàng sau chuyến đi chơi nhiều ngày, nhưng cũng linh đình không kém. Ai cũng phải công nhận tài năng và tấm lòng của vợ chồng Lê Mâu. Ôi tình nghĩa nghĩa tình kể sao cho hết!

Có lẽ vì ai cũng đã tóc râu sương khói, trong khi ngày tháng cứ vô tình vụt vù trôi qua… sợ không còn đủ giờ để chơi cho bù những ngày tháng oằn lưng cơm áo. Cho nên, thay vì cứ hai năm tổ chức họp mặt một lần thì anh chị em lại đồng lòng tổ chức mỗi năm một lần, được lúc nào hay lúc đó. Hơn nữa, cái mốc thời gian 45 năm cũng rất đáng để có cuộc họp mặt điểm danh, để biết ai còn ai mất! 45 năm trôi qua… quả thật như cơn mộng dữ qua đêm đông dài! Và… anh chị em Orange County lại thêm một lần nữa tình nguyện đứng ra tổ chức.

Đi cruise về vài tháng sau thì tin tức tổ chức “Hội Ngộ 45 Năm” đã dồn dập. Nào là lo cập nhật danh sách những tay thợ lặn chuyên nghiệp, rồi nào email, nào gọi điện thoại, nào hát bài ca “con cá sống vì nước” cũ mèm để mong các quan đừng bỏ lỡ dịp vui… Sau vài lần thảo luận, anh chị em đồng ý tổ chức vào đầu tháng Tư 2014. Dĩ nhiên không có ngày tháng nào có thể hài hòa cho tất cả mọi người. Vì thế cứ phải lấy theo số đông. Bảng ghi danh được thiết lập, anh chị em nô nức ghi danh, rủ nhau cùng về…
Mỗi ngày nhìn lên bảng ghi tên tham dự của anh em, lòng nôn nao, rạo rực một niềm vui. Có những thợ lặn chuyên nghiệp cũng đã chịu xuất đầu lộ diện; có những bạn biệt tích đủ 45 năm, có những anh thợ rèn lần này chịu ngưng việc. Nhìn những cái tên quen thuộc, mường tượng ra từng khuôn mặt ngày ấy. Có những kẻ một thời dễ thương, và cũng có những người một thời đáng ghét… Giờ đây những thương ghét quân trường đã chín muồi kỷ niệm, nên chỉ mong gặp lại nhau để “xem dung nhan ấy bây giờ ra sao”, để mừng mừng tủi tủi còn nhìn thấy nhau trong đời với tấm lòng cởi mở, quý mến. Sau bao nhiêu lần cập nhật, người nhớ bạn này, người biết bạn khác, tính đến nay gom được 197 người còn sống sót (*), rải rác khắp phương trời (Hoa Kỳ nhiều nhất, trải nhiều tiểu bang nhưng quy tụ ở Orange County, San Jose, California và Houston, Texas (*) là đông hơn cả.)

Mặc dù Ban Tổ Chức đã rao giảng bao nhiêu lần “hạn chót”, danh sách tham dự vẫn tiếp tục thay đổi cho tới phút cuối. Có những hứa hẹn chắc như bắp cũng lỡ đò vì lý do này hay lý do khác vượt ngoài tất cả dự tính; có những người đã nói chắc chắn không đi, giờ chót lại ghi danh… Hầu hết đi có cặp, một số ít được vợ thả cho đi một mình như thằng tôi…
Đặc biệt lần hội ngộ này có được những con nhạn ở thật xa bay về tụ hội, như Thảo Music từ xứ Kanguru tới, Hoàng Cười từ ga Lyon đèn vàng Paris qua hợp đoàn cùng anh chị em ở nhiều tiểu bang xa xăm trong nước Mỹ.
Lần này, Ban Tổ Chức và toàn thể anh em quyết định chỉ dành riêng cho khóa 4/69 và gia đình. Cộng thêm, trừ bớt còn lại đủ 13 bàn, có nghĩa là 130 nhân mạng cả nam lẫn nữ, trong đó có hơn một bàn là quan khách đặc biệt. Thành viên của khóa 4/69 Quang Trung Nguyễn Huệ sống mạnh sống hùng chỉ gom được khoảng 70/197 còn sống; so với con số 380 ở ngày nhập ngũ quả thật khiêm nhường nhưng vẫn là đông nhất so với 5 kỳ hội ngộ trước đây. Phú Cối đóng dấu với chữ “final” to tướng ở tuần lễ cuối cùng trước ngày tổ chức.

Ngày N cuối cùng đã tới!
Tôi đáp phi cơ đi Orange County tìm về kỷ niệm một mình. Nhà tôi và các con cùng với các chị em của nàng kéo nhau đi cruise sau lễ cưới của đứa con gái rượu. Nàng nói rằng tôi mê bạn hơn gia đình! Tôi cố cãi chày cãi cối “rằng-thì-là” chỉ có một lần Hội Ngộ 45 năm mà thôi, anh không đi lần này nhỡ không gặp “thằng A, thằng B” lần tới thì đó là một nỗi ân hận! (Quảng Ngãi mà cãi thì Bắc Kỳ nào chịu cho nổi nên giấy phép được nàng đóng dấu đỏ thông qua.)
10 giờ sáng Thứ Sáu đã về tới California. Đáng lẽ có độ Tennis với khu trục Nguyễn Thành Bá ở Ohio về. Đã năm lần bảy lượt hẹn gặp nhau tại sân Square Mile Park giữa lòng Thủ đô Tỵ Nạn… nhưng bị bạn bè bên giới cầm bút bắt cóc ngay tại phi trường John Wayne, Santa Ana. Cho tới gần 5g chiều, các anh em mới trả tôi xuống trước nhà Khanh Trùm để kịp dự buổi “tiền phi”…
Bước vào nhà Khanh Trùm chưa tới giờ hẹn. Dù vậy, cũng đã gặp những khuôn mặt quen thuộc của anh chị em từ những lần Hội Ngộ trước, đang tiếp tay bày biện đồ ăn thức uống từ nhà trên, tới nhà dưới, cả nhà bếp, ra luôn trại ngoài sân rộng phía sau nhà… Không phải chờ đợi lâu, anh chị em cũng đã lục tục kéo tới.

Biết là chiều này chỉ toàn gia đình 4/69ers… nhưng khi gặp những khuôn mặt là lạ, ngờ ngợ… cố gắng để so sánh với cái trí nhớ lụi tàn… vẫn không thể nào nhớ nổi “hắn là ai”. Đợi đến khi đương sự xưng tên, nhất là những cái “tên cúng cơm khó chịu một thời” do bạn bè đặt (chẳng hạn như: Thuận Nẫu, Chửn Gà, Anh Chuột, Phú Cối, Chị Lịch, Quang Đau Khổ, Nhơn Up-Side-Down…) mới quấn quýt ôm chằm lấy nhau, tay bắt mặt mừng!
Dường như có bao nhiêu người là bấy nhiêu máy chụp hình. Máy đủ loại, đủ cỡ… từ máy chuyên nghiệp như của F5 Phạm Đức, còn số nhiều là máy Canon bỏ túi và thông dụng nhất vẫn là cell phone. Ôi thôi mặc sức phe húi cua tạo hình, phe kẹp tóc làm dáng, cầm tay, nắm chân đủ cách, đủ kiểu… Chụp từ nắng trên cao mấy cây sào tới đèn đã lên, đêm đã xuống, sân khấu rộn rịp lời ca tiếng nhạc… Mọi người ăn uống hơi nhiều nên bắt đầu nhảy đầm nhảy đìa, thể dục dưỡng sinh cho tiêu bớt mỡ. Ca sĩ thì cũng chẳng thua ai… ca hay như Bích Vân, vừa vừa như Phú Cối, ầm ầm như khu trục Bá… đều có cơ hội hò hét thoải mái cho đến quá 0 giờ vẫn chưa chịu tan!

5 giờ chiều Thứ Bảy, 5/4/2014, nhà hàng China Feast đã vang lừng tiếng cười, giọng nói. Một số anh chị em tối qua không đến được đã đến sớm để tìm kiếm nhau. Ôi người của muôn năm cũ hồn ở đây bây giờ. Có anh bạn trông quen mặt nhưng nhất thời không nhớ tên, hắn chăm chăm nhìn tôi rồi hỏi, “bạn có biết Thuận Nẫu đứng chỗ nào không?” Tôi buồn cười ngó bạn, “you are looking at him”! Hắn tròn mắt, “Sao ngực áo của mầy tên Tuấn, lại trông trẻ quá vậy?” “Thưa ngài em vừa nhuộm tóc, mặc áo mượn của thằng Tuấn 199”! À thì ra, thằng quỷ! Nghe chữ quỷ là nhận ra thằng nhạc sĩ họ Tống ở miền “Sa-Đéc Xanh-đi-á-gô”. Tôi quay qua ngó anh chị vừa bước vào “mời anh chị chụp hình kỷ niệm”. Sau khi chụp hình, hắn hỏi “xin lỗi bồ là ai?” “Dạ em là Thuận Nẫu, đại đội 43, Quang Trung Nguyễn Huệ, sống mạnh sống hùng”. “À à… Tôi là Phan Kim Nhựt, 44”. Chúng tôi siết tay nhau rất chặt. 45 năm tôi mới gặp lại con người đặc biệt này. Đặc biệt vì khi xong 3 tháng quân sự, hầu hết chúng tôi còn lông bông chưa biết đi đâu, về đâu thì hắn đã khăn gói quả mướp lên đường Mỹ du vì tiếng Anh quá giỏi, không cần phải qua trường sinh ngữ như hầu hết mọi người khác. Kể từ đó đến nay không nghe tiếng, cũng hiếm người biết hắn đã phục vụ ở đơn vị nào!
Tôi vẫn tự hào còn nhớ mặt nhiều người nhất trong anh em, nhưng cũng rất nhiều trường hợp không còn nhớ một chút vết tích nào. 380 thư sinh ùa đến với nhau trong một khoảng thời gian rất ngắn rồi mỗi người một phương trời, rồi chiến tranh tràn lan, bao nhiêu kẻ mất người còn… Nếu “ngày xưa ấy” không có dấu ấn gì đặc biệt thì rất khó để nhớ đến nhau. Ví dụ như “Phòng Lồi 44”, “Trần Minh Khố Chuối 43” được nhớ tới vì 2 chàng này có biệt tài ăn cơm vun nón sắt. (Chỉ cần cơm và nước trà là xong một bữa ăn và ăn dài dài suốt khóa học); như những kỳ tích của các chàng “Út Bã đậu”, “Long Thủ Kỳ”, “Sáu Gà”, “Đạt Thi sĩ”… nhiều lắm, kể sao cho xiếc!

Dù đã đóng dấu 13 bàn FINAL; dù mỗi bàn đều có tên thực khách rõ ràng nhưng khi nhập tiệc lại thiếu dăm ba chỗ ngồi… vì có những con nhạn là đà ở phút cuối cùng mới biết là mình có mặt ở đây! Thôi thì gặp nhau vui là chính, ăn uống, ngồi đứng chẳng thành vấn đề.
Đúng 7g, lễ chào cờ và truy điệu bắt đầu. Quốc ca Việt Nam Cộng Hòa được toàn thể mọi người hát vang làm nhớ lại những sáng Thứ Hai năm xưa đứng dưới sân cờ Không Đoàn. Bản Không Quân Hành Khúc trỗi lên đầy trầm hùng lẫn bi tráng. Phút Mặc Niệm để tưởng nhớ những cánh chim đã lìa đàn bay vào miên viễn. 65 anh hồn tử sĩ của khóa được xướng danh qua giọng đọc oai nghiêm nhưng đầy xúc động của Nguyễn Mạnh Khang và bài văn tế thật bi tráng của Phong Lùn đã làm toàn thể anh chị em ngậm ngùi, thương tiếc. Hơn năm phút lắng lòng nghe rõ nhịp đập thổn thức của từng con tim, thời gian như ngừng lại, không gian thật trầm lắng…
Tiếp theo là phần tặng quà cho ba quả phụ phu nhân (Nguyễn Phan Vạn, Tôn Thất Trí, Dương Đình Long) hiện diện trong buổi tiệc. Quà là một khăn quàng xanh da trời có thêu huy hiệu Không Quân và chị Long đã thay mặt cho cả ba nói lời cám ơn đầy xúc cảm.
Tôi lên sân khấu để nhận lãnh trách nhiệm tổ chức hội ngộ năm sau tại Houston. Dù vậy tôi cũng đưa đề nghị 3 nơi có thể tổ chức và lấy ý kiến đa số. Thứ nhất là thành phố sương mù Seattle, có đảo Hoa Hồng Victoria Island, gần Vancouver có thể lái xe qua chơi cho biết; hoặc ở Washington DC thăm Hoa Đào nở, xong đi New York thăm Nữ Thần Tự Do, rồi đi thác Niagra Falls cho biết… Thảo luận rôm rả nhưng cuối cùng số đông muốn nhìn ngắm các nàng cowgirl xinh đẹp của xứ Cao bồi Texas vào dịp cuối tháng 3/2015.

Xong phần hành chánh thì nhà hàng đã dọn thức ăn lên. Nhạc trỗi lên dìu dặt với phần một văn nghệ giúp vui mở màn. Những bài thơ của phe ta do phe mình phổ nhạc và trình diễn. Nhiều ca sĩ gọi là “cây nhà lá vườn” nhưng phần trình bày của các anh chị em chuyên nghiệp không kém. Hoan hô những dàn máy karaoke đã góp công rất lớn trong việc đào tạo những ca sĩ cây nhà lá vườn đầy thiên phú này.
Xong phần một khi những món ăn đã được chiếu cố không mấy tận tình. Phần hai với chương trình văn nghệ dồi dào, sống động. Ca sĩ cây nhà 4/69 và lá vườn thân hữu đã giữ sân khấu và sàn nhảy vui nhộn suốt một đêm đầy ắp niềm vui.
Dầu nhà hàng có những giới hạn chỗ đậu xe, thức ăn không có gì xuất sắc nhưng khung cảnh rất ấm cúng, và tình cảm của anh chị em, đồng đội, thì rạt rào… Đã hơn 11g khuya nhưng ca sĩ vẫn còn thừa sức và những đôi chân vui vẫn miệt mài trên sàn nhảy. Dù vậy, cuộc vui cũng tới lúc tàn khi nhà hàng đã có dấu hiệu… cài then! Ban Tổ Chức mãi lu bu bây giờ mới thấy bụng đói vì chưa ăn uống gì, kéo nhau tới một quán phở khuya để dằn bụng trước khi về hẹn lại ngày mai.

Giờ hẹn tiệc tiễn đưa là 10g sáng tại tọa độ Tip Top Kitchen trên đường Brookhurst… nhưng mới 9g anh em đã gọi nhau ơi ới kéo nhau ra ngồi thiền sau khi một số lớn đã đại náo Café Factory nổi tiếng! Một số khác đã bay về tổ ấm xa xăm nhưng số còn lại cũng làm đầy một nhà hàng khang trang, rộng rãi. Tiếng cười, tiếng nói vẫn rộn rã, vui tươi cùng với những cái bắt tay siết chặt hẹn gặp lại khi tiệc đã tàn. Một số anh chị em ở xa nhưng chưa về vội cùng với anh chị em địa phương lại kéo nhau tới nhà Phú Cối để tiếp tục cuộc vui.

Ở nhà Phú Cối chơi một lúc thì Thảo Music phải về lại khách sạn để bay qua thăm New York; tôi phải lên đường trở lại Houston cho kịp chuyến bay để ngày hôm sau lại đón Hoàng Cười hạ cố Houston để gặp lại những bạn bè không có dịp dự Đại Hội lần này. Một số anh chị em khá đông rủ nhau đi chơi Las Vegas và thăm viếng Grand Canyon trong những ngày tới.

Thêm một lần Hội Ngộ rất vui quên cả nhọc nhằn. Xin ghi lại đây để một ngày nào đó có dịp ngồi đọc lại để nhớ về bạn bè và chiến hữu. Cám ơn tấm chân tình bằng hữu của anh em. Cám ơn đời còn cho tôi gặp lại những con người của “những ngày xưa thân ái…”

45 Năm… hơn nửa đời người
Gặp nhau nói nói cười cười thỏa thê
Năm sau hội ngộ nhớ về
Bóng chiều cũng đã cận kề tử sinh
45 Năm… còn lại chút tình
Quay nhìn kỷ niệm chúng mình còn nhau
Cùng đau chung một nỗi đau
Lưng trời gãy cánh, giọt sầu tha hương
Nhìn nhau tóc đã pha sương
Còn đây nỗi nhớ niềm thương một thời

Viết từ Rừng Vua

thanphongkingwood
07-08-2014, 04:30 AM
Tạp ghi tháng 5

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1404793452.jpg

Tôi đến phi trường sớm để chờ chuyến bay về thủ đô nước Mỹ. Đáng lẽ cùng đi ăn sáng với nhà tôi trước khi tới phi trường nhưng cứ loanh quanh với những việc lặt vặt nên không đủ giờ. Nhà tôi vì sợ tôi đói nên nhất định phải mua thức ăn cho tôi mang theo ăn trước khi lên máy bay. Trên đường đi, chúng tôi ghé một tiệm Việt Nam mua bánh mì và cà phê. Nhà tôi còn phải mua thêm một gói xôi và chai nước lọc nữa cho tôi mang theo mới chịu. Cầm khúc bánh mì, ly cà phê, và gói xôi trên tay đi về hướng phi trường, tôi bỗng thấy nghèn nghẹn trong cổ khi kỷ niệm xưa, ngày tháng cũ bất chợt hiện về! Chỉ có khác bây giờ không mặc đồ bay, không súng không dao lủng lẳng bên hông…

Đến cổng lên máy bay còn sớm chán, thấy một ghế trống bên cạnh ổ điện, tôi xin phép cô tóc vàng bên cạnh ngồi xuống bật laptop ra đọc bài. Vừa đọc vừa lấy nửa khúc bánh mì ra ăn. Cô tóc vàng vẫn tiếp tục nói điện thoại kể từ lúc tôi ngồi xuống nhưng tôi không để tâm nên chẳng nghe cô ta nói điều gì. Cho đến lúc nghe hai chữ Việt Nam trong mẩu đối thoại của cô ấy. Như một phản xạ tự nhiên, tôi đưa mắt ngó thoáng qua cô ta lại bắt gặp cô ấy cũng đang đưa mắt nhìn tôi và tiếp tục nói điện thoại. Tôi không định lắng nghe người khác nói nhưng mẩu đối thoại lại tiếp tục rót vào tai, “ừ mình cũng vậy, mong sẽ có cơ hội đi du lịch một chuyến ở Việt Nam. Nhưng lúc này lại đang đói bụng mà không muốn ăn mấy thức ăn có ở phi trường”. Tự nhiên thấy có cảm tình với cô ta. Đợi khi cô nói dứt điện thoại, tôi cầm bọc giấy có nửa khúc bánh mì còn lại đưa ra mời:

- Nếu cô không ngại tôi xin mời cô dùng thử nửa khúc bánh mì thịt nướng vừa mua ở tiệm Việt Nam khá lắm!
- Hèn gì thơm quá làm tôi đói bụng hơn. Nhưng tôi không sao đâu, anh dùng đi.
- Xin cô đừng ngại, tôi có nhiều thức ăn. Còn một gói xôi nữa nè. Vừa nói tôi vừa cầm gói xôi đậu màu vàng tươi đưa ra.
- Cô có thể chọn bánh mì hoặc xôi. Đừng ngại.
- Anh có chắc không, anh không cần phải làm vậy!
- Không sao đâu, tôi rất vui được chia với cô.
- Cô nhỏ nhìn tôi với ánh mắt dịu dàng:
- Well, cám ơn anh. Tôi chọn bánh mì vì tôi đã từng ăn mấy lần rồi. Bánh mì VN rất độc đáo. Một loại “thức ăn nhanh” đang thịnh hành nơi tôi ở.
- Và đây là chai nước của cô.
- Oh, cám ơn anh, anh chu đáo quá! Nhưng anh để dùng đi, lát lên máy bay cũng có nước uống.
- Cô ăn bánh mì mà không có nước sẽ… trầy cả cổ!
- Anh thật dí dỏm. Vừa nói vừa nhẹ nhàng nhận chai nước lọc từ tay tôi.
- Xin lỗi cô đi thăm DC hay về DC?
- Không, tôi đi Austin!
- Con trai nhỏ của tôi cũng đang làm việc trên đó sau khi học xong.
- Oh, vậy hả! Cậu ấy học ngành gì và ra trường lâu chưa?
- Nó học ngành RTF (Radio, Television, Film) và ra trường đi làm 3 năm rồi.
Đôi mắt xanh biếc như mở to hơn:
- Tôi là giáo sư đang dạy về môn đó ở Đại học Austin hiện giờ.
- Thật là một ngẫu nhiên trùng hợp! Tôi thật sự ngạc nhiên.
- Nhưng tôi chỉ mới về dạy ở UT mùa năm nay.
Vừa lúc nghe gọi tên lên phi cơ, tôi nói lời từ biệt:
- Tới lúc tôi phải lên phi cơ rồi. Tạm biệt cô nhé. Chúc bình an.
- Chúc anh một chuyến đi an lành.
- Cô cũng vậy! Tạm biệt!

Điều tôi muốn nói ở đây là chỉ có người Mỹ mới có được tính tình cởi mở, tâm hồn khoáng đạt như thế mà không thể tìm đâu có ở một người Á châu Châu Á. Nói đến đây tôi bỗng nhớ câu “tự nhiên như người Hà Nội”. Thực tình tôi không hiểu người dân ở Hà Nội trước 1954 tự nhiên như thế nào, nhưng kể từ ngày tôi hiểu biết qua giao tiếp thì người Hà Nội lịch sự có thừa, rất coi trọng sĩ diện. Còn nếu tính từ ngày cả Miền Nam được/bị phỏng… chân thì người Hà Nội vào Nam bằng mọi ngả đường từ phương Bắc tới rừng xanh xâm chiếm, cướp đoạt tất cả mọi thứ của dân Nam, từ vợ con tù cải tạo, tới nhà cửa, tài sản ruộng đất… “vô tư” thể hiện câu nói châm biếm từ xưa “tự nhiên như người Hà Nội”!

***

Trời thủ đô rất mát mẻ. Tôi rời lòng phi cơ với tâm trạng thư thái, nhàn hạ. Đến ngồi ở một quán ăn trong phi trường, gọi một chai bia lạnh, nhẩn nha uống, nhìn ông đi qua bà đi lại một lúc rồi mới bật điện thoại gọi bạn đến đón.
Bạn là thi sĩ Cao Nguyên, một ông nhà thơ với tính tình rất dễ mến, sống trong vùng gần trung tâm thủ đô. Tôi về theo lời mời tham dự buổi giới thiệu tác phẩm đầu tay của anh ta, thi tập Thao Thức chứa đựng “những dòng thơ lưu vong”. Ngoài sự quen biết nhiều trong lãnh vực thơ văn, anh còn có một tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước. Chúng tôi tâm đắc nhau vì tầm nhìn chung về nhiều phương diện của đời sống tha hương. Hơn nữa, tôi cũng muốn làm một chuyến đi xa ra khỏi cái khung cảnh cố định mỗi ngày.
Đáng lẽ đã hẹn được với mấy chiến hữu cũ trong vùng – những người bạn cùng khóa học quân sự đầu đời khi vừa rời ghế nhà trường nao nức xông pha trận mạc – để chén mầy chén tao một buổi nhưng cuối cùng bất thành vì thời gian không thuận tiện cho một buổi chiều thứ Bảy mà mỗi người lại ở cách xa nhau.
Anh bạn Cao Nguyên cũng ở cách phi trường Reagan gần một tiếng đồng hồ, phải chạy tới nhà anh con trai đang sống giữa lòng thủ đô nhờ cùng vào phi trường đón.
Về tới nhà anh con, Cao Nguyên đổi xe đưa tôi về nhà qua những con đường quanh co tuyệt đẹp, cây lá xanh tươi, lên dốc xuống đồi; chẳng bù cho những con đường Houston, dù cũng cây lá tươi tốt nhưng phẳng lì như một người đàn bà đẹp không có vòng một.
Về tới nhà thấy sao quạnh vắng?! Hỏi ra mới nhớ là bà quận của đương sự đang có việc nhà ở Nam Cali cả mấy tuần rồi. Nhà không có sự hiện diện của quý bà bao giờ cũng lặng lẽ, nhất là khi những con chim non có đủ lông cánh bay xa. Đó là tình trạng chung của những gia đình Việt Nam trên đất nước này, mà theo nhà văn nữ Nguyên Nhung viết trong một truyện ngắn, “…giờ thì nhà chỉ còn lại hai con khỉ già…”. Khi “hai con khỉ già” ngồi nhìn nhau không “trào máu họng” thì kiếm chuyện cãi nhau cho vui, hoặc mỗi người ôm một laptop ngồi thiền hằng đêm cho tới giờ đi ngủ.

Mà quạnh vắng thiệt! Nhà thi sĩ xa phố chợ. Trong tủ lạnh có sẵn hai chiếc bánh bao lớn, gói xôi tôi mang theo chưa có dịp ăn… thế là hai người có bữa ăn tối ngoạn mục với chai rượu vang đỏ ngồi nói chuyện đời, chuyện tình qua đêm.
Sáng thức dậy, hai đứa cũng cà phê thuốc lá. Thi sĩ liên lạc với những người giúp chàng tổ chức ra mắt sách hôm nay. Tôi liên lạc với mấy người bạn cùng khóa hẹn ăn trưa với nhau ở trung tâm Eden. Xong đâu đó, hai người lên xe về phố. Nắng nhẹ, trời cao xanh, vẫn qua những con đường tôi rất thích. Lòng nhẹ tênh, thư thái ngắm nhìn cảnh vật chung quanh cho no đầy con mắt phiêu lưu. Tới điểm hẹn đã thấy mấy “ông thần” đứng đợi. Chúng tôi tay bắt mặt mừng. Chàng thi sĩ vì bận lo việc tổ chức nên không tiện dùng bữa với chúng tôi mặc dầu mấy người bạn khẩn khoản mời.
Bạn bè lâu quá không gặp nhau nên mừng vui chi xiết, kể nhau nghe về những thăng trầm cuộc sống, về gia đình, về con cái và những dự tính tương lai trong tuổi xế chiều… cho tới khi tôi phải đến nơi tổ chức. Chúng tôi chia tay nhau với những hẹn hò tương ngộ mai sau.


Địa điểm tổ chức giới thiệu sách là Nhà Việt Nam ở trung tâm thủ đô. Đây là trung tâm sinh hoạt của người Việt trong vùng. Phòng không lớn nhưng không quá nhỏ – khoảng 70 chỗ ngồi xếp theo kiểu rạp hát – dùng làm nơi dạy tiếng Việt, dạy đàn tranh, võ thuật… Khi tôi đến lúc hơn 2 giờ chiều phòng đã đầy người và chương trình đã bắt đầu. Nhìn phớt qua thành phần quan khách, tôi thấy hầu hết những khuôn mặt có tên tuổi trong làng văn báo và sinh hoạt chính trị của người Việt tại thủ đô. Có một số thi văn hữu ở xa tới và một số đông hội viên Văn Bút Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Nếu không phải vì lòng mến mộ nhà thơ Cao Nguyên, những nhân vật này không dễ để có mặt trong các buổi giới thiệu sách vốn dĩ rất nhiều trong sinh hoạt văn chương hải ngoại.
Có bốn năm diễn giả giới thiệu, phê bình, và phát biểu cảm tưởng về thi tập đều rất súc tích, xuất sắc gồm có nhà văn, nhà hoạt động Cộng đồng Hồng Thủy, Giáo sư nhà văn – nhà phê bình văn học Nguyễn Lân, nhà văn Phong Thu, nhạc sĩ Vĩnh Điện, nhà thơ Nhất Hùng và ông nhà thơ Lê Mai Lĩnh cùng vợ và hai cô tiểu thư xinh đẹp đến từ Boston. Nhà thơ họ Lê nói về nội dung bài thơ Rừng Ơi (trang 87). Và là một ngẫu nhiên, tôi cũng đã chọn để diễn ngâm bài này trước khi cầm thi tập trong tay và đã được Ban tổ chức xếp đặt liền theo sau phần trình bày của chàng thi sĩ họ Lê.

Đặc biệt khi nói chuyện với ông nhà văn thiên tài Đào Trường Phúc tôi lại khám phá ra thêm ông ta cũng là Võ sư Thiếu Lâm Bắc Phái đang là Huấn Luyện Viên võ thuật tại hội trường này và một chi nhánh khác trong vùng. Không phải tôi nói anh thiên tài vì văn võ song toàn mà là một thông dịch viên tiếng Anh xuất sắc. Anh đã đảm nhiệm vai trò dịch thuật trực tiếp trong hai ngày Đại hội Tái lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (VBVNHN) trước phái đoàn Văn Bút Quốc Tế (VBQT) vào năm 2001 ở Virginia. Anh đã chu toàn nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Sự ngưỡng phục đó không chỉ riêng tôi mà là tất cả đại biểu hiện diện kể cả phái đoàn VBQT.
Trước khi chia tay với thi sĩ họ Lê, chàng đã tặng tôi một chai rượu thuốc bỏ túi (không biết Minh Mạng hay Thiệu Trị) thay cho lời từ chối bữa ăn tối ở Eden. Chúng tôi được Phong Thu khoản đãi ở một tiệm phở nổi tiếng ngon trong vùng. Ở đây tình cờ lại gặp gia đình thi sĩ họ Lê; chúng tôi ba chàng ngự lâm chia nhau chai rượu thuốc và những câu chuyện thi ca không dứt cho tới lúc chạng vạng từ giã nhau ra về.

Xe chạy trong đêm, đường sá quanh co, hai bên đường là những cây cao bóng tối, và xe cộ không tấp nập như ban ngày. Chỉ khoảng 45 phút mà sao thấy dường như rất xa. Có lẽ sự mong chờ nào cũng chậm đến dù hai chúng tôi không ngừng ôn chuyện thời xưa, điểm danh bạn bè… Chúng tôi mới gặp nhau trong lần hội ngộ đầu tháng tư vừa qua ở miền Nam California đây chứ có xưa cũ gì cho lắm; thế nhưng vẫn dài chuyện xưa nay, vẫn loanh quanh với tình cảm bạn bè, vẫn say sưa với tình chiến hữu…
Quyên, vợ Biểu, đón chúng tôi với nụ cười thật tươi. Từ ngày tôi quen biết với “cặp tình nhân” này chưa thấy Quyên thiếu vắng nụ cười trên môi bao giờ. Sở dĩ tôi nói “cặp tình nhân” vì Biểu vẫn luôn đối xử với vợ như tình nhân, nói năng cẩn thận, nhỏ nhẹ, tình tứ... y như chàng phi công hào hoa phong nhã dạo nào. Quyên cũng thế, vui vẻ, nhiệt tình, nồng nàn, tình cảm là những đức tính tự nhiên của nàng. Cặp tình nhân này luôn đối xử với nhau theo cung cách “tương kính như tân”, rất đáng quý mến.
Khi tôi thay quần áo xong, bàn tiệc nhỏ đã sẵn sàng. Thức ăn, đồ nhắm ê hề thêm vài chai rượu đỏ. Biểu hỏi tôi có muốn dùng cognac không, tôi từ chối khi nghĩ tới sức khỏe của mình. Sức khỏe của tôi dù đang “mạnh như rồng” nhưng cognac lúc này sẽ không tốt cho lục phủ ngũ tạng khi tuổi đời đã “em ơi có bao nhiêu...”. Chúng tôi lại chụm đầu ca bài Nhật Ký Đời Tôi version 2 của Thanh Sơn “ngược dòng thời gian, tìm về trong dĩ vãng phút giây ôi bùi ngùi. Bao nhiêu vui buồn chìm trong kỷ niệm ngày xưa chỉ còn mình tội hay mơ. Hay ghi nhạc buồn, hay đi một mình trong những chiều mưa tuôn. Khi yêu nhau rồi em đành quên sao, trả lời tôi…”. Vâng, không phải hát thiệt mà mỗi lần chúng tôi có dịp ngồi lại với nhau lại “tìm về trong dĩ vãng” để thấy “phút giây ôi bùi ngùi”. Nếu so sánh thời gian tản lạc quê người thì mấy năm làm lính chiến đâu có là bao mà sao cứ nói hoài vẫn không hết chuyện. Dù trong sinh tử chiến tranh nhưng phải nói đó cũng là một thời thời vàng son của lũ chúng tôi. Càng nghĩ tới càng thấm thía hơn, càng ôn lại càng thấy huy hoàng hơn dẫu vẫn biết những kỷ niệm đẹp thường không đẹp lúc nó vừa xảy ra. Mà nào phải kể chuyện xưa cũ cho những người không hiểu chuyện; thậm chí đôi khi người nghe chuyện lại là người trong cuộc mới thiên tài chứ! Thế nhưng lần nào gặp nhau cũng rôm rả quanh bên bàn rượu, cuộc trà như có cả kho tàng “chuyện ngàn lẻ một đêm”… Mãi tới khi mấy chai rượu vang đã cạn, những tình ca cũ đã vơi, chúng tôi cùng nhau ca bài “chuyến đi về sáng” để giấc ngủ muộn màng không là nỗi tiếc nuối khôn nguôi.

Sáng thức dậy trong một không gian thật bình yên. Biểu cũng thức dậy cùng lúc. Hai đứa pha cà phê ra ngồi dưới chiếc dù kiểng sân sau, mặc sức “làm ô nhiễm” không khí trong lành. Mặt trời đã lên cao, gió hiu hiu và nắng vàng, rất nhẹ, trải khắp đó đây. Thời tiết mát mẻ. Vài đám mây trắng lững thững bay trên bầu trời cao xanh biên biếc. Biểu và tôi cùng đồng ý đi bộ một vòng quanh xóm. Cũng giống như những khu nhà mới của ngoại ô các thành phố lớn khác, nhà cửa xây rất tân kỳ, san sát nhau, hoa kiểng đủ loại, đủ màu sắc hòa trộn với những hoa kiểng rất lạ, rất đẹp mà tôi không thấy ở Miền Nam nước Mỹ. Đặc biệt hơn nữa, nhìn xa xa là những núi đồi xanh thẳm, có khói núi chập chờn khiến lòng tôi lâng lâng một cảm xúc an bình, thư thái vô cùng. Đó đây vài ba người đi bộ như chúng tôi, rất hiếm xe cộ qua lại, không gian tĩnh mịch… một nơi lý tưởng để nghỉ ngơi cuối đời.
Chúng tôi dùng điểm tâm đã được Quyên dọn lên bàn khi về đến. Trong bữa ăn, tôi ngỏ ý muốn đi một vòng ngoại ô trước khi tới phi trường trở lại Kingwood. Hai vợ chồng Biểu rất vui vẻ cùng đi. Biểu lái xe qua những con đường rợp bóng quanh bờ sông Potomac uốn lượn quanh những ngọn đồi thấp. Tôi mở to mắt để cố thu lấy những vẻ đẹp thiên nhiên phương bắc. Trong thâm tâm tự nghĩ, đất nước Hoa Kỳ rộng lớn, yên bình, giàu có từ tấm lòng con người cho đến tài nguyên, thiên nhiên, cảnh quan đẹp hùng vĩ… đâu đâu cũng có luật pháp rõ ràng, an ninh cá nhân được bảo đảm, giá cả vừa túi tiền… Trong khi đó những châu lục khác, đặc biệt các nước Âu châu, Á châu đắt đỏ, thiếu an ninh; kém vệ sinh, không an toàn qua sự trải nghiệm của những người thích du lịch kể lại. Câu nói “nước Mỹ là thiên đường” ngẫm cũng không sai bao nhiêu.

Chúng tôi chạy lang thang hết một buổi sáng. Dĩ nhiên tôi thích ơi là thích. Cuối cùng Biểu – Quyên quyết định cho tôi vào thủ đô, ghé một quán Café nổi tiếng và sang trọng của Ý gần bờ sông Potomac. Chạy loanh quanh tìm không ra chỗ đậu xe đủ nhanh nên tôi called off (không đi nữa). Chúng tôi dự định ghé qua thăm ông bạn Thời cùng khóa đang oằn vai cơm áo ở trung tâm thủ đô nhưng các ngõ vào khu Tòa Bạch Ốc bị chắn lối để dành riêng cho cuộc diễn hành Lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2014. Tôi nói với Biểu cho tôi vào phi trường sớm chút cho chắc ăn.
Lưu luyến chia tay với Biểu Quyên, hẹn gặp lại nhau ở Hội Ngộ 46 năm, Khóa 4/69 Sĩ quan Không Quân hiện dịch tại, Seatle 2015. Vâng, 46 năm, quả là một thời gian khá dài. Ở trên đất nước này đã 39 năm qua (vẫn cảm thấy như một người khách lạ) so với tuổi đời vừa có thêm mấy năm bonus. 39 năm! Con số gần gấp đôi thời gian sinh ra, lớn lên, đi học và làm lính chiến. Thế nhưng thời gian trên quê hương yêu dấu vẫn như cả cuộc đời. Ôi hai tiếng quê hương thiêng liêng làm sao! “Quê hương là gì hở mẹ” nếu không là sự nghèo khó ở tuổi thơ, không là đôi mắt nhìn đau đáu dưới gốc phượng già khi tiếng trống trường giục giã thay lời chia ly ở một đầu mùa hạ, không là khung cảnh chen chân ghi chép ở các giảng đường, không là những đêm nóng bỏng chiến trường…

Ngồi chờ chuyến bay, tôi lan man nghĩ tới việc tổ chức hội ngộ ở Seatle năm sau. Đáng lẽ tổ chức ở Houston như anh chị em đã thảo luận tại Hội Ngộ vừa qua. Có lẽ vì đang vui nên một số đông đưa tay biểu quyết cho xong việc, số khác cứ theo phản ứng tự nhiên mà đồng ý theo. Kịp khi những ngày vui hội ngộ đã lắng đọng, một số anh chị em mới chợt nghĩ là nên tìm chỗ mới để thăm viếng. Chẳng những tôi đồng ý mà còn cổ võ thêm vì tôi cũng muốn có dịp qua thăm lại Vancouver và Rose Garden ở Victoria Island. Cái gì chứ có cơ hội đi chỗ này chỗ kia bao giờ cũng là một hấp lực cuốn hút tôi.

Nói chuyện du lịch đây đó, tôi bỗng nhớ đến Mẹ tôi. Bà vẫn thường nói với tôi khi còn bé, “hai bàn chân của con có nhiều nốt ruồi chắc sau này sẽ phải bôn ba trên đường đời”. Tôi thương Mẹ lắm nhưng trong thâm tâm không có chút tin tưởng nào. Tôi rất ghét sự mê tín dị đoan, chẳng ưa mấy ông thầy cúng, rất phiền lòng khi thấy người ta đi chùa để cầu xin đủ thứ; nhất là giữa lúc chuông mõ kinh kệ trang nghiêm lại nghe tiếng xin xăm lạch xạch ở bàn thờ bên cạnh… Nhưng có một điều không thể chối cãi đó là tính thích giang hồ, thích đi đó đây từ những ngày còn rất bé. Nhìn lại đoạn đường đời tôi đã đi qua chỉ toàn chữ đi… lông bông! Lúc bé đi học nghe cắm trại là mừng run. Trại nào cũng muốn tham gia. Gia nhập gia đình Phật tử lại thích theo giúp việc Sư Thầy mỗi khi ngài đi chỗ này chỗ khác thuyết giảng. Bởi vậy có một độ xin Thầy xuống tóc đi tu. Thầy không cho, về nhà khóc, nhịn ăn, thuyết phục Ba Mẹ tới cầu xin. Ba Mẹ cưng chìu nên cũng tới xin, nói với Thầy rằng “chắc cháu có căn tu, chúng con rất vui lòng, kính mong Thầy thu nhận làm đệ tử”. Thầy nhất quyết không cho, nói rằng “tướng nó mà đi tu cùng lắm chỉ được một thời gian ngắn cũng sẽ trốn chùa, vô ích“. Ba Mẹ mang con về khuyên nhủ năm ngày ba bữa thì nguôi. Trong sinh hoạt đoàn, ai rủ đi đâu cũng welcome. Cứ nghe chữ đi là tíu tít. Xong bậc trung học đệ nhất cấp, bằng mọi giá xin đi học xa nhà, hết tỉnh tới thành phố dù có phải làm thêm để phụ Ba Mẹ số chi phí ăn học khá cao. Học chưa tới đâu thì “nghe theo tiếng gọi phiêu bồng” đi mây về gió. Rồi một “thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, hai tay dắt hai đứa em học trò chạy bạt mạng tới xứ Cờ Hoa muôn trùng dặm thẳm! Tưởng sẽ cố gắng yên định để lo tương lai cho các em, cho bản thân và nghĩ rằng đại gia đình cũng sẽ trông cậy vào mình dù chưa liên lạc được! Nhưng có lẽ bị mấy cái nốt ruồi ác ôn dưới hai bàn chân thúc giục nên lại khăn gói quả mướp, một mình một ngựa lên đường. Ngựa là chiếc xe cà tàng mua mấy trăm bạc dành dụm sau mấy tháng dài dãi nắng dầm mưa.
Một thân một mình đi ta bà tứ xứ hơn một năm. Đi tới đâu cũng cố làm việc độ thân, cố ghi tên đi học… mà nào có làm có học gì được lâu lại “ngựa quen đường cũ”… lên đường! Khi tới bắc Cali thì không còn đủ sức để đi tiếp nên trụ lại đây đi học đi làm. Một thời gian ngắn bỗng dưng giật mình nhìn lại bản thân, không thấy tương lai sự nghiệp là đâu mà tuổi đời cũng đã vượt khỏi lằn ranh “tam thập nhi lập”.

Bây giờ ngồi tính lại sổ đời, nếu không may mắn gặp được nhà tôi thì không biết những nốt ruồi “phải gió” dưới hai bàn chân còn dẫn dắt tôi tới vùng trời biển nào nữa. Nhưng việc đời, cái hên của tôi chính lại là cái xui của nhà tôi vì nàng phải theo chân tôi hết Cali đến Texas qua lại bao lần sau khi giữ chân tôi đủ lâu để cả hai cùng hoàn tất chương trình học đại đại học.

***

Về đến Houston hơn 6 giờ chiều ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Nắng vẫn còn rực rỡ cùng với sự nhộn nhịp thường tình của phi cảng trong những ngày lễ làm đôi chân vui bước ra khỏi cổng.
Nhà tôi chờ sẵn ở cổng trạm đến với nụ cười rạng rỡ trên môi. Nàng chủ động đưa tôi về thăm Mẹ. Mẹ tôi ở với ông con út, thứ 9, độc thân nhưng khó tính; gia đình ông con thứ 7 không xa, gia đình cô con gái út 10 cũng chỉ cách 5 dặm. Chỉ có tôi và ông thứ 8 ở cách xa Mẹ, xa nhau cả tiếng đồng hồ lái xe. Mẹ tôi năm nay đã ở tuổi 93 nhưng Cụ còn khỏe mạnh, minh mẫn bình thường ngoại trừ đôi đầu gối không cho phép Cụ đi đứng thoải mái và những cơn suyễn đôi khi thăm viếng bất thường. Cụ có thể ngồi binh xập xám, đánh bài cát-tê với con cháu hàng giờ mà không thấy chỉ dấu mệt mỏi chút nào. Cụ luôn trông mong cuối tuần để thấy con cháu đầy nhà, để nghe tiếng cười tiếng nói rộn rịp, để thấy đàn tằm ăn dâu, để rồi cùng con dâu rể gầy sòng sau bữa ăn tối. Việc họp mặt đông đủ các gia đình anh em cuối tuần chứng tỏ cho Cụ thấy sự thương yêu, đùm bọc, thuận hòa với nhau. Cụ thường nói với anh chị em khi họp mặt gia đình đông đủ “trong nhà này, đứa nào cũng là con của Mẹ, có nghĩa là không phân biệt con ruột, con dâu, con rể gì cả”.Hạnh phúc của Cụ chỉ có thế thôi nhưng giữ cho Cụ sống vui vẻ để san sẻ hạnh phúc với mọi gia đình con cháu
Thấy tôi bước vào, Cụ mừng nói, “con về tới nơi bình an là tốt rồi”. Mỗi lần tôi đi đâu cũng cho Cụ biết và lần nào cũng nhận được một câu chúc và lời khuyên tương tự: “đi đâu mà đi hoài vậy con; đi đứng cẩn thận, lúc nào cũng nên ngó trước nhìn sau, chúc con đi bình yên”.
Tôi ở chơi và ăn tối với Mẹ vài tiếng trước khi ra về.
Một cuối tuần thiếu ngủ và nhiều hoạt động tâm tình bây giờ mới thực sự chiếu cố đến tôi khi ngồi yên trên xe cho bà quận rước về dinh.

Cuối tháng 5/2014

thanphongkingwood
09-06-2014, 04:11 PM
Không Gian Hội Ngộ Minnesota
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1410019942.jpg

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên

Ba tháng Quang Trung quá ngắn ngủi để cùng nhau đổi đời từ một học sinh, sinh viên vô tư lự hay từ một công chức lơ tơ mơ trong thời loạn ly đã để lại trong mỗi người chúng ta những dấu ấn sâu đậm cho một đời người. Sâu đậm đến nỗi sau hơn 40 năm gặp lại vẫn nhận ra nhau, càng thấy thân thương như những người ruột thịt gặp lại nhau sau những chia cắt đau lòng. Giọng nói có khàn hơn, tóc tai có bạc màu hoặc trống vắng cùng những nếp nhăn dọc ngang trên từng gương mặt dạn dày mưa nắng cuộc đời, chúng ta vẫn nhận ra những đường nét cũ, tâm tính cũ; vẫn mầy mầy tao tao dù đã là nội là ngoại của một đàn con cháu; dù đã là trưởng phòng, là giám đốc của những công ty ngoại quốc; đã là chủ tịch của những hội đoàn trong Cộng đồng người Việt ly hương, hoặc đang là những người rất thành công trên quê hương thứ hai này. Ôi tình đồng đội quá tuyệt vời!

Vì sự tuyệt vời đó nên trong lần Hội Ngộ 40 năm tại Orange County, Bắc kỳ Phạm Văn Yến đã mạnh dạn nhận lãnh tổ chức hội ngộ năm nay tại xứ Vạn Hồ Minnesota. Ai cũng biết việc tổ chức một buổi hội ngộ như vậy không dễ dàng chút nào, nhưng lieutenant Phạm Yến có lẽ đã nghĩ đến chị Yến cùng hai cặp thiên tài Hoàng-Bé và Mỹ-Nhơn. Vâng, quả đúng như vậy, tổ chức hội ngộ lần này là một thành công mỹ mãn từ nội dung (chủ đề) đến hình thức (trang nghiêm, hoành tráng); từ ngoài (các binh chủng bạn) tới trong (mấy cha nụi “Không Quân giờ có dấu huyền, bạn bè trân quý, bạc tiền mây bay”). Phải nói là nhờ sự khéo léo vận động thân tình của các phu nhân chứ như lũ đực rựa chúng tôi mà hỏi nhờ chắc mí mợ lườm liếc háy nguýt cho đã rồi đỏng đảnh đi Mall of America mua sắm còn vui hơn, phải không ạ?

Chuyến đi của tôi

9g sáng ngày thứ Năm mồng một tháng bảy tôi đã có mặt tại phi trường St Paul, Minnesota. Đêm trước Mỹ Nhơn tiếp bạn bè về trước tôi đến gần 3g sáng nên lỡ ngủ quên, khiến cho tôi phải ngồi ở phi trường đọc hết cuốn sách “làm sao để thắng giải tennis sau hơn 10 năm không ra sân”. Khi lieutenant Nhơn xuất hiện với nụ cười méo mó trên môi thì chữ nghĩa cũng đi theo lieutenant Nhơn ra quán Phở cùng với bạn bè dùng buổi trưa ở phố. Gặp ai cũng hỏi “bà xã đâu”! Mấy cha nụi KQ coi bộ già rồi quên hết bài bản. Làm sao mà cứ “xã với thôn” hoài, ai chịu? Sau mấy chục năm chung sống hòa bình với nhau cũng phải cho người ta lên chức “quận hoặc tỉnh” gì chứ! Vâng, bà tỉnh của tôi bị kẹt hai ngày tại phi trường vì phút chót đi theo diện sì-ten-bai. Thế là sau bữa ăn Lt Nhơn lôi tôi về nhà để giải quyết tình trạng của bà tỉnh. Ngay ngày lễ lớn nước Mỹ mà đi standby là cả một vấn đề! Nếu không nhờ sự hy sinh và lanh lẹ của Mỹ Nhơn, chắc lần nầy tôi đã mặc tình quậy phá cho đã rồi về xách va-ly để sẵn trước cửa đi luôn bụi đời!

Thăm anh em nhà họ Đinh ở Rochester

Sau khi dàn xếp xong chuyến đi của Nhà Tôi. Chúng tôi cùng đồng lòng vượt tuyến đường 90 dăm về Rochester để thăm anh em nhà họ Đinh. Thực tình tôi không rõ là hai ông này có giòng họ bà con gì với nhau hay không, nhưng chắc chắn hai ông cùng là những người bạn thân thiết cùng tôi bay C130 năm xưa. Nghe chữ “năm xưa” bỗng mủi lòng. Ông Đinh Đức ngoài tài bay ra còn là Huấn Luyện Võ Thuật của Không đoàn 53 Chiến Thuật hồi năm nẵm. Ông bà Đinh Đại về từ Phoenix, Arizona xa xăm được ông bà Đinh Đức vùng mé mé Vạn Hồ đưa đón. Lt Nhơn dù cũng là bạn nhưng chưa từng tới nhà ông bà Đinh Đức; thay vì hỏi gia chủ hướng dẫn đường tới nhà, Nhơn liên lạc với một “đại gia có dấu huyền”, ông bà Ngọc Hòa vì ông bà này cũng là bạn thân cả hai bên. (sở dĩ gọi đại gia Hòa có dấu huyền vì tuy còn trẻ mà tóc râu trắng như cước). Đến nhà Đinh Đức khi trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay, và mặt trời cuối ngày vẫn còn treo trên non tây cả một con sào.

Gặp nhau tay bắt mặt mừng, không uống được rượu thì đừng tới đây! Thế nên Đinh Đức liền mang ra một chai sương mù cùng những món ăn đặc biệt do chính tay phu nhân nấu đãi khách. Lt Nhơn làm sương sương 3, 4 ly gì đó thì xin… chậm chậm để còn lái xe về. Gia chủ “thuyền chìm tại bến còn sợ mất ván” nên tốn phí rất nhiều đá, chỉ còn ông Đinh Đại ỷ mập, ông gia huyền Hòa, với tôi quất sụm nguyên chai sương mù. Tình thì nồng nhưng đường thì xa, cuối cùng chúng tôi cũng xin ra về trước nửa đêm đề sang mai còn dậy sớm “tranh tài” Tennis. (Tranh tài để xem ai mất banh nhiều nhất!)

Giải Tennis

Được Ban tổ chức thông báo có 19 đội tham dự làm tôi ngần ngại không ít! Hơn 10 năm rồi chưa ra sân chắc phen này lượm banh mệt nghỉ. Tôi gọi lên cơ quan bảo vệ môi trường và các loài chim hiếm quý cảnh báo là tuyệt đối không được để chim chóc bay lượn vô tư ngang sân tennis đường 90th vào sáng ngày mồng hai tháng bảy!

Hơn 7:30g sáng đến sân banh thì mới vỡ lẽ là có 5 đội rút lui vì biết có tôi tham dự; 6 đội khác đi công tác xa; 4 đội nữa vì nhiều lý do đặc biệt không tới! Tôi vội vã mượn cây vợt của Nhơn dzợt thử vài chiêu…. Nhưng trời ơi, sân Minnesota có hơi hẹp; đường banh nào nếu không bay ra ngoài thì cũng bay vào lưới hoặc qua khỏi hàng rào! Lieutenant Đức về từ Hawaii cất tiếng than rằng: “Thuận ơi bồ đánh tennis sao giống đánh võ quá vậy!” Khổ thân tôi! Tránh riết rồi cũng tới giờ bốc thăm. Có những đôi mắt nhìn tôi ái ngại! Tôi cũng hồi hộp không biết cái vận rủi sẽ đúng vào tay nào! Hồi hộp hồi hộp! Tara… xin thành thật chia buồn cùng niên trưởng Toàn về từ Oklahoma!

Chị Toàn được tin anh Toàn bắt cặp đúng tôi bèn vội vã chạy ra sân để ủng hộ tinh thần. Lúc đầu còn thấy chị Toàn cố gắng vỗ tay dù chẳng có gì hay ho… nhưng vỗ riết cũng hơi bị mệt! Tôi nghe vắng tiếng vỗ tay nhìn ra mới biết là chị Toàn đang ngó trời mây non nước để tìm vần thơ… Ấy vậy nhưng nhờ hồng phúc của chị Toàn, chúng tôi thắng một thua một. Đội của Đức Thành cũng thắng một thua một. Nguyễn Thành Bá trước khi ra sân có tuyên bố là hắn đánh trận này vì danh dự cá nhân, vì thể diện bà tỉnh, vì uy tín của nhân dân Ohio cho nên đội chủ nhà Nhơn Bé đành phải nhường cặp Bá Thuyết. Các đại lão KQ ban đầu tưởng bỡ đòi tranh 3 set, round robin… nhưng với tình cảnh nắng gió Vạn Hồ, không quen thời tiết đành phải chấm dứt sau khi mỗi đội gặp nhau một vòng! Cặp Bá Thuyết hạng nhất. Đáng lẽ chúng tôi thắng hạng nhì nhưng vì anh Dũng trưởng ban tổ chức nói rằng tôi làm mất banh nhiều quá nên phạt xuống hạng ba! Ừ thì hạng ba… “thà như giọt mưa…”

Đêm Tiền Phi

Nhà hàng Song Long ở Apple Valley là nơi họp mặt tiền phi, gồm dân quậy 469ers từ bốn phương trời ơi đổ về, vào buổi chiều thứ Bảy, ngày 2/7/2010. Thời tiết rất đẹp, trời rất xanh và nắng rất vàng. Chủ nhà hàng lại là một siêu quậy, đại tiểu thơ con anh Của, từng là trưởng phi đạo C-130 năm xưa. Cô nương Trương Kim Chi luôn miệng cười thân thiện, tiếp đón mọi người rất niềm nỡ với nụ cười không dứt trên môi; nhất là khi biết có một số tài xế C-130 quen biết với ông già khi cô bé còn để chỏm “trong những ngày tháng đó”, cô nhỏ càng niềm nỡ hơn, càng em em con con loạn xị xà ngầu, cười toe toét đề nghị với chúng tôi rằng khi nào có bố thì gọi chú xưng con; khi nào không có thì anh em cho nó tiện việc sổ sách!

Khoảng hơn 4g chiều, mọi người trong Ban Tổ chức đã có mặt để trang trí phòng ốc. Phe chúng tôi từ xa về, một số ở chung nhà với Yến, Bé, Nhơn cũng theo gia chủ “đến hẹn nại nên”. Việc trần thiết vô cùng chu đáo như một đám cưới. Khăn bàn trắng muốt, ghế bọc trắng sang trọng, hoa các loại trên từng bàn. Bổn phận chúng tôi là tới trước để thử qua các loại bia ruợu của nhà hàng, để ăn thử những món ăn sắp đãi khách, và thử luôn âm thanh của một Ban nhạc nổi danh ở trong vùng. Đúng 6:30g thì “my house” cũng vừa đến cùng lúc chương trình khai mạc. (Cám ơn Mỹ Nhơn đã đem cất chiếc va-ly trước cửa nhà tôi). Anh bạn Jìmmy rất tuyệt vời trong vai trò điều hợp chương trình, anh em trong ban nhạc rất thân tình, tuyên bố với chúng tôi là ca sĩ ca bản gì, ca cách nào cũng chơi ngon lành hết ráo. Chính vì thế mà có gần 150 người tham dự đã có tới 1/3 là ca sĩ sáng giá trong đêm. Đến hơn 10g anh chị Phú cối ở Orange County đáp xuống, đến hơn 11g lại có anh Chửn gà đến từ Seattle. Đêm vui cứ thế kéo dài cho tới nửa khuya mọi người mới đồng ý “tét đèn đi ngủ”.

Đi dạo trên hồ

Buổi sáng ngủ chưa đủ giấc thì bạn bè đã gọi nhau ơi ới cùng tới nhà Chủ tịch Yến Bắc kỳ. Nhà của chủ tịch nằm sát một bờ hồ rộng mênh mông, thênh thang. Cái giốc cầu thang từ tầng trệt chạy xuống bến tàu thoai thoải, nếu không có cái rail sắt chạy song song chắc có ngày lộn cổ xuống ao. 18 nhân mạng thay nhau, hợp nhau tạo dáng đủ kiểu trước khi “theo em xuống thuyền”. Đáng lẽ tối đa chỉ được 10 mạng nhưng ai cũng muốn cùng nhau vượt hồ (xưa kia vượt biển) nên chen chân lên tàu chỉ còn đủ chỗ cho một két bia và két nước ngọt. Mây nước bao la, phe ta cứ thế thanh toán hết cả nước uống. Ngài chủ tịch luôn miệng nhắc nhở “làm ơn ngồi xuống kẻo công an nó bắt”. Mà có công an chạy theo thiệt! Ngài chủ tịch luôn miệng cầu nguyên “Chúa ở cùng anh chị em”. Có lẽ Chúa bảo hộ thiệt nên chúng nó chỉ chạy dọc theo xa xa một lúc khá lâu rồi làm lơ cho các quan ngài đi chơi tiếp. Đến 2g chiều thì mọi người hối hả trở về điểm xuất phát để chuẩn bị cho Đêm Không Gian.

Đêm Không Gian & Bằng Hữu
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1410020016.jpg

5g chiều chúng tôi kéo nhau đến nhà hàng Hoa Biển. Một nhà hàng được xây cất riêng biệt khá rộng lớn. Trước cửa đề bảng “xin lỗi quý thực khách, nhà hàng đóng cửa hôm nay, dành cho đại tiệc Không Quân Hội Ngộ”. Cứ ngỡ mình đến sớm để giúp BTC chăng đèn kết hoa, nhưng khi đến nơi thấy phòng hội cửa đóng then cài. Chúng tôi được căn dặn đứng bên ngoài thử thức ăn và rượu bia như ngày hôm trước, trong khi những người trong BTC ra vào phòng hội liền tù tì. Không ai nói nhưng chúng tôi cũng đoán được là BTC cố tình dành sự ngạc nhiên thích thú cho mọi người ở phút cuối cùng. Bắt đầu 6g chiều, phe kẹp tóc áo xanh đã trở thành một lực lượng khá đông, mỗi người mỗi vẻ, chia thành hai hàng trước cửa chào đón khách. Mỗi lần khách vào cũng được đứng lại chụp chung một pô hình lưu niệm. Ở một góc phòng có “cô phóng viên chiến trường” đang làm công tác phỏng vấn những người tham dự, đặc biệt khách phương xa luôn được chiếu cố. Nhà hàng chừa một phòng khá lớn để tiếp đãi những quan khách tới sớm. Giờ khai mạc đã đến, phòng hội được mở ra cũng là lúc căn phòng rộng bên ngoài không còn sức chứa. Từng bàn, từng cặp được phe áo xanh ân cần đưa vào chỗ ngồi. Khách phương xa lại được ưu tiên chiếm 5 bàn ở chỗ trang trọng nhất. Cám ơn sự chu đáo của BTC.

Sự trần thiết của hội trường toàn màu thiên thanh, từ ghế ngồi cho đến những chùm bong bóng đều rợp màu xanh nhạt. Ba bức phông lớn treo trang trọng trên sân khấu đại diện cho 3 quân chủng Hải Lục Không Quân của quân đội VNCH năm xưa. Cựu quân nhân các binh chủng và quan khách thi nhau chụp hình lưu niệm, có lúc đầy kín cả một sân khấu rộng lớn. Phe 469ers cũng chen chân nhau đứng ngồi tạo dáng. BTC lần này đã khá thành công trong việc tạo ra những yếu tố bất ngờ thích thú. Khi mọi người đã yên vị, âm thanh của một phi đội trực thăng vang dội hội trường. Khi tiếng trực thăng đã xa tận cuối trời, hai người MC duyên dáng lên sân khấu giới thiệu chương trình tổng quát. Điều làm cho mọi người ngạc nhiên là phần nghi lễ sẽ diễn ra sau khi xong phần ẩm thực. Khi phần chương trình được xướng đọc xong, nhà hàng lần lượt dọn từng món ăn cho hơn 300 thực khách. Món ăn cũng đủ vị, nhiều món như một tiệc cưới sang trọng. Trong suốt hơn một tiếng dùng bữa, hai màn hình đại vĩ tuyến liên tục chiếu những hình anh cũ, kỷ niệm xưa của một thời chinh chiến làm bùi ngùi không ít cho những người đã một thời sinh tử trên khắp bốn vùng chiến thuật.

Xong phần ẩm thực là phần nghi lễ rất trang trọng hòa hợp với một CD đầy âm thanh và những hình ảnh thật kiêu hung do niên trưởng Nguyễn Ngọc Bích thực hiện. Chỉ có một diễn văn ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa của KQ Bé Lê, trưởng ban tổ chức. Tiếp theo sau là phần văn nghệ chủ đề cùng với phần phụ diễn rất công phu và vô cùng đặc sắc. Chúng tôi rất ngưỡng mộ và xin ghi nhận sự hy sinh của anh chị em và sự cố gắng vô bờ của BTC. Dù chỉ là những ca sĩ địa phương nhưng các anh chị em đã hát ca rất hay, hát với tất cả tấm lòng cho lính và vì lính. Liên khúc “Hát Cho Một Người Nằm Xuống, Kỷ Vật Cho Em, và Người Tình Không Chân Dung của Trịnh Công Sơn, Phạm Duy và Hoàng Trọng” được hai ca sĩ gạo cội trong vùng trình diễn cùng với phần phụ diễn tuyệt vời của các anh chị em đã gây xúc động mạnh cho mọi người và cũng là màn cuối cùng của phần văn nghệ chủ đề.

15’ giải lao để bước qua chương trình dạ vũ. Phe ta tìm gặp phe mình, chai mời chai cụng đậm tình Không Quân. Đậm tình đến nỗi nhà hàng không còn bất cứ loại bia nào để bán! Bà chủ nói rằng “ai mờ biết mấy ông cụ (cựu) KQ còn gân quá dzậy!”

Phần dạ vũ rất huy hoàng, giành sân không kịp mặc dù đã có rất nhiều quan khách ra về. Nhảy li bì tới hai giò muốn rụng. Vợ chồng Mỹ Nhơn cùng với Ngọc Hòa cùng với cặp chúng tôi, thêm hai KQ độc thân Đức Chửn lên xe đi thăm Casino về đêm. Chạy cũng gần tiếng đồng hồ, đến nơi đã 2g sáng. Casino thật tráng lệ, vô cùng vĩ đại. Chúng tôi có 2 suite và hai phòng thượng hạng. Cặp chúng tôi được ưu tiên một suite… có lẽ vì hoạt náo hơi nhiều suốt ngày! Sau khi nhận phòng, cả lũ kéo xuống nhà hàng ăn khuya nhưng không ai còn sức để mua bóng đèn! Các bà chào thua đi ngủ, các ông tụ họp nhau xơi tái một chai rượu to đùng đến gần 4g sáng mới tan hàng đi ngủ.

Ngủ chưa no con mắt đã bị dựng dậy… đi dzìa! Trời đất! Phí của giời. Chưa kịp thưởng thức phòng ốc thượng hạng đã đành phải giả lại giăng sao. Một lũ lại kéo nhau ra tiệm phở gần casino của một ông bà Tàu Hải Phòng để “eat morning”, trong khi đó Mỹ Nhơn gọi con trai mang tàu ra một hồ khá lớn để các quan dung dăng dung dẻ một buổi mới dìa tới nhà. Trong cùng buổi sáng, một số KQ ở xa về được Lt. Yến Bắc kỳ đưa đi day cruise trên một hồ lớn của Vạn Hồ. Nghe nói cũng vui đáo để.

Chiều Tiễn Biệt
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1410019673.jpg

Ra về nắm áo, kéo tay
Trả bao nhân nghĩa lại đây rồi về

Về tới nhà chỉ nghỉ dưỡng quân được một lát, các ngài lại ới nhau khăn gói đến tư gia của Bé Lê và Kim Hoàng dự tiệc tiễn đưa. Nhà cửa, vườn tược của cặp này đẹp lộng lẫy. Nghe nói năm xưa, không lâu lắm, ngài hành nghề wedding photographer nên sắm sửa ngỏ trườc vườn sau xinh như mộng để các em, các cháu chụp hình kỷ niệm cho một đời người dài ngắn ai mà biết. Phe ta sợ phí phạm cảnh đẹp nên ai cũng chụp hình lia lịa, tạo dáng đủ kiểu. Khoảng đến 6g chiều phe ta cộng với phe mình đông ơi là đông! Trong nhà, ngoài sân dày đặc cả người lẫn người. Bé Lê trổ tài phó nhòm chuyên nghiệp, phe ta tha hồ tạo dáng, hết đứng lại ngồi, thậm chí có người nằm lăn trên cỏ trước một rừng hoa nữa. Hình chụp đã nhiều, bia rượu cũng cạn, thức ăn cũng không còn bao nhiêu, cười rộn rã đã đến lúc sắp làm phiền lòng hàng xóm đang cần sự nghỉ ngơi, và như thế bản biệt ly được lưu luyến trổi lên. Đến lúc ra xe, 469er Gẫm mới biết là mình đã bị locked out, may nhờ người đẹp Lisa có triple A can thiệp.

Quậy ở nhà Hoàng Bé chưa đã, một đám kéo về hầm gió của Mỹ Nhơn tiếp tục giành microphone và cụng ly, cụng chai thâu đêm. Người Mỹ họ đi vacation để refresh tinh thần lẫn thể chất, còn phe ta sau khi đi vacation về tới nhà lại mệt đừ như con cá ươn. Ôi quả là phong tục tập quán có khác nhau. Cám ơn ông bà trưởng ban tổ chức. Cám ơn thâm tình xứ Vạn hồ. Cám ơn và vô vàn cám ơn những người đã dày công đóng góp cho một kỳ hội ngộ tưng bừng, vui vẻ và đáng ghi nhớ.

Có lắm chuyện bên lề tích cực góp phần cho những trận cười thâu đêm suốt sáng. Từ chuyện ai gã cho ai, Ôn mô xấu nhất, O mô đẹp nhất; chuyện “Lt. up-side-down” chạy xe mờ cứ U turn suốt cả mấy ngày liền; chuyện đôi trẻ Hawaiin và người đẹp tóc vàng; chuyện nhà Lt. Bé có toilet dưới hầm khiến cho người Orange county bị canh chừng từng bước; chuyện Canadian như huyền thoại một chiều mưa; chuyện các bô lão KQ lại mê đá banh nên luôn luôn mang theo trên người, v.v… và v.v…
Xin gửi lời chào thân ái đến quý anh chị em, bè bạn nơi đây, hẹn gặp lại nhau khoảng đầu tháng 11/2011 tại Houston, Texas.

Xứ Vạn Hồ
Tuần lễ July 4, 2010
Trương Nguyên Thuận

thanphongkingwood
04-18-2015, 12:16 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/hintinhlong_1429315603.jpg

Tay run run cầm tờ phóng ảnh Phi Vụ Lệnh (PVL) cuối cùng đã mờ nhạt – dù sau này đã được ép nhựa - sau bao nhiêu năm tháng “săm soi” ở mỗi độ tháng tư về hay mỗi lần nhớ bạn bè xưa, nhớ không gian cũ. Mỗi lần cầm tờ PVL trên tay là y như thấy lại tất cả những dấu yêu trong dĩ vãng bừng bừng sống lại, có những phút huy hoàng, có vạn điều cay đắng!

Đã 40 năm qua rồi nhưng sự xúc động vẫn còn nguyên vẹn khi hình dung từng khuôn mặt, từng giọng nói, tiếng cười của 9 Phi hành đoàn (PHD), gồm 6 Phi hành đoàn chính thức và 3 Phi hành đoàn túc trực với hơn 80 nhân sự có tên trong tờ Phi Vụ Lệnh cuối cùng của đêm 28 rạng 29/4/1975. Nhưng đặc biệt nhất là Phi hành đoàn Tinh Long 07 của Trung úy Trang Văn Thành. Phi hành đoàn rất anh dũng, đã đánh một trận oanh liệt cuối cùng, rửa hận thay anh em và đã hy sinh cho quê hương dấu yêu trong giờ thứ 25.


* * *

Chiều 28/4 anh em có mặt tại phi đoàn rất sớm và rất đông sau khi phản tặc Nguyễn Thành Trung dội bom phi trường. Và trong phi vụ lệnh đêm nay, tôi có tên bay với Trung úy Nguyễn Văn Hiền, Tinh Long 2, sau phi vụ đầu tiên của Trung úy Trang Văn Thành.

7g30 cất cánh. Trời chưa tối hẳn. tuy nhiên, khi chuẩn bị vào Vùng trách nhiệm lúc 8 giờ, trời đã nhá nhem tối. Hiền ra lệnh tắt tất cả đèn đóm trên tàu, chia nhau canh phòng không và SA-7.

Chiến trường hôm nay không xa thành phố bao nhiêu. Được Trung úy Thành bàn giao chiến trường cho biết là phòng không và SA-7 của địch quân rất dữ dội. Thế là 10 đôi mắt mở banh để canh chừng từng vuông đất. Chúng tôi lặng lẽ nhập vùng trong đêm tối; thế nhưng có lẽ chúng đã nghe tiếng phi cơ nên vui vẻ dàn chào một trời đạn pháo khi chúng tôi chưa kịp bắn một viên đạn nào. Có lẽ trong chiến trận ai cũng biết là mình chưa khai hỏa mà địch đã phủ đầu thì mức độ sợ hãi đến tê điếng cả người. Đoàn viên ai cũng muốn TPC khai hỏa để lấy tinh thần, nhưng vì đạn dược của chúng ta vô cùng quý hiếm nên đành phải chờ cơ hội. Chúng tôi phải liên tục lạng lách vả mồ hôi và bắt buộc phải tăng giảm cao độ liên tiếp. Địch quân trong thế thượng phong, đạn pháo liên tục bắn lên như một trời sao, đặc kín cả không phận. Ở dưới đất, hàng hàng lớp lớp xe vận tải của chúng bật đèn sáng choang, nối đuôi nhau tiến vào thủ đô như chỗ không người! Tôi chợt ao ước giá chúng tôi được trang bị bằng bom! Chúng tôi vô cùng phẫn uất nhưng vẫn không làm gì được vì chúng tôi không thể bắn liều, bắn ẩu ở cao độ không hiệu nghiệm. Mỗi lần cố xuống thấp nhập trận là phòng không của chúng lại đặc trời, lại phải lạng lách vả mồ hôi, phải bắn trái sáng chống hỏa tiễn tầm nhiệt, phải tang cao độ an toàn. Trong suốt hai tiếng đồng hồ trên không phận, chúng tôi hoàn toàn trong tư thế tự vệ và thụ động, không có lấy một cơ hội nhỏ để bắn trả thù! Tôi bỗng nghĩ nếu gặp Trung úy Thành Cam-bu-chia chắc đã một mất một còn với lũ giặc Cộng này rồi. Tôi đã bay với Thành ở nhiều chiến trường nổi tiếng như Đại Lộc, Thường Đức, Đức Dục ở Quảng Nam; Vùng núi đồi Tây Nguyên khi biệt phái Phù Cát. Sự gan dạ của Thành có lẽ nhờ tin vào bùa chú, hoặc nằm trên sợi dây chuyền có nanh heo rừng lúc nào cũng đeo lủng lẳng trên cổ.

Phải nói lần đầu tiên trong đời đánh trận tôi cảm thấy ê chề, lo âu và bất lực. Không khác gì một võ sĩ thượng đài mà đã bị người ta trói buộc tay chân. Không ai nói với ai điều gì nhưng trong ánh mắt của mỗi người là một trời thất vọng và lo âu. Nguy cơ địch quân đánh chiếm Saigon chỉ có thể đếm từng giờ!

Về tới phi đoàn, tôi vội vã chạy về cư xá Sĩ Quan độc thân ở gần cổng Phi Long, vì có hai chú em học trò trọ học ngoài phố được tôi đưa vào trong căn cứ lúc trưa. Mấy ngày qua, an ninh, quân cảnh được lệnh không cho bất cứ dân sự nào vào trong căn cứ nếu không phải vợ con của quân nhân trong trại gia binh hoặc phải có giấy phép đặc biệt. Sở dĩ hai chú nhỏ vào được là nhờ tôi có giao tình đặc biệt với anh em an ninh, phòng thủ trong căn cứ. Giao tình đặc biệt đó là vì tôi ở trong đội tuyển volley Không đoàn và là huấn luyện viên võ thuật Không Quân nên quen mặt với anh em mà có được biệt lệ.

Gần 11g đêm tôi về tới phòng trọ. Chưa kịp chợp mắt thì phi trường bị pháo kích nặng nề. Hai chú học trò tranh nhau chui trốn vào gầm giường! Tôi cũng chết điếng khi nghe tiếng đạn rít xé tai và rớt xuống bên ngoài căn cư xá của mình… nhưng chờ hoài không nghe tiếng nổ! Tản sáng ra xem mới biết là tử thần từ chối khuya qua, chiếc đạn hỏa tiễn 122 ly cắm sâu vào lòng đất, đưa một phần đuôi lên trời!

Chưa kịp hoàn hồn thì nghe cả khu cư xá la ơi ới chỉ trỏ nhau nhìn lên bầu trời. Một Tinh Long đang bị bắn rơi! Biết chắc là bạn mình nhưng không biết là ai. Tôi bàng hoàng, xúc động làm tim đau nhói như muốn nghẹt thở. Tôi lên xe tính chạy vào phi đoàn để xem bạn nào nhưng vừa quẹo ra cổng cư xá thấy súng đạn vất bừa bãi bên trường huấn luyện tân binh phía đối diện… Tôi chợt nghĩ là anh em chúng tôi cần súng đạn để tử chiến nếu Việt cộng tràn vào căn cứ. Tôi dừng xe, gom một mớ súng đạn đem về phòng giao cho hai chú nhỏ. Hai chú học trò khoái chí cầm từng cái súng lên xem. Tôi chỉ vẻ sơ sơ cách sử dụng và dặn không được bắn ai nếu không phải là VC, rồi lên xe vọt đi.

Khi chạy gần tới khu gia binh, tôi lại chợt nghĩ anh em cần thực phẩm cho những ngày tới. Tôi chạy thẳng lên tiệm tạp hóa của Trung sĩ Ngọn ở khu gia binh – người vừa bay với tôi đêm qua. Đập cửa mua được mấy bao gạo và mấy chai nước mắm. Tiệm của Ngọn không có bán gì khác. Tôi nghĩ thế cũng tạm đủ và chạy đem về cư xá xong mới vào phi đoàn.

Trong lúc này, phi trường vẫn đang bị pháo kích và người người đang chạy xuôi chạy ngược. Tôi bất kể, cứ phóng xe trên đường. Khi đi ngang qua khu dinh trại nữ quân nhân KQ, thấy người ta đang tản thương vì cư xá vừa bị trúng đạn pháo kích, gây thiệt hại nặng nề. Tôi quay tìm đường khác. Dường như đầu óc tôi lúc này không suy nghĩ được gì ngoài mấy chữ “mình phải vào phi đoàn”. Tôi không có chủ đích nào ngoài việc muốn biết bạn mình vừa tử nạn gồm những ai.

Không còn nhớ lúc ấy là mấy giờ! Thấy phi đoàn ngổn ngang, vắng vẻ và có nhiều dấu hiệu bất bình thường. Vài người bạn rất ngạc nhiên hỏi tôi “còn chưa chạy nữa sao, người ta kéo nhau chạy đi hết rồi?” Tôi cố gắng tìm gặp một vài anh em còn lãng vãng, được cho biết là chiếc Tinh Long bị bắn rơi là của Trang Văn Thành và Tào Thuận. Tôi nghĩ anh bạn nói lộn tên TPC, vì Thành đã bay Tinh Long 01 rồi. Và nhìn vào PVL thấy là của ông Phi đoàn trưởng Hoàng Nuôi. Người bạn xác định là khi được điều động lúc 5:30 sáng, ông Nuôi không đi mà kêu gọi người khác bay thế. Trung úy Thành còn ngủ lại nên tình nguyện đi, kéo theo Trung úy Tào Thuận là người trực bay chuyến kế thay cho Thiếu úy Hưởng vắng mặt. Dù tình trạng chiến trường rất tồi tệ nhưng không ai nghĩ ra Tinh Long phải xung trận sau 6 giờ sáng. Đây là chuyện bất thường. Vì thế nhân viên các PHD túc trực thường vọt sớm, nhất là trong tình thế hiện tại. Do đó, ngoài hai phi công nói trên, không ai biết chắc nhân viên nào và có bao nhiêu người đi trên phi vụ đó cho tới hơn ba chục năm sau, khi chúng tôi lo việc bốc mộ Tinh Long 07, mới tìm được Thượng sĩ Nguyễn Văn Chín, người duy nhất nhảy dù, dù không kịp bung trọn vẹn nhưng còn sống sót.

Tôi cấp tốc quay xe về cư xá, vơ vội 2 khẩu M16 và mấy dây đạn, nai nịt súng dao như thường ngày đi bay, đèo hai chú em lên chiếc Lambretta chạy ra các bãi đậu để tìm phi cơ khả dụng. Lúc này VC vẫn pháo kích lai rai vào phi trường. Dường như tôi không có thời gian để sợ nên cứ chạy vòng các bãi đậu của AC119K. May mắn, tôi gặp được một chú nhân viên phi đạo AC119K, biết tôi tìm phi cơ bay đi nên nói với tôi, “Trung úy chạy theo em, vì em biết ở đâu còn được phi cơ khả dụng, nhưng Trung úy cho em theo với nghe”. Tôi mừng ơi là mừng, buồn ngủ gặp ngay chiếu manh, 3 anh em chạy xe theo sau hắn.

Quang cảnh phi trường lúc này hoang vắng nhiều; phần thì mọi người đang tránh pháo kích, phần đã ra đi còn hầu hết đổ dồn ra các cổng để xuất trại. Theo chú phi đạo hết chỗ này tới chỗ khác; những chiếc khả dụng đã không còn trong ụ. Chú lại gọi tôi theo để tìm những chiếc hư hại sơ sơ có thể bay được. Dường như tôi không suy nghĩ được gì hơn là chạy theo chú. Chú chỉ chiếc nào thì tôi nhảy lên phòng lái xem xét phi cụ và thử quay máy. Có chiếc máy nổ nhưng không có xăng; chiếc có xăng nhưng các phi kế đều hỏng… Sau cùng, tới sát trạm hàng không quân sự, chúng tôi tìm được một chiếc như ý nguyện. Việc đầu tiên là xem tổng thể, leo lên cánh coi mực xăng hai bên, vào phòng lái quay máy, thử hai ống phản lực... tất cả đều hoạt động “có vẻ” bình thường, chỉ có vài phi kế không quan trọng có kim chỉ vạch đỏ… Có lẽ không còn chọn lựa nào tốt hơn trong khi thời gian đã gần trưa, tôi quyết định ra đi với chiếc phi cơ này.

Đang gấp rút xem xét lần cuối cùng và không biết chú phi đạo đi đâu mất tiêu trong lúc hai chú em chở nhau trên xe chạy quanh bãi đậu. Tôi ra dấu bảo hai chú lên tàu. Bỗng nhiên thấy chú phi đạo trở lại với chiếc xe hơi màu trắng, hai chỗ ngồi, mui trần. Chú nói “thôi ông thầy tự lo lấy nghen, em có được chiếc xe này chắc người ta bỏ lại, em cần chạy về nhà đưa Ba Mẹ em vào trong này. Chúc ông thầy may mắn.” Tôi chưa kịp phản ứng thì chú đã chạy đi mất. Cùng lúc đó hai chú em cũng nói “thôi anh Tư chạy một mình đi, tụi em cũng về tìm Ba Mẹ”. Nói xong hai anh em chở nhau chạy biến về phía cổng Huỳnh Hữu Bạc. Tôi hoảng hốt tắt máy, nhảy xuống đất vừa chạy theo vừa kêu gọi hai chú em trở lại nhưng không kịp. Hai chú đã mất hút trong dòng người ùn ùn kéo ra cổng. Tôi đứng chôn chân bên hông trạm hàng không…

Đang lúc ngẩn ngơ, tiến thối lưỡng nan, tôi chợt thấy một toán người vừa ở các bunker gần bên xuất hiện và vội vàng lên chiếc tàu của tôi, họ quay máy vọt đi. Tôi la lớn, chạy theo đứng chặn trước mũi máy bay đưa hai tay cản lại, ra dấu tàu này của tôi… nhưng con tàu cứ sấn tới, bất kể sự an nguy của tôi. Tôi nhảy tránh sang một bên nhìn theo con tàu vội vã băng về hướng phi đạo. Thật ra tôi đã nhận diện được cả hai pilot cướp tàu của tôi, họ là đoàn viên Tinh Long chung đơn vị chứ đâu phải ai xa lạ. Tuy vậy, sau này liên lạc lại nhau ở Mỹ, tôi có hỏi họ tại sao tàn nhẫn lấy tàu của tôi đi mà còn không cho tôi đi theo… nhưng dĩ nhiên cả hai đều chối là không phải họ! Tôi nói với họ “nói là nói chơi cho biết chứ tôi hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh lúc đó; hơn nữa tôi cũng còn sống nhăn ở đây”. Tuy nhiên, rất có thể họ mang mặc cảm nặng nề nên bao nhiêu lần chúng tôi tổ chức Tinh Long Hội Ngộ ở Texas và California vẫn chưa thấy hai người này về tham dự.

Tôi đứng ngó đoàn người chạy ra cổng một lát. Tự nói với mình là bằng mọi cách phải rời khỏi nơi này, rời khỏi Saigon. Kinh nghiệm Cộng sản mà Ba Mẹ tôi đã nói cho lũ anh em chúng tôi từ nhỏ “Cộng Sản là những con người không tim óc; là hiện thân của lọc lừa, dối trá, trả thù và giết chóc”. Phi trường đã vắng người, pháo kích cũng đã ngưng nhưng tôi không còn phương tiện để đi đâu… Đang bước ngập ngừng vô định thì thấy hai chú em xuất hiện “Anh Tư, họ không cho ai ra hết. Quân cảnh bắn dưới chân làm mọi người chạy ùa trở lại!” Tôi mừng muốn bật khóc. Ba Mẹ và các anh chị em của tôi không biết bây giờ ở đâu, ra sao. Tôi đã không thể về thăm gia đình gần hai năm qua và hơn hai tháng nay không thể liên lạc được. Đại gia đình chỉ còn lại 3 anh em ở đây, nhất định phải sống chết có nhau. Tôi cầm tay lái tính chở hai chú em chạy quanh các bãi đậu phi cơ khác cầu may để xem có chiếc nào sắp cất cánh hay không.

Vừa chuẩn bị chạy đi thì nghe tiếng gọi to sau lưng: “Th. ơi chạy theo anh, anh cần co-pilot”. Vừa lúc một chiếc pick-up màu xanh của KQ vượt qua mặt do Th/t Phan Vũ Điện cầm tay lái và chở trên thùng đằng sau một số người gồm có cơ phi và áp tải. Tôi mừng như bắt được vàng, chạy vụt theo tuốt bên bãi đậu phía đông bắc phi trường gần trạm hàng không dân sự.

Tôi không còn lòng dạ nào để nhìn cảnh hoang tàn của phi trường trong lúc này. Chúng tôi phóng xe như điên đến bên chiếc C.130. Tôi dẫn hai chú em vọt lên cửa pilot, thu xếp cho hai chú ngồi yên một chỗ. Tôi lên phòng lái ngồi vào ghế hoa tiêu phụ, lướt qua cuốn checklist trong khi anh Điện quay máy và de ra khỏi ụ. Anh áp tải Hoàng nói là người ta nhảy lên tàu nhiều quá. Anh Điện ra lệnh vừa chạy vừa đóng cửa đuôi vì tình trạng phi cơ không hoàn hảo sợ không kham nổi trọng lượng quá tải. Anh tống ga chạy như giặc đuổi sau lưng. Chúng tôi ra phi đạo ngay ở taxiway đầu tiên, khoảng nửa sân chứ không có giờ tới cuối phi đạo như bình thường. Anh Điện tăng ga tối đa, nhả thắng, chiếc phi cơ lao về phía trước như con voi điên bất kham. Tôi phụ anh Điện giữ vững cần lái. Trên mặt phi đạo có một vài nơi có đồ đạc vung vải. Vừa chạy vừa tránh… gần tới cuối phi đạo mà vẫn chưa lấy đủ tốc độ bình thường để cất cánh… Trong lúc tôi và một số sĩ quan có mặt trong buồng lái xanh mặt thì anh Điện nhẹ nhàng nâng con tàu lên khỏi mặt đất hướng về hướng trường đua Phú Thọ. Thân tàu rung rất mạnh, chứng tỏ chưa đủ tốc độ an toàn. Anh Điện cố gắng bay lài lài lên chứ không nâng cao độ nhanh như bình thường được. Tôi bàng hoàng nghĩ thầm “chắc chết phen này vì rớt máy bay, đi không ai tìm xác rơi rồi đây!” Đã vậy, chúng tôi bắt buộc phải quẹo trái bay về hướng Vũng Tàu ngay lập tức, nếu không sẽ bị phòng không của Việt Cộng. Anh Điện không dám cua gắt vì sợ mất lực nâng. Cũng may, C.130 có 4 động cơ bán phản lực nên rất mạnh. Tàu rung một lúc thì trở lại bình thường, giúp chúng tôi bốc mình lên cao độ an toàn bay thẳng ra Vũng Tàu.

Lúc này tôi khá bình tỉnh, thấy thần chết đã bận đi nơi khác. Tôi nhìn đồng hồ tay thấy hơn 1 giờ chiều. Mở tần số không lưu, nghe loạn xạ những lời bàn tán, lời hướng dẫn cộng thêm ý kiến, ý cò của mấy ông sĩ quan cao cấp tháp tùng đang trong phòng lái… người muốn xuống Côn Sơn cùng với vợ con được di chuyển từ sang sớm, kẻ muốn qua Bang-Kok tỵ nạn; người muốn đi Utapao Thái Lan, kẻ muốn đáp xuống biển (ditching) để Hạm Đội 7 cứu… làm cho anh Điện điên đầu nổi sung hét lớn. Cuối cùng mọi người đi đến một thỏa thuận chung là đáp Utapao theo hướng dẫn của bạn bè trên tần số đang bay về hướng đó.

Sau hơn hai tiếng đồng hồ từ lúc cất cánh, đi Vũng Tàu vòng qua Utapao, chúng tôi đáp xuống phi trường này khoảng hơn 3 giờ chiều ngày 29/4/1975. Mọi người thở phào nhẹ nhõm đã được tai qua nạn khỏi khi con tàu chạm bánh xuống phi đạo an toàn và chạy bang về trạm tiếp liên. Máy bay vừa tắt máy thì đã có một toán lính Mỹ bước lên tàu, lục xét và tịch thu tất cả vũ khí có trên tàu trước khi được hướng dẫn xuống máy bay. Hơn 100 nhân mạng nối đuôi nhau theo một binh sĩ Mỹ hướng dẫn nhập đoàn tỵ nạn. Chúng tôi vừa rời máy bay thì lại thấy một toán quân nhân khác bắt thang cao sơn bỏ tất cả cờ VN và bảng số tàu. Tôi ngậm ngùi nhìn hành động đó mà khóc thầm “thế là hết, miền Nam đã bị xóa sổ”!

Vâng, Miền Nam đã bị xóa sổ sau đó không đầy nửa ngày! Khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng qua làn sóng điện nghe được ở trại Utapao làm nhiều người bật khóc gồm có tôi. Tôi nghĩ nhiều đến Ba Mẹ và các anh em không biết bây giờ lưu lạc nơi đâu. Nghĩ tới người vợ hứa hôn chỉ ở cách tôi không hơn 6 cây số mà không thể mang theo được. Thế là hết, vĩnh biệt Saigon, vĩnh biệt người thân, vĩnh biệt đời chim, cánh gió! Tôi lặng lẽ khóc như chưa từng được khóc! Khóc cho tôi bơ vơ không biết mai này đời sẽ về đâu; khóc cho bạn bè vừa nằm xuống sáng qua trong phi vụ cuối cùng bảo vệ thủ đô!


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/PVL cuối cùng_1429316404.jpg

Tháng 4/2015


Ghi chú thêm:
Tinh Long là biệt hiệu của Phi đoàn 821. Là một trong hai phi đoàn vận tải tác chiến thuộc Không đoàn 53 Chiến Thuật, trực thuộc Sư đoàn 5 Không Quân VNCH, đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất, cách trung tâm thủ đô Saigon 6 cây số về hướng tây bắc.

Phi đoàn Tinh Long có khoảng 300 nhân viên phi hành; là phi đoàn có quân số đông nhất trong ngành bay. Ngoài căn cứ chính ở Tân Sơn Nhất còn có hai biệt đội luân phiên yểm trợ cho Vùng I đặt tại phi trường Đà Nẵng và Vùng II ở phi trường Phù Cát.

Sau hiệp định Paris 1972, trong kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, Không Quân Mỹ đã trao cho KQVNCH khoảng 16 chiếc AC119K còn lại, vận tải vũ trang tân tiến nhất mà họ đã mang vào VN từ cuối năm 1969 và đầu năm 1970 để tham dự các trận chiến quy mô nhằm chống biển người, xe tăng và những đoàn xe tiếp liệu của CSBV dọc đường mòn Trường Sơn. Trong số 26 chiếc mang vào chiến trường, thực ra chỉ có 18 chiếc khả dụng.

Được chế tạo đặc biệt cho chiến trường Việt Nam bởi hãng Fairchild-Hiller, hoàn tất vào cuối năm 1969. Chiếc AC119K có chiều dài 26.3 mét, chiều cao 8.1 mét và độ sãi của cánh là 33.3 mét. Hình dáng như một chiếc hộp bay; KQ Mỹ đặt cho biệt danh là Flying boxcar và KQVN gọi đùa là “quan tài bay”. Có 2 chong chóng với công suất mỗi chiếc là 3500 mã lực và 2 ống phản lực J-85 cực mạnh dùng để mang khối sắt khổng lồ (18,000 kg empty hoặc 29,000 kg full load) bốc mình lên trên không gian

AC119K còn có tên Stinger nữa; có lẽ người ta muốn nói tới hỏa lực và sự hiệu nghiệm của nó đối với chiến trường VN. AC119K được trang bị 4 cây đại liên minigun 6 nòng, với 31, 000 viên đạn mỗi cây cộng thêm 2 cây đại bác 20 ly 6 nòng, M61AI; mỗi cây với 4500 viên đạn nổ lại khi va chạm. Ngoài ra, AC119K cũng được trang bị một viễn vọng kính (NOS/NOD – được trông coi bởi một sĩ quan chuyên môn) có sức khuếch đại hai triệu lần ánh sáng trăng sao để nhận diện mục tiêu và một đài radar hồng ngoại tuyến (FLIR/IR – được trông coi bởi một sĩ quan chuyên môn khác) để dò tìm và theo dõi mục tiêu trong đêm tối; một hệ thống phóng trái sáng có độ mạnh 20 ký lô Watt, tương đương 1 triệu rưỡi sức ánh sáng đèn cầy có thể soi sáng tỏ một sân vận động to lớn trong đêm đen. Tuy nhiên, ở chiến trường VN không sử dụng loại trái sáng này cho mục đích thật sự của nó mà chỉ dùng để chặn đường hỏa tiễn tầm nhiệt, SA-7, của địch quân nhắm vào phi cơ. Cũng may, Tinh Long chỉ hành quân ban đêm nên có phần tương đối dễ để nhận diện vị trí phòng không và đường đi của SA- 7 để tránh.

Theo sách vở, AC-119K's rất hiệu nghiệm cho cả đại liên 7.6 ly và đại bác 20 ly ở cao độ 3,500 bộ khi yểm trợ hỏa lực cho quân bạn hoặc chống biển người; 5,500 – 7,000 bộ dùng để chống chiến xa và các đoàn xe tiếp liệu.

Mỗi PHD Tinh Long có 10 nhân viên, 5 sĩ quan và 5 hạ sĩ quan gồm: 1 Hoa tiêu (Trưởng phi cơ “TPC”), 1 Hoa tiêu phó: (Co-pilot “CP”), 1 Điều hành viên (ĐHV), 1 NOS (Night Observation Sight); 1 IR (Infrared Radar-Hồng ngoại tuyến), 1 Cơ phi (Flight Engineer), 1 Áp tải (cũng là IO: Illuminator Operator), và 3 Xạ thủ phi hành (G: Gunner).

Mỗi đêm Tinh Long có 8 phi vụ gồm 6 phi vụ chính thức từ 6g chiều đến 6g sáng; và 2 phi vụ túc trực (hai phi vụ này được điều động hay không cũng còn tùy nhu cầu chiến trường). Mặc dù nhiên liệu đủ để một chiếc AC119K đủ sức bay 5 tiếng đồng hồ liền, nhưng mỗi phi vụ Tinh Long chỉ trách nhiệm phần không gian của mặt trận 2 tiếng đồng hồ, chưa kể giờ đến vùng và giờ rời vùng về đáp. Khi phi vụ kế tiếp vào Vùng nhận bàn giao trách nhiệm xong thì phi vụ trước mới được phép rời vùng.

Tinh Long bay đêm nên ban ngày hoặc là ngủ bù, hoặc là lo công chuyện bản thân, trừ phi tới phiên phải trực văn phòng hoặc có những công tác đặc biệt mới có mặt ở phi đoàn vào ban ngày. Vì thế, dù có cận kề lằn ranh sinh tử mỗi đêm, chúng tôi vẫn được gọi là “lính thành phố” khi thấy chúng tôi hay “theo em xuống phố trưa nay đang còn chất ngất cơn say”

Khi tình hình chiến tranh khốc liệt, mỗi người phải bay 3 hoặc 4 đêm liên tục mới được nghỉ một đêm. Dù vậy, bổn phận của đoàn viên Tinh Long là mỗi ngày đều phải gọi điện thoại cho Sĩ Quan trực tại phi đoàn; hoặc vào tận nơi để biết mình có tên trong phi vụ lệnh hay không. Phi vụ lệnh được Bộ tham mưu Phi đoàn cắt cử mỗi ngày và có thể được thay đổi theo nhu cầu chiến trường. Phương tiện điện thoại thời gian này cũng rất hiếm hoi. Chỉ có một số ít ở ngoài phố mới sử dụng phương tiện này, còn những người sống trong căn cứ là đợi đến khoảng 4 giờ chiều mang theo mùng mền chiếu gối vào thẳng Phi đoàn. Nếu có tên bay thì ở lại, không có thì vọt về. Tất cả nhân viên có tên trong phi vụ lệnh đều phải có mặt lúc 4:30 chiều để kiểm soát mọi cơ phận trên tàu, chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến bay trong đêm. Theo nguyên tắc, ai có tên bay trong đêm thì phải ngủ tại phi đoàn sau khi kiểm tàu. Bỏ bay hoặc trễ chuyến sẽ lãnh nhận những hình phạt nghiêm trọng. Thế nhưng vẫn có chàng mắt trước mắt sau là biến mất cho tới lúc lên xe ra tàu.