PDA

View Full Version : Trực thăng đáng lẽ trở thành ARVN/Air Cavalry



vinhtruong
08-22-2012, 02:57 PM
Năm 1964, là thời điểm chuẩn bị cho một cuộc leo thang chiến tranh tại Việt Nam với chìa khoá chính là ngụy tạo ra vụ “Tonkin Incident” để mở rộng đường Xa lộ Harriman (đường mòn HCM) cho lính BV vào cưỡng chiếm miền nam. Lúc nầy Secret Society muốn QLVNCH phải có Quân-chủng Lữ đoàn Không Kỵ (Air Cavalry) để cùng Mỹ với sư đoàn Air Cavalry 101 tiêu thụ 5.000 chiếc Hueys, (vì nhu cầu Thiếu tá Nguyễn Huy Ánh sẽ là Lữ đoàn trưởng 1965 đầu tiên) Nhưng việc đó không xảy ra vì ngân quỹ quá tốn kém.

Nếu không có lực lương trực thăng, Pentagon sẽ coi nhẹ về VNAF, một quân chủng nhỏ chỉ cần tiêu xài các chiến cụ thặng dư như T-6, T-28, T-37, T-38 với thời gian huấn luyện và tập oanh kích các mục tiêu là vừa đủ để rơi rụng là vừa, nên không muốn họ phải hy sinh như những phi công ưu tú Không Quân, Hải Quân và Marine Mỹ; vì họ phải giải quyết thanh toán cho hết những món hàng giết người thặng dư còn tồn kho quá nhiều như F-100, RF-101, F-104, F-105, F-4, SkyHaw, Crusader, Corsair, Intruder . ..vào khoảng vài ngàn chiếc và theo dự trù bằng đáp số qua máy tính thì cũng gần 1.000 phi công trở thành POW với cái giá phải tiêu xài cho hết thứ quỷ nầy trong sách lược “Khổ nhục kế”.

Còn trực thăng Hueys không thôi cũng 5.000 chiếc, HK nhứt định không đem về Mỹ nếu có xuống HKMH cũng đẩy xuống biển, dĩ nhiên, đoàn viên Air Cavalry và anh em trực thăng VNAF rán mà chống chọi với thần chết khi phải tiêu xài cho hết 5.000 chiếc. Những phi cơ dành cho anh em khu trục VNAF như T-6, T-28, T-37, T-38 cũng không nhiều lắm, chỉ để vừa đủ luyện tập Take Off and Landing, hoặc ra chiến trận với một số bom đạn khiêm nhường hạn chế cho thực tập và sẽ hư hại sau đó qua huấn luyện, hoặc hành quân là vừa đủ. Riêng các AD-6 phía Hà Nội xin được giảm bớt phân nửa hoả lực vì sự chính xác đem cho họ quá nhiều thiệt hại, kết quả AD-6 chỉ mang theo 6 racks là 6 quả Bom mà thôi hay đình động là tốt nhứt. Thường khi Lê Đức Thọ đòi hỏi điều gì đều được Secret Society thoả thuận ngay vì sợ Thọ không chịu tiếp tục cuộc chiến thì bể kế hoạch Eurasian.

Thật tình nghĩ vậy nhưng không phải vậy, chính cũng là do cá tinh Nguyễn Cao Kỳ bởi W.Colby chọn theo hai tiêu chuẩn của Secret Society dặn dò; trẽ tuổi tính tình hay bốc đồng và dám nói dám làm, hai điều nầy Kỳ đã chứng minh. Vì thế khi tướng Kỳ xin Mỹ cấp cho F-4 Panthom, F-105 Thunderchief, nhưng Old Crocodile (Harriman) thẳng thừng bác bỏ vì tính bốc đồng của Kỳ. Làm sao ngăn cản được Kỳ cho oanh tạc các đê điền, ụ-đập trên sông Hồng Hà? Phi công MIG/21 cần có cơ hội để tập luyện; làm sao có runways nguyên vẹn để Mig cất cánh tập Dog Fight với Mỹ, nhứt là bốn điểm Cargo depot quan trọng như dưới chân đèo Mụ Giạ, Ban Kai và Ban Raving, và Căn cứ-611 để cưỡng chiếm miền nam…chỉ cần một viên đại bác 20 ly là depot nầy sẽ trở thành xác pháo như chơi. Phi công Hoa Kỳ cho là vùng Sam envelopped, nếu lỡ bay ngang bị hoả lực ở dưới ‘thọt lên’ cũng phải bỏ của chạy lấy người không được quyền trả đũa.

Vào chiến dịch Linebacker-1 (mùa Hè đỏ lửa 72) khi Mỹ rải mìn giải toả cho hết loại lỗi thời MK-52 vào tất cả các hải cảng BV để tiêu xài cho hết thứ quỷ nầy, nếu VNAF có F-4, F-105 họ thả vào runways thì làm sao Mỹ vin vào cơ hội thả Mìn nầy mà bí mật để cho vận tải cơ AN-2 của LX đáp xuống thả các vật liệu điện tử, khoa học phòng không cho Hà Nội; Nếu di-chuyển bằng tàu hoả thì Trung Cộng sẽ copy kỹ thuật là cái chắc! Chúng ta cũng thừa khả năng nhìn vị Tư lệnh bốc đồng như thế nào, Kỳ đã thỉnh cầu Mỹ nhưng không được thoả mãn là có lý do?

Như cây cầu Hàm Rồng đã có biết bao nhiêu Phi Cơ bị bắn rơi nơi đó vì chỉ dùng bom nổ thường, mà không được Salvo, mỗi pass chỉ hai trái Bom GP mà thôi, thay vì chỉ cần bắn một trái hỏa tiễn Pul-Pulp vô tuyến điều khiển là xong chiếc cầu. Để rồi không biết bao nhiêu tù binh Mỹ phải bị bắn rơi, trong đó có Đại sứ Peterson tại VN sau nầy (1995) và Thượng Nghị Sĩ John McCain…dĩ nhiên, quí vị nầy được Secret Society hậu tạ xứng đáng.

Để đổi lại, Hoa-kỳ khai thác được phương cách chống hỏa tiễn phòng không, bằng cách xử dụng hệ thống quang-tuyến Sensor phát hiện vật lạ với một tốc độ gia tăng bắn tới Phi-cơ và máy dò-tìm sẽ báo động ngay trong nón bay của Phi Công qua tín hiệu SAM-SAM-SAM… Lúc nghe được tín hiệu, Phi-công chỉ cần nhào lộn hay đổi hướng thật gắt, là hỏa tiễn sẽ bị mất đà và trượt qua một bên.

QUEENBEE-1

vinhtruong
08-23-2012, 04:34 AM
Cánh Thép hồi sinh, có bạn muốn hâm nóng trở lại nên đưa ra một đề tài Cánh-Bằng với Cánh Quạt để so sánh! Mà thật sôi nổi liền tức khắc:
-Bạn Thần Chùy phân bua: “Tại sao giờ này còn phân chia cánh này cánh nọ vậy??
Cánh nào cũng là cánh cả. Chúng ta là một gia đình Không Quân VNCH mà. Hãy dành thời gian còn lại cho mình, cho gia đình và bạn hữu thì sẽ ý nghĩa hơn. Quĩ thời gian của chúng ta đang cạn dần… đấy!
Hãy thoải mái và cùng nhau nâng ly rượu nồng với “cánh gà chiên bơ” rồi mọi việc sẽ ổn …
Chúc mừng cánh bằng, cánh quạt và tất cả mọi loại cánh…”

-Bạn Dung49 tức khí: “NIÊN TRƯỞNG có đầu óc KỲ THỊ giữa FIXED-WING và TRƯCTHĂNG quá đị Cũng may là thời BÂY GIỜ, nếu ở vào thời CHIẾN trước 75, TRỰC THĂNG mà nghe như như thế nầy, thì không bao giờ lên vùng để RESCUE những phi hành đoàn của FIXED-WING đâu nhá”

Người viết thấy ngứa mắt, bèn cho lời giải thích: “Phi công trực thăng có giá trị hơn tất cả”
-Reply, Aug 16, 2012

Quí bạn Không Quân chắc quên tiểu sử gốc của KQ, muốn trở thành phi công trực thăng bạn phải là phi công có cánh rồi mới được tuyển lựa chuyển tiếp qua ngành trực thăng. Phần nhiếu không quân trên thế giới, như Không Quân Hoàng Gia Anh RAF, Không Quân Pháp … cũng vậy muốn trở thành phi công TT bạn phải là phi công có cánh (Stead AFB, Nevada chỉ huấn luyện cho phi công đã có cánh mà thôi). Vì nhu cầu chiến trường chả lẽ lấy hết phi công của VNAF qua trực thăng hết?

Nói có sách mách có chứng: Các phi công có cánh rồi mới được chuyển ngành qua trực thăng như: Tướng Sang, tướng Ánh, Đại tá Hiền, Thiện, Trường, Bá, Hồng, Trung tá Hớn, Thập….

Nước Mỹ làm ra phi cơ phải có khách hàng như Tiệm phở nấu 1000 tô phở phải bán cho hết không thì Bankruptcy, được chia ra nhiều loại tô nhỏ, tô lớn, tô vừa vừa: tô phở loại T (training như T-6, T-28, T-37, T-38) dành cho VNAF, còn tô lớn F (Fighter như F-100, FR-101, F-104, F-105) dành cho USAF, còn tô vừa vừa H (Helicopter như H-13, H-19, H-34, HUI-H) danh cho VNAF

QUEENBEE-1

vinhtruong
08-23-2012, 08:54 PM
Tác giả Trương Văn Vinh

Cuộc phối hợp hành quân giữa Không Kỵ Mỹ/Việt vào mùa Hè đỏ lửa 72, Mỹ gọi là Eastern Offensive, còn BV thì từ hướng tây vùng núi Thung lũng Ashau tiến về phía đồng bằng đông dân.

Giữa tháng May/1972, B.52 và Hải-Pháo đã gây tổn thất hết sức trầm trọng cho 3 Sư-đoàn 304, 308 và 324 của BV, âm mưu tràn xuống Huế đã vỡ mộng; Chúng đành trấn giữ tuyến sông Mỹ-Chánh là ranh-giới cực Nam của Tỉnh Quảng-Trị để tái phối trí và chờ tiếp liệu. Ban tham-mưu Quân-sự của Tướng Haig theo dõi các hoạt động quân sự của hai bên và điều chỉnh phối hợp cách nào đi đúng theo lịch trình và thời gian trong kế hoạch đã thiết lập một cách tỉ-mỉ từ trước.

Gần cuối tháng 6 năm 1972, Tôi, phi tuần trưởng, 4 Trực-thăng võ trang hướng dẫn 100 chiếc UH.1 gốm (60 chiếc của Mỹ và 40 chiếc của VN) Trực thăng-vận Lữ-đoàn-1 Dù xuống điểm cao trên sườn đồi Tây Nam thuộc sông Mỹ-Chánh.

Trong cuộc chiến, sự lầm lẫn về thời tiết cũng như hướng gió có thể gây ra tai nạn thảm khốc; Nhưng cũng may nhờ sự phản ứng mau lẹ của các Phi-hành đoàn Việt-Mỹ nên mọi việc cũng trôi qua êm đẹp. Chúng tôi đang bay từng họp đoàn 4 chiếc hình nấc thang trong vị thế sẵn sàng tác xạ, thì bỗng dưng một màn khói của Không-quân Hoa-kỳ thả xuống để che lấp sự quan sát của địch phía trong núi bên trái chúng tôi, là một rừng súng phòng không đủ loại, nhưng không ngờ họ lại tính trật hướng gió nên chúng tôi bị bao phủ bởi màn khói, gió từ biển thổi vào, nhưng lúc nầy tự nhiên ngưng thổi vào núi.

Tôi ra lệnh cho tất cả đáp đại xuống đất càng sớm càng tốt, và chờ lệnh cất cánh lại, Tôi nghĩ 60 chiếc của Mỹ đi sau chúng tôi 30 giây, họ cũng sẽ đáp xuống như vậy. Cuối cùng, Tôi đáp xuống trên một mảnh đất của vùng đồi trọc, khi cặp càng chiếc Trực Thăng võ trang vừa chạm đất, thì tầm nhìn xa hoàn toàn thu hẹp lại đến nỗi tôi không thấy gì chung quanh ngoài một màu trắng đục dày đặc khác hơn màu trắng thoang thoảng của mây. Tôi chỉ thị “Tất cả nòng súng Mini-gun đều phải sẵn sàng ở vị thế 160 độ để dễ quay chuyển khi cần phải nhả đạn”. Tôi cũng nghĩ rằng 100 chiếc ‘Slicks’ chở LÐ-1 Dù cũng sẽ phải bung ra hai bên để phòng thủ. Nếu chẳng may chúng tôi đang đáp ngay xuống lòng địch (quân lính Bắc Việt) thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đụng-độ với quân Dù và chúng tôi… cuộc chiến sẽ vô cùng tàn khốc… mà tôi cho rằng đây là cuộc tao-ngộ-chiến do định mệnh!

Tuổi trẻ dễ nổi nóng, tôi lầu bầu trong miệng chửi thề loạn xạ một hồi, nhưng có lẽ những Phi công Hoa-kỳ của Lữ đoàn 1 Không-kỵ, cũng xổ ra một tràng tiếng chửi thề như tôi mà mắng nhiếc Không quân Hoa-kỳ “đồ cà chớn cà cháo … thả bức tường khói để giết bạn, chớ không phải bảo vệ bạn…đồ cái thứ đâm sau lưng chiến sĩ, tôi nghĩ đây là ý nghĩ tức tối vì sinh mạng trên 100 trực thăng mà có tư tưởng bất bình”

Vì chúng tôi từng Box 4 chiếc một, lần lượt sẽ đáp trên đồi trọc, nhìn xuống đồng bằng sông Mỹ Chánh, 15 phút sau, tôi nghe chiếc Trực-thăng ‘C&C chỉ huy’ (Command and Control) ra lệnh chuẩn bị cất cánh lại (dù rằng tôi là vị chỉ huy lớn nhất trong cuộc hành quân nầy) đối với không quân VN, nhưng trong phi vụ nầy tôi chỉ là một Phi-công Lead Trực-thăng võ trang bình thường, và phải chịu dưới quyền điều động của C&C (chiếc Trực thăng chỉ huy).

Trong phút chốc, tôi hướng dẫn đoàn Trực-thăng gồm 25 hợp đoàn (Formation) từng 4 chiếc hình nấc thang sẽ đáp xuống cạnh một sườn đồi trọc nằm cạnh nguồn Tây dòng sông Mỹ Chánh. Và 4 chiếc Trực Thăng võ trang chia làm 2 hợp-đoàn xung kích, Hợp đoàn 1 gồm có 2 chiếc, hợp đoàn 2 phải cover cho 1. Tôi có trách nhiệm đánh dấu bãi đáp bằng lựu đạn khói màu vàng và bao trùm vùng tác xạ yểm trợ hoả lực cho 40 chiếc của VN, riêng Trực-thăng võ trang Cobra của Lữ-đoàn 1 Không-kỵ Hoa-kỳ thì lo yểm trợ cho 60 chiếc của Mỹ sẽ đáp sau chúng tôi một phút.

Dưới bãi đáp, cuộn khói màu vàng bốc lên tỏa về hướng núi như mơn-trớn theo những cơn gió thoảng từ biển cả thổi vào. Tôi quay đầu phi-cơ lượn gắt qua phải lên cao độ để tác xạ, tôi không nhìn máy nhắm mà dùng đến kinh nghiệm phản xạ tự nhiên, có phần linh động và nhanh nhẹn hơn…những bụi cây nào còn sót lại, mà nghi ngờ, thì tôi có trách nhiệm phải nhổ sạch hết. Đối với kẻ địch, tôi không thù hận họ, vì họ cũng như tôi, “ăn cây nào, phải rào cây đó” và cả hai miền nam bắc, chúng tôi phải chịu hy sinh cả tuổi thanh xuân của đời mình cho chiến đấu, cũng chỉ vì những danh-lợi chính-trị hẹp hòi của giai cấp lãnh đạo, nỡ làm tay sai cho các thế lực bên ngoài mà quên đi sự đoàn kết dân tộc, và phản bội lại công lao của tiền-nhân đã dày công xây dựng đất nước. Tôi cũng thừa hiểu rằng, người ‘bạn lớn’ của tôi, cũng chỉ vì quyền lợi riêng tư của họ, nên đã bán đứng chúng tôi qua hành động giật sập nền Đệ 1 Cộng Hòa và cố tình giao cho kẻ địch có một chính nghĩa trong tay (theo như tầm nhìn của Thế giới hồi đó). Tôi không có Quê-hương, “Tổ Quốc”, giờ đây tôi chỉ là loại lính “phi -công Lê Dương Mới” Nhưng với hỏa lực trong tay, tôi cương quyết và dứt khoát phải tận diệt kẻ địch để bảo vệ “danh dự” vì là một phi-công của QLVNCH và “trách nhiệm” bảo vệ những cánh chim non, đang lặn hụp dưới bầu trời lửa đạn mà không phải dân Việt Nam sản xuất đúc chúng ra.

Khi đoàn Trực-thăng đầu tiên vừa chạm đất, chúng tôi đã oanh tạc vào những điểm nghi ngờ có quân BV phục kích, những quả Rockets nổ ầm vang sau cái quẹo gắt của chiếc trước và tiếp theo đó 2 Mini-Gun 6 nòng nhả đạn ra như tiếng bò rống…tiếng nổ liên hồi hòa với mùi thuốc súng khét lẹt tỏa ra cả phòng lái, các dây kẽm của rockets bắn vào cổ vào mặt kiếng mát đang xụp xuống, nhưng phải cắn răng lõ con mắt vào mục tiêu… những bụi rậm, cây cối bị tróc gốc nằm ngỗn ngang dưới các cột khói dựng đứng. Chẳng bao lâu tất cả 40 chiếc Trực Thăng của VN đều đáp xuống an-toàn giữa những màn khói của hỏa tiễn hôi thối còn vương vấn chưa tan; Tôi gọi máy FM 42.5 bàn giao lại trách nhiệm cho AH-1G Cobra yểm trợ hỏa lực bãi đáp cho Lữ đoàn-1 Không-kỵ của Hoa-kỳ.

Mỗi chiếc võ trang còn lại 6.000 viên đạn 7 ly 62 để phòng khi hữu sự…Tuần vừa rồi, với cây đại liên 6 nòng nầy (cũng nhờ Đệ 7 Hạm Đội Hoa-Kỳ phát giác 1 chiếc tàu của BV thuộc loại viễn duyên do Trung Quốc chế tạo thuộc Đoàn 759 chuyên trách nhiệm chở quân trang quân cụ cho lính BV vào trong Nam) Chúng tôi đã dùng cây đại Liên 6 nòng nầy mà ‘ria’ xuống 4.000 viên trong 1 phút, với cường độ trực xạ làm thiệt mạng tất cả đoàn viên trên tàu, và con tàu ma cứ như thế mà lủi vào bờ, thuộc Quận Phong Điền Quãng Trị…rồi thì, sau đó đủ loại súng chỉa vào con tàu Ma, kể cả Chiến xa M-48; đặc biệt trên chiếc tàu nầy chở vô số những hộp thịt, do Trung Quốc làm ra có ghi chữ “Thịt Lợn kho”, tất cả đều là chiến lợi phẩm của Lữ-đoàn (hình như LÐ 258 thì phải?) Thủy Quân Lục Chiến VNCH.

Lúc nầy, chúng tôi kè hai bên hông để hộ tống đoàn Trực-thăng Slick về lại hậu cứ, vẫn tốc độ và cách bay khiêu khích, hùng dũng như tự bao giờ. Từ xưa tới nay, tôi thích bay ở độ thật thấp như muốn thách đố kẻ địch, vì với cao độ nầy, khi lâm trận thì tôi cảm thấy tin tưởng về sự quan sát cũng như sự phản xạ nhạy bén hơn của phi hành đoàn, còn như nếu bay hơi cao, thì địch có thể bắn lén mình mà mình không thấy, không biết và nhất là từ năm 1970 cho đến nay quân Bắc Việt có nhiều loại phòng không rất là tối tân như: SA3, SA5, SA7 mà súng Đại Liên phòng không 14 ly 5 là lợi hại nhất. Với cao độ sà thấp nầy không những làm cho đối phương sợ hãi, mà còn vô hiệu hóa với các hỏa tiễn cầm tay của địch, vì chúng chỉ có thể tìm nhiệt vào mục tiêu với điều kiện có đủ cao độ và tốc lực khá nhanh, vì thế với cao độ nầy thì chúng không thể nhủi vào ống thoát hỏa của Trực-thăng được. Đây cũng là kinh nghiệm trong các phi vụ yểm trợ tản thương tại chiến trường Hạ-Lào (Lam sơn 719) mà phi hành đoàn gunship không có ai phải tử thương
Cũng với cao độ nấy, tôi đang nhìn xuống thấy rõ cảnh điêu tàn của làng xã bỏ hoang, có cả hàng trăm, hàng ngàn hố bom, và lỗ đạn đại-bác…đất còn tươi, lớn nhỏ rải rác đó đây, đào xới trên nhiều thửa ruộng của làng mạc, khiến cho tất cả nơi nơi thành hoang phế điêu tàn, những làn khói trắng đục tỏa ra mùi khét lẹt, đang bốc cháy dở dang từ nơi các căn nhà đổ nát do pháo địch tàn phá đêm qua, trên Quốc lộ 1 xe cộ đủ loại nằm ngỗn ngang, lẫn với xác người đang bị sình trướng (mùi xác chết rất quen thuộc đối với lỗ mũi của Phi hành đoàn Trực-thăng chúng tôi). Thì làm sao mà Thế-giới không cho đây là “Đại Lộ Kinh Hoàng”, chứng tỏ tình hình ở đây hiện đang chịu nhiều trận dội pháo, hay nói theo danh từ của BV là “trận địa pháo nặng nề nhất của quân BV” Mùi thây người và súc vật bị cháy khét lẹt như còn bám vào khí quyển quyến-luyến không chịu siêu thoát.

Một nhà Văn và cũng là nhà báo của Pháp, Michel-Tanriac đã lên tiếng tố cáo qua tác phẩm lừng danh “Việt Nam, le dossier noir du Communisme de 1945 à nos jours” (Hồ sơ đen của Cộng Sản từ năm 1945 đến ngày nay) (Plon, Paris 2001, trang 252). Tác giả dành hẳn một chương mục viết về “Đại Lộ Kinh Hoàng” (Boulevard de la terreur-Quãng Trị, năm 1972). Tác giả Tanriac đã là nhân chứng nhìn thấy tận mắt những nấm mồ tập thể “vĩ đại” mà Việt Cộng là những tên giết người có máu lạnh rất chuyên nghiệp (có khoảng 15.000 người chết, và 24.000 người bị thương, sách đã ghi ở trang 221-223). Dì nhiên CSBV sẽ không thể nào chạy tội với lịch-sử!

Chúng tôi đã bay qua khỏi vùng tử địa, dọc theo Quốc lộ 1, hướng về Huế, phía bên phải Quốc lộ, cả hàng trăm lều vải màu trắng của cơ quan Hồng Thập Tự dựng lên san sát theo thứ tự, nơi đây làm chỗ tạm trú cho nhiều ngàn người dân tỵ nạn từ khắp thôn quê chạy về ẩn náu. Sau khi Lử-đoàn-1 Dù đặt chân xuống bờ Tây sông Mỹ Chánh, đường tiến sát điều binh một cách thận trọng về hướng Bắc, trục dọc theo phía Tây Quốc-lộ 1, đẩy lùi quân Bắc Việt về ngược lại, cách Quảng Trị 20 cây số về phía Nam, cùng với các đơn vị Bộ-binh và Sư-đoàn TQLC tiến lên hướng Bắc của Quảng Trị. Sở dĩ quân BV yếu lần sau vài đợt tấn công vũ bão, nhưng bị Quân Lực VNCH tuy ít hơn, nhưng vì một lòng một dạ quyết tâm tái chiếm lại Cổ Thành Đinh Công Tráng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng: chưa bao giờ quân Mỹ lại tận tình giúp tối đa hoả lực cho Quân Lực VNCH như lấn nầy! B.52 và Hải Pháo dứt điểm những loại bom-đạn tồn kho, nặng hằng tấn như con bò bay vào và cũng đã lỗi thời, không còn dùng vào chiến tranh trong tương lai nữa, và đây là dịp duy nhất mà Mỹ cần chỗ để phế thải cho tận-hết …và cũng ngăn chận Hà Nội chiếm Miền Nam chưa phải lúc! Theo đúng lộ đồ mà Secret Society đã thiết kế trong máy tính điện-tữ là khi náo quân Mỹ rút lui vào năm 1973 mới đúng thời điểm decent interval,

Kết cuộc, sau trận mùa hè “Đỏ Lửa” Tướng Võ Nguyên Giáp bị cho đi về vườn, còn tam trùng Phạm Xuân Ẩn tuy mất điểm nhưng sẽ phục hồi sau. Tướng Abrams dù là võ tướng nhưng vô cùng xúc động, nên ông nói: “Cái gì đang xảy ra cho hằng loạt người chết vô ích”. Cuộc họp của Tổng Hội Thánh Tin Lành tại Atlanta, tất cả các Đại Biểu đều lên án Hoa-Kỳ là đã gây ra tội ác chống nhân loại. Thiệt hại giữa 2 miền, Miền Nam có 8.000 người chết, còn số thương binh thì gấp 3 lần, mất tích gần 3.500 người, đào ngũ hơn 40.000 người. Còn Miền Bắc có 40.000 người chết, và 100.000 người bị thương, và tổn thất hơn phân nửa số chiến xa và pháo hạng nặng, vì thế Tướng Giáp buộc phải từ nhiệm.

Hãy nghe hồi ký của H.R. Haldeman, vào ngày 1/5/1972 rằng: “Cả hai ông Nixon và Henry Kissinger, bình thản không quan tâm việc gì xảy ra, chiến tranh sẽ chấm dứt vào tháng 8/1972 và cũng đến lúc hai bên đều đã kiệt quê, ngoài bắc lính già chết hết. Quân của Miền Bắc thiệt hại rất nhiều so với quân của Miền Nam”. Như vậy chúng ta cũng cảm nhận rằng: mục tiêu của họ đã đúng hạn kỳ phải chấm dứt một thời điểm cho nhiều giai đoạn khác nhau, giai đoạn từ sự ngụy-tạo vụ tàu Maddox (1964) đến cuộc họp giữa Mao và Nixon (1972) “8 năm máu lửa!!!”. Thời gian nầy nhóm tham mưu của Harriman qua lý thuyết gia George Kennan không muốn kéo dài hơn thời gian của Pháp (1945-1954).

QUEENBEE-1