PDA

View Full Version : Ý nghĩa ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6



Longhai
06-02-2012, 12:16 AM
Ý nghĩa ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6


Phạm Phong Dinh

Ngày 20 tháng 7 năm 1954 đánh dấu ngày Quốc Hận thứ nhất của dân tộc Việt Nam, sau khi Cộng Sản Bắc Việt cùng với thực dân Pháp ký kết Hiệp định Genève chia đôi đất nước, lấy vĩ tuyến thứ 17 chạy ngang con sông Bến Hải làm ranh giới Bắc Nam. Ðó cũng là ngày đánh dấu cuộc di cư từ bỏ chế độ Cộng Sản lần thứ nhất của người Việt với gần một triệu dân miền Bắc gồng gánh bồng bế nhau tìm đủ mọi cách để được đáp tàu vào vùng đất miền Nam tự do, nơi đó nước Việt Nam Cộng Hòa non trẻ đang chập chững những bước đầu tiên trong cộng đồng chính trị thế giới.

Giữa bối cảnh một nửa đất nước oằn oại rên xiết trong gông cùm Cộng Sản, trong bóng đêm của dối trá và tội ác, một nửa nước còn lại vừa phải đối phó với quân Cộng Sản còn nằm mai phục trong các chiến khu cũ thời Pháp và đương đầu với những vấn đề ổn định nội bộ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, danh xưng lúc đó là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, tiếp nhận di sản nghèo nàn và lạc hậu do phía quân đội Pháp hồi hương bàn giao lại, đảm nhận trọng trách nặng nề bảo quốc an dân.

Ngày 1.7.1955, Bộ Tổng Tham Mưu của Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam chính thức hình thành, đánh dấu ngày khai sinh một quân lực non trẻ mà đã dám chiến đấu chống lại cả một đại khối Cộng Sản Quốc Tế hung hãn tràn xuống từ phương Bắc. Tên tội đồ dân tộc, kẻ giết hàng triệu người mà miệng vẫn cười Hồ Chí Minh, một cán bộ cao cấp của Cộng Sản Quốc Tế, cúi đầu làm tay sai nhận vũ khí và thực hiện sách lược “Dùng người Việt giết người Việt” của quan thầy Nga Xô và Trung Cộng, vơ vét thanh thiếu niên miền Bắc đẩy vào miền Nam, dùng bọn thổ phỉ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực hiện sách lược “Dùng người miền Nam giết người miền Nam” tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình.

Dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm của nền Ðệ Nhất Cộng Hòa, khi ông chính thức làm tổng thống sau cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23.10.1955, Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam được cải danh thành Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa, với xác quyết quân đội sẽ được phát triển và tối tân hóa thành một đạo quân mạnh để đập tan bất cứ một cuộc xâm lược nào từ phương Bắc. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong suốt lịch sử 20 năm chiến đấu bảo vệ tổ quốc, tuy có những lúc thăng trầm nghiêng ngửa, có những lúc thiệt hại nặng nề, nhưng những người chiến binh dũng cảm Việt Nam Cộng Hòa vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, không chấp nhận chế độ Cộng Sản, quyết đánh cho đến hơi thở và giọt máu cuối cùng.

Từ ngày 1.11.1963, sau khi một nhóm tướng lãnh đảo chánh lật đổ, sát hại Tổng Thống Diệm, đất nước và quân đội Việt Nam Cộng Hòa bị suy yếu trầm trọng vì tình trạng chỉnh lý tranh giành quyền lực liên miên giữa các tướng lãnh. Cộng Sản Bắc Việt nương cơ hội này lăm le tràn xuống đánh dứt điểm miền Nam. Hồi tưởng lại hoàn cảnh đất nước thật đen tối trước ngày 19.6.1965, vận mệnh của nước Việt Nam Cộng Hòa như sợi chỉ mỏng manh treo nghìn cân trước làn sóng xâm nhập đã bắt đầu ồ ạt với hàng trăm ngàn quân chính qui Bắc Việt đã có mặt ở miền Nam.

Về chính trị, tình hình đầy xáo trộn và bất ổn. Những cuộc xuống đường dưới sự khích động của những phần tử Cộng Sản nằm vùng và trà trộn liên miên xảy ra, mà hậu quả hiển nhiên và tức thì là sự rối loạn, khẩn trương của xã hội, dân chúng lúc nào cũng lo âu trước thời cuộc hỗn độn. Cộng Sản nhân đó gia tăng những hoạt động tuyên truyền, phá hoại, lũng đoạn hàng ngũ những người Quốc Gia. Ở nông thôn thì Việt Cộng gia tăng khủng bố dân chúng, bắt cóc, thủ tiêu và ám sát dã man những viên chức xã ấp tận tụy với chính nghĩa quốc gia, thậm chí những người dân vô tội dù chỉ tỏ chút ngần ngừ hay biểu lộ thái độ không hợp tác, ủng hộ, là đã có thể bị Việt Cộng tuyên án tử hình và hạ sát. Bầu không khí sợ hãi, chết chóc bao trùm khắp miền nông thôn, nhất là ở những vùng xa xôi hẻo lánh mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chưa thể thiết lập nền an ninh vững chắc.

Về mặt quân sự, lợi dụng lúc giao thời, chính phủ dân sự Việt Nam Cộng Hòa không có khả năng tập họp được sức mạnh của quân đội, Cộng Sản liên tục cho binh đội xâm nhập miền Nam, chuyển dạng thái chiến tranh xâm lược từ du kích chiến sang vận động chiến, mở những trận đánh lớn để thử thách sức mạnh và ý chí chiến đấu của quân dân Việt Nam Cộng Hòa, điển hình là những trận đánh Bình Giả và Ðồng Xoài cuối năm 1964 và giữa năm 1965. Trong bối cảnh chính tình nhiễu nhương, quân đội không được lãnh đạo và chỉ huy thích đáng, đã đưa đến thiệt hại rất nặng cho quân ta trong hai trận đánh này, mà chỉ trông cậy vào trái tim nồng nàn tình đất nước tình đồng bào và chính thân xác của các anh, người chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mới có thể cắn răng ngăn chống được cơn sóng dữ Cộng Sản đã mấp mé gần ngưỡng cửa Sài Gòn.

Về mặt kinh tế, vì chiến tranh tàn phá, đất đai bị bỏ hoang, do đó mức sản xuất sút kém, đời sống dân chúng lệ thuộc vào ngoại viện. Một đất nước từng xuất cảng gạo mà phải nuốt nước mắt nhận những hạt gạo gọi là viện trợ của nước ngoài. Trong khi đó Cộng Sản luôn tìm cơ hội cắt đứt đường tiếp tế giữa nông thôn và thành thị, làm cho mức sinh hoạt của xã hội ngày càng đắt đỏ và rất khó kiểm soát, gian thương lộng hành trắng trợn. Người dân ở thành thị khốn khổ vì nạn vật giá gia tăng hàng ngày bao nhiêu, thì người dân ở nông thôn càng oằn nặng dưới sự khủng bố và bóc lột ghê rợn của Cộng Sản bấy nhiêu. Ðóng góp nuôi quân, thuế khóa nặng nề, dân công, sưu địch, con em bị bắt buộc cầm súng trong vùng Cộng Sản kiểm soát đã là nguyên nhân thúc đẩy đồng bào liều chết bỏ chạy ra vùng quốc gia để được quân đội bảo vệ và chính quyền giúp đỡ.

Hoàn cảnh bi đát của Việt Nam Cộng Hòa trước ngày 19.6.1965 là như vậy. Ðất nước đã bước đến mấp mé bên bờ vực thẳm, chỉ một bước nữa thôi, quân dân Miền Nam rất có thể sẽ nằm dưới sự thống trị của Cộng Sản Hà Nội. Nhưng... những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ cho phép điều đó xảy ra. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, một tập thể duy nhất có tổ chức chặt chẽ và tinh thần kỷ luật cao, không thể chần chờ trước cơn quốc biến, nên đã đứng ra nhận chịu trên vai trách nhiệm nặng nề cứu nguy đất nước và dân tộc.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, tổng thư ký Hội Ðồng Quân Lực đọc bản tuyên cáo giải tán Hội Ðồng Quân Lực ngày 6.5.965 sau 5 tháng hoạt động, trao trả quyền hành pháp cho chính phủ dân sự của Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ Tướng Phan Huy Quát.

Cho đến gần giữa năm 1965, Hội Ðồng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã loại bỏ được những thế lực phân chia sức mạnh quân đội, cùng chia sẻ trách nhiệm lãnh đạo và điều hành guồng máy quốc gia. Ðể tỏ rõ thiện chí và quyết tâm kiến tạo nền dân chủ cho Miền Nam, ngày 5.5.1965, Hội Ðồng Quân Lực đã quyết định trao quyền lãnh đạo đất nước lại cho chính phủ dân sự, cụ Phan Khắc Sửu được mời làm Quốc Trưởng, Bác Sĩ Phan Huy Quát làm thủ tướng. Nhưng cũng chỉ hơn một tháng sau, ngày 11.6.1965, chính phủ dân sự do cụ Phan Khắc Sửu làm Quốc Trưởng nhận định rằng tình hình đất nước đã đến lúc lâm nguy nếu người quốc gia không mạnh mẽ hành động và tìm ra một con đường tức thời nào đó.

Con đường đó, sau những cân nhắc, chính là sức mạnh của Quân Ðội. Chính phủ Phan Khắc Sửu quyết định trao trả quyền lãnh đạo đất nước lại cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bằng tuyên cáo chính thức như sau:

Tuyên cáo
của Quốc Trưởng
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp Và
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa

Sau khi duyệt lại tình trạng ngày càng một khẩn trương của đất nước, sau khi đã xét lại và xác nhận rằng: những cơ cấu và thể chế Quốc Gia hiện tại không còn phù hợp với tình thế, sau khi đã hội ý cùng toàn thể Tướng lãnh Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa tại Phủ Thủ Tướng ngày 11.6.1965, chúng tôi, Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp, Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa đồng thanh quyết định long trọng trao trả lại cho Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo quốc gia đã được Hội Ðồng Quân Lực ủy thác cho chúng tôi chiếu theo Quyết Ðịnh số 8 ngày 5.5.1965, Tuyên Cáo số 7 ngày 5.5.1965, Quyết Ðịnh số 5 ngày 16.2.1965, Quyết Ðịnh số 6 ngày 17.2.1965 và Quyết Ðịnh số 4 ngày 16.2.1965.

Yêu cầu toàn thể đồng bào các giới không phân biệt giai tầng địa phương, đảng phái và tôn giáo, ủng hộ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong việc lãnh đạo toàn Quân và toàn Dân đúng theo tinh thần của Cách Mạng 1-11-1963.

Làm tại Sài Gòn, ngày 11.6.1965

Phan Khắc Sửu
Quốc Trưởng Việt Nam Cộng Hòa

Phan Huy Quát
Thủ Tướng Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa

Phạm Xuân Chiểu
Chủ Tịch Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp


Ngày 12.6.1965, trong một buổi họp quy tụ tất cả những Tướng lãnh đang nắm những trọng trách trong Quân Ðội từ cấp Tổng Tham Mưu Trưởng, Tư Lệnh bốn Vùng Chiến Thuật cho đến các Tư Lệnh Quân Binh Chủng, Hội Ðồng Quân Lực đã đề cử Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (tương đương Tổng Thống), Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảm nhận chức vụ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (tương đương Thủ Tướng), thông qua quyết định như sau:

Quyết định
Thành lập Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

- Sau khi nghiên cứu Bản Tuyên Cáo Chung của Quốc Trưởng, Hội Ðồng Quốc Gia Lập Pháp và Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 11.6.1965 trao chả trách nhiệm và quyền hành lãnh đạo Quốc Gia cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

- Chiếu biên bản Ðại Hội Ðồng các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ngày 12.6.1965.

Các Tướng Lãnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, Tư Lệnh các Vùng Chiến Thuật và Quân Binh Chủng đã quyết định:

Quyết Ðịnh:

Ðiều 1 - Thành lập một ủy ban lãnh đạo của Quân Lực mệnh danh là Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia.

Ðiều 2 - Thành phần của Ủy Ban nói trên gồm có: một Chủ Tịch, một Tổng Thơ Ký, một Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp, Tổng Trưởng Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu Trưởng, các Tư Lệnh Vùng Chiến Thuật, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Ðô.

Ðiều 3 - Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia thay mặt toàn thể Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa điều khiển Quốc Gia.

Ðiều 4 - Hoàn toàn tín nhiệm và chỉ định:


A- Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu.

B- Tổng Thư Ký: Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu.

C- Ủy Viên phụ trách điều khiển Hành Pháp: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.

Ðiều 5 - Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia có nhiệm vụ thiết lập thể chế và các cơ cấu Quốc Gia cùng thành lập một Nội Các Chiến Tranh.

Sài Gòn, ngày 14 tháng 6 năm 1965

Toàn thể các Tướng Lãnh và Tư Lệnh Quân Binh Chủng

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Hội Ðồng Quân Lực ra mắt quốc dân và Quân đội ngày 19-6-1965.

Ðó là ngày đánh dấu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đứng lên gánh vác trách nhiệm lớn: bảo vệ nền tự do độc lập của Việt Nam Cộng Hòa, làm tiền đồn ngăn chống làn sóng Cộng Sản và xây dựng một đất nước lạc hậu nghèo khó vì chiến tranh triền miên với mục đích tiến lên thành một quốc gia phú cường, ngẩng cao đầu sánh vai với cộng đồng thế giới.

Ngày 19-6-1965, thành phần Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một buổi lễ ra mắt được tổ chức long trọng ở Thủ Ðô Sài Gòn, đã tuyên thệ trung thành với Tổ Quốc, nhận trách nhiệm lèo lái quốc gia và làm thành phần tiền phương của quân dân Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bảo vệ đất nước.

Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ lãnh đạo Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, để thích ứng với tình hình nghiêm trọng của đất nước, ông thành lập một nội các được mệnh danh là Nội Các Chiến Tranh, với thành phần nhân sự như sau:

- Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ.

- Tổng Ủy Viên Ngoại Giao: Bác sĩ Trần Văn Ðỗ.

- Tổng Ủy Viên Tư Pháp: Luật sư Lữ Văn Vi.

- Tổng Ủy Viên Chiến Tranh kiêm Ủy Viên Quốc Phòng: Thiếu Tướng Nguyễn Hữu Có.

- Tổng Ủy Viên Kinh Tế Tài Chánh kiêm Ủy Viên Kinh Tế: Kỹ sư Trương Thái Tôn.

- Tổng Ủy Viên Văn Hóa Xã Hội kiêm Ủy Viên Giáo Dục: Bác sĩ Trần Ngọc Ninh.

- Ủy Viên Tâm Lý Chiến: Luật sư Ðinh Trịnh Chính.

- Ủy Viên Xây Dựng Nông Thôn: Ông Nguyễn Tất Ứng.

- Ủy Viên Nội vụ: Ông Trần Minh Tiết.

- Ủy Viên Thanh Niên: Y sĩ Trung Tá Nguyễn Tấn Hồng.

- Ủy Viên Tài Chánh: Giáo sư Trần Văn Kiện.

- Ủy Viên Canh Nông: Kỹ sư Lâm Văn Trí.

- Ủy Viên Giao Thông Công Chánh: Kỹ sư Ngô Trọng Anh.

- Ủy Viên Y Tế: Bác sĩ Nguyễn Bá Khả.

- Ủy Viên Xã Hội: Luật sư Trần Ngọc Liễng.

- Ủy Viên Lao Ðộng: Ông Nguyễn Xuân Phong.

Công việc của Hội Ðồng Quân Lực thật bề bộn trong bối cảnh một đất nước Cộng Hòa non trẻ đầy biến động sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, tiềm lực kinh tế và quân sự vẫn chưa được phục hồi đủ mạnh để có thể đương đầu hữu hiệu với làn sóng xâm lăng của Cộng Sản. Bản Hiến Pháp của nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa không còn được công nhận, Ðại Hội Ðồng Quân Lực đã công bố một bản Ước Pháp tạm thời thay thế Hiến Pháp Ðệ Nhứt Cộng Hòa trong thời gian chờ đợi bầu cử Quốc Hội mới, rồi từ đó hình thành Hiến Pháp mới.

Nguyên văn Lời Nói Ðầu của Bản Ước Pháp Việt Nam Cộng Hòa như sau:

Trong cơn nguy biến, vì quyền sống của Dân Tộc, vì uy danh của Tổ Quốc, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã can đảm lãnh trách nhiệm trước quốc dân và lịch sử.

Ðể hoàn thành sứ mạng, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không lấy mỵ dân làm phương châm mà lấy an dân làm chánh sách.

Quốc dân Việt Nam, trải bao hy sinh, vẫn hoài bão một tổ quốc hùng cường trong thanh bình và tự do.

Nhiệm vụ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là thực hiện cho bằng được hoài bão tha thiết ấy, dù phải trả bất cứ giá nào. Muốn vậy, muôn người như một phải thống nhất ý chí và hành động, dốc mọi nỗ lực cho tiền tuyến, đẩy lui và tiêu diệt xâm lược Cộng Sản. Muốn vậy, hậu phương phải ổn định để dần dần kiến tạo cơ sở vững bền cho một truyền thống dân chủ tự do có điều kiện nảy nở trong cách mạng và trong chiến đấu.

Ðã hơn bốn mươi năm trôi qua rồi mà những lời hịch chính khí này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nếu có một ngày một nước Việt Nam mới không Cộng Sản được hình thành, dân tộc Việt Nam tích cực góp công kiến thiết đất nước, nỗ lực xây dựng nền dân chủ, tự do, nhân quyền, bảo quốc, an dân, thì đó cũng chính là con đường mà dân tộc Việt Nam đã vạch ra từ nền tảng của những Hiến Pháp của hai nền Cộng Hòa.

Người Cộng Sản cho rằng người Việt Quốc gia Hải ngoại nuối tiếc và vẫn còn nuôi mộng phục sinh một nước Việt Nam Cộng Hòa. Sự thực thì, cái tên Việt Nam Cộng Hòa chỉ là danh xưng của một lãnh thổ và dân tộc theo đuổi một lý tưởng, mai sau này dù Việt Nam không Cộng Sản có mang một danh xưng nào khác, muốn hay không, người ta vẫn thấy thấp thoáng hình ảnh chân chính của nước Việt Nam Cộng Hòa trong đó, với tất cả những nền tảng căn bản hình thành một quốc gia độc lập, tự do, nhân bản, văn hiến, đạo đức, khai phóng, cộng hòa, dân chủ, hùng cường và thịnh vượng

Từ thời điểm đó, ngày 19-6 được đánh dấu như là một cái mốc lịch sử, một chương mới của cuộc chiến đấu chống đại khối Cộng Sản Quốc Tế của quân dân Miền Nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng hòa là thành phần gồng gánh trách nhiệm lãnh đạo đất nước, ở hậu phương thì xây dựng nền độc lập, tự do và dân chủ, bình định những mầm mống nằm vùng bạo loạn, ở tiền tuyến thì chỉ huy quân đội ngăn chống cơn sóng xâm lăng cuồng sát của đạo quân hiếu chiến Cộng Sản Bắc Việt. Danh xưng Quân Ðội Việt Nam Cộng Hòa từ nền Ðệ Nhất Cộng Hòa được nâng lên một nấc cao hơn nữa với cái tên đầy kiêu hãnh và hùng mạnh: Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Ngày 19-6-1966, một cuộc diễn binh hùng hậu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được tổ chức tại Sài Gòn, đánh dấu Ðệ Nhất Chu Niên ngày Quân Ðội đứng lên nhận lãnh trách nhiệm lèo lái đất nước. Những năm về sau, cứ đến ngày 19-6, anh hùng, hào kiệt, anh thư và chiến sĩ bốn phương quy tụ về thủ đô, hiên ngang hào hùng đi dưới rừng Cờ Vàng Ðại Nghĩa và Quân Kỳ trong tiếng nhạc thúc giục rộn rã.

Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sau khi đắc cử tổng thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa trong tháng 11.1967 vẫn tiếp tục cho tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm hàng năm ngày Quân Lực 19-6 với những cuộc diễn binh của tất cả các đơn vị và quân binh chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để biểu dương sức mạnh và ý chí quật khởi của dân tộc Việt Nam chống xâm lược Cộng Sản từ phương Bắc.

Với sự trợ giúp của các nước Ðồng Minh, trong đó phần đóng góp chính yếu đến từ Hoa Kỳ từ sau năm 1954, QLVNCH đã dần lớn mạnh, không những đủ khả năng chận đứng đà xâm lăng cuồng bạo của binh đội Cộng Sản Bắc Việt, mà còn đánh cho bọn chúng tan tành thành từng mảnh vụn trong những chiến thắng lừng danh thế giới như Mậu Thân 1968, chiến dịch hành quân sang Kampuchea đập nát những hang ổ kho tàng tiếp liệu Cộng quân năm 1970. Trong cuộc hành quân sang Hạ Lào, chiến dịch Lam Sơn 719, mặc dù bị báo chí và truyền thông Hoa Kỳ cũng như nằm vùng Cộng Sản tiết lộ bí mật, QLVNCH ngay từ đầu đã ở trong thế hạ phong nhưng vẫn đánh thiệt hại rất nặng lực lượng Cộng quân.

Chiến thắng lừng lẫy nhất mà đã làm cho toàn thế giới phải cúi đầu ngưỡng phục, kể cả giới truyền thông báo chí phản chiến và thân Cộng cũng phải xấu hổ gục đầu công nhận tính chất xâm lược rõ ràng của Cộng Sản Hà Nội và tinh thần chiến đấu dũng mãnh của QLVNCH. Ðó là cuộc chiến Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. QLVNCH đã để lại trong lịch sử Việt Nam trang sử chiến đấu chói lọi nhất, thiêu cháy huyền thoại Ðiện Biên Phủ Võ Nguyên Giáp. Sau cơn thảm bại Mùa Hè 1972 nhục nhã, Giáp bị cách chức.

QLVNCH chiến đấu trong nỗi cô đơn cay cực mà chưa từng có một đội quân nào trên thế giới đã trải qua hoàn cảnh ngặt nghèo tương tự. Vừa phải đổ máu xương ngăn chống Cộng Sản ở phía trước mặt mà còn phải hứng chịu những vết đâm lút sâu của những thế lực bạn bè từ phía sau lưng. Người lính Việt Nam Cộng Hòa bị trói tay không cho đánh, mặc dù chỉ chiến đấu để tự vệ và bảo vệ làng xóm của các anh. Chính họ đã hy sinh mạng sống để cho dân tộc được sống và được hạnh phúc.

Sự dàn xếp của những thế lực Cộng Sản Quốc Tế và tư bản đã đưa đến ngày tang thương 30-4-1975. QLVNCH một lần nữa bị buộc phải hoàn toàn buông súng. Bọn Cộng Sản tiểu nhân đắc chí ngổ ngáo tiến vào chiếm lấy Việt Nam Cộng Hòa, ngông nghênh tuyên bố đại thắng, thực hiện sách lược sỉ nhục lăng mạ và đày ải những người chiến binh QLVNCH và vợ con gia đình của họ. Nhưng thật sự có phải cộng sản Bắc Việt đã chiến thắng hay không?

Sau hơn một phần tư thế kỷ kể từ ngày 30-4-1975, giờ đây mọi góc cạnh của sự thật đã được phơi bày dưới ánh sáng của mặt trời. Chúng ta khẳng định mạnh mẽ QLVNCH không hề thua và Cộng Sản không hề thắng trong trận chiến đấu cuối cùng ngày 30.4.1975. Sự thắng thua chỉ được phân định khi hai lực lượng cùng đối mặt chiến đấu giữa hai chiến tuyến. Hai võ sĩ so găng trên võ đài, một võ sĩ bị trói tay chân và với sự đồng tình của ban trọng tài đã bị võ sĩ kia đánh đập rồi tự đưa tay tuyên bố chiến thắng và tha hồ lăng mạ sỉ nhục đối phương. Cuộc thắng thua còn chưa được phân định khi viên đạn cuối cùng còn chưa được bắn ra khỏi nòng súng.

Giờ đây, sau gần ba mươi năm chứng kiến những tội ác ghê tởm hãi hùng của Cộng Sản Hà Nội bủa lên đầu chính dân tộc của chúng, công luận thế giới đã khẳng định chế độ Cộng Sản là một cái quái thai kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại và cần phải hủy diệt nó. Ngọn gió đã đổi chiều thuận lợi cho QLVNCH. Cuối cùng thì những giá trị nhân bản thực sự của người lính Việt Nam Cộng Hòa đã được thế giới thừa nhận và tôn vinh. Những nắm xương khô đang mục rã theo với thời gian nghiệt ngã của 300 ngàn tử sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nằm câm nín u uất dưới những nghĩa trang hoang phế điêu tàn, hay ở những chống rừng sâu núi thẳm, cùng với nửa triệu chiến sĩ thương phế mà phần lớn còn sống lây lất và khắc khoải bên kia bờ Thái Bình Dương, tất cả những người anh hùng vĩ đại đó giờ đây đã được tôn vinh.

Ðiều mà những người còn sống, những người còn lành lặn thân xác phải làm là sẽ cùng nhau tìm cách cắm lên bia mộ các anh những nén hương của lòng tri ân với những giọt nước mắt tiếc thương, cùng nhau gởi về cho các anh thương phế chút lòng của những người đồng đội mà ngày xưa từng kiêu hãnh đứng chung dưới lá Quân Kỳ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để các anh còn tiếp tục nuôi dưỡng một niềm tin. Rồi sẽ có một ngày, cơn thịnh nộ của đất trời và của toàn dân tộc Việt Nam sẽ như con sóng thần biển Ðông cuốn xô đi những tàn tích của cái ác.

Chúng ta cũng nghiêng mình trước Bức Tường Ðá Ðen ở Washington D.C, tri ân hơn 58,000 chiến sĩ Hoa Kỳ trận vong, những người bạn đã từng sát cánh chia sẻ nỗi cơ cực và chết chóc của chiến tranh với người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, vì nền tự do của đất nước Việt Nam Cộng Hòa. Chúng ta tri ân và vinh danh 300.000 chiến binh thương phế Hoa Kỳ đã bỏ lại một phần thân thể của các anh trên một đất nước thật quá xa xôi để trở về nhận chịu sự thờ ơ lãnh đạm của chính người dân Mỹ, cùng mang mễn những chứng bệnh tinh thần trầm kha.

Giờ đây thì anh linh của tất cả những người lính trận vong Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể đi về phía cõi vĩnh hằng với lòng thanh thản, những chiến sĩ thương binh Hoa Kỳ và Việt Nam đã có thể thể ngẩng cao đầu cười nửa miệng trên những đống gạch đổ nát ngổn ngang của bức tường thành Bá Linh và những mảnh vụn của cái quái thai chủ nghĩa Cộng Sản. Chính là các anh, người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và người lính Quân Lực Hoa Kỳ đã là nỗ lực chánh hủy diệt cái ác mệnh danh là chủ nghĩa Cộng Sản đó. Chúng ta có thể xác quyết một điều là, ngày nào mà người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn tập họp, đoàn kết đứng chung dưới lá Quốc Kỳ và Quân Kỳ Việt Nam Cộng Hòa, thì ngày đó Cộng Sản Hà Nội còn rất run sợ, ngày ăn không thấy ngon, đêm ngủ không được yên.

Chúng phải hiểu một điều đơn giản nhưng rất thật là, cho dù chúng có nặn cái bộ óc “trí tuệ” của loài Vượn đến thế nào để cho ra bao nhiêu cái nghị quyết nhắm vào người Việt hải ngoại và Tập Thể người lính QLVNCH, thì cũng sẽ hoàn toàn không ăn được cái giải gì, giống như những cú đánh mất hút vào cõi hư vô. Chúng chỉ thắng được chúng ta ngày 30.4.1975, khi chúng ta bị buộc phải buông súng mà thôi. Ba mươi năm trước, Cộng Sản Hà Nội cậy có súng AK để đánh đập, hạ nhục, giết tróc những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn vũ khí trong những trại tù khắc nghiệt và dã man của chúng. Ngày nay, ba mươi năm sau, tuy rằng trong tay người lính chúng ta không còn cây súng M16, nhưng chúng ta có rất nhiều sức mạnh khác mà cộng sản Hà Nội hằng run sợ:

- Thứ nhất, sự phẫn nộ của người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Hàng trăm ngàn người lính đã ra được đến bến bờ tự do, dù họ không còn vũ khí, nhưng mỗi trái tim bất khuất của các anh chính là thứ vũ khí sắc bén nhất và hữu hiệu nhất, những trái tim đó đã kết nên thành một bức tường cứng rắn. Ba mươi năm nay, Cộng Sản đã hằng bắn phá vào bức tường ấy, chỉ để thấy rằng chúng đã một lần nữa chiến bại. Tập Thể Người Lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn luôn là lực lượng duy nhất đối kháng và ngăn chống cực lực mọi cuộc tấn công của cộng sản, dù là bằng bất cứ hình thức nào.

- Thứ hai, cuộc chiến đấu bằng cây viết của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Cộng sản từng tuyên án: “Một nhà văn ‘ngụy’ bằng mười sư đoàn tác chiến”. Ngày nay, cây viết của những người lính đã trở thành cây súng M16 bắn những giọt mực ngạo nghễ và thách thức vào mặt Cộng Sản Hà Nội, ngòi bút xé toang bức màn đen tối của giả dối và tàn bạo để đưa ra trước công luận thế giới và lịch sử sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược của Cộng Sản Quốc Tế lên Miền Nam và cuộc chiến đấu bảo quốc kiệt liệt của quân dân Miền Nam.

- Thứ ba, chiến thắng vẻ vang chấn động cả thế giới của người Việt hải ngoại qua sự kiện vừa kỳ lạ lẫn kỳ diệu: Lá Quốc Kỳ Vàng Ðại Nghĩa Ba Sọc Ðỏ hiện nay đã phất phới, ngạo nghễ tung bay ở 4 tiểu bang, 3 quận hạt, 55 thành phố và trong nhiều trường đại học khắp nước Mỹ. Ðó há chẳng phải là một dấu hiệu, một sự thừa nhận chân thành của người Mỹ, rằng chỉ có Lá Cờ Vàng Việt Nam mới là biểu tượng của chính khí dân tộc Việt Nam, là biểu trưng của cuộc chiến đấu quật cường của một dân tộc nhỏ bé chỉ có gần 18 triệu người mà đã anh dũng ngăn chống một đại khối Cộng Sản Quốc Tế với dân số hơn 1 tỉ người. Không chỉ ở Hoa Kỳ, mà gần như trên toàn thế giới, Lá Quốc Kỳ Vàng Ba Sọc Ðỏ của Việt Nam Cộng Hòa vẫn hằng năm tung bay trên cột cờ thị chính của những thành phố lớn trong ngày 30-4. Ðó há chẳng phải là sự ghê tởm và chối bỏ chủ thuyết Cộng Sản và lá cờ máu tanh hôi của bè bọn Cộng Sản Hà Nội của lương tâm thế giới hay sao.

Ngày Quân Lực 19-6 năm nay có nhiều ý nghĩa quan trọng. Nó đánh dấu sự bắt đầu hồi sinh của QLVNCH và của niềm tin chính nghĩa Quốc Gia qua cuộc đọ sức gay go giữa cái Thiện và cái Ác. Ngày tàn của bọn Cộng Sản Hà Nội không còn bao xa nữa. Bên trong cái vỏ bọc hào nhoáng phù du hiện tại mà bọn Cộng Sản tô vẽ ở quê nhà, chỉ là một cái ruột rỗng tuếch mục nát chờ giờ sụp đổ. Với sự tập họp của những người lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, được thể hiện qua sự đoàn kết cao độ trong Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại, kết hợp với những phong trào đấu tranh đòi quyền sống, quyền làm người và quyền tự do tín ngưỡng ngày càng sôi sục ở quốc ngoại và quốc nội, dân tộc Việt Nam có quyền hy vọng sẽ có nhiều chiến thắng khác liên tục và lừng lẫy hơn, để cuối cùng lật đổ được bạo quyền Hà Nội.

Anh linh của tiền nhân, của những vị thần tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn, Trung Tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long, các trung đoàn trưởng, tiểu đoàn trưởng, sĩ quan và các chiến sĩ Vị Quốc Vong Thân xin hãy hiển linh thương xót phù trì cho dân tộc Việt Nam và QLVNCH có được nhiều sức mạnh đứng lên giải thể bạo quyền Cộng Sản, đem ánh sáng công chính và hạnh phúc trở lại trên khắp mọi miền đất nước, ném bọn chúng vào cõi sâu thẳm tối tăm nhất và đời đời của địa ngục.

Phạm Phong Dinh

maituan
06-02-2012, 11:01 AM
Cám ơn bài viết của Phạm Phong Dinh, rất đầy đủ và sâu sắc, giúp cho thế hệ sau biết rõ về cha ông mình, nhưng tôi nhớ không lầm thì cuộc trưng cầu dân ý là ngày 26-10-1955 phải không, ở phần đầu bài viết ghi 23-10?

khongquan2
06-03-2012, 06:37 PM
Cám ơn bài viết của Phạm Phong Dinh, rất đầy đủ và sâu sắc, giúp cho thế hệ sau biết rõ về cha ông mình, nhưng tôi nhớ không lầm thì cuộc trưng cầu dân ý là ngày 26-10-1955 phải không, ở phần đầu bài viết ghi 23-10?

Sau Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, Ngô Đình Diệm lên nắm quyền và truất phế quốc trưởng Bảo Đại. Việt Nam Cộng hòa được thành lập trên cơ sở Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn và ngày 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc Khánh của Đệ Nhất Cộng Hòa.

Source: "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia"