caonguyen569
12-13-2011, 03:46 PM
NHỮNG MẢNH ĐỜI Ở LẠI
…Sau 30/4/1975 , cùng chung hoàn cảnh với các binh chủng khác , các chiến sỉ VNAF của QLVNCH còn kẹt lại trong nước lần lượt bước vào những ngày đen tối nhất . Ở hai tầng giai cấp, từ SQ đến HSQ-BS có những hoàn cảnh trái ngược nhau. Nếu như SQ “cực trước” ( tù đày) rồi thanh thản sau ( Ra đi diện HO) thì HSQ-BS chỉ có một vài tháng đến vài ngày “cải tạo” ..nhưng sau đó là những ngày vất vả triền miên
Tôi muốn kể lại với bạn một vài mảnh đời bất hạnh của những người còn ở lại .
1.NGƯỜI BẠN KHỔ
( Tặng Tô Thủy PĐ 239)
…Sáng 30 Tết, bổng dưng hắn xuất hiện lù lù trước nhà tôi với chiếc túi vải không còn lành lặn gì cho lắm. Vẫn giọng cười hề hề như lúc nào, cũng không kịp cho tôi chào hỏi hắn kể liền một mạch :-
-Tao lang thang ra ngả ba Huế ..thằng xe thả rũ đi Sài gòn một trăm nghìn...tao nói mi chờ tao 30 phút được không ..nó nói ừ thì nhanh lên. Tao vù về nhà dặn mấy đứa con đi lấy tiền bánh ..mùng 4 Ba về ..rồi tao vô tới đây..Ui cha, xe vào rộng thênh thang, tao mặc sức mà ngủ..Xe Huế mà, nó chạy nhanh để còn quay lui..
Tới đó hắn mới tạm dừng .Tôi bắt lời:
-Ừ thì vào đón giao thừa và ăn Tết với vợ chồng tao ..Tụi tao không con cái có mi cũng vui.
Vậy là buổi cơm cúng rước ông bà của gia đình tôi trưa 30 năm ấy có thêm người khách vốn là bạn cùng đơn vị cũ:-Tô Thủy.
Chúng tôi cùng vào lính KQ năm 1969. Ở Trung đội 2 chỉ có hắn là người Huế nên cứ nghe nhắc đến tên Tô Thủy thì đứa nào cũng nhớ mặc dù khóa học có đến gần 400 thằng . Thủy nằm cách tôi một giường, danh số cũng gần kề , cùng số đo thước tấc nên lúc nào hai chúng tôi cũng là những thằng đếm số cuối cùng mỗi lúc đại đội tập họp.Cái giọng nằng nặng của hắn mà hét to mấy chử “ đủ,hết” thì cả đại đội phải bò ra cười.
Nhờ vậy mà đứa nào cũng nhớ đến hắn.
Còn khi gặp nhau nói chuyện thì cứ “mi và tau”.
Trong buổi cơm trưa, vợ tôi mới hỏi thăm đến gia đình, vợ con hắn lúc nầy ra sao. Bởi từ sau năm 75 đến 90 chúng tôi mới gặp lại nhau nhân dịp vợ chồng tôi đi Đà Nẳng thăm người anh họ mất . Lúc đó, hắn mới cưới vợ được hai năm và vừa có đứa con đầu lòng.Vợ hắn còn khá trẻ, không đẹp nhưng cũng khá nhanh nhẹn và cởi mở.
Tô Thủy có vẽ buồn buồn .Im lặng một chút hắn mới trả lời:
-Vợ tau vô trong ni được hơn hai măm rồi.
-Ủa, vậy anh có cho chi biết là anh vào chưa..hai ông bà đi hết còn con gởi cho ai ?
Tôi tiếp lời vợ:
-Mà mi được mấy đứa con rồi ?
-Tao năm đứa ..lúc vợ chồng mi ra Đà Nẳng là có con đầu lòng , chừ đứa nhỏ nhất của tao đang đi học lớp 1 ..đứa lớn phải nghĩ ở nhà phụ tao làm bánh bán .
Bổng dưng không khí bửa cơm cuối năm lại chùng xuống. Tôi lan man đoán trước hình như đã có chuyện gì đó không vui xảy ra với với gia dình ông bạn Huế nầy.
Lúc gặp lại lần đầu vào năm 1990 tại Đà Nẳng , Thủy khề khà kể tôi nghe về thời gian hắn đi thanh niên xung phong. Hắn nới:-Mi biết không, giải phóng xong vài tháng là tao đăng ký đi ngay vì ở nhà đâu có yên thân mi..du kích nó kêu điểm danh tới lui hoài. Tau đi KQ 6 năm, làm thanh niên xung phong cũng 6 năm..Kết quả là tao lấy được con vợ chừ..trẻ hơn tau 11 tuổi. Lúc đầu nó kêu tau bằng chú ngọt xớt . Tau làm đội trưởng , nó là đội viên của tau.
-À mi còn nhớ cái slick của hai cha Phát và Luật rớt ở núi Sơn Gà không? Đội tau phụ trách trồng rừng ở khu vực đó. Khoá mình có thằng Việt mập, mầy nhớ tụi bộ binh TĐ 51 cứu về nó còn mang theo cây AK47 nói là cướp được cũa VC chạy thoát. May mà có cây AK để tụi hắn nói điêu, nếu không mỗi đứa cũng phải lảnh cả chục củ. Tụi hắn đi săn bị chém đứt “ tail rotor “ rới xuống suối. Tau đi qua, đi lại nhiểu lần thấy cái cánh quạt đuôi còn đâu, hai các skid thì bẹt lét ..Cũng hên chạy được vào khu vực của TĐ 51 nên nó báo về Sư đoàn cho rước về..Mi coi tay chân tau nì..sáu năm ăn uông cực khồ lắm mi ơi. Đôi lúc tau nghỉ giá mà có được bịch gạo xấy với hộp ba lát ăn với đọt chùm bao là ngon biết bao nhiêu.
Rồi sau lần đó đến giờ cũng đã hơn 15 năm.
Tô Thủy của tôi đã như một ông già bảy mươi.
Nhưng cái giọng ồn ồn nói hoài không dứt vẫn như cũ:
-Mi biết không, từ lúc có đứa con thứ ba là vợ chồng tau hết sức khó khăn rồi. Ba tau thì già, ôn đâu giúp gì được ngoại trừ thỉnh thoảng trông chừng dùm mấy đứa nhỏ vài buổi. Con vợ tau lại dở, không biết làm gì hơn là nấu cơm, trông con. Cực quá tau xin đi làm công nhân cho tiệm chèo quảy bánh tiêu, làm được một năm biết được chút nghề tau quyết định ra riêng, mượn vốn của bà con được vài trăm nghìn mua bột, mua dầu chiên bánh. Mà đâu phải dể làm mi, hồi làm công, thằng chủ nó nhồi bột đâu có cho mình nhìn. Mấy ngày đầu ra chiên bánh bán, mấy vợ chồng con cái tau ăn bánh trừ cơm vì bánh chay ngắt, đâu có nổi..
Thấy tôi yên lặng ngồi nghe, Tô Thủy dừng một lúc, hớp một ngụm nước rồi lại tiếp:
-Nhưng rồi trời cũng thương mấy đứa con, tau cũng biết cách nhồi bột cho nổi, cái nghề nầy là phải thức suốt đêm chiên bánh để hừng sáng là chở đi giao mối. Còn bao nhiêu để vợ tau bán lẻ . Mà bửa nào mưa là gia đình tau lại ăn bánh trừ cơm.
Đến lúc vợ chồng Tô Thủy có đứa con thứ năm , xét thấy gia đình hắn quá nghèo, lại có gốc thanh niên xung phong nên Phường tạm cấp cho vợ chồng hắn một khoảng đất gần 10 mét vuông canh đường rầy xe lửa đối diện chợ Cồn làm nơi tá túc. Nhìn thì nhà chẳng ra nhà, mà chòi cũng không phải chòi. Thủy nói với tôi :-Kệ có chổ cho vợ con tau chui vô chui ra núp mưa là được rồi.
Sau buổi cơm trưa ba mươi, tôi kéo Thủy ra sân ngồi uống trà, tôi muốn hỏi kỷ hơn về vợ hắn tại sao lại vào Sài Gòn. Thủy như không muốn nhắc đến, chỉ trả lời tôi một cách ậm ừ:
-Con vợ tau bị vở nợ, tụi tau bàn tính với nhau là chỉ còn cách vợ tau phải đi Sài Gòn lánh mặt một thời gian, tau ở lại ráng làm lần hồi trả nợ cho người ta ..
-Mà mi có biết vụ vợ mi làm hụi không ?
-Thì nó nói kiếm tiền đấp đổi nuôi con mà. Không ngờ lần hồi nợ đến cả trăm triệu !
-Rồi vào đây có liên lạc về thăm con không ?
-Năm đầu nó có điện về , Tết con gái lớn tau cũng có vào thăm. Nhưng hơn một năm nay vợ tau bặt tin luôn.
Tôi thở dài:
-Vậy mi có địa chỉ của vợ không ?
-Không mi ơi, mới đầu nghe nói nó vào ở với bà O được một thời gian rồi không biết đi mô !.
Thấy Tô Thủy buồn, tôi không tiện hỏi thêm.
Chiều đó hắn hỏi mượn vợ tôi chiếc xe đạp nói là đi loanh quanh xem Tết Sài Gòn.Tôi còn dặn đi tối về ăn cơm rồi đón giao thừa với vợ chồng tôi.Hắn gật đầu lửng thửng dẩn xe ra cửa.Vợ tôi nói nhỏ bên tai tôi:
_Nhìn anh Thủy sao thấy khổ quá.!
Và suốt đêm ba mươi vợ chồng tôi chờ mãi không thấy Thủy về. Cho đến cả sáng ngày mùng một. Vợ chồng tôi cứ phân vân lo lắng không biết bạn mình có bị gì không, hư xe hay lạc đường ?
Rồi lại chiều.mùng một. Đúng 24 tiếng đồng sau hắn mới xuất hiện trở lại trước cửa nhà tôi. lẳng lặng đem cất xe , vào nhà tìm nước uống .Tôi đon đả:
-Mi đi mô từ hôm qua chừ ? tụi tao chờ mãi ..mà đã ăn uống gì chưa?
-Tao uống nước thôi ..chút ăn cơm luôn. Tối qua tau đạp xe đi nhiều đường phố lắm ..kiếm xem có gặp con vợ tau không ..Tau nghe nói có người gặp nó đẩy xe đi bán cơm ở Bến xe Miền Đông ..nhưng tau chạy loanh quanh mãi chẳng thấy.
-Rồi giao thừa mi ở đâu mà không về nhà?
-Tau về tới cầu Khánh Hội, tấp vô xe nước mía ngồi coi pháo bông đón giao thừa , nằm ngủ chút, sáng sớm tao lại đạp xe đi tìm ..nhưng thành phố mênh mông quá ..thấy chi mô! Vả lại tau sợ đầu năm xông đất nhà mi, gặp cái thân tau như ri là xui cả năm.
-Trời..nhà tao không có cái vụ kiêng cử đó đâu.
Buổi cơm chiều mồng một, nhìn thấy thân hình tiều tụy của người bạn, tôi bổng thấy xót xa làm sao!
Rồi Tô Thủy lại tiếp tục mượn xe đạp vợ tôi đi suốt thêm hai ngày mùng 2 và 3.
Chiều mùng 4 Tết , khi đưa Tô Thủy ra ga Sài Gòn về Đà Nẳng , Thủy mới nói thật với tôi :
-Công an khu vực đòi cắt hộ khẩu vợ tau, nó kêu tau phải đi tìm vợ tau về. Mà mấy đứa con tau cũng nhớ mẹ nên nhắc hoài tau chịu không nồi. Mấy ngày nay tau đi tìm mà bóng chim tăm cá thôi. Mi có đi đâu thử để ý xem có gặp vợ tau không hỉ !
Tàu từ từ rời ga, mang theo bạn tôi, một người cha đau khổ vào đón Xuân ở Sài gòn trở về với với tấm lòng trĩu nặng ..
Hai năm sau ngày Tô Thủy vào Sài Gòn tìm vợ, tôi nhận được thêm một tin không vui đến với người bạn mình :-nhà Tô Thủy bị giải tỏa trắng. Nghe nói anh bạn tôi ôm cặp giấy tờ lui tới chính quyền nhiều lần nhưng cũng không đâu vào đâu.
Người vợ trẻ của Tô Thủy vẫn biệt tăm và ngôi “nhà không ra nhà” ở khu chợ Cồn cũng bị cuốn theo cơn trốt cuộc đời.
Tô Thủy bị tâm thần suốt cả năm trời sau đó../.
2. THẰNG NGỤY GÁC CẦU
( Tặng Dũng Cao PĐ 235)
Gọi là cao nhưng Dũng không cao, mà là Dũng Cao bởi họ Cao.Khi ra trường Dũng Cao nhận đơn vị 235 Pleiku.Mùa hè đỏ lửa 72 Dũng Cao bị đạn phòng không 37 ly địch bắn cụt mất một chân, hiện đang sống khó khăn tại một xã nghèo xa xôi ở Huyện Tháp Mười,Tỉnh Đồng Tháp.
Một tuần sau khi tiếp quản chính quyền các nơi, anh em SQ,HSQ,BS ngụy lần lượt được gọi ra trình diện để đi học tập cải tạo. BS thì học 3 ngày, HSQ thì tùy địa phương, có nơi 7 ngày, có nơi hai tuần, cũng có nơi gần một tháng. Còn SQ thì được lệnh mang quần áo và bốn ngày lương khô .
Dũng Cao về quê ở Cái Bè. Theo lệnh đi học một tuần , sáng sớm thức dậy cà thọt ra Ủy ban quân quản xã trình diện. Điểm danh xong là xếp hàng vô Đình ngồi học . Đình làng không rộng lắm, bàn của giảng viên được đặt trên “võ ca”, học viên là lính ngụy ngồi thành hàng ngay bên dưới ngóng mỏ lên nghe giảng giống như thời xưa xem hát bội. Mổi em một cuốn tập, một cây viết ghi ghi, chép chép. Học hai tiếng thì nghỉ một lần10ph. Học viên ngồi nghỉ tại chổ không được ra ngoài. Tứ phía có du kích cầm súng AK canh chừng.
Lớp học im phăng phắc không một tiếng động , chỉ nghe mỗi cái giọng :’ cái mà, cái mà, hà..thì ..là ..” của giảng viên , giảng hoài không biết đường ra!
Thầy giáo thì cũng có ba ông, một ông chức sắc của xã , một ông được giới thiệu là ở huyện xuống , còn một ông trẻ nhất mang lon thiếu úy là Bộ đội miền tăng cường.
Ông bộ đội miền có vẻ là người có học thức nhất. Lại là người Bắc nên ăn nói khá lưu loát. Ông triển khai vể “Âm mưu thâm độc của tên sen đầm quốc tế”, thú thật lần đầu tiên D nghe nói đến từ “Sen đầm”, không hiểu nổi là gì! Nhưng mà nhớ, thầy nói sao phải ghi vậy và làm “bảng thu hoạch” phải đúng như vậy, nếu không thì khoan về, ở lại học tiếp .
Đến phần phân tích về những âm mưu thâm độc cũa đế quốc Mỹ, cán bộ nhấn mạnh :” -việc Mỹ cơ giới hóa nông nghiệp, đưa vào miền Nam hàng loạt máy cày, máy bơm nước làm triệt tiêu sức lao động của nhân dân ta. Công nhân mất việc làm, Trâu, bò không được ra đồng , dẩn đến thất nghiệp, phải bỏ ra thành thị mưu sinh và đi lính làm tay sai cho Mỹ-Ngụy.”
Đoạn nầy là đoạn mà các học viên cải tạo lùng bùng lổ tay nhất. Hầu hết những thằng nguỵ ngồi đó đều đã học xong lớp 11, có nhiều thằng cũng có Tú Tài 1, Tú tài 2. Nhưng đâu có dám hó hé gì. Rồi kết thúc khóa học là đứa nào cũng làm bảng thu hoạch y nhau. Y như lời cán bộ giảng.
Xong phần học lý thuyết là đến phần lao động. Hàng ngày ai cũng phải tập trung để đi làm lao động công ích. Vét kênh, đắp đường, Sáng xách gà mên đi, chiều tối về. Có khi phải đi bộ đến hàng chục cây số. Vốn quen mang giày đinh , chân cẳng trắng phau, giờ phải lội bộ trên đôi chân trần , nhiều lúc muốn rơi nước mắt.
D thì may mắn hơn, bởi chỉ còn một chân, được mấy anh du kích cho phép ở lại tại chổ làm nhân viên gác cầu.
Thời 75 mới giải phóng , xe cộ đi lại trên quốc lộ 4 không nhiều, nhưng do chiếc cầu MT khá hẹp, lại bị mìn nổ sập mất một bên nên xe qua lại chỉ được một chiều. D được giao nhiệm vụ “điều phối” cho xe qua lại .
Ngồi tòng teng trên chiếc chuồng cu giửa cầu, cứ ngóng hết bên nầy tới bên kia. Có khi chiều nầy xe đông quá chưa kịp lật bảng trắng thì đã nghe mấy thằng “ lơ cơm “ chửi đổng “:- Đm ngủ gục hả? “. Nghe hỏng vô nhưng mà cũng cắn răng chịu trận
Tuy có nghe chửi, bị nắng ăn, nhưng D thấy sướng hơn mọi người nhiều .
Nhưng rồi thằng ngụy gác cầu từ sáng tới chiều chẳng ai buồn hỏi han, mấy anh du kích trong ban quản trại hình như cũng quên tuốt cái thằng cụt chân được phân công ngồi đó. Thậm chí mắc tiểu muốn chạy đi cũng sợ thằng du kích nó la. Đành cắn răng bắt chứơc “K M Th” nữ sỉ.( Dân biểu nín tè)
Rồi chiều xuống hồi nào không hay. Cái đoạn sông MT sao mà nhiều Cuốc vậy. Đường thì vắng, xe đã thưa. Con Cuốc kêu chiều nghe buồn da diết.
Đoàn “cải tạo” vét xong con kênh đã được cho tản hàng về nhà từ hồi nào .
Thằng ngụy gác cầu thì vẫn ngồi đó cầm tấm bảng mà lật qua lật lại.
Đến khi bụng đói meo, phải len lén cà thọt về nhà .
Để sáng sớm mai còn phải đi trình diện./.
CAO NGUYÊN
…Sau 30/4/1975 , cùng chung hoàn cảnh với các binh chủng khác , các chiến sỉ VNAF của QLVNCH còn kẹt lại trong nước lần lượt bước vào những ngày đen tối nhất . Ở hai tầng giai cấp, từ SQ đến HSQ-BS có những hoàn cảnh trái ngược nhau. Nếu như SQ “cực trước” ( tù đày) rồi thanh thản sau ( Ra đi diện HO) thì HSQ-BS chỉ có một vài tháng đến vài ngày “cải tạo” ..nhưng sau đó là những ngày vất vả triền miên
Tôi muốn kể lại với bạn một vài mảnh đời bất hạnh của những người còn ở lại .
1.NGƯỜI BẠN KHỔ
( Tặng Tô Thủy PĐ 239)
…Sáng 30 Tết, bổng dưng hắn xuất hiện lù lù trước nhà tôi với chiếc túi vải không còn lành lặn gì cho lắm. Vẫn giọng cười hề hề như lúc nào, cũng không kịp cho tôi chào hỏi hắn kể liền một mạch :-
-Tao lang thang ra ngả ba Huế ..thằng xe thả rũ đi Sài gòn một trăm nghìn...tao nói mi chờ tao 30 phút được không ..nó nói ừ thì nhanh lên. Tao vù về nhà dặn mấy đứa con đi lấy tiền bánh ..mùng 4 Ba về ..rồi tao vô tới đây..Ui cha, xe vào rộng thênh thang, tao mặc sức mà ngủ..Xe Huế mà, nó chạy nhanh để còn quay lui..
Tới đó hắn mới tạm dừng .Tôi bắt lời:
-Ừ thì vào đón giao thừa và ăn Tết với vợ chồng tao ..Tụi tao không con cái có mi cũng vui.
Vậy là buổi cơm cúng rước ông bà của gia đình tôi trưa 30 năm ấy có thêm người khách vốn là bạn cùng đơn vị cũ:-Tô Thủy.
Chúng tôi cùng vào lính KQ năm 1969. Ở Trung đội 2 chỉ có hắn là người Huế nên cứ nghe nhắc đến tên Tô Thủy thì đứa nào cũng nhớ mặc dù khóa học có đến gần 400 thằng . Thủy nằm cách tôi một giường, danh số cũng gần kề , cùng số đo thước tấc nên lúc nào hai chúng tôi cũng là những thằng đếm số cuối cùng mỗi lúc đại đội tập họp.Cái giọng nằng nặng của hắn mà hét to mấy chử “ đủ,hết” thì cả đại đội phải bò ra cười.
Nhờ vậy mà đứa nào cũng nhớ đến hắn.
Còn khi gặp nhau nói chuyện thì cứ “mi và tau”.
Trong buổi cơm trưa, vợ tôi mới hỏi thăm đến gia đình, vợ con hắn lúc nầy ra sao. Bởi từ sau năm 75 đến 90 chúng tôi mới gặp lại nhau nhân dịp vợ chồng tôi đi Đà Nẳng thăm người anh họ mất . Lúc đó, hắn mới cưới vợ được hai năm và vừa có đứa con đầu lòng.Vợ hắn còn khá trẻ, không đẹp nhưng cũng khá nhanh nhẹn và cởi mở.
Tô Thủy có vẽ buồn buồn .Im lặng một chút hắn mới trả lời:
-Vợ tau vô trong ni được hơn hai măm rồi.
-Ủa, vậy anh có cho chi biết là anh vào chưa..hai ông bà đi hết còn con gởi cho ai ?
Tôi tiếp lời vợ:
-Mà mi được mấy đứa con rồi ?
-Tao năm đứa ..lúc vợ chồng mi ra Đà Nẳng là có con đầu lòng , chừ đứa nhỏ nhất của tao đang đi học lớp 1 ..đứa lớn phải nghĩ ở nhà phụ tao làm bánh bán .
Bổng dưng không khí bửa cơm cuối năm lại chùng xuống. Tôi lan man đoán trước hình như đã có chuyện gì đó không vui xảy ra với với gia dình ông bạn Huế nầy.
Lúc gặp lại lần đầu vào năm 1990 tại Đà Nẳng , Thủy khề khà kể tôi nghe về thời gian hắn đi thanh niên xung phong. Hắn nới:-Mi biết không, giải phóng xong vài tháng là tao đăng ký đi ngay vì ở nhà đâu có yên thân mi..du kích nó kêu điểm danh tới lui hoài. Tau đi KQ 6 năm, làm thanh niên xung phong cũng 6 năm..Kết quả là tao lấy được con vợ chừ..trẻ hơn tau 11 tuổi. Lúc đầu nó kêu tau bằng chú ngọt xớt . Tau làm đội trưởng , nó là đội viên của tau.
-À mi còn nhớ cái slick của hai cha Phát và Luật rớt ở núi Sơn Gà không? Đội tau phụ trách trồng rừng ở khu vực đó. Khoá mình có thằng Việt mập, mầy nhớ tụi bộ binh TĐ 51 cứu về nó còn mang theo cây AK47 nói là cướp được cũa VC chạy thoát. May mà có cây AK để tụi hắn nói điêu, nếu không mỗi đứa cũng phải lảnh cả chục củ. Tụi hắn đi săn bị chém đứt “ tail rotor “ rới xuống suối. Tau đi qua, đi lại nhiểu lần thấy cái cánh quạt đuôi còn đâu, hai các skid thì bẹt lét ..Cũng hên chạy được vào khu vực của TĐ 51 nên nó báo về Sư đoàn cho rước về..Mi coi tay chân tau nì..sáu năm ăn uông cực khồ lắm mi ơi. Đôi lúc tau nghỉ giá mà có được bịch gạo xấy với hộp ba lát ăn với đọt chùm bao là ngon biết bao nhiêu.
Rồi sau lần đó đến giờ cũng đã hơn 15 năm.
Tô Thủy của tôi đã như một ông già bảy mươi.
Nhưng cái giọng ồn ồn nói hoài không dứt vẫn như cũ:
-Mi biết không, từ lúc có đứa con thứ ba là vợ chồng tau hết sức khó khăn rồi. Ba tau thì già, ôn đâu giúp gì được ngoại trừ thỉnh thoảng trông chừng dùm mấy đứa nhỏ vài buổi. Con vợ tau lại dở, không biết làm gì hơn là nấu cơm, trông con. Cực quá tau xin đi làm công nhân cho tiệm chèo quảy bánh tiêu, làm được một năm biết được chút nghề tau quyết định ra riêng, mượn vốn của bà con được vài trăm nghìn mua bột, mua dầu chiên bánh. Mà đâu phải dể làm mi, hồi làm công, thằng chủ nó nhồi bột đâu có cho mình nhìn. Mấy ngày đầu ra chiên bánh bán, mấy vợ chồng con cái tau ăn bánh trừ cơm vì bánh chay ngắt, đâu có nổi..
Thấy tôi yên lặng ngồi nghe, Tô Thủy dừng một lúc, hớp một ngụm nước rồi lại tiếp:
-Nhưng rồi trời cũng thương mấy đứa con, tau cũng biết cách nhồi bột cho nổi, cái nghề nầy là phải thức suốt đêm chiên bánh để hừng sáng là chở đi giao mối. Còn bao nhiêu để vợ tau bán lẻ . Mà bửa nào mưa là gia đình tau lại ăn bánh trừ cơm.
Đến lúc vợ chồng Tô Thủy có đứa con thứ năm , xét thấy gia đình hắn quá nghèo, lại có gốc thanh niên xung phong nên Phường tạm cấp cho vợ chồng hắn một khoảng đất gần 10 mét vuông canh đường rầy xe lửa đối diện chợ Cồn làm nơi tá túc. Nhìn thì nhà chẳng ra nhà, mà chòi cũng không phải chòi. Thủy nói với tôi :-Kệ có chổ cho vợ con tau chui vô chui ra núp mưa là được rồi.
Sau buổi cơm trưa ba mươi, tôi kéo Thủy ra sân ngồi uống trà, tôi muốn hỏi kỷ hơn về vợ hắn tại sao lại vào Sài Gòn. Thủy như không muốn nhắc đến, chỉ trả lời tôi một cách ậm ừ:
-Con vợ tau bị vở nợ, tụi tau bàn tính với nhau là chỉ còn cách vợ tau phải đi Sài Gòn lánh mặt một thời gian, tau ở lại ráng làm lần hồi trả nợ cho người ta ..
-Mà mi có biết vụ vợ mi làm hụi không ?
-Thì nó nói kiếm tiền đấp đổi nuôi con mà. Không ngờ lần hồi nợ đến cả trăm triệu !
-Rồi vào đây có liên lạc về thăm con không ?
-Năm đầu nó có điện về , Tết con gái lớn tau cũng có vào thăm. Nhưng hơn một năm nay vợ tau bặt tin luôn.
Tôi thở dài:
-Vậy mi có địa chỉ của vợ không ?
-Không mi ơi, mới đầu nghe nói nó vào ở với bà O được một thời gian rồi không biết đi mô !.
Thấy Tô Thủy buồn, tôi không tiện hỏi thêm.
Chiều đó hắn hỏi mượn vợ tôi chiếc xe đạp nói là đi loanh quanh xem Tết Sài Gòn.Tôi còn dặn đi tối về ăn cơm rồi đón giao thừa với vợ chồng tôi.Hắn gật đầu lửng thửng dẩn xe ra cửa.Vợ tôi nói nhỏ bên tai tôi:
_Nhìn anh Thủy sao thấy khổ quá.!
Và suốt đêm ba mươi vợ chồng tôi chờ mãi không thấy Thủy về. Cho đến cả sáng ngày mùng một. Vợ chồng tôi cứ phân vân lo lắng không biết bạn mình có bị gì không, hư xe hay lạc đường ?
Rồi lại chiều.mùng một. Đúng 24 tiếng đồng sau hắn mới xuất hiện trở lại trước cửa nhà tôi. lẳng lặng đem cất xe , vào nhà tìm nước uống .Tôi đon đả:
-Mi đi mô từ hôm qua chừ ? tụi tao chờ mãi ..mà đã ăn uống gì chưa?
-Tao uống nước thôi ..chút ăn cơm luôn. Tối qua tau đạp xe đi nhiều đường phố lắm ..kiếm xem có gặp con vợ tau không ..Tau nghe nói có người gặp nó đẩy xe đi bán cơm ở Bến xe Miền Đông ..nhưng tau chạy loanh quanh mãi chẳng thấy.
-Rồi giao thừa mi ở đâu mà không về nhà?
-Tau về tới cầu Khánh Hội, tấp vô xe nước mía ngồi coi pháo bông đón giao thừa , nằm ngủ chút, sáng sớm tao lại đạp xe đi tìm ..nhưng thành phố mênh mông quá ..thấy chi mô! Vả lại tau sợ đầu năm xông đất nhà mi, gặp cái thân tau như ri là xui cả năm.
-Trời..nhà tao không có cái vụ kiêng cử đó đâu.
Buổi cơm chiều mồng một, nhìn thấy thân hình tiều tụy của người bạn, tôi bổng thấy xót xa làm sao!
Rồi Tô Thủy lại tiếp tục mượn xe đạp vợ tôi đi suốt thêm hai ngày mùng 2 và 3.
Chiều mùng 4 Tết , khi đưa Tô Thủy ra ga Sài Gòn về Đà Nẳng , Thủy mới nói thật với tôi :
-Công an khu vực đòi cắt hộ khẩu vợ tau, nó kêu tau phải đi tìm vợ tau về. Mà mấy đứa con tau cũng nhớ mẹ nên nhắc hoài tau chịu không nồi. Mấy ngày nay tau đi tìm mà bóng chim tăm cá thôi. Mi có đi đâu thử để ý xem có gặp vợ tau không hỉ !
Tàu từ từ rời ga, mang theo bạn tôi, một người cha đau khổ vào đón Xuân ở Sài gòn trở về với với tấm lòng trĩu nặng ..
Hai năm sau ngày Tô Thủy vào Sài Gòn tìm vợ, tôi nhận được thêm một tin không vui đến với người bạn mình :-nhà Tô Thủy bị giải tỏa trắng. Nghe nói anh bạn tôi ôm cặp giấy tờ lui tới chính quyền nhiều lần nhưng cũng không đâu vào đâu.
Người vợ trẻ của Tô Thủy vẫn biệt tăm và ngôi “nhà không ra nhà” ở khu chợ Cồn cũng bị cuốn theo cơn trốt cuộc đời.
Tô Thủy bị tâm thần suốt cả năm trời sau đó../.
2. THẰNG NGỤY GÁC CẦU
( Tặng Dũng Cao PĐ 235)
Gọi là cao nhưng Dũng không cao, mà là Dũng Cao bởi họ Cao.Khi ra trường Dũng Cao nhận đơn vị 235 Pleiku.Mùa hè đỏ lửa 72 Dũng Cao bị đạn phòng không 37 ly địch bắn cụt mất một chân, hiện đang sống khó khăn tại một xã nghèo xa xôi ở Huyện Tháp Mười,Tỉnh Đồng Tháp.
Một tuần sau khi tiếp quản chính quyền các nơi, anh em SQ,HSQ,BS ngụy lần lượt được gọi ra trình diện để đi học tập cải tạo. BS thì học 3 ngày, HSQ thì tùy địa phương, có nơi 7 ngày, có nơi hai tuần, cũng có nơi gần một tháng. Còn SQ thì được lệnh mang quần áo và bốn ngày lương khô .
Dũng Cao về quê ở Cái Bè. Theo lệnh đi học một tuần , sáng sớm thức dậy cà thọt ra Ủy ban quân quản xã trình diện. Điểm danh xong là xếp hàng vô Đình ngồi học . Đình làng không rộng lắm, bàn của giảng viên được đặt trên “võ ca”, học viên là lính ngụy ngồi thành hàng ngay bên dưới ngóng mỏ lên nghe giảng giống như thời xưa xem hát bội. Mổi em một cuốn tập, một cây viết ghi ghi, chép chép. Học hai tiếng thì nghỉ một lần10ph. Học viên ngồi nghỉ tại chổ không được ra ngoài. Tứ phía có du kích cầm súng AK canh chừng.
Lớp học im phăng phắc không một tiếng động , chỉ nghe mỗi cái giọng :’ cái mà, cái mà, hà..thì ..là ..” của giảng viên , giảng hoài không biết đường ra!
Thầy giáo thì cũng có ba ông, một ông chức sắc của xã , một ông được giới thiệu là ở huyện xuống , còn một ông trẻ nhất mang lon thiếu úy là Bộ đội miền tăng cường.
Ông bộ đội miền có vẻ là người có học thức nhất. Lại là người Bắc nên ăn nói khá lưu loát. Ông triển khai vể “Âm mưu thâm độc của tên sen đầm quốc tế”, thú thật lần đầu tiên D nghe nói đến từ “Sen đầm”, không hiểu nổi là gì! Nhưng mà nhớ, thầy nói sao phải ghi vậy và làm “bảng thu hoạch” phải đúng như vậy, nếu không thì khoan về, ở lại học tiếp .
Đến phần phân tích về những âm mưu thâm độc cũa đế quốc Mỹ, cán bộ nhấn mạnh :” -việc Mỹ cơ giới hóa nông nghiệp, đưa vào miền Nam hàng loạt máy cày, máy bơm nước làm triệt tiêu sức lao động của nhân dân ta. Công nhân mất việc làm, Trâu, bò không được ra đồng , dẩn đến thất nghiệp, phải bỏ ra thành thị mưu sinh và đi lính làm tay sai cho Mỹ-Ngụy.”
Đoạn nầy là đoạn mà các học viên cải tạo lùng bùng lổ tay nhất. Hầu hết những thằng nguỵ ngồi đó đều đã học xong lớp 11, có nhiều thằng cũng có Tú Tài 1, Tú tài 2. Nhưng đâu có dám hó hé gì. Rồi kết thúc khóa học là đứa nào cũng làm bảng thu hoạch y nhau. Y như lời cán bộ giảng.
Xong phần học lý thuyết là đến phần lao động. Hàng ngày ai cũng phải tập trung để đi làm lao động công ích. Vét kênh, đắp đường, Sáng xách gà mên đi, chiều tối về. Có khi phải đi bộ đến hàng chục cây số. Vốn quen mang giày đinh , chân cẳng trắng phau, giờ phải lội bộ trên đôi chân trần , nhiều lúc muốn rơi nước mắt.
D thì may mắn hơn, bởi chỉ còn một chân, được mấy anh du kích cho phép ở lại tại chổ làm nhân viên gác cầu.
Thời 75 mới giải phóng , xe cộ đi lại trên quốc lộ 4 không nhiều, nhưng do chiếc cầu MT khá hẹp, lại bị mìn nổ sập mất một bên nên xe qua lại chỉ được một chiều. D được giao nhiệm vụ “điều phối” cho xe qua lại .
Ngồi tòng teng trên chiếc chuồng cu giửa cầu, cứ ngóng hết bên nầy tới bên kia. Có khi chiều nầy xe đông quá chưa kịp lật bảng trắng thì đã nghe mấy thằng “ lơ cơm “ chửi đổng “:- Đm ngủ gục hả? “. Nghe hỏng vô nhưng mà cũng cắn răng chịu trận
Tuy có nghe chửi, bị nắng ăn, nhưng D thấy sướng hơn mọi người nhiều .
Nhưng rồi thằng ngụy gác cầu từ sáng tới chiều chẳng ai buồn hỏi han, mấy anh du kích trong ban quản trại hình như cũng quên tuốt cái thằng cụt chân được phân công ngồi đó. Thậm chí mắc tiểu muốn chạy đi cũng sợ thằng du kích nó la. Đành cắn răng bắt chứơc “K M Th” nữ sỉ.( Dân biểu nín tè)
Rồi chiều xuống hồi nào không hay. Cái đoạn sông MT sao mà nhiều Cuốc vậy. Đường thì vắng, xe đã thưa. Con Cuốc kêu chiều nghe buồn da diết.
Đoàn “cải tạo” vét xong con kênh đã được cho tản hàng về nhà từ hồi nào .
Thằng ngụy gác cầu thì vẫn ngồi đó cầm tấm bảng mà lật qua lật lại.
Đến khi bụng đói meo, phải len lén cà thọt về nhà .
Để sáng sớm mai còn phải đi trình diện./.
CAO NGUYÊN