PDA

View Full Version : Thư gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.



tieuchuy
11-21-2011, 01:26 AM
Đại tá Phạm Bá Hoa
Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận/VNCH

1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ.

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó. Trong bài này, xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.

2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

Những sự kiện mà tôi trình bày trong bài này chỉ nhắm vào lãnh đạo đảng cộng sản và lãnh đạo Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, trong mục đích giúp Các Anh nhận ra cấp Lãnh Đạo của Các Anh hành động như thế nào trong bang giao -mà xã hội chủ nghĩa gọi là quan hệ- giữa nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa -tôi gọi ngắn gọn là Trung Cộng- và những hành động đó “có phải là đã và đang thi hành “biên bản” năm 1990 giữa Nguyễn Văn Linh & Đỗ Mười lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam, với Giang Trạch Dân & Lý Bằng lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước Trung Hoa hay không?

Mời Các Anh ...

a. Nhìn lại lịch sử.

Một kẻ thù trong lịch sử = Vua Trung Hoa phong kiến. Dòng lịch sử suốt chiều dài gần 5.000 năm, dân tộc ta trải qua những biến đổi đau thương do các triều đại phong kiến Trung Hoa xâm lăng cai trị: (1) Lần thứ nhất, từ năm 111 trước tây lịch đến năm 39 sau tây lịch = 150 năm. (2) Lần thứ hai, từ năm 43 đến năm 544 = 501 năm. (3) Lần thứ ba, từ năm 603 đến năm 939 = 336 năm. (4) Lần thứ tư vào thế kỷ 15, từ năm 1.414 đến năm 1.427 = 13 năm. Cộng chung cả 4 thời kỳ bị trị đến 1.000 năm, hay là 40 thế hệ Việt Nam bị dìm sâu dưới chính sách cai trị nghiệt ngã tàn bạo của vua quan phong kiến Trung Hoa! Nhưng từ trong nghiệt ngã đó, chúng ta phải cúi đầu khâm phục tổ tiên và dân tộc ta trong lịch sử, chẳng những đã không bị Trung Hoa đồng hóa, mà lại xây dựng và bảo vệ tròn vẹn một nền văn hoá trong sáng để lại cho chúng ta.

Lời dạy từ trong lịch sử = Vua Việt Nam Trần Nhân Tông. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu." Kẻ khác, mà vua Trần Nhân Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.

b. Nhìn vào hiện tại.

Kẻ thù trong hiện tại = Lãnh đạo Trung Cộng. Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo CSTH, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Quốc.

Wikileaks khẳng định, tin tức dưới đây nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu này có đoạn ghi rõ:
“.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.



Mời Các Anh kiểm chứng qua một số sự kiện dưới đây để tùy Các Anh đánh giá, có phải là lãnh đạo CSVN đang thực hiện “biên bản” đó hay không:

Nhìn lên biên giới.

Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài đoạn ngắn trong bài viết
của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “... Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”. Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân, nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1 cây số vuông?” ..... Ông chợt nhớ đến cụ Đỗ Việt Sơn ngót 80 tuổi đời mà trong đó gần 60 tuổi đảng, cụ Sơn đã dõng dạc đề nghị không thông qua bản Hiệp Định biên giới Việt Nam-Trung Hoa, để rồi cụ phải chịu bao nhiêu sách nhiễu răn đe hỗn xược của Công An. Ông Giang cũng nhớ đến Bùi Minh Quốc! Là nhà văn nhà thơ, thiên chức đó thôi thúc Bùi Minh Quốc không thể bàng quan, không thể nín lặng, anh đã lặng lẽ làm một cuộc hành trình dọc biên giới phía Bắc, nơi mà hiệp định đã cắt một phần biên giới cho Trung Hoa, để rồi anh bị quản chế giam hảm tại nhà. Lại đến nhà xã hội học Trần Khuê, cũng chung số phận hẩm hiu như Bùi Minh Quốc. Ông Giang khẳng định: “Trung Hoa là người láng giềng, sông liền sông núi liền núi, nhân dân hai nước sáng sớm cùng chung nghe tiếng gà gáy ó o, khi tắt lửa tối đèn cùng sống với nhau trong thân bằng quyến thuộc, nhưng Trung Hoa chưa bao giờ là người láng giềng tử tế cả, không chỉ không tử tế đối với Việt Nam chúng ta mà đối với các quốc gia lân bang cũng vậy ...”
Và một đoạn khác của Bác sĩ Trần Đại Sỹ, lúc ấy làm việc cho “Liên Hiệp Các Viện Bào Chế Châu Âu” (viết tắt của Pháp ngữ là CEF) và “Ủy Ban Trao Đổi Y Học Pháp Hoa” (viết tắt của Pháp ngữ là CMFC). Ngày 9/1/2000 - tức 10 ngày sau ngày ký Hiệp Ước bán đất biên giới- ông được hai người bạn Trung Hoa đang là ký giả cho ông biết chính xác là 789 cây số vuông thuộc hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng đã thuộc về Trung Cộng. Về mặt chính quyền, bộ Ngoại Giao CSVN đã lặng lẽ sửa câu văn trong trang Web trên internet mà Các Anh gọi là mạng lưới thông tin toàn cầu, như sau: “Lãnh thổ Việt Nam khởi từ Cây Số KHÔNG ở phía bắc”. Ông nói thêm: “Cây Số Không bây giờ lui vào nội địa Việt Nam 5 cây số”.
Vậy là Ải Nam Quan từ trong lịch sử của chúng ta đã mất vào tay Trung Cộng! Nhưng nỗi đau của người dân Việt chúng ta là mất đất trong hòa bình, mất đất trong cái gọi là 16 chữ vàng mà lãnh đạo của Các Anh luôn rao giảng trong quân đội và buộc Các Anh phải tôn trọng”.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd/HQPD_1321840503.jpg

Nhìn vào vịnh Bắc Việt.

“Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt với lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh. Việt Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt”.

Xin Các Anh bình tỉnh đọc chuỗi tin tức sau đây: “
(1) Ngày 31/12/1999, ông Tang Jiaxuan, Bộ Trưởng Ngoại Giao CSTH sang Hà Nội gặp riêng ông Lê Khả Phiêu bàn về biên giới trên Vịnh Bắc Việt.
(2) Ngày 25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh cho biết CSVN đồng ý giao thêm phần biển trên Vịnh Bắc Việt.
(3) Nhân chuyến viếng thăm Thái Lan, Ngoại Trưởng CSTH gởi văn thư mời ông Nguyễn Dy Niên sang gặp ông ta tại Bangkok.
(4) Ngày 26/7/2000, Nguyễn Dy Niên sang Bangkok gặp Ngoại Trưởng CSTH tại khách sạn Shangri-La. Khi trở về Hà Nội, ông Niên mang theo một hồ sơ mà trong đó CSTH đòi phân chia vùng biển trong vịnh Bắc Bộ theo tỷ lệ 50/50.
(5) Ngày 28/7/2000, Bộ Chính Trị VNCS họp mật về vấn đề này.
(6) Ngày 26/9/2000, Bộ Chính Trị cử Thủ Tướng Phan Văn Khải bay sang Bắc Kinh gặp Thủ Tướng Lý Bằng. Lý Bằng cho ông Khải biết rằng, ông Nông Đức Mạnh, Chủ Tịch Quốc Hội VN với Lê Khả Phiêu đã gặp riêng Chủ Tịch Giang Trạch Dân vào tháng 4/2000 tại Bắc Kinh, và tháng 8/2000 tại New York, cả ba đã thỏa thuận. Lý Bằng nói thêm, sau khi ông Lê Khả Phiêu xuống thì Nông Đức Mạnh phải được đưa lên nắm chức Tổng Bí Thư trong đại hội đảng CSVN lần thứ 9 vào tháng 3/2001, nếu không thì CSTH sẽ đòi nợ CSVN thời chiến tranh.
(7) Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ. Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới trên Vịnh Bắc Việt từ 62% xuống còn 56% và Trung Cộng từ 38% lên 44%.
(8) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch Trần Đức Lương sang Bắc Kinh gặp Chủ Tịch Giang Trạch Dân, hai bên cùng ký Hiệp Ước. Theo đó, lãnh đạo CSVN bán một phần Vịnh Bắc Việt cho lãnh đạo Trung Cộng với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ), và Trung Cộng trả cho lãnh đạo Việt Nam qua hình thức đầu tư.
(9) Hãy nghe Lý Bằng nói với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau: “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, ... của Việt Nam”.

Vậy là Trung Cộng đã chiếm đoạt 789 cây số vuông trên biên giới và 11.361 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt mà Trung Cộng không tốn một mạng người, không tốn một viên đạn, không tốn một giọt xăng dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ trong chiều sâu tâm hồn của những công dân đối với Tổ Quốc không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh là người Việt Nam hay người Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, có phải là Các Anh biết mình phài làm gì rồi chớ?”

Nhìn ra Biển Đông.

Năm 1988, với chính sách gậm nhấm, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, Trung Cộng với Việt Nam tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.

Đây là hai bản tin quan trọng dẫn đến sự kiện vừa nêu: (1) “Ngày 4/9/1958, ông Chu Ân Lai, Thủ Tướng Trung Cộng, công bố “lãnh hải Trung Hoa là 12 hải lý”. (2) Ngày 14/9/1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng của Các Anh, chánh thức công nhận lãnh hải 12 hải lý trong bản tuyên bố của Trung Cộng bằng công hàm dưới đây: “

“Thưa đồng chí Tổng Lý,
“Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng Lý rõ, Chính phủ nước VNDCCH ghi nhận và “tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), quyết định về hải phận của Trung quốc. Chính phủ nước VNDCCH tôn trọng quyết “định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà Nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý “của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước CHNDTH trên mặt bể.
“Chúng tôi xin kính gửi đồng chí Tổng Lý lời chào rất trân trọng.
“Hà Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958”
(ký tên Phạm Văn Đồng, Thủ Tướng nước VNDCCH. Đóng dấu)

Chắc là Các Anh không phũ nhận chứ, nhưng chưa hết, xin mời đọc tiếp những sự kiện sau đây:
(1) Năm 1972, Cục Đo Đạc & Bản Đồ của VNCS phát hành tập bản đồ thế giới, Hoàng Sa đổi tên là Tây Sa và Trường Sa đổi tên là Nam Sa đúng theo ý muốn của CSTH.
(2) Năm 1974, trong sách giáo khoa sử địa của Bộ Giáo Dục CSVN ghi: “Chuỗi hải đảo từ Nam Sa (Trường Sa) Tây Sa (Hoàng Sa) Hải Nam và Đài Loan là bức tường thành bảo vệ Trung Hoa lục địa”.
(3) Một đoạn khác trong bài viết nói trên của tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang: “Vùng quần đảo Trường Sa, có quân đội của Phi Luật Tân, Đài Loan, Mã Lai Á, và Việt Nam chiếm đóng, nhưng Trung Cộng thường nổ súng vào quân của Việt Nam mà không hề đụng đến quân của các quốc gia kia, chỉ vì Việt Nam đã công nhận vùng đó là của Trung Cộng nên quân đội Việt Nam có mặt ở đó họ coi là xâm phạm vùng biển của họ, thế là họ đánh. Việt Nam đề nghị mở hội nghị đa phương giải quyết, nhưng họ chỉ chấp nhận đàm phán với từng nước liên quan mà không nói chuyện với Việt Nam”.
(4) Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng ban hành văn kiện thành lập quận Tam Sa trong tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, đủ để gọi là có phản ứng và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển này. Đến đầu năm 2010, Trung Cộng lên tiếng lưu ý Hoa Kỳ rằng, Biển Đông thuộc lợi ích cốt lõi của họ, và họ quyết định sẽ điều động hàng không mẫu hạm đến vùng này để bảo vệ quyền lợi của họ.
(5) Theo Thiếu tướng Lê Văn Cương (của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam) kể, thì ngày 26/5/2011 tàu Bình Minh 2 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9-6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có hai tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám.
(6) Trích bản tin Dân Trí online ngày 13/6/2011. “....2 vụ việc liên tiếp thể hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ”.
(7) Trích bản tin RFA online ngày 6/6/2011. Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc: “Khi đã có một Đặng Tiểu Bình tuyên bố biển Đông là chủ quyền thuộc ngã, và từ khi Trung quốc tuyên bố biển Đông là khu vực lợi ích cốt lõi của họ, thì khó dùng tinh thần hiếu hòa của người Việt để ngăn chận tham vọng của phương Bắc.
(8) Ngày 18/10/2011. Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (trong nước) tự hỏi trong sự hoảng hốt: “Mất nước rồi ư?” Rồi Cô tự trả lời: “Có lẽ thế thật!. Bởi trong lịch sử 1000 năm trước dân tộc này không thể bị đồng hóa bằng hình thức xâm lấn, thống trị… thì nay đã có những hình thức ngoại giao tinh vi hơn, buộc cả dân tộc phải tự đồng hóa mình, phải cam chịu vì lép vế, đớn hèn im lặng, chấp nhận cúi đầu mà quên đi truyền thống quật cường của cha ông để lại. Có lẽ thế thật. Vì nếu không, thì tại sao Trung Cộng ngang nhiên phủ nhận đặc quyền khai thác dầu khí của Việt Nam trên thềm lục địa nước Việt trong khi ông Nguyễn Phú Trọng đang thăm viếng Bắc Kinh?”

Nhìn trong nội địa.

Tháng 11/2007, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác.
Mời Các Anh xem nhận định kèm theo lời cảnh báo từ một số nhân vật quan tâm đến an ninh quốc gia:
(1) Ngày 10/3/2009 (TuanVietNamNet online). “Cha ông ta từ xưa đã nhận định vùng Tây Nguyên quan trọng tới mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông Dương. Sau này người Pháp, người Mỹ, và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này với câu nói nổi tiếng: “Đây là nóc nhà của Đông Dương”. Vùng đất này là ngã ba Đông Dương, cho nên khi chiếm được khu vực này thì cũng dể dàng chiếm được 3 nước Đông Dương”.
(2) Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than & Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung quốc là một sai lầm... Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
(3) Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia.
(4) Ngày 12/04/2009, giáo sư Nguyễn Huệ Chi, giáo sư Nguyễn Thế Hùng, và nhà văn Phạm Toàn, gởi bản kiến nghị đến Chủ Tịch nước, Chủ Tịch Quốc Hội, và Thủ Tướng CSVN. Nội dung yêu cầu dừng dự án khai thác quặng Bauxite vì gây nguy hại môi trường sống và an ninh quốc phòng. Ngay sau đó đã có 135 người trong nước, trí thức như Giáo sư đại học, kỹ sư, nhà văn nhà báo, đại biểu Quốc Hội như Nguyễn Lân Dũng, giáo sư Hoàng Tụy, tiến sĩ Phan Đình Diệu, giáo sư Trần Văn Khê, nhà thơ Dương Tường, đạo diễn Trần Văn Thủy, ... Ngoài ra có một số trí thức hải ngoại cùng tham gia. Trang nhà www.bauxitevietnam.info (http://www.bauxitevietnam.info) do một số trí thức trong nước thành lập lấy chữ ký gửi kiến nghị tới nhà cầm quyền Hà Nội kêu gọi ngưng kế hoạch, chờ đến khi nào có tiến bộ khoa học hơn thì hãy khai thác, tránh tàn hủy và đầu độc môi trường sống không chỉ riêng cho khu vực Tây Nguyên mà cả khu vực dọc theo sông Đồng Nai nữa.
(5) Ngày 12/2/2010 (trang BauxiteVietNam.info). “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia… Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những làng “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng”.
(6) Theo BBC online ngày 26/8/2010, “Bộ Công Thương đưa ra con số vào tháng 7/2009, theo đó đã có 30 doanh nghiệp Trung Quốc đang tham gia tổng thầu EPC hoặc đối tác đầu tư trong 41 dự án ở Việt Nam. Tất cả 41 dự án này là kinh tế trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết tới tài nguyên quốc gia hoặc an ninh hay năng lượng”.
(7) Trang Bauxite online ngày 26/9/2010, ông Dương Danh Hy, cựu Tổng Lãnh Sự Việt Nam tại Trung Cộng, nhắc đến bài báo trích đăng của Giáo sư Bùi Huy Hùng, Viện Khoa Học Năng Lượng, nhận định rằng: “Việc hiện nay có đến 90% dự án nhiệt điện hiện nay do Trung Quốc thắng thầu sẽ dẫn tới sự phụ thuộc có nguy cơ mất an ninh năng lượng khi có sự cố xảy ra vì khi đó chúng ta có cái gì làm đối trọng”.
(8) Trên Đàn Chim Việt onine ngày 12/10/2010, “Trung Quốc đang giúp các nước làm cầu, làm đường nối tiếp. Trong 6 tuyến đường này thì 5 tuyến cuối cùng là Việt Nam: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Sài Gòn, toàn bộ là vị trí xung yếu trải rộng cả Việt Nam…Ta mới có 2 đường Lạng Sơn và Móng Cái đã thấy điêu đứng, nay có thêm 5 đường đi khắp nơi, sức đâu để bảo vệ kinh tế quốc phòng. Thế có phải là một thể chế (ý nói lãnh đạo CSVN. PB Hoa) cho phép các hành lang này như khu nhượng địa nằm khắp Việt Nam?
(9) Ngày 20/6/2011, theo bản tin từ báo Thanh Niên thì cuộc chiến biển người kiểu mới đang diễn ra trên lãnh thổ Việt Nam chúng ta: “Đó là lao động phổ thông Trung Quốc tràn ngập Việt Nam. Điều bi thảm là trong các Phố Tàu mới mọc lên tại VN, thí dụ như tại Hải Phòng và Quảng Ninh, nhiều nơi chỉ dựng lên bảng tiếng Hoa, không sử dụng tiếng Việt, làm người dân Việt tự cảm thấy thân phận mình y hệt như dân Tây Tạng bị dân Hán tộc vào lấn ép”. Bài báo còn cho biết: “Luật không cho phép các doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sử dụng lao động phổ thông là người nước ngoài. Thế nhưng, tại nhiều địa phương hiện vẫn tồn tại hàng ngàn lao động phổ thông nước ngoài, dù từ năm 2009 Thủ tướng đã yêu cầu các cơ quan chức năng rà soát xử lý, nhưng sự thể vẫn còn nguyên đó”.
(10) Ngày 16/8/2011, nhà báo Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên Tập của vài tờ báo trong nước: “ Hiện nay độc lập dân tộc đang đứng trước sự đe dọa của ngoại bang còn nguy hiểm hơn những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám. Bởi vì giặc ngoại xâm ngày nay, được nối giáo bởi giặc nội xâm ngụy trang bằng mặt nạ đồng chí.... Vì sao 90% các công trình công nghiệp đều rơi vào tay nhà thầu Trung Hoa, hàng chục vạn lao động cơ bắp của Trung Cộng theo chân các công trình do họ trúng thầu rải từ Bắc vào Nam mà không có biện pháp ngăn chặn?
(11) Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống. Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ. Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho Việt Nam.
(12) Lại nhớ đến chuyện lãnh đạo CSVN đã cho các công ty Trung Cộng thuê rừng đầu nguồn mà hai viên Tướng cộng sản Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh đã lên tiếng cảnh báo đầu năm 2010. Việc cho thuê rừng với một diện tích hơn 300.000 mẫu tây trong thời hạn lâu dài (50 năm) tại các tỉnh biên giới có vị trí trọng yếu, có nguy cơ lớn đến quốc phòng Việt Nam. Báo Vietnam Net lúc đó đã đăng loạt bài phóng sự về các công ty thuê rừng đang làm gì tại những nơi này, và mọi người đều lạnh người khi nhận ra nguy cơ quá rõ ràng, là những vùng đất sau khi cho thuê trở nên “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, không ai biết họ thực sự đang làm gì trên đất rừng của ta.
(13) Ngày 31/8/2011, trên trang Bauxite online ngày 31/8/2011. Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1,3 triệu người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”
(14) Trang Bauxite online ngày 19/9/2011. Cái nhức nhối và nguy hiểm nhất là Trung Quốc đã cho người thâm nhập vào cùng khắp đất nước ta qua vai trò nhân công trong các công trường khai thác bauxite, cũng như các gói thầu Trung Quốc thực hiện từ Bắc chí Nam mà ta không biết đây là tình báo, gián điệp hay là đặc công nằm vùng đợi thời cơ. Cùng lúc, ông Lê Hiếu Đằng tại Sài Gòn đã cảnh báo rằng: “Ngay vấn đề lao động Trung Quốc hiện nay sang đây không phép, tôi nghĩ là không phải bộ máy cầm quyền Việt Nam không biết, nhưng tại sao lại để tình trạng như vậy? Sẽ có những cái làng Trung Quốc, những vùng Trung Quốc mà người Việt Nam không thể vào được. Đó là những nhân viên dân sự hay là quân sự? Ai mà biết họ đang làm gì trong đó! Thì vấn đề đấy không phải là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề an ninh chính trị, vấn đề quốc phòng, mà chúng ta lại lơi lỏng. Điều này rất là nguy hiểm cho an ninh quốc gia”.

Tôi góp nhặt 14 sự kiện trong số hằng trăm hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài Gòn. Và thảm họa cao nhất là dân tộc Việt Nam chúng ta bị kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa lại tái hiện trong thế giới ngày nay thống trị lần nữa!
Bây giờ mời Các Anh nhìn vào hành động của lãnh đạo Các Anh khiếp nhược đến mức nào đối với kẻ thù truyền kiếp từ phương Bắc, kẻ thù mà Vua Trần Nhân Tông đã răn dạy, đã cảnh báo từ 8 thế kỷ trước.

3. NHÌN VÀO LÃNH ĐẠO VIỆT NAM.

Lãnh đạo mà tôi nói đến trong đoạn này, bao gồm các cấp lãnh đạo trong hệ thống tổ chức đảng cộng sản, trong bộ máy hành chánh và các ngành chuyên môn, trong hệ thống giáo dục, trong tổ chức Quân Đội Nhân Dân, và trong tổ chức Công An Nhân Dân.

a. Lãnh đạo Đảng & Nhà Nước

(1) Ngày 15/10/2011, tại Bắc Kinh, ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam, và ông Hồ Cẩm Đào, Chủ Tịch đảng cộng sản Trung Hoa, đã ra một tuyên bố chung rằng: “Hai bên khẳng định quyết tâm chính trị thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông. Hai bên sẽ đối thoại thường xuyên về vấn đề trên biển từ tầm cao chính trị và chiến lược, để kịp thời chỉ đạo xử lý các vấn đề trên biển. Hai bên cũng sẽ nghiên cứu và trao đổi về vấn đề hợp tác cùng phát triển Biển Đông, phân định khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và về việc cùng khai thác vùng biển này. Hai bên cam kết sẽ không có hành động làm phức tạp hóa vấn đề hoặc mở rộng thêm tranh chấp, và nhất là không để “các thế lực thù địch” phá hoại quan hệ giữa hai đảng, hai nước”.
(2) Ngày 17/10/2011, Ông Lưu Vi Dân, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Cộng khẳng định: “ Trung Quốc và Việt Nam đã nhất trí giải quyết các tranh chấp trên biển bằng các cuộc đàm phán, và vì vậy, không cần sự can thiệp của một bên thứ ba. (Nguồn tin: Xinhua và China Daily của Trung Cộng)

Nếu Các Anh có theo dõi tin tức liên quan đến Biển Đông chúng ta, hẳn Các Anh vẫn biết là các quốc gia ven Biển Đông trong khối ASEAN -nhất là Phi Luật Tân- muốn Việt Nam và các quốc gia trực tiếp liên quan cùng hành động chung để bảo vệ Biển Đông trước tham vọng lấn chiếm của Trung Cộng. Vậy mà ông Nguyễn Phú Trọng lại thỏa thuận với Trung Cộng là vấn đề liên quan đến Biển Đông chỉ do hai nước trực tiếp giải quyết. Các Anh nghĩ gì khi nhận biết hành động của Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam? Vì giải quyết song phương thì Việt Nam mất biển dần dần là điều chắc chắn!

(3) Bản tin của Dân Làm Báo. Trong khi đưa tin về chuyến thăm Trung Cộng của ông Nguyễn Phú Trọng, bản tin thời sự đài truyền hình Việt Nam VTV lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011 có hình cờ Trung Cộng có 6 ngôi sao, gồm 1 sao lớn và 5 sao nhỏ. Cho đến ngày trước đó, cờ Trung Cộng có 1 ngôi sao lớn là dân tộc Hán, và 4 ngôi sao nhỏ là các dân tộc Hồi, Mông, Tạng, và Mãn.
Trước đây đã có những nghi vấn nêu lên về việc Trung Cộng thêm ngôi sao thứ 5 trên lá cờ của mình trong cộng đồng mạng với lo lắng về việc đồng hóa dân tộc Việt Nam qua hình ảnh ngôi sao thứ 5. Tuy nhiên, tất cả chỉ là giả thuyết. Cho đến bản tin tối ngày 14/10/2011 do Đài Truyền hình Việt Nam phát sóng, thì có lẽ ai cũng thấy rằng: “Đây chắc chắn không thể nào là lỗi của "cậu đánh máy". Đây chắc chắn không thể nào là "hành động vô tình" cho một cái ngôi sao thừa. Đây lại càng không thể là âm mưu của thế lực thù địch bên ngoài”. Sau khi bị phát hiện lá cờ Trung Cộng "6 ngôi sao", thay vì lên tiếng giải thích, đính chính... VTV đã âm thầm phi tang bằng chứng bằng cách tháo gỡ đoạn video thời sự lúc 7 giờ tối ngày 14/10/2011. Trước khi biến mất, nguồn “video 6 sao" này là: http://media.vtv.vn/Media/Get/Thoi-su-19h---14102011-082824dce9.html

(4) Ngày 16/10/2011, tác già Bùi Tín với bài “Sứ Quán hay Dinh Thái Thú?”. Ông nói về chuyện diễn ra tại tòa đại sứ Trung Cộng ở Hà Nội sau khi ông Khổng Huyễn Hựu nhận chức Đại Sứ.
Không kể những buổi ông Khổng đến trình quốc thư Chủ Tịch Nước, chào Tổng Bí Thư, Thủ Tướng, Chủ Tịch Quốc Hội, đã có hàng loạt quan chức cao cấp đã đến sứ quán Trung Cộng trên đường Hoàng Diệu để chào tân Đại Sứ, đó là: (a) Ngày 17/8/2011, Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn, và Phó Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Nguyễn Mạnh Hùng. (b) Ngày 23/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng. (c) Ngày 29/8/2011, Bộ Trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, rồi Thứ Trưởng Bộ Công An Trung Tướng Đặng Văn Hiếu. (d) Ngày 31/8/2011, Phó Thủ Tướng Nguyễn Thiện Nhân, rồi Bộ Trưởng Tài Chính Vương Đình Huệ. (e) Ngày 12/9/2011, Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh. (f) Ngày 16/9/2011, Bộ Trưởng Giáo Dục & Đào Tạo Phạm Vũ Luân. (g) Ngày 21/9/2011, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Hoàng Bình Quân, rồi Bộ Trưởng Thông Tin Tuyên Truyền Nguyễn Bắc Sơn. (h) Ngày 27/9/2011, Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị. (k) Ngày 29/9/2011, Bộ Trưởng Văn Hoá & Thể Thao & Du Lịch Hoàng Tuấn Anh, rồi Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Tô Huy Rứa. (l) Ngày 3/10/2011, Thường Trực Ban Bí Thư Lê Hồng Anh, rồi Chủ Tịch Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương Ngô Văn Dụ. (m) Ngày 4/10/2011, Trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương Đinh Thế Huynh.
Sứ quán Trung Cộng cho biết, chỉ trong thời gian ngắn, ông Đại Sứ đã có dịp hội kiến với quá nửa số ủy viên Bộ Chính trị của phía Việt Nam, chưa kể một loạt ủy viên Trung ương đảng, bộ trưởng, thứ trưởng và các loại cán bộ cấp cao khác.
Với danh sách của ông Bùi Tín mà tôi trích lại trên đây, Các Anh có nghĩ là các Ủy Viên Trung Ương Đảng đến chào tân Đại Sứ hay chầu viên Thái Thú họ Khổng?

(5) Tháng 11/2011, trích bài viết của ông Ngô Minh “(Lãnh đạo đảng & nhà nước. PB Hoa) Chúng Ta Đang Xẻ Thịt Tổ Quốc Mình Để Sống”.
“Cách đây vài ba năm, báo chí loan tin đến năm 2012 Việt Nam phải nhập than đá! Thế mà bây giờ là năm 2011, nước ta đã phải nhập hàng nghìn tấn than đá từ nước ngoài... Nhìn lại đối mới từ năm 1986 đến nay, một thực trạng đau lòng đang diễn ra khắp nơi là chúng ta đã khai thác, buôn bán tài nguyên quốc gia một cách ồ ạt, vô tội vạ. Dường như thu nhập GDP (GDP = tổng sản lượng nội địa. PB Hoa) đất nước đều do buôn bán tài nguyên mà có, còn hàng hoá sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Nghĩa là từ “đổi mới” đến nay, chúng ta đang sống nhờ bán tài nguyên, chứ chẳng làm được thương hiệu gì bền vững có tầm cỡ thế giới cả. Nhìn qua Hồng Kông, Ma Cao, Singapore , Nhật Bản… mà thương cho đất nước mình. Người ta chẳng có nhiều tài nguyên khoáng sản mà sao người ta giàu thế. Còn mình bán tài nguyên mà ăn, rồi con cháu vài thế hệ sau ăn không khí à?
.... Trong hòa bình xây dựng 30 năm nay, do ấu trĩ trong nhận thức và non kém về quản lý, chúng ta tiếp tục tàn phá tài nguyên dữ dội hơn, nặng nề hơn. Hình thế núi sông Việt Nam đang thấy đổi từng ngày, đang bị cày xới nham nhở! 20 năm qua có rất nhiều “phong trào” bán tài nguyên để “làm ngân sách” xảy ra rầm rộ. Như khai thác gỗ rừng để xuất khẩu ồ ạt. Quốc doanh khai thác xuất khẩu, “hợp tác xã” khác thác xuất khẩu, tư nhân núp bóng nhà nước khai thác, xuất khẩu… Người cấp quota xuất khẩu gỗ giàu lên từng ngày một. Đến khi “ngộ ra”, ban hành lệnh cấm, thì rừng đã bị “ “bán ăn” gần hết. Thế là lại phải “làm dự án” trồng 5 triệu hec-ta rừng gần chục năm nay vẫn không thành. Hết rừng rồi thì bán đất rừng. Hơn 300.000 héc ta rừng đầu nguồn đã bị các tỉnh bán cho doanh nhân Trung Quốc khai thác 50 năm. Nghĩa là 50 năm đó chúng muốn biến mảnh đất rừng của chúng ta thành căn cứ quân sự, lô cốt, hầm ngầm.v.v… là quyền của họ. Hết nước rồi non nước ơi! Bán hết rừng đến bán khoáng sản dầu thô, than đá, cát, quặng ti-tan, quang a-pa-tít, quặng vàng… Người bán gỗ, bán than, thì có kẻ lại bán núi, bán đất ruộng làm giàu. Xem ra bán núi bán đất dễ giàu có hơn.
Trong những chuyến đi thực tế ở vùng Đông Bắc, Thanh Hóa, Ninh Bình…, tôi thấy nhiều ngọn núi bị san bằng trơ trọi, để khai thác đá sản xuất xi măng, đá xây dựng. Bây gìờ tỉnh nào cũng hai ba nhà máy xi măng, hàng chục công trường khái thác đá hàng ngày ra sức san phá núi. Có tỉnh bán luôn cả ngọn núi cho nước ngoài làm xi măng, không chỉ bán phần dương mà còn bán cả phần âm tới 30 mét sâu, nghĩa là 50 năm sau, núi thành hồ! Hình sông thế núi Việt Nam ngàn đời hũng vĩ, bây giờ đang bị xẻ thịt nham nhở. Liệu con cháu tương lai sẽ sống như thế nào, có còn hình dung ra nước non Việt tươi đẹp như xưa nữa không, khi mà quanh chúng núi non bị gậm nhấm, thân thể Tổ Quốc ghẻ lở, xác xơ? Tài nguyên của mình, nước ngoài đến khai thác rồi chế biến thành sản phẩm xuất khẩu của họ, trong lúc hình hài non sông bị xâm hại. “Bán núi” để ăn như thế có đau núi quá không? “Bán đất” mới là cuộc tỉ thí với tương lai khủng khiếp nhất. Tỉnh nào cũng có vài ba Khu công nghiêp, nhưng chẳng làm ra sản phẩm xuất khẩu nào có thương hiệu cả vì máy móc lạc hậu, bán trong nước cũng chẳng ai mua. Tỉnh nào cũng có ba bốn sân golf. Rồi dự án mở rộng đô thị lên gấp đôi gấp ba, dự án khu biệt thư, …đang làm cho đất nông nghiệp, đất trồng lúa trong cả nước, đất trồng cây ăn trái ở Nam Bộ đang thu hẹp với tốc độ chóng mặt. Mỗi năm có từ 73.000 - 120.000 ha đất nông nghiệp bị thu hồi, bị chuyển đổi. Mở rộng đô thị thì đất ruộng thành đất thành phố, bán với giá cao hơn. Đua nhau mà ăn chia, lấn chiếm, đẩy nông dân ra khởi mảnh đất ngàn đời sinh sống của họ. Thế là khẩu hiệu của Cộng Sản “dân cày có ruộng” thành trò đùa lịch sử. Vì mục tiêu tăng GDP, tăng thu ngân sách, trung ương lẫn các tỉnh đang thi nhau bán đất nông nghiệp một cách vô tội vạ để làm giàu. (Càng nhiều dự án bao nhiêu, lãnh đạo đảng với nhà nước càng giàu thêm bấy nhiêu. PB Hoa)
... Hết bán rừng, than, ti-tan, đá, người ta con bán cả bo-xit Tây Nguyên, thứ mà cách đây mấy chục năm, khối Comicom ( Khối kinh tế các nước XHCN) đã ngăn không cho khai thác, họ sợ làm hư hỏng môi trường và văn hoá Tây Nguyên. Nhưng bây giờ thì bất cần tương lai Tây Nguyên, bất cần hàng ngàn trí thức tâm huyết với đất nước kịch liệt phản đối, họ vẫn khai thác. Nhưng, bọn người được quyền đầu tư khai thác ấy lại là bọn giặc truyền kiếp phương Bắc ngàn đời của Dân tộc ta mới đau, mới lo chứ. Chúng thâm hiểm lắm, người ơi. Chúng mang hàng ngàn người (dân binh?) vào Tây Nguyên, với kế hoạch làm chủ Tây Nguyên của Việt nam. Các nhà chiến lược quân sự thường nói:” Ai làm chủ Tây Nguyên sẽ làm chủ Đông Dương”. Chao ôi, từ việc bán tài nguyên đến “bán nước” chỉ còn một khoảng cách mong manh như sợi chỉ!
Ngay cả nước là loại tài nguyên quý giá cũng đang bị xâm hại nghiêm trọng. Hiện nay tất cả các con sông đều “đang chết dần” vì ô nhiễm do chất thải công nghiệp, bệnh viện chưa qua xử lý đều thải trực tiếp ra sông. Mạch nước ngầm đang xuống thấp chưa từng có do khai thác vô tội vạ. Rồi “phong trào” phát triển thuỷ điện tùm lum làm cho mực nước ở đồng bằng giảm xuống. Đến cả sông Hồng cũng cạn trơ đi bộ qua được”.

b. Lãnh đạo Quân Đội và Công An.

(1) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt". Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến "truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung".
(Cũng vì vậy mà hằng trăm tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân Nhân Dân Việt Nam nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”. PB Hoa)
(2) Ngày 28/8/2011, Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, do Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
(Do đó mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân”- thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011, để bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. PB Hoa)
(3) Ngày 27/9/2011, với bài viết “Linh Hồn Quân Đội Nhân Dân Lâm Nguy”, ông Bùi Tín (trước kia là Đại Tá trong quân đội Các Anh), viết về phái đoàn Tổng Cục Chính Trị do Trung Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị hướng dẫn sang Bắc Kinh theo lời mời của Trung Cộng. Thành viên của phái đoàn gồm 6 Chính Ủy Quân Khu với một số Cục Trưởng của Tổng Cục... Ông Bùi Tín cho rằng, hệ thống Quân Ủy là “linh hồn của quân đội nhân dân”. Theo ông Bùi Tín, phái đoàn chính trị quân đội nhân dân Việt Nam được Phó Chủ Tịch Nước kiêm Phó Bí Thư Quân Ủy Trung Ương, ông Tập Cận Bình tiếp rất nồng hậu. Ông Tập Cận Bình sẽ thay ông Hồ Cẩm Đào trong chức Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước từ cuối năm 2012, tức ngay sau đại hội đảng cộng sàn Tàu lần thứ 18. Ông Tập Cận Bình căn dặn phía Việt Nam hãy thực hiện 3 điều: (1) Kiên trì hiệp thương hữu nghị. (2) Kiên trì tầm nhìn đại cục. (3) Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi.
Chỉ vài câu ngắn gọn nhưng hiểu rộng ra, thì: (a) “Kiên trì hiệp thương hữu nghị”, là Trung Cộng có trưng ra hình lưỡi bò, có tuyên bố toàn vùng biển Đông là sở hữu cốt lõi không ai được tranh cãi. Còn cho tàu chiến vào vùng này, ngăn cấm ngư dân Việt đánh cá, ngăn cả tàu Ấn Độ vào thăm hữu nghị Việt Nam, lúc ấy Việt Nam không được phản đối, không để cho dân biểu tình, mà chỉ nên hiệp thương một cách ôn hòa hữu nghị với nhau. (b) “Kiên trì nhìn đại cục”, nghĩa là phía Việt Nam chỉ nên coi những việc như nhân nhượng chút ít đất đai, vài vùng biển nhỏ, vài quần đảo chỉ là chuyện nhỏ, mà chuyện lớn là tình hữu nghị truyền thống, là «16 chữ Vàng», là “quan hệ bốn tốt”. Trên đại cục 2 nước là láng giềng tốt, trên đại cục 2 nước là bạn tốt, trên đại cục là đồng chí tốt, trên đại cục cũng là đối tác tốt. Có gì xấu chỉ là về tiểu tiết, không đáng kể, nên bỏ qua. (c) “Kiên trì hợp tác 2 bên cùng có lợi”, nghĩa là không đấu tranh chống đối, tố cáo nhau làm gì cho lôi thôi, phức tạp, hãy coi nhau là bạn bè, là anh em đồng chí, luôn giữ hòa khí với nhau, hợp tác chiến lược toàn diện, sẽ duy trì tình anh em hòa thuận, có lợi cho cả 2 bên, chống đối nhau chỉ bất lợi, thiệt hại cho cả 2 bên.
Ông Bùi Tín nhận định: “Trung Tướng Ngô Xuân Lịch và phái đoàn, chẳng những đã tán thành ý kiến được coi như chỉ thị của ông Tập Cận Bình, còn cam kết rằng là quân đội 2 nước sẽ gương mẫu thực hiện thỏa thuận giữa 2 đảng, 2 nước là giải quyết những vấn đề tồn tại giữa 2 nước bằng đối thoại song phương. Ông còn nhấn mạnh “phía Việt Nam không có ý định quốc tế hóa các vấn đề bất đồng về biển đảo, không kéo nước này chống nước khác”. Rõ ràng đó là lập trường “hèn với giặc, ác với dân” phơi bày công khai. Đất nước quả là lâm nguy, đại lâm nguy”. Cuối cùng tác giả Bùi Tín “xin để toàn thể Tướng Lãnh, Sĩ Quan, Binh Sĩ, và toàn dân nhận xét và đánh giá trên lập trường bảo vệ Tổ quốc, một cách khách quan và công bằng”.

4. KẾT LUẬN.

CSVN đánh thực dân Pháp không phải vì giành độc lập tổ quốc, mà là nhuộm đỏ một nửa giang sơn phía Bắc với chế độ độc tài tàn bạo hơn thực dân Pháp. CSVN từ nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa không phải để thống nhất đất nước, mà là nhuộm đỏ toàn cõi giang sơn Việt Nam dưới sự cai trị độc tài tàn bạo của cộng sản quốc tế.
Với những diễn biến trên lãnh thổ Việt Nam trong 36 năm qua, từ chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam cai trị người dân một cách tàn bạo nghiệt ngã, thậm chí thẳng tay đàn áp khi người dân quá phẫn uất đã cùng nhau biểu tình phản đối Trung Cộng hà hiếp lấn chiếm Việt Nam, đến chính sách quy lụy lãnh đạo Trung Cộng, thậm chí quy lụy cả những nhà thầu của Trung Cộng một cách hèn hạ đến khiếp nhược, nhưng xem ra lại phù hợp với “biên bản” thỏa thuận giữa lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lãnh đạo cộng sản Trung Hoa hồi tháng 9 năm 1990.
Nhớ lại những năm trong trại tập trung trên đất Nam lẫn đất Bắc, “nhờ bị học chính trị” nên tôi còn nhớ bài học ca tụng cộng sản Liên Sô rằng: “Liên Sô là thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội”. Chắc chắn là Các Anh “phải thuộc bài này” hơn tôi nhiều. Vậy, tôi mời Các Anh đọc vài đoạn dưới đây của cố, cựu, và đương kim lãnh đạo nước Nga sau thời cộng sản:
(1) Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô Gorbachev nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.”
(2) Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin nói: “Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”
(3) Ngày 07/05/2010, đương kim Tổng Thống Nga Dmitry Medvedev đã trả lời phỏng vấn của nhật báo Nga Isvestiai. Trích vài đoạn: “Chế độ chính quyền ở Liên Xô khi trước không thể diễn tả bằng cách nào khác hơn là một chế độ độc tài toàn trị. Thực không may, đây là một chế độ đàn áp các quyền tự do căn bản không những chỉ người dân của nước mình, mà còn cho nhân dân các nước nằm trong khối CS, tôi muốn nói tới các nước XHCN khác, trong gần nửa thế kỷ nay. Và vết nhơ này không thể nào bôi xóa trong lịch sử”. Lời phát biểu của ông đã gây chấn động hệ thống truyền thông Nga và nhiều nước trên thế giới. ... Năm 1940, khoảng 22.000 sĩ quan Ba Lan đã bị Staline ra lệnh thảm sát tại rừng Katyn. Mãi sau này, chính quyền Ba Lan mới đưa vụ thảm sát ra tòa án Nhân Quyền Âu Châu tại Strasbourg với những bằng chứng. Thân nhân những người bị sát hại đã đòi chính phủ Nga phải bồi thường. Tháng 3/2010, Viện Công tố Quân Sự Nga đã trả lời Tòa Án Nhân Quyền Âu Châu rằng: “Vụ thảm sát xảy ra từ năm 1940, tới nay đã vượt qua thời hiệu pháp lý. Nước Nga ngày nay, không thể chịu trách nhiệm cho một chính quyền 70 năm về trước. Ông nói: “Nếu ngày hôm nay, nhắm mắt trước những tội ác này, thì trong tương lai, những tội ác như vậy sẽ còn lặp lại, ở dạng này hay dạng khác, ở nước này hay nước kia. Vì vậy, thời gian khiếu nại tuy khá xa, nhưng tội ác tày trời như vậy không bao giờ mất thời hiệu. Những người gây tội ác, bất cứ là ai, bất kể thời gian là bao nhiêu năm, cũng phải gánh trách nhiệm ! Đây là vấn đề trách nhiệm và đạo đức, một sự kiện đáng để cho các thế hệ tương lai rút kinh nghiệm”.

Tổ Quốc Việt Nam chúng ta thật sự lâm nguy rồi!

Nếu nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thức tỉnh thì dân tộc Việt Nam bị cái tròng “Bắc thuộc lần thứ 5” đang trên cổ dân tộc Việt Nam sẽ từ từ siết lại cho đến năm 2020 như đã thỏa thuận giữa lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam với lãnh đảng đảng cộng sản Trung Hoa. Từ đó, Văn hoá Việt Nam sẽ dần dần bị tan biến trong văn hoá Tàu cộng sản!
Nhưng, đã là cộng sản và là cộng sản Việt Nam, tôi hoàn toàn không tin là họ sẽ trở thành người tử tế như những người tử tế trong xã hội, để nhận ra điều đúng điều sai mà rút ra bài học kinh nghiệm ứng dụng vào trách nhiệm lãnh đạo. Vì cho đến nay, nhìn vào sự thật, chúng ta nhận rất rõ là lãnh đạo CSVN đã thành công khi tạo nên một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng gian trá lọc lừa “đúng theo bản chất” của đảng cộng sản, họ cũng đã thành công khi tạo nên một nước Việt Nam “sẳn sàng trở về” với nước Tàu cộng sản đúng theo nhóm lãnh đạo CSVN đã “đề nghị” và được lãnh đạo CSTH chấp nhận từ năm 1990!
Vậy, Việt Nam chỉ còn cách duy nhất là phải tranh đấu giành lại những quyền căn bản của con người từ tay chế độ độc tài. Từ đó, sẽ vô hiệu hóa những văn kiện mà cộng sản Việt Nam đã ký với Trung Cộng vi phạm Hiến Pháp Việt Nam làm thiệt hại cho Việt Nam về biên giới, biển cả, và nội địa.
Xin gởi sự suy nghĩ nhỏ nhoi hạn hẹp của tôi đến Các Anh, “Những Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện đã diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo với dân nhưng vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng, để mọi người Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã rách loang lỗ, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương”, để xây dựng một nền văn hoá nhân bản khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Houston, tháng 11 năm 2011.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd/HQPD_1321840647.jpg

tieuchuy
12-30-2011, 03:43 AM
Thư số 2 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.

******
Phạm Bá Hoa


1. XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ.

Xin lặp lại đoạn này trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11/2011 để Các Anh nào chưa đọc thư đó cũng nhận ra vị trí người viết với vị trí người nhận, từ đó tiếp nhận nội dung dễ dàng hơn.

“Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Ngày cuối tháng 4/1975, bối cảnh chính trị đưa chúng tôi vào tình thế thua trận, chúng tôi bị lãnh đạo cộng sản Việt Nam đày đọa trong hằng trăm trại tập trung trong số hơn 200 trại mà cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm ròng rả, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Giờ đây, Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi là Người Lính thua trận, nhưng tôi rất hãnh diện vì được phục vụ tổ quốc và dân tộc với tư cách một công dân trong thời chiến tranh bảo vệ dân chủ tự do, dù chưa tròn nhiệm vụ. Giờ đây tôi đang sống xa quê hương đến nửa vòng trái đất, tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa”.
“Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hôm nay. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong Quân Đội Nhân Dân, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó”.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân” ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày.

Tôi trích một đoạn trong bài viết “Quá Khứ & Hận Thù” để Các Anh nhận ra quan điểm của tôi khi viết thư này gởi Các Bạn: “Trong paltalk tối 30/04/2010 trên Diễn Đàn Chính Nghĩa Việt Nam Cộng Hòa tại hải ngoại với trong nước, tôi đóng góp đề tài “Việt Nam, sau 35 năm xã hội chủ nghĩa”. Ngay sau 45 phút trình bày, một người xưng là “Em gái Mỹ Tho” nêu câu hỏi: “Với một quá khứ như vậy, ông có hận thù cộng sản không?” Tôi đáp: “Tôi không hận thù cộng sản, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ của cộng sản, vì lòng hận thù thường xuyên trói buộc sự suy nghĩ của mình, làm cho mình chỉ quanh quẩn với những ý nghĩ tìm cách trả thù. Và khi không thoát ra được sự trói buộc đó nên không thể có được suy nghĩ gì để đóng góp cho cuộc đấu tranh thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ, tự do, cho đồng bào trên quê hương. Do cai trị bằng chính sách độc tài nên lãnh đạo CSVN luôn sợ hãi mọi người đứng lên lật đổ, nên họ sử dụng “Công An Nhân Dân” tạo cho người dân thường xuyên sống trong sợ hãi để bản thân lãnh đạo của Các Anh bớt sợ hãi. Với những ai vượt lên sự sợ hãi để giành lại quyền làm người cho đồng bào, tức khắc sẽ bị hằng trăm cánh tay cầm gậy gộc, cầm roi điện, cầm súng đàn áp nhân dân, bắt nhân dân bỏ tù, và trong nhiều trường hợp đã giết chết nhân dân mà không hề vi phạm cái gọi là pháp chế xã hội chủ nghĩa, cho dù Công An cũng như Quân Đội Các Anh đều có hai chữ Nhân Dân kèm theo tên gọi, có nghĩa là Quân Đội và Công An là của Nhân Dân, phải bảo vệ Nhân Dân.

2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

Trong thư gởi Các Anh hồi tháng 11 năm 2011, tôi mời Các Anh nhìn lại lịch sử Việt Nam 1.000 năm bị Trung Hoa phong kiến cai trị, và lịch sử đương đại qua các góc nhìn: Biên giới, Vịnh Hạ Long, trên Biển Đông, và trong nội địa Việt Nam, dưới quyền lãnh đạo của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Trong thư này, mời Các Anh nhìn lại những sự kiện xoay quanh nhóm chữ “quá khứ - hận thù - hòa giải - hòa hợp” mà lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh thường sử dụng để kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại hãy quên quá khứ để về giúp đất nước, đồng nghĩa với giúp lãnh đạo đảng với nhà nước tăng thêm khối tài sản riêng tư.

Chắc Các Anh còn nhớ ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) sang đất nước mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “đế quốc Mỹ đang giẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản” hồi tháng 6/2008 chớ. Tôi gọi “Thủ Tướng đảng cộng sản” vì Bộ Chính Trị cử ông Dũng chớ có phải vị lãnh đạo do dân bầu ông ấy vào chức Thủ Tướng đâu mà gọi là Thủ Tướng Việt Nam. Đây là tôi nói theo cách nói của tiến sĩ Lê Đăng Doanh của Các Anh chớ không phải tự tôi tưởng tượng đâu. Nhưng cũng có thể Các Anh phản bác lại rằng: “Anh nói bậy, Thủ Tướng Việt Nam là do Quốc Hội bầu ra”. Đúng là Quốc Hội bầu ông ta, nhưng toàn thể đại biểu trong Quốc Hội là do đảng cộng sản chọn trước rồi mới đưa danh sách cho dân bầu. Chẳng lẽ Các Anh lại quên bài học “Nhân Dân làm chủ, Nhà Nước quản lý, Đảng lãnh đạo” rồi sao. Vì đảng lãnh đạo toàn diện, cho nên toàn bộ hệ thống tổ chức nhà nước gồm cả các ngành các cấp và suốt chiều dọc hệ thống giáo dục đều có tổ chức đảng bên cạnh, và quyết định của tổ chức đảng là quyết định chánh thức của các cơ quan mà. Vậy là từ Quốc Hội, Nhà Nước, Tư Pháp, đều trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của đảng, người dân phải bực mình (dường như Các Anh gọi là bức xúc thì phải) khi bị bắt buộc phải đi bầu, vì mất thì giờ vô ích.
Thêm nữa, tôi tin rằng, vào khoảng khắc nào đó khi mà Các Anh được sống với con người thật của mình, không biết Các Anh có tự hỏi: “Tại sao lãnh đạo đảng với nhà nước anh hùng Các Anh, hết người này đến người khác, cứ đến cái đất nước đang giẫy chết này hoài vậy?” Tôi tạm trả lời Các Anh nghe: “Tại vì, tên đế quốc này nó giẫy hoài chẵng những nó không chết mà nó vẫn cứ mạnh lên về mọi lãnh vực, cho nên lãnh đạo Các Anh phải quy lụy để cứu đảng CSVN mà trong đó có Quân Đội Nhân Dân Các Anh đang bên bờ vực thẳm. Nếu không như vậy thì cái đảng cộng sản và quân đội Các Anh bị phá sản từ đầu những năm 90 giống như Liên Sô, thành trì vững chắc của cộng sản mà lãnh đạo Các Anh tôn sùng đã tan rã vậy”. Tôi nói thêm cho rõ, câu “đế quốc Mỹ đang giẫy chết .... không phải do tôi đặt ra đâu, mà là bài học số 1 trong trại tập trung Long Giao hồi tháng 8/1976 do Thượng Tá Công An tên Bình từ Bộ Công An ở Hà Nội vào bắt chúng tôi phải học đó.
Không biết lãnh đạo đảng với nhà nước của Các Anh có cảm nhận nỗi nhục khi nhìn thấy Tượng Đài Nạn Nhân Cộng Sản Thế Giới tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn không nhỉ? Tượng đài này khánh thành ngày 12/6/2007 do Tổng Thống “đất nước đang giẫy chết” chủ tọa đó. Tượng đài này là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100 triệu nạn nhân cộng sản -gồm cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng tôi đã bị quân đội Các Anh giết chết- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ cộng sản đến tận cùng gốc rễ, vì chế độ cộng sản là phi nhân tàn bạo. Hai nhóm chữ tô đậm này là lời lên án mạnh mẽ trong bài phát biểu của Tổng Thống Hoa Kỳ, dĩ nhiên là lời lên án này có đảng CSVN của Các Anh nữa đó.
Trở lại Thủ Tướng CSVN đến Houston ngày 26/6/2008. Từ sáng sớm, chúng tôi đông đảo đến mức như một rừng người với một rừng cờ vàng ba sọc đỏ cùng với cờ Hoa Kỳ dọc theo đại lộ Westheimer trước cửa khách sạn “The Westin Oaks”, nơi ông ta hội họp để xin Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam. Những máy thu hình của các đài phát hình Việt Nam lẫn đài phát hình Hoa Kỳ cùng máy thu thanh của phóng viên các đài Hoa Kỳ phát thanh chương trình Việt ngữ, thu thanh tiếng Anh lẫn tiếng Việt rõ ràng từng câu: “Tự Do Cho Việt Nam - Nhân Quyền Cho Việt Nam - Cộng Đồng Tị Nạn Cộng Sản Không Cần Tòa Lãnh Sự Cộng Sản”, … . Không một câu nào đòi bất cứ điều gi cho Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại cả.

Trong buổi họp tối tại khách sạn Hilton, ngoài phái đoàn của Thủ Tướng CSVN cả trăm người, số người mà ông Thủ Tướng gọi là kiều bào doanh gia khoảng “30 khúc ruột ly hương ngàn dặm bị ung thư” lẻn vào tham dự. Với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, Thủ Tướng CSVN cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn. Khi ngồi nói chuyện với Tổng Thống Bush, tôi nghe kiều bào hô đả đảo Thủ Tướng mà thấy buồn. Chưa hẳn họ thù ghét cá nhân Thủ Tướng mà chỉ là mặc cảm với quá khứ …”
Thật ra thì nhóm chữ “hãy quên quá khứ, đừng mặc cảm với quá khứ mà về xây dựng đất nước …” không phải là sản phẩm của ông Dũng đâu, mà là Thủ Tướng CSVN nói theo lời ông Nguyễn Minh Triết đã nói trong bữa tiệc tại khách sạn Saint Regis Resort vùng Nam California ngày 23/6/2007. Nhưng câu đó cũng không phải sản phẩm của ông Chủ Tịch nước, mà ông Triết nói theo ông cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt sau khi hết quyền lực, vậy mà ông Kiệt cũng bị chết bất đắc kỳ tử rồi.
Nhớ lại từ giữa những năm 70 đến giữa những năm 80, lãnh đạo Các Anh gọi chúng tôi là “cái bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn đỉ điếm, bọn lưu manh cặn bả của xã hội, .....”. Giá mà bác Hồ của Các Anh còn sống đến bây giờ, không biết ông ấy nghĩ gì khi nhìn thấy cái bọn lưu manh cướp giật đỉ điếm Hồ Chí Minh nườm nượp khắp phố phường so với Sài Gòn chúng tôi thời chiến tranh, chắc bác Các Anh mừng lắm vì chính sách trăm năm trồng người của ông ấy thành công rồi! Thế nhưng từ giữa những năm 80 khi lãnh đạo Các Anh nhận thấy Cộng Đồng tị nạn giàu lên và gởi tiền về Việt Nam cùng với tuổi trẻ thành đạt trong nền học vấn văn minh tân tiến ngày càng nhiều thêm, lãnh đạo Các Anh hạ giọng gọi Cộng Đồng chúng tôi là “Việt kiều yêu nước”. Từ giữa những năm 90 về sau, lại hạ giọng lần nữa để gọi Cộng Đồng chúng tôi là “khúc ruột ly hương ngàn dặm”, .... Nhưng Các Anh có biết tại sao lãnh đạo của Các Anh lại hạ giọng như vậy không?” Mời Các Anh đọc một đoạn trong bài viết của ông Nguyễn Phú Bình, Thứ Trưởng Ngoại Giao đảng CSVN, “Chủ Nhiệm Ủy Ban Về Người Việt Nam Ở Nước Ngoài” viết ngày 11/8/2005, đăng trên trang báo điện tử với tựa bài Cộng Đồng Người Việt Nam Ở Nước Ngoài, Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám Của Việt Kiều. … “Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới người nước ngoài gốc Việt đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiễn học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. “
Chưa hết, về số tiền mà Cộng Đồng chúng tôi gởi chánh thức về trong nước trong năm 1991 là 35 triệu mỹ kim, gia tăng dần, trong năm 1999 là 1 tỷ 100 triệu mỹ kim, trong năm 2005 là 3 tỷ 800 triệu mỹ kim. Cộng chung các năm từ 1991 đến năm 2005 là 33 tỷ 803 triệu mỹ kim (Nếu tính đến năm 2010, con số đó lên đến 53 tỷ 0 trăm 34 triệu mỹ kim).
Chắc Các Anh dễ dàng nhận thấy sức mạnh về trí thức và tài chánh của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại rồi chớ? Do vậy mà lãnh đạo Các Anh luôn miệng kêu gào Cộng Đồng chúng tôi “hãy quên quá khứ để mang tiền mang vàng, tài năng, và hãy hòa giải hòa hợp để xây dựng đất nước”. Có thiệt không đây? Vì Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng có nhiều dự án thì lãnh đạo các cấp của các Anh -chớ không phải Các Anh- càng có thêm nhiều mỹ kim, và sau khi rửa sạch đem gởi ngân hàng ở ngoại quốc để khi tháo chạy có mà thụ hưởng. Chúng tôi đâu có điên mà giúp lãnh đạo Các Anh nuôi dưỡng cái chế độ cộng sản độc tài tham nhũng để gây thêm đau khổ cho đồng bào trên quê hương Việt Nam.

Vậy mà, đến nay đã 36 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Các Anh xâm lăng đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, lãnh đạo Các Anh cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản quên quá khứ kinh hoàng của mình để về làm việc cho họ? Tôi nói “làm việc cho họ”, vì lãnh đạo CSVN có phục vụ đất nước dân tộc đâu mà gọi là phục vụ quê hương đồng bào. Bằng chứng: (1) Nếu phục vụ đất nước thì lãnh đạo Các Anh: Đâu có bán cho Trung Cộng 789 cây số vuông trên bộ và 11.362 cây số vuông trên biển: Đâu có đồng tình để Trung Cộng sáp nhập hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào quận Tam Sa của Tàu. Đâu có bán đất cho ngoại quốc dưới danh nghĩa kinh doanh! (2) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nỡ bán hằng chục ngàn thanh thiếu nữ ra các nước lân bang làm điếm. Đâu có đẩy hằng mấy trăm ngàn thanh thiếu nữ Việt Nam ra ngoại quốc làm vợ thiên hạ ngang qua các dịch vụ quốc doanh trá hình. Đâu có bắt vào nhà tù hằng trăm công dân dũng cảm đứng lên giành lại quyền làm người mà Hiến Pháp CSVN qui định. (3) Nếu phục vụ dân tộc thì lãnh đạo Các Anh: Đâu nở đàn áp bắt giữ thanh niên sinh viên học sinh biểu tình chống đối Trung Cộng lấn chiếm đất đai biển cả, bắn giết ngư dân. Đâu có hành hạ dối gạt hằng chục ngàn thậm chí là hằng trăm ngàn đồng bào kêu oan khiếu nại thưa kiện vì đất đai tài sản bị các loại cường hào ác bá CSVN tại các địa phương trấn lột cướp đoạt dưới những tên gọi khác nhau. (4) Và nếu phục vụ người dân tại sao tổng sản phẩm quốc gia (GDP) Việt Nam có gia tăng mà người dân ngày càng nghèo khổ như chưa thời nào nghèo khổ đến như vậy! Trong khi đại đa số người dân càng nghèo thì tất cả đảng viên hàng lãnh đạo các cấp từ trung ương xuống đến hạ tầng cơ sở ngày càng giàu thêm, giàu đến mức phung phí trong các cuộc cá độ đá banh lên đến hằng triệu mỹ kim, giàu đến mức mua xe với giá bạc triệu đô la, còn mua cả phi cơ riêng nữa chớ. Một phần của nguồn gốc khối tư bản đỏ đều gắn liền giữa kinh tế quốc doanh với các cấp lãnh đạo của Các Anh qua những chằng chịt khác nhau.

Nói đến quá khứ, bản thân tôi rất muốn quá khứ trôi vào quên lãng giúp não bộ thêm phần thư giản, nhưng không thể nào quên được! Vì cái quá khứ mà lãnh đạo Các Anh gây ra trên dãi đất quê hương, trên thể xác lẫn tâm hồn của mọi người dân Việt, nó cay đắng quá, nó tàn bạo quá Các Anh à! Đây là sự thật mà lãnh đạo CSVN không thể nào phủ nhận được. Tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện hướng đến một tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ những ngày đầu năm 1975 và sau đó, chúng tôi mới có thể quên được quá khứ. Việc sai thì không sao kể hết, nhưng tôi tóm vào 7 vấn đề sau đây, mời Các Anh đọc:

Một. Vào ngày 30/4/1975 và những ngày trước đó, hằng chục ngàn thương phế binh chúng tôi đang trong các Tổng Y Viện và Quân Y Viện, Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi quẳng Họ ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi lãnh đạo Các Anh bảo “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh có trách nhiệm bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ kèm thoe lời xin lỗi từ Bộ Chính trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hoà hợp.

Hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi dưới những nhóm chữ khác nhau để che đậy cái bản chất gian trá lọc lừa của đảng CSVN. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh chiếm đoạt, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ để hòa giải hòa hợp”, làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy, và kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải & hòa hợp.

Ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua một cơ quan luật pháp nào khi bắt giam ít nhất là 222.809 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đưa vào hơn 200 trại tập trung trong mục đích vừa tẩy não vừa cho chết dần chết mòn trong các xó rừng mà Các Anh gọi là “trại cải tạo”, và hành hạ tinh thần lẫn thể xác cho đến 17 năm mới thả hằng trăm người cuối cùng, và cho đến nay lãnh đạo Các Anh trong những bài phát biểu trước đám đông vẫn gọi chúng tôi là “ngụy quân ngụy quyền”, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi, trong ngần ấy thời gian bị giam giữ, kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Bốn. Chắc lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi không thể sống nỗi dưới sự kềm kẹp chính trị độc tài, nên phải liều chết tìm đường đến bến bờ tự do với cái giá phải trả thật khủng khiếp! Lúc ấy, lãnh đạo Các Anh sử dụng tất cả những lời lẽ xấu xa nhất để sỉ nhục chúng tôi, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ Bộ Chính Trị của Các Anh phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, để rút lại những lời sỉ nhục đó. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất nơi đây, nhưng với bản chất vô nhân của đảng cộng sản đã “thêm một lần tàn sát thi thể Họ” qua hành động đào xới mồ mả, vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng do bản chất gian trá vi phạm những điều mà lãnh đạo Các Anh đã ký kết, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh như trước khi quân đội Các Anh tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc, kèm theo lời xin lỗi gia đình tử sĩ Việt Nam cộng Hòa từ Bộ Chính Trị của Các Anh. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ, để tiến đến hòa giải hòa hợp!

Sáu. Lãnh đạo các Anh sau khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, đã áp dụng chính sách cai trị độc tài, bịt mắt bịt tai bịt miệng nói chung là tước đoạt tất cả quyền căn bản của mỗi con người mà thế giới thừa nhận, rồi bảo chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải trả lại những quyền căn bản của con người, những quyền được sống tự do, và những quyền tư hữu cho 89 triệu công dân trên quê hương Việt Nam. Trước mắt, trả tự do cho tất cả những công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đã dũng cảm đứng lên đòi lãnh đạo của họ phải bảo vệ đất đai biển cả trước kẻ thù từ trong lịch sử kèm theo lời xin lỗi từ Bộ Chính Trị, và thực hiện đúng đắn những Công Ước Quốc Tế đã ký kết về quyền con người.

Và bảy. Về vấn đề hòa giải hòa hợp. Tôi nghĩ, nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau, vì từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng với lãnh đạo Các Anh, dù là lời nói hay lời viết, họ chỉ dùng chữ “hòa hợp“ hoặc “hòa hợp hòa giải”, mà thực chất chỉ là kêu gọi dụ dỗ Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận.

Nhưng tại sao lãnh đạo của Các Anh không hòa giải với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ mà, vì:

(1)Theo tài liệu của Bộ Tài Nguyên & Môi Trường của nước CHXHCNVN phổ biến ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ... đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức vì đất đai nhà cửa bị các địa phương cướp đoạt”.
Theo bản tin AFP ngày 25/11/2011, một báo cáo về tình trạng tham nhũng trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam đã được công bố. Nghiên cứu này, được tiến hành theo yêu cầu của Ngân Hàng Thế Giới, sứ quán Thụy Điển và Đan Mạnh tại Việt Nam. Tài liệu nhận định tệ nạn tham nhũng đã trở nên phổ biến. Theo đại sứ Thụy Điển Staffan Herrstrom: “Có tới 86% số hộ gia đình được hỏi cho biết là họ có cảm giác nạn tham nhũng tồn tại trong lĩnh vực đất đai, 33% số doanh nghiệp nói rằng họ đã phải hối lộ để có được quyền sử dụng đất. Theo luật Việt Nam, đất đai thuộc sở hữu của nhà nước nhưng người dân hoặc doanh nghiệp có thể mua, trao đổi hoặc bán giấy chứng nhận sử dụng đất. Bản nghiên cứu nhấn mạnh, việc cấp giấy sử dụng đất là một trong những nguồn gốc của tệ nạn tham nhũng”. Đại sứ Thụy Điển nói: “Thủ tục cấp giấy phép sử dụng đất rất nặng nề, cực kỳ quan liêu, tạo ra một môi trường tham nhũng sinh sôi nẩy nở”. Trong khi đó, đại diện sứ quán Đan Mạch nhấn mạnh: “Do tham nhũng, người nghèo càng nghèo hơn và người giàu càng giàu hơn. Nguyên nhân là do việc chuyển giao đất đai của một bộ phận dân chúng ở nông thôn cho các nhà đầu tư và những người gi àu có ở thành thị, với mức giá thấp hơn thị trường. Bản báo cáo nhận định, tình trạng này dẫn đến việc người dân mất tin tưởng vào chính quyền, bởi vì có hiện tượng xung đột lợi ích, nói một cách khác là các quan chức hưởng lợi, nhận hối lộ khi ra các quyết định trưng dụng, thu mua đất đai của dân nghèo, để giao cho các đối tác khác và tham nhũng đã tạo ra một sự bất ổn định xã hội thực sự. Tại Việt Nam, cho đến nay, vẫn có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai, đền bù thấp đã gây ra nhiều bất bình trong tầng lớp dân nghèo ở nông thôn. Nhiều vụ xung đột, tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người, đã xẩy ra trong những năm gần đây”.

Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải bằng cách:
“(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng với nhà nước.
(b) Trả lại quyền tư hữu cho tất cả những ai từng là chủ hoặc người thừa kế của ruộng đất.
(c) Hoàn trả toàn bộ nhà cửa cũng như cơ sở kinh doanh thương mãi cho đồng bào mà CSVN ngang nhiên tịch thu sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, và bồi thường sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã sử dụng suốt thời gian tịch thu trái phép.
(d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm này”.

(2) Với những cuộc mít tinh biểu tình của tuổi trẻ Việt Nam, thể hiện tinh thần trách nhiệm của người dân thức tỉnh trong một xã hội bị CSVN bịt mắt bịt tai bịt miệng, với mục đích bảo vệ chủ quyền đất đai biển cả của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa, được nói lên tiếng nói dân chủ tự do và nhân quyền, nhưng lại bị bắt bỏ tù. Vậy lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với thành phần dũng cảm này bằng cách: “(a) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (b) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (c) Hủy bỏ Điều 4 cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến dân chủ và các quyền tự do của người dân theo Công Ước quốc tế. (d) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà tòa án nhận lệnh từ lãnh đạo Các Anh ghép họ vào tội hình sự, và bồi thường thiệt hại về mức thu nhập của họ trong suốt thời gian giam giữ”.

(3) Với hoạt động của các tôn giáo, tại sao phải sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi khai sinh ra những tổ chức “tôn giáo quốc doanh trong khi miệng thì nói đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị, giống như thời thực dân Pháp chia Việt Nam thành Nam Kỳ Trung Kỳ Bắc Kỳ để cai trị hơn trăm năm trước. Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với tôn giáo bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả, hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

3. KẾT LUẬN.

Nếu lãnh đạo của Các Anh hành động được như vậy với 89 triệu đồng bào trong nước, thì Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại không có lý do gì mà không hòa giải & hòa hợp với lãnh đạo Các Anh, đồng thời cung ứng tài năng và tài chánh về tham gia xây dựng đất nước.
Về phần Các Anh, tôi mong là Các Anh đừng nhìn những sự kiện trên đây một cách vô cảm nữa. Tôi mong Các Anh tìm lại được chính mình, còn suy nghĩ hay hành động gì là tùy Các Anh.

Để chấm dứt bài này, tôi mượn vài đoạn dưới đây trích trong bài viết “Bao Giờ Mới Có Được Sự Hòa Giải Giữa Người Việt Với Người Việt” của tác giả Trần Mạnh Hảo, trình bày trong cuộc hội thảo nhà văn xã hội chủ nghĩa tại Hà Nội năm 2011:

“ ......Trong hội thảo vừa rồi, tôi là người được phát biểu sau cùng, và với thời gian cũng rất hạn hẹp. Tôi cũng không hiểu tại sao khi tôi phát biểu được khoảng mươi, mười lăm phút thì có ý kiến của Chủ Tịch Đoàn ra dấu hiệu là thời gian không còn nhiều, tôi phải rút ngắn bài phát biểu của tôi đi. Thế nhưng tôi rất quan tâm đến vấn đề hòa hợp giữa người Việt với người Mỹ bởi vì chính cái đợt William Joiner mời tôi qua Mỹ để nghiên cứu về cộng đồng người Việt, tôi đã thấy một thực tế không thể quay lưng lại được. Đó là vấn đề cách đối xử, quan hệ giữa người Việt với người Việt sau chiến tranh thì phải nên như thế nào.... Đến phần cuối cùng tôi có nói như thế này: “Thưa các bạn trẻ, trong hội trường của chúng ta hôm nay, số lượng các bạn trẻ là sinh viên khoa Văn của trường đại học Văn Hóa Hà Nội tới đây rất là đông. Các bạn là tương lai, cho tôi được đối thoại với tương lai. Tất cả những tham luận trước không đề cập đến vai trò của các bạn trong hội thảo này. Tôi muốn nói với các bạn rằng, vấn đề hòa hợp giữa người Việt và người Mỹ thì coi như đã xong, cái kết rất có hậu. Nhưng cái gánh nặng để hòa hợp hòa giải giữa người Việt với người Việt thì hình như đến thế hệ các bạn vẫn phải lo. Mà cái chuyện này nó dài, các bạn sẽ có thời gian để tìm hiểu một cách thấu đáo một cách khách quan, một cách chân thành. Nhưng theo thiển ý của tôi, bằng vào những va chạm và sự hiểu biết của tôi, thì tôi thấy để tiến tới được việc hòa hợp hòa giải giữa người Việt trong nước và người Việt ngoài nước, thậm chí cả người Việt trong nước với nhau, thì có lẽ cũng phải đặt trên những cơ sở, những nguyên tắc nào đó, những định hướng nào đó thì mới trở thành hiện thực được.

Có thể có những góc nhìn khác nhau: Góc nhìn của người ở hải ngoại, của những người trong nước, góc nhìn của những người cầm quyền, góc độ của những người không có quyền, những người bình dân, góc độ của những người trí thức…Nhưng theo thiển ý của tôi, theo sự hiểu biết rất sơ sài và ít ỏi của tôi, thì tôi nghĩ rằng có lẽ có hai nguyên tắc chính để đi tới sự hòa hợp hòa giải. Nguyên tắc thứ nhất mà tôi nghĩ rằng rất quan trọng là phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì mới có thể có sự hòa hợp hòa giải thực sự. Và nếu không chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt thì không bao giờ đi đến sự hòa hợp hòa giải cả. Đây là vấn đề khoa học, chứ không phải là vấn đề lập trường quan điểm hay tư tưởng. Nguyên tắc thứ hai mà tôi cho rằng cũng rất quan trọng, mà kinh nghiệm này thì chúng ta thấy tình hình thế giới diễn ra như bây giờ, thấy sự hòa hợp hòa giải giữa Đông và Tây Đức, và của chính nước Mỹ sau cuộc nội chiến năm 1860-1865, là chúng ta phải đặc biệt công bằng và minh bạch với quá khứ. Khi chúng ta biết chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt rồi, mà chúng ta không công bằng và không minh bạch với quá khứ, thì chắc chắn là cũng không thể dẫn đến sự hòa giải thực sự bền vững được. Có lẽ đấy là những điều căn bản nhất mà tôi tâm niệm, tôi rất là tha thiết và cũng đã trình bày điều đó trước cuộc hội thảo này.....

Điều cuối cùng mà tôi muốn nói với các bạn trẻ rằng: “Thưa các bạn, tâm hồn con người nặng gấp trăm lần thể xác. Bởi thế chúng ta phải đặc biệt coi trọng đời sống tinh thần của một dân tộc”.

Đúng ra là bài viết chấm dứt ở đây, nhưng tôi vừa nhận được bài viết ngày 1/12/2011 của Thiếu Tướng cộng sản Nguyễn Trọng Vĩnh, “Chưa bao giờ Việt Nam bị hại bởi người láng giềng hữu nghị như từ 1979 đến nay” từ trong nước gởi ra, mời Các Anh ráng thêm khoảng 3 phút nữa là đọc xong.

“Việt Nam không hề khiêu khích và xâm phạm vào đất Trung Quốc. Thế mà năm 1979, Trung Quốc huy động hàng chục sư đoàn “dạy cho Việt Nam một bài học”, giết hại dân và tàn phá bốn tỉnh của Việt Nam; đánh chiếm cao điểm 1509 trong huyện Vị Xuyên - Hà Giang của chúng ta; năm 1988, đánh đắm tàu hải quân, giết hơn 70 chiến sĩ, sĩ quan và chiếm một số bãi đá ngầm trong quần đảo Trường Sa của chúng ta. Trong đàm phán biên giới, họ ép ta làm ta mất một nửa thác Bản Giốc, dân ta cũng không được đặt chân đến Ải Nam quan nữa, tất cả ta mất hàng trăm km2 đất. Họ xóa hiệp định phân định ranh giới vịnh Bắc Bộ giữa hai Chính phủ Pháp - Thanh (do lịch sử để lại) đòi chia lại, ăn hơn của ta một phần hải phận.

“Sau khi nêu ra phương châm 16 chữ và 4 tốt với lãnh đạo ta, họ đã nghiễm nhiên đứng được trên nóc nhà Đông Dương, vị trí chiến lược xung yếu của ta, khai thác Bốc-xít, di hậu họa cho hàng triệu đồng bào ta.
Các công ty của họ thuê rừng 50 năm để trồng cây Bạch Đàn, trước tiên là chặt cây phá rừng, tạo thêm nguyên nhân gây lũ lụt cho ta. Bạch Đàn là cây ăn rất hại đất, hết hạn thuê, họ rút đi để lại cho ta hàng dãy hecta đất trống đồi trọc, vì không cây gì mọc được. Đây là một mưu kế rất thâm hiểm hại ta. Nguy hiểm hơn nữa là các công ty của họ thuê các khoảnh rừng trong đó ôm cả những đồi cao 600-700m tại các huyện Tràng Định, Bảo Lộc của Lạng Sơn và Tiên Yên của Quảng Ninh, có nơi chỉ cách biên giới Trung Quốc 700m. Họ phá rừng để trồng Bạch Đàn, phá rừng làm đường vào khu rừng họ thuê, họ làm đường xoáy trôn ốc lên đỉnh các đồi cao nói trên. 50 năm không ai kiểm soát được, họ có xây dựng công sự gì trên đỉnh các cao điểm ấy cũng không ai biết, liệu có để sau này sử dụng như cao điểm 1509 ở Vị Xuyên trước đây không?

“Ngoài việc năm 1974, đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta, họ tự ý vẽ một cái “lưỡi bò” rất phi pháp bao chiếm gần hết biển Đông của Việt Nam, khoanh vùng cấm ngư dân ta vào đánh cá trong hải phận của mình, bắn chết, bắt ngư dân ta, tịch thu tài sản, ngư cụ, giam giữ, phạt tiền, dùng “tàu lạ” đâm chìm tàu cá của ngư dân ta. Cậy có Hải Quân mạnh, tập trận diễu võ dương oai ở Biển Đông, uy hiếp ta, luôn tuyên bố sẽ “thu hồi” Tây Sa tức Trường Sa của Việt Nam, mà họ to mồm nhận xí là của họ.

“Họ thuê dài hạn một đoạn bờ biển ở Đà Nẵng, nói là để xây dựng “khu vui chơi giải trí”, xây nhà máy điện nguyên tử chỉ cách biên giới tỉnh Quảng Ninh 60km, nếu rò rỉ phóng xạ thì bên ta mang họa.

“Trên thượng nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc xây một hệ thống đập trong đó có đập Tiểu Loan, chặn mất một khối nước vô cùng lớn. Nam Bộ của chúng ta ở cuối dòng sông, mùa khô đồng bằng sông Cửu Long sẽ thiếu nước, liệu còn nuôi được cá tra, cá basa nữa không? Có đủ nước tưới cho các vùng cây trái không? Vựa lúa Nam Bộ có bị ảnh hưởng không? Sông cạn, nước mặn sẽ dâng sâu vào nội địa, triều cường càng dữ, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh liên quan sẽ sống ra sao? Trung Quốc chặn nguồn nước thượng lưu của một con sông quốc tế, thật là một kế hoạch ích kỷ, ác độc.

“Họ trúng thầu một loạt nhà máy nhiệt điện và một số công trình, họ tự do đưa ồ ạt lao động của họ vào. Thế là, trên khắp đất nước ta, từ “nóc nhà Đông Dương”, từ rừng núi tới đồng bằng, đến ven biển đã có hàng vạn người Trung Quốc rải ra, có phải là mối nguy tiềm ẩn không?

“Từ những tình hình trên, rõ ràng Việt Nam ta bị hại đủ đường, và bị o ép tứ phía. Vì đâu nên nỗi này? Nhân dân ta nghĩ gì?./.


Từ xứ cao bồi Texas, cuối tháng 12 năm 2011

*********

tieuchuy
01-24-2012, 01:23 AM
Thư số 3 gởi

Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
******
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo” 12 năm 3 tháng. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

1. GIÁO DỤC.

“Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt đều tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.

Giáo dục, bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.
(a) Giáo dục gia đình, do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình, nhất là ông bà cha mẹ.
(b) Giáo dục học đường, do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy.
(c) Giáo dục xã hội, do những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.

Giáo dục, thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính sách chiến lược như thế ấy: (a) Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục. (b) Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...

Nói chung, “giáo dục” trang bị cho những thế hệ về phẩm chất làm người trong khuôn thước văn hoá dân tộc, về khoa học kỹ thuật của thời đại thích hợp với mục tiêu quốc gia, về tinh thần trách nhiệm với cộng đồng dân tộc, và bổn phận công dân đối với tổ quốc. Vì vậy mà đường lối chính sách giáo dục của cấp lãnh đạo quốc gia như thế nào, sẽ dẫn đến một xã hội như thế ấy.

Đến đây, tôi nghĩ là Các Anh nhận thức được tầm quan trọng của Giáo Dục đối với những thế hệ công dân trong bổn phận bảo vệ tổ quốc và phát triển toàn diện các lãnh vực trong xã hội.

2. CÁC ANH HÃY NHÌN LẠI.

Với đoạn này, tôi mời Các Anh nhìn lại nền giáo dục xã hội chủ nghĩa 36 năm qua, và nhìn với nét nhìn từ con người thật của Các Anh (không phải con người của đảng) mới nhận ra sự thật, và tác hại của sự thật này trong hiện tại cũng như trong tương lai dài lâu.

Tôi muốn nói với Các Anh rằng, những sự kiện từ giữa thế kỷ 20 đến nay, đã chứng minh lãnh đạo đảng cộng sản với nhà nước Việt Nam chỉ phục vụ cho quyền lợi của đảng chớ không phục vụ nguyện vọng người dân, mà quyền lợi của đảng lại đồng nghĩa với quyền lợi riêng tư của lãnh đạo các cấp trong các ngành sinh hoạt xã hội. Để tạo được một xã hội như vậy, chế độ giáo dục học đường và giáo dục xã hội chủ nghĩa đặt trên nền tảng “xin và cho”, là một chính sách giáo dục vô cùng hiểm độc, vì chỉ đào tạo những thế hệ thần dân -hay ngu dân- để tuân phục, chớ không đào tạo những thế hệ công dân để xây dựng đất nước, nhưng lại được lồng trong cái tủ kính trưng hàng “con người là vốn quí” hay “trăm năm trồng người” của nhân vật lãnh đạo tàn độc nhất trong lịch sử Việt Nam: Hồ Chí Minh, và những nhóm lãnh đạo tiếp nối đến nay.

Một số công dân xã hội chủ nghĩa đã vượt khỏi chính sách giáo dục thần dân, cố gắng làm những việc tử tế cho xã hội mà trước mắt là giành lại những quyền căn bản của con người được qui định trong Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCN/VN), lại bị lãnh đạo Các Anh qui trách những công dân đó vào tội hình sự để bắt vào tù hoặc giam lỏng tại nhà dài hạn. Nếu muốn được tự do, phải chấp nhận sống lưu vong hải ngoại như nữ đạo diễn Song Chi lưu vong Na-Uy, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy lưu vong Hoa Kỳ, ..v..v... Bài bản cũ mèm này trong chính sách siết thòng lọng vào cổ người dân, đến khi cần dối trá với quốc tế thì nới ra đủ cho nhân viên truyền thông ăn lương nhà nước rao giảng cái gọi là chính sách “khoan hồng nhân đạo”. Tất cả, do nền giáo dục xã hội chủ nghĩa mà ra.

Tôi dẫn chứng chính sách giáo dục liên tục từ năm 1989 đến nay:

Năm 1989. Trích bài viết của Vũ Hạnh đăng trong báo Công An ngày 31/05/1989 tại Sài Gòn, cho thấy giáo dục như thế nào trong hội nghị tại Viện Nghiên Cứu Giáo Dục miền Nam.
(1) Nhà giáo Tôn Thuyết Dung trình bày: “Sách giáo khoa đang sử dụng đã lỗi thời vì nó được soạn ra trong thời kỳ chiến tranh, và chỉ nhắm vào lớp trẻ sống ở nông thôn miền Bắc. Tất cả chỉ phục vụ mà không quan tâm đến đạo đức, chuyên chở những chủ đề mà tầng lớp thanh thiếu niên không dễ gì cảm nhận được chứ nói gì đến học hỏi. Sách giáo khoa lại tham lam khi đề cập nhiều vấn đề, nội dung phản lại giáo dục ở điểm trưng dẫn những sự kiện xấu mà không chỉ dạy cách sửa đổi. Sách không đào tạo con người trước khi nói đến chủ nghĩa cộng sản. Về các câu hỏi để học sinh trả lời không nhắm vào chủ đề rõ rệt, không giúp học sinh phát huy nhận thức, trái lại gò ép học sinh trả lời một cách dối trá”.
(2) Ông Xuân Diệu nhận xét thật ngắn nhưng rất sâu sắc: “Một trong những thiếu sót quan trọng là giáo dục không đào tạo con người, nên rốt cuộc xã hội chúng ta chỉ có thần dân mà không có công dân”.
(3) Một nhận thức sâu sắc khác: “Giáo dục phải nhắm mục đích đào tạo con người dân chủ từ bé, phải chống lại sự tha hóa lớn nhất hiện nay là sự quanh co dối trá, sự thiếu thành thật giữa con người với nhau…”.

Năm 2000. Cố Trung Tướng cộng sản Trần Độ, để lại tập nhật ký “Rồng Rắn” ngày 7/12/2000, có đoạn liên quan đến giáo dục như sau: “Bộ máy quản lý xã hội đã thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính. Đó là chuyên chính tư tưởng, được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là “những lưu manh tư tưởng”. Nền chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói. Nó làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ gì, hay ít nhất cũng không muốn suy nghĩ. Từ đó làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc và biến họ trở thành những con rối, chỉ biết nhai như vẹt những nguyên lý bảo thủ giáo điều. Nó cũng làm cho nền giáo dục khô cứng, làm cho các hoạt động văn học nghệ thuật nghèo nàn, mất hết cơ hội sáng tạo và mất hết hào hứng. Nó cũng làm cho các hoạt động khoa học bị khô cứng và nô dịch. Nó tạo ra và nó bắt buộc nhân dân phải có một tâm lý lệ thuộc đảng, lệ thuộc nhà nước, lệ thuộc cán bộ, và một tâm lý phải tuân phục, kể cả người cao nhất cũng phải tuân phục vào một cái gì bí và hiểm (có lẽ ông Trần Độ muốn nói “người cao nhất” cũng phải tuân phục lãnh đạo Trung Cộng mà ông gọi là bí và hiểm chăng?. PB Hoa). Nói chung, nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt Nam là một tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng cùng các vua quan tàn bạo của Trung Hoa phong kiến, cộng với tội ác của các chế độ độc tài phát xít. Nó tàn phá cả một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Suy cho cùng, đó là tội nặng nhất về sự vi phạm nhân quyền. Vì không phải nó chỉ xâm phạm đến quyền sống của con người, mà nó còn hủy hoại đời sống tinh thần, đời sống tư tưởng của cả một dân tộc. Nó đang làm hại cả một nòi giống”.

Năm 2004.
(1) Giáo Sư Hoàng Tụy trong nhóm nghiên cứu giáo dục Hà Nội phát biểu: “Chương trình giáo dục Việt Nam trong bao nhiêu năm qua vẫn trong tình trạng lạc hậu, thi cử nặng nề với phẩm chất (mà ông gọi là chất lượng) rất kém. Sách giáo khoa cũng không thích ứng với hoàn cảnh đất nước, nghĩa là những cải cách trước đây không đạt được hiệu quả so với nhu cầu đất nước. Những sự kiện gian dối trong giáo dục cũng như trong thi cử, làm xói mòn niềm tin của tuổi trẻ lẫn của phụ huynh mà thành phần này luôn kỳ vọng vào nền giáo dục nước nhà, đã dẫn đến tình trạng ngày càng trở nên trầm trọng, thậm chí nó đánh mất niềm tin của mọi người trong xã hội”.
(2) Nhóm nghiên cứu giáo dục này cho biết thêm: “Ngày 23/2/2004 Bộ Giáo Dục & Đào Tạo đã ban hành Quyết Định, bắt buộc sinh viên đại học toàn quốc phải học và thi tốt nghiệp các môn học chính trị, bao gồm triết học Mác-Lê, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội khoa học, lịch sử đảng, và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quyết định này có hiệu lực từ ngày 9/3/2004, và tất cả sinh viên không có quyền chọn lựa mà phải học theo giáo trình chọn sẳn. Các môn học bắt buộc này chiếm đến 203 giờ, chiến khoảng 9% (?) thời lượng của chương trình đại học”.
(3) Một chuyên viên giáo dục tại Hà Nội, ông Quốc Việt nhận định: “Việc Bộ Giáo Dục bắt buộc sinh viên phải học các môn vô bổ đó là một quyết định phản khoa học, không phù hợp với chuẩn mực giáo dục quốc tế. Đồng thời lãng phí thời gian học, lãng phí tiền thuế của đồng bào đóng góp cho ngân sách quốc gia, nhất là tước bỏ quyền chọn lựa môn học thích hợp của sinh viên”.

Trong hội thảo tại Hà Nội hồi tháng 7 năm 2004 tổng kết sau thời gian cải cách giáo dục, với số đại biểu trong ngành giáo dục tham dự lên đến gần 1.000 người do Thủ Tướng chủ tọa, cho thấy tầm quan trọng của ngành này. Ông Trần Hồng Quân, Bộ Trưởng Giáo Dục trình bày diễn tiến và kết quả. Ông kết luận: “…Cuộc cải cách giáo dục trong thời gian qua là hoàn toàn thất bại. Vì cải cách theo quan niệm chắp vá chớ không cải cách toàn diện…”. Dựa theo kết luận đó, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu sử dụng câu nói của ông Phan Hiền để châm biếm cải cách giáo dục: “Sai đâu (thì) sửa đấy, sai đấy (nhưng) sửa (ở) đâu, (mà) sửa đâu (thì) sai đấy”.

Năm 2008. Tại Việt ISD Hà Nội vào ngày 6/6/2008, giáo sư Hoàng Tụy là một trong số ít trụ cột của nền giáo dục Việt Nam trình bày một cách thẳng thắn. Trích vài đoạn: “… Nếu Việt Nam cô lập với thế giới bên ngoài thì không đến nỗi lo lắng, nhưng nếu đặt giáo dục Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và nhìn một cách khách quan và có trách nhiệm, không thể nhắm mắt trước sự tụt hậu ngày càng xa của giáo dục Việt Nam so với các nước chung quanh, và so với yêu cầu phát triển của xã hội... Thực tế, đất nước ngàn năm văn hiến này đang trả giá nặng nề cho sự suy thoái trầm trọng của giáo dục kéo dài suốt 30 năm qua... Nội dung và phương pháp giáo dục thể hiện xu hướng hư học cổ lỗ, dành nhiều thời gian học những kiến thức lạc hậu vô bổ... Đặt nặng quá mức thi cử và bằng cấp, nhà trường đã vô tình trút vào xã hội mọi thứ rác rưởi độc hại là bằng cấp giả, bằng cấp dỏm, học giả... ... Phẩm chất (GS Tụy gọi là chất lượng) giáo dục sa sút một thời gian dài nhất là ở bậc đại học, cao đẳng, và dạy nghề. Khối nhân lực đào tạo ra còn rất xa mới đáp ứng được đòi hỏi của thực tế về số lượng lẫn phẩm chất giáo dục, nó trở thành nhân tố cản trở nghiêm trọng sự phát triển kinh tế...Tư duy giáo dục xơ cứng mà mấy thập niên qua hầu như không thay đổi…”
Vẫn theo Giáo sư Hoàng Tụy trên Vietnam Net ngày 7/6/2008 với bài “Nhìn thẳng vào khủng hoảng giáo dục Việt Nam”.
(a) Mở đầu với nhận định sắt bén: “Dù bảo thủ đến đâu, Bộ Giáo Dục & Đào Tạo cũng như bất cứ ai đều không thể làm ngơ trước nhiều vấn nạn giáo dục đã và đang làm đau đầu cả xã hội. Chỉ có nhìn thẳng, gọi tên đúng sự vật và chấp nhận thay đổi, coi cải cách là mệnh lệnh của cuộc sống mới có thể khắc phục tình trạng nguy kịch của ngành giáo dục Việt Nam. Chính Thủ Tướng Phan Văn Khải khi từ nhiệm đã thừa nhận chánh thức sự không thành công của giáo dục, dẫn đến thực trạng nghiêm trọng của giáo dục Việt Nam hiện nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức. Nhiều người có trách nhiệm vẫn tự ru ngủ mình với những thành tựu thực và ảo của giáo dục...”.
(b) Trong đoạn khác, ông nhấn mạnh: “Những sai lầm trong giáo dục do tư duy xơ cứng mà không hề thay đổi. Vẫn cách nghĩ thiển cận, vẫn giáo điều thời bao cấp được biến tướng ít nhiều để thích nghi với xu hướng du nhập từ bên ngoài phù hợp với lợi ích riêng của từng nhóm. Nền giáo dục chân chính của quốc gia nào cũng có sứ mạng cao cả về giáo dục con người, đồng thời mỗi xã hội có nhiệm vụ và yêu cầu khác nhau cho nền giáo dục của mình. Thêm nữa, con người sống trong xã hội lành mạnh cần cuộc sống trung thực và óc sáng tạo để góp phần phát triển đất nước. Nhưng tiếc thay, những điều đó đã không đuợc chú ý trong xây dựng nền giáo dục Việt Nam. Ngày nay, môi trường quốc tế đã biến đổi cực kỳ sâu sắc trong khi Việt Nam vẫn dựa vào kinh nghiệm giáo dục tư tưởng chính trị thời đấu tranh giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự giả dối lan tràn trong giáo dục tại Việt Nam”.

Tóm tắt bài viết “Giáo dục Việt Nam dưới nét nhìn của chuyên gia giáo dục Hoa Kỳ” do ông Nguyễn Gia Thưởng chuyển ngữ, trích trong trang Web của nhóm Thông Luận ngày 23/8/2008. Nội dung bài này là đề tài thảo luận khi Thủ tướng cộng sản Nguyến Tấn Dũng gặp Tổng Thống Hoa Kỳ hồi tháng 6 năm 2008 tại Washington DC. “Việt Nam đang đối mặt với cuộc khủng hoảng toàn diện về giáo dục: Viên chức không được đào tạo quản trị. Nhà giáo được đào tạo rất kém với đồng lương quá thấp. Cơ hội học đại học rất hạn hẹp vì cơ sở không phát triển, số giảng viên giảng sư không gia tăng, bằng chứng là năm 2007 các trường đại học chỉ tuyển 300.000 sinh viên trong tổng số 1.800.000 thí sinh. Mặt khác, số lượng sinh viên ghi tên vào ngành giáo dục chỉ 10%, trong khi Trung Hoa cộng sản 15%, Thái Lan 41%, Đại Hàn 89% (thống kê của Ngân Hàng Thế Giới). Bằng tiến sĩ thì mua, còn giáo sư thì được đề cử qua thủ tục hành chánh chớ không do công trình và sự nghiệp sư phạm. Nạn tham nhũng tràn lan chẵng khác bệnh ung thư trong ngành giáo dục. Việt Nam thua kém các quốc gia chung quanh về việc cung ứng hiểu biết và canh tân giáo dục, khi nhìn vào số lượng tập san khoa học do các trường đại học ấn hành. Năm 2006, hai đại học lớn nhất Việt Nam là đại học quốc gia và đại học kỹ thuật Hà Nội ấn hành 34 tập san, trong khi đại học quốc gia Seoul (Đại Hàn) là 4.556 và đại học Bắc Kinh gần 3.000 tập san khoa học. Cũng trong năm 2006, về đơn xin bằng sáng chế của Việt Nam chỉ nộp có 2 đơn, trong khi Trung Hoa cộng sản đến 40.000 đơn. Số sinh viên từ các trường đại học Việt Nam có trình độ rất kém, bằng chứng là công ty Intel của Hoa Kỳ phỏng vấn 2.000 sinh viên Việt Nam vừa tốt nghiệp đại học được xem là giỏi nhất trong tổng số, kết quả là công ty này chỉ chọn được 40 thí sinh có trình độ tối thiểu. Công ty Intel nói đây là kết quả tồi tệ nhất mà công ty gặp phải tại bất kỳ quốc gia nào mà công ty đầu tư. Do tình trạng giáo dục Việt Nam trên đây, có thể phá hỏng những phát triển kinh tế trong nước và tiến trình hội nhập thế giới”.

Năm 2009. Tham khảo và trích dẫn bài nghiên cứu của đại học Harvard Hoa Kỳ về “Hiện Trạng Gíáo Dục Bậc Cao Đẳng & Đại Học tại Việt Nam”.
(1) Mở đầu với nhận định sắc bén: “Thật khó mà phóng đại hơn nữa về mức độ nghiêm trọng của tình trạng suy sụp trong hệ thống giáo dục mà Việt Nam đang đối đầu. Nếu không có một công cuộc cải tổ cấp thời từ thể chế cho hệ thống giáo dục bậc đại học thì Việt Nam sẽ thất bại hoàn toàn trong mục tiêu đạt đến các tiềm năng to lớn của quốc gia này. Sự phát triển kinh tế của vùng Đông Bắc Á và Đông Nam Á cho thấy mối liên hệ mật thiết giữa nền giáo dục với sự phát triển quốc gia, cho dù mỗi quốc gia trong vùng Đông Bắc Á như South Korea, Singapore, Taiwan, ... theo đường lối có phần riêng biệt, nhưng căn bản vẫn là từ giáo dục dẫn đến phát triển. Trong khi đó, vì không đạt được sự xuất sắc trong giáo dục nên Thailand, Philippines, và Indonésia, tuy thành công trong sự phát triển nhưng chưa đạt được nền kinh tế tân tiến so với các quốc gia vùng Đông Bắc Á nói trên. Và điều chẳng lành cho tương lai Việt Nam do giáo dục của Việt Nam nhất là ở bậc đại học, còn sa sút đến mức đứng sau cả các quốc gia kém mở mang lân cận. ...

(2) Nhận định về bậc đại học: “... Trong danh sách 100 trường đại học nổi tiếng của Châu Á, Việt Nam không có một trường nào cả, trong khi Nam Hàn có đến 16 trường, Trung Cộng có 14 trường, đảo quốc Đài Loan có 11 trường, Malaysia có 5 trường, Thái Lan có 5 trường, Nam Dương có 4 trường, Singapore có 2 trường, Phi Luật Tân có 2 trường, và tệ nhất là Pakistan cũng có được 1 trường trong danh sách đó. Điều này chứng minh là nền giáo dục Việt Nam nhất là giáo dục bậc đại học, bị tách biệt ra ngoài dòng kiến thức khoa học kỹ thuật quốc tế. Một chứng minh rõ nét nhất là thống kê số lượng những công trình nghiên cứu khoa học nói trên. Vì vậy mà không có gì phải ngạc nhiên, vì học sinh sinh viên Việt Nam chỉ được trang bị hành trang giáo dục một cách tồi tệ, nên kết quả mà quốc gia mong đợi chỉ đến đó là cùng. ....

(3) Bảng nghiên cứu nhận định về nguyên nhân: “Việt Nam trải qua giai đoạn bị Pháp cai trị từ nửa cuối thế kỷ 19 đến giữa thể kế 20, giai đoạn chiến tranh giữa cộng sản với tự do, tiếp theo là giai đoạn Việt Nam bị cai trị bởi chế độ độc tài xã hội chủ nghĩa với chính sách giáo dục mà bậc đại học lệ thuộc vào cơ quan quyền lực cấp trung ương, với sự kiểm soát cao độ. Nhà nước quyết định tất cả, các trường đại học không được quyết định bất cứ vấn đề hành chánh lẫn chuyên môn của trường, ngay cả vấn đề lương bổng và thăng thưởng cũng căn cứ trên lý lịch gia đình, lý lịch chính trị, nhất là những móc nối cá nhân. Phát sinh kiến thức là một công trình không biên giới, nhưng sinh viên Việt Nam thiếu hẳn mối liên hệ với quốc tế để học hỏi....

(4) Năm 2005, nhà nước ban hành Nghị Quyết 14 cải tổ giáo dục cao đẳng đến năm 2020 về những vấn nạn giáo dục, nhưng Nhà nước Việt Nam vẫn giữ quan niệm trọng tâm của mọi vấn đề cải tổ phải là nhà nước, mà lẽ ra phải là các học viện, trong khi hệ thống đại học Hoa Kỳ thì các học viện là nhân tố chính còn nhà nước giữ vai trò rất hạn chế.. ...

(5) Về sinh viên du học, cũng là vấn đề gai góc: ..
(a) Sinh viên Việt Nam du học ngoại quốc bắt đầu gia tăng từ năm 1986, nhưng chỉ là con em của những gia đình cán bộ đảng viên, và những sinh viên may mắn nhận được học bổng.
(b) Hiện nay, xã hội Việt Nam có sự chênh lệch quá xa về mức sống giữa người thành thị giàu sang tột đỉnh với người nông thôn nghèo khổ tột cùng.
(c) Việt Nam không thể nào chỉ trông cậy vào số sinh viên du học mà không tạo nên một hệ thống giáo dục thích ứng với mục tiêu phát triển quốc gia, thì các chuyên gia Việt Nam đào tạo từ đại học ngoại quốc vẫn tránh né nghề giảng huấn nếu phải trở về Việt Nam. Mặc khác, đại học danh tiếng quốc tế không bao giờ chấp nhận những sinh viên Việt Nam yếu kém, vì như vậy sẽ gây tổn thương danh tiếng của họ.

(6) Bản nghiên cứu kết luận: Cách duy nhất là Việt Nam phải cải tổ toàn bộ thể chế điều hành, đó là chìa khóa cải tiến toàn diện hệ thống giáo dục cho xã hội Việt Nam tương lai.

Tiếp theo bản nghiên cứu nói trên, Giáo sư Hoàng Tụy nhận xét: “Chúng ta có biết bao tiến sĩ, giáo sư và gần đây rộ lên cả mấy tá viện sĩ (chức danh này chưa có ở VN, nhưng nếu muốn trưng ra thì cả nước hiện nay cũng có thể trưng ra cả nghìn viện sĩ kiểu này chứ không ít), rồi lại có cả những bộ óc vĩ đại thế kỷ 21, nhiều nhân vật trí thức xuất chúng đến nỗi đang có kế hoạch phải dành 25 hecta đất vào thời buổi đất quý hơn vàng, để xây một Văn Miếu hiện đại mới đủ chỗ vinh danh bấy nhiêu bậc đại trí. Thế nhưng có ai dám chắc cái gia tài trí thức lớn ấy sau này sẽ được con cháu hoan nghênh khi đất nước đến hồi hưng thịnh? Bởi trí thức Việt Nam dễ mắc bệnh vĩ cuồng, không hòa nhập vào dòng chảy văn minh của thời đại, không chấp nhận luật chơi quốc tế, rồi ngày càng tụt hậu mà vẫn tự ru ngủ mình, tự đánh lừa mình, và đánh lừa nhân dân mình với những thành tích không có thật. Chạy theo danh hão, chạy theo quyền lực, chạy theo chức tước, là căn bệnh thời đại của trí thức Việt Nam hiện nay”.

Năm 2010. Trên "vietnamnet.vn/giaoduc" ngày 26/05/2010, nhà văn Dạ Ngân (trong nước) dùng chữ “du học để tị nạn giáo dục” khi trả lời cuộc phỏng vấn. Thoạt nghe tưởng như đùa, nhưng thật ra là chuyện rất thật nếu chúng ta nhìn vào nền giáo dục Việt Nam ngày nay. Bà nhận định: “Các ông bố bà mẹ hiện đại ở các đô thị đang có xu hướng “ấn” con đi du học càng sớm càng tốt? Xu hướng này phản ánh điếu gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay? (Xin lỗi là tôi để nguyên chữ hiện đại và phản ánh trong nguyên văn. PBH) ... Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm? Là vì cung cách của nền giáo dục Việt Nam không thể nào làm cho bậc cha mẹ an tâm. Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách, và phải học theo kiều “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm và học thêm mãi”.

Năm 2011. Nhà giáo Phạm Phúc Thịnh “kỹ sư tâm hồn xã hội chủ nghĩa”, giảng viên khoa ứng dụng tin học trường Đại Học Kinh Tế Kỹ Thuật Bình Dương, tâm sự nhân “Ngày Nhà Giáo 20/11 Năm 2011”. Lời mở đầu của tác giả: “Nhà giáo đang cô đơn giữa cộng đồng”. Rồi ông nói thêm:

(1) Ngày 20/11 lại đến! Một ngày mà lúc đầu mang ý nghĩa tôn vinh những người làm công tác giáo dục. Nhưng, theo dòng đời trôi nỗi, cùng với tác động của cơm áo gạo tiền, ngày ấy đã trở thành “ngày lễ thầy” với đúng nghĩa đen của nó. Thật vậy, cách tổ chức mừng ngày này tại các trường na ná giống nhau về hình thức. Các thầy cô giáo phải đến trường, nghe những lời huấn dụ phải thế này, thế kia... Điều quan trọng nhất là làm gì để cho vị thế của giáo viên trong xã hội được nâng cao, được tôn trọng, lại chia ở thì tương lai với động từ “sẽ...” mà không biết bao nhiêu năm “sẽ...” đã trôi qua. Tại sao trong ngày này, giáo viên không được nghỉ ngơi thư giãn, đi chơi đâu đó để có thể đón nhận những niềm vui thật sự từ học trò, từ người thân, từ bạn bè...

(2) Có ngày 20/11 để làm gì, khi những món quà tặng thầy cô bị biến tướng thành phong bì, voucher quà tặng với 1 chữ số khác 0 đứng trước và đi kèm theo đó là 5 hoặc 6 chữ số 0. Để rồi sau đó, các phương tiện truyền thông và một bộ phận xã hội người dân nói những lời xúc phạm nặng nề đến nhân cách của giáo viên. Là giáo viên chân chính không ai muốn điều đó cả. Nhưng hình như mọi người quên rằng, có những phụ huynh thật sự có điều kiện về kinh tế, họ không được tặng cho người thầy cô mà con cái họ yêu quý những món quà có giá trị lớn sao? Và giáo viên nhận những món quà này có gì sai chăng?

(3) Có ngày 20/11 để làm gì, khi mỗi ngày trong cuộc sống, giáo viên đang là những cố gắng giáo dục cho học trò viết đúng tiếng Việt, tôn trọng những chuẩn mực đạo đức của xã hội, tuân thủ luật pháp. Trong khi hàng loạt “Cối Xay Gió” kiểu “Sát Thủ Đầu Mưng Mủ” lại in vào đầu các em những câu văn vô nghĩa, những câu nói vớ vẩn mà một số người lớn lại biện minh đó là “sự sáng tạo của tiếng Việt hiện đại”. Những hành động vô cảm trước hoạn nạn của người khác, thậm chí còn hưởng lợi từ sự thiếu may mắn của người khác. Để rồi đến một ngày khi đám trẻ trở thành sát thủ, giải quyết mọi mâu thuẫn bằng bạo lực, mọi nguyên do lại được quy về “không biết thầy cô dạy dỗ như thế nào?”

(4) Có ngày 20/11 để làm gì, khi có những phụ huynh vì không nhìn thấy cái sai của quý tử nhà mình, sẵn sàng hành hung giáo viên, hả hê khi thấy giáo viên bị kỷ luật chỉ vì không kiềm chế được trong lúc nóng giận đã lỡ quất vào mông của quý tử đó một roi. Chưa thời nào mà nhà giáo lại là người dễ bị “bắt nạt” như thời bây giờ, nhà giáo bị phụ huynh hành hung, bị học sinh tấn công thì mọi chuyện sẽ không có gì ầm ĩ. Nhưng chỉ cần nhà giáo có một hành động gì đó không đúng chuẩn mực lắm thì ngay lập tức hàng loạt "cơn mưa đá" sẽ trút xuống nhà giáo rất tội nghiệp, mà hình như mọi người ném đá lại quên mất rằng nhà giáocũng có đầy đủ hỷ nộ ái ố của một con người bình thường.

(5) Khi cuộc sống đời thường của người giáo viên quá nghèo khổ thì bị nhìn với cặp mắt thương hại. Nhưng khi người giáo viên vươn lên thoát nghèo bằng chính nghề nghiệp của mình thì bị xã hội mỉa mai gọi là “bán chữ”, thậm chí còn bị xem đó là hành vi phạm tội, lập ra đội chống dạy thêm để hạch sách. Xã hội đòi hỏi giáo viên phải sống thanh bạch như những “nhà giáo ngày xưa“ trong làng xã, nhưng quên mất rằng những “nhà giáo ngày xưa“ chỉ chăm lo việc dạy, còn cuộc sống được dân trong làng đảm bảo không để thầy phải bận tâm về cơm áo gạo tiền. Những người thầy mẫu mực được gọi là “vạn thế sư biểu” trong lịch sử như Chu Văn An, Khổng tử... đều có một cuộc sống đời thường thanh bạch giản dị nhưng không phải thiếu thốn những nhu cầu cần thiết...

(6) Có lẽ, rất nhiều giáo viên đều ước rằng, thay vì một năm có một ngày 20/11 với đủ các lời chúc hoa mỹ, quà tặng, với những lo lắng “đua quà” của phụ huynh, thì suốt cả năm cha mẹ hãy cùng chung tay với thầy cô trong việc giáo dục con em mình trở thành những người có ích trong xã hội, nói đúng ngôn ngữ tiếng Việt..... Cả xã hội thay đổi cách nhìn, nâng cao vị thế và cuộc sống thực tế của giáo viên trong cuộc chiến chống lại những cái xấu, để giáo viên xuất hiện trước mắt học sinh thân yêu với hình ảnh đẹp và mẫu mực của một thầy cô giáo đúng nghĩa. Và kết thúc lời tâm sự của nhà giáo Phạm Phúc Thịnh: “Ước gì đừng có ngày 20/11 hằng năm!“

Tôi tóm lược vài đoạn trong bài viết “Văn Hoá Cà Chớn” của một nhà văn trong nước. Tháng 11/2011 vừa qua tại Sài Gòn mà Các Anh gọi là Hồ Chí Minh, Công Ty Văn Hóa Truyền Thông Nhã Nam phát hành tập truyện “Sát Thủ Đầu Mưng Mủ” (mà nhà giáo Phạm Phúc Thịnh đã nói ở trên). Cái tên rất ư là kỳ cục vì nó không hàm chứa một ý nghĩa văn chương nào cả, nhưng lại là loại sách dành cho tuổi trẻ Việt Nam với nội dung gồm nhiều bức tranh vẽ vội nếu không nói là vẽ sơ sài, và dưới mỗi bức tranh có một thành ngữ được xếp vào loại “thành ngữ sành điệu”. Tất cả có khoảng 120 câu thành ngữ thông dụng của tuổi trẻ hiện nay, chẳng hạn như: “Ngất ngây con gà tây - Phi công trẻ lái máy bay bà già - Thuận vợ thuận chồng con đông mệt quá - Tào lao bí đao - Tự nhiên như cô tiên - Xấu nhưng biết phấn đấu - Đói như con chó sói - Một con ngựa đau cả tàu được thêm cỏ - Một điều nhịn chín điều nhục - Cái khó ló cái ngu - ....”
Dưới nét nhìn của bất người Việt Nam nào còn quan tâm đến văn hoá dân tộc cũng tự hỏi: “Đây có phải là văn hoá mới xã hội xã hội chủ nghĩa không? Hỏi, cũng là trả lời: “Đúng vậy”. Câu trả lời này gợi lại chính sách của lãnh đạo cộng sản Việt Nam khi chiếm được Việt Nam Cộng Hòa đã ra lệnh tịch thu toàn bộ văn hoá phẩm trong xã hội dân chủ tự do, để thay vào bằng văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, một thứ văn hoá “sáng tạo” ra một xã hội gian trá, dối gạt, lưu manh, .... nói chung nó là thứ văn hoá của một xã hội độc tài đảng trị. Tác giả cũng cho biết rất nhiều ý kiến phản đối dữ dội, vì cho rằng đây là một cuốn sách nhảm nhí, xuyên tạc thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt. Chị Thanh Hà, một nhân viên ngân hàng tức giận: “Tôi không hiểu vì sao một cuốn sách nhảm nhí như vậy lại được nhà nước cho xuất bản. Những câu thành ngữ tục ngữ Việt Nam đã bị cải biên xuyên tạc một cách trắng trợn. Thử hỏi, khi các cháu học sinh sinh viên sẽ học được điều gì trong sách? Với câu “Có chí thì ghê”, đã xuyên tạc ý nghĩa giáo dục tinh thần của câu “Có chí thì nên” của ông cha ta bao đời để lại cho con cháu noi theo. Nhìn chung, loại sách như vậy là phản lại truyền thống đạo đức Việt Nam.

3. CÁC ANH NGHĨ GÌ?

Chỉ mới ngần ấy sự kiện, tôi nghĩ cũng đủ giúp Các Anh nhận ra nền giáo dục xã hội chủ nghĩa của lãnh đạo Các Anh “đã trồng được những thế hệ thần dân“ đúng theo bản chất của đảng, để tuân phục đảng chớ không phải lắng nghe nguyện vọng của dân, phục vụ đảng chớ không phải phục vụ dân mặc dù “dân là chủ còn cán bộ đảng viên là đầy tớ“, và chết cho đảng chớ không phải chết cho tổ quốc nhân dân. Cũng vì “những thế hệ mà giáo dục xã hội chủ nghĩa đã trồng được, đã dẫn đến một xã hội mà mọi người từ lãnh đạo cao nhất trải dài xuống các lãnh đạo trong hệ thống đảng với nhà nước, đến tận người dân, phải sống với nhau bằng những phương cách lọc lừa dối trá với nhau. Hãy nhớ rằng, người dân hoàn toàn không có lỗi gì trong xã hội Việt Nam ngày nay, mà là bắt nguồn từ bản chất của lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản.

Với một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã thật sự tác hại vào hai thế hệ đã qua, hai thế hệ hiện nay, và vẫn còn tiếp tục. Tác hại ngay trên cuộc sống thường ngày của mỗi người trong xã hội, và đã tạo nên một xã hội băng hoại đến mức mà văn hoá dân tộc từ bao đời Ông Cha truyền lại hầu như tan biến ngược chiều với sự vươn lên một cách thảm hại của dòng “văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa“, trong khi thứ văn hoá đó đã bị cộng sản Liên Sô và các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu liệng vào thùng rác lịch sử hơn 20 năm trước rồi.

Tôi gởi sự suy nghĩ nhỏ nhoi hạn hẹp này đến Các Anh, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên quật sập cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách giáo dục ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân đứng dậy, Các Anh hãy đứng về phía đồng bào mà hành động.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Texas, tháng 1 năm 2012.

“Nhân Tết Nguyên Đán, tôi chúc Các Anh cùng gia đình Một Năm Nhâm Thìn 2012, được An Lành và Hạnh Phúc. Năm Mới, với nét nhìn mới về mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội vì nó bắt nguồn từ lãnh đạo của Các Anh, để nhận ra chân dung xã hội hiện nay mà nghĩ về một xã hội tương lai cho con cháu“.

tieuchuy
02-22-2012, 03:19 AM
Thư số 4 gởi

Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

*********
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo” 12 năm 3 tháng. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội Nhân Dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Dân Tộc là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Với thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại “Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” dưới góc cạnh tham nhũng trong xã hội Việt Nam ngày nay.

1. XÃ HỘI.

“Quốc Gia” bao gồm: Một lãnh thổ, một dân tộc, một nền văn hoá, một dòng lịch sử, một hệ thống công quyền, những công trình kiến trúc mỹ thuật.

“Xã Hội” hình thành từ gia đình. Mỗi gia đình là một đơn vị, nhiều đơn vị gia đình hợp lại thành một đơn vị hành chánh, và tất cả các đơn vị hành chánh trong hệ thống dọc từ dưới lên trên hợp lại thành một xã hội của quốc gia.
“Sinh Hoạt Xã Hội” được ví như sự vận hành của cái đồng hồ, với hằng chục hằng trăm bánh xe lớn nhỏ sắp xếp bên trong lớp võ, mỗi bánh xe được nhà phát minh đặt vào một vị trí với một công việc nhất định, và tất cả công việc của các bánh xe gộp lại được gọi là sự vận hành của cái đồng hồ, giúp con người biết được thời gian đi qua từng giây từng phút. Tương tự như vậy, con người sinh ra, lớn lên, và thành đạt trong sinh hoạt xã hội chớ không thể tự mình trong riêng rẽ. Do đó, mỗi người phải tạo dựng cho mình mối tương quan tốt với mọi người, chớ không thể tự cho mình giỏi hơn mọi người mà coi thường mọi người, bởi không có nghề nào trong xã hội là không cần thiết, vì tất cả các ngành nghề đều có mối tương quan với nhau trong sự vận hành của guồng máy xã hội.

“Xã Hội Thăng Tiến Hay Suy Sụp” là do các cấp trong hệ thống lãnh đạo, nhất là lãnh đạo cấp quốc gia, thể hiện trong chính sách giáo dục học đường, và những chính sách giáo dục xã hội ngang qua các lãnh vực sinh hoạt trong đời sống, đặc biệt là các phương tiện truyền đạt tin tức trong hệ thống truyền thông.

2. HÃY NHÌN VÀO XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.

Lãnh đạo cấp quốc gia mà xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam gọi là Bộ Chính Trị với 14 đảng viên cộng sản, là cơ quan quyền lực tuyệt đối. Bởi trong hệ thống tổ chức không có cơ quan nào kiểm soát, vì vậy mà nhóm lãnh đạo quyền lực này tự đứng trên Tổ Quốc, trên Dân Tộc, trên Quốc Hội, trên hệ thống Nhà Nước, và trên hệ thống Tư Pháp. Đã có lần ông Nguyễn Văn An khi giữ chức Chủ Tịch Quốc Hội, trong lúc quá bực tức đã phát biểu: “Bộ Chính Trị là 14 ông vua tập thể!” Đúng vậy, Bộ Chính Trị là nơi hình thành hệ thống tham nhũng để bảo vệ sự sống còn của đảng cộng sản, vì đảng không còn lý tưởng làm điểm tựa từ khi “thành trì vững chắc của chủ nghĩa cộng sản là Liên bang Sô Viết sụp đổ từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20, kéo theo sự sụp đổ của các quốc gia cộng sản Đông Âu. Tự bản thân các đảng viên lãnh đạo trong Bộ Chính Trị tham nhũng, cùng lúc ăn chia với lãnh đạo cấp dưới tham nhũng, khi cấp dưới bị phát giác tham nhũng thì lãnh đạo cấp trên che chắn, vì mục đích của luật pháp xã hội chủ nghĩa đặt ra là bảo vệ đảng viên. Nếu không như vậy thì đảng cộng sản với chế độ độc tài của Các Anh đã sụp đổ từ cuối những năm 90 rồi.

Dưới đây chỉ là những trường hợp điển hình, cộng với những gì mà chính Các Anh biết về những vụ tham nhũng từ vụn vặt đến những vụ mà báo chí “lề phải” trong xã hội Các Anh được phép đăng tải, tôi nghĩ, nó sẽ giúp Các Anh tìm lại được chính mình trong một xã hội mà đảng với nhà nước đã tạo cho người dân phải chấp nhận “quốc nạn tham nhũng” một cách bình thường như một nếp sống trong văn hoá mới xã hội chủ nghĩa ngày nay. Từ đó, tôi hy vọng Các Anh có đủ lý lẽ để đánh giá các cấp lãnh đạo trong hệ thống đảng và hệ thống nhà nước Việt Nam.

Năm 2001. Báo Tuổi Trẻ phát hành tháng 08/2001, số sinh viên tốt nghiệp đại học mà không tìm được việc làm gia tăng hằng năm: Năm 1997 thất nghiệp 64%. Năm 1998 hơn 80%. Năm 1999 là 89%. Số còn lại tìm được việc làm thì hầu hết là gia đình của các cấp lãnh đạo đảng và lãnh đạo nhà nước, những chuyên viên chuyên gia ngoài đảng cộng sản phải có tiền mới “mua” được chỗ làm. Mời Các Anh đọc tiếp để hiểu rõ chữ “mua” nó tàn nhẫn như thế nào.

Năm 2002. Đặc san Mạng Lưới Tuổi Trẻ Việt Nam/Houston 2002, trong bài “Những Con Ký Sinh Trùng Làm Chủ”, của Nguyễn Bảo An, định cư ở Pháp, có đoạn sau đây: “Lúc ở Paris, tôi cũng theo dõi thời cuộc Việt Nam, nên cũng biết dân tôi khốn khổ vì nạn tham nhũng, nhưng lúc đó tôi khó hình dung được là dân tôi khốn khổ vì tham nhũng như thế nào, và đến mức độ nào. Nhưng sau hai tháng hè về thăm quê hương, tôi mới hiểu nạn tham nhũng tàn bạo và khốc liệt ngoài sự tưởng tượng của tôi, và của mọi người. Trong một lần cùng người nhà đưa cháu tôi vào bệnh viện, tôi đã chứng kiến cảnh một bà mẹ ôm xác con khóc sướt mướt ở phòng chờ đợi. Chỉ vì bà quá nghèo, không có tiền hối lộ cho bác sĩ nên họ bỏ mặc cho mẹ con bà ngồi đó, và con bà đã chết”. Trong suốt thời gian ở quê nhà, tác giả đến bất cứ nơi đâu cũng bị làm tiền một cách trắng trợn. Tại phi trường, tại những cơ quan hành chánh, nơi đâu cũng phải xì tiền hối lộ mới được làm giấy tờ. Bị bắt buộc hối lộ nhiều đến nỗi tác giả không chịu được nữa, tác giả đem những điều tai nghe mắt thấy về tham nhũng nói với người em họ, một cán bộ trong cơ quan chánh phủ từ Hà Nội vào Sài Gòn, anh ta trả lời một cách tỉnh bơ cứ như tham nhũng như là một nếp sống rất bình thường: “Mọi người phải trả hối lộ cũng là hợp lý thôi, vì một nhân viên sở di trú phải bỏ ra chục triệu đồng mới mua được chỗ làm. Nếu họ không làm tiền đồng bào thi bao giờ họ mới thu lại được số vốn bỏ ra mua lấy chức vụ. Chức vụ của những viên chức là một dịch vụ thương mại, mà đã là thương mại thì phải có lợi nhuận”. Người em cộng sản của tôi phát ra một tràng lý luận kiểu bất lương, lưu manh, nham nhở, ”. Nghe đến đó tác giả cảm thấy lạnh xương sống trước lý luận kiểu xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn trái với đạo đức con người. Vậy là tham nhũng đã đánh đổ cả lương tri, làm đảo lộn tất cả những giá trị đạo đức trong xã hội. Quay trở lại Paris, tác giả tự mình khẳng định: “Từ nay, đọc những bài báo nói về tham nhũng tại Việt Nam, tôi thật sự hiểu tham nhũng tại đó là gì, và nó đã gây thiệt hại, đớn đau, mất mát, đổ vỡ cho dân tộc Việt Nam, quê hương Việt Nam như thế nào! Không bút mực nào diễn tả hết nỗi thống khổ của đồng bào trên quê hương về nạn tham nhũng khủng khiếp. Dân tôi bị bóc lột, bị làm tiền một cách trắng trợn vô liêm sỉ từ những kẻ tự xưng là “đầy tớ của nhân dân”!

Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, tiền thuế là mồ hôi nước mắt của người dân làm ra sản phẩm hay dịch vụ để có tiền đóng thuế cho nhà nước, nhà nước dùng tiền đó trả lương cho những viên chức chánh phủ, và viên chức chánh phủ có trách nhiệm phục vụ người dân. Đó là sinh hoạt trong một xã hội văn minh là như vậy, nhưng với xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì khác. Những viên chức nhà nước được trả lương bằng tiền thuế của dân, lại đem những chức vụ có trong tay bán cho những viên chức cấp dưới, những viên chức cấp dưới đem bán những công việc cho người dân có nhu cầu để thu lại vốn lẫn lời, mà đúng ra họ phải phục vụ người dân. Sau khi cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975, nhóm lãnh đạo CSVN đã phá nát tất cả những giá trị cao quí của văn hoá dân tộc.

Thêm vào đó, kinh tế thị trường theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”, một loại “định hướng không có định hướng trong các nền kinh tế thế giới”, đã biến nhóm lãnh đạo CSVN từ trên xuống dưới thành “giai cấp tư bản đỏ vô luân và vô cảm”. Không sai, vì xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một thứ xã hội đen do nhóm lãnh đạo CSVN cầm đầu, với trợ thủ đắc lực của cả bộ máy đảng và bộ máy nhà nước. Cũng không sai, vì xã hội chủ nghĩa tại quốc gia sản sinh ra nó là Liên Sô đã sụp đổ hoàn toàn do cái tồi tệ của bản thân nó, vì vậy mà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành nơi dung túng xã hội đen để bao che cho sự tồn tại của họ, bảo vệ quyền lợi riêng tư của họ. Đây là cách tận cùng của những cách thực hiện. Nhưng nói cho cùng, nhóm lãnh đạo CSVN chỉ có cách đó là cao nhất của họ, và xứng hợp với cái gọi là “đỉnh cao trí tuệ” của cái đảng cầm quyền độc tài, của bộ máy cầm quyền vô cảm trước nỗi đau của đồng bào! Do vậy mà trong xã hội Việt Nam ngày nay, tham nhũng hoành hành đến tận cùn các ngóc ngách trong các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước. Trong nhiều trường hợp, người nộp hối lộ không bực mình vì mất một số tiền, mà phẫn uất vì cái nạn hối lộ tràn lan đến tận hang cùn ngỏ hẻm ở Việt Nam, đến mức không còn một chỗ nào để tránh né được. Đúng là không thể tránh né được, vì bất cứ ngành nào trong bộ máy đảng lẫn bộ máy nhà nước, tất cả đều mua quan bán chức, từ chức lớn xuống chức nhỏ địa phương, mới có một vị trí trong xã hội dù chỉ là vị trí thấp nhất của tổ chức, để từ vị trí đó những người mua chức đều đòi hối lộ, nhận hối lộ, như lời nhận xét thật đau của Nguyễn Bảo An, một tuổi trẻ Việt Nam tại Paris sau chuyến về thăm quê hương hai tháng!

Chắc Các Anh có biết là nhóm lãnh đạo CSVN từ Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước, đến Thủ Tướng, đều tuyên bố là chống tham nhũng quyết liệt, chống bất cứ kẻ tham nhũng là ai, ở chức vụ nào, đều phải đưa ra pháp luật. Tuyên bố “quyết liệt” như vậy, nhưng khi hai ông Phạm Quế Dương với Trần Khuê nộp đơn xin thành lập Hội Chống Tham Nhũng để trợ giúp cho nhà nước thì nhà nước ra lệnh bắt lên bắt xuống, hành hạ sách nhiễu đủ điều. Rõ ràng là tuyên bố chống tham nhũng chỉ là lời dối trá của nhóm lãnh đạo CSVN, họ dối trá với người dân dưới quyền cai trị của họ, dối trá với thế giới văn minh, và dối trá với chính bản thân họ nữa.

Năm 2003. Tóm tắt bài viết ngày 4/10/2003 “Trong vòng vây của Công An CSVN, những người Việt Nam xin tị nạn ở Đức bị tống tiền như thế nào”, bài của Việt Hùng từ Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đó cũng là tên của bài phóng sự trên đài truyền hình ARD lớn nhất của Đức quốc, tường trình từ thành phố Munchen. Chuyện bắt đầu từ số phận của khoảng 40.000 người Việt bị từ chối tị nạn tại Đức sau khi các quốc gia cộng sản Đông Âu sụp đổ, và đang chờ trục xuất về Việt Nam. Theo “Hiệp Định Hồi Hương” giữa lãnh đạo CSVN với CHLB Đức, hai bên phải thực hiện xong công tác hồi hương trong thời gian 1995-2000. Nhưng đến năm 2003, số người hồi hương mới đạt được con số rất nhỏ. Lý do: CSVN không chấp nhận số người mà họ cho là không xác minh được lý lịch. Chánh Phủ Đức muốn công tác trục xuất được nhanh hơn, nên đồng ý cho CSVN cử phái đoàn Công An sang Đức thẩm vấn trực tiếp để xác minh lý lịch.

Phần lớn trong số hơn 40.000 người này, không ai muốn trở về “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, dù khối người này khi rời Việt Nam dưới danh nghĩa nhà nuớc CSVN cử đi du học, hoặc xuất cảng lao động. Bằng một máy thu hình giấu kín đã được tòa án cho phép, nhóm phóng viên đài truyền hình ARD, có đầy đủ bằng chứng qua người trung gian của Công An đã ra giá cụ thể với ông Vũ Phương Chiến: “Nếu nộp 1.500 Euro thì được ở lại thêm mấy tháng nữa, nhưng vẫn trong tình trạng không hợp pháp. Nếu nộp 5.000 Euro thì anh sẽ đuợc cấp thông hành Pháp và ở lại thêm 1 năm. Có thông hành thì thời gian 1 năm là hợp pháp, mọi sự đi lại đều không sợ bị bắt. Sau đó, cứ 5.000 Euro cho 1 năm hợp pháp với thông hành của Pháp, không sợ chánh phủ Đức trục xuất”. Một người Việt Nam khác, nhận được số điện thoại của một người trung gian đưa qua gầm bàn khi thẩm vấn, để liên lạc trao đổi giá cả. Và anh thuật lại sau khi liên lạc: “Nếu anh nộp 600 Euro thì được ở lại thêm 6 tháng. Điểm chính của vấn đề là nếu người nào nộp tiền theo giá qui định của từng thời gian, thì người đó không hồi hương Việt Nam, cũng không lo sợ sẽ bị tìm ra tung tích, vì phái đoàn Công An CSVN thông báo cho chánh phủ Đức là không xác minh được lý lịch, lúc đó chánh phủ Đức có muốn trục xuất cũng không biết trục xuất đi đâu, và đành phải để những người đó ở lại Đức. Thế là mọi việc ổn thỏa”.

Dân Biểu Joseph Winkler, người phát ngôn về di trú của Đảng Xanh trong liên minh cầm quyền tại Đức, phát biểu: “Một quốc gia dân chủ như nước Đức, việc mua bán thuộc dạng tống tiền ngay trên lãnh thổ này là không thể chấp nhận được”. Dân Biểu Winkler nói thêm: “Những nạn nhân Việt Nam của những vụ tống tiền này, có quyền đạt đơn xin tị nạn tại Đức, và họ đáng được chấp nhận tị nạn”. Đảng PDS, cũng trong liên minh đảng cầm quyền, đã họp và ra thông báo đệ trình lên Chánh Phủ một bản nghị quyết, tạm thời đình hoản việc cho phép Công An CSVN sang Đức thẩm vấn người tị nạn. Về phía các tổ chức nhân quyền Đức, đã đồng loạt lên tiếng phản đối dữ dội về hành động tống tiền của Công An CSVN. Ông Karl Hafen, nhân danh Chủ Tịch Hiệp Hội Nhân Quyền Quốc tế, trụ sở tại thành phố Frankfurt/Main, tuyên bố: “Đây là một thảm kịch! Những người tị nạn phải chịu sức nặng từ hai phía, một bên là chánh quyền Đức về vấn đề trục xuất, một bên là Công An CSVN về những vụ tống tiền. Họ đứng trước một sự chọn lựa không dễ dàng. Nếu họ chịu tống tiền, thì họ biết rằng cho dẫu có được ở lại cũng không bảo đảm chút nào vì vẫn là không chánh thức, rồi một ngày kia cũng bị trục xuất như những tội phạm. Nếu họ chọn không bị tống tiền, họ có thể bị đưa về Việt Nam, và bị toà án xét xử”.

Các Anh có nghĩ là lãnh đạo nhà nước Việt Nam cảm thấy nhục khi biết Công An chẳng những đòi hối lộ người dân trong nước, mà còn đòi hối lộ người dân xã hội chủ nghĩa ở ngoại quốc không? Ô, tôi quên, nếu nhóm lãnh đạo CSVN mà biết nhục thì đâu phải là cộng sản.

Năm 2007-2010. Tóm tắt và trích dẫn bài của ông Nguyễn Duy Vinh, Tiến sĩ ngành Cơ Khí Động Học. Theo tác giả thì ông Trần Văn Tuyền, Tổng Thanh Tra Chính Phủ của nước CHXHCN Việt Nam, một quan chức hàng đầu về chống tham nhũng, phát biểu trong một cuộc họp báo tại Hà Nội: “…Việt Nam coi việc chống tham nhũng là quốc sách, là sự nghiệp quan trọng liên quan đến sự sống còn của chế độ. Việt Nam đã cam kết và sẽ thực hiện đầy đủ các công việc mà Công Ước Liên Hiệp Quốc đã đề ra”.… Rồi tác giả nhận định: Một điều tôi phải nói ngay rằng, nhà nước Việt Nam từng tuyên bố mục tiêu hàng đầu là chống tham nhũng, nhưng những vụ tham nhũng đầy tai tiếng trong 9 năm gần đây cho thấy nhà cầm quyền Việt Nam không đủ quyết tâm để giải quyết tệ nạn này.…” Tác giả nhắc đến đại hội Việt Kiều với hơn 800 người tham dự tại Hà Nội hồi đầu năm 2010, Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết đã phát biểu: “…Chúng ta từ một nước trong chiến tranh, chưa có những cái kinh nghiệm trong quản lý, và ở nước người ta đó thì muốn tiêu cực, muốn tham nhũng cũng khó, vì hệ thống luật pháp nó chặt chẽ. Còn ở Việt Nam của mình, thì có khi không muốn tham cũng động lòng tham, cái người thủ quỹ cứ giữ tiền khư khư, ở quỹ lúc nào cũng có số dư, cho nên lúc bí quá thì em mượn một chút, mượn không thấy ai đòi hết, thì em mượn thêm. Chứ không phải người Việt Nam tham nhũng nhứt thế giới, không phải vậy! Cho nên tui đề nghị quí vị ở nước ngoài khi nghe những thông tin này, rồi nhìn về Việt Nam cũng đừng có hốt hoảng, cứ nghĩ rằng trong nước mình tiêu cực quá… Đây là quy luật muôn đời. Con người ta, trong mỗi người, ai cũng có hỉ, nộ, ái, ố. Chúng ta là con một nhà, là con Lạc, cháu Hồng, cùng một bọc trứng sinh ra, trên thế giới này ít nơi nào có cái đó lắm…”

Các Anh nghĩ gì khi mà nghe ông Chủ Tịch nước “thành thật khai báo” là Bộ Chính Trị dốt nát đã tạo nên hệ thống tham nhũng trong toàn đảng, toàn nhà nước, và toàn xã hội? Phải hiểu rằng, ông Triết chỉ nói cái người thủ quỹ tham nhũng vụn vặt, chớ không nói đến cái bản thân ông ta cùng với cả cái Bộ Chính Trị là tiền ở đâu ra mà cái ông nào cái bà nào cũng có tài sản đến hằng chục hằng trăm triệu mỹ kim? Những cái người đó là loại người tham nhũng “quy mô” chớ đâu phải “tham nhũng vụn vặt” như cái người thủ quỹ mà ông Triết nói. Chữ “tham nhũng” mà tôi sử dụng ở đây bao gồm: Đòi và nhận hối hộ quốc nội lẫn quốc tế, ăn cướp của dân, ăn cắp tài sản quốc gia, ăn xén ngân khoản trong các dự án lớn của họ đặt ra mà càng nhiều dự án lớn chừng nào thì cả hệ thống lãnh đạo càng thêm nhiều tài sản, ăn xén ngân khoản do ngoại quốc tài trợ, đầu tư ngoại, và tham nhũng do bán đất bán biển của tổ quốc (2 tỷ mỹ kim). Thật là khủng khiếp! Mời Các Anh xem tiếp một số vụ tham nhũng chẳng những trong nước biết mà thế giới cũng biết.

Vẫn theo Tiến Sĩ Nguyễn Duy Vinh, bản báo cáo của Ban Chỉ Đạo Trung Ương về phòng chống tham nhũng cho biết: Năm 2007 có 584 vụ bị phát giác với gần 1.300 người tham nhũng, gây thiệt hại hơn 860 tỉ đồng VN (860,000,000,000 đồng) (1 USD = trên dưới 20,000 đồng VN). Trong 584 vụ này, đến cuối năm 2011, nhà nước chỉ mới đưa ra xét xử 360 vụ. Việc xử lý các vụ tham nhũng tăng dần mỗi năm và những vụ lớn tập trung tại Hà Nội với Sài Gòn. Những vụ được “báo chí lề phải” của Các Anh và báo chí hải ngoại đăng tải nhiều nhất:

(1) Vụ PMU 18. PMU là chữ viết tắt của Anh ngữ “Project Management Unit, dịch sang Việt ngữ là Ban Quản Lý các dự án 18 thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải (BGTVT) với ngân khoản lên đến hằng trăm triệu mỹ kim mà trong nước gọi là “đô la Mỹ”. Một vụ án phải đưa ra ánh sáng trong bối cảnh chuẩn bị đại hội 10 đảng cộng sản, làm cho Bộ Chính Trị cảm thấy bất an vì tham nhũng đã tràn ra ngoại quốc, khiến dư luận Nhật Bản rất bất mãn khi được biết Tổng Giám Đốc Bùi Tiến Dũng (BTD), đã dùng 7 triệu mỹ kim trong số tiền vay của ngoại quốc để xây dựng hệ thống giao thông đường bộ vào cuộc đỏ đen cờ bạc. Khi bị bắt để chờ ngày xét xử, ông Dũng lại sử dụng khoảng 1 tỉ đồng Việt Nam để hối lộ các viên chức điều tra! Theo báo VietNnamNet, BGTVT đã quyết định đình chỉ nhiều viên chức liên quan trong đó có Thứ Trưởng Nguyễn Việt Tiến. Cuối cùng, trong vụ án PMU 18, Bùi Tiến Dũng và 4 người nữa cùng lãnh án tù. Chưa hết, ngày 27/06/2011, tại Hà Nội, Bùi Tiến Dũng, cùng với 8 tòng phạm khác lại phải ra tòa với tội biển thủ công quỹ với số tiền 3 tỷ 400 triệu đồng, trong dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, Quảng Ninh hồi năm 2003.

(2) Vụ PCI, Nhật hối lộ PMU Việt Nam. Năm 2008, ông Huỳnh Ngọc Sỹ, giám đốc ban quản lý dự án đại lộ Đông Tây, bị bắt do báo chí Nhật Bản tố giác ông đòi và nhận hối lộ 820.000 mỹ kim từ công ty tư vấn Nhật PCI (Pacific Consultants International). Công tố viện Nhật khẳng định là PCI xác nhận đã đưa ông Sỹ tổng cộng 2.600.000 mỹ kim.

(3) Vụ buôn lậu ở Nam Phi. Vụ này do viên chức tòa đại sứ CSVN tại Nam Phi buôn lậu sừng tê giác. Thật là nhục nhã cho đất nước Việt Nam vì ngay trong ngành ngoại giao cũng buôn lậu. Bản tin của đài truyền hình Nam Phi SABC, phát đi đoạn băng toàn cảnh nhân viên tòa đại sứ CSVN tại thủ đô Pretoria, đang giao dịch mua bán sừng tê giác với một tay buôn lậu ngay trước cửa tòa đại sứ. Trước bằng chứng không thể chối cãi, đại sứ CSVN Trần Duy Thái phải xác nhận người xuất hiện trong đoạn băng chính là bà Bí Thư thứ nhất Vũ Mộc Anh.

(4) Vụ mua sắm trang bị bưu điện. Với dự án mua trang bị cho 38 bưu điện tỉnh và các thành phố trên toàn quốc do nhà buôn Nguyễn Lâm Thái (NLT) cầm đầu, đã hối lộ hơn 1 tỉ đồng cho Giám Đốc, Phó Giám Đốc, Trưởng Phòng của 9 bưu điện lớn ở Việt Nam.

(5) Vụ tham nhũng ở Hóc Môn. Tháng 8/2009, Tòa Án Nhân Dân thành phố Sài Gòn đã xét xử hai vụ án tham nhũng liên quan đến Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân huyện Hóc Môn Nguyễn Văn Khoẻ. Ngoài 10 bị cáo về tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Hội Đồng Xét Xử (HĐXX) còn có 60 nhân chứng. Theo cáo trạng, để xin được dự án khu dân cư và công nghiệp sạch với diện tích hơn 6,9 mẫu tây tại xã Đông Thạnh, Hóc Môn, vợ chồng ông bà Hà & Hòa chủ nhân Công ty Thành Phát, kết thân với Trần Văn Tè (lúc đó là Chủ tịch UBND xã Đông Thạnh), Dương Minh Trung (lúc đó là trưởng phòng tài chính, kế hoạch và đầu tư huyện Hóc Môn) và ông Nguyễn Văn Khỏe, lúc đó là Chủ tịch UBND huyện. Trong thời gian thực hiện dự án này, Công ty Thành Phát đã đưa hối lộ tổng cộng hơn 2 tỷ 200 triệu đồng, và cho các bị cáo mượn hằng tỷ đồng nữa.

(6) Vụ tham nhũng đất đai tại Sơn La. Đây là vụ tham nhũng đất đai lớn nhất từ trước đến nay ở Sơn La. Lợi dụng trách nhiệm được giao trong thời gian thực hiện các dự án nâng cấp quốc lộ 6 thuộc thành phố Sơn La năm 2002-2005, các bị cáo thực hiện việc kiểm kê và đền bù không đúng quy định. Tám bị cáo đều là cán bộ công chức nhà nước đã làm trái các quy định, gây thiệt hại tài sản cho nhà nước gần 4 tỷ 300 triệu đồng. Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La tuyên án phạt 9 bị cáo.

(7) Vụ cựu Thống Đốc Ngân Hàng Việt Nam. Ông Lê Đức Thúy, bị báo chí Úc Đại Lợi tố cáo đã nhận hối lộ vụ Việt Nam in tiền giấy nhựa Polymer tại Australia. Vụ hối lộ này đã được chính quyền Australia điều tra trong 20 tháng. Theo nhật báo Anh Financial Times, một người thân cận với giới điều tra cho biết, công ty thầu in tiền Securency mà 50% vốn là Ngân Hàng Quốc Gia Australia, đã thú nhận hối lộ 15 triệu Úc kim cho ông Lê Đức Thúy, bằng cách trả học phí cho con trai của ông là Lê Đức Minh du học trường Đại Học Durham tại Luân Đôn, là trường dành cho con nhà giàu. Ông Lê Đức Thúy là người đứng đầu Ngân Hàng Trung Ương Việt Nam từ năm 1999 đến năm 2007, trước khi được bổ nhiệm làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Sát Tài Chánh Quốc gia.

Năm 2011. Tập đoàn Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam Vinashin, cùng hơn 20 tổng công ty liên quan, vừa bị khởi kiện tại tòa án ở London, Anh quốc, vì không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng Thụy Sĩ. Viên chức tòa án xác nhận đơn kiện được Tòa Thương Mại, Chi nhánh Queen’s Bench thuộc Tòa Thượng thẩm nhận và mở hồ sơ ngày 01/11/2011, và Cơ Quan Hình Sự Quốc Tế (Interpol) đã phát lệnh truy nã hai cựu lãnh đạo tập đoàn Vinashin, đã làm cho ngành tài chính Việt Nam bị mất uy tín trên thế giới. Hai “bị cáo” này chắc chắn được sự che chắn của nhóm lãnh đạo quyền lực nên nhanh chóng và dễ dàng ra khỏi Việt Nam rồi: “(1) Hồ Ngọc Tùng, nguyên Tổng giám đốc tài chính của tập đoàn Vinashin, xuất ngoại với lý do trị bệnh nhưng không thấy trở về. (2) Giang Kim Đạt, trưởng phòng kinh doanh công ty vận tải viễn dương, một chi nhánh của Vinashin, ra nước ngoài trước khi bị khởi tố”. Báo Tuổi Trẻ cho biết, hai người này thuộc nhóm 10 cựu lãnh đạo và viên chức cao cấp của tập đoàn đóng tàu Vinashin bị truy tố về tội cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, nói rõ hơn là tội tham ô và biển thủ ngân sách. Theo thẩm định chánh thức, tập đoàn Vinashin bị lỗ đến 4 tỷ mỹ kim. Nhưng vào đầu tháng 6/2011, báo chí cho biết Vinashin có thể bị mất thêm 1 tỷ mỹ kim nữa vì bị phạt do không thi hành các hợp đồng. Tháng 8/2011, nhân vật đầu tiên bị bắt do hành vi biển thủ tài sản Vinashin là Tổng Giám Đốc Nguyễn Thanh Bình.

KẾT LUẬN.

Xin hỏi: “Có khi nào Các Anh tự hỏi tại sao xã hội chủ nghĩa ưu việt lại quá nhiều tham nhũng như vậy không? Hay Các Anh nhìn những tệ nạn, thậm chí là quốc nạn tham nhũng, chỉ là nếp sống bình thường của những người vô cảm trong xã hội Việt Nam?” Cho dù có, hay không có, mời Các Anh đọc thêm hai đoạn văn dưới đây.

Trích trong bài viết “Ngày Phán Xét Sẽ Đến” của “Tuổi 20” viết từ Hà Nội, để Các Anh nhận ra “tuổi trẻ Việt Nam” đã vượt lên trên chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng của một chủ nghĩa thối rửa trên chính trường quốc tế: “Trong đêm giao thừa 2012, trước tiên tôi xin cám ơn nhân loại, và đặc biệt cám ơn những người đã sáng tạo ra hệ thống Internet, nhờ đó mà thế hệ trẻ Việt Nam không còn bị giam giữ trong ngục tù ngu dốt của đảng CSVN nữa. Cám ơn ông Bill Gates, ông Steve Jobs, nhờ quí vị mà ngày hôm nay chúng tôi được thênh thang lướt mạng ngay trước mũi bọn Công An. Những bức màn tre, màn sắt trước đây giam giữ cha anh chúng tôi, bây giờ chỉ là trò cười cho thế hệ a-còng (@). Khi những hàng rào ngăn cấm tư tưởng con người bị phá bỏ bằng công nghệ thông tin, khi những bức tường lửa (firewall) trở thành bất lực trước khát vọng tự do, đấy là lúc dân chủ khai sinh. Tuổi trẻ Việt Nam sẽ đồng khởi vùng lên để trả lại tên đường TỰ DO, chúng tôi sẽ nam kỳ khởi nghĩa để đem lại CÔNG LÝ….

Chúng con xin cám ơn Cha Mẹ đã cho con khối óc chắp cánh bay lên những vì sao cao nhất, và nhận thức được sự giẫy chết của chủ nghĩa xã hội chớ không chủ nghĩa tư bản như người ta đã nói. Cha Mẹ đã dạy chúng con biết thế nào là dân chủ thực sự khi cho phép chúng con nói lên những điều khiến Cha Mẹ lo nhiều, sợ hãi nhiều, Cha Mẹ không bịt miệng chúng con, cũng không bắt chúng con phải suy nghĩ một chiều như đảng CSVN vẫn làm. Chúng con biết tóc Cha Mẹ đang bạc đi vì sợ hãi, để tuổi xanh chúng con vươn lên dưới ánh mặt trời. Xin Cha Mẹ yên tâm, nếu một mai con phải vào tù thì chế độ hôm nay cũng sẽ chẳng còn bao nhiêu thời gian để giam giữ con, bạn bè, và anh chị em chúng con sẽ hàng hàng lớp lớp như thác đổ triều dâng phá đi khung cửa ngục tù, và ngày đó không xa đâu Cha Mẹ. Tại Việt Nam hôm nay làm gì có tự do, chỉ có nhà tù lớn hay nhà tù nhỏ mà thôi. Sợ hãi, chính là tên cai tù nguy hiểm nhất cho mỗi người chúng ta, nhưng khi vượt qua được nỗi sợ hãi thì chính là lúc kẻ thù của chúng ta lo sợ. Con không còn sợ nữa, bạn bè con không còn sợ nữa, chúng con đang tỉnh thức sau đêm dài u mê. Bây giờ là lúc đảng CSVN sợ hãi, chính vì sợ hãi nên chúng ra tay bắt bớ giam cầm bất cứ ai, như con chó điên cắn càn trước khi nhận viên đạn thi ân và bị vất xuống cống. ….”

Trong đoạn kế tiếp, tác giả như đang nói với nhóm lãnh đạo quyền lực Bộ Chính Trị: “…. Tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay đã quen với thế giới a-còng (@), iPhone và iPad, sẽ không dễ bị che mắt, bịt mặt, và lừa đảo như thế hệ cha anh chúng tôi. Nếu 14 ông bà bộ chính trị, những đỉnh cao của sở thú còn tin vào quyền năng vô hạn của hơn 700 tờ báo, đài phát thanh, và truyền hình các vị có thể định hướng, dẫn dắt chúng tôi. Hãy tỉnh thức, Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị, và các quan tham….. Tuổi trẻ chúng tôi không thích những kẻ loạn ngôn, chúng tôi lợm giọng và buồn nôn khi thấy quý vị ngu dốt, trơ trẽn và vô liêm sỉ đến tột cùng khi tiếp tục lải nhải “Đảng CSVN quang vinh muôn năm”. Có ai lại tôn vinh cái đảng mà bàn tay thấm máu dân mình, cái đảng xây nhà tù nhiều hơn trường học, cái đảng dựng phòng massage nhiều hơn nhà thương, cái đảng đem con gái ra trần truồng phơi bày trước người Đài Loan, Hàn Quốc, … để họ sờ nắn như đi mua gà vịt với một hy vọng mong manh là sớm thoát ra khỏi cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa…….”.

Và đoạn dưới đây trích trong “Lời Kêu Gọi” của ông Đào Văn Nghệ viết ngày 23/10/2010, ông Nghệ là Đại Tá Quân Đội Nhân Dân của Các Anh đó. Ông cất lời than: “Đất nước lâm nguy! Giang sơn rơi lệ! Dân chúng lầm than! …..”
Rồi ông kêu gọi: “Hỡi toàn dân Việt Nam ở mọi miền đất nước! Hỡi Quân Đội và Công An Việt Nam, hãy bảo vệ cho người dân Việt Nam, như những chiến sĩ Quân Đội và Công An Nga Sô, Ba Lan, Đông Âu trước kia. Họ đã sớm thức tỉnh, nắm lấy thời cơ, cầm súng đứng về phía Nhân Dân, để ngày nay chính họ, gia đình, vợ con họ được dân chủ, ấm no. Họ không còn phải sống trong lo sợ, đói khổ, giả dối dưới chế độ Cộng Sản cũ đầy dối trá và tội lỗi. Chế độ đã bao năm khống chế họ bằng luật rừng, họng súng, nhà tù, cưỡi lên đầu lên cổ nhân dân họ. Bởi vậy, đây là thời điểm nhân dân và đất nước đang cần những anh hùng đứng lên giúp dân làm nên một trang sử, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên dân chủ, ấm no không còn Cộng sản độc tài. Kỷ nguyên Quốc gia Cộng Hòa….”
“Quân Đội Nhân Dân còn chờ gì nữa? “Tiên hạ thủ vi cường”. Khẩn cấp tiến hành cách mạng lật đổ chế độ Cộng Sản Hà Nội, kiến lập quốc gia Cộng Hòa Việt Nam…. Tiến hành tổng tuyển cử toàn quốc, để nhân dân được thật sự tự do, ứng cử, bầu cử, tìm những người tài đức lãnh đạo đất nước và có nhiệm kỳ. Thay đổi Hiến Pháp phù hợp với Hiến Pháp chung quốc tế, để bảo vệ quyền con người cho toàn dân. Việt Nam ơi! Thời thế tạo anh hùng. Mẹ Việt Nam ơi! Sinh ra những anh hùng”.

Xin gởi những hiểu biết cùng với sự suy nghĩ của tôi đến Các Anh, “Những Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, hãy bình tâm mà nhận định một chuỗi sự kiện đã diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh đừng đứng nhìn Nhân Dân của mình một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía Tuổi Trẻ và Nhân Dân đứng lên giật sập chế độ cộng sản độc tài, tham nhũng, tàn bạo với dân nhưng lại khiếp nhược hèn hạ với Trung Cộng, để mọi người Việt Nam trong nước và hải ngoại cùng nhau vá lại mảnh giang sơn đã rách loang lỗ, xóa tan những “vệt da beo trên da thịt quê hương” do những cơ sở làng mạc Trung Cộng rãi rác khắp nội địa Việt Nam, để xây dựng một nền văn hoá nhân bản khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình.
Tôi vững tin bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 2 năm 2012

Tin đặc biệt gởi Các Anh đọc:

Tin nhạc sĩ Việt Khang (Võ Minh Trí, Mỹ Tho) bị bắt tháng 12/2011 đã làm tràn ly nước, ly nước đầy lòng uất hận và căm phẫn của người dân đối với lãnh đạo CSVN. Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ đã cùng nhau ký vào “Thư Thỉnh Nguyện” gởi trực tiếp Tổng Thống Hoa Kỳ, can thiệp với lãnh đạo CSVN trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm và tù nhân chính trị, kể cả nhạc sĩ Việt Khang. “Tù nhân”, là những người bị bắt chỉ vì nói lên tiếng nói yêu quê hương trước sự lấn chiếm khống chế của Trung Cộng, hát lên tiếng hát thương đồng bào phải sống dưới chế độ độc tài, bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai, quyền sở hữu tư tưởng, và quyền làm người của 89 triệu đồng bào trên quê hương Việt Nam.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd/HQPD_1329880695.jpg

Tổng Thống chỉ cần 25.000 thư thỉnh nguyện trong vòng 30 ngày kể từ 0 giờ ngày 08/02/2012, nhưng đến 4 giờ 26 phút chiều 19/02/2012 -tức ngày thứ 12/30- văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ đã nhận 53.722 thư thỉnh nguyện và vẫn tiếp tục gia tăng, cho thấy sức mạnh của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng. Sức mạnh này là “Vũ Khí Nhân Quyền”, sẽ tác động mạnh mẽ vào những chính sách của Hoa Kỳ trong bang giao với Việt Nam cộng sản, từ đó gia tăng sức mạnh cho thành phần đấu tranh ôn hòa trên quê hương trong cuộc chiến giành lại quyền làm người cho đồng bào. Bởi, giai đoạn hiện nay và trước mắt, những tiến bộ trong bang giao với Việt Nam, Quốc Hội và chánh phủ Hoa Kỳ đặt trên căn bản “những tiến bộ về Nhân Quyền tại Việt Nam”.

Xin hỏi: “Các Anh có suy nghĩ gì không?” Nếu không, thì Các Anh là ai? Nếu có, thì Các Anh đừng dành thì giờ để ân hận bất cứ điều gì, mà hãy nghĩ bằng cách nào đó để đứng vào hàng ngũ Tuổi Trẻ và Đồng Bào, chính Các Anh tự lột xác từ “những thần dân” trở thành “những Công Dân” và làm tròn bổn phận với Dân với Nước. Đó cũng là cách đẹp nhất mà Các Anh góp phần giúp cho những thế hệ Con Cháu được hưởng tròn vẹn quyền làm người trong một xã hội văn minh lịch sự, lúc ấy người ngoại quốc sẽ trân trọng khi nghe nói đến DÂN TỘC VIỆT NAM./.

tieuchuy
03-15-2012, 10:27 PM
Thư số 5 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó, tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo quân đội”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Bài này do tham khảo và trích dẫn trong một số bài của các tác giả Nguyễn Phát Quan, Huỳnh Ngọc Tuấn, Lê Mạnh Hùng, đài RFI, RFA, và trang báo điện tử <tuoitreonline> trên internet, tôi mời Các Anh tiếp tục nhìn lại “Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” qua góc cạnh rất bình thường trong cuộc sống, xoay quanh hai chữ “đât đai”. Từ nhiều ngàn năm trước, đất đai là vấn đề chìm sâu trong đời sống mọi người, nhưng từ khi có đảng CSVN nhất là từ năm 1945, đất đai trở thành tai họa ập xuống toàn dân Việt, trong đó có Các Anh và thân nhân thân quyến Các Anh, được lãnh đạo CSVN ẩn dưới nhóm chữ “Đất đai sở hữu toàn dân”. Đây là một trong những tội ác của lãnh đạo CSVN, vì đã gieo rắc đau khổ triền miên cho dân tộc từ khi có đảng!

1. LUẬT ĐẤT ĐAI.

Khởi thủy là Luật Đất Đai 1988. Sau đó được thay thế bởi Luật Đất Đai 1993, được tu chỉnh năm 1998 và 2001. Mười năm sau, Luật Đất Đai 2003 ban hành, thay thế Luật Đất Đai 1993 và tất cả những văn kiện liên quan ban hành trước đó, hiệu lực từ ngày 1/7/2004. Luật Đất Đai có 146 Điều trong 6 Chương, có các điểm chính: (1) Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước bao gồm Quốc Hội, Chính Phủ, Ủy Ban Nhân Dân cấp tỉnh và huyện quản lý. (2) Đất được chia làm 3 loại: “Đất nông nghiệp, đất không sử dụng trong nông nghiệp, và đất bỏ hoang. (3) Người được sử dụng đất với thời hạn 20 năm để nuôi thủy sản, và 50 năm để trồng cây dài hạn, có quyền chuyển nhượng. (4) Mỗi năm cho phép sử dụng đến 100.000 mẫu đất nông nghiệp vào mục đích kinh doanh”. Nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã dựa trên lý luận ngang ngược chẳng khác những nhóm cướp đường, cướp biển, cướp núi, rồi tự cho mình cái quyền sở hữu toàn bộ đất đai trên dãi đất hình cong chữ S, rằng: “Đất đai là kết quả của thời kỳ chế ngự thiên nhiên chớ không của riêng ai. Không một cá nhân nào có thể khai phá và giữ gìn bất cứ mảnh đất nào, để rồi nói là của mình. Họ chỉ có công khai phá và sử dụng.”

2. NGUYÊN NHÂN THAM NHŨNG.

Tôi nhấn mạnh để Các Anh nhớ rằng, mỗi cá nhân cũng như mỗi gia đình, cần có một diện tích đất để ở. Mỗi người dân bất cứ là ngành nghề nào trong xã hội, cần một lượng gạo làm lương thực, với một lượng thủy sản & thịt động vật làm thực phẩm để sống. Như vậy, nông dân cũng như ngư dân, ngoài diện tích đất để ở, còn cần một diện tích đất để trồng lúa, để chăn nuôi gia súc và thủy sản, cung cấp cho người dân trong nước. Nhưng sau khi đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa cuối tháng 4/1975, lãnh đạo CSVN đã gom đất đai trên toàn cõi Việt Nam dưới nhóm chữ “sở hữu toàn dân” vào tay nhóm lãnh đạo tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” trong Bộ Chính Trị, nhưng thực tế cho thấy họ là “đỉnh cao gian trá”. Về phía người dân, sau khi bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai chỉ được phép sử dụng đất ngang qua chính sách “dân xin đảng cho”, còn cho hay không cho, hoặc cho bao nhiêu, tùy mức độ quyền lợi của lãnh đạo có thẩm quyền. Vậy mà “ông Hồ và các nhóm lãnh đạo của Các Anh” gian dối với nhân dân rằng: “Nhân dân là Chủ, cán bộ là Đầy Tớ”, nhưng mỗi khi “Chủ” có việc phải đến cơ quan thì bị “Đầy Tớ” sách nhiễu đến khi “Chủ” móc túi hay mở tủ thì “Đầy Tớ” vui vẻ giải quyết.
Lãnh đạo nhà nước xuống đến cấp Huyện, có quyền quyết định giao đất cho các tổ chức, gia đình, hay cá nhân, sử dụng trong thời hạn nhất định. Đồng thời, cũng có quyền quyết định thu hồi đất để sử dụng theo cách riêng có lợi cho bản thân lồng dưới nhóm chữ “lợi ích nhà nước. Vậy, luật đất đai đã tạo cho các cấp lãnh đạo trong bộ máy đảng lẫn bộ máy nhà nước cái quyền tham nhũng không giới hạn, miệng thì nói đến “luật pháp nghiêm minh” nhưng hành động cho quyền lợi riêng tư thì đứng trên pháp luật. Với những vụ tham nhũng của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị thì họ tự che chắn cho nhau, với những vụ tham nhũng của lãnh đạo cấp dưới mà không thể che giấu lấp liếm thì lãnh đạo cấp trên che chắn cho họ, vì họ cùng chia chác nhau trong hệ thống tham nhũng và cùng nhau bảo vệ đảng. Trong nhiều trường hợp tham nhũng, lãnh đạo các địa phương đã sử dụng quân đội nhân dân, công an nhân dân và côn đồ nhân dân, để “trấn áp nhân dân”, thậm chí “tấn công nhân dân” chẳng khác tấn công kẻ thù. Chắc chắn và rõ ràng, đây là nguyên nhân tham nhũng trong lãnh vực đất đai.

3. THAM NHŨNG.

Mời Các Anh nhìn lại một số sự kiện dưới đây:
Năm 2002, tại quận Hoài Đức tỉnh Hà Tây, khi Công An, viên chức, và công nhân, dùng vũ khí buộc khoảng 190 người trong 38 gia đình phải dọn khỏi vùng giải tỏa để xây khu công nghiệp, thì cuộc xô sát xảy ra. Tại đại hội đảng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh vừa cảnh báo vừa dạy dỗ các đảng viên rằng: “Những xáo trộn xã hội sẽ gây ra những bất ổn”. Ông Mạnh nói tiếp: “Tội ác và đồi trụy lan rộng, cùng với tình trạng tham nhũng của một số đảng viên và viên chức nhà nước”.

Các Anh thấy không, ông Mạnh nói tỉnh bơ cứ như ông ấy không hề tham nhũng, không hề gây tội ác vậy. Khi đảng viên lên hàng lãnh đạo đều giống nhau ở điểm “nói dai, nói dài, nói không giống ai, chỉ giống người nói đại, nói như thể mình là người có tài”, nhưng thật ra họ tệ hơn những đảng viên mà ông Mạnh nói nữa.
Năm 2003-2004. Theo Viện Kiểm Sát Nhân Dân, trong những năm qua, mỗi năm nhận từ 5.000 đến 7.000 đơn khiếu nại thưa kiện. Đến cuối năm 2003, có hơn 120.000 đơn của dân bị oan ức về đất đai. Những lệnh thu hồi đất của đồng bào thiểu số Cao Nguyên trong những năm 2001-2004, đã dẫn đến những hành động phản kháng mạnh mẽ, đáng kể là trường hợp đồng bào tỉnh Bắc Giang đã dùng vũ khí thô sơ như giáo mác, gậy gộc cuốc xẻng, chống đối nhà nước thu hồi đất để công ty Đại Hàn xây dựng sân Golf, đến mức “đầy tớ của nhân dân” đưa “quân đội nhân dân” đến “đàn áp nhân dân” để chiếm đoạt cho bằng được “đất đai của nhân dân”, vừa có tiền đút lót vừa có chỗ cho lãnh đạo tham nhũng giải trí!

Nhân vụ này tôi có câu hỏi: “Có khi nào Các Anh suy nghĩ: Tại sao quân đội nhân dân lại đàn áp nhân dân không? Nếu không, thật sự Các Anh là ai mà vô cảm đến như vậy? Nếu có, Các Anh đã hành động như thế nào đối với dân oan khi thi hành lệnh cấp trên?”
Năm 2005. Những người dân khiếu kiện đã gởi ra hải ngoại một lá thư kêu cứu có 44 người ký tên thay mặt cho: (1) 900 gia đình ở thôn Phú Thượng, quận Tây Hồ, Hà Nội. (2) 560 gia Đình ở xã Lai Vũ, Hải Dương. (3) 100 gia đình ở tỉnh Thái Bình. (4) Và 200 gia đình ở tỉnh Bắc Giang. Thư kêu cứu cho biết các đoàn dân oan thường xuyên có mặt tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng (Hà Nội) để kêu oan, nhưng không cơ quan nào nhân vật nào tiếp xúc cả.
Trước sự kiện ngày càng có nhiều cuộc biểu tình, ông Nông Đức Mạnh đã phang một câu: “Chế độ dân chủ của chúng ta ngày càng loạn.” Sau đó, nhà nước CSVN ban hành Nghị Định số 38 ngày 18/3/2005, quy định các biện pháp bảo đảm trật tự công cộng với những biện pháp ngăn chặn các cuộc biểu tình. Và Bộ Công An ban hành Thông Tư số 09, “cấm những cuộc tập trung từ năm người trở lên”.

Tôi nghĩ, chắc Các Anh nghe quen rồi nên không cảm nhận được gì trong câu nói của ông Mạnh, nhưng với tôi thì hai chữ “dân chủ” mà ông Mạnh nói nó tàn bạo lắm! Bởi, Việt Nam áp dụng: (1) Chế độ độc đảng trong chính trị, vì duy nhất chỉ có đảng cộng sản là đảng chính trị. (2) Độc tài trong cầm quyền, vì chỉ có đảng cộng sản cầm quyền. (3) Độc tài trong truyền thông, vì toàn bộ hệ thống phát thanh, phát hình, báo chí, ..v..v.. trong tay của đảng cộng sản. (4) Độc tài trong Quốc Hội, vì gần 90% là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, đều là Đại Biểu. (5) Độc tài trong tư tưởng, vì bất cứ ai suy nghĩ khác hành động khác với đảng và nhà nước cộng sản, sẽ là tội phạm và bị bắt. (6) Độc tài trong luật pháp, vì tất cả viên chức từ cơ quan điều tra đến viên chức trong phiên tòa đều là đảng viên cộng sản. (7) Độc tài sở hữu đất đai, vì chỉ có đảng cộng sản là chủ nhân toàn bộ đất đai.

Một quốc gia độc tài như vậy mà ông Mạnh dám nói đến dân chủ. Liệu ông Mạnh có hiểu được nghĩa của hai chữ “Dân Chủ” không nhỉ? Hay là lãnh đạo CSVN chỉ có tài khôn vặt (chớ không có tài lãnh đạo), nên hiểu biết chỉ có đến ngần ấy thôi? Thật lòng mà nói, lãnh đạo của Các Anh là ai mà lạnh lùng vô cảm với nỗi khổ của dân tộc Việt Nam đến như vậy? Cũng nói thêm rằng, lãnh đạo CSVN rất sợ người dân, vì đâu có ai chấp nhận chế độ độc tài nên lúc nào họ cũng sợ người dân lật đổ, họ mới chuyển nỗi sợ hãi của họ sang người dân mà phương tiện chính là Công An, đôi khi có cả Các Anh nữa. Lãnh đạo đảng với nhà nước chỉ cho thấy, cho nghe, cho nói, những gì mà họ cho phép, vì đội ngũ nhân viên truyền thông “lề phải” xã hội chủ nghĩa chỉ thi hành chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng mọi người dưới quyền cai trị của họ. Trong khi những nhà báo “lề trái” là phục vụ đồng bào, dù khó khăn trong cuộc sống, dù phải tránh né Công An rình mò (mời Các Anh đọc thêm bản tin Việt Khang ở cuối bài).
Năm 2001-2006. Theo Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn, khoảng 376,000 mẫu trồng lúa đã bị thu hồi làm một triệu nông dân không có đất canh tác để sống. Vì vậy mà Luật Đất Đai 2003 nhắm đơn giản hóa thủ tục cho các hợp đồng lớn, cũng từ đó mà nông dân bị mất đất ngày càng nhiều hơn, nhanh hơn. Cũng theo Bộ này thì số lượng các đoàn có đông dân oan gia tăng trong những năm gần đây: (1) Năm 2008 với gần 1.000 đoàn. (2) Năm 2009 khoảng 2.500 đoàn. (3) Năm 2010 với hơn 3.500 đoàn.

Các Anh thử làm bài toán bằng cách dùng con số 3.500 đoàn DÂN OAN của năm 2010 x 20 người (trung bình của mỗi đoàn) có ngay con số 70.000 người. Với ngần ấy người bỏ công ăn việc làm từ nhiều địa phương nhất là trong Nam xa xôi lặn lội đến đất Bắc, sống vất vưỡng ở những nơi công cộng để mong được nhà nước giải quyết nỗi đau mất đất mất nhà cửa tài sản của họ, nhưng các cơ quan có trách nhiệm chỉ cần có tấm bảng trưng trước cơ quan làm cảnh, còn viên chức thì bất động cứ như không nghe không thấy không biết gì về nỗi oan ức của người dân xã hội chủ nghĩa rất đáng thương và tội nghiệp. Tôi có ý kiến: “Các Anh thử tìm đến đoàn dân oan nào đó, cố gắng tiếp xúc một vài người, và dùng con tim của Các Anh trao đổi với họ như lời tâm sự chia sẻ cho nhau qua tình người dân Việt, tình Người Lính với tình Người Dân, tôi tin là Các Anh sẽ cảm nhận được nỗi đau cũng từ con tim của họ”. Các Anh nghĩ sao?
Sau khi tóm tắt một số trường hợp dân oan về đất đai, bây giờ mời Các Anh nhìn vào vụ cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn, ông ta là cựu chiến binh của Các Anh đó. Sau khi trở về đời sống dân thường, ông Vươn theo học đại học Nông Nghiệp, tốt nghiệp Kỹ Sư. Và chuyện bắt đầu được nhìn thấy từ ngày 5/1/2012, những ngày trước Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn.

Căn cứ Điều 37 Luật Đất Đai 2003, ông Vươn xin phép và được sử dụng 50 mẫu tây đất ven biển để nuôi thủy sản trong 20 năm. Đây là vùng đất mà không ai dám nghĩ sẽ sản xuất được gì, thế nhưng ông Vươn và gia đình từ 1993, với sáng kiến, kiên nhẫn, tiền bạc, và bao công sức trong hằng chục năm để ngăn sóng, đắp đồng, đã biến khu đầm lầy bỏ hoang, biển mặn, thành khu đất bồi ven biển, trồng cây và nuôi thủy sản. Khi mà “những sản phẩm” sắp đưa vào thị trường thì lãnh đạo của ông tại Xã, Huyện, và thành phố Hải Phòng, ra lệnh cưỡng chế thu hồi toàn bộ phần đất mà ông còn trong thời hạn sử dụng. Ông Vươn khởi kiện. Huyện Tiên Lãng bác đơn, ông Vươn kháng cáo lên tòa án Hải Phòng. Lúc ấy, lãnh đạo Huyện tiếp xúc với ông, dụ dỗ ông Vươn rút đơn kháng cáo thì Huyện cho ông tiếp tục sử dụng đất. Nhưng khi ông Vươn rút đơn kháng cáo thì huyện Tiên Lãng lập tức thi hành cưỡng chế.
Các Anh thấy chưa, những “đầy tớ lãnh đạo” Huyện Tiên Lãng đã lừa dối “chủ” là ông Vươn. Sự kiện này nhìn theo góc cạnh đạo lý con người là không đúng, nhưng nhìn theo góc cạnh đảng viên thì “những đầy tớ” đó làm đúng theo bản chất của đảng cộng sản. Bởi, từ ngày dẫn đoàn quân xâm lăng từ ngoài rừng tràn vào các thành phố của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, lãnh đạo CSVN đã “xây dựng” được một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng những lọc lừa dối trá. Vì, nếu không như vậy thì không phải là cộng sản.
Giả thử, nếu Các Anh ở vào trường hợp của ông Vươn, Các Anh có căm phẫn không? Có chớ hả! Và sự căm phẫn đó đã dẫn ông Vươn đến phản ứng tự vệ. Với kiến thức đại học, cộng với những hiểu biết khi là Người Lính trong “quân đội nhân dân” Các Anh, ông tự làm ra “chất nổ và súng hoa cải” để thể hiện sự phẫn uất của người dân cô thế bị lãnh đạo tìm cách cướp đoạt tài sản bằng mồ hôi nước mắt của ông và gia đình, chớ loại vũ khí đó làm sao ngăn chận được Quân Đội với Công An.

Ngày 5/1/2012, đoàn quân đông đảo hơn 100 người gồm cán bộ các ngành, Công An, Quân Đội, kéo đến cưỡng bách ông Vươn phải thi hành lệnh giao trả khu đất bồi, dù còn trong thời hạn mà ông Vươn được quyền sử dụng. Với phản ứng mạnh mẽ của ông Vươn và gia đình trong ngôi nhà trơ trọi, đoàn quân cướp đất có mấy người bị thương. Ngày hôm sau, lãnh đạo cho máy ủi đến ủi sập nhà ông Vươn, san bằng khu đất, đốt phá hết vật dụng, tài sản, và phong tỏa khu đất. “Công An nhân dân đầy tớ” bắt “nhân dân chủ” là Đoàn Văn Vươn cùng gia đình ông, truy tố như vụ án giết nhân viên nhà nước thi hành công vụ.
Mời Các Anh nghe ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc Khu Vực Châu Á thuộc tổ chức theo dõi nhân quyền thế giới, nhận định về trường hợp ông Vươn: "Hành động này cho thấy sự cùng quẫn mà gia đình này phải đối mặt vì họ không còn con đường nào khác. Nó cho thấy sự thoái hóa của chính quyền địa phương, nó cho thấy sự mất lòng tin vào việc thực thi luật pháp, nó cũng cho thấy ngày càng nhiều suy nghĩ là chân lý thuộc về kẻ mạnh tại Việt Nam, và nó vượt qua cái gọi là nhà nước pháp quyền mà chính quyền Hà Nội thích nói về mình." (RFI ngày 1/2/2012)
Các Anh có thấy là người ngoại quốc còn nhận ra tình cảnh người dân Việt Nam bị lãnh đạo ức hiếp đến mức không còn sợ chết để bảo vệ tài sản của họ không?.

Rồi nhìn vào phản ứng của:
(1) Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng, cũng là “đại biểu Quốc Hội” của nhân dân Tiên Lãng, xuống Hải Phòng nghe tường trình sự việc, rồi kết luận: “Hành động của Xã, Huyện, và Hải Phòng là sai”. Rồi ông nhép miệng ra lệnh cho các cơ quan trực thuộc điều tra và báo cáo. Vậy là xong.
(2) Ngày 16/1/2012, trên báo Lao Động đăng lời nhận định của ông Lê Đức Anh, một thời là Chủ Tịch Nước của Các Anh: “Chính quyền từ Xã đến Huyện đều sai”.
(3) Ngày 18/1/2012, Đại Tá Đỗ Hữu Ca, Giám Đốc Công An Nhân Dân Hải Phòng kết luận vụ việc trên màn ảnh truyền hình Hải Phòng rằng: “… Sau khi lực lượng chống tội phạm khám nghiệm hiện trường xong, giao lại cho địa phương, thì chính những người dân chung quanh đấy người ta vào đạp đổ, phá đổ. Cho nên việc phá cái chòi ấy cho đến bây giờ chúng tôi kiểm tra lại không có ai ra lệnh phá cái nhà ấy, mà cũng không biết ai phá vì nhân dân lúc ấy đứng rất đông."
(4) Tương tự như vậy, ông Đỗ Trung Thoại, Phó Chủ Tịch Hải Phòng, tuyên bố trong buổi họp báo tại Hà Nội rằng: “.. người dân bất bình đã phá nhà của gia đình ông Vươn”.
(5) Tại câu lạc bộ Bạch Đằng, ông Nguyễn Văn Thành, Bí thư thành ủy Hải Phòng, nói như lời thách thức Thủ Tướng của ông, rằng: “… Báo chí nói sai, ghép ảnh chỗ khác vào chứ đâu có chuyện xe ủi nhà ông Vươn…
(6) Nhưng nhân chứng là ông Lê Văn Kết, nói với báo chí rằng: “Anh Khanh, anh Hoan, và anh Liêm, nhờ tôi gọi máy xúc để ban cưỡng chế giải tỏa mặt bằng. Tôi điện thoại cho anh Thái, chủ máy xúc ở Hồng Thắng, nhưng anh ấy bận nên tôi gọi anh Đỗ Văn Thoàn, chủ máy xúc ở Tiên Hưng. Lúc 8 giờ sáng, ông Hoan, ông Liêm, và nhiều người trong ban cưỡng chế có mặt tại khu vực nhà ông Vươn. Tôi làm theo sự chỉ đạo của ban cưỡng chế mà trực tiếp là ông Hoan với ông Liêm trong công tác ủi sập và san bằng nhà ông Vươn. Đến 11 giờ thì xong, tôi đưa đề nghị thanh toán cho ông Hoan, với tiền công 1.500.000 đồng sau 3 tiếng đồng hồ làm việc”.
(7) Thiếu Tướng Phạm Chuyên, nguyên Giám Đốc Công An Hà Nội, đã cùng một số cựu đảng viên và trí thức đến Tiên Lãng thăm căn nhà của ông Vươn đã bị tàn phá và tìm hiểu sự việc. Ông ta lên tiếng đề nghị cách chức ngay Bí Thư, Chủ Tịch và Giám Đốc Công An Hải Phòng, và tha bổng cho Đoàn Văn Vươn.
Về phía nạn nhân, Bà Hiền (vợ ông Vươn) nói như một lời than: “Cơ quan điều tra ngăn cản luật sư, họ không cho luật sư tiếp xúc với những người trong gia đình nhà em”. Chình luật sư cũng nói: “Không hiểu lý vì do gì mà Công An Hải Phòng vẫn không cho ông (luật sư) tiếp xúc với bị can."

Tôi nhấn mạnh vài điểm hầu giúp Các Anh dễ nhận ra một xã hội độc tài dối trá:
(1) Ông Nguyễn Tấn Dũng vừa là thành viên trong Bộ Chính Trị, lại là Đại Biểu nhân dân Tiên Lãng trong Quốc Hội. Các Anh thử nhìn vào sân cỏ của một trận banh hào hứng nào đó, nếu Các Anh thấy một người vừa là cầu thủ lại vừa là trọng tài, Các Anh có thấy quái đản không? Thủ Tướng của Các Anh cũng vậy đó, vừa là đại biểu của dân vừa là trong hàng ngũ lãnh đạo tham nhũng, vậy mà chỉ nhép miệng ra lệnh điều tra là xong chớ đâu có bảo vệ cử tri của ông ta. Các Anh cũng nên nhớ rằng, lãnh đạo trung ương ra lệnh là việc của trung ương, còn địa phương có thi hành hay không là việc của địa phương, vì trong cùng hệ thống tham nhũng với nhau mà.
(2) Ông Ca với ông Thoại, cả hai cùng dựng chuyện nói dối việc ủi sập nhà ông Vươn là do người dân địa phương, trong khi người dân trong vùng không ai có máy ủi thì làm sao ủi sập nhà xây bằng gạch. Thêm nữa, nếu không dối trá thì tại sao Công An tìm mọi cách ngăn chận luật sư tiếp xúc với ông Vươn?
(3) Trái với lời dối trá trắng trợn của Giám Đốc Công An và Phó Chủ Tịch Hải Phòng, người lái xe ủi và ủi sập rồi san bằng nhà ông Vươn đã tường thuật rõ ràng. Chưa hết, người dân trong vùng cũng như nhiều người dân oan về đất đai từ nhiều nơi trong Nam lẫn ngoài Bắc, đến tận nền nhà ông Vươn mà chia sẻ nỗi đau của ông và gia đình, vì gia đình họ cũng uất ức phẫn nộ khi bị nhà cầm quyền địa phương cưỡng chế thu hồi đất đai đến mức không còn nhà ở, cũng không còn phương tiện sinh nhai.

Sự kiện cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn làm tràn ly nước. Đúng, ly nước đầy lòng căm phẫn của hằng chục ngàn, thậm chí là hằng trăm ngàn gia đình nông dân bị cưỡng chế đất đai đã tràn thật rồi, và nhờ ly nước tràn mới biết thêm những vụ cưỡng chế đất đai trước đó.
(1) Ông Nguyễn Thế Đọc, chủ đầm nuôi tôm cũng ở Tiên Lãng. Đầu năm 1998, Huyện ký quyết định cho ông thuê 30 mẫu tây đất đầm bãi nuôi thủy sản. Chưa hết thời hạn mà có quyết định thu hồi nhưng ghi rõ “không đền bù”. Ông Đọc không bàn giao. Ông Đọc đưa đơn kiến nghị Huyện tiếp tục cho thuê đất vì chưa hết hạn sử dụng, Huyện không giải quyết. Ngày 18/2/2008, Chủ Tịch Huyện Tiên Lãng tên Lê Văn Hiền, mời ông Đọc lên trụ sở huyện làm việc, và khẳng định sẽ thực hiện cưỡng chế nếu gia đình không bàn giao đầm. Sáng 23/8/2008, cả trăm dân quân, tự vệ, công an viên, lực lượng liên ngành của 4 xã và từ Huyện kéo đến đầm tôm của ông Đọc. Khi đưa máy xúc đến phá đầm, gia đình ông Đọc huy động gần 50 người ra phản kháng, ông yêu cầu lập biên bản về việc tại sao phá đầm. Biên bản lập xong, có chữ ký đầy đủ của ban ngành. Thấy không chiếm được, họ rút lui”.
(2) Tại Sài Gòn, ông Nguyễn Xuân Ngữ, cũng là cựu chiến binh, đã nhiều lần gởi thư lên Thủ Tướng và lãnh đạo Quốc Hội, Bộ Quốc Phòng, Hội Cựu Chiến Binh. Và gần nhất là ngày 29/1/2012, ông gởi thư cho Trương Tấn Sang, Chủ Tịch Nước. Tóm tắt nội vụ: “Khi đất nước chiến tranh, tôi cũng như triệu triệu thanh niên Miền Bắc đáp lời Đảng gọi. Rất sẵn sàng lúc Đảng gọi thanh niên chiến đấu giỏi cho xóm làng bình yên. Tôi cũng được lịch sử “Kính chào anh con người đẹp nhất, lịch sử hôn anh… Năm 2000, tôi về hưu ở Phường Long Mỹ, Quận 9 Sài Gòn. Hai năm trước đó, tôi mua thửa đất với diện tích 3.601 m2, xây ngôi nhà và một trang trại để kiếm sống khi về hưu vì đồng lương hưu ít ỏi. Năm 2003, Quận 9 ra lệnh miệng thu hồi thửa đất vì nơi đây sẽ xây dựng khu công nghệ cao, và ép gia đình tôi đến ở trong khu nhà trọ, số 41 đường Tăng Nhơn Phú, cũng thuộc Quận 9. Chính quyền Quận 9 được Chủ Tịch thành phố chấp thuận cho tàn phá, hủy diệt, và cướp hết. Nhà mất, trang trại mất, tiền của đổ vào xây dựng mất, vật nuôi bị cướp mất, đất đai mất… Tất cả, tất cả đều mất… Bố tôi sau Cách Mạng Tháng 8 theo Việt Minh bị thực dân Pháp bắt và giết ngay, nhà cửa bị đốt nhưng họ không cướp gia súc gia cầm, không ủi sập hết tường. Nay, tôi là Việt Cộng bị những ông đảng viên đảng CSVN Quận 9 cướp hết. Tất cả… tất cả đều mất, và đang chết dở, sống dở chớ không chết ngay như Bố tôi trước đây. Đảng CSVN, Quốc Hội nước CHXHCNVN hãy cứu giúp gia đình tôi. Nhà Nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, sao thành phố không có pháp luật? Chủ Tịch UBND thành phố lại chấp nhận sự chỉ đạo của ông Phó Chủ Tịch Quận 9 phụ trách nhà đất chỉ có văn hóa lớp 5. Trước khi là Phó Chủ Tịch Ủy Ban, ông chỉ là người chăn vịt mướn. Hơn nữa, ông chăn vịt còn vô hiệu hoá cả Thanh Tra Chính Phủ”.

4. KẾT LUẬN.

Đến đây, tôi nghĩ là trong một chừng mực nào đó, Các Anh đã hiểu được “đất đai sở hữu toàn dân” nó tác hại như thế nào với người dân nông thôn và người dân ven biển phải không? Nếu hiểu được, Các Anh hãy dành chút thì giờ để bình tâm mà nhận định chuỗi sự kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính Các Anh chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động đúng với bổn phận công dân là Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Texas, tháng 3 năm 2012.
*********

Trở lại tin về nhạc sĩ Việt Khang.
Tin nhạc sĩ Việt Khang (Võ Minh Trí, Mỹ Tho) bị bắt tháng 12/2011 đã làm tràn ly nước. Đúng, ly nước đầy lòng căm phẫn của người dân đối với lãnh đạo CSVN, về hành động tào bạo với dân nhưng khiếp nhược hèn hạ với Trung Cộng đã tràn thật rồi. Cộng Đồng chúng tôi tại Hoa Kỳ đã cùng nhau ký vào “Thư Thỉnh Nguyện” (một phương tiện chuyển đạt ý kiến của người dân) gởi trực tiếp Tổng Thống Hoa Kỳ, can thiệp với lãnh đạo CSVN trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm và tù nhân chính trị, kể cả nhạc sĩ Việt Khang. “Tù nhân”, là những người bị bắt chỉ vì viết lên trang giấy phơi trải nỗi giày vò từ trong chiều sâu tâm thức của mình đối với quê hương dân tộc, nói lên tiếng nói yêu quê hương trước sự lấn chiếm khống chế của Trung Cộng, hát lên tiếng hát thương đồng bào phải sống dưới chế độ độc tài, bị tước đoạt quyền sở hữu đất đai, quyền sở hữu tư tưởng, nói chung là quyền làm người của 89 triệu đồng bào trên quê hương Việt Nam.

Ít nhất phải có 25.000 thư thỉnh nguyện gởi đến tòa Bạch Ốc (White House) trong vòng 30 ngày kể từ 0 giờ ngày 08/02/2012 thì yêu cầu của Cộng Đồng sẽ được cứu xét. Đến hết ngày thứ 30/30 (8/3/2012) chung cuộc, tòa Bạch Ốc đã nhận 148.773 thư thỉnh nguyện. Đây là sức mạnh của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng. Sức mạnh này là “Vũ Khí Nhân Quyền”, sẽ tác động mạnh mẽ vào những chính sách của Hoa Kỳ trong bang giao (mà Các Anh gọi là quan hệ) với Việt Nam, từ đó gia tăng sức mạnh cho thành phần đấu tranh ôn hòa trên quê hương trong cuộc chiến giành lại quyền làm người cho đồng bào. Bởi, giai đoạn hiện nay và trước mắt, những tiến triển trong bang giao với Việt Nam, Quốc Hội và chánh phủ Hoa Kỳ đặt trên căn bản “những tiến triển tốt về Nhân Quyền tại Việt Nam”.

Ngày 5/3/2012, Ông Jon Carson, Giám Đốc Văn Phòng Tiếp Cận Cộng Ðồng (Office of Public Engagement), đón tiếp phái đoàn 185 người của Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và thảo luận tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Ngoài ông Jon Carson ra, còn có các vị đứng đầu từng phần vụ trong Bộ Ngoại Giao tham dự:
(1) Ông George Selin, Vietnam Desk.
(2) Ông Thomas Debass, Global Partnerships Initiative.
(3) Ông Eric Barboriak, Văn Phòng Ðông Nam Á Sự Vụ.
(4) Và ông Michael Posner, Phụ Tá Ngoại Trưởng đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Ðộng. Các vị có cùng nhận định: “Tinh thần dấn thân của Cộng Đồng Việt Nam rất cao cho Nhân Quyền tại Việt Nam. Với hơn 130.000 chữ ký (ngày 5/3/2012), quý vị đã tạo ra một hiện tượng đặc biệt chưa từng có”. Cùng thời gian đó, phần còn lại khoảng 700 người đứng bên ngoài dinh Tổng Thống, giương cao rừng cờ vàng ba sọc đỏ với những biểu ngữ tập trong vào một mục tiêu “Ủng Hộ Nhân Quyền Cho Việt Nam” để hỗ trợ phái đoàn bên trong.

Ngày 6/3/2012, Quốc Hội Hoa Kỳ đón tiếp phái đoàn Cộng Đồng chúng tôi hơn 500 người, được tổ chức thành 40 toán đến từng văn phòng của 100 Nghị Sĩ & Dân Biểu, cùng trình bày tình hình nhân quyền tại Việt Nam, kèm theo danh sách gần 600 tù nhân lương tâm & tù nhân chính trị. Đặc biệt, Bà Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện (gốc Cuba) am hiểu về tình trạng Nhân Quyền tại Việt Nam. Bà biết CSVN đã áp dụng điều khoản 74 và 88 trong Luật Hình Sự để bắt giam những người đấu tranh cho dân chủ trong ôn hòa, và Bà sẽ làm hết sức mình cho vấn đền này.
Ngay ngày hôm sau, 7/3/2012, Uỷ Ban Đối Ngoại của Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự Luật “Nhân Quyền Cho Việt Nam” (ký hiệu HR 1410) sau khi cập nhật mới nhất về sự leo thang vi phạm nhân quyền của CSVN.

Xin nói thêm để Các Anh biết qua một góc trong sinh hoạt dân chủ. Ngày 22/9/2011, tòa Bạch Ốc đáp ứng phong trào quần chúng, trong đó có Cộng Đồng Việt Nam, bằng cách thành lập trang “We the People”, để các công dân Hoa Kỳ đưa “thỉnh nguyện” (petition) giúp chánh phủ biết được nguyện vọng của mình, với yêu cầu trong vòng 30 ngày phải có ít nhất 25.000 thư thỉnh nguyện, sẽ được cứu xét. Đó là sinh hoạt Dân Chủ trong xã hội văn minh, chớ không phải Dân Chủ kiểu xã hội chủ nghĩa mà ông Tổng Bí Thư họ Nông của Các Anh đã nói ở trên.
Nhớ lại năm 2004 Nghị Quyết 36 ra đời, lãnh đạo CSVN đặt trách nhiệm lên vai toàn bộ hệ thống chính trị, toàn bộ tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, mặt trận tổ quốc, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, và các đoàn thể nhân dân, từ trong nước ra đến hải ngoại. Họ kêu gọi toàn dân phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nhưng mục đích tối hậu của lãnh đạo CSVN là “vừa dụ dỗ, vừa mua chuộc, vừa đánh phá, để khống chế mà sử dụng khối tài chánh không lồ cùng với khối chuyên gia tài năng phục vụ cho họ, và moi tất cả “phân bón xã hội chủ nghĩa ưu việt” bên trong những “khúc ruột già ly hương ngàn dặm” trong Cộng Đồng chúng tôi tỊ nạn cộng sản tại hải ngoại mà chia chác cho nhau, như họ đã và đang móc ruột người dân trong nước. Nhưng, với sức mạnh của Cộng Đồng chúng tôi trong cuộc vận động Nhân Quyền sau sự kiện Việt Khang bị bắt, NQ 36 của CSVN tự nó đã chết, như những Nghị Quyết “tài tình sáng suốt” của các đại hội đảng đã từng chết.

Và bản tin ngắn cuối cùng:

Bản tin từ Cục Hàng Không Việt Nam, ngày 15/1/2012, chuyến bay VN 416 từ Hà Nội đi Seoul -thủ đô Hàn quốc- Phi cơ cất cánh rời khỏi Hà Nội, khi bay ngang không phận Quảng Châu thì đài kiểm soát không lưu Trung Cộng yêu cầu bay vòng vòng một chỗ trong 55 phút vì chung quanh có hoạt động nguy hiểm, mà thật ra không có gì nguy hiểm gi cả. Sau 55 phút thì nhiên liệu trong bình không đủ để tiếp tục không trình, phải đáp xuống Thượng Hải đế tiếp tế nhiên liệu. Đến Seoul không đúng giờ, hành khách cần chuyển phi cơ đi nơi khác đều bị trễ chuyến bay, nhưng may mắn là an toàn.

Qua sự kiện nhỏ nhoi này, Các Anh có nhận ra điều gì không? Tôi thì có. Trạm kiểm soát không lưu “nước lạ” có một yêu cầu “rất lạ” đối với chuyến bay quốc tế của một nước “rất quen”. Đây là sự kiện “rất lạ” đối với một nước “rất quen” nhưng lại rất bình thường của “nước lạ”. Các Anh nhớ lại xem, vài ngày trước đó, Bộ Ngoại Giao Việt Nam có nêu vấn đề với Trung Cộng về sự kiện tàu Hải Giám Trung Cộng cướp tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Phải chăng, vì vậy mà Trung Cộng “vỗ mặt” lãnh đạo Các Anh chăng?

***********

tieuchuy
04-21-2012, 02:31 AM
Thư số 6
gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện sống tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương cội nguồn của tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị đúng nghĩa.

Xin gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Trong Thư số 5 (tháng 3/2012), sự kiện cưỡng chế đất đai của ông Đoàn Văn Vươn đã làm tràn ly nước đầy lòng căm phẫn của hằng chục ngàn, thậm chí là hằng trăm ngàn gia đình nông dân bị cưỡng chế đất đai. Tiếp đến là sự kiện ca nhạc sĩ Việt Khang bị bắt đã làm tràn ly nước đầy lòng căm phẫn về sự tàn bạo của đảng và nhà nước cộng sản với đồng bào, nhưng lại khiếp nhược đến mức hèn hạ với nước Tàu cộng sản, đã dẫn đến 148.773 người ký Thỉnh Nguyện Thư của Cộng Đồng chúng tôi gởi Tổng Thống song song với vận động Quốc Hội Hoa Kỳ, ủng hộ Nghị Quyết về Nhân Quyền Cho Việt Nam. Với Cộng Đồng chúng tôi tị nạn tại hải ngoại, đây là một thành công cao hơn mức dự tưởng trong “Trận Chiến Nhân Quyền”, và chúng tôi đang thực hiện những bước tiếp theo trong mục đích hỗ trợ những thành phần trong nước đấu tranh ôn hòa giành lại quyền làm người cho đồng bào trên quê hương.
Song song với thành công trong “Trận Chiến Nhân Quyền”, là một thành công khác trong “Trận Chiến Dựng Lại Quốc Kỳ” cũng cao hơn dự tưởng của Cộng Đồng chúng tôi. Xin nhấn mạnh: Nhóm chữ “quốc kỳ nền vàng” hay “quốc kỳ Việt Nam” hay “cờ vàng” trong bài này, phải hiểu là “quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ” đã có từ trong lịch sử lâu đời của Việt Nam. Từ tháng 4/1975 đến nay, quốc kỳ này là biểu tượng “lý tưởng tự do, dân chủ, nhân quyền” của Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại nói chung, và tại Hoa Kỳ nói riêng.
Đọc xong, tôi tin là Các Anh sẽ rất ngạc nhiên, vì chưa bao giờ Các Anh nghe nói đến “trận chiến” này. Hãy suy nghĩ với nhận thức về “trận chiến lạ lùng” đối với Các Anh, nhưng rất lý thú đối với chúng tôi. Và mời Các Anh vào nội dung ….


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1334975531.jpg

Phần một.

Quốc Kỳ Việt Nam (QKVN) trên nhiều kỳ đài tại nhiều thành phố, trong nhiều cuộc mít tinh biểu tình, trong tham dự diển hành tại các thành phố lớn trên thế giới có Cộng Đồng Việt Nam cư ngụ, được tiêu biểu qua một số trường hợp tóm lược dưới đây: (bài này đầy đủ dài đến 21 trang)

QKVN nền vàng tại Boston. Ngày 30/07/2003, thành phố Boston tiểu bang Massachussetts chánh thức công nhận quốc kỳ Việt Nam. Ngày 08/08/2003, phái đoàn tòa đại sứ CSVN gồm 4 người do Vũ Đ. Dũng dẫn đầu. Dũng đang xử lý thường vụ chức vụ Đại sứ vì Nguyễn Tâm Chiến đã về Hà Nội nhận lệnh. Từ Washington DC đến Boston, xin gặp Hội Đồng thành phố. Bà Maura Hennigan, Nghị Viên, thay mặt Hội Đồng thành phố tiếp phái đoàn. Vào đề là Vũ Đ. Dũng mạnh mẽ phản đối Boston công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ,.vì đó là “cờ của Sài Gòn cũ”. Chánh phủ của ông và tòa đại sứ mà ông đang xử lý, quyết lìệt đòi thành phố Boston phải hủy bỏ Nghị Quyết đó, đồng thời chấm dứt việc treo cờ vàng trên nóc tòa thị chánh Boston. Với lời lẽ cứng rắn, Bà Nghị Viên Maura Hennigan đáp: “Chúng tôi rất tiếc là Nghị Quyết công nhận cờ vàng ba sọc đỏ được tất cả 13 vị Nghị Viên thành phố đã ký, Nghị Quyết đã thành Luật và không có vấn đề thay đổi. Cờ vàng ba sọc đỏ đã được treo trên nóc tòa thị chánh Boston từ lâu rồi chớ không phải bây giờ mới treo, Luật mới ban hành là chánh thức công nhận và khuyến khích sự tiếp tục đó. Cử tri trong Cộng Đồng người Mỹ gốc Việt tại đây, đã đóng góp nhiều mặt cho sự phát triển của thành phố Boston, và chúng tôi công nhận nguyện vọng của họ đối với quốc kỳ truyền thống của họ. Chúng tôi treo quốc kỳ đó ngang hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ, cờ tiểu bang Massachussetts, và cờ của thành phố Boston chúng tôi. Mặt khác, chúng tôi rất quan tâm đến vấn đề dân chủ tự do tại Việt Nam, chúng tôi đòi hỏi phải cải thiện nhân quyền, tự do tôn giáo, và thả hết tù nhân lương tâm tại Việt Nam”. Nhìn phái đoàn CSVN im lặng, Bà Hennigan nói tiếp với lời lẽ lịch sự của chủ nhà: “Những đòi hỏi của phái đoàn, theo tôi, các ông nên mang về Washington DC là tốt hơn, và nên hiểu rằng, chính trị là vấn đề của địa phương “Politics is local”. Nói xong, bà Hennigan đứng dậy, với cử chỉ thật ngoại giao, bà mở cửa văn phòng, tay hướng ra ngoài cửa như có ý “tôi không nói chuyện với các anh nữa”. Chần chừ giây lát, phái đoàn CSVN ra về với nét mặt thất vọng của những viên chức ngoại giao!

QKVN nền vàng trên đỉnh Everest. Ông Craig Van Hoy, người Mỹ, sống tại Oregon. Vợ ông là người gốc Lào, nên ông thấu hiểu chính sách tàn bạo của chế độ cộng sản. Vì vậy mà trong những câu chuyện trao đổi giữa ông với người bạn hàng xóm, ông cảm kích tinh thần của Cộng Đồng Việt Nam vì không sống nỗi với cộng sản độc tài nên phải vượt lên sự chết để tìm sự sống trong xã hội dân chủ tự do, nhưng không quên mình là người Việt Nam, nên ông chấp nhận lời yêu cầu của bạn hàng xóm, mang theo lá quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ trong chuyến ông hướng dẫn đoàn thám hiểm chinh phục đỉnh Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya). Ông Craig nói: “Ông sẽ cắm lá quốc kỳ này -ông chỉ vào lá quốc kỳ mà ông vừa nhận- lên đỉnh Everest theo ước nguyện của người bạn Việt Nam, nhưng danh dự này không phải chỉ dành riêng cho bạn hay cho 2.700.000 người Việt tị nạn tại hải ngoại, mà ông còn dành cho 82.000.000 người dân đang bị cộng sản độc tài cai trị trên đất nước Việt Nam. Vì nơi đó -tức Việt Nam- một dân tộc đã và đang bị bất hạnh như đồng bào trên quê hương cội nguồn hiền thê của ông”. Ngày 09/05/2004, đoàn leo núi gồm 5 người bắt đầu leo dốc. Sau khi vượt qua những gian nan trên hành trình, ngày 16/05/2004 đoàn đến đỉnh Everest trên độ cao 29.035 feet (bộ Anh). Ông Craig Van Hoy đã cắm quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ của chúng tôi trên đỉnh Everest vào ngày 17/05/2004, như một thông điệp gởi cho nhân loại về chính nghĩa của dân tộc Việt Nam tôn trọng Dân Chủ - Tự Do - Nhân Quyền, từ đỉnh núi cao nhất của thế giới.

QKVN nền vàng tại Melboure, Australia. Ngày 12/8/2005, một buổi tiếp tân trọng thể tại Quốc Hội tiểu bang để “Vinh Danh Cộng Đồng Việt Nam 30 Năm Tị Nạn tại tiểu bang Nam Úc”. Buổi lễ do ông Mike Rann, Thủ Hiến tiểu bang Nam Úc chủ tọa. Hằng trăm quan khách Việt Nam và Úc Đại Lợi, trong số đó có nhiều viên chức của cơ quan lập pháp và hành pháp tham dự. Hai quốc kỳ Australia và Việt Nam nền vàng được đặt vào vị trí trang trọng nhất. Thủ Hiến Mike Rann đã đọc một bài diễn văn thật ý nghĩa, xin trích vài đoạn: “… Chúng ta không bao giờ được quên những người đã bỏ mình trong cuộc vượt thoát chế độ cộng sản Việt Nam trong thập niên 70. Chúng ta phải vinh danh Họ, và chúng tôi phải vinh danh quí vị, là những người đã sống sót để thuật lại câu chuyện như một chiến thắng vinh quang của mình, một câu chuyện về vô số người Việt Nam đã trốn chạy chế độ cộng sản ác ôn áp bức từ năm 1975. Cuộc trốn chạy can trường của người Việt Nam, đã làm cho cả thế giới nói chung, và nước Úc nói riêng, phải kinh ngạc! … Quí vị phải đương đầu với bão tố và hải tặc, với niềm hy vọng trông thấy một dãi đất nhân hậu bên kia chân trời để bắt đầu cho cuộc sống mới. … Sự đóng góp của quí vị đã tạo ra của cải cho tiểu bang Nam Úc, không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn cả về phương diện xã hội và văn hoá nữa. ... Tên của những người Úc gốc Việt trẻ tuổi học hành tận tụy, đã chiếm nhiều hàng tít lớn trên báo chí vào tháng Giêng hằng năm, khi mà kết quả các kỳ thi được công bố với số điểm tối ưu hoặc rất cao. Các em đó cũng học hành xuất sắc như thế ở bậc đại học. Thật ra, tuổi trẻ Việt Nam đã được đứng vững trên đôi vai phi thường của các bậc phụ huynh vĩ đại …Cộng Đồng người Việt cũng đã tiến hành những cuộc tranh đấu đòi hỏi những quyền căn bản cho mọi người dân đang sống tại Việt Nam. Đó là những quyền mà mỗi con người đương nhiên được hưởng, như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng, quyền tự do đi lại, quyền không bị ngược đãi bằng bất cứ hình thức nào…… Chánh phủ do tôi lãnh đạo, và cá nhân tôi, đứng về phía quí vị trong cuộc đấu tranh không ngưng nghỉ, nhằm mang lại tự do và những quyền căn bản cho mỗi con người Việt Nam trên quê hương của quí vị. Vì vậy, trong khi chúng ta tán dương những thành tựu của Cộng Đồng người Việt hôm nay, chúng ta cũng công nhận sự nghiệp đấu tranh cho người dân tại Việt Nam.”

QKVN nền vàng tại Đức. Ngày 21/8/2005, một thánh lễ bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20 tổ chức tại thành phố Koln, Cộng Hòa Liên Bang Đức do Đức Giáo Hoàng chủ lễ. Ước lượng có khoảng 800.000 người tham dự và hằng tỷ người trên thế giới theo dõi qua hệ thống truyền thông. Khán giả theo dõi buổi lễ dễ dàng trông thấy rất rõ quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ tung bay phất phới ngay sau lưng Đức Giáo Hoàng.
QKVN nền vàng tại New York, Hoa Kỳ. Nhận lời mời của Ủy Ban Tổ Chức Ngày Văn Hoá Quốc Tế tổ chức hằng năm tại New York sau khi đánh bại sự vận động của CSVN giành quyền đại diện tại Cơ Quan Di Dân Quốc Tế Liên Hiệp Quốc. Trong cuộc diễn hành năm thứ 22 ngày 18/6/2007, Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tham dự với hơn 2.000 người từ 44 Cộng Đồng qui tụ tại New York, cũng là dịp biểu dương sức mạnh của Cộng Đồng tị nạn ngay trước mặt phái đoàn CSVN do ông Nguyễn Minh Triết của Các Anh dẫn đầu đang có mặt nơi đây. Đoàn nam giới mặc quốc phục cổ truyền, đến màu sắc rất đẹp của đoàn nữ giới với trang phục ba miền Nam Trung Bắc, xe hoa với ảnh Phù Đổng Thiên Vương + bản đồ Việt Nam + lá quốc kỳ Việt Nam nền vàng, đến đoàn nữ giới với chiếc áo dài tha thướt và những chiếc nón lá duyên dáng, rồi đoàn thanh thiếu niên nam nữ với chiếc áo tứ thân và khăn đóng áo dài, và đông đảo bà con đồng hương. Đoàn diễn hành của Cộng Đồng chúng tôi giương cao một rừng cờ vàng ba sọc đỏ, đã tạo được tình cảm của Ban Tổ Chức Liên Hiệp Quốc và mọi người có mặt. Đặc biệt là các đơn vị Cảnh Sát bảo vệ trật tự, đều hô to “Việt Nam, Việt Nam” khi đoàn chúng tôi đi ngang.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1334975110.jpg

QKVN nền vàng tại Sydney, Australia. Ngày Giới Trẻ Quốc Tế lần thứ 23 tổ chức tại Sydney (Australia) từ 15 đến 20/7/2008, với khoảng 100.000 bạn trẻ bản xứ và 125.000 người từ khắp nơi trên thế giới đến, trong số đó có 15.000 bạn trẻ mà đa số là Mỹ gốc Việt đến từ Hoa Kỳ, và khoảng 600 bạn trẻ đến từ Việt Nam. Ngày 17/7/2008, trên du thuyền gần Cầu Hải Cảng và Nhà Hát Con Sò, bạn trẻ Phạm Vũ Anh Dũng đã kể chuyện với Đức Giáo Hoàng về gia đình anh không thể sống trên quê hương dưới sự cai trị của cộng sản độc tài, nên phải liều chết vượt biển tìm tự do và đã đến Australia. Nói xong, anh dâng dãi quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ lên Đức Giáo Hoàng. Ngài ban phép lành và tự choàng lên cổ với nụ cười hiền hòa. Ngày 20/7/2008, trong Thánh Lễ bế mạc Đại Hội, Cộng Đồng tị nạn đã thành công cao hơn dự tưởng, hoàn toàn không một lá cờ đỏ nào của CSVN xuất hiện trong khi rừng cờ vàng rực rỡ giữa rừng người dự lễ mà cơ quan truyền thông Australia ước lượng khoảng 500.000 người. Ngày 21/7/2008, tờ Sydney Morning Herald với bài viết ngắn “A Flag For Freedom” (Lá Cờ Cho Tự Do) được ông Trần Hưng Việt tại Brisbane, Queensland, Australia, dịch từ Anh ngữ như sau: “Cuộc chiến có thể đã chấm dứt, nhưng đối với nhiều người trong Cộng Đồng người Việt ở Sydney thì không. Quốc kỳ của Nam Việt Nam là biểu tượng được trông thấy rõ ràng nhất giữa rừng quốc kỳ và các biểu ngữ về tôn giáo trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng, mặc dù đó là một biểu tượng không có quốc gia, và bị cấm tại quốc gia nguyên thủy của nó. Đây là quốc kỳ của nước Việt Nam Tự Do. Một người hành hương trong nhóm người Việt đang đứng dưới lá đại kỳ màu vàng ba sọc đỏ, nói rằng: Hôm nay, chúng tôi mang lá cờ này để nhắc nhớ mọi người rằng, đảng cộng sản cầm quyền tại Việt Nam vẫn đàn áp quyền tự do tôn giáo và các quyền tự do khác”.

Ngày 22/6/2009, Thống Đốc tiểu bang Texas ký ban hành Nghị Quyết HCR 258 sau khi Hạ Viện và Thượng Viện đã thông qua. Nội dung khuyến cáo tất cả các trường đại học trong tiểu bang Texas không treo cờ đỏ cộng sản mà chỉ treo cờ vàng biểu tượng tự do của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn tại Texas. Từ nay, 506 trường đại học trong tiểu bang, không treo cờ đỏ của CSVN cho dù có sinh viên từ Việt Nam sang du học, mà chỉ treo cờ vàng biểu tượng của dân chủ tự do của chúng tôi.

Tôi nghĩ là Các Anh chưa từng biết, hoặc có biết nhưng do “thông tin lề phải” lãnh lương nhà nước và thông tin theo đảng CSVN dạy, chớ Các Anh không thể biết sự thật về lãnh đạo Các Anh nhục nhã như thế nào khi phải đối diện với rừng quốc kỳ Việt Nam nền vàng trong Cộng Đồng chúng tôi. Những phái đoàn của lãnh đạo Các Anh, như phái đoàn Phan Văn Khải (Thủ Tướng, 2006), Phạm Gia Khiêm (Phó Thủ Tướng/, nhất là phái đoàn Nguyễn Minh Triết (Chủ Tịch, 2007) và Nguyễn Tấn Dũng (Thủ Tướng, 2008 và 2010) đến thành phố nào trên đất Mỹ mà có Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn, họ thấy cả rừng cờ vàng ba sọc đỏ của Cộng Đồng chúng tôi. Cho nên lãnh đạo của Các Anh chắc là cảm nhận nỗi nhục đến mức không dám ngẫng đầu lên để đối điện với lá quốc kỳ Việt Nam, “nền vàng” biểu tượng cho dân tộc da vàng, và “ba sọc đỏ” biểu tượng cho đồng bào ba miền Nam-Trung-Bắc thân yêu của chúng ta.

Phần hai.

Bia đá tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam đã chết trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do. Tại mỗi Bia Tưởng Niệm có hai kỳ đài với quốc kỳ Việt Nam nền vàng và quốc kỳ bản xứ:. Và đây là những ngày khánh thành Bia Đá Tưởng Niệm: Tháng 3/2005, trên đảo Galang (Indonesia) và đảo Bidon (Malaysia), với dòng chữ “Bia Tưởng niệm hằng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên đường tìm tự do 1975-1996. Dù Họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức, hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta hãy cùng cầu nguyện để Họ được an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng. Sự hi sinh của Họ sẽ không bao giờ bị lãng quên”. Ngày 30/4/2006, trong khuôn viên “Nghĩa Trang Quốc Gia Thái Bình Dương” tại Honolulu, tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ, với dòng chữ: “Vinh danh Quân Lực và Nhân Dân Việt Nam Cộng Hòa & Quân Lực Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, South Korea, Philippines. Taiwan, Thailand, đã cùng với Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu chống cộng sản, bảo vệ dân chủ nhân quyền cho thế giới”. Ngày 12/5/2006, La Fayetteville, tiểu bang North Carolina, Hoa Kỳ. Trung Tướng James B. Vaught, Cố Vấn Sư Đoàn Nhẩy Dù Việt Nam năm 1971, nhấn mạnh: “… Tưởng rằng làm cố vấn giúp các bạn chiến đấu, nhưng thật sự thì chúng tôi học được tinh thần chiến đấu của các bạn thật tuyệt vời....”. Ngày 9/2/2006, tại thành phố Geneve, Thụy Sĩ, với dòng chữ: “Tưởng niệm cuộc ra đi của những Thuyền Nhân trên thế giới 1975 - 2005. Người Việt tị nạn chân thành cám ơn Thụy Sĩ và các nước tiếp cư, đã giúp cho chúng tôi được sống hạnh phúc trong hòa bình, tự do, và dân chủ. Chúng tôi sẽ mãi mãi không quên quê hương Việt Nam, mãnh đất ngàn đời của Tổ Tiên để lại”. Ngày 30/6/2006, tại Công Viên D’Avroy, thành phố Liège, Bỉ Quốc. Ngày 30/4/2007, tại thành phố Troisdorf, Đức Quốc.

Phần ba.

Tượng đài tưởng niệm chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, và tưởng niệm Thuyền Nhân Việt Nam đã chết trên đường vượt biên bượt biển tìm tư do. Tại mỗi tượng đài có quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và quốc kỳ bản xứ thường xuyên trên đĩnh hai cột cờ. Và đây là ngày khánh thành và địa điểm đặt tượng đài: Ngày 31/8/1991, tại công viên Cabra-Vale, ngoại ô Sydney, Australia. Hai mươi năm sau, ngày 5/3/2011, Dân Biểu Tony Kelly, đại diện bà Thủ Hiến bang New South Wales, chủ tọa lễ khánh thành tượng đài này sau thời gian tân trang và nâng cao tượng đài. Ngày 30/4/1995, tại thủ đô Ottawa, Canada, với “Người Mẹ bồng con chạy trốn cộng sản”. Ngày 7/12/2002, tại thành phố Perth, miền Tây Australia. Ngày 27/4/2003, tại công viên tòa thị sảnh thành phố Westminster, tiểu bang California, nơi được xem là “thủ đô” của Cộng Đồng tị nạn chúng tôi, với tượng “Hai Người Lính Việt & Mỹ”. Ngày 11/6/2005, tại Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Ngày 16/9/2005, tại thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Australia. Ngày 30/4/2006, tại thành phố Dandenong, tiểu bang Victoria, Australia. Ngày 14/10/2006, tại thành phố Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức. Ngày 2/6/2007, tại thành phố Saint Cloud, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Ngày 22/9/2007, tại thành phố West Valley, tiểu bang Utah, Hoa Kỳ. Ngày 21/6/2008, tại thành phố Melbourne, tiểu bang Victoria, Australia. Cùng ngày 21/6/2008, tại Montréal, Canada. Ngày 2/11/2008, tại Bagneaux, Pháp quốc. Ngày 25/4/2009, tại thành phố Westminster, California, Hoa Kỳ, với “một gia đình trên chiếc thuyền mong manh trên biển cả”. Ngày 12/9/2009, tại hải cảng Hamburg, Cộng Hòa Liên Bang Đức, với dòng chữ: “Tưởng niệm các đồng hương tị nạn cộng sản đã bỏ mình trên đường tìm tự do”.
Ngoài ra, ngày 12/6/2007, chánh phủ Hoa Kỳ đã khánh thành Tượng đài tưởng niệm 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng sản tại thủ đô Wasington DC do Tổng Thống George W. Bush, chủ tọa. Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng nhất trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của nạn nhân cộng sản -có cả nạn nhân Việt Nam thân yêu của chúng tôi- được những thế hệ hôm qua, hôm nay, và những thế hệ mai sau tưởng nhớ. Tưởng nhớ để tận diệt chế độ này đến tận cùng gốc rễ của nó, vì “nó” đã lấy đi mạng sống của 100 triệu đàn ông đàn bà và trẻ con vô tội!

Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, bất cứ nơi nào có Bia Đá Tưởng Niệm, có Tượng Đài Tưởng Niệm, cơ quan ngoại giao của Các Anh cũng ráo riết vận động với Thị Trưởng thành phố hay Thống Đốc tiểu bang, trong mục đích ngăn chận Cộng Đồng chúng tôi không thể thực hiện, nhưng tất cả đều thất bại nhục nhã. Hơn thế nữa, nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” của Các Anh càng nhục nhã khi yêu cầu Malaysia và Indonesia đục bỏ những dòng chữ trên hai Bia Tưởng Niềm Thuyền Nhân tại hai quốc gia này để xóa bỏ tội ác của họ, nhưng hai mảng trống trên tấm bia trở thành chứng tích tội ác càng rõ ràng hơn. Nhưng suy cho cùng, cho dẫu lãnh đạo của Các Anh có vận động ngăn chận được đi nữa, Các Anh cũng nên nhớ rằng, Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại từ thế hệ đương thời truyền sang những thế hệ kế tiếp, “mỗi người chúng tôi là một Tấm Bia sống, một Tượng Đài sống, một Nhân Chứng sống”, sẽ lưu truyền mãi mãi trong dân gian Việt Nam và trên thế giới, về tội ác kinh hoàng nhất trong dòng sử Việt do CSVN đã gây ra cho dân tộc! Bởi, CSVN đã cắt đất xén biển đem đổi chác dâng tặng cho Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa đến nay vẫn nguyên vẹn bản chất không chế cai trị các quốc gia chung quanh, CSVN đã phá nát nền văn hoá nhân bản, đã làm băng hoại xã hội đến mức mà mọi người từ đảng viên viên chức nhà nước đến đồng bào, phải sống với nhau bằng muôn ngàn cách lọc lừa dối trá! Trong vô vàn tội ác của CSVN, tội ác phá nát nền văn hoá dân tộc là di hại đến nhiều thế hệ mai sau!


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1334974965.jpg

Phần bốn. Những địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam.

Đến ngày 15 tháng 04 năm 2012, quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ đã được các cơ quan hành chánh địa phương chánh thức công nhận theo thứ tự thời gian như sau: (1) Khởi đi từ ngày 19/2/2003 với Nghị Quyết 3750 của thành phố Westminster, tiểu bang California. Ngày 11/3/03, NQ 8486-03, thành phố Garden Grove, California. Ngày 14/4/03, NQ TR-03-07, thành phố Falls Church, Virginia. Ngày 5/5/03, NQ 7300, thành phố Milpitas, California. Ngày 3/6/03, NQ của quận hạt Santa Clara, gồm San Jose và 14 thành phố nữa. California. Ngày 4/6/03, NQ của thành phố Hooland, Michigan. Ngày 18/6/03, NQ 17-2003, thành phố Houston, Texas. Ngày 24/6/03, NQ 03-502, thành phố Saint Paul, Minesota. Ngày 7/7/03, NQ 2003-140, thành phố Pomona, California. (10) Cùng ngày 7/7/03, NQ của quận hạt Fairfax, Virginia. Ngày 15/7/03, Luật số 839, tiểu bang Louisiana. Đây là tiểu bang 1/15. Ngày 30/7/03, NQ của thành phố Sacramento, California. Ngày 30/7/03, NQ 03-1104, thành phố Boston, Massachussetts. Ngày 8/9/03, NQ của thành phố Springfield, Massachussetts. Ngày 12/9/03, NQ của thành phố Oklahoma, Oklahoma. Ngày 16/9/03, NQ 8384, thành phố El Monte, California. Ngày 16/9/03, NQ của thành phố Garland, Texas. Ngày 16/9/03, NQ R2003-013, thành phố Tumwater, Washington. Cùng ngày 16/9/03, NQ của thành phố Malden, Massachussetts. (20) Ngày 17/9/03, NQ của thành phố Rowley, Massachussetts. Ngày 30/9/03, NQ của thành phố Grand Rapids, Michigan. Ngày 9/10/03, NQ của thành phố Lacey, Washington. Ngày 8/10/03, NQ của thành phố Quincy, Massachussetts. Ngày 20/10/03, NQ của thành phố Doraville, Georgia. Ngày 21/10/03, NQ của thành phố Olympia, Washington. Cùng ngày 28/10/03, NQ của thành phố Lowell, Massachussetts. Ngày 3/11/03, NQ của thành phố Norcross, Georgia. Cùng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Clarkston, Georgia. Cùng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Dekalb, Georgia. (30) Cũng ngày 3/11/03, NQ của thành phố Gwinnett, Georgia. Ngày 4/11/03, NQ của thành phố Lawrence, Massachussetts. Ngày 11/11/03, NQ 03-E-555 của thành phố Arlington, Texas. Cùng ngày 11/11/03, NQ của thành phố Port Arthur, Texas. Ngày 12/11/03, NQ 461 của thành phố Rainer, Washington. Ngày 18/11/03, NQ 2003 của thành phố Marina, California. Ngày 1/12/03, NQ 1834 của thành phố Puyallup, Washington. Ngày 6/12/03, NQ của thành phố Worcester, Massachussetts. Ngày 8/12/03, NQ 2003-29 của thành phố Lakewood, Washington. Ngày 16/12/03, NQ 3017 của thành phố Fort Worth, Texas. (40) Ngày 13/1/2004, NQ của thành phố Lincoln, Nebraska. Cùng ngày 13/1/04, NQ 04-279 của thành phố Dupont, Washington. Cùng ngày 13/1/04, NQ của thành phố Wichita, Kansas. Ngày 14/1/04, NQ R-2004-670 của thành phố San Diego, California. Ngày 27/1/04, NQ của quận hạt Pierce, Washington. Ngày 29/1/04, NQ của thành phố Philadelphia, Pennsylvania. Ngày 3/2/04, NQ 3975 của thành phố Grand Prairie, Texas. Ngày 10/2/04, NQ của thành phố South El Monte, California. Ngày 17/2/04, NQ của thành phố Stockton, California. Cùng ngày 21/2/04, Resolution của Hạ Viện, Resolution của Thượng Viện, và Proclamation của Thống Đốc tiểu bang New Jersey. Đây là tiểu bang 2/15. 50. Ngày 20/2/04, NQ của thành phố Hartfort, Connecticut. Ngày 24/2/04, NQ của thành phố Centralia, Washington. Cùng ngày 24/2/04, NQ của thành phố University Place, Washington. Ngày 28/2/04, NQ của thành phố Jersey City, New Jersey. Ngày 15/3/04, NQ của thành phố West Hartfort, Connecticut. Cùng ngày 15/3/04, NQ của thành phố Salina, Kansas. Ngày 16/3/04, NQ của thành phố Biloxi, Mississippi. Cùng ngày 16/3/04, NQ của thành phố Orlando, Florida. Cùng ngày 16/3/04, NQ của thành phố Fort Wayne, Indiana. Ngày 24/3/04, NQ 04-72 của Honolulu, thủ phủ tiểu bang Hawaii. 60. Ngày 1/4/04, NQ của thành phố Tampa, Florida. Ngày 12/4/04, NQ của thành phố Syracure, New York. Ngày 15/4/04,NQ của tiểu bang Virginia. Đây là tiểu bang 3/15. Ngày 16/4/04, NQ 2004R-155 của thành phố Minneapolis, Minnesota. Ngày 20/4/04, NQ 1667 của thành phố Kent, Washingon. Cùng ngày 20/4/04, N! 36154 của thành phố Tacoma, Washington. Ngày 24/4/04, NQ cùa quận hạt Thurston, Washington. Ngày 30/4/04, NQ 16 của thành phố Saint Louis, Missouri. Cùng ngày 30/4/04, NQ của quận hạt Camden, New Jersey. Ngày 4/5/04, NQ 04 của thành phố West Valley, Utah. 70. Ngày 11/5/04, NQ của thành phố Bonney Lake, Washington. Ngày 3/6/04, NQ của thành phố Seaside, California. Ngày 7/6/04, NQ của thành phố Vancouver, tiểu bang Washington. Ngày 12/6/04, NQ của tiểu bang Colorado. Đây là tiểu bang 4/15. Ngày 15/6/04, NQ của thành phố Coral Springs, Florida. Cùng ngày 15/6/04, NQ của thành phố Carrollton, Texas. Ngày 19/6/04, NQ 1866 của tiểu bang Georgia. Đây là tiểu bang 5/15. Ngày 28/6/04, NQ của thành phố Beaverton, Oregon. Ngày 19/7/04, NQ 2003-7-180 của thành phố St. Cloud, Minnesota. Ngày 20/7/04, NQ của thành phố Portland, Oregon. 80. Cùng ngày 20/7/04, NQ của thành phố Eagle Mountain, Utah. Ngày 10/8/04, NQ của quận hạt Marin gồm 10 thành phố, California. Ngày 24/8/04, NQ của thành phố Sugar Land, Texas. Ngày 7/9/04, NQ của thành phố Missouri, Texas. Ngày 4/10/04, NQ 70 của thành phố Indianapolis, Indiana. Ngày 29/10/04, NQ của tiểu bang Florida. Đây là tiểu bang 6/15. Ngày 11/11/04, NQ của thành phố Austin, Texas. Cùng ngày 11/11/2004, NQ của tiểu bang Texas. Đây là tiểu bang 7/15. Ngày 22/11/04, NQ của thành phố Charlotte, North Carolina. Ngày 13/12/04, NQ R-04-156 của thành phố Albuquerque, New Mexico. 90. Ngày 6/2/2005, NQ của thành phố Reading, Pennsylvania. Ngày 3/3/05, NQ 050233 của thành phố Kansas, Kansas. Ngày 11/5/05, NQ SR0097 Thượng Viện & NQ HR0017 của Minnesota. Đây là tiểu bang 8/15. Ngày 17/5/05, NQ của thành phố San Jose, California. Ngày 18/5/05, NQ của thành phố San Antonio, Texas. Ngày 10/6/05, NQ của thành phố Greenville, South Carolina. Ngày 14/6/05, NQ của thành phố Columbus, Ohio. Ngày 5/10/05, NQ của thành phố Greer, South Carolina. Ngày 28/01/2006, NQ của thành phố Allentown, Pennsylvania. Ngày 26/4/06, NQ 126-06 của thành phố Pennsauken, New Jersey. 100. Ngày 3/6/06, NQ của quận hạt San Diego, California. Ngày 5/8/2006, Sắc Lệnh S-14-06 của tiểu bang California. Đây là tiểu bang 9/15. Ngày 19/8/06, Luật của Ohio. Đây là tiểu bang 10/15. Ngày 10/11/06, NQ của 642-06 của thành phố San Francisco, California. Ngày 3/12/06, NQ của thành phố Davenport, Iowa. Ngày 16/12/06, NQ SA 148-HR16 của tiểu bang Michigan. Đây là tiểu bang 11/15. Ngày 13/4/07, NQ của tiểu bang Oregon . Đây là tiểu bang 12/15. Ngày 26/4/07, NQ của tiểu bang Nebraska. Đây là tiểu bang 13/15. Ngày 30/4/07, Tuyên Cáo của tiểu bang Utah. Đây là tiểu bang 14/15. Ngày 1/1/2008, NQ của thành phố Sunnyvale, California. 110. Ngày 2/2/2009, NQ 85A của thành phố Santa Ana, California. Ngày 26/5/2009, NQ của thành phố Stanton, California. Ngày 16/6/2009, NQ của thành phố Costa Mesa, California. Ngày 15/05/2009, NQ 27 của tiểu bang Oklahoma. Đây là tiểu bang 15/15. Ngày 18/11/2009, NQ của Quân Hạt Lancaster, Pennsylvania. Ngày 26/03/2010, NQ 2010-21 của thành phố Rosemead, California. Ngày 18/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Auburn, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Renton, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Federal Way, Washington. Ngày 22/10/2010, Tuyên Cáo của thành phố Bellevue, Washington. 120. Ngày 22/10/2010, NQ của thành phố Seattle, Washington. Ngày 18/01/2011, Tuyên Cáo của thành phố Lyberty Lake, Washington. Ngày 18/01/2011, Tuyên Cáo của thành phố Raleigh, North Carolina. Ngày 25/01/2011, NQ của thành phố Fountain Valley, California. Ngày 13/2/2011, Tuyên Cáo của thành phố Taconma, Washington. 125. Ngày 16/2/2011, Tuyên Cáo của thành phố Millwood, Washington.
Sơ kết 125 địa phương đã công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ, gồm: 15 tiểu bang, 8 quận hạt, 102 thành phố, và các địa phương này thuộc 29 tiểu bang theo thứ tự mẫu tự sau đây: (1) California. (2) Colorado. (3) Connecticut. (4) Florida. (5) Georgia. (6) Hawaii. (7) Indiana. (8) Iowa. (9) Kansas. (10) Louisiana. (11) Massachussetts. (12) Michigan. (13) Minnesota. (14) Mississippi. (15) Missouri. (16) Nebraska. (17) New Mexico. (18) New York. (19) New Jersey. (20) North Carolina. (21) Oklahoma. (22) Ohio. (23) Oregon. (24) Pennsylvania. (25) South Carolina. (26) Texas. (27) Utah. (28) Virginia. (29) Sau cùng là tiểu bang Washington.
Chắc Các Anh ngạc nhiên về rừng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của chúng tôi lắm phải không, vì tôi tin là chưa bao giờ Các Anh biết đến nội dung thư này? Thêm nữa, riêng tại Hoa Kỳ chỉ có 3 lá cờ của nước Việt Nam cộng sản tại Washington DC, San Francisco, và Houston. Lá cờ với nền đỏ, biểu tượng dòng máu của người dân Việt đã phủ trên toàn cõi Việt Nam do cộng sản gây ra, còn ngôi sao vàng biểu tượng “đỉnh cao gian trá” cai trị trên hằng chục triệu xác chết của đồng bào. Trong khi đó, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ của đồng bào Việt Nam chọn chế độ dân chủ - tự do - nhân quyền, phất phới song song với quốc kỳ của Hoa Kỳ 24/24 giờ, 7 ngày trong tuần, 365 ngày trong năm, và từ năm này sang năm khác.

Phần kết.

Các Anh hãy nhìn lại lịch sử thế giới, chưa có trường hợp nào tên một quốc gia không tồn tại mà quốc kỳ của quốc gia đó vẫn tồn tại trong những trường hợp khác nhau trên thế giới, như quốc kỳ của người Việt Nam tự do chúng tôi.
Với trận chiến này, Cộng Đồng chúng tôi khắp nơi liên tục vận động với cơ quan hành chánh địa phương, để quốc kỳ biểu tượng cho dân chủ tự do và nhân quyền của Cộng Đồng Việt Nam chúng tôi ngày càng được công nhận nhiều hơn. Mặt khác, trong một mức độ nào đó, đã thể hiện nhãn quan của những nhà chính trị trong những cơ quan Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ cấp tiểu bang, quiận hạt, và thành phố, vì những bài học kinh nghiệm trong sinh hoạt chính trường cho thấy sự kiện chính trị nào cũng mang theo nét nhìn riêng của nó. Và chiến thắng này là điều nhức nhối của lãnh đạo đảng với nhà nước Các Anh. Cái đau của lãnh đạo CSVN, nhất là lãnh đạo ngành ngoại giao Việt Nam đã thấu hiểu sự nhức nhối đó hơn ai hết, nhưng không có bất cứ phương cách nào ngăn chận được.
Đúng như một đoạn trong bài viết “A Flag For Freedom” (Lá Cờ Cho Tự Do) đăng trên nhật báo “Sydney Morning Herald” phát hành ngày 21/7/2008: “… Cuộc chiến có thể đã chấm dứt, nhưng đối với nhiều người trong Cộng Đồng người Việt ở Sydney thì không. ... Mặc dù đó là một biểu tượng không có quốc gia, và nó bị cấm tại quốc gia nguyên thủy của nó. Đây là quốc kỳ của nước Việt Nam Tự Do”.
Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Các Anh hãy đứng trong hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, giành lại quyền `làm người cho 89 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 4 năm 2012


************

Bản tin ngắn gởi Các Anh.

Ngày 23/3/2012, trong cuộc họp thảo luận dự án tiếp tục đổi mới, nâng cao phẩm chất (mà Các Anh gọi là chất lượng) và hiệu quả làm việc của Quốc Hội, ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội cho rằng: “Thực hiện việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các giới chức lãnh đạo cao cấp do Quốc Hội phê chuẩn hoặc bầu lên là phản ảnh tinh thần của Nghị Quyết Trung Ương lần thứ 4. Như vậy, hàng năm, Quốc Hội sẽ tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm và kết quả sẽ được công khai cho dân biết. Những giới chức mà Quốc Hội bỏ phiếu tín nhiệm sẽ là Thủ Tướng và Phó Thủ Tướng chính phủ, Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch nước, Chủ Tịch và Phó Chủ Tịch Quốc Hội, Ủy Viên Ban Thường Vụ Quốc Hội, Chánh Án Tòa Án Tối Cao, Viện Trưởng Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, và Tổng Kiểm Toán Nhà Nước.....”
Có thể Các Anh nghe những phát biểu như vậy quen rồi nên không cảm nhận được nội dung đích thực của nó, nhưng với tôi thì có. Vì gần 90% đại biểu trong Quốc Hội là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước, chẳng lẽ họ bỏ phiếu truất phế họ trong khi họ là “những đỉnh cao gian trá” mà. Nếu Các Anh chưa tin tôi, hãy nghe ông Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.
Và bản tin ngắn cuối cùng Theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam, sau 4 ngày xét xử, Tòa án Nhân Dân thành phố Hải Phòng, ngày 30/3/2012, vụ án “Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã kết thúc, với bản án như sau: Ông Phạm Thanh Bình, nguyên là Chủ Tịch tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin, 20 năm tù giam. Tám bị cáo còn lại đều bị tù giam. Sau phiên tòa, ông Phạm Thanh Bình bị biệt giam cùng với Nguyễn Tuấn Dương tại trại T14. Sáng sớm ngày 31/03/2012, lúc thức dậy thì Nguyễn Tuấn Dương nhìn thấy ông Bình đã chết trong tư thế treo cổ bằng một sợi dây buộc vào chấn song cửa sổ phòng giam, chân của ông Bình cách mặt đất 5-7 phân tây. Tuấn Dương hốt hoảng, kêu cứu với trại giam. Sơ khởi, ban chuyên án xác định ông Phạm Thanh Bình đã ngừng thở trước đó khoảng 3 hay 4 tiếng hồ.
Điều mà tôi gởi đến Các Anh là Nguyễn Tuấn Dương nói rằng: “Đêm qua trước khi ngủ, ông Bình đã tâm sự với tôi trong trạng thái của ông ấy căng thẳng. Ông nói: Khi ăn thì cùng ăn, nó còn ăn nhiều hơn tôi nhiều lần. Giờ thì nó bỏ mặc tôi chịu một mình với bản án tột khung, không có tình tiết giảm nhẹ. Đã vậy, tôi sẽ đạp đổ tất cả, sẽ khai đúng sự thật để chết thì cho chết hết như nhau”. Cuối bản tin của TTXVN có câu: “Bị cáo Phạm Thanh Bình vừa nói vậy tối hôm trước, nhưng không biết vì sao bị cáo lại thắt cổ tự tử ngay trong đêm đó? Không biết cái chết của bị cáo Phạm Thanh Bình có uẩn khúc gì hay không?”
Đọc xong bản tin này, Các Anh có nhận ra “Nó là nhân vật nào trong nhóm lãnh đạo đỉnh cao gian trá” không vậy? “Có phải Nó là người đã tuyên bố tại “Quốc Hội hộp thư” là nhận trách nhiệm sự sụp đổ của Vinashin, và Nó cũng nói là Nó không làm điều gì sai?” Tôi nói “Quốc Hội hộp thư” vì Quốc Hội chỉ làm nhiệm vụ của nhóm “đỉnh cao gian trá” chỉ thị, chớ không làm nhiệm vụ “đại biểu” do cử tri giao phó qua lá phiếu, thì giờ còn lại thì ngủ gục vì họ thuộc lòng bài bản của các vị đứng trên bục giảng hết rồi.

tieuchuy
05-22-2012, 09:14 PM
Thư số 7 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam

*********
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó, tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương cội nguồn của tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo quân đội”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Thời gian đang là tháng 5 năm 2012, nhớ lại tháng này năm 1975 là tháng bắt đầu cho thời gian hơn 20 năm của gần hai triệu người Việt Nam đã phải chấp nhận “vượt lên sự chết để tìm sự sống”, sống tự do, sống cho bản thân, cho các con, cho thế hệ mai sau, và sống cho quê hương dân tộc.

Các Anh có biết tại sao không? Với thư này, tôi giúp Các Anh nhìn lại 37 năm trước, kéo dài đến nay và chưa biết còn bao lâu nữa, để có nét nhìn thiện cảm -không phải nét nhìn thù hận của người cộng sản- và trân trọng nhau trong tình đồng bào cùng là da vàng máu đỏ, cùng âm thanh tiếng nói Mẹ Việt Nam, qua những tài liệu từ cơ quan Liên Hiệp Quốc. Các Anh cũng sẽ nhận ra những đắng cay của lãnh đạo cộng sản quốc tế và quốc nội, khi nói về chủ nghĩa cộng sản. Nhưng trọng tâm của tôi là muốn giúp Các Anh thêm một lần nữa, nhận ra bản chất của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam.

Trước khi vào bài, tôi nghĩ là Các Anh cần nhớ lại sự kiện 58 năm trước. Đó là nửa cuối năm 1954 ngay sau Hiệp Định Geneve chia đôi lãnh thổ Việt Nam trở thành hai quốc gia, sự kiện 875.478 người dân miền Bắc đã ào ạt chạy trốn cộng sản độc tài, vào miền Nam lập lại đời sống mới trên đất nước tự do, đã nói lên một cách hùng hồn về tính chất tàn bạo sắt máu của cộng sản mà trường hợp điển hình là chiến dịch “Cải Cách Ruộng Đất 1954-1956” đã giết 172.008 nạn nhân tại 3.563 xã. (Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000 của Viện Kinh Tế CSVN ấn hành). Với cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam đến lúc bấy giờ, “là cuộc bỏ phiếu bằng chân” của người dân nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đã chứng minh mạnh mẽ sự chối bỏ một chế độ độc tài tàn bạo dưới sự cai trị của đảng CSVN.

Nếu Các Anh là thế hệ trẻ, hãy hỏi lại người thân để hiểu thêm sự thật, giúp cho sự suy nghĩ của Các Anh có được nét nhìn chính chắn về sự kiện chính trị nói trên, để có kết luận theo nét nhìn của con người bình thường với những quyền căn bản mà Công Ước Quốc tế công nhận. Bây giờ mời Các Anh vào nội dung ...

Chiến tranh Việt Nam là giải phóng hay xâm lăng?

Trong một cuốn sách mỏng (không nhớ tên) của xã hội chủ nghĩa mà “Đoàn 776 quân đội nhân dân” Các Anh bắt chúng tôi đọc hồi năm 1977 khi bị giam tại Trại Cốc, trong một thung lũng nhỏ phía nam thị xã Yên Báy khoảng 6 cây số. Nội dung cuốn sách cho thấy lãnh đạo của Các Anh đã chuẩn bị “chiến tranh xâm lăng” Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) chúng tôi từ cuối những năm 50 dưới dưới lớp võ “giải phóng miền Nam”, nối tiếp hành động đã giấu lại trên lãnh thổ VNCH chúng tôi hằng chục ngàn đảng viên cộng sản khi thực hiện kế hoạch rút quân (mà lãnh đạo của các anh gọi là tập kết) về xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc theo qui định trong Hiệp Định Geneve tháng 7/1954. Điều này cho thấy lãnh đạo Các Anh bắt đầu chiến tranh xâm lăng VNCH từ đó, và bành trước qua từng giai đoạn cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 ...

Các Anh hãy nhớ lại, ...

“Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (VNDCCH) các anh theo chế độ cộng sản độc tài, đã thiết lập bang giao (mà các anh gọi là quan hệ) với 15 quốc gia (năm 1960), và đã trao đổi những cơ quan ngoại giao giữa thủ đô Hà Nội với thủ đô các quốc gia đó. Đây là sự thật.

“Nước Việt Nam Cộng Hòa” chúng tôi theo chế độ dân chủ tự do, đã thiết lập bang giao với 81 quốc gia (năm 1960), và đã trao đổi cơ quan ngoại giao giữa thủ đô Sài Gòn với thủ đô các quốc gia đó. Đây là sự thật.

Trong bang giao quốc tế, không có vấn đề tình cảm mà chỉ có quyền lợi quốc gia, huống chi là giữa VNCH chúng tôi với VNDCCH các anh không có bang giao, nên quyền lợi quốc gia càng mạnh mẽ hơn nữa. Vì vậy, quân của nước VNDCCH đánh chiếm nước VNCH, ngoài hai chữ xâm lăng ra, không có nhóm chữ nào khác sử dụng được trong trường hợp này. Đây là sự thật. Những nhóm chữ mà lãnh đạo Các Anh đã sử dụng qua từng giai đoạn để chỉ cuộc chiến tranh này, đều là tuyên truyền và dối trá.

Các Anh hãy nghe ông Mikhail Gorbachev, một thời là Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô, vừa hối hận vừa than thở, khi ông nói: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, ngày hôm nay tôi phài đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Chưa hết, ông Vladimir Putin, một thời là Tổng Thống nước Nga (năm 2012 lại đắc cử Tổng Thống lần nữa), quả quyết hơn: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói, là không có cái đầu (chắc là ông muốn nói kẻ đó ngu. PBH). Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim (chắc là ông muốn nói kẻ đó vô cảm. PBH).

Còn nữa, nhà văn Nguyễn Khải (trong nước) trong bài viết như vừa tâm sự, vừa tự hào ẩn chứa nỗi đắng cay của người cộng sản trước khi nhắm mắt xuôi tay: “... Là một chuyên gia nói dối có tổ chức, có chỉ đạo suốt gần 30 năm trời, tôi quá rành 1001 kiểu nói dối mà chính bản thân tôi đã nói dối lem lẻm, nói dối cứ như chuyện thật, nói dối một cách tự nhiên đến mức trở thành nhiệm vụ hàng ngày. Ngay cả khi biết mình đang nói dối với đồng bào, nhưng vẫn cứ phải nói dối, vì không nói dối mà nói thật thì mất miếng cơm, mất chiếc ghế, và .. mất mạng như chơi!”

Và đây là vài đoạn trích trong bài viết của nhạc sĩ Tô Hải (cũng trong nước) thật rõ ràng và thằng thắn: “Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ trên đất nước này lại có một xã hội giáo dục cho công dân đừng sống trung thực, mà phải biết nói dối. Nói dối tỉnh bơ, nói dối không biết ngượng, nói dối càng giỏi càng đạt nhiều thành tích!”..... Và một đoạn khác, ông viết: “... Cuộc Nói Dối Vĩ Đại nhất là cuộc chiến tranh giải phóng Miền Nam khỏi tay Đế Quốc Mỹ Xâm Lược! Sự Thật đã bị đánh tráo quá trắng trợn! Hàng triệu con người đã mất xác mà đến nay đa số vẫn chưa tìm ra được, hàng vạn thương phế binh của cả hai miền, hàng triệu gia đình mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha, chỉ vì Tổng Bí Thư Lê Duẫn đã từng nói rằng: “... Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc"....

Thât ra lời của ông Lê Duẫn không phải của ông ấy, mà là trong ý nghĩa câu nói của ông Khroutchev, một thời là nhân vật đứng đầu đảng cộng sản Liên Xô. Ông Khroutchev đọc bản báo cáo tại đại hội các đảng cộng sản vào tháng 11/1960, có đoạn: “... Người cộng sản và giai cấp công nhân, sẽ cố gắng đấu tranh để đạt tới mục tiêu vĩ đại là chủ nghĩa cộng sản thống trị thế giới”... Tháng sau đó, khi thăm thủ đô Austria (Áo quốc), trong bài phát biểu của ông Khroutchev có dòng chữ ngắn: “Đời vắn lắm. Tôi ước ao sống tới ngày được nhìn thấy lá cờ đỏ bay phất phới trên toàn thế giới ...”

Dưới đây là trích vài đoạn trong bài viết không tên của Blogger Huỳnh Thục Vy (trong nước) ngày 20/4/2012:

..... “Kết quả là, "sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước" đã không khiến Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn, dân tộc ta trở nên kiêu hãnh hơn, mà đơn giản chỉ là biến một miền Nam trước "giải phóng" hơn hẳn Hàn Quốc, sau gần bốn mươi năm thống nhất, cùng với cả nước lẹt đẹt chạy theo sau cả Thái Lan. Nếu ta lấy cứu cánh là sự phồn thịnh của quốc gia, là an sinh hạnh phúc, là tự do nhân phẩm của mỗi một người dân làm chuẩn, thì liệu sự thống nhất ấy có nghĩa lý gì?”
“Đó là khi vấn đề được đặt dưới lăng kính lý luận. Còn thực tế thì mọi sự đã quá rõ ràng. Cái mà người ta gọi là "kháng chiến chống Mỹ cứu nước" ấy thực chất chỉ là để giúp Trung Quốc "đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng". Hay như Lê Duẩn từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước, cho cả nhân loại". Nói cho rõ ra, đó là cuộc chiến giúp cho chủ nghĩa Cộng sản bành trướng xuống Đông Nam Á theo tinh thần Quốc tế Cộng sản bất chấp tinh thần dân tộc, là giúp cho Trung Cộng dễ dàng Hán hoá một Việt Nam suy yếu sau cuộc chiến tương tàn khốc liệt”.

“Đã ba mươi bảy năm trôi qua kể từ ngày "giải phóng", giải phóng miền Nam khỏi mối quan hệ đồng minh với Mỹ, để trở thành chư hầu hèn mọn của Trung Cộng. Sự thống nhất, sự giải phóng đó mới đau đớn làm sao! Gần bốn thập niên đã qua đi, dấu vết chiến tranh trên mảnh đất quê hương Việt Nam đã dần phai nhạt, nhưng những tổn thương của lòng người vẫn còn hằn sâu, thậm chí ngày càng sâu hơn”....

Trong thư số 1 gởi Các Anh hồi tháng 11/2011, phần đầu của Kết Luận là nhận định của tôi: “Chiến tranh 1946-1954, CSVN đánh thực dân Pháp không phải giành độc lập tổ quốc, mà là nhuộm đỏ một nửa giang sơn phía Bắc với chế độ độc tài tàn bạo hơn thời bị thực dân Pháp cai trị. Chiến tranh 1954-1975, nước Viêt Nam Dân Chủ cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa, không phải để thống nhất đất nước, mà là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo mục tiêu của cộng sản quốc tế là thống trị toàn thế giới”.

Tôi dẫn lời của một số nhân vật một thời là lãnh đạo cộng sản quốc tế và trí thức trong nước, để chứng minh thật rõ ràng và xác định: “Nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của các anh, đã xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa tự do của chúng tôi, trong mục đích cuối cùng là cộng sản thống trị toàn thế giới, mà CSVN là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế trong vùng Đông Nam Á Châu”. Các Anh nhận ra rồi chớ?

Vì xâm lăng nên thẳng tay chiếm đoạt tài sản.

Sau khi chiếm xong VNCH chúng tôi, lãnh đạo của các anh:

(1) Nhanh chóng cướp 16 tấn vàng (gồm 1.234 thoi, mỗi thoi nặng từ 12 đến 14 kí lô) và hơn 1.000 tỷ đồng tiền giấy dự trữ trong ngân khố quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, do ông Huỳnh Bửu Sơn người giữ chìa khóa, và ông Lê Minh Kiếm người giữ mật mã các cửa hầm bạc, hướng dẫn và giao toàn bộ vàng bạc và sổ sách cho Hoàng Minh Duyệt. Cùng lúc, cướp những máy điện tử tối tân sử dụng trong các cơ quan cũng như tại các nhà ở, chuyển về Hà Nội và tất cả biến thành tài sản cá nhân.
(2) Vô cùng tàn nhẫn khi đẩy hơn chục ngàn thương binh VNCH đang điều trị trong các Quân Y Viện và Tổng Y Viện ra đường phố, bất cứ họ có đi được hay không đi được!
(3) Dối trá dưới lớp võ “tập trung cải tạo” để đẩy gần nửa triệu quân nhân viên chức VNCH cũ vào trong hơn 200 trại tập trung từ đồng bằng Cửu Long, núi đồi heo hút miền Trung, rừng già Lạng Sơn Yên Báy, đến trại Cổng Trời sát biên giới Việt-Trung, đày đọa 17 năm ròng rã mà không qua một cơ quan luật pháp nào, vừa thỏa lòng thù hận vừa cướp đoạt tài sản.
(4) Đánh gục xã hội VNCH đang sung túc, xuống ngang bằng xã hội nghèo khổ đến tận cùng của Miền Bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa, để thực hiện chính sách cướp đoạt nhà cửa, đất đai vườn ruộng, tiền bạc vòng vàng, cơ sở sản xuất, kinh doanh, thương mãi, vận chuyển, ....
(5) Đào xới mồ mả trong các nghĩa trang quân đội VNCH chúng tôi, để tranh nhau từng khu đất nghĩa trang làm tài sản cá nhân.

Xin hỏi: “Các Anh có bao giờ nghe nói đến những sự kiện đó không?” Dĩ nhiên, đây mới là vài sự kiện trong hằng ngàn hằng chục ngàn sự kiện cướp đoạt tàn nhẫn của hằng triệu người dân VNCH chúng tôi, những người đã góp phần tạo nên một xã hội sung túc và phóng khoáng trong chế độ dân chủ tự do, rồi đày đọa họ trong các trại tập trung như những Người Lính chúng tôi thua trận!

Kẻ xâm lăng là vậy đó, Các Anh nhận ra sự thật chưa?

Nhưng trên đây mới là nguyên nhân nhìn thấy từ bên ngoài, đã dẫn đến tình cảnh hằng triệu người VNCH cũ phải vượt biên vượt biển tìm tự do, đã để lại những dòng sông đẫm máu và xác người nhấp nhô trên biển cả mệnh mông, đến mức thế giới phải kinh hoàng trước sự can đảm tột cùng của người Việt Nam tự do, đồng thời cảnh tỉnh thế giới về chủ nghĩa cộng sản. Đây là cuộc chạy trốn cộng sản độc tài lần thứ 2 trong lịch sử Việt Nam.

Thống kê năm 2000 của cơ quan Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, cho thấy những con số dưới đây:

Thứ nhất. Trong đợt di tản trong những ngày cuối tháng 4/1975, khoảng 150.000 người thoát khỏi Việt Nam.

Thứ nhì. Vượt biên vượt biển là cuộc chạy trốn đông đảo nhất và bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại nói chung, và lịch sử Việt Nam nói riêng, ròng rã trong 20 năm kể từ tháng 5/1975 đến năm 1995, chia làm 4 giai đoạn với 839.200 người đến bến bờ tự do tị nạn:

Giai đoạn 1, từ tháng 5/1975 đến cuối năm 1979, có 14.600 người vượt biên giới trên đất liền, và 311.400 người vượt biển mà thế giới rất xót xa khi gọi là “Thuyền Nhân”. Cộng chung của giai đoạn 1 là 326.000 người tị nạn.

Giai đoạn 2, từ năm 1980 đến năm 1984, có 11.000 người vượt biên giới và 242.000 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 2 là 253.100 người tị nạn.

Giai đoạn 3, từ năm 1985 đến năm 1989, có 10.500 người vượt biên giới và 186.500 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 3 là 197.000 người tị nạn.

Giai đoạn 4, từ năm 1990 đến năm 1995, có 6.700 người vượt biên giới và 56.400 người vượt biển. Cộng chung của giai đoạn 4 là 63.100 người tị nạn.

Không một cơ quan quốc tế nào có đủ dữ kiện về số người Việt Nam vượt biên vượt biển đã bị bỏ xác trong rừng sâu và trên biển cả, mà các cơ quan truyền thông quốc tế, sau khi tiếp xúc phỏng vấn hằng chục ngàn người tị nạn tại các trại tạm trú Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hong Kong, họ ước tính cứ 3 người Việt Nam vượt biên vượt biển thì 2 người đến bến bờ tự do và 1 người chết. Như vậy, có khoảng từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên đường chạy trốn chế độ cộng sản độc tài!

Vào những ngày cuối tháng 3 năm 2005, một phái đoàn qui tụ nhiều thành phần xã hội trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn, từ nhiều quốc gia khác nhau mà đông nhất là từ Hoa Kỳ, cùng đến Mã Lai và Nam Dương là hai quốc gia đã đón nhận cưu mang khoảng 700.000 đến 800.000 đồng bào Việt Nam chúng tôi trong thời gian tạm trú, chờ đi định cư các quốc gia thứ ba. Một trong những câu chuyện cảm động nhất là lời thuật của người Mã Lai, rằng: “Khi chúng tôi hay tin tàu chở người Việt Nam vượt biển bị chìm, chúng tôi cùng kêu gọi nhiều người nữa ra biển vớt được “130 xác thuyền nhân Việt Nam”, và chôn trong một cái hố!”

Các Anh thử hình dung cái quang cảnh 130 xác người Việt Nam bập bềnh trên sóng nước vịnh Thái Lan? Các Anh nghĩ gì nếu như trông thấy 130 xác đồng bào lớn nhỏ nhầy nhụa ngổn ngang bị quẳng vào cái mồ chôn tập thể? Thật là thê lương! Thật là bi thảm! Nhóm lãnh đạo CSVN độc tài là nguyên nhân duy nhất đẩy dân tộc vào nỗi thê lương bi thảm này khi họ cai trị tàn bạo nghiệt ngã sau khi chiếm VNCH chúng tôi! Không lẽ Các Anh lại vô cảm đến mức không một chút xót xa thương cảm nào gợn lên trong lòng Các Anh, trong khi Họ là những người có “chứng minh nhân dân do nhà nước nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam của các anh cấp”? Nếu vô cảm đến như vậy, Các Anh hãy nghe ông Boris Yeltsin, một thời là Tổng Thống Nga phát biểu: “Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó”.

Và thứ ba. Với các chương trình Đoàn Tụ Gia Đình, Cựu Tù Nhân Chính Trị (HO), Con Lai, ..v..v..., bắt đầu từ năm 1990, dù rằng những năm trước đó lác đác đã có chương trình Đoàn Tụ Gia Đình. Số người thuộc các chương trình này đến Hoa Kỳ từ năm 1990 đến năm 2002 là 481.245 người, trong số đó có 112.000 cựu tù nhân chính trị.

Cộng Đồng chúng tôi tị nạn CSVN vươn cao hơn dự tưởng.

Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại Hoa Kỳ, theo thống kê năm 2010 là 1.548.946 người, bằng 1.7% dân số trong nước là 86.000.000 người. Làm chủ 229.000 cơ sở kinh doanh thương mãi, với doanh thu 28 tỷ 800 triệu mỹ kim (năm 2008), bằng 32.3% tổng sản lượng 89 tỷ mỹ kim của nước CHXHCNVN (năm 2008). Nên nhớ, khi chúng tôi đặt chân đến Hoa Kỳ chỉ là những bàn tay trắng, vì bị nhóm lãnh đạo cộng sản xâm lăng cướp đoạt hết rồi.

Về khối nhân lực quí giá trong Cộng Đồng chúng tôi, các anh sẽ rõ khi đọc hai đoạn trong bài viết “Khơi Dậy Nguồn Lực Chất Xám Của Việt Kiều” dưới đây của ông Nguyễn Phú Bình, năm 2005 là Thứ Trưởng Ngoại Giao nước Việt Nam cộng sản, kiêm Chủ Nhiệm Ủy Ban Về Người Việt Ở Nước Ngoài:

“... Trong số gần 3.000.000 người Việt Nam sinh sống định cư ở nước ngoài, ước tính có khoảng 300.000 người được đào tạo ở trình độ đại học và công nhân kỹ thuật cao, có kiến thức cập nhật về văn hoá, về khoa học, công nghệ, về quản lý kinh tế. Trong đó có nhiều người đạt vị trí quan trọng trong các Viện Nghiên Cứu, Trường Đại Học, Bệnh Viện, Công Ty kinh doanh của các nước, và các tổ chức quốc tế. Tiềm lực khoa học và công nghệ của các thế hệ người Việt Nam ở nước ngoài không ngừng phát triển. Trong đó, một thế hệ trí thức mới, người nước ngoài gốc Việt, đang hình thành và phát triển, nhất là ở các nước Bắc Mỹ, Tây Âu, và Châu Đại Dương. Đội ngũ này tập trung ở nhiều lãnh vực khoa học chuyên ngành và kinh tế như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế tạo máy, điều khiễn học, sinh học, quản lý kinh tế, ngân hàng, chứng khoán, ..v..v.. Theo ước tính, chỉ số học vấn đại học và trên đại học của người Việt Nam tại các nước công nghiệp phát triển gần ở mức trung bình của người dân sở tại....”

“......Chính thế hệ trẻ Việt Nam ở nước ngoài, đang làm thay đổi cơ cấu Cộng Đồng từng bước thay thế lớp người lớn tuổi. Thế hệ trẻ này đang trở thành một thành phần quan trọng của công tác vận động nhằm động viên khuyến khích sự hợp tác, đóng góp của họ vào công cuộc xây dựng quê hương đất nước. Thế mạnh của đội ngũ trí thức người Việt Nam ở nước ngoài là được đào luyện, tiếp cận môi trường khoa học công nghệ tiên tiến, và nắm bắt được phương pháp quản lý kinh tế vĩ mô và chuyên ngành. Họ có khả năng phát kiến sáng tạo, có năng lực tổng hợp thông tin, tư vấn và tạo dựng mối quan hệ với các cơ sở khoa học, cơ sở kinh tế ở nước sở tại. Từ trước đến nay, đội ngũ trí thức kiều bào vẫn được các cơ quan chức năng trong nước đánh giá là thế mạnh của người Việt ở nước ngoài, là một nguồn lực có thể góp phần tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước....”

Tôi nhấn mạnh với Các Anh về khối nhân lực có trình đại học trở lên mà ông Nguyễn Phú Bình ước tính trong bài viết là 10% (300.000 trong tổng số 3.000.000 người). Về phẩm chất giáo dục (các anh gọi là chất lượng) ở bậc đại học Hoa Kỳ được công nhận là tân tiến trên thế giới, vì vậy mà số sinh viên từ các quốc gia đến Hoa Kỳ du học là 690.923 sinh viên trong năm học 2009-2010. Trong số đó, Việt Nam có 13.112 sinh viên. Vậy là Các Anh có thể tự mình đánh giá phẩm chất giáo dục của tuổi trẻ tốt nghiệp đại học Việt Nam với tuổi trẻ hải ngoại tốt nghiệp đại học tại Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung, để nhận ra sức mạnh về kiến thức của Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản tại hải ngoại mà ông Thứ Trưởng Ngoại Giao các anh đã nhận định và mơ ước....

Cũng nói thêm để các anh có nét nhìn bao quát hơn về giáo dục. Trong danh sách 50 trường đại học nổi tiếng trên thế giới, Hoa Kỳ có đến 37 trường, quốc gia thứ nhì là Anh quốc 5 trường, thứ 3 là Canada có 2 trường, Nhật Bản cũng 2 trường, ... Dân số Hoa Kỳ là 310 triệu, có 14.261.000 sinh viên trong 9.449 trường đại học. Việt Nam với dân số 89.000.000 người (năm 2010), có 1.450.000 sinh viên trong 87 trường đại học công + 14 trường đại học tư + 1 trường đại học ngoại quốc = 102 trường đại học. Đây mới là số lượng trường đại học, còn phẩm chất giáo dục thì sao? Gần lại Việt Nam hơn, với danh sách 100 trường đại học nổi tiếng của Châu Á, Việt Nam không có trường nào trong số đó, và con số KHÔNG này tự nó đã nói lên phẩm chất giáo dục của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có gì để so sánh với nền giáo dục các quốc gia trong vùng.

Mời Các Anh đọc tiếp đoạn ngắn dưới đây nhà văn Dạ Ngân (trong nước), để có thêm dẫn chứng:

“.... Nếu cứ đùa dai với truyền thống hiếu học thì sẽ còn chuyện học sinh đi du học hết. Các ông bố, bà mẹ hiện đại ở các đô thị, đang có xu hướng “ấn” con mình đi du học càng sớm càng tốt? Xu hướng này phản ánh điều gì về tâm lý và sự thay đổi trong xã hội hiện nay?

“Xin đừng quên người Việt mình rất chăm con, bất đắc dĩ người ta mới chịu xa con sớm và họ biết rõ, con mình sẽ “lóng ngóng” ở xứ người một thời gian dài. “Nhưng tại sao có tâm lý đua nhau cho con đi sớm” Chỉ vì cung cách của nền giáo dục không còn khiến người ta an tâm. Tính hiếu học của người Việt đang bị thách thức. Những người có tiền, không dại gì để con mình chịu đựng sự thể nghiệm mãi của những nhà cải cách và phải học theo kiểu “nhồi sọ” ở trường, lại còn phải học thêm học thêm mãi ....Ngày nay, nhiều người Việt ra nước ngoài là để tị nạn giáo dục”.

Chưa hết. Với bài “Trào Lưu Du Học Sớm” đăng trên Tiền Phong chủ nhật 24/4/2012 tại Hà Nội, cô học sinh Phạm Tâm Anh, lớp 10A trường trung học phổ thông ngoại ngữ, tháng 7 /2012 này sẽ du học Hoa Kỳ ở bậc trung học. Bài báo cho rằng: “Đây là một thách thức với nền giáo dục trong nước”. Quan điểm này cùng quan điểm với nhà văn Dạ Ngân là “du học để tị nạn giáo dục”.

Nhớ lại lúc tôi bị giam trong trại tập trung Long Giao cuối năm 1975, Thượng Tá công an tên Bình đã “dạy” chúng tôi rằng: “Tư bản chủ nghĩa đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của nó là đế quốc Mỹ..” Có điều lạ là tư bản chủ nghĩa đã giãy 37 năm rồi mà chưa chết, trái lại càng giãy càng hùng mạnh hơn lên, đến mức nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” m à Các Anh gọi là đỉnh cao trí tuệ, thay phiên nhau lặn lội nửa vòng trái đất để cầu lụy giúp đỡ. Trong cầu lụy này còn có chương trình cho sĩ quan các anh sang “đế quốc đang giãy chết” học sử dụng vài loại vũ khí, trong khi tuổi trẻ Việt Nam đua nhau sang Hoa Kỳ “tị nạn giáo dục” như lời của nhà văn Dạ Ngân.

Đến đây Các Anh đã nhận ra mức độ tệ hại của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa như thế nào rồi. Hãy nhìn xa hơn nữa để hình dung nền giáo dục này sẽ tác hại ra sao với những thế hệ sau Các Anh? Và liệu đất nước Việt Nam sẽ như thế nào nếu nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” cộng sản độc tài vẫn tồn tại? Tùy Các Anh ...

Dưới đây là tóm lược bài “Cả Nước Đã Bị Lừa” của Châu Hiển Lý, là “bộ đội tập kết 1954”, để Các Anh có thêm nét nhìn nữa. Người Việt Nam tự do chúng tôi, khi nhìn vào sự kiện nào cũng nhìn từ nhiều phía với những tranh luận tìm đến nết nhận định chung, chớ không như “Các Anh chỉ được nhìn duy nhất một phía” do đảng cho nhìn”.

“ ..... Nhìn lại Việt Nam sau hơn nữa thế kỷ dưới chế độ cộng sản, hàng loạt các câu hỏi được đặt ra:

(1) Năm 1954 sau khi thắng Pháp, tại sao gần 1 triệu người Bắc phải bỏ lại nhà cửa ruộng vườn di cư vào miền Nam?
(2) Sau năm 1975 , tại sao dân miền Nam không ồ ạt di cư ra Bắc sinh sống để được hưởng những thành quả của chủ nghĩa xã hội, mà chỉ thấy hàng triệu người Bắc lũ lượt kéo nhau vào Nam lập nghiệp?
(3) Tại sao sau khi được "giải phóng khỏi gông cùm của Mỹ Ngụy”, hàng triệu người phải vượt biên tìm tự do trong cái chết gần kề trên biển cả mênh mông?
(4) Tại sao nhân viên trong các phái đoàn CSVN đi công tác hay đi tranh giải thể thao, thường hay trốn lại ở các nước tư bản dưới hình thức tị nạn chính trị?
(5) Tại sao đàn ông của các nước tư bản Châu Á có thể đến Việt Nam để chọn vợ như người ta đi mua một món hàng?
(6) Tại sao Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ?
(7) Tại sao có cuộc sống cách biệt quá xa giữa Đông Đức cộng sản với Tây Đức tự do, giữa Bắc Hàn cộng sản với Nam Hàn tự do, và giữa Miền Bắc Việt Nam cộng sản với Miền Nam Việt Nam tự do?
(8) Tại sao các lãnh đạo CSVN lại gởi con đi du học tại các nước tư bản thù nghịch “đang giãy chết”?

“Hỏi tức là trả lời. Người Việt Nam đã “bỏ phiếu bằng chân” từ bỏ một xã hội phi nhân tính. Mọi lý luận phản biện và tuyên truyền của nhà nước cộng sản đều trở thành vô nghĩa.... Sự thực đã quá hiển nhiên nhưng đảng cộng sản không dám công khai nhìn nhận, đó là họ đã hy sinh bốn triệu sinh mạng trong một cuộc chiến sai lầm, chỉ vì họ được đào tạo để chỉ biết có bài bản cộng sản, cho nên từ ba dòng thác cách mạng chuyên chính vô sản, lãnh đạo CSVN đã hy sinh hơn bốn triệu người, để rồi đi lòng vòng gần nửa thế kỷ, lại phải rập khuôn theo mô hình tư bản “đang giãy chết” để tồn tại.... “

“Con người có thể sống trong nghèo nàn, thiếu thốn. Nhưng người ta không thể sống mà không suy nghĩ, không nói lên ý nghĩ của mình. Không có gì đau khổ hơn là buộc phải im lăng, không có sự đàn áp nào dã man hơn là bắt người ta phải từ bỏ các suy nghĩ của mình và "nhai lại" suy nghĩ của kẻ khác.... Và tương lai nào sẽ dành cho dân tộc và đất nước Việt Nam, nếu cái tốt phải nhường chỗ cho cái xấu? Một xã hội mà cái xấu cái ác nghênh ngang, dương dương tự đắc, trong khi cái tốt cái thiện phải lẩn tránh, phải rút vào bóng tối, thì tương lai dân tộc này sẽ đi về đâu? Mượn 2 câu thơ sau đây của nhà thơ Bùi Minh Quốc, diễn tả xã hội ngày nay: “Quay mặt phía nào, cũng phải ghìm cơn mửa. Và một thời, đểu cáng đã lên ngôi!” Hết phần tóm lược.

Mời Các Anh nghe vài câu hát của nhạc sĩ Việt Khang “Việt Nam ơi thời gian quá nửa đời. Và ta đã tỏ tường rồi. Và nhận định của Khang: “Chiến tranh xảy ra tại Việt Nam mà không ở đâu khác, chỉ vì Việt Nam có đảng cộng sản”. Nghe tiếp 2 câu thơ của nhà thơ Trần Dần: “Tôi đi giữa phố phường. Chỉ thấy nước mắt sa trên nền cờ đỏ”. Và nhận định của ông Trần Độ, cựu Trung Tướng quân đội nhân dân Các Anh trong quyển nhật ký Rồng Rắn: “Tại sao chỉ có từ các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là từ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến hằng mấy triệu người bất kể hiểm nguy sống chết khi ra đi tìm đường sống ở các nước khác?”

Các Anh hãy nhìn lại lịch sử thế giới từ đầu thế kỷ 20 khi đảng cộng sản lật đổ chế độ Nga Hoàng đến nay, có người dân nào từ các nước tự do chạy sang quốc gia do đảng cộng sản cầm quyền xin tị nạn không? Chắc chắn là KHÔNG. Từ đó, có khi nào Các Anh tự hỏi “tại sao không?” Nếu chưa bao giờ, thì hãy tự hỏi bản thân Các Anh, rồi đọc lại nội dung thư này sẽ có giải đáp cho Các Anh.

Kết luận.

Như nói ở trên, điều mà tôi muốn gởi đến Các Anh trong thư này là bản chất của cộng sản mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện. Bản chất của đảng cộng sản là độc tài. Vì biết rằng không một dân tộc nào trên thế giới chấp nhận độc tài nói chung, và dân tộc Việt Nam nói riêng, nên phải che giấu bằng chính sách dối trá mà phương tiện là hệ thống giáo dục và hệ thống truyền thông trong tay đảng. Độc tài dẫn đến quyền lực, vì không có bất cứ cơ quan nào kiểm soát. Từ quyền lực dẫn đến độc đoán khi quyết định những chính sách ngang qua Quốc Hội dưới quyền lãnh đạo của đảng gọi là luật, tạo điều kiện cho một hệ thống tham nhũng bằng bất cứ hình thức nào mà mọi cấp mọi nơi cho là thích hợp khi áp dụng những văn bản đó, và quyết định độc đoán cao nhất là Hiến Pháp. Cuối cùng của độc tài là đạt đến quyền lợi cá nhân cho các đảng viên trong hệ thống tổ chức đảng với nhà nước ngày nay, và tùy lúc tùy nơi tùy từng vụ mà cấp lãnh đạo Các Anh “sẽ nhân danh bảo vệ đảng” để che chắn cho nhau bằng những cách mà họ cho là thích hợp.

Một góc nhỏ của quyến lợi cá nhân trong bản chất của đảng cộng sản mà nhóm lãnh đạo CSVN “đã và đang nhiệt tâm” vơ vét bằng nhiều cách khác nhau, nhưng cách cưỡng chiếm đất đai đồng ruộng ao hồ của người dân, mà điển hình gần đây của những vụ dã man nhất trong lịch sử Việt Nam là vụ Tiên Lãng (Hải Phòng) ngày 5/1/2012, Văn Giang (Hưng Yên) ngày 24/4/2012, và Vụ Bản (Nam Định) ngày 8/5/2012.

Tôi gởi sự suy nghĩ này đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên giành lại quyền làm người từ tay cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân đứng dậy, Các Anh hãy đứng về phía đồng bào mà hành động.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Gốc Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Xin hãy nhớ rằng “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 5 năm 2012

tieuchuy
06-19-2012, 09:44 PM
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.

Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Vẫn trong mục đích giúp Các Anh, từ góc nhìn khác để nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Ngày Nay”. Đọc báo Quân Đội Nhân Dân cũng là cách gần gủi Các Anh nhất. Nói rõ hơn là tôi phân tách vài bài báo giúp Các Anh nhìn sâu vào nội dung, để so sánh giữa lời lẽ trên trang báo với sự thực trong xã hội nó khác nhau đến mức nào, và từ đó Các Anh sẽ nhận ra mức độ dối trá ngược ngạo trong truyền thông nó tác hại ra sao với độc giả, khán giả, thính giả! Và tùy Các Anh suy nghĩ ….

Báo Quân Đội Nhân Dân “lo” cho tuổi trẻ. Số báo ngày 27/3/2012, cảnh giác về thành phần sinh viên:

“....Rất nhiều tuổi trẻ Việt Nam đã “bị lung lạc” qua chiến dịch diễn biến hòa bình từ hải ngoại đưa vào... Hầu hết sinh viên còn hạn chế khả năng phân tích và chọn lọc thông tin. Chính vì vậy, lực lượng này dễ bị kích động, lôi cuốn vào những hoạt động không lành mạnh… Đây chính là điểm yếu của sinh viên mà các thế lực thù địch đã chọn làm đối tượng để thực hiện ''diễn biến hòa bình'' nhằm lôi kéo, tạo lực lượng chống phá cách mạng nước ta.

“Rất dễ dàng nhận thấy, khi nhằm vào đối tượng sinh viên, chiến thuật của chúng vẫn là mềm, ngầm, sâu, tiến hành trên tất cả các lĩnh vực. Chúng thông qua internet, điện thoại di động, đặc biệt là các trang web đen… để đưa các ấn phẩm văn hóa đồi trụy, phản động vào sinh viên. “Mưa dầm thấm lâu”, những văn hóa phẩm độc hại, những tư tưởng xấu, lối sống vô trách nhiệm… cứ dần dần len lỏi vào các ký túc xá sinh viên, lôi kéo, kích động họ, tạo ra sự bất ổn về chính trị tư tưởng, gây ra những vụ gây rối trật tự an ninh trong đời sống sinh viên và trong xã hội. Âm mưu chống phá này cũng đã tác động xấu đến tư tưởng của một bộ phận sinh viên, khiến họ giao động và giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thậm chí còn vào hùa với các thế lực thù địch nói xấu Đảng, nói xấu chế độ... Lãnh đạo CSVN đưa ra các biện pháp: “Tăng cường giáo dục cho sinh viên về chủ nghĩa Mác- Lê, tư tưởng Hồ Chí Minh; quán triệt chủ trương đường lối chính sách và pháp luật của Đảng với Nhà nước...”

Các Anh thấy gì khi đọc đoạn trên đây? Có thể Các Anh đã quen với nếp sống vô trách nhiệm, nếp sống vô văn hoá của xã hội ngày nay nên không thấy gì trong bài báo đó. Nhưng tôi thì thấy, và hiểu:

Thứ nhất. Nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên hệ thống giáo dục xã hội chủ nghĩa với mục đích đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục đảng, mà đảng chỉ là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, chỉ lo bảo vệ đảng bằng bất cứ chính sách nào, phương cách nào, kể cả phương cách sử dụng côn đồ xã hội đen để trấn áp người dân, chớ không phục vụ quyền lợi người dân. Những con người vô văn hoá.

Thứ nhì. Nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên hệ thống tham nhũng bằng những văn bản mà Hiến Pháp là văn bản cao nhất, dẫn đến Luật Đất Đai ra đời. Từ đó, lãnh đạo ở mọi cấp cùng nhau tham nhũng, chia chác, che chắn, để cùng “bảo vệ đảng” mà tiếp tục tham nhũng, bởi đảng đang chơi vơi vì chủ nghĩa cộng sản sụp đổ hơn 20 năm rồi, nhưng vẫn bám vào để ôm chiếc ghế quyền lực mà cùng nhau tham nhũng. Những con người vô trách nhiệm.

Thứ ba. Và cũng nhóm lãnh đạo CSVN là thủ phạm tạo nên một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng dối trá, dối trá trong học đường, dối trá trong luật pháp, dối trá trong Quốc Hội, trong chánh phủ, dối trá từ trong gia đình, thân nhân thân quyến, cho đến bạn bè bằng hữu. Những con người vô cảm.

Nhìn chung, xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, là một xã hội băng hoại đến mức mà mọi người không còn chỗ nào để tránh được dối trá và tham nhũng. Các Anh hãy đọc một đoạn dưới đây, bài viết trong đêm Ba Mươi Tết Nhâm Thìn 2012, “Ngày Phán Xét Sắp Đến” của tác giả “Tuổi 20” từ Hà Nội. Đoạn này, “Tuổi 20” như đang nói với nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị:

“Tuổi trẻ Việt Nam ngày hôm nay đã quen với thế giới a-còng (@), iPhone và iPad, sẽ không dễ bị che mắt, bịt mặt, và lừa đảo như thế hệ cha anh chúng tôi. Nếu 14 ông bà bộ chính trị, những đỉnh cao của sở thú còn tin vào quyền năng vô hạn của hơn 700 tờ báo, đài phát thanh, và truyền hình các vị có thể định hướng, dẫn dắt chúng tôi. Hãy tỉnh thức, Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài, và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị, và các quan tham….. Tuổi trẻ chúng tôi không thích những kẻ loạn ngôn, chúng tôi lợm giọng và buồn nôn khi thấy quý vị ngu dốt, trơ trẽn và vô liêm sỉ đến tột cùng, khi tiếp tục lải nhải “Đảng CSVN quang vinh muôn năm”. Có ai lại tôn vinh cái đảng mà bàn tay thấm máu dân mình, cái đảng xây nhà tù nhiều hơn trường học, cái đảng dựng phòng massage nhiều hơn nhà thương, cái đảng đem con gái ra trần truồng phơi bày trước người Đài Loan, Hàn Quốc, … để họ sờ nắn như đi mua gà vịt với một hy vọng mong manh là sớm thoát ra khỏi cái thiên đàng xã hội chủ nghĩa…….”.

Tôi nghĩ là Các Anh hiểu được rằng, chính tuổi trẻ -nhất là sinh viên- là tầng lớp rất nhạy bén với những sự kiện xảy ra trên quê hương cũng như trên thế giới, vậy mà báo Quân Đội Nhân Dân Các Anh cho là “khả năng hạn chế”. Hóa ra nhà báo lãnh lương nhà nước, nên mọi sự việc trong xã hội họ chỉ được phép nhìn một mặt, với cái “mũ kim cô” trên đầu, và trái tim vô cảm của người cộng sản. Đúng là nói theo lệnh chớ không cần sự thật. Nếu nói theo nhà văn cộng sản đã thức tỉnh Nguyễn Khải trước khi từ giã cõi đời, là nói dối lem lẻm, nói dối không biết ngượng, nói dối cứ như thiệt, vì nếu không nói dối thì .... mất mạng như chơi.

Như vậy, những gì xấu xa nêu trong bài báo “Quân Đội Nhân Dân” của Các Anh, thật ra những thứ đó đã có, đang có, và tiếp tục phát triển những cái xấu xa đó ngay trong lòng xã hội chủ nghĩa rồi, đâu cần hải ngoại đưa vào mà la hoảng lên như vậy. Cũng may cho đất nước Việt Nam chúng ta, còn có được một thành phần dân tộc với đa số là tuổi trẻ -mà tác giả “Tuổi 20” là điển hình- vượt thoát hê thống giáo dục đó để trở thành những công dân đúng nghĩa, đã và đang chấp nhận mọi hiểm nguy gian khổ mà tranh đấu cho một xã hội dân chủ pháp trị thật sự trên quê hương Việt Nam. Hãy nhớ rằng, ngày nay là thời đại phát triển vượt bậc về truyền thông điện tử mà Các Anh gọi là thời đại a-còng @, chỉ trong nháy mắt là tin tức truyền đi khắp nơi, nhờ đó mà mọi người dễ dàng và nhanh chóng trao đổi quan điểm về các lãnh vực trong cuộc sống, từ chính trị ngoại giao, kinh tế xã hội, đến văn hoá giáo dục, ..v..v.., qua đó mà các thành phần trong nước, nhất là tuổi trẻ, hiểu biết về những sự thật tồi tệ mà lãnh đạo đảng với nhà nước che giấu.

Báo QĐND “sợ” Nhân Dân phê bình. Số báo ngày 15/5/2012, bài viết của Văn Hải về “Tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên”:

“Chỉ thị số 3 ngày 14/5/2011 của Bộ Chính Trị là tiếp tục đẩy mạnh xây dựng cơ chế giám sát của tổ chức đảng và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cán bộ của cán bộ đảng viên. Vấn đề cấp bách là cán bộ phải thường xuyên tiếp xúc và đối thoại với nhân dân để nắm bắt tâm tư, đánh giá, và dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ đảng viên, và có biện pháp giải quyết kịp thời. Thực tế thì phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân, nhưng vẫn còn một bộ phận cán bộ có tác phong quan liêu, cửa quyền, cách biệt với cuộc sống đạm bạc, bình dị của phần lớn người dân ....” Trước đó, ngày 14/5/2012, cũng báo Quân Đội Nhân Dân, tóm lược các nét chính về chính sách đất đai nêu ra ở Hội nghị Trung ương Đảng vừa kết thúc: “Đất là nguồn sống của nhân dân, tài sản, nguồn lực to lớn của Việt Nam”.

Trời đất ơi! Tôi không thể tưởng tượng được mức độ dối trá của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị khi nhận định: “... Thực tế thì phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân”, dù tôi vẫn biết nếu không dối trá thì không phải cộng sản. Mời Các Anh nhìn vào vài sự thật đã xảy ra dưới đây để nhận ra “chân dung lãnh đạo” của Các Anh:

Thứ nhất. “Phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân”, sao không sử dụng Hải Quân với Cảnh Sát Biển để bảo vệ ngư dân thể hiện sự gắn bó với dân, tôn trọng nhân dân, mà để hằng chục ngàn ngư dân bị hải quân Trung Cộng hành hạ cướp đoạt tài sản, cuối cùng là đòi tiền chuộc giống như bọn cướp biển chuyên nghiệp bên Somalia. Thậm chí cũng không dám gọi đích danh là Trung Cộng mà chỉ dám gọi là “tàu lạ”. Vậy là dối trá rồi. Các Anh hãy đọc tài liệu dưới đây do Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn Việt Nam công bố ngày 2/3/2010, trong hội nghị khẩn để duyệt lại tình hình đánh cá trên Biển Đông như sau:

(1) Tổng kết trong 4 năm qua, có 1.186 tàu đánh cá và 7.045 ngư dân Việt Nam bị bắt giữ trong khi hoạt động ở các vùng tranh chấp trên Biển Đông. Trong tất cả các vụ này, không thấy bóng dáng tàu tuần tra của Việt Nam xuất hiện.

(2) Hiện nay hiện còn 751 ngư dân còn đang bị nước ngoài bắt giữ, đa số là Trung Cộng.

(3) Riêng năm 2009 có 304 tàu cá và 2.472 ngư dân Việt Nam bị nước ngoài kiểm soát bắt giữ, xử phạt. Đây là con số báo động, thử chia đều cho 365 ngày thì mỗi ngày có ít nhất 6 ngư dân bị nước ngoài bắt và mỗi tuần từ 5 đến 6 tàu đánh cá bị cầm giữ.

(4) Trong hai tháng đầu năm 2010, xảy ra 18 vụ bắt giữ tàu cá và 208 ngư dân.

(5) Và ngày 22/3/2010, tàu cá QNg 50362 với 12 ngư dân bị bắt giữ ở đảo Phú Lâm quần đảo Hoàng Sa, phía Trung Hoa đòi tiền chuộc lên đến 150 triệu đồng.

Thứ nhì. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân”, trong khi không sử dụng lực lượng để bảo vệ ngư dân trên biển, nhưng lại hung hăng khi sử dụng Công An võ trang và côn đồ mang gậy gộc, bao vây, đánh đập, bắt giam Nhân Dân trong 10 cuộc biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn vào mỗi ngày chủ nhật, kể từ chủ nhật 5/6/2011? Trong mỗi lần đồng bào biểu tình phản đối Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, có đến 500 Công An đàn áp người dân, chẳng lẽ hành động tàn bạo này là thể hiện “cán bộ đảng viên vẫn gắn bó và tôn trọng nhân dân?” Vậy là dối trá nữa.

Thật ra hành động của tuổi trẻ xứng đáng được vinh danh, “vì thế hệ hậu duệ” thể hiện ghi nhớ chính chắn lời dạy của vua Trần Nhân Tôn từ 800 năm trước nhưng ngày nay vẫn nguyên giá trị trong bang giao giữa Việt Cộng với Trung Cộng, rằng:

“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".

Thứ ba. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với nhân dân, tôn trọng nhân dân,... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân...., sao lại sử dụng 100 Công An Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân đến Tiên Lãng, Hải Phòng, thẳng tay đàn áp, cưỡng chế, cướp đoạt ao hồ nhà cửa của Nhân Dân là Đoàn Văn Vươn ngày 5/1/2012, và bắt cựu chiến binh Đoàn Văn Vươn đưa ra tòa vì “nhân dân chủ “ dám chống lại lệnh cướp đất của “nhà nước đầy tớ”. Dối trá chồng lên dối trá.

Thứ tư. Bộ Chính Trị nói “phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân,... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân ...” mà theo phóng viên Việt Hà của đài Á Châu Tự Do, thì ngày 24/4/2012 “nhà nước đầy tớ” đã huy động 3.000 quân võ trang gồm Công An Nhân Dân + Quân Đội Nhân Dân + côn đồ Nhân Dân trang bị mã tấu gậy gộc, cùng với 40 máy xúc máy ủi đến xã Xuân Quan, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, đối đầu với 2.000 Nhân Dân, cưỡng chế 70 hecta đất của “Nhân Dân chủ” để xây dựng khu đô thị Ecopark do con gái của Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng là chủ dư án. Từ 9 giờ sáng, lực lượng của “nhà nước đầy tớ” bắt đầu chia cắt “Nhân Dân chủ” ra từng mảng nhỏ, và các máy ủi máy xúc hoạt động. Đến 12 giờ trưa cùng ngày, việc cưỡng chế kết thúc. Xe ủi đã ủi toàn bộ các cây cối mà phần lớn là cây cảnh của người dân trên cánh đồng. Người dân ở đây cho biết, hầu hết các gia đình đều trồng cây cảnh trên cánh đồng là nguồn sống của họ, có gia đình trồng hơn 1000 cây. Trong đêm trước đó không thể chuyển hết cây cảnh này ra khỏi cánh đồng, nên bị thiệt hại rất nặng. Đã vậy mà “10 Nhân Dân chủ” thuộc xã Xuân Quan và xã Phụng Công bị “Nhân Dân đầy tớ” bắt về Huyện. Một sự kiện khác cũng cần nói đến. Đó là hai phóng viên Đài Tiếng Nói Việt Nam đã bị hành hung đến mang thương tích, vì bất cứ ai tìm cách ghi nhận hình ảnh cũng như tin tức trong khi cưỡng chế cày xới cánh đồng đều bị cấm. Trong lá thư gởi Quốc Hội, nhà báo Tống Văn Công đã bày tỏ sự bất bình về việc hạn chế hoạt động báo chí trong vụ cưỡng chế Văn Giang. Ông Tống Văn Công đặt câu hỏi: “Nếu việc cưỡng chế là đúng pháp luật thì tại sao phải hạn chế thông tin? Tại sao những tấm bảng “Cấm quay phim, chụp ảnh” được dựng ra khắp nơi? Chỉ có hai tờ báo dám nói một phần sự thật, và nói rất từ tốn là Người Cao Tuổi và Sài Gòn TiếpThị, thì cả hai đều bị buộc phải gỡ bài xuống khi vừa cho lên mạng!” Lại chồng lên dối trá.

Thứ năm. Cũng Bộ Chính Trị đã nói “Phần lớn cán bộ đảng viên vẫn gắn bó với Nhân Dân và tôn trọng Nhân Dân, .... và công nhận đất là nguồn sống của nhân dân”, mà sao ngày 8/5/2012 lực lượng của Nam Định, cộng với lực lượng từ Hà Nội kéo đến Vụ Bản, Nam Định, để cưỡng chế cướp đất. Lực lượng gồm 250 Công An & Cảnh Sát Chiến Đấu + 20 côn đồ + 20 xe các loại + cộng với xe cấp cứu, và 1 xe bít bùng để chở “Nhân Dân chủ” bị “Nhà Nước đầy tớ” bắt quăng lên xe đem đi nhốt. Về phía nhân dân, ngay trong đêm trước (7/5/2012), khoảng 200 dân chia nhau canh giữ rải rác trên cánh đồng. Khoảng 7 giờ sáng, Công An với côn đồ bắt đầu “trận đánh” bằng cách chia cắt đám đông nhân dân ra từng nhóm nhỏ, rồi đẩy dần sang bên kia đường sắt. Chỉ 35 phút sau thì đám đông tan rã, chỉ còn lại Cảnh Sát Chiến Đấu, Công An nhân dân, với côn đồ nhân dân, bảo vệ cho các toán đào đất của nhân dân, và cắm các bảng chỉ dẫn công trình trên khu đất cưỡng chế chiếm đoạt của nhân dân. Cuối cùng, “2 nhân dân chủ” bị đánh chảy máu đầu & “6 nhân dân chủ” bị “Công An đầy tớ” bắt lôi đi, vừa lôi vừa đánh túi bụi vào đầu vào lưng. Và chồng lên dối trá nữa.

Các Anh thấy không, “đỉnh cao gian trá “ trong Bộ Chính Trị: “Vừa nói dối, vì sự thật không phải như vậy. Vừa nói ngược, vì sự thật phải hiểu ngược lại 180 độ mới đúng. Với lại đã công nhận “đất là nguồn sống của nhân dân .....”, vậy mà vẫn giữ nguyên điều luật trong Hiến Pháp nói về “Đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý”. Rõ ràng là lãnh đạo đảng với nhà nước chỉ nói cho người dân tưởng là đảng thương dân, lo cho dân, nhưng làm thì ngược lại 180 độ, nghĩa là chỉ biết tham nhũng hại dân để bảo vệ đảng.

Vẫn là dối trá, thậm chí là ngược ngạo. Mời Các Anh đọc vài đoạn trong bài tâm sự của ông Nguyễn Nhân Trí sau chuyến về thăm quê hương, để nhận ra dối trá trong hệ thống giáo dục nó tác hại thế hệ trẻ hiện nay như thế nào. Ông Trí mướn xe đi thăm nhiều nơi. Trong những ngày tại Huế, ông mướn xe và cô hướng dẫn của công ty du lịch đưa đi thăm các thắng cảnh. Ông chợt nhớ đến hình ảnh kinh hoàng sau trận chiến Tết Mậu Thân đầu năm 1968 mà ông thấy trên đài truyền hình trong nước, cộng với những phóng sự trong chương trình Việt ngữ của các đài phát thanh ngoại quốc. Ông hỏi cô hướng dẫn:

“Cô có biết chỗ những mồ chôn tập thể hồi Tết Mậu Thân năm 1968 không? Tôi muốn đến đó xem”.
- Cô trả lời: “Dạ cháu có nghe nói. Nhưng ở cách đây xa lắm”. Rồi cô nói đến một địa danh hoàn toàn xa lạ.
- Tôi muốn biết chắc là cô hiểu tôi đang nói về điều gì nên hỏi thêm: “Cô biết gì về những mồ chôn tập thể nầy?”
- Cô giải thích: “Cháu biết chứ. Đó là nơi mà hồi Tết năm 1968 nhiều người đã bị Mỹ Ngụy giết chết và chôn ở đấy.”
- Tôi sựng lại, xoay qua nhìn cô ấy. Câu trả lời trên của cô hoàn toàn nằm ngoài dự đoán của tôi. Tôi hỏi lại: “Ai bị ai giết?”
- Cô ấy nhướng mắt và trả lời một cách thông thạo: “Thì chú biết mà, hồi Tết năm ấy lính Mỹ và lính Ngụy vào đây giết chết rất nhiều thường dân và cán bộ rồi đem chôn họ ở mấy chỗ đó.” Nét mặt cô thản nhiên, cho thấy cô trả lời tôi một cách thành thật.
- Tôi hỏi lại một cách dè dặt: “Làm sao cô biết rõ là lính Mỹ Ngụy đã giết thường dân và cán bộ rồi chôn họ ở đó?”
- Cô mĩm cười, có lẽ vì sự ngớ ngẩn trong câu hỏi của tôi: “Thì cháu đã học rõ ràng như thế mà. Không những ở trường học hồi nhỏ mà khóa đào tạo hướng dẫn du lịch của cháu cũng có dạy rất đầy đủ. Lúc đó lính Mỹ Ngụy vào bắn giết rất nhiều dân và cán bộ rồi đem chôn họ tập thể. Ai cũng biết điều đó cả.”

“Tôi lặng người đi vài giây. ....Tôi quyết định không hỏi thêm về vấn đề nầy nữa. Cô gái ấy đã giải thích rất rõ ràng: trường học đã dạy như vậy, khóa đào tạo cũng dạy như vậy, ai cũng biết điều đó. Từ ngày sinh ra, cô đã được dạy bảo như vậy. Không có lý do gì cô nghi ngờ điều đó....”

Trường hợp này theo ông Hà Sĩ Phu, tiến sĩ, đảng viên cộng sản lão thành, trong bài viết “Sức Nén Của Ngôn Từ”, đoạn nói về ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, ông diễn giải: “Nói nghe nó “ngược” nhưng chắc gì đã “ngược”, chẳng hạn như cả một bộ máy đảng bộ máy nhà nước “bị” làm đầy tớ của nhân dân thì sướng đến tột đỉnh, trong khi nhân dân “được” làm chủ thì thất điên bát đảo, chạy gạo chạy cơm chạy tiền học cho con cho cháu đủ điên đầu. Khi người “được” làm chủ mà có việc phải đến với những người “bị” làm đầy tớ, thì từ đầu chí đuôi luôn bị hạch sách hoạnh hẹ đến mức phải vét tiền và kính cẩn “tự nguyện” đưa cho đầy tớ mới xong việc. Điều này rất thực, không ai phủ nhận được cả. Thế mới biết, trong một không gian đảo lộn thật giả giả thật, khi nói ngược chính là nói xuôi đó! Vậy, chính xã hội chủ nghĩa đã tạo nên nhu cầu nói ngược, rồi theo thời gian nhu cầu nói ngược đó trở thành một nếp khác trong đời sống văn hoá: “Nếp sống nói ngược nhưng là xuôi”.....

Chắc Các Anh đã nhận ra nhà trường và xã hội chủ nghĩa đã bẽ cong lịch sử như thế nào rồi chớ? Các Anh cũng nhận ra sự đảo lộn chữ nghĩa trong xã hội Việt Nam ngày nay rồi chớ? Tất cả đã trở thành nếp sống trong văn hoá Việt Nam rồi. Phải qua bao nhiêu thế hệ sau ngày cộng sản tan rã, văn hoá Việt Nam chúng ta mới khôi phục lại bản sắc dân tộc, để từ đó mà phát triển?

Báo QĐND “sợ” Nhân Dân buồn. Vẫn số báo ngày 13/5/2012 có bài viết “Bệnh chạy chọt” của Đỗ Phú Thọ:

“Một Cảnh Sát giao thông than phiền là không sợ trời nắng trời mưa, mà sợ những lời xin xỏ, đề nghị, nhất là cấp trên can thiệp cho những người lái xe bị chận bắt. Hiệu trưởng một trường tiểu học danh tiếng tại Hà Nội, than phiền là đến tháng tuyển sinh phải tắt điện thoại vì quá nhiều người gọi đến xin ưu tiên cho con cho cháu vào trường. Lãnh đạo một bệnh viện than phiền là quá mệt, vì những điện thoại nhờ ông ưu tiên khám bệnh cho thân nhân, ưu tiên điều trị cho thân quyến, thậm chí là cho bạn bè”.

Tác giả có vẻ “xót xa” khi viết: “Dường như cái bệnh chạy chọt đã ngấm sâu vào máu và trở thành phản xạ tự nhiên của rất nhiều người Việt Nam, từ những người lao động tay chân đến lao động trí óc, từ dân thường đến người có chức có quyền”. Rồi tác giả có phần lo âu: “Điều nguy hại là thói xấu này trở thành phong cách ứng xử trong đời sống xã hội của một số người mà họ không hề thấy sự bất ổn trong đó. .......”.

Tôi không thể tưởng tượng được mức độ nói dối của tác giả. Bởi, trong xã hội chủ nghĩa ngày nay, điều mà tác giả gọi là “bệnh chạy chọt”, đã trở thành một nếp trong đời sống hằng ngày của xã hội từ lâu lắm rồi, ít ra cũng hơn 20 năm rồi, chớ có phải mới hôm qua hay năm vừa qua đâu mà tác giả dùng chữ “dường như cái bệnh chạy chọt”. Ngôn ngữ dân gian thường dùng chữ “bôi trơn = chạy chọt”, mỗi khi đến bất cứ cơ quan nào của nhà nước từ trung ương xuống đến tận cùng Phường/Xã, khu phố, tổ dân phố, khi đi ngang nhân viên Quan Thuế (Các Anh gọi là Hải Quan) tại phi trường, khi cần đến nhân viên giữ kho, nhân viên tại bệnh viện như bác sĩ, y tá, quét dọn phòng, thậm chí đến nhân viên giữ nhà xác cũng phải “bôi trơn” thì cửa nhà xác mới mở, còn Cảnh Sát giao thông thì .. ôi thôi ...khỏi nói .... vì đó là “chuyện thường ngày trên đường phố” mà.

Còn nữa, Các Anh hãy đọc vài đoạn tóm lược trong bài dưới đây, để nhận ra mức độ dối trá từ nét nhìn của phóng viên Thanh Quang, đài Á Châu Tự Do ngày 12/1/2012: “Thời gian gần đây, vấn đề sa sút đạo đức, và thực trạng đó ra sao? ..... Ngày nay, tình hình đạo đức sa sút trong nước đang gây nhiều bất an, trăn trở cho những người có tâm huyết với quê hương. Căn bệnh nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất của xã hội ta hiện nay là bệnh giả dối. Nhà văn Nguyên Ngọc, qua bài “Cần Một Cuộc Tự Vấn” đã thẳng thắn đề cập tới một trạng thái chán chường sâu sắc và mênh mông về đạo đức xâm chiếm mọi con người. Theo cái nhìn của nhà văn Nguyên Ngọc, thì tâm trạng chán chường trước sự sa sút về đạo đức ấy phát sinh từ một “căn bệnh” cứ “vây kín quanh mình, “va vào đâu cũng gặp” dưới “mọi kiểu trắng trợn hay tinh vi”, đó là sự giả dối. Câu hỏi thường trực bây giờ: Tốt để làm gì? Sạch để làm gì? Quên mình để làm gì? Xả thân chống lại cái xấu, cái giả để làm gì? Liệu rồi có ai, có cơ chế nào bảo vệ những nỗ lực đạo đức đó không? Hay thậm chí bị cả cơ chế đó quật đánh lại như vẫn thấy không hề ít?”

Chưa hết, nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực của nền giáo dục nước nhà. “Sự giả dối tồn tại ở xã hội VN lâu rồi. Ngay trong lãnh vực giáo dục, ông phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân phụ trách các mặt văn hóa giáo dục, cũng khẳng định là tình trạng thiếu trung thực trong giáo dục là bệnh lớn nhất tại Việt Nam. Mà giáo dục là gì? Giáo dục là dạy cho con người trở thành người. Nó dạy cho con người phải có đạo đức. Mà cái đầu tiên của đạo đức là chân thật. Giả dối thì trái ngược lại, là phản giáo dục. Xã hội nói chung bao gồm hệ thống giáo dục. Rất nhiều cán bộ cao cấp về hưu như Thủ Tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, phó Thủ tướng Trần Phương cũng khẳng định điều đó rồi. Vừa rồi nhà bác học toán học Hoàng Tụy cũng vừa viết một bài rất hay góp ý cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về tái cấu trúc xã hội. Theo Giao Sư Hoàng Tụy thì không thể nào tái cấu trúc xã hội. Bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời. Nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”

Giáo Sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh báo tình trạng giả dối ở Việt Nam lan tỏa từ “A đến Z”, khi cảnh nhiễu nhương, tự tung tự tác đang hoành hành xã hội: Điều đầu tiên tôi nghĩ là tôi trách bộ Giáo & Đào Tạo của Việt Nam, vốn lâu nay toàn dạy đạo đức, giáo dục công dân v.v…trên mây trên mưa, toàn giáo điều mà chẳng thiết thực gì. Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, sự tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra chẳng ai thích đâu. Nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối từ A tới Z, từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp như thế nào vẫn được. Tôi ví dụ 1 tỉnh mà có 2 trạm công an ở đầu tỉnh, cuối tỉnh, chặn xe lại để lấy tiền. Một xã hội như vậy làm sao không loạn được.”

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện trong “Chiều cuối năm nhìn lại”, qua đó ông không quên lưu ý tới “những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo, kẻ thủ ác tuổi đời càng ngày càng trẻ, cách thức giết người càng ngày càng dã man, độc ác, và quyết liệt hơn.”...... Ngay cả đại biểu Quốc hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng than thở rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc”.... Cón nói theo lời nhà văn Trần Mạnh Hảo, thì hai chữ dối trá ngày càng phản ánh đậm nét thực trạng xã hội là “vô cảm”. Xã hội Việt Nam bây giờ, con người ngày càng vô cảm trước nỗi đau của đồng loại giữa lúc cảnh “ăn cướp đã trở thành hiện tượng đương nhiên”.

Tôi tóm lược bài của các tác giả: Nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Trần Mạnh Hảo, Phó Thủ Tướng CSVN Nguyễn Thiện Nhân, cựu Thủ Tướng CSVN Võ Văn Kiệt, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Văn An, Phó Thủ Tướng Trần Phương, Giáo Sư Hoàng Tụy, Giáo Sư Hà Văn Thịnh, Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Diện, Đại Biểu Quốc Hội Dương Trung Quốc, giúp Các Anh nhận ra, đó là những nhân vật trong nước có chung nhận thức rằng: “Xã hội Việt Nam ngày nay là một xã hội dối trá, vô cảm, do hệ thống giáo dục học đường và hệ thống truyền thông trong xã hội tạo nên, theo đường lối của lãnh đạo cộng sản Việt Nam”.

Trước khi đến lời kết, tôi mời Các Anh đọc vài đoạn trích dẫn trong bài viết “Lời Bộc Bạch Của Một Đảng Viên”, mà tôi nghĩ là Các Anh sẽ dễ cảm thông với tác giả, vì tôi tin tà từ chiều sâu tâm hồn của Các Anh cũng gói ghém giấu kín một tâm trạng như vậy, cũng có thể là hơn thế nữa.

Vào bài, người đảng viên này ”bộc bạch”, nhưng nỗi sợ hãi vẫn hiện rõ: “....Tôi nghe được những thằng bạn làm bên an ninh nói rằng, đang thực hiện những chỉ thị của cấp trên rất quyết liệt để tìm ra dấu vết tông tích của những blogger “có vấn đề” để có cách xử lý thích đáng. Tôi thực sự sợ, có lẽ là tôi hèn nhát”.
Nhưng, sau phút sợ hãi, người đảng viên tác giả tỏ ra cứng răn, nhưng sợ hãi vẫn còn đó: “Hôm nay tôi muốn viết. ... Tôi cảm nhận rõ ràng một sự thôi thúc phải nói ra những gì mình suy nghĩ cho nhiều người đọc, ... nhưng thật tình là tôi rất run sợ khi post bài này. Tôi không phải là người dũng cảm, nhưng tôi thấy mình cần làm điều đó. Và tôi cũng chỉ có nơi này để viết, để nói ra được sự thật, blog là nơi duy nhất ở xã hội này người ta có thể nói thật, còn lại đều là một cuộc sống dối trá với chính mình, và với mọi người”

“Tôi đã gần 50 tuổi đời, trong đó có 15 tuổi đảng, đang làm cho một viện nghiên cứu của Nhà nước. Thật lòng là tôi đã nghĩ đến việc ra khỏi Đảng nhưng lại không dám thực hiện, vì tôi không đủ can đảm..... Lương hai vợ chồng cộng lại hơn chục triệu. Riêng tôi mỗi năm được thêm vài công trình nghiên cứu, chia ra cũng được khoảng 30-40 triệu đồng. Số tiền này là bổng lộc mà cấp trên ban phát, vì nghiên cứu cho có, xong cho vào tủ, chủ yếu là viết theo ý muốn cấp trên, rồi lập hội đồng khen nhau mấy câu là xong. Giàu thì chủ yếu là các sếp lớn, vì đề tài nghiên cứu nào các sếp cũng có tên để chia tiền dù chẳng làm gì, có khi cũng chẳng nhớ nổi cái tên đề tài. Nếu lên được trưởng phòng thì không phải lo tiền bạc, vì người ta “cúng” cho mình. Do vậy mà trong nội bộ đấu đá giành giật nhau ghê lắm.... Muốn ngoi lên phải có nhiều thủ thuật, phải biết luồn cúi thật giỏi, chà đạp người khác mà không bị cắn rứt. ... Chuyên viên như tôi -dù là được xếp vào ngạch cao cấp- bây giờ toàn phải nói như vẹt, nói dối đến mức mất tư cách mà chẳng biết phải làm sao. Giờ mới thấy mình hèn nhưng đã muộn.... Đảng viên như tôi, bây giờ chiếm đến 95%, đa số tuyệt đối trong Đảng.
“Hồi tháng 4 năm ngoái, tôi được đọc một bản nghiên cứu của Viện Nghiên Cứu Dư Luận Xã Hội, đây là tài liệu chính thức nghiên cứu theo yêu cầu của Bộ Chính Trị. Theo đó, Đảng viên bây giờ đều chán nản và bi quan, không còn tin vào đường lối chủ nghĩa Cộng Sản và học thuyết Mác Lê-Nin nữa.... Nhưng cái làm xói mòn niềm tin ở Đảng nhất là tham nhũng và đặc quyền, thì Đảng chẳng có một biện pháp hiệu quả nào ngăn chặn, nếu không muốn nói là Đảng phải duy trì nó để sống, và để cai trị quan chức.... Tôi đang đứng trước một trạng thái chông chênh, giữa những lựa chọn không dễ dàng: theo thói xấu của xã hội để sống, hay tham gia vào những sự thay đổi của người khác làm xã hội tốt hơn, nhưng nhiều lần tôi đã không vượt qua được chính mình. .... Gần đây tôi bắt đầu tin dần vào những gì vô hình như là định mệnh, số phận, vận nước... nhưng có lẽ niềm tin là tâm linh không phải biện chứng khoa học. Do vậy, tôi hy vọng như nhiều người dân đang hy vọng, hồn thiêng sông núi sẽ phù hộ cho vận mệnh của đất nước”.
“....Chính quyền hiện nay dù làm ra vẻ chống đối và mạnh tay với những người đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền; giả bộ như là sợ những điều đó đe dọa sự cầm quyền của họ, nhưng thực ra họ rất mong muốn những người đấu tranh này lao vào những mục tiêu như vậy... Những gì thiết thực đối với quần chúng thì rất nhiều, nhiều vô kể, không thể nhắm đến tất cả trong một lúc được. Những con người sáng suốt sẽ nhận ra một vài điểm thật quan trọng từ những nhu cầu đó, nhấn mạnh nó, giương cao nó lên làm ngọn cờ để tạo ra động lực cho đa số dân chúng, tạo ra lực lượng và thế lực thay đổi xã hội hiện nay. Điều đáng mừng là một vài năm gần đây đã thấy xuất hiện vài người có tầm nhìn như vậy, nhìn được những mấu chốt từ những gì rất thiết thực. Tôi có hân hạnh được trao đổi với những người như vậy trên blog, và cảm nhận được sức mạnh tư duy của họ cho dù họ không nói gì về điều đó”.
“Nếu ai muốn copy bài này để phổ biến thì cứ tự nhiên làm, đừng hỏi ý kiến tôi. ... Tôi sợ không vượt qua nổi sự hèn nhát mà sẽ xóa hẳn cái blog này. Đa số Đảng viên và quan chức hiện nay đều hèn nhát như tôi vậy, những người dũng cảm có tư cách thì rất ít. Những kẻ chức vụ càng cao thì không những hèn mà còn nhát. Bản chất bọn chúng là những kẻ sợ sệt đủ thứ, chúng chỉ hung hăng khi nắm quyền lực trong tay và đối xử thô bạo với kẻ dưới..... Tôi đảm bảo rằng, khi có một sự thay đổi thì bọn người này sẽ trốn chạy đầu tiên, hoặc quay ngoắc lại để theo lực lượng mới.... Sự sụp đổ và thay đổi là chắc chắn và không thể tránh khỏi, nhiều người bảo rằng sẽ rất nhanh, nhưng cũng có người bảo rằng sẽ chưa thể trong một hai năm nữa. Tôi thì nghĩ điều đó không tùy thuộc vào Đảng, vào Nhà Nước nữa, vì ngoài khả năng của họ rồi. Nó tùy thuộc vào lực lượng thay đổi có thể hành động lúc nào thì lúc đó sẽ có sự thay đổi... Tạm biệt mọi người, cũng có thể là vĩnh biệt…. Tôi đã thực sự ân hận vì đã vào Đảng”.

Kết luận.

Đến đây, tôi nghĩ là trong mức độ nào đó, Các Anh cũng nhận ra được “Chân Dung Xã Hội Việt Nam Ngày Nay” về “góc độ dối trá”, và ngược lại là “góc độ chân thành” của những người thoát ra khỏi xã hội dối trá, đã và đang đấu tranh bằng những phương thức thích hợp với hoàn cảnh xã hội trong mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, tự do, và quyền được mưu cầu hạnh phúc cho bản thân, cho xã hội.
Một lần nhắc lại đoạn kết trong Thư Số 7. Điều mà tôi muốn gởi đến Các Anh trong thư là bản chất của cộng sản mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện. Bản chất của đảng cộng sản là độc tài. Vì biết rằng không một dân tộc nào trên thế giới chấp nhận độc tài nói chung, và dân tộc Việt Nam nói riêng, nên phải che giấu bằng chính sách dối trá mà phương tiện là hệ thống giáo dục và hệ thống truyền thông trong tay đảng. Độc tài dẫn đến quyền lực, vì không có bất cứ cơ quan nào kiểm soát. Từ quyền lực dẫn đến độc đoán khi quyết định những chính sách ngang qua Quốc Hội dưới quyền lãnh đạo của đảng gọi là luật, tạo điều kiện cho một hệ thống tham nhũng bằng bất cứ hình thức nào mà mọi cấp mọi nơi cho là thích hợp khi áp dụng những văn bản đó. Cuối cùng của độc tài là đạt đến quyền lợi cá nhân cho các đảng viên trong hệ thống tổ chức đảng với nhà nước ngày nay, và tùy lúc tùy nơi tùy từng vụ mà cấp lãnh đạo Các Anh “sẽ nhân danh bảo vệ đảng” để che chắn cho nhau khi không còn che giấu được.
Tôi gởi sự suy nghĩ này đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định một chuỗi sự kiện mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa mà hãy hành động “như một đầu tàu”, kéo theo 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, và mạnh dạn đứng lên giành lại quyền làm người từ tay cộng sản độc tài tàn bạo, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình. Nếu Các Anh “không thể đứng dậy làm đầu tàu” thì khi người dân vùng lên, Các Anh hãy đứng về phía nhân dân mà hành động như đã xảy ra tại Tunisia, Ai Cập, và Lybia trong năm 2011, và nhân dân Syria vùng dậy từ tháng 3/2011 sắp đạt đến chiến thắng, vì được nhiều quốc gia Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ, chánh thức ủng hộ.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Texas, tháng 6 năm 2012.

tieuchuy
07-10-2012, 01:26 AM
Thư số 9 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có dân chủ, tự do, và quyền con người thật sự được tôn trọng.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Vẫn trong mục đích giúp Các Anh, từ góc nhìn khác để nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam Ngày Nay”, qua những chỉ thị của đảng và những bài viết nhận định về tình hình trong nước. Trong bài này, tôi xin thay chữ Trung Quốc bằng chữ Trung Hoa.

Thứ nhất về chính trị.

Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng cộng sản, tổ chức tại Hà Nội trong 9 ngày vào đầu tháng 5 vừa qua, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng có hai bài phát biểu lúc khai mạc, và lúc bế mạc. Trong bài phát biểu khai mạc, có đoạn: “... Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức nhà nước dưới sự lãnh đạo của đảng. ... Nhà nước ta không tam quyền phân lập ....”

Đây là tóm lược nhận định của:
(1) Blogger Trương Duy Nhất. “Vẫn giọng đều đều như ông giáo làng, không nhấn nhá, không gây chú ý (mà các anh gọi là “ấn tượng”. PB Hoa), vẫn những câu những chữ sáo rỗng, không thấy gì mới. trong bối cảnh hội nghị căng thẳng, ngột ngạt, bực bội, bế tắc, của “200 khuôn mặt lạnh lùng, phản cảm, thiếu niềm tin”.
(2) Blogger Dân Choa. “.....Thất vọng về tuyên bố của ông Tổng Bí Thư. Những tưởng cuộc sống thực tiễn sẽ thôi thúc nhà nước xúc tiến mạnh mẽ cải cách hành chính vốn là nhu cầu thiết yếu, mà đầu tiên là tu chính Hiến Pháp, rồi Nhà nước sẽ dẫn tới việc tam quyền phân lập. Nhưng không phải, ông Tổng Bí Thư đã đặt sẵn tiền đề cho việc sửa đổi, chỉ nhắm củng cố quyền lực cho đảng với nhà nước....”
(3) Tác giả Nguyễn Ngọc Già. “.... Qua hội nghị này, đảng CSVN tiếp tục tái khẳng định “đất đai là sở hữu của họ” cũng không dấu hiệu nào cho thấy đảng chia sẻ quyền lực. Đảng tiếp tục dắt tay nhau đi dưới tấm biển chỉ đường của… đồng tiền.... Họ đang mất đoàn kết nghiêm trọng, cũng bởi tiền... và tái khẳng định một cách dứt khoát vấn đề không có chuyện "tam quyền phân lập". Vậy là đảng CSVN vẫn lãnh đạo tuyệt đối đất nước... Họ rất yếu”.
Với tôi, góc nhìn mạnh mẽ hơn. Ông Nguyến Phú Trọng cũng là “một con Két như bất cứ con Két nào khác” trong Bộ Chính Trị đảng CSVN từ hơn nửa thế kỷ qua, hết nhóm lãnh đạo này đến nhóm lãnh đạo khác cứ nhai đi nhai lại cái “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân ...”, nhưng đoạn dưới thi ông Trọng lại khẳng định “không có chuyện tam quyền phân lập”.
Trong ngôn ngữ chính trị, một xã hội “pháp quyền” phải là một xã hội văn minh được quản trị (trong nước gọi là quản lý) bằng luật pháp, bất cứ lãnh vực sinh hoạt nào trong xã hội dù lớn hay nhỏ phải thông qua luật pháp, và tổ chức thực thi luật pháp là hệ thống tòa án. Vì vậy mà ngay cả Cảnh Sát chận những xe mà người lái xe vi phạm luật giao thông cũng chỉ là “nhân chứng” khi ra tòa, để thuật lại người lái xe vi phạm như thế nào để ông chánh án, và chỉ có chánh án mới đủ thầm quyền quyết định phạt người vi phạm . Việt Nam thì khác, vì cho đến nay vẫn là xã hội xã hội chủ nghĩa, chậm tiến, hỗn tạp, được cai trị bởi đảng cộng sản độc tài. Luật pháp, nhất là những luật quan trọng trong sinh hoạt xã hội thì trái với điều khoản căn bản qui định trong Hiến Pháp. Chưa hết, khi cá nhân hay cơ quan áp dụng luật pháp thì diễn giải theo mục đích phải đạt cho dù sai luật pháp, trái luật pháp, thậm chí là sai trái với đạo lý dân tộc nữa. Vậy là pháp quyền trong xã hội độc tài do đảng cộng sản đặt ra, chớ không phải xã hội văn minh.
Rồi ông ta lại nói “không tam quyền phân lập”. Tam quyền, tức Lập Pháp = Quốc Hội + Hành Pháp = Hệ thống hành chánh + Tư Pháp = Hệ thống tòa án. “Không phân lập”, nghĩa là 3 ngành này cũng chỉ là một, và dưới quyền lãnh đạo của đảng cộng sản. Trong xã hội văn minh, 3 ngành này riêng biệt. Mỗi ngành vừa kiểm soát 2 ngành kia, vừa bị 2 ngành kia kiểm soát, nhờ sự tác động qua lại giữa 3 ngành “vừa kiểm soát vừa bị kiểm soát” mà tạo được thế cân bằng quyền lực trong sinh hoạt xã hội. Với xã hội văn minh như vậy, không thể tạo điều kiện dẫn đến độc tài. Trong khi hệ thống tổ chức Việt Nam, dưới sự cai trị của chế độ của đảng duy nhất là đảng cộng sản, và độc quyền lãnh đạo, dẫn đến một xã hội độc tài là điều đương nhiên. Không tam quyền phân lập, Việt Nam là một xã hội độc tài không thể nào phủ nhận.
Viết đến đây tôi nhớ trên trang <NhanDan.online> có lời than phiền một nhân vật ngoại quốc đã dùng chữ Việt Cộng khi nói đến lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Tôi không hiểu tại sao lãnh đạo Các Anh không dám vỗ ngực xưng danh là Việt Cộng, vì người Việt Nam gia nhập đảng cộng sản thì gọi ngắn gọn là Việt Cộng chớ gọi là gì. Chắc Các Anh không thể nào không nhìn thấy những tấm bảng dọc theo đường phố viết rõ ràng “Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh. Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm”. Vinh quang và muôn năm như vậy mà sao không dám nhận mình là Việt Cộng? Phải chăng “cộng sản” là cái đảng xấu xa? Vì nếu không xấu xa, hà tất lãnh đạo Các Anh ghê sợ đến mức không dám nhận là Việt Cộng. Các Anh nghĩ sao về điều mà tôi vừa phân tách?

Thứ hai về tham nhũng:

Cũng trong bài phát biểu của ông Trọng, có đoạn: “.. Từ nhiều năm qua, đã sớm ban hành Nghị quyết của Trung ương, Pháp lệnh, và tiếp đó là Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Chiến lược Quốc gia phòng & chống tham nhũng và nhiều quyết sách khác; đã thành lập Ban Chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và các địa phương; đã tiến hành nhiều biện pháp liên tục.”
Rồi ông thừa nhận: “.... Nhưng đến nay công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn. Tại sao?” Ông đặt câu hỏi, nhưng ông không trả lời. Có lẽ ông cho đó là nhiệm vụ của cả Ban chấp hành Trung ương trong mấy ngày họp hành sau đó. Ông chỉ nêu lên một nguyên tắc chung như thế này: “Để trả lời cho câu hỏi đó, cần nhìn thẳng vào sự thật, phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc tình hình tham nhũng, lãng phí và kết quả của công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. .... Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị; lập lại Ban Nội chính Trung ương, vừa thực hiện chức năng một ban đảng, đồng thời là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng hãy là một chiến sĩ tiên phong, đi đầu trong cuộc đấu tranh này. Phải gương mẫu, giữ mình cho trong sạch, không vướng vào tham nhũng, lãng phí; đồng thời phải lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt trong đơn vị công tác của mình.”
Với đoạn trên đây, Các Anh có nhận ra điều gì không? Tôi thì có, vì trong xã hội dân chủ văn minh, mọi người có quyền nhìn từ các góc cạnh khác nhau đối với mỗi sự việc cũng như mỗi sự vật. Đầu tiên là tôi đành phải lặp lại rằng, ông Tổng Bí Thư đảng CSVN của Các Anh vẫn “phun ra cái ngôn ngữ chung chung” mà bất cứ vị nào trong bất cứ đại hội nào của Bộ Chính Trị, ít nhất là từ khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa tháng 4/1975 đến nay đều “nhai đi nhai lại rồi phun ra” được cả. Trong bài phát biểu lúc bế mạc, ông Trọng cho thấy Bộ Chính Trị đã mạnh tay khi tước quyền lãnh đạo phòng chống tham nhũng từ trong tay Nguyễn Tấn Dũng, đảng viên cộng sản giàu số 1 Việt Nam do “lãnh đạo chống tham nhũng” trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Bộ Chính Trị lại giao cho một cơ quan cũng trực thuộc Bộ Chính Trị”, tức là “tước quyền tham nhũng” từ nhân vật này sang nhân vật khác, vì Bộ Chính Trị là nguồn gốc của tham nhũng, nên không thể đưa “chức vụ nặng túi” đó cho cơ quan nào khác ngoài Bộ Chính Trị.
Phải chăng đây là cách tranh giành quyền lực trong hàng ngũ lãnh đạo, và Nguyễn Tấn Dũng không còn ở thế vững vàng nữa?” Rất có thể do vậy mà dư luận loan truyền rằng, gia đình Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách thoát khỏi “bức màn kềm tỏa” của một âm mưu mà lãnh đạo CSVN thường áp dụng với những kẻ thất sủng chăng?

Thứ ba về bang giao với Trung Cộng (trong nước gọi là quan hệ).

Ngày thứ ba 19/6/2012 vừa qua, báo Quân đội Nhân Dân Việt Nam ra mắt trang Web tiếng Trung Hoa (người dân gọi là tiếng Tàu), với sự tham dự của nhiều viên chức Quốc Phòng, Ngoại Giao, Tuyên Giáo, và Đại sứ Trung Cộng tại Việt Nam. Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng không có mặt, nhưng có gởi hoa chúc mừng. Báo Quân Đội Nhân Dân cho biết mục đích của trang Web tiếng Trung Hoa là “tăng cường mối quan hệ hữu nghị truyền thống”. Được giải thích rộng hơn: “Trang Web giúp bạn Trung quốc và những người biết tiếng Hoa trên thế giới có thêm nguồn thông tin chính xác, tin cậy, dấn dần hiều thêm về đất nước và con người Việt Nam, hiểu thêm quan điểm chính sách của đảng và nhà nước Việt Nam , hiểu rõ hơn về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đổi mới, năng động, dân chủ và phát triển”. Trong phần phát biểu của Tướng Mai Quang Phấn, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, có đoạn: ....“Trọng tâm trang web là khai thác những mặt tốt, những điểm đồng. Với những điểm còn khác biệt, cần có thông tin chính xác để bạn đọc hiểu đúng lập trường quan điểm của Việt Nam; giáo dục quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai nước"....

Trước khi tôi phân tách giúp Các Anh suy nghĩ tìm hiểu mục đích của nhóm lãnh đạo CSVN trong Bộ Chính Trị khi cho phép Quân Đội Nhân Dân mở trang Web này, mời Các Anh đọc lại đoạn tài liệu dưới đây:
Giữa năm 2011, tổ chức Wikileaks đã công bố hằng ngàn tài liệu loại tối mật của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ mà tổ chức Wikileaks có được, trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4 tháng 9 năm 1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng. Wikileaks khẳng định, tin tức này nằm trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Tài liệu có đoạn ghi rõ:

“.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc....”.

Với đoạn tài liệu trong Biên Bản thuộc loại tối mật trên đây, do lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam với đảng cộng sản Trung Cộng thảo luận, đồng ý, và ký tên cách đây 22 năm. “Liệu trang Web bằng tiếng Tàu do Quân Đội Nhân Dân Các Anh thực hiện, có phải là lãnh đạo CSVN thực hiện một bước nữa trong giai đoạn chuyển tiếp, để người Tàu quen dần với tiếng Tàu từ Việt Nam cùng với sinh hoạt trong xã hội Việt Nam, mà sẳn sàng tiếp nhận Việt Nam trở thành thành viên trong cái gọi là đại gia đình Trung Cộng vào năm 2020 không?”
Nếu không phải, thì tại sao lãnh đạo CSVN lại lo người Tàu tại Trung Hoa và trên khắp thế giới “hiểu không đúng” về Việt Nam, trong khi ngăn cấm các cơ quan truyền thông trong nước với 194 nhật báo in, hơn 590 tạp chí, 61 trang tin điện tử, 67 đài phát thanh truyền hình trên cả nước, và 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, tuyệt đối không viết, không đăng, không nói, không chiếu hình, về những tin tức mà lãnh đạo CSVN gọi là “nhạy cảm”, cho nên đại đa số người dân trên quê hương không hề biết gì về những sự kiện nhạy cảm đã xảy ra trên đất nước Việt Nam. Cũng may, còn có một số nhỏ đồng bào -nhất là tuổi trẻ- qua hệ thống internet mà nhận ra loại sự kiện nhạy cảm đó và phản ứng kịp thời, nhưng đã bị nhóm lãnh đạo sử dụng Quân Đội nhân dân, Công An nhân dân, với côn đồ nhân dân: (1) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng lấn chiếm đất, lấn chiếm biển, lấn chiếm đảo, thâm nhập tràn khắp nội địa thông qua lãnh thầu các dự án, thuê mướn hơn 300.000 mẫu đất rừng đầu nguồn và cấm người Việt Nam vào những khu đất đó. (2) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng tự do khai thác tài nguyên trong lãnh hải Việt Nam, trong khi tự ý ra lệnh cấm ngư dân Việt Nam hành nghề trên biển. Sự kiện này có vẻ như có thỏa hiệp ngầm giữa lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Trung Cộng, nên Hải Quân, Cảnh Sát Biển, và Dân Quân Biển Việt Nam, không một lực lượng nào cứu giúp ngư dân, thậm chí cũng không giúp tiền cho ngư dân đóng tiền chuộc cho Trung Cộng. (3) Đàn áp nhân dân phản đối Trung Cộng ào ạt vào Tây Nguyên khai thác Bauxite, một loại tài nguyên sẽ gây ô nhiểm môi trường trầm trọng và dài lâu trong một vùng rộng lớn từ Cao Nguyên xuống đến sông Đồng Nai.
Nếu phải, thì Các Anh nghĩ gì khi mà chính Các Anh cùng thân nhân thân quyến cũng phải chuẩn bị để trở thành người Tàu trên đất Việt, dãi đất có dạng hình cong chữ S mà ông cha chúng ta đã đổ ra biết bao xương máu gìn giữ từ 2000 năm trước? Nhất là trong cuộc chiến 1954-1975, lãnh đạo CSVN đã dùng sinh mạng của hơn 4.000.000 thanh niên nam nữ xã hội chủ nghĩa trên đất Bắc để thi hành lệnh của cộng sản quốc tế nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam?
Tôi dẫn chứng: (1) Trong đại hội 4 của đảng CSVN năm 1976, lúc ấy tôi bị giam trong trại tập trung vùng rừng già xã Việt Cường, huyện Trấn Yên, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Cán bộ “quản giáo” là Trung Úy Khảm đã nói với chúng tôi trong giờ học chính trị, rằng: “Đại Hội 4 đã sơ kết tôn thất nhân mạng trong cuộc chiến vừa qua là hơn 4 triệu thanh niên chết, với con số nhiều hơn về thương tích. (2) Trong đại hội cộng sản quốc tế tháng 11/1960, ông Khroutchev (Nga) tuyên bố: “Khi một đảng cộng sản tham gia vào cộng sản quốc tế (tức Liên Sô) phải chấp nhận Liên Sô là quốc gia số một (tức lãnh đạo). Người cộng sản và giai cấp công nhân, sẽ đấu tranh để đạt tới mục tiêu vĩ đại là chủ nghĩa cộng sản thống trị thế giới”. Tháng 1/1961, khi đến thăm thủ đô Austria (Áo quốc), ông Khroutchev trả lời báo chí, có câu: “Đời vắn quá, không biết tôi còn sống để vui mừng khi cộng sản quốc tế thống trị thế giới hay không?” Hơn 10 năm sau đó, khi ông Lê Duẫn giữ chức Tổng Bí Thư, cũng tuyên bố: “Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, và cho cộng sản toàn thế giới”.
Điều trên đây chứng minh thêm nữa về mục tiêu của nước cộng sản Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong chiến tranh 1954-1975 là xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa, vì CSVN là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế tại bán đảo Đông Dương (tức 3 nước: Việt Nam - Cam Bốt - Lào).
Thứ tư về người Tàu trên đất Việt.
Theo phóng viên Thanh Quang đài Á Châu Tự Do ngày 18/6/2012, thì tâm trạng người dân Việt Nam trong nước có tinh thần dân chủ tự do luôn khắc khoải và bất an cho vận nước, do rừng đầu nguồn trọng yếu của tổ quốc bị Trung Cộng đưa dân (hay quân) thuê mướn hàng loạt và dài hạn. Vùng đất đầu nguồn là “xương sống của quê hương” bị họ án ngữ theo sự mời gọi của “chính sách lớn của đảng và nhà nước”, cho khai thác bô xít Tây Nguyên, nhiều công trình trọng yếu bị người Trung Hoa trúng thầu, nền kinh tế nước nhà bị họ lũng đoạn, biển cả của tổ tiên bị Trung Quốc lấn chiếm…, và mới đây, người dân lại càng bất an trước tình trạng người phương Bắc dưới dạng “doanh nhân” tới “an nhiên nuôi cá” ở Vũng Rô, thậm chí ngay tại cảng chiến lược trọng yếu Cam Ranh. Chưa hết, gần đây nhất, có tin “Hải Phòng tràn ngập lao động Trung Hoa”!
Bài viết “Gian nan với chú Ba Tàu”, nhà văn Trần Khải (trong nước) cảnh báo: “Trong khi Việt Nam lăng ba chi bộ, đánh võng giữa Biển Đông, thì lặng lẽ anh Tàu đưa dân tràn ngập, mở mặt trận biển người ở Hải Phòng, cấy du kích biển ở ven cảng Cam Ranh, cửa biển Vũng Rô, Côn Đảo.... Anh Tàu muốn gì? Có phải muốn Việt Nam tung hô vạn tuế Bắc Vương? Thì đã tung hô rồi”.
“Tình trạng “anh Tàu đưa dân tràn ngập” quê hương Việt Nam, ắt hẳn không tránh khỏi phản ứng mạnh mẽ của người dân Việt biết nghĩ tới quê hương. Có lẽ đây là lý do khiến độc giả Nguyễn An Liên của báo Đất Việt, báo động rằng: “Chẳng bao lâu nữa, toàn bộ 63 tỉnh, thành trên cả nước đều có bóng dáng của bọn giặc Tàu.
Một độc giả khác tên Minh Hối Hạn (trong nước), bày tỏ nỗi bất bình: “Từ Hải Phòng, Quảng Ninh, Bình Dương, Đắk Nông, Vũng Tàu…cho đến Khánh Hòa, Cam Ranh, chính quyền ở đâu cũng nói không quản lý được” người Tàu trong phạm vi của mình”. Tác giả nhấn mạnh: “Bây giờ lãnh đạo Việt Nam mới sáng mắt ra trước tình hữu nghị 2 nước gọi là đời đời bền vững”. Rồi tác giả tự hỏi: “Ai bảo anh Tàu có văn hóa? May ra chỉ với Đài Loan là Bắc Kinh nhân nhượng, còn thì anh Tàu luôn luôn giở trò kích động cái gọi là 3 dòng thác cách mạng để xúi Hà Nội đánh phá, triệt hạ Sài Gòn, trong khi Bắc Kinh luôn luôn nhìn Đài Bắc như tình anh em cốt nhục, không chơi trò tự đẩy dân mình “Sinh Bắc Tử Nam” như Hà Nội đã làm”.
Còn tác giả Chiều Thu (trong nước) như một lời than: “Bây giờ chính phủ thả lỏng cho các quan địa phương: địa phương nào thì chính quyền nơi ấy quản lý. Cứ tiền vào là OK. Bọn Trung Hoa nó nằm thóp các quan Việt Nam từ trên xuống dưới chỉ hám tiền nên…người Trung Hoa tràn ngập Việt Nam… Đồng tiền lên ngôi, đạo đức xuống vực, con người vô cảm với đồng loại, với đất nước …!”
Một cựu đảng viên cộng sản tự hỏi: “Có bao nhiêu sư đoàn quân Tàu núp bóng công nhân hiện đang có mặt trên khắp đất nước ta?”. Vẫn theo độc giả này thì “bọn quan tham từ chóp bu cho đến tép riu chỉ mãi mê tập trung theo dõi, đàn áp những người yêu nước và cưỡng chế cướp đất của dân, tranh nhau vơ vét cho đầy túi tham, nên đã mặc sức cho bọn Tàu hoành hành như Việt Nam không có chủ”.
Hãy nghe ông Nguyễn Đại Nghĩa, Phó chánh văn phòng Sở Lao Động thành phố Hải Phòng bị đại diện công nhân nêu câu hỏi: “Vì sao thành phố cho phép hằng ngàn lao động người Tàu vào Việt Nam là công nhân như đào đất, phụ hồ, quét dọn, ... nói chung là những công việc này lao động Việt Nam không được thuê mướn trong khi công nhân thất nghiệp lang thang đầy đường?” Ông Nghĩa trả lời như không có gì phải quan tâm: “Ta phải đáp ứng nhu cầu nhà thầu, vì chủ trương của thành phố là luôn luôn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, nên phải tạo điều kiện dễ dàng cho người ta”. "Trong lúc các nhà thầu CHỆT CỘNG nêu lý do không sử dụng lao động Việt Nam là vì "Tình trạng mất cắp thường xảy ra." ....
Theo nhà báo Tống Văn Công, “hầu hết 90% dự án EPC trên cả nước là nhà thầu Trung Hoa thực hiện”..... Như vậy, lãnh đạo CSVN rất có thể đã thỏa thuận trước với lãnh đạo Trung Cộng, nên đã tạo mọi điều kiện cho nhà thầu Tàu thắng tất cả các gói thầu EPC, trong đó có một số chỉ định thầu mà không qua đấu thầu. Các nhà thầu Tàu mang theo bao nhiêu quân lính trá hình, có lãnh đạo nào biết không? Nhà báo viết tiềp: “Từ Nam chí Bắc không một địa phương nào là không có các gói thầu của Trung Hoa”..... Vậy là công nhân hay quân lính Trung Cộng, chừng như đã ngập đồng bằng, rừng núi, và các thành phố Việt Nam rồi.
Nhưng blogger Hà Sĩ Phu (trong nước) thì “Ước làm người Tàu trên đất Việt”. Ông chua chát nhưng rất chí lý trước cảnh nhiễu nhương “một tư nhân Trung Quốc đã chiếm lĩnh truyền hình cáp Quy Nhơn”. Đó là sự nhạy cảm chính trị bậc thầy của một đảng cộng sản biến đâu mất, hay (CSVN. PB Hoa) đã dùng để ứng phó với dân chúng hết rồi? “Giặc ngoài” chẳng thấy, chỉ thấy “thù trong nơi nhân dân ư?” ....
“Ông nêu câu hỏi: “Mà Trung Hoa là ai?” Rồi ông tự trả lời: “Chính đảng CSVN đã xác định, đây là kẻ thù truyền kiếp, chưa bao giờ họ từ bỏ âm mưu thôn tính nước ta ! Điều này cả thế giới đều biết, người Việt Nam nào cũng biết, chẳng lẽ chỉ những người lãnh đạo Việt Nam hôm nay lại bỗng dưng không biết?” Tác giả nhấn mạnh: “Nhưng nếu biết, sao không phổ biến tinh thần cảnh giác ấy đến toàn quân, toàn dân, mà lại chủ trương thủ tiêu tinh thần cảnh giác ái quốc bằng 16 chữ “vàng dởm”, sao cứ để những hiện tượng nguy hiểm đến an ninh quốc gia, cứ như giặc nội xâm với giặc ngoại xâm đã thống nhất một phương án “diễn biến hòa bình, gậm nhấm hòa bình, thôn tính hòa bình, tự diễn biến, tự dâng hiến” trên hình hài đau thương của Tổ quốc vậy?” Ông thách thức: Thương binh nặng đâu, nhân dân tự phát đâu, phải tiến vào những nơi đã để cho người Tàu được trá hình “rải quân” trên những nơi trọng yếu, chứ sao lại ngoặc sang tấn công một ông Tiến sĩ Hán Nôm (chắc là ông nói đến tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện. PB Hoa) biết bênh dân nghèo, tấn công một đảng viên 82 tuổi quyết dành quãng đời còn lại cho sự minh bạch của đất nước? Đây chính là mối lo “chệch hướng” chứ không gì khác. Chuyện chệch hướng này là vô tình hay chủ tâm?” Tác giả cựu đảng viên lão thành cảnh báo: “Người Tàu tự do quá, ngang nhiên quá, khi họ tới Việt Nam lúc nào rồi trốn biệt tăm lúc nào, giới hữu trách hói là không hay không biết. Như vậy, người Tàu quả là “công dân loại 1” ngay trên quê hương Việt Nam, trong khi người Việt bản xứ chỉ là “công dân loại 2”. Như vậy “ai là chủ nhân đất nước này?”
“Đáng nói hơn nữa là những người Trung Hoa này làm gì ở Việt Nam? Nếu họ chỉ làm lậu, thì về phương diện kinh tế và xã hội, hậu quả đã rất đáng lo ngại. Còn nếu họ làm thêm việc gì khác nữa thì hậu quả thật không thể lường hết được. Nhất là khi tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn kìm giữ được nữa. Trong trường hợp ấy, rõ ràng là Trung Hoa đã có sẵn một lực lượng nằm vùng khổng lồ. Có khi không cần đánh, họ cũng thắng. Bất cứ người nào có chút lương tri cũng đều biết điều đó. Nhưng tại sao chính quyền Việt Nam có vẻ như không biết? Tại sao họ vẫn dửng dưng? Nó vượt ra ngoài khả năng quản lý của họ ư? Họ thiếu nhân sự ư? Nhất định là không phải, vì tất cả những người có chút tên tuổi từng tham gia biểu tình đều được ba bốn công an cặp kè. ..... Người ta gọi đó là hiện tượng “người mọc đuôi”. Tại sao với các trí thức được họ đào tạo, có người là đảng viên của họ, mà họ lại sợ đến như vậy? Còn với người Trung Hoa thì không? Tại sao? Thực tình, tôi không hiểu, không thể hiểu!”
Với bài “Người Trung Hoa không mong gì hơn thế”, tác giả Ngô Văn Lang lưu ý rằng: “Trung Hoa quyết định đây là thời cơ ngàn vàng của họ, và họ đã chuẩn bị “rất bài bản, rất cẩn thận cho quá trình thôn tính Việt Nam”, mà mở đầu là thôn tính từng phần qua những hành động như thuê rừng đầu nguồn, khai thác bô-xít Tây Nguyên, đầu tư nhiều công trình trọng yếu, lo lót để được nuôi cá ngay tại nơi trọng yếu chiến lược”. Rồi tác giả báo động: “Đây là âm mưu vô cùng thâm độc trên con đường thôn tính Việt Nam, thế mà Trung ương và địa phương làm ngơ, không có động thái gì để đuổi họ ra khỏi vịnh biển chiến lược quốc gia này. Thôn tính thị trường Việt Nam bằng hàng hóa Trung Hoa, và chủ yếu là hàng hóa phẩm chất (xin thay chữ chất lượng) kém để đầu độc người Việt Nam, với mục đích vô hiệu hóa nền sản xuất kinh doanh của Việt Nam. Trung Hoa hiểu rằng hàng hóa không chỉ là hàng hóa, mà hàng hóa còn là văn hóa. Người Việt Nam hàng ngày dùng đồ Trung Hoa sẽ bị ảnh hưởng một cách từ từ nhưng sâu đậm bởi văn hóa Trung Hoa. Trung Hoa thôn tính truyền hình Việt Nam bằng vô số phim Trung Hoa, và đã thành công kinh khủng khi khiến cho thanh niên Việt Nam thuộc sử Trung Hoa hơn là sử Việt Nam…Câu hỏi mà người Việt Nam phải đặt ra là: “Tại sao Trung Hoa lại thành công được như vậy?.Và nếu mỗi người Việt Nam đều đặt câu hỏi đó thì Trung Hoa có tài giỏi đến mấy cũng không thành công được”.
Kết luận.
Với phát biểu của ông Nguyễn Phú Trọng “không có chuyện tam quyền phân lập”, và ông cũng cho biết là Bộ Chính Trị đã “tước quyền lãnh đạo phòng chống tham nhũng từ tay Nguyễn Tấn Dũng”, đến vấn đề “bang giao với Trung Cộng”, và sau cùng là “người Tàu trên đất Việt”, mà tôi trích dẫn hoặc tóm lược cùng với nét nhìn của tôi, hy vọng là vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh khác với nét nhìn của công dân nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh như thế nào.
Tôi gởi sự suy nghĩ về những vấn đề trên đến Các Anh, hãy bình tâm nhận định những sự kiện, những phân tách cùng với những nhận định mà Các Anh vừa đọc qua, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía 89 triệu bà con trên quê hương Việt Nam thân yêu, cùng với hằng triệu triệu cánh tay đứng lên giành lại quyền được làm người từ tay cộng sản độc tài, một chế độ đã tạo nên một xã hội băng hoại bắt nguồn từ chính sách dối trá, ngu dân, để cùng nhau xây dựng một nền văn hoá khai phóng, nhân bản, khoa học, và phát triển một xã hội dân chủ pháp trị mà mọi người được hưởng một cách tự nhiên những quyền căn bản của mình như những công dân của các quốc gia văn minh trên thế giới.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.

Texas, tháng 7 năm 2012.

*********


Một tin ngắn mới nhất, chuyển đến Các Anh.

Biểu tình ngày chủ nhật 1/7/2012, với sự tham dự của đông đảo đồng bào, nhất là tuổi trẻ, để ủng hộ Luật Biển của Việt Nam vừa được Quốc Hội Việt Nam thông qua, và phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam. Nhiều biểu ngữ viết bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Tàu: (1) “Khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử”. “Tổ Quốc gọi, chúng con có mặt, vì bình yên xã tắc sơn hà”. “Hãy hành động xứng đáng với tiền thuế của dân”. (2) Khẩu hiệu được hô to: “Viêt Nam. Hoàng Sa. Trường Sa”. “Việt Nam. Hoàng Sa. Trường Sa”.
Tại Sài Gòn: Theo Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, khoảng 500 người tập trung tại Công Viên 30/4. Các ông Lê Hiếu Đằng, Giáo sư Tương Lai, nhà thơ Đỗ Trung Quân, nhà bào Huỳnh Ngọc Chiêm, ông Hồ Cương Quyết, ..v..v.. trong đoàn biểu tình từ nhà thờ Đức Bà hướng đến tòa lãnh sự mới của Trung Cộng ở số 175 đường Hai Bà Trưng, nhưng bị hàng rào Công An dày đặc ngăn chận, đoàn biều tình phải quay lại Công Viên 30/4. Sau đó tự giải tán.
(1) Những người bị bắt bằng nhiều cách khác nhau: Blogger Huỳnh Thục Vy và chồng sắp cưới. Huỳnh Trọng Hiếu. Huỳnh Khánh Vy. Huỳnh Công Thuận. Lê Khánh Duy. Facebooker Quốc Anh. Blogger Vi. Đỗ Minh Đức và Hương (bạ gái của Hiếu). Chị Bùi Thị Minh Hằng. Facebook Châu Văn Thi. Anh Nguyễn Chí Đức. Và khoảng 10 thanh niên nữa. (2) Những người bị Công An bao vây không cho ra khỏi nhà, là: Blogger Uyên Vũ và vợ là Blogger Hồ Điệp. Facebook Trần Hoài Bão. Cô Trịnh Kim Tiến. (3) Những người bị Công An vận động không đi biểu tình: Blogger Nguyễn Tường Thụy. Blogger Bích Phương.
Tại Hà Nội. Theo phóng viên hãng tin AP, đoàn biểu tình khoảng 200 người từ Hồ Gươm hướng đến tòa đại sứ Trung Cộng, tuy không bị ngăn chận dọc đường nhưng bị Công An vây chặt chung quanh bảo vệ tòa đại sứ. Trong đoàn biểu tình có Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, ..v..v.. Theo Blogger Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện, đoàn biểu tình bắt đầu lúc 9 giờ sáng, và tự giải tán lúc 10 giờ 36 phút.
Trong một tuyên bố phổ biến cho báo chí, ông Phil Robertson Phó Giám Đốc khu vực Châu Á của Tổ Chức Nhân Quyền Quốc Tế (Human Rights Watch) nhận định rằng: “Hành động của Công An tại các cuộc biểu tình diễn ra ngày hôm nay ở Hà Nội và Sài Gòn, một lần nữa chứng tỏ phản ứng quen thuộc của chính quyền nhằm quấy rối và ngăn chặn mọi hình thức phản đối ôn hòa của công chúng, bất kể vì lý do gì. Thật là mỉa mai khi những hành động ủng hộ chính sách của Chính phủ đối với Trung Quốc lại chịu sức ép thô bạo của Công An, kể cả sự hăm dọa quấy nhiễu và hạn chế đi lại đối với các nhà hoạt động và gia đình họ. Thậm chí một số bloggers và nhà họat động nổi tiếng như Bùi Thị Minh Hằng và Huỳnh Thục Vy đã bị tạm giữ một cách tùy tiện để họ không thể tham gia biểu tình”. Ông Phil Robertson nhấn mạnh: “Việt Nam có kế hoạch tìm kiếm một vị trí tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong tương lai gần, nhưng việc này sẽ rất khó đạt được, khi mà những hành động như vừa nêu, đã thể hiện việc Hà Nội tiếp tục coi thường những quyền cơ bản của con người”.

Các Anh hiểu biết gì về cuộc biểu tình này từ đảng với nhà nước phổ biến ngang qua hệ thống truyền thông quốc doanh? Tôi tóm tắt dưới dạng một câu hỏi: “Tại sao nhân dân biểu tình ủng hộ Luật Biển mà Quốc Hội vừa thông qua, đồng thời phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển và đảo của Việt Nam, mà đảng với nhà nước Các Anh lại sử dụng đông đảo Công An ngăn chận, và bắt gần 20 người yêu nước?”

*********

tieuchuy
08-16-2012, 12:01 AM
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra “Chân Dung Xã Hội Chủ Nghĩa” về dối trá, hèn hạ, đồng thời giúp Các Anh có nét nhìn từ góc cạnh xã hội dân chủ văn minh, để hiểu “tại sao xã hội Việt Nam dưới quyền lãnh đạo của CSVN lại hèn hạ với Trung Cộng như vậy”.

Thứ nhất, vẫn là dối trá trong giáo dục.

Với bài “Giả dối lên ngôi, đạo đức suy đồi”, phóng viên Thanh Quang, đài phát thanh Á Châu Tự Do ngày 24/6/2012, nhận xét rằng: “Tình trạng đạo đức suy đồi dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội trong nước, vẫn làm trĩu nặng nỗi trăn trở của những người có tâm huyết với quê hương, dân tộc”.
Một trong những nhà giáo dục luôn quan tâm cho đất nước dân tộc là Giáo sư Hà Văn Thịnh từ Huế, cảnh báo rằng: “Trong bản chất xã hội Việt Nam có sự giả dối, vô cảm, ích kỷ, và tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hoá Việt Nam hiện nay. Nói ra chẳng ai thích đâu, nhưng đó là sự thật. Vì sao? Vì bây giờ người ta giả dối từ A tới Z, giả dối từ trên xuống dưới. Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa, muốn tự tung tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được.”
Với bài “Lạm bàn về căn bệnh dối trá tại Việt Nam”, Giáo sư Trần Kinh Nghị từ Hà Nội, đề cập tới điều có thể nói là hài hước, nhưng rất chua chát: “Ở Việt Nam, mọi thứ đều giả, chỉ có dối trá là thật! Dối trá, thoạt nghe qua cũng chỉ là một thói đời không mấy tốt đẹp, vốn nhan nhản trong xã hội loài người, nên người ta dễ tưởng rằng “không có gì nguy hại lắm”...... Vẫn theo Giáo Sư Nghị: “Thói làm thì láo, báo cáo thì hay” cùng thói “chạy theo thành tích” vốn phát xuất từ thời xã hội chủ nghĩa Miền Bắc, đã góp phần làm trầm trọng thêm căn bệnh dối trá ở Việt Nam hiện nay, và đã trở thành “căn bệnh trầm kha” bám sâu rễ trong toàn xã hội đến mức ai không biết nói dối, không biết làm dối, và không biết “ăn theo nói leo” thì không thể tồn tại. Tệ nạn bè phái và tham nhũng nghiêm trọng đến mức tràn lan trên khắp miền đất nước hiện nay, cũng có nguyên nhân sâu xa từ căn bệnh dối trá ấy, để từ đó, sinh sôi và dung dưỡng cho những kẻ bất tài, những kẻ vô đạo đức, nhưng thích làm quan”.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo, cũng không tránh khỏi âu lo khi căn bệnh giả dối ấy “đang thống trị xã hội” Việt Nam, mà chủ yếu bắt nguồn từ tình trạng thiếu trung thực của nền giáo dục nước nhà, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Ông nhấn mạnh: “Sự giả dối tồn tại ở xã hội Việt Nam lâu rồi.
Theo Giáo Sư Hoàng Tụy. Không thể nào tái cấu trúc xã hội được, bởi vì tái cấu trúc là những bộ phận rời, nhưng toàn bộ hệ thống đã hư, đã sai rồi, thì phải thay đổi cả hệ thống mới cải tạo được xã hội hiện nay. Hiện sự giả dối đang thống trị xã hội chúng ta.”
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện với bài viết “Chiều Cuối Năm Nhìn Lại” (2011), cho thấy ông không quan tâm đến những vụ giết người cướp của ngày càng táo bạo mà tuổi đời càng trẻ thì cách giết người càng dã man độc ác hơn, vì điều đó đã có nhiều người khẳng định rồi. Ngay cả Nghị viên Quốc Hội Việt Nam Dương Trung Quốc cũng nói rằng: “Thế hệ chúng ta là thế hệ mất gốc, mà mất gốc là mất những giá trị tốt đẹp của Việt Nam. Còn xã hội Việt Nam hiện nay, về mặt đạo đức, xuống cấp chưa từng thấy. Tình trạng này đầy tràn những mặt báo “lề phải” (báo quốc doanh. PB Hoa). Ngày nào cũng cướp, cũng giết, cũng có những tội phạm xã hội khủng khiếp. Nó tràn lan, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà cả hệ thống như khiến cho những người có tâm huyết với quê hương vừa trăn trở vừa cảm thấy bất an”.
Nhận thức của Các Anh như thế nào về “chính sách giáo dục của xã hội chủ nghĩa” thì tôi không biết, nhưng nhận thức của tôi như thế này:
“Giáo dục là nền tảng trang bị con người về nhân cách và kiến thức”. Nhân cách, cần kiến thức hậu thuẫn những lý lẽ để tránh bị lợi dụng vào mục đích không tử tế. Kiến thức, cần nhân cách trợ giúp biến kiến thức trở thành những dự án những công trình hữu ích trong cuộc sống, đồng thời tạo môi trường cho con người gần gủi nhau hơn, bởi ngày nay mọi sinh hoạt trong xã hội đều có mối tương quan tác động lẫn nhau, ngay cả sinh hoạt từ thiện cũng vậy.
Giáo dục bao gồm: “Giáo dục gia đình , giáo dục học đường, và giáo dục xã hội”.
- Giáo dục gia đình, do bẩm sinh, huyết thống, và cung cách sống của các thành viên trong gia đình, nhất là ông bà cha mẹ.
- Giáo dục học đường, do chính sách của chánh phủ, hệ thống tổ chức, biên soạn sách giáo khoa, chính sách hỗ trợ nhà giáo, hỗ trợ học sinh sinh viên, phương pháp giảng dạy, cung cách của thầy dạy.
- Giáo dục xã hội, do những chính sách cùng hệ thống điều hành của chánh phủ, những sự kiện phát sinh và những phương cách giải quyết trong các lãnh vực sinh hoạt xã hội.
Giáo dục thể hiện đường lối của lãnh đạo thực hiện mục tiêu quốc gia. Muốn đất nước phát triển như thế nào, chánh phủ phải hoạch định chính sách chiến lược như thế ấy:
- Các ngành, căn cứ vào đó soạn thảo những chính sách dài hạn và những kế hoạch ngắn hạn để thực hiện, và cung cấp nhu cầu chuyên viên chuyên gia theo từng giai đoạn cho ngành giáo dục.
- Ngành giáo dục, đào tạo chuyên viên chuyên gia thích ứng cho nhu cầu đó. Đồng thời liên tục đào tạo và phát triển đội ngũ sư phạm về đạo đức lẫn kiến thức, cải tiến và phát triển sách giáo khoa phục vụ cho nhu cầu chiến lược, cải tiến dụng cụ trợ giáo, phương thức giảng dạy, cơ sở và trang bị, ..v..v...
Với nhận thức đó, tôi khẳng định là từ khi cộng sản cai trị toàn cõi Việt Nam đến nay, là một xã hội toàn dối trá, dối trá đến mức mà những nhà văn nhà báo nhà chính trị trên đây, phải thốt lên lời than nghe như đau đớn từ trong đáy tâm hồn của những vị ấy, rằng: “Xã hội Việt Nam ngày nay bị thống trị bởi giả dối. Xã hội Việt Nam, nếu ai không biết dối trá thì không thể tồn tại, đến mức mà ngày nay tất cả đều giả, chỉ có dối trá là thật. Với một xã hội như vậy đã dẫn đến tình trạng mà mọi người không còn tin vào bất cứ điều gì chung quanh họ, thậm chì là cũng không tin ngay bản thân của họ nữa, chỉ vì nếu họ thành thật với chính mình thì họ không thể tồn tại trong cuộc sống! Xin Các Anh hãy nhớ, đó không phải là ngẫu nhiên, mà là bắt nguồn từ chính sách giáo dục của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, vì sau khi Liên Sô mà lãnh đạo Các Anh tôn vinh là “thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ hoàn toàn” từ đầu những năm 1990, kéo theo các quốc gia cộng sản vùng Đông Âu Châu sụp đổ, để từ đó chế độ dân chủ tự do tái sinh, thì CSVN chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dối trá hiện nay mà thôi.
Tôi tóm tắt để Các Anh có nét nhìn trung thực vào một góc của Chân Dung Xã Hội Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ngày nay. Với dân số 89 triệu người trong một khoảng không gian 331.000 cây số vuông, đã và đang sống với nhau dưới chế độ cộng sản độc tài, dối trá, và tham nhũng, dẫn đến một xã hội băng hoại đạo đức, đến mức mà ngày nay Hồ Chí Minh lưu manh đĩ điếm, Hồ Chí Minh trộm cắp cướp giật, Hồ Chí Minh lừa đảo dối trá, trở thành chuyện thường ngày trên đường phố thủ đô kinh tế Việt Nam. Viết đến đây tôi chợt có ý nghĩ: “Biết đâu là vào thời gian nào đó, lãnh đạo đảng với nhà nước CSVN sẽ phá bỏ hệ thống nhà tù vì số người không lương thiện chiếm đa số trong xã hội, và xây dựng Những Trung Tâm Bảo Vệ Người Lương Thiện để nhận những người lương thiện trở thành thiểu số vào sống ở đó, trong khi người không lương thiện sống trong xã hội phải đi hành nghề của họ và đóng thuế đầy đủ, để chánh phủ có tiền nuôi người lương thiện trong các Trung Tâm. Điều kiện để được nhận vào các Trung Tâm Bảo Vệ là phải làm đơn kèm theo giấy tờ chứng minh là người lương thiện, và mang tay đến nộp cho Hội Đồng Cứu Xét theo tiêu chuẩn gắt gao để ngăn chận đám người không lương thiện trà trộn vào sống trong các Trung Tâm. Sở dĩ phải mang tay, vì các cấp địa phương lúc ấy thuộc thành phần đa số, tức thành phần không lương thiện, nên lời phê của họ không có giá trị đối với Hội Đồng Cứu Xét”.
Các Anh hiểu theo nghĩa ĐEN hay nghĩa BÓNG đều đúng cả, và từ đó Các Anh suy nghĩ .......

Thứ hai, cái hèn của giới cầm bút Việt Nam.

Với bài viết “Nó Tự Cắt Nó” hay “Sự Hèn Mạt Của Báo Chí” của Trương Duy Nhất. Chỉ riêng cái tựa bài thôi, cũng đủ cho người đọc cảm nhận được nỗi đắng cay của tác giả nói riêng, và của những người “được” nhà nước cộng sản cấp cho cái “thẻ nhà báo” nói chung.
Tác giả Trương Duy Nhất kể lại: “Vài năm trước, trong một bữa nhậu nhân “hội nghị tuyên giáo toàn quốc” tại Đà Nẳng, một lão bá vai tôi nói một câu rất hách, báo chí các cậu hèn bỏ mẹ. Rồi tác giả giải thích: “Một tay nó bóp “chỗ nhược” bên dưới (mạn phép thay một chữ trong nguyên bản. PB Hoa), còn tay kia nó dán băng keo bịt miệng mình, thế mà nó lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho nó một đấm, nhưng nghĩ lại hắn nói không sai. Báo chí kiểu gì mà trong vụ cưỡng chế đất đai ở Văn Giang (Hưng Yên), chỉ một cú điện thoại, một lệnh miệng đã khiến cho 700 tờ báo câm nín, không dám cử phóng viên đến nơi đưa tin. Thậm chí khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) đến đó đã bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… mà không một tờ báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh, cũng không dám công khai nói lên sự thật.
Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến như vậy. Chưa bao giờ báo chí kỳ lạ như giai đoạn này, xa lánh, tránh né hầu hết các vấn đề nhạy cảm mà lẽ ra nhà báo phải có mặt tại chỗ. Vì sao tránh, vì sao không đăng, vì sao không can dự? Vì đó là vấn đề “nhạy cảm”..... Nhưng vấn đề nhạy cảm mới cần báo chí can dự, nếu không nhạy cảm thì viết để làm gì, tuyên truyền làm gì, can dự làm gì?
Với blogger Mười Sáu:
(1) Một độc giả. “Là người dân đang sống tại Việt Nam, tôi thấy cần phải nói sự thật một điều. Đó là từ nhiều năm nay tôi chẳng đọc một bài báo nào do báo chính thống (tức báo của nhà nước. PB Hoa) đăng tải, gần đây cứ bật truyền hình từ địa phương đến truyền hình trung ương là tôi “dựng cả da gà”. Vì sao thế? Vì tôi không thấy ở những phương tiện ấy phát ra những câu nói của “những người yêu nước thực sự”. Chỉ thấy những tiếng nói mang tính bênh vực, chụp mũ, phản cách mạng, toàn thấy những bài viết cũng như những lời nói sáo rỗng, những lời nói tự khen ...Thử nghĩ xem có thời đại nào như thời buổi này, có dạng truyền thông nào như ở Việt Nam, ... đến cả việc dân chúng xuống đường biểu tình chống Trung Cộng (xin phép thay chữ Trung Quốc của tác giả bằng chữ Trung Cộng. PB Hoa), một hành động thật đậm đà truyền thống dân tộc, noi gương các anh hùng, những cha ông, một hành động thể hiện lòng yêu nước, thì báo chí làm ngơ!”
(2) Blogger Trường Sa. Nếu chúng ta (ở hải ngoại) có phương tiện và thì giờ, nên tìm đọc cho biết, đồng thời giúp đồng bào mình một tay trong việc phổ biến rộng rãi tin tức báo chí ngược về Việt Nam (qua email), bởi đây cũng là một phương cách hữu hiệu ngăn chặn, giảm thiểu những tội ác, những bất công, đầy dẫy trong xã hội vô thần cộng sản mà người dân Việt Nam là những nạn nhân đang phải gánh chịu thảm họa”.
(3) Nguyễn Chính, cựu phóng viến báo Đại Đoàn Kết nhận định: “Cái sợ cái hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ cái hèn nhát cho đồng bào mình”.
(4) Blogger Phan Văn Tú. Với câu nói rất đau: “Trong đầu thằng nhà báo Việt Nam nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt (bài) nó trước khi bị người khác cắt. Cái thói tự biên tập, tự ra lệnh, tự cột nhốt đã hình thành như một thói nết tệ hại trong làng báo..
(5) Nhà báo Đào Tuấn, được giới thiệu là một “cây bút kỳ cựu của báo Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt”: “Nhiều người cầm bút giờ đây còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không đúng với sự thật… Những chuyện hằng ngày, cho dù tin hay không tin cũng phải viết ra một điều không thật -một cách khéo léo gọi là dối trá- để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật.” Cuối cùng, Trương Duy Nhất kết luận, đay đi nghiến lại nhiều lần, trong nhiều câu khác nhau, trong suốt nửa sau của bài viết: “Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. Run sợ đến dối trá. Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến như vậy. Ở Việt Nam, nếu không mù chữ, ai cũng có thể làm báo được cả” (vì chỉ làm theo lệnh của đảng với nhà nước, nên dễ ợt. PB Hoa).
(6) Nói đến cái hèn của người cầm bút Việt Nam, không thể không nhớ đến bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu. Ông là cây viết có tâm huyết, tiêu biểu cho phong trào đổi mới văn học Việt Nam. Bài viết của ông để lại nhiều suy nghĩ cho người đọc, chính là vấn đề cái hèn. Có lúc ngỡ như ông vừa viết vừa nghẹn ngào với giọng văn đầy cảm xúc: “Văn chương gì mà muốn viết một câu trung thì phải viết một câu nịnh? Hèn. Hèn chứ? Nhà văn nước mình tận trong tâm can ai mà chẳng thấy mình hèn? Cái sợ, nó làm mình hèn. Vì thế mà từ xưa tới nay có bao nhiêu nhà văn nhà thơ đã đi ở ẩn ngay trong tác phẩm của họ? Chúng ta vắng thiếu những cây thông đứng sừng sững. Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em mà nói rằng: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ, là nhờ tao biết sợ!. Rồi ông ngửa mặt lên trời cười run giường trong khi nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ ngược vào lòng”. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia, vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, “không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái. […] Sao mà khổ vậy?”
Tôi nghĩ, khi mà Các Anh hiểu được chính sách giáo dục người dân trong xã hội xã hội chủ nghĩa mà tôi nói ở trên, Các Anh sẽ không ngạc nhiên khi nhận ra chân dung các lãnh vực sinh hoạt trong xã hội đều băng hoại mà nặng nhất là trong giới giáo dục và giới cầm bút. Mà “khi giới nhà giáo nhận rõ sự dối trá trong giáo dục, và khi giới cầm bút, nhìn rộng hơn là giới truyền thông nhận mình là hèn”, thì mọi người trong xã hội không còn một chỗ nào để tránh né, cũng không còn một điều gì để tin nữa! Các Anh thử nhìn sang xã hội dân chủ tự do để thấy giới nhà giáo được tôn trọng là “những nhà kiến trúc” đào tạo con người phục vụ xã hội, còn giới cầm bút được mọi người tín nhiệm, vì họ là những nguời có khả năng giúp mọi người nhận ra chân dung xã hội với những góc cạnh khác nhau trong cuộc sống, đồng thời hướng dẫn dư luận đưa xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt về văn hoá xã hội.
“Nhưng tại sao hèn? Tại vì giới này luôn luôn sợ hãi, sợ hãi đến mức tự mình cắt xén sự thật trong bài viết của mình, sợ hãi đến mức phải tự nhận mình còn sống chính là nhờ biết sợ hãi. Tại sao sợ hãi? Tại vì chính sách giáo dục dạy cho mọi người phải biết sợ hãi mà phục tùng mệnh lệnh của lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, rồi hệ thống truyền thông quốc doanh biến chính sách giáo dục đó thành những bài viết, những hình ảnh chuyển tải cho toàn xã hội. Tại sao đảng với nhà nước lại dạy dân phải sợ hãi? Tại vì lãnh đạo đảng cộng sàn là đảng độc tài, lại giành độc quyền lãnh đạo, mà độc tài thì người dân không chấp nhận cho nên đảng với nhà nước lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi người dân nổi dậy lật đổ giết chết. Tôi dẫn chứng: Từ khi có chế độ cộng sản độc tài trên thế giới từ đầu thế kỷ 20 đến nay, không người dân nào từ xã hội dân chủ tự do, lại bỏ làng xã quê hương mà chạy sang định cư tại bất cứ quốc gia nào bị cộng sản cai trị, như cộng sản Liên Sô, các quốc gia cộng sản Đông Âu, cộng sản Bắc Hàn, cộng sản Cu Ba, cộng sản Trung Hoa ..v..v.. Ngược lại, chỉ có người dân từ các quốc gia cộng sản trốn chui trốn nhủi, chấp nhận mọi hiểm nguy để vượt lên sự chết mà đi tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do, Việt Nam chúng ta là trường hợp điển hình chính xác nhất: (1) Sau Hiệp Định Đình Chiến ký ngày 20/7/1954 tại Geneve, Thụy Sĩ, Việt Nam bị nhuộm đỏ nửa nước phía bắc, đã có 875.478 người trên đât bắc 20 năm xã hội chủ nghĩa chạy trốn cộng sản vào Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi định cư. (2) Theo tài liệu của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, từ năm 1976 đến năm 1995, tức sau 20 năm cộng sản nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam, đã có 839.200 người Việt Nam vượt biên và vượt biển đến định cư tại 91 quốc gia tự do. Đồng thời ước tính khoảng 450.000 đến 500.000 người Việt Nam đã chết trên biển cả cũng như trong rừng sâu! Thậm chí đến tháng 5/2012 vừa rồi, vẫn có đồng bào cùng tỉnh với ông Hồ dùng tàu vượt biển sang Australia xin tị nạn!
Các Anh biết tại sao không? Tại vì xã hội chủ nghĩa là đồng nghĩa với chủ nghĩa giết người. Tôi dẫn chứng: “Ngày 12/6/2007, Tổng Thống Bush chủ tọa lễ khánh thành “Tượng Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Cộng Sản thế Giới” tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, với sự tham dự của đại diện 25 quốc gia đã và đang bị cộng sản cai trị. Trong bài diễn văn của Tổng Thống Hoa Kỳ, có đoạn: “... Đây là biểu tượng thảm họa kinh hoàng trong thế kỷ 20 của nhân loại nói chung, và 25 quốc gia bị cộng sản cai trị nói riêng. Từ nay, oan hồn của hơn 100.000.000 (100 triệu) nạn nhân cộng sản trên thế giới, được những thế hệ hôm nay và những thế hệ ngày mai tưởng nhớ”....
Chưa hết, Các Anh nên đọc vài con số mà tôi trích ở trang 14 trong quyển “Le Livre Noir du Communisme”, tạm dịch là “Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản” của Stéphane Courtois và 5 tác giả nữa, ấn hành năm 1997 tại Pháp. Theo các tác giả, thì: (1) Cộng sản Liên Sô đã giết 20.000.000 người. (2) Cộng sản Trung Hoa đã giết 65.000.000 người. (3) Cộng sản Bắc Hàn đã giết 2.000.000 người. (4) Cộng sản Cam-Bốt đã giết 2.000.000 người. (5) Các quốc gia cộng sản vùng đông Châu Âu đã giết 1.000.000 người.
Riêng về cộng sản Việt Nam đã giết bao nhiêu người, thì tài liệu trong nước và ngoại quốc mà tôi tham khảo, cho thấy: Trong cải cách ruộng đất giai đoạn 1953-1955 trên đất bắc xã hội chủ nghĩa, theo nhật báo “Nhân Dân” ngày 20/7/1955 cho biết, sau 6 đợt cải cách ruộng đất đã có 10.303.004 nạn nhân. Trong Tết Mậu Thân năm 1968 trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người trong tổng số dân ghi mất tích hơn 5.000 người! (trích bài viết của tác giả Lữ Giang. PB Hoa) Trong chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi 1954 - 30/4/1975, theo tài liệu đúc kết từ Đại Hội 4 của CSVN, ít nhất là 4.000.000 thanh niên miền Bắc đã chết trong cuộc chiến xâm lăng Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả số người chết trên đường xâm nhập từ Bắc vào Nam, do lời của Trung Úy Khảm nói với chúng tôi khi chúng tôi bị giam tại Trại 2, Liên Trại 1, Đoàn 776 tỉnh Hoàng Liên Sơn năm 1977. Nhưng theo nhà văn nữ Dương Thu Hương (cựu đảng viên cộng sản) thì số người chết lên đến 10.000.000 người!
Hãy nghe Thủ Tướng CSVN Phạm Văn Đồng, nói trong bài diễn văn dài lê thê ngày 1/5/1975, rằng: “Thống nhất để đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Việt Nam là lá cờ đầu, là đội quân tiên phong tiến hành cuộc Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa trên toàn thế giới”. Được hiểu là đảng CSVN còn tiếp tục giết chết người dân xã hội chủ nghĩa dưới quyền cai trị của họ nữa, vì xã hội chủ nghĩa đồng nghĩa với giết người mà.
Các Anh hãy nhìn, hãy suy ngẫm, và suy ngẫm từ nơi sâu thẳm của trái tim Các Anh. Và Các Anh có đồng ý với những dẫn chứng của tôi không? Nếu không, sao Các Anh lại vô cảm hoặc là chủ quan đến như vậy? Nếu có, thì Các Anh đang nghĩ gì cho những thế hệ đương thời có cả thân nhân thân quyến Các Anh, và những thế hệ tương lai ..... Chẳng lẽ Các Anh vẫn chịu gói mình trong cái xã hội chủ nghĩa dối trá và hèn nhục đến như vậy hay sao?

Thứ ba, Hải Quân Việt Nam và Biển Đông.

Trong tình hình Biển Đông như đang thấp thoáng cơn giông bão, ngày 7/7/2012, Chủ Tịch của Các Anh là ông Trương Tấn Sang, đến thăm Vùng 3 Hải Quân tại Đà Nẳng. Nói chuyện với các cấp của đơn vị này, ông Sang yêu cầu các binh sĩ phải huấn luyện làm chủ vũ khí trang bị mới. Theo bản tin Thông tấn xã Việt Nam, ông Sang chỉ thị Hải Quân phải kiên quyết bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên, ông cũng đặc biệt nhắc nhở phải kiên trì, khôn khéo trong xử lý các tình huống để giữ vững ổn định, hòa bình, tạo điều kiện cho ngư dân đi biển và phát triển các ngành kinh tế biển của đất nước. Theo trang điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam (VOV), cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Trước đó, ông Sang cũng đến thăm Quân Khu 5, ông cũng đã đề cập đến bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, và cấp lãnh đạo của họ cũng hứa sẽ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
Xin nhắc lại. Ngày 21/6/2012, Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển gồm 55 Điêu trong 7 Chương, đã chánh thức ban hành ngày 16/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013. Trong Điều 1 Chương 1 qui định rằng “Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo”.
Nội dung của Luật Biển, phủ định điều mà Trung Cộng nhiều lần tự mình tuyên bố giành chủ quyền trên các quần đảo, đảo, và vùng biển thuộc Việt Nam. Đây là điều tốt, nhưng liệu lãnh đạo CSVN có dám ra lệnh cho Hải Quân Nhân Dân và Cảnh Sát Biển ra khơi, để bảo vệ ngư phủ khi bị tàu của Trung Cộng rượt đuổi, ủi chìm, tịch thu tài sản, và bắt ngư phủ đưa tiền chuộc không? Hay vẫn cứ như “không nghe không thấy không biết” như lâu nay, vì “người lạ tàu lạ” luôn nắm quyền chủ động trên biển hành động tàn bạo với “người quen tàu quen”, cứ để Dân Quân Biển tự lo? Luật Biển rất cần thiết, nhưng bảo vệ biển đảo và bảo vệ ngư dân thật sự là điều cần thiết hơn, thậm chí là tối cần thiết. Nếu không hành động như vậy, Luật Biển chỉ có tác dụng trước mắt làm giảm sự phẫn uất của đồng bào phẫn nộ hành động của Trung Cộng lấn chiếm đảo biển Việt Nam, cũng như Hiến Pháp chỉ có tác dụng phô trương đường lối chớ không phải thực hiện đường lối đó. Nói cho đúng, lãnh đạo CSVN chỉ áp dụng Hiến Pháp để bảo vệ độc tài và bao che tham nhũng mà thôi. Vậy là, quanh đi quẫn lại, lãnh đạo CSVN vẫn là dối trá!
Vậy, liệu hai ông đó -nhất là Tư Lệnh V3HQ- có dám ra lệnh cho tàu chiến ra khơi rượt đuổi lại tàu của Trung Cộng để bảo vệ ngư phủ không? Với phản ứng hèn hạ nhục nhã trên hồ sơ Biển Đông trong thời gian qua, tôi tin hai ông ấy “chỉ dám tuyên bố chớ không dám hành động”. Nói cho đúng là tôi không tin nhóm lãnh đạo CSVN dám ra lệnh cho chiến hạm của Hải Quân chống lại tàu cá Trung Cộng được sự bảo vệ bảo vệ bởi các chiến hạm của quốc gia họ.

Tiếp đây là vài sự kiện sau ngày Luật Biển được thông qua:
Ngày 21/6/2012, song song với phản đối LUẬT BIỂN VIỆT NAM, Trung Cộng cho thành lập thành phố Tam Sa cấp địa khu, bao gồm toàn bộ Biển Đông Việt Nam trong phạm vi “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự vẽ và công bố với thế giới vào năm 2009.
Ngày 23/6/2012, Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung cộng (CNOOC) thông báo mời thầu quốc tế 9 khu vực rộng 160.000 cây số vuông thuộc vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam.
Ngày 26/6/2012, Cơ quan Giám sát hàng hải (CMS) Trung Cộng điều động 4 tàu Hải Giám rời căn cứ tại thành phố Nam Á thuộc đảo Hải Nam để thực hiện chuyến tuần tra trên Biển Đông. Cũng trong ngày này, Hồng Lỗi, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Trung Cộng tuyên bố trong cuộc họp báo rằng: “Quân đội đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để đề phòng chiến tranh vùng biển Nam Sa” (tức quân đảo Trường Sa của Việt Nam).
Ngày 13/7/2012, Trung Cộng đưa 30 “tàu đánh cá”, gồm 1 tàu tiếp liệu có trọng tải 3.000 tấn, và 29 tàu cá trọng tải 140 tấn mỗi chiếc. Đoàn tàu cá này hướng đến quần đảo Trường Sa và hoạt động trong vùng này 20 ngày. Ngày 16/7/2012, đoàn tàu cá đã đến đảo Chữ Thập. Theo báo chí TRung Cộng thì đây là đoàn tàu cá lớn nhất của tỉnh Hải Nam.
Ngày 19/7/2012, Trung Cộng điều động chiến hạm đổ bộ xuống khu vực Trường Sa, theo báo chí nước này thì đây là con tàu chở lính và phương tiện tiếp liệu.
Tân Hoa xã ngày 20/7 dẫn các nguồn tin từ Bộ Tư Lệnh quân khu Quảng Châu, thì Quân Ủy Trung Ương Trung Cộng đã phê chuẩn thành lập bộ chỉ huy quân đồn trú tại “thành phố Tam Sa”. Đây có thể xem như hợp pháp hóa sự chiếm đóng về quân sự trên đảo đã và sẽ chiếm được trong tương lai.
Ngày 21/7/2012, Trung Cộng cho bầu “Đại Biểu Hội Đồng Nhân Dân” thành phố Tam Sa, “hành chính hóa” toàn bộ phần biển Đông trong phạm vi “đường lưỡi bò”.
“Phải chăng hành động trên đây của Trung Cộng là một thách thức mạnh mẽ và trực tiếp với nhóm lãnh đạo CSVN?” Nếu không, thì tại sao những hành động xảy ra chỉ mấy ngày sau ngày Luật Biển được Quốc Hội Việt Nam thông qua, với lại nội dung Luật Biển chánh thức phủ nhận đường lưỡi bò tự Trung Cộng vẽ ra rồi tuyên bố với các quốc gia trong vùng là của họ, còn thêm nhóm chữ “không thể tranh cãi” nữa chớ. Nếu phải, thì liệu lãnh đạo CSVN phản ứng thế nào, vì đến nay CSVN mới phản ứng như trước đây đã từng phản ứng, tuy lời lẽ có phần cứng rắn.
Liệu Trung Cộng còn dám ngang nhiên rượt đuổi tàu thuyền của ngư phủ như trước đây nữa không?
Viết xong câu tự hỏi trên đây thì tôi nhận được các bản tin như sau:
(1) Ngày 5 & 6/7/2012, tàu Trung Cộng bắt 6 tàu cá Việt Nam đang bỏ lưới ngoài khơi Hoàng Sa. Ba ngày sau, 3 tàu có giá trị thấp được Trung Cộng cho về nhưng tất cả tài sản trên tàu bị chúng tịch thu, con lại 3 tàu có giá trị cao vẫn bị chúng cầm giữ.
(2) Ngày 13/7/2012, đại diện Ủy Ban Biên Giới Quốc Gia thuộc Bộ Ngoại Giao CSVN ra phản ứng: “Lập trường của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được khẳng định nhiều lần. Hoạt động khai thác của ngư dân Trung Quốc ở khu vực quần đảo Trường Sa là phi pháp, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này. Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc có trách nhiệm giáo dục, hướng dẫn ngư dân tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam, tuân thủ luật pháp quốc tế".
Vậy là, Bộ Ngoại Giao CSVN chỉ tốn một trang giấy với khoảng 30 phút là tối đa để phổ biến văn bản nói lên phản ứng trước hành động ngang ngược của Trung Cộng, là xong. Với lời khẳng định của ông Tư Lệnh Vùng 3 Hải Quân trước mặt ông Sang “lực lượng của ông luôn bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc” cũng là xong. Vậy là đoàn tàu cá 30 chiếc của Trung Cộng, cứ ung dung mà tha hồ đánh cá trong vùng biển Việt Nam, cứ như đang trong ao hồ của chúng nó vậy. Trong khi 3 tàu cá Việt Nam tiếp tục “bị nghỉ ngơi” trong tay của Trung Cộng tại Hoàng Sa.
Còn ghê gớm hơn nữa. Theo bản tin của nhật báo Hải Nam, tính đến 1 giờ trưa ngày 1/8/2012, Trung Cộng đã “đổ ra Biển Đông” 8.994 chiếc tàu đánh cá của tỉnh Hải Nam và Quảng Đông đánh bắt cá trên Biển Đông mà họ gọi là “ngư trường Tam Sa”. Vậy là Trung Cộng thật sự biến Biển Đông thành ao nhà của chúng rồi, nhưng không thấy những chiến hạm tối tân, những phi cơ tối tân, những hỏa tiển tối tân của Việt Nam đem ra mà hành sử chủ quyền của Việt Nam cho Trung Cộng biết tay. Chẳng lẽ cấp lãnh đạo của Vùng 3 Hải Quân đã khẳng định với ông Trương Tấn Sang rằng: “Lực lượng Vùng 3 Hải Quân sẽ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc, bảo vệ các hoạt động kinh tế trong vùng đặc quyền của Việt Nam dù đối mặt với nhiều khó khăn”. Vậy là xong rồi sao?
Kết luận.
Với chính sách dối trá trong giáo dục, đẵ dẫn đến một xã hội băng hoại mà các nhà giáo cũng như các nhà trí thức hằng quan tâm, phơi trải nỗi uất ức trên những trang Bloggers. Với chính sách bóp nghẹt tin tức chính trị và đời sống, đã dẫn đến một xã hội phẫn uất đến nghẹt thở mà giới nhà báo đã thố lộ, như những lời than từ đáy sâu tâm hồn của người “biết cầm bút và còn giữ gìn đạo nghĩa”, dù sống trong xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hy vọng là tôi vừa giúp Các Anh có được nét nhìn từ góc cạnh khác với nét nhìn thường ngày của Các Anh, vừa gợi lên những điều mà Các Anh cần suy nghĩ để đánh giá lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước Các Anh đã dối trá che giấu xấu xa như thế nào với đồng bào, đã hèn hạ nhục nhã với Trung Cộng như thế nào, đã cắt xén cướp đoạt trấn lột như thế náo mà tài sản của họ kinh khủng trong khi đa số người dân và chính Các Anh cùng gia đình Các Anh sống trong nghèo khổ thiếu thốn, nhất là thiếu hẳn tình người trong xã hội chủ nghĩa!
Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình. Các Anh hãy dứt khoát mà đứng vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, giành lại quyền sống thật sự đúng nghĩa cho bản thân Các Anh, cho gia đình Các Anh, và cho toàn dân được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu khi cầm “Sổ Thông Hành” mà trong nước gọi là “Hộ Chiếu” mỗi khi đến các quốc gia văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những `Người Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”. Texas, tháng 8 năm 2012

tieuchuy
09-11-2012, 02:50 AM
Phạm Bá Hoa

Tôi tên Phạm Bá Hoa, chào đời năm 1930 tại đồng bằng sông Cửu Long. Tôi phục vụ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 21 năm trong chiến tranh bảo vệ tổ quốc, sau đó tôi bị tù không án 12 năm 3 tháng trong các “trại tập trung” mà lãnh đạo của Các Anh gọi là “trại cải tạo”. Hiện cư ngụ tại Hoa Kỳ. Tôi vẫn hãnh diện về màu cờ sắc áo mà tôi đã phục vụ. Cho đến nay, tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam khi mà quê hương tôi chưa có dân chủ, tự do, và nhân quyền thật sự.
Xin được gọi “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam” là Các Anh để tiện trình bày. Chữ “người lính” mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng, gọi chung là “cấp lãnh đạo”. Là người lính trong quân đội “Nhân Dân”, chắc rằng Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Các Anh trong quân đội nhân dân mà. Với lại, Tổ Quốc & Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng chính trị nào cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Với thư này, tôi hy vọng giúp Các Anh nhận ra một chuỗi hành động ngang ngược lấn chiếm Biển Đông của Trung Cộng, trong khi lãnh đạo CSVN chỉ phản ứng để vừa làm giảm cơn phẫn nộ của đồng bào, vừa vuốt ve quy lụy Trung Cộng. Đồng thời, tôi giúp Các Anh vài giả thuyết về hành động của Trung Cộng trong thời gian trước mắt.

Thứ nhất. Luật Biển 1982 của Liên Hiệp Quốc. (Tóm tắt từ Người Sưu Tầm, 17/7/2012)

<img hspace="10" align="right" src="http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1347331240.png" >Năm 1967, các tuyên bố khác nhau về lãnh hải đã được nêu ra tại Liên Hiệp Quốc. Năm 1973, Hội Nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 3 về Luật Biển tổ chức tại New York, với hơn 160 quốc gia tham dự. Hội nghị kéo dài đến năm 1982, đạt đến kết quả với sự đồng thuận của Hội Nghị và một Công Ước hình thành, có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Đến lúc ấy mới có 60 quốc gia ký vào Công Ước.

Công Ước qui định các vùng:

“Đường cơ sở” (baseline) dọc theo bờ biển, được định nghĩa như sau: “Thông thường, một đường biển cơ sở dọc theo bờ biển khi thủy triều xuống, nhưng khi đường bờ biển bị thụt sâu, có đảo ven bờ, hoặc đường bờ biển rất không ổn định, có thể sử dụng các đường thẳng làm đường cơ sở”.
Vùng nội thủy, bao phủ tất cả vùng biển và đường thủy ở bên trong đường cơ sở. Tại đây, quốc gia ven biển được tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc không có quyền đi lại tự do trong các vùng nội thủy.
Vùng lãnh hải, nằm ngoài đường cơ sở có chiều rộng 12 hải lý. Tại đây, quốc gia ven biển được quyền tự do qui định về kiểm soát việc sử dụng, và sử dụng mọi tài nguyên. Các tàu thuyền ngoại quốc được quyền "qua lại nhưng không gây hại" thì không cần xin phép nước chủ nhà. Đánh cá, làm ô nhiễm, dùng vũ khí, và do thám, không được xếp vào dạng "không gây hại". Nước chủ nhà có thể tạm thời cấm việc "qua lại nhưng không gây hại" này tại một số vùng trong lãnh hải của mình khi cần bảo vệ an ninh.
Vùng nước quần đảo. Công Ước đưa ra định nghĩa về các quốc gia quần đảo trong phần IV, cũng như định nghĩa về việc các quốc gia này có thể vẽ đường biên giới lãnh thổ của mình như thế nào. Đường cơ sở được vẽ giữa các điểm ngoài cùng nhất của các đảo ở ngoài cùng nhất, bảo đảm rằng các điểm này phải đủ gần nhau một cách thích đáng. Mọi vùng nước bên trong đường cơ sở này sẽ là vùng nước quần đảo và được coi là một phần của lãnh hải quốc gia đó.
Vùng tiếp giáp lãnh hải. Bên ngoài giới hạn 12 hải lý của lãnh hải là một vành đai có bề rộng 12 hải lý, đó là vùng tiếp giáp lãnh hải. Tại đây, nước chủ nhà có thể thực thi luật pháp của mình đối với các hoạt động như buôn lậu hoặc nhập cư bất hợp pháp.
Vùng đặc quyền kinh tế. Rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng này, quốc gia ven biển được hưởng độc quyền trong việc khai thác tất cả tài nguyên thiên nhiên. Khái niệm vùng đặc quyền kinh tế được đưa ra để ngừng các cuộc xung đột về quyền đánh cá, tuy rằng khai thác dầu mỏ cũng đã trở nên một vấn đề quan trọng. Trong vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài có quyền tự do đi lại bằng đường thủy và đường hàng không, tuân theo sự kiểm soát của quốc gia ven biển. Ngoại quốc cũng có thể đặt các đường ống ngầm và cáp ngầm.
Thềm lục địa. Là vành đai mở rộng của lãnh thổ đất cho tới mép lục địa (continental margin), hoặc 200 hải lý tính từ đường cơ sở, chọn lấy giá trị lớn hơn. Thềm lục địa của một quốc gia có thể kéo ra ngoài 200 hải lý cho đến mép tự nhiên của lục địa, nhưng không được vượt quá 350 hải lý, không được vượt ra ngoài đường đẳng sâu 2500m một khoảng cách quá 100 hải lý. Tại đây, nước chủ nhà có độc quyền khai thác khoáng sản và các nguyên liệu không phải sinh vật sống.
Bên cạnh các điều khoản định nghĩa các ranh giới trên biển, Công Ước còn thiết lập các nghĩa vụ tổng quát cho việc bảo vệ môi trường biển, và bảo vệ quyền tự do nghiên cứu khoa học trên biển. Công Ước cũng tạo ra một cơ chế pháp lý mới cho việc kiểm soát khai thác tài nguyên khoáng sản tại các lòng biển sâu nằm ngoài thẩm quyền quốc gia, được thực hiện qua Ủy Ban Đáy Biển Quốc Tế (International Seabed Authority).
Các nước không có biển được quyền có đường ra biển mà không bị đánh thuế giao thông bởi các nước trên tuyến đường nối với biển đó”.

Ký và phê chuẩn. Các quốc gia bắt đầu ký từ ngày 10 tháng 12 năm 1982. Bắt đầu hiệu lực ngày 16 tháng 11 năm 1994.

Thứ hai. Đường Lưỡi Bò 2009 của Trung Cộng.

Ngày 7/5/2009, Trung Cộng phản đối bản đệ trình của riêng Việt Nam và bản đệ trình chung của Việt Nam với Malaysia gởi đến Ủy Ban Biên Giới Thềm Lục Địa (CLCS) Liên Hiệp Quốc. Kèm theo Công Hàm phản đối là một bản đồ, có vẽ một đường hình chữ U với nhiều chấm bao trùm phần lớn Biển Đông. Thật ra, trong hội nghị của Hội Quốc Liên năm 1951 tại San Francisco (Hoa Kỳ) có 51 phái đoàn tham dự, lúc ấy phái đoàn Trung Cộng trưng dẫn bản đồ do Trung Hoa Quốc Gia thời Tổng Thống Tưởng Giới Thạch vẽ ra, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong đường chữ U có hình dáng cái “lưỡi bò” chiếm khoảng 80% Biển Đông là thuộc chủ quyền của Trung Cộng. Sự trưng dẫn này bị 46 phái đoàn phản đối. Cũng trong hội nghị này, phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Thủ Tướng Trần Văn Hữu hướng dẫn, đã trình bày với những tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam từ trong lịch sử, thì không một phái đoàn nào phản đối, đã chứng tỏ tài liệu lịch sử chứng minh được quốc tế công nhận chủ quyền của Việt Nam là đúng.
Các Anh có nhận ra sự thành công của phái đoàn quốc gia Việt Nam trong sự kiện chứng minh Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam từ trong lịch sử, trong khi Trung Cộng trình bày thị bị phản bác không? Và Các Anh có biết Biển Đông rộng đến mức nào không? Tôi vào trang Web <World’s Largest Oceans> thấy vài con số như sau: “Biển Đông (đối với Việt Nam) với diện tích rộng 2.974.100 cây số vuông, lớn hạng thứ 5 trong số 10 đại dương lớn nhất thế giới. Vậy, 80% của Biển Đông nằm trong “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là của họ đã chiếm đến 2.379.928 cây số vuông, trong đó có hơn phân nửa thuộc chủ quyền của Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Trong khi lãnh đạo Trung Cộng bất chấp luập pháp quốc tế mà đạp đầu đạp cổ Việt Nam, thì nhóm lãnh đạo của Các Anh vẫn nâng niu cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với Trung Cộng.
Các Anh nghĩ gì về nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị? Nếu Các Anh muốn tìm hiểu thêm, hãy đọc tiếp đoạn phỏng vấn ngắn dưới đây để thấy mưu đồ của Trung Cộng chiếm lấy Biển Đông như thế nào. Ngày 16/8/2012, phóng viên của TTXVN phỏng vấn ông Phạm Nguyên Long, một thời là nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam.
Phóng viên: “Những ngày vừa qua, sau khi Việt Nam công bố về những tấm bản đồ cổ của Trung Quốc không có hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, và dù đang có xu hướng bị Mỹ phong tỏa, nhưng Trung Quốc vẫn cho in bản đồ giả, rồi tuồn vào Việt Nam. Điều đó nói lên rằng, Trung Quốc vẫn nhất quyết độc chiếm Biển Đông dù uy tín quốc gia đang bị hạ thấp. Vậy, Việt Nam nên xử lý như thế nào?”
Ông Phạm Nguyên Long: “Chúng ta tuyên bố, không những phải tuyên truyền cho nhân dân Việt Nam biết những bản đồ về sự thật lãnh thổ Trung Quốc trong lịch sử, mà còn phải cho nhân dân Trung Quốc biết điều đó. Để đáp lại hành động này của Việt Nam, Trung Quốc cũng đưa ra những bản đồ sai sự thật và tuồn sang Việt Nam trước cả khi Việt Nam cho người dân Trung Quốc biết. Đó là những thủ đoạn đầy tính mưu lược của Trung Quốc”.

Thứ ba. Luật Biền 2012 của Việt Nam.

Luật Biển có 55 Điều trong 7 Chương, được Quốc Hội thông qua ngày 21/6/2012, Chủ Tịch nước ký ban hành ngày 17/7/2012, và sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2013.
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh. Luật này quy định về đường cơ sở, nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, các đảo, quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa và quần đảo khác thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam; hoạt động trong vùng biển Việt Nam; phát triển kinh tế biển; quản lý và bảo vệ biển, đảo.
Điều 2. Áp dụng pháp luật. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về chủ quyền, chế độ pháp lý của vùng biển Việt Nam thì áp dụng quy định của Luật này. (2) Trường hợp quy định của Luật này khác với quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là thành viên thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.
Các Anh có thấy là Luật Biển được ban hành có muộn không? Với tôi, “dù muộn còn hơn không”. Tại sao muộn? Tại vì nhóm lãnh đạo CSVN nhu nhược, sợ Trung Cộng lấy lại cái gọi là “16 chữ vàng và 4 tốt” thì mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí mất mạng như tình cảnh ông Võ Văn Kiệt vậy. Mãi đến lúc, không phải nước mới đến chân mà là nước ngập đến đùi, đành phải ra lệnh Quốc Hội thông qua Luật Biển để vuốt ve đồng bào bày tò lòng yêu nước qua những cuộc biểu tình phản đối Trung Cộng “gậm nhấm” biển đảo của Việt Nam. Nhân đây, tôi nhắc để Các Anh nhớ lại (nếu đã biết) hoặc để biết rõ (nếu chưa biết) vài sự kiện quan trọng, cho thấy Trung Cộng “gậm nhấm” đất liền và biển cả Việt Nam chúng ta như thế nào, và phản ứng của một số lãnh đạo CSVN hèn hạ ra sao:
(1) Năm 1988, với chính sách “gậm nhấm”, Trung Cộng lần lượt đánh chiếm hoặc lấn chiếm một số đảo trong quần đảo Trường Sa. Cứ mỗi lần chiếm đóng một đảo, lãnh đạoTrung Cộng với lãnh đạo CSVN tuyên bố hai bên cùng giải quyết trong hòa bình, nhưng rồi lãnh đạo CSVN vẫn để nguyên trạng mất đất chớ không giải quyết gì cả, và một đảo khác lại vào tay Trung Cộng. Cứ như vậy mà 8 đảo lần lượt đã vào tay Trung Cộng.
(2) Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo CSVN với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
(3) Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Trung Cộng với danh nghĩa thăm viếng thiện chí, nhưng thật sự là ký Hiệp Ước bán 11.362 cây số vuông trên vịnh Bắc Việt với giá 2.000.000.000 mỹ kim (2 tỷ) cho lãnh đạo Trung Cộng tại Bắc Kinh.
(4) Ngày 3/6/2011, bên lề hội nghị quốc tế tại khách sạn Shangri-La ở Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh, khẳng định với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt rằng : "Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt" (4 tốt). Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến "truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung".
Các Anh vẫn nhớ là đã có hằng ngàn tàu thuyền của ngư dân Việt Nam đã bị tàu của Trung Cộng đâm chìm, tài sản trên tàu thuyền bị chúng tịch thu, ngư dân bị chúng bắt và chỉ thả ra khi đóng tiền chuộc, vậy mà quân đội “Nhân Dân” Việt Nam nói chung và Hải Quân “Nhân Dân” nói riêng, đã im lặng như Người Lính vô cảm với Nhân Dân dù danh xưng của quân đội gắn liền hai chữ “Nhân Dân”.
(5) Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, thì Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng Vịnh nói: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.
(6) Trong những năm 2010, 2011, và nửa đầu năm 2012, tàu Trung Cộng thường xuyên săn đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, và bắt giữ đòi tiền chuộc hằng ngàn ngư phủ Việt Nam, trong khi tài sản của ngư dân Việt Nam thì bị chúng tịch thu.
Vậy mà Công An Nhân Dân -tôi nhấn mạnh hai chữ “Nhân Dân”- thẳng tay đàn áp Nhân Dân qua 12 cuộc biểu tình kể từ cuộc biểu tình lần 1 vào ngày 5/6/2011 và 3 cuộc biểu tình trong tháng 6 &7/2012, bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông của Việt Nam. Các Anh vẫn chưa quên hành động đáng phẫn nộ đó chớ? Và Các Anh đang nghĩ gì?

Thứ tư. Hành động của Trung Cộng trên Biển Đông.

<img hspace="10" align="left" src="http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1347332157.png" >Đặc biệt là những hoạt động của Trung Cộng trên Biển Đông trong những tháng vừa qua, có tính cách thách thức Việt Nam lẫn Phi Luật Tân:

(1) Các Anh có biết là trong thời gian qua, trên Biển Đông chỉ có tàu của Trung Cộng tuần tiểu bảo vệ từng đoàn tàu đánh cá của chúng tranh đoạt hải sản, mà lẽ ra là vùng hoạt động của Hải Quân Việt Nam bảo vệ tàu cá & ngư dân Việt Nam không? Chưa nói đến Trung Cộng đang chiếm đoạt tài nguyên dưới đáy biển. Như vậy, Trung Cộng xem Biển Đông như cái ao của chúng rồi.
(Tam Sa có phi trường và quân đội)

(2) Ngày 24/7/2012, Trung Cộng thành lập thành phố Tam Sa, là một thành phố cấp địa khu, thuộc tỉnh Hải Nam. Thành phố được giao một khu vực mà nhiều nước tranh chấp chủ quyền: Quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa, quần đảo Trung Sa (bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough), cùng vùng biển chung quanh. Trung Cộng đặt chính quyền thành phố Tam Sa tại đảo Phú Lâm mà họ gọi là Vĩnh Hưng, thuộc quần đảo Hoàng Sa. Bộ chỉ huy quân sự cũng đóng trên đảo Phú Lâm. Trung Cộng đã công bố danh sách 45 đại biểu vừa được bầu vào cơ quan lập pháp thành phố Tam Sa.

(3) Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông với hạm đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc và 225.000 ngư dân. Trong số ngư dân, có đến 110.000 ngư dân sắp được võ trang. Riêng đoàn tàu cá loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà Rịa Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cũng cho biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã quay mũi ra Biển Đông, ngay sau lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ hội đánh cá bắt đầu. “Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu đánh cá khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”

hạm đội tàu cá
<img hspace="10" align="right" src="http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd1/HQPD_1347332280.png" >Trong khi hành động của Trung Cộng xem Biển Đông như ao nhà của chúng, vậy mà ngày 28/7/2012, Bộ Quốc Phòng CSVN đã gọi hàng trăm sĩ quan thuộc các Quân Chủng, Binh Chủng, các Quân Khu đã từng học quân sự ở Trung Cộng đền họp mặt để chào mừng ngày thành lập quân đội Trung Cộng 1 tháng 8, do Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc phòng, và Tướng Ngô Xuân Lịch, Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị chủ tọa (Các Anh gọi là chủ trì). Ngoài ra, còn có Thứ Trưởng là Tướng Nguyễn Thành Cung, Tướng Nguyễn Chí Vịnh, và Tướng Mai Quang Phấn, tham dự. Đặc biệt là sự có mặt của đại biện lâm thời Trung Cộng Khương Tái Đông, cùng với tùy viên quân sự của họ.
Theo bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam, đây là “dịp thể hiện lòng biết ơn sự giúp đỡ của Trung Cộng đào tạo cán bộ cho quân đội Việt Nam, đồng thời biểu dương các sĩ quan từng được Trung Quốc đào tạo đã đóng góp chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược”. Tướng Phùng Quang Thanh nói: “Chúng tôi luôn trân trọng, ghi nhớ và mãi biết ơn sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, to lớn có hiệu quả mà Đảng, Chính phủ, nhân dân và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dành cho Việt Nam”. Thay mặt quân đội Việt Nam, ông Thanh gửi tới Quân Ủy Trung Ương và quân đội Trung Cộng “lời chúc mừng tốt đẹp nhất nhân ngày thành lập”.
Còn báo Quân Đội Nhân Dân của Các Anh, có bài tường thuật chi tiết về “tình cảm biết ơn” của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đối với quân đội Trung Cộng trong buổi gặp mặt này, dưới dòng chữ “khắc ghi tấm lòng nhường cơm sẻ áo” của Trung Cộng. Trong diễn từ khai mạc, Tướng Mai Quang Phấn khẳng định sự giúp đỡ của Trung Cộng đã đem lại ‘kết quả to lớn cho Việt Nam. Cuộc gặp mặt “vừa bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ quý báu của Trung Cộng, vừa là hoạt động thiết thực góp phần tăng cường hơn nữa mối quan hệ hữu nghị hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện giữa hai Đảng, Nhà nước, và Quân Đội với Nhân Dân hai nước ngày càng bền chặt”. Trong diễn từ của Tướng P.Q. Thanh, có đoạn “khẳng định đặc biệt coi trọng quan hệ với giải phóng quân Trung Quốc, coi đây là chủ trương nhất quán, và là ưu tiên hàng đầu.
Đại Biện lâm thời Trung Cộng là Khương Tái Đông, nhận định: “Quan hệ hai nước đang có bước phát triển tốt đẹp”. Ông Đông còn nhắc đến quan hệ giữa hai nước là “núi liền núi, sông liền sông, vừa là đồng chí vừa là anh em” nữa chớ.
Các Anh đọc tiếp đoạn văn ngắn này mà tôi trích từ bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm về chính sách bang giao quy lụy của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng:
“Năm 2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương nòi, căm thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, bốn tốt, và mười sáu chữ vàng”. Bài báo kết thúc bằng lời nguyền: “Hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
“Mấy hôm nay, bỗng dưng dân tình lại được nghe một số phương tiện truyền thông ồn ào những bản hợp ca… “biết ơn Đảng Cộng sản Trung Quốc anh em”, tôi sực nhớ đến bài báo “thắm tình anh em, đồng chí, môi hở răng lạnh” của cái “Đảng bạn đểu cáng” mà tôi đã dịch và gửi anh Nguyễn Huệ Chi cho đăng trên trang BVN, tôi bèn tìm lại bài báo gợi ý BVN đăng lại để toàn dân ta thêm một dịp nhận rõ kẻ thù ngàn đời của dân tộc. Thế rồi tôi đặt câu hỏi: Vì sao cái mà một số kẻ được gọi là “đảng anh em” lại đi rao giảng cái bài “giết giặc Việt”? Vì sao chúng gọi nhân dân “anh em” là “giặc”? Nhưng đau hơn, là vì sao mà một số người vẫn tâng bốc chúng là “ân nhân”, lại vuốt ve chúng là “anh em đồng chí”? Họ“khôn khéo hay họ mơ ngủ?”
Đến đây Các Anh nhận ra “một số người vẫn tâng bốc ...” mà ông Vũ Cao Đàm nói đến, chính là nhóm lãnh đạo “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, vô cùng khiếp nhược với lãnh đạo Trung Cộng rồi chớ?
Bây giờ tôi giải thích về ý nghĩa hai chữ “gậm nhấm” mà tôi sử dụng ở trên. Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), Vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến Ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."
Các Anh có cảm thấy thấm thía không? Lời dạy từ thế kỷ 13, nay là thế kỷ 21 mà vẫn nguyên giá trị, vì rõ ràng và chắc chắn, Trung Cộng ià -kẻ thù của dân tộc chúng ta từ trong lịch sử- đang gậm nhấm “cái tổ đại bàng” Việt Nam chúng ta. Với mức độ khiếp nhược của nhóm lãnh đạo CSVN, rồi bao lâu nữa đây, “cái tổ đại bàng” này không chỉ trở thành “cái tổ chim chích” trong lời răn dạy của Vua Trần Nhân Tông, mà trở thành “cái gì đó nằm trong ống tay áo của Trung Cộng”. Cái gì đó, rất có thể là một văn bản chánh thức “Việt Nam trở về với nước Tàu” đúng theo “Biên Bản tối mật” trong cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng CSVN, và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo CSVN, với Giang Trạch Dân Tổng Bí Thư, và Lý Bằng Thủ Tướng, đại diện lãnh đạo Trung Cộng, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng, mà Wikileaks đã phổ biến giữa năm 2011. Tôi trích đoạn cuối Biên Bản đó giúp Các Anh đọc tài liệu này để hiểu rõ lãnh đạo của Các Anh: “....Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận, và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”.
Đến đây, Các Anh hãy đọc lại loạt thư tôi gởi Các Anh từ số 1 hồi tháng 11/2011 đến Thư số 10 hồi tháng 8 vừa qua (2012), rồi kết những sự kiện trong các thư đó vào một chuỗi, để Các Anh khả dĩ có đủ yếu tố mà đánh giá: “Liệu có phải các nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị CSVN, đã và đang đưa dân tộc Việt Nam trở thành dân tộc thiểu số của Trung Cộng vào năm 2020 không?” Các Anh hãy chứng nghiệm trong thực tế để xác định hành động của lãnh đạo Các Anh, là những vũ khí tối tân mà lãnh đạo CSVN mới mua chỉ để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào, chớ chưa một lần sử dụng để ngăn chận hành động của Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, và hành động lấn chiếm đảo biển của Việt Nam, thậm chí cũng không dám đụng đến “hạm đội tàu cá” của Trung Cộng đang tràn lan tưởng như đen ngòm trên Biển Đông nữa..

Thứ năm. Giả thuyết về hành động của Trung Cộng.

Căn cứ vào một loạt hành động của Trung Cộng ngay trước và sau khi Quốc Hội Việt Nam thông qua Luật Biển ngày 21/6/2012, tôi ước tính những hành động có tính cách chiến lược của Trung Cộng trong thời gian trước mắt, dưới dạng “giả thuyết”:
Giả thuyết 1 và phân tách. Trong khi Lục Quân sẳn sàng dọc biên giới Trung-Việt, lực lượng công nhân Tàu sẳn sàng tại các công trường khắp nội địa Việt Nam, thì một lực lượng nhỏ của Hải Quân ngụy trang dưới dạng tàu Hải Giám hay tàu Tiếp Liệu chẳng hạn, yểm trợ “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc mà ngư dân được võ trang dưới tên gọi “Dân Quân Biển” của Trung Cộng lấn chiếm từng đảo rồi từng đảo, dẫn đến các đảo và quần đảo của Việt Nam lần l ượt sẽ vào tay Trung Cộng. Cũng nên lưu ý, cộng sản nói chung và Trung Cộng nói riêng, rất gian manh mánh khóe, cho nên rất có thể Dân Quân Biển của họ chính là “Thủy Quân Lục Chiến” của họ ngụy trang đó.
Với giả thuyết này, Trung Cộng tránh né được sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và của Phi Luật Tân, nhưng với Việt Nam chắc Trung Cộng đánh giá “chẳng ra gì” đâu. Dù rằng trong hai năm trở lại đây, đã nhiều lần Hoa Kỳ khẳng định quyền lợi hàng hải của mình trên Biển Đông, và để chứng minh những lời tuyên bố trong những hội nghị trong vùng Đông Nam Á và trong những hội nghị quốc tế, Hoa Kỳ chánh thức tuyên bố trở lại vùng Châu Á Thái Bình Dương. Với bóng dáng liên minh giữa Hoa Kỳ - Úc Đại Lợi - Ấn Độ, góp phần nói lên sự trở lại của Hoa Kỳ trong thế phòng thủ chung vùng này, mà khu vực trọng yếu là hành lang Biển Đông nối vào eo biển Malacca phía nam để qua Ấn Độ Dương, và ngược lên ngang qua quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước khi đến các quốc gia vùng Đông Bắc Á Châu & Thái Bình Dương. Thêm nữa, ngày 26/07/2012, Ông Leon Panetta, Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, chấp thuận kế hoạch điều động phi đội máy bay chiến đấu tàng hình F-22 đến căn cứ không quân Hoa Kỳ tại Nhật Bản.
Tôi vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân với Hải Quân của Phi Luật Tân lẫn của Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần thám và chiến đấu. Tuy chưa phải là hùng mạnh so với hai quân chủng đó của Trung Cộng, nhưng cũng thể hiện ít nhiều về trách nhiệm bảo vệ phần lãnh hải của mình, nhất là Phi Luật Tân. Còn lãnh đạo CSVN, mua để phô trương chớ không để ngăn chận Trung Cộng mà thực tế đã chứng minh điều đó, có lẽ họ “sợ mất 16 chữ vàng và 4 tốt” chăng?
Dĩ nhiên là Trung Cộng thừa biết sức mạnh của Hoa Kỳ, nhưng rất có thể Trung Cộng lợi dụng điều mà Trung Cộng cho rằng, cả hệ thống chính trị Hoa Kỳ đang bận rộn với cuộc bầu cử Tổng Thống và Nghị Sĩ cùng Dân Biểu vào đầu tháng 11/2012 tới đây, mà sử dụng “Hạm Đội Tàu Cá” gần 30.000 chiếc để “gậm nhấm” Biển Đông. Nếu áp dụng giả thuyết này, cầm chắc là Trung Cộng sẽ phải “tứ bề thọ địch” về ngoại giao nhiều hơn là về quân sự. Nhưng, nếu Trung Cộng sử dụng Hải Quân với Không Quân tấn công toàn diện Biển Đông thì tổn thất khó mà lường được trước sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, dù Hoa Kỳ đang bận rộn bầu cử Tổng Thống. Nhưng nếu Hoa Kỳ không tham chiến, hóa ra Hoa Kỳ là “con cọp giấy” sao? Vì Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố Hoa Kỳ có quyền lợi trên hành lang Biển Đông mà.
Và như vậy, giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước tính khoảng 40%. Tôi ước tính chỉ đến 40% là vì “Dân Quân Biển” hay “Thủy Quân Lục Chiến” ngụy trang, với nguy cơ rất cao trong khả năng tạo nên trận hải chiến chỉ vì một vài hành động va chạm với đối phương của họ, cho nên Trung Cộng không dại gì mà mạo hiểm để “va đầu vào tứ bề thọ địch về quân sự”.
Giả thuyết 2 và phân tách. Sử dụng Hải Quân và Hạm Đội Tàu Cá dàn trải khắp các khu vực trọng yếu trên Biển Đông, Lục Quân vẫn sẳn sàng chiến đấu dọc biên giới Trung-Việt, Không Quân sẳn sàng tại các phi trường gần Hà Nội, Đà Nẳng, và Sài Gòn, Trung Cộng sử dụng lực lượng bộ binh dưới dạng công nhân, hoặc công nhân được trang bị trở thành lực lượng quân sự,và các cấp lãnh đạo công ty trở thành các cấp chỉ huy quân sự, thực hiện cuộc đảo chánh tai Hà Nội, Đà Nẳng, Sài Gòn, và Cần Thơ, lật đổ nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị và bộ máy đảng, lật đổ chánh phủ và bộ máy nhà nước, đưa các tay chân thân tin cũng là Việt Nam nhưng là những tay sai trung thành của Trung Cộng lên cầm quyền, và tất cả sẽ đặt dưới sự thống trị của viên chức Trung Cộng như viên Thái Thú ngày xưa chẳng hạn. Trường hợp này, quốc tế khó mà viện dẫn lý do để đưa ra phản ứng quân sự được, dĩ nhiên là tùy mỗi quốc gia sẽ chọn lựa những biện pháp thích ứng trong bang giao với Trung Cộng.
Vậy là cả Việt Nam bao gồm Hoàng Sa Trường Sa, vào tay Trung Cộng. trong khi Trung Cộng rất ít tổn thất nhân mạng, rất ít tổn thất dụng cụ chiến tranh, rất ít chi phí, ít cơ hội bị quốc tế lên án cùng với những biện pháp trừng phạt. Song song đó, Trung Cộng được lãnh đạo Cam Bốt tiếp tay canh chừng CSVN từ biên giới Cam Bốt-Việt Nam, giúp tăng thêm thuận lợi cho Trung Cộng, vì Cam Bốt đã chứng tỏ sự trung thành của họ trong vai Chủ Tịch hội nghị ASEAN hồi tháng 7 vừa qua (2012), đến mức hội nghị không đưa ra được bản Tuyên Bố Chung vì bất đồng trên hồ sơ Biển Đông.
Giả thuyết này với cơ hội Trung Cộng áp dụng ước tính tới 60%, nhất là trong tình hình giữa các lãnh đạo trong Bộ Chính Trị Việt Nam đang đấu đá nhau quyết liệt vì tranh giành quyền lực quyền lợi (chớ không phải đấu đá vì quốc gia dân tộc đâu).

Thứ sáu. Kết Luận.

Nhóm lãnh đạo của Các Anh mà tôi gọi đúng với nghĩa đen là “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, rõ ràng và chính xác là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của đảng cộng sản, nói cho đúng là họ đặt quyền lợi tổ quốc dân tộc dưới quyền lợi của chính họ. Từ đó, chính sách bang giao với Trung Cộng là chính sách quy lụy phục tùng để đảng cộng sản tồn tại, họ tồn tại, vì vậy mà phản ứng của họ chỉ để vuốt ve sự phẫn nộ của đồng bào thôi. Hẳn là Các Anh còn nhớ, ngày 28/8/2011, Thông Tấn Xã Việt Nam loan tin rằng: ”Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, đã tuyên bố: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”. Vì nhóm lãnh đạo sợ mất ghế ngồi, mất quyền lực, mất quyền lợi, thậm chí là mất mạng dễ dàng, nên không dám hành động trái ý Trung Cộng. Hãy nhớ, cộng sản là chủ nghĩa giết người mà.
Các Anh hãy dành chút thì giờ để bình tâm mà nhận định chuỗi sự kiện vừa đọc, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính Các Anh chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản. Mong Các Anh đừng đứng nhìn một cách vô cảm nữa, mà hãy đứng về phía đồng bào và hành động đúng với bổn phận công dân là Bảo Vệ Tổ Quốc, Bảo Vệ Nhân Dân.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
Texas, tháng 9 năm 2012. *********

tieuchuy
10-08-2012, 12:21 PM
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, chúng tôi bị lãnh đạo CSVN đày đọa trong hơn 200 trại tập trung mà lãnh đạo cộng sản gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi nào quê hương tôi có một chế độ tự do và nhân quyền trong một xã hội dân chủ pháp trị.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Người Lính” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Với bài này, tôi gởi đến Các Anh 7 vụ trong một chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng liên quan trực tiếp đến lãnh đạo đảng với nhà nước, nhằm giúp Các Anh nhận rõ mức độ tham nhũng trên những hồ sơ này đã tác hại đến nền kinh tế tài chánh Việt Nam, dẫn đến sự tranh giành quyền lực trong Bộ Chính Trị hiện nay.

Vụ số 1. Mười sáu tấn vàng của Việt Nam Cộng Hòa.

Tác giả Bùi Tín trong bài viết gởi cho đài VOA. Trưa 30/4/1975, trong Dinh Độc lập, ông Nguyễn Văn Hảo (của VNCH) nói với tôi: Chúng tôi nhờ ông báo ra ngoài đó, là chúng tôi đã giữ lại hơn 16 tấn vàng hiện còn trong ngân khố, mong ngoài đó cho người vô nhận. Tôi hỏi lại: Có thiệt không?. ông Hảo trả lời: Thiệt chớ. Năm 1994, khi tôi ở Paris, một bạn người Việt ở Texas, Hoa Kỳ, cho tôi địa chỉ điện thoại của ông Nguyễn Văn Hảo. Tôi gọi ngay cho ông và từ đó có dịp nói chuyện về ngày 30/4/1975. Theo ông biết thì đầu tháng 5/1975, Hà Nội đã cho riêng 1 chiếc phi cơ vào Sài Gòn tiếp nhận hơn 16 tấn vàng và chở ra Hà Nội..... Cũng đầu tháng 5/1975, tôi được Tướng Đào Đình Luyện, Không Quân, cho biết là nguyên chiếc phi cơ IL 18 đã chở số vàng thu được từ Sài Gòn ra Hà Nội. .....Năm 1987, khi gặp ông Trường Chinh tại Đà Lạt, tôi kể lại chuyện này, và ông Trường Chinh cho biết : Tôi có biết chuyện này, nhưng hết sạch cả rồi, trong mấy năm khó khăn, cấu véo hết tấn này đến tấn khác, mua lương thực, nguyên liệu, nay còn gì nữa đâu!. ... Chưa hết, hồi ấy bộ Công An chủ trương «bán bãi để lên tàu thuyền vượt biển», thu vàng từ 3 lạng đến 6 lạng, có nơi đến 12 lạng vàng trên mỗi đầu người, tất cả là bao nhiêu? Và tiền thu của người Hoa bị xua đuổi từ Cẩm Phả, Hòn Gai, Hải Phòng vào đến Vũng Tàu, Chợ Lớn, Cần Thơ...là bao nhiêu? Lại còn tiền của thu được qua các chiến dịch tiêu diệt công thương nghiệp tư nhân, cái gọi là diệt gian thương trên toàn miền Nam hồi đó là bao nhiêu, và đâu cả rồi?

Tác giả Huỳnh Bửu Sơn với bài «Câu chuyện 16 tấn vàng». <img hspace="10" align="right" src="http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1349698512.png" >Ông Sơn là Kiểm Soát Viên của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1970. Ông Sơn cho biết: Đầu tháng 6/1975, ông với ông Lê Minh Kiên, một người giữ chìa khóa một người giữ mật mã hầm vàng và hầm bạc, Ban Quân Quản ra lệnh kiểm kê kho vàng và kho bạc để bàn giao. Kết quả kiểm soát : Về vàng. Tổng số là 1.234 thoi, mỗi thoi nặng từ 12 đến 14 kí lô. Cộng chung là 16 tấn. Về bạc. Loại giấy bạc 500 đồng và giấy bạc 1.000 đồng, cộng chung hơn 1.000 tỷ đồng. So với hồ sơ lưu trong máy computer, hoàn toàn chính xác. Hai ông Huỳnh Bửu Sơn và Lê Minh Kiên, cùng ký tên bàn giao tất cả vàng và bạc này cho một người cộng sản khoảng 50 tuổi tên Hoàng Minh Duyệt, mãi về sau ông Sơn mới biết ông Duyệt là Chỉ Huy Phó đơn vị tiếp nhận Ngân Hàng Quốc Gia.
Các Anh có biết tin tức vụ này chưa, hay là đọc thư này mới biết? Dù đã biết hay vừa mới biết, rõ ràng và chắc chắn là 16 tấn vàng mà nhóm lãnh đạo Các Anh đã chở từ Sài Gòn ra Hà Nội, đến năm 1987 tất cả đều biến mất. Ông Trường Chinh của Các Anh trả lời ông Bùi Tín về vụ 16 tấn vàng của quốc gia cứ như ông ta giỡn chơi chớ chẳng có gì quan trọng qua câu trả lời của ông. Chưa hết, biết bao nhiêu tài sản của người Việt Nam Cộng Hòa cũ bị cướp đoạt dưới hình thức đổi tiền nhưng chỉ trao lại số tiền đủ sống một tuần lễ + diệt tư sản mại bản cướp tài sản + diệt thành phần buôn bán tư nhân cướp tài sản + thu vàng người Việt gốc Hoa rời khỏi Việt Nam, cướp nhà đem bán, và ..v..v.. Vậy, Các Anh thử nghĩ xem «những ai đã được chia?» Lãnh đạo Các Anh cùng nhau chia chác 1.234 thoi vàng, mà Các Anh có được «miếng bụi vàng» nào đâu, trong khi chính Các Anh là những người cầm súng xâm lăng nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi mà? Thật là kinh khiếp!

Vụ số 2. Nhà máy lọc dầu Dung Quất.

Năm 1997, dự án nhà máy lọc dầu vịnh Dung Quất với kinh phí dự trù lúc đầu là 1 tỷ 300 triệu mỹ kim, rồi điều chỉnh thành 1 tỷ 500 triệu mỹ kim. Dự trù hoàn thành năm 2001 và bắt đầu sản xuất từ năm 2002, với công suất 6.500.000 tấn/năm. Lần lượt các công ty Total của Pháp, công ty Conoco của Mỹ, công ty Petronas của Malaysia, đến Dung Quất quan sát, nhưng tất cả đều rút lui. Lý do: “Dung Quất cách xa các giếng dầu đến hằng ngàn cây số, cũng như các thị trường lớn tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến chi phí vận chuyển dầu thô từ các giếng dầu cũng như sản phẩm đến các thị trường tiêu thụ ước tính tăng thêm từ 10 đến 15 mỹ kim mỗi tấn sản phẩm”.
Nhận định của các nhân vật: (1) Ông Võ Hồng Phúc, Bộ Trưởng Bộ Đầu Tư và Kế Hoạch than rằng: “Dự án Dung Quất thiếu cơ sở khoa học và thiếu kiến thức thực tiễn. Những chủ đầu tư đã tự tạo ra tính khả thi cao để trình chánh phủ”. (2) Ông Hoàng Trung Hải, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp, nặng hơn một chút khi cho rằng: “Năm 1997, thời gian các quốc gia Á Châu khủng hoảng tài chánh thì Quốc Hội nhanh chóng thông qua dự án Dung Quất, nên không tìm được nguồn vốn”. (3) Ông Phạm Quang Dự, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị PetroVietnam: “Dự án Dung Quất bị động ngay từ đầu, do chủ trương liên doanh, nhưng không có đối tác nên chuyển qua Việt Nam tự đầu tư, rồi quay trở lại chủ trương liên doanh, để rồi cuối cùng thì tự đầu tư. Cứ mỗi lần thay đổi chủ trương, tự nó kéo theo nhiều thay đổi, dẫn đến lãng phí tài sản và nhất là lãng phí thời gian”. (4) Ông Đỗ Trọng Ngoạn, đại biểu Quốc Hội phát biểu: “Vịnh Dung Quất có mực nước không sâu vì phù sa nhánh sông Thu Bồn thường xuyên đổ vào. Nếu xây dựng đê cảng cũng không thể tiếp nhận được những tàu có trọng tải lớn”.
Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội cử Đoàn Giám Sát điều tra.. Sau mấy tháng công tác, đã nhận định: “Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ hoàn thành vào năm 2008, và năm 2009 bắt đầu sản xuất. Tính ra chậm đến 7 năm. Nhưng rồi dự án cũng được thực hiện bởi liên doanh PetroVietNam với tập đoàn Zarubeznheft của Liên Bang Nga, dự định sẽ khánh thành vào năm 2003. Đến tháng 11/2002, liên doanh này có những bất đồng quan trọng. Để chấm dứt bất đồng, Nga tuyên bố rút lui liên doanh trong dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất, và đòi lại số vốn chung góp 500 triệu mỹ kim. Vậy là, dự án do PetroVietNam tự thực hiện.
“Năm 2010, nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu sản xuất. Giữa năm 2012, nhà máy lọc dầu Dung Quất ngưng lại để sửa chữa, đến tháng 8/2012 bắt đầu sản xuất lại với năng suất 2.600.000 tấn/năm. Như vậy, sau 15 năm từ khi bắt đầu dự án, PetroVietNam đã tiêu đi khoản tiền lên đến 3 tỷ 500 triệu mỹ kim mà nhà máy lọc dầu Dung Quất vẫn chưa thật sự hoàn thành, vì dự trù cuối năm 2012 này mới chánh thức bàn giao. So với 1 tỷ 300 triệu mỹ kim theo dự trù lúc đầu (năm 1997), 15 năm sau (2012) chi phí đầu tư lên đến 3 tỷ 500 triệu mỹ kim, tức tăng 2 tỷ 200 triệu mỹ kim = 169%.
Các Anh đã nhận ra chưa? Chỉ riêng trong dự án này, nhóm lãnh đạo Các Anh chọn người lãnh đạo tập đoàm kinh doanh theo tiêu chuẩn trung thành với đảng chớ không chọn người có kiến thức chuyên môn, nên đã lãng phí thời gian, lãng phí tài nguyên, lãng phí tài chánh, và lãng phí nhân lực đến mức không thể tưởng tượng được từ nét nhìn xã hội dân chủ văn minh. Như vậy, liệu trong mấy chục năm qua từ khi bắt đầu “cởi mở, đổi mới” đến nay, đã có bao nhiêu dự án trong tình trạng như nhà máy lọc dầu Dung Quất, hoặc tồi tệ hơn nữa? Nhưng mà, Các Anh nghĩ xem: “Sự lãng phí đó chỉ là lãng phí về phía đồng bào, còn đối với lãnh đạo Các Anh rất có lý vì khối tài sản của họ ngày càng gia tăng”, vì bất cứ dự án nào họ cũng nhắm phục vụ cho đảng cộng sản mà đảng cộng sản chính là quyền lợi của đảng viên trong Bộ Chính Trị, chớ không phục vụ đồng bào.. Đến đây, Các Anh suy nghĩ gì?

Vụ số 3. Xa lộ Đông Tây Sài Gòn.

Xa lộ Ðông Tây là một chương trình viện trợ của Nhật cho Việt Nam, vừa xây mới vừa tân trang con đường cũ từ Miền Tây đến Sài Gòn, xuống hầm gần cầu Calmette qua Thủ Thiêm, cuối cùng đến ngã ba Cát Lái. Công ty PCI của Nhật trúng thầu dự án này năm 2001 và 2003. Tháng 8/2008, báo chí Nhật đưa tin, Cảnh Sát Nhật đã bắt giam 4 viên chức của PCI về tội đưa hối lộ. Tại phiên tòa, các viên chức PCI nói rõ, người nhận hối lộ là ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó Giám Đốc Sở Giao Thông Vận Tải, Giám Đốc Quản Lý Dự Án Xa Lộ Đông Tây. Biện Lý Cuộc cho biết, PCI đã hối lộ cho ông Sỹ nhiều lần, cộng chung là 2.300.000 mỹ kim, nhưng phía Biện Lý Cuộc Nhật bản quyết định chỉ truy tố trên con số 820.000 mỹ kim.
Thứ Trưởng Ngoại Giao Hồ Xuân Sơn khẳng định: “Thực tế chứng minh chính phủ Việt Nam đã quản lý và sử dụng rất hiệu quả, rất đúng mục đích nguồn ODA của Nhật Bản.” Không những vậy, ông này còn yêu cầu báo chí Nhật đừng loan tin vụ tham nhũng. Trong bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam, ông Sơn nói: “Chúng ta đã đề nghị Nhật Bản trong khi vụ việc đang được điều tra, chưa có kết luận cuối cùng thì các cơ quan truyền thông đại chúng của Nhật Bản cũng như của Việt Nam đều không nên đưa tin về vụ này.”
Các Anh có thấy xấu hỗ khi ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Việt Nam ngốc nghếch không? Ông ta cứ tưởng xã hội dân chủ tự do Nhật Bản như xã hội cộng sản độc tài Việt Nam, nên ông ta rất tự nhiên khi yêu cầu chánh phủ Nhật ra lệnh các cơ quan truyền thông Nhật không được tường trình vụ án. Ông Sỹ được bao che bởi Ủy Viên Bộ Chính Trị đang là Bí Thư thành ủy Lê Thanh Hải. Càng được bao che hơn, vì con trai H.N. Sỹ là rể tương lai của L.T. Hải. Do vậy, mà ông Sỹ chưa hề hấn gì. Nhưng tháng 12/2008, năm ngày sau ngày Nhật Bản tạm cắt một phần viện trợ, Huỳnh Ngọc Sỹ bị bắt. Ngày 11/3/2009, ông Sỹ ra tòa sơ thẩm. Đến tháng 9/2009, H.N. Sỹ bị kết án 3 năm tù. Một tháng sau đó, ông Sỹ nhận thêm bản án khác cùng tội danh “nhận hối lộ”.
Tôi mong là Các Anh đừng “nhạy cảm” với hai chữ cộng sản mà tôi sử dụng, vì đảng viên cộng sản lãnh đạo, đảng viên trong hàng ngũ quân đội, trong bộ máy cầm quyền, thì gọi là cộng sản chớ gọi là gì. Sự thật là sự thật mà.

Vụ số 4. Dự án PMU 18.

Theo phóng viên Đức Tâm của đài RFI. Năm 2006, Bùi Tiến Dũng với vụ án tham nhũng dự án PMU 18, được đưa ra ánh sáng trong khi CSVN chuẩn bị Đại Hội lần thứ 10, đã gây chấn động lớn về tình trạng tham nhũng tràn lan tại Việt Nam. Vào thời điểm đó, lãnh đạo CSVN đã thừa nhận vụ PMU 18 đe dọa toàn bộ hệ thống chính trị và quản trị quốc gia. Bộ Trưởng Giao Thông Vận Tải Đào Đình Bình đã phải từ chức, còn Thứ trưởng Nguyễn Việt Tiến thì bị bắt, nhưng khi ra tòa thì được trắng án, trong khi các nhà báo đưa tin về vụ tham nhũng này lại bị bắt và “tòa án nhân dân” phán họ phạm cái tội “quái đản” là lạm dụng quyền tự do dân chủ, và lãnh án tù. Tôi nói “cái tội quái đản” vì mọi người trong xã hội xã hội chủ nghĩa hỗn tạp, làm quái gì có tự do dân chủ mà “tòa án nhân dân” phán quyết họ vi phạm.
Năm 2007, “kẻ lãnh đạo bao che” cho Dũng không thể làm gì khác, đành phải nhìn đám đàn em ra tòa, để rồi tòa theo lệnh của “kẻ lãnh đạo nào đó” mà kết án tù Bùi Tiến Dũng về tội biển thủ chia chác làm giàu, dùng tiền viện trợ đó để đánh bạc, và cá cược bóng đá. Trong phiên xử đầu tiên, Bùi Tiến Dũng bị kết án 13 năm tù giam. Năm 2010, nhân vật này lại ra tòa lần thứ hai với tội cho thuê xe công vì mục đích cá nhân, gây thất thoát 2.700.000.000 đồng và lãnh thêm 3 năm tù.
Ngày 27/06/2011, đây là lần thứ ba Bùi Tiến Dũng ra tòa, cùng với 8 tòng phạm khác trong vụ tham nhũng hơn 3 tỷ 400 triệu đồng = khoảng 120.000 Euro, khi thực hiện dự án xây cầu Bãi Cháy năm 2003 (Quảng Ninh). “Nhờ vậy” mà hãng tin AFP cho biết, Việt Nam bị đánh giá là một trong những quốc gia có nạn tham nhũng trầm trọng nhất thế giới.

Vụ số 5. Tổng Công Ty Vinashin.

Theo bản tin VNOnline ngày 26/11/2010, Tổng Công Ty Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam” (Vinashin) bị phác giác thâm thủng đến 86.565 tỷ đồng VN = 4 tỷ 300 triệu mỹ kim. Khi bị chất vấn tại Quốc Hội, Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng của Các Anh trả lời: “Tôi xin nhận trách nhiệm về những hạn chế, yếu kém tại Vinashin, nhưng tôi không làm điều gì sai. Thủ Tướng, Phó Thủ Tướng, và các Bộ Trưởng có liên quan đang kiểm điểm để làm rõ trách nhiệm”. Theo bản tin RFI online ngày 21/3/2011, ông Nguyễn Sinh Hùng, Chủ Tịch Quốc Hội thừa nhận rằng: “Thủ Tướng và một số thành viên trong chính phủ đã phạm sai lầm trong vụ Vinashin. Nhưng, Bộ Chính Trị đảng CSVN đã thảo luận và bỏ phiếu về việc “có nên kỷ luật hay không”. Căn cứ theo kết quả bỏ phiếu, Bộ Chính Trị quyết định, “không xử lý kỷ luật đối với các tập thể và cá nhân, và yêu cầu nghiêm túc tự phê bình, rút kinh nghiệm, tiếp tục chỉ đạo tái cơ cấu tập đoàn Vinashin”.
Vậy là vụ án tham nhũng này dưới con mắt của Bộ Chính Trị đến đây là xong. Nhưng với quốc tế thì mới bắt đầu. Vì năm 2011, Vinashin cùng với hơn 20 tổng công ty & công ty liên quan, bị khởi kiện tại tòa án ở London, Anh quốc, vì không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng Thụy Sĩ. Ngày 01/11/2011, Cơ Quan Hình Sự Quốc Tế (Interpol) đã phát lệnh truy nã hai cựu lãnh đạo tập đoàn Vinashin, là: “(1) Hồ Ngọc Tùng, nguyên Tổng giám đốc tài chính của Vinashin, xuất ngoại với lý do trị bệnh nhưng không thấy trở về. (2) Giang Kim Đạt, trưởng phòng kinh doanh công ty vận tải viễn dương, một chi nhánh của Vinashin, ra nước ngoài trước khi bị khởi tố”. Đầu tháng 6/2011, báo Tuổi Trẻ cho biết, ngoài 4 tỷ nói trên, Vinashin có thể bị thâm thủng thêm 1 tỷ mỹ kim tiền phạt vì không thi hành các hợp đồng. Tháng 8/2011, ông Phạm Thanh Bình bị bắt. Theo bản tin của Thông Tấn Xã Việt Nam, sau 4 ngày xét xử, Tòa Án Nhân Dân Hải Phòng, vụ án Vinashin kết thúc ngày 30/3/2012 với bản án: (1) Ông Phạm Thanh Bình, nguyên là Chủ Tịch Vinashin, 20 năm tù giam. (2) Tám bị cáo còn lại đều bị tù giam.
Sau phiên tòa, Phạm Thanh Bình bị biệt giam cùng phòng với Nguyễn Tuấn Dương tại trại T14. Sáng sớm ngày 31/03/2012, lúc thức dậy thì Nguyễn Tuấn Dương thấy ông Bình đã chết trong tư thế treo cổ bằng một sợi dây buộc vào chấn song cửa sổ phòng giam, chân của ông Bình cách mặt đất khoảng 5-7 phân tây.
Điều mà tôi gởi đến Các Anh là Nguyễn Tuấn Dương nói rằng: “Đêm qua trước khi ngủ, ông Bình đã tâm sự với tôi trong trạng thái của ông ấy căng thẳng. Ông nói: Khi ăn thì cùng ăn, nó còn ăn nhiều hơn tôi nhiều lần. Giờ thì nó bỏ mặc tôi chịu một mình với bản án tột khung, không có tình tiết giảm nhẹ. Đã vậy, tôi sẽ đạp đổ tất cả, sẽ khai đúng sự thật để chết thì cho chết hết như nhau”. Cuối bản tin của TTXVN có câu: “Người tù Phạm Thanh Bình vừa nói vậy tối hôm trước, nhưng không biết vì sao lại thắt cổ tự tử ngay trong đêm đó? Không biết cái chết của người tù Phạm Thanh Bình có uẩn khúc gì hay không?” Đọc xong bản tin này, Các Anh có nhận ra “Nó là nhân vật nào trong nhóm đỉnh cao gian trá” không vậy? “Có phải Nó là người đã tuyên bố tại Quốc Hội là nhận trách nhiệm sự sụp đổ của Vinashin, Nó cũng nói là Nó không làm điều gì sai? Và Nó chính là người cử ông Phạm Thanh Bình vào chức vụ Chủ Tịch Vinashin để nhận phần chia chác nhiều hơn như ông Bình đã nói vào đêm đầu tiên trong tù, để rồi ông Bình chết ngay đêm đó mà theo bản tin TTX Việt Nam nghi ngờ có uẫn khúc”. Cầm chắc là có bàn tay của Nó cho dù là gián tiếp.

Vụ số 6. Tổng Công Ty Vinalines.

Năm 2005, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng cử ông Dương Chí Dũng giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Vinalines (Tổng Công Ty Hàng Hải Việt Nam). Tháng 2/1012, ông Dũng rời khỏi chức vụ vì Vinalines đang thiếu nợ hơn 2 tỷ mỹ kim, nhưng nhờ có bao che nên được cử giữ chức Cục Trưởng Cục Hàng Hải. Ông Dũng bị khởi tố về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà Nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả nghiêm trọng”. Ngày 17/5/2012, Bộ Công An cho toán Công An thi hành lệnh bắt và khám xét nhà thì Dương Chí Dũng đã trốn thoát. Bộ Công An quyết định truy nã đặc biệt.
Ngay sau đó, Công An đã bắt hai lãnh đạo khác của công ty này là ông Mai Văn Phục và Trần Huy Chiếu. Những người này cùng với ông Dương Chí Dũng bị cáo buộc phải chịu trách nhiệm trước khoản lỗ do mua hơn 70 chiếc tàu ngoại quốc quá cũ, và ụ nổi do Nga sản xuất từ 50 năm trước.
Theo tin RFA ngày 22/7/2012, hội nghị sơ kết hoạt động trong 6 tháng đầu năm 2012 của Vinalines, đã lỗ 1.400 tỷ đồng. Số nợ của Vinalines đến mức mà những tháng cuối năm 2011, có đến 126 tàu hàng lớn nhỏ bị giữ tại các hải cảng quốc tế vì nợ đáo hạn.
Bản tin VietNamNet.vn. Ngày 5/9/2012, Bộ Công An CSVN loan tin đã bắt được Dương Chí Dũng tại một quốc gia khối ASEAN, nhưng cho đến nay vẫn không tin tức gì thêm về vụ này. Liệu, sự thật đằng sau bản tin đó là gì? Hệ thống tham nhũng của lãnh đạo Các Anh khiếp thật!

Vụ số 7. Tập Đoàn Tài Chánh Á Châu.

Theo thông tin sớm nhất từ các Blog tự do như “Quan Làm Báo”, Thông Tấn Xã Vàng Anh, và đồng loạt các Blog khác, thì nửa đêm rạng sáng 21/08/2012, ông Nguyễn Đức Kiên, được gọi là “bầu Kiên”, hay “bố già Kiên”, Tổng Giám Đốc Tập Đoàn Tài Chánh Á Châu, kiêm nhiều chức quan trọng tại nhiều ngân hàng (trong 42 ngân hàng) và tổng công ty, đã bị Công An bắt. Tiếp theo là ngày 22/8/2012, ông Lý Xuân Hải, Tổng Giám Đốc Ngân Hàng ACB cũng bị bắt. Cùng ngày, Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao phê chuẩn lệnh tạm giam 4 tháng đối với ông NĐ Kiên và ông LX Hải. Theo bản tin TTX Việt Nam tối thứ Sáu 7/9/2012, Bộ Công An bắt giam ông Nguyễn Duy Hưng, Trưởng Văn phòng đại diện Công Ty Cổ Phần đầu tư Sài Gòn (SGI). Cùng ngày, Bộ Công An cũng bắt giam bà Nguyễn Thị Bích Trang, nhân viên của Công Ty Cổ Phần đầu tư và công nghiệp Tân Tạo (ITACO) ở Sài Gòn. Tiếp đến là ông Trầm Bê đầu thú và bị Công An quản thúc.
Ông Nguyễn Đức Kiên, từng du học ngoại quốc. Ông Kiên với thế lực trong ngành tài chánh, trở thành người thân cận của Thủ Tướng Dũng với Tướng Công An Nguyễn Văn Hưởng. Vì vậy mà sự kiện ông NĐ Kiên và ông LX Hải bị bắt, chính là đòn tranh giành quyền lực trong Bộ Chính Trị nhắm vào Nguyễn Tấn Dũng, nhân vật khuynh loát toàn bộ quyền hành về kinh tế tài chánh.
Ngay vài phút đầu tiên bị thẩm vấn, khi được biết bị Thủ Tướng Dũng bỏ rơi, và con gái của ông Dũng cũng chạy ra ngoại quốc, ông Nguyễn Đức Kiên đã thẳng thắn đặt vấn đề: “Nếu tôi thành thật khai báo thì sẽ được hưởng khoan hồng thế nào?”
Chiều ngày 12/9/2012, trang Web của chánh phủ có công văn số 7169, với nội dung cho biết “Thủ Tướng chỉ thị xử lý các trang blog có những bài bôi đen bộ máy lãnh đạo đất nước” như Blog “Quan Làm Báo”, đồng thời ngăn cấm cán bộ nhà nước xem và phổ biến tin tức từ các trang Blog đó. Ông Dũng nhấn mạnh: “Đây là thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch”.
Các Anh có biết Blog “Quan Làm Báo” mới xuất hiện từ cuối tháng 5/2012, chỉ mới hơn 3 tháng mà có đến 23 triệu lượt người xem, vì hầu hết là những tin tức thuộc loại bí mật quốc gia, không phải bí mật về quốc phòng mà bí mật về tham nhũng. Và Các Anh có rùng mình khi nhận ra các đảng viên cộng sản hàng lãnh đạo mỗi khi mở miệng ra là nhân danh “đại diện cho giai cấp nông dân và giai cấp công nhân”, nhưng tất cả họ chỉ có mục đích duy nhất là kết thành nhóm để dùng quyền lực khuynh đảo các hoạt động kinh tế tài chánh quốc gia, dẫn đến tình trạng tham nhũng khủng khiếp. Tôi nhận định ở cấp quốc gia, vì bản tin AFP ngày 24/8/2012 cho biết, chỉ trong 4 ngày sau ngày ông Kiên và ông Hải bị bắt, thị trường chứng khoán Sài Gòn và Hà Nội đã thiệt hại đến 5 tỷ 620 triệu mỹ kim.
"Ngày 17/9/2012, lãnh đạo ba ngành Tư Pháp trung ương đã họp nghe cơ quan Cảnh Sát điều tra Bộ Công An đánh giá tài liệu, chứng cứ thu thập được trong vụ án Nguyễn Đức Kiên và những người có liên quan, và quyết định: (1) Khởi tố bị can Nguyễn Đức Kiên, về “tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 165 Luật Hình Sự”. (2) Bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với Nguyễn Đức Kiên về “tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139- Bộ Luật Hình Sự." Bộ Công An cũng quyết định khởi tố và đã bắt giam Trần Ngọc Thanh Giám Đốc, và Nguyễn Thị Hải Yến kế toán trưởng Công ty Cổ phần đầu tư ACB Hà Nội, về tội đồng phạm.
Ngày 19/09/2012, Ngân Hàng ACB thông báo là ông Trần Xuân Giá, Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị của ngân hàng, cùng với hai Phó Chủ Tịch là Lê Vũ Kỳ và Trịnh Kim Quang đã từ chức vì lý do cá nhân. ACB cũng xác nhận hai vị này có liên quan đến vụ tai tiếng tài chánh của ngân hàng này. Vì liên quan đến ngân hàng ACB, ông Phạm Trung Cang, Phó Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị ngân hàng Eximbank cũng đã từ chức vì lý do cá nhân. Nhưng ngày 27/09/2012, ông Trần Xuân Giá, cùng với các ông Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, và Phạm Trung Cang bị khởi tố, vì liên quan đến vụ lừa đảo hơn 700 tỷ đồng của ngân hàng ACB. Cả 4 người được tại ngoại, nhưng bị cấm rời khỏi nơi cư trú.
Trong khi chờ kết quả vụ án tham nhũng rất lớn liên quan đến chính trị nội bộ đảng cộng sản mà ông Kiên khai báo những gì, Các Anh có thấy tội nghiệp cho dân tộc Việt Nam mình không? Chỉ vì cái ông Thủ Tướng thuộc dòng họ “Bạch Tuộc” nên “cha con” Thủ Tướng cộng lại có đến hằng mấy chục cái vòi lớn nhỏ dài ngắn, cùng nhau rút ruột quốc gia qua từng ngóc ngách trong xã hội.
Kết Luận
Hiện nay, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng và những tay sai thân tín của ông ta thật sự hốt hoảng, sau khi những tham nhũng gộc trong ngành tài chánh và các tâp đoàn kinh tế do ông ta cai quản bị bắt. Cùng lúc, lệnh của Nguyễn Tấn Dũng ngày 12/9/2012 cấm công nhân viên chức không xem những “tin tức phản động”, thì trong nữa ngày đầu tiên có hơn 500.000 người tìm đọc các tin tức trong các Blogs đó để nhận ra bộ mặt ghê tởm của ông ta. Tiếp đến là bản án quái đản mới nhất đối với ba Bloggers Điếu Cày Nguyễn Văn Hải + Tạ Phong Tần + Phan Thanh Hải khi nhìn từ góc cạnh pháp lý trong xã hội văn minh, chính Thủ Tướng CSVN đã vạch áo cho mọi người thấy “dòng chữ xâm trên lưng” khi họ gia nhập đảng: “Đảng CSVN cao hơn luật pháp, với lý tưởng tranh đoạt quyền lực để “thâu tóm” quyền lợi, và không bao giờ thay đổi”. (thâu tóm, là chữ mà Nguyễn Tấn Dũng sử dụng khi nói đến lãnh đạo các ngân hàng bị bắt)
Tôi thấy cần giúp Các Anh với nét nhìn của người tự do về hai nhóm chữ mà Thủ Tướng Các Anh đã sử dụng trong công văn ngày 12/9/2012 là “Những tin tức phản động, những thế lực thù địch” để chỉ những người mà ông ta trấn áp, giam giữ, phạt tù, để giúp ông ta giảm bớt nỗi sợ hãi vì bị ám cái chết “bất đắc kỳ tử” trước mắt ông. Những tin tức phản động, chính là những tin tức xác thật về những sự kiện xấu xa tồi tệ về hành động của ông ta thâu tóm tài sản. Còn Những thế lực thù địch, chính là những người dân yêu nước, yêu tự do, muốn xây dựng một xã hội dân chủ được quản trị bởi luật pháp, vì đó là hạnh phúc của đồng bào.
Tôi mong Các Anh bình tâm mà nhìn vào chuỗi sự kiện đã và đang diễn ra để nhận ra sự thật, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình chớ không phải tâm hồn của người đảng viên cộng sản, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới. Hãy nhớ ...

“Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng”.
“Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước ...”.
Texas, tháng10 năm 2012

tieuchuy
11-05-2012, 03:09 PM
Thư số 13 gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi đảng cộng sản bị triệt tiêu trên quê hương tôi.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này là nối tiếp “Thư số 12” trong tháng 10 vừa qua, giúp thêm những yếu tố để Các Anh nhận rõ hơn nữa mức độ tồi tệ của xã hội chủ nghĩa, ngang qua bộ mặt thật của nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, sau chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng trong vòng tay của ông Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy hội nghị trung ương lần 6 của đảng CSVN đã bế mạc ngày 16/10/2012 sau 15 ngày họp kín, với kết quả là “Ban Chấp Hành Trung ương đã quyết định không kỷ luật Bộ Chính Trị, cũng như không kỹ luật một đồng chí trong Bộ Chính Trị” mà ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang của Các Anh gọi là “đồng chí X”, nhưng tôi vẫn “giới thiệu” với Các Anh về một số sự kiện mà người dân trong nước muốn được đối chất với “đồng chí X” của ông Sang, chính là ông Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng.

Thứ nhất. Công văn số 7169 ngày 12/9/2012 của ông Nguyễn Tấn Dũng, như bản án tử hình đối với 3 trang blog “Quan Làm Báo, Dân Làm Báo, và Biển Đông” mà không cần tòa án. Vì vậy mà trang Blog “Quan Làm Báo” có bài thách Thủ Tướng đối chất bằng cách sử dụng toàn bộ hệ thống truyền thông “lề phải” làm diễn đàn tranh luận những sự kiện sau đây:

Sự kiện 1. Vinashin sụp đổ. Tại phiên họp Quốc Hội, Thủ Tướng chỉ nhận trách nhiệm chính trị vụ sụp đổ Vinashin. Xin hỏi: Với Quyết Định số 43 ngày 22/8/2011, “Thủ Tướng ra lệnh các ngân hàng thương mại phải xóa nợ hơn 20.000 tỷ đồng cho Vinashin là theo điều luật nào?

Sự kiện 2. Ngân hàng Phương Nam.
(1) Tháng 11/2011, Thủ Tướng chị thị ngân hàng nhà nước “rót trực tiếp” cho ngân hàng Phương Nam 5.000 tỷ đồng, và 5.000 tỷ đồng khác “rót gián tiếp” cũng cho ngân hàng Phương Nam nhưng vòng qua BIDV, trong khi BIDV mất thanh khoản và bị Ủy Ban Giám Sát Tài Chánh xếp vào nhóm hạng 5, nhưng lại thâu tóm ngân hàng Samcombank trị giá 7 tỷ mỹ kim. “Xin hỏi: “Thủ Tướng có khẳng định là không tham nhũng khi nhóm lợi ích của Thủ Tướng thâu tóm các ngân hàng không?”
(2) Sau khi ngân hàng Phương Nam được cứu do hợp đồng tư vấn của Bản Việt, Trầm Bê đã trả cho Bản Việt 1.500 tỷ đồng. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám bảo đảm an toàn cho những người công khai nói lên sự thật về hành động của Thủ Tướng không?”
(3) Ông Nguyễn Văn Bình, Thống Đốc ngân hàng nhà nước, đã truyền đạt ý kiến của Thủ Tướng về vụ thâu tóm ngân hàng Phương Nam rằng: “Nếu lùm xùm quá thì ngân hàng nhà nước lấy lại 24% cổ phần Samcombank mà ngân hàng Phương Nam đang nắm giữ”. Xin hỏi: ”Có đúng là Thủ Tướng ra lệnh này? Nếu đúng, Thủ Tướng đã biết rất rõ diễn tiến và bản chất của việc thâu tóm sẽ gây chấn động thị trường tài chánh Việt Nam, trường hợp này “Thủ Tướng sẽ trả lời thế nào, nếu Thủ Tướng bị kết án là người chủ mưu?”

Sự kiện 3. Thâu tóm 9 ngân hàng. Thống đốc Bình chính là người đã “lừa” Thủ Tướng khi trình danh sách 09 Ngân hàng tái cấu trúc phục vụ mưu đồ cho nhóm thâu tóm, mà Thủ Tướng hoàn toàn không hề biết ngân hàng nào mất thanh khoản, và ngân hàng nào không, dẫn đến 03 ngân hàng khi sáp nhập đã mất trắng 46.000 tỷ đồng, chính là trách nhệm của Thống Đốc Bình. Đề nghị cho Thống Đốc Bình đối chất.

Sự kiện 4. Con gái của Thủ Tướng nhận hối lộ. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc trong thời kỳ bóp nghẹt tiền tệ một cách khốc liêt, thì riêng Eximbank, Techcombank và Ngân hàng Bắc Á, vẫn được Ngân Hàng Nhà Nước rót tiền hỗ trợ từ hàng ngàn tỷ đến vài chục ngàn tỷ đồng trong 06 tháng đầu năm 2012, “đó có phải là việc làm “bình thường và bình đẳng” giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam?” Sự kiện này có phải là nguyên nhân từ hành động của Nguyễn Đức Kiên đã “tặng” cho con gái của Thủ Tướng là Nguyễn Thanh Phượng 50 triệu mỹ kim để thôn tính Ngân Hàng Gia Định?. Sau đó, ông Nguyễn Đức Kiên được phép đưa cô Phượng đi “du hí” Châu Âu, tham gia cá độ giải bóng tròn Châu Âu vừa qua như người dân tố cáo. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám cam kết sẽ cho điều tra làm rõ vự việc tố cáo này?”

Sự kiện 5. Hơn 200.000 doanh nghiệp phá sản. Toàn bộ dự án tái cấu trúc ngân hàng của Thủ Tướng vừa qua, rõ ràng đã bị chi phối và phục vụ cho nhóm Nguyễn Đức Kiên thâu tóm, đã đẩy nền kinh tế Việt Nam suy thoái đến mức hơn 200.000 doanh nghiệp phá sản hoặc chết một cách âm thầm lặng lẽ, nạn thất nghiệp gia tăng gấp 02 lần so với năm 2007, nhân dân đang bị bần cùng hoá. Xin hỏi: ”Thủ Tướng trả lời thế nào về sự kiện này?”

Sự kiện 6. Vàng lá SJC.
(1) Dự án xây dựng thương hiệu vàng SJC thành thương hiệu vàng Việt Nam do Thống Đốc Nguyễn Văn Bình trình lên Thủ Tướng, nhưng ông Bình không báo cho Thủ Tướng biết thương hiệu SJC không phải là hoàn toàn của nhà nước 100%, mà thật ra là ông Đỗ Minh Phú đã mua toàn bộ số vàng này ở miền Bắc và miền Trung từ Lê Hùng Dũng. Xin hỏi: “Vậy, có phải Thủ Tướng đã bị ông Thống Đốc lừa không?” Và đề nghị Thủ Tướng nên cho Thống Đốc Bình cùng tham gia đối chất được không?”
(2) Dự án cấm toàn dân bán vàng lá, biến thói quen trữ vàng trong nhân dân thành bất hợp pháp. Xin hỏi: “Có phải mưu đồ của Thủ Tướng là để Công An của Tướng Hưởng có thể bắt và tịch thu bất cứ lúc nào, hoặc có phải Thủ Tướng cùng với đàn em Nguyễn Đức Kiên + Lê Hùng Dũng + Đỗ Minh Phú, sẽ thu được 1 tỷ mỹ kim khi người dân hoảng loạn đem vàng lá bán tháo bán đổ vì biết mình không được giữ vàng, phải không?” Dù thế nào đi nữa, xin Thủ Tướng cho Thống Đốc Bình cùng tham gia đối chất.

Và mong rằng Thủ Tướng dám tranh luận công khai trước Tòa Án để nhân dân theo dõi và có phán quyết đúng đắn nhất.

Trên đây là “bản cáo trạng” của Blog “Quan Làm Báo” với những dẫn chứng kèm theo. Tôi nghĩ là Các Anh cần đọc vài lần, rồi thử làm bài toán cộng xem ông Thủ Tướng của Các Anh cùng với tay chân bộ hạ, nhất là con gái của ông ta, thâu tóm được bao nhiêu? Xong, hãy nhìn lại cuộc sống Các Anh cùng với gia đình quyến thuộc như thế nào. Lãnh đạo các cấp của Các Anh thường hay rao giảng rằng: “Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản là đảng của giai cấp công nhân với nông dân, xã hội Việt Nam không có cảnh người bóc lột người như bọn thực dân với bọn đế quốc”.

Tôi nghĩ, rất có thể Các Anh nghe đến phát chán rồi nên không Ithấy gì trong lời rao giảng đó. Nhưng tôi thì thấy, và thấy rất rõ. Đúng là không có cảnh người bóc lột người, mà chỉ có cấp lãnh đạo bóc lột người, thậm chí là cướp đoạt mọi thứ của người dân, kể cả Các Anh và gia đình Các Anh. Với lại không phải chỉ có cấp lãnh đạo trung ương bóc lột người, mà là lãnh đạo các cấp từ trung ương xuống đến tận đáy hạ tầng cơ sở, và luồn vào mọi ngóc ngách sinh hoạt của xã hội. Mức độ tham nhũng, bóc lột, cướp đoạt, đến mức mà người dân không còn một chỗ nào để tránh né được nữa, đã dẫn đến một xã hội mà ngày nay Hồ Chí Minh đỉ điếm, Hồ Chí Minh cướp giật, Hồ Chí Minh trấn lột, đầy đẫy trên mọi nẽo đường góc phố. Hồ Chí Minh của Các Anh ngày nay, cho dù có bao nhiêu nhà nhiều tầng, có bao nhiêu khách sạn ba bốn năm sao, có hằng trăm nơi ca hát khiêu vũ, có những sòng bạc không kém gì xứ sở Monaco nhỏ bé ở Âu Châu, ..v..v.. , vẫn là một Hồ Chí Minh bừa bãi trong xây dựng ngang dọc thấp cao, Hồ Chí Minh dơ dáy về vệ sinh với những bãi rác cao ngút đầy người tìm sống từ trong những đống rác đó , đường phố trở thành “sông rạch” bẩn thỉu dưới cơn mưa vì hệ thống thoát nước bị hư hỏng do nhà cửa xây cất ngỗn ngang. Hồ Chí Minh của Các Anh với mọi thứ độc hại thải ra từ bụi mù, từ khói xe, ..v.v. đến mức mà mọi người phải bịt mũi bịt mặt khi ra khỏi nhà, chẳng khác những ông bác sĩ những bà y tá mỗi khi vào phòng bệnh nhân lao phổi hay phong cùi vậy.

Các Anh hiểu rằng, càng nhiều dự án, càng nhiều phô trương mặt nổi của xã hội thì lãnh đạo các cấp càng thâu tóm được nhiều tài sản, kể cả “rút ruột” công trình bằng cách trộn bùn đất vào bê tông như đập thủy điện Dakrông 3 thuộc tỉnh Quảng Trị, chỉ sau 15 ngày tích trữ nước để chạy thử thì đập bị vỡ ngày 9/10/2012, gây thiệt hại nặng nề cho đồng bào vùng hạ lưu. Những sự kiện kinh hoàng đó xảy ra thường xuyên nên trở thành “chuyện thường ở Huyện” đã có thời gian trên làn sóng phát hình ở Việt Nam, vì vậy mà những vụ sụp nhà, vỡ đập, mưa lụt, nhà ngập, ..v..v.. , lãnh đạo Các Anh vẫn cứ xây dựng bất kể cảnh trí của thành phố, vẫn cứ ngăn sông đắp đập, vẫn giăng mắc giây điện như những mạng nhện khắp phố phường, có đẹp mắt hay không chẳng có nnghĩa gì hết, họ cứ làm xong thì tiền vào là được rồi.

Theo Các Anh thì ông Thủ Tướng đảng CSVN có can đảm nhận đối chất để chứng minh ông ta là người trong sạch không? Tôi nghĩ, chắc ông ta không có cái can đảm đó đâu, cho dù trong tay ông ta có cả một hệ thống truyền thông để ông ta sử dụng. Với lại “nhóm đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị cũng không cho ông Dũng đối chất đâu, vì ông Dũng vừa bị lột mặt nạ trong cuộc đấu đá vừa qua, rất có thể ông ta nhân đó mà lột một loạt mặt nạ của cả đám thì sao.

Chưa hết đâu, dưới đây còn lời thách thức của một công dân khác.

Thứ hai. Báo “International Business Times” ngày 17/9/2012, có bài phỏng vấn Trần Hưng Quốc với những câu hỏi mà ông Quốc muốn được tranh luận với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và gia đình, cùng các tay chân thân tín của ông ta đã lũng đoạn kinh tế tài chánh Việt Nam, qua một số sự kiện sau đây:

Sự kiện 1. Bằng cách nào mà em vợ Thủ Tướng là Trần Minh Chí và con gái Nguyễn Thanh Phượng trở thành sở hữu chủ 20.000 m2 đất “kim cương” tại số 3A đường Tôn Đức Thắng từ tay Tổng Cục 2 Tình Báo? Thủ Tướng có dám khẳng định việc này là bình thường mà Thủ Tướng không có ảnh hưởng gì đến thương vụ này, và bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể mua được nếu đưa ra đấu thầu công khai?

Sự kiện 2. Dự án sinh thái khu rừng “U Minh Thượng” (Cà Mau) là sòng bài trá hình, để hợp thức hóa khối tiền hối lộ Thủ Tướng qua tay em vợ là Trần Minh Chí. Xin hỏi: ”Thủ Tướng có dám trả lời trước nhân dân nếu chúng tôi cung cấp bằng chứng và nhân chứng? Và Thủ Tướng có bảo đảm cho nhân dân tham gia tranh luận được an toàn không?”

Sự kiện 3. Thủ Tướng đến thăm mỏ Núi Pháo và tuyên bố sẽ đuổi nhà đầu tư nước ngoài, và vài tháng sau đó thì tập đoàn Masan mua được mỏ núi Pháo. Xin hỏi: “Thủ Tướng có dám khẳng định, nếu không có bản hợp đồng tư vấn với Bản Việt và bàn tay của Nguyễn Thanh Phượng, thì tập đoàn Masan có mua được dự án Núi Pháo với giá rẻ sau khi đuổi nhà đầu tư ngoại quốc không?

Sự kiện 4. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc tập đoàn Masan của Nguyễn Đăng Quang và Hồ Hùng Anh, được vay 2.376 tỷ đồng ưu đãi từ ngân hàng Phát Triển Việt Nam, là chính sách của Nhà nước chỉ tài trợ các dự án thuộc lãnh vực “quốc kế dân sinh” và lại được chánh phủ bảo lãnh vay 130 triệu mỹ kim của tổ chức tín dụng nước ngoài để khai thác Núi Pháo là “Mỏ Vonfram” lớn thứ nhì thế giới?

Sự kiện 5. Tại sao em ruột của anh em cột chèo với Thủ Tướng được giữ chức vụ Chủ Tịch của Sabeco, trong khi Công An điều tra các vị lãnh đạo công ty này trong mấy năm qua mà không có kết luận. Xin hỏi: ”Thủ Tướng có dám nói là mình vô can không?

Sự kiện 6. Thủ Tướng trả lời thế nào về tố cáo tập đoàn Masan của Nguyền Đăng Quang và Hồ Hùng Anh, cộng với Nguyễn Thanh Phượng, về kế hoạch thâu tóm GTEL và Mobifone?

Sự kiện 7. Thủ Tướng trả lời thế nào việc tập đoàn Masan đã thâu tóm 51% Vinacafe Biên Hòa, sau khi ký hợp đồng tư vấn với công ty Bản Việt với chi phí gần 100 tỷ đồng mà không thông qua đấu thầu? Đây có phải là hợp đồng trá hình cho việc “hối lộ” không? Thủ Tướng có dám khẳng định Vinacafe chuyển nhượng cổ phiếu cho tập đoàn Masan là do tự nguyện, và nếu Masan không thông qua Nguyễn Thanh Phượng thì liệu có thâu tóm được Vinacafe không? Nếu các cổ đông Vinacafe đệ đơn tố cáo họ bị ép bán, Thủ Tướng có hủy bỏ thương vụ thâu tóm này mà KHÔNG kết tội họ là phản động?

Sự kiện 8. Thủ Tướng trả lời thế nào về dư luận tố cáo vợ chồng con gái Thủ Tướng tham gia tư vấn mua Tàu Hoa Sen cho Vinashin với giá cao hơn vài chục triệu mỹ kim? Tương tự như vậy, Thủ Tướng trả lời thế nào về dư luận tố cáo vợ chồng con gái Thủ Tướng tham gia tư vấn mua ụ nổi và tàu già cỗi hư hỏng cho Vinalines, góp phần vào sự phá sản của Vinalines. Thủ Tướng có đồng ý chỉ đạo cơ quan điều tra và Bộ Ngoại Giao kêu gọi các quốc gia liên quan giúp điều tra làm rõ sự tố cáo này không?

Sự kiện 9. Với hợp đồng tư vấn mà công ty Bản Việt được trả hàng trăm tỷ đồng, để giúp Holcim mua được nhà máy xi măng Cotec với giá chỉ bằng 50% thị trường vào năm 2010 mà không thông qua đấu thầu. Xin hỏi: “Đây có phải là một dạng hối lộ trong mua bán với lợi thế về phía con gái của Thủ Tướng?”

Sự kiện 10. Tại sao Bản Việt có thể mua được cổ phần của ngân hàng Gia Định từ Vietinbank bằng đúng trị giá để trở thành sở hữu chủ, và đổi tên là ngân hàng Bản Việt với lô-gô là con Phượng bay lên! Thủ Tướng có dám đoan chắc rằng ”Nếu Nguyễn Thanh Phượng không phải là con gái của Thủ Tướng, thì Vietinbank này có dễ dàng bán cổ phần cho Bản Việt chỉ bằng trị giá mà mình đang nắm giữ không?”

Sau cùng là chúng tôi tố cáo con gái của Thủ Tướng. Cô Nguyễn Thanh Phượng đã nhận 1.500 tỷ đồng từ ông Trầm Bê, gián tiếp góp phần thâu tóm Sacombank. Thủ Tướng trả lời thế nào về việc này?
Theo 19 Điều mà đảng viên không được làm, đề nghị: Việc con gái của Thủ Tướng tham gia hoạt động kinh tế thuộc phạm vi Thủ Tướng quản lý, điều đó có vi phạm Nghị Quyết Trung Ương về chỉnh đốn Đảng không?

Các Anh thấy chưa? Một người làm Thủ Tướng, không phải chỉ cả họ được nhờ, mà là cả họ bên vợ bên chồng, và “dây mơ rễ má” của bên chồng bên vợ, kéo theo hai bên bốn phía thông gia bên vợ bên chồng của con cũng được nhờ nữa. Dễ sợ chưa? Chính xác là không có cảnh người bóc lột người, chỉ có lãnh đạo và dòng họ xa gần bóc lột người thôi.

Thứ ba. Nguyễn Thanh Phượng, dưới nét nhìn của Blogger Thùy Linh.

Nguyễn Thanh Phượng, sinh ngày 20/3/1980 tại Kiên Giang, tốt nghiệp Cử Nhân ngành Tài Chính Ngân Hàng trường đại học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội, Thạc Sĩ về Quản Trị Tài Chánh trường đại học Quốc Gia Geneve, Thụy Sĩ khoảng 2004-2005. Và đang là nghiên cứu sinh Tiến Sĩ tại Học Viện Kỹ Nghệ Châu Á.

Bà Phượng là một sáng lập viên, và là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị VCSC. Cũng là sáng lập viên, và cũng là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị Công Ty Quản Lý Quỹ Bản Việt. Trước đó, bà từng là Giám Đốc Đầu Tư của quỹ Vietnam Holding, một quỹ đầu tư niêm yết trên thị trường chứng khoán London. Ngoài ra, bà Phượng từng giữ chức Phó Giám Đốc Tài Chánh của Công ty Liên doanh Holcim (Việt Nam), một tập đoàn đa quốc gia Thụy Sĩ”. Dưới đây là 4 Công Ty trong tay con gái Thủ Tướng:


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1352129433.jpg

Ngân hàng Bản Việt. Vốn điều lệ là 3.000 tỷ đồng.

Công ty bất động sản Bản Việt. Chưa có tài liệu đầy đủ.

Công ty Bản Việt quản lý quỹ đầu tư chứng khoán (Viet Capital Asset Management). Vốn điều lệ ban đầu là 150 tỷ đồng, trong đó Nguyễn Thanh Phượng nắm giữ đến hơn 43% cổ phần của công ty. nhưng theo tài liệu năm 2008 thì tài sản niêm yết của VCF là 800 tỷ đồng, VCHF là 500 tỷ đồng. Đến năm 2012, với tin tức tổng hợp về các cổ phiếu mà Công Ty VCAM đang nắm giữ, thì tổng tài sản ước tính gần 3000 tỷ đồng.

Công ty chứng khoán Bản Việt của Nguyễn Thanh Phượng, từ vị trí thứ 8 hồi nửa đầu năm 2011, nhưng đến nửa cuối năm này (2011) đã lên đến vị trí thứ 4 trong số10 công ty chứng khoán dẫn đầu về phần môi giới giao dịch trên thị trường chứng khoán tại Sài Gòn. Theo báo cáo tài chính năm 2011, tổng tài sản của Công ty này là 2.417,6 tỷ đồng.

Với các tài liệu dưới dạng những con số đã thu thập được, thì tổng tài sản của 4 Công Ty Bản Việt do Nguyễn Thanh Phượng giữ chức Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, ước tính vào khoảng trên 10.000 tỷ đồng. Trong đó, theo các báo cáo thì nhóm lãnh đạo nắm tỷ lệ vốn trên 45%, đặc biệt với Công Ty Quỹ Đầu Tư Bản Việt thì Nguyễn Thanh Phượng nắm giữ hơn 43%.

Xin được hỏi Thủ Tướng về những công ty mà Nguyễn Thanh Phượng lãnh đạo thuộc quyền quản lý của Thù Tướng:

(1) Giá trị tài sản của Nguyễn Thanh Phượng từ đâu mà có? Tài sản xuất phát là bao nhiêu? Lợi nhuận, mức tăng trưởng nguồn vốn là bao nhiêu phần trăm mà sau 7 năm đã có được tài sản trên 10.000 tỷ đồng?
(2) Vậy, ai là người đã thường xuyên rót tiền cho Nguyễn Thanh Phượng?

Và nếu thật sự Nguyễn Thanh Phượng có tài năng xuất chúng trong ngành tài chính như vậy, sao Thủ Tướng không bảo Thống Đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình học hỏi để điều hành ngành tài chính ngân hàng của Việt Nam thoát khỏi tình trạng rối loạn và nợ xấu như hiện nay?

Các Anh nhận ra bộ mặt thật của ông Thủ Tướng CSVN rồi chớ? Chỉ với những tố cáo bên trên, cũng đủ cho người đọc thấy được mức độ ông Thủ Tướng CSVN tham nhũng lên bậc “siêu” rồi, vì chỉ riêng số tiền mặt ký thác tại ngân hàng Thụy Sĩ lên đến 1 tỷ 480 triệu mỹ kim. Nhưng không phải chỉ cá nhân ông ta, mà là cả nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị đều cùng loại “siêu tham nhũng” như vậy, vì tệ nhất như Trương Tấn Sang cũng ký thác đến 1 tỷ 124 triệu mỹ kim tiền mặt.

Không phải họ chỉ “siêu tham nhũng” mà họ còn “siêu tàn bạo” với người dân yêu nước, nhưng lại “siêu hèn hạ” với Trung Cộng, kẻ thù của dân tộc từ trong trong lịch sử xa xưa đến nay. “Siêu hèn hạ” đến mức bất cứ người dân nào từ già đến trẻ, biểu lộ chống Trung Cộng là bị Công An đàn áp, quản chế, bắt giam, bỏ tù, dù những công dân đó chỉ nói một lời, chỉ viết bài thơ, hát một bài nhạc, cất cao lời than cho số phận người dân Việt Nam bị tước mất cái quyền yêu quê hương đất nước của mình, hoặc tham gia bày tỏ thái độ chống kẻ thù chiếm đất, lấn biển, chiếm đảo của Việt Nam. Lãnh đạo CSVN “siêu hèn hạ” đến mức họ tự đồng hóa họ vào Trung Cộng, mà bằng chứng là người dân yêu nước chống Trung Cộng, họ cho là chống đảng cộng sản với nhà nước Việt Nam. Ngày 24/9/2012, một phiên tòa họp lại để đọc bản án định sẳn từ Bộ Chính Trị đối với 3 công dân yêu nước là Nguyễn Văn Hải chủ Blog “Điếu Cày”, cựu nữ Công An Tạ Phong Tần chủ Blog “Công Lý & Sự Thật”, và Phan Thanh Hải chủ Blog “”Anh Ba Sàigòn”. Mới nhất là hai ca nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình, bị đưa ra cái gọi là “tòa án nhân dân” ngày 30/10/2012 vừa qua để “tuyên án”, anh Việt Khang tức Võ Minh Trí 4 năm tù + 2 năm quản thúc, và anh Trần Vũ Anh Bình 6 năm tù + 2 năm quản thúc, sau vài tiếng đồng hồ gọi là “xử án”. Họ họp lại chỉ vài tiếng đồng hồ là đọc bản án đã được Bộ Chính Trị định sẳn rồi. Cộng Sản độc tài mà Các Anh! Các Anh thử nhớ lại thời gian 1946-1954, tòa án của CSVN áp dụng “luật rừng”, còn bây giờ tuy ở thành phố nhưng tòa án vẫn sử dụng loại “luật rừng” chớ không gì khác, cho dù “luật rừng thời nay” ẩn dưới dạng luật với những điều này khoản nọ nhưng quyết định bản án có phải là do ông bà “chủ tọa” phiên tòa đâu.

Nguyễn Phương Uyên, cô gái trẻ với tuổi đời chỉ mới 20, bị Công An bắt tại Sài Gòn ngày 14/10/2012 nhưng mãi đến khi đưa xuống giam ở Long An mới công bố, chỉ vì cô gái nhỏ bé này dám làm thơ chống Trung Cộng. Các Anh chịu khó lục lọi lại ký ức Các Anh trong suốt thời gian học dưới mái trường tiểu học, trung học, đại học (nếu có), có thời đại nào trong lịch sử chúng ta mà những công dân yêu nước đứng lên bày tỏ thái độ chống kẻ lấn đất chiếm biển của Việt Nam mà bị nhà nước sử dụng Quân Đội nhân dân, Công An nhân dân, cùng với bọn Côn Đồ xã hội chủ nghĩa để đàn áp, quản chế, bắt giam, bỏ tù những công dân đứng lên chống giặc không? Mời Các Anh hãy đọc mấy câu thơ tôi trích trong bài “Tôi Yêu Tổ Quốc Tôi Mà Tôi Bị Bắt” của nhà thơ (trong nước) Trần Mạnh Hảo:

“....... Tuổi trẻ mít tinh. Đả đảo Trung Quốc xâm lược. Sông Bạch Đằng tràn lên phố biểu tình, Sông Bạch Đằng bị bắt. Ải Chi Lăng theo Tuổi Trẻ xuống đường, Ải Chi Lăng bị bắt. Gò Đống Đa nơi xương giặc vùi xương, sẽ bị bắt nếu biểu tình chống giặc. Có nơi đâu trên thế giới này, như Viêt Nam tôi hôm nay. Yêu nước là tội ác, biểu tình chống ngoại xâm bị Nhà Nước bắt? Các anh hùng dân tộc ơi! Ngô Quyền ơi! Trần Hưng Đạo ơi! Nếu sống lại, các ngài sẽ bị bắt! Ai cho phép các Ngài đánh giặc phương Bắc?.......”

Các Anh hãy đọc tiếp ba dòng chữ mà tôi trich trong bài viết của cô Nguyễn Thu Trâm ngày 29/10/2012.

“.... Có đâu trên thế gian này lòng yêu nước cần phải được kín giấu, nếu không muốn bị xỉ vả, bị đấu tố, bị giam cầm tra tấn và bị tù đày? Có đâu trên thế gian này sự gian trá, lường láo, bịp bợm và phản trắc lại được tôn vinh là quang vinh muôn năm, là đời đời sống mãi… ?”

Các Anh có cảm nhận nỗi đau từ nơi sâu thẳm trong tâm hồn mình không! Đau lắm Các Anh à! Đau vì bất cứ chế độ nào cho dù man rợ hay tàn bạo đến đâu đi nữa, cũng chưa bao giờ lại bắt bỏ tù những người dân yêu nước đứng lên chống giặc thù. Vậy mà, trong thế giới văn minh ngày nay, một thế giới phát triển nhanh đến mức như mọi người chóng mặt, lại có chế độ cộng sản độc tài đang cai trị đất nước Việt Nam với những cái tên không biết có từ lúc lọt lòng mẹ hay là tên của cái đảng cộng sản độc tài, là Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Tấn Dũng, .... , lại hành động dã man tàn bạo với đồng bào như vậy, nhưng lại ươn hèn khiếp nhược với Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam như vậy!

Cũng vì vậy mà lãnh đạo CSVN của Các Anh, là những người luôn luôn sợ hãi. Họ sợ người dân nổi dậy lật đổ và giết chết họ, vì họ là lãnh đạo đảng cộng sàn độc tài, vừa độc tài vừa tham nhũng, vừa tàn bạo với dân lại vừa khiếp nhược với Trung Cộng, nên người dân không chấp nhận. Chính vì vậy mà họ phải chuyển nỗi sợ hãi của họ sang người dân, bằng cách thẳng tay đàn áp bắt giữ bỏ tù những công dân nào dám lên tiếng chống Trung Cộng, đến mức các đảng viên trong Bộ Chính Trị -nói theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang trong nước- là họ như đang trong “ống tay áo” của Trung Cộng vậy. Họ sợ Trung Cộng thanh trừng sẽ mất quyền lực quyền lợi, đến mức đoàn tàu cá Trung Cộng đen ngòm trên Biển Đông rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, nhưng chỉ dám gọi là “tàu lạ” mà không có bất cứ hành động nào để chống trả. Sợ Nguyễn Tấn Dũng phanh phui hành động quy lụy Trung Cộng để còn được mạng sống sau năm 2020 khi Việt Nam điểm thêm một ngôi sao nhỏ xíu trên lá cờ của Trung Cộng, hoặc sợ Nguyễn Tấn Dũng phanh phui những vụ cùng nhau chia chác những vụ tham nhũng, những vụ cướp đoạt tài sản quốc gia, tài sản đồng bào, tài sản quốc tế, nên muốn hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng mà không dám nói đích danh, chỉ dám gọi là “đồng chí X”.

Các Anh hãy nhận ra sự thật, là nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị đều có tham vọng như nhau trong mục đích nắm giữ quyền lực để thâu tóm quyền lợi, không một đảng viên nào nghĩ đến Tổ Quốc Dân Tộc trong vị trí lãnh đạo của họ. Hành động của CSVN ít nhất là từ năm 1954 đến nay, bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận thấy rõ ràng như vậy, ngoại trừ những người Việt Nam vô cảm với đồng bào và quê hương. Vậy, họ có đấu đá nhau đến đâu đi nữa, cũng vì tham vọng của riêng họ mà thôi. Thật là tội nghiệp cho Dân Tộc Việt Nam chúng ta!

Kết Luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ năm 1945 đến nay không? Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt miệng bịt mắt bịt tai. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp nhân dân yêu nước chống nước Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân.

Chẳng lẽ Các Anh không nhận thấy bất cứ sự xúc động nào trong tâm hồn Các Anh, cũng không nhận thấy sự khác biệt nào về “Công An Nhân Dân” mà lại dã man tàn bạo với Nhân Dân, nhiệm vụ của quân đội phải bảo vệ tổ quốc mà lại cầm súng bắn vào Nhân Dân, và cũng không nhận thấy vô số những sự kiện rất lạ so với xã hội văn min, đã và đang diễn ra hằng ngày trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam?

Nếu Các Anh trả lời: “Không”, quả là Các Anh đã vô cảm đến mức như bên trong lồng ngực không có trái tim với dòng máu đỏ. Vậy là Các Anh không có cái hãnh diện được làm người Việt Nam trong vũ trụ này. Vì khi là Con Người thì không thể vô cảm như vậy. Thật là vô phúc cho dân tộc Việt Nam chúng ta!

Nếu các Anh trả lời: “Có”. Tôi mong là Các Anh đang có những suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 11 năm 2012

tieuchuy
12-09-2012, 02:43 AM
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi nào quê hương tôi có được một chế độ dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào ầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này nối tiếp “Thư số 12” và “Thư số 13”, giúp thêm những sự kiện để Các Anh nhận rõ hơn nữa mức độ tồi tệ của xã hội chủ nghĩa, ngang qua bộ mặt thật của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị sau chuỗi rung chuyển các tập đoàn kinh tế và các ngân hàng trong vòng tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, người mà Chủ Tịch Trương Tấn Sang vì run quá nên chỉ dám gọi là “đồng chí X”.

Thứ nhất. Lại tố cáo tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng.

Trích bài viết ngày 17/08/2012 của ông Nguyễn Thứ Lữ, bí danh Hồng Hà với 50 tuổi đảng, nguyên chính trị viên Trung Đoàn Tây Bắc. Ông viết:

“Trân trọng thưa đồng bào, nhất là các cán bộ, đảng viên, những quân nhân trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, những công an trong Công An Nhân Dân đang ra sức bảo vệ chế độ, hãy thức tỉnh vì chúng ta đã và đang bị “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng lường gạt cả nước”. Những mồ hôi nước mắt và tiền bạc của nhân dân Việt Nam, đã và đang chảy vào túi tham của “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, vì họ đang nắm giữ 20 tập đoàn kinh tế quốc doanh trong tay, đó là:
(1) Tập đoàn Dệt May. (2) Tập đoàn Điện Lực Việt Nam. (3) Tập đoàn Dầu Khí. (4) Tập đoàn Công nghiệp Than. (5) Tập đoàn Công nghiệp Cao su. (6) Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông. (7) Tập đoàn Xăng Dầu (trước là Tổng Công Ty Xăng Dầu) (8) Tập đoàn Công nghiệp Hoá Chất. (9) Tổng công ty Giấy Việt Nam. (10) Tập đoàn Thuốc Lá (trước là Tổng công ty thuốc lá). (11) Tổng công ty Sông Đà. (12) Tập đoàn Thép (trước là Tổng công ty Thép). (13) Tổng công ty Hàng Không Việt Nam. (14) Tổng công ty công nghiệp Xi Măng. (15) Tổng công ty Lương thực miền Bắc. (16) Tổng công ty Lương thực miền Nam (có kế hoạch sáp nhập 2 Tổng công ty lương thực này). (17) Tổng công ty Cà phê Việt Nam. (18) Tổng công ty Đường Sắt. (19) Tập đoàn Hàng Hải Việt Nam (trước là Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam). (20) Tập đoàn Viễn Thông Quân Đội Viettel......
Với quyền thao túng trong tay, Nguyễn Tấn Dũng” đã gây ra không biết bao nhiêu thất bại lổ lã cho các tập đoàn quốc doanh, nợ nhiều tỷ đô la mà người dân đóng thuế cả đời trả không hết. Ông ta lại còn là người đứng đầu của Đảng Nhà Nước CSVN trong chương trình chống tham nhũng, nhưng lại biến tham nhũng ngày càng trở thành quốc nạn trầm kha, làm cho dân chúng bất mãn đến động trời động đất...” Ngưng trích.
Trích bài phát biểu của ông Nguyễn Bá Thanh, Bí Thư thành ủy Đà Nẳng tại Quốc Hội CSVN ngày 31/10/2012. ...”Nợ xấu không phải chỉ xấu mà là quá xấu, và không bao giờ đòi được". ...Tại sao với người dân hoặc doanh nghiệp tư nhân, khi đi vay mà không trả được hết nợ thì ngân hàng siết nhà siết đất, nhưng với doanh nghiệp nhà nước thì ngân hàng làm ngơ? Ngoài nguyên nhân nợ xấu là “bất động sản đóng băng”, có một vấn đề lớn hơn là “nâng khống giá trị” tài sản thế chấp lên để cho vay, chẳng hạn như khu đất thực giá chỉ 200 tỷ đồng, ngân hàng định giá lên 1.000 tỷ đồng và cho vay 600 tỷ đồng. Nhưng khi tịch thu đem rao bán 100 tỷ đồng cũng không ai mua, vậy là ngân hàng mất 500 tỷ đồng! Đây chính là nợ xấu, nhưng thật ra người vay và người cho vay đã chia nhau bỏ túi hằng trăm tỷ đồng”. Có những khoản nợ quá xấu mà không bao giờ đòi được, chẳng hạn như nhà máy xi măng ở Hạ Long và nhà máy Cẩm Phả, tổng số tiền đầu tư lên đến 4.000 tỷ đồng, nhưng sau vài năm hoạt động mỗi nhà máy lỗ hơn 1.000 tỷ đồng, đây chính là nợ quá xấu.

Theo bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 31/10/2012, hiện nay Ngân Hàng nhà nước đang đối diện với nguy cơ nợ xấu tăng cao, trong đó chỉ riêng tín dụng về bất động sản đã lên tới 1 triệu tỷ đồng chiếm 57% trong tổng số nợ, vì nhà cất xong rồi bỏ trống mà chưa có cách nào giải quyết. Bộ Trưởng Xây Dựng Trịnh Đình Dũng, tình trạng này đe dọa nghiêm trọng đến kinh tế vĩ mô, dẫn đến mọi chính sách kinh tế đều rất khó hoàn thành. Điển hình là các khu đô thị Hạ Long Star tại Quảng Ninh, khu đô thị Đa Phước và Jade Center tại Đà Nẵng, chung cư Quốc tế Booyoung tại Hà Nội, đều xây dựng dở dang. Tại Sài Gòn thì nhiều dự án lớn cũng không thể thực hiện. Tập đoàn Berjaya có tổng số vốn đăng ký lên đến 4 tỷ rưỡi mỹ kim nhưng không thực hiện với lý do “nếu xây dựng xong cũng không ai mua”. Theo báo cáo của Quỹ Vinaland do Vina Capital quản lý, tình trạng nhà bán ra của nhiều công ty rất tồi tệ, bằng chứng là trong 8 tháng đầu năm 2012, nhiều khu đô thị và các biệt thự của ba tỉnh Đồng Nai, Nha Trang, và Đà Nẵng, chỉ bán được tổng cộng 58 căn nhà trong tổng số xây dựng hằng ngàn căn.

Vẫn theo bản tin trên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình trả lời trước phiên thảo luận tại Quốc Hội, ông nhận trách nhiệm về thị trường vàng bất ổn trong vài tuần nay, vì chính sách độc quyền vàng miếng mà ông phổ biến chưa rõ ràng, làm cho đa số người dân lo sợ chính sách này sẽ ảnh hưởng đến việc quản lý vàng của nhà nước đối với xã hội. Vẫn theo ông Bình, hệ thống ngân hàng đã thu gom được 60 tấn vàng từ người dân, tương đương 3 tỷ Mỹ kim, và Ngân Hàng nhà nước mua vàng từ người dân có nghĩa là chuyển từ vàng sang tiền lưu hành trong xã hội để hỗ trợ nền kinh tế.

Tóm lược bài viết ngày 25/11/2012 của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, từng là Vụ trưởng Vụ Tài Khoản Quốc Gia thuộc Cục Thống Kê Liên Hiệp Quốc. Tổng số nợ công của Việt Nam khoảng 129 tỷ mỹ kim nếu tính theo chuẩn quốc tế, bằng 106% tổng sản phẩm nột địa (chữ tắt trong tiếng Anh là GDP) năm 2011. Theo tiêu chuẩn quốc tế, nợ công bao gồm nợ của các công ty quốc doanh, và nợ mà nhà nước bảo lãnh cho các công ty quốc doanh vay mượn quốc tế. Nhưng CSVN tránh né số nợ quá cao nên không tính nợ của các công ty quốc doanh vào, để giảm tổng số nợ xuống mức 67 tỷ mỹ kim, hay là 55% tổng sản phẩm nội địa năm 2011. Ông nói: “Chính vì nhà nước làm chủ sở hữu các công ty quốc doanh mà nhà nước không thể trốn trách nhiệm trả nợ, vậy mà lãnh đạo CSVN lại buộc các công ty quốc doanh khác phải trả số nợ của Vinashin".

Ông Việt dẫn lời Bộ Trưởng Tài Chánh CSVN Vương Đình Huệ, cho biết có đến 30 tập đoàn và tổng công ty có số nợ nhiều gấp ba lần tổng số vốn. Trong số này có 8 tập đoàn mang nợ gấp 10 lần vốn, và 10 tập đoàn mang nợ từ 5 đến 10 lần vốn. Và ông Việt nhận định: "Như vậy, có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ”.
Tóm lược bài “Thủ Tướng và cái giá của sự ngạo mạn” của Nhật Bình trên đài BBC Luân Đôn ngày 18/10/2012. Việt Nam của năm 2012 là đất nước chìm trong khối nợ xấu khổng lồ, bắt nguồn từ hệ thống ngân hàng, khối kinh tế quốc doanh yếu kém, và sự thao túng nền kinh tế mà nhiều ý kiến chỉ trích nhắm vào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, kém khả năng lãnh đạo nhưng lại tôn sùng chủ nghĩa bè phái, và hội nghị Trung Ương đảng lần 6 hồi nửa đầu tháng 10 vừa qua, đã thể hiện mức độ chỉ trích cao nhất.

Tác giả dẫn lời giáo sư Carl Thayer, Học Viện Quốc Phòng Australia. Ông Dũng là Thủ Tướng đã đặt ưu tiên hàng đầu là hỗ trợ xuất cảng tài nguyên năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, các sản phẩm hải sản và may mặc;.....“Là một Thủ Tướng quyền lực nhất trong lịch sử CSVN, và là người theo chính sách tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, “điểm yếu lớn nhất của ông Dũng là sự ngạo mạn mà lại thiếu khả năng lắng nghe những ý kiến quan trọng. Thời Thủ Tướng Võ Văn Kiệt có thành lập Tổ Chuyên Gia tư vấn về cải cách kinh tế và hành chính. Đến Thủ Tướng Phan Văn Khải, ông này nâng tổ chuyên gia thành Ban Nghiên Cứu về kinh tế đối ngoại, nhưng khi ông Nguyễn Tấn Dũng nhậm chức Thủ Tướng đã giải tán Ban Nghiên Cứu này bằng quyết định số 1008 ngày 28/7/2006. Ông Dũng đã loại bỏ đội ngũ cố vấn của thế hệ trước, để thay vào đó bằng một mạng lưới bè phái của riêng mình. Sự ngạo mạn này còn được cho là thể hiện qua cách ông Dũng đề cử những người thân cận vào các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, các tập đoàn và các tổng công ty nhà nước dưới quyền lãnh đạo của ông”....

Các Anh đọc qua những tố cáo với dẫn chứng kèm theo, phải nói rằng, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, với khả năng của một y tá, không có kiến thức căn bản về quản trị kinh doanh một xí nghiệp, vậy mà chỉ một sớm một chiều đã nắm trong tay đến 20 tập đoàn, cho nên đã có hằng loạt các tập đoàn thua lỗ là điều hiển nhiên. Kiến thức của một nhà lãnh đạo thì kém, nhưng mức độ tham nhũng trong thực tế đã chứng minh Thủ Tướng đảng CSVN đáng xếp vào bậc siêu rồi, “siêu tham nhũng”. Vì không chỉ Nguyễn Tấn Dũng tham nhũng, mà là con trai con gái con rể con dâu, rồi cả dòng họ bên vợ bên chồng, kéo theo dây mơ rễ má với bà con dòng họ bên chồng bên vợ của các thông gia, lại còn tay chân thân tín nữa, cho nên ông Nguyễn Thứ Lữ với 50 tuổi đảng viên cộng sản, gọi ông Nguyễn Tấn Dũng cùng với nhóm tham nhũng dây mơ rễ má với ông Dũng, ngắn gọn là “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” cũng đúng thôi.

Tham nhũng đến mức nhóm “đỉnh cao gian trá” trong Bộ Chính Trị, tuy cùng tham nhũng riêng tư và cùng ăn chia nhau trong những vụ tham nhũng chung, nhưng họ không chịu nổi nữa, bèn tổ chức đại hội trung ương đảng lần thứ 16 trước định kỳ, và kéo dài trong hai tuần lễ hồi nửa đầu tháng 10 vừa qua, dẫn đến dư luận loan truyền là phe tham nhũng trong Bộ Chính Trị sẽ hạ bệ Nguyễn Tấn Dũng và tập đoàn tham nhũng của ông. Cùng thời gian này lại xuất hiện trang Blog “Quan Làm Báo”, đưa lên các Diễn Đàn hằng loạt những tin tức thuộc loại “thâm cung bí sử” về tình tiết những vụ tham nhũng kinh khủng của “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, làm cho độc giả khắp nơi tin rằng lần này người dân bớt được một “con bạch tuộc khổng lồ” cộng chung dòng họ có đến hằng trăm cái vòi đua nhau rút ruột người dân, rút ruột quốc gia, và rút ruột đầu tư quốc tế. Nhưng đại hội chỉ là chuyện bắt đầu thi “lớn như con voi” để rồi chung cuộc thì “nhỏ xíu như con chuột”, nhỏ đến mức không có con chuột nào nhỏ hơn nữa. Lãnh đạo cộng sản là như vậy mà.
Các Anh đã biết ý nghĩa của kết quả đại hội đó chớ? Với tôi, ý nghĩa đó cũng là điều hiễn nhiên thôi, bởi bản thân phe nhóm tham nhũng trong Bộ Chính Trị phải tự cứu nhau, vì nếu không che chắn cho Thủ Tướng thì ông “tiến sĩ y tá” dại gì mà không phanh phui những vụ tham nhũng của từng người trong Bộ Chính Trị, từ đó có thể dẫn đến tình trạng đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ chăng? Các Anh cũng biết nhóm lãnh đạo CSVN chỉ sợ mất đảng chớ họ đâu có sợ đất nước vào tay Trung Cộng, bởi cộng sản chỉ có cái lý tưởng “quyền lực và tham nhũng”.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1355021132.jpg
Dương Trung Quốc

Theo bản tin của AFP ngày 14/11/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lần đầu tiên bị một trong số 500 đại biểu Quốc Hội kêu gọi ông từ chức vì những kém cõi trong lãnh đạo đã đẩy nền kinh tế đất nước vào tình trạng nguy ngập hiện nay. Đại Biểu Dương Trung Quốc nói:

“Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật chứ không phải chỉ là lời xin lỗi. Phải chăng Thủ Tướng nên nhân dịp này thể hiện quyết tâm sửa chữa của mình bằng cách khởi động cho một cuộc phấn đấu của chính phủ, hướng tới đoạn tuyệt với những lời xin lỗi, thay vào đó bằng tập quán phù hợp với xã hội hiện đại là “văn hóa từ chức”, với một lộ trình là các quan chức của ta làm được cái điều mà các quốc gia tiên tiến vẫn làm. Xin nhắc lại rằng, xa xưa các cụ nhà ta cũng coi việc cáo quan hồi hưu là một cách giữ tiết tháo....” Rồi ông đặt câu hỏi: “Thứ nhất. Thủ Tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã nặng trách nhiệm với đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân? Và thứ hai. Thủ Tướng có tán thành là sẽ khởi đầu cho một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một văn hóa từ chức để từng bước đoạn tuyệt với lời xin lỗi hay không?”

Ðáp lại những công kích công khai hiếm thấy này, Thủ Tướng Dũng phát biểu:

“Đối với tôi, còn 3 ngày nữa tròn 51 năm tôi theo Đảng, hoạt động cách mạng, chịu sự quản lý trực tiếp của Đảng. Trong 51 năm qua, tôi không xin với Đảng cho tôi đảm nhiệm chức vụ này hay chức vụ khác. Mặt khác, tôi cũng không thoái thác hay từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó cho tôi. Là cán bộ, đảng viên, tôi đã nghiêm túc báo cáo với Bộ Chính Trị, Ban Chấp Hành Trung Ương về bản thân mình. Đảng, Ban Chấp Hành Trung ương đã hiểu rõ về tôi, cả về sức khỏe, thương tật, cả về năng lực, phẩm chất, đạo đức cả về tâm tư, nguyện vọng của tôi. ... Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ Tướng. Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ Tướng thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Quốc Hội”.

Các Anh thấy chưa, ông Thủ Tướng Các Anh từ đầu đến cuối lời phát biểu chỉ nói đến đảng, chỉ tuân phục đảng, mà đảng chỉ là một nhóm người trong Bộ Chính Trị cùng tham nhũng như ông, mà không nói một lời nào đến trách nhiệm của Thủ Tướng đối với dân với nước. Bản chất của cộng sản là như vậy mà. Ông Dũng lại ra vẻ như không biết gì về mục đích mà ông Tổng Bí Thư với ông Chủ Tịch nước vội vàng triệu tập đại hội của Trung Ương đảng vừa qua, rằng “nhóm tham nhũng” trong Bộ Chính Trị dự định hạ bệ ông ta, nên mạnh miệng hồi đáp đại biểu Quốc Hội rằng ông Thủ Tướng “tiến sĩ y tá” là một đảng viên lãnh đạo, nào là năng lực, đạo đức, nào là luôn luôn thi hành lệnh đảng, chớ không bao giờ dùng thủ đoạn tranh đoạt quyền lực để thâu tóm tài sản. Tôi nói “cả nhóm tham nhũng” trong Bộ Chính Trị, vì nếu không tham nhũng thì tài sản hồi năm 1975 từ ngoài rừng vào thành phố Việt Nam Cộng Hòa chỉ có cái ba-lô đựng hai nắm cơm vắt với đôi dép râu, mà theo bản tin của Câu Lạc Bộ Dân Chủ số 39 tháng 2/2005, trích dẫn nguồn tin tuyệt mật từ Bộ Công An, thì Nguyễn Tấn Dũng lúc ấy là Phó Thủ Tướng thường trực, đã gởi ngân hàng Thụy Sĩ hơn 1 tỷ 480 triệu mỹ kim. Đúng là “lý tưởng” của cộng sản Việt Nam từ sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ, khi leo lên được chiếc ghế lãnh đạo là siết chặt cái ghế đó “theo cách nói của Nguyễn Tấn Dũng”, để bám giữ quyền lực mà thâu tóm quyền lợi, và không bao giờ thay đổi. Tất cả chỉ là dối trá, và dối trá.

Các Anh hãy nghe ông Mikhail Gorbatchev, một thời là Tổng Bí Thư đảng cộng sản Nga nói rằng: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản, ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”.

Chua hết. Vẫn trong lời phát biểu của ông Dũng về đảng lãnh đạo toàn xã hội, tự nó đã tố cáo đảng cộng sản đứng trên đầu Tổ Quốc Dân Tộc. Vậy, cái Quốc Hội với gần 90% đại biểu là đảng viên cộng sản thì cái chuyện bầu ông ta làm Thủ Tướng, chẳng qua là “đảng cử và Quốc Hội theo lệnh đảng mà bầu” chớ có gì đâu mà khoe, lại tự nó đã tố cáo bản chất dối trá của CSVN.

Thêm một đảng viên lãnh đạo là ông Trương Tấn Sang. Theo báo VietnamNet ngày 18/10/2012, khi tiếp xúc với cử tri Quận 4, có đoạn ông nói: ”Khi thấy mình nhu nhược thì tôi làm đơn xin nghỉ.... Thậm chí khi về quê, tôi sẽ trả lại nhà cho đảng. Nhà tôi nhỏ thôi, 51 mét vuông, khi về hưu dứt khoát tôi không lấy một mét vuông đất nào”. Các Anh nghe qua tưởng như ông Chủ Tịch Sang quá sức thanh liêm, đạo đức. Nhưng theo tài liệu của FYI (Poliburo network) ngày 19/12/2000, thì Trương Tấn Sang lúc ấy là Chủ Tịch Ủy Ban Kinh Tế trung ương, đã gởi ngân hàng Thụy Sĩ 1 tỷ 124 triệu mỹ kim.

Thứ hai. Đến con gái của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Với bài “Nổi Oan Cô Phượng” của tác giả “Tư Miệt Vườn” trong Blog “Dân Làm Báo”. Cô Phượng, người con gái quyền lực và nổi tiếng về tham nhũng. Ngay trước khi “cơn bão nổi lên nhắm vào cha cô là Dũng Thú Tướng đầy quyền lực và “danh tiếng” hơn con gái về tham nhũng”, thì cô ta vội vàng chạy khỏi Việt Nam để sang Hoa Kỳ “tị nạn”, xứ sở mà cha cô và nhóm lãnh đạo CSVN từng miệt thị là “tư bản chủ nghĩa đang giẫy chết tại dinh lũy cuối cùng của nó”. Tác giả vào đề: .....
Tư tui có đọc bài trả lời phỏng vấn của cô trên đài BBC, “cô cho rằng cô bị bịa đặt, bị gán ghép... những việc mà cô không liên quan làm cô buồn phiền, căng thẳng”. Thưa cô Phượng, có những con người yêu nước thật sự bị gán ghép, bị chụp mũ, và kết quả là họ phải ở sau song sắt nhà tù hàng chục năm. “Ai oan hơn ai thưa cô Phượng? Nỗi oan của cô, hay của những người yêu nước chống Tàu xâm lấn Việt Nam lại bị gán ghép âm mưu lật đổ nhà nước, đều có phần trách nhiệm của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, cha của cô đó”.
Với tư cách là người lớn tuổi, Tư tui cũng “khuyên cô đừng bắt chước những kẻ độc đảng, độc tài, độc quyền, độc ác mà gán ghép, mà chụp mũ những người yêu nước là "phản động". Cô có hiểu được định nghĩa của từ "phản động" là gì không? Cô là người được ra nước ngoài ăn học, cô phải hiểu rằng để quản trị một đất nước đâu thể là một tên lớp ba trường làng, một tên chăn trâu, một tên y tá rừng, một tên đồ tể giết người bằng cách bán bãi vượt biển rồi giết người trên biển. Ở Rạch Giá - Kiên Giang này ai mà không biết Nguyễn Tấn Dũng hả cô Phượng. Những miếng vàng mà mẹ cô cất giữ năm xưa có máu của những oan hồn chết trên biển cả đó thưa cô. Đừng ngậm máu phun người thì chính miệng cô sẽ dơ”.

“Cô nói, làm con của một người lãnh đạo đất nước chịu nhiều áp lực, điều đó đúng. Nhưng nói đi còn có nói lại, nó chỉ đúng khi người lãnh đạo đó là một minh quân, biết "tu thân tề gia trị quốc bình thiên hạ", còn như cha cô, một kẻ uống máu người thì làm sao dạy dỗ con cái như cô làm người tử tế. Cô tài ba cỡ nào mà kinh doanh ở Bản Việt đạt lợi nhuận từ năm 2010 chỉ có 75 tỷ sang đến năm 2011 là 360 tỷ, tỷ lệ tăng 379%? Nếu thật vậy sao cô không xin đoạt giải Nobel kinh tế về tài kinh bang tế thế của mình và thay cha mình ngồi vào ghế Thủ Tướng lèo lái Vinashin, Vinaline, hay là nền kinh tế Việt Nam đang chìm theo các tập đoàn mà cha cô là cha đẻ của các công trình thất thoát hàng tỷ mỹ kim. “Thưa cô, nếu cô không phải là con của ông Thủ Tướng độc tài, tham lam thì Bản Việt sẽ không có thành tích đó, tất cả là nhóm lợi ích mà cha cô là một đầu lĩnh MAFIA. Vậy mà Cô nói là cô bị oan à?”

“Ông Tổng Bí Thư Trọng đã nói khi kết thúc hội nghị Trung ương 6 là các ủy viên Bộ Chính Trị phải biết dạy dỗ con cái mình, ông ta đang nói về cha cô và gia đình cô đó. Cô thấy oan sao không lên tiếng phản bác mà chỉ dám phản bác mấy cái blog "phản động"? Còn "đồng chí X" không bị kỷ luật mặc dù tội dày trên 300 trang A4 mà ông Sang nói thì cũng chính là cha cô đó, cô có dám lên tiếng minh oan không? Người ta gọi cô là một quốc vụ khanh của chính phủ, trước khi gặp ông Thủ Tướng thì phải đến gặp cô, để cô thu xếp thời gian và địa điểm thích hợp và đương nhiên là cái giá phải trả cho sự thu xếp là không nhỏ, nó tùy thuộc vào giá trị của mỗi thương vụ. Oan nỗi gì hả cô? Cha cô với sự tiếp sức của cô cùng những kẻ cánh hẩu đang khuynh đảo cả đất nước này. Tư tui cũng được biết, cô Phượng là con gái yêu của “ngài” Thủ Tướng, nên Tư tui xin mạo muội nhắn gởi cô đôi điều, khi cô và mẹ cô đang sống trên cả hạnh phúc, ăn quá ngon, mặc quá đẹp, đi xe đắt tiền, và nhà ở thì sang trọng hơn dinh thự của các triều đại vua chúa ngày xưa. Xin cô và mẹ cô hãy, dành một ngày để bước ra chợ mà nhìn những người phụ nữ Việt Nam lam lũ, gánh từng bó rau đi xa hàng cây số để bán thu được khoảng vài chục nghìn đồng mưu sinh cho gia đình”.
“Những người phụ nữ cũng cở tuổi cô thất học thất nghiệp phải lên thành thị bán để giúp đỡ cha mẹ nghèo ở quê. Những người phụ nữ dành dụm từng đồng ít ỏi để thăm nuôi chồng con mình đang bị kết án "phản động" ở những trại tù xa xôi. Nhìn ra những việc đó, cô hãy nói với người cha của mình là hãy dừng bàn tay tội ác, tiền quyền sẽ hết, chết chỉ có hai bàn tay trắng, thì tham lam để làm gì? Cô có muốn gia đình cô cùng với họ hàng nhà cô, sẽ có một kết cục như những gia đình bạo chúa Saddam Hussein, Hosni Mubarack, Gadahfi không? Cô đừng nói mình bị oan, những điều mà người ta nói đến chỉ là một phần nhỏ, cô đã thay đổi quá nhiều từ khi là một học sinh từ Rạch Giá lên Sài Gòn ở nhờ đi học tại khu nhà nghỉ của công ty Thực Vật An Giang, bây giờ cô đã trở thành một tay mưu mô lọc lừa, tham lam tàn ác. Cô với cha cô, đúng là cha nào con nấy”.

Thứ ba. “Dân Nghèo Bỗng Dưng Gánh Nợ Khủng Khiếp”.

Đó là bài viết của Alan Phan ngày 5/11/2012: “Vay 10 triệu, 20 triệu, 50 triệu hay hơn nữa, một ngày kia bỗng dưng nhận giấy của ngân hàng báo nợ là 400 triệu, 500 triệu, 800 triệu,... Thậm chí có người không hề vay đồng nào cũng có tên trong danh sách nợ ngân hàng tới vài trăm triệu đồng.
Sự kiện này bùng nổ tại “chi nhánh Agribank Nam Am” từ giữa tháng 10/2012 khi hằng trăm gia đình dân nghèo thuộc xã Tam Cường huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, bỗng dưng họ nhận được giấy báo nợ của gân hàng Agribank Nam Am, họ kinh ngạc đến mức không tin vào mắt mình khi giấy thông báo nợ với những con số ghê gớm, vì từ 2 triệu, 5 triệu, 10 triệu thành 400 triệu, 50 triệu thành 800 triệu đồng....

Quá phẫn uất (trong nước gọi là bức xúc) trước sự kiện này, họ kéo nhau đến Ủy Ban Nhân Dân xã rồi Công An huyện Vĩnh Bảo, đưa đơn kiện bà Lê Thị Vững, cán bộ chi nhánh Nam Am trực thuộc Agribank Hải Phòng. Ông Vũ Xuân Thảo, Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân xã Tam Cường xác nhận: Tới nay, Ủy Ban đã tiếp nhận 80 đơn của người dân địa phương tố cáo bà Lê Thị Vững (nếu kể cảc các cơ quan khác đã nhận đơn cũng đến vài trăm). Các đơn này đều tố cáo bà Vững là cán bộ ngân hàng, cho người dân vay vài chục triệu, nhưng thực tế số tiền ghi nợ tại ngân hàng lại lên tới vài trăm triệu đồng. Bằng chứng: (1) Vợ chồng anh chị Trần Văn Mười & Đào Thị Lưu, cũng qua bà Lê Thị Vững đã thế chấp “sổ đỏ” (thẻ sử dụng nhà đất) để vay 40 triệu đồng của Agribank hồi tháng 8/2012, nhưng giữa tháng 10/2012 khi vợ chồng đến ngân hàng trả tiền lời thì ngân hàng cho Anh Chị biết số nợ là 480 triệu đồng. (2) Bà Đặng Thị Viên, sanh năm 1964 tại thôn 10, xã Tam Cường, cũng vay ngân hàng 10 triệu đồng qua bà Lê Thị Vững. Ngày 18/10/2012, khi đến ngân hàng xem lại hồ sơ thì số tiền vay nợ của gia đình bà tứ 10 triệu biến thành 400 triệu đồng. (3) Bà Ngô Thị Thắm xã Tam Cường, vay 90 triệu đồng trở thành 400 triệu đồng. (4) Gia đình anh Phạm Công Tuyển vay 10 triệu, đã trả xong 8 triệu, chỉ còn thiếu 2 triệu, nhưng số nợ nhỏ nhoi đó bỗng biến thành 400 triệu đồng.

Đó là trường hợp người dân có vay nợ từ ít biến thành 10 lần cao hơn. Lại có tình trạng những người không hề vay nợ lại có tên trong danh sách “con nợ” của Agribank Nam Am. Bằng chứng: (1) Bà Phạm Thị Miền, 54 tuổi, ở thôn 10, xă Tam Cường, từ nhiều năm nay thuộc thành phần nghèo nhất xã. Bà cùng người con tàn phế sống trong một căn nhà tồi tàn do người dân địa phương đóng góp 3 triệu đồng xây dựng. Căn nhà này lại được xây trên đất của người em trai, nên bà không hề có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thế nhưng, bà Miền lại có tên trong danh sách nợ ngân hàng với số tiền 400 triệu đồng. (2) Chị Phạm Thị Bích, xã Tam Cường, không hề vay ngân hàng đồng nào, cũng nhận được “trát” thông báo số nợ 40 triệu đồng.

Ngày 1/11/2012, ông Phạm Quư Giang, Phó Giám Đốc Agribank Hải Phòng, tiếp chuyện với phóng viên báo Lao Động, ông cho biết: “Agribank Nam Am là chi nhánh trực thuộc trực tiếp Agribank Hải Phòng. Ngay sau khi xảy ra sự việc, chúng tôi đã thành lập đoàn điều tra với kết quả sơ bộ như sau: Tại xã Tam Cường có 230 người tố cáo là bị “ghi khống số nợ” dù không vay nhưng cũng có tên trong danh sách nợ của ngân hàng. Đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng, nhưng chứng tỏ đơn của người dân là có cơ sở. Vì số người gửi đơn quá nhiều, chúng tôi mới điều tra được ở xã Tam Cường, còn những xã khác thì chưa xong”...

Sau đó, phóng viên báo Lao Động tiếp xúc với ông Bùi Thanh Tịnh, Giám Đốc chi nhánh Agribank Nam Am. Ông Tịnh trả lời câu hỏi về bà Lê Thị Vững : “Tôi không có “chức năng” (= không có quyền) trả lời báo chí”. Bài báo nhấn mạnh, để có thể rút tiền ngân hàng với số lượng hằng chục hằng trăm triệu, một mình bà Vững không thể làm được. Vì vậy mà dư luận người dân tại huyện Vĩnh Bảo đang đặt câu hỏi: “Liệu Bùi Thanh Tịnh liên quan thế nào khi ký vào các “hợp đồng khống” do bà Vững trình cho ông?”

Tiếp tục trích bài của ông Nguyễn Thứ Lữ. Blogger Ðào Tuấn cho biết: “Tổng Công Ty Xăng Dầu chỉ trong 3 tháng đã lỗ đến 3.600 tỷ đồng.” Làm thế nào để khỏi bị lỗ? Họ xin có một tỷ giá riêng, tức là người dân muốn đổi lấy một đô la Mỹ phải trả từ 18.000 đến 21.000 đồng Việt Nam, trong khi họ chỉ cần 12.000 đồng là đổi được một đô la, có nghĩa là người dân vừa mới trợ cấp cho công ty xăng dầu 6.000 đồng/1 đô la. Ðổi một lần độ 100 triệu đô la, thì toàn dân Việt Nam đã đóng góp vào túi “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” 600.000 tỷ đồng! Toàn dân Việt Nam đang bị rút ruột một cách tinh vi như thế! ....
Bây giờ thì Nguyễn Tấn Dũng không còn lo việc cất giấu hay chuyển ngân ra nước ngoài như trước nữa. Đã có con gái và chàng rể lo cho tất cả. Con gái của Dũng thế nào cũng trở thành công dân Mỹ vì lấy chồng là người Mỹ. Một mai nếu có xẩy ra biến cố ở Việt Nam thì đã có con gái là công dân Mỹ bảo trợ cho Dũng vào nước Mỹ dễ dàng. Chúng tôi xin lặp lại, chúng ta cả nước từ trung ương đảng đến các điạ phương, từ Quân Đội đến Công An, Quốc Hội, cũng như đồng bào cả nước đã bị “Tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng” lường gạt.

Chúng tôi tha thiết kêu gọi các sĩ quan trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hãy thức tĩnh, hãy nhận xét sự việc và hãy nhận chân sự thật. Chỉ có các bạn mới có hoàn cảnh làm nên lịch sử! Ở bất kỳ nước nào mà chúng tôi đã đọc qua lịch sử của những cuộc chính biến hay đảo chính, phải có địa vị tướng tá mới làm nên lịch sử. Nước kề cận ta là Thái Lan những người cầm đầu đảo chính chỉ là sĩ quan cấp úy như cố Thống Chế Phibul Songkram lúc làm đảo chính ông ấy chỉ là một Trung úy Pháo binh. Bạn nào có chí, có đảm lược thì nhất định thành công.
Kính mong các sĩ quan có binh lính và vũ khí trong tay, hãy tùy theo hoàn cảnh để làm nên lịch sử....
Kính chào Đoàn Kết. Nay kính. Nguyễn Thứ Lữ bí danh Hồng Hà. Hết trích.

Đọc đến đây Các Anh có thấy mỉa mai lắm không, vì tham nhũng là cả một hệ thống lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước từ trung ương đến tận các địa phương, và len vào mọi ngóc ngách của xã hội, đến mức người dân không còn chỗ nào để tránh né được nữa, vì vậy mà cái gọi là chức vụ Trưởng Ban phòng chống tham nhũng trung ương trong tay Nguyễn Tấn Dũng hay Nguyễn Phú Trọng hoặc Trương Tấn Sang nắm giữ cũng vậy thôi. Trong thư số 12 gởi Các Anh, căn cứ vào những sự kiện từ năm 1975 đến nay, tôi khẳng định “Trong xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không có người bóc lột người, chỉ có đảng cộng sản với nhà nước cộng sản bóc lột người, mà là bóc lột đến tận cùng xương tủy của người dân”. Chính xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chứng minh rành rành là bất cứ ai chống tham nhũng thì bị buộc tội chống đảng chống nhà nước, chống Trung Cộng xâm lấn biển đảo Việt Nam cũng là chống đảng chống nhà nước. Vậy lãnh đạo CSVN là ai? Không có cách nói nào khác ngoài cách nói “họ là những tay sai của Trung Cộng, với lý tưởng tranh đoạt quyền lực để thâu tóm quyền lợi, và không bao giờ chuyển đổi sang chế độ dân chủ tự do theo nguyện vọng người dân”.

Kết Luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ năm 1954 khi nhuộm đỏ một nửa nước đến nay không? Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp nhân dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân.

Ông Nguyễn Thứ Lữ, với 50 tuổi đảng, đã nhắn nhủ Các Anh rằng: “Chúng tôi tha thiết kêu gọi các sĩ quan trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam hãy thức tĩnh, hãy nhận xét sự việc và hãy nhận chân sự thật. Chỉ có các bạn mới có hoàn cảnh làm nên lịch sử!
Sau khi Các Anh đọc loạt thư của tôi từ số 1 hồi tháng 1/2011 đến số 13 vừa qua, tôi mong là Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bấy cứ hình thức nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, cầm sổ “thông hành” (trong nước gọi là hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 12 năm 2012

tieuchuy
01-05-2013, 07:29 AM
Thư số 15 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
*******
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và trách nhiệm của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi thư đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn từ những góc cạnh khác nhau về cuộc biểu tình của đồng bào ngày 9/12/2012 tại Hà Nội và Sài Gòn, phản đối hành động của Trung Cộng lấn chiếm Biển Đông, và phản ứng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam đàn áp người dân biểu tình bày tỏ tinh thần bảo vệ tổ quốc đã nói lên điều gì với đồng bào, với thế giới, và với Trung Cộng.

Thứ nhất. Hành động của Trung Cộng.

Sự kiện 1. Về Thông Hành (trong nước gọi là Hộ Chiếu) của Trung Cộng có in hình “Đường Lưỡi Bò” tự nhận chủ quyền của họ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Theo bản tin Tân Hoa Xã của Trung Cộng thì “Thông Hành” này phát hành từ ngày 15/5/2012 với số lượng 6.000.000 cuốn đầu tiên, có giá trị trong 10 năm.
Nơi “khám phá” loại Thông hành này là đồn biên giới Lào Cay. Theo Trung Tá Trần Việt Huynh, trưởng đồn, trong khoảng thời gian từ 11/11/2012 - 23/11/2012, có hơn 100 người Trung Hoa sử dụng loại Thông Hành này nhập cảnh Việt Nam. Trong khi đó, bản tin của chánh phủ CSVN ngày 22/11/2012, đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện tòa đại sứ Trung Cộng và trao công hàm phản đối việc in hình bản đồ loại này trong Thông Hành. Cũng ngày 22/11/2012, phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị mới có phản ứng. Khi đề cập đến hành động nói trên của Trung Cộng, ông Nghị nói : “Việc làm trên của Trung Quốc đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng như chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển liên quan ở Biển Đông.” Vậy là lãnh đạo CSVN vừa hoàn thành công việc phản đối Trung Cộng!

Các Anh có thấy là phản ứng ở cấp chánh phủ đối với vấn đề nghiêm trọng như vậy là vừa chậm vừa cho có lệ như những phản ứng từ trước không? Nhưng nhìn lại phản ứng của lãnh đạo Các Anh từ khi “Biển Đông dậy sóng” năm 1988 đến nay, thì không có gì là chậm, cũng không có gì khác ngoài phản ứng “rất nhẹ nhàng hữu hảo” của Bộ Ngọai Giao, đúng với chính sách hèn hạ và khiếp nhược của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng, một nước Tàu vừa thâm lại vừa độc như lời dạy của vua Trần Nhân Tông từ cuối thế kỷ 13. Khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng: “Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Tự cho mình cái quyền ăn nói, rồi nói một đường làm một nẻo. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Trung Hoa là cái họa lâu đời truyền kiếp. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Không để mất một tấc đất của tiền nhân để lại. Hãy đề phòng quân Đại Hán Trung Hoa". Ta cũng để lời nhắn nhủ này như một lời di chúc cho muôn đời con cháu."

Sự kiện 2. Ngày 29/11/2012, theo “Trung Hoa nhật báo” thì Trung Cộng chuẩn bị đưa Cảnh Sát biên giới thuộc tỉnh Hải Nam, chận tàu ngoại quốc xâm nhập trái phép vùng biển mà Trung Cộng tự nhận chủ quyền, lên tàu lục soát, tịch thu, và trục xuất ra khỏi vùng biển của họ.

Sự kiện 3. Ngày 30/11/2012, tàu khảo sát Bình Minh 2 của Việt Nam đang công tác nghiên cứu trong vùng biển Việt Nam, bị hai tàu cào cá của Trung Cộng cắt cáp thu nổ địa chấn. Nhớ lại, tàu Bình Minh 2 đã một lần bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp ngày 26/5/2011.

Sự kiện 4. Ngày 6/12/2012 các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều loan tin Trung Cộng “ra lệnh cho CSVN phải ngưng tất cả công trình dò tìm dầu khí ở Biển Đông, và không được quấy nhiễu tàu đánh cá của họ”. Trung Cộng còn dạy lãnh đạo CSVN phải tỏ ra có tình hữu hảo trong lúc hai nước còn thương lượng về chủ quyền biển đảo. Rõ ràng là chưa bao giờ Biển Đông lại bị Trung Cộng quậy sóng như hiện nay.

Các Anh thấy và hiểu rồi chớ? “Trung Cộng tự vẽ ra đường lưỡi bò”, rồi hệ thống truyền thông của họ cho thế giới biết đó là vùng biển của họ bị Việt Nam với Phi Luật Tân xâm lấn. Vậy là họ có lý do để vội vàng xây cất sân bay, thiết lập bến cảng, dựng lên những cơ sở quân sự rồi đưa quân lính tới trú đóng mà họ nói là “bảo vệ chủ quyền của họ”. Lời dạy của vua Trần Nhân Tông từ hơn 8 thế kỷ trước mà cứ như báo “lề trái” mới đăng hôm qua để nhắc nhỡ lãnh đạo CSVN “phải luôn luôn đề phóng quân Đại Hán” vậy. .
Trung Cộng dùng mọi mánh khóe lấn chiếm phần Biển Đông của Việt Nam, vậy mà Tổng Bí Thư của Các Anh lại hân hoan đón tiếp Ủy Viên Quốc Vụ Trung Cộng Mạnh Kiến Trụ tại Hà Nội vào ngày 24/10/2012. Ông Mạnh Kiến Trụ nói với ông Trọng rằng: “Vấn đề Nam Hải (Biển Đông) không phải là toàn bộ của quan hệ Trung-Việt, nhưng xử lý không thỏa đáng sẽ ảnh hưởng đến toàn cục của quan hệ hai nước.”

Chắc Các Anh đồng ý với tôi lời của vua Trần Nhân Tông từ trong lịch sử quá đúng trong hiện nay, chính xác là Trung Cộng luôn luôn tạo ra những rắc rối rồi dạy lãnh đạo CSVN phải vì đại cuộc mà đừng quan tâm đến những chuyện lặt vặt đó, cứ thế mà họ chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa năm 1988, chiếm 789 cây số vuông trên biên giới năm 1999, chiếm 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt năm 2000, đưa “đường lưỡi bò” ra liếm đến 80% trên Biển Đông rồi tự hợp thức hóa bằng cách in bản đồ trên “Thông Hành” (hộ chiếu) có thêm “đường lưỡi bò” năm 2012, ..v..v.. Vậy mà Tổng Bí Thư của Các Anh đáp lời của Mạnh Kiến Trụ thế này: “Tình hữu nghị truyền thống hai nước Việt Nam-Trung Quốc nồng thắm. Đảng, chánh phủ, và nhân dân Việt Nam, sẽ mãi mãi không quên sự giúp đỡ quý báu, chân thành của Trung Quốc dành cho Việt Nam lâu nay. Việt Nam sẵn sàng duy trì giao lưu cấp cao với Trung Quốc, tăng cường sự tin cậy chính trị, tăng cường đoàn kết và hợp tác, xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển thông qua hiệp thương hữu nghị trên tinh thần "vừa là đồng chí vừa là anh em".

Ông Nguyễn Phú Trọng vẫn quy lụy Trung Cộng với lời lẽ không khác gì lời lẽ 22 năm trước lúc Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh với Thủ Tướng Đỗ Mười, khi đứng trước Tồng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung Cộng, rồi cắm cúi ký vào biên bản ngày 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô của Trung Cộng về việc đưa nước Việt Nam “về” với Trung Cộng vào năm 2020. Các Anh hãy đọc đoạn dưới đây trích trong biên bản đó để mà suy nghĩ: “.... Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng CSVN và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc....”.

Chưa hết. ông Hoàng Bình Quân, Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương, đặc phái viên của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được lệnh sang Bắc Kinh để chúc mừng thành công của Đại Hội XVIII Trung Cộng. Theo TTXVN, ông Hoàng Bình Quân được Ủy Viên Thường Vụ Bộ Chính Trị của Trung Cộng là Lưu Vân Sơn tiếp ngày 17/11/2012. Ông Quân nói với ông Sơn rằng: “ Những người đồng chí anh em, đảng, nhà nước và nhân dân Việt Nam, rất vui mừng trước thành công tốt đẹp của Đại hội XVIII Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mở ra giai đoạn phát triển mới trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc… Khẳng định, đảng, nhà nước, và nhân dân Việt Nam luôn coi trọng quan hệ láng giềng hữu nghị và hợp tác toàn diện với Trung Quốc, mong muốn hai bên cùng nỗ lực tiếp tục củng cố và thúc đẩy quan hệ hai đảng, hai nước phát triển lên tầm cao mới; đồng thời giải quyết thỏa đáng những vẫn đề còn tồn tại, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác, và phát triển trong khu vực và trên thế giới.”
Sao lại lãnh đạo của Các Anh nhục quá vậy! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì sau khi đọc xong một số sự kiện trọng đại mà tôi vừa giúp Các Anh nhìn lại một giai đoạn lịch sử vừa hơn hai chục năm qua dưới nét nhìn của người tự do?

Thứ hai. Biểu tình chống Trung Cộng.

Ngày 9/12/2012 (tổng hợp từ nhiều nguồn trong nước).

Do Trung Cộng mà tình hình Biển Đông đang trong tình trạng căng thẳng mà Việt Nam “nắm chắc” kết quả thảm hại, vì vậy mà người dân Hà Nội và Sài Gòn cùng xuống đường biểu tình phản đối Trung Cộng.

Tại Hà Nội.

Theo độc giả Mongun cho biết trong lời bình trong trang Blog: “Nhà riêng bà Lê Hiền Đức ở số 7 ngõ 56 phố Pháo Đài Láng, Hà Nội, suốt đêm qua (8/12/2012) có Công An canh giữ. Lúc 11 giờ đêm qua, bà tìm cách thoát ra ngoài nhưng bị Công An chặn lại. Sau đó, hai lần bà gọi taxi đến đón nhưng bị Công An khu vực không cho taxi dừng lại. Lúc 3 giờ sáng, bà Lê Hiền Đức cho biết; Công An Hà Nội hứa đến sáng sẽ đưa bà ra Nhà Hát Lớn. Bà nói tiếp; “Nếu 9 giờ sáng mà không thấy bà đến Nhà Hát Lớn thì cầm chắc là có chuyện xảy ra cho bà”. Trong khi đó, nhà của Luật sư Lê Quốc Quân, anh Phạm Văn Trội, và blogger Đặng Phương Bích đều bị Công An chặn bên ngoài.
Lúc 8 giờ 15 sáng. Có khoảng 10 xe Công An bao quanh trước tượng Lý Thái Tổ, rất nhiều biển cấm quay phim chụp ảnh cắm tại đây. Trước tượng Cảm Tử Cho Tổ Quốc Quyết sinh, có 2 xe tải nhỏ của Công An án ngữ, có cả ông Cường, đội trưởng Công An quận Hoàn Kiếm cùng hơn chục Công An chìm, nổi.

Lúc 9 giờ 5 phút sáng, khoảng 200 người tập trung bên ngoài nhá hát lớn, dần dần tăng lên khoảng 300 người và chuẩn bị tuần hành. Lúc ấy rất đông phóng viên truyền thông báo chí ngoại quốc có mặt. Đoàn biểu tình rời nhà hát và đang trên đường Tràng Thi hướng đến tòa đại sứ Trung Cộng, được đông đảo bà con dân oan từ Hồ Gươm nhập vào đoàn biểu tình. Theo cộng tác viên của đài VOA là Marianne Brown, đoàn biểu tình mang theo nhiều biểu ngữ và hô to khẩu hiệu “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam. Trung Quốc hãy ngưng sát hại các ngư dân vô tội”, trong khi xe Công An đọc bản văn gì đó mà âm thanh bị mất hút trong tiếng hô vang dậy của đoàn người biểu tình..
Lúc 9 giờ 38 phút, đoàn biểu tình tới ngã tư Tràng Thi & Phủ Doãn thì bị Công An đủ loại xông vào trấn áp, những tiếng la hét vang lên. Mấy chục thành viên nòng cốt trong đoàn biểu tình bị Công An giằng kéo tàn bạo và bị đẩy lên xe buýt đưa sang trại Lộc Hà. Trong số người bị bắt, có các anh chị Nguyễn Văn Phương, Lã Việt Dũng, Phạm Chính, Nguyễn Tường Thụy, blogger Gốc Sậy, Đào Tiến Thi, Dương Thị Xuân, Nguyễn Việt Hưng, blogger Lê Anh Hùng, blogger Lê Dũng, Facebooker Tiến Từ Từ, du ca Lê Văn Dũng, Phan Linh, Ngô Nhật Đăng, Chu Tuấn,.....

Tại Sài Gòn.

Ngày 9/12/2012. Gần 6 giờ sáng, ông Lê Hiếu Đằng nhắn tin nhà ông đang bị Công An vây kín chung quanh. Cùng lúc, có nhiều tin nhắn cho biết khá đông trong số 42 vị ký tên trong thư ngỏ yêu cầu thành phố phải tổ chức biểu tình chống Trung Cộng, đã bị Công An cô lập bằng nhiều hình thức khác nhau. Lúc 7 giờ 20 phút, nhà thơ Đỗ Trung Quân nhắn tin: "Tôi bị túm rồi".
Khoảng 7 giờ 45 phút, Công An dựng hàng rào kẽm gai ngăn chận các ngã đường vào công trường Lam Sơn, nhưng “nhờ” mỗi sáng chủ nhật ban quân nhạc trình diễn miễn phí cho dân xem, nên Công An dành một lối ra vào, mà hôm nay dân vào xem là “dân tham gia biểu tình” rất đông. Lúc 8 giờ 30 phút, đoàn quân nhạc chơi xong, công trường Lam Sơn bị siết chặt lại. Khi mọi người còn túm tụm từng nhóm nhỏ trước Nhà Hát Lớn, chờ hiệu lệnh châm ngòi cho cuộc biểu tình chống Trung Quốc thì lúc 8 giờ 40 phút, một thanh niên rút từ trong túi ra lá cờ Tổ quốc rồi hô lớn “Việt Nam, Việt Nam”. Hai tiếng “Việt Nam, Việt Nam” đầy phẫn uất đã vang lên giữa Sài Gòn bởi một chàng trai trẻ khiến tất cả mọi người có mặt hiểu ngay đó chính là tiếng gọi chống quân Trung Cộng. “Việt Nam, Việt Nam” đã khiến mấy trăm người ùa ra đứng bên cạnh anh và cùng hô vang những lời phản đối bọn bành trướng phương Bắc: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. “Phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa”. “Việt Nam chiến thắng”…

Lúc 8 giờ 45 phút, Hồ Nhật Thành và Trịnh Kim Tiến bị chặn tại nhà riêng. Nhân viên an ninh tên Bình hỏi hai bạn đi đâu sáng nay, hai bạn trả lời là đến công ty làm việc, tên Bình lớn tiếng: "không đi làm gì hết, phải ở nhà đến 12 giờ trưa mới được ra khỏi nhà". Hai bạn Thành và Tiến phản ứng quyết liệt, và rồi Thành và Tiến vẫn lên xe rời nhà. Lập tức, Công An đuồi theo và cướp chìa khóa xe giữa đường tại khu vực ngã ba Năm Châu & Lạc Long Quân, Quận Tân Bình. Trong khi đó, nhiều Công An bao vây quán cà phê Terrace trên đường Lê Lợi, ngăn chận nhà văn Nguyễn Viện và nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh đang uống cà phê, không cho hai người ra ngoài.
Từ nhà hát lớn, đoàn người biểu tình kéo nhau đến ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi là phải quay đầu lại, vì bị hai hàng rào kẽm gai ngăn chận ở đầu đường Lê Lợi. Tại đây, Công An vây kín đoàn biểu tình tại các bậc “tam cấp” trước Nhà hát lớn, trong lúc đoàn biểu tình hô vang “Việt Nam chiến thắng”. “Đả đảo Trung Quốc”… Lúc ấy Huỳnh Tấn Mẫm xuất hiện. Nhà thơ Lưu Trọng Văn vui mừng cầm tay ông Huỳnh Tấn Mẫm giơ cao và hô lớn: “Thưa bà con, anh Huỳnh Tấn Mẫm đã đến”. Huỳnh Tấn Mẫm bước lên bậc cấp cao nhất và hô to: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Không ai, không thế lực nào xóa bỏ được. Cảm ơn các bạn”. Đoàn biểu tình hò reo vang dội, có người bắt nhịp bài hát “Dậy Mà Đi” và mọi người cùng cất cao tiếng hát.

Ông Hồ Hiếu tay chống gậy, tay kia giơ cao nắm đấm: “Ai tiếp tay với Trung Quốc là bán nước”. Mọi người lại đồng thanh: “Đả đảo Trung Quốc xâm lược”. Nhà thơ Lưu Trọng Văn, người có mặt trong nhóm biểu tình ngay từ đầu, cũng đứng lên hướng dẫn đoàn biểu tình hô to “Việt Nam Chiến Thắng”. Trước đó, khi đoàn biểu tình bị chặn trước cửa hàng miễn thuế, ông Văn cũng kêu gào những người dân xung quanh hai bên đường: “Mọi người lên tiếng đi, lên tiếng đi các anh, Hoàng Sa, Trường Sa là của chúng ta”. Cuộc biểu tình chống Trung Cộng sáng chủ nhật 09/12/2012, được châm ngòi bởi một người thanh niên phất cờ, mặc áo thể thao xanh sọc đỏ của đội bóng Barca. Khi cuộc biểu tình chấm dứt, nhiều nhân chứng cho biết người thanh niên này đã bị Công An bắt nguội và bị đánh đập thô bạo.

Kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn, thành viên nhóm cố vấn của cựu Thủ Tướng Võ Văn Kiệt trước đây, vừa qua cơn đau được vợ dìu tay cùng tham gia biểu tình. Ông Huấn đứng trên bậc cấp trước nhà hát hô vang khẩu hiệu yêu nước cùng các ông Huỳnh Tấn Mẫm, Hồ Hiếu, Lưu Trọng Văn. Lúc này có thêm nhà báo Nguyễn Trọng Chức, luật sư Trương Trọng Nghĩa, Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Luật Sư Việt Nam, và vợ là Nguyễn Thế Thanh, nguyên Phó Giám Đốc Sở Văn Hoá Thông Tin thành phố, ông Chu Hảo nguyên Thứ Trưởng Bộ Khoa Học & Công Nghệ, Tiến Sĩ Bùi Văn Nam Sơn, Tiến sĩ Nguyễn Văn Trọng, dịch giả Nguyễn Đôn Phước, và Đinh Kim Phúc, cũng có mặt trên các bậc thềm nhà hát, cùng mọi người bày tỏ lòng yêu nước trước kẻ thù Trung Cộng .


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1357423790.jpg

Khi mọi người đang hừng hực khí thế, bỗng xuất hiện một đám “thanh niên xung phong” đồng phục xanh lá cây, từ trong nhà hát lớn lao ra dàn hàng ngang sau lưng các vị lão thành đang đứng quay mặt về phía đoàn biểu tình. Mọi người phẫn nộ khi chứng kiến đám người này bắt đầu xô đẩy những người cao tuổi đang đứng trên các bậc thềm cao. Tất cả mọi người bị xô xuống các bậc dưới. Riêng ông Nguyễn Trọng Huấn đã bị xô té dúi đầu xuống các bậc cấp thềm phía dưới, đám đông vội đỡ ông và dìu xuống. Một số biểu ngữ chống Trung Cộng bị Công An giật khỏi tay người dân và xé nát.

Khoảng 9 giờ 30 phút sáng, đoàn biểu tình giải tán trong trật tự.

Một blogger nào đó đã viết: “Việt Nam”, “Việt Nam”, “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, … và một lần nữa, lãnh đạo thành phố này nợ người dân những điều không thể nào hiểu nổi: “Tại sao lại đàn áp những người biểu tình bày tỏ lòng yêu nước, chống Trung Cộng xâm lăng?! Thành phố trả lời làm sao trước công luận cho hành động xua “thanh niên xung phong” xô ngã các cụ già, các nhà lão thành cách mạng khi họ đang hô vang “Việt Nam”, “Việt Nam”, “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”, “Phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa”, “Việt Nam chiến thắng”?

Tổng kết cuộc biểu tình ngày 9/12/2012. Tại Sài Gòn, Công An đã ra tay ngăn chận, nhiều người đã bị bao vây trước khi rời nhà, và giải tán đám đông hằng mấy trăm người trước nhà hát lớn. Tại Hà Nội, 24 người biểu tình bị Công An bắt đưa lên xe chở về trại phục hồi nhân phẩm gái mại dâm Lộc Hà. Chuyện rõ ràng như vậy mà không một tờ báo cũng không một đài phát thanh phát hình nào của nhà nước CSVN loan tin.

“Biểu tình kiểu du kích” ngày 16/12/2012 tại Hà Nội.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd2/HQPD_1357370697.png

Theo phóng viên Tú Anh đài RFI, thì phong trào chống Trung Cộng vừa có cuộc “biểu tình kiểu du kích” ngay trước cổng tòa đại sứ Trung Cộng trưa ngày chủ nhật 16/12/2012, môt nhóm không rõ bao nhiêu người đã giăng nhiều biểu ngữ bằng tiếng Việt và tiếng Anh “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam” và “Trung Quốc phải chấm dứt xâm lược”. Không có người biểu tình nào bị bắt, vì “đoàn biểu tình ngồi” chỉ là đoàn búp bê nhồi bông, còn “người lãnh đạo biểu tình” đã biến mất sau khi dựng xong biểu ngữ, mà Công An thì hoàn toàn bất ngờ.

“Cuộc biểu tình ngoạn mục” này được bạn Nguyễn Lân Thắng cho biết thêm: “Trưa nay, tôi ra vườn hoa Lênin đối diện tòa đại sứ Trung Cộng để chụp ảnh, tình cờ thấy hai bạn trẻ cùng nhau dựng các mô hình là những con thú đồ chơi trẻ con, và trên tay các con thú cầm biểu ngữ phản đối Trung Cộng bằng tiếng Việt, tiếng Anh mà tôi nhớ không hết....”

Trong một xã hội nghiệt ngã do chế độ độc tài đảng trị của lãnh đạo CSVN xây dựng, tuổi trẻ Việt Nam phải tìm mọi khe hở của những đôi mắt cú vọ với những đôi tay tàn bạo và những cái đầu như những cái máy cát-xét của Công An, để bày tỏ lòng yêu nước của mình thật là tuyệt vời, phải không Các Anh?

Bây giờ tôi muốn Các Anh vừa đọc vừa suy nghĩ về bài thơ ngắn dưới đây của Đỗ Trung Quân, để mà ngậm ngùi thương cảm cho dân tộc Việt Nam nói chung, cho tuổi trẻ Việt Nam nói riêng đã vượt cao hơn nỗi sợ hãi về mức độ tàn bạo của lãnh đạo CSVN, và cho nhà thơ Đỗ Trung Quân nói riêng nữa: “Các anh (Công An) bẻ quặt tay tôi, dẫu gì cũng không đau lắm. Các anh thúc cùi chỏ vào hàm tôi, thú thật cũng không đau lắm. Các anh đạp vào mặt tôi, dẫu gì cũng không ê ẩm lắm. Các anh dúi chúng tôi vào xe, thú thật cũng chỉ ngồi chật một tí. Các anh kẹp cổ, lên gối tôi, dẫu gi cũng chỉ bầm dập chút. Cái chúng tôi đau, rất đau. Cái chúng tôi ê ẩm. Chính là, các anh thay mặt kẻ cướp nước, bọn cướp biển. Bẻ tay, đánh đập, bắt bớ, đàn áp Chính Đồng Bào Mình!

Các Anh có thấm thía có xót xa cho dân tộc Việt Nam chúng ta không? “Vì trên thế giới này, không có một quốc gia mà lãnh đạo quốc gia đó như lãnh đạo CSVN lại đàn áp người dân khi họ bày tỏ lòng yêu nước một cách ôn hòa trước một Trung Cộng đã lấn chiếm và đang tiếp tục lấn chiếm Việt Nam. Vậy là, lòng yêu nước tại Việt Nam bị cấm. Tại sao? “Phải chăng lãnh đạo CSVN là tay chân là thuộc hạ của Trung Cộng?”

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.

Thêm nữa. Bằng hành động đàn áp đồng bào để cướp đất cướp nhà, bằng hành động gian trá tham nhũng của tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng thâu tóm quyền lợi làm sụp đổ các tập đoàn kinh tế tài chánh, bằng hành động đàn áp biểu tình chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, lãnh đạo CSVN đã tự họ nói với 90 triệu đồng bào và thế giới rằng, “sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ, bản chất của lãnh đạo CSVN chỉ biết tranh giành quyền lực để tranh đoạt quyền lợi riêng tư”. Đồng thời họ cũng nói với Trung Cộng rằng, “Bộ Chính Trị CSVN luôn luôn vâng theo 4 tốt với 16 chữ vàng, để từng bước đưa dân tộc này vào xiềng xích Đại Hán như “biên bản” mà Việt Nam với Trung Cộng cùng ký hồi tháng 9 năm 1990”.

Vậy là Các Anh nhận ra bộ mặt thật của lãnh đạo CSVN rồi chớ? Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự,
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).


Texas, tháng 01 năm 2013
********

Phòng Trực
04-10-2013, 07:51 AM
Thư số 16
gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại mặt thật của lãnh đạo CSVN trong Bộ Chính Trị, một tổ chức đứng trên đầu Tổ Quốc với trọn quyền lực trong tay mà không một tổ chức nào giám sát, để từ đó, Các Anh sẽ hiểu được nguyên nhân tình trạng suy đồi của xã hội Việt Nam ngày nay, dẫn đến tình trạng bị khống chế bởi Trung Cộng, kẻ thù muôn thuở của dân tộc Việt Nam.

Thứ nhất. Lãnh đạo CSVN dưới nét nhìn của Metamorph.

Tham khảo và trích dẫn bài “Hoang Tưởng“ của Metamorph từ trong nước. Xem chừng tâm trạng bị dồn nén từ lâu nên tác giả đi thẳng vào đề mà không cần rào đón, để nhắc lãnh đạo CSVN hãy nhớ lại “những hoang tưởng” của họ. Những chữ “chúng ta” mà tác giả sử dụng có vẻ nhẹ nhàng khi nói đến cấp lãnh đạo, rất có thể để tránh bị Công An gọi “làm việc”, hoặc có thể tác giả có thời là đảng viên hàng lãnh đạo cấp trung ương nên nhận định có căn bản về những sự kiện cấp quốc gia.

Trích 7 đoạn. …. “Mỗi khi gặp khó khăn, chúng ta thường mang cái quá khứ ra để tự ru ngủ, mong cái men chiến thắng của cha ông thành liều thuốc an thần trấn áp đi cái bất định, cái nan giải hiện tại… Chúng ta cứ nhắc đến cái chiến thắng giặc Hán, Pháp, Mỹ mỗi ngày, nhưng tuyệt nhiên không hề nhắc đến cái nạn đói 1975-1990 do sai lầm của chúng ta, một nạn đói có thể tránh được nếu chúng ta đừng quá say mê với chiến thắng đến mức coi thường cái nguy cơ tụt hậu, nghèo đói, bị cô lập. Năm 1978, trước khi xua đại quân tiến chiếm Nam Vang, Bộ Ngoại Giao tung ra một chiến dịch để mong lôi kéo các quốc gia lân cận để cùng liên minh chống hiểm họa bành trướng Bắc Kinh, mặc dầu suốt cuộc chiến chống Mỹ, chúng ta không tiếc lời mạt sát khối liên Minh Đông Nam Á là sản phẩm của đế quốc Mỹ… Tháng 6/1978, khi Việt Nam bắt đầu oanh tạc Cambodia, Phan Hiền (của Bộ Ngoại Giao) sang Mã Lai tuyên bố ủng hộ một Đông Nam Á hòa bình và trung lập…. Cùng thời gian đó, Bộ Trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đến Nữu Ước để thúc đẩy nỗ lực bình thường hóa ngoại giao với Mỹ. Lần này, chúng ta không đặt điều kiện bồi thường 3 tỉ mỹ kim mà Tổng Thống Nixon đã hứa ở hiệp định Paris 1973”. (Trích từ Brother Enemy của Nayan Chanda).

“Nhưng tất cả đều vô ích. Liên Minh Đông Nam Á từ lâu bị ám ảnh một Việt Nam hung hãn nên họ từ chối một cách lịch sự. Và Mỹ, sau khi tiếp Đặng Tiểu Bình, cũng lịch sự gác lại chuyện thiết lập bang giao với Việt Nam. Kết quả là chúng ta sa lầy ở Cam-Bốt suốt 10 năm, và đói nghèo suốt 15 năm. Quan trọng hơn là xã hội Việt Nam lùi lại, trong khi các quốc gia láng giềng phát triển vược bậc về khoa học kỹ thuật, văn hoá giáo dục, kinh tế xã hội… Chúng ta quay về thời xe hơi chạy than, xe bò, xe ngựa, bo-bo thay gạo, mặc quần áo vá víu lem nhem, dùng phân xanh như thời trung cổ…. Tại vì lãnh đạo chúng ta vẫn cứ hoang tưởng là cả thế giới đều ngưỡng mộ, và thế giới cần chúng ta hơn là chúng ta cần họ. Với Mỹ, chúng ta cứ cho là kẻ thua phải “bồi thường” mới mong được chúng ta bắt tay họ. Với Đông Nam Á, một Việt Nam với hơn 8 Quân Đoàn sát biên giới với họ, đáng cho họ quan tâm hơn là cái hiểm họa bành trướng từ Bắc Kinh… ”

“ … Vì lãnh đạo vẫn cứ hoang tưởng mà cho rằng Mỹ thèm Biển Đông hơn chúng ta bảo vệ Biển Đông. Từ lâu chúng ta yên chí là chỉ cần búng tay một cái, Mỹ sẵn sàng lao vào lửa đạn để bảo vệ chúng ta, cùng lúc chúng ta vẫn sa sả chửi rủa Mỹ…. Làm như cái “lệnh ta” là một ơn huệ hay một vinh dự chúng ta ban cho Mỹ vậy… Trong lịch sử cận đại và hiện đại, dân tộc chúng ta hứng chịu nhiều cái sai lầm của lãnh đạo, nhưng mặc cảm tự ti hóa trang thành tự tôn, làm chúng ta không học hỏi được gì cả…”. Hết trích.
Với nhận định của tác giả, Các Anh đang suy nghĩ gì? Hãy nhớ, nhóm lãnh đạo trung tương, cứ mở miệng ra tự xưng là “đỉnh cao trí tuệ” đến mức mà họ tự cho là cả thế giới ngưỡng mộ, nhưng thật ra người có chút học thức không bao giờ tuyên bố một cách ngạo mạn như vậy. Cho nên ngay từ nhóm chữ “đỉnh cao trí tuệ”, tự nó đã cho mọi người đánh giá lãnh đạo CSVN là những người kém hiểu biết, nếu không nói là thiếu học, cũng không hiểu gì về bang giao quốc tế, vì hầu hết những bằng tiến sĩ của họ mà người dân trong nước gọi là “tiến sĩ giấy”, “tiến sĩ dỏm”, “tiến sĩ mua”, … Vì vậy mà tác giả Metamorph nhận định “họ là những người lãnh đạo hoang tưởng”. Và đây là nhận định của tôi: “Đúng. Nhóm lãnh đạo trung ương vẫn hoang tưởng, nhưng là hoang tưởng với thế giới, còn với Trung Cộng thì họ lại quy lụy đến mức hèn hạ! Nếu Các Anh hỏi tại sao thì tôi trả lời rằng: “Tại vì lý tưởng của CSVN từ những năm cuối của thế kỷ 20, là phải bảo vệ đảng để cướp đoạt tài sản của dân, của nước, và của người ngoại quốc làm ăn tại Việt Nam, còn tổ quốc với nhân dân không là gì đối với họ. Các Anh nhận ra điều đó chớ? Mời Các Anh đọc thêm tài liệu tóm lược bên dưới để hiểu sâu hơn nữa về nhóm lãnh đạo.

Thứ hai. Muốn có sổ hưu bổng phải bảo vệ chế độ độc tài.

Tháng 9 năm 2012, Đại Tá Trần Đăng Thanh, thuộc Học Viện chính trị Bộ Quốc Phòng CSVN, đến Trường Cao Đẳng Cộng Đồng Hà Tây giảng dạy cho 300 “cán bộ chủ chốt” trong các trường đại học và cao đẳng.
Tóm lược bài của Nguyễn Quốc Sơn, trích trong trang blog “AnhBaSam”. Tác giả là sĩ quan trong quân đội nhân dân Các Anh đó. Bài giảng của ông Thanh quá dài, nhưng tựu trung là các điểm sau đây: “Vấn đề Biển Đông, ông Thanh đưa ra 7 điểm mà ông ta gọi là “3 không và 4 tránh”.
“Ba không” là: (1) Không được mất chủ quyền. (2) Không được mất môi trường hòa bình. (3) Không được mất tình đoàn kết giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.

Rõ ràng là ông Thanh đặt hòa bình với Trung Cộng cao hơn bị Trung Cộng khống chế lấn chiếm đất liền đảo biển Việt Nam, khi ông Thanh dạy rằng: “Nếu để xảy ra chiến tranh với Trung Quốc, xin thưa với các đồng chí là vất vả lắm”. Rồi ông lập luận: “Lịch sử giao cho dân tộc chúng ta phải sống bên cạnh cái nước mà ta bảo họ có tư tưởng nước lớn, họ nói thế nào cũng được vì họ là nước lớn.
Thật ra cái ông Phó Giáo sư sử dụng nhóm chữ “không được mất chủ quyền” phải hiểu theo nghĩa nào, vì ông vừa nói “không được mất chủ quyền” thì cách giải thích của ông được hiểu là khi bị Trung Cộng lấn chiếm, Việt Nam không được có bất cứ hành động nào tỏ ra chống đối họ, vì họ là nước lớn nên họ nói gì làm gì cũng được. Vậy là, tôi hiểu nội dung bài giảng của ông Phó Giáo Sư Học Viện Chính Trị Bộ Quốc Phòng CSVN rằng: “Khi Trung Cộng lấn chiếm đất đai biển đảo của Việt Nam, thì Việt Nam không được chống trả để giữ cái mà ông Thanh gọi là “tình đoàn kết với Trung Cộng”. Với Các Anh: “Ông Thanh mang cấp Đại Tá quân đội nhân dân, chỉ để dạy dỗ quân đội và những thế hệ sinh viên trong các trường đại học chỉ biết cúi đầu trước Trung Cộng như vậy, Các Anh có bằng lòng chấp nhận lời giảng đó của ông ta không?” Nếu có, quả thật trái tim của Các Anh đúng như ông Putin, đang là Tổng Thống nước Nga, nhận định: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu, kẻ nào làm theo lời của cộng sản là không có trái tim”. Các Anh hiểu rằng, là con người mà không có cái đầu cũng không có trái tim, có khác gì những động vật hoang dã! Nếu không, Các Anh hãy suy nghĩ … và quyết định nhé!
Và “bốn cái tránh” là: (1) Tránh đối đầu quân sự. (2) Tránh đối đầu toàn diện. (3) Tránh bị bao vây cô lập. (4) Tránh lệ thuộc nước ngoài.

Ông Trần ĐăngThanh giải thích: (1) Tranh chấp ở Biển Đông không chỉ giữa Việt Nam với Trung quốc, mà có nhiều nước khác tham gia vào, nếu không khéo thì Việt Nam sẽ bị lợi dụng để trở thành quân bài của nước khác. (2) Trong số các nước tranh chấp, mặc dù Trung Quốc là bên có nhiều hành động xâm lấn, nhưng họ vẫn là bạn tốt. Họ đã từng giúp đỡ Việt Nam một cách thực lòng trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khác với phương Tây mà cụ thể là Mỹ, là những nước “chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta”, đã từng gây tội ác ở Việt Nam, và “tội ác của họ trời không dung, đất không tha”. Thế nên không bao giờ được ngộ nhận và ngả theo Mỹ trong vấn đề Biển Đông. (3) Nếu Việt Nam cứ mềm mỏng thì Trung quốc sẽ không làm quá. Mặc dù họ vẫn có hành động xâm lấn nhưng có nhiều khả năng Trung quốc sẽ không tấn công quân sự để chiếm các đảo đang thuộc quyền của Việt Nam. Đây cũng là tránh chiến tranh với Trung quốc. (4) Trung quốc là nước lớn, quá mạnh, còn Việt Nam quá yếu. Vì thế cho dù Việt Nam không muốn nhẫn nhịn thì cũng không được. Cho nên khi Trung quốc “đá” thì Việt Nam phải “né” chứ không được đá lại. Nếu đá lại, Việt Nam sẽ phải đối mặt với chiến tranh, mà nếu “để xảy ra chiến tranh, xin thưa với các đồng chí vất vả lắm”.

Kết hợp các yếu tố trên, cái tốt nhất mà Việt Nam có thể làm là đấu tranh với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí, và tranh luận thẳng thắn với Trung Quốc trên danh nghĩa tình đồng chí. Thí dụ về chuyện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói với ông Hồ Cẩm Đào để chứng minh sự quyết liệt của Việt Nam. Đương nhiên ai cũng hiểu Trung Quốc không bao giờ chịu ra toà án quốc tế, vì vậy đưa ra toà án quốc tế không phải là cách có thể thực hiện được. (6) Những cách đấu tranh như biểu tình là không thể chấp nhận được, vì biểu tình sẽ làm phật lòng Trung quốc và biểu tình sẽ gây nguy hiểm đến an ninh chính trị, lúc ấy các thế lực thù địch lợi dụng lật đổ chế độ”.

Đến đây thì ông Thanh như quỳ xuống bợ Trung Cộng lên, rồi nhục nhã mà giảng tiếp: “Trong 4 (?) năm kháng chiến chống Pháp, 21 năm chống Mỹ, nhân dân Trung quốc, nhà nước Trung quốc, đã từng nhường cơm xẻ áo dành cho chúng ta từ hạt gạo, từ khẩu súng, từ đôi dép, để chúng ta giành thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp và thắng Mỹ. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa … ” Bợ Trung Cộng lên xong, ông phó giáo sư như đứng dậy tấn công Hoa Kỳ: “Các đồng chí nhớ người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả. Phải nói rõ luôn, nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha”.

“Giảng bài” xong, ông Thanh bèn dạy dỗ cùng lúc đe dọa nhà giáo của các trường đại học, hãy giáo dục học trò của họ phải biết tuân phục đảng cộng sản, và ngăn cấm biểu tình. Ông ta nói: “… Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ, cố gắng làm sao đừng để cho những vấn đề gây rối loạn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Và hôm nay các đồng chí nào tự ái thì tôi cũng mạnh dạn, nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp, khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. Nếu để cho công an thành phố Hà Nội hoặc v..v… người ta giữ sinh viên của mình, người ta điện mời thầy nọ thầy kia, đến nhận sinh viên của mình thì đấy là khuyết điểm của chúng ta. Và tôi hy vọng rằng tất cả các thầy với trách nhiệm và với lòng tin của chúng ta, chúng ta sẽ không để những trường hợp đó xảy ra”.

Khi “giảng” đến nguyên tắc bảo vệ chế độ, ông Thanh nói đến cái “sổ hưu”, ông ta kêu gọi mọi người bằng mọi giá phải giữ vững chế độ, bởi vì mất chế độ là mất hết, trước nhất là mất sổ hưu…. Thế rồi “cái sổ hưu trí” của ông Thanh trở thành đề tài cho nhiều chuyện giễu cợt mỉa mai trên Internet.
Với nhà văn Nguyễn Quang Lập trên Facebook: “”Bảo vệ chế độ là bảo vệ bằng cái… sổ lương hưu (đã lĩnh và sắp lĩnh). Chưa bao giờ những lời rao giảng về lý tưởng Xã Hội Chủ Nghiã lại “thực dụng” đến như vậy, và cũng thảm thiết đến như vậy!”
Ông Hà Văn Thịnh, giảng viên đại học Huế: “Ông Thanh nói cái nội dung sổ hưu thì chẳng phải ông đang tầm thường hóa, trần tục hóa, và thực dụng hóa Chủ Nghĩa Xã Hội đó sao? Lý tưởng sổ hưu là tư tưởng sáng tạo của “Tổ quốc thời Xã Hội Chủ Nghĩa”? Ngay đến Tổ quốc cũng chỉ là món hàng có thời hoặc lỗi thời, thì quả thật, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã trở thành cái đáy tận cùng của sỉ nhục”.
Các Anh thấy chưa, với tư cách Phó giáo sư của Học Viện Chính Trị Bộ Quốc Phòng, Đại Tá Trần Đăng Thanh như đang nói với mọi người rằng “lý tưởng của nhóm lãnh đạo CSVN là bảo vệ đảng để cướp đoạt tài sản, còn lý tưởng của đảng viên chỉ là cuốn sổ hưu”, khi ông Thanh nói: “Phải bằng mọi giá để giữ vững chế độ, bởi vì mất chế độ là mất hết, trước nhất là mất cuốn sổ hưu”. Lý tưởng của người cộng sản Các Anh ngày nay là như vậy đó, nếu Các Anh chưa tin tôi, hãy đọc kỹ lại dòng chữ cuối cùng trong đoạn nhận định của giáo sư Hà Văn Thịnh bên trên. Tôi nghĩ, nếu trái tim Các Anh còn màu đỏ trong dòng máu bên trong cơ thể, chắc chắn Các Anh sẽ cảm nhận được nỗi đau đến tột cùng của “người lính quân đội nhân dân Việt Nam”! Vì “quân đội nhân dân” mà lại cầm súng nhắm vào nhân dân khi họ can đảm bày tỏ tinh thần trách nhiệm với dân với nước, nhưng lại chỉa súng xuống đất khi đụng đầu với quân Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử cùa dân tộc Việt Nam, chỉ vì cuốn sổ hưu!

Với nét nhìn của tôi, trong bài giảng của ông Thanh cho thấy mức độ khiếp nhược của lãnh đạo CSVN đối với Trung Cộng là không thể tưởng tượng được. Ông Thanh còn dạy rằng: “Khi Trung quốc “đá” thì Việt Nam phải “né” chứ không được đá lại”. Vậy thì “quân đội nhân dân” Các Anh, được tổ chức và trang bị các loại vũ khí, gần đây lại mua thêm máy bay, mua thêm tàu chiến, tàu ngầm, chỉ để trấn áp dân oan khiếu kiện đất đai, trấn áp người dân để cướp đất, cướp ao hồ, để đàn áp người dân bày tỏ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo của Việt Nam, chớ không phải đánh đuổi “người lạ, quân lính lạ, tàu nước lạ” để bảo vệ ngư dân, bảo vệ đất liền và biển đảo Việt Nam!

Chưa hết, ông Thanh còn dạy rằng: “Trung Quốc là bên có nhiều hành động xâm lấn, nhưng họ vẫn là bạn tốt”. Sao kỳ vậy? Nếu Trung Cộng tốt với lãnh đạo CSVN mà sao họ vẫn xâm lấn Việt Nam chúng ta hết lần này đến lần khác? Bằng chứng: Năm 1988, Trung Cộng xâm lấn chiếm giữ 8 đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Năm 1999, Trung Cộng xâm lấn 789 cây số vuông dọc theo biên giới, đến mức Ải Nam Quan trở thành lãnh thổ của Trung Cộng. Năm 2000, xâm lấn chiếm giữ 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt. Năm 2009, Trung Cộng công bố “đường lưỡi bò” liếm đến 80% Biển Đông mà hơn phẩn trong đó là chủ quyền của Việt từ trong lịch sử. Chỉ riêng năm 2012, Trung Cộng đã xua hơn 30.000 tàu đánh cá tung hoành trên “vùng biển lưỡi bò”! Vậy mà cái ông Phó giáo sư của Các Anh lại dám mở miệng dạy dỗ các giáo sư đại học rằng “Trung Cộng là bạn tốt, dù họ đã nhiều xâm lấn Việt Nam!”
Hởi Tổ Tiên, Hồn Thiêng Sông Núi, và Anh Linh Liệt Vị, chúng con là hậu duệ của các Ngài, là dòng dõi một dân tộc anh hùng từ ngàn xưa, mà ngày nay, sao chúng con lại phải tủi nhục đến tận cùng của nỗi đau như vầy? Chúng con xin ngược dòng thời gian để nhớ lại rằng, từ lịch sử xa xưa đến thời cận đại, chưa bao giờ có những người nhân danh lãnh đạo mà lại dạy dỗ những nhà giáo, phải đào tạo những thế hệ hiện nay và những thế hệ nối tiếp về sau, chỉ biết cúi đầu tuân phục những người lãnh đạo, rồi cùng lãnh đạo mà cúi đầu trước tham vọng của Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, thậm chí nếu bị Trung Cộng “đá” cũng phải “né” chớ không được chống lại! Chúng con không biết phải hỏi ai, dám xin hỏi các Ngài: “Ông Phó giáo sư Trần Đăng Thanh có phải là người Việt Nam không? Chúng con nghĩ, chắc là phải, vì ông ấy nói tiếng Việt Nam như người Việt Nam. Vậy, phải chăng bộ não trong đầu của ông Thanh chỉ là một mảng bùn non, và trái tim của ông ấy chỉ là dòng máu đen ngòm luân lưu trong đó?” Và liệu, cả nhóm lãnh đạo trung ương gần 200 người, đều là Trần Đăng Thanh? Chúng con nghĩ, chắc là phải! Vì chính sách của họ là như vậy, nếu không phải là chính sách thì 10 ông Thanh hay 100 ông Thanh, cũng không dám dạy dỗ nhà giáo bậc đại học xã hội chủ nghĩa như vậy. Chúng con kính lạy các Ngài”.

Nếu Các Anh chịu khó nhớ lại lời của ông Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng CSVN khi gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Cộng Lương Quang Kiệt bên lề hội nghị quốc tế, tại khách sạn Shangri-La ở Singapore ngày 3/6/2011. Ông Thanh khẳng định với ông Kiệt rằng: “Việt Nam và Trung Quốc là anh em tốt, đối tác tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt” (4 tốt). Theo TTXVN, Đại Tướng Phùng Quang Thanh còn nói với Trung Cộng, là vụ tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02, ngày 26/5/2011 bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp, chỉ là chuyện nhỏ, không ảnh hưởng đến “truyền thống hữu nghị tốt đẹp giữa hai dân tộc Việt-Trung”.
Rõ ràng là ông Phùng Quang Thanh với ông Trần Đăng Thanh, hai nhân vật với hai câu nói cách nhau gần 2 năm, nhưng chung một ý. Mời Các Anh đọc tiếp, để nhận ra “nền tảng tạo nên con người tử tế hoặc con người tội ác, tùy theo chính sách giáo dục của người lãnh đạo”.


Thứ ba. Hậu quả của giáo dục xã hội chủ nghĩa.

Tóm lược bài đăng trong báo Pháp Luật trong nước, nhà báo Yên Trang phỏng vấn Giáo sư Tiến sĩ khoa học Nguyễn Đăng Hưng hồi trung tuần tháng 11/2012.
Câu hỏi: Thưa Giáo sư. Điều gì khiến ông cho rằng xã hội hiện nay biến loạn đến mức trầm trọng?
Trả lời: Hằng ngày trên các trang thông tin đại chúng, đâu đâu cũng có những chuyện cướp của, giết người, vô nhân tính. Cái ác hoành hành khắp nơi, khắp chốn một cách ngang nhiên. Điều đó cho thấy kháng thể của xã hội trong cuộc chiến chống cái xấu cái ác đang bị suy sụp trầm trọng. …
Câu hỏi: Vậy thưa ông, cái xấu cái ác bắt đầu đến từ đâu?
Trả lời: Trộm, cướp … đến từ cuộc sống khó khăn, nhưng sự chiếm đoạt của cái xấu cái ác lại nằm ở giáo dục, và khi giá trị đạo đức bị hủy hoại thì tha hóa rõ ràng. Bởi, kinh tế khó khăn thì sau thời gian suy thoái sẽ vực dậy được. Địa ốc đóng băng cũng có ngày phục hồi được. Đồng tiền mất giá, sẽ từ giá mới sẽ vươn lên được. Nhưng nền giáo dục của Việt Nam đang lầm đường lạc lối. Nền giáo dục không tạo được con người có nhân cách, có niềm tin đạo đức, biết sống lương thiện, biết sống thương yêu… Thay vào đó là từ ngay tấm bé, trẻ con đã thấy một xã hội vị kỷ, thực dụng, chỉ thấy tiền là chính… Đây không còn là câu chuyện nhỏ, mà là một vấn đề trầm trọng. Các em lớn lên trong môi trường giáo dục như thế, xã hội biến chất đảo điên là điều tự nhiên. Bởi vậy, mới có chuyện con giết cha mẹ để có tiền chơi game. Đây là đỉnh điểm của một xã hội bấn loạn, thật khó tưởng tượng là còn đỉnh điểm nào tệ hơn nữa…….
Câu hỏi: Nhưng chúng ta không thể đổ hoàn toàn cho giáo dục. Bởi trong ca dao vẫn dạy “anh em như thể chân tay, thương người như thể thương thân…” Và vẫn còn nhiều tấm gương tốt trong xã hội?

Trả lời: Chúng ta đưa chính trị vào trường học, nhồi nhét quan điểm một chiều trong trường học. Thay vì khuyến khích yêu thương nâng đỡ nhau để giải quyết các vấn đề thì có một thời ta lại khuyến khích đấu tranh để sống còn. Mà đấu tranh giai cấp là tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt thế lực thù địch… Thói ghen ghét, đố kỵ ở đâu cũng có, nhưng tôi cảm nhận tại Việt Nam ngày nay, những tật xấu này có phần gay gắt một cách không bình thường.
Câu hỏi: Nghĩa la` vấn đề nằm từ gốc chứ không phải ngọn thưa ông?
Trả lời: Đúng thế. Một lớp học tiểu học, sự giàu nghèo thể hiện ngay trong ăn mặc, trong những tiệc sinh nhật của từng đứa trẻ. Những đứa trẻ con nhà giàu có, nếu không được dạy phải thương bạn, tôn trọng bạn, chúng sẽ ra sao khi trưởng thành? Những đứa trẻ nghèo khó luôn tự hỏi tại sao mẹ không mua cho con áo đẹp, tại sao mẹ không mua cho con cặp đẹp? Tất cả những cái đó nếu không được giải tỏa bằng các bài học thường trực hàng ngày, thì lâu dần sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một đời người.

Giáo dục thường thức, giáo dục công dân, đang có vấn đề. Tuổi trẻ xao nhãng học văn, ngán ngẫm học sử vì bài học, vì sách giáo khoa quá ư cứng nhắc, một chiều, không hấp dẫn, không sinh động. Giới trẻ ngày nay không biết lịch nước nhà, nhưng khi mở Ti Vi lên, khắp mọi đài đều chiếu toàn phim Trung Quốc. Tình trạng này đang dẫn đến tai hoạ, trước mắt là tuổi trẻ ta hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn là lịch sử Việt Nam. Đó là điều không thể chấp nhận được.
Câu hỏi cuối: Vậy theo ông, bài học thường trực trong nhà trường phải nói về yêu thương?
Trả lời: Đúng vậy… Con trẻ phải được dạy yêu thương ông bà, yêu thương cha mẹ, anh em, rồi mới yêu cái cây đa, cái đình làng, yêu cánh đồng lúa chín, con sông nho nhỏ uốn quanh làng quê, con đường phố rợp bóng mát cây xanh, sau nữa mới đến yêu Tổ quốc…. Nhưng dường như bài học thương yêu, đề cao những tâm hồn cao thượng, tình tương thân tương ái, nhiễu điều phủ lấy giá gương, thương người như thể thương thân, đã bị mờ nhạt từ lâu. Một môi trường như vậy mà bạo lực không xuất hiện mới là điều lạ. Hết phần tóm lược.

Tiếp đây là một nét nhìn hạn hẹp về hậu quả chính sách “trăm năm trồng người” của cái ông mà Các Anh gọi là “bác”. Báo Lao Động dẫn lời của Phó Thủ Tướng Nguyên Xuân Phúc phát biểu ngày 25/1/2013, trong buổi họp đầu tiên về cải cách bộ máy công chức, để dẫn đến bộ máy hành chánh chuyên nghiệp… Câu đầu tiên của ông Phúc là: “Hiện nay, Việt Nam có 2.800.000 công chức”. …. “Trong số đó có khoảng 30% (tức 840 ngàn người) có thể cho nghỉ việc mà không ảnh hưởng gì tới công việc chung”…. Ông nói tiếp: “Việt Nam sẽ “thất bại trước nền kinh tế thị trường” nếu không đổi mới chế độ công vụ và công chức”. Tờ báo nhắc lại lời của các đại biểu Quốc Hội từng nói, “ngoài 30% công chức không làm được việc, còn 30% công chức nữa cần phải cầm tay họ mà chỉ việc. Cuối cùng, ông Phó Thủ Tướng kết luận: “Ông quyết tâm thực hiện đổi mới và yêu cầu áp dụng ngay việc thi công chức “công khai” và “minh bạch”..
Chỉ một góc nhỏ thôi, Các Anh cũng thấy được cái hệ lụy của con người dẫn đến xã hội suy đồi băng hoại ngày nay, bắt nguồn từ chính sách giáo dục học đường và chính sách giáo dục xã hội ngang qua những văn kiện của các cấp trung ương lẫn địa phương. Và hệ lụy này, nếu như ngày mai đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ, ít ra cũng phải 20 năm, 30 năm, thậm chí là 40 hay 50 năm sau, chế độ dân chủ tự do mới hy vọng khôi phục lại và phát triển một xã hội văn minh lịch sự. Tôi chưa dám nói đến xã hội Nhật Bản hôm nay sẽ là xã hội Việt Nam ngày mai, nhưng tôi luôn thao thức đến điều đó.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh trong giai đoạn lịch sử từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói “nhân dân là chủ, cán bộ là đầy tớ”, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ và luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, nhưng họ nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân. Để rồi hôm nay, lý tưởng của Các Anh chỉ là “cuốn sổ hưu”. Đau lắm phải không Các Anh?
Vậy là Các Anh nhận ra bộ mặt thật của lãnh đạo CSVN rồi chớ? Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định…. Tôi tin là quyết định đó sẽ giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại – đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi – vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 2 năm 2013
Phạm Bá Hoa

Phòng Trực
04-10-2013, 08:21 AM
Thư số 17
gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

*******
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân, ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Binh Chủng, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ trong một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi mời Các Anh theo dõi vấn đề sửa đổi Hiến Pháp mà nhiều giới trong xã hội tham gia, tiêu biểu là giới nhân sĩ và trí thức dưới hình thức “kiến nghị”. Nhưng Các Anh có đoán được kết quả sẽ ra sao không? Tôi thì không cần đoán, vì ít nhất cũng là 60 năm qua, tất cả những lần đảng CSVN kêu gọi người dân góp ý văn kiện đại hội đảng, góp ý sửa đổi Hiến Pháp, ..v..v.. cuối cùng tất cả “vẫn như cũ”, nói cho đúng là chỉ sửa đổi những điều khoản lặt vặt mà thôi. Hãy nhớ, dối trá là bản chất của cộng sản mà. Nhưng lần này, nhóm lãnh đạo không dốt gạt được đồng bào, mà bị đồng bào “nắm lấy cơ hội”.

Thứ nhất. Chuẩn bị sửa đổi Hiến Pháp.

Ngày 5/9/2012, các học giả pháp lý tham dự hội thảo tại Hà Nội, do Phó Chủ Tịch Quốc Hội Uông Chu Lưu chủ tọa. Đây là bước chuẩn bị cho việc góp ý sửa đổi Hiến Pháp năm 1992. Tóm tắt như sau:

(1) Tiến Sĩ Dương Thị Thanh Mai, Viện Trưởng Viện Khoa Học Pháp Lý, khi trả lời phóng viên đài BBC, cho biết: “Các học giả tham dự, đã thảo luận vấn đề phải có sự kiểm soát các cơ quan quyền lực của Nhà nước, và đây là một nét mới so với bản Hiến Pháp hiện hành”. Bà nói tiếp: …..“Việc kiểm soát phải được hiến định như một nguyên tắc, mà một trong các nguyên tắc chính của sửa đổi Hiến Pháp lần này, là phải làm sao để Hiến Pháp trở thành công cụ cho người dân thực hiện quyền làm chủ của mình…. Các học giả đã nghiên cứu bổ sung các quyền của người dân, trong đó có các quyền dân chủ trực tiếp, như quyền phát biểu, quyền biểu quyết, và nhất là quyền phúc quyết các vấn đề trọng đại của đất nước”. (2) Luật sư Triển nhấn mạnh: “Quyền của người dân được phúc quyết các vấn đề căn bản của đất nước mà Hiến Pháp 1992 không nói đến”….. (3)Tiến sĩ Trần Ngọc Đường, Viện Nghiên Cứu Lập Pháp: “ Nhu cầu phải có một Hiến Pháp dân chủ, để nhân dân được hưởng các quyền tự do dân chủ… Sức mạnh của Hiến Pháp là thực hiện chính quyền của nhân dân”. (4) Tiến sĩ Nguyễn Sĩ Dũng,Phó Chủ Nhiệm Văn Phòng Quốc Hội cho rằng: “Chúng ta không thể vượt lên phía trước với chiếc vòng kim cô trên đầu và tấm mai rùa trên lưng, vì vậy mà năm 2013 là cơ hội bằng vàng trong việc góp ý sửa đổi Hiến Pháp”.

Trong khi đó, báo VnEconomy được ông Nguyễn Bắc Son, Bộ Trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông, cho biết: “… Năm 2013 là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XI. Ngành thông tin và truyền thông, sẽ chủ động trong việc cung cấp thông tin chính thống kịp thời và đầy đủ, tích cực phát triển nội dung lành mạnh trên mọi phương tiện truyền thông theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”… Ông nói tiếp: “Báo chí là công cụ, là phương tiện của nhà nước, trí thức nghề báo không có quyền suy nghĩ độc lập hay phản biện, mà phải biết vâng lời”.

Trời đất! Cái ông Bộ Trưởng của Các Anh lại nói đến “năm bản lề”. Nhóm chữ này cứ sau mỗi đại hội đảng cộng sản độc tài là cả hệ thống truyền thông rầm rộ “ca tụng Nghị Quyết đúng đắn”, rồi sau đó 2 năm lại nói đến “năm bản lề” (tức là năm thứ 3 của nghị quyết 5 năm) thực hiện nghị quyết thành công. Để rồi, “đúng đắn hay thành công”, tất cả đều thất bại. Vậy mà ông Son tự ca tụng cái ngành “truyền thông một chiều” của ông đã cung cấp tin tức chính thống kịp thời và đầy đủ, được hiểu là tuyên truyền và dối trá.Cuối cùng ông ta tự nhận cái bản chất độc tài của chế độ, qua câu: “…Trí thức nghề báo không có quyền suy nghĩ độc lập mà phải biết vâng lời”. Vậy là Các Anh hiểu thêm chính sách truyền thông của đảng với nhà nước rồi chớ? Với 812 tờ báo gìấy, 70 báo điện tử, và 1.084 ấn phẩm các loại, nhưng tất cả chỉ một tiếng nói của chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng 90 triệu người Việt Nam. Thực tế thì mọi người trong xã hội mà điển hình là quan điểm của những nhà trí thức tham dự hội thảo, đều xoay quanh mục tiêu một Hiến Pháp tự do và nhân quyền để xây dựng một xã hội dân chủ tự do, từ đó dẫn đến sự phát triển toàn diện đúng nghĩa.

Thứ hai. Kêu gọi góp ý sửa đổi Hiến Pháp.

Ngày 29/12/2012, ông Phan Trung Lý, Trưởng Ban Biên Tập Dự thảo Sửa Đổi Hiến Pháp tuyên bố: “Nhân dân có thể cho ý kiến đối với mọi nội dung trong bản dự thảo Hiến Pháp, kể cả điều 4”. Cùng lúc, ông Lý lại tuyên bố: “Mỗi lần trình và thảo luận đều có những vấn đề cụ thể được sửa đổi, nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc căn (cơ) bản vẫn giữ nguyên”.

Các Anh hãy đọc lại câu: “….. nhưng những định hướng lớn, nguyên tắc căn (cơ) bản vẫn giữ nguyên”, hóa ra đảng chỉ sửa đổi những điều khoản lặt vặt thôi, còn những điều khoản căn bản giành cho đảng độc tài cái quyền lãnh đạo, quyền sở hữu đất đai, quyền “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, quyền nắm giữ hệ thống ngân hàng của nhóm lợi ích, quyền quyết định toàn bộ sinh hoạt xã hội,…và hơn hết là cái “quyền xét và cho”, còn người dân chỉ có mỗi cái “quyền xin” mà thôi.

Sau đó, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ban hành “chỉ thị 22”, nói lên sự kiện lấy ý kiến nhân dân cho bản dự thảo Hiến pháp là “một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn đảng, toàn dân, và cả hệ thống chính trị”. Nhưng ngay sau đó,ông Trọng lại ra lệnh Công An và Quân Đội phải “ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ trong việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá đảng và nhà nước”.

Lời tuyên bố có phần sợ hãi của ông Trọng, làm tôi nhớ lại sự sợ hãi của ông Nguyễn Minh Triết, lúc ấy là Chủ Tịch nước, đã tuyên bố: “… Tôi khằng định trước sau như một, là chúng ta vẫn tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải xây dựng đảng của chúng ta. Dù ai nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ Điều 4 Hiến Pháp thì không có chuyện đó. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố tự sát, cho nên phải củng cố công tác tư tưởng, củng cố vai trò của đảng”

Các Anh thấy không, bởi cộng sản là độc tài, mà độc tài thì lúc nào cũng sợ người dân lật đổ vì thế giới ngày nay trên đà phát triển dân chủ, và lịch sử đã chứng minh “độc tài thì sụp đổ”. Vì vậy mà nhóm lãnh đạo CSVN thường xuyên bị ám ảnh, những nhà lãnh đạo độc tài miền Đông Âu Châu bị người dân phẫn uất đã giết chết như thế nào khi chế độ cộng sản sụp đổ, đến những nhà độc tài vùng Trung Đông và Bắc Phi cũng tương tự như vậy. Các Anh hãy nhớ, trong đời sống của mỗi con người, “làm điều tốt sẽ nhận lại điều tốt, làm điều xấu sẽ nhận lại điều xấu”. Thực tế từ ngàn xưa đến nay, đã chứng minh quy luật này và tuyệt nhiên không ngoại lệ.

Thứ ba. Nhân sĩ và trí thức góp ý.

Tóm lược nội dung Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang trả lời phỏng vấn đài Á Châu Tự Do về sửa đổi Hiến Pháp. (chữ nghiêng là nội dung của ông Giang, chữ đứng là của tôi)

Kể từ ngày 02/01/2013 đến ngày 30/03/2013, người dân Việt Nam được mời tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp. Theo dự thảo sửa đổi Hiến Pháp, có 8 nội dung sửa đổi được lấy ý kiến nhân dân, trong đó có: (1) Lời nói đầu. (2) Chế độ chính trị. (3) Quyền con người. (4) Quyền và nghĩa vụ công dân. (5) Bộ máy Nhà nước. (6) Hiệu lực của Hiến Pháp. Và .. v..v…

Trong bản Hiến Pháp 1992, điều 4 quy định: “Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”….“Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật…..”. Trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp, điều 4 vẫn quy định Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng có thêm một câu: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”….“Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” mà sao không tự xử thích đáng, không tự bãi nhiệm, từ chức trước những sai lầm tệ hại như chủ trương công nghiệp nặng làm then chốt đã từng tàn phá nền kinh tế, đẩy đất nước vào kiệt quệ, nhân dân chịu đói nghèo, như chủ trương khu lọc dầu Dung Quất đã gây lãng phí hằng trăm hằng nghìn tỷ đồng …”

Tôi giúp Các Anh nhận ra câu mà nhóm lãnh đạo cộng sản đưa thêm vào Điều 4 Hiến Pháp, bằng cách tách riêng từng ý ngắn, và chẻ nhỏ những ý đó ra để Các Anh nhìn rõ sự thật nhé:

(1) Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân…, mà thẳng tay đàn áp nhân dân chỉ vì bày tỏ lòng yêu nước trong hòa, để phản đối Trung Cộng lấn đất chiếm biển, ủi chìm tàu cá và bắt ngư dân nộp tiền chuộc. (2) …Phục vụ nhân dân…, vậy mà mỗi khi người dân có việc phải đến bất cứ cơ quan nào của nhà nước, thậm chí đến người gác cửa nhà xác của bệnh viện, cũng phải nạp tiền mới mong được “nhà nước đầy tớ” giải quyết công việc, dù công việc đó là nhiệm vụ của nhà nước phải làm cho dân. Tham nhũng trong xã hội chủ nghĩa ngày nay nó len vào tận cùng ngóc ngách sinh hoạt xã hội, đến mức người dân không còn chỗ nào để tránh được nữa. (3) …Chịu sự giám sát của nhân dân…, nhưng tất cả những tổ chức có kèm theo hai chữ nhân dân, đều do nhà nước tổ chức và có đảng “kềm kẹp”, thì làm sao nhân dân giám sát đảng với nhà nước, vì đảng đứng trên đầu nhân dân mà! Hơn thế nữa, khi người dân bất mãn vì đảng với nhà nước đã vô cảm trước sự lấn áp khống chế của Trung Cộng trên Biển Đông, tuổi trẻ Việt Nam chỉ dám nói một lời, chỉ dám viết câu thơ, chỉ dám hát bài nhạc, chỉ dám cất cao lời than cho số phận người dân Việt Nam bị tước mất cái quyền yêu quê hương đất nước của mình, đã quá đủ để Công An bắt rồi, vì nhóm lãnh cho rằng bất cứ ai biểu lộ chống Trung Cộng thì điều đó cũng là chống Việt Cộng”, mà Việt Cộng chính là họ. (4) Chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”, vậy mà bản tin ngày 14/11/2012 của AFP, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, lần đầu tiên bị một trong số 500 đại biểu Quốc Hội kêu gọi ông từ chức, vì những kém cõi trong lãnh đạo đã đẩy nền kinh tế đất nước vào tình trạng nguy ngập hiện nay. Đại Biểu Dương Trung Quốc nói: “Đã đến lúc phải đề cao trách nhiệm pháp luật chứ không phải chỉ là lời xin lỗi”. Rồi ông đặt câu hỏi:“Thứ nhất. Thủ Tướng nghĩ gì về ý kiến cho rằng, mình đã nặng trách nhiệm với đảng, mà nhẹ trách nhiệm với dân? Và thứ hai.Thủ Tướng có tán thành là sẽ khởi đầu cho một sự tiến bộ của chính phủ, hướng tới một văn hóa từ chức để từng bước đoạn tuyệt với lời xin lỗi suônghay không?”

Ðáp lại những chỉ trích công khai của ông Quốc, Thủ Tướng Dũng nói: “Đối với tôi, còn 3 ngày nữa tròn 51 năm tôi theo Đảng, hoạt động cách mạng, chịu sự quản lý trực tiếp của Đảng. Trong 51 năm qua, tôi không xin với Đảng cho tôi đảm nhiệm chức vụ này hay chức vụ khác. Mặt khác, tôi cũng không thoái thác hay từ chối bất cứ nhiệm vụ gì mà Đảng và Nhà nước giao phó cho tôi. Là cán bộ, đảng viên, tôi đã nghiêm túc báo cáo với Bộ Chính Trị, Ban Chấp Hành Trung Ương về bản thân mình. Đảng, Ban Chấp Hành Trung ương đã hiểu rõ về tôi, cả về sức khỏe, thương tật, cả về năng lực, phẩm chất, đạo đức cả về tâm tư, nguyện vọng của tôi. … Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội. Đảng đã phân công tôi tiếp tục làm nhiệm vụ Thủ Tướng. Quốc hội bỏ phiếu bầu tôi làm Thủ Tướng thì tôi sẵn sàng chấp nhận và hoàn thành nghiêm túc mọi quyết định của Đảng, của Quốc Hội”.

Các Anh thấy chưa? Mới gợi ý Thủ Tướng Dũng khởi động cho tập quán “văn hóa từ chức”, thì ông Thủ Tướng Các Anh vội vàng “kê ra cái toa như toa thuốc thần”, nào là sức khỏe, thương tật, nào là phẩm chất đạo đức, nào là đảng hiểu rõ ông ta, ông ta với đảng hiểu rõ nhau (vì cùng tham nhũng và cùng bao che mà). Nhưng từ đầu đến cuối lời phát biểu, cái ông Thủ Tướng Các Anh chỉ nói đến đảng, chỉ tuân phục đảng, mà không một lời nào nói đến trách nhiệm đối với dân, với nước. Bản chất của cộng sản là dối trá, và dối trá ngay trong Hiến Pháp của đảng mới là khủng khiếp, vì Hiến Pháp là văn kiện qui định thể chế cho lãnh đạo và quản trị quốc gia. Họ viết lời lẽ tốt đẹp vào đó để dối trá với dân, dối trá với quốc tế, vì họ chỉ áp dụng những gì có lợi cho họ. Thậm chí, những văn kiện nhà nước ban hành để áp dụng Hiến Pháp lại trái ngược với Hiến Pháp nữa. Tôi nói“bản Hiến Pháp của đảng”, vì lãnh đạo đảng viết ra rồi đưa Quốc Hội -mà Quốc Hội thì hầu hết đại biểu là đảng viên- theo lệnh Bộ Chình Trị mà thông qua, còn nhân dân có được đọc chữ nào đâu mà nói Hiến Pháp của dân.

Các Anh hãy đọc bài viết trên báo Saigon Online ngày 13/02/2013, tường thuật Chủ Tịch Trương Tấn Sang đến thăm gia đình một đảng viên tại Phường Thảo Điền, Quận 2. Chủ nhà là Giáo sư tiến sĩ Phan Thị Tươi, giới thiệu chồng bà là ông Hoàng Thái Lai, đã nghỉ hưu. Chủ Tịch Sang hỏi: “Đồng chí có gửi gắm gì không?”. Ông Lai trả lời: “Tôi mong mỗi cán bộ lãnh đạo hãy làm đúng những gì đã nói”. Ông Sang nói ngay: “Đúng. Làm đúng những gì đã nói đang là thách thức rất lớn đối với chúng ta hiện nay” …. .“Từ trước đến nay, chúng ta có “cái bệnh” rất lớn là không dám nói lên sự thật. Nhiều cán bộ không muốn nghe sự thật, và không dũng cảm nói lên sự thật, chỉ vì lợi ích…”

Phái đoàn trao kiến nghị góp ý. Ngày 4/2/2013, phái đoàn 16 nhân sĩ và trí thức, đến văn phòng tiếp nhận ý kiến của nhân dân, số 37 Hùng Vương, Hà Nội, và trao bản kiến nghị góp ý cho Ủy ban.

Phái đoàn gồm các vị: Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội. Phan Hồng Giang, TSKH ngành nghiên cứu văn học, Hà Nội. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Đoàn TNCS/TPHCM. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ KH & CN, Hà Nội. Phạm Duy Hiển, nguyên Phó Viện trưởng Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam, Hà Nội. Vũ Đức Khiển, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội, Hà Nội (vắng mặt đột xuất). Tương Lai, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội. Hồ Uy Liêm, nguyên Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội KH & KTVN, Hà Nội. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội, Trưởng đoàn. Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, TPHCM. Nguyên Ngọc, Nhà văn, Hội An. Hoàng Xuân Phú, GS, Viện Toán học, Hà Nội. Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn Hóa Giáo Dục & Thanh Thiếu Niên Nhi Đồng Quốc Hội, Hà Nội. Nguyễn Trung, nguyên thành viên Ban Nghiên Cứu của Thủ Tướng chính phủ, Hà Nội. Tô Nhuận Vỹ, Nhà văn, Huế.

Tóm tắt nội dung: Ông Lê Minh Thông, Phó Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp Luật của Quốc hội, Phó Ban Biên Tập Sửa Đổi Hiến Pháp 1992, và một số cán bộ trong văn phòng Ủy Ban, tiếp phái đoàn: “Thay mặt Ban Biên Tập (BBT), Chúng tôi xin được lắng nghe ý kiến các bác. Ông Nguyễn Đình Lộc, trưởng đoàn: “Chúng tôi, có tên trong danh sách 16 người, đại diện cho 72 người đã trực tiếp ký tên vào “Kiến nghị sửa đổi Hiến pháp 1992” (gọi tắt là Kiến Nghị 72). Hôm nay, chúng tôi trao Bản Kiến Nghị và dự thảo Hiến Pháp gồm 79 Điều trong 7 Chương cho quý Ủy Ban. Hai văn bản này, chúng tôi đã đưa lên trang boxit, và đã có hơn 2000 chữ ký đồng ý với nội dung (đến cuối tháng 2/2013 lên đến 5.000 người).Ông Lê Minh Thông: “Tôi xin nhận Bản Kiến Nghị của các bác. Trách nhiệm của Ban Biên Tập là chuyển tận tay Ủy Ban Sửa Đổi Hiến Pháp, còn việc lắng nghe ý kiến như thế nào thì thuộc thẩm quyền của Ủy Ban”. Các bác còn có ý kiến gì nữa không? Ông Nguyễn Đình Lộc: “Những buổi như thế này, cũng nên ngồi lâu lâu tí chăng? … Chúng tôi với tất cả thành tâm mà đến đây, chắc các anh tiếp chúng tôi cũng vì … thành tâm”. Ông Nguyễn Trung: “… Hiến pháp là một văn bản cao nhất, quyết định vận mệnh của quốc gia… Tôi thẳng thắn mà nói rằng, dư luận trong nước rất sôi nổi về vấn đề này… Tôi đề nghị, nên có một diễn đàn thực sự của nhân dân bàn về vận mệnh của đất nước, từ đó có thể dẫn đến một sức mạnh chung”. Ông Phạm Duy Hiển: “Tôi rất mong là những ý kiến này được phản hồi trong buổi họp giữa những người trách nhiệm sửa đổi Hiến Pháp và lãnh đạo Quốc Hội, cùng đối thoại với chúng tôi, để tìm ra điểm đúng sai”. Ông Nguyễn Đình Lộc: “…Trước kia, Hiến Pháp nói đến chuyên chính, còn bây giờ thì Hiến Pháp không thể nói đến chuyên chính nữa. Vậy, chúng ta cần tạo cho sự góp ý sửa đổi Hiến Pháp lan rộng trong nhân dân như làn sóng, để thay đổi và phát triển xã hội”. Ông Tương Lai: “Hiến Pháp phải do dân kiểm soát quyền lực nhà nước, và với tinh thần ấy, chính là nội dung trong Kiến Nghị sửa đổi Hiến Pháp sắp tới của nước Việt Nam dân chủ. Vì cho đến nay, chúng ta đã đổ bao nhiêu xương máu để giành được độc lập, nhưng khi độc lập thì không có tự do, không có dân chủ, không có hạnh phúc thì độc lập không có ý nghĩa gì”.

Các Anh có thấy là tất cả ý kiến đều tập trung vào xây dựng dân chủ trong nội dung Hiến Pháp rồi chớ? Điều này thể hiện quan điểm chính trị của nhiều giới trong xã hội. Nếu nhóm lãnh đạo CSVN có vứt những ý kiến đó vào sọt rác như bao nhiêu lần trước đây đi nữa, sự kiện này vẫn chứng tỏ người dân càng ngày càng mạnh mẽ hơn lên, cùng lúc với sự giảm dần nỗi sợ hãi, chứng tỏ người dân không còn tin vào chế độ độc tài tàn bạo với dân, nhưng vô cùng hèn hạ với Trung Cộng đến độ mất dần đất đai biển đảo do tổ tiên gầy dựng, mở mang, và gìn giữ.

Thứ tư. Quốc Hội trả lời nhân sĩ và trí thức.

Ngày 7/2/2013, ông Phan Trung Lý, Chủ Nhiệm Ủy Ban Pháp Luật Quốc Hội, Trưởng Ban Biên Tập Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp, đã phúc đáp bản kiến nghị của phái đoàn nhân sĩ trí thức. Nội dung: “Bác bỏ bản dự thảo của phái đoàn vì không đúng quy định trong Nghị quyết số 38 của Quốc Hội”.

Vậy là, chỉ mới bước đầu, đồng bào mà tiêu biểu là nhóm nhân sĩ trí thức đông đảo, với hy vọng góp ỳ xây dựng bản Hiến Pháp dân chủ cho tương lai Việt Nam phát triền lành mạnh, như vừa bị “cái tát” từ Ban Biên Tập Sửa Đổi Hiến Pháp. Nhưng “cái tát” đó lại giúp cho mọi người nhận ra điều đạt được rất quan trọng, vì một lần nữa, nhóm lãnh đạo cho thấy chính sách “tay này mở cửa, tay kia lập tức đóng lại”, tương tự như từ đầu những năm 1990 khi tuyên bố “mở cửa kinh tế xã hội, cùng lúc đóng chặt thêm nữa cánh cửa chính trị và nhân quyền”. Đó là hành động của nhóm lãnh đạo độc tài luôn luôn sợ hãi bị lật đổ.

Ngày 25/2/2013, tại Vĩnh Phúc, ông Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng phát biểu: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không, phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”

Phóng viên Nguyễn Đắc Kiên đã bị cho nghỉ việc vì phản đối phát biểu của Tổng Bí thư Ðảng CS Việt Nam Nguyễn Phú Trọng.Ngày 26/2/2013, nhà báo Nguyễn Đức Kiên 29 tuổi(báo Gia Đình & Xã Hội) có bài viết trên nhiều Diễn Đàn ở hải ngoại. Bài viết như tiếng thét, như nòng súng đại bác, nhắm thẳng vào ông Nguyễn Phú Trọng, người đang đứng đầu một đảng chính trị Việt Nam. “Ông nói điều đó với ai? Tôi nói ông không có tư cách để nói với nhân dân, mà ông chỉ có thể nói với đảng viên của ông thôi. Ông nói suy thoái về đạo đức. Đạo đức nào? ….Tôi tạm đoán là ông muốn nói đến đạo đức người cộng sản của các ông. Vậy, các ông cho rằng chỉ có đạo đức cộng sản của các ông là đạo đức đích thực? Thế ra, cha ông tổ tiên chúng ta, khi chưa có chủ nghĩa cộng sản là vô đạo đức hết à? Và những người không theo cộng sản trên thế giới là vô đạo đức hết à? Ông nói suy thoái chính trị, tư tưởng, ông hãy đọc lại Cương Lĩnh Chính Trị và Điều Lệ đảng của các ông, trong đó không có điều nào nói xóa bỏ Điều 4 là suy thoái cả. Và Bây giờ, tôi trân trọng tuyên bố những điều tôi muốn:

(1) Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến Pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội Nghị Lập Hiến, lập một Hiến Pháp mới để Hiến Pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến Pháp hiện hành. (2) Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước. (3) Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập, mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc. (4) Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào. (5) Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên, và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

Các Anh có công nhận anh nhà báo Nguyễn Đắc Kiên là một công dân đúng nghĩa không? Với tư cách một công dân, anh Kiên đã dũng cảm nói lên tiếng nói của mình thật rõ ràng về một chế độ chính trị thật sự của dân, do dân, vì dân, để phục vụ dân. Về phần tôi, “Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa” từ 38 năm về trước, tôi hoàn toàn ủng hộ những điều mà nhà báo Nguyễn Đắc Kiên muốn.

Cũng trong ngày 26/02/2013, báo Gia Đình & Xã Hội thông báo rằng: “Phóng viên Nguyễn Đắc Kiên, vi phạm Quy Chế hoạt động của báo và hợp đồng lao động, nên hội đồng kỷ luật của báo Gia Đình & Xã Hội đã họp, và ra quyết định kỷ luật, buộc anh Nguyễn Đắc Kiên thôi việc”. Trả lời AFP hôm nay qua điện thoại, nhà báo Nguyễn Đắc Kiên tuyên bố: “Tôi không ngạc nhiên. Sau các bài viết của tôi, việc tôi bị sa thải là chuyện dễ dự báo”. Anh nói tiếp: “ Điều thôi thúc tôi viết, chính là bài phát biểu của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Không thể chấp nhận được phát biểu đó“. Và anh tuyên bố: “Tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho dân chủ ở đất nước tôi”.

“Những điều tôi muốn” của anh Kiên, chỉ sau 24 tiếng đồng hồ đã có 33 người lên tiếng ủng hộ, gồm: Chủ một số trang Blog, những vị nhân sĩ, trí thức, sinh viên, thi sĩ, nhạc sĩ, doanh nhân, và người lính Các Anh.

Ngày 27/2/2013, trong khi chỉ thị cho cấp lãnh đạo Hà Nội, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng nói: “Tuyên truyền vận động nhân dân chống lại đảng, phải kiên quyết đấu tranh và ngăn chặn”. Chưa hết. Cũng ngày 27/2/2013, bản tin tối trên đài VTV Hà Nội nói về “không thể phi chính trị hóa quân đội”. Tướng Phùng Khắc Đăng, nói: “Quân đội do đảng sinh ra để bảo đảm thực hiện đường lối, chủ trương của đảng với nhà nước”. Tiến sĩ (giả hay thiệt đây) Hồ Trọng Ngũ, Phó Chủ Nhiệm Ủy ban Quốc Phòng An Ninh của Quốc Hội, cảnh báo: “Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây sụp đổ khi phi chính trị hóa quân đội, công an”.

Các Anh thấy nhiều cấp lãnh đạo của Các Anh sợ hãi quá phải không? Đúng vậy. Vì họ độc tài, nên lúc nào cũng bị ám ảnh cái cảnh “sẽ phải trốn chui trốn nhũi trong ống cống” như nhà độc tài Gadhafi của Lybia, cuối cùng bị giết chết như con chó chết bên đường. Các Anh hãy đọc lại Thư số 4, với bài viết “Ngày Phán Xét Sẽ Đến” của tác giả Tuổi 20 ở Hà Nội, có đoạn: “…. Bây giờ là lúc đảng CSVN sợ hãi, chính vì sợ hãi nên chúng ra tay bắt bớ giam cầm bất cứ ai, như con chó điên cắn càn trước khi nhận viên đạn thi ân và bị vất xuống cống.… Việt Nam hôm nay có hằng triệu triệu người trẻ không buồn đọc báo, không thèm nghe đài, và đang âm thầm cùng nhau xây thêm ống cống đủ cỡ cho các vị và các quan tham …”

Kết luận.

Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, lớp lớp người về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975, và đến nay không? “Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ của luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, họ lại nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.

Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định…. Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự,

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 03 năm 2013.
Phạm Bá Hoa

Phòng Trực
04-10-2013, 08:23 AM
Thư số 18
gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa



Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh xâm lăng do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, xin gọi ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Binh Chủng, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ trong một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi mời Các Anh tiếp tục theo dõi vấn đề “góp ý sửa đổi Hiến Pháp”.

Thứ nhất. Đảng kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp 1992.

Khi kêu gọi nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp từ ngày 2/1/2013 đến ngày 31/3/2013, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, nói: “... Tạo điều kiện cho công dân tham gia một cách rộng rãi vào Hiến pháp, có thể tham gia vào tất cả các điều khoản của Hiến pháp và toàn bộ Hiến pháp...”. Ông Phan Trung Lý, Trưởng Ban Biên Tập Dự Thảo Sửa Đổi Hiến Pháp tuyên bố: “Nhân dân có thể cho ý kiến đối với mọi nội dung trong bản dự thảo Hiến Pháp, kể cả điều 4...”. Sau đó, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng ban hành “chỉ thị 22”, nói lên sự kiện lấy ý kiến nhân dân cho bản dự thảo Hiến Pháp là “một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn đảng, toàn dân, và cả hệ thống chính trị...”.

Các Anh hiểu gì về ba vị lãnh đạo cộng sản vừa nói ở trên? Với tôi, lời nói của ba ông ấy gộp lại như thế này: “Các ông ấy ra cái điều chế độ cộng sản có dân chủ, nên kêu gọi đồng bào tham gia ý kiến bất cứ điều khoản nào trong Hiến Pháp để xây dựng Hiến Pháp mới, và đây là một sinh hoạt chính trị quan trọng trong toàn dân. Cũng là dịp mà các ông ấy mang cái bản chất dối trá ra sử dụng, như đã từng sử dụng khi kêu gọi đồng bào góp ý đại hội đảng năm 2001, 2006, 2011, để rồi tất cả những ý kiến đóng góp được “lãnh đạo sốt sắng liệng vào thùng rác”.

Thứ hai. Đông đảo nhân dân góp ý sửa đổi Hiến Pháp.

Sau khi rất nhiều thành phần trong xã hội tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp, lãnh đạo cộng sản Việt Nam vội vàng lên tiếng.

Ngày 25/2/2013 tại Vĩnh Phú, ông Nguyễn Phú Trọng có phần hốt hoảng khi ông nói: “Vừa rồi đã có các luồng ý kiến cũng có thể quy vào được là suy thoái chính trị, tư tưởng, đạo đức … Xem ai có tư tưởng muốn bỏ Điều 4 Hiến pháp không? Phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng không? Muốn đa nguyên đa đảng không? Có tam quyền phân lập không? Có phi chính trị hóa quân đội không? Người ta đang có những quan điểm như thế, đưa cả lên phương tiện thông tin đại chúng đấy. Thì như thế là suy thoái chứ còn gì nữa!”

Ngày hôm sau 26/2/2013, bài viết của nhà báo Nguyễn Đắc Kiên như nòng súng nhắm thẳng vào ông Trọng, khi tác giả nhấn mạnh: “..... (1) Tôi không chỉ muốn bỏ Điều 4 trong Hiến Pháp hiện hành, mà tôi muốn tổ chức một Hội Nghị Lập Hiến, lập một Hiến Pháp mới để Hiến Pháp đó thực sự thể hiện ý chí của toàn dân Việt Nam, không phải là ý chí của đảng cộng sản như Hiến Pháp hiện hành. (2) Tôi ủng hộ đa nguyên, đa đảng, ủng hộ các đảng cạnh tranh lành mạnh vì tự do, dân chủ, vì hòa bình tiến bộ của dân tộc Việt Nam, không một đảng nào, lấy bất cứ tư cách gì để thao túng, toàn trị đất nước. (3) Tôi không chỉ ủng hộ xây dựng một chính thể tam quyền phân lập, mà còn muốn một chính thể phân quyền theo chiều dọc, tức là tăng tính tự trị cho các địa phương, xây dựng chính quyền địa phương mạnh, xóa bỏ các tập đoàn quốc gia, các đoàn thể quốc gia tiêu tốn ngân sách, tham nhũng của cải của nhân dân, phá hoại niềm tin, ý chí và tinh thần đoàn kết dân tộc. (4) Tôi ủng hộ phi chính trị hóa quân đội. Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ cương vực, lãnh thổ không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào. (5) Tôi khẳng định mình có quyền tuyên bố như trên, và tất cả những người Việt Nam khác đều có quyền tuyên bố như thế. Tôi khẳng định, mình đang thực hiện quyền cơ bản của con người là tự do ngôn luận, tự do tư tưởng; quyền này mỗi người sinh ra đã tự nhiên có, nó được nhân dân Việt Nam thừa nhận và tôn trọng; quyền này không phải do đảng cộng sản của các ông ban cho, nên các ông cũng không có quyền tước đoạt hay phán xét nó. Vì thế, tôi có thể xem những lời phán xét trên của ông, nếu có hướng đến tôi là một sự phỉ báng cá nhân. Và tôi cho rằng, những người nào chống lại các quyền trên là phản động, là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, đi ngược lại xu hướng tiến bộ của nhân loại.

Ngay chiều ngày 26/2/2013, Nguyễn Đắc Kiên bị buộc thôi việc. Khi trả lời phỏng vấn của hãng tin AFP, anh Kiên dứt khoát: “Tôi không ngạc nhiên là tôi bị sa thải sau khi tôi phổ biến bài viết.....Tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho dân chủ ở đất nuớc tôi”.

Trần Sơn (Danlambao): “Sau bài phát biểu của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng và ông Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng, một sự thật hiển hiện là các ông đã chánh thức tuyên chiến với toàn dân ngay từ giờ phút ấy... Các ông không còn ngần ngại mà tự bóc trần bản chất của mình: “bản chất độc tài”.

Tác giả Phạm Thạch Hồng: “Lời tuyên bố khẳng khái của Nguyễn Đắc Kiên đã ném vào mặt Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng CSVN, nổ tung như một quả bom gây hiệu ứng dây chuyền, kéo theo một loạt phản ứng”. Ngày 28/2/2013, lời tuyên bố mạnh mẽ ấy trở thành “Lời tuyên bố của các công dân tự do” trên trang mạng, và tính đến 1 giờ sáng ngày 7/3/2013 (giờ Việt Nam) có đến 5.200 người ký tên ủng hộ. Điều đáng chú ý là trong danh sách đó, 174 người ký tên đầu tiên là trong nước, từ số thứ tự 175 trở lên là chữ ký của nhiều người Việt sống khắp năm châu”.

Tác giả Trần Việt Hoàng. “... Đúng vậy! Cơn bão đòi hỏi dân chủ nhân quyền cho dân tôi đang đến. Nó đang còn là những cơn gió tụ họp lấp ló từ xa, nhưng tôi đã cảm nhận được sức mạnh vô cùng của nó. Đó là những cơn gió của “Triệu con Tim, Một Tiếng Nói”, của “Kiến Nghị 72”, của “Lời Tuyên Bố Của của các Công Dân Tự Do”, của “Nhận Định và Góp Ý Sửa Đổi Hiến Pháp của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam”, và của những gì mà ta chưa biết đến. Chỉ trong vòng một, hai ngày mà số người ký tên đồng tuyên bố đã tăng thêm… một con số kỷ lục mà tôi chưa được thấy trong những năm qua. Nó đã nói lên một điều là hình như chúng ta đã tìm được một đáp số cho bài toán đồng thuận mà trong bao năm qua nhiều người đã và đang mãi mê tìm kiếm…”
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, là một trong những người ký tên đầu tiên, nói về thông điệp chính của Lời Tuyên bố này: “... “Tới thế kỷ thứ 21 rồi mà mấy chục năm qua Việt Nam vẫn chưa đạt được một thiết chế dân chủ, chưa có được một nhà nước thật sự do dân, vì dân. Cho nên, thông điệp của Lời Tuyên bố này nói lên điều đó. Chính anh Kiên nói ra điều đó, và đã đồng cảm với tất cả mọi người cho nên được sự hưởng ứng của nhiều người, nhất là các bạn trẻ. Chuyện này là do các bạn trẻ khởi xướng.”

Trầm Tử, một blogger trẻ: “Lời Tuyên bố có thể không có tác dụng gì đối với nhà cầm quyền, nhưng là một sự đánh động, kêu gọi quan tâm của mọi người, nhất là giới trẻ, về trách nhiệm với tình hình đất nước.... “Một bản lên tiếng như vậy, mình nghĩ, dù có đến tay những người cầm quyền đi chăng nữa thì họ cũng không có phản ứng gì tích cực đâu. Cái này là một thông điệp cho giới trẻ, nhất là những công dân mạng. Ngoài cuộc sống thực tế, việc lên tiếng rất khó khăn. Cho nên, cộng đồng mạng như một mối dây liên kết mang thông điệp chung đến giới trẻ, và thức tỉnh giới trẻ trong điều kiện đất nước đang lâm vào hoàn cảnh hết sức khó khăn. Trong cái khó khăn đó, những sự liên kết như vậy tạo thêm sức mạnh và thêm cơ hội để Việt Nam có thể có một thay đổi tích cực trong tương lai.”

Vũ Đông Hà (Danlambao). “Tự Do không phải là quà tặng. Con đường đi đến Tự Do của một dân tộc, không bao giờ là con đường bằng phẳng. Trên con đường Tự Do hôm nay, tuy không có hố mìn bom đạn của thời chiến, nhưng lại chứa đầy những nguy hiểm được đánh dấu bằng những con số. như 79, 88, 258… . Đó là những điều trong Luật Hình Sự. Con đường đó ở nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam này, đôi khi lại là con đường ngắn nhất dẫn đến ngục tù. Thế nhưng vẫn có những con người tiên phong chọn cách đi về phía trước, và phất cao ngọn cờ Tự Do. Đó chính là những người khởi xướng lên Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do. Bước chân của họ đang góp phần làm ngắn lại con đường đến bờ Tự Do. Họ đang lót đường cho thành quả sau cùng của tương lai.

“Nguyễn Hoàng Vi, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, ...v..v... Trong đoàn người ấy, khởi đi là những cô gái nhỏ bé về dáng người nhưng đầy lòng quả cảm. Đó là những khuôn mặt thân quen của các bloggers trẻ tuổi. Gió Lang Thang, người bạn trẻ vừa mới đi tặng quà Tết cho dân oan đã bị đánh và bị bắt đem về đồn Công An. Hành Nhân, Huỳnh Công Thuận, Huỳnh Ngọc Chênh, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Hồ Nhật Thành, Uyên Vũ, Châu Văn Thi, Binh Nhì, Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Lân Thắng, Lê Thiện Nhân, Lê Dũng, Aduku Nguyễn Văn Dũng, Bùi Thị Minh Hằng, Trầm Tử, Lê Khánh Duy, Huỳnh Thục Vy, Huỳnh Ngọc Tuấn, ..v..v..... Những người miệng nói, tay viết, chân đi, trong mọi nỗ lực tranh đấu cho sự toàn vẹn lãnh thổ và biển đảo, cho công lý và quyền lợi của dân oan, cho tự do ngôn luận, cho công bằng xã hội. Họ đã dõng dạc cất cao lời xác định tư thế của những Công Dân Tự Do”.
“Trên con đường ấy, đồng hành với những người em, người cháu, sánh bước cùng thế hệ trẻ là những bậc đàn anh suốt đời luôn nặng nợ với núi sông như Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh, Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Nhạc sĩ Tô Hải, bác Trần Khuê, ..v..v... Ở trong đoàn người ấy có bóng dáng của những nhà thơ Bùi Chát, Bùi Minh Quốc, Đỗ Trung Quân, Phan Đắc Lũ, Phan Bá Thọ, Trần Đức Thạch, Chiêu Anh Nguyễn. Cũng có những chiếc áo dòng tu sánh bước của những vị Linh mục Nguyễn Hữu Giải, Phan Văn Lợi, Nguyễn Hữu Thoại, Hoàng Minh Giám, Lê Xuân Lộc, Nguyễn Quốc Hưng, Linh mục An Phong Nguyễn Công Minh, và Mục sư Nguyễn Trung Tôn. Cũng ở đó có những đảng viên dứt khoát từ bỏ con đường của đảng độc tài đã lâu, như anh em Huỳnh Nhật Hải, Huỳnh Nhật Tấn, Tiến sĩ Đỗ Xuân Thọ, hoặc mới đây như Nguyễn Chí Đức”.

Chưa hết. “Còn có những người cựu tù của chế độ, bỏ lại sau lưng ám ảnh của lao tù để tiếp tục con đường khai mở cho Tự Do, là Lê Thăng Long, Nguyễn Bắc Truyển, Trần Văn Đức, Phạm Minh Hoàng, Phạm Văn Trội. Cùng với những tên gọi quen thuộc là Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nhà giáo Phạm Toàn, Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, cựu chiến binh Nguyễn Anh Dũng, nghệ sỹ Tạ Trí Hải, nhà báo Võ Văn Tạo, nhà báo blogger Osin Huy Đức, nhà báo blogger Phạm Thành, nhà báo Lưu Trọng Văn, Bác sĩ Lê Đình Phương, Bác sĩ Thạch Nguyễn, và các thành viên của 8406 là Đỗ Nam Hải và Lư Thị Thu Trang. Sau cùng với con số 1001, là một tên tuổi vừa làm nên tất cả: Nguyễn Đắc Kiên”.

“Tất cả, từ các nẻo đường khác nhau của đất nước, xuất phát từ những hoàn cảnh, những cuộc sống, những mảnh đời khác nhau, đã cùng đồng hành, công khai tên tuổi là tiếng nói xác định tư cách và quan điểm của những Công Dân Tự Do. Khởi đi từ những thanh niên thiếu nữ ban đầu, dần dần lên đến con số ngàn. Họ đã đứng lên. Tự Do đã lên tiếng gọi. Lời Tuyên Bố của các Công Dân Tự Do là bước khởi đầu. Và tự nó, đã là một chiến thắng. Mỗi bước chân đi tới, là một chiến thắng chung của dân tộc trong cuộc cách mạng của sợ hãi này”. Chắc chắn rằng, trong số họ, sẽ là những người phất cao ngọn cờ Tự Do ở quãng trường Ba Đình vào ngày mai, theo sau là hàng trăm ngàn, hằng triệu người Việt Nam reo mừng chiến thắng Thoát Vòng Nô Lệ. Ngày chiến thắng đó sẽ không bao giờ đến, nếu không có ngày hôm nay”.

Các Anh cảm nhận được gì sau khi đọc những lời tâm huyết của tuổi thanh niên, tuổi trung niên, tuổi lão niên, cùng lứa tuổi với Các Anh và cha mẹ Các Anh? Những chính sách cai trị của lãnh đạo Các Anh, thường xuyên tạo cho người dân phải sống trong sợ hãi để lãnh đạo được an tâm mà thâu tóm quyền lợi, vì hình ảnh những nhà độc tài tại các nước cộng sản miền đông Âu Châu, cùng với những nhà độc tài tại các quốc gia miền bắc Phi Châu và Trung Đông, đã bị người dân nổi dậy giết chết, hoặc bị tòa án quốc tế tuyên án tử hình, luôn luôn ám ảnh họ! Giờ đây, đông đảo những lứa tuổi trong xã hội chủ nghĩa đã vượt qua nỗi sợ hãi, đã và đang đứng dậy đòi hỏi lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam thực hiện dân chủ tự do mà bước khởi đầu là một Hiến Pháp thật sự tự do dân chủ.
Mới đây, cô Tạ Phong Tần được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công nhận là một trong 10 phụ nữ can đảm nhất thế giới. Anh Huỳnh Ngọc Chênh, đoạt giải thưởng NITZEN “công dân mạng internet can đảm trên thế giới”, do Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới và tập đoàn Google tổ chức tại Paris ngày 12/3/2013. Và mới nhất là cô Nguyễn Hoàng Vi, được tổ chức IFEX trụ sở tại Canada vinh danh “những phụ nữ nỗ lực tranh đấu cho tự do ngôn luận”. Các Anh có cảm nhận được tinh thần yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam như thế nào trước sự tàn bạo từ những vị lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam? Các Anh có góp phần hãnh diện với tuổi trẻ Việt Nam trên đường tranh đấu giành quyền sống cho dân tộc Việt Nam, mà trong đó có Các Anh và gia đình thân quyến của Các Anh không? Nếu không, tôi xin hỏi: “Các Anh là ai?” Xin lỗi, câu này tôi mượn lời của nhạc sĩ Việt Khang đó. Về phần tôi, tôi ngưỡng mộ Việt Khang, Nguyễn Đắc Kiên, tất cả ... và tất cả ..!

Ngày 1/3/2013, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Hà Nội, công bố bản “Nhận định và góp ý dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992”. Xin trích một đoạn: .... “Quyền bính chính trị cần thiết để điều hành xã hội, nhưng chủ thể của quyền bính chính trị phải là chính nhân dân xét như một toàn thể trong đất nước. Nhân dân trao việc thi hành quyền bính ấy cho những người có năng lực và tâm huyết mà họ bầu làm đại diện cho họ, bất kể người đó thuộc đảng phái chính trị hoặc không thuộc đảng phái nào. Chỉ khi đó mới có Nhà nước pháp quyền “của dân, do dân và vì dân” .

Ngày 6/3/2013, Câu Lạc Bộ Truyền Thống Kháng Chiến hội thảo tại Sài Gòn, về việc đảng kêu gọi nhân dân góp ý sử đổi Hiến Pháp. Theo luật sự Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc Hội, có mặt tại buổi hội thảo nhận xét, thì không khí tranh luận giữa hai phía, một bên nhất quyết giữ vai trò của Đảng trong Hiến Pháp, còn một bên thì dứt khoát phải bỏ điều 4 vì nó đi ngược lại lợi ích của đất nước, nhân dân, có lúc diễn ra khá gay gắt.... Ông Lê Công Giàu phát biểu:

“Đối với điều 4 tôi đề nghị dứt khoát là phải bỏ. Có nghĩa là không nên để cho đảng độc quyền, với bốn lý do. Thứ nhất. Đảng đã nói theo chủ nghĩa Marx Lenin chấp nhận biện chứng, nhưng thủ tiêu đối lập. Như vậy sẽ không có đấu tranh thì làm sao phát triển? Những nước Xã Hội Chủ Nghĩa có nước nào phát triển đâu? Thứ hai. Ai cho anh cái quyền đó? Trong lúc chưa trưng cầu ý dân anh tự đặt cái quyền đó và đưa vào Hiến Pháp, như vậy là lạm quyền. Thứ ba. Khi anh đặt điều 4 thì nó chống lại những điều khác. Nó chống lại quyền con người, quyền ăn nói, quyền lập hội, vì khi đảng đã lên trên rồi thì các quyền kia không còn nữa. Thứ tư. Cho đến bây giờ cái gọi là xã hội chủ nghĩa, nhưng trong thực tế là nội dung không rõ ràng. Nó là một sự thí điểm trên toàn xã hội. Một sự thí nghiêm, không phải với con chuột bạch mà là đem cả một dân tộc làm thì nghiệm”.

Ngày 7/3/2013, sau khi phân tách, Khối 8406 tuyên bố: “.....Cảnh báo toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước, hãy cẩn thận đề phòng những phản ứng điên cuồng và trả thù tàn bạo mà đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có thể sẽ tung ra trong thời gian tới bằng cách sử dụng lực lượng công an, quân đội, côn đồ để hăm dọa, giam cầm, thủ tiêu những công dân ái quốc đang nỗ lực thay đổi vận mệnh đất nước cách bất bạo động theo chiều hướng dân chủ. .... Điều họ luôn khẳng định “Chế độ chính trị độc đảng ở Việt Nam hiện nay là sự lựa chọn của nhân dân và của lịch sử” là hoàn toàn dối trá và ngụy biện, không thể nào được Dân tộc Việt Nam hôm nay chấp nhận! .....”

Ngày 10/3/2013, sau khi phân tách sự kiện đông đảo tuổi trẻ, trí thức, và đồng bào tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp theo lời kêu gọi của đảng với nhà nước, Đức Tăng Thống Hòa Thượng Thích Quảng Độ, trả lời phỏng vấn của đài Á Châu Tự Do, đoạn cuối như sau: “...Tôi mong đảng cộng sản biết lắng tai nghe tiếng nói của dân, điều hành vận nước như thế nào cho nó phù hợp để đáp ứng nguyện vọng của dân. Tôi đã sống gần dân tôi biết, tính họ cộc lắm, đòi mãi mà không được là họ nổi xung đó. Mà họ nổi xung thì khó ngăn cản. Có thể rồi vạn người tràn ra đường. Không lẽ các ông bắn giết hết ư? Không được đâu!...”

Tôi tin là Các Anh đã thấy được, sự kiện lãnh đạo đảng kêu gọi đồng bào tham gia góp ý sửa đổi Hiến Pháp, đã được đông đảo các giới khác nhau trong xã hội tham gia. Tuy lời lẽ cũng như cách diễn đạt khác nhau, nhưng chung một mục đích là kiến nghị đảng xây dựng Hiến Pháp thật sự tự do dân chủ, và nhà nước thi hành đúng đắn, chớ không phải lừa dân, dối dân, mị dân, như từ khi có đảng đếnnay

Tóm tắt thư của cựu Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ngày 7/3/2013, gởi ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, về vấn đề góp ý sửa đổi Hiến Pháp:

“.... Trong đại hội Ban Chấp Hành trung ương đảng tháng 10/2012, Tổng Bí Thư nhận định đúng. Đúng là một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ, mà phần lớn là đảng viên có chức có quyền, kể cả ở cấp cao. Như thế, cũng có nghĩa là đảng suy thoái. .... Nhưng Tổng Bí Thư đã sai khi phát biểu ở Vĩnh Phú. Đã là đông đảo người góp ý kiến, thì ý kiến rất đa dạng, có người tán thành điều này, có người muốn sửa đổi điều kia, có người đồng ý với dự thảo, có người có ý kiến khác với dự thảo, đó là điều bình thường, sao Tổng Bí Thư lại chụp cho những người đó “cái mũ suy thoái” lại còn yêu cầu phải “xử lý” như trường hợp Nguyễn Đắc Kiên. Nếu góp ý kiến chỉ được đồng ý với dự thảo của Ủy Ban Soạn Thảo… thì lấy ý kiến của nhân dân làm gì cho mọi người thấy là “dân chủ hình thức, dân chủ giả dối”. Còn chỉ đạo “phải xử lý” thì xử lý sao được, vì đã có hơn 6.000 người đã ký vào “Kiến nghị 72” trong đó có nhiều nhà khoa học, trí thức có tên tuổi cả trong nước và trên quốc tế.....”

“Nhân đây, tôi đề nghị sửa điều 70 trong dự thảo. Thay vì “Lực lượng vũ trang phải trung thành với đảng cộng sản”, bằng câu “lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ Quốc Việt Nam”, điều đó không phải là “phi chính trị hóa” quân đội.,,,,”

Thứ ba. Đảng thật sự hốt hoảng.

Theo bản tin VRNs ngày 9/3/2013. Tại Sài Gòn, từng toán cán bộ Phường/Xã đến các khu dân cư, vào tận nhà trao cho mỗi nhà một “Bản Hiến Pháp 1992” và một “Bản Dự Thảo Hiến Pháp mới”, kèm theo danh sách đánh máy sẳn, họ yêu cầu đọc và ký tên vào, rồi đưa lại cán bộ.

Anh Tùng ở Hốc Môn cho VRNs biết: “Hôm qua -tức 8/3/2013- Ủy Ban đến nhà tôi và những nhà khác, đưa mỗi nhà một cuốn tài liệu bản góp ý sửa đổi Hiến Pháp, lúc đó tôi không có ở nhà. Khi về, con gái tôi nói lại là họ đưa cuốn sách in đối chiếu hai bản hiến pháp cũ và mới (dầy 79 trang), rồi thêm một danh sách in sẵn đề nghị con bé xem rồi ký tên đồng ý vào, tất cả chỉ diễn ra trong vòng 5 phút. Danh sách ký xong, họ mang đi luôn chỉ để lại cuốn sách in”.

Theo tác giả Trần Anh, thì đảng với nhà nước vội vàng tung cán bộ đến từng nhà dân ở các Quận Huyện Phường Xã trực thuộc Sài Gòn, ngoài những hành động như trên, họ còn kèm theo lời dặn cho chủ gia đình: “Hãy đánh dấu vào chỗ “đồng ý” rồi ký tên mà không được viết bất cứ điều gì”.

Tuy ngày 6/3/2013, Quốc Hội có thông bào thời gian góp ý, thay vì chấm dứt ngày 31/3/2013 được kéo dài đến ngày 30/9/2013 theo yêu cầu của phái đoàn trao “kiến nghị 72”, tức thêm 6 tháng nữa. Nhưng sao lãnh đạo đảng tại Hà Nội cũng như Sài Gòn, ra sức ép dân ký ngay và trao cho cán bộ tại chỗ, “để biết chắc là những ý kiến đó đúng mục đích của lãnh đạo chăng? Nếu đúng vậy thì lãnh đạo cộng sản hoảng hốt thật sự rồi. Tôi nhận định: “Người dân đang làm cuộc cách mạng chân chính”.

Kết Luận

Bài học kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ qua, đã là cộng sản thì không có người cộng sản tử tế, vì chính sách giáo dục của họ chỉ nhắm đào tạo những thế hệ thần dân tuân phục họ, và những chính sách xã hội chỉ nhắm bóp nghẹt các quyền tự do của con người trên căn bản “xin và cho” trong chính sách cai trị của họ. Vì vậy mà Việt Nam không có những công dân tử tế để xây dựng một xã hội trong mục đích phục vụ nguyện vọng người dân. Phải biết rằng, “nguyện vọng người dân, chính là nhiệm vụ của lãnh đạo quốc gia”. Nhưng với 14 đảng viên cộng sản trong Bộ Chính Trị, người dân lại là kẻ thù của họ.
Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường Việt Nam Cộng Hòa, chiến trường Campuchia, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, nhiều lứa tuổi về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, để nhận ra những khác biệt giữa lời nói với hành động của lãnh đạo Các Anh từ khi nhuộm đỏ một nửa nước vào năm 1954, đến nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam năm 1975 đến nay không? Lãnh đạo Các Anh:
“Nói giải phóng, nhưng thật sự là xâm lăng. Nói thống nhất, nhưng là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế. Nói nhân dân làm chủ, nhưng thật ra nhân dân chỉ là một phương tiện lót đường cho họ nắm quyền lực mà thâu tóm tài sản. Nói độc lập, nhưng họ nhận lệnh từ Trung Cộng. Nói tự do, nhưng họ là độc tài. Nói hạnh phúc, nhưng toàn dân như bị họ nhốt trong cái lồng chim. Nói tự do ngôn luận, nhưng mọi người bị họ bịt mắt bịt tai bịt miệng. Nói giáo dục tân tiến, nhưng chỉ đào tạo những thế hệ thần dân để tuân phục họ. Mở miệng ra là khoa học kỹ thuật, nhưng sử dụng côn đồ của luật pháp rừng rú đàn áp người dân yêu nước chống Tàu xâm lấn. Nói đến quê hương dân tộc, họ lại nhân danh lãnh đạo đảng cộng sản để đứng trên đầu Tổ Quốc với Nhân Dân”.
Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ đang từng bước làm nên lịch sử.
Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
Texas, tháng 04 năm 2013.

tieuchuy
05-08-2013, 09:30 PM
Thư số 19 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

*********

Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi đảng cộng sản bị triệt tiêu trên quê hương tôi.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, xin gọi ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, Các Anh hãy cùng tôi trở lại “vụ án Đoàn Văn Vươn” mà người địa phương gọi là “vụ án Tiên Lãng”, Hải Phòng.

Thứ nhất. Khởi đầu của vụ án.

Ông Đoàn Văn Vươn là cựu chiến binh của Việt Nam. Khi trở về đời sống dân thường, ông Vươn theo học đại học Nông Nghiệp, tốt nghiệp Kỹ Sư. Căn cứ Điều 37 Luật Đất Đai 2003, ông Vươn xin, và được phép sử dụng 50 mẫu đất ven biển để nuôi tôm cá trong 20 năm. Đây là vùng đất mà không ai dám nghĩ sẽ sản xuất được gì, nhưng với lòng kiên nhẫn của ông Vươn và gia đình, với tiền bạc và công sức trong hằng chục năm để ngăn sóng, đắp đồng, đã biến khu đầm lầy bỏ hoang, biển mặn, thành khu đất bồi ven biển, trồng cây và nuôi tôm cá. Khi mà “những sản phẩm” sắp bán cho khách hàng thì nhà nước Xã, Huyện, và thành phố Hải Phòng, ra lệnh cưỡng bách thu hồi toàn bộ phần đất dù còn trong thời hạn sử dụng. Ông Vươn khởi kiện. Huyện Tiên Lãng bác đơn. Ông Vươn kháng cáo lên tòa án Hải Phòng. Lúc ấy, Huyện tiếp xúc với ông, dụ dỗ ông Vươn rút đơn kháng cáo thì Huyện cho ông tiếp tục sử dụng. Ông Vươn rút đơn kháng cáo, lập tức huyện Tiên Lãng thực hiện cưỡng bách thu hồi đất.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/DVV1.jpg

Ngày 5/1/2012, đoàn quân đông đảo hơn 100 người gồm cán bộ viên chức Hành Chánh, Công An, Quân Đội, kéo đến cưỡng bách ông Vươn phải giao trả khu đất bồi cho nhà nước. Với phản ứng mạnh mẽ của ông Vươn và gia đình trong ngôi nhà trơ trọi, đoàn quân cướp đất có mấy người bị thương do “súng hoa cải” của ông ông Vươn tự tạo. Ngày hôm sau, nhà nước đưa máy ủi đến ủi sập nhà ông Vươn, san bằng ngôi nhà, đốt phá hết vật dụng, tài sản, và phong tỏa khu đất. “Công An nhân dân đầy tớ” bắt “nhân dân chủ” Đoàn Văn Vươn cùng gia đình ông, truy tố ra tòa.



http://hoiquanphidung.com/Pictures/DVV2.jpg

Các Anh thấy chưa, những “đầy tớ” Huyện Tiên Lãng đã lừa dối “chủ” là ông Vươn. Sự kiện này nhìn theo góc cạnh đạo lý con người là không đúng, nhưng nhìn theo góc cạnh đảng viên thì “những đầy tớ” đó làm đúng theo bản chất của đảng cộng sản. Bởi, từ ngày dẫn đoàn quân xâm lăng từ ngoài rừng tràn vào các thành phố của Việt Nam Cộng Hòa năm 1975 đến nay, lãnh đạo CSVN đã “tạo dựng” được một xã hội mà mọi người phải sống với nhau bằng những lọc lừa dối trá. Vì, nếu không như vậy thì không phải là cộng sản. Nói cách khác, đã là cộng sản, mà là cộng sản cấp lãnh đạo, thì không có người cộng sản nào tử tế để lo cho dân cho nước cả.

Thứ hai. Dư luận chung quanh vụ án.

Tòa án Hải Phòng thông báo sẽ xử công khai 6 nghi phạm là Đoàn Văn Vươn, Đoàn Văn Quý, Đoàn Văn Sinh, Đoàn Văn Vệ, Phạm Thị Báu và Nguyễn Thị Thương.

Bà Phạm Thị Báu, vợ ông Đoàn Văn Quý, nói một câu xúc động người nghe: ”Chúng tôi vui lòng chịu thiệt trong vụ án này, để hy vọng từ nay bà con nông dân ta không còn bị thiệt thòi đau khổ vì bị hà hiếp dập vùi nữa”. Câu nói thật đơn giản, chân thành, không cho riêng mình, mà là cho người dân như gia đình Bà.

Vụ án này sẽ đi vào lịch sử, ghi dấu cuộc chiến “xáp lá cà” giữa Sự Thật và Dối Trá. Đó là ngày xử ông Đoàn văn Vươn và gia đình ông về cái gọi là tội giết người, chống người thi hành công vụ. Vậy là, lịch sử lại ghi thêm vào hồ sơ tội ác của cộng sản, không biết trong danh sách tội ác của chúng đến thứ mấy chục ngàn, mấy trăm ngàn, hay mấy triệu lần tội ác sau 60 năm chà đạp dân tộc, xé rách quê hương!

Theo Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, thì sự kiện đang diễn ra ở Hải Phòng, chắc chắn sẽ đánh dấu một mốc lớn, đưa hai anh em Đoàn Văn Vươn vào trang sử Việt Nam hiện đại.

Trên trang Blog AnhBaSam có lời bình thật ngắn của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân: “Phiên tòa này sẽ dẫn đến một cuộc khởi nghĩa từ nông dân. Không thể khác được”.

Nữ diễn viên điện ảnh Kim Chi tiếp tục bày tỏ lòng tin là ông Vươn vô tội, vì ông chỉ hành động khi bị dồn đến chân tường. Bà trả lời đài BBC:

Bà Kim Chi nhận định: “Tôi có bài viết trên trang blog của Bùi Văn Bồng về sự có mặt của tôi trong buổi lễ cầu nguyện đó. Tôi nói rõ quan điểm của mình, nếu mà cái việc đó mà nó xảy ra như vậy, thì đó là một vết nhơ cho cái ngành tòa án Việt Nam, chứ không phải là oan hay là nặng nữa, mà một sự bất công vô lý. Vì là tài sản của người ta mà lại chiếm đoạt một cách phi lý thì người ta bảo vệ. Năm ngoái, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói họ bị cưỡng chế là sai rồi, mà những người lãnh đạo Hải Phòng cũng đã bị kỷ luật rồi. Thế tại sao bây giờ lại làm ngược lại, chúng tôi rất gỡ ngàng và rất căm phẫn”.

Đài BBC: “Có một nhà báo cũng viết trên mạng rằng, vụ việc này nếu chính quyền xử chặt, sẽ là ngòi nổ cho các vụ phản đối chính quyền để đòi đất khác, và nếu xử công bằng, tự nó sẽ tháo gỡ được sự giận dữ của người dân vì người ta sẽ hy vọng còn có công lý. Bà nghĩ sao về tình hình và đời sống của người dân hiện nay?”

Bà Kim Chi: “Thật là khó nói. Và cái vụ việc này làm tôi rất là buồn. Tôi nghĩ rằng, nếu người ta tha bổng cho Đoàn Văn Vươn và gia đình anh ta, điều đó sẽ thu phục được lòng dân. Còn nếu mà lấy quyền, lấy luật rừng để trừng trị một người lương thiện như thế, nhất định tức nước phải vỡ bờ. Người Việt Nam mình xưa nay vốn rất hiền hòa, theo tôi là như thế, chỉ khi nào người ta bị dồn đến chân tường thì người ta mới vùng dậy”.

Đài BBC: “Trong khi chống đối thì cũng có xảy ra thương tích, tai nạn cho những người phía chính quyền, thì bà có cho là ông Vươn cũng nên chịu tội?”

Bà Kim Chi: “Nếu mình công bằng thì mình phải đi từ cái gốc rễ của vấn đề. Vì sao lại có chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn làm như thế? Bây giờ có người đến đe dọa thì người ta giăng những cái vũ khí tự tạo của người ta, nhưng nếu mà chẳng ai đến thì làm gì có ai bị thương, làm gì có ai chống người thi hành công vụ. Như tôi nói từ đầu, đấy là tài sản riêng của người ta, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam khích lệ lấn biển, khai phá này kia, đó là cái mồ hôi, nước mắt, và máu của gia đình người ta. Bây giờ bỗng dưng người ta bị chiếm đoạt. Ai mà cướp đi sự sống của tôi một cách vô lý, thì tôi cũng hành động như thế”.

Đài BBC: “Cách đây vài tháng, Bà từng từ chối nhận bằng khen vì không muốn có chữ ký của Thủ Tướng Việt Nam, và nay lại xuất hiện cùng nhóm người ủng hộ gia đình ông Vươn, có ý kiến cho rằng bà đã ngả về phía bất đồng chính kiến, Bà nghĩ sao?”

Bà Kim Chi: “Rõ ràng là tôi bất đồng chính kiến với nhiều việc lắm. Và vì bất đồng chính kiến nên tôi mới có bức thư gửi cho Hội Điện Ảnh, với cái quan niệm là ôi trời, một ông Thủ Tướng ổng để nợ nần như thế mà sao mọi người ham được ông ký khen. Tôi nghĩ là ông ấy phải từ nhiệm từ lâu rồi. Rõ ràng là tôi hành động có suy nghĩ chín chắn của một người có lương tri, thương nước thương dân, chứ tôi không làm bốc đồng hay ngẫu hứng. Cho nên cũng có những người ném đá, nói tôi chơi nổi, đánh bóng tên tuổi, nhưng tôi mặc họ, tôi không quan tâm. Tôi có thể nói một câu rất là bướng bỉnh, rất là láo, nhưng mà tôi rất thích, là dân gian có câu rằng; “Tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như chúng nó”. Tôi không sợ những lời vu khống....”

Đài BBC: “Bà từng tham gia cách mạng, từng tham gia chiến tranh mong giành độc lập để có cuộc sống tốt đẹp hơn, có bao giờ bà thấy tiếc, thấy thất vọng, khi mà xã hội bây giờ không được như mình mong muốn?”

Bà Kim Chi: “............... Cho đến giờ này, đã mấy chục năm qua mà dân vẫn khổ, đất đai bị chiếm để làm dự án này, quy hoạch kia mà dân vẫn đói khổ, phải xuống đường để đòi đất thì đau đớn lắm! .... Nếu mà cứ cúi đầu sợ hãi mãi thì sẽ không bao giờ có sự thay đổi. Bản thân tôi cũng từng rất tự hào mình là đảng viên đảng cộng sản trước đây, nhưng mà bây giờ thì, đảng đã làm mất lòng tin của nhân dân.... Nói lại chuyện Đoàn Văn Vươn thì tôi phản đối tới cùng, nếu như mà xử oan sai, xử nặng”.

BBC: Điều gì trong xã hội Việt Nam hiện nay khiến Bà trăn trở nhiều nhất?

Bà Kim Chi: “Tôi trăn trở nhiều nhất là dân không được tự do. Thực sự là không được tự do. Vừa rồi tôi góp ý thay đổi Hiến Pháp thì bị người ta cho là tôi có tư tưởng này kia, chống đối rồi thoái hóa, đủ kiểu. Nếu vậy thì các vị lãnh đạo chỉ muốn người ta vâng dạ thôi, chứ không muốn người ta góp ý chân thành về những điều cần làm để mà sửa chữa”.

Các Anh nghĩ gì khi Bà Kim Chi nói đến lãnh đạo mà viết câu “tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như nó”? Phải chăng Bà ấy muốn nói là trong đầu các ông lãnh đạo đảng chỉ có cứt thôi? Nếu không phải, thì tại sao gần 40 năm cai trị Việt Nam trong hòa bình mà người dân vẫn khổ? Khổ vì lãnh đạo tham nhũng! Khổ vì bị đảng cướp đất cướp nhà! Khổ vì bị đảng thẳng tay đàn áp bắt giam bỏ tù những người yêu nước chống Trung Cộng khống chế lấn đất chiếm đảo chiếm biển Việt Nam. Cộng các tình cảnh đó lại, rõ ràng là đảng đã đẩy người dân vào đày, người không mảnh đất mưu sinh, không nhà không cửa, đến mức dân oan phải ngủ tại các vườn hoa Hà Nội trong những ngày Tết Nguyên Đán vừa qua?



http://hoiquanphidung.com/Pictures/DVV3.jpg

Thứ ba. Phiên tòa và bản án.

Sáng ngày 2/4/2013, ngày thứ nhất của phiên xử 4 ngày tại tòa án nhân dân Hải Phòng.

Công An bắt buộc các luật sư phải để xe từ xa và đi bộ khoảng 500 thước mới đến tòa. Trước khi vào được bên trong tòa án, phải qua phòng kiểm soát giấy tờ, lại sang phòng khác gởi điện thoại cầm tay dù rằng trong khu vực này bị nhà nước cho chuyên viên phá làn sóng, lại bị Công An kiểm soát giấy tờ lần nữa, cuối cùng là ngang qua máy soi bên trong cái cặp xách tay.

Bên trong phòng xử. Nhà nước tuyên bố xử công khai, nhưng tấm hình chụp được trong tòa, toàn Công An mặc sắc phục màu xanh tái mét đứng đầy gian phòng, cùng với màu áo của những bị cáo, và vài người mặc sơ-mi trắng có thể lần thân nhân ông Vươn và luật sư, ngoài ra không một người dân nào được vào.

Theo Luật sư Trần Đình Triển, Hiến Pháp qui định rằng: «Xét xử công khai, thì mọi công dân đủ năng lực đều có quyền tham dự phiên tòa».

Các Anh đọc kỹ dòng chữ bên trên rồi chớ? Nhà nước tuyên bố xử công khai, nhưng vì đảng đứng trên đầu nhà nước nên nhà nước cộng sản không cần Hiến Pháp mà chỉ cần tuân lệnh đảng là đủ. Nhà nước cộng sản cũng không cần giữ uy tín -vì thật ra cộng sản đâu có uy tín mà giữ- chỉ cần tuân lệnh đảng là đủ. Vì vậy, Hiến Pháp chỉ là những trang giấy khi không cần đến, lời tuyên bố cũng chỉ là lời nói đầu môi, chỉ cần giữ đúng bản chất dối trá và tàn bạo của đảng là được.
Vẫn theo Luật sư Triển. Mở đầu phiên tòa, Luật sư Hùng -bào chữa cho ông Vươn- đề nghị thay đổi toàn bộ Hội Đồng Xét Xử với lý do, thẩm quyền điều tra truy tố và xét xử thuộc thẩm quyền của Tòa Án Quân Sự.

Hội Đồng Xét Xử, sau khi nghị án và quyết định bác đề nghị của luật sư Hùng với lý do, đã được Tòa Án Hải Phòng và Tòa Án Nhân Dân Tối Cao trả lời khiếu nại của luật sư Hùng, và khẳng định thuộc thẩm quyền của Tòa Án Nhân Dân Hải Phòng xét xử.
Đa số các bị cáo đều tố cáo trong giai đoạn điều tra bị đánh đập, bức cung, mớm cung. Nhiều trường hợp, Công An đưa giấy trắng ép các bị cáo ký vào. Cả phòng xử giật mình khi anh Đoàn Văn Vệ khai rằng, trong thời gian điều tra có một điều tra viên đưa điện thoại cho anh Vệ gọi về cho vợ để đưa tiền cho điều tra viên hai lần. Một lần 20 triệu đồng và một lần 10 triệu đồng. Điều tra viên đã hứa sẽ lo cho anh Vệ không có tội. Nhưng khi không thấy kết quả, anh Vệ đề nghị thay đổi điều tra viên thì bị khước từ.



http://hoiquanphidung.com/Pictures/DVV4.jpg

Bên ngoài tòa án.

Hàng trăm công an bao quanh tòa án ở phía Bắc thành phố Hải Phòng, họ xé áp phích từ những người biểu tình, họ ngăn chặn nhiều nhóm người và các phóng viên nhiếp ảnh.

Báo Washington Post - Asia & Pacific đưa tin của Associated Press: “Dưới sự kiểm soát chặt chẽ của an ninh, tòa án Việt Nam bắt đầu phiên tòa xử những nông dân chống lại Công An”.

Lúc trưa, tòa tạm ngưng, Luật sư Triển nói: “Tôi ra ngoài đường cùng với một số luật sư đứng nói chuyện với vợ ông Vươn và vợ ông Quý, ngay lúc đó có một người mặc thường phục có bảng ghi “Ban Tổ Chức” bước đến ngăn chận cuộc nói chuyện. Tức quá, luật sư Triển hỏi: “Này anh! Anh nên bỏ vào đầu một chút kiến thức, để biết rằng đây là quyền của chúng tôi. Anh sai rồi. Nhưng nếu tôi chống lại thì sẽ bị xử lý về chống người thi hành công vụ như vụ án này đây!”

Blogger Phạm Thanh Nghiên cho biết: “Sau khi kết thức phiên xét xử buổi sáng, anh Ngô Nhật Đăng và Facebook Nguyễn Lân Thắng tới nhà thăm tôi, ngay lập tức hai anh này bị hắng chục Công An vây và bắt về Phường gần đó. Lực luợng an ninh dày đặc trước cổng nhà, họ đã ngăn cản khi tôi định bước ra khỏi cổng, thậm chí mẹ tôi bước ra cổng cũng bị mấy tay an ninh dí máy ảnh vào mặt để chụp hình.

Fabookker Nguyễn Việt Hưng cho biết: “Anh cùng với một người tên Kết tới thăm nhà Blogger Phạm Thanh Nghiên. Ngay lập tức, bị hơn 10 tên an ninh vây bắt về đồn Công An.

Nhà báo Trần Quang Thanh đã liên lạc với chị Bùi Thị Minh Hằng đang bị tạm giữ tại Công An quận Hải An, Hải Phòng. Chị Minh Hằng cho biết: “Cùng bị tam giữ tại đây, còn có các anh Trương Văn Dũng, Nguyễn Chí Đức, và một sinh viên”.

Vào ngày thứ hai của phiên tòa, bà chánh án Nguyễn Thị Mai, cho phóng viên báo điện tử của đảng biết: “Tòa sẽ xét xử khách quan, công bằng, đúng tội, và xem xét tình tiết giảm nhẹ theo đúng thông báo số 43 về kết luận của Thủ Tướng chính phủ là “Ủy ban nhân dân huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng đã có những sai phạm trong giao đất, thu hồi đất, cưỡng chế thu hồi đất đã giao cho ông Đoàn Văn Vươn”.

Các Anh nhận ra điều gì khi đọc lời tuyên bố của bà Chánh Án? Tôi thì thấy ngay:
(1) Tòa án phải xử đúng người đúng tội là trách nhiệm của tòa, cần gì phải tuyên bố trước. Như vậy là bà Mai “vạch áo” cho bàn dân thiên hạ thấy “những cái lưng của chánh án xã hội chủ nghĩa có hàng chữ, từ trước đến giờ tòa xử không đúng người, không đúng tội, mà xử theo lệnh đảng”. Còn phiên tòa này có xử đúng hay không, Các Anh chờ xem nhé!
(2) Cũng theo bà Mai, tôi hiểu là bản án của ông Đoàn Văn Vươn đang trong túi bà, trong khi tòa án của xã hội văn minh căn cứ vào bản cáo trạng, các luật sự bào chữa cho bị can, kết luận của bồi thẩm đoàn, từ đó mới dẫn tới bản án.

Ngày 5/4/2013, ngày cuối cùng của phiên xử 4 ngày, tòa tuyên án: Ông Đoàn Văn Vươn, 5 tù giam. Ông Đoàn Văn Quý, 5 năm tù giam. Ông Đoàn Văn Sinh, 3 năm 6 tháng tù giam. Ông Đoàn Văn Vệ, 2 năm tù giam. Bà Nguyễn Thị Thương -vợ ông Vươn- 15 tháng tù treo. Và bà Phạm Thị Báu -vợ ông Quý- 18 tháng tù treo.

Thứ tư. Dư luận chung quanh bản án.

Luật sư Nguyễn Việt Hùng, một trong 8 tám luật sư của gia đình ông Vươn, cho biết: “... Quan điểm của chúng tôi là không có tội danh “giết người, chống người thi hành công vụ”.

Bản án là đáp số chung cuộc cho bao nhiêu năm vun đắp của gia đình Đoàn Văn Vươn trên mảnh đất canh tác của mình, cho 3 năm họ ròng rã khiếu nại, khiếu kiện phản đối quyết định cưỡng bách một cách bất công mà không được giải quyết, cho những xôn xao dự đoán của công luận về phiên tòa xã hội chủ nghĩa trong chính sách đất đai và bài trừ tham nhũng. Kết quả phiên tòa không chỉ là sự thất vọng tột cùng đối với các bị can, mà còn là nỗi thất vọng của hằng triệu nạn nhân về đất đai trên cả nước.

Ông Vũ Văn Luân, Thư ký Liên Chi Hội Nuôi Trồng Thủy Sản huyện Tiên Lãng, phát biểu: “Tôi không hài lòng các bản án hôm nay. ... Theo dõi các phiên tòa, tôi cho rằng ông Vươn không “giết người, cũng không chống người thi hành công vụ”, vì theo Điều 15 Khoản 1 của luật hình sự thì ông Vươn không phạm tội, mà ông bị dồn vào tình cảnh phải bảo vệ tài sản của gia đình ông. Với lại người ta đã có sẵn bản án rồi. .... Chừng nào nhà nước Việt Nam chưa giải quyết tốt những vụ án như vậy, thì chừng đó vẫn còn nhiều vụ án Đoàn Văn Vươn nữa”.

Tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế Human Rights Watch cho rằng: “Vụ án Đoàn Văn Vươn là tín hiệu cảnh báo nhà cầm quyền Hà Nội về hậu quả của tình trạng thiếu nhân quyền và pháp trị tại Việt Nam”.

Phản ứng trước bản án dành cho gia đình ông Vươn, ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc phụ trách khu vực Châu Á trong tổ chức theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) nói: ““Thật thú vị khi những người bị cáo buộc dùng võ khí, súng ống chống lại nhà nước thì bị 5 năm tù, trong khi những người chỉ thể hiện quyền tự do ngôn luận của công dân để bày tỏ chính kiến như blogger Điếu Cày lại bị kêu án 12 năm tù. Thực trạng này thật kỳ quặc, và cần lời giải thích từ nhà cầm quyền Việt Nam.... Chính sách nhân quyền và đất đai của nhà nước Việt Nam, sẽ còn gây ra nhiều vụ Đoàn Văn Vươn” khác nữa”.

Kết Luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay. Có bao giờ Các Anh suy nghĩ tại sao đại đa số người dân từ thành thị đến nông thôn trong tình cảnh khốn khổ như ngày nay? Có bao giờ Các Anh tự hỏi” ”Tại sao Quân Đội nhân dân với Công An nhân dân, không chống quân Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân, không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biên giới Việt Nam, cũng không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Nhưng lại cầm súng đàn áp nhân dân đứng lên phản đối kẻ thù từ trong lịch sử là Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam, để lãnh đạo Các Anh bớt nỗi sợ hãi người dân mà ngồi yên trên những chiếc ghế quyền lực, rồi bày ra đủ cách đủ kiểu để lấy đất của dân cung ứng cho các công ty theo “lợi ích riêng tư” của họ! Và có bao giờ Các Anh tự hỏi: “Tại sao ngày nay lãnh đạo của Các Anh luôn sợ hãi người dân, nên sử dụng Các Anh thẳng tay đàn áp người dân?

Cái câu mà Bà Kim Chi nói “tôm tép luôn luôn nghĩ là cứt của ai cũng ở trên đầu như nó”, theo nghĩa đen có ý nói lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có cứt trong đầu, theo nghĩa bóng thì người cộng sản thiếu kiến thức lãnh đạo, lại trấn áp đồng bào để cướp đoạt đất đai, đàn áp người yêu nước trong khi hèn hạ khiếp nhược với Trung Cộng.
Bằng chứng:
(1) Năm 1988, chỉ phản kháng ngang qua người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, để rồi Trung Cộng chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa.
(2) Năm 1990, đã ký biên bản thỏa thuận với Trung Cộng, sẽ từng bước đưa Việt Nam sáp nhập vào Trung Cộng dưới chế độ tự trị vào năm 2020.
(3) Năm 1999 đã dâng cho Trung Cộng 789 cây số vuông dọc biên giới phía bắc.
(4) Năm 2000, đã dâng 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng.
(5) Năm 2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định cho thăm dò khai thác quặng bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung, và Tập Đoàn Khoáng Sản quốc doanh giao cho công ty Chalieco của Trung Cộng thực hiện từ 2007 đến 2015, xét đến năm 2025.
(6) Năm 2009, lại ký biên bản lần hai, tái xác nhận đưa Việt Nam sáp nhập Trung Cộng vào năm 2020.
(7) Nhớ lại năm 1979, quân Trung Cộng tràn sang đánh chiếm 6 tỉnh dọc biên giới phía bắc, chúng giết nhiều ngàn “lính quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam”. Vậy mà bây giờ, lãnh đạo cộng sản Việt Nam lại ngăn cấm cá nhân cũng như tổ chức, không được thắp nhang tưởng nhớ những người đã nằm xuống trong trận chiến đó!

Những hành động tội ác trên đây, góp phần vào trang sử tệ hại nhất trong dòng lịch sử Việt Nam cận đại và đương đại, mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Vì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, đất nước cũng như con người chỉ là một loại phương tiện đa dụng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?

Tôi mong là Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 5 năm 2013

tieuchuy
05-08-2013, 09:56 PM
Thư số 19a
gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam

******

Phạm Bá Hoa


Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi mời Các Anh nhìn lại tình hình Nhân Quyền tại Việt Nam. Nhân Quyền hay nhưng quyền của người dân, qui định trong Công Ước quốc tế do Liên Hiệp Quốc ban hành, mà Việt Nam đã cam kết thực hiện khi ký vào Công Ước năm 1982. Vấn đề là lãnh đạo Các Anh chưa bao giờ thực hiện, nên bị các cơ quan theo dõi Nhân Quyền trên thế giới chỉ trích. Qua đó, Các Anh sẽ nhận rõ thêm về tình trạng suy đồi niềm tin của đồng bào đối với lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất. Quốc Hội Châu Âu với nhân quyền Việt Nam.

Ngày 18/4/2013, tại Strasbourg (Pháp) dưới sự chủ tọa của ông Miguel Angel Martinez -đảng viên cộng sản- Quốc Hội Châu Âu đã thảo luận dự thảo Nghị Quyết về nhân quyền và tôn giáo tại Việt Nam do 6 chính đảng đệ trình. Cuộc tranh luận rất sôi nổi. Lúc 5 giờ chiều cùng ngày, Nghị Quyết được thông qua với đa số các chính đảng mà đại diện là 754 Dân Biểu, thiểu số là nhóm cực tả bỏ phiếu trắng.

Nghị Quyết Quốc Hội Châu Âu. (Tóm lược).

Căn cứ vào:
(1) Hiệp Ước đối tác và hợp tác giữa Liên Âu và Việt Nam ký ngày 27/6/2012, và cuộc đối thoại Nhân Quyền giữa Liên Âu với Việt Nam hai lần mỗi năm. (2) Công Ước quốc tế về các Quyền Dân Sự và chính trị mà Việt Nam tham gia ký kết năm 1982.
(3) Cuộc kiểm điểm thường kỳ toàn diện mà Việt Nam tường trình trước Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tháng 4/2009.
(4) Phúc trình của báo cáo viên Liên Hiệp Quốc Đặc Nhiệm thăng tiến và bảo vệ quyền tự do ý kiến và ngôn luận, tại khóa họp lần thứ 14 của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (LHQ) tháng 4/2010.
(5) Lời tuyên bố của phát ngôn nhân dại diện tối cao Liên Âu là bà Catherine Ashton trước các án lệnh đối với các bloggers tại Việt Nam ngày 24/9/2012.
(6) Nghị Quyết ngày 15/11/2012 về “Chiến lược cho tự do kỹ thuật số” trong chính sách đối ngoại của Liên Âu.
(7) Các Nghị Quyết trước đây đối với Việt Nam. (8) Điều 122 trong những quy tắc và thủ tục của Liên Hiệp Châu Âu.

Xét rằng: Theo phúc trình của các tổ chức Nhân Quyền quốc tế, 32 bloggers đã bị kết án tù khắc nghiệt hoặc đang chờ xét xử tại Việt Nam, 14 nhà hoạt động dân chủ lãnh án tù tổng cộng 100 năm vì sử dụng quyền tự do ngôn luận, những án từ 10 năm tù giam lên tới chung thân, một ký giả một tờ báo nhà nước bị sa thải vì đưa lên blog lời phê bình Tổng Bí Thư đảng cộng sản... Các bloggers và các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền, thường xuyên sử dụng Internet để nói lên quan điểm của họ về tệ nạn tham nhũng, về tình trạng cưỡng bách chiếm đoạt đất đai của người dân.... Năm 2009, trong cuộc phúc trình nhân quyền của Việt Nam tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã chấp nhận một số khuyến nghị về tự do ngôn luận, kể cả điều “bảo đảm hoàn toàn cho quyền tự do tìm kiếm, nhận và truyền đạt mọi tin tức, ý kiến, phù hợp với điều 19 của Công Ước Quốc Tế về Các Quyền Dân Sự và Chính Trị”. Quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị đàn áp, và Giáo Hội Thiên Chúa cùng những tôn giáo không được thừa nhận, như Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Giáo Hội Tin Lành và các giáo hội khác hiện đang bị khủng bố trầm trọng... Nhất là ngày 24/9/2012, ba nhà báo nổi danh: Nguyễn Văn Hải -tức Điếu Cày- Tạ Phong Tần, và Phan Thanh Hải, bị kết án tù, trong khi Việt Nam đang nhắm chiếc ghế tại Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2016.

Quốc Hội Châu Âu:

Bày tỏ mối quan tâm trước sự kết án và án tù khắc nghiệt cho những nhà báo và bloggers tại Việt Nam, tố cáo sự tiếp diễn những vi phạm nhân quyền, kể cả việc hăm dọa chính trị, sách nhiễu, tấn công, bắt bớ tùy tiện, kết án tù khắc nghiệt và các phiên tòa xử bất minh đối với những nhà hoạt động chính trị, nhà báo, bloggers, nhà bất đồng chính kiến, và nhà đấu tranh bảo vệ nhân quyền, cả hai giới ngoài luồng và trực tuyến, vi phạm rõ ràng nghĩa vụ quốc tế đối với nhân quyền của Việt Nam. Yêu cầu nhà cầm quyển tức khắc và vô điều kiện trả tự do cho tất cả các bloggers, ký giả trực tuyến và các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền; kêu gọi chính quyền Việt Nam chấm dứt mọi hình thức trấn áp chống lại những ai sử dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tín ngưỡng và tự do hội họp phù hợp với tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Đồng thời kêu gọi chính quyền Việt Nam sửa đổi hay hủy bỏ các luật pháp hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, chuẩn bị cho một diễn đàn đối thoại và thảo luận dân chủ.

Yêu cầu chính quyền Việt Nam chấm dứt việc cưỡng bức trục xuất “nông dân ra khỏi mảnh đất của họ”, để bảo đảm quyền tự do ngôn luận của những ai tố cáo nạn lạm quyền trong vấn đề đất đai, bảo đảm cho những ai bị trục xuất hưởng các quyền khắc phục pháp lý, và được bồi thường theo tiêu chuẩn quốc tế và nghĩa vụ chiếu theo luật nhân quyền quốc tế... Kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam chấm dứt việc đàn áp tôn giáo và hủy bỏ các cản trở pháp lý đối với những tổ chức tôn giáo độc lập để họ được tự do sinh hoạt tôn giáo ôn hòa, phù hợp với nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam, bằng sự công nhận quyền pháp lý cho tất cả các cộng đồng tôn giáo, cho phép tự do sinh hoạt tôn giáo và hoàn trả tất cả tài sản bị nhà nước cưỡng chiếm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, Giáo hội Thiên chúa giáo và các cộng đồng tôn giáo khác.

Kêu gọi thêm lần nữa rằng, việc đối thoại nhân quyền giữa Liên Âu với Việt Nam, phải đưa tới tiến bộ cụ thể trên lĩnh vực nhân quyền và tiến trình dân chủ hóa. Kêu gọi Liên Âu phải luôn luôn nói lên mối quan tâm về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam ở cấp cao nhất. .... Cho phép các nhóm hay cá nhân thăng tiến nhân quyền, bày tỏ ý kiến hay bất đồng chính kiến của họ môt cách công khai, từng bước bãi bỏ án tử hình, bãi bỏ hay sửa đổi các điều luật “an ninh quốc gia” đã sử dụng để trừng phạt những nhà bất đồng chính kiến ôn hòa, và trả tự do cho các tù nhân lương tâm....

Chỉ thị cho Chủ Tịch Liên Âu, chuyển Nghị Quyết này đến Phó Chủ Tịch Ủy Hội/Đại diện tối cao của Liên Âu, để trao cho Ủy Ban Đặc Trách Chính Sách Đối Ngoại & An Ninh Liên Âu, Hội Đồng Châu Âu, Ủy Hội Châu Âu, các chính phủ và thành viên quốc gia, chính phủ và quốc hội Việt Nam, các chính phủ thành viên quốc gia ASEAN, Cao Ủy Nhân Quyền LHQ, và Tổng Thư Ký LHQ. Ngày 27/6/2012, Liên Hiệp Châu Âu và Việt Nam đã ký văn kiện hợp tác, trong đó bao gồm điều khoản cam kết thực thi về Nhân Quyền. Các Nghị Sĩ Liên Hiệp Châu Âu, đề nghị phải sử dụng các quy định trong văn kiện nói trên, để bảo vệ đúng đắn Nhân Quyền và quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

Giới quan sát tại Châu Âu cho rằng, Nghị Quyết Nhân Quyền vừa được thông qua tại Strasbourg, là một thông điệp mạnh mẽ đối với nhà cầm quyền Hà Nội, và sẽ có ảnh hưởng đến cuộc đàm phán về tự do mậu dịch giữa Liên Hiệp Châu Âu với Hà Nội. Văn kiện này cũng được Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève quan tâm, nhất là hiện nay, Việt Nam đang có tham vọng trở thành thành viên của Hội đồng Nhân Quyền Liên hiệp Quốc vào năm 2014, nhưng lập trường của các Nghị Sĩ Châu Âu về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, sẽ ảnh hưởng không thuận lợi cho tham vọng của họ.

Thứ hai. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ với nhân quyền Việt Nam.

Ngày 19/04/2013, Ngoại Trưởng Mỹ John Kerry đã công bố báo cáo thường niên của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền trên thế giới. Riêng về Việt Nam, bản báo cáo này cho biết các vấn đề nhân quyền đáng kể nhất đó là việc nhà nước cộng sản Việt Nam vẫn hạn chế nghiêm ngặt các quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền thay đổi chính phủ, việc chính quyền gia tăng những biện pháp giới hạn các quyền tự do dân sự và nạn tham nhũng trong bộ máy tư pháp và Công An.

Riêng về quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, nhà nước Việt Nam tiếp tục sử dụng các điều luật về an ninh quốc gia và vu khống để hạn chế các quyền này, chẳng hạn như điều 88 về tội “tuyên truyền chống nhà nước”, như trường hợp của sinh viên Nguyễn Phương Uyên, bị bắt tháng 10/2012 chỉ vì mang trên người những truyền đơn chống Trung Cộng. Như trường hợp các bloggers đăng tải những tài liệu, bài viết bị xem là phương hại an ninh quốc gia, làm lộ bí mật nhà nước. Như trường hợp ngày 12/09/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cáo buộc ba trang Blogs Dân Làm Báo, Quan Làm Báo, và Biển Đông, vào tội tương tự, cộng thêm tội “nói xấu các lãnh đạo đảng”, đồng thời ra lệnh điều tra về ba trang Blogs này.

Nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giam nhiều nhà hoạt động sử dụng Internet chỉ trích chính phủ, và đăng các bài viết về nhân quyền và dân chủ đa đảng. Đa số các bloggers bị bắt đã bị truy tố về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” và “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Trong năm 2012, ít nhất đã có 14 nhà hoạt động bị kết án tù, và ít nhất là 20 bloggers và nhà hoạt động khác đang chờ ngày ra tòa, trong khi những nhà hoạt động khác thì bị chính quyền sách nhiễu. Báo cáo cũng nhắc lại ngày 25/09/2012, Cao Ủy Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc đã bày tỏ quan ngại sâu sắc, trước sự kiện nhiều phóng viên và bloggers bị kết án tù nặng nề, và ghi nhận xu huớng gia tăng hạn chế quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, đặc biệt là đối với những chỉ trích chánh phủ trên Internet.
Báo cáo nhân quyền thế giới 2012 được công bố sau khi Hoa Kỳ với cộng sản Việt Nam mở lại đối thoại Nhân Quyền ngày 12/4/2013 tại Hà Nội. Ngày trước đó, tòa đại sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội đã ra tuyên bố về đối thoại Nhân Quyền Hoa Kỳ-Việt Nam lần thứ 17, cho biết hai bên “đã bàn về một số lãnh vực bao gồm tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tù nhân lương tâm, pháp quyền, quyền lao động, và tự do thông tin, liên quan đến các phương tiện truyền thông và trực tuyến. Nhân dịp này, Phó Trợ Lý Ngoại Trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền & Lao động, ông Dan Baer đã gặp một số nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền, và tôn giáo, nhưng đã bị Công An Việt Nam ngăn chận không cho tiếp xúc với luật sư Nguyễn Văn Đài và bác sĩ Phạm Hồng Sơn.

Thứ ba. Tự do báo chí.

Ngày 03/05/2013 là Ngày Tự Do Báo Chí Thế Giới, tổ chức “Phóng Viên Không Biên Giới (RSF)”, trụ sở tại Pháp, công bố bản xếp hạng 2013 về tự do báo chí trên thế giới. Việt Nam vẫn ở vị trí thứ 172 trong tổng số 179 quốc gia trên thế giới, tức là nhóm 10 nước cuối bảng, bóp nghẹt quyền tự do báo chí.

Ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam có mặt trong danh sách “Hung thần của tự do báo chí”. “Phóng Viên Không Biên Giới” chứng minh qua lời phát biểu của ông Trọng: “Báo chí không có vai trò tuyên truyền chống nhà nước. Các nhà báo chỉ đưa các thông tin có thể chấp nhận được, và không được bình luận ủng hộ đa đảng”.

Ngày 3/5/2013 là Ngày Tự Do Báo Chí Quốc tế, đài VOA có phát đi bài phỏng vấn Blogger Phạm Minh Hoàng liên quan đến tự do báo chí tại Việt Nam. Câu hỏi cuối cùng như sau: “Nhân Ngày Tự do Báo chí Thế giới hôm nay, là một ngòi bút tự do, một blogger tại Việt Nam, nếu có điều kiện chia sẻ với những người cầm bút trên khắp thế giới, anh sẽ nói điều gì với họ?”


http://hoiquanphidung.com/Pictures/19a1.jpg

Blogger Phạm Minh Hoàng: “Điều tôi muốn nói với mọi người là mọi người đã biết đến Việt Nam như một nước từng đau khổ vì chiến tranh, nhưng đừng quên rằng Việt Nam của chúng tôi hôm nay vẫn đang quằn quại trước sự đe dọa, trước sự thiếu tự do thông tin, tự do ngôn luận, và tự do báo chí. Chúng tôi mong ước rằng tất cả nhà báo trên thế giới, những người đấu tranh cho tự do-dân chủ-nhân quyền trên thế giới hãy lưu tâm đến vấn đề này và hãy tiếp tục hỗ trợ chúng tôi tranh đấu, thúc đẩy các chính phủ trên thế giới lưu tâm để tình trạng tại Việt Nam càng ngày càng được cải thiện hơn”.

Thứ tư. Khi người dân mất niềm tin.

Ngày 24/4/2013, trên New York Times có bài của nhà báo Thomas Fuller, với nội dung nói về người dân Việt Nam đã mất niềm tin vào lãnh đạo của họ. Sau thời gian đến Sài Gòn, tiếp xúc với Giáo sư Nguyễn Phước Tường -tức Giáo sư Tương Lai- cựu cố vấn hai đời Thủ Tướng cộng sản Việt Nam, đã trao đổi với ông Trương Huy San -tức nhà báo Huy Đức- một cựu cố vấn khác của Thủ Tướng Việt Nam là Tiến sỹ kinh tế Lê Đăng Doanh, và một số nhân vật khác để tìm hiểu về tình hình kinh tế chính trị của Việt Nam hiện nay.

Tại nhà riêng của của Giáo Sư Tương Lai, trên các kệ sách chất đầy các tuyển tập của Marx, Engels, và Hồ Chí Minh, đã nói lên niềm tin của ông vào đảng cộng sản. Nhưng giờ đây, Giáo sư Tương Lai, 77 tuổi, đang nói lên những tiếng nói phản kháng mạnh mẽ chính quyền Việt Nam, giống như bao nhiêu người khác ở Việt Nam ngày nay: “Tôi không còn tin vào đảng nữa. “Hệ thống của chúng tôi bây giờ là chế độ toàn trị độc đảng. Tôi xuất thân từ bên trong hệ thống ấy, tôi hiểu tất cả những khiếm khuyết, những bất cập, những suy đồi thoái hóa của nó. Hệ thống này không được sửa chữa thì sẽ sụp đổ, đè lên trên chính bản thân nó”


http://hoiquanphidung.com/Pictures/19a2.jpg

Ông Peter R. Ryder, Giám Đốc Điều Hành Quỹ Đầu Tư Indochina Capital, nhận định: “Nếu chế độ này không sửa đổi, thì tự nó sẽ sụp đổ. Đảng cộng sản Việt Nam đang đối mặt với sự giận dữ ngày càng tăng của người dân, về sự trượt dốc của nền kinh tế, và nội bộ đảng đang bị chia rẽ, giữa nhóm bảo thủ với nhóm cấp tiến kêu gọi dân chủ đa nguyên..... Với 21 năm làm việc tài Việt Nam, tôi chưa bao giờ thấy sự bất mãn của trí thức và doanh nhân đối với chánh phủ lên đến mức độ như hiện nay”.

“Bài báo dẫn lời của ông Carlyle A. Thayer từ Học Viện Quốc Phòng Austrlia, một trong những học giả ngoại quốc hàng đầu về Việt Nam, cho rằng: ”Giờ đây, sự chỉ trích đảng cộng sản đã bùng nổ trên toàn xã hội, cùng lúc nhà nước cũng gia tăng đàn áp. Đây là khác biệt lớn nhất so với các thách thức mà đảng cộng sản Việt Nam đã trải qua, kể từ khi cầm quyền trên toàn cõi Việt Nam từ năm 1975”.

Vẫn theo bài báo của Thomas Fuller trên New York Times, trong diễn đàn Kinh Tế Mùa Xuân do Quốc Hội Việt Nam tổ chức tại Nha Trang ngày 6/4/2013, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho biết: “Các diễn giả đã tranh nhau nói trước micro. Nhiều người đã chỉ trích, mặc dầu nền kinh tế cần phải được tái tổ chức sâu rộng, nhưng gần như chẳng ai làm gì cả. Năm nào người ta cũng nghe hứa hẹn là thời gian tới mọi việc sẽ được cải thiện, nhưng thật sự họ không thấy gì cả. Đó là sự khủng hoảng niềm tin. Và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là trung tâm của cơn bão chính trị hiện nay”.



http://hoiquanphidung.com/Pictures/19a3.jpg

Thứ năm. Buổi dã ngoại vì nhân quyền Việt Nam.

Ngày 5/5/2013, do lời kêu gọi của Nhóm Công Dân Tự Do, buổi sinh hoạt ngoài trời lần đầu tiên được tổ chức tại Sài Gòn, Nha Trang, và Hà Nội, với mục đích phổ biến và đòi hỏi các quyền căn bản của con người được công nhận trong bản “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” năm 1948, mà chánh phủ Việt Nam đã ký năm 1982. Như vậy, Việt Nam là một thành viên và phải thực hiện, nhưng chưa bao giờ thực hiện.

Tại Nha Trang. Tóm lược cô Như Quỳnh trả lời phỏng vấn của đài RFI:

“Sáng nay, 5/5/2013, tại địa điểm tổ chức dã ngoại bị Công An và an ninh ngăn chận, không cho các xe vào công viên, họ viện dẫn lý do dành cho sinh hoạt của Đoàn Thanh Niên Cộng Sản. Tôi ra khỏi nhà một đoạn thì bị toán an ninh chận lại. Từ lâu nay, tôi muốn có cơ hội đối thoại với lực lượng an ninh, nhưng vì hôm nay tôi có hẹn với các bạn, nên tôi trả lời dứt khoát là tôi phải đến nơi hẹn. Họ đồng ý, với điều kiện là sau giờ bắt đầu một chút thì tôi phải rời khỏi chỗ đó. Và thực tế thì tôi bị ép phải đi cùng với an ninh khi đến gặp các bạn. Điều này không sao, vì mỗi bên có việc của mình. Sau khi gặp và cho biết là tôi không được ở lại với các bạn đến cuối. Tôi cùng với vài bạn đến một quán cà phê, tại đây, chúng tôi cùng trao đổi những gì liên quan về quyền con người, dưới sự chứng kiến của hai người an ninh mặc thường phục. Thật ra thì những trao đổi công khai của chúng tôi trong những buổi dã ngoại, là những cơ hội cho những công dân Việt Nam muốn tìm hiểu về những quyền của con người, để họ hiểu rõ hơn là mình có quyền gì, và mình nên làm gì trong tình huống nào. Việc này đã được công khai hơn hai tuần rồi. Và tôi nghĩ là qua buổidã ngoại hôm nay, tất cả những người tham gia cũng như những người theo dõi, có thêm sự hiểu biết về quyền tự do của con người, đặc biệt là quyền tự do đi lại”.

Tại Sài Gòn. Tóm lược bạn Châu Văn Thi trả lời phỏng vấn của đài VOA:

“Ngày 5/5/2013, tụi em sinh hoạt dã ngoại tại công viên 30/4, vừa hát xong bài “Nối Vòng Tay Lớn” thì Công An xông vào, miệng la lớn là tuị em buôn bán ma tuý, rồi họ rạch giỏ xách tay của tụi em. Lúc đó tụi em đang cầm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chuẩn bị nói về “Quyền Con Người” thì họ xông vào đánh tụi em mà miệng họ la lớn lên rằng: “Bọn này là phản động, chống đối chánh quyền”, rổi đ6ảy lên xe đưa về đồn Công An phường Phú Thạnh quận Tân Phú. Các bạn bị họ giữ lâu nhất là Vũ Quốc Anh, Vũ Sĩ Hoàng, và Nguyễn Hoàng Vi. Vi và Hoàng bị đánh nặng nhất. Lúc họ thả Hoàng Vi, họ còn cướp cái Ipad”.

“Hai giờ chiều cùng ngày, tụi em đến để lấy lại máy, thì họ cho phụ nữ và an ninh thường phục ra đánh tụi em ngay trước đồn Công An. Hoàng Vi, mẹ và chị với em của Hoàng Vi, bị chúng nắm đầu đánh, trong khi Công An với Dân Phòng bao vây tụi em tại chỗ. Khi miọ người bị thương, máu me đầy người, họ kêu xe taxi chở đi cấp cứu. Tới bệnh viện Tân Phú trên đường Âu Cơ, vừa xuống xe, ba người của họ bay vào tới tấp đánh tụi em tiếp. Em của Hoàng Vi là Nguyễn Thảo Chi bị đnáh gãy 3 cái răng. Mẹ của Hoàng Vi đưa người ra đỡ, họ lấy điếu thuốc châm vào mặt bà làm bà ngất xỉu. Sau đó, họ cứ đi theo xe vào trong bệnh viện để uy hiếp. Tụi em sinh hoạt công khai và ôn hòa, vậy mà họ thẳng tay đánh đập rất dã man!. Trong khi Việt Nam đang ứng cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, không hiểu họ ứng cử vào Hội Đồng này để làm gì nữa...”

Tại Hà Nội. Tóm lược bài của bà Trần Thị Nga.

Sáng ngày 5/52013, bà Nga và hai con đến công viên Nghĩa Đô tham gia buổi dã ngoại. Rất đông Công An và an ninh tại cổng công viên. Bà vào trong: “Thấy một số các ông bà và nhiều bạn trẻ ngồi cạnh bờ Hồ, có người trên tay cầm tờ giấy A3, A4 với nội dung “Phản đối đàn áp quyền tự do của Công Dân, tự do hội họp là Quyền Của Công Dân... Vài bạn trẻ đang cầm Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền mà Việt Nam đã ký với Liên Hiệp Quốc, được in ra đưa cho những người có mặt trong công viên để họ biết được những quyền căn bản mà con người từ khi sinh ra đã được hưởng là gì. Có lẽ do đây là buổi dã ngoại đầu tiên để thảo luận về quyền con người. .. Nhiều người vừa đọc vừa bàn luận với nhau rất phong phú, đa dạng”. Trong tay bà Nga cũng có tờ giấy A3: Phản đối đàn áp Quyền tự do của công dân.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/19a4.jpg

Quan sát buổi dã ngoại, bà Nga nói: “Tôi thấy số lượng an ninh theo dõi có lẽ đông gấp đôi số người tham gia dã ngoại, người quay phim chụp ảnh, người theo dõi chúng tôi chứ không ra tay bắt bớ, đánh đập tàn ác như trong Sài Gòn, hoặc ngăn chặn như ở Nha Trang. Sau buổi dã ngoại, có người cho là thành công, có người cho là thất bại. Còn câu trả lời cho việc thành công hay thất bạn là tùy vào cách nhìn của từng người, bởi quyền tự do là thế!”


http://hoiquanphidung.com/Pictures/19a5.jpg

Nhận định của bạn Nguyễn Trung Tôn, từ Thanh Hóa. Qua ngày dã ngoại về Nhân Quyền tại Nha Trang, Sài Gòn, và Hà Nội, đã đạt được 3 chiến thắng:
(1) Nhiều người dân được hiểu thêm về quyền con người của họ mà lâu nay bị công sản bưng bít.
(2) Việc cộng sản đưa Công An đàn áp người tham dự, đã phơi bày bộ mặt tồi tệ của họ về vi phạm nhân quyên tại Việt nam. Là bằng chứng để Việt Nam không thể đủ tư cách đắc cử vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc trong năm tới.
(3) Là cơ hội thu hút được nhiều thành viên, thể hiện sự khát khao nóng bỏng của người dân về một đất nước thực sự tự do.”

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có người về hưu, người thì thương tật tàn phế, có người đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đã bao lần theo lệnh đảng mà thẳng tay đàn áp đồng bào yêu nước, đàn áp đồng bào quanh năm nghèo khổ với mảnh đất nhỏ nhoi mà vẫn không yên, thậm chí cũng không còn nhà ở. Tôi xin hỏi: “Có khi nào Các Anh cảm thấy hối hận, cùng lúc cảm nhận nỗi đau của Nhân Dân bị Quân Đội Nhân Dân với Công An Nhân Dân đàn áp không?

Đây là một đoạn trong bài “Cảm xúc ngày 30 tháng Tư” của Luật sư Nguyễn Văn Đài -Hội Anh Em Dân Chủ- trên làn sóng đài BBC Luân Đôn ngày 29/4/2013: “Một quốc gia đã giành được độc lập và thống nhất, mà nhân dân không được hưởng các quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, thì người dân của quốc gia đó đã hy sinh xương máu chỉ để thay thế sự cai trị của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị của giặc nội xâm, chớ không phải hy sinh cho dân tộc. Mà giặc nội xâm thì tham lam và gian ác gấp trăm gấp ngàn lần giặc ngoại xâm.”

Vậy, Các Anh nghĩ gì sau khi đọc đi đọc lại nhận định của những đảng viên từng giữ những chức vụ quan trọng trong đảng lẫn nhà nước?

Nếu điều đang nghĩ chưa rõ nét, Các Anh hãy đọc đoạn dưới đây mà tôi trích trong “Lời Kêu Gọi” của cựu Đại Tá quân đội nhân dân Đào Văn Nghệ viết ngày 23/10/2010. Ông bắt đầu với lời than não nuột: “Đất nước lâm nguy! Giang sơn rơi lệ! Dân chúng lầm than!” Rồi ông mạnh mẽ kêu gọi:

“Hỡi toàn dân Việt Nam ở mọi miền đất nước! Hỡi Quân Đội và Công An Việt Nam, hãy bảo vệ cho người dân Việt Nam, như những chiến sĩ Quân Đội và Công An Nga Sô, Ba Lan, Đông Âu trước kia. Họ đã sớm thức tỉnh, nắm lấy thời cơ, cầm súng đứng về phía Nhân Dân, để ngày nay chính họ, gia đình vợ con họ được dân chủ, ấm no. Họ không còn phải sống trong lo sợ và đói khổ, dưới chế độ cộng sản cũ đầy dối trá và tội lỗi. Chế độ đã bao năm khống chế họ bằng luật rừng, bằng họng súng với nhà tù, cưỡi lên đầu lên cổ nhân dân họ. Bởi vậy, đây là thời điểm nhân dân và đất nước đang cần những anh hùng đứng lên giúp dân làm nên một trang sử, đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên dân chủ, ấm no không còn cộng sản độc tài. Kỷ nguyên Quốc Gia Cộng Hòa…. Quân Đội Nhân Dân còn chờ gì nữa? Khẩn cấp tiến hành cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Hà Nội, kiến lập quốc gia Cộng Hòa Việt Nam…. Tiến hành tổng tuyển cử toàn quốc, để nhân dân được thật sự tự do, ứng cử, bầu cử, tìm những người tài đức lãnh đạo đất nước và có nhiệm kỳ. Thay đổi Hiến Pháp phù hợp với Hiến Pháp chung quốc tế, để bảo vệ quyền con người cho toàn dân. Việt Nam ơi! Thời thế tạo anh hùng. Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ sinh ra những anh hùng”.

Khi Các Anh nhận ra người dân, đảng viên, giới trẻ, giới trí thức, và giới doanh nhân, không còn niềm tin vào lãnh đạo thì Các Anh nghĩ gì? Tôi mong là Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Tôi tin là quyết định đó sẽ giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và vào thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau góp phần giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) ra ngoại quốc mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự.

Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ rằng: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
Texas, tháng 05 năm 2013

tieuchuy
05-21-2013, 01:02 PM
Thư số 19b

gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
******
Phạm Bá Hoa

Tôi là một trong hằng triệu Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo. Người 5 năm, 10 năm, thậm chí 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy chế độ dân chủ tự do và quân lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi mời Các Anh đọc chầm chậm để hiếu rõ vụ án “tuyên truyền chống nhà nước” mà nạn nhân là hai sinh viên ở hai thành phố. Từ đó Các Anh sẽ hiểu được: “Tại sao có nhiều người yêu nước bị quản thúc tại nhà, bị đàn áp đánh đập trên đường phố, bị bắt giam, bị bỏ tù với những bản án theo nhu cầu của đảng”, nhưng ngày càng có nhiều người mạnh mẽ đòi hỏi một xã hội dân chủ?” Những người can đảm đó, vì lòng yêu quê hương, thương đồng bào, mà chống những kẻ nhân danh lãnh đạo hại dân hại nước, và chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam.

Thứ nhất. Người dân nghĩ về Phương Uyên và Nguyên Kha.

Theo bản tuyên bố của quí vị trong nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền. Đây là một vụ án có nhiều kịch tính, bộc lộ tất cả bản chất ghê tởm của chế độ và nền pháp lý cộng sản tại Việt Nam. Cô sinh viên 21 tuổi, đã bị bắt giam theo kiểu bắt cóc, bất chấp mọi quy định về tố tụng hình sự. Bị gia đình và thân hữu của em chất vấn và phản đối, nửa tháng sau Công An mới tìm cách lấp liếm và dối gạt công luận một cách trắng trợn khi trả lời gia đình của Phương Uyên.

Khi bạn bè cùng lớp và 144 nhân sĩ trí thức gởi thư lên Chủ Tịch nước minh oan cho Phương Uyên, họ liền bị trừng phạt bằng một loạt hành vi đê tiện. Các sinh viên thì bị nhà trường, từ trưởng khoa, giáo sư, đến tổ chức thành đoàn, ép buộc phải rút lại chữ ký, và họ thường xuyên bị Công An theo dõi. Còn các vị nhân sĩ trí thức, vừa chịu sự thóa mạ khi bị Công An gọi là “trí thức bầy đàn, phạm pháp bầy đàn”, vừa bị mạo danh qua một kiến nghị giả với nội dung trái ngược.

Sau khi Đinh Nguyên Kha bị bắt, và Nguyễn Thiện Thành bị truy nã, thì cả một chiến dịch tấn công trên “báo chí lề phải” của đảng. Họ không điều tra tìm hiểu sự việc để phân tách tìm kết luận, mà họ chỉ tuân lệnh đảng đua nhau vu khống các sinh viên đủ thứ tội... Gia đình của ba sinh viên cũng chẳng được buông tha, cứ bị Công An nay gọi mai gọi để đe dọa ép cung, khi đến thăm nuôi thì bắt buộc không được biểu lộ tình cảm giữa mẹ con, lại còn ép buộc phải ký xác nhận trên giấy phép thăm nuôi là con mình có tội, đến cơ sở làm ăn gây cản trở công việc. Thậm chí còn sử dụng cựu chiến binh đến nhà hành hung cha mẹ của hai em rồi vu vạ con của họ là phản động…

Tác giả Lê Hoành Sơn: “Các em Phương Uyên và Nguyên Kha, các em không có tội gì ngoài tội yêu nước. Các em dư thừa can đảm, tỉnh táo để mỉm cười và mạnh mẽ nói lên rằng: “Tôi có tội yêu nước” trước cái gọi là tòa án nhân dân xử công khai, nhưng lại cấm nhân dân tham dự... Mọi người đang ngưỡng mộ, hỗ trợ, và luôn sát cánh các em. Khi lòng yêu nước nổi dậy, hung bạo đến đâu cũng phải cúi đầu... Hai thanh niên yêu nước chỉ rãi truyền đơn nói cho đồng bào biết những bất công, thối nát, và tham nhũng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam (CSVN). Nguyễn Phương Uyên đã sử dụng biểu ngữ để hét lên với đảng cầm quyền rằng; “[B]Tàu Khựa cút khỏi Việt Nam”, với những dòng chữ viết bằng máu từ con tim yêu nước của cô sinh viên bé bỏng, nhưng mạnh mẽ về lòng yêu nước”. Tác giả nhắn với lãnh đạo CSVN rằng: “Quay đầu lại với lịch sử, sẽ bị lịch sử nghiền nát. Quay đầu lại với đồng bào, sẽ bị đồng bào trừng phạt”.

Thứ hai. Phiên tòa và bản án.

Ngày 16/5/2013, tòa án nhân dân Long An xử Nguyễn Phương Uyên, sinh viên đại học Công Nghiệp Thực phẩm Sài Gòn, và Đinh Nguyên Kha, sinh viên đại học Công Nghiệp Long An. Với bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát Long An ngày 06/03/2013, đã kết tội hai sinh viên “Tham gia tổ chức phản động. Trong tháng 8/2012 và tháng 10/2012, có hành vi làm ra, tàng trữ, và lưu hành các tài liệu chống nhà nước, có sự chỉ huy của sinh viên Nguyễn Thiện Thành, đã trốn thoát”.

Bên ngoài tòa.

Từ sáng sớm, nhóm quí vị từ Sài Gòn xuống Long An ủng hộ tinh thần hai bạn trẻ: Linh Mục Giuse Đinh Hữu Thoại, Linh Mục Antôn Lê Ngọc Thanh, Vương Các, Hoàng Vi, Huyền Trang, và Nguyễn Khanh. Khi xe rời Sài Gòn, các vị nhận ra 6 tên an ninh chìm trên 3 xe gắn máy số 51M3 2419, 54X6 2058, và 54S5 1711, bám sát theo xe của nhóm.

Tác giả Trọng Thành. Phiên tòa xử Nguyễn Phương Uyên, sinh viên trường đại học Công Nghiệp Thực Phẩm Sài Gòn, và Đinh Nguyên Kha, sinh viên đại học Kinh Tế Công Nghiệp Long An, bị bắt hồi tháng 10/2012, vì hành động rải truyền đơn với nội dung phản đối Trung Cộng xâm lược Biển Đông, đồng thời lên án tệ nạn tham nhũng và các bất công trong xã hội. Hai bạn trẻ tỏ ra tự tin và thoải mái trong chiếc áo sơ mi trắng giản dị, bao quanh là lực lượng Công An sắc phục dày đặc.
Bản cáo trạng ngày 6/5/2013, kết tội Phương Uyên nhận tiền nước ngoài 100 mỹ kim để mua máy ảnh phục vụ cho việc rải truyền đơn. Bản cáo trạng, chắc chắn chỉ dựa trên kết luận điều tra của Công An tỉnh Long An hoàn toàn không nói rõ số tiền đó là của ai. Theo Phương Uyên cho biết, một người bạn học cũ của Uyên thời tiểu học tên Hạnh, định cư tại Hoa Kỳ, đã có ý định tặng Phương Uyên nhân dịp sinh nhật một máy ảnh kỹ thuật số. Tuy nhiên nếu mua máy ảnh ở Hoa Kỳ gửi về khá nhiêu khê nên Hạnh đã gửi cho Phương Uyên 100 USD để mua máy ảnh. Thế nhưng Công An và Viện Kiểm Sát tỉnh Long An đã cố tình không ghi rõ là số tiền 100 USD này là của ai mà chỉ ghi chung chung là “từ nước ngoài”. Đây có thể là điều mà tòa án đã dùng để kết tội Phương Uyên nhận trợ giúp từ “nước ngoài” để thực hiện việc rải truyền đơn. Trong thực tế, Công An tỉnh Long An đã không thu thập được bằng chứng gì để kết tội Phương Uyên vi phạm điều 88 Bộ Luật Hình Sự. Ngược lại, bản cáo trạng đã cố tình không viết nguyên văn dòng chữ “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” mà Phương Uyên viết trên miếng vải, mà lại cho là Phương Uyên đã viết “một số nội dung không hay về Trung Quốc”.

Lúc phiên tòa nghỉ trưa. Ba của Phương Uyên cho biết: “Tuy không được vào dự khán, nhưng tôi theo dõi phiên xử con tôi từ bên ngoài. Tôi rất vui, vì có nhiều người ủng hộ con tôi. Tôi hãnh diện về con gái của tôi. Gia đình chúng tôi không sợ hãi gì cả”.

Bà Kim Liên ra ngoài, thì VRNs hỏi bà thấy phong thái của Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên sáng nay ở tòa thế nào, Bà cho biết: “Các con rất thoải mái, hiên ngang, ngẩng cao đầu. Hai con ngồi nhìn thẳng lên thẩm phán, không cúi mặt. Trước tòa, Phương Uyên khẳng định những việc Phương Uyên làm hoàn toàn do tinh thần yêu nước chống ngoại bang, và chống những bất công xã hội. Đây là những điều mà người dân thấp cổ bé miệng không nói lên được, nếu ai dám nói thì cũng sẽ bị đàn áp.......” Ngay lập tức, chủ toạ phiên tòa cắt lời Phương Uyên.

Được biết, trong phiên xử buổi sáng, Phương Uyên đã không xin khoan hồng, cũng không nhận tội. Đây rõ ràng là một cái tát vào mặt Bộ Công An với “đoạn video nhận tội” đã được phát trên các làn sóng phát thanh phát hình trước ngày 16/5/2013.

Trong khuôn viên cũng như bên ngoài tòa án, rất đông thân nhân và bằng hữu của hai sinh viên Uyên và Kha. Ngoài ra, còn có những bạn trẻ từ Sài Gòn xuống: Nguyễn Hoàng Vi, Hoàng Dũng, Châu Văn Thi, Trịnh Anh Tuấn, Phạm Lê Vương Các, ... cùng một số bà con từ Long An, Tiền Giang cũng đang ngồi cùng gia đình hai sinh viên yêu nước. Chung quanh là Công An chìm nổi, túc trực canh giữ mọi người.

Bên trong tòa.

Phiên tòa buổi sáng, chỉ có bà Nguyễn Thị Nhung mẹ của Phương Uyên, bà Nguyễn Thị Kim Liên là mẹ và Đinh Nhật Uy là anh của Nguyên Kha được vào dự phiên tòa. Tất cả những thân khác của hai gia đình đều ở bên ngoài. Bên trong tòa án, Công An rất đông, và những người mặt mũi xa lạ được xem là Công An chìm, cũng có thể là đám côn đồ tay chân của Công An choán hết chỗ để Công An viện dẫn lý do “hết chỗ” mà ngăn cản người dân.
Bản cáo trạng có nói đến 3 nhân chứng, nhưng cả 3 nhân chứng không có mặt tại tòa. Đây là một bằng chứng cho thấy Công An điều tra dựng chuyện để kết tội hai sinh viên. Về vật chứng, chỉ là khẩu hiệu mà họ cho là chống đảng cộng sản, nhưng họ không dám trưng dẫn cho mọi người thấy, vì đó là khẩu hiệu chống Trung Cộng và chống đảng CSVN. Luật sư biện hộ cho hai sinh viên, nhiều lần đề nghị tòa trưng dẫn vật chứng, nhất là mảnh vải có dòng chữ ”Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” mà Phương Uyên đã viết, nhưng chủ tọa phiên tòa không chấp nhận. Vậy là người ngồi ghế “chủ tọa” rất sợ sự thật, nhất là sự thật nói lên ý chí của một công dân nhỏ bé chống Trung Cộng.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369140716.jpg

Hai sinh viên “nạn nhân” của nhóm lãnh đạo tàn bạo với dân vì khiếp nhược với Trung Cộng, đã rất dũng cảm khi đứng trước “vành móng ngựa”, dõng dạc phát biểu:
Nguyễn Phương Uyên: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi mà không dám bảo vệ chủ quyền đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước, thì thật sự tôi không cam tâm".

Đinh Nguyên Kha: "Tôi, trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd3/HQPD_1369140756.jpg

Sau giờ nghỉ trưa, phiên tòa tiếp tục lúc 2 giờ chiều. Theo chương trình, chiều nay sẽ đến phần tranh luận giữa đại diện Viện Kiểm Sát với các luật sư biện hộ, sau đó tòa sẽ nghị án và tuyên án.

Luật sư Hà Huy Sơn, thuộc Đoàn Luật sư Hà Nội là người bào chữa cho Nguyễn Phương Uyên bị bắt ngày 19/10/2012. Bị truy tố giữa tháng 08/2012:

Về lá cờ vàng ba sọc đỏ. Uyên sử dụng giấy trắng A4, dùng bút sáp màu vàng và màu đỏ tô thành lá cờ. Phía dưới lá cờ có ghi chú bằng bút sáp màu đen dòng chữ: 1890 – 1920, Đại Nam quốc kỳ từ thời vua Thành Thái tới vua Khải Định, 1948 – 1975 là cờ quốc gia Việt Nam. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Năm 1890, lá cờ vàng ba sọc đỏ được tạo ra và sử dụng lần đầu tiên như là lá cờ quốc gia. Về lịch sử, đây là lá cờ của tổ tiên mà sau này Nhà nước Việt Nam Cộng Hòa dùng lại, cũng như tên “Việt Nam” là do tổ tiên để lại chớ không phải là biểu tượng của thế lực phản động nào cả. Đây là sự thật lịch sử có trước cả Nhà nước CHXHCN Việt Nam ra đời (1976). Vậy là Phương Uyên không làm ra, không xuyên tạc, cũng không phỉ báng chính quyền nhân dân, chỉ là nhắc lại lịch sử.

Về khẩu hiệu. Uyên sử dụng hai mảnh vải trắng, lấy máu pha loãng với nước, rồi dùng ngón tay chấm viết, một mảnh có nội dung phỉ báng đảng CSVN, mảnh vải còn lại có nội dung không hay về Trung Quốc. Không đúng, vì đảng CSVN với Nhà nước CHXHCN Việt Nam không phải là một, nên không thể cho rằng phỉ báng đảng là phỉ báng nhà nước, nên không vi phạm điều 88 bộ luật hình sự (BLHS). Với lại BLHS không có “Tội tuyên truyền chống đảng CSVN”. Trên mảnh vải không có “dòng chữ không hay về Trung Quốc, mà là Tàu khựa cút khỏi Biển Đông. “Tàu khựa cút khỏi Biển Đông” là quyền của công dân, vì điều 77 Hiến Pháp năm 1992 ghi rằng: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân”. Về yếu tố lịch sử và luật pháp quốc tế, Trung Quốc không có chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc là kẻ đã xâm chiếm Hoàng Sa Trường Sa của Việt Nam, công dân phản đối kẻ xâm lược là một hành động yêu nước không thể bị kết tội.

Về tội phỉ báng. Biên bản hỏi cung Phương Uyên ngày 23/11/2012, cho rằng Phương Uyên phỉ báng lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là không đúng. Bởi, Hồ Chí Minh không đồng nghĩa với nhà nước CHXHCN Việt Nam.

........ Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và gặp Phương Uyên, tôi nhận thấy Phương Uyên là nạn nhân của Nguyễn Thiện Thành, người mà Phương Uyên chưa gặp mặt bao giờ. Cơ quan an ninh điều tra không bắt được Nguyễn Thiện Thành; không xác định được tổ chức “Tuổi trẻ yêu nước” của Nguyễn Thiện Thành. Phải chăng đây là cái bẫy để Nguyễn Thiện Thành gài những thanh niên sinh viên có nhiệt huyết với đất nước như Nguyễn Phương Uyên và những thanh niên sinh viên khác. Theo quan điểm của tôi, vụ án Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên, sẽ làm cho thanh niên sinh viên Việt Nam không dám quan tâm đến chủ quyền biển đảo quốc gia.

Luật sư Hà Huy Sơn kết luận. Theo bản cáo trạng của Viện Kiểm Sát thì hành vi của Nguyễn Phương Uyên không gây ra hậu quả nào cho xã hội; không có động cơ cũng như mục đích nào chống nhà nước CHXHCN Việt Nam. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên chỉ là phản ánh phẫn uất của cá nhân trước hiện trạng của đất nước và muốn cảnh tỉnh thanh niên sinh viên về ý thức và trách nhiệm bảo vệ chủ quyền của tổ quốc. Các hành vi của Nguyễn Phương Uyên không thể cấu thành trách nhiệm hình sự. Vì vậy, tôi đề nghị Hội Đồng Xét Xử hãy công minh xem xét tuyên Nguyễn Phương Uyên vô tội.
Vậy mà, “tòa án nhân dân Long An” vẫn kết án như dư luận loan truyền trước phiên tòa: (1) Sinh viên Nguyễn Phương Uyên, 21 tuổi, 6 năm tù và 3 năm quản chế. (2) Sinh viên Đinh Nguyên Kha, 25 tuổi, 8 năm tù, cùng 3 năm quản chế. Và lúc 4 giờ 27 phút chiều, xe chở tù đã đưa hai sinh viên yêu nước Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, rời tòa án chạy về trại giam.

Thứ ba. Phản ứng chung quanh hai bản án.

Tiến sĩ Đặng Huy Văn. Sau khi phiên tòa kết thúc với bản án nặng nề cho hai sinh viên yêu nước, ông viết lá thư như sau. “Tôi viết bài này kính gửi Tổng Bí Thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, thỉnh cầu ông cho phép tôi được đi tù thay hai cháu, vì tôi đã già không còn có ích cho ai nữa, trong khi hai cháu Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha là những hiền nhân của Tổ Quốc. Hai cháu sẽ là ngọn cờ chống lại sự bành trướng xâm lược của kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam trong tương lai”

Tham khảo và trích dẫn bài của ông Trần Quốc Việt. “Bản án tàn khốc giáng xuống hai mái đầu xanh vô tội Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, là cái tát vào lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của tổ tiên và dân tộc... Từ nay, lằn ranh chiến tuyến càng rõ nét trong lòng người. Một bên là những trái tim yêu nước, cùng nhịp đập với lịch sử. Một bên là những kẻ phản bội dân tộc, phản bội lịch sử, phản bội lại những đấng sinh thành và tổ tiên người Việt đã sinh ra họ, khi họ rắp tâm triều cống tương lai Việt Nam cho kẻ thù bốn ngàn năm lịch sử, để nhận lại những quyền lực phù du trước mắt”.

“.... Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, đôi chân chưa bước trọn vào đời, nhưng đã khắc tên mình vào lịch sử và tâm trí của muôn người. Từ năm 1954 đến nay, có lẽ chưa ai khẳng định chân lý rất xác tín và đơn giản như Đinh Nguyên Kha khẳng định: "... Tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội." Vì đảng là hiện thân của sự toàn ác, nên chống cái ác là hành động của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Và cũng từ năm 1954 đến nay, không ai chửi hiện thân của sự toàn ác mà sắc bén như Nguyễn Phương Uyên chửi:"Đi chết đi đảng cộng sản Việt Nam bán nước". Khẩu hiệu viết bằng máu ấy là điểm cao nhất của dòng thác phẫn uất cuộn trào trong xã hội, thoát ra từ tâm hồn của thiên thần yêu nước ấy.... Bằng tất cả tấm lòng yêu nước trong trắng của mình, Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, đã nắn nót dòng chữ đầu tiên trên trang sử đương đại sáng ngời của dân tộc. Chúng ta hãy cùng nhau viết tiếp những dòng chữ sau họ, để mười năm, hai mươi năm, ba muơi năm sau, họ sung sướng khi thấy tất cả hy sinh của họ hôm nay, sẽ không hoài phí......”

Theo ông Brad Adams, Giám Đốc Châu Á của HRW, “việc xét xử các công dân vì tội phân phát truyền đơn chỉ trích chính quyền là điều kỳ quặc”. Ông khẳng định: “Việt Nam cần phải ngừng sử dụng tòa án để kết tội những người bất đồng chính kiến”.

Tóm lược bài của ông Trần Trung Đạo. Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi, đang đứng trước bảng đen trong lớp học chớ không phải đứng trước tòa án cộng sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm". Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: "Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội".

Luật sư Nguyễn Văn Miếng trao đổi với VRNs, ông cho biết: “Bản án gắn cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, là bản án nặng nề cho hai thanh niên yêu nước”.

Luật sư Hà Huy Sơn, nhận xét trên trang Facebook: “Kha, Uyên, và gia đình rất bình thản trước bản án. Các Luật sư đều yêu cầu tuyên bố hai em là vô tội, nhưng tòa cứ tuyên đọc theo bản án của tòa.”

Theo Vũ Đông Hà, bản án dành cho Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, nếu nhìn cho kỹ, suy cho sâu, chính là bản án dành cho chế độ. Nó bày ra hết những ti tiện, nhỏ nhen, gian ác của chế độ và những con người cộng sản Việt Nam, từ cấp lãnh đạo cho đến những người đang xếp hàng chờ lãnh sổ hưu.
Ông Phil Robertson, Phó Giám Đốc phụ trách khu vực Châu Á thuộc tổ chức theo dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), nói với VOA Việt ngữ rằng: “Bản án này thật sự gây căm phẫn và chúng tôi sẽ tiếp tục nêu các bản án này ra trước công luận quốc tế càng nhiều càng tốt. Bản án này cho thấy sự phá sản của thành tích nhân quyền Hà Nội. Trong khi nhà cầm quyền Việt Nam nói họ hành xử theo luật pháp và tôn trọng nhân quyền thì các bản án này chứng tỏ họ chỉ hành xử theo quyền lợi của đảng cộng sản cầm quyền, bất chấp quyền căn bản của con người bị chà đạp”.

Anh Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội) diễn tả tâm tình đối với Uyên Phương và Nguyên Kha, như sau: “Họ kết án các em bao nhiêu năm không quan trọng. Tôi sung sướng cực kỳ vì hai em đã quyết không nhận tội mà tòa án gắn cho hai em. Hãy hoàn thành nốt sứ mạng của mình trong cái nhà tù nhỏ. Các bạn tù dự khuyết bên ngoài, ngưỡng mộ và ghi nhớ công lao của hai em. Hai em đã đi vào lịch sử”.

Đạo diễn Nguyễn Văn Hùng, ngắn gọn: “Đây là phiên tòa ô nhục”.

Tác giả Hoàng Hưng. ... “Những kẻ kết án nặng nề hai em Đinh Nguyên Kha và Nguyễn Phương Uyên, thật là ngu xuẩn... Phản dân phản nước lại còn ngu xuẩn, vì cáo trạng đã hạch tội Phương Uyên “nói những điều không hay về Trung Cộng”, tức là công khai thú nhận cái bóng khổng lồ của Trung Cộng đã đè bẹp luật pháp Việt Nam, cũng là công khai thú nhận bản án này là của một lũ bề tôi nhằm chuộc lỗi với thiên triều phương Bắc”.

Bác sĩ Hồ Hải (trong nước), ngày 17/5/2013 đưa vào trang blog của ông bài thơ “Dân Khí & Tình Yêu Đất Nước”, diễn đạt tâm tình và những suy nghĩ của mình đến Nguyễn Phương Uyên Và Đinh Nguyên Kha. Xin trích 8 câu cuối của bài thơ: .... “Con sẽ cho thế giới biết rằng ở nước Nam ta. Có một thời trẻ thơ không được quyền yêu và suy nghĩ. Không được sống và được làm Người. Chỉ được cúi đầu trước họa ngoại xâm bằng những trò lố bịch. Trong ngực trái của các con có cái gì đang hiển hiện. Đó là Dân Khí đấy Mẹ ơi. Dân khí mất có nghĩa là nước mất. Phận làm Người Có Học, con đâu nở cam lòng để Dân Khí vụt tan”.

Ngày 17/05/2013, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội, phổ biến bản tuyên bố yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho sinh viên Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha, hai nhà tranh đấu trẻ vừa bị kết án tù với tội danh tuyên truyền chống nhà nước. Vị đại diện Hoa Kỳ tại Việt Nam rằng: “Các hành động trấn áp này là một xu hướng đáng lo ngại”.

Tôi xúc động đến nghẹn ngào với đoạn văn ghi lại lời nói mạnh mẽ của hai sinh viên khi đứng trước “vành móng ngựa” của chế độ cộng sản độc tài tàn bạo! Các Anh trong quân đội nhân dân Việt Nam, đã nhận ra “chân dung tuổi trẻ Việt Nam yêu nước” rồi chớ? Nói chung là những người yêu nước, như tác giả Lê Hoành Sơn đã nói: “Họ cất cao tiếng nói để đòi công bằng xã hội, đòi độc lập tự do, đòi nhân quyền nhân phẩm cho thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau, được sống một cuộc đời đáng sống, được ngẫng cao đầu mà nhìn mọi người trên khắp năm châu. Tổ Quốc ơi! Thật là may mắn khi Tổ Quốc đang có thêm những mầm non yêu nước như vậy. Đây, chính là nguyên khí hồn thiêng sông núi Việt Nam. Đây, thật sự là rường cột quốc gia góp phần giữ vững sơn hà”.

Kết luận.

Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 10 năm, thậm chí 20 hay 25 năm cầm súng. Có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn và bạn bè, hằng triệu người đã gục ngã trên chiến trường, hằng triệu người thương tật tàn phế sống vất vưỡng đó đây, lớp lớp người về hưu, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, vừa đọc xong những trang giấy bên trên, Các Anh cần đọc thêm những dòng chữ dưới đây do ông Trần Hải Vân, một người yêu nước từ Sài Gòn xuống Long An để theo dõi phiên tòa. Ông Hải Vân nói:

“Ngọn lửa đấu tranh cho tự do dân chủ trong nhân dân ngày càng lan rộng vì người dân ngày càng bất mãn, không còn tin vào cộng sản nữa. Chỉ cần một cơn gió thì ngọn lửa nhỏ sẽ lan tỏa và nhấn chìm những thứ phế thải của nhân loại (ý nói đến các đảng cộng sản còn lại trên thế giới. PB Hoa). Hỡi những người đang làm trong cơ quan của cộng sản như Công An với Quân Đội, nếu vẫn còn chút lương tâm, hãy chừa cho mình một con đường để quay về với tổ quốc và nhân dân, đừng gây thêm tội ác với nhân dân nữa. Nhân dân đang cần các bạn. Các bạn hãy thức tỉnh đi, đừng bán mình cho bọn quỷ sứ là nhóm lãnh đạo cộng sản. Đừng để quá muộn”.

Tôi mong Các Anh hãy suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh quyết tâm bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, bằng bất cứ hình thức nào và thời gian nào mà Các Anh cho là thích hợp nhất, để cùng nhau xây dựng một xã hội dân chủ tự do, để hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới, và mỗi khi cầm sổ “Thông Hành” (hộ chiếu) trong tay mà ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, lịch sự,
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.

Hãy nhớ: “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).

Texas, tháng 05 năm 2013.

tieuchuy
06-27-2013, 04:19 PM
Thư số 20 gởi
Nguời Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
*********
Phạm Bá Hoa


Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân một cách ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ là một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này vẫn là “Quyền Của Mỗi Con Người” gọi tắt là “Nhân Quyền”. Tôi nhấn mạnh với Các Anh rằng, “Nhân Quyền” là tiêu biểu của xã hội dân chủ tự do. Những xã hội độc tài -Việt Nam là một trong số đó- Nhân Quyền bị nhà nước tước đoạt bằng mọi cách, kể cả những cách xấu xa của giới côn đồ trong xã hội. Khi không có dân chủ tự do, xã hội không thể có những con người tử tế để xây dựng đất nước.

Thứ nhất. Nhìn lại các cuộc biểu tình chống Trung Cộng.

Tham khảo bài viết không ghi tên tác giả, nhưng cuối bài có câu “tác giả là nhà văn đang sống tại Sài Gòn”.
Một sự kiện tình cờ gợi ý tác giả “nhìn lại 5 năm các cuộc biểu tình chống Trung Cộng” lấn chiếm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ngày 9/12/2007 - ngày 9/12/2012 tại Hà Nội và Sài Gòn. Trong 5 năm đó, nhiều người bị hành hạ đọa đày, nhiều người đang trong các nhà tù, nhiều người đã lưu vong, và nhiều người đang bị hành hạ sách nhiễu ... Cũng trong thời gian đó, nguy cơ mất hẳn quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ngày càng trở nên rõ nét.
Ngày 6/12/2007. Với bản tin Trung Cộng thành lập thành phố Tam Sa bao gồm quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, họa sĩ Trịnh Cung, nhạc sĩ Tuấn Khanh, các nhà thơ Trần Tiến Dũng, Thận Nhiên, Lynh Bacardi, và tác giả, ngồi uống cà phê bên hông siêu thị Diamond (phía đường Phạm Ngọc Thạch), cùng nghĩ: “Không thể im lặng, phải làm cái gì đi chứ. Và chúng tôi đồng ý ra một tuyên cáo kêu gọi chống Trung Quốc”, và tác giả nhận trách nhiệm dự thảo bản Tuyên Cáo.

Sau khi mọi người xem lại, góp ý sửa đổi. Ngày 7/12/2012 thì bản văn hoàn chỉnh với tựa là “Tuyên Cáo Của Người Việt Nam Yêu Nước”, và được ký tên bởi nhóm ““Văn Nghệ Sĩ Việt Nam” với đầy đủ tên tuổi của nhóm lúc bấy giờ. Bản Tuyên Cáo này gửi đến anh Hoàng Ngọc Tuấn (tienve.org) và anh Phùng Nguyễn (damau.org) nhờ dịch sang Anh ngữ rồi phổ biến trên mạng internet, gần như cùng thời gian với cuộc biểu tình đầu tiên vào ngày 9/12/2012. Sau mấy ngày phổ biến, đã có hơn 3.000 chữ ký ủng hộ. Lúc ấy, bản Tuyên Cáo chỉ còn ghi là “Văn Nghệ Sĩ Việt Nam” chớ không còn tên những người chủ xướng.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T201.jpg

Những cuộc biểu tình chống Trung Quốc được tiếp tục, và có sự tham gia đặc biệt của giới văn nghệ sĩ, nhưng phần lớn các cuộc biểu tình đã bị nhà nước giải tán nhanh chóng. Riêng cuộc tập họp ngày 9/12/2007 tại Sài Gòn, là sự liều mạng của nhà thơ Phan Bá Thọ và Vương Văn Quang. Hai anh đã lừ lừ từ phía Nhà Văn Hoá Thanh Niên bước sang bên kia đường đến sát Tòa Tổng Lãnh Sự Trung Cộng, cuốn hút mọi người ùa theo, và biến thành biểu tình.......
Những tên tuổi nổi bật xuất hiện từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc năm 2007 ở Sài Gòn, có: Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Tạ Phong Tần, Tuấn Khanh, Song Chi, Lynh Bacardi, Bùi Chát, Uyên Vũ, Huỳnh Công Thuận, Thiên Sầu, Phan Thanh Hải (Anh Ba Sài Gòn), Kim Duy… Ở Hà Nội, tác giả nhớ nhất là bài viết của nhà văn Trang Hạ kể chuyện chị bị bắt.

Có một hiện tượng mà lịch sử văn học Việt Nam cần ghi nhận. Đó là sự bùng nổ văn thơ chống Trung Cộng trên truyền thông “lề trái”, với chủ đề Hoàng Sa và Trường Sa, bằng những ngôn ngữ chưa từng có trong văn học Việt Nam, phần lớn được phổ biến trên trang “tienve.org” và trang “damau.org”. Đến nay là năm 2013, phong trào văn chương này vẫn tiếp tục, khác hẳn với loại văn chương yêu nước chung chung xưa nay vốn dĩ thiếu cái nồng nhiệt trong nội dung.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T202.jpg

Ngày 29/4/2008. Trung Cộng có cuộc rước đuốc Olympic vòng qua Sài Gòn, dù rằng Sài Gòn không nằm trên hành trình vòng quanh thế giới. Toàn bộ anh chị em văn nghệ sĩ có dính dáng đến biểu tình đều bị mời đến các cơ quan Công An Phường. Với bàn tay của Trung Cộng, lực lượng Công An đã kiểm soát nghiêm ngặt để bảo vệ an ninh cho đoàn rước đuốc. Ngoài đoàn của Trung Cộng, nhà nước Việt Nam đã tổ chức đoàn người ủng hộ “rước đuốc Olympic”, mà thật ra đoàn người này lúc nào cũng sẳn sàng quật ngã bất cứ ai có thái độ chống đối. Vì vậy mà có mấy người bị Công An bắt mà không ai biết lý do.

Năm 2011

Tác giả nhận định: “Nếu năm 2007 các cuộc biểu tình thường gắn với văn nghệ sĩ và sinh viên học sinh, thì năm 2011, lại là sự đóng góp nòng cốt của “nhân sĩ, trí thức” với các vị như: Giáo sư Huệ Chi. Tiến sĩ Nguyễn Quang A. Các Nhà văn Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Phạm Xuân Nguyên… ở Hà Nội. Trong khi tại SàI Gòn thì có: Cụ Nguyễn Đình Đầu, giáo sư Tương Lai, các ông Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Cao Lập, Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu, Hạ Đình Nguyên…”
Ngày 5/6/2011, biểu tình lớn xảy ra ở Hà Nội và Sài Gòn mở đầu cho đợt đấu tranh mới. Sài Gòn chỉ thực hiện được 2 lần chánh thức, còn lại là bị đảng với nhà nước ngăn chận tại nhà, mời gọi đến cơ quan Công An giữ chân tại chỗ. Trong khi tại Hà Nội thì thực hiện liên tục vào mỗi chủ nhật đến lần thứ 10. Công đầu thuộc về “Nhật Ký Yêu Nước” đã phát động kêu gọi. Mỗi cuộc biểu tình đều có một số người bị đánh, bị bắt. Hình anh Nguyễn Chí Đức bị đạp vào mặt, tiêu biểu cho chính sách của đảng với nhà nước thẳng tay đàn áp công dân yêu nước để làm vừa lòng Trung Cộng.
Tác giả cũng như nhiều người khác từng tham gia biểu tình vào những ngày chủ nhật, đều bị an ninh canh cửa ngăn chận, hoặc trên đường đi thì bị cưỡng ép vào quán uống cà phê và họ canh giữ tại đó. Điều mà tác giả không thể quên là các cuộc biểu tình do sự hình thành của “Nhóm No-U Sài Gòn” và “Nhóm No-U Hà Nội”. Họ có tinh thần tương trợ, đoàn kết, thể hiện một thái độ chính trị dứt khoát, mạnh mẽ. Bên cạnh đó còn có Chị Bùi Hằng, Mẹ Nấm, Nguyễn Hoàng Vi, Huỳnh Thục Vy, Phan Thị Lan Phương, Trịnh Kim Tiến… các anh Nguyễn Chí Đức, Người Buôn Gió.… cũng vậy.

Năm 2012


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T203.jpg

Tại Hà Nội. Vẫn “Nhóm Nhật Ký Yêu Nước” ra lời kêu gọi biểu tình vào ngày 9/12/2012, trước các hành động leo thang lấn chiếm Biển Đông của Trung Cộng, như: Trên “Thông Hành” (hộ chiếu) có in hình đường lưỡi bò, cắt cáp tàu Bình Minh, ra lệnh kiểm soát tàu bè từ đầu năm 2013… Trong khi tại Sài Gòn, cùng lên tiếng là các ông Huỳnh Tấn Mẫm, Giáo sư Tương Lai, Hồ Ngọc Nhuận, Lê Hiếu Đằng, và ông Lê Công Giàu, đã từng thay mặt cho 42 nhân sĩ và trí thức ký tên vào kiến nghị tổ chức biểu tình chống Trung Cộng hồi tháng 7/2012, cũng có tên trên một Thông Báo kêu gọi mít tinh tại nhà hát thành phố.
Cuộc biểu tình ngày 9/12/2012 là cách nói với đảng và nhà nước về sức sống của người dân yêu nước, không thể ngồi yên nhìn Trung Cộng ngày càng lấn chiếm Việt Nam. Theo tác giả, đây là lần đầu tiên cuộc biểu tình có tổ chức hẳn hòi. Nhóm tổ chức gồm 5 người, nhưng chỉ có ông Huỳnh Tấn Mẫm có mặt tại chỗ, vì bốn vị còn lại đều bị Công An ngăn chận không cho ra khỏi nhà. Sự kiện này được đăng tải trên báo chí và trên làn sóng phát thanh quốc tế trong chương trình Việt ngữ. Các vị khác trong số 42 vị có tên trong bản kiến nghị, như các ông Cao Lập, Phạm Đình Trọng, Tuấn Khanh,..v..v.. cũng bị Công An canh giữ tại nhà, nên không vị nào đến được nhà hát. Trong khi tác giả, cùng với nhà thơ Đỗ Trung Quân và nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh uống cà phê gần nhà hát, cũng bị Công An đứng bên ngoài theo dõi. Một lúc sau thì Công An vào tận chỗ buộc phải ra về, và họ áp tải từng người về tận nhà để họ canh giữ. Tác giả than thở: “Yêu nước quả thật không đơn giản!”

Cuộc đôi co với Công An Quận 7, Sài Gòn, khi ông Huỳnh Tấn Mẫm viện dẫn Hiến Pháp cho phép biểu tình ôn hòa sao Công An ngăn chận? Công An trả lời: “Hiến Pháp thì có, nhưng luật biểu tình thì chưa có”.
Ông Mẫm hỏi tiếp: “Tại sao mấy chục năm rồi mà chưa có luật biểu tình? Nếu sợ bị lợi dụng thì chúng tôi chịu trách nhiệm các cuộc biểu tình đó, các ông nghĩ sao?" Câu mà Công An trả lời là câu của người đuối lý: “Bây giờ chưa được phép biểu tình”.

Với phần tóm tắt những cuộc biểu tình của người dân yêu nước, bày tỏ quyết tâm chống Trung Cộng lấn chiếm đất liền, biển, đảo Việt Nam trong 5 năm qua, mà Các Anh cũng dự phần đàn áp người dân không có bất cứ phương tiện gì trong tay để họ tự bảo vệ bản thân, Các Anh có suy nghĩ gì không? Chẳng hạn như: “Tại sao lãnh đạo Các Anh vô cùng khiếp nhược với Trung Cộng -dù đã tặng đất tặng biển rồi- mà Trung Cộng vẫn cứ lấn chiếm đất liền, biển, đảo của Việt Nam? Trong khi lãnh đạo “không dám nhúc nhích” thì người yêu nước đứng lên chống Trung Cộng thay cho đảng, tại sao đảng đàn áp người dân? Tại sao lãnh đạo đảng sợ nhân dân biểu tình bày tỏ lòng yêu nước đến mức phải canh giữ họ trong nhà? Tại sao người dân lại can đảm đến mức không sợ đảng đàn áp, thậm chí là bị bắt vào tù nữa? Tại sao Công An Nhân Dân cũng như Quân Đội Nhân Dân, mà lại thẳng tay đàn áp Nhân Dân?” Tôi không nói đến nhà nước, vì lãnh đạo đảng đứng trên đầu tổ quốc với bằng chứng là tự cho mình cái quyền đem đất đem biển tặng cho Trung Cộng, thì quyền lực của nhà nước chỉ là thi hành lệnh của đảng thôi.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T204.jpg

Thứ hai. Biểu tình ngày 2/6/2013.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T205.jpg

Từ ngày 29/5/2013, trên trang Facebook, có lời kêu gọi biểu tình vào ngày chủ nhật 6/65/2013, Hà Nội, tập trung tại khu vực Hồ Gươm, và Sài Gòn tại Công Viên 30/4: “Đồng bào hãy xuống đường đem theo khẩu hiệu và biểu ngữ, cùng dòng người hô vang Đả đảo bàng trướng Trung Cộng xâm lược, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.
Ngày 2/6/2013. Blogger Nguyễn Xuân Diện. Khoảng 8 giờ sáng thì khu vực bờ hồ có khoảng 150 người, với nhiều biểu ngữ chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam. Cùng lúc, nhiều Công An và Dân Phòng bao vây một nhóm người đưa lên xe.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T206.jpg

Marianne Brown, cộng tác viên của VOA cho biết. Lúc 8 giờ 30 sáng, hơn 100 người có mặt chung quanh Hồ Hoàn Kiếm. Một số người mặc áo phông có hình bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa, hai quần đảo mà Trung Cộng nói là của họ. Cùng với các biểu ngữ, có một phụ nữ giương cao tấm bảng có ảnh của sinh viên Nguyễn Phương Uyên, chỉ phát tờ rơi kêu gọi mọi người xuống đường phản đối Trung Cộng, mà bị tòa kết án 6 năm tù cách nay 3 tuần. Trước khi bị Công An tịch thu tấm ảnh này và đẩy bà ra chỗ khác, một phụ nữ tên Hạnh cho đài VOA biết, người dân tụ tập ở đây bởi vì những sự kiện gần đây ở Biển Đông, và bà nói lớn: “Chúng tôi phản đối bọn bành trướng Bắc Kinh đã xâm lược đất nước Việt Nam, đã chiếm biển đảo của quê hương tôi.” Sau đó, Công An đẩy một số người dẫn đầu đoàn biểu lên các xe lớn đậu gần đó, trong số này có một phụ nữ bồng con nhỏ.
Theo bản tin AFP gởi đi từ Hà Nội lúc 2 giờ 14 phút chiều, có khoảng 30 người biểu tình bị Công An bắt lên xe bus.

Thứ ba. Hội Anh Em Dân Chủ.


http://hoiquanphidung.com/Pictures/T207.jpg

Nhóm người từng tham gia đấu tranh cho dân chủ nhân quyền tại Việt Nam, vừa thành lập một tổ chức có tên “Hội Anh Em Dân chủ”. Đây là nhóm tận dụng không gian mạng internet, và những phương tiện khoa học kỹ thuật trong truyền thông để sinh hoạt cho mục đích “phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp xã hội về Dân Chủ và Nhân Quyền”. Trong những ngày gần đây, Những vi-hữu trên trang facebook quan tâm đến vấn để “Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam”, thấy xuất hiện một huy hiệu tròn với những cánh cuộn màu xanh, chung quanh vóng tròn có dòng chữ “Hội Anh Em Dân Chủ” và dòng chữ Anh ngữ “Brotherhood Association for Democracy”.

Một trong những người sáng lập Hội này là Luật sư Nguyễn Văn Đài, người từng bị tù vì những hoạt động đấu tranh của ông trước đây cho nền dân chủ. Ông cho biết:

"Trong năm 2013, sau khi có phong trào ký ủng hộ sửa đổi Hiến Pháp đã dấy lên hoạt động ký ủng hộ “Kiến Nghị 72”, rồi đến Kiến Nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Tuyên bố của Nhóm Công Dân Tự Do, … tạo ra một phong trào xã hội ký kiến nghị, cũng như gửi các thỉnh nguyện thư. Nay là thời điểm của những người đấu tranh cho nền dân chủ trong xã hội Việt Nam ngồi lại với nhau, cùng nhau thảo luận và đồng ý chọn con đường ngắn nhất cho tiến trình dân chủ Việt Nam. Trước đây mỗi cá nhân đấu tranh rất đơn lẻ, nên phong trào đấu tranh rất yếu. Nay cùng đứng chung với nhau trong “Hội Anh Em Dân Chủ”, có thể phát huy được những điểm mạnh và tích cực của từng cá nhân, tạo nên sức mạnh tập thể để có thể đấu tranh một cách mạnh mẽ hơn, đồng thời cũng có thể giúp nhau khắc phục những yếu điểm hay nhược điểm của mỗi một thành viên. Từ đó tạo nên một tập thể gắn bó để đoàn kết với nhau”.
“Chúng tôi là những người tiên phong thành lập Hội, sau khi trải qua những năm tháng lao tù vì đấu tranh cho dân chủ. Đây là lúc chúng tôi thể hiện quyền lập hội của mình để tập hợp những anh em đấu tranh. Cũng là khuyến khích, cổ vũ cho những tổ chức khác, nhóm khác, sẽ mạnh dạn hơn nữa để thành lập các hội đoàn khác nhau. Bởi vì nếu chỉ có một Hội hoặc một vài Hội, hay chỉ một vài tổ chức chính trị thì không thể nào có thể làm nên sự thay đổi về chính trị ở Việt Nam được. Thời điểm này chính là lúc chúng ta rất cần nhiều hội đoàn để cùng phát triển mỗi một nhóm, mỗi một hội khác nhau, ở mỗi địa phương khác nhau, thuộc các thành phần khác nhau, để khi các hội đoàn lớn mạnh sẽ tạo thành liên minh. Lúc đó, mới đủ sức áp lực với đảng và nhà nước để thực hiện tiến trình dân chủ cho đất nước, đem lại lợi ích cho mọi người trên toàn cõi Việt Nam".
Thành viên đầu tiên của “Hội Anh Em Dân Chủ” là cựu tù nhân lương tâm Phạm Văn Trội. Anh cho biết: “Nhu cầu phải thành lập một tổ chức với sinh hoạt tận dụng trang facebook,và các phương thức trên mạng xã hội cho công cuộc đấu tranh vì tự do dân chủ cho Việt Nam. Hiện nay phong trào dân chủ ở Việt Nam lên rất cao. Có rất nhiều người muốn tham gia hội và lập hội. Đó là những người đang đấu tranh hằng ngày, hằng giờ cho Nhân Quyền Việt Nam. Với cuộc đấu tranh này, chúng tôi xác định cùng hướng đến việc làm chung nhất của Hội. Chúng tôi chỉ quan tâm đến việc chung, và cùng nhau tham gia làm những việc chung."
Blogger Huỳnh Ngọc Chênh là một trong rất nhiều người tham gia buổi “Dã Ngọai vì Nhân Quyền” tại Hà Nội ngày 5/5/2013, nhận định: “Thông thường lâu nay, khi những tổ chức chính trị không theo đường lối của đảng với nhà nước, đã hình thành như Khối 8406, Đảng Thăng Tiến… cơ quan an ninh đều có những cản trở, sách nhiễu, bắt bớ đối với những tổ chức như thế. Bản thân những người như Luật Sư Nguyễn Văn Đài, ông Phạm Văn Trội, đều có kinh nghiệm về chuyện đó. Tuy nhiên, đối với tổ chức trên không gian facebook là một điểm mà những người trong cuộc không bị sự can thiệp từ các cơ quan an ninh”.
Luật sư Nguyễn Văn Đài nói về pháp lý: “Điều 69 Hiến Pháp cho phép người dân được thành lập hội; rồi Luật về hội năm 1957, Nghị định số 45 năm 2010, hướng dẫn về việc thành lập hội. Với sự phát triển khoa học kỹ thuật trong ngành truyền thông hiện nay, cũng như các trang mạng internet cho phép người dân ở khắp nơi trên thế giới có thể liên kết với nhau một cách chặt chẽ mà không nhất thiết phải gặp mặt, cũng không cần có trụ sở chánh thức. Hội Anh Em Dân Chủ được thành lập trên nền tảng truyền thông và trang mạng xã hội facebook. Chúng tôi tạo ra một liên kết với nhau mà không chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam, cũng không cần phải xin phép. Chúng tôi chỉ phải tuân thủ những qui định của Facebook là nhà cung cấp dịch vụ và luật pháp Hoa Kỳ cũng như luật pháp quốc tế. Nhưng thực tế, chúng tôi có những hoạt động rất rộng rãi, có thể trao đổi hay huấn luyện cho nhau rất nhiều kiến thức, để có thể trao đổi trong hoạt động trên không gian mạng internet qua những phần mềm như Skype, PalTalk … Khi mà chúng tôi tạo ra sự gắn kết rồi, chúng tôi có thể tạo nên những buổi gặp mặt như picnic, tổ chức những buổi tiệc, hay cùng nhau chia xẻ về một sự kiện nào đó mà sự kiện đó mà không phải xin phép, vì luật pháp Việt Nam đến nay không ngăn cấm điều đó”.
“Hội chúng tôi có các chương trình đào tạo các kỹ năng để đối phó khi bị Công An sách nhiễu. Có thể sẽ mời những nhà nghiên cứu ở trong nước cũng như ở ngoài nước, giúp đào tạo các kỹ năng về văn hoá ứng xử cách hòa giải giữa các thành viên trong một tổ chức. Vì khi trong tổ chức thì phát ngôn cũng như hành động phải có ý thức tổ chức để giữ uy tín cho bản thân, cũng là giữ uy tín cho tổ chức. Có như vậy mới tạo được sức mạnh chung của tổ chức. Đó là ý hướng đưa chúng tôi đến thành lập nên Hội Anh Em Dân Chủ."

Vẫn theo Luật sư Nguyễn Văn Đài, “Hội Anh Em Dân Chủ”, mới hơn 10 ngày sau khi Hội ra đời, số hội viên đã ghi tên tham gia gần 70 thành viên.
Các Anh nghĩ gì về những người rất can đảm khi tổ chức “Hội Anh Em Dân Chủ?” Tôi nghĩ là nếu Các Anh vẫn giữ nét nhìn của người cộng sản, thì không thể nào hiểu được lòng can đảm của những người hình thành “Hội Anh Em Dân Chủ” bắt nguồn từ đâu? Vậy Các Anh hãy “nhìn vào tận đáy tâm hồn” của mình, tôi tin là Các Anh sẽ có câu giải đáp thích hợp nhất. Hãy nhớ, Dân Chủ là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước đấy nhé!

Thứ tư. Khuyến cáo về dân chủ và nhân quyền.

Theo bản tin của AFP ngày 15/05/2013, ông Ben Cardin, Thượng Nghị Sĩ Chủ Tịch Ủy Ban Đối Ngoại Thượng Viện Hoa Kỳ tuyên bố: “Sẽ thúc đẩy Việt Nam và Malaysia phải tiến bộ về Nhân Quyền và Quản Trị bên cạnh các tiêu chuẩn vể môi trường và lao động, mà Hoa Kỳ đặt trọng tâm trong các cuộc đàm phán về “Hiệp Định Mậu Dịch Tự Do Xuyên Thái Bình Dương”, tiếng Anh là Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement, gọi tắt theo Anh ngữ là TPP.... Khi phát biểu tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Quốc Tế hôm 14/5/2013, Ông đã thẳng thắn nêu lên vấn đề Nhân Quyền Việt Nam, và bày tỏ quan ngại về việc Hà Nội bỏ tù hàng loạt các bloggers, cùng với các nhà hoạt động chỉ vì họ bày tỏ quan điểm dân chủ cá nhân”. Ông nhấn mạnh: “Hoa Kỳ muốn giao thương với các nước TPP, nhưng các nước này phải có nghĩa vụ đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế về Quản Trị và Nhân Quyền. Đó là các tiêu chuẩn quốc tế chớ không phải là các tiêu chuẩn của riêng Hoa Kỳ”.

Gần đây, Việt Nam bị Quốc Hội Liên Hiệp Châu Âu và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, chỉ trích mạnh mẽ những vi phạm Nhân Quyền và tự do Tôn Giáo, dù Việt Nam đã ký vào Công Ước quốc tế về Nhân Quyền. Tại Hoa Kỳ, dự luật Nhân Quyền HR 1897 vừa được Tiểu Ban Nhân Quyền Hạ Viện thông qua ngày 15/5/2013. Những ngày tới đây, sẽ đưa ra Hạ Viện. Vì vậy mà Cộng Đồng Việt Nam đang thực hiện cuộc tổng vận động cho Nhân Quyền Việt Nam dự trù diễn ra tại Quốc Hội Hoa Kỳ vào ngày 4/6/2013, sẽ hỗ trợ cho Dự Luật Nhân Quyền này.
Trong khi đó, ông David Shear, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội, khẳng định: “Nếu Việt Nam không tiến bộ về Dân Chủ và Nhân Quyền, sẽ rất khó được Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn cho gia nhập TPP, vì sẽ có rất nhiều Dân Biểu Nghị Sĩ hỏi về những vấn đề liên quan tới Dân Chủ và Nhân Quyền tại Việt Nam khi chính phủ Hoa Kỳ đệ trình TPP cho Quốc Hội xem xét. Đó là một thực tế chính trị không thể tránh”.
Thứ năm. Một tinh thần dân chủ.
Đây là câu chuyện ngắn giữa nhân viên của cơ quan cấp Thông Hành (hộ chiếu) với Đức Giám Mục tại Kontum. Chuyện bắt đầu khi vị Giám Mục đến nhận Thông Hành, nhân viên ở đây dặn dò rằng:
”Ông đi nước ngoài nhớ đừng chụp hình với lá cờ vàng ba sọc đỏ, nếu không là toi đời ông!”.
Vị Giám Mục trả lời: “Vậy tôi trả Thông Hành lại cho các ông. Tôi không đi nữa”.
Họ ngạc nhiên hỏi lại: “Sao vậy?”
“Nếu đi nước ngoài mà toi đời thì tôi đi làm gì?”. Rồi vị Giám Mục nói tiếp: “Này nhé, tôi vào nhà ông, thấy ông để tượng Hồ chí Minh với lá cờ đỏ, tôi có bảo ông đem đặt chỗ khác không? Đến nhà người ta ai làm thế. Ra nước ngoài, nơi tôi đến có lá cờ vàng, chẳng lẽ tôi bảo họ đem đi chỗ khác cho tôi ngồi và chụp hình à? Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, vậy các ông có ghét Tàu và Tây lắm không? Tôi thấy mấy ông lãnh đạo vẫn đứng chào cờ Trung Cộng, chào cờ Pháp cờ Mỹ. Vậy tại sao lá cờ vàng của anh em người Việt mình mà các ông căm ghét đến thế? Còn nữa, hàng năm chúng ta đón bao nhiêu Việt kiều mang tiền về, nhận bao nhiêu tiền họ gửi về, sao lại lúc nào cũng căm ghét cờ của họ?”
Ngài nói tiếp như lời tâm sự rất xúc động: “Năm 1954, gia đình tôi di cư vào Nam. Gia đình tôi sống được và tôi lớn lên, ăn học là dưới lá cờ vàng. Nếu các ông di cư năm ấy thì các ông cũng thế thôi”.

Các Anh phải hiểu rằng, đó chính là tiếng nói của người tự do, với đầy đủ Quyền Của Mỗi Con Người mà Công Ước quốc tế công nhận. Tuy sống trong xã hội độc tài, nhưng vị Giám Mục vẫn giữ cho mình nếp sống cũng như cách sống của người tự do. Ông nói một cách thẳng thắn về quan điểm của mình dù ông đang nói với Công An. Các Anh có biết là chỉ hai âm thanh Công An đã đủ cho người dân bình thường cảm thấy lạnh người không! Từ năm 1978 đến năm 1987, khi tôi bị nhốt tại trại tập trung Nam Hà A tỉnh Hà Nam Ninh, trẻ con lẫn người lớn vùng này khi nói chuyện với chúng tôi, họ đều dùng chữ “Chó Vàng” để nói đến Công An. Tôi cũng được biết là quân đội Các Anh chẳng ưa gì Công An, nhưng tôi vẫn hỏi: “Các Anh hiểu gì về hai chữ Chó Vàng mà người dân nói đến?”

Thứ năm. Một Phương Uyên đứng thẳng giữa tòa.

Với phiên tòa xử ngày 16/5/2013 tại Long An, hai “nạn nhân” Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha đứng thẳng giữa tòa, và dõng dạc nói với tòa là “tôi chống Tàu (Trung Cộng) xâm lấn Việt Nam, tôi chống đảng cộng sản không bảo vệ tổ quốc, và làm cho dân nghèo”. Liệu, lòng dũng cảm của Phương Uyên và Nguyên Kha, có thể trở thành ngòi nổ cho cuộc chiến giành quyền sống cho toàn dân như: (1) Anh Bouazizi bị Cảnh Sát áp bức đến mức anh phải tự thiêu ngày 17/12/2010 và chết ngày 03/01/2011, trở thành ngòi nổ cho cuộc nổi dậy của người dân, Zine El Abidine Ben Ali, Tổng Thống nước Tunisia 23 năm, và chế độ độc tài sụp đổ. (2) Và anh Abdou Adbel Moneim Jaafara tự thiêu ngày 17/01/2011, được đưa vào bệnh viện. Ngày hôm sau -18/01/2011- Mohammed Farouk Hassan và Mohammed Ashour Sorour cùng tự thiêu tại thủ đô Cairo, trong lúc Ahmed Hashim Al Sayyed tự thiêu và chết tại thành phố Alxandria. Khi ngòi nổ bùng lên, người dân Ai Cập cùng đứng dậy chống đối và đòi Tổng Thống độc tài Hosni Mubarak của họ phải từ chức.
Kết Luận.
Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, 20 năm, thậm chí 25 hay 30 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường, và Các Anh đang còn súng đạn trong tay. Có bao giờ Các Anh suy nghĩ tại sao đại đa số người dân từ thành thị đến nông thôn trong tình cảnh khốn khổ như ngày nay? Có bao giờ Các Anh tự hỏi” ”Tại sao Quân Đội nhân dân với Công An nhân dân, không chống quân Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân, không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biên giới Việt Nam, cũng không chống quân Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Thậm chí cũng không dám hành động bảo vệ người dân khi bị “công nhân Trung Hoa” hiếp đáp ngay trên lãnh thổ Việt Nam? Nhưng lại cầm súng đàn áp nhân dân can đảm đứng lên phản đối Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam thay cho đảng? Và có bao giờ Các Anh tự hỏi: “Tại sao ngày nay lãnh đạo của Các Anh lại sợ hãi người dân đến mức phải sử dụng Các Anh để thẳng tay đàn áp người dân? Phải chăng, lãnh đạo Các Anh quá khiếp nhược với Trung Cộng để giữ được những cái ghế quyền lực mà thu tóm quyền lợi? Hay lãnh đạo Các Anh là tay sai trung thành của Trung Cộng đang từng bước đưa nước Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Cộng? Hoặc cả hai?
Những câu hỏi nêu trên là tôi căn cứ vào một số sự kiện mà lãnh đạo Các Anh đã hành động phục vụ cho quyền lợi của Trung Cộng, kẻ thù từ trong lịch sử ngàn năm trước mà đến nay tham vọng lấn chiếm Việt Nam ngày càng tinh vi hơn. Đó là: (1) Năm 1988, chỉ phản kháng ngang qua người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, để rồi Trung Cộng chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa. (2) Năm 1990, đã ký biên bản thỏa thuận với Trung Cộng, sẽ từng bước đưa Việt Nam sáp nhập vào Trung Cộng dưới chế độ tự trị vào năm 2020. (3) Năm 1999 đã dâng cho Trung Cộng 789 cây số vuông dọc biên giới phía bắc. (4) Năm 2000, đã dâng 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. (5) Năm 2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định cho thăm dò khai thác quặng bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung, và Tập Đoàn Khoáng Sản quốc doanh giao cho công ty Chalieco của Trung Cộng thực hiện từ 2007 đến 2015, xét đến năm 2025. (6) Năm 2009, ký biên bản lần hai, tái xác nhận Việt Nam trở về với Trung Cộng vào năm 2020. (7) Năm 2013, lãnh đạo Các Anh ngăn cấm Các Anh và mọi người không được đến nghĩa trang thắp nhang tưởng nhớ đồng đội của Các Anh đã nằm xuống trong trận chiến chiến đầu năm 1979, khi quân Trung Cộng ồ ạt tràn sang biên giới đã bắn giết hằng chục ngàn lính của quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam!
Chỉ với những hành động tội ác trên đây, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, và mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Vì dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người chỉ là một loại phương tiện đa dụng của lãnh đạo đảng cộng sản! Vậy, Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh?
Tôi mong là Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin rằng, bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- vẫn hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào, những thế hệ làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng, và Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước” (trích trên internet).
Texas, tháng 6 năm 2013

tieuchuy
07-13-2013, 01:09 AM
Thư số 21 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
******

Phạm Bá Hoa


Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này tôi mời Các Anh nhìn vào điều mà lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn ‘”hãy quên quá khứ mà hòa giải hòa hợp”. Vì vậy mà từ năm 2003, lãnh đạo Các Anh chia nhau ra hải ngoại -nhất là Hoa Kỳ- tìm mọi cách chiêu dụ để khống chế Cộng Đồng chúng tôi vào vòng tay tàn bạo của họ! Thật là ghê tởm!

Lãnh đạo cộng sản chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản.

Chắc Các Anh chưa quên là khi lãnh đạo CSVN xua toàn lực đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi vào cuối tháng 4/1975, thì từ đó cả hệ thống truyền thông của đảng ra rả hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, hết năm này sang năm khác, họ miệt thị chúng tôi dưới những nhóm chữ “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh, bọn rác rưởi cặn bả của xã hội, ..v..v...” Họ dùng tất cả những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng. Lúc bấy giờ lãnh đạo Các Anh, luôn miệng ngạo mạn cứ như cộng sản quốc tế sắp nắm quyền bá chủ thế giới vậy. Họ tranh nhau cướp đoạt tài sản quốc gia và tài sản người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ.
Rồi “nhờ những Nghị Quyết đúng đắn” của nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, mà chỉ 10 năm sau khi hoàn thành cuộc xâm lăng, họ đã đẩy toàn dân Việt Nam xuống đến tận đáy của lạc hậu nghèo khổ. Hóa ra ở đó là xã hội chủ nghĩa, đúng như họ luôn miệng hô hào “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Người tự do chúng tôi gọi là “lùi xuống” nhưng lãnh đạo Các Anh nói là “tiến lên”. Thôi thì cứ gọi là tiến lên cũng được, nhưng tại sao khi “tiến đến xã hội chủ nghĩa” thì lãnh đạo Các Anh vội vã tìm đường ra hài ngoại cầu cạnh thế giới tự do nhất là Hoa Kỳ, một quốc gia mà họ từng mạnh miệng nguyển rủa “Mỹ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản”. Câu này trong bài học số 1 có tên là “Đế quốc Mỹ, kẻ thù số 1 của Việt Nam” mà tên Thượng Tá Bình của Bộ Công An, từ Hà Nội vào trại tập trung Long Giao bắt buộc anh em chúng tôi “học 10 bài chính trị” hồi tháng 8/1975, chớ hổng phải tôi nghĩ ra à nghe. Mà lạ thật, “tên đế quốc đầu sỏ Hoa Kỳ giãy chết từ những năm 1970” mà 20, 30 năm sau chẳng những chưa chết, lại còn phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy, nhất là lãnh vực khoa học kỹ thuật.
Giá mà “bác Hồ” Các Anh còn sống đến bây giờ để tận mắt nhìn thấy bộ mặt Hồ Chí Minh của ổng: Tham nhũng từ trên chót vót xuống đến làng xã. Công An thì móc ngoặc khắp phố phường đến tận cùng ngóc ngách xã hội. Còn “các cháu ngoan” của ổng đang lãnh đạo thì bằng cấp giả là kiến thức của họ, nhưng ăn chơi sa đọa và hiếp đáp dân lành thì thế giới tự do phải chào thua. Hồ Chí Minh thì lưu manh đỉ điếm với côn đồ cướp giựt ngày đêm. Hằng trăm cơ sở môi giới đã bán hơn nửa triệu cô gái Việt Nam sang các xứ lân bang làm vợ mọi người. ..v..v... Thấy được tận mắt những điều mà đám đàn em của ổng thực hiện chính sách trăm năm trồng người mà ổng đẻ ra từ hơn nửa thế kỷ trước, chắc “bác” Các Anh mừng lắm.
Bây giờ Các Anh theo tôi để biết lãnh đạo Các Anh hô hào chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản “khép lại quá khứ mà đoàn kết với họ” như thế nào?

Năm 2003. Ông Nguyễn Đình Bin, Thứ Trưởng Ngoại Giao, dẫn một phái đoàn sang Hoa Kỳ tiếp xúc với người Mỹ gốc Việt tại Washington DC, vào ngày 13/6/2003 tại Ngân Hàng Thế Giới thào luận về kinh tế, và ngày 14/6/2003 tại trường đại học Johns Hopkins thảo luận về chính trị. Số người Việt tham dự tại mỗi nơi là 12 người, nhưng không phải cộng lại thành 24 vì có một số vịi tham dự cả hai buổi. Ông Nguyễn Đình Bin, mở đầu buổi tiếp xúc mà giáo sư Nguyễn Quốc Khải nói là “đối thoại”:

“Đoàn đại biểu sang Hoa Kỳ với hai nhiệm vụ: Thứ nhất. Tiếp tục làm việc với chánh quyền Hoa Kỳ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Thứ hai. Tiếp xúc với các người Mỹ gốc Việt, hoặc là người Việt đang làm ăn sinh sống ở Hoa Kỳ. Theo con số thống kê sơ bộ thì có khoảng 2 triệu 7 hay 2 triệu 800 ngàn, đang làm ăn sinh sống tại 90 quốc gia có nền kinh tế khoa học công nghệ tiên tiến .... . Lần đầu tiên, hội nghị trung ương lần 7 ra nghị quyết về đại đoàn kết dân tộc. Những người Việt đang sinh sống và làm việc tại hải ngoại, được đất nước vẫn coi là một phần của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tuy về đầu tư kinh tế trong nước của người Việt hải ngoại chưa bao nhiêu, nhưng điều quan trọng hơn cả là chất xám và trí tuệ, và những hiểu biết những kinh nghiệm của các chuyên viên ở nước ngoài, hiện nay phải nói là cực kỳ quí....”

Các Anh thấy chưa, sau những năm sống trong ảo tưởng “cộng sản sắp thống trị thế giới”, bỗng chợt tỉnh khi cộng sản Liên Sô -thành trì vững chắc của chủ nghĩa xã hội sụp đổ- lãnh đạo Các Anh buộc phải nhìn nhận sự thật về sức sống của Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại về kinh tế tài chánh, trình độ giáo dục, khoa học kỹ thuật, và vận động chính trị. Bộ Chính Trị cộng sản đành phải cúi mặt khi ra nghị quyết kêu gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản đoàn kết với cộng sản. Lãnh đạo Các Anh “muốn nói chuyện” với người tự do chúng tôi, mà vẫn cứ như đang nói với “những thần dân” xã hội chủ nghĩa vậy

Năm 2004. Nghị Quyết 36. Ngày 26/3/2004, lãnh đạo CSVN phổ biến Nghị Quyết số 36, qui định một chính sách toàn diện đối với Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Cộng Sản Tại Hải Ngoại, mà họ gọi là “những người Việt Nam ở nước ngoài”.
“Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các tổ chức đảng, nhà nước, và các đoàn thể nhân dân, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước, và toàn dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc....”.
Trong số Các Anh, tôi tin là có những anh có cơ hội ra hải ngoại nói chung và Hoa Kỳ nói riêng, đều biết Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản, chỉ trang bị một tư tưởng dân chủ tự do, một kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến, một hệ thống truyền thông toàn cầu, và một tinh thần trách nhiệm với quê hương Việt Nam cội nguồn, chớ không trang bị bất cứ loại vũ khí giết người nào cả. Vậy mà lãnh đạo Các Anh lại tập trung toàn bộ hệ thống chính trị và toàn quân toàn dân, chỉ vì điểm căn bản đầu tiên của Nghị Quyết nhận ra “Người Việt Nam ở nước ngoài ....là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Họ nói họ cần khối trí thức hải ngoại, nhưng trong bản chất của cộng sản thì người trí thức không có giá trị gì cả, và trong thực tế từ Nga Cộng, Trung Cộng, Cu Ba Cộng, đến Việt Cộng, đâu có sử dụng người trí thức chân chánh. Họ dùng dối trá để che đậy điều họ cần là khối tài chánh cho riêng họ, và khối trí thức phải dưới quyền khống chế của họ.

Năm 2005. Ký giả Thạch Anh phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CSVN. Đây là cuộc phỏng vấn giữa người cộng sản với nhau, để ông Kiệt có cơ hội nói lên những ưu tư mà ông ta gọi là “bức xúc” trước thời cuộc. Ký giả Thạch Anh mở đầu với nhóm chữ: “Nhân dịp 30 năm, ngày đất nước liền một dãi từ Mũi Cà Mau đến địa đầu Móng Cáy,…”
Các Anh hiểu rồi chớ? Anh ký giả này không dùng nhóm chữ “nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau” như ghi chép trong sử sách Việt Nam, mà anh ta dùng nhóm chữ “từ Cà Mau đến Móng Cáy”, vì lãnh đạo của anh ký giả này đã cắt Ải Nam Quan dâng cho lãnh đạo Trung Cộng từ lâu rồi, còn đâu nữa mà nói!
Và anh ta hỏi ông Kiệt: “Thưa ông, thấm thoát đã 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại , ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?”
Ông Kiệt: “Suy nghĩ của tôi là chiến tranh đã qua cách đây đã mấy chục năm, chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong cho chiến tranh thật sự phải thuộc về quá khứ, một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại....”.
Tôi có thư ngỏ gởi cho ông ta để hòi một câu: “Ai có trách nhiệm khép lại cái quá khứ đó Chẳng lẽ Cộng Đồng hải ngoại chúng tôi? Chính các ông, phải có trách nhiệm khép lại, bằng cách làm ngược lại những gì mà các ông đã làm từ sau ngày 30/4/1975 đối với tất cả người dân Việt Nam Cộng Hòa cũ....”.

Cũng trong năm 2005, ông Phan Văn Khải, Thủ Tướng CSVN công du Hoa Kỳ một tuần kể từ 19/6/2005. Trước khi rời Việt Nam, trong bản tin đài BBC và đài RFI ngày 19 và 20/6/2005, trong phần trả lời của ông Khải, có câu: “... tôi sẳn lòng khép lại quá khứ để nhìn về tương lai …”. Tôi cũng có thư ngỏ gởi ông Khải và cũng nêu câu hỏi như tôi đã hòi ông Kiệt. ..

Năm 2007. Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ Tịch nước trước khi đến Hoa Kỳ ngày 18/6/2007, ông có trả lời trong cuộc phỏng vấn của Vietnamnet và đăng trên Đàn Chim Việt Online ngày 15/6/2007, có đoạn ông nói: “… Nhà nước và nhân dân Việt Nam luôn luôn coi trọng Cộng Đồng Người Việt ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, là máu của máu Việt Nam…” Trong một đoạn sau đó, ông nói: “Cộng Đồng người Việt ở nước ngoài là khúc ruột ly hương ngàn dặm….”

Lúc ấy tôi gởi ông Nguyễn Minh Triết hai thư ngỏ ngày 23 & 24/6/2007. Trong thư có đoạn: “... Tôi không hiểu tại sao đến nay là 32 năm sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi, ông và “đồng chí” của ông trong Bộ Chính Trị, cứ theo dụ dỗ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, hãy quên cái quá khứ kinh hoàng của mình để đoàn kết giúp các ông có uy tín với thế giới mà ông nói là xây dựng đất nước? Về phần tôi, tôi không hận thù các ông dù tôi bị đày trong các trại tập trung hơn 12 năm, nhưng tôi không bao giờ quên cái quá khứ mà ông và các “đồng chí” của ông đã xén phần đất “trên đầu tổ quốc”, và xén “một bên tai” của quê hương dâng cho Trung Cộng, biến “mảng da đầu” của đất nước trở nên lởm chởm chưa từng có trong lịch ngàn năm chống vua quan phong kiến Trung Hoa. Chưa hết, các ông đã đối xử quá dã man tàn bạo với người dân Việt từ thể xác đến tinh thần! Cũng các ông, suốt 20 năm từ năm 1975, đã sử dụng hệ thống truyền thông để sỉ nhục và miệt thị Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản, sao bây giờ ông ra cái điều như là người cộng sản tử tế khi gọi chúng tôi là khúc ruột ly hương ngàn dặm? Khi là đảng viên cộng sản thì các ông đã vứt bỏ tên tuổi của mình mà chấp nhận tên của đảng đặt cho, vứt bỏ mẹ cha mà chấp nhận chỉ có “bác” với đảng, vứt bỏ tinh thần dân tộc mà chấp nhận tinh thần cộng sản quốc tế đặt trên ảo tưởng thống trị thế giới”. Như vậy, làm quái gì có người cộng sản tử tế trên quê hương cội nguồn của dân tộc Việt Nam ......” . Thật rõ ràng, người cộng sản là cộng sản, người tử tế là tử tế, không có sự pha trộn hay trở thành nào giữa hai người ấy.

Năm 2008. Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng CSVN cùng phái đoàn gần 100 người đến Hoa Kỳ. Buổi họp trong khách sạn Hilton tại Houston ngày 26/6/2008, với chiếc bàn hình vuông, ông Thủ Tướng và ông Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm ngồi giữa, ông Thủ Tướng Dũng cất lời kêu gọi: “Bà con hãy hướng về quê hương bằng mọi đường mọi nẻo, chúng ta hãy gác lại quá khứ để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước. Làm được cái gì thì làm dù là việc nhỏ, ngay cả một tiếng nói ủng hộ cũng là đóng góp. Đừng mặc cảm quá khứ nhất là khi đất nước còn nhiều khó khăn....”

Các Anh thấy không, sau khi ban hành Nghị Quyết 36 thì hết lãnh đạo này đến lãnh đạo khác sang Hoa Kỳ, vừa du lịch miễn phí trên đất nước giãy chết từ mấy chục năm trước nhưng lại phát triển vượt bực, vừa cầu cạnh Hoa Kỳ để có đầu tư ngoại quốc với kỹ thuật tân tiến, vừa chiêu dụ Cộng Đồng gồm những người mà họ đã liên tục chửi rủa hằng chục năm trước. Với lãnh đạo cộng sản, khi không cần thì mạt sát miệt thị, khi cần thì họ vừa nâng vừa bợ trong mục đích khống chế Cộng Đồng tị nạn cộng sản. “Liệu có phải mục đích của họ là để hưởng “những khúc ruột già của Cộng Đồng ly hương ngàn dặm chăng?”
“Đồng chí X của ông Chủ Tịch nước” vẫn còn trong ảo tưởng như mấy chục năm qua khi kêu gọi chúng tôi “đừng mặc cảm quá khứ”. Không biết đến bao giờ ông ta mới tỉnh lại để nhìn thấy Cộng Đồng chúng tôi chẳng những không bao giờ mặc cảm, mà trái lại, chúng tôi rất hãnh diện là một Cộng Đồng không bao giờ quên quê hương cội nguồn của mình, chỉ vì không thể sống dưới chế độ độc tài nghiệt ngã nên phải vượt lên sự chết để tìm đất sống tự do. Dù xa quê hương nhưng luôn gắn bó tình cảm gia đình trong nếp sống đạo nghĩa Việt Nam, mà Cộng Đồng chúng tôi gởi tiền về giúp thân nhân từ năm 1991 với số tiền 31 triệu mỹ kim, dần dần gia tăng và năm 2012 là 10 tỷ mỹ kim. Cộng chung từ 1991 đến 2012, tổng số tiền gởi về trong nước là 70 tỷ 115 triệu mỹ kim (tài liệu của ngân hàng thế giới, ngân hàng Việt Nam, và đài RFA 1/5/2011), chưa kể số tiền những người về thăm thân nhân mang theo. Các Anh phải biết là số tiền này góp phần quan trọng vào tổng sản lượng quốc gia (GDP) hằng năm gia tăng đó.

Hòa giải và hòa hợp?

Bây giờ là quan điểm của tôi về lãnh đạo Các Anh chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản, mà họ phải họp cấp trung ương rồi ban hành Nghị Quyết 36, trong mục đìch huy động toàn bộ tổ chức của quốc gia và bằng mọi phương cách chiêu dụ chúng tôi hãy quên quá khứ, hãy khép lại quá khứ, để chấp nhận sự khống chế của họ. Là một thành viên nhỏ bé li ti trong Cộng Đồng tị nạn cộng sản, tôi vẫn hiểu rằng, lịch sử là không thể thay đổi, nhưng có những điều sai trong lịch sử vẫn sửa được trong hiện tại, để có điều kiện nói đến tương lai. Nghĩa là lãnh đạo Các Anh phải làm ngược lại những gì mà họ đã làm sai từ tháng 4/1975 đến nay (2013), mới có hy vọng Cộng Đồng tị nạn suy nghĩ việc khép lại quá khứ. Việc mà họ làm sai thì không sao kể hết, nhưng theo cách nhìn của tôi thì 5 vấn đề dưới đây mà lãnh đạo Các Anh phải sửa sai đối với Cộng Đồng tị nạn cộng sản, và vấn đề thứ 6 là lãnh đạo Các Anh phải sửa sai với 90 triệu đồng bào trong nước:

Thứ nhất. Vào những ngày trước và sau ngày 30/4/1975, hằng chục ngàn thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa đang điều trị trong Tổng Y Viện và cả hệ thống Quân Y Viện, lãnh đạo Các Anh đã vô cùng tàn nhẫn khi ra lệnh cho Các Anh quẳng anh em thương phế binh chúng tôi ra ngoài đường sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, rồi họ muốn chúng tôi “hãy quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường tổn hại vật chất lẫn tinh thần cho Họ đồng thời Bộ Chính Trị phải chánh thức nói lời xin lỗi Họ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ hai. Lãnh đạo Các Anh đã cướp đoạt nhà cửa ruộng vườn cùng những tài sản khác của chúng tôi, do họ sử dụng nhiều nhóm chữ khác nhau để che đậy sự gian trá lọc lừa. Tài sản của chúng tôi bị lãnh đạo Các Anh cướp đoạt, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn trả tất cả những tài sản ấy lại cho chủ nhân, đồng thời bồi thường thiệt hại đúng mức trên những tài sản ấy thích ứng theo thời gian. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ.

Thứ ba. Lãnh đạo Các Anh không thông qua bất cứ cơ quan luật pháp nào khi bắt giam hơn 500.000 quân nhân viên chức cán bộ Việt Nam Cộng Hòa cũ, và những người trong giới kinh doanh thương mãi, dịch vụ, đẩy vào hơn 200 trại tập trung từ nam ra bắc, trong mục đích đày đọa chúng tôi chết dần chết mòn mà họ gọi là “cải tạo”. Nhưng thế giới cộng sản ngày càng suy sụp kinh tế, buộc họ phải thả chúng tôi thì họ mới được thế giới tự do giúp đỡ mà tồn tại. Và hơn trăm người cuối cùng phải 17 năm sau mới ra khỏi trại, rồi họ muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần cho ngần ấy tù nhân chính trị chúng tôi trong ngần ấy thời gian bị giam giữ. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

Thứ tư. Lãnh đạo Các Anh không thể nào quên trong 10 năm đầu kể từ những ngày cuối tháng 4/1975, khi mà những công dân Việt Nam Cộng Hòa cũ không thể sống nỗi sự kềm kẹp chính trị, nên đành phải vượt lên sự chết để tìm sự sống tự do với cái giá phải trả thật là khủng khiếp! Lúc ấy, họ gọi chúng tôi là bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn ôm chân đế quốc, bọn ăn bơ thừa sữa cặn, bọn đỉ điếm lưu manh rác rưởi của xã hội, ..v..v... Thôi thì họ dùng những chữ nào mà chửi rủa được là mang ra sử dụng để sỉ vã nhục mạ chúng tôi, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải bồi thường vật chất lẫn tinh thần cho hằng trăm ngàn gia đình của những người đã chết trên đường vượt biên vượt biển, phải chánh thức xin lỗi Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn cộng sản tại hải ngoại, và rút lại những lời mà họ đã sỉ nhục chúng tôi. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!

Thứ năm. Nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi an nghỉ của hơn 16.000 người Việt Nam đã tròn bổn phận công dân với quốc gia dân tộc. Tưởng được yên bình vĩnh cửu trong lòng đất quê hương, nhưng với bản chất dã man của lãnh đạo Các Anh đã đào xới mồ mả để vừa thỏa lòng thù hận của kẻ chiến thắng, vừa chiếm đoạt đất đai làm tài sản riêng, rồi muốn chúng tôi “quên quá khứ” làm sao chúng tôi quên được! Bây giờ lãnh đạo Các Anh phải hoàn chỉnh lại phần cấu trúc toàn cảnh nguyên trạng như trước lúc bị tàn phá, kể cả tượng Thương Tiếc. Đó là hành động sửa sai để cùng quên quá khứ!
Và thứ sáu. Nhóm chữ “hòa giải và hòa hợp” phải đặt đúng vị trí của nó, vì có “hòa giải” được với nhau mới có thể “hòa hợp” được với nhau. Như vậy, từ hòa giải đến hòa hợp còn một khoảng cách nữa. Nhưng lãnh đạo Các Anh chỉ dùng chữ “hòa hợp“ mà thực chất chỉ là chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản hòa hợp dưới quyền cai trị của họ, chớ không có hòa giải hiểu theo nghĩa hai bên cùng thỏa thuận công bằng và minh bạch. Nhưng tại sao họ dốc toàn lực của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam để bám theo chiêu dụ Cộng Đồng tị nạn cộng sản tại hải ngoại, mà lãnh đạo Các Anh không hòa giải và hòa hợp với người dân trong nước trước, vì đây là vấn đề hoàn toàn trong tầm tay của họ.
Quan điểm của tôi như sau:

(1) Cưỡng bách thu hồi đất. Thật vắn tắt. Năm 2010. Theo tài liệu Bộ Tài Nguyên & Môi Trường ngày 08/07/2010, chỉ riêng trong 6 tháng đầu năm 2010, có khoảng 100 đoàn dân oan từ các thành phố: Rạch Giá, Cần Thơ, Long An, Sài Gòn, Đồng Nai, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hà Nội ..”, đến cơ quan trung ương đưa đơn khiếu nại oan ức về đất đai bị cưỡng bách thu hồi. Năm 2011. Bản tin AFP 25/11/2011, một báo cáo về tham nhũng trong đất đai do Ngân Hàng Thế Giới, tòa đại sứ Thụy Điển và tòa đại sứ Đan Mạch tại Hà Nội, thì “Việt Nam hiện nay có khoảng 70% dân số sống ở nông thôn. Việc trưng dụng đất đai mà đền bù thấp, đã dẫn đến những vụ xung đột tranh chấp đất đai, thậm chí dẫn đến chết người”. Năm 2012. Sau vụ Tiên Lãng với tiếng súng hoa cải và bom tự chế nổ từ phía người dân bị cưỡng bách thu hồi vào ngày 5/1/2012, rồi tiếng súng lại nổ nhưng không phải từ phía người dân mà từ phía lực lượng cưỡng bách thu hồi đất của 1.244 gia điình nông dân tại Văn Giảng ngày 24/4/2012. Hai nhà báo của truyền thông đảng là Nguyễn Văn Năm và Hàn Phi Long, cũng bị lực lượng cưỡng chế hành hung mang thương tích.
Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với đồng bào oan ức về đất đai, bằng cách: “(a) Hủy bỏ Luật Đất Đai và tất cả các luật liên quan, vì đây là nguồn gốc của những mánh khóe cướp đoạt từ các cấp lãnh đạo, là một trong những nguyên nhân tham nhũng kinh hoàng trong hệ thống đảng & nhà nước. (b) Trả lại quyền tư hữu đất đai cho toàn dân như khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa. (c) Bồi thường cho sở hữu chủ về thiệt hại vật chất đã tịch thu sử dụng riêng tư, hoặc bán cho các nhà đầu tư. (d) Bộ Chính Trị chánh thức xin lỗi đồng bào vì chính sách sai lầm”.

(2) Đàn áp người yêu nước. Với những cuộc biểu tình của đồng bào yêu nước -nhất là tuổi trẻ- chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo, trong khi lãnh đạo đảng lặng thinh cứ như không nghe không thấy không biết gì hết, nhưng lại thẳng tay trấn áp bằng những hành động loại lưu manh côn đồ, quản chế và bắt bỏ tù. Ngày 17/06/2013, ngày đối thoại nhân quyền Việt Nam-Australia. Dân biểu Chris Hayes, đã lên án tình trạng vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Việt Nam với công dân của họ, chỉ trong một năm mà 38 nhà hoạt động ôn hòa cho dân chủ đã bị bắt vào tù.
Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải và hòa hợp với thành phần dũng cảm đáng trân trọng này, bằng cách: “(a) Trả tự do vô điều kiện cho tất cả tù chính trị mà họ bị ghép vào tội hình sự, bồi thường thiệt hại vật chất lẫn tinh thần nhập cho họ trong suốt thời gian bị giam giữ, và chánh thức xin lỗi họ. (b) Thực hiện kế hoạch bảo vệ quần đảo Hoàng Sa Trường Sa và các hải đảo trong Vịnh Bắc Việt và trong vùng Biển Đông của Việt Nam. (c) Bảo vệ ngư phủ Việt Nam đánh cá trong phần lãnh hải của mình, Hải Quân Nhân Dân anh hùng hãy xua đuổi thậm chí là tấn công các tàu lạ xâm nhập hải phận Việt Nam bắt ngư phủ và ủi chìm tàu của ngư dân Việt. (d) Hủy bỏ Điều 4, cùng lúc thực thi những điều qui định trong Hiến Pháp liên quan đến quyên dân sự và quyền chính trị của người dân theo Công Ước quốc tế mà họ đã ký”.

(3) Chia cắt các tôn giáo. Tại sao lãnh đạo Các Anh sử dụng mọi mánh khóe gian trá để cắt ra từng mảng rồi tổ chức thành “tôn giáo quốc doanh” trong khi họ luôn miệng nói đến đoàn kết?” Hóa ra đoàn kết của lãnh đạo Các Anh là chia cắt để trị như thực dân Pháp sao?
Vậy, lãnh đạo Các Anh hãy hòa giải với các tôn giáo, bằng cách: “(a) Giải tán các tổ chức tôn giáo quốc doanh. (b) Rút tất cả Công An lồng trong các tổ chức đó cũng như đã tung ra hải ngoại trở về ngành lo bảo vệ an toàn cho dân và dọn dẹp xã hội sạch sẽ. (c) Hoàn trả đất đai tài sản lại cho các tôn giáo và bồi thường thiệt hại vật chất từ khi tịch thu trái phép đến khi hoàn trả. (d) Hủy bỏ các văn kiện liên quan đến tôn giáo quốc doanh và tôn giáo ngoài quốc doanh.

Nếu lãnh đạo Các Anh hành động được như vậy, tôi tin rằng đồng bào trong nước và Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản sẽ vui lòng suy nghĩ lại cái quá khứ kinh hoàng đó, để tiến đến hòa giải và hòa hợp. Chớ họ nói theo cái ngôn ngữ mà ông Hà Sĩ Phu gọi là thứ “ngôn ngữ lộn ngược trong xã hội xã hội chủ nghĩa” ngày nay, làm sao người dân trong nước và ngoài nước tin được, nói gì đến cái việc quên quá khứ! Nếu lãnh đạo Các Anh không làm được những điều đó, thì đừng bao giờ kêu gọi trong nước và hải ngoại “quên quá khứ mà đoàn kết với họ”. Rất có thế vào một ngày đẹp trời nào đó, đồng bào trong nước sẽ vùng lên lật đổ họ như người dân các quốc gia Bắc Phi đã vùng lên thành công, và đang vùng lên sắp đạt thành công.
Quan điểm của tôi rất rõ ràng, không chứa đựng những gì mà lãnh đạo Các Anh có thể xem là tôi mang lòng thù hận. Và tôi nhấn mạnh rằng, tôi đòi lại, chớ không phải tôi xin họ.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Tại sao 10 năm sau năm 1975, lãnh đạo Các Anh luôn miệng ngạo mạn khi chửi Hoa Kỳ là tên đế quốc đầu sỏ đang giãy chết ngay tại dinh lũy cuối cùng của chủ nghĩa tư bản, cùng lúc chửi rủa miệt thị hằng triệu người vượt biển vượt biển tìm đất sống tự do, mà bây giờ họ lại cúi đầu cầu cạnh Hoa Kỳ cứu giúp, và họ cũng hạ giọng gọi Cộng Đồng tị nạn cộng sản là khúc ruột ly hương ngàn dặm, lại muốn Cộng Đồng này hãy quên quá khứ để đoàn kết với họ? Và tại sao 30 năm sau năm 1975, người dân luôn tuân phục đảng, nhưng gần 10 năm nay người dân lại chống đảng dữ dội?”
Trong thực tế, những hành động tội ác của lãnh đạo Các Anh, đã và đang góp phần vào trang sử tệ hại nhất của Việt Nam thời cận đại và đương đại, sẽ mãi mãi lưu truyền trong sử sách từ thế hệ này đến thế hệ khác, mà các nhà viết sử của cộng sản không thể nào bóp méo được. Các Anh có cảm nhận được nỗi đau của đồng bào không? Và Các Anh suy nghĩ gì về lãnh đạo của các Anh? Tôi mong Các Anh thật bình tâm mà suy nghĩ, và suy nghĩ từ chiều sâu tâm hồn của chính mình, rồi quyết định.... Và quyết định đó giúp Các Anh mạnh mẽ bước vào hàng ngũ tuổi trẻ, trí thức, đồng bào, để cùng giành lại quyền làm người cho hơn 90 triệu đồng bào được sống trong một xã hội dân chủ pháp trị, được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).
Texas, tháng 7 năm 2013

tieuchuy
07-13-2013, 01:20 AM
Thư số 21a gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
*********Phạm Bá Hoa


Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo CSVN với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này tôi với Các Anh cùng phân tách nhóm chữ lòng tin chiến lược của lãnh đạo cộng sản Việt Nam và cộng sản Trung Hoa, để quyết định “có tin được hay không?”

Thứ nhất. Lòng tin chiến lược của cộng sản Việt Nam!

Năm 2002, là lần đầu tiên họp mặt “Đối Thoại” tổ chức tại khách sạn Sangri-La, tại Singapore. Vì vậy mà tên gọi là “Đối Thoại Sangri-La. Diễn Đàn hình thành trong mục đích tạo cơ hội các quốc gia trong khu vực và các quốc gia liên quan, thảo luận và quyết định những hồ sơ liên quan đến tình hình an ninh và hợp tác. Năm nay là lần thứ 12 tổ chức trong 3 ngày, với sự tham dự của nhiều vị Bộ Trưởng Quốc Phòng từ 31 quốc gia, trong đó có Bộ Trưởng Quốc Phòng của Anh, Đức, Mỹ, Pháp, và khá đông quí vị học giả tham dự.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373678030.jpg

Ngày 31/05/2013, Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn khai mạc, với chủ đề “Xây dựng lòng tin chiến lược vì hòa bình, hợp tác, thịnh vượng của châu Á – Thái Bình Dương.'' Có đoạn: “.... Đâu đó đã có những biểu hiện đề cao sức mạnh đơn phương, những đòi hỏi phi lý, những hành động trái với luật pháp quốc tế, mang tính áp đặt và chính trị cường quyền.....” Một đoạn khác liên quan đến hồ sơ Biển Đông: “ASEAN và Trung Quốc cần đề cao trách nhiệm, cùng nhau củng cố lòng tin chiến lược và trước hết là thực hiện nghiêm túc Tuyên Bố Chung về ứng xử của các bên tại Biển Đông = DOC, nỗ lực hơn nữa để sớm có Bộ quy tắc ứng xử COC .....” Tức thì, truyền thông trong nước đồng loạt đề cao lòng tin chiến lược của ông Thủ Tướng CSVN, như thể “đồng chí X” của ông Chủ Tịch nước là nhà tư tưởng vậy!

Thật ra, lòng tin chiến lược mà ông Dũng nói đến, không phải lần đầu tiên xuất hiện trên chính trường thế giới nói chung, và trong vùng Đông Nam Á nói riêng, vì trước đó Tổng Thống Indonesia đã nói rồi. Chuyện là giữa tháng 3/2013 có cuộc hội thảo tổ chức tại Indonesia. Trước khoảng 1.300 cử tọa đến từ 38 quốc gia, ông Susilo Bambang Yudhoyono, Tổng Thống nước chủ nhà đọc bài diễn văn với chủ đề “lòng tin chiến lược”. Ông nhấn mạnh nhu cầu xây dựng lòng tin chiến lược để giải quyết các mâu thuẫn liên quan đến chủ quyền của các nước trên hồ sơ Biển Đông (theo cách gọi của Việt Nam).

Như vậy, có phải Thủ Tướng Các Anh “ăn cắp” lòng tin chiến lược của Tổng Thống Indonesia? Chớ chẳng lẽ ngược lại? Nhưng theo tác giả Nguyễn Hưng Quốc, thì trước Tổng Thống Indonesia đã có lãnh đạo Trung Cộng nói về lòng tin chiến lược đến 5 lần:
(1) Tháng 8/2009, trong cuộc họp tại New Dehli, Bộ Ngoại giao Trung Cộng nhấn mạnh đến sự cần thiết phải xây dựng lòng tin chiến lược giữa Ấn Độ với Trung Cộng.
(2) Tháng 2/2012, trong chuyến công du Hoa Kỳ, ông Tập Cận Bình, lúc ấy còn là Phó Chủ Tịch Trung Cộng, cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lòng tin chiến lược, vì lòng tin chiến lược là nền tảng của sự hợp tác để hai bên cùng có lợi.
(3) Ngày 27/3/2012, trong lúc thảo luận với Thủ Tướng Manmohan Singh, Chủ tịch Tập Cận Bình cũng nhấn mạnh đến lòng tin chiến lược trong bang giao hai nước.
(4) Tháng 4/2013, khi tiếp phái đoàn quân sự cao cấp của Hoa Kỳ tại Bắc Kinh, Chủ Tịch Tập Cận Bình cũng nói đến lòng tin chiến lược trong bang giao và nhấn mạnh đó là nền tảng.của ổn định.
(5) Ngày 20/5/2013, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ Tướng Trung Cộng Lý Khắc Cường, lại nhấn mạnh lần nữa việc xây dựng lòng tin chiến lược như một nền tảng giữa hai nước.

Tôi nghĩ là Các Anh cũng nên biết qua hai chữ “chiến lược” để dễ dàng đi sâu vào vấn đề. Chiến lược, có tính cách dài lâu, ngược lại với chiến thuật là ngắn hạn. Chắc Các Anh có nghe nói đến máy bay B52 của Hoa Kỳ là loại máy bay bay rất xa và rất cao trên bầu trời, do vậy mà phải thả bom theo lệnh của đài chỉ huy từ xa. Đó là máy bay chiến lược. Cũng tính cách dài lâu đó, thông thường thì chánh phủ nào cũng thiết lập kế hoạch mà tùy theo mỗi quốc gia, lúc nào cũng sẳn sàng kế hoạch 10 năm, 15 năm, hay 20 năm. Đó là kế hoạch chiến lược phát triển đất nước trong dài hạn.

Vậy, lòng tin chiến lược, là lòng tin dài lâu, lòng tin bền vững. Nhưng nhìn lại lời nói và hành động của lãnh đạo cộng sản trong hơn nửa thế kỷ qua, cho dù là cộng sản Trung Hoa hay cộng sản Việt Nam cũng vậy, đã chứng minh họ “nói một đằng làm một nẻo”. Đó là sự thật trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vậy mà họ nói đến lòng tin chiến lược thì làm sao tin họ được! Các Anh hãy đọc vài đoạn trong nhật ký “Rồng Rắn” của cố Trung Tướng Trần Độ, cựu đảng viên lão thành của Các Anh để thấy người cộng sản kỳ cựu này đã từng đứng đầu cơ quan coi về tư tưởng của đảng nói về dối trá bắt nguồn từ đâu. Với bộ máy cầm quyền, ông viết:

“.... Bộ máy quản lý xã hội đã thực hiện một nguyên tắc chuyên chính tàn bạo hơn tất cả các thứ chuyên chính. Đó là chuyên chính tư tưởng, được thực hiện bởi một đội ngũ nòng cốt là những lưu manh tư tưởng. Nền chuyên chính tư tưởng định ra những điều luật tàn khốc để bóp nghẹt mọi suy nghĩ, mọi tiếng nói. Nó làm cho tất cả trí thức không dám suy nghĩ, hay ít nhất cũng không muốn suy nghĩ..... Nói một đằng làm một nẻo. Nói dân chủ mà làm thì chuyên chính. Đặc điểm này cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, nói vậy mà không phải vậy. Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò, ở đâu cũng đóng trò. Lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa, cán bộ dối lừa, làm ăn dối lừa, gia đình cũng dối lừa, lễ hội dối lừa, tung hô dối lừa, hứa hẹn dối lừa, đến giáo dục dối lừa, bằng cấp cũng dối lừa. Ôi, cay đắng thay!”

Cùng chữ mà khác nghĩa, tương tự như nói một đằng làm một nẻo, nhưng Bác Sĩ Fred C. Schwarz, người Australia, đã nói “cùng chữ mà khác nghĩa”. Ông nói thêm: “Chữ mà người cộng sản sử dụng cũng là chữ mà người tự do sử dụng, nhưng hoàn toàn khác nghĩa”. Từ đó, Các Anh phải suy ngẫm để hiểu: “Khi lãnh đạo Các Anh nói tự do, phải hiểu là tự do có Công An kiểm soát từng người, từng nhà, từng khu phố, từng khu vực, nhưng nếu mọi người có những hành động ăn chơi trụy lạc làm băng hoại xã hội thì được tự do hoàn toàn. Khi lãnh đạo Các Anh nói dân chủ, phải hiểu là dân chủ trong vòng tay kiểm soát của Công An mặc sắc phục lẫn Công An loại lưu manh côn đồ. Nói bầu cử dân chủ, phải hiểu là Công An đến từng nhà tự do lùa cử tri đến phòng phiếu, rồi cử tri rất tự do chọn trong số những ứng viên mà lãnh đạo đã dân chủ chọn trước cho cử tri. Nói cách khác, chắc Các Anh còn nhớ “chính sách mở cửa đổi mới” từ cuối những năm 1980, rồi nhìn vào thực trạng xã hội rất dễ nhận thấy là lãnh đạo Các Anh có mở cửa đổi mới thật, nhưng chỉ đổi mới trong lãnh vực kinh tế, xây dựng, nhất là các sinh hoạt giải trí, nhưng tuyệt nhiên không hề đổi mới -hiểu theo nghĩa phát triển- trong lãnh vực chính trị và giáo dục.

Tôi nói chính trị, vì lãnh đạo Các Anh rất sợ người dân thấu hiểu chính trị dẫn đến hành động chính trị, sẽ đụng đến những chiếc ghế quyền lực của họ. Tôi nói giáo dục, vì theo tôi, giáo dục là nền tảng đào tạo những thế hệ tử tế để xây dựng một xã hội tử tế, nhưng giáo dục xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không phải vậy. Các Anh hãy đọc vài đoạn dưới đây sẽ rõ:
(1) Hội nghị của Ban Chấp hành Trung Ương hồi tháng 10/2012 thảo luận về cải tổ giáo dục, Tiến sĩ Hoàng Tụy, một nhà giáo lão thành và là nhà toán học quốc tế, đã trình bày: “Giáo dục của ta đang lạc điệu không giống ai, bắt nguồn từ triết lý giáo dục, tư duy, quan niệm cơ bản về mục tiêu đường lối, cung cách làm giáo dục. Nói cách khác, nhà trường không phải chỉ dạy chữ, dạy kiến thức, mà còn phải dạy học sinh làm người“.
(2) Ngày 13/6/2012, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, ban hành nghị quyết Chiến lược phát triển giáo dục 2010-2020, trong đó có đoạn: “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội trong phát triển giáo dục. Xây dựng nền giáo dục có tinh thần nhân dân, tiên tiến, hiện đại xã hội chủ nghĩa Mác-Lénin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng ....”
(3) Ngày 24/10/2012, báo Lao Động có bài “Triết lý giáo dục của người Việt” có đoạn: “...Nhiều người cho rằng giáo dục của ta không thấy lối ra, vì không tìm được triết lý giáo dục. Một số giáo sư khẳng định là nước ta chưa từng có một triết lý giáo dục…” .
(4) Giáo Sư Phạm Minh Hạc, một thời là Bộ Trưởng Giáo Dục cũng đồng ý là “Giáo dục nước nhà thiếu hẳn một triết lý”.

Tóm tắt. Khi lãnh đạo Các Anh nói đến dân chủ tự do, thì chính sách bịt mắt bịt tai bịt miệng, cộng với chính sách sử dụng Công An và côn đồ luôn tạo nỗi sợ hãi cho mọi người, thì thật sự đời sống người dân có khác gì trong một nhà tù lớn, mà trong nhà tù lớn có hằng trăm hằng ngàn nhà tù nhỏ đang giam giữ dân oan bị cưỡng bách thu hồi đất, đày đọa người dân yêu nước chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam che giấu qua những tội danh qui định trong luật hình sự. Vậy mà lãnh đạo Các Anh nói đến lòng tin chiến lược thì làm sao tin được.

Thứ hai. Lòng tin chiến lược của cộng sản Trung Hoa!

Chỉ riêng cái “đường lưỡi bò” mà lãnh đạo Trung Cộng tự công bố là chủ quyến của họ hơn 80% trong diện tích Biển Đông 2.974.600 cây số vuông, rồi họ coi “đường lưỡi bò như ao nhà” của họ. Từ đó, họ tung hằng chục ngàn tàu cá xuống đến tận quần đảo Trường Sa đánh cá, trong khi tàu có võ trang của họ rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, họ còn bắt ngư phủ Việt Nam đề đòi tiển chuộc. Nội địa Việt Nam thì tràn ngập xóm làng người Tàu từ Móng Cáy trải dài theo duyên hải đến tận Cà Mau, xóm làng của họ cũng tràn ngập dọc Cao Nguyên đến Tân Cảnh, Tân Rai, Đắc Nông, ... và họ cấm người Việt Nam vào xóm làng của họ. Họ coi Việt Nam như một bãi rác với những sản phẩm xấu, sản phẩm độc hại sản xuất từ hóa chất, từ thị trường bên kia biên giới họ đẩy mọi thứ đó tràn ngập thị trường Việt Nam, ..v..v... Vậy mà, lãnh đạo Trung Cộng luôn miệng nói đến “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với cộng sản Việt Nam. Trong thực tế, Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1373678259.jpg

Ngày 5 & 6/6/2013, “Hội Thảo biển Đông” hằng năm lần thứ 3, tổ chức tại “Trung Tâm Nghiên Cứu Quốc Tế & Chiến Lược” ở Washington DC. Phóng viên Việt Hà phỏng vấn Tiến Sĩ Trần Trường Thủy, Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, tham dự hội thảo về hồ sơ Biển Đông. Trích một trong những câu hỏi:

Việt Hà: “Học giả Trung Quốc có nói rằng, họ không muốn làm rõ đường lưỡi bò, vì như vậy sẽ gây ảnh hưởng đến các nước khác khi Trung Quốc sẽ phải lấy tất cả các đảo mà các nước khác đang chiếm trên đó. Vì vậy, chính sách tốt nhất là giữ nguyên hiện trạng như hiện nay là không làm rõ ràng đường lưỡi bò. Nhận xét của ông về câu trả lời của học giả người Trung Quốc là như thế nào?”

Tiến sĩ Trần Trường Thủy: “Tôi cho rằng cái này cũng chỉ là ngụy biện. Thực tế nếu không có đường lưỡi bò thì Trung Quốc vẫn duy trì cái chính sách chủ quyền đối với các đảo:
(1) Cũng lập luận vì Trung Quốc có yêu sách nên bắt buộc phải dùng vũ lực, cho nên Trung Quốc cũng đã yêu sách đối với chủ quyền của Hoàng Sa và Trường Sa cũng như các đảo khác trong tranh chấp với Philipines..
(2) Theo tôi thì vấn đề chính đối với đường lưỡi bò, là Trung Quốc muốn sử dụng mập mờ để đòi hỏi quyền chủ quyền và quyền tài phán, nhắm vào tài nguyên của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác.
(3) Bản thân nội bộ Trung Quốc cũng có ít nhiều ý kiến khác nhau, họ cũng không thống nhất nhau làm thế nào để làm cho rõ ràng. Và đìều cơ bản là làm rõ yêu sách theo Công Ước Luật Biển, sẽ làm hạn chế việc Trung Quốc tự do hoạt động như bây giờ”.

Ông Tiến Sĩ của Học Viện Ngoại Giao Việt Nam, rất thận trọng khi nói đến Trung Cộng về hồ sơ Biển Đông. Tuy vậy, ông cũng nói được ý chính là Trung Cộng quyết chiếm Biển Đông, cho dù có hay không có “đường lưỡi bò” cũng vậy. Theo nhận định này thì lãnh đạo Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.

Các Anh nhận ra điều gi từ phía Trung Cộng? Với tôi, lãnh đạo Trung Cộng, vừa gậm nhấm vừa lấn chiếm lãnh thổ lãnh hải của Việt Nam, thực tế là:
(1) Năm 1988, họ lấn chiếm 8 đảo trong quần đảo Trường Sa.
(2) Năm 1990, họ đạt được sự thỏa thuận của lãnh đạo CSVN là từng bước Việt Nam sẽ sáp nhập vào họ từ năm 2020.
(3) Năm 1999, họ lấn chiếm 789 cây số vuông dọc biên giới Việt Nam.
(4) Năm 2000, họ lại chiếm được 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt.
(5) Năm 2007, họ đạt được vùng Cao Nguyên Miền Trung dưới dạng khai thác bô-xít xit.
(6) Năm 2009, đạt được biên bản lần hai, tái xác nhận Việt Nam sẽ trở về với họ từ năm 2020.
(7) Năm 2013, ngang qua lãnh đạo CSVN, họ đã ngăn cấm Các Anh và mọi người không được đến nghĩa trang thắp nhang tưởng nhớ đồng đội của Các Anh đã nằm xuống trong trận chiến chiến đầu năm 1979, khi quân Trung Cộng ồ ạt tràn sang biên giới đã bắn giết hằng chục ngàn lính của quân đội nhân dân và nhân dân Việt Nam!
(8) Trong 10 năm gần đây, cũng ngang qua lãnh đạo Các Anh, hầu hết những người yêu nước xuống đường biểu tình chống đối họ (Trung Cộng), đều bị lãnh đạo Các Anh bắt vào tù.

Vậy mà, lãnh đạo Trung Cộng luôn miệng nói đến “16 chữ vàng và 4 tốt” trong bang giao với cộng sản Việt Nam. Trong thực tế, Trung Cộng “nói một đằng làm một nẻo”.

Tóm tắt. Nói một đằng làm một nẻo là dối trá. Đảng dối trá, nhà nước dối trá, giáo dục dối trá, truyền thông dối trá, dẫn đến một xã hội dối trá, là nét đậm trong bản chất của cộng sản. Vậy, lòng tin chiến lược mà ông Thủ Tướng CSVN nói trong “Đối Thoại Sangri-La” tại Singapore ngày 31/5/2013 vừa qua, có thuyết phục được người nghe không? Với tôi, ông ta nói chỉ để nhận lại tiếng vỗ tay của cử tọa theo cung cách lịch sự trong bang giao quốc tế. Tôi cũng không loại trừ giả thuyết Thủ Tướng Các Anh đã được phép của lãnh đạo Trung Cộng “xì hơi chút chút”, cho quốc tế cũng như người dân trong nước tưởng như lãnh đạo Các Anh chống Trung Cộng. Để rồi sau đó, ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang của Các Anh phải sang Bắc Kinh ký một loạt văn kiện loại “đầu hàng từ từ”. Ngắn gọn, lòng tin chiến lược mà cộng sản Việt Nam cũng như cộng sản Trung Hoa nói đến, là không có sức thuyết phục người tự do. Nói thẳng thừng, là không thể nào tin.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ “Tại sao mọi người trong xã hội phải sống với nhau bằng dối trá không?” Tôi phải một chút dài dòng để giúp Các Anh tự giải đáp. Bắt đầu Cương Lĩnh của cộng sản quốc tế do Liên Xô lãnh đạo mà đảng CSVN là một đảng thành viên, c ũng gọi là chi bộ. Tôi trích 2 điều sau đây: Điều 12, "tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ". Điều 21, “đảng hội viên nào phủ nhận các điều kiện và Cương Lĩnh của Đệ Tam Quốc Tế, sẽ bị loại khỏi Đệ Tam Quốc Tế”. Đảng cộng sản Việt Nam là một Chi Bộ của Đệ Tam Quốc Tế, phải thi hành lệnh của tổ chức này.

Tập trung dân chủ, đồng nghĩa với độc tài, mà độc tài thì đâu có dân tộc nào lại chấp nhận. Tôi thấy cần giải thích nhóm chữ mà Các Anh vừa đọc: “Các Anh sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học trong trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị trong các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt hằng ngày trong xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông cùng một tiếng nói, trở thành nếp sống rất bình thường đối với người dân nói chung, đối với Các Anh nói riêng. Chính vì vậy mà có thể Các Anh nghĩ rằng “đời sống bây giờ đã tốt hơn đời sống thời 1954-1986 rồi, đâu cần phải đòi hỏi gì khác”. Nếu Các Anh nghĩ như vậy, hãy đọc lại phần nhận định của cố Trung Tướng Trần Độ 58 tuổi đảng, đã một thời thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ. Quan điểm của ông lúc ấy như sau: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp". Cũng từ đó mà ông bất mãn vì lãnh đạo không chấp nhận quan điểm của ông, và ông bị khai trừ khỏi đảng từ ngày 4/1/1999. Trung Tướng Trần Độ của Các Anh, là một trong những đảng viên thức tỉnh, nhận ra độc tài là một chế độ dối trá, mà dối trá thì đưa dân tộc vào nền văn hoá chết, văn hoá chết thì còn gì để gọi là con người có văn hoá trong thế giới văn minh lịch sự.
Sau khi Các Anh nghiền ngẩm đoạn trên, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình vào nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo bằng bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).
Texas, tháng 7 năm 2013

tieuchuy
08-02-2013, 08:32 PM
Thư số 22 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
*****
Phạm Bá Hoa


Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi hy vọng là Các Anh sẽ hiểu rõ hơn là những gì Các Anh đọc trên báo chí cũng như nghe truyền thanh và xem truyền hình xã hội chủ nghĩa, điều mà ông Gorbachev, cựu Tổng Bí Thư sau cùng của Liên Bang Sô Viết đã nói “cộng sản chỉ có tuyên truyền và dối trá”, về nội dung chuyến công du của ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch nước Việt Nam sang Trung Cộng hồi tháng 6/2013.

Thứ nhất. Trước ngày ông Sang rời Việt Nam.

Ngày 1/6/2013. Tàu cá của ngư dân Việt Nam trong lãnh hải của mình đã bị tàu cá Trung Cộng đâm chìm và ngư dân mất xác!
Ngày 2/6/2013. Công An và côn đồ thẳng tay đàn áp, hành hung tàn bạo người dân bày tỏ lòng yêu nước của mình trước hành động xâm lăng của Trung Cộng.
Ngày 17/6/2013. Theo tác giả Thiên Ngọc trong blog DanLamBao, lúc 22 giờ đêm, "tàu lạ" lại đâm vào tàu cá của ngư dân Bình Định, tàu thì bể vụn và 8 ngư dân chơi vơi trên biển. Rất may là các ngư dân được các tàu cá cùng địa phương nỗ lực tìm kiếm và cứu sống, nhờ tin tức truyền đi nhanh chóng trong giới ngư dân.
Hình ảnh hai sự kiện Trung Cộng đã đâm chìm tàu cá Việt Nam, trong khi Việt Nam có phi cơ tuần duyên, có lực lượng Hải Quân với đoàn tàu tuần duyên, có hỏa tiển phòng vệ duyên hải, nhưng tàu Trung Cộng tự do tung hoành Biển Đông trong vùng biển Việt Nam như “ao nhà” của họ. Các Anh có biết tại sao không? Tại vì các loại vũ khí nói trên chỉ để phô trương với đồng bào, cũng có ý nói với ngư dân rằng: “Cứ yên tâm ra khơi đánh cá, với “Dân Quân Biển” tự bảo vệ được mà, chỉ khi nào sự việc đến mức “đại cục” thì nhà nước lo. Dĩ nhiên là lãnh đạo Các Anh thừa biết các vũ khí đó làm sao dám đụng đến “tàu lạ”, nhưng vì 16 người trong Bộ Chính Trị đang ôm chặt “16 chữ vàng với 4 tốt” để ngồi yên trên những cái ghế quyền lực, cho nên Trung Cộng có hành động gì đi nữa thì họ xem như không nghe không thấy không biết là xong, còn ngư dân tự lo lấy mọi việc. Cùng lúc với sự kiện tương phản, trên biển thì “tàu lạ” rượt đuổi ủi chìm tàu cá Việt Nam, trong khi trên đất liền thì lãnh đạo Các Anh sử dụng Công An với côn đồ, thẳng tay đàn áp gây thương tìch và bắt giam những người yêu nước bày tỏ thái độ chống đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam.
Tóm tắt. Trung Cộng có hành động gì với tàu cá Việt Nam là chuyện của ngư dân, còn quyền lực là chuyện của lãnh đạo Các Anh.

Ngày 5/6/2013. Tướng Nguyễn Chí Vịnh sang Bắc Kinh yêu cầu Trung Cộng "không sử dụng vũ lực và đe dọa sử dung vũ lực trên biển giữa Hải Quân hai nước". Tướng Thích Kiến Quốc trả lời: “Sẽ nghiên cứu”.
Câu trả lời đồng nghĩa với không trả lời gì hết, nhưng tôi nghĩ là ông Thứ Trưởng Quốc Phòng Các Anh rất bằng lòng, vì vừa ra cái điều thương xót ngư dân Việt Nam, và vừa được lãnh đạo Trung Cộng trả lời một câu không đụng chạm đến “đại cục”, được hiểu là “cục lớn” do lãnh đạo Trung Cộng dành cho lãnh đạo Việt Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản mà thực tế là “đàn Anh với đàn Em”.
Ngày 13/6/2013. Bộ Ngoại Giao Việt Nam ra thông báo cho biết, Chủ Tịch Trương Tấn Sang sẽ công du Trung Quốc từ 19 đến 21/6/2013, theo “lời mời” (hay gọi) của Chủ Tịch Tập Cận Bình. Cùng lúc, theo người phát ngôn bộ Ngoại Giao Việt Nam Lương Thanh Nghị trả lời hãng tin Hoa Kỳ Blomberg, thì chuyến công du của ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang có mục tiêu “tăng cường lòng tin chính trị giữa hai bên, vì hòa bình, ổn định, và phát triển trong khu vực”.
Ngày 14/6/2013. Về phía Trung Cộng, bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao cho biết: “Bắc Kinh hy vọng chuyến thăm của Chủ Tịch nước Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung - Việt, tăng cường sự tin cậy lẫn nhau”.
Thật sự có phải là tăng cường “lòng tin chính trị và tin cậy lẫn nhau” hay không, bây giờ tôi với Các Anh lần theo những sự kiện liên quan đến ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Các Anh sang Trung Cộng, để tìm hiểu sự thật.

Thứ nhì. Những ngày ông Sang tại Trung Cộng.

Ngày 18/6/2013. Trước khi rời Việt Nam, Chủ Tịch Trương Tấn Sang trả lời báo chí Trung Cộng, có đoạn: "Đảng với Nhà Nước và Nhân Dân Việt Nam trước sau như một, hết sức coi trọng việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc”. Ông nhấn mạnh: "Hơn bao giờ hết, cả hai nước đều cần môi trường quốc tế và khu vực hòa bình, ổn định để tập trung phát triển".
Không biết ông Chủ Tịch của Các Anh tuyên bố “trước sau như một”, có phải là ông ấy muốn nói đến trước sau như một là lãnh đạo cộng sản Việt Nam vẫn xem 16 chữ vàng và 4 tốt là nền tảng trong bang giao giữa hai nước cộng sản hay không? Cho dù phải, hay không phải, rõ ràng là Trung Cộng luôn đứng ở vị trí cao trong khi Việt Nam ở vị trí thấp. Hãy xem tiếp những hoạt động của ông Chủ Tịch Các Anh ra sao.

Ngày 19/6/2013. Khi đến Bắc Kinh, ông Trương Tấn Sang được ông Tập Cận Bình đón tiếp nồng hậu. Nhưng tại địa điểm đoàn quân dàn chào, ông Tập Cận Bình chỉ hơi cúi đầu khoảng 10 độ, trong khi ông Trương Tấn Sang của Các Anh cúi đầu khoảng 50 độ. Trời đất ơi! Ông Chủ Tịch của Các Anh có quy lụy lãnh đạo Trung Cộng cũng nên kín đáo trong văn phòng, hoặc có quá lắm thì trong phòng họp cũng được, nhưng đứng giữa trời mà quy lụy như vậy là làm nhục cả dân tộc Việt Nam chớ có phải chỉ đảng cộng sản của ông ta nhục đâu!


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1375474994.jpg

Cũng ngay trong ngày 19/6/2013, ông Trương Tấn Sang cùng ông Tập Cận Bình chứng kiến lễ ký 10 văn kiện hợp tác giữa hai nước. Xin trích dẫn vài điểm chính:

Một. Theo Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam thì thỏa thuận phù hợp với hiệp định song phương về phân định vịnh Bắc Bộ, và Hiệp định này mới gia hạn lần thứ tư, kéo dài đến năm 2016.

Hai. Bộ Nông Nghiệp hai nước, sẽ thiết lập đường dây nóng để giải quyết các vụ va chạm liên quan đến ngư dân trên biển.

Ba. Giữa hai Bộ Quốc Phòng, sẽ xây dựng trung tâm văn hóa tại hai nước.

Bốn. Chương trình hành động giữa hai chính phủ về triển khai quan hệ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện.

Chỉ có vậy là hệ thống truyền thông Việt Nam ca ngợi ý nghĩa chuyến đi của ông Sang, để khẳng định “chính sách nhất quán của Đảng với Nhà Nước Việt Nam trong bang giao giữa hai đảng và hai quốc gia, đưa hai nước phát triển thực chất theo khuôn khổ đối tác và hợp tác chiến lược toàn diện. Cán bộ cao cấp hai bên đều đồng loạt trả lời phỏng vấn về chuyến đi này trên hệ thống truyền thông cộng sản, cho thấy hai bên không hề mâu thuẫn trên hồ sơ biển đảo”.

Với nhóm chữ “chính sách nhất quán” của truyền thông theo sau nhóm chữ “trước sau như một” của ông Sang, phải chăng để chỉ sự khiếp nhược của Việt Nam đối với Trung Cộng như từ trước đến nay sẽ vẫn tiếp tục? Với nhóm chữ “không hề mâu thuẫn” của truyền thông cộng sản Việt Nam, được hiểu là lãnh đạo Các Anh không bao giờ làm trái ý của lãnh đạo Trung Cộng, đến mức không dám dùng chữ tàu của “trung quốc” ủi chìm tàu cá Việt Nam, mà chỉ dám dùng chữ “tàu lạ” để nói đến sự kiện đó. Ngoan ngoãn đến như vậy thì làm gì có mâu thuẫn.

Ngày 20/6/2013. Sau cuộc hội đàm, hai phái đoàn cộng sản đã đạt được “thỏa thuận nguyên tắc căn bản để giải quyết vấn đề biên giới và trên biển, như sau:

Một. Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục, dưới sự chỉ đạo của phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” .Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Hoa, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực.

Hai. Trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử…, đồng thời chiếu cố đến quan ngại hợp lý của nhau, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng, không ngừng thúc đẩy tiến trình đàm phán. Căn cứ chế độ pháp lý và nguyên tắc được xác định bởi luật pháp quốc tế trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, nỗ lực tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được cho các vấn đề tranh chấp trên biển.

Ba. Trong tiến trình đàm phán vấn đề trên biển, hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc và tinh thần của Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC). Đối với tranh chấp trên biển giữa Việt Nam-Trung Hoa, hai bên giải quyết thông qua đàm phán và hiệp thương hữu nghị. Nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, thì sẽ hiệp thương với các bên tranh chấp khác.

Bốn. Trong tiến trình tìm kiếm giải pháp căn bản và lâu dài cho vấn đề trên biển, trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, đối xử bình đẳng, cùng có lợi, tích cực bàn bạc thảo luận về những giải pháp mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của hai bên, bao gồm việc tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển theo những nguyên tắc đã nêu tại điều 2 của thỏa thuận này.

Năm. Giải quyết các vấn đề trên biển theo tinh thần tuần tự tiệm tiến, dễ trước khó sau. Vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển tại vùng biển này. Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm, cứu nạn trên biển, phòng chống, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai. Nỗ lực tăng cường tin cậy lẫn nhau để tạo điều kiện cho việc giải quyết các vấn đề khó khăn hơn.

Sáu. Hai bên tiến hành cuộc gặp định kỳ Trưởng đoàn đàm phán biên giới cấp Chính phủ một năm hai lần, luân phiên tổ chức, khi cần thiết có thể tiến hành các cuộc gặp bất thường. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng trong khuôn khổ đoàn đại biểu cấp Chính phủ để kịp thời trao đổi và xử lý thỏa đáng vấn đề trên biển.

Tôi nghĩ, Các Anh không thể hiểu khác với những gì mà các phương tiện truyền thông của đảng cộng sản Việt Nam ra rả hằng ngày, trong những ngày ông Chủ Tịch Sang đang công du “nước lạ”, nhưng tôi căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra để phân tách những chữ tôi tô đậm trong 6 nguyên tắc căn bản mà lãnh đạo Trung Cộng với lãnh đạo Việt Cộng (= Việt Nam cộng sản) thỏa thuận.

“Lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng…. với phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt… làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình…”. Được hiểu rằng, cho dẫu Trung Cộng vẫn cứ tung hoành trên Biển Đông như ao nhà của họ, thì Việt Cộng cũng không được ồn ào phản đối mà phải vì “đại cục” và hai nhóm phương châm mà giữ cho Biển Đông trong tình trạng hòa bình. Ngay cả sự kiện trọng đại là ngày 7/5/2009, Trung Cộng tự công bố “đường lưỡi bò 9 đoạn” chiếm khoảng 80% Biển Đông là của họ, rôi từ đó họ ngang nhiên hoạt động bất chấp chỉ trích từ quốc tế, họ cũng xem đó là “tiểu cục” (hay là cục nhỏ). Vậy, Các Anh có nghĩ rằng, “theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai nước cộng sản, chỉ khi nào mất cả nước Việt Nam mới gọi là “đại cục” chăng?” Và lúc ấy, Các Anh sẽ là thứ công dân hạng hai hạng ba của Trung Cộng. .Các Anh có cam tâm trở thành người Tàu như vậy không? Hãy dành chút thì giờ mà suy nghĩ nhé!

“..... xem xét các yếu tố ….lịch sử…, với thái độ xây dựng, cố gắng mở rộng nhận thức chung….”. Được hiểu rằng, khi Trung Cộng căn cứ vào “đường lưỡi bò” mà Trung Cộng tự cho là họ có chủ quyền không thể tranh cãi và họ tung hoành trên Biển Đông, thì Việt Nam phải cố gắng có nhận thức chung với Trung Cộng. Nghĩa là giải quyết hồ sơ Biển Đông theo ý của Trung Cộng mới gọi là có nhận thức chung.
“……hai bên nghiêm chỉnh tuân thủ thỏa thuận và nhận thức chung….hiệp thương hữu nghị”. Được hiểu rằng, từ nay về sau những sự kiện xảy ra cho dẫu là do Trung Cộng gây ra, hai bên vẫn giải quyết như đã thỏa thuận từ nhận thức chung.

“…. Giải quyết các vấn đề . dễ trước khó sau… Tích cực thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực ít nhạy cảm…” Được hiểu là, nếu như Trung Cộng cùng lúc lấn chiếm Trường Sa với rượt đuổi ủi chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, thì giải quyết vụ tàu cá trước, còn vụ lấn chiếm Trường Sa thì từ từ giải quyết theo “đại cục, hòa bình hữu nghị”. Cách giải quyết này đã xảy ra hồi năm 1988, cứ mỗi lần quân Trung Cộng lấn chiếm 1 đảo trong quần đảo Trường Sa, thì Trung Cộng với Việt Cộng đồng ý giải quyết trong hòa bình hữu nghị trên căn bản lấy “đại cục” làm trọng, đề rồi lần lượt 8 đảo vào tay Trung Cộng. Lấy “đại cục với hòa bình hữu nghị” giải quyết những vấn đề trong bang giao giữa hai nước là như vậy đó. Cách này cũng tương tự như ông Trương Tấn Sang đã tuyên bố trước khi rời Việt Nam sang Bắc Kinh, là Việt Nam vẫn “trước sau như một” trong bang giao với Trung Cộng, được hiểu là hôm qua như thế nào thì hôm nay và ngày mai, Việt Nam cũng như vậy.

Và nguyên tắc thứ 6 là “…. Hai bên đồng ý thiết lập đường dây nóng …” Được hiểu là, khi có “đường dây nóng” thì những sự kiện xảy ra trên biển giữa hai nước, sẽ giải quyết nhanh chóng. Nhưng thực tế trong 5 năm qua, hằng trăm vụ xảy ra trên vùng biển Việt Nam do chính Trung Cộng gây ra, và tất cả thiệt hại đều ở phía Việt Nam, nhất là ngư dân. Bây giờ Trung Cộng nói đến “đường dây nóng” để giải quyết những vấn đề trên biển, có vẻ như họ ra cái điều tử tế với Việt Nam hay sao ấy? Nhưng đã là cộng sản, làm quái gì có người cộng sản tử tế, chỉ cần sự công bằng cũng không có thì làm sao nói đến hành động tử tế cho xã hội, tử tế trong bang giao quốc tế, vì bản chất của cộng sản là dối trá mà. Thôi thì hãy ráng chờ xem những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi tàu cá Việt Nam sẽ giải quyết ra sao với đường dây nóng mà ông Sang với ông Bình thỏa thuận.

Ngày 21/6/2013. Kết thúc chuyến công du, bản Tuyên Bố Chung do ông Trương Tấn Sang với ông Tập Cận Bình cùng ký ngày 21/6/2013. Mở đầu vẫn là 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, và tinh thần 4 tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Đoạn này cũng là đoạn mở đầu ở nguyên tắc số 1 trong 6 nguyên tắc mà ông Sang thỏa thuận ngay sau khi ông đến Bắc Kinh. Chỉ trong một chuyến đi mà có đến 2 bản văn ghi đầy đủ 16 chữ vàng và 4 tốt, phải chăng đó là “mệnh lệnh” của lãnh đạo Trung Cộng buộc lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải thực hiện?

Ông Bùi Tín, trong bài viết ngày 1/7/2013, nhận định “Chưa bao giờ có sự đầu hàng nhanh chóng và nhục nhã đến như vậy”. Tác giả viết tiếp: “Mọi người Việt Nam yêu nước, không thể không bàng hoàng và phẫn nộ khi đọc kỹ văn kiện nói trên, không thể không nhận định đây là một văn kiện tuyên bố đầu hàng bọn bành trướng và xâm lược phương Bắc. Chắn chắn cả Bộ Chính Trị 16 người, đã được thông báo và đồng tình với bản Tuyên Bố Chung thảm hại này”. Tác giả nhấn mạnh: ”Đọc thật kỹ bản Tuyên Bố Chung, có thể dễ dàng nhận ra nó được phía Trung Hoa khởi thảo, và phía Việt Nam hoàn toàn không được đóng góp hay thay đổi gì hết. … Hoàn toàn phản ảnh tham vọng bành trướng và xâm lược của đế quốc cộng sản Đại Hán Trung Hoa đối với đất nước Việt Nam, … biến nhà nước Việt Nam cộng sản thành một chư hầu, biến Việt Nam cộng sản thành một thuộc địa kiểu mới của họ, với sự tiếp tay của nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam bất tài, tham nhũng, và thoái hóa đến cùng cực”.

Ông Bùi Tín lần lượt đi sâu vào bản văn đó. Xin tóm tắt: “Bản Tuyên Bố Chung có 8 điểm, riêng điểm thứ 3 có đến 13 mục nói đến quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện song phương giữa hai đảng, hai ban đối ngoại, hai ban tuyên huấn, hai bộ ngoại giao, hai quân đội, và giữa hai bộ quốc phòng, về công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội, trong đào tạo sĩ quan, trong tuần tra chung ở vùng biên phòng đất liền, về thực thi pháp luật, an ninh, về trật tự an toàn xã hội, về an ninh biên giới, và an ninh trên biển…”.

Các Anh có thấy 2 chữ “song phương giữa hai đảng” không? Nó được hiểu là, hồ sơ Biển Đông sẽ đóng khung giữa Trung Cộng với Việt Cộng. Đó là sự thỏa thuận đưa Việt Nam tự mình cô lập với thế giới bên ngoài trên hồ sơ này. Vậy là Việt Nam “sẽ chết” bởi Trung Cộng trong tầm mắt! Chỉ vì nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài mà dân tộc Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa đến nay, chưa bao giờ phẫn uất trong đau khổ đến như vậy! Đau khổ, phẫn uất đến mức chỉ đứng nhìn mà “chờ chết”, chớ không được phép yêu nước bằng cách chống lại Trung Cộng dù chỉ mít tinh biểu tình, hoặc phơi trải nỗi đau trên trang blog góp phần tranh đấu giành quyền sống cho đồng bào!
“…. Bản Tuyên Bố còn nhấn mạnh đến mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa 7 tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam gồm: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, với 3 tỉnh tự trị của Trung Cộng là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, và đảo Hải Nam. Cùng phát huy vai trò của cơ chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước; tập trung thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, cơ sở hạ tầng giao thông, khoa học, giáo dục, văn hóa, y tế… thúc đẩy các tỉnh cũng như khu tự trị biên giới hai nước cùng phát triển...”

Liệu, thỏa thuận này có phải trong mưu đồ của Trung Cộng chia cắt vùng này thành những khu vực nhỏ bằng hệ thống giao thông để lấn chiếm dọc biên giới Việt Nam từ những lãnh vực sinh hoạt thường ngày, đến mức khi nhận ra thì quá trễ chăng?
Tương tự nhận định của tác giả Bùi Tín, cựu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một thời là đại sứ Việt Nam tại Trung Cộng, nhận định ngắn nhưng đủ nghĩa: “Hoàn toàn lợi cho Trung quốc”.
Trong khi nhận định của Khối 8406 như một lời than cho số phận dân tộc Việt Nam: “29 chữ nhất trí, và 7 chữ toàn diện” trong một bản Tuyên Bố Chung trên mấy trang giấy thì không thể khá được!”
Với giáo sư Ngô Vĩnh Long khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Trọng Nghĩa đài Á Châu Tự Do, thì: “Nội dung bản Tuyên Bố Chung là bước lùi chiến thuật của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc, vốn không muốn đề cập đến các vấn đề đa phương trong một văn kiện đúc kết một chuyến thăm mang tính chất song phương”.
Các Anh hãy nhớ lại, khi mà những nhà lãnh đạo Các Anh từ Bộ Chính Trị, Chánh Phủ, các Bộ, các Tỉnh/Thành, xuống đến Quận/Huyện, Phường/Xã, khi họ nói hay đọc diễn văn đều dài lòng thòng mà tôi nghĩ là chính họ cũng không biết họ đã nói gì nữa, vì quanh đi quẫn lại vẫn là những nhóm chữ: Các ý tưởng tốt đẹp, các tổ chức hiệu quả, các chỉ chị đúng đắn, tôn trọng hòa bình hữu nghị, tăng cường đối tác hợp tác ..v..v.., như trong bản Tuyên Bố Chung này, nhưng lại không có chữ nào nói đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cũng không nói đến những vụ tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm tàu cá ngư dân Việt Nam! Vậy, Các Anh có cảm nhận nỗi đau của người Việt Nam luôn bị Trung Cộng “đàn áp” từ suy nghĩ đến hành động, trong khi lãnh đạo đảng với nhà nước có quá lắm cũng chỉ một bản tin phản đối là phủi tay?

Thêm nữa, những sự kiện mà Trung Cộng lấn áp đảng cộng sản Việt Nam và lấn chiếm đất liền biển đảo Việt Nam từ sau chiến tranh biên giới đầu năm 1979 đến nay, lãnh đạo cộng sản Việt Nam không thể phủ nhận là họ không phụ thuộc lãnh đạo Trung Cộng trong bang giao giữa hai nước cộng sản, vì: “Năm 1988, lần lượt 8 đảo trong quần đảo Trường Sa bị Trung Cộng chiếm. Giữa năm 2011, tài liệu mà Wikileaks công bố, đã khẳng định tin tức dưới đây trong số 3.100 bức điện đánh đi từ cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ tại Hà Nội và Sài Gòn gửi về chính phủ Hoa Kỳ. Trong đó có “biên bản” cuộc họp giữa Nguyễn Văn Linh Tổng Bí Thư đảng cộng sản và Đỗ Mười Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện lãnh đạo cộng sản Việt Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, và Thủ Tướng Lý Bằng, đại diện lãnh đạo cộng sản Trung Hoa, trong ngày 3 & 4/9/1990 tại Thành Đô của Trung Cộng, có đoạn: “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Hoa giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí công xây đắp trong quá khứ, và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Hoa để Việt Nam được hưởng quy chế “khu tự trị” trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Hoa đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Hoa đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt Nam trong 30 năm (1990-2020) để đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Hoa”. Ngày 30/12/1999, 789 cây số vuông dọc theo biên giới do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Ngày 25/12/2000, 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt do Việt Cộng giao cho Trung Cộng. Tháng 11/2007, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác. Ngày 3/4/2009, Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, nhận định: “Trung Hoa vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế cả ba nước Việt Nam, Lào, và Campuchia. Bởi vì, Trung Hoa đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri của Kampuchia, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm. Và họ cũng đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia”. Ngày 31/8/2011, Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương dọc biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc với trên 1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền đất nước Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay và đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng. Và ..v..v..”

Vớ nhận định của tôi, là từ khi có đảng cộng sản đến nay, dân tộc Việt Nam phải gánh chịu hậu quả chưa bao giờ có trong lịch sử do sai lầm của lãnh đạo cộng sản, từ “bác” Các Anh, lần lượt qua từng nhóm lãnh đạo, đến Bộ Chính Trị đương nhiệm hiện nay. Rồi đây, họ khó mà tránh được lịch sử ngàn đời sẽ nguyền rủa họ và những người trong dòng họ của họ, đã trực tiếp tạo nên một giai đoạn lịch sử đen tối nhất của dân tộc Việt Nam!.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa phơi trải bên trên?
Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt đời thường của xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết. Vì vậy mà Các Anh khó nhận ra, thậm chí là không thể nhận ra những điều tồi tệ của lãnh đạo cộng sản, nhất là mức độ tồi tệ trong giáo dục học đường và giáo dục xã hội đã dẫn đến một xã hội băng hoại như hiện nay. Đây là nỗi đau lớn hơn bất cứ nỗi đau nào khác, vì thời gian khôi phục lại một xã hội nhân bản theo nếp sống văn hóa dân tộc, ít nhất phải hai thế hệ, hay là 50 năm sau!

Các Anh hãy đọc phần nhận định của cố Trung Tướng Trần Độ có 58 tuổi đảng, đã một thời thay mặt Đảng lãnh đạo văn nghệ. Quan điểm của ông trong nhật ký “Rồng Rắn” năm 2000, như sau: “Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết. Văn hóa mà chỉ có văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết. Càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp". Cũng từ đó mà ông bất mãn vì lãnh đạo không chấp nhận quan điểm của ông, và ông bị khai trừ khỏi đảng từ ngày 4/1/1999. Trung Tướng Trần Độ của Các Anh, là một trong những đảng viên thức tỉnh, nhận ra độc tài là một chế độ dối trá, mà dối trá thì đưa dân tộc vào nền văn hoá chết, văn hoá chết thì còn gì để gọi là con người có văn hoá trong thế giới văn minh lịch sự!
Sau khi Các Anh nghiền ngẩm đoạn trên, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

Texas, tháng 8 năm 2013

tieuchuy
09-12-2013, 11:35 PM
Thư số 22a gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam, cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này “xem như” Các Anh cùng tôi đang có mặt tại Hoa Kỳ trong những ngày ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa Các Anh tại đây, để theo dõi những hoạt động của ông Chủ Tịch Sang, đồng thời Các Anh cũng “thấy được” thái độ của Cộng Đồng chúng tôi tị nạn cộng sản đối với sự có mặt của ông Sang, người thay mặt nhóm lãnh đạo cộng sản độc tài, đã tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc “đến” xã hội băng hoại, hóa ra đó là xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là băng hoại về giáo dục. “Cũng nhờ” nền giáo dục băng hoại mà đại đa số lãnh đạo các cấp trên dưới ngang dọc đều có bằng cử nhân giả, thạc sĩ giả, tiến sĩ giả. Từ đó, Các Anh sẽ nhận ra kiến thức chính trị ngoại giao của ông Chủ Tịch Sang và ông Thứ Trưởng Ngoại Giao tệ đến mức nào.

Thứ nhất. Ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang công du Hoa Kỳ.

Ông Trương Tấn Sang, Chủ Tịch nước Việt Nam công du Hoa Kỳ sau 2 tuần lễ chuẩn bị. Phái đoàn tháp tùng ông, gồm có: 3 Bộ Trưởng. 4 Thứ Trưởng. 4 viên chức của Quốc Hội, thành phố, tỉnh. Thư Ký của ông Sang + Công An + mật vụ + cận vệ. Còn có đại diện tôn giáo quốc doanh, gồm: 1 Linh mục, 1 Hòa thượng, và 2 Mục sư.

Ngày 24/7/2013. Ông Trương Tấn Sang đến phi trường quân Sự Andrew Air Force Base, ngoại ô thủ đô Hoa Thịnh Đốn. Chỉ có ông David Shear, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, trở về Mỹ để đón ông Chủ Tịch nước Việt Nam. Ngoài ông Đại sứ ra, không một viên chức nào đại diện Tổng Thống, cũng không vị Bộ Trưởng nào thay mặt chánh phù, thậm chí cũng không vị nào đại diện Bộ Ngoại Giao có mặt. Không một lằn thảm dưới chân ông Sang bước, không có đoàn quân để ông Sang duyệt, không một phát đạn đại bác chào mừng ông, không có lá cờ đỏ sao vàng để ông Sang chào, cũng không có phóng viên ngoại quốc nào chụp hình ông Sang đăng báo.. Cho đến lúc ấy, chưa có vị lãnh đạo quốc gia nào đến thăm Hoa Kỳ mà “được đón tiếp” như trường hợp ông Chủ Tịch nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, một chế độ không tôn trọng nhân quyến, không tôn trọng các Công Ước quốc tế mà họ đã ký, họ cũng không tôn trọng Hiến Pháp của chính họ, thậm chí họ cũng không tôn trong họ vì bản chất dối trá của đảng cộng sản đã thấm sâu trong dòng máu họ, và dối trá của họ đã loang đến mọi ngóc ngách xã hội đến mức mà mọi người phải sống với nhau bằng dối trá.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028435.jpg

Cũng hôm ấy, ông John Kerry, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ mời ông Sang ăn trưa, và đây là bữa ăn duy nhất trên phương diện chánh phủ trong hai ngày ông có mặt nơi đây.

Phái đoàn tháp tùng ông Trương Tấn Sang ở trong khách sạn Mariott. Nhiều phóng viên theo thu hình và phỏng vấn Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản đang đông đảo trước khách sạn, nhưng ít người biết đến chuyện đang diễn ra bên trong khách sạn. Chuyện là một phụ nữ, một tay cầm chiếc nón lá, tay kia cho vào bên dưới nón lá lấy ra xấp giấy, nhanh tay trao cho người trong phái đoàn. Nội dung xấp giấy đó nói gì? Dĩ nhiên là nói đến tình trạng tồi tệ về nhân quyền tại Việt Nam, cộng với Quyết Định 72 mà Nguyễn Tấn Dũng của Các Anh vừa ban hành, càng làm tồi tệ thêm nữa. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến 11.000 lá thư của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ nhiều nơi trên thế giới, gởi đến văn phòng Tổng Thống Hoa Kỳ, kiến nghị Tổng Thống quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam khi hội đàm với Chủ Tịch Trương Tấn Sang.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028492.jpg

Ngày 25/7/2013. Khoảng 9 giờ 30 sáng, công viên LaFayette trước Tòa Bạch Ốc, Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản từ nhiều tiểu bang qui tụ về đây để “dàn chào” ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang. Ngoài phóng viên của báo chí và các đài truyền hình Việt ngữ có mặt, còn có phóng viên đài phát thanh Á Châu Tự Do (RFA) và đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA). Cảnh Sát phụ trách an ninh tại đây ước lượng có khoảng 1.500 người có mặt, với một rừng quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ, chen lẫn với nhiều biểu ngữ phản đối Việt Nam vi phạm nhân quyền, yêu cầu trả tự do cho những người yêu nước chống Trung Cộng lấn chiếm Việt Nam mà bị bắt vào tù, phản đối chánh phủ tàn bạo với dân nhưng hèn hạ với Trung Cộng .. Nhiều biểu ngữ khác, phản đối Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028492.jpg

Đoàn tùy tùng xuống xe đi bộ vào cổng sau, xe của ông Trương Tấn Sang vào cổng chánh, và đoàn biểu tình vừa phất cao quốc kỳ cùng với biểu ngữ, vừa hô to những khẩu hiệu: Trương Tấn Sang Go Home. Trương Tấn Sang cút về nước. Freedom for VietNam. Tự Do Cho Việt Nam. Democracy for Vietnam. Dân Chủ Cho Việt Nam. Human Rights for VietNam. Nhân Quyền Cho Việt Nam.... Tiếng hô đả đảo ông Trương Tấn Sang càng lúc càng lớn, vang rền công viên LaFayette. Tiếp theo là chương trình ca nhạc tranh đấu với nhạc sĩ Trúc Hồ, với đông đảo ca sĩ của Trung Tâm Asia, chen lẫn vào đó là phát biểu của Cộng Đồng các Tiểu Bang. Cùng lúc ấy, nhiều người phân phát những trang giấy, giải thích lý do cuộc biểu tình với rất nhiều khách du lịch và người Hoa Kỳ đứng xem. Khi hiểu được mục đích, nhiều người Hoa Kỳ đã nhập cuộc với Cộng Đồng tị nạn cộng sản chúng tôi, họ xin cầm tay những biểu ngữ ủng hộ nhân quyền, ủng hộ tự do cho Việt Nam, và kêu gọi nhà nước Việt Nam trả tự do cho Blogger Điếu Cày. Trong số đó có ba phụ nữ Hoa Kỳ, đã vul vẽ cầm biểu ngữ đòi nhân quyền và ủng hộ Blogger Điếu Cày. Họ nói lý tưởng của họ là bảo vệ nhân quyền, nên họ ủng hộ đoàn biểu tình. Khi được hỏi “tại sao họ hân hoan nhập đoàn biểu tình?” Họ lần lượt trả lời.
Cô Katy vừa nói vừa chỉ vào hình blogger Điếu Cày (bản dịch của VietTide): “Tôi đi qua đây, được một phụ nữ dễ thương nói cho tôi biết về ông Điếu Cày, và ông ấy đang tuyệt thực trong 30 ngày qua. Ông là một người viết blog cho Nhân Quyền, nên tôi phải bày tỏ ý kiến về điều gì đó, do đó tôi có mặt ở đây”.
Cô Amber: "Tôi cũng vậy. Tôi ở đây vì ông ấy đang tuyệt thực và tôi có mặt để ủng hộ ông ấy”.
Cô bé Kiana (con gái cô Katy): “Tôi cũng ở đây vì cùng một chuyện. Thật buồn là chuyện ấy xảy ra cho Nhân Quyền ở Việt Nam”.
Theo Blog Người Buôn Gió tức Bùi Thanh Hiếu, thì trước ngày ông Sang rời Việt Nam, ông ấy hỏi Bộ Ngoại Giao là “người Việt hải ngoại có khả năng biều tình mạnh không?” Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn báo cáo: "Còn ai chống cộng nữa mà đi biểu tình. Có quá lắm là vài chục tên ngo ngoe với cờ xí thôi". Không ngờ ông Trương Tấn Sang bị cả mấy ngàn ngưới đã đảo và mất mặt với Tổng Thống Obama. Cho nên khi về tới Hà Nội, ông Sang đã hỏi tội Bộ Ngoại Giao về việc báo cáo không đúng.

Buổi hội đàm diễn ra tại phòng bầu dục trong tòa bạch ốc, dự trù 45 phút nhưng thực tế là 75 phút. Trong khung cảnh của chế độ dân chủ tự do, ông Chủ Tịch Việt Nam bình tỉnh khi thảo luận với Tổng Thống Hoa Kỳ, hoàn toàn khác với khung cảnh khi ông Chủ Tịch Việt Nam của chế độ độc tài đàn em, gặp ông Chủ Tịch Tập Cận Bình chê độ độc tài đàn anh hồi tháng 6/2013.
Ông Trương Tấn Sang nói với Tổng thống Hoa Kỳ rằng “Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để bảo vệ và cổ võ nhân quyền, nhờ vậy mà người dân được hưởng những thành quả tốt đẹp nhất của tiến trình cải cách hiện còn đang diễn tiến”.
Tôi nghĩ là dụng ý của ông Sang khi mang theo 4 vị đại diện tôn giáo quốc doanh, để giúp ông mạnh miệng “khoe” với lãnh đạo Hoa Kỳ, là nước Việt Nam do cộng sản lãnh đạo có nhân quyền, có tự do tôn giáo.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028669.jpg

Khoảng 10 ngày sau ngày ông Sang “mạnh miệng” nói với Tổng Thống Obama về nhân quyền và tôn giáo. Ngày 6/8/2013. Quí vị lãnh đạo tôn giáo Cao Đài, Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Thiên Chúa, và Tin Lành tại Việt Nam, đồng ký tên Bản Tuyên Bố, phản đối Chủ Tịch Trương Tấn Sang trong chuyến công du Hoa Kỳ, nói với Tổng Thống Hoa Kỳ rằng: “Chánh phủ Việt Nam nỗ lực bảo đảm quyền tự do tôn giáo và tiếp tục cam kết ủng hộ các Công ước quốc tế về quyền con người.” Nội dung Bản Tuyên Bố khẳng định: “Các quyền tự do căn bản của con người vẫn thường xuyên bị chà đạp, số tù nhân lương tâm không ngừng gia tăng, quyền tự do thông tin của người dân không ngừng bị cản trở mà một bằng chứng cụ thể nhất là Nghị định 72 về quản lý internet mới ban hành”.
Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng, Quản Nhiệm Hội Thánh Tin Lành Mennonite, một trong những vị ký tên trong Bản Tuyên Bố, nói với đài VOA Việt ngữ rằng: “Trong thời gian qua, nhà nước Việt Nam có nhiều vụ đàn áp tôn giáo, và sự đàn áp càng ngày càng gia tăng. Trong chuyến công du Mỹ vừa qua, Chủ Tịch nước Trương Tấn Sang nói Việt Nam có cải thiện nhân quyền, nhưng thực sự mà nói còn tồi tệ hơn nữa.... Những vị ký tên trong Bản Tuyên Bố, yêu cầu nhà nước Việt Nam chứng minh lời nói bằng hành động cụ thể nhất, bằng hành động phóng thích các tù nhân lương tâm và tù nhân tôn giáo, đồng thời hủy bỏ Nghị Định 72 ngăn cấm công dân không được chia sẻ tin tức trên các trang mạng xã hội”.
Nhận định của tôi. Nói một đằng làm một nẻo là dối trá. Đảng dối trá, nhà nước dối trá, giáo dục dối trá, truyền thông dối trá, dẫn đến một xã hội dối trá, là nét đậm trong bản chất của cộng sản. Tôi tin là ông Obama thừa hiểu bản chất đó, vì với 58.000 chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trên chiến trường Việt Nam, đã cung ứng bài học kinh nghiệm quý báu về cộng sản cho Tổng Thống của họ.
Cuối buổi hội đàm, ông Chủ Tịch nước Việt Nam nói lời cám ơn Tổng Thống Obama: “Chúng tôi chân thành cảm ơn sự chăm sóc chu đáo của chính phủ Hoa Kỳ đối với người Mỹ gốc Việt trong suốt mấy mươi năm qua. Chúng tôi cũng thành thật cảm ơn Tổng Thống, nhân dân Mỹ đã giúp đỡ người Việt rất nhiều, hầu hết đa số những người Việt đã hết sức thành đạt, kể cả những hoạt động chính trị. Tôi mong muốn bà con người Việt đang sinh sống và làm việc tại Hoa Kỳ sẽ là một chiếc cầu vững chắc nối liền sự phát triển mạnh mẽ của 2 nước trong tương lai.”
Tôi nghĩ, khi ông Sang nhìn thấy rừng cờ vàng với hằng ngàn người đả đảo ông, còn một loạt biểu ngữ thì phản đối nhân quyền tồi tệ do ông lãnh đạo, ông bèn tự hỏi: “Phải chăng thằng Sơn là phe thằng đồng chí X nên nó chơi xỏ cho mình mất mặt với ông Obama. Về tới Hà Nội là mầy biết tay tao. Nhưng mà ngay bay giờ, mình phải nói gì với ông Chủ Nhà, chớ chẳng lẽ làm thinh càng thêm mất mặt ...”.
Các Anh có hình dung là ông Sang đang lo sợ đồng chí X của ổng có thêm vây cánh, nên ổng vội vàng nói câu cám ơn với ông Obama thật “lãng xẹt”. Lẽ ra tôi phải nói là trơ trẽn mới đúng, vì cái đảng cộng sản độc tài, dối trá, trấn áp cướp đoạt tài sản đất đai nhà cửa sau khi chiếm Việt Nam Cộng Hòa, là nguyên nhân mà gần hai triệu người Việt Nam chấp nhận rời khỏi quê hương, vượt lên sự chết để tìm sự sống tại các quốc gia dân chủ tự do với cái giá phải trả là gần 500 ngàn người đã mất xác trên biển! Bây giờ ông Sang ra cái điều như đang ôm những người sống sót trên biển, sống sót trong hơn 200 trại tập trung, được thế giới công nhận là Cộng Đồng tị nạn cộng sản và tiếp nhận hỗ trợ cho cuộc sống mới bắt đầu.
Từ đó, Cộng Đồng tị nạn cộng sản vươn lên nhanh chóng, đến mức mà lãnh đạo Các Anh phải mấy lần hạ giọng thay đổi cách gọi chúng tôi: “Ngay từ năm 1975, gọi chúng tôi là “bọn ngụy quân ngụy quyền, bọn phản quốc, bọn đĩ điếm lưu manh, bọn cặn bả rác rưởi xã hội”. Từ năm 1991, khi thấy Cộng Đồng chúng tôi vươn lên các phương diện, và gởi tiền về giúp thân nhân, họ hạ giọng gọi chúng tôi là “Việt kiều yêu nước”. Từ năm 2004, lãnh đạo Các Anh qua Nghị Quyết 36 lại hạ giọng thêm nữa để gọi chúng tôi “là bộ phận không tách rời, và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa nước ta với các nước”. Năm 2007, ông Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết khi thăm Hoa Kỳ, hạ giọng thấp thêm nữa để gọi chúng tôi là “khúc ruột ly hương ngàn dăm”. Chính vì vậy mà ông Sang muốn lấy lòng Cộng Đồng tị nạn cộng sản, nhưng lại nói một câu thật trơ trẽn. Đường đường là Chủ Tịch một nước mà ăn nói không ra gì trước mặt Tổng Thống Hoa Kỳ. Theo Các Anh thì đó là điều đáng tiếc, hay là điều sỉ nhục đồng bào trên quê hương?
Khi thuận tiện, tôi nhờ Các Anh chuyển lời tôi nhắn đến ông Sang giùm: “Chào ông Sang, chúng tôi không hận thù các ông đâu, nhưng không bao giờ quên những gì trong quá khứ và hiện tại mà các ông đã gây ra cho dân tộc. Các ông đã cắt xén tổ quốc dâng cho Trung Cộng, và đang chuẩn bị đưa dân tộc vào sự thống trị trực tiếp của Trung Cộng qua từng giai đoạn 20 năm: 2020, năm 2040, và hoàn tất vào năm 2060. Các ông đừng mong đợi gì ở mấy triệu người Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, trừ phi các ông can đảm, đứng thẳng người, và làm nên lịch sử như ông Gorbatchev của Nga năm 1991. Tôi nói không hận thù các ông. Đúng vậy. Vì trong lòng cứ nuôi hận thù thì không bao giờ đầu óc thanh thản để có được những suy nghĩ, những ý tưởng vượt lên mọi khó khăn để biến đổi xã hội tốt hơn, mà chỉ quanh quẩn trong cái vòng thù hận và tìm cách trả thù, trả thù. Tôi xin ông vui lòng chuyển giúp lời nhắn này đến ông Nguyễn Thanh Sơn, Thứ Trưởng Ngoại Giao của ông . Xin cám ơn, và chúc ông “bình an trên đường về”.

Và đây, Các Anh xem bài tổng kết chuyến công du Hoa Kỳ của ông Chủ Tịch nước Việt Nam về phía truyền thông, tác giả Bùi Văn Phú cho biết:
“Chuyến đi Mỹ của Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang hôm 25/72013 là một chuyến đi vội vã. Truyền thông Hoa Kỳ không đưa tin hàng đầu vì không có gì đặc biệt trong phát triển bang giao, hai quốc gia cũng không có những hợp đồng thương mại được ký kết. Tờ báo tài chánh có đông độc giả nhất là Wall Street Journal đưa tin chưa đến 100 chữ trong cột tin vắn nơi trang A8. Những gì ông Sang đem về chỉ là lời hứa của Tổng thống Barack Obama sẽ tăng cường bang giao toàn diện giữa hai nước, đồng thời thúc đẩy thương thảo với hy vọng cuối năm sẽ ký Hiệp ước Đối Tác Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương. Vỏn vẹn chỉ có thế. Khoảng cách lớn giữa hai lãnh đạo là tình trạng nhân quyền. Ông Obama nói Hoa Kỳ tin rằng, mọi người có quyền tự do phát biểu, tôn giáo và hội họp. Trong khi ông Sang cho biết, hai bên còn khác biệt.... Cuộc hội kiến giữa Tổng Thống Obama với Chủ Tịch Trương Tấn Sang, cũng không có tin trên trang nhất của báo New York Times. Tại miền tây, tờ Mercury News ở San Jose, nơi có đông người Việt sinh sống, cũng chỉ đưa tin nơi trang trong. Trong khi đó, tờ Los Angesles Times lại viết về những nỗ lực tranh đấu cho nhân quyền của người Mỹ gốc Việt. Riêng báo Washington Post ngày 25/7/2013, có trang quảng cáo về diễn tiến bang giao Việt-Mỹ do tòa đại sứ Việt Nam bỏ tiền ra đăng.

Tôi nghĩ là Các Anh sống trong xã hội chủ nghĩa từ khi chào đời, chỉ nhận biết báo chí truyền thanh truyền hình, nói chung là truyền thông của đảng, do đảng lãnh đạo. Đảng muốn cho dân biết dân nghe dân thấy điều gì, thì truyền thông phải thi hành lệnh của đảng. Nhưng truyền thông trong xã hội dân chủ pháp trị -mà Hoa Kỳ là điển hình- thì ngược lại. Tất cả phương tiện truyền thông đều là tư nhân, và là tiếng nói của người dân, của những tổ chức không thuộc chánh phủ.

Thứ hai. Ngôn ngữ từ trong hai tấm hình.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028789.jpghttp://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379028824.jpg

Dưới đây là bài viết “Hai bức ảnh nói lên nhiều điều” của tác giả Bùi Tín ngày 30/7/203.

“Tấm hình thứ nhất, Tổng thống Barack Obama tiếp bà Aung San Syu Kyi hồi tháng 9/2012, khi Bà đến thăm và phát biểu tại Quốc Hội Hoa Kỳ. Tại đây, Bà được trao tặng Huy chương Vàng (Congressional Gold Medal), là huy chương cao quý nhất của Quốc Hội dành cho một nhân vật dân sự. Nhìn tấm hình, dễ dàng nhận ra nét mặt cả chủ lẫn khách đều tươi tắn, thân mật, tuy là lần đầu hai vị gặp nhau trên chính trường. Tổng thống Obama đã gắn lên áo Bà Aung San Syu Kyi chiếc Huân Chương Tự Do.

Tấm hình thứ hai, Tổng thống Obama tiếp Chủ Tịch Trương Tấn Sang ngày 25/7/2013. Sau cuộc hội đàm và ra tuyên bố chung, ông Sang nói lời “cám ơn Tổng thống Obama đã cưu mang chăm sóc bà con người Mỹ gốc Việt”. Rõ ràng là ông Obama đã không che giấu nổi ánh mắt ngạc nhiên về câu nói của ông Sang. Rồi ông kéo ống tay áo lên cao, để lộ mặt đồng hồ cho ông Sang thấy, như nhắc khéo ông Sang “là hết giờ”, hoặc là “tôi còn việc khác” nữa..
Lúc ấy khoảng 30 phóng viên quốc tế có mặt, với những đôi mắt tinh ranh của nhà báo, họ dễ dàng nhận ra dáng ngồi với nét mặt hai vị lãnh đạo quốc gia. Nét mặt bực mình của Tổng Thống Hoa Kỳ hiện rõ bao nhiêu, thì nét mặt ông Sang càng hiện ra nét bẽ bàng bấy nhiêu....”

Và hai tấm hình, tự nó nói lên những điều trái ngược trong bang giao quốc tế. Các Anh hãy nhớ rằng, Bà Aung San Syu Kyi là nhà hoạt động dân chủ tự do, và Bà đang đóng góp rất quan trọng vào công cuộc chuyển sang chế độ dân chủ tự do mà chánh phủ Miến Điện đang thực hiện khá nhanh. Trong khi, ông Trương Tấn Sang là Chủ Tịch nước Việt Nam cộng sản độc tài.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa tường thuật, vừa phân tách và giải thích bên trên?
Tôi thông cảm Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản loang đến mọi ngóc ngách trong xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng, từ lúc nào không ai biết.
Sau khi Các Anh đọc xong những trang thư vừa rồi, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).

Texas, tháng 8 năm 2013

tieuchuy
09-12-2013, 11:51 PM
Thư số 22b gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
*****
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này giúp Các Anh nhận rõ thêm về lãnh đạo Các Anh ban hành luật pháp ngược lại Hiến Pháp, rồi căn cứ theo đó mà sử dụng Công An với côn đồ thường xuyên trấn áp toàn xã hội, đặc biệt là giới Blogger và những nhà báo ngoài đảng, dẫn đến bản Tuyên Bố 258 ra đời. Ở phần cuối, là phiên tòa phúc thẩm hai bạn trẻ yêu nước là Phương Uyên và Nguyên Kha. Tuyên Bố 258 và phiên tòa phúc thẩm, cho thấy tuổi trẻ Việt Nam yêu nước rất khôn ngoan và dũng cảm khi tranh đấu cho Nhân Quyền, nhờ vậy mà quốc tế càng quan tâm hơn.

Thứ nhất. Quyết Định 72 của chánh phủ.

Theo phóng viên Mặc Lâm trong bản tin ngày 8/8/2013 từ đài phát thanh Á Châu Tự Do, hai blogger Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào bị bắt. Nhà nước Việt Nam vận dụng Điều Luật 258 để tống giam hai người mà không công bố là họ bị tội gì. Thực tế thì họ là những nhà báo giỏi, nhưng khi Internet tiến vào Việt Nam thì cả hai đều bỏ làm báo và viết blog, một hình thức thoát khỏi sự kềm kẹp của nền báo chí trong tay đảng để viết những gì mà họ nghĩ là nên viết.
Trước đó, nhà nước đã áp dụng Điều 258 với nhà báo Phạm Chí Dũng. Ông Dũng bị bắt trong một tình trạng hoàn toàn bí mật. Việc bắt ông tạo ra một màn sương mù dư luận và hàng chục nghi vấn bao trùm trên báo ngoài đảng. Cho tới khi ông được trả tự do, người ta mới biết là ông đã bị buộc vào tội vi phạm Điều 258, và lý do mà ông được trả tự do vì cơ quan điều tra nhận thấy ông không vi phạm như cáo buộc khi bị bắt.

Vậy, Điều 258 nói gì? Điều 258 Bộ Luật Hình Sự quy định tội danh “lợi dụng các quyền dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước”.
Khi tuổi trẻ yêu nước chống đối Điều 258 Bộ Luật Hình Sự ngày càng cao, thì nhà nước vội vã ban hành Nghị Định 72 ngày 15/7/2013, và sẽ hiệu lực từ ngày 1/9/2013. Đây là văn kiện như một câu trả lời cứng rắn trước đòi hỏi chính đáng của cao trào tranh đấu cho tự do ngôn luận có ghi trong Hiến Pháp. Nghị định 72 có 46 Điều trong 6 Chương, với mục đích chính là “ngăn cấm cung cấp tin tức tổng hợp”.

Vậy, “thế nào là tin tức tổng hợp?” Đó là những tin tức hay ý kiến quan trọng của báo chí hay cá nhân nào đó, mà blog hay Facebook mang vào trang cá nhân của mình để rồi sau đó hằnng ngàn người vào đọc. trong số hằng ngàn người đó, có nhiều người lấy ra đem post vào trang blog cá nhân của họ. Cứ như thế mà một bản tin hay một bài viết được nhân lên nhiều lần, thậm chí khi có tin tức quan trọng có thể hằng trăm ngàn lượt nguời vào đọc trong phút chốc. Nhờ vậy mà người dân quen dần với những bản tin trái ngược với báo chí của đảng.
Thời gian trước khi internet lan tràn đến giới trẻ Việt Nam, những bản án tối tăm của tòa án không được truyền thông của đảng đưa tin, thì hôm nay cả thế giới đều biết qua các trang blog và Facebook cá nhân. Các bài viết tường thuật những tồi tệ về dân chủ, về nhân quyền, về tham nhũng, về những hành động lạm dụng quyền hành của chánh phủ độc tài, sẽ nhanh chóng lan tỏa khắp nơi qua hệ thống truyền thông internet. Từ đó, những điều mà trước đây đảng với nhà nước nghiêm cấm, thì bây giờ không còn hiệu quả nữa. Với tình trạng vươn lên của các trang cá nhân trên internet, chínhi là sự thất bại của đảng với nhà nước Việt Nam.
Cũng vì vậy mà Nghị Định 72 hoàn toàn ngược lại các quyền tự do của công dân mà Hiến Pháp Việt Nam cũng như Công Ước quốc tế công nhận. Nói cách khác , Nghị Định 72 vi phạm Hiến Pháp.

Thứ hai. Phản ứng đầu tiên của giới Blogger.

Từ Paris, Tổ Chức Phóng Viên Không Biên Giới (Reporters sans Frontières), tố cáo Nghị Định 72 là “thêm một bằng chứng về thái độ thù địch với tự do truyền thông của nhà nước Việt Nam”.
Từ New York, Ủy Ban Bảo Vệ Các Nhà Báo (Committee to Protect Journalists), đã phổ biến Bản Tuyên Bố lên án Nghị Định 72 “chà đạp quyền tự do bất khả xâm phạm của những nhà báo độc lập, vi phạm các công ước quốc tế mà Việt Nam cam kết tôn trọng, cần phải bị hủy bỏ”.
Ngày 18/7/2013, nhóm bạn trẻ thuộc Mạng Lưới blogger Việt Nam khởi thảo bản văn, để nói lên nhận thức và quan điểm về Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72. Bản văn này là “Tuyên Bố 258”, có khoảng 70 chữ ký mà trong đó có những tên tuổi blogger được nhiều người biết đến, như: Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Thục Vy, J.B Nguyễn Hữu Vinh ... Những người ký tên bản Tuyên Bố 258 cho biết: “Sẽ tiếp tục truyền đạt đến người dân Việt Nam về các quyền của họ, bằng cách phân phối công khai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tổ chức các diễn đàn công khai để thảo luận về nhân quyền ở Việt Nam và vận động cho những sự cải thiện cần thiết trong việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền".

Số 258 là Điều 258 Bộ Luật Hình Sự, ghi tội danh là “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Đây là tội danh mà đảng với nhà nước Việt Nam đã sử dụng trong điều tra và xét xử nhiều blogger viết bài chống đối nhà nước độc tài tàn bạo với dân, nhưng khiếp nhược với Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam trong thời gian qua. Tuyên Bố 258 cũng kêu gọi nhà nước Việt Nam và Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xét lại để sửa đổi hoặc bỏ hẳn Điều 258 của Bộ luật Hình Sự năm 1999, sửa đổi năm 2009".
Vì nhà nước Việt Nam đang là ứng viên vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2014-2015, nên Tuyên Bố 258 còn là một đòi hỏi: “Nhà Nước Việt Nam phải chứng minh các cam kết hợp tác với Hội Đồng Nhân Quyền bằng hành động những chuẩn mực cao nhất để bảo vệ nhân quyền Việt Nam. Trước hết, nhân dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng, và quyền tự do truyền đạt tư tưởng”.

Thứ ba. Tuyên Bố 258 tại thủ đô Thái Lan.

Ngày 31/7/2013. Một nhóm 5 nam nữ thanh niên rất trẻ, đại diện “mạng lưới Blogger Việt Nam” là: Nguyễn Thảo Chi, Nguyễn Nữ Phương Dung (Sài Gòn), Nguyễn Anh Tuấn (Đà Nẵng), Nguyễn Lân Thắng (Hà Nội), và Phạm Đoan Trang (Hà Nội), sang Bangkok với mục đích tiếp xúc với các tổ chức Nhân Quyền Thế Giới có trụ sở tại thủ đô Thái Lan, để trao tận tay bản “Tuyên Bố 258” chống lại Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72.
Tại cơ quan đại diện Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Office of United Nations High Commissioner for Human Rights. OHCHR), gọi tắt là HĐNQLHQ, và tổ chức Quan Sát Nhân Quyền (Human Rights Watch), các bạn Blogger đã trao tận tay bản “Tuyên Bố 258”.
Cô Leong Tsu Quin, Cố Vấn của Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế (The International Commission of Jurists. ICJ) tại Bangkok, tiếp các bạn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam. Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế là một tổ chức qui tụ các Luật Sư, Luật Gia, Thẩm Phán, Giáo Sư Đại Học, ... quan tâm đến Nhân Quyền, và căn cứ vào công pháp quốc tế để bảo vệ những giá trị, những tiêu chuẩn tổng quát về Nhân Quyền.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379030000.jpg

Các bạn blogger đã trình bày với cô Leong Tsu Quin, đại diện của ICJ, về tình trạng nhà nước Việt Nam đàn áp các Blogger đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ của người dân, đã vi phạm những điều căn bản nhất của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Do đó, nếu Việt Nam trở thành thành viên của Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, sẽ làm giảm uy tín của Liên Hiệp Quốc.
Như những lần tiếp xúc với Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, Hội Bảo Vệ Ký Giả, Tổ Chức Quan Sát Nhân Quyền, Phóng Viên Không Biên Giới, tòa đại sứ Hoa Kỳ, tòa đại sứ Thụy Điển, các đại diện của Mạng lưới Blogger Việt Nam, khi trao bản Tuyên Bố 258, cũng nêu ý kiến là ICJ quan tâm hơn nữa về tình trạng Việt Nam vi phạm những Công Ước Quốc Tế về Nhân Quyền. Các blogger cũng đề nghị việc ICJ ra tuyên bố lên án Điều 258.
Cô Leong Tsu Quin đã tiếp nhận Tuyên Bố 258, và đánh giá cao việc blogger Việt Nam sang thăm văn phòng ICJ tại Bangkok. Cô cũng đã trình bày các hoạt động mà ICJ đã thực hiện để nâng cao năng lực Luật Sư Nhân Quyền Việt Nam, và cho biết ICJ quan tâm đặc biệt đến việc một số blogger có tên trong tuyên bố như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Phạm Văn Hải, ... đã từng bị tạm giữ chỉ vì đi phân phát bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Cô cho biết: “ICJ sẽ đưa ra lời tuyên bố trong thời gian thích hợp cũng như giúp các blogger Việt Nam gửi Tuyên bố 258 đến các tổ chức có quan hệ với ICJ trên thế giới”.
Cũng tại Bangkok, một số đại diện của tổ chức Goggle và Yahoo, đã tiếp xúc với những người trẻ này và nhận Bản Tuyên Bố 258. Blogger Nguyễn Anh Tuấn, một trong những thành viên của Nhóm, cho biết:
"Nội dung mà nhóm trao đổi với Google, thì mình cũng đã cam kết với người ta là tạm thời không tiết lộ về nội dung. Muốn thông báo điều gì chính thức thì phải cho người ta xem trước. Đại ý nội dung những lần gặp là cung cấp thông tin cho người ta để họ có thêm thông tin tại Việt Nam. Mình cũng giới thiệu cho họ biết về Đìều Luật 258. Như anh biết, Google không giống như các tổ chức nhân quyền khác, vì họ có những mục tiêu khác nên họ không cam kết gì với mình nhiều, nhưng trước sau gì thì họ cũng sẽ có một official statement, tuyên bố chính thức về việc này có lẽ cho tới ngày 1/9/2013 khi Nghị Định 72 có hiệu lực."
Blogger Đoan Trang, từ Bangkok, trả lời phỏng vấn của đài “Tiếng Nói Hoa Kỳ” (VOA) rằng: “Điều tôi mong mỏi nhất là có thể góp phần thay đổi chút nào suy nghĩ của người dân Việt Nam nói chung, và giới blogger Việt Nam nói riêng. Tôi rất mong muốn người dân Việt nhận ra trong thời đại toàn cầu hóa này, chính phủ và nhân dân mỗi quốc gia đều phải tham gia một cách tích cực với cộng đồng quốc tế, có trách nhiệm bảo vệ nhân quyền. Mọi công dân phải biết tự bảo vệ các quyền lợi đó của mình, và có trách nhiệm với đất nước, với khu vực, và thế giới.”

Thứ tư. Bản Tuyên bố 258 tại tòa đại sứ Thụy Điển.

Ngày 7/8/2013. Năm bạn trẻ là: Nguyễn Thu Trang, Nguyễn Đình Hà, Lê Hồng Phong, Nghiêm Ngọc Trai, và Nguyễn Văn Viên, đã thành công trong việc mang những thông tin cần thiết ra thế giới bên ngoài ngang qua tòa đại sứ Thụy Điển, và trao tận tay Bà Elenore Kanter, Phó Đại Sứ Thụy Điển “Tuyên Bố 258”. Đồng thời nhóm bạn trẻ này cũng chia sẻ với Bà, về tất cả những thông tin mà nhà nước Việt Nam đang cố thực hiện để chống lại tự do ngôn luận, song song với gia tăng đàn áp nhân quyền.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379030078.jpg

Diễn tiến sự việc. Blogger Lê Thiện Nhân trả lời phỏng vấn của đài BBC, như sau: “Nhóm 5 người khi đến trước cửa tòa đại sứ Thụy Điển, thì tại đây Công An rất đông, nhưng kịp thời là từ trong tòa đại sứ, có bốn người ra đón và chúng tôi vào trót lọt. Thật ra nhóm chúng tôi là 6 người, nhưng blogger Nguyễn Vũ Hiệp bị Công An ngăn chận tại nhà nên không thể đến với nhóm được. Cuộc nói chuyện giữa nhóm blogger với Bà Phó Đại Sứ trong khoảng 2 tiếng đồng hồ với thái độ cởi mở, thân thiện, xoay quanh những vấn đề về tự do báo chí, về dân oan bị mất đất, về hệ thống pháp luật, về chống tham nhũng ..” Phía Thụy Điển cho biết: “Tôi rất ngạc nhiên khi Việt Nam lại có thể ra một Nghị Định như vậy. Những thông tin mà các bạn cung cấp, chúng tôi sẽ chuyển sang Bộ Ngoại Giao Việt Nam, và chuyển về Khối Liên Hiệp Âu Châu (EU) để người ta hiểu được tình hình, và sẽ có tiếng nói cần thiết"
Trả lời câu hỏi của phía Thụy Điển: “Tại sao các blogger lại chọn gửi Tuyên bố 258 đến tòa đại sứ Thụy Điển?”
Blogger Lê Thiện Nhân trả lời: “Tòa đại sứ Hoa Kỳ và tòa đại sứ Thụy Điển, là hai tòa đại sứ luôn quan tâm đặc biệt đến tình hình nhân quyền Việt Nam. Sắp tới, chúng tôi sẽ tiếp tục gửi Bản Tuyên Bố đến các tòa đại sứ khác nữa”.
Theo Liên Hiệp Internet Á Châu được thành lập bởi: eBay, Facebook, Google, và Yahoo, thì Nghị Định 72 có tính cách ngăn cấm hoạt động của môi trường Internet Việt Nam, sẽ gây trở ngại cho nguồn đầu tư ngoại quốc.

Thứ tư. Phiên tòa phúc thẩm tại Long An.

Ngày 16/8/2013. Phiên tòa phúc thẩm hai bạn trẻ Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha diễn ra lúc 7 giờ 30 sáng. Dù là phiên tòa công khai, nhưng chỉ có 2 Luật sư là Hà Huy Sơn và Nguyễn Thanh Lương được vào trong tòa, ngoài ra không một ai được vào kể cả cha mẹ của hai em. Lúc này, Công An sắc phục và Công An chìm dày đặc quanh khu vực tòa án, cùng với nhiều máy quay phim và chụp hình.
Trang “Danlambao” ghi nhận những người đến ủng hộ hai em Uyên và Kha, có: Linh mục Đinh Hữu Thoại, Trưởng văn phòng Công Lý & Hòa Bình. Linh mục Nguyễn Văn Phương. Chị Trần Thị Nga từ Hà Nam vào. Chị Dương Thị Tân và Nguyễn Trí Dũng. Phóng viên Huyền Trang của Truyền thông Chúa Cứu Thế. Anh Lê Quốc Quyết. Bạn Công Khanh. Anh Thịnh, dân oan Vườn Rau Lộc Hưng. Anh Hoàng Văn Dũng. Chị Bùi Minh Hằng. Blogger Huỳnh Công Thuận. Blogger Nguyễn Hoàng Vi. Blogger Nguyễn Tường Thụy. Blogger Huỳnh Ngọc Chênh, ..v..v....
Rất đông người đứng trước cổng tòa án, cùng hô to rất nhiều lần: "Phương Uyên và Nguyên Kha vô tội. Phương Uyên và Nguyên Kha vô tội” Vì Công An ngăn chận nghiêm ngặt, đám đông đi vòng quanh thành phố để người dân biết thêm về tình trạng nhà cầm quyền bán nước xử người yêu nước. Trên đường đi, bị Công An chận lại và giật lấy biểu ngữ "Phương Uyên - Nguyên Kha vô tội".
Lúc 4 giờ 10 phút, phiên xử phúc thẩm đưa ra phán quyết: “Đinh Nguyên Kha giảm còn 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Nguyễn Phương Uyên giảm 3 năm nhưng là tù treo, với 3 năm quản chế”, và Nguyễn Phương Uyên được tự do ngay lúc ấy.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379029837.jpg

Bình luận về sự kiện này, hãng thông tấn quốc tế AP và AFP gọi là: “Màn trình diễn khoan hồng, rất hiếm hoi. Công tố viên lúc đầu đề nghị giảm một ít năm tù, nhưng sau đó đã thay đổi bản án mà không giải thích tại sao, trong khi “can phạm” vẫn khẳng định mình là người yêu nước và “chống đảng, không có nghĩa là chống tổ quốc Việt Nam”. Tổ Chức Nhân Quyền Hoa Kỳ nhận định: “Việt Nam chưa thay đổi chính sách về nhân quyền, nhưng áp lực quốc tế bắt đầu có tác dụng, và Hà Nội biết lắng nghe thông điệp của Tổng Thống Mỹ Obama cải thiện nhân quyền”. Ông Phil Robertson, Giám Đốc Tổ Chức Quan Sát Nhân Quyền tại Á Châu, phân tách: “Đúng là ngoài sức tưởng tượng nhưng chúng ta phải thận trọng. Bản cáo trạng vẫn còn treo lơ lững trên đầu cô gái (Phương Uyên), và cô có thể bị đưa trở lại vào nhà tù một cách dễ dàng mặc dù cô chẳng có tội tình gì để phải bị bắt. Sự kiện cô gái được thả là một cử chỉ khéo léo của nhà nước Việt Nam. Nhưng điều này không có nghĩa là họ thay đổi chính sách đối với những người có lời phát biểu không lọt tai chế độ. Tôi nghĩ, nhờ có một phong trào vận động quốc tế bảo vệ cho cô, và như vậy là áp lực quốc tế đã mang lại kết quả. Đây là một bài học mà cộng đồng quốc tế, chính phủ, cũng như các nhà tài trợ phải suy ngẫm khi hỗ trợ hay giao dịch với Việt Nam. Từ nay về sau, quốc tế phải cứng rắn hơn với nhà nước Việt Nam trên hồ sơ nhân quyền”.
Trích vài câu mà Phương Uyên trả lời phỏng vấn của đài RFI vào buổi chiều cùng ngày

..... Dạ, em nói hành động của là không phạm vào điều 88... Em vẫn yêu Tổ quốc của mình đấy thôi. Em chỉ có xúc phạm đến đảng, vì đảng chỉ là một tổ chức nên không cào bằng đảng với nhà nước Việt Nam. ..... Em cho rằng đó là một bản án có trước, không công minh, và không có sự công bằng.....
.... Em cảm ơn mọi người rất là nhiều! Bây giờ em được như thế này là nhờ một phần rất là to lớn của mọi người, ở trong nước cũng như trên thế giới, đã đứng về phía em, cho em cơ hội nói lên quan điểm của mình tại một đất nước ở chế độ cộng sản”.
.... Vâng. Em chỉ có thể nói lời cảm ơn tất cả mọi người trong nước cũng như trên thế giới! We are one. Chúng ta là một, ở đâu cũng vậy, phải có công lý. Công lý và công bằng sẽ phải trở lại! Em hy vọng là trở lại càng sớm càng tốt”.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.

Các Anh tiếp tục đọc bản dịch Việt ngữ dưới đây, để hiểu được ý chánh trích từ bài viết của Tướng Lưu Á Châu (Trung Cộng), đăng trên báo Phoenix (Phượng Hoàng) tại Hong Kong ngày 12/8/2013:
“....Nếu một hệ thống không cho người dân được thở không khí tự do và phát huy sức sáng tạo đến mức cao nhất, nếu hệ thống ấy không lựa chọn được những người tốt nhất làm đại diện cho chế độ và nhân dân để đưa vào các vị trí lãnh đạo, hệ thống ấy sẽ đi đến diệt vong ... Bí quyết thành công của Hoa Kỳ không nằm ở phố Wall (New York) hay ở thung lũng Silicon (California), mà nằm ở hệ thống luật pháp minh bạch lâu đời và ở hệ thống chính trị gắn liền với nó....Hệ thống của Hoa Kỳ được thiết kế bởi những thiên tài, nó giúp cho những người ngu ngốc cũng có thể vận hành tốt.... Một hệ thống tồi, khiến một người tốt cũng hành xử tồi, trong khi một hệ thống tốt sẽ khiến ngay cả một người tồi cũng có thể hành xử rất tốt ... Dân chủ là điều cấp thiết nhất, không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững“.

Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 8 năm 2013

tieuchuy
09-13-2013, 12:06 AM
Thư số 23 gởi
người lính quân đội nhân dân Việt Nam.
******
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hơn 100 Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử. Và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.
Nội dung thư này, tôi đưa Các Anh trở lại vấn đề “đạo đức xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, với dẫn chứng theo dòng lịch sử cận đại.

Thứ nhất. Đạo đức xã hội chủ nghĩa suy đồi!

Từ bài viết của phóng viên Thanh Quang đài Á Châu Tự Do ngày 10/7/2013: Đạo đức xã hội Việt Nam ngày nay, vẫn là đề tài mà người dân Việt quan tâm đặc biệt, nhất là những người luôn ưu tư đến dân tộc và vận nước. Một câu hỏi được nêu lên: “Vì sao đạo đức suy đồi?”
Trong thời gian gần đây, xem chừng như ngày càng có nhiều báo động về tình trạng xuống dốc đáng ngại, gần như mọi mặt trong xã hội Việt Nam! Từ nhận xét của nhà văn Nguyên Ngọc nhận xét về “căn bệnh giả dối là nặng nhất, chí tử nhất, toàn diện nhất”, đang hoành hành xã hội Việt Nam, khiến “người ta thật sự không còn tin vào bất cứ điều gì nữa”, đến lối hành xử “vô cảm của cấp lãnh đạo đảng với nhà nước”, mà blogger Tạ Phong Tần -khi chưa bị tù- đã nhiều lần lên tiếng.
Đầu tháng 7/2013, tác giả Trần Thị Huyền Trang cũng cảnh báo về sự dối trá đang bao trùm đời sống toàn xã hội Việt Nam: “Chưa bao giờ phẩm chất giá trị của cuộc sống lại xuống thấp như hiện nay ở Việt Nam, vì xã hội đã coi sự dối trá là một việc bình thường, niềm tin giữa con người với nhau thật sự lung lay, đi tới đâu ta cũng nghe bàn tán tới sự lừa đảo giựt dọc nhau trong làm ăn, trong giao tiếp, trong mua bán với nhau, đọc báo cũng đầy dẫy tin tức lừa đảo nhau ở mọi cấp độ trong xã hội…”
Mục Sư Nguyễn Trung Tôn từ Thanh Hoá, trong bài “Lương Tâm Đạo Đức Làm Người”, ông cảnh báo rằng: “Xã hội càng ngày càng đầy dẫy những chuyện bất công, chuyện bạo hành, và bao nhiêu thứ tệ nạn khác”. Rồi ông tâm sự: “Tôi sinh ra sau Cách mạng tháng Tám -sau năm 1945. Cha mẹ tôi, các cụ ngày xưa thì sống cuộc sống khổ sở, đói khát và nghèo nàn hơn so với bây giờ, nhưng các cụ vẫn nói với tôi rằng nhìn vào con người ngày hôm nay mới thấy đạo đức con người càng ngày càng xuống cấp: Con có thể chửi cha mẹ, chữ hiếu không còn, đạo đức chẳng còn đâu cả. Con người đi ra đường, không nhìn người ta thì người ta bảo mình khinh, nhưng nếu không may vô tình nhìn họ thì họ bảo là mình nhìn đểu ! Đây là trường hợp người dân đối với người dân thôi. Bây giờ ra đường có thể chỉ vì một cái nhìn, chỉ vì một câu nói có thể dẫn tới án mạng; con có thể giết cha, vợ có thể giết chồng, anh em có thể chém giết lẫn nhau”.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện từ Hà Nội, nhận xét rằng “Những vụ giết người, cướp của ngày càng táo bạo, kẻ thủ ác tuổi đời càng trẻ thì cách thức giết người càng ngày càng dã man hơn”.
Nhà văn Trần Mạnh Hảo cũng báo động: “ Xã hội Việt Nam ngày nay suy đồi đạo đức, không còn là hiện tượng riêng lẻ, mà là cả hệ thống”..
Khi bàn về căn bệnh dối trá tồi tệ ở Việt Nam, Giáo Sư Trần Kinh Nghị nhận định: “Xã hội Việt Nam ngày nay, bệnh dối trá có những đặc thù riêng”. Rồi ông giải thích: “Nó bắt nguồn từ thời kỳ cách mạng, trải qua nhiều biến cố lịch sử với những phong trào thi đua và những đợt cải cách ruộng đất, cải tạo công thương, nhân văn giai phẩm. v.v… khiến xã hội bị xáo trộn, lòng người đảo điên. Đến những thời kỳ kinh tế khắc khổ khiến con người ta trở nên bon chen và thủ đoạn. Giới lãnh đạo ngày càng nhiều đặc quyền, đặc lợi, nói một đàng làm một nẻo, khinh thường và xa lánh người dân, ngày càng gia tăng cưỡng chiếm đất đai của dân. Nhìn chung, giới lãnh đạo ngày càng “ác với dân nhưng hèn với giặc”.

Luật Sư Lê Đức Minh nhận định: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, họ bắt người dân phải đề cao và noi theo tư cách đạo đức của đảng viên. Mà tư cách và đạo đức của đảng viên ngày nay có quá nhiều vấn đề. Cho nên chúng ta không lấy làm lạ về sự vô cảm của xã hội ngày nay. Một xã hội coi tham ô hối lộ là cách kiếm tiền đương nhiên, coi sự lừa trên gạt dưới là tiêu chuẩn giao tiếp, coi pháp luật chỉ là đồ trang sức cho chế độ, coi các bản án hình sự như món hàng mua bán”. Theo Luật sư Lê Minh Đức: “Đảng cộng sản kêu gọi mọi người trong xã hội noi gương đảng viên, chính là nguồn gốc tha hóa về nhân cách và trí tuệ của con người...”.
Tôi xin tiếp ý của tác giả cho rõ nghĩa. Đảng kêu gọi mọi người phải noi gương đảng viên, “vì đảng viên nhất là đảng viên hàng lãnh đạo, là những người đã tạo nên một xã hội vô cảm nên mọi người phải noi gương đảng viên mà sống như vậy. Vì đó, chính là xã hội chủ nghĩa mà “bác” Các Anh đã chủ trương từ khi thành lập đảng cộng sản Việt Nam, và được thực hiện bởi các nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị từ đó đến nay ”.
Theo Mục sư Nguyễn Trung Tôn thì: “Đảng cộng sản phát động học theo gương đạo đức ông Hồ, nhưng không biết gương của ông Hồ nó tốt tới đâu? Phải chăng là họ học vấn đề mà ông Hồ đem đồng bào ra “đấu tố” khiến con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết lẫn nhau, cho nên ngày hôm nay cái “đạo đức” ấy nó dẫn đến tình trạng tồi tệ như vậy?”
Trong một bài viết trên tạp chí Văn Hóa Nghệ An ngày 31/7/2013, giáo sư Nguyễn Minh Thuyết nhận định: "Quan sát trong xã hội, đúng là chưa bao giờ đất nước ở vào tình trạng suy đồi đạo đức như bây giờ. Nhìn lại lịch sử, chỉ vào thời mạt mới có một xã hội xuất hiện những chuyện như thế...".
Giào sư Tương Lai, trong bài viết “Hiện tượng Trần Độ”, có đoạn: “....Quyền lực thúc đẩy việc mở rộng vô hạn quyền lực. Khi quyền lực có xu hướng tha hóa, thì quyền lực tuyệt đối cũng tha hóa tuyệt đối... Chế độ toàn trị phản dân chủ, là nguyên nhân sâu xa cho cái chuyện "quyền lực tuyệt đối thì tha hóa cũng tuyệt đối ấy. Liệu lịch sử loài người, có bao nhiêu thứ quyền lực tuyệt đối như chế độ toàn trị hiện hành?”

Thứ hai. Vì sao đạo đức suy đồi?

Vì thi hành Nghị Quyết của cộng sản quốc tế.
Là câu hỏi của phóng viên Thanh Quang nêu lên khi bắt đầu bài phóng sự. Vậy, sau khi đọc qua một số nhận định của những vị giáo sư, tiến sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo, và vị mục sư bên trên, Các Anh có nhận ra chiều sâu của câu hỏi đó không? Với tôi, để có giải đáp câu hỏi đó, Các Anh hãy “theo tôi” cùng ngược dòng thời gian từ thời mà “bác” Các Anh tham gia cộng sản quốc tế, và liên tục đến nay: thứ

Đệ Tam Quốc Tế hay cộng sản quốc tế, do ông Lenin thành lập năm 1919 sau khi cướp chánh quyền ở Nga. Năm 1920, đại hội quốc tế quy định 21 điều cho các đảng cộng sản hội viên. Một tổ chức có tên là “Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế” (ECCI) do Liên Xô giữ chức Chủ Tịch. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ Tịch Đoàn, và Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn có quyền hạn rộng lớn, do ông Lenin nắm giữ từ năm 1920 đến năm 1924, sau đó là ông Stalin.Dưới đây là tôi trích 4 Điều liên quan trực tiếp đến các đảng hội viên trên thế giới, trong đó có Việt Nam:

Điều 9. Liên hệ giữa các đảng hội viên với các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế, theo nguyên tắc thống nhất và kỹ luât vô sản. ECCI là cấp trên, các đảng hội viên là cấp dưới. ECCI có quyền đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm, hay một đảng viên vi phạm kỹ luật, hoặc trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đại Hội Đệ Tam Quốc Tế.
Điều 12: Tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Điều 15: Các đảng phải lập chương trình thích ứng với điều kiện của nước, và đúng với những nghị quyết của Đệ Tam Quốc Tế.
Điều 16: Tất cả quyết nghị của các đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng hội viên thi hành.
Điều 17: Các đảng hội viên, chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế không phải là một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất.
Ông Lênin giải thích trong đại hội (1920) rằng: “Đệ Tam Quốc Tế là "một đội quân vô sản quốc tế" với nhiệm vụ "thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế".

Tóm tắt. “Với những điều khoản ràng buộc trên đây, “đảng cộng sản Việt Nam là một Chi Bộ của Đệ Tam Quốc Tế”, và phải thi hành lệnh của tổ chức này thực hiện mục tiêu của ông Lenin, là “thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết trên toàn thế giới”. Nói cho dễ hiểu, mục tiêu là cộng sản sẽ thống trị thế giới.


http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1379030555.jpg

Về phần “bác” Các Anh. Theo tài liệu trong Wikipedia, dưới tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ đã dự đại hội “Quốc Tế Cộng Sản” lần thứ 4 năm 1923, và lần thứ 5 năm 1924 tại Liên Xô. Trong đại hội, “bác” Các Anh được cử làm “Ủy Viên Ban Phương Đông”. Năm 1930, theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, ông Hồ thành lập “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Vẫn tài liệu trong Wikipedia, “bác” Các Anh kết hợp tư tưởng cộng sản của Karl Marx & Friedrich Engels với tư tưởng của Lenin vào chủ trương cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam. (ông Karl Marx và ông Engels ra bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ngày 21/2/1848)

Năm 1952, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản đó, “bác” Các Anh viết 2 thư gởi cho lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản là ông Stalin.
Thư số 1 đề ngày 30/12/1952 với nội dung xin thuốc kí-ninh và súng đạn.
Thư số 2 đề ngày 31/12/1952 với nội dung ngắn gọn như sau: “Xin gửi Ngài chương trình “Cải Cách Ruộng Đất” của đảng Lao Động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi, với sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi và Văn Sha San. Đề nghị Ngài xem xét và cho chỉ dẫn” (kèm theo chương trình Cải Cách Ruộng Đất).

Vẫn trong Wikipedia, “mục đích của Cải Cách Ruộng Đất trên lãnh thổ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần bóc lột, phản quốc, và phản động, để lập nền chuyên chính vô sản, và đưa nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến lên chủ nghĩa xã hội theo Bản Tuyên Ngôn đảng cộng sản mà ông Karl Marx đã công bố Cách mạng ruộng đất là điều kiện giải phóng dân tộc”. Kết quả: Từ năm 1953 đến 1956 do 48.818 cán bộ thực hiện mà theo chỉ thị phải đánh gục 5.68% địa chủ trong số dân tại mỗi xã, và tổng số xã trong chương trình cải cách là 3.341 xã. Theo tuần báo Time ngày 1/7/1957, có 15.000 người bị xử tử. Theo bộ “Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000” do Viện Kinh tế Việt Nam ấn hành năm 2004, thì tổng số nạn nhân trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất là 172.008 người, trong số đó có đến 123.266 người hay là 71.6% bị oan Đó là về con người, còn về ruộng đất thì sau khi phân chia cho nông dân, “bác” Các Anh lại ra lệnh tập thể hóa toàn bộ đất đai từ năm 1958. Rồi Hiến Pháp năm 1959 thiết lập quyền sở hữu tập thể. Đến Hiến Pháp 1980, thì quyền tư hữu của nông dân hoàn toàn biến mất, và nhà nước nắm quyền sở hữu ruộng đất trên toàn cõi Việt Nam từ đó.

Tóm tắt về “bác” Các Anh, và nhận định của tôi:
“Điểm 1. Cải Cách Ruộng Đất đã giết người theo tỷ lệ 5.68% tại mỗi xã. Dòng lịch sử Việt Nam từ thời dựng nước, chưa bao giờ người dân bị giết dã man đến như vậy, trên thế giới cũng chưa bao giờ có cách giết người theo tỷ lệ như “bác” Các Anh đã giết. Tôi nói “bác” Các Anh đã giết, vì chính ông ấy nói với ông Stalin là chương trình hành động do ông soạn thảo, tức là “bác” Các Anh ra lệnh giết người trong chương trình đó.
Điểm 2. Tịch thu đất của người bị giết trong thời cải cách ruộng đất, đem phân chia cho bần cố nông tức là nông dân nghèo mạt rệp, rồi lại đem đất tập trung vào hợp tác xã trở thành quyền sở hữu tập thể, sau cùng thì quyền sở hữu ruộng đất vào tay lãnh đạo, cho đến nay vẫn vậy. Do đảng với nhà nước nhà nước nắm quyền sở hữu ruộng đất, nên tham nhũng phát sinh mạnh mẽ nhất đối với nông dân. Quả thật, “bác” các Anh dối trá lừa gạt nhân dân có một không hai trong dòng lịch sử.
Điểm 3. Thực hiện một xã hội vô sản để không còn người bóc lột người đúng theo điều lệ của quốc tế cộng sản. Thật ra khi trở thành vô sản thì mỗi người có hai bộ quần áo thay đổi thì còn gì mà bóc lột. Một chính sách quá đơn giản. Nhưng từ đầu những 1990 đến nay thì khác, hoàn toàn khác. Vì xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn là xã hội vô sản, ngoại trừ đảng viên cộng sản lãnh đạo trong hệ thống đảng với hệ thống nhà nước, chẳng những không phải vô sản mà là đại tư bản, hơn hẳn những tư bản khác. Tôi muốn nói các đảng viên lãnh đạo ở các cấp quá nhiều tài sản, nhưng khối tài sản của họ là do họ, và dòng họ của họ cùng nhau ăn cắp ăn cướp của dân, của quốc gia, của quốc tế. Chính lãnh đạo Các Anh, tùy mỗi cấp quyền lực mà họ thực hiện những công trình với trị giá càng cao bao nhiêu thì họ thâu tóm được nhiều bấy nhiêu, còn hiệu quả như thế nào không quan trọng. Lý thuyết cộng sản hình thành từ giữa thế kỷ 19 do chủ trương không bóc lột người, nhưng bây giờ thì đảng viên cộng sản được phép làm kinh tế nên được phép bóc lột người, và bóc lột thẳng tay.

Vì mục đích thâu tóm quyền lợi.

Tôi vẫn nhớ rằng, Đảng Cộng Sản Quốc Tế hay Đệ Tam Quốc Tế đã sụp đổ từ tháng 12/1991, nhưng lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay vẫn giữ nguyên chủ trương và mục đích từ thời “bác” Các Anh còn sống:
Bằng chứng thứ nhất, là ”Điều 4 trong Hiến Pháp, đảng cộng sản Việt Nam vẫn là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Bằng chứng thứ hai, là Điều 17 trong Hiến Pháp ghi rằng; Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân. Nhóm chữ này nằm trong dòng chữ “nhân dân làm chủ, nhà nước quản ký, đảng lãnh đạo”. Vậy, sở hữu toàn dân, tức là đảng ra lệnh, nhà nước thì hành, nhân dân phải tuân hành.
Mà thật sự có phải đảng cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của nhân dân lao động và dân tộc không? Nếu phải, thì tại sao đảng với nhà nước thẳng tay thu hồi đất đai tạo nên hằng chục ngàn Đoàn Dân Oan không nhà ở, không đất canh tác, không vườn tược ao hồ trồng trọt chăn huôi? Nếu phải, thì tại sao không bảo vệ công nhân khi bị chủ nhân bóc lột hà hiếp, nhất là những chủ nhân là người Trung Hoa? Nếu phải, thì tại sao thằng tay đàn áp bắt giam hằng ngàn đồng bào yếu nước đứng lên chống Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam? Và Nếu phải, thì tại sao ngăn cấm giới trẻ tiếp xúc với giới trẻ thế giới qua hệ thống internet, để học hỏi mà góp phần xây dựng một xã hội thật sự dân chủ văn minh?
Hoàn toàn không phải, vì những Điều ghi trong Hiến Pháp chỉ để phô trương với thế giới chớ không áp dụng trong đời sống. Nhận định đúng nhất là “nói một đàng làm một nẻo = dối trá lừa gạt nhân dân. Tôi dẫn chứng:

(1) Độc tài đảng chính trị, vì duy nhất chỉ có đảng cộng sản là đảng chính trị, nên xã hội phát triển khập khễnh do không có đối lập nên không có tiếng nói thúc đẩy phát triển. Vì vậy mà lãnh đạo của Các Anh chỉ phục vụ quyền lợi riêng tư, mà không hề phục vụ nguyện vọng người dân.
(2) Độc tài cầm quyền, vì chỉ có đảng cộng sản cầm quyền, nên hình thành một xã hội theo mục tiêu của đảng, rồi đảng với nhà nước cùng nhau thao túng.
(3) Độc tài trong Quốc Hội, vì gần 90% là những cấp lãnh đạo từ Bộ Chính Trị xuống đến tận cùng hệ thống tổ chức đảng và tổ chức nhà nước đều là Đại Biểu, nên những luật ban hành chỉ là theo lệnh đảng để phục vụ đảng với nhà nước.
(4) Độc tài truyền thông, nên không có tiếng nói của sự thật từ người dân. Hơn thế nữa, bất cứ ai suy nghĩ khác hay hành động khác với đảng và nhà nước cộng sản, sẽ là phạm tội và bị bắt, vì vậy mà mọi người trên toàn cõi Việt Nam không hề biết sự thật nằm ở đâu, vì hệ thống truyền thông của đảng phun ra suốt ngày đêm toàn dối trá, hoặc sai lạc sự thật.
(5) Độc tài luật pháp, vì tất cả viên chức từ cơ quan điều tra đến viên chức trong phiên tòa đều là đảng viên cộng sản, nên bản án được đảng quyết định trước đối với những “bị can” mà đảng thấy là bất lợi cho họ.
(6) Độc tài sở hữu đất đai, vì chỉ có đảng cộng sản là chủ nhân toàn bộ đất đai, vì vậy mà lãnh đạo các cấp toàn quyền cướp đoạt tài sản của dân liên quan đến đất đai vườn ruộng.
(7) Độc tài kinh tế tài chánh, vì nền tảng trong lãnh vực này toàn là quốc doanh dưới tên gọi “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Do không có cạnh tranh nên không thể hòa mình vào kinh tế thị trường thế giới.

Tiếp đây là trích bài viết ngày 17/08/2012 của ông Nguyễn Thứ Lữ, bí danh Hồng Hà với 50 tuổi đảng, nguyên chính ủy Trung Đoàn Tây Bắc: “Trân trọng thưa đồng bào, nhất là các cán bộ, đảng viên, những quân nhân trong Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, những công an trong Công An Nhân Dân đang ra sức bảo vệ chế độ, hãy thức tỉnh, vì chúng ta đã và đang bị tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng lường gạt cả nước. Những mồ hôi nước mắt và tiền bạc của nhân dân Việt Nam, đã và đang chảy vào túi tham của “tập đoàn Nguyễn Tấn Dũng”, vì họ đang nắm giữ 20 tập đoàn kinh tế quốc doanh trong tay để tự do thâu tóm, đó là:

(1) Tập đoàn Dệt May.
(2) Tập đoàn Điện Lực Việt Nam.
(3) Tập đoàn Dầu Khí.
(4) Tập đoàn Công nghiệp Than.
(5) Tập đoàn Công nghiệp Cao su.
(6) Tập đoàn Bưu chính Viễn Thông.
(7) Tập đoàn Xăng Dầu (trước là Tổng Công Ty Xăng Dầu)
(8) Tập đoàn Công nghiệp Hoá Chất.
(9) Tổng công ty Giấy Việt Nam.
(10) Tập đoàn Thuốc Lá (trước là Tổng công ty thuốc lá).
(11) Tổng công ty Sông Đà.
(12) Tập đoàn Thép (trước là Tổng công ty Thép).
(13) Tổng công ty Hàng Không Việt Nam.
(14) Tổng công ty công nghiệp Xi Măng.
(15) Tổng công ty Lương thực miền Bắc.
(16) Tổng công ty Lương thực miền Nam.
(17) Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
(18) Tổng công ty Đường Sắt.
(19) Tập đoàn Hàng Hải Việt Nam (trước là Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam).
(20) Tập đoàn Viễn Thông Quân Đội Viettel...”.

Với 20 tập đoàn kinh tế tài chánh cốt cán trong tay, Thủ Tướng Các Anh có một một thế lực mạnh nhất trong những thế lực tranh nhau để cùng thâu tóm quyền lợi của tổ quốc, của nhân dân. Các Anh nghĩ gì khi nói đến “cách mạng vô sản mà “bác” Các Anh chủ trương thực hiện để không còn tình cảnh người bóc lột người?” Nghĩ cho cùng, chủ trương đó vẫn đúng trong hiện nay, vì “không còn người bóc lột người, chỉ có lãnh đạo cộng sản bóc lột người thôi”. Dưới nét nhìn về xã hội xã hội chủ nghĩa, rõ ràng là đạo đức trong văn hóa Việt Nam suy đồi đến mức băng hoại, thì đạo đức mới xã hội chủ nghĩa vươn lên, và đó là thứ đạo đức không có đạo đức, cũng là thứ đạo đức lộn ngược.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, đang nghĩ gì sau khi đọc xong những dòng chữ mà tôi vừa tường thuật, phân tách và giải thích bên trên?
Tôi rất thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội nhân dân, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản loang đến mọi ngóc ngách trong xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, và Các Anh nói riêng, từ lúc nào không ai biết.
Sau khi Các Anh đọc xong những trang thư vừa rồi, tôi nghĩ là trong một chừng mực nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi, là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo với bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cù ng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và Tự Do, phải chính chúng ta tranh đấu, vì Tự Do không phải là quà tặng. (trích trên internet).
Texas, tháng 9 năm 2013

tieuchuy
11-19-2013, 02:14 AM
Thư số 23a gởi
người lính quân đội nhân dân Việt Nam.
******
Phạm Bá Hoa


Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này giúp Các Anh nhìn sâu hơn vào tinh thần yêu nước của người dân -nhất là giới trẻ- bằng những hành động dũng cảm, tranh đấu ôn hòa cho một xã hội dân chủ tự do thật sự trên quê hương Việt Nam, cho dù bản thân họ bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành “mục tiêu” của đảng với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hãy nhớ, lịch sử Việt Nam luôn tái diễn, khi người dân bị cai trị tàn bạo nghiệt ngã đến tận cùng của khúc quanh lịch sử, thì những anh hùng sẽ xuất hiện cứu dân cứu nước. Dưới nét nhìn của tôi, chúng ta đang vào khúc quanh đó.

Thứ nhất. Mạng lưới Blogger Việt Nam vận động quốc tế tại Bangkok.

Nhớ lại. Ngày 18/7/2013, nhóm Blogger trẻ khởi thảo bản văn, để nói lên nhận thức và quan điểm về Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72. Bản văn này là “Tuyên Bố 258”, có khoảng 70 chữ ký mà trong đó có những tên tuổi blogger được nhiều người biết đến, như: Huỳnh Ngọc Chênh, Phạm Đoan Trang, Phạm Toàn, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Huỳnh Thục Vy, J.B Nguyễn Hữu Vinh ... Những người ký tên bản Tuyên Bố 258 cho biết: “Sẽ tiếp tục truyền đạt đến người dân Việt Nam về các quyền của họ, bằng cách phân phối công khai bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tổ chức các diễn đàn công khai để thảo luận về nhân quyền ở Việt Nam và vận động cho những sự cải thiện cần thiết trong việc tôn trọng và bảo vệ nhân quyền".


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384829179.jpg

Số 258, là Điều 258 Luật Hình Sự, ghi tội danh là “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Đây là tội danh mà đảng với nhà nước Việt Nam đã sử dụng trong điều tra và xét xử nhiều blogger viết bài chống đối nhà nước độc tài tàn bạo với dân, nhưng khiếp nhược với Trung Cộng lấn chiếm biển đảo Việt Nam trong thời gian qua. Tuyên Bố 258 cũng kêu gọi nhà nước Việt Nam và Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, xét lại để sửa đổi hoặc bỏ hẳn Điều 258 của Bộ luật Hình Sự năm 1999, sửa đổi năm 2009".
Ngày 31/7/2013. Một nhóm 5 nam nữ thanh niên rất trẻ, đại diện “mạng lưới Blogger Việt Nam” sang Bangkok tiếp xúc với các tổ chức Nhân Quyền Thế Giới có trụ sở tại thủ đô Thái Lan, để trao tận tay bản “Tuyên Bố 258” chống lại Điều 258 Luật Hình Sự và Nghị Định 72.
Tại cơ quan đại diện Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc (Office of United Nations High Commissioner for Human Rights. OHCHR), và tổ chức Theo Dõi Nhân Quyền (Human Rights Watch), các bạn Blogger đã trao tận tay bản “Tuyên Bố 258”.
Cô Leong Tsu Quin, Cố Vấn của Ủy Ban Luật Gia Quốc Tế (The International Commission of Jurists. ICJ) tại Bangkok, tiếp các bạn của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam và nhận bản Tuyên Bố 258..

Thứ hai. Mạng lưới Blogger vận động quốc tế tại Hà Nội.

Ngày 7/8/2013. Năm bạn trẻ khác đã thành công trong việc trao tận tay Bà Elenore Kanter, Phó Đại Sứ Thụy Điển bản Tuyên Bố 258. Đồng thời nhóm bạn trẻ này cũng chia sẻ với Bà, về tất cả những tin tức mà nhà nước Việt Nam đang cố gắng ngăn chận tự do ngôn luận, song song với gia tăng đàn áp mạnh mẽ.
Ngày 23/8/2013. Nhóm Blogger gồm Nguyễn Chí Đức, Trịnh Anh Tuấn, Đào Trang Loan, Nguyễn Hoàng Vi, và Nguyễn Đình Hà, đã vào tòa đại sứ Australia (Úc Đại Lợi), và đã thành công trong mục đích trao bản “Tuyên Bố 258” cho viên chức ngoại giao trong tòa đại sứ.
Ngày 25/8/2013. Theo bản tin VRNs thì lúc 2 giờ 30 phút chiều, khoảng 30 bạn thuộc Mạng Lưới Blogger phía bắc, đã gặp nhau tại quán Cafe Win tại Hà Nội.
Vẫn bản tin VRNs. Cùng ngày 25/8/2013, lúc 10 giờ 15 phút tối, tại quán cà phê BB ở Sài Gòn có khoảng 40 người mà trong đó có gần 30 Blogger, cùng nhìn lại những hoạt động trong thời gian qua. Tóm tắt:
Blogger Nguyễn Tường Thụy, từ Hà Nội vào Sài Gòn tham gia hoạt động trong Mạng lưới Blogger, nhận định: “Đây là một việc làm hết sức ý nghĩa và có tác động đến nhà cầm quyền, họ rất lo ngại về Tuyên Bố 258 của chúng ta. Tôi rất cảm phục lòng dũng cảm của các bạn trẻ đã trao Tuyên Bố 258 cho tổ chức Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, cho một số tòa đại sứ ngoại quốc có uy tín trên thế giới. Tôi nghĩ, chúng ta không chỉ phản đối về Điều 258 mà chúng ta còn phải có hành động phản đối cả điều 79 và điều 88, là những điều luật rất mơ hồ trong Luật Hình Sự. Chúng ta phải hết sức tỉnh táo và khôn khéo trong cuộc đấu tranh cho dân chủ”.
Blogger Nguyễn Thảo Chi, nhận định: “Nhiều tổ chức theo dõi nhân quyền trên thế giới chưa biết nhiều đến tình trạng đàn áp nhân quyền một cách có hệ thống tại Việt Nam. Bởi truyền thông trong nước là truyền thông của đảng, luôn che dấu sự thật, bẻ cong sư thật, hoặc dựng chuyện hoàn toàn. Cũng vì vậy mà rất cần nhiều người cộng tác, như những cánh tay nối dài để dịch sang Anh ngữ các sự kiện liên quan đến nhà cầm quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do tôn giáo…, với mục đích chuyển đến các tổ chức nhân quyền trên thế giới biết, để họ có thể can thiệp kịp thời”. Nguyễn Thảo Chi là một trong những blogger đại diện Mạng lưới Blogger đến thăm và trao Tuyên bố 258 cho Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền, tại Thái Lan vào đầu tháng 8/2013.
Nhà báo Phạm Chí Dũng: “Trong vấn đề dân chủ ở Việt Nam, tôi nghĩ rằng chúng ta đang khủng hoảng và thiếu những cây viết để truyền đạt và lan tỏa những vấn đề Việt Nam ra nước ngoài. Cho nên, vấn đề quan trọng lúc này, chúng ta nên tập sự, hướng dẫn, và đào tạo những cây viết trẻ ở Việt Nam để chuẩn bị cho thời gian sắp tới. Vì vấn đề truyền thông và báo chí là một trong những yếu tố quan trọng của xã hội dân sự, mà có thể nói các bạn là tiền thân của xã hội dân sự ở Việt Nam.”
Blogger Hoàng Dũng: “Mỗi người nên lập một hồ sơ cá nhân liệt kê các hoạt động liên quan đến nhân quyền mà cá nhân đó đã và đang tham gia. Sau đó, gởi đến cho một người thân cận để khi có chuyện bất trắc xảy ra, thì người thân này sẽ truyền đạt rộng rãi hồ sơ cá nhân đó đến cho mọi người và cả cơ quan nhân quyền quốc tế biết, để họ kịp thời lên tiếng”.
Trước khi kết thúc, tất cả người tham dự đã cùng ký tên vào “Tuyên Bố Chung của Mạng Lưới Blogger Việt Nam”.
Các Blogger trẻ Việt Nam đã chứng tỏ lòng can đảm và trí thông minh bằng phương thức đấu tranh thích hợp, là vận dụng tối đa các phương tiện truyền thông quốc tế trong cuộc vận động Dân Chủ cho quê hương Việt Nam, cùng lúc ngang qua những cánh tay từ trong các tòa đại sứ nối dài ra thế giới Tự Do. Thật sự, các Blogger trẻ Việt Nam đã trưởng thành trong bối cảnh một xã hội dưới chế độ độc tài tàn bạo. Các Anh có công nhận, “giới trẻ đang tranh đấu ngày nay là rường cột quốc gia” một cách đúng nghĩa không? Tôi tin chắc rằng, dưới nét nhìn của Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại, những thành phần tranh đấu trong nước -nhất là giới trẻ- quê hương Việt Nam ngày mai đang trong tay họ.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384829179.jpg

Vẫn là ngày 25/8/2013. Buổi gặp gỡ của đại diện Mạng lưới Blogger Việt Nam với hai viên chức ngoại giao tại tòa đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức đã thành công ngoài dự tưởng của các bạn ấy. Và đây là chi tiết:.
7.00 giờ sáng. Được tin nhân viên an ninh Hà Nội đến nhà trao giây mời Blogger Nguyễn Chí Đức đến Công An làm việc, liên quan đến nhóm Blogger đã vào tòa đại sứ Australia 5 ngày trước đó. Blogger Nguyễn Chí Đức từ chối yêu cầu này của Công An.
10.20 sáng. Nhóm đại diện Mạng lưới Việt Nam gồm các Blogger đều là nữ, là: Đặng Bích Phượng (Phương Bích), Nguyễn Hoàng Vi (An Đỗ Nguyễn) , Lê Thị Phương Lan (Lan Lê), Đào Trang Loan (Hư Vô), và Lê Hiền Giang (Sông Quê), đến tòa đại sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Hà Nội
10.28 sáng. Khi xe taxi chở nhóm Blogger vừa dừng trước cổng tòa đại sứ, lực lượng an ninh khoảng 30 Công An ào tới, hướng máy quay phim và máy ảnh vào các bạn Blogger. Rất may là hai viên chức của tòa đại sứ Đức đứng chờ nhóm Blogger bên trong cổng, nhanh chóng can thiệp và hướng dẫn các bạn vào bên trong an toàn


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384829292.jpg

Lướt qua đôi nét về hoạt động của các Blogger này trong thời gian qua: (1) Blogger Phương Bích, được biết đến qua nhiều bài viết về các vấn đề chính trị-xã hội và cả đời sống thường ngày. Với giọng văn trong sáng, chân thật, và rất nữ tính. Ngày 21/8/2011, Cô là một trong 47 Blogger bị bắt tại Hà Nội, vì tham gia biểu tình chống Trung Cộng. Cô bị giam 6 ngày trong Hỏa Lò. Sau khi được tự do, đã viết loạt bài nổi tiếng “Bước chân vào chốn ngục tù”, gây xúc động cho nhiều độc giả trên internet. (2) + (3). Hai blogger Lan Lê và Sông Quê, là thành viên tích cực của “câu lạc bộ No-U” và phong trào biểu tình chống Trung Cộng ở Hà Nội. (4) Blogger Hư Vô, chào đời năm 1991, tuy rất trẻ nhưng đã tham gia tích cực trong các hoạt động xã hội như làm từ thiện, giúp đỡ người nghèo, và biểu tình chống chính sách gây hấn của Trung Quốc đối với Việt Nam. Đầu năm nay, dịp trước Tết Nguyên đán, Hư Vô đi phân phát quà Tết cho dân oan vô gia cư, và bị công an Hà Đông bắt giam vô cớ. Chỉ cho đến khuya, sau khi các blogger kéo đến và phản đối quyết liệt, công an mới thả cô gái trẻ. (5) An Đổ Nguyễn, sinh năm 1987, cũng là một blogger rất nhiệt tình, năng nổ trong các hoạt động đấu tranh và vận động cho nhân quyền ở Việt Nam. Cô từng tham gia phân phát Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền trong ngày dã ngoại 5/5/2013, sau đó có xô xát với Công An và bị sách nhiễu thường xuyên từ đó tới nay.
Xin trở lại bên trong tòa đại sứ Đức. Hai viên chức ngoại giao tiếp nhóm Blogger Việt Nam, là: ông Felix Schwarz, Lãnh Sự & Tham Tán Chính Trị. Và ông Jonas Koll, Bí thư thứ nhất, phụ trách Văn Hóa, Báo Chí, và Chính Trị.
Suốt hai tiếng đồng hồ, cuộc thảo luận thân mật gần như là buổi trò chuyện giữa bạn bè bằng hữu đã diễn ra trong không khí ấm áp, thông cảm, hiểu biết, và chia sẻ nhiều chi tiết cảm động.
Blogger Nguyễn Hoàng Vi kể lại: “Trong lúc vội vàng ra khỏi taxi để tìm cách vào trong tòa đại sứ, các blogger đã để quên bản Tuyên Bố 258 trên xe. Khi biết việc này, họ rất thông cảm vì họ cảm nhận được sự nguy hiểm khi mà bên ngoài cổng, có rất nhiều an ninh trang bị camera, máy chụp hình. Họ nói họ đã in sẵn Tuyên bố 258 và blogger có thể dùng bản in sẵn đó để trao cho họ. Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll cũng tỏ ra đặc biệt quan tâm đến tình trạng bị đàn áp của từng cá nhân blogger có mặt, kể cả những nguy hiểm, trục trặc về an ninh trên đường tới tòa đại sứ dự buổi gặp gỡ. Cả hai ông đều nói “không thể tưởng tượng nổi” khi nghe các blogger trình bày tóm lược tình hình vi phạm nhân quyền, vốn diễn ra tràn lan ở Việt Nam những năm qua”.
Phía các blogger cũng khá ngạc nhiên khi biết rằng, viên chức tòa đại sứ Đức xem thường điều mà dư luận cho rằng, Việt Nam cải thiện nhân quyền qua phiên tòa phúc thẩm xét xử Phương Uyên ngày 16/8/2013. Tòa đại sứ Đức khẳng định: ”Việt Nam chỉ muốn làm đẹp ở mặt nổi trước dư luận quốc tế, trong khi mặt chìm thì tình hình đàn áp và bắt bớ vẫn tiếp tục”.

Với bản Tuyên bố 258 của Mạng lưới Blogger Việt Nam, tòa đại sứ Đức nhận định: “Khách quan, đầy đủ, và súc tích của Tuyên bố 258, sẽ giúp Mạng Lưới thành công trong việc thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế; và Đức sẽ vận động để đưa bản Tuyên Bố này ra phiên họpcủa UPR (Universal Periodic Review) vào năm tới tại Geneve. Đó là phiên họp tổng kết bản đánh giá định kỳ của Việt Nam với tư cách ứng viên vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc”.
Các blogger Việt Nam nói lời cảm ơn và trân trọng đối với thiện ý của viên chức ngoại giao Cộng Hòa Liên Bang Đức. Blogger Hoàng Vi phát biểu: “Việc tự do thông tin, báo chí, ngôn luận ở Việt Nam, bị xếp ở mức thấp nhất thế giới thực sự là điều khiến cho người Việt Nam phải trăn trở, suy nghĩ, bởi vì phần lớn trong đó là do ý thức của người dân Việt Nam chúng tôi. Chính những nỗ lực của người dân Việt Nam mới có thể cải thiện tiến đến thay đổi được tình hình. Nhưng chúng tôi mong với vị thế và sức mạnh ngoại giao của các nước, cộng đồng quốc tế sẽ hỗ trợ chúng tôi, trước mắt là giúp để Điều 258 vi phạm tự do ngôn luận phải bị bãi bỏ”.
Cả 5 Blogger nữ đều cảm nhận được sự cảm thông và chia sẻ rất lớn từ viêc chức ngoại giao Đức quốc. Không ai nói thành lời, nhưng dường như mọi cử chỉ mọi hành động của hai nhà ngoại giao đại diện cho nước Đức, đã nói lời mạnh mẽ rằng: “Chúng tôi ở bên các bạn, những blogger đấu tranh cho nhân quyền của người dân Việt Nam”.
Buổi gặp gỡ trao đổi tình hình Nhân Quyền tại Việt Nam kết thúc, khi viên chức ngoại giao Đức quốc cho biết, sẽ cùng Liên Minh Châu Âu đặt vấn đề để Chính phủ Việt Nam xóa bỏ Điều 258 Bộ luật Hình sự cũng như các điều luật khác có tính cách vi phạm nhân quyền.
Lúc ấy đã quá trưa, .rất đông Công An vẫn bên ngoài cổng như đang chờ các Blogger trở ra. Thấy vậy, tòa đại sứ cho biết sẽ sử dụng xe công vụ (của tòa đại sứ) đưa mọi người về nhà, lại còn sắp xếp người đi theo xe để bảo đảm an toàn. Các bạn Blogger cám ơn, chỉ xin được giúp xe đưa về nhà là đủ..Đôi bên bịn rịn chia tay. Hai ông Felix Schwarz và Jonas Koll tiễn cả nhóm ra tận xe.

Thứ ba. Tuổi trẻ nghĩ về Phương Uyên

Diana Võ 85, với bài “Cào Bằng” trong DânLàmBáo, đã nói lên sự suy nghĩ của tác giả về hai chữ “Cào Bằng” mà Nguyễn Phương Uyên đã sử dụng trong phiên tòa phúc thẩm ngày 16/8/2013. Lần đầu tiên tôi nghe hai chữ “cào bằng” lạ tai lắm. Tôi hỏi ba tôi, và được ông giải thích. “Chữ “cào bằng” có nghĩ như chữ san bằng, hoặc làm cho hai điều gì đó như giống nhau. Chẳng hạn như những người làm ruộng, trước khi gieo mạ phải cuốc đất lên. Xong lấy chày vồ đánh cho đất vỡ vụn ra. Rồi lấy cái cào, cào đất cho bằng phẳng, bơm nước vào cho đất ướt, và cuối cùng là gieo hột lúa xuống”.

“Từ lời giải thích này, tôi mới hiểu hai chữ cào bằng mà Phương Uyên đã dùng khi ra trước tòa.
Thật vậy, đảng chỉ là một tổ chức của một số người tham gia, chớ không phải toàn bộ người dân trong một quốc gia đó đếu vào đảng. Do đó, họ (lãnh đạo cộng sản) không thể cào bằng như là một chính phủ điều hành của một nước..... Ngày nay, người Tàu đã chiếm đất chiếm biển Đông. Chúng bắn giết ngư dân đồng bào tôi. Chúng đem hàng độc hại qua Việt Nam để giết chết dân tộc tôi. Cũng như mấy ngàn năm trước, ngày nay người Tàu qua mua con gái Việt Nam với giá rẻ mạt, đem về rao bán cho các người Tàu già nua bệnh hoạn với giá cao gấp trăm ngàn lần. Khi thấy những điều sai trái trên, tôi phản đối thì nhà cầm quyền bắt tôi, kết án tôi với cái tội nói xấu nước bạn. Nhà cầm quyền không được cào bằng tôi với các ông. Các ông là bạn của người Tàu, chứ tôi và người Việt Nam không bao giờ là bạn của họ.... Một điểm khác nữa, đảng cộng sản đã cào bằng nhóm chữ "yêu tổ quốc là yêu xã hội chủ nghĩa”.. ....Tổ quốc bao gồm một lãnh thổ, một dân tộc, một nền văn hóa, chung một ngôn ngữ, cón xã hội chủ nghĩa là nhóm chữ trừu tượng không ai sờ nắm được, vậy mà họ “cào bằng” ai chống chủ nghĩa xã hội là chống tổ quốc, chống nhà nước cộng sản.... Cào bằng, cũng có nghĩa là áp đặt....... Hiện nay, người dân Việt Nam đã bước qua sự sợ hãi là nhờ vào các phương tiện truyền thông nhiều chiều. Các ông không thể muốn nói gì thì nói, làm gì thì làm. Qua rồi thời làm mưa làm gió của các ông, gió đã đổi chiếu. Các thế lực áp đặt, phản dân hại nước sẽ bị cuốn trôi theo làn gió mới”.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
Các Anh hãy nhớ. Trên thế giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia Dân Chủ Tự Do ào ạt chạy sang các nước do cộng sản cầm quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, đã có 839.200 người thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc gia, cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên biển và trong rừng sâu, trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do! Với sự kiện đó, với những con số đó, có gợi cho Các Anh hai chữ “tại sao” không? Tôi không tin Các Anh là những người vô cảm, bởi Người Lính thường xuyên trên lằn ranh giữa sống với sự chết, chính vì vậy mà trong những giờ phút riêng tư đã biến họ trở nên tình cảm hơn.
Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 9 năm 2013

tieuchuy
11-19-2013, 02:16 AM
Thư số 24a gởi
người lính quân đội nhân dân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.

Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này tôi giúp Các Anh nhận ra một góc của “chân dung” Thủ Tướng Các Anh trong chuyến thăm Pháp 24-26/9/2013.

Thứ nhất. Thủ Tướng cộng sản Việt Nam tại Paris.

Bản tin ngày 24/9/2013 của đài Á Châu Tự Do cho biết, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hướng dẫn phái đoàn thăm nước Pháp trong các ngày 24-26/9/2013. Theo chương trình, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ hội đàm với Thủ Tướng Pháp Jean-Marc Ayrauld, diện kiến Tổng thống Francois Hollande, và dự đối thoại với các doanh nghiệp Pháp. Sau đó, ngày 26-28/9/2013, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam sẽ có mặt tại New York tham dự đại hội đồng Liên Hiệp Quốc khóa 68. Trong thời gian ở Hoa Kỳ, ông Dũng sẽ có các cuộc gặp với Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, lãnh đạo các tổ chức như UNICEF, UNDP, và dự Diễn đàn đầu tư Việt Nam - Hoa Kỳ.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384828065.jpg

Ngày 24/9/2013, phái đoàn Việt Nam rầm rộ đến phi trường thủ đô Pháp quốc, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam được đón tiếp bởi một viên chức đại diện của tỉnh Val de Marne, và khoảng 10 người Việt Nam với 2 hay 3 lá cờ máu đã nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của Quốc Tế Cộng Sản. Không có bất cứ một phóng viên hay một máy thu hình nào của truyền thông Pháp quốc có mặt. Nói chung là âm thầm lặng lẽ.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384828132.jpg

Theo bản tin đài Á Châu Tự Do ngày 25/09/2013, Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, đã hội đàm với Thủ Tướng Pháp Jean-Marc Ayarault tại Phủ Thủ Tướng. Cuối buổi hội đàm, hai ông Thủ Tướng đã ký bản Tuyên bố Chung, nhấn mạnh đến bang giao chiến lược đánh dấu 40 năm thiết lập bang giao. Thủ Tướng Dũng hoan nghênh lập trường của Pháp trên hồ sơ Biển Đông, giải quyết tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.

Ngoài Tuyên Bố Chung, hai Thủ Tướng đã chứng kiến các thành viên của hai phái đoàn Việt – Pháp ký: (1) Hiệp Định giữa tập đoàn khí đốt Pháp GDF Suez với tập đoàn Petro Vietnam Gas về dự án khai thác khí hóa lỏng Sơn Mỹ. (2) Hiệp Định hợp tác giũa Ubifrance với ViệtTrade, tăng cường khả năng hoạt động của chi nhánh Ubirance tại Việt Nam. (3) Hiệp Định giữa công ty Pháp Vinci Concessions với Bộ Giao Thông Việt Nam, phát triển hệ thống đường bộ với tốc độ nhanh của Việt Nam. (4) Thống Đốc Ngân Hàng Việt Nam Nguyễn Văn Bình, đã trao cho chủ tịch tập đoàn ngân hàng Pháp BNP Parisbas Beaudoin Prot giấy phép thành lập một chi nhánh của ngân hàng này ở Hà Nội. (5) Hiệp Định tài chính của Bộ Trưởng Ngoại Thương Pháp Nicole Bricq, tài trợ 13,5 triệu euro năm 2013 cho một dự án bệnh viện ở Việt Nam......


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384828196.jpg

Trong lúc ký bản Tuyên Bố Chung, Thủ Tướng Các Anh nhìn vào trang giấy toàn chữ Pháp mà không biết ký tên vào chỗ nào, thấy lúng túng mãi nên Thủ Tướng Pháp dùng ngón giữa của bàn tay phải chỉ vào trang giấy cho ông ấy ký. Nhìn trên tấm hình hoặc màn ảnh TV, lúc ấy ngón cái và ngón trỏ chập vào nhau như đang cầm vật gì, nên ông dùng ngón giữa để chỉ cho Thủ Tướng Việt Nam. Với cử chỉ này làm tôi nhớ lại thời Pháp cai trị Việt Nam, cử chỉ đó là thể hiện một ý nghĩa không đúng đắn, nhất là trong bang giao quốc tế. Vậy, có phải ông Thủ Tướng Pháp vì quá bực mình nên có ý xỏ Thủ Tướng Việt Nam chăng? Nếu phải, thì tại sao Thủ Tướng Pháp bực mình? Các Anh hãy đọc tiếp đoạn dưới đây sẽ hiểu.

Thứ hai. Thủ Tướng Dũng trên đài TV Canal Plus tại Paris.

“Theo yêu cầu của một số bằng hữu, tôi ghi lại và chuyển ngữ đoạn video dưới đây, ghi lại cuộc trao đổi ngắn ngủi giữa Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng và Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp Jean Marc Ayrault, trong cuộc họp báo tại Phủ Thủ Tướng Matignon, thủ đô Paris ngày 25/9/2013”. Đó là đoạn văn mở đầu của ông Vọng Trấn Quốc từ Paris. Ông viết tiếp:

“Người dân Pháp không hề biết chuyến công du của Thủ Tướng cộng sản Việt Nam vì giới truyền thông Pháp không loan tải bất cứ tin tức nào liên quan, nhưng nhờ có chương trình truyền hình PHIẾM LUẬN (La Nouvelle Edition) trình chiếu đoạn video chế nhạo Thủ Tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng họ mới biết, biết để mà cười với nụ cười nhạo báng. “La Nouvelle Edition” là chương trình truyền hình hàng ngày từ thứ hai đến thứ sáu, từ lúc 12 giờ 20 trưa của đài TV Canal Plus. Mục đích của chương trình là phân tích, mổ xẻ, và phiếm luận thời sự nước Pháp nói riêng, và trên thế giới nói chung. Được điều khiển bởi Ali Baddou, với trợ giúp của hai nhân vật thiên tả dầy kinh nghiệm là ông Nicolas Domenach, và bà Anne-Elisabeth Lemoine”. (Trong đoạn này, tôi có thay đổi vài chữ để giúp người lính cộng sản dễ hiểu. Phạm Bá Hoa)

Dưới đây là đoạn video dài 3 phút 50 giây trên đài TV Canal Plus, nguyên bản Pháp ngữ và bản dịch Việt ngữ của ông Vọng Trấn Quốc:

Ông Nicolas Domenach: Jean-Marc Ayrault tient des conférences de presse. Vous allez le voir avec le Premier Ministre vietnamien. Vous allez regarder ça et vous allez même peut être avoir quelques compassions pour lui, même vous, Anne-Elisabeth. Oui, oui, vous allez voir parce que ça commence mal. Ça commence mal avec des questions de lumière et puis ça ne finit pas très très très bien. Mais regardez d’abord le début.
“Jean-Marc Ayrault họp báo. Quý vị sẽ thấy ông với Thủ Tướng Việt Nam. Quý vị sẽ xem cái này và có thể sẽ có chút từ bi tội nghiệp cho ông ta, thậm chí là bà, bà Anne-Elisabeth ạ. Vâng, các vị sẽ thấy, bởi vì mọi việc khởi đầu tồi tệ, với vấn đề ánh sáng và kết cuộc thì rất rất rất là tồi tệ. Nhưng trước hết mời quý vị xem phần đầu"

Bắt đầu buổi họp báo, Nguyễn Tấn Dũng có vẻ không được bình thản, nhìn láu liên, chung quanh và đằng sau cửa sổ. Thủ Tướng Pháp cười, tỏ ý không hiểu Dũng muốn nói gì, có lẽ Dũng muốn nói hôm nay là một ngày đẹp trời chăng?

Thủ Tướng Pháp bắt đầu phát biểu: Monsieur le Premier Ministre. Mesdames, Messieurs. … convivial et particulièrement chaleureux..
“Thưa ông Thủ Tướng. Thưa quý bà, quý ông, thân ...thiện và đặc biệt nồng nhiệt...”.

Thủ Tướng Việt Nam ngắt lời bằng tiếng Việt: “Ê, có thể khóa cái này đằng sau được không? Nắng quá!”

Thủ Tướng Pháp thấy Dũng múa tay, không hiểu Dũng muốn gì nên kiếm xung quanh có ai đoán được không: C’est le soleil qui vous…Ah oui, il faut tirer le rideau.
"Là ánh nắng làm ông…À vâng, phải kéo rèm cửa sổ".

Thủ Tướng Việt Nam: “Ờ”. (vẫn là tiếng Việt)

Thủ Tướng Pháp nhờ tùy viên: Voulez-vous tirer le rideau s’il vous plaît, parce que… .
"Nhờ ông vui lòng kéo rèm cửa sổ, bởi vì…” Nói xong, ông chỉnh lại áo veste, giơ cao hai tay thở dài bất lực

Bình luận viên Ali Baddou chế nhạo: Très très chaleureux, très très chaleureux.
“Rất rất là nồng nhiệt, rất rất là nồng nhiệt”.

Nicolas Domenach phụ họa thêm: Et quand ça commence mal, eh ben, ça continue mal. Regardez, les pauvres!
"Và khi mọi sự khởi đầu không tốt, thì mọi việc tiếp theo đều sẽ xấu. Quý vị nhìn xem, tội nghiệp!"

Thủ Tướng Pháp: Je ne sais pas comment pour la traduction on fait parce que…je… pour Monsieur le Premier Ministre. Vous avez pris… (làm dấu tay chỉ ống nghe) Nous avions envisagé un déplacement en France et il a lieu....
"Tôi không biết cho việc dịch thuật mình làm sao đây, bởi vì…tôi… ông Thủ Tướng. Ông có đã lấy... (làm dấu tay chỉ ống nghe) ? (trở lại bài diễn văn) Chúng tôi đã dự tính một chuyến công du tại Pháp và điều đó đang xảy ra..."

Thủ Tướng Việt Nam ngắt lời vẫn bằng tiếng Việt: "Xin lỗi Ngài, chưa nghe được"

Thủ Tướng Pháp: “ça ne marche pas?” “Không chạy à?”

Thủ Tướng Việt Nam: "Chưa nghe được, xin lỗi Ngài cho dịch trực tiếp"

Thủ Tướng Pháp (nghe thông dịch) Ông nói nhỏ điều gì với nhân viên, rồi giơ tay lên thở dài lần thứ hai.

Ông Ali Baddou: Et ce n’est pas fini. C’est ça qui est génial.
“Vẫn chưa hết, thế mới tuyệt vời”.

Ông Nicolas Domenach: ça continue avec les oreillettes. Ecoutez.
“Mọi việc tiếp tục với ống nghe, quý vị hãy lắng nghe”.

Thủ Tướng Việt Nam: “À, thưa Ngài Thủ Tướng. À, trước hết thay mặt đoàn đại biểu cao cấp của chính phủ Việt Nam, tôi bày tỏ vui mừng được trở lại thăm nước Pháp… ở Âu Châu và… trên thế giới”.

Thủ Tướng Pháp: Merci Monsieur le Premier Ministre pour les vœux que vous venez de formuler. “Cám ơn những lời chúc của ông Thủ Tướng”.

C’est génial “MISTER BEAN " (Tuyệt vời MISTER BEAN!)
Quelqu’un s’est fait engueler? “Có ai bị mắng không?”
Tout le monde. “Tất cả mọi người”.
Mais on comprend pourquoi le Premier ministre vietnamien a dit merci à.... “Nhưng chúng ta hiểu rằng, tại sao ông Thủ Tướng Việt Nam đã chuyển lời cảm ơn đến...”

Tiếng và hình của ông Nguyễn Tấn Dũng: “GiĂNG MẮC Ê RÔ”, làm mọi người cười ồ!

Ông Nicolas Domenach: Ah oui, Jean-Marc Ayrault. On souffre pour lui. On souffre effectivement. “À là Jean-Marc Ayrault. “Mình đau đớn hộ ông ấy. Mình thực sự đau đớn”.
On souffre pour... “Mình đau đớn cho..” :

Nghe lại giọng nói của ông Nguyễn Tấn Dũng lần thứ hai: GiĂNG MẮC Ê RÔ

Ông Ali Baddou: C’est joli, ça donne un petit côté exotique. “Cũng đẹp, nó cho một khía cạnh ngoại lai.

Bà Anne-Elisabeth nhại giọng nghẹt mũi quê mùa của ông Dũng: "Giăng Mắc Ê Rô"

Ông Ali Baddou hỏi bà Anne-Elisabeth: ça va Michel Leeb? “Khỏe không ông Michel Leeb?” (Giải thích thêm. Michel Leeb là một tên hề người Pháp, chuyên chọc cười bằng cách lấy hai tay kéo dài híp mắt lại, nhái giọng the thé và nghẹt mũi của người Tàu nói tiếng Pháp bồi)

Bà Anne-Elisabeth: On ne s’en lasse pas avec Giăng Mắc Ê Rô. Vous pouvez remettre? "Mình vẫn không chán với Giăng Mắc Ê Rô. Ông có thể cho nghe lại được không?"

Ông Ali Baddou: Allez remettez le encore une fois. “Ừ, nghe lại ông ta một lần nữa”.

Hình và giọng ông Nguyễn Tấn Dũng lần thứ ba.

Nicolas Domenach: Et ce n’est pas Michel Leeb. “Và đây không phải là Michel Leeb”.

Cuối cùng, ông Vọng tóm tắt đoạn video chưa đến 4 phút mà chương trình Canal Plus đã giúp khán giả nhận biết Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng qua ba điểm:

(1) Vô văn hóa, vì Thủ Tướng Việt Nam khều tay Thủ Tướng Pháp, và hỏi: “Ê, có thể khóa cái này đằng sau được không ? Nóng quá."
(2) Vô học, vì Thủ Tướng Việt Nam phát biểu: “À, thưa ngài Thủ Tướng... Pháp. Trước hết, thay mặt đoàn đại biểu cấp cao của chính phủ Việt Nam, tôi bày tỏ vui mừng được trở lại thăm nước Pháp ở… Châu Âu và… trên thế giới”.
(3) Nhà quê, vì tên của Thủ Tướng Pháp là Jean-Marc Ayrault, phát âm là Jăng-Mạc E-Rô, nhưng với giọng nói nhừa nhựa the thé giống như người Trung Hoa, nên Thủ Tướng cộng sản Việt Nam phát âm tên Thủ Tướng Pháp thành Giăng-Mắc-Ê-Rô. Vì vậy mà đài truyền hình này chế nhạo rằng, Thủ Tướng cộng sản Việt Nam đặt tên mới cho Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp là Giăng-Mắc-Ê-Rô.

Đến đây, Các Anh có cảm nhận nỗi nhục của người Việt Nam khi có người lãnh đạo như Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng không? Chẳng lẽ đường đường là Thủ Tướng của đảng cộng sản Việt Nam, mà bị đài truyền hình tại Paris chế nhạo mà Các Anh vẫn thản nhiên, vẫn không có gì để suy nghĩ sao? Thôi thì dù thế nào đi nữa, Các Anh hãy đọc lời bình của cô (hay bà) Bích Liên ngày 29/9/2013 dưới đây:

“Mấy ông Tổng Bí Thư và Thủ Tướng Việt Cộng đều dốt Anh ngữ và Pháp ngữ. Ngồi bên phải của Thủ-Tướng Pháp Jean-Marc Ayrault mà nói tiếng Việt như ông ta đang ở văn-phòng tại Hà Nội thì mất mặt anh-hùng và sỉ diện quốc gia Việt Nam. Phát âm rập khuôn Hồ Chí Minh cũng dốt ngoại-ngữ như Các Mác (Karl Marx), Ăng-ghen (Engels), Xích-ta-lin (Stalin), vì vậy mà họ Ayrault (e-rô) của Thủ Tướng Pháp bị Thủ Tướng Việt Cộng phát âm thành “ê-rô” có nghĩa là anh hùng (héros)! Còn tên đôi “Jean-Marc” (Giăng-Mạc) thì Thủ Tướng Việt Cộng phát âm thành “Giăng-Mắc” thì Bích-Liên tôi chào thua! Đây đúng là tên hề thứ hai của giới lãnh-đạo Việt Cộng. Tên hề thứ nhứt là cựu Chủ Tịch nước Nguyễn Minh-Triết cũng nói sai tiếng Anh trong lần bắt tay với cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton tại Hà Nội năm xưa. Ông ta nhìn Tổng Thống Hoa Kỳ mà nói ”Who are you?” “Ngài là ai?”, thay vì “How are you?”. “Ngài có khỏe không?”. Rất có thể là Tổng Thống Bill Clinton không muốn ông Nguyễn Minh Triết mất mặt, nên trả lời I’m Hillary Clinton’s husband, Tôi là chồng của Bà Hillary Clinton”.

Và xin trích trong bài viết của tác giả Phan Nhân, cũng mô tả chân dung Thủ Tướng Các Anh như sau: “Tên tuổi của Thủ Tướng Dũng đã gắn liền với cái tên “Giăng Mắc Ê Rô” ngay trên một đài truyền hình của nước Pháp”

“Thiệt ra, Phan Nhân tui cứ tưởng rằng, một khi đã làm tới “Thủ Tướng” thì ít ra, Nguyễn Tấn Dũng phải học đôi câu tiếng Pháp, trước khi đến nước Pháp, cũng như phải học qua những cung cách lịch sự, phép xã giao tối thiểu của một người bình thường khi giao tiếp với người ngoại quốc. Trường hợp Nguyễn Tấn Dũng tới Pháp vừa qua, người Pháp vốn rất lịch sự từ cung cách ăn nói, từng cử chỉ, phải biết tay chân của mình để ở đâu… chớ chưa nói đến những điều cần phải có của một người mang danh là Thủ Tướng của một quốc gia, cũng là nhà ngoại giao nữa. Tôi nghĩ, không riêng tại hải ngoại, mà cả người Việt Nam trong nước, cũng có rất nhiều người đã được những tràng cười tương tự như mọi khán thính giả đài truyền hình Canal Plus của Pháp, khi được mục kích những động tác quơ tay, nói nhảm bằng tiếng Việt của Nguyễn Tấn Dũng ngay bên cạnh Thủ Tướng Pháp Jean Marc AyRault....”.

Trên đây là tài liệu từ Paris, còn những bản tin thời sự trong trang <chinhphu.vn> tuyệt nhiên không có bản tin nào đụng đến cuộc họp giữa Thủ Tướng cộng sản Việt Nam với Thủ Tướng Cộng Hòa Pháp, mà là những bài đề cao Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng về “lòng tin chiến lược” trong đối thoại Sangri-La tại Singapore ngày 31/5/2013, nay ông Dũng rao giảng tại Pháp và Châu Âu, như thể bản chất vừa gian vừa dối lồng trong cái gọi là lòng tin chiến lược đó, đang là “cái phao cho hòa bình và phát triển” mà nhóm “đỉnh cao gian trá” Bộ Chính Trị cộng sản Việt Nam rao giảng cho toàn thế giới vậy. “Đỉnh cao hoang tưởng” đến mức ấy là hết nói rồi.

Kết luân.

Cho tôi hỏi Các Anh một câu nhé! “Với những cử chí cộng với lời ăn tiếng nói của Thủ Tướng Các Anh tại Paris, bị đài truyền hình Pháp ví như một người hề tên Michel Leeb, thì liệu có phải 15 đảng viên còn lại trong Bộ Chính Trị đều là hề như “đồng chí X của ông Sang”, hay tệ hơn nữa?” Tôi hỏi vậy thôi, chớ thật ra cho dù có khá hơn hay tệ hơn một tên hề thì nỗi nhục vẫn là 90 triệu đồng bào chớ không phải các ông ấy, vì khi đảng viên cộng sản “tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc” lên đến hàng lãnh đạo thì đâu còn liêm sỉ mà biết nhục. Nhìn theo cách khác, “khi liêm sỉ đi xuống thì lòng tham đi lên, vì vậy mà tự điển xã hội ch3 nghĩa Việt Nam thời nay có nhóm chữ “nhóm lợi ích”, để chỉ những phe những nhóm lãnh đạo cùng nhau chia chác từng lãnh vực mà thâu tóm quyền lợi. Tôi nhớ trong trang “quanlambao” có bài viết của một tác giả nào đó nói rằng: “Lãnh đạo các cấp trong đảng cộng sản Việt Nam, đã trở thành những phe nhóm như những tổ chức băng đảng xã hội đen từ sau khi cộng sản quốc tế sụp đổ tháng 12/1991, từ đó chỉ biết đến quyền lực và quyền lợi thôi”. Tôi cho rằng, thực tế vấn đề quản trị và điều hành xã hội Việt Nam hiện nay, không có gì khác với nhận định đó.
Các Anh là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, là tại sao có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay đang nghĩ gì? Tôi thông cảm với Các Anh, những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
Tôi xin nhắc để Các Anh hãy nhớ rằng: “Trên thế giới, chưa bao giờ người dân của các quốc gia Dân Chủ Tự Do ào ạt chạy sang các nước do cộng sản cầm quyền để xin tị nạn chính trị, chỉ có người dân trong các quốc gia bị cộng sản cai trị ào ạt chạy sang các quốc gia Dân Chủ Tự Do xin tị nạn chính trị. Riêng Việt Nam từ tháng 4/1975 đến cuối năm 1995, theo tài liệu của Liên Hiệp Quốc phổ biến năm 2000, đã có 839.200 người thoát khỏi Việt Nam đến tị nạn tại 91 quốc gia, cũng trong thời gian đó Liên Hiệp Quốc ước lượng có từ 400.000 đến 500.000 người chết mất xác trên biển và trong rừng sâu, trên đường vượt biên vượt biển tìm tự do!” Với sự kiện đó, với những con số đó, có gợi cho Các Anh hai chữ “tại sao” không? Tôi không tin Các Anh là những người vô cảm, bởi Người Lính thường xuyên trên lằn ranh giữa sống với sự chết, chính vì vậy mà trong những giờ phút riêng tư đã biến họ trở nên tình cảm hơn.
Đến đây, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 10 năm 2013
*********

tieuchuy
11-19-2013, 02:19 AM
Thư số 25 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra chân dung cố Đại Tướng Võ Nguyên Giáp của Các Anh từ một nét nhìn khác. Tôi nghĩ, từ nét nhìn đó sẽ giúp Các Anh phải suy nghĩ về vị Tướng mà khi ông chết đã tạo nên những cảm nghĩ khác nhau về ông ấy. Cố Đại Tướng Các Anh, nhìn từ góc cạnh lịch sử là vị Tướng có công hay có tội với Tổ Quốc Nhân Dân?

Thứ nhất. Thân thế ông Võ Nguyên Giáp.

Ông Võ Nguyên Giáp chào đời ngày 25/8/1911 tại Quảng Bình, trong gia đình nghèo. Học xong lớp 3 trường làng An Xá, ông Giáp học tiếp tại trường Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng Bình. Tốt nghiệp bậc sơ đẳng tiểu học. Năm 1925, vào trường quốc học Huế. Năm 1927, học sinh trường Quốc học Huế có cuộc bãi khóa, Nguyễn Chí Diểu bị đuổi học vì tội tổ chức. Ọng Giáp cùng với Nguyễn Khoa Văn, tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa từ trường quốc học Huế lan rộng đến các trường ở Huế, trở thành cuộc tổng bãi khóa. Kết quả là ông Giáp bị bắt và bị đuổi học. Ông trở về quê.
Ít lâu sau, Nguyễn Chí Diểu đến làng An Xá tìm Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập tài liệu về “Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới” và một số tài liệu của “Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội” ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của ông Nguyễn Ái Quốc (tức Nguyễn Tất Thành, tức Hồ Chí Minh). Đọc xong, ông Giáp nói: "Bài luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho tôi một lòng căm phẫn sâu sắc như một luồng điện giật". Đó là sợi giây đầu tiên nối liền Võ Nguyên Giáp với Hồ Chí Minh.
Năm 1928, ông Võ Nguyên Giáp vào Huế làm báo và hoạt động chính trị. Năm 1930, vì liên quan đến sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt. Cuối năm 1931, nhờ Hội Hồng Thập Tự của Pháp can thiệp, ông được tự do, nhưng không được ở Huế. Ông Giáp ra Hà Nội, vào học trường Albert Sarraut. Sau đó, ông vào đại học với khoa Kinh Tế Chính Trị, nhưng vì tham gia hoạt động chính trị nên bỏ học. Trong khoảng thời gian 1936-1939, ông Giáp thành lập “Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương”, cùng lúc giữ chức “Chủ Tịch Ủy Ban Báo Chí Bắc Kỳ” trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia báo tiếng Pháp Notre Voix (Tiếng Nói Của Chúng Ta), Le Travail (Lao Động), biên tập báo Tin Tức, và báo Dân Chúng. Từ năm 1939, ông dạy môn lịch sử tại trường tư thục Thăng Long, Hà Nội.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384827597.jpg

Thứ hai. Ông Võ Nguyên Giáp trong chiến tranh 1945-1954.

Tháng 5/1940, ông Giáp với bí danh Dương Hoài Nam, cùng ông Phạm Văn Đồng, trốn sang Trung Hoa tìm gặp ông Hồ Chí Minh. Chẳng bao lâu sau đó, lẽ ra ông học quân sự tại căn cứ Diên An của Trung Cộng, thì ông Hồ bảo ông chuẩn bị về Việt Nam vì tình hình thế giới đang thuận lợi. Ông Giáp vào đảng cộng sản cuối năm 1940, và hoạt động trong “Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội”, gọi tắt là “Việt Minh”. Đầu năm 1941, ông theo ông Hồ về Cao Bằng, ẩn trong hang Pắc Bó. Tháng 12/1944, theo lệnh ông Hồ, Võ Nguyên Giáp thành lập đội “Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân” với quân số 34 người, tiền thân của quân đội Nhân nhân dân Việt Nam ngày nay. Tháng 8/1945, ông Giáp trở thành Ủy Viên Ban Chấp Hành Trung Ương, rồi Ủy Viên Thường Vụ Trung Ương. Cũng thời gian này, khai sinh tên nước “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, ông Giáp lần lượt giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ, rồi Bộ Trưởng Quốc Phòng, và Tổng Chỉ Huy Quân Đội, kể cả Dân Quân. Ông Giáp còn là Đại Biểu Quốc Hội từ khóa 1 đến khóa 6.
Về phần “bác” Các Anh. Dưới tên Nguyễn Ái Quốc, ông Hồ đã dự đại hội “Quốc Tế Cộng Sản” lần thứ 4 năm 1923, và lần thứ 5 năm 1924 tại Liên Xô. Trong đại hội, “bác” Các Anh được cử làm “Ủy Viên Ban Phương Đông”. Năm 1930, theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản, ông Hồ thành lập “Đảng Cộng Sản Đông Dương”, tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam ngày nay. Theo tài liệu trong Wikipedia, “bác” Các Anh kết hợp tư tưởng cộng sản của Karl Marx & Friedrich Engels với tư tưởng của Lenin vào chủ trương cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam trong mục đích cuối cùng là lực lượng vô sản thống trị thế giới. (ông Karl Marx và ông Engels ra bản Tuyên Ngôn Cộng Sản ngày 21/2/1848).

Năm 1952, để thực hiện cuộc cách mạng vô sản đó, “bác” Các Anh viết 2 thư gởi cho lãnh đạo Quốc Tế Cộng Sản là ông Stalin.
Thư số 1 đề ngày 30/12/1952 với nội dung xin thuốc kí-ninh và súng đạn.
Thư số 2 đề ngày 31/12/1952 với nội dung ngắn gọn như sau: “Xin gửi Ngài chương trình “Cải Cách Ruộng Đất” của đảng Lao Động Việt Nam. Chương trình hành động được lập bởi chính tôi, với sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi và Văn Sha San. Đề nghị Ngài xem xét và cho chỉ dẫn” (kèm theo thư là chương trình Cải Cách Ruộng Đất).
Các Anh thấy sự kiện thật rõ ràng và chắc chắn, là “bác” Các Anh và lần lượt là những nhóm lãnh đạo trong Bộ Chính Trị, liên tục thi hành lệnh của cộng sản quốc tế. Nếu Các Anh hỏi tôi “lệnh đó là lệnh gì?” thì tôi sẽ trả lời Các Anh cũng rõ ràng và chắc chắn vào cuối cuộc chiến 1960-1975, vì đó là mục đích mà tôi viết thư số 25 này.
Ngày 19/12/1946, chiến tranh giữa thực dân Pháp với Việt Minh cộng sản bùng nổ. Ông Võ Nguyên Giáp với chức vụ Tổng Chỉ Huy và Tổng Chính Ủy -đứng đầu quân sự với chính trị- và từ năm 1949 là Tổng Tư Lệnh Quân Đội kiêm Bí Thư Tổng Quân Ủy. Ông Võ Nguyên Giáp không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, cũng không trải qua các cấp bậc từ thấp lên cao, nhưng với Sắc Lệnh số 110 ngày 20/1/1948, ông trở thành Đại Tướng của “quân đội nhân dân” khi ông 37 tuổi. Cùng đợt “trở thành” cấp tướng với ông Giáp, cấp Trung Tướng có: Nguyễn Bình, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, và Trần Tử Bình.
Trong dịp trả lời phóng viên ngoại quốc sau đó, Đại Tướng Giáp nói: “Theo Chủ Tịch Hồ Chí Minh, nếu đánh (trận) thắng đại tá thì phong cấp Đại Tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong cấp Thiếu Tướng, đánh thắng trung tướng thì phong cấp Trung Tướng, đánh thắng đại tướng thì phong cấp Đại Tướng”.
Các Anh có buồn cười không vậy? Tư tưởng “bác” Các Anh thật lạ lùng, nếu không nói là quái đản. Cứ đánh trận mà chiến thắng, thì căn cứ vào cấp bậc của cấp chỉ huy thực dân Pháp thua trận mà thăng cấp tương đương.
Ông Võ Nguyên Giáp chủ trương kết hợp tư tưởng quân sự của “bác” Các Anh với lý luận quân sự Mác-Lênin, lấy ít đánh nhiều. Trong 9 năm đánh Pháp (1945-1954), phái đoàn quân sự Trung Cộng gồm 30.000 cán bộ sang huấn luyện quân đội dưới quyền ông Giáp.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1384827809.jpg

Điện Biên Phủ cách Hà Nội khoảng 300 cây số, dài 15 cây số và rộng 5 cây số, với sông Nậm Rồm giữa khu lòng chảo phì nhiêu đối với người Thái. Một sân bay nhỏ do quân đội Nhật xây cất năm 1944 (?) dọc theo sông Nậm Rốm. Rừng già và núi cao bao quanh, khống chế khu lòng chảo.
Ngày 2/11/1953, Tướng Navarre, Tổng Tư Lệnh quân viễn chinh Pháp, được lệnh thành lập căn cứ chiến lược khu lòng chảo Điện Biên Phủ, để án ngữ trục giao thông liên lạc của quân Việt Minh cộng sản trong vùng Thượng Lào với tây bắc Hà Nội. Ngày 20/11/1953, Trung Đoàn 1 Nhẩy Dù chiếm xong khu lòng chảo, với tổn thất không đáng kể. Vài ngày sau đó, được tăng cường 6 Tiểu Đoàn Nhẩy Dù nữa, và tính đến ngày 15/12/1953, căn cứ này có 11 Tiểu Đoàn Dù phòng thủ.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, sử dụng 15 trung Đoàn gồm Bộ Binh, Công Binh, Pháo Binh, và Cao Xạ tấn công Điện Biên Phủ, do 12.000 quân trú phòng dưới quyền chỉ huy của Đại Tá De Castries. Ít lâu sau, ông thăng cấp Thiếu Tướng. Chiến trường này với những trận đẫm máu!
Năm 1954. Điện Biên Phủ bị tấn công từ ngày 13/3/1954, dữ dội và liên tục, đến ngày 7/5/1954 thì kết thúc với tổn thất nặng nề cho cả hai bên:
Tổn thất của quân Pháp: Từ 1.747 tới 2.293 người chết + từ 5.240 tới 6.650 người bị thương + 1.729 người mất tích + 11.721 bị bắt làm tù binh.
Tổn thất của quân Việt Minh cộng sản: 4.020 người chết + 9.691 người bị thương + 792 người mất tích.
Với bản chất dối trá -hơn hết là dối trá trong truyền thông- những con số về tử vong trong các trận chiến mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam đưa ra, không thể nào có được con số chính xác hoặc gần gủi với con số thật, nhưng quân của Đại Tướng Giáp tổn thất trong trận Điện Biên Phủ nêu ở trên là tin được, vì ít nhất cũng là con số đó. Các Tướng Trần Canh, Lã Quý Ba, và Vi Quốc Thanh của Trung Cộng, là cố vấn vĩ đại bên cạnh Tướng Võ Nguyên Giáp. Vì vậy mà cứ đợt xung phong này gục ngã thì đợt xung phong kế tiếp tràn lên. Đại Tướng Giáp nói “lấy ít đánh nhiều”, nhưng trận địa đã thể hiện ngược lại là ông Giáp “dùng sinh mạng thay vũ khí” mà Trung Cộng gọi là “chiến thuật biển người” trong chiến tranh xâm lăng Đại Hàn năm 1950-1953 nhưng họ thảm bại.
Trận chiến Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hiệp Định Geneve ngày 20/7/1954 chia dãi đất hình cong chữ S làm hai quốc gia: Từ vĩ tuyến 17 trở lên Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo, theo chế độ cộng sản độc tài. Từ vĩ tuyến 17 trở xuống Nam là nước Việt Nam Cộng Hòa do ông Ngô Đình Diệm lãnh đạo, theo chế độ dân chủ tự do.
Tóm lại. Rõ ràng và chắc chắn là “bác” Các Anh cùng nhóm lãnh đạo mà Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là cánh tay phải của ông Hồ, đã dùng chiến thuật thí quân, không phải giải phóng như ông Hồ tuyên truyền mà là nhuộm đỏ một nửa nước Việt Nam theo lệnh của cộng sản quốc tế.

Thứ ba. Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong chiến tranh 1960-1975.

Cuối năm 1960, ông Võ Nguyên Giáp thành lập tổ chức có tên là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” làm bình phong cho quân cộng sản hoạt động ngay trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày 28/1/1968 (Tết Nguyên Đán). Chen lẫn trong tiếng pháo mừng Xuân là tiếng súng của quân cộng sản Võ Nguyên Giáp tấn công vào thủ đô Sài Gòn, cố đô Huế, và 30 tỉnh lỵ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phản công mạnh mẽ và chiến thắng trên các chiến trường, riêng chiến trường Huế kéo dài 21 ngày. Sau đó, thủ đô Sài Gòn lại bị tấn công lần 2 vào ngày 12/5/1968. Kết quả hai đợt tấn công trên khắp chiến trường từ Quảng Trị tới Cà Mau:
Tổn thất của Việt Nam cộng sản: 58.373 quân chết + 10.000 quân bị bắt + 6.000 quân buông súng đầu hàng + 17.000 vũ khí các loại bị ta tịch thu + Hơn 100 xác chiến xa do Nga sản xuất.

Tổn thất của Việt Nam Cộng Hòa: 4.954 quân nhân hy sinh + 14.300 đồng bào bị giết + 1.946 đồng bào mất tích. Quân cộng sản đã đốt khoảng 60.000 nhà dân để gây hỗn loạn mà chạy.
Riêng tại thành phố Huế. Theo tác giả David T. Zabecki trong quyển “The Vietcong Massacre at Hue” ấn hành năm 1976, số hài cốt tìm được do cộng sản Việt Nam đã giết trong 21 ngày chiếm giữ một phần thành phố Huế, và chôn tập thể trong các hầm là 2.810 người, trong tổng số hơn 5.000 người dân bị cộng sản giết chết. Theo sử gia Trần Gia Phụng, số người tìm được trong 22 mồ chôn tập thể là 2.326 xác trong tổng số dân bị giết là 5.800 người. Những con số của hai tác giả không hoàn toàn giống nhau, nhưng quá đủ để chứng minh bản chất dã man tàn bạo của quân cộng sản do lệnh của “bác” Các Anh và Võ Nguyên Giáp.
Năm 1972. Tướng Giáp sử dụng 6 Sư Đoàn tấn công vào Quàng Trị, Dakto (Kon Tum), và An Lộc (Bình Long) của Việt Nam Cộng Hòa.
Riêng mặt trận Quảng Trị. Cuối tháng 3/1972, khoảng 40.000 quân của Võ Nguyên Giáp tấn công Quảng Trị, và 2 tháng sau chiếm đóng phân nửa tỉnh này, kể cả Cổ Thành. Ngày 28/6/1972, quân lực Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu phản công, lần lượt chiêm lại các vị trí, và dồn quân của Tướng Giáp vào Cổ Thành. Ngày 7/9/1972, tấn công dữ dội vào Cổ Thành, và đến 8 giờ sáng ngày 16/9/1972 thì quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ được kéo lên đỉnh cột cờ Cổ Thành Quảng Trị.
Sau 4 tháng 16 ngày chiếm giữ Quảng Trị, hồi ký của Tướng cộng sản Lê Tự Đồng, Tư Lệnh mặt trận Quảng Trị, phổ biến năm 1997 tại Hà Nội, thừa nhận tổn thất hơn 50% quân của 4 Sư Đoàn tham chiến. Riêng tại Cổ Thành với hơn 10.000 quân phòng thủ đã tổn thất chưa từng thấy. Báo Tuổi Trẻ ngày 26/7/1998 tại Sài Gòn, tường thật lời kể của cựu chiến binh Trung Đoàn 27 sống sót, khi vào Cổ Thành với hơn 1.500 quân, nhưng khi thoát ra khỏi Cổ Thành chỉ còn 1 tiểu đội!
Năm 1973. Hội nghị Paris bắt đầu từ tháng 5/1968, giằng co đến ngày 27/1/1973 các bên mới ký “Hiệp Định chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình”. Hiệu lực ngay sau đó.
Căn cứ Tống Lê Chân do Tiểu Đoàn 92 Biệt Động Quân trú phòng, án ngữ trục liên lạc và chuyển quân của cộng sản qua lại giữa “trung ương cục Miền Nam” với “khu tam giác sắt” ở ranh tỉnh Phước Long-Bình Dương. Trong trận chiến “Mùa hè 1972”, căn cứ này bị quân cộng sản bao vây từ tháng 5/1972, và liên tục tấn công ngay cả khi Hiệp Định Paris có hiệu lực cho đến ngày 11/4/1974 là 702 ngày, được lệnh rút bỏ căn cứ để hành quân lưu động. Trận chiến Tống Lê Chân, là sự kiện chứng minh lãnh đạo Các Anh không tôn trọng chữ ký của chính họ trong Hiệp Định, cũng là dối trá trong bang giao quốc tế.
Năm 1975. Lãnh đạo cộng sản Hà Nội thật sự xóa bỏ Hiệp Định Paris khi xua toàn lực từ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đánh chiếm nước Việt Nam Cộng Hòa vào ngày cuối tháng 4/1975! Trong bang giao quốc tế, quân của quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, ngoài hai chữ “xâm lăng” ra không còn chữ nào đủ nghĩa để chỉ hành động đó.

Tóm tắt. Rõ ràng và chắc chắn là “bác” Các Anh và lần lượt những nhóm lãnh đạo mà cánh tay phải là Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đứng đầu quân đội, đã đẩy vào cõi chết ít nhất là 4.000.000 quân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, để “phanh thây uống máu quân thù” là quân và dân nước Việt Nam Cộng Hòa. Tuyệt nhiên không phải giải phóng như lãnh đạo Các Anh tuyên truyến, mà là nhuộm đỏ toàn cõi Việt Nam theo lệnh của Đệ Tam Quốc Tế trong mục đích cuối cùng là thống trị toàn thế giới! (“phanh thây uống máu quân thù” là trích trong bài Tiến Quân Ca của quân đội ông Giáp, cũng là quốc ca của cộng sản Việt Nam)
Hãy nhớ, lúc đương thời trong chức Tổng Bí Thư, ông Lê Duẫn cũng nói theo ý nghĩa như vậy: “Ta đánh đây là đánh cho Nga, đánh cho Tàu...”
Đây là lời của lãnh đạo cộng sản quốc tế giúp Các Anh hiểu được tận gốc của củ nghĩa cộng sản: Ông Lenine khẳng định: “Nói láo nhiều lần, chuyện láo sẽ thành chuyện thật” Ông Gorbachev, người đã đưa chủ nghĩa cộng sản vào sụp đổ, đã nói: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng, đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”. Ông Boris Yeltsin, khi là Tổng Thống nước Nga thời hậu cộng sản, đã nói: “Cộng sản là không thể nào sữa chửa, mà cần phải đào thải nó”.
Đó là câu trả lời mà tôi đã hứa ở phần 2.

Nhận định về Tướng Võ Nguyên Giáp.

Năm 1977 (?) Tại Hà Nội, một phóng viên ngoại quốc nêu câu hỏi với Tướng Giáp: “Đại Tướng có hối tiếc gì về hơn 4 triệu người Việt Nam đã chết vì cuộc nội chiến ý thức hệ Cộng Sản?…” Đại Tướng Giáp của Các Anh điềm nhiên trả lời bằng tiếng Pháp: “Non, pas du tout”. “Không hối tiếc gì cả”. (con số 4 triệu quân mà ông Giáp đã thí trong chiến tranh do Đại Hội 4 CSVN năm 1976 đúc kết sơ khởi)
Năm 1987. Tướng Peter Mac Donald trong Quân đội Hoàng Gia Anh 32 năm, sang Việt Nam gặp Tướng Võ Nguyên Giáp để viết cuốn “GIAP, les deux guerres d’ Indochine” “Giáp, hai cuộc chiến tranh Đông Dương” và ấn hành năm 1992. Tác giả nhận định: “Những tư tưởng của tướng Giáp được ghi lại trên giấy thường là chán ngán đến chết người”..... Để Kết luận P. Mac Donald viết: “Từ khi còn trẻ, tướng Giáp đã thấm nhuần lý thuyết Cộng Sản. Thật đáng tiếc là trải qua mấy chục năm dài, lẽ ra trí thông minh của ông đã có thể mách bảo ông rằng, cái chế độ mà ông tham gia xây dựng là sai lầm tệ hại, để từ đó tìm ra con đường khác bảo đảm hạnh phúc cho đồng bào của ông. Nhưng, ông Giáp đã mù quáng phục vụ đường lối Marx – Lénine theo như Hồ Chí Minh dẫn giải...”.
Năm 1996. Với bài viết “Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là danh tướng hay hèn tướng?” của tác giả Phạm Trần Anh, ông kể chyện: “... Trong cuộc hội thảo tại trụ sở Quốc Hội Hoa kỳ, cựu Đại Tướng Westmoreland nói với tác giả rằng: “Tôi công nhận tài năng của tướng Giáp, phải có tài mới ở lâu đến hơn 30 năm chiến tranh trên cương vị tư lệnh quân sự cao nhất; nhưng phải nói thật là nếu như Tướng Giáp là viên Tướng Hoa kỳ thì ông đã bị mất chức từ lâu rồi, vì Quốc Hội và xã hội oa Kỳ không thể chấp nhận những tổn thất sinh mạng của quân đội cao đến như vậy”.

Thứ tư. Thật sự Việt Nam có cần cuộc chiến tranh 1945-1975 không?

Tôi có nét nhìn khác với nét nhìn của những người khóc lóc thảm thiết khi ông Võ Ngyên Giáp từ trần. Xin nhắc để Các Anh nhớ rằng, “bác” Các Anh là Chủ Tịch đảng, mà đảng cộng sản Việt Nam là “một chi bộ” của cộng sản quốc tế, cũng gọi là Đệ Tam Quốc Tế. Từ đó, “bác” Các Anh cùng nhóm đàn em tin cậy mà ông Võ Nguyên Giáp là cánh tay phải của ông Hồ, tuyệt nhiên không phải giải phóng quê hương như họ tuyên truyền, mà là từng bước đưa dân tộc Việt Nam vào thế giới cộng sản độc tài nghiệt ngã, vì Đệ Tam Quốc Tế do ông Lenin thành lập năm 1919 sau khi cướp chính quyền ở Nga. Năm 1920, đại hội quốc tế quy định 21 điều cho các đảng cộng sản hội viên. Ủy Ban Chấp Hành Đệ Tam Quốc Tế (ECCI), từ 10 đến 12 ủy viên, mỗi đảng lớn được hai ghế, các đảng nhỏ chỉ có quyền tham khảo chớ không có ghế. Liên Xô đương nhiên chiếm 5 ghế, cùng với chức Chủ Tịch Ủy Ban Chấp Hành, vì Liên Xô là quốc gia tiếp nhận tổ chức. Trên Ủy Ban Chấp Hành là một Chủ Tịch Đoàn, và Chủ Tịch của Chủ Tịch Đoàn có quyền hạn rộng lớn mà ông Lenin nắm giữ từ năm 1920 đến năm 1924, sau đó là ông Stalin. Dưới đây là 5 Điêu, liên quan trực tiếp đến các đảng hội viên:
Điều 9. “Liên hệ giữa các đảng hội viên với các cơ quan trung ương của Đệ Tam Quốc Tế, theo nguyên tắc thống nhất và kỹ luât vô sản. ECCI là cấp trên, các đảng hội viên là cấp dưới. ECCI có quyền đòi một đảng hội viên trục xuất một nhóm, hay một đảng viên vi phạm kỹ luật, hoặc trục xuất một đảng vi phạm quyết định của Đại Hội Đệ Tam Quốc Tế”.
Điều 12: "Tất cả các đảng thuộc Đệ Tam Quốc Tế phải được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ".
Điều 15: "Các đảng phải lập chương trình thích ứng với điều kiện của nước, và đúng với những nghị quyết của Đệ Tam Quốc Tế".
Điều 16: "Tất cả quyết nghị của các đại hội thế giới Đệ Tam Quốc Tế, cùng các quyết nghị của Ủy Ban Chấp Hành của Đệ Tam Quốc Tế, đều ràng buộc các đảng hội viên thi hành".
Điều 17: “Các đảng hội viên, chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, vì Đệ Tam Quốc Tế không phải là một tập hợp của những chi bộ quốc gia, mà là một tổ chức quốc tế thống nhất".
Ông Lênin giải thích rằng, Đệ Tam Quốc Tế là "một đội quân vô sản quốc tế" mà nhiệm vụ là "thực hiện cách mạng vô sản quốc tế, thiết lập một Cộng Hòa Sô Viết Quốc Tế".
Để thi hành lệnh của cộng sản quốc tế, “bác” Hồ Các Anh dẫn dắt các nhóm lãnh đạo qua từng thời gian –trong đó Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đứng đầu quân đội- thực hiện bằng được một nước Việt Nam vô sản, cho dù thiệt hại bao nhiêu triệu sinh mạng con người cũng chấp nhận. Khi nhuộm đỏ được Việt Nam, áp đặt một chế độ độc tài tàn bạo và khắc nghiệt phũ trùm toàn xã hội xã hội chủ nghĩa: (1) Bịt mắt bịt tai người dân, bằng hệ thống truyền thông của đảng. (2) Bóp nghẹt tư tưởng và trói chân trói tay bịt miệng người dân, bằng những điều luật vi phạm Hiến Pháp. (3) Bị khủng bố tinh thần bất cứ ai có suy nghĩ khác và hành động khác với đảng, bằng một lực lượng Công An Nhân Dân và thành phần côn đồ nhân dân, cộng với hệ thống nhà tù mà họ gọi là “trại cải tạo”
Song song đó, là xã hội xã hội chủ nghĩa được lãnh đạo buông thả cho mọi người ăn chơi sa đọa, để không quan tâm đến những quyền tự do căn bản của chính mình và của mọi người mà Công Ước quốc tế công nhận.
Thật đáng mừng cho Tổ Quốc Dân Tộc, vì một thành phần đông đảo công dâ đã thức tỉnh, gồm: Trí thức, sinh viên học sinh, giới trẻ, đảng viên, cựu đảng viên, thật sự dũng cảm tranh đấu cho quyền con người. Còn đại đa số không có điều kiện tiếp xúc với sinh hoạt hải ngoại ngang qua hệ thống internet với vô số tin tức. Đó là những tin tức liên quan trực tiếp đến Việt Nam, nhất là những tin tức ghi nhận những sự thật tồi tệ của lãnh đạo cộng sản “dội lại” từ hải ngoại. Chẳng hạn như: Năm 1953-1956, cải cách ruộng đất đã đấu tố 172.008 người. Năm 1954-1956, cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vĩ đại lần 1 của 971.533 người chạy khỏi đất Bắc xã hội chủ nghĩa đề vào đất Nam dân chủ tự do sinh sống. Năm 1958, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi Công Hàm công nhận Biển Đông thuộc chủ quyền Trung Cộng. Năm 1975, dùng phi cơ chớ 16 tấn vàng gồm 1.234 thoi của Việt Nam Cộng Hòa ra Hà Nội. Năm 2010 tại Đà Lạt, ông Trường Chinh trả lời nhà báo Đại Tá Bùi Tín rằng: “Tôi có biết chuyện này, nhưng đến nay thì hết sạch rồi...”. Năm 1975-2000, cuộc “bỏ phiếu bằng chân” vĩ đại lần 2 của 989.200 người Việt Nam Cộng Hòa cũ chạy trốn cộng sản bằng cách vượt biên vượt biển, sau khi để lại khoảng 450.000 xác chết trong rừng sâu và trên biển cả. Năm 1988, 8 đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào tay Trung Cộng. Ngày 3-4/9/1990, tại hội nghị Thành Đô, ông Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và Thủ Tướng Đỗ Mười, đã thỏa thuận với ông Tổng Bí Thư Giang Trạch Giang và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung Cộng, sẽ từng bước đưa nước Việt Nam trở thành một Tỉnh của Trung Cộng từ năm 2020. Ngày 30/12/1999, ký văn kiện giao 789 cây số vuông dọc theo biên giới cho Trung Cộng. Ngày 31/12/2000, ký văn kiện giao 11.362 cây số vuông trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. Tính đến cuối năm 2011, có từ 150.000 - 200.000 công nhân Trung Cộng tràn ngập khắp miền đất nước dưới dạng xây dựng 90% công trình của Việt Nam. Cùng năm 2001, các tỉnh biên giới đã cho Trung Cộng mướn 300.000 mẫu rừng đầu nguồn mà không biết họ sử dụng làm gì. Và ..v..v...
Dưới nét nhìn của tôi, tất cả gộp lại là tội ác. Chỉ riêng hành động giao một vùng đất dọc biên giới và một vùng biển trong Vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng, đã là tội ác đối với Tổ Quốc và Dân Tộc. Mà khi đã là tội ác với Tổ Quốc và Dân Tộc, nếu còn sống phải bị luật pháp trừng phạt, nếu đã chết phải ghi vào sử sách để lưu truyền mãi mãi trong dân gian. Xin nhớ rằng, được người đời vinh danh, hay bị người đời nguyền rủa và lưu mãi trong sử sách truyền mãi trong dân gian, là chính mỗi người trong xã hội tự tạo cho mình chớ không ai khác. Riêng với đảng cộng sản Việt Nam, cho dẫu họ có thần thánh hóa "bác" Các Anh hay nhân vật lãnh đạo nào bằng cách nào bất cứ phương cách nào đi nữa, lịch sử vẫn dành bóng tối nhầy nhụa cho cộng sản độc tài, và ánh sáng lúc bình minh luôn luôn thuộc về lòng dân và bất cứ nhân vật nào hay tổ chức nào phục vụ người dân.
Về phần Các Anh, Các Anh nghĩ sao?

Kết luận.

Tôi hy vọng là qua hình ảnh của: “Hằng trăm hằng ngàn “Đoàn Dân Oan” đòi lại công bằng liên quan đến đất đai để ổn định đời sống của họ. Hằng trăm “Đoàn Biểu Tình” đòi thực hiện quyền con người cho dân tộc mà lãnh đạo cộng sản đã ký vào Công Ước của Liên Hiệp Quốc. Hằng trăm vụ “Tham Nhũng Lớn” trong những tập đoàn doanh nghiệp nhà nước trong tay của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đến phá sản hằng loạt, đã gây lũng đoạn kinh tế tài chánh quốc gia. Hằng chục thành phố lớn thường xuyên bị “Chìm Dưới Nước Đen Ngòm” do phát triển một cách hỗn loạn, nhưng với “nhóm lợi ích” cứ phát triển nhanh càng rửa tiền nhanh, ..v..v.., sẽ giúp người dân nói cbng và Các Anh nói riêng, thấu hiểu xã hội Việt Nam dưới sự cai trị của đảng cộng sản độc tài tàn bạo và khắc nghiệt đến mức nào!
Tôi thông cảm với Các Anh, là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà hơn hết là toàn bộ các phương tiện trong hệ thống truyền thông chỉ là tiếng nói của lãnh đạo đảng mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
Nhưng tôi hy vọng là Các Anh, trong một mức độ nào đó đã hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình trong nhà tù lớn xã hội chủ nghĩa. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 11 năm 2013
*********

tieuchuy
01-15-2014, 12:02 AM
Thư số 26 gởi
người lính quân đội nhân dân Việt Nam.
*****
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi mà quê hương tôi có dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền, cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Với thư này, tôi giúp Các Anh nhận ra thỏa hiệp kinh hoàng giữa lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lãnh đạo Trung Cộng. Tiếp theo là những sự kiện rất trùng hợp, cho thấy lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện những điều đã thỏa hiêp mà theo đó là “Việt Nam đã và đang từng bước sáp phập vào nước Trung Hoa”. Từ đó, Các Anh có thêm yếu tố mà suy nghĩ .....

Thứ nhất. Hội nghị năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Cộng.

Ông Nguyễn Văn Linh (Wikipedia - Nguyễn Văn Linh), tên thật là Nguyễn Văn Cúc, chào đời ngày 1/7/1915 tại Hưng Yên. Không thấy nói trình độ giáo dục, nhưng năm 14 tuổi có tham gia Học sinh đoàn do Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên lãnh đạo. Ngày 1/5/1930, khi rải truyền đơn chống Pháp thì bị bắt với án tù chung thân tại trại tù Côn Đảo. Năm 1936, chánh phủ Pháp thay đổi lãnh đạo và ông được trả tự do. Ông Linh vào đảng cộng sản tại Hải Phòng.

Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6, ông Nguyễn Văn Linh giữ chức Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành trung ương Trong đại hội 7 năm 1991 và đại hội 8 năm 1996, giữ chức Cố Vấn, Ban Chấp Hành trung ương. Ông chết ngày 27/4/1998.
Ông Trần Quang Cơ (Google.vn - Hồi ký Trần Quang Cơ). Giữ chức Đại Sứ tại Thái Lan từ tháng 10/1982 đến tháng 10/1986. Giữ chức Thứ Trưởng Ngoại Giao từ tháng 1/1987 đến 1993 ông về hưu.

Trước khi đến hội nghị Thành Đô.

Từ đầu năm 2004, giới cán bộ ngoại giao và giới trí thức ở Việt Nam đã chuyền tay nhau tập hồi ký và suy nghĩ của ông Trần Quang
Cơ, nguyên Thứ Trưởng Ngoại Giao. Tập hồi ký 82 trang viết từ năm 2001, hoàn tất tháng 5/2003, nhưng chưa được phép xuất bản. Tác giả cung cấp những tài liệu giá trị về những vấn đề Việt Nam trong giai đoạn nguy khốn nhất, bởi chiến tranh Campuchia và tái lập bang giao (Các Anh gọi là quan hệ) giữa hai nước cộng sản đàn anh Trung Hoa với đàn em Việt Nam.
Ngày 9/4/1987, Bộ Chính Trị quyết định thành lập “Tổ Nghiên Cứu Nội Bộ” để tìm giải pháp trong bang giao với Liên Xô- Trung Cộng - Camphuchia. Ông Trần Quang Cơ là một thành viên trong tổ nghiên cứu này. Ngày 20/5/1988, Nghị Quyết 13 nhắm giải quyết vấn đề Campuchia trước năm 1990, và cố gắng tái lập bang giao với Trung Cộng. Ngày 14/3/1989, Bộ Chính Trị quyết định rút hết quân khỏi Campuchia vào cuối tháng 9/1989. Ngày 13/6/1990, Đại Sứ Trung Cộng tại Việt Nam Từ Đôn Tín, đến gặp Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch và nói: “Lần này tôi sang Hà Nội chủ yếu để bàn với các đồng chí Việt Nam về vấn đề Campuchia, đồng thời cũng xem xét nguyện vọng của các đồng chí, chúng tôi đã chuẩn bị ý kiến về quan hệ hai nước Trung Quốc - Việt Nam”.
Ngày 29/8/1990, Đại Sứ Việt Nam tại Trung Cộng Trương Đức Duy trở về nước để gặp Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh trao thông điệp của Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân, mời các ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên Trung Cộng vào ngày 3/9/1990, để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá bang giao giữa Việt Nam với Trung Cộng.
Điều lạ là ngày 24/8/1990, Trung Cộng đã bác bỏ việc bàn chuyện bình thường hóa, mà đòi phải giải quyết vấn đề Campuchia trước. Theo ông Nguyễn Cơ Thạch, Bộ Trưởng Ngoại Giao nhận định: “Sự thay đổi đột ngột của Trung Quốc là do họ thấy Mỹ, Nhật, đặc biệt là các nước trong khối ASEAN, tỏ thái độ thân thiện với Việt Nam, nên họ muốn phá Việt Nam”.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH261.jpg

Ngày 30/8/1990, Bộ Chính Trị họp bàn về việc gặp lãnh đạo Trung Cộng. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chúng ta cần bàn hợp tác với Trung Cộng để bảo vệ Chủ Nghĩa Xã Hội và chống đế quốc, đồng thời hòa hợp giữa Phnom Penh với Khmer đỏ để giải quyết vấn đề Campuchia”. Quan điểm của Đại Tướng Lê Đức Anh là: “Phải bàn về hoà hợp dân tộc thực sự ở Campuchia, vì nếu không có Polpot thì chiến tranh vẫn tiếp tục”.
Ngày 2/9/1990, Ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng đến Thành Đô đúng hẹn. Tháp tùng có ông Hồng Hà chánh văn phòng trung ương, ông Hoàng Bích Sơn Trưởng ban đối ngoại, và ông Đinh Nho Liêm Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao, nhưng không có Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Cơ Thạch vì cho rằng quan điểm ông Thạch không thích hợp trong lần họp này.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH262.jpg

Hội nghị Thành Đô.

Ngày 3/9/1990. Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân và Thủ Tướng Lý Bằng của Trung Cộng, đón các vị lãnh đạo cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Phạm Văn Đồng tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô.
Buổi họp đầu tiên chiều hôm nay, ông Nguyễn Văn Linh nói đến nguyện vọng muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Campuchia, và đặt trọng tâm vào vấn đề bình thường hóa bang giao Việt-Trung.
Ngày 4/9/1990. Buổi sáng tiếp tục họp. Những vấn đề hội nghị thảo luân hầu như đạt được nhận thức chung một cách đầy đủ, nên quyết định khởi thảo một bản kỷ yếu của Hội Nghị. Lúc 2 giờ 30 chiều, tại khách sạn Kim Ngưu, lãnh đạo hai nước Việt-Trung cử hành nghi thức ký kết chánh thức. Hai bên riêng biệt do Tổng Bí Thư và Thủ Tướng ký. Đây là bước ngoặt mang tính lịch sử của bang giao hai nước Việt-Trung.
Điều lạ là ông tác giả hồi ký chỉ cho biết hai bên đạt được nhận thức chung một cách đầy đủ, nhưng không một chi tiết nào cho thấy hai bên đạt được những gì. Vậy, phải chăng những chi tiết đó thuộc loại tối mật chăng?
Trong cuốn sách “Mao Chủ Tịch của tôi” của tác giả Hà Cẩn, Viện Văn Học Trung Cộng đã được giới thiệu trong “Những sự thật không thể chối bỏ” có đoạn viết: ”Việt Nam cuối cùng cũng đã xích lại gần hơn nữa với Trung Quốc. Những gì thuộc về quan hệ tốt đẹp của hai đảng từ thời Mao Chủ tịch và Hồ Chủ tịch đã được Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh cụ thể hơn sau chiến tranh biên giới năm 1979. Không có gì có lợi hơn cho cả Việt Nam và Trung Quốc khi đứng cạnh nhau”.

Sau hội nghị Thành Đô.

Sau 2 ngày họp 3 và 4/9/1990, kết quả được ghi lại trong “Biên Bản” gồm 8 điểm. Trong đó có đến 5 điểm nói về Campuchia, 2 điểm nói đến bang giao quốc tế, chỉ có 1 điểm nói đến cải thiện bang giao Việt Nam - Trung Cộng. Tác giả nhận định rằng: “Thỏa thuận Việt Nam-Trung Quốc ở Thành Đô, hoàn toàn không phải là một thành tựu đối ngoại của Việt Nam, mà ngược lại là một sai lầm hết sức đáng tiếc trong bang giao giữa hai nước.
Sự kiện Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đã tác động rất lớn đến ông Nguyễn Văn Linh, và dẫn đến tư tưởng phục tùng Trung Cộng, kẻ thù ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Mặc dù Nguyễn Cơ Thạch, Võ Chí Công, Trần Xuân Bách can ngăn, nhưng ông Nguyễn Văn Linh không nghe, vẫn giữ quan điểm: “Kéo Trung Quốc lại để thay thế Liên Xô, làm chỗ dựa vũng chắc bảo vệ xã hội chủ nghĩa. Dù Trung Quốc bành trướng thế nào đi nữa thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa”.

Tóm tắt. Những sử liệu của Trung Cộng đã chứng minh nhóm dâng nước và bán nước do ông Nguyễn Văn Linh đứng đầu. Những ai thật sự lương thiện đã không theo cộng sản, hoặc nhận thấy cộng sản tồi tệ nên đã ly khai khỏi đảng, đều công nhận rằng “cộng sản là dối trá và ngụy biện”. Cái cách mà ông Nguyễn Văn Linh dối gạt dân khi nói đến chủ trương “cởi trói” chính là cách ngụy biện cho đường lối độc tài của cộng sản: Vậy thì mỗi chúng ta hãy đem những sự thật này đến với nhân dân Việt Nam, vì đó là con đường ngắn nhất để cứu nước trước thảm họa đang đến rất gần. Đấu tranh cho dân chủ, trước hết phải lật đổ cộng sản.
Cuối cùng, tôi không tìm thấy thỏa hiệp về tái lập bang giao giữa hai nước cộng sản Việt-Trung trong Biên Bản hội nghị Thành Đô, chỉ thấy được nhận định của tác giả cho rằng, thỏa thuận với Trung Cộng là một sai lầm hết sức đáng tiếc. Vậy, sai lầm đó là gì? Các Anh hãy theo tôi, để tìm sự thật qua những tài liệu mà tôi trưng dẫn liên quan đến nhận định của Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ lúc ấy.

Thứ hai. Đi tìm sự thật trong biên bản hội nghị Thành Đô.

Theo hồi ký của ông Trần Quang Cơ, “Biên Bản” hội nghị Thành Đô ngày 4/9/1990 có 8 điểm, trong đó 5 điểm về Campuchia, 2 điểm về quốc tế, chỉ có 1 điểm nói đến bang giao Việt Nam với Trung Cộng, nhưng không có chi tiết nào về nội dung. Nhưng tác giả thừa nhận thỏa thuận đó là một sai lầm hết sức đáng tiếc. Tôi nghĩ, ông Trần Quang Cơ muốn nói đến sai lầm trong nội dung điểm cải thiện bang giao với Trung Cộng, và có thể vì vậy mà quyển sách vẫn chưa được lãnh đạo của ông cho phép ấn hành chăng?
Vậy, sai lầm đó là gì?
Mời Các Anh đọc đoạn văn dưới đây để tìm thấy sự thật mà tôi tin là cựu Thứ Trưởng Ngoại Giao Trần Quang Cơ muốn nói nhưng không dám nói hoặc không được nói. Xin nhấn mạnh rằng, hồi ký của ông Trần Quang Cơ cũng như tài liệu dưới đây liên quan đến hội nghị Thành Đô hoàn toàn giống nhau, ngoại trừ vấn đề cốt lõi là tái lập bang giao giữa hai nước cộng sản Việt Nam với Trung Hoa thì giấu kín. .
Tôi tin chắc rằng, nội dung thỏa hiệp bình thường hóa bang giao giữa Trung Cộng với Việt Cộng trong Biên Bản hội nghị Thành Đô ngày 4/9/1990, là tin tức mà tổ chức Wikileaks cho biết họ có trong tay khối tài liệu liên quan đến Việt Nam vào khoảng 2.300 điện tín gửi đi từ tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội, và khoảng 800 điện tín từ tòa lãnh sự Hoa Kỳ ở Sài Gòn, trong số 251.287 điện tín tài liệu trao đổi giữa 250 tòa đại sứ và tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại hơn 90 quốc gia với Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Đốn. Trong số hơn 3.100 điện tín liên quan đến Việt Nam có cả những loại “tối mật”, đặc biệt hơn cả là Biên Bản về cuộc họp tối mật giữa Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh & Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười của Việt Nam, với Tổng Bí Thư Giang Trạch Dân & Thủ Tướng Lý Bằng của Trung Cộng, ngày 3 và 4/9/1990 tại Thành Đô. Biên Bản này có đoạn:
“… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản, đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước, do Chủ Tịch Mao Trạch Đông và Chủ Tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ. Việt Nam bày tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung Quốc để Việt Nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…. Phía Trung Quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho Việt Nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020) để đảng cộng sản Việt Nam giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Vậy, có thể nói mà không sợ lầm lẫn là nội dung 1 điểm trong 8 điểm của Biên Bản Thành Đô liên quan đến vấn đề bang giao giữa hai nước cộng sản Việt Nam-Trung Hoa là đoạn văn bên trên. Và dưới đây là chuỗi sự kiện từ sau hội nghị Thành Đô 1990 đến nay, cho dù lãnh đạo Các Anh có phủ nhận đến đâu đi nữa, nó vẫn là một loạt dẫn chứng lãnh đạo Các Anh đã và đang thực hiện các bước tiến hành cần thiết đó.

Nhìn lên biên giới.

Ngày 30/12/1999 tại Bắc Kinh, lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung cộng đã ký Hiệp Ước biên giới trên bộ, và ông Nông Đức Mạnh với tư cách Chủ Tịch Quốc Hội đã phê chuẩn ngày 9/6/2000. Theo đó, biên giới Việt Nam mất 789 cây số vuông vào tay Trung Cộng, bao gồm Ải Nam Quan và 3/4 thác Bản Giốc.
Xin hỏi: “Các Anh có chấp nhận sự thực này không? Nếu không, mời đọc vài đoạn ngắn trong bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang, Hà Nội: “... Hiệp Ước bán phần đất biên giới chỉ được lãnh đạo Việt Nam thông báo trong nội bộ đảng, như thể đất nước này là tài sản riêng của đảng cộng sản vậy. Thông báo chánh thức đó như thế này: Toàn bộ diện tích các khu vực hai bên có nhận thức khác nhau khoảng 227 cây số vuông. Qua đàm phán, hai bên đã thỏa thuận khoảng 113 cây số vuông thuộc Việt Nam, và khoảng 114 cây số vuông thuộc Trung Hoa. Như vậy, diện tích được giải quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, hoàn toàn không có việc ta để mất một diện tích lớn như bọn phản động và bọn cơ hội chính trị bịa đặt”. Rồi ông Giang mỉa mai: Vậy là cái xấp xỉ đó có mất đất thật! Nhưng mất theo nguyên tắc nào? Vì sao Việt Nam chỉ có 320 ngàn cây số vuông lại phải xẽ cho Trung Hoa với diện tích 9 triệu 600 ngàn cây số vuông để họ có thêm 1 cây số vuông nữa? Cho dù Trung Hoa có 1 tỉ 300 triệu dân, nhưng đâu phải họ thiếu đất cho dân ở đến nỗi Việt Nam phải chia cho họ 1 cây số vuông?” .....

Các Anh có cảm nhận được nỗi đau qua lời than của ông Giang không? Lời than của một ông Giang trong hàng trí thức của cộng sản, nghe sao mà đau đớn quá! Cay đắng quá! Lời than như nối dài lời dạy của Vua Trần Nhân Tông từ trong lịch sử xa xưa! Vào nửa cuối thế kỷ 13, khi trao quyền cho con (Trần Anh Tông), vua Trần Nhân Tông có lời dạy rằng:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo làm người. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo, vô luân. Cho nên cái họa lâu đời của ta là họa Trung Hoa. Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải, các việc trên khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn là họa ngoại xâm. Họ không tôn trọng biên giới theo qui ước, cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai và hải đảo của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy, các ngươi phải nhớ lời ta dặn: "Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu." Kẻ khác, mà vua Trần Nhân Tông nói đến, thuở ấy là Trung Hoa phong kiến, và bây giờ là Trung Hoa cộng sản. Ngắn gọn là Trung Cộng.

Nhìn vào vịnh Bắc Việt.

Sau khi chiếm được 789 cây số vuông dọc biên giới, ngày 31/12/1999, Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Cộng Tang Jiaxuan sang Hà Nội gặp riêng ông Lê Khả Phiêu, đòi phân chia lại phần biển trong Vịnh Bắc Việt. Ngày 25/2/2000, Lê Khả Phiêu cử Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Dy Niên sang Bắc Kinh cho biết phía Việt Nam đồng ý giao thêm phần biển. Ngày 26/7/2000, tại khách sạn Shangri-La ở Thái Lan, Ngoại Trưởng Trung Cộng nói với Ngoại Trưởng Nguyễn Dy Niên ràng: “Trung Cộng muốn chia Vịnh Bắc Việt theo tỷ lệ 50/50”. Ngày 24/12/2000, Thứ Trưởng Ngoại Giao Lê Công Phụng được Chủ Tịch Trần Đức Lương cử sang Trung Cộng gặp ông Hoàng Di, phụ trách tình báo và là cánh tay phải của Ngoại Trưởng Trung Cộng. Họ vẫn khăng khăng đòi tỷ lệ 50/50 trên vịnh Bắc Việt, gồm cả đảo Bạch Long Vĩ. Lê Công Phụng được lệnh Bộ Chính Trị cố gắng “xin lại 6%” gần khu vực Bạch Long Vĩ. Kết quả cuối cùng cuộc đi đêm của Lê Công Phụng, biên giới trên Vịnh Bắc Việt của Việt Nam từ 62% xuống còn 56%, và Trung Cộng từ 38% tăng lên 44%.
Ngày 25/12/2000, Chủ Tịch nhà nước Trần Đức Lương sang Bắc Kinh ký Hiệp Ước bán biên giới trên vịnh Bắc Việt cho Trung Cộng. Từ đó, tổ quốc Việt Nam bị mất 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt. Hãy nghe Lý Bằng nói với Trần Đức Lương tại Quảng Trường Nhân Dân ngày 26/12/2000 như sau: “Số tiền 2 tỷ mỹ kim để mua một phần Vịnh Bắc Việt là hợp lý”. Lý Bằng nói tiếp: “Trong thời gian chiến tranh, Trung Hoa đã giao cho Việt Nam vô số vũ khí để mua vùng đất Sapa, Ải Nam Quan, thác Bản Giốc,.....
Vậy là, chỉ hơn một năm, họ đã chiếm được 789 cây số vuông trên biên giới, và 11.362 cây số vuông trên Vịnh Bắc Việt, mà Trung Cộng không chết một mạng người, không bắn một viên đạn, không tốn một giọt xăng dầu, cũng không nhỏ một giọt mồ hôi, họ chỉ cần nhón 3 ngón tay cầm cây viết ký vào bản Hiệp Ước là xong. Với tư cách là “Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, có khi nào Các Anh cảm nhận được sự giằng xé từ trong chiều sâu tâm hồn của NGười Lính đối với Tổ Quốc và Nhân Dân không? Nếu KHÔNG, tôi xin hỏi: “Các Anh là người Việt Nam hay người Trung Hoa?” Nếu CÓ, tôi xin hỏi: “Vậy, Các Anh đang nghĩ gì......?”

Nhìn ra Biển Đông.

Ngày 2/12/2007, Quốc Vụ Viện Trung Cộng thành lập quận Tam Sa trong tỉnh Hải Nam, bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Lãnh đạo Các Anh phản ứng qua Lê Dũng, người phát ngôn của Bộ Ngoại Giao, đủ để gọi là có phản ứng, và sau đó im lặng hoàn toàn. Nhớ lại hồi tháng 5/2009, Trung Cộng trưng ra tấm bản đồ Biển Đông với hình chữ U thường gọi là “đường lưỡi bò” để giành chủ quyền hơn 80% diện tích biển này.
Trích bài viết của tác giả Vũ Cao Đàm, giúp Các Anh nhận rõ thêm về chính sách bang giao phục tùng của lãnh đạo Các Anh đối với Trung Cộng:
“Năm 2010, tôi đọc được một bài báo sặc mùi hiếu chiến được đăng trên trang mạng “Trung Quốc Binh Khí Đại Toàn” là một trang mạng của Trung Cộng. Tôi đã dịch sang Việt ngữ và gửi đăng trên trang Bauxite Việt Nam (BVN). Ngay sau khi BVN đăng tải, tôi rất vui mừng vì bản dịch rất nhanh chóng lan truyền trên các trang mạng và blog của Cộng Đồng Việt Nam, và nhận được những lời bình luận sôi sục tình cảm yêu nước thương nòi, căm thù bọn cộng sản xâm lược khát máu Đại Hán, và thức tình lương tri của những ai đang còn mê muội ảo tưởng vào giọng lưỡi xảo trá “đồng chí quốc tế vô sản, anh em môi hở răng lạnh, 4 tốt, và 16 chữ vàng”. Bài báo kết thúc bằng lời nguyền của họ là: “hãy giết chết bọn giặc Việt Nam để làm vật tế cờ cho trận chiến Nam Sa”.
Ngày 28/8/2011, theo bản tin thông tấn xã Việt Mam, Tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam, trong buổi họp với Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Trung Cộng tại Bắc Kinh, Tướng Vịnh nói: "Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng... Việt Nam sẽ ‘kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam, và dứt khoát không để sự việc tái diễn... Việt Nam không bao giờ dựa vào bất kỳ một nước nào để chống Trung Quốc”.

Ngày 1/8/2012, theo bản tin của tỉnh Hải Nam thì họ sẽ làm chủ Biển Đông với hạm đội tàu cá lên đến 22.000 chiếc với 225.000 ngư dân. Trong số ngư dân, có đến 110.000 ngư dân sắp được võ trang. Riêng đoàn tàu cá loại lớn với 5.000 chiếc, sẽ dàn trải khắp vùng biển từ hải phận Bà Rịa Vũng Tàu đến quần đảo Trường Sa. Ngày 2/8/2012, tỉnh Quảng Đông cũng cho biết, hơn 1.000 tàu cá của thành phố Dương Giang đã quay mũi ra Biển Đông, ngay sau lời của Phó Chủ Tịch tỉnh Quảng Đông Liu Kun tuyên bố lễ hội đánh cá bắt đầu. “Phải chăng, Trung Cộng sử dụng đoàn tàu đánh cá khổng lồ của chúng để bao vây lấn chiếm Biển Đông, hay ít nhất là bao vây vùng đánh cá rộng lớn trên Biển Đông của Việt Nam?”
Ngày 30/11/2012, tàu khảo sát Bình Minh 2 của Việt Nam đang công tác nghiên cứu trong vùng biển Việt Nam, bị hai tàu cào cá của Trung Cộng cắt cáp thu nổ địa chấn. Nhớ lại, tàu Bình Minh 2 đã một lần bị tàu hải giám của Trung Cộng cắt cáp ngày 26/5/2011.
Ngày 6/12/2012, các hãng thông tấn lớn trên thế giới đều loan tin Trung Cộng “ra lệnh cho cộng sản Việt Nam phải ngưng tất cả công trình dò tìm dầu khí ở Biển Đông, và không được quấy nhiễu tàu đánh cá của họ”.
Tôi vẫn không quên là trong thời gian gần đây, Không Quân Nhân Dân Dân với Hải Quân Nhân Dân Việt Nam, được gia tăng đáng kể về khả năng tuần thám và chiến đấu. Nhưng tôi xin hỏi: “Có bao giờ Các Anh được hệ thống truyền thanh truyền hình báo chí, đưa tin Không Quân với Hải Quân Nhân Dân ra khơi để bảo vệ tàu cá của “Nhân Dân Việt Nam”, khi bị những đoàn tàu Trung Cộng rượt đuổi ủi chìm rồi tịch thu tài sản, còn bắt ngư phủ Việt Nam đem tiền chuộc mạng không?”
Hỏi cũng là trả lời “Hoàn toàn không!” Vậy là, Hải Quân Nhân Dân Các Anh chỉ bảo vệ đảng độc tài chớ đâu có bảo vệ Dân mà kèm theo hai chữ Nhân Dân! Phải chăng lãnh đạo Các Anh mua để có được khoản tiền hoa hồng, còn máy bay với tàu chiến để phô trương chớ không phải ngăn chận Trung Cộng, vì ngư dân Việt Nam thì có Dân Quân Biển tự lo mà!. Rõ ràng là thực tế đã chứng minh điều đó.

Nhìn trong nội địa.

Tháng 11/2007, ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng đảng cộng sản ban hành Quyết Định số 167/2007, về thăm dò khai thác quặng Bauxite trên Cao Nguyên Miền Trung trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2015, xét đến năm 2025, và giao cho Tập Đoàn Than & Khoáng Sản quốc doanh Việt Nam thực hiện. Tập đoàn này dành một hợp đồng cho Công ty Chalieco của Trung Cộng khai thác. Để nhận ra sự nguy hại đến an ninh quốc gia, Các Anh hãy đọc lời cảnh báo từ một số nhân vật quan ngại sâu sắc đến quyết định nói trên:
Ngày 27/3/2009, báo Tuổi Trẻ tại Hà Nội. Tiến sĩ Nguyễn Thành Sơn, Giám Đốc Công Ty Năng Lượng Sông Hồng thuộc Tập Đoàn Khai Thác Than & Khoáng Sản, được mời đến văn phòng trung ương đảng dự buổi tọa đàm. Sau đó, trong thư gởi Bộ Chính Trị, ông Sơn viết: “Lựa chọn nhà thầu Trung quốc là một sai lầm... Tôi có thể khẳng định, nếu đấu thầu một cách minh bạch, đúng luật, thì không một nhà thầu Trung Quốc nào có thể thắng thầu trong bất cứ dự án Bauxite nào”.
Ngày 3/4/2009 (Đối thoại online). Thiếu Tướng Công An Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Chiến Lược & Khoa Học Bộ Công An, phân tách về địa thế của Tây Nguyên như sau: “Trung Quốc vào Tây Nguyên là họ đã có điều kiện khống chế đối với cả ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiện nay Trung Quốc đã thuê một vùng đất rộng lớn ở tỉnh Munbunkiri, sát biên giới tỉnh Dak Nông với thời gian 99 năm, và họ đã làm chủ các dự án kinh tế lớn ở tỉnh A-tô-pơ, tỉnh cực Nam của Lào, giáp với Việt Nam và Campuchia (tại ngã ba Đông Dương). Đây là hậu họa khôn lường đối với an ninh quốc gia.
Ngày 17/8/2011, trên báo Dân Việt, ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ Tịch Tổng Giám đốc Investconsult Group trong bài “Chuyên gia nói về người Trung Hoa thuê đất”, hiện tượng này là một sự tranh giành không gian sống. Không những thế, đó là một hệ thống các hành vi trong âm mưu của họ. Theo ông thì cứ cái đà này sẽ dẫn đến tình trạng từ sản phẩm cho đến ruộng đất, từ đất canh tác công nghiệp là rừng, cho đến đất canh tác cây lương thực đều nằm trong chiến lược của họ, tất nhiên là nguy hiểm cho Việt Nam.
Ngày 31/8/2011 (trang Bauxite online). Giáo sư Vũ Cao Đàm nhận định: “Bằng chiêu bài“ hợp tác khai thác bô-xit”, đế quốc Trung Cộng đã đóng chốt ở một vùng vô cùng hiểm yếu của bán đảo Đông Dương, cộng với những hợp đồng thuê 300.000 mẫu tây đất rừng đầu nguồn với các “đồng chí” của họ tại các địa phương trên suốt các vùng biên giới, Trung Cộng đã tạo ra một thế quân sự vô cùng nguy hiểm có khả năng làm tê liệt khả năng phản công bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam khi bị Trung Cộng tấn công từ bốn phía. Chúng ta không quên cộng thêm một bầy nhung nhúc gồm trên 1.300.000 người lao động Trung Cộng, gồm những tráng đinh chắc chắn đã giải ngũ sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Bọn chúng được các“ đồng chí” sắp xếp đều khắp đủ mọi miền trên đất Việt Nam đã tạo ra một đạo quân dự bị khổng lồ, cầm súng bắn được ngay, đang mai phục khắp đất nước này. Một nguy cơ đang rập rình chờ đợi và người dân Việt -những ai còn tỉnh táo- đành sống trong muôn nỗi phập phồng!”

Tôi góp nhặt một số sự kiện trong số hằng ngàn sự kiện diễn ra ngay trong nội địa Việt Nam chúng ta, hẳn là Các Anh đã biết đến sự kiện kinh khủng này chớ? Tại nơi nhà thầu Trung Cộng đang khai thác ở Nhơn Cơ (Đắc Nông) và Tân Rai (Lâm Đồng), bùn đỏ đang là thảm họa trong hiện tại và trong tương lai đối với con người và rừng thiên nhiên từ Cao Nguyên Miền Trung xuống thung lũng Đồng Nai, ra vùng duyên hải Đông Bắc Sài Gòn.
Và thảm họa cao nhất ngay trong tầm mắt, là dân tộc Việt Nam chúng ta bị kẻ thù từ trong lịch sử xa xưa, tái hiện trong thế giới ngày nay thống trị lần nữa, với vũ khí chiến lược của họ là “4 tốt với 16 chữ vàng” mà lãnh đạo Các Anh dùng làm phương châm trong bang giao với Trung Cộng. Một Trung Cộng vừa thâm lại vừa độc, vừa gian lại vừa dối, trong mục đích bành trướng bá quyền của họ trên thế giới mà quốc tế cộng sản đã chủ trương từ đầu thế kỷ 20.

Kết luận.

Là Người Lính trong quân đội nhân dân Việt Nam, tôi nghĩ, có Anh 5 năm, 15 năm, thậm chí 20 năm hay 25 năm cầm súng, có bao giờ Các Anh suy ngẫm điều gì về quảng đời quân ngũ với súng đạn, có Anh đã thương tật tàn phế, có bạn đã gục ngã trên chiến trường? Và Các Anh đang còn súng đạn trong tay, có bao giờ Các Anh suy nghĩ: “Những sự kiện mất đất dọc theo biên giới, mất biển trong Vịnh Bắc Việt, mất quyền kiểm soát Biển Đông, mất quyền kiểm soát tại những làng mạc của Trung Cộng trải dài từ Móng Cáy Quảng Ninh cực bắc, dọc theo duyến hải đến tận Mũi Cà Mau cực nam, và từ rừng núi tây bác Hà Nội dọc theo Trường Sơn xuống tận Cao Nguyên miền Trung? Và liệu, đó có phải là dấu hiệu mà lãnh đạo Các Anh biến nước Việt Nam chúng ta từ từ mất hút vào tay Trung Cộng không, vì năm 2020 đang chập chờn phía trước?”
Sau khi Các Anh nghiền ngẫm những sự kiện với dẫn chứng rõ ràng, tôi nghĩ là trong một mức độ nào đó, Các Anh hiểu được tại sao tôi viết loạt thư này gởi đến Các Anh. Thật sự là tôi muốn giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra con đường cộng sản mà Các Anh đã và đang đi là tự mình nhốt mình vào nhà tù lớn do Bộ Chính Trị lãnh đạo bằng bản chất dối trá, và cai trị dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam du lịch, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là bà con trong Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.

Hãy nhớ, “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Và Tự Do, không phải là quà tặng, mà chính chúng ta phải tranh đấu. (trích trên internet).
Texas, tháng 12 năm 2013
********

tieuchuy
01-15-2014, 12:16 AM
Thư số 27 gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
******
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc và Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Xin gọi chung Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam là Các Anh để tiện xưng hô. Chữ “Các Anh” viết hoa, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi giúp Các Anh hiểu về bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền trong bối cảnh một nhà nước Việt Nam vừa đắc cử vào Hội Đồng Nhân Quyền, nhưng vẫn thẳng tay đàn áp Nhân Quyền ngay tại Việt Nam.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH271.jpg

Thứ nhất. Bộ Luật Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc .

(Wikipedia) Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền gồm 30 Điều, được hơn 50 quốc gia tham dự đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 tại Paris. Đã được dịch ra ít nhất là 375 ngôn ngữ. Năm 1966, đại hội đồng LIên Hiệp Quốc thông qua Bộ Luật Nhân Quyền gồm Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Công Ước Quốc Tế về các quyền Kinh Tế, Xã hội, Văn Hóa, và Công Ước Quốc Tế về các Quyền Dân Sự & Chính Trị. Như vậy, Bộ Luật Nhân Quyền Quốc Tế đã hình thành. Xin trích 9 Điều trong bản Tuyên Ngôn Quốc tế Nhân Quyền:

Ðiều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và nhân quyền. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm, và vì thế phải đối xử với nhau trên tinh thần bác ái.
Ðiều 2: Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do được công bố trong Bản Tuyên Ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, phái tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền.
Ðiều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do, và an toàn cá nhân.
Ðiều 7: Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, và phải được bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị phân biệt. Tất cả đều được quyền bảo vệ ngang nhau, chống lại mọi kỳ thị vi phạm Bản Tuyên Ngôn này, cũng như chống lại mọi kích động dẫn đến kỳ thị như vậy.
Ðiều 9: Không một ai bị bắt bớ, cầm tù hay lưu đày một cách độc đoán.
Ðiều 17: Mọi người đều có quyền sở hữu tài sản cá nhân cũng như tập thể. Không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình một cách độc đoán.
Ðiều 19: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm. Quyền này bao gồm sự tự do quan điểm mà không bị xen vào quấy rầy và được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới.
Ðiều 20: Mọi người đều có quyền tự do hội họp và lập hội, một cách ôn hòa. Không một ai có thể bị cưỡng bách gia nhập vào một đoàn thể.
Ðiều 28: Mọi người đều có quyền đòi hỏi được sống trong một trật tự xã hội và trật tự quốc tế, trong đó các quyền và các tự do được đề cập trong Bản Tuyên Ngôn này có thể được thể hiện đầy đủ....

Chắc Các Anh chưa quên là ngày 12/11/2013, Việt Nam đắc cử vào Hội Đồng Nhân Quyền nhiệm kỳ 2014-2016. Chính vì sự kiện này mà tôi cho là cơ hội đối với Mạng Lưới Blogger Việt Nam, sẽ hoạt động mạnh hơn để giúp người dân hiểu được những quyền căn bản của mình, và từ đó người dân biết phải làm gì để giành lại những quyền căn bản của mình từ trong tay nhà nước cộng sản độc tài.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH272.jpg

Thứ hai. Mạng Lưới Blogger hoạt động.

Ngày 7/12/2013 tại Nha Trang. Từ 8 giờ 30 sáng, Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) trong nhóm blogger, Khổng Hy Thiêm, Võ Trường Thiện, và Việt Man (Phạm Văn Hải), đã tập trung ở Công Viên Bờ Biển trong màu áo phông trắng hoặc đen, viền xanh lá cây, với logo màu nâu của Mạng Lưới. Các blogger phân phát ba tài liệu, trong đó có toàn văn Công Ước Chống Tra Tấn mà Việt Nam vừa ký tham gia. Nhiều người dân đón nhận các tài liệu một cách vui vẻ và chăm chú đọc. Có người hỏi: “Tài liệu quý, tại sao các bạn không bổ sung thêm câu “xem xong xin vui lòng chuyền tay cho người khác?” Một số khác có ý kiến: “Mỗi người dân nên có một bản tài liệu này để hiểu được phần nào những quyền của mình. Vì dân mình không hiểu nên cứ bị bắt chẹt. Mấy tài liệu này rất tốt, nó giúp đỡ mọi người, cho nên tất cả cần phải đọc”...
Các blogger cũng phát tài liệu cả trên xe buýt, trong nhà sách, đặc biệt Nhà sách Ponagar còn nhận 10 bộ tài liệu để phát cho khách hàng. Nhiều bạn trẻ hưởng ứng rất vui vẻ. Buổi kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền kết thúc vào khoảng 10 giờ sáng. Các blogger chụp hình với ba ngón tay giơ cao, trên ba ngón viết các chữ M, L, B, nghĩa là Mạng lưới Blogger Việt Nam.

Ngày 8/12/2013 tại Hà Nội.
Theo lời kêu gọi của Mạng Lưới Blogger Việt Nam, một số blogger tập trung tại Công Viên Thống Nhất, thổi hằng loạt bong bóng màu xanh lá cây có in dòng chữ “Quyền con người của chúng ta phải được tôn trọng”. Theo dự trù, các Blogger sẽ mặc áo thung trắng viền xanh với huy hiệu của Mạng Lưới, nhưng áo đã bị Công An tịch thu ngày hôm qua rồi. Theo Blogger Hoàng Huy thì Công An rất đông, có cả côn đồ, dân phòng, Cựu chiến binh, Đoàn viên thanh niên bao quanh Công Viên. Nhưng người dân đến rất đông, vì vậy mà bong bóng được phân phát liền tay. Công An chìm cũng chen vào xin rồi họ dùng cây nhọn hoặc điếu thuốc đang cháy châm vào cho bể. Lợi dụng lúc nhiều người đang nhận bong bóng và tài liệu, Công An xông vào cướp balô đựng tài liệu Nhân Quyền, rồi nhét vào xe chạy khỏi Công Viên. Các bạn Blogger giải thích với Công An tại chỗ rằng, đây là tài liệu Nhân Quyền phân phát giúp người dân hiểu rõ chớ đâu có gì sai trái.Họ trả lời là tịch thu để kiểm soát. Có lúc xô xát, Blogger Đào Trang Loan bị Công An tát vào mặt nhiều lần. Bạn Lê Đức Hiền bị đánh chảy máu đầu, và một người khác bị đạp vào bụng một cách thô bạo.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH274.jpg

Ngày 8/12/2013 tại Sài Gòn.
Từ 5 giờ chiều, các thành viên của Mạng Lưới Blogger bắt đầu thả bong bóng như một phần của hoạt động kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền. Đó là chị em blogger An Đổ Nguyễn (tức Nguyễn Hoàng Vi) và Miss Sapphire (Nguyễn Thảo Chi), Cùi Các (Phạm Lê Vương Các), Lê Doãn Cường, Hoàng Dũng (phong trào Con Đường Việt Nam), blogger Bùi Thị Minh Hằng, nhà báo Phạm Chí Dũng, và cô blogger mi-nhon xinh đẹp Mí Rưỡi (Nguyễn Thị Yến Trang). Thành viên Mạng Lưới xuất hiện trong màu áo sơ-mi viền xanh lá cây và logo hình chữ W (nghĩa là viết tắt của từ web trong "world wide web", hoặc "we" - chúng ta, hoặc "word" - từ, chữ).


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH275.jpg

Hàng trăm người dân đã vui vẻ tham dự cùng những blogger trẻ tuổi này. Các Blogger đang phân phát bong bóng màu xanh với dòng chữ màu đen và tài liệu Nhân Quyền cho nhiều người dân, trong khi chung quanh rất đông Công An chìm nổi và côn đồ. Blogger Hoàng Huy chia sẻ với đài RFI Việt ngữ: “... Khi chúng tôi tỏ ra ôn hòa ngồi hát, thì côn đồ xăm trổ khắp mình trông rất dữ tợn ở đâu xông tới đánh anh Châu Văn Thi tới tấp, và ném những bọc mắm tôm vào chúng tôi. Khi xung quanh có khá nhiều nhân viên trật tự đô thị, Công An giao thông 113 đứng đó khoanh tay đứng nhìn, như những con người vô cảm! Chúng tôi là những người đi truyền bá Nhân Quyền mà bị đối xử thô bạo như thế ư? Chúng tôi đã tỏ ra quá ôn hòa với các anh rồi, đổi lại các anh đối xử bằng côn đồ và bạo lực với chúng tôi như thế sao? Vậy xin gia nhập vào Hội Đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc để làm gì?...”

Thứ ba. Mạng Lưới Blogger chánh thức ra mắt ngày 10/12/2013.

Khởi đi từ Tuyên Bố 258 được trao tay cho các tổ chức Nhận Quyền và các viên chức các tòa đại sứ tại Hà Nội quan tâm đến tình trạng Nhân Quyền Việt Nam. Hôm nay, 10/12/2013, Mạng Lưới Blogger Việt Nam chánh thức ra mắt tại Sài Gòn, trong bầu không khí thế giới kỷ niệm Ngày Quốc Tế Nhân Quyền và vinh danh Quyền Con Người. Mạng Lưới Blogger Việt Nam ra đời để góp phần phát huy nhân quyền, tranh đấu cho tự do, bảo vệ phẩm cách và giá trị của người Việt Nam. Đây là mục tiêu, cũng là khát vọng, và là lý do duy nhất cho sự có mặt của Mạng Lưới Blogger Việt Nam:

(1) Chúng tôi tin rằng, mọi công dân Việt Nam phải có quyền tự do tư tưởng và tự do bày tỏ quan điểm mà không bị can thiệp hay đối xử bất công; tin rằng chúng ta có quyền tìm kiếm, tiếp nhận, phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương cách như đã được xác định bởi Điều 19 của Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
(2) Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải được tôn trọng với những phẩm giá bẩm sinh, được đối xử trong tinh thần bác ái và được bình đẳng trong việc mưu cầu hạnh phúc cá nhân.
(3) Chúng tôi tin rằng mọi công dân Việt Nam phải có quyền quyết định vận mạng của mình và góp phần quyết định vận mạng của đất nước; và những quyền này không thể là đặc quyền, được giao phó hay dành riêng bởi một nhóm người, một tập thể nào trong xã hội......
(5) Nuôi dưỡng niềm hy vọng như cách đây 65 năm, những người soạn thảo ra bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã hy vọng Tuyên Ngôn lịch sử đó sẽ là khởi đầu để chấm dứt mọi bất công, áp bức, chà đạp nhân phẩm giữa người và người trên trái đất này. .....
(8) Chúng ta hãy cùng nhau hy vọng. Nỗi sợ hãi làm chúng ta tê liệt nhưng niềm hy vọng sẽ giúp chúng ta đạp lên sợ hãi mà đứng lên. Đứng lên vì dân tộc này, vì 90 triệu người dân trên đất nước có hơn 4000 năm lịch sử này phải có quyền đứng lên. Đứng lên vì chúng ta không thể tiếp tục quỳ. Đứng lên để một ngày không xa bất kỳ công dân Việt Nam nào cũng có thể ngẩng mặt cao đầu và tuyên bố với cộng đồng nhân loại rằng: xứ sở này là nơi mà những con người đang sống thực sự trong tự do, công bằng và bác ái”. (trích một số đoạn trong bài phát biểu của đại diện Mạng Lưới Blogger Việt Nam)

Lúc 5 giờ chiều, hai blogger Nguyễn Hoàng Vi (An Đổ Nguyễn) và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm) vừa ra khỏi nhà thì bị Công An với côn đồ hơn 50 người xông vào đánh đập dã man, họ dùng bạo lực lôi kéo mọi người vào trong nhà. Các bạn trong Mạng Lưới hay tin cùng chạy đến tiếp cứu thì bị Công An đẩy tất cả vào trong nhà một cách thô bạo và họ khóa cửa nhốt bên trong. Trong lúc hỗn loạn, Blogger Mẹ Nấm bị an ninh thường phục lao vào giựt đứa con trai 1 tuổi má Chị đang bế. Chị Hoàng Vi vào can thiệp thì bị Công An và côn đồ đánh đập túi bụi vào người, Mẹ Nấm bị tát nhiều lần vào mặt. Một cô gái trẻ đang mang bầu khi đến can thiệp cũng tiếp tục bị lực lượng ô hợp gồm an ninh thường phục và hội phụ nữ hành hung. Trong cuộc hành hung này có 9 bạn trẻ bị thương: Hoàng văn Dũng, Mẹ Nấm, Nguyễn Hoàng Vi, Nguyễn Tiền Tuyến, Trung Hiếu Hiế, Võ Công Đồng, Facebook Hoàng Bùi, Facebook Tin Ba, và Trần Hoàng Hận bị bắt về Công An Phường 17 Gò Vấp đánh đập dã man. Đến 2 giờ sáng mới thả ra, lúc ấy Anh Hận bị thương khá nặng nên phải vào bệnh viện điều trị.
Với tình hình đó, các hoạt động vinh danh ngày Quốc Tế Nhân Quyền và ra mắt Mạng Lưới Blogger Việt Nam tại Sài Gòn, đã không thể diễn ra như dự định. Blogger Nguyễn Hoàng Vi chia sẻ trên facebook với bản tin “Bạo lực ở Sài Gòn trong Ngày Quốc Tế Nhân Quyền”. MLBVN lên án những hành vi bạo lực của lực lượng an ninh và côn đồ, đặc biệt là khi những hành vi đó nhằm vào phụ nữ và trẻ em. Một lần nữa, chúng tôi cảnh báo: Việc làm của các vị đang gây mất trật tự xã hội, chia rẽ những người dân, phá hoại tình cảm công dân và làm tổn hại đến hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế."
Tại Hà Nội, bất chấp sự bao vây, cô lập của lực lượng an ninh, buổi ra mắt của Mạng Lưới Blogger Việt Nam vẫn tiếp tục diễn ra tại điểm hẹn ban đầu.
Tại Hải Phòng. Blogger Phạm Thanh Nghiên, một thành viên của Mạng Lưới Blogger, đã bày tỏ sự phẫn nộ trước tin 2 người bạn đồng hành của chị là Mẹ Nấm và Nguyễn Hoàng Vi bị hành hung tại Sài Gòn. Chị nói: “Nhân danh một thành viên của Mạng lưới Blogger Việt Nam, tôi khẳng định: Việc hành hung phụ nữ và trẻ con là một hành vi vi phạm nhân quyền đáng xấu hổ, nhất là khi nó lại xảy ra trong Ngày Quốc Tế Nhân Quyền và Việt Nam vừa mới được nhận vào Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc. Nó làm cho chúng tôi càng xác quyết niềm tin của mình với con đường đã đi như anh chị em chúng tôi đã bày tỏ trong lời giới thiệu Mạng Lưới Blogger Việt Nam là "Tranh đấu để bảo vệ nhân quyền, tự do, dân chủ, phẩm cách và giá trị của con người là mục tiêu, là khát vọng, và cũng là lý do duy nhất cho sự ra đời của Mạng Lưới Blogger Việt Nam. Khi nào các hành vi vi phạm nhân quyền ở Việt Nam còn tiếp diễn, thì Mạng Lưới Blogger Việt Nam vẫn còn lý do để tồn tại."


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH276.jpg

Trong tình trạng bị nhốt ở nhà, Phạm Thanh Nghiên đã gửi đến các bạn của chị biểu tượng của MLBVN với lời nhắn: "Niềm tin chiến thắng và lòng can đảm của các bạn sẽ xoá tan mọi sợ hãi. Những đàn áp của an ninh chỉ làm tăng thêm sức mạnh và sự trưởng thành của chúng ta... Cảm ơn những người bạn chiều nay đã không ngại khó khăn mà đến với tôi, thậm chí đã vì tôi mà phải chịu nhiều thương tích... Cảm kích vô cùng tấm lòng của các bạn... Tôi không thể nào khiến họ dừng tay với các bạn cũng như không có khả năng xoa dịu những vết thương của các bạn. Gửi đến các bạn sự tri ân sâu sắc, cầu chúc sự bình an luôn bên các bạn. Và điều duy nhất tôi có thể làm là sẽ phải cố gắng nhiều hơn nữa trong những hoạt động vì nhân quyền của mình thì may ra mới bớt đi những cảnh tượng như chiều nay..."

Ngày 19/12/2013 tại Nghệ An. Sáng nay, trong mục đích giúp người dân biết những quyền của mình đã và đang bị nhà cầm quyền xâm phạm, một số bạn sinh viên đi phát cẩm nang Quyền Con Người cho người dân ở trên xe buýt, cho những người đi đường, cho các tiểu thương ở chợ Sò huyện Diễn Châu, Nghệ An, là nơi đã và đang xảy ra tranh chấp đất đai giữa nhà cầm quyền với các tiểu thương chợ Sò. Phản ứng của người dân khi nhận cuốn cẩm nang Quyền Con Người thì mỗi người nhận có thái độ khác nhau. Có người nhận được thì háo hức và đọc ngay. Có người còn e dè.

Blogger Hành Nhân, một ngòi bút độc lập trong nước nhận xét: “Trong năm qua đúng là sự bắt bớ đàn áp đối với giới blogger gia tăng hơn so với những năm trước. Tuy nhiên, đã có nhiều người vượt qua được sự sợ hãi, lên tiếng nhiều hơn. Các phong trào dân sự cũng đang mạnh lên. Người ta lập hội này hội nọ, bày tỏ chính kiến trên mạng nhiều hơn. Tuy là có đàn áp, nhưng cũng có những niềm hy vọng, những điểm tích cực để mình hy vọng.”

Thứ tư. Thế giới chỉ trích Nhân Quyền tại Việt Nam.

Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả (CPJ) trụ sở tại Hoa Kỳ, đã xếp Việt Nam vào danh sách 10 quốc gia cầm tù ký giả tệ hại nhất trên thế giới. Trong danh sách năm 2013 này, Việt Nam đứng hàng thứ 5, sau Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Trung Quốc, và Eritrea. Xu hướng đàn áp của Hà Nội bắt đầu khi ông Nguyễn Phú Trọng nắm chức Tổng Bí Thư, từ đó số ký giả và blogger tự do bị bắt ngày càng gia tăng.
Tổ chức Ký Giả Không Biên Giới (RSF) trụ sở tại Pháp, liệt kê Việt Nam là nhà tù lớn thứ nhì trên thế giới đối với cư dân mạng, chỉ đứng sau đàn anh Trung Cộng. Ông Benjamin Ismail, Giám Đốc phụ trách Ban Á Châu-Thái Bình Dương thuộc RSF, nhấn mạnh: “Năm 2013 cho thấy sự tăng cường đàn áp của nhà nước đối với những ngòi bút và những nguồn cung cấp thông tin độc lập tại Việt Nam. Trong số này phải kể đến việc chính phủ ban hành thêm các quy định mới siết chặt quyền tự do bày tỏ ý kiến của công dân như Nghị định 72 rồi tới Nghị định 174.


http://hoiquanphidung.com/pics/PBH277.jpg

Bà Farida Shaheed, báo cáo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc về quyền Văn Hóa. Bà công tác tại Việt Nam từ ngày 18/11/2013. Ngày 29/11/2013 kết thúc chuyến công tác, bà tuyên bố với báo chí tại Hà Nội rằng: “Việt Nam cần mở rộng không gian cho người dân bày tỏ quan điểm và để họ có thể đóng góp những kiến thức, kể cả kiến thức về truyền thống văn hóa, cho công cuộc phát triển đất nước..”. Bà Farida Shaheed cho biết là bà sẽ trình hồ sơ này lên Hội Đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc, gồm cả những khuyến nghị của bà về Nhân Quyền Việt Nam.
Ngày 25/11/2013. Tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Scott Busby, Quyền Phụ Tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ sau chuyến công du Việt Nam từ 29/10/2013 đến ngày 2/11/2013, tiếp xúc với một số đại diện cơ quan truyền thông Việt ngữ. Ông nói: “Trong lúc thảo luận với nhà cầm quyền Việt Nam, tôi đã khẳng định rằng, "Nếu muốn tăng cường bang giao với Hoa Kỳ, Việt Nam phải thực hiện những tiến bộ cụ thể về nhân quyền trong thời gian tới. Đồng thời tôi cũng nhấn mạnh với họ về sự quan trọng của những hoạt động xã hội dân sự, bao gồm việc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do hành đạo, vận động nhân quyền, hoặc tổ chức các công tác nhân đạo.
Ngoài các buổi họp với các giới chức Việt Nam, ông tiếp xúc một số nhân vật đang hoạt động trong những nhóm xã hội dân sự nhằm đẩy mạnh phong trào dân chủ hóa Việt Nam.
Ông rất "thán phục và cảm kích trước nghị lực, sự can đảm và tinh thần lạc quan" của các thành viên xã hội dân sự này, vì bất chấp sự ngăn cấm của nhà cầm quyền khi tìm mọi cách để gặp ông. Theo ông, đó là một trong những dấu hiệu khác biệt rõ rệt so với chuyến thăm viếng Việt Nam của ông hồi năm 2011. Ông cho biết, ngoài việc thúc giục nhà cầm quyền Việt Nam chấm dứt việc bắt bớ sách nhiễu các nhà hoạt động xã hội dân sự, ông cũng đã nêu ra trường hợp một số nhân vật bất đồng chính kiến bị kết án tù để kêu gọi giảm án hoặc trả tự do cho họ.
Sau cùng là ông Scott Busby, lần lượt trả lời những câu hỏi của các cơ quan truyền thông Việt ngữ liên quan đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam hiện nay.

Kết luận.

Tôi thông cảm với Các Anh, là những người sinh ra, lớn lên, học hành, và trở thành Người Lính trong quân đội, tất cả những gì Các Anh học ở trường văn hoá, trường quân sự, lại thường học tập chính trị tại các đơn vị, cộng với những chính sách về các lãnh vực sinh hoạt xã hội, mà Các Anh theo dõi hằng ngày. Trôi dần theo thời gian, chính sách độc tài của cộng sản lan tỏa đến mọi ngóc ngách trong sinh hoạt xã hội, rồi biến thành một nếp trong đời sống thường ngày đối với người dân nói chung, với Các Anh nói riêng từ lúc nào không ai biết.
Nhưng với phương tiện truyền thông trên thế giới ngày nay, trong một chừng mực nào đó, Các Anh có cơ hội tiếp xúc với thế giới tự do ngang qua hệ thống internet mà Các Anh gọi là “trang mạng”, tôi tin là trong những lúc mà Các Anh sống thật với trái tim và khối óc của chính mình, nhất thiết Các Anh có những suy nghĩ từ những câu tự hỏi, chẳng hạn như: “Tại sao trên đầu trang công văn có dòng chữ “độc lập-tự do-hạnh phúc” mà thực tế không phải vậy? Nói độc lập, nhưng tại sao đảng với nhà nước lại thẳng tay trấn áp bắt giữ những công dân yêu nước bày tỏ ý thức chính trị chống đối Trung Cộng lấn chiếm đất liền biển đảo Việt Nam? Tại sao trong các năm 2009-2012, Trung Cộng đã rượt đuổi ủi chìm, đã bắt giữ 1.186 tàu cá và 7.045 ngư dân đánh bắt cá trên vùng Biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam, vậy mà lãnh đạo đảng với nhà nước sợ Trung Cộng đến mức chỉ dám gọi là “tàu lạ” để chỉ tàu của Trung Cộng? Nói tự do, nhưng tại sao lại sử dụng Quân Đội, Công An, và côn đồ, thẳng tay trấn áp những người yêu nước mà điển hình là Mạng Lưới Blogger Việt Nam, phổ biến tài liệu hướng dẫn người dân hiểu được Quyền Của Mỗi Con Người mà Liên Hiệp Quốc công nhận, để người dân có cơ hội góp phần thực hiện những quyền đó trong một xã hội văn minh? Tại sao hệ thống truyền thông có đến 194 nhật báo và 590 tạp chí in, 61 trang tin điện tử, 67 đài phát thanh truyền hình, với 17.000 nhà báo lãnh lương nhà nước, mà chỉ có một tiếng nói của đảng và nhà nước? Nói hạnh phúc, nhưng tại sao Điều 17 trong Hiến Pháp nói rằng đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà thật ra là sở hữu của đảng, vì đảng toàn quyền quyết định?” Trong khi “nông dân chiếm đến 70%, hay là 62 triệu nông dân không có đất để sống? (Trích bài “Sở hữu toàn dân là tộc ác gốc” của cựu Đại Tá Bùi Tín).
Tôi tin là Các Anh không quên những hình ảnh mà người dân bị thu hồi đất, bị cưỡng chế đất, đã tạo nên hằng ngàn Đoàn Dân Oan tập trung về Hà Nội và Sài Gòn khiếu kiện, là bằng chứng hùng hồn về tình cảnh khốn khổ khi người dân mất nhà mất đất!
Các Anh cũng không thể không suy nghĩ, “tại sao nhà cầm quyền ra lệnh cho Công An rình giật tài liệu Nhân Quyền, xin bong bóng rồi đâm cho bể, liệng những bịt mắm tôm vào các blogger đang phân phát tài liệu về Nhân Quyền giúp người dân học hỏi cho biết?” Những hành động đó, tự nó là bằng chứng giúp người dân khẳng định: “đảng lãnh đạo bằng độc tài và dối trá, nhà nước thì cai trị với chính sách mánh mung côn đồ”. Hóa ra xã hội chủ nghĩa là như vậy sao?
Cũng vì vậy mà Giáo sư Hoàng Tụy nhận định là xã hội Việt Nam không thể tái cấu trúc được mà phải phế bỏ nó để cấu trúc lại từ đầu, vì hiện nay sự giả dối đang thống trị toàn xã hội chúng ta. Trong khi đó, giáo Sư Hà Văn Thịnh cảnh báo tình trạng giả dối ở Việt Nam lan tỏa từ “A đến Z”, dối trá ngay trong hệ thống giáo dục. Xã hội chủ nghĩa là một xã hội dối trá, vô cảm, ích kỷ, và tàn nhẫn. Trong khi nhà văn Trần Mạnh Hảo khẳng định: “Hai chữ dối trá ngày càng phản ánh đậm nét thực trạng là một xã hội vô cảm”.
Tóm tắt. Nhóm chữ “độc lập-tự do-hạnh phúc” mà “bác” Các Anh và lần lượt các nhòm lãnh đạo sử dụng từ khi có đảng cộng sản đến nay, đều thực hiện bản chất độc tài và dối trá.
Nhưng tôi hy vọng là Các Anh, trong một mức độ nào đó đã hiểu được mục đích tôi viết loạt thư này nhằm giúp Các Anh có được nét nhìn của người tự do như chúng tôi, để Các Anh nhận ra chế độ mà Các Anh đã và đang phục vụ là tự mình nhốt mình trong cái gọi là ý thức hệ cộng sản độc tài và dối trá. Từ đó, Các Anh hãy suy nghĩ mà chọn cho mình một hướng đi, cùng 90 triệu đồng bào hòa nhập vào Cộng Đồng thế giới tự do, để được ngẫng cao đầu giữa thế giới văn minh lịch sự, được hãnh diện trước những người ngoại quốc đến Việt Nam, tìm hiểu nếp sống văn hóa dân tộc với chiều dài lịch sử ngàn năm trước đã lừng danh thế giới.
Tôi vững tin là Cộng Đồng Việt Nam tị nạn cộng sản tại hải ngoại -đặc biệt là Những Người Cựu Lính Chúng Tôi- sẽ hết lòng hỗ trợ Các Anh và quí vị đồng bào để làm nên lịch sử.
Hãy nhớ. Trong tác phẩm “Mao Trạch Đông Ngàn Năm Công Tội” của Tân Tử Lăng xuất bản năm 2007 tại Trung Cộng, ờ chương 12, tác giả Tân Tử Lăng kể lại: “Trong hội nghị Bộ Chính Trị tại Bắc Đới hồi tháng 8/1958, Mao Trạch Đông tuyên bố: “... Chúng ta phải thực hiện một lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng...”. (trích bài của “co pham” 31 Dec 2013)

Và hãy nhớ “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 01 năm 2014
*********

tieuchuy
04-01-2016, 08:20 PM
Thư số 53a gởi
Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
*********
Phạm Bá Hoa

Tôi chào đời năm 1930, vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa năm 1954, chống lại cuộc chiến tranh do nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gây ra. Trong bang giao quốc tế, quốc gia này đánh chiếm quốc gia kia, không có tên gọi nào khác ngoài hai chữ “xâm lăng”. Sau ngày 30/4/1975, lãnh đạo cộng sản Việt Nam với lòng thù hận đã đày đọa chúng tôi trong hơn 200 trại tập trung mà họ gọi là trại cải tạo, hằng trăm Bạn tôi đến 17 năm, riêng tôi là 12 năm 3 tháng. Tuy tên Quốc Gia và Quân Lực mà tôi phục vụ không còn nữa, nhưng linh hồn trong quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ vẫn nguyên vẹn trong tôi. Tôi không hận thù lãnh đạo Các Anh, nhưng tôi không bao giờ quên quá khứ đau thương tàn bạo mà họ gây ra cho Tổ Quốc, Dân Tộc! Vì vậy mà tôi chưa bao giờ, và sẽ không bao giờ về Việt Nam cho đến khi quê hương tôi có một chế độ dân chủ tự do thật sự.
Các Anh là Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Xin gọi Người Lính Quân Đội Nhân Dân ngắn gọn là “Các Anh” để tiện trình bày. Chữ “Các Anh” viết hoa mà tôi sử dụng ở đây, bao gồm từ người lính đến các cấp chỉ huy, ngoại trừ lãnh đạo cấp Sư Đoàn, Quân Đoàn, Quân Chủng, Bộ Tổng Tham Mưu, và Bộ Quốc Phòng. Là Người Lính trong quân đội “Nhân Dân”, Các Anh phải có trách nhiệm bảo vệ Tổ Quốc Nhân Dân, vì Tổ Quốc với Nhân Dân là trường tồn, trong khi đảng cộng sản hay bất cứ đảng nào cầm quyền cũng chỉ một giai đoạn của lịch sử, và nội dung tôi gởi đến Các Anh được đặt trên căn bản đó.

Nội dung thư này, tôi đưa Các Anh "đi dọc" theo sông Cửu Long từ thượng nguồn ngang qua lãnh thổ Trung Hoa, Thái Lan, Lào, và Cam Bốt, rồi từ biên giới Việt - Miên ra tận Biển Đông, Các Anh sẽ nhận ra tình trạng khô hạn vùng đồng bằng Cửu Long, trong khi nước mặn xâm nhập vào vùng này, dĩ nhiên là tôi sẽ giải thích một cách tổng quát về nguyên nhân.

Thứ nhất. Vùng đồng bằng Cửu Long.

Sông Mê Kông trên bản đồ quốc tế, nhưng khi chảy vào Việt Nam chúng ta thì gọi là sông Cửu Long, lớn hàng thứ ba Châu Á và là thứ 11 trên thế giới. Phát nguyên từ Tây Tạng, dài 4.200 cây số, chảy qua Trung Hoa, biên giới Lào-Thái, rồi Cam Bốt, trước khi đổ vào Việt Nam với hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang, rồi đổ ra Biển Đông theo 9 nhánh là Định An, Ba Thắc, Trần Đề, Đại, Tiểu, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, và cửa sông Ba Lai. Khoảng phân nửa chiều dài sông Mê Kông chảy ngang lãnh thổ Trung Hoa, có tên là Lạng Thương Giang.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459541393-cuulong1.jpg

Đồng bằng sông Cửu Long gồm 12 tỉnh, là: Tỉnh Long An (tức Long An và Kiến Tường cũ). Tỉnh Tiền Giang (tức Mỹ Tho cũ). Tỉnh Bến Tre. Tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Trà Vinh. Tỉnh Hậu Giang (Cần Thơ cũ). Tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Đồng Tháp (Sa Đéc và Kiến Phong cũ) Tỉnh An Giang. Tỉnh Kiên Giang. Tỉnh Bạc Liêu. Và tỉnh Cà Mau.
Vùng đồng bằng này do những trầm tích phù sa bồi đắp nhờ mực nước biển thay đổi qua nhiều thế kỷ, cũng từ đó mà hình thành những giồng cát dọc theo bờ biển như những con đê thiên nhiên. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển, đã tạo nên những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo ven sông, ven biển, tạo nên những đầm mặn Cà Mau, những trũng thấp như Đồng Tháp Mười, Cái Sắn (Rạch Giá), và rừng U Minh (Cà Mau). Riêng rừng U Minh và quận Năm Căn, chịu ảnh hưởng của nước biển mặn, hình thành vùng ngập nước mặn với rừng cây đước và cây mắm.
Sông dài, mưa nhiều, nước chảy mạnh, nên lưu lượng trung bình của hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang khoảng 90.000 thước khối trong 1 giây đồng hồ. Cũng trong 1 giây đồng hồ đó, hai nhánh sông này chuyên chở khoảng 15 phần 10.000 trọng lượng phù sa cho đồng bằng sông Cửu Long -nhất là "cù lao" 3 tỉnh Sa Đéc, Vĩnh Long, và Vĩnh Bình- giúp cho vùng đất này mầu mở, ruộng đồng nương rẫy và vườn cây hoa trái tốt tươi (trích trong Wikipedia).
Theo tài liệu của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam năm 2011, tổng diện tích các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long là 40.548 cây số vuông, với tổng số dân là 17.330.900 người. Dù diện tích canh tác nông nghiệp chưa tới 30% của toàn quốc, nhưng sản lượng lúa thu được hơn 50% trong tổng sản lượng toàn quốc. Vì vậy mà đồng bằng sông Cửu Long, là vùng xuất cảng gạo nòng cốt của Việt Nam. Ngoài ra cây ăn trái và những đặc sản nổi tiếng của vùng này, vừa nhiều vừa đạt phẩm chất cũng như hương vị của từng loại.
Cũng vì vậy mà hằng chục đập thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông, biến đổi khí hậu, là hai nguyên nhân đã và đang mang thảm họa vào đồng bằng sông Cửu Long.

Thứ hai. Những đập thủy điện và thảm họa từ nó.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459541510-cuulong2.jpg

Những đập thủy điện.

Trung Cộng đã xây dựng một hệ thống đập thủy điện trên phần thượng lưu Mê Kông mà Trung Cộng gọi là "Lạng Thương Giang" mà không tham khảo ý kiến các nước vùng hạ lưu hoặc thông báo những tin tức về dòng chảy của con sông này. Sáu đập lớn đã xong hoặc đang xây dựng, là: (1) Đập Dacgaoshan, phiên âm là Đại Chiếu Sơn, hoàn thành năm 2003. (2) Đập Manwan, phiên âm là Mãn Loan, xong năm 2007. (3) Đập Jinghong, phiên âm là Cảnh Hồng, xong năm 2009. (4) Đập Xiaowan phiên âm là Tiểu Loan, cao 300 thước, xong năm 2010. (5) Đập Nuozhadu, phiên âm là Nọa Trát Độ, cao 248 thước, dự trù xong vào năm 2017. (6) Đập Gonguagao (không thấy phiên âm), dự trù xong vào năm 2020. Ngoài ra, còn 9 đập nhỏ cũng đang xây dựng.
Theo sau Trung Cộng, là Lào với Cam Bốt cũng có 11 dự án xây dựng đập thủy điện trên dòng sông Mê Kông trong phần lãnh thổ của họ. Lào với 9 dự án thủy điện là đập Pak Beng, Luang Prabang, Xayaburi, Pak Lay, Xanakham, Lat Sua, Ban Koum, đập Don Sahong, và đập Pak Chom. Cam Bốt với 2 dự án thủy điện là đập Strung Treng và đập Sambor.

Thảm họa vùng đồng bằng Cửu Long từ những đập đó.

Ông Peter Gleick, chuyên gia của Viện Thái Bình Dương có văn phòng tại California (Hoa Kỳ) nhận định: "Trung Cộng là một trong ba nước bỏ phiếu chống lại Hiệp Ước năm 1997 của Liên Hiệp Quốc về việc quản trị các dòng sông Mê Kông, và chưa bao giờ đồng ý đàm phán về việc cùng sử dụng chung dòng sông này. Các đập thủy điện trên đây đã làm thay đổi chu kỳ lũ lụt hạn hán tự nhiên của hạ lưu sông Cửu Long, làm giảm lượng nước, giảm trầm tích, và giảm lượng phù sa vào lưu vực Tiền Giang, Hậu Giang, và vùng duyên hải Việt Nam".
Năm 2012, Tổ chức Ủy Hội Sông Mê Kong nhận định: "Trước mắt, Việt Nam sẽ phải đối mặt với 4 vấn đề sau đây. Về dòng chảy, ảnh hưởng đến nông nghiệp và ngư nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, bởi mức độ nước mặn từ biển xâm nhập vào những sông rạch vùng này sẽ gia tăng. Về phù sa, khoảng 26 triệu tấn phù sa/năm hiện nay, sẽ còn lại khoảng 7 triệu tấn/năm, dẫn đến suy giảm năng suất nông nghiệp, cùng lúc sẽ gia tăng hiện tượng xói lở bờ sông làm giảm dần diện tích đất liền. Về thủy sản, đồng bằng này sẽ thiệt hại khoảng 1 tỷ mỹ kim do tổn thất các loài cá trắng chiếm đến 65% lượng cá trên sông này. Trong khi đó, cá trắng lại là thức ăn của cá đen, chiếm 35% lượng cá còn lại, nên sự biến mất của cá trắng, cũng có nghĩa là cá đen cũng biến mất. Về mặt xã hội, khoảng 14 triệu nông dân và ngư dân sống dựa vào sản xuất nông nghiệp ngư nghiệp, sẽ bị ảnh hưởng nặng". Ủy Hội Sông Mê Kông nhận định tiếp: "Trong 17 đập thủy điện suốt chiều dài sông Mê Kông, không có đập thủy điện nào của Việt Nam, nhưng Việt Nam là quốc gia hạ nguồn gánh chịu mọi thảm họa từ các đập đó. Trong khi các đập thủy điện đó hoạt động sẽ đem lại lợi ích không nhỏ cho các quốc gia chủ nhà, nhưng Việt Nam sẽ mất đến 65% lượng cá, và hơn 100 loài sinh vật sẽ lâm vào cảnh giảm dần cho đến tuyệt chủng. Thiệt hại nông nghiệp do lũ từ những hồ chứa nước đổ xuống, ước tính vào khoảng 5 triệu mỹ kim mỗi năm. Lượng phù sa giảm trên đưới 65%, và nông dân ngư dân sẽ lâm vào tình cảnh thảm hại, tự nó sẽ tác động đến vấn đề xã hội".
Theo bản tin ngày 5/5/2015 của đài RFA: "Đồng bằng Sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của Việt Nam hiện đang chịu những tai họa, nếu nhà cấm quyền Việt Nam không có biện pháp giải quyết kịp thời, thì trước mắt là những tổn hại sản xuất trong nông nghiệp, dẫn đến đời sống nông dân khốn khổ.....".


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459541746-cuulong3.jpg

Sáu tháng sau đó, vẫn đài RFA ngày 4/11/2015: "Các đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mê Kông gây tổn hại nghiêm trọng đến an ninh lương thực của Việt Nam. Theo cảnh báo của giới chuyên gia được báo Straits Times của Singapore trích đăng. Những đập thủy điện ở thượng nguồn đang làm vùng hạ lưu dần dàn cạn sạch cá, tình trạng sói mòn dọc bờ biển trở nên tồi tệ hơn, nhiều diện tích đất trồng lúa mất đi do bị nhiễm mặn. Chưa hết, ông Marc Goichot, chuyên gia về thủy điện và sông ngòi, hiện đang làm việc trong WWFN Quỹ Quốc Tế Bảo Vệ Thiên Nhiên tại Việt Nam, khuyến cáo về dòng chảy trên sông Mê Kông đang bị chặn lại bởi nhiều đập thủy điện của Trung Cộng. Cũng phải kể đến 11 dự án thủy điện khác mà một số quốc gia đang xây dựng". Vẫn theo lời ông Goichot: "Những hoạt động khai thác cát quá đà đang đẫy nhanh tốc độ xói mòn những bờ sông, kế đến hiện tượng nguồn nước ngầm cạn kiệt, đã làm phát sinh tình trạng đất lún trong lúc mực nước biển cứ dâng cao khoảng 5 milimét mỗi năm, lấn dần vào đất liền của đồng bằng sông Cửu Long, đe dọa 13.000 mẫu tây diện tích canh tác lúa, và an ninh về lương thực của Việt Nam bị đe dọa là điều không thể tránh khỏi".


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459541835-cuulong4.jpg

Bản tin đài RFA ngày 21/11/2015, một nông dân tên Vị, sống ở Long Xuyên, An Giang, tâm sự với phóng viên rằng: "Bây giờ ruộng đồng khó khăn rồi, không còn cá, mà lúa cũng chẳng còn bao nhiêu. Cá thì hiếm hoi, ruộng thì ngập mặn, không còn phì nhiêu như ngày xưa nữa đâu. Mọi thứ khó khăn rồi. Mấy chả (ý nói các cấp lãnh đạo Việt Cộng. PB Hoa) ngồi trên đó, mấy chả ăn sung mặc sướng, ăn trên ngồi trốc, muốn nói gì thì nói chớ có ai quan tâm gì đến dân đâu! Mình là dân, ngồi dưới này hả họng như con cóc chờ mưa, còn mấy chả có hề hấn gì đâu…!” Vẫn theo ông Vị: "..... Hiện nay, người nông dân cảm thấy mình không còn ngây thơ để tin vào những luận điệu không có thật từ phía nhà nước. Biết rằng, mình sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu như bày tỏ sự bất đồng đối với nhà cầm quyền, nhưng không thể nào tin vào họ được. Bởi bao nhiêu điều họ nói từ trước đến nay, làm cho người nông dân càng thêm khổ nhiều hơn. ..... Không riêng gì nông dân miền Tây, mà bất kỳ nông dân vùng miền nào trên đất nước này đều phải chịu sự chi phối của nhà nước. Cán bộ nhà nước lúc nào nói cũng hay, nhưng xét cho cùng thì họ tệ hơn rất nhiều so với các con buôn..... "
Một người nông dân khác tên Thiệt, ở Năm Căn, Cà Mau, tâm sự: "Bây giờ mực nước cạn lắm rồi, cá cũng hiếm hoi lắm, tìm đỏ con mắt cũng không ra con cá đâu. Không giống như ngày xưa tôm cá đầy đồng. Vì nước ở thượng nguồn sông Mê Kông bị nó chặn hết rồi, cá cũng không về được nữa. Ngày xưa nước ngập đồng thì cá nó vô đồng để đẻ, bây giờ không có nước ngập đồng nữa, nó lấy nước đâu mà vô đẻ. Bây giờ mọi thứ đều cạn kiệt rồi, và đời sống của nông dân miệt vườn miền Tây đang rất khó khăn.... Ở các tỉnh như Trà Vinh, Bến Tre, Vĩnh Long, An Giang, Cà Mau, Cần Thơ, càng ngày ngày càng nhiều diện tích ruộng bị nhiễm mặn, không thể trồng lúa được nữa. Người dân sống nhờ đồng ruộng với cá tôm, nhưng giờ đây dòng sông cạn kiệt, nước mặn tràn vào, không sản xuất được lúa, cũng không có cá tôm để bắt, làm sao mà sống đây! Nỗi lòng của người nông dân là như vậy, trong khi nhà nước với họ (ý nói Trung Cộng. PB Hoa) vẫn là anh em thân thiết, với bốn tốt và mười sáu chữ vàng gì đó với họ".

Các Anh nghĩ sao thì tôi không rõ, nhưng viết đến đoạn này, tôi cảm nhận như có gì đó trên hai bên má, tôi đưa tay lên để gạt nó xuống, hóa ra đó là hai giọt nước mắt! Đúng là tôi khóc! Tôi khóc, vì lời than của ông Vị và ông Thiệt, hai nông dân của đồng ruộng Miền Tây, nơi mà tôi được chào đời (Sóc Trăng) và lớn lên trong những năm tiểu học. Với dòng chữ mà tôi tô đậm ở đoạn trên, vừa đọc vừa nghe như có dòng âm thanh rót vào tai làm cho tôi cảm nhận nỗi đau từ nơi sâu thẳm trong lòng!
Ngày 26/1/2016, phóng viên Gia Minh của đài RFA, tường thuật rằng: "Lào sẽ khởi công xây đập Don Sahong từ tháng 4/2016, trong khi đập thủy điện Xayxaburi hoàn thành khoảng 60%. Đập thủy điện này đã bị các chuyên gia môi trường của Ủy Hội Sông Mê Kông phản đối, trong khi các quốc gia trong khu vực cũng phản ứng gay gắt. . . Theo đánh giá của 39 nhà "sinh thái thủy học" trên thế giới đã đăng trong tạp chí Science (Khoa học), thì những đập trên dòng chính Mê Kông chảy qua lãnh thổ Trung Cộng, và những đập trên lãnh thổ Lào, sẽ làm cho dòng chảy con sông bị thay đổi, luợng phù sa và cá giảm đi, và đường đi của cá vào mùa sinh đẻ bị chặn lại, dẫn đến nguy cơ tuyệt chủng. Thế rồi việc phá rừng để xây dựng đập và hồ chứa nước của công trình thủy điện cũng gây ra bao tác hại cho môi truờng sống của cư dân bản địa, cũng như muông thú trong rừng. Ngay cả Biển Hồ của Cam Bốt là hồ tự nhiên lớn nhất tại khu vực Đông Nam Á, nơi mà vào mùa mưa hằng năm nước về mở rộng diện tích mặt nước lên 4 lần so với mùa khô, tạo nên vùng đất ngập nước tuyệt vời làm nơi sinh sản cho các loài cá cũng như bồi đắp phù sa cho một vụ mùa lúa bội thu vào năm sau. Ngoài ra một khi nước rút từ Biển Hồ ra lại dòng Mê Kông mang theo nguồn thủy sản dồi dào cung ứng cho cư dân vùng hạ lưu......".

Tiến sĩ Nguyễn Phong Phú, một chuyên gia tại An Giang, phát biểu như một lời khẳng định rằng: "Vì chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những đập thủy điện trên thượng nguồn, mà giờ đây người dân vùng đồng bằng Cửu Long không còn cá để bắt nữa. Những năm trước đây, người dân tỉnh An Giang và Đồng Tháp "chất chà" dọc theo bờ sông để cá vào đó trú ẩn, mỗi tháng bắt một lần cũng được chút ít. Bây giờ -năm 2016- thì dòng sông này còn con cá nào nữa đâu mà bắt".
Ngày 11/03/2016, Ủy hội sông Mê Kông cho biết: "Hiện nay, Trung Cộng đã đưa vào hoạt động một số trong số 15 đập thủy điện lớn nhỏ trên thượng nguồn. Cũng trên dòng sông này, 11 đập thủy điện lớn nhỏ khác cũng được các nước hai bên dòng sông có kế hoạch xây dựng. Nhiều chuyên gia lo ngại, những cái đập không khác gì những quả “bom nước” khổng lồ lơ lửng trên đầu hai chục triệu người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long trên lãnh thổ Việt Nam. Trung Cộng cũng từ chối thỏa hiệp với các nước liên quan về việc tận dụng dòng sông. Trên thế giới, đã có nhiều trường hợp các nước ngồi lại cùng bàn thảo, chia sẻ tin tức và hợp tác cùng sử dụng chung nguồn nước".

Thứ ba. Giải pháp.

Ngày 13/1/2016, Ủy Hội Sông Mê Kông họp tại thủ đô Phnom Penh của Cam Bốt, thảo luận những thách thức mà vùng này đang đối mặt, vì có những điều mà các bên vẫn chưa thống nhất được với nhau vì quyền lợi riêng. Theo Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1997 với những nguyên tắc căn bản và thực hành về luật nguồn nuớc quốc tế, củng cố thêm cho những thỏa thuận đang có về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế cho các mục đích phi giao thông-UNWC1997, nhưng trong 4 quốc gia của Ủy Hội Sông Mê Kông, đến nay chỉ có Việt Nam phê chuẩn Công Ước này.


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459541978-cuulong5.jpg

Căn cứ vào Công Ước Liên Hiệp Quốc UNWC 1997 và vấn đề liên quan thủy điện tại lưu vực Sông Mê Kông, Tiến sĩ Tô Văn Trường nhận định: "Việt Nam là nước thứ 35 phê chuẩn Công ước UNWC. Công ước đã chính thức có hiệu lực và trở thành luật quốc tế áp dụng cho các nguồn nước quốc tế. Ngay từ khi Công Ước còn đang ở dạng dự thảo, 4 nước hạ lưu sông Mê Kông (Cam Bốt, Lào, Thái Lan, và Việt Nam) đã nghiên cứu, vận dụng nhiều quy định và đưa vào Hiệp Định Mê Kông (MRC) ký năm 1995. Do đó, tinh thần căn bản từ các quy định của Công Ước hoàn toàn có thể áp dụng trong lưu vực sông Mê Kông. Riêng về thủy điện trên dòng chính con sông này, MRC đã quy đinh rất rõ ràng về khối lượng nước và phẩm chất nước mà các quốc gia thành viên phải tôn trọng". Ông Trường phát biểu tiếp: "..... Xin lưu ý rằng Cam Bốt, Lào, và Thái Lan đã bỏ phiếu thông qua Hiệp Định MRC 1995, như vậy đã được coi là tán thành tinh thần của Convention 1997 trong các quy định nêu tại Công ước.” (trích bài của Gia Minh, đài VOA)


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459542184-cuulong6.jpg

Ngày 19/02/2016, ông Nguyễn Văn Tỉnh, Tổng Cục Phó Tổng Cục Thủy Lợi thuộc Bộ Nông Nghiệp cho biết: "Gần 100 năm qua, đây là lần đầu tiên mà đồng bằng sông Cửu Long bị hạn hán và nước mặn xâm lấn nghiêm trọng nhất. Đã tàn phá nặng nề các cánh đồng và những vườn cây, cả các khu rừng, đến nước ngọt cho sự sống cũng thiếu trầm trọng". Bộ Trưởng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát cho biết: "Hạn hán và nước mặn xâm lấn đã phá hỏng nhiều đồng lúa, thiệt hại trị giá khoảng 1.000 tỷ đồng Việt Nam". Trong khi đó, Viện Khoa Học Thủy Lợi Miền Nam dự báo: "Ngoại trừ thành phố Cần Thơ và tỉnh An Giang với Đồng Tháp, tất cả các tỉnh khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long đều bị nước mặn xâm lấn trong năm 2016 này. Riêng tỉnh Kiên Giang, nước mặn đã và đang phá hủy hơn 30.000 mẫu tây lúa....".
Ngày 01/03/2016, bản tin của AFP cho biết: "Giáo sư Lê Anh Tuấn, chuyên nghiên cứu về biến đổi khí hậu tại Đại Học Cần Thơ, ước tính có hơn 1.000.000 mẫu tây đất trồng trọt của đồng bằng Cửu Long bị nhiễm mặn, mà hiện nay chưa có biện pháp nào để cứu vãn....."


http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1459542296-cuulong74.jpg

Ngày 7/3/2016, trong buổi họp tại Cần Thơ, Thủ Tướng đã hỗ trợ cho 9 tỉnh đã có thống kê về thiệt hại vì nước mặn từ biển xâm nhập vào, bằng cách cung cấp 137 tỷ đồng theo đề nghị của các tỉnh. Thủ Tướng mong muốn các tỉnh thống nhất hành động các biện pháp cấp bách trước mắt, để hạn chế thấp nhất thiệt hại và hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn, dứt khoát không để hộ dân nào bị đói. Đồng thời thống nhất các giải pháp lâu dài và xác định nguồn lực nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Theo báo cáo, vùng bị thiệt hại nặng nhất, với 155.000 gia đình (trong ngước gọi là hộ dân. PB Hoa) gồm 700.000 người, thiếu nước ngọt trong sinh hoạt hằng ngày. Nếu khô hạn tiếp tục kéo dài như hiện nay, thì toàn vùng dự báo sẽ có khoảng 500.000 mẫu tây không thể làm mùa được, chiếm hơn một nửa diện tích của các tỉnh ven biển và gần 30% diện tích gieo trồng của toàn khu vực.

Theo Bộ Trưởng Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Cao Đức Phát nhận định: "Những gì đang xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long mới chỉ là khởi đầu, và El Nino sẽ tiếp tục kéo dài ảnh hưởng đến giữa năm nay, diễn biến ngày càng nghiêm trọng hơn…"
Bí Thư tỉnh ủy Sóc Trăng Nguyễn Văn Thể phát biểu: “Chúng ta đầu tư cho xây dựng cản bản không nhỏ, nhưng tỉnh nào cũng làm cống đấp đê nhưng chưa hề phối hợp nhau. Trường hợp tỉnh Sóc Trăng với Bạc Liêu là điển hình. Hai tỉnh cạnh nhau, nhưng những mâu thuẫn dù ngồi lại với nhau vẫn không thể giải quyết được. Bạc Liêu cần lấy nước mặn vào để nuôi cá nuôi tôm, trong khi Sóc Trăng cần lấy nước ngọt, cứ vậy mà một bên muốn mở cửa lấy nước ngọt còn một bên muốn chặn cửa lại để lấy nước mặn, Rất khó đạt được hiệu quả…”.
Sau khi nghe các tỉnh và các cơ quan trình bày, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh: "Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước thách thức rất lớn mà trước mặt là nước biển dâng cao, xâm nhập mặn, và hạn hán. Riêng 160.000 mẫu tây lúa Đông Xuân bị thiệt hại tới 5.000 tỷ đồng và liên quan trực tiếp đến 1.500.000 người dân. Vụ Hè Thu tới đây, nếu khô hạn tiếp tục thì toàn vùng có tới 500.000 mẫu tây không thể xuống giống đúng thời vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng 5.000.000 người dân, cùng lúc khoàng 750.000 người không đủ nước sinh hoạt.... Ngân Hàng Nhà Nước chỉ thị các ngân hàng thương mại khoanh nợ ngay, không tính lãi đối với các gia đình nông dân bị thiệt hại nặng nề. Hãy duyệt lại cẩn thận, và xóa nợ cho những gia đình thật sự kiệt quệ...."

Ngày 10/3/2016, theo bản tin của đài RFA, thêm hai tỉnh vừa công bố tình hình thiên tai hạn mặn là Vĩnh Long và Trà Vinh. Như vậy, tính đến ngày 10/3/2016, có 8 tỉnh trong số 12 tỉnh vùng đồng bằng Cửu Long trong tình trạng hạn hán và nhiễm mặn đến mức độ nguy hiểm. Trong khi đó, Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn thống kê đến ngày 7/3/2016, vùng đồng bằng Sông Cửu Long có khoảng 139.000 mẫu tây lúa bị thiệt hại.
Cùng ngày 10/3/2016, tỉnh Bình Thuận -không thuộc đồng bằng Cửu Long- cũng tuyên bố tình trạng thiên tai bởi hạn hán.
Ngày 11/3/2016, Việt Nam chánh thức gởi Công Hàm yêu cầu Trung Cộng xả nước từ hồ chứa thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông với dung lượng khoảng 43 tỷ thước khố nước, giúp Việt Nam thoát khỏi hạn hán.
Trên báo Dân Việt ngày 14/3/2016, có bản tin: "Bộ Ngoại Giao Trung Cộng cam kết "sẽ làm việc ngay với các cơ quan liên quan để sớm có phương cách xả nước hồ chứa thủy điện Cánh Hồng để giúp Việt Nam". Báo Dân Việt cũng nêu câu hỏi: "Liệu bao giờ thì họ hành động?"
Ngày 14/3/2016, trong buổi hội thải tại trường đại học Cần Thơ, Tiến Sĩ Đỗ Võ Anh Khoa nhận định: "Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải giảm diện tích nông nghiệp, giảm diện tích đất trồng cỏ cho gia súc, giảm phát triển chăn nuôi gia súc, đồng thời sẽ tăng nhập cảng thức ăn chăn nuôi. Vì vậy mà nông nghiệp đồng bằng sông Cửu Long, từ vựa lúa của toàn quốc, rất có thể sẽ phải đi mua lúa mua gạo về ăn". Trong khi Tiến Sĩ Lê Anh Tuấn, Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Biến Đổi Khí Hậu, phát biểu: "Đồng bằng sông Cửu Long đến trung tuần tháng 3, sẽ bị xâm nhập mặn khốc liệt. Cần Thơ chưa từng bị xâm nhập mặn bao giờ, thì đầu tháng 3 (2016) đến nay, nước mặn đã xâm nhập đến quận Cái Răng, với độ mặn giao động từ 1 phần nghìn đến 2 phần nghìn. Nhà máy nước tại Cái Răng, không được lấy nước sông lên để lọc, vì nước mặn đã vượt mức quy định theo tiêu chuẩn dưới 0,75 phần nghìn.
"Nước mặn xâm nhập 13/13 tỉnh/thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long, nếu tốc độ xâm nhập mặn như hiện nay, thì trong 3 năm tới, đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị kiệt quệ, lúc ấy lương thực thực phẩm sẽ khan hiếm và đắt đỏ". (trích trong báo Ngày Nay ngày 19/3/2016).
Ngày 15/3/2016, Ủy Hội Sông Mê Kông -trong đó có Việt Nam- sẽ làm việc với bốn nước Trung Cộng, Thái Lan, Lào, và Miến Điện trong phiên họp lần thứ 43 của Ủy Ban Liên Hiệp Ủy hội Sông Mê Kông quốc tế trong 3 ngày 15-17/3/2016, với mục đích yêu cầu các quốc gia này giúp có giải pháp điều tiết nước cho vùng hạ lưu là đồng bằng sông Cửu Long.
Cùng ngày 15/3/2016, ông Cao Đức Phát, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, trong buổi họp tại Hà Nội, đã lên tiếng kêu gọi và đề nghị các tổ chức quốc tế hỗ trợ, cứu trợ khẩn cấp cho người dân bị thiệt hại nặng nề do hạn hán, xâm nhập mặn, và thực hiện đắp đập tạm, đào ao, khoan giếng, vận chuyển nước sinh hoạt, nối dài đường ống cấp nước sinh hoạt, máy lọc nước các gia đình người dân. Về lâu về dài, Bộ này cũng kêu gọi các tổ chức quốc tế tài trợ vốn các dự án ODA về xây dựng công trình và nâng cao năng lực quản lý để ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn, tại vùng đồng bằng Cửu Long là một thiên tai lịch sử từ trước đến nay của Việt Nam. Hiện nay, tình trạng này đang ảnh hưởng rất nghiêm trọng tới sản xuất và đời sống hàng chục triệu người dân.... Bên cạnh đó, chánh phủ cũng yêu cầu các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công nhiều công trình thủy lợi ngăn mặn và trữ nước ngọt, đồng thời với phương châm không để người dân nào đói, các địa phương phải thống kê những gia đình dân thiếu lương thực và cấp 15 kí lô gạo trên mỗi đầu người trong từng tháng....".
Các Anh có nhận ra rằng: "Ông Bộ Trưởng Cao Đức Phát nói rằng, chánh phủ đã yêu cầu các địa phương đẩy nhanh tiến độ thi công nhiều công trình thủy lợi năm nước mặn và trữ nước ngọt, nhưng ông ta không nói vài trường hợp điển hình mà chỉ nói một cách quá ư là tổng quát, trong khi quốc tế muốn trợ giúp thì họ phải nắm được những công trính đó là gì? Đã làm được đến đâu? Hiệu quả như thế nào? ..v...v... Cách mà ông Phát kêu gọi quốc tế, chẳng qua là để người dân tường là ông ta lo cho dân lắm. Chắc là ông ta chưa nghe câu nói như một lời than, cũng là lời trách nhà nước, từ ông Vị mà tôi ghi lại ở đoạn trên, rằng: "Hiện nay, người nông dân cảm thấy mình không còn ngây thơ để tin vào những luận điệu không có thật từ phía nhà nước".
Vietnamnet ngày 16/3/2016, một đoạn trong bản tin Sông Mê Kông cạn nước: "... Ta có quyền tự hỏi rằng, ai sẽ bắt đầu làm việc đó ở Việt Nam. Bảo vệ dòng sông Mê Kông là bảo vệ an ninh lương thực, an ninh quốc gia và sinh mệnh của chính chúng ta. Trên internet, đã bắt đầu xuất hiện ý kiến của một số chuyên gia về việc các nước ở hạ nguồn sông Mê Kông, cần liên kết lại để tạo sức mạnh pháp lý khi đấu tranh với những người đang giữ nước ở thượng nguồn, mà các nhà đầu tư không đếm xỉa đến lợi ích ngoài quốc gia của họ. Một cuộc đấu tranh pháp lý để bảo vệ Mê Kông có thể diễn ra theo nhiều cách, nhưng bây giờ nó cần được bắt đầu, bởi vì nó cũng khẩn cấp không kém gì những đấu tranh pháp lý để bảo vệ chủ quyền biển đảo của chúng ta. Vì không thể trông cậy vào lãnh đạo Việt Cộng quá lệ thuộc vào Trung Cộng, trí thức và các tổ chức Xã Hội Dân Sự, không thể để cho nhân dân ngồi chờ chết mà phải cấp bách mở chiến dịch "Cứu Nguy Đồng Bằng Sông Cửu Long" với sự tham gia đông đảo của mọi tầng lớp trong xã hội".
Ngày 16/3/2016, Đất Việt online trích bản tin từ Tân Hoa Xã, rằng: "Trung Cộng cam kết sẽ xả lũ từ đập Cánh Hồng (tỉnh Vân Nam) từ ngày 15/3/2016 đến ngày 10/4/2016, với lưu lượng 2.190 thước khối trong mỗi giây đồng hồ. Ngoài ra, Trung Cộng đang thúc đẩy hợp tác về nguồn nước giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông để giải quyết tình trạng hạn hán kéo dài...."

Kết luận.

Đồng Bằng Sông Cửu Long đang lâm nguy là sự thật. Chánh phủ Việt Cộng cũng như Ủy Hội Sông Mê Kông đang vận động với Trung Cộng xả đập giúp Việt Nam là sự thật, nhưng liệu họ có cột Việt Cộng vào điều kiện gì có lợi cho họ hay không? Thủ Tướng Việt Cộng có hứa giúp dân ở các tỉnh bị hạn hán và nước mặn xâm nhập với số tiền 137 tỷ đồng là sự thật, nhưng không rõ là đã cấp hay chưa? Nếu cấp rồi, thì liệu mỗi gia đình dân được bao nhiêu?
Chẳng lẽ lãnh đạo Việt Cộng chỉ cấp một khoản tiền như vậy là xong rồi sao? Tôi nghĩ, cấp trung ương thể nào cũng có những phương tiện khác giúp đồng bào, như sử dụng những chiếc xe vận chuyển nước ngọt giúp người dân, chuyển những máy móc chuyên dùng để trợ giúp các tỉnh đắp đập ngăn nước mặn, thậm chí có thể thành lập một "Ủy Ban Liên Bộ Cứu Nguy Đồng Bằng Sông Cửu Long" với một ngân khoản rộng rãi, một quyên hạn cũng rộng rãi, và một trách nhiệm cụ thể trong một thời gian rõ ràng để thực hiện, ..v..v...
Được chớ? Còn Các Anh nghĩ sao? Nghĩ gì thì nghĩ, nhưng đừng bao giờ quên rằng: “Tự do, không phải là điều đáng sợ, mà là nền tảng cho sự thịnh vượng của đất nước. Không có dân chủ, không thể có sự trỗi dậy và phát triển bền vững. Và chính chúng ta phải tranh đấu, vì Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng.
Texas, tháng 3 năm 2016

Phòng Trực
07-05-2016, 08:14 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/Thu57goiNLQDNDVN.pdf