PDA

View Full Version : Bay lướt trên Đường Mòn HCM



vinhtruong
10-21-2011, 02:33 AM
Thời tiết vùng núi sáng nào cũng như ngày nào, khí lạnh toát ra từ đá núi, trên cây rừng còn đọng lại hơi sương, thỉnh thoảng vài cơn gió biển thổi vào đem hơi ấm cần thiết cho dân miền Sơn cước, rời rạc vài cụm mây ngàn bỏ núi bay xa, nơi đây lá rừng lung-lay xào xạc, trên bầu trời xanh thẳm điểm vài sợi mây vảy cá Cirrus nằm bất động, báo hiệu một ngày dài với trời nắng đẹp. Thượng đế như chiều lòng cảm thông cho sự lo âu của phi hành đoàn Biệt-kích Delta sẽ dấn sâu vào vùng lửa đạn với những phi vụ âm thầm không danh xưng trong bóng tối …

Trên bãi cỏ, hai chiếc trực thăng CH-34 lù lù nằm im lìm trên đó, ướt đẫm hơi sương như hai con kình-ngư vừa trườn lên bờ phơi nắng. Cơ-phi Thượng-sĩ Nguyễn Văn Mai đang hì hục, hấp tấp dang tay đẩy liên tục cần bơm xăng từ các thùng phuy chuyền qua trực thăng. Mồ hôi Mai nhuể nhoải ướt đẫm chiếc áo Bà ba đen, nhưng không phải là bác nông dân cày bừa mà là người hùng cày sâu nơi vùng lửa đạn. Mai dang tay lau bớt mồ hôi tuôn trên trán và dụi nhẹ vào đôi mắt đang cay.
Tôi đang bước nhanh đến Mai:
“Anh Mai! Anh nghỉ tay một chút cho khỏe, để Tôi bơm cho… khi nào khỏe hẳn anh giúp Tôi kiểm soát mức độ dầu, xăng, nhớt thủy điều và các cơ phận xoay chuyển o.kay!
“Mình chỉ bôm chiếc của mình mà thôi, để Huệ và Khôi bay ra Quảng Trị đổ xăng cho đỡ khỏi phải dùng xăng ở đây; Một công hai việc vừa để dành xăng ở đây mà cũng vừa an toàn hơn phải lấy trong thùng phuy lâu ngày đọng nước trong đó”
“Chút nữa anh bơm nhớ chừa cặn lóng ở dưới đáy thùng, và kiểm soát lại coi xăng đã hết hạn chưa… vi xăng để lâu trong thùng phuy sẽ bay mất nhiệt lượng octane, sẽ nguy hiểm khi mình dùng sức máy tối đa… Chút nữa đây lên trực thăng, anh nhớ nhắc Thượng-sĩ Donald-Duncan xiết dây nịt an toàn cho chắc, vì trước khi mình vào chụp hình ở Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559, Tôi phải thử trước một động tác “8-chậm,” phi công Mỹ gọi là “Lazy-8,” có nghĩa là bay quẹo chữ I thay vì chữ U, nói cách khác đó là phương thức bay ngược 180 độ nhưng ở đây dùng khoảng cách đứng chớ không thể dùng khoảng cách ngang trong thung lũng với vách đá dựng đứng. Làm như vậy không đụng vào vách núi đứng như bức tường sắt nơi đó và tránh bay qua vùng mà hai Tiểu đoàn phòng không Bắc Việt luôn luôn sẵn sàng nhả đạn… Anh nhớ tôi sẽ đâm đầu xuống tăng tốc lực tối đa, xong sẽ cất mũi trực thăng chỗng ngược thẳng đứng lên trời, đợi khi nào tốc lực xuống đến 25 hải-lý sẽ đạp phối-hợp nhẹ nhàng chân phải cho trực thăng từ từ hạ mũi xuống, rồi uyển chuyển phối hợp động tác tay lái đem phi cơ lên thăng bằng; như vậy là mình đang trở lại 180 độ trên trục mà mình đã bay qua… biết đâu Lính BV thấy cảnh ngoạn mục nầy nên người anh em thù địch sẽ vỗ tay mà quên bắn mình .. Anh tin như vậy không?

Mai hiểu được ý nghĩa bông đùa của Tôi khi phải giáp mặt với sự hiểm nguy, hắn nhanh nhẹn trả lời cho tôi yên tâm:
“Anh lo việc lớn đi, còn việc nhỏ để tôi lo… tôi đã kiểm rất kỹ rồi anh yên chí, ống hút của cần bơm xăng không đụng đáy thùng mà cách gần tới hai tấc an toàn lận”
“Anh Mai! Những chuyến bay có anh bên cạnh tôi rất yên tâm, vì chuyến bay nầy rất muôn phần nguy hiểm Tôi cảm thấy phải cho anh biết để chuẩn bị ứng xử”

Trong Không quân ngành trực thăng, chúng tôi xem nhau như anh em ruột thịt, người nào cũng là quan trọng cần thiết như nhau không thể thiếu được; Sự thật chúng tôi là những chiến sĩ anh hùng không tên tuổi. Các phi vụ thường được giữ tuyệt đối bí mật, âm thầm chiến đấu trong bóng tối hay trong giông bão để tạo sự bất ngờ, vào những đêm trời không trăng sao, thời tiết càng xấu càng tốt, địa hình càng khắc nghiệt càng tăng thêm yếu tố bất ngờ, rồi càng tăng thêm sự kín đáo khi thả Toán nơi chốn rừng già hoang-dã. Những phi vụ cảm-tử như vậy mà ngay người chiến hữu Không quân cùng binh chủng cũng không ai biết được, ngoài Sở Liên lạc, Nha Kỹ thuật và Bộ Tư lệnh lực lượng Ðặc Biệt. Nghe đến danh từ Queen-Bee, Delta-Alpha-1, 2, các phi công sừng sỏ xuất sắc nhứt của Không lực Hoa Kỳ và U.S Army Aviation cũng phải chào thua bái phục. Ðâu cần phải thâm niên quân vụ, đâu cần phải mang trên ngực cánh “hoa tiêu lãnh đạo” có vòng nguyệt quế và tinh cầu dẫn độ. Những phi công mới ra trường đã đi vào huyền thoại lịch sử chiến tranh Việt Nam ngang hàng với các bậc đàn anh của họ. Trong hỏa tuyến xung vào vùng trời lửa đạn, làm gì có sự phân biệt cấp bực giữa chiến sĩ với nhau, chỉ có lòng can đảm, sự hy sinh cho chiến hữu mới là những trang “chiến-sử” để đời của người Lính trận. Ðó mới chính là gia tài trang trọng và cao quý nhứt mà người chiến sĩ quân lực VNCH ít khi phải đem rao hàng giữa chợ đời.

Thông thường những chuyến bay nguy hiểm Tôi thường bay một mình, không có cơ-phi. Tôi rất tiết kiệm, tránh né tối đa sự thương vong vô ích có thể xảy ra cho đồng đội. Nhưng đặc biệt hôm nay tôi phải chấp nhận loại đạn AK hơn loại súng phòng không hoặc hoả tiễn cầm-tay SA-7. Vì Tôi biết phải giỡn mặt với hai Tiểu đoàn phòng không của CSBV bảo vệ Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559 do tướng Võ Bam làm tư lệnh, vùng mật khu vô cùng huyền bí, phía SOG Mỹ cho là vùng kiên cố “Oscar-8”.

Tôi sẽ bay theo kiểu Cá lia-thia lách mình tránh né dưới rặng đá bén nhọn của san-hô, chôm-chổm dựng đứng. Bỗng dưng tôi nhớ lại những lời Ni ân-cần dặn dò. “Khi đi bay Anh nhớ đừng bao giờ quên đeo chiếc Tượng ảnh Thánh-giá nầy… Chúa Mẹ sẽ bao che cho Anh suốt chuyến bay được an-lành, nhớ hĩ... nhớ hĩ! Nàng muốn tôi luôn luôn bám giữ niềm tin như vậy, nhưng Tôi lại cứ bình thường; “Thôi thì cứ nghe theo nàng, không có lợi thì thôi chớ cũng chẳng có gì gọi là hại cả!”.

Tôi sẽ bay cùng với thiếu úy Tống Phước Hảo, anh bay rất vững nhưng ít chịu liều mạng, không giống như thiếu úy Trần Hữu Khôi và thiếu úy Phan Ngọc Huệ, hai hiện tượng nầy thôi khỏi nói, “Ðúng anh hùng tử chí hùng nào tử” do đó tôi cắt đặt hai anh túc trực cấp cứu khi tôi chẳng may bị nạn. “Ðúng ngựa hay thường sanh chứng!” Riêng Huệ, anh đã làm cho tôi và Thiếu tá Thơm thuộc LLÐB phải bị Thiếu-tướng Cao Văn Viên, Tư lệnh Quân khu-3 kêu lên chửi cho một trận nên thân: Tôi còn nhớ rõ ngày ấy vào một buổi chiều tối, khi tôi đi kiếm vài món gì nhét vào bao tử cho xong. Trên đường trở về Khách sạn mà CIA mướn trọn hết cho Phi đội chúng tôi để bảo mật, thì được ông chủ khách sạn chạy ra phân bua: Có ông Thiếu-úy của Ðại-úy, tướng đi nghiêng nghiêng, gương mặt đỏ ngầu, tôi biết ngay là Huệ, xách súng và rủ các ông khác bao vây Ðồn quân cảnh ở ngã tư đàng kia. Tôi hối hả hỏi ông “Ông biết tại sao, lý do gì vậy” Tại vì các ông ăn mặc và súng ống của Việt Cộng, nên Cảnh sát đã phối hợp với Quân cảnh ụp vào khách sạn xét hỏi, khi ông Thiếu úy đi về thấy vậy, ông nổi điên chửi thề “Ð.M quân cảnh Mỹ mà thấy tụi nầy chở trên xe Jeep Delta cả chục người kể cả đàn bà con nít mà tụi nó không dám đụng đến mà quân cảnh Việt Nam là cái thá gì mà dám phiền nhiễu tụi nầy?”

Nói xong ông Thiếu úy tập họp tất cả lại điều động bao vây Ðồn quân cảnh bảo Trung úy Ðồn trưởng phải đích thân đi ra xin lỗi vì dám vào khách sạn của ông hạch hỏi lôi thôi. Tôi có linh tính ngày mai thế nào cũng bị Tư lệnh Vùng chửi bới. Y như rằng, Tôi và Thiếu-tá Thơm bị Thiếu tướng Viên kêu lên chửi cho một trận vuốt mặt không kịp:

“Các anh đừng ỷ các anh là đơn vị cảm tử, ưu tú nhứt của quân lực VNCH rồi muốn làm gì thì làm à, càng giỏi mà đừng kiêu binh thì người dân mới kính phục quân đội… Trung úy trưởng đồn thông-cảm sự hy sinh của các anh, chớ người khác họ lấy xe tăng cán đè lên các anh nát đầu dẹp lép, các anh hiểu chưa? Ăn mặc đồ Việt Cộng mà dám vây đồn quân cảnh, các anh liều thật… súng AK-50 của các anh thì làm được gì với xe tăng?”

Tôi về lại khách sạn gặp Huệ, tôi cũng chẳng nói tiếng nào, có phải con người mà hằng đêm bay phi vụ đùa giỡn với tử thần đã đem lại một tinh thần bất ổn, căng thẳng vì giao động mạnh? Thế nhưng Huệ sửa lại tư thế càng kính trọng và nể phục tôi hơn, Tôi có thể hiểu được qua nét mặt cũa Huệ.

Còn Khôi, con người cứ lầm lầm lì lì khó hiểu. Thì giờ anh bỏ ra nhiều nhứt là mài dao trên một miếng đá mài tí hon. Thật là một hiện tượng kỳ quái; đêm đó tôi còn nhớ, Vũng Tàu một thành phố kết hợp nhiều binh chủng nhứt, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Người Nhái, Biệt kích Lôi hổ, Biệt Ðộng quân… Tôi đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cao của một quán Kiosque ở Bãi trước, thì nghe tiếng súng nổ khắp nơi, mọi người đều nằm rạp xuống đất để tránh đạn, nhìn qua nhìn lại chỉ có một mình tôi thản nhiên ngồi uống rượu. Vì tôi biết chắc chắn họ chỉ bắn lên trời thôi chớ chẳng có gì phải sợ, sau một hồi nổ súng, các binh chủng khác đều rút lui chỉ còn lại lác đác vài anh Biệt kích gan lì ở lại lâm le khẩu súng. Tôi nhìn ra thấy Trung-sĩ Ðức, hắn vừa được tôi bốc ra trong chiến khu D tuần trước; Tôi trừng mắt quát lớn (không biết sao hồi đó tôi dữ quá):

“Ðức…Ð.M đi về ngay” Hắn riu-ríu đi về nhưng vẫn chu-miệng lên trời la lớn: “Ð.M không có ông thầy tao kêu về… thì chết mẹ tụi bây hết” Một lát sau, không khí bãi trước vẫn vui lại như không có chuyện gì xẩy ra trước đó.
Một người đàn bà trạc tuổi 40 mươi, mặt mày phấn son tươm tất đi ra chào hỏi như muốn làm thân: “Em thấy Ðại úy anh hùng quá chẳng sợ súng đạn là gì… cứ ngồi uống tỉnh-bơ”
“Có gì đâu mà sợ… họ bắn dọa lên trời thôi chớ có gì đâu mà sợ”
“Em đề nghị Ðại úy chuyện nầy nghe”
“Ðâu chị nói thử”
“Tụi em ước ao Ðại úy đỡ đầu cho quán của tụi em, chúng em sẽ biết điều với Ðại-úy… có như vậy quán tụi em sẽ không bị phá-phách… nghe Ðại-úy”
Tôi cảm thấy khó chịu và tội nghiệp cho người dân trong thời buổi chiến tranh:
“Thôi đi bà nội… Tụi tôi ở đây có vài tuần xong chiến trận Bình-Giả chúng tôi sẽ đi chỗ khác…Chị coi bao nhiêu tiền tôi trả, tôi phải về khuya rồi”
“Không có bao nhiêu thôi để em xin mời Ðại úy”
Tôi bèn đặt tấm giấy bạc lên bàn, cẩn thận dằn ly rượu lên trên rồi ra về một mạch.


Vừa nằm xuống chưa kịp chợp mắt, đã có ai gõ cửa rầm rầm nơi phòng mình, vừa mở cửa đã thấy Trung-úy Ðỗ Cao Luận, Ðại đội trưởng Biệt-kích Dù, mặt đỏ kè có lẽ uống quá nhiều rượu.
Tôi nghe tiếng nói không chững chạc qua hơi rượu:
“Anh Vinh! Tôi muốn đấu súng với anh ngay bây giờ”
“Luận… ê… bộ hôm nay Bồ có chuyện buồn”
Hắn gật gù trả lời: “Không có gì buồn mà chỉ có rửa hận thôi! Anh có đàn em mà không biết dạy-dỗ… mũi dại thì lái phải chịu đòn… có thế thôi”
Tôi điên tiết lên nhưng phải vuốt cơn giận xuống “Chuyện đâu còn có đó… không lẽ trong chiến trận mình đã hy sinh cho nhau mà bây giờ vì một người đàn bà mà mình phải hy sinh sanh mạng thật nhục quá… Tôi vẫn biết giữa anh và tôi, ai cũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng mình phải dành cái chết nơi xứng đáng.”
“Thôi anh về ngủ đi… sáng mai tôi sẽ khuyên Khôi vụ nầy… anh yên chí tôi biết tánh nó”
Luận bước lùi xiểng niểng, nặng nề lảo đảo ra xe để lại mùi hơi rượu nồng nặc


Tôi không thể nào chợp mắt lại: “Tại sao có việc nầy… lỗi bởi do ai?”
T.Lan là vợ Bé của một cựu Tổng Bộ trưởng quyền thế, đã có liên hệ tình ái với Luận, chàng Trung- úy rất đẹp trai phải nói nhứt nhì trong quân đội, còn Khôi… so ra còn xấu hơn mình, tình yêu gì mà khó hiểu quá? Mà cũng thiệt kỳ quái, chiều nầy đi vào phi trường để bay thám sát LZ, xe Jeep thiếu gì, nhưng kẹt nỗi ai cũng muốn leo lên chiếc xe Cortina Trắng mui trần của T.Lan để vào phi trường; gót giày nhà binh nện lên làm trầy trụa cả lớp sơn trắng.
Chính tôi đã hỏi nàng “Sao cô không để các anh tự lái xe đi… như vầy thì nát xe hết”
T.Lan nhoẻn miệng cười: “Em dự định trầy sơn em sẽ sơn màu đỏ cho nó ngầu và hợp thời trang hơn!”


Thôi mình rán dổ giấc ngủ, ngày mai tính sau nhưng lại nghĩ mông lung tới Trung-sĩ Ðức, vừa rồi nếu mình không cứu hắn từ trong lòng địch Chiến khu D ra thì sức mấy đang hăng-tiết vịt mà nó chịu nghe lời mình trở về Trại. Nghĩ cho kỹ Toán hắn hên và thật may, mới thả chiều hôm qua thì sáng hôm nay lại được bốc về liền. Hắn kể chuyện mà bắt tức cười:

“Chiến thuật ngụy-âm” Chúng tôi thả Toán của Tùng và Nhựt bằng phương cách tạo nhiễu loạn âm thanh; Trên thế đất bằng phẳng rừng cây cao dầy đặt bạt ngàn như Chiến khu D, hoặc rừng cao-su bát ngát như Bình Giả; Tâm lý ở vùng rừng núi người ta thường chuẩn bị cho một đêm dài trước khi trời sắp xụp tối. Trưa ngày hôm đó, hai Toán-trưởng, hai Phi-công trưởng và hai sĩ quan Việt Mỹ đặc trách hành quân, Thiếu tá Tất và Thiếu tá da màu Thompson. Chúng tôi được một chiếc phi cơ của quân đội Úc “Otter” chở đi thám sát bãi đáp, Tôi đề nghi phi công của chiếc Otter bay cao ngang qua vùng hành quân lấy trục thẳng từ Ðông sang Tây và khi trở về đáp lại Vũng Tàu, tránh tuyệt đối không bay trở lại trên vùng đó, làm như vậy để khỏi bị sự chú ý của địch.

Chỉ còn vài phút nữa là bay ngang vùng phải chọn bãi đáp cho tối nay. Bốn nhân vật quan trọng nhứt trong phi vụ thám sát nầy là hai cặp, Nhựt và Khôi, Tùng và Tôi. Chỉ duy có vài phút trôi qua nhanh chóng, mỗi cặp tự bàn thảo với nhau trong việc chọn bãi đáp, nhưng phần nhiều phi công quyết định; Toán trưởng chỉ có việc ghi chấm bãi đáp theo ý định của phi công. Chúng tôi thường chọn một bãi Chính và một bãi Phụ; Trên bản đồ có khoanh vùng thám sát cho từng Toán trách nhiệm. Thời gian bay ngang qua bải đáp quá nhanh, bốn đứa chúng tôi, ai mặt mày cũng đỏ kè vì phải vận dụng trí óc quá nhiều căng thẳng thần kinh; Tôi nhìn qua Khôi và Nhựt thì họ cũng vừa trỏ ngón tay Cái lên báo hiệu okay.

Thế là từ giờ phút nầy trở đi bãi đáp như một nhân tình không thể xóa mờ trong tâm trí chúng tôi; Thiếu tá Thompson có hỏi tôi hai toạ độ bãi đáp nhưng tôi do-dự, làm sao tin ai được, Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ tuyệt đối bí mật cho Toán, cho nên Tôi thối thoát: “Tối nay Tôi sẽ cho Thiếu-tá biết ngay lúc về đáp vì có thể giờ chót đáp vào bãi phụ thứ hai”

CÒN TIẾP

vinhtruong
10-21-2011, 04:14 PM
Ánh nắng ban chiều còn bảng lảng dưới trời Tây như muốn nhắn nhủ loài người thôi dừng lại sự chém giết lẩn nhau vì tất cả rồi đây sẽ chôn vùi vào bóng tối âm ti. Ba chiếc trực thăng tuần tự nổ máy giữa gốc phi trường nhưng không át nổi tiếng động-cơ gầm thét khi lên xuống; Tôi cất cánh trước rồi Huệ và Khôi sau cùng; Huệ bay chiếc thứ hai không có chở Toán mà chỉ để cấp cứu khi có chiếc nào bị nạn và cũng để đánh lạc hướng đối phương. Phi cơ đang bay đội hình nấc thang, chút nửa đây giữa đám cây cao dầy dặt; Lính Bắc Việt chỉ nghe một đoàn trực thăng bay ngang qua như mọi ngày, không biết từ phương hướng nào tới, âm thanh nhiểu loạn, lẩn lộn lớn dần rồi vụt một cái ào lướt qua, âm thanh tiếp tục nhỏ dần đấn đến khi không còn âm vang. Làm sao Lính Bắc Việt biết được chỉ có vài giây, một chiếc vừa thả Toán cách đó không xa!
“Hai, Ba sẳn sàng… mình xuống thấp 100 bộ, hảy giữ cao độ nầy, mổi chiếc cách nhau 7 giây okay?”
Tôi xuống thấp… bải đáp trước mặt, làm động tác đứng khựng (quick-stop) nhịp nhàng tay-lái…không được rồi, chúng gài chông cao năm thước để chống trực thăng đầy lố-nhố trên trãng tranh của bãi đáp, Tôi cất cánh lại tiến về bãi đáp dự phòng, vừa lúc nầy thì chiếc thứ Ba của Khôi vừa lướt qua; Tôi bám theo sau hắn giữ khoảng cách 7 giây. Bây giờ tới phiên Khôi thã tôi giữ khoảng cách sau hắn; Khôi đang giảm sức máy, đầu phi cơ ngốc lên, chuẩn bị đáp; Tôi giữ nguyên tốc độ vượt qua trên đầu hắn, chưa được 7 giây thì Khôi đang nối đuôi sau lưng tôi. Giờ tới phiên Tôi thả, bãi đáp trước mặt hơi nhỏ khó khăn hơn; Tôi nhẹ nhàng giảm tốc lực máy, đáp xuống… một, hai rồi năm giây Toán phóng xuống quá nhanh; Tôi cất cánh nối đuôi theo chiếc trước của Huệ, bay thẳng một mạch không đỗi hướng về lại căn cứ. Cuộc thâm nhập thật hoàn hảo!
Ðúng 10 giờ sáng hôm sau, Toán của Trung úy Tùng cho biết đã bắt được một tù binh xin được bóc về gấp, gần chổ bãi đáp hôm qua bị gài nhiều chong chống trực thăng. Lời nhắn của Toán trưởng, nên bay từ hướng Bắc xuống, từ nơi có nhiều cây cao dầy đặt nhưng rất an toàn, không nên lấy hướng từ Xóm sình, Bầu-Cạn, Bầu Phụng trở lên sẽ bay qua đầu một trung đòan trừ cũa Bắc Việt chốt ở đó, Toán chỉ trãi báo hiệu bằng tấm vải nhựa màu vàng cam khi nghe tiếng trực thăng, tuyệt đối không đốt khói màu. Trung sỉ Ðức là người lập công đầu; Hắn mừng rở vừa nhảy xuống phi cơ, bu lô bu loa trong niềm tự hào, hắn kể cho phi hành đoàn nghe: “Tôi nghe ở đàng xa có tiếng chân người bước vội, tôi núp ngay xuống bụi rậm dầy nhứt ở bên cạnh lối mòn. Tim tôi đập thình thịch, súng luồm luồm ở vị thế sẳn sàng nhả đạn, tuy tôi được lịnh tránh tối đa không được nhã đạn. Tiếng lá xào xạt mỗi lúc một gần, tôi nghĩ thằng Việt Cộng nầy chắc chắn nó không biết có tụi tôi ở nơi đây, nên nó vừa đi vừa thản nhiên hút gió. Khi nó vừa qua mặt tôi thì nó đi vào một bụi cỏ gần đó; Tôi ngó qua thấy nó không cách tôi xa lắm và đang cởi quần; Tôi nghĩ nó đi Ể. Tôi liền tiến tới ngay sau lưng nó la hét to lên, cốt cũng để báo động cho Toán biết luôn. “Dơ tay lên…Ð.M dơ tay lên” Tôi thấy nó chẳng chút gì sợ hải mà thản nhiên trả lời: “Ð Một …đây, Ð một đây!”
Tôi tức giận thét lớn: “Ð.M… Ð Một cũng phải dơ tay lên” lúc nầy Hắn mới sợ hải quay lại nhìn tôi một lát rồi mới chịu dơ tay lên mà không kịp kéo quần, Ð.M thúi quá! Tôi xong tới trói tréo tay hắn lại bằng chiếc còng dả chiến Nilông thì cũng vừa lúc Trung úy Tùng chạy đến, chúng tôi kéo hắn chạy trối chết ra bãi đáp… Tôi không hiểu ám số Ð-Một là cái con mẹ gì?

Nằm trong phòng ngủ hạng sang có máy đều hòa mà Tôi không tài nào ngủ được, Tôi nhảy xuống giường chơi thêm một chai beer nữa họa may dỗ được giấc ngủ rồi ngày mai còn phải gặp Khôi để giải quyết chuyện tình cảm lăng-nhăng giữa đồng đội cùng sống chết có nhau. Thật tình yêu phức tạp khó hiểu quá! Ðẹp trai không chịu mà chịu xấu trai mới nên nông nổi, Ngày mai Tôi sẽ phải giải quyết sao đây!
Mặt trời đả lên cao nhưng Tôi vẩn còn ngủ vùi như khúc gỗ, bổng có tiếng gỏ cửa dồn dập; Tôi nhảy ra khỏi giường như chiếc lò xo ra mở cửa; Khôi xuất hiện vui vẽ mời tôi đi ăn sáng.
“Tôi định gặp anh thí anh đả đến” Khôi dồn dả hỏi tôi “Có chuyện gì quan trọng không đại-ca”
“Ối, cũng chẳng có gì là quan trọng, anh đồng ý tính mạng của anh em mình mới quan trọng”
Khôi cướp lời “Khỏi nói đúng là như vậy”
Chúng tôi lái xe Jeep ra Bải sau ăn sáng, trên đường đi tôi không nhắc nhở gì chuyện tối qua Trung úy Ðổ Cao Luận đòi đấu súng với tôi.
“Bửa nay hai anh em mình đi thi tài bắn súng, ai thua thì trả ăn sáng?”
Khôi dẩy nẩy, “Tôi hứa bao anh ăn sáng rồi mà… vả lại tôi làm sao bắn giỏi bằng đại-ca?”
Chúng tôi vào một cái quán xa nhứt và cũng vắng vẽ nhứt; Sau khi ăn uống no nê, tôi từ từ nói:
“À Khôi nè, đừng nói Tôi hay tò mò … Anh làm quen với cô T.Lan được bao lâu”
“Cũng không lâu lắm… mới được vài ngày đây thôi”
“Anh đừng nghỉ tôi tò mò, chỗ anh em mình sống chết có nhau…vì thế cuộc sống của chúng mình có những mấu chốt dính dấp chặc chẻ như ruột thịt…anh đồng ý điều đó”
“Chắc chắn dỉ nhiên là vậy”
“Anh có biết T.Lan là người yêu của Luận, Ðại đội trưởng Biệt Kích Dù”
“Biết chớ, nhưng T.Lan đâu phải vợ của thằng Luận”
“Ðành rằng như vậy nhưng giữa T.Lan và Luận anh quý người nào hơn”
“Tôi quý cả hai, Luận là chiến hửu cùng sống chết có nhau nhưng T.Lan là người yêu, dầu mới quen nhau nhưng tôi không thể bỏ nàng được”
“Một bên là tình bạn cố hửu lâu đời và một bên là tình yêu mới chớm nở, chả lẻ chuyện nầy anh không thể giải quyết được sao”
“Anh Vinh à, mặc-dù anh lớn tuổi và là cấp chỉ huy của tôi, nhưng anh làm sao hiểu được khi yêu con tim nó có lý lẻ riêng của nó!”
“Khôi à…tôi rất hiểu điều đó, nhưng đây mình bỏ qua cấp bực mà chỉ lấy tình chiến hửu cao quý để đối xử với nhau, Tôi thấy nó trọn tình vỉnh cửu, dù sao mình cũng tự hào là người trai anh hùng của thế hệ; Tôi nghĩ Khôi con người tài ba mà chẳng lẻ chỉ có một T.Lan trong cuộc đời mình, ngoài xả hội thiếu chi người đã đẹp mà nết na chung thủy… hay là anh chịu khuất phục không đủ bản lảnh hay tài ba để tìm một người đẹp hơn T.Lan?
“Ðúng, Anh là cấp chỉ huy tài ba không những trong nghề nghiệp mà còn thầy đời về tâm lý, anh đã khơi đúng lòng tự trọng của thằng Khôi nầy… Bây giờ trở đi tôi xin hứa với anh, mối liên hệ giữa T.Lan và tôi sẽ chấm dứt từ đây”
Ðể cho không khí bớt căng thẳng tôi cà-rởn nói đùa như có lời khích bác, “Nếu mình o- mèo dở ẹt không kiếm nổi cô nào khác thì tội gì mà nhả ra… phải không”
Anh Vinh à! Đây là lần cuối, thôi đừng nhắc nhở chuyện đó nửa, anh nói đúng: “Mình không thể bỏ anh em, bạn bè chiến hửu cùng sống chết có nhau!

Bây giờ nghĩ đến hai hiện tượng Khôi và Huệ túc trực cấp cứu, Tôi vô cùng yên tâm, vừa suy tư đến đây thì cũng vừa lúc Khôi và Huệ đến tôi; Huệ có cầm trên tay cho tôi một ca-nhôm càfê đen.
Hắn nói: “Trong thời gian nghiên cứu bản đồ, anh uống chút cho tỉnh!”
Tôi, Hảo, Huệ và Khôi, bốn đứa ngồi cho hỏ trên bải cỏ. Tôi chậm chạp thuyết trình:
“Dự trù Tôi sẽ cất cánh lúc 10 giờ, hai anh cất cánh sau tôi một chút bay thẳng về Ðà Nẳng, nhớ giữ tần số UHF… VHF… F.M… thỉnh thoảng các anh gọi tôi hoặc ngược lại, Hảo sẽ gọi các anh” Xuống Ðà-Nẳng các anh đổ xăng vẩn luôn luôn giữ ba tần số nầy có gì khẫn cấp thì gọi Okay..? Khi cất cánh lại nhớ bay về hướng Quảng Ngãi, khi bay xuống gần đến Benhét tôi sẽ trở về Quảng Ngải đổ xăng và gặp các anh ở đó. Chúng ta sẽ gặp người đẹp Quảng Ngải, Cô Mầu bán kẹo Gương, nhìn nàng rửa con mắt cho thỏa chí rồi lên nhà hàng Thế giới Tửu gia dùng cơm.
À còn quên một chuyện rất quan trọng, ngay sau khi cất cánh, các anh đừng vội bay một lèo về Ðà Nẳng mà bay vòng vòng ở Sông Mỹ Chánh, vì Tôi sẽ không bay chụp ảnh từ biên giới Lào Việt dọc xuống miền Nam, trọng điểm từ đỉnh núi đá vôi Coroc xuống lần theo Sông Xe-pon mà bay thẳng một mạch đến sào-huyệt Tiền phương Ðoàn 559 trước, vì rằng Tôi không muốn chúng sẳn sàng chào đón, nếu mình ló dạng nơi nào khác trước đó thì chúng sẽ báo động ngay. Mình sẽ bị lảnh đủ vì nơi đó là vùng tử địa, núi non chôm chổm, vách đá đứng sựng, nơi hai Tiểu đoàn pháo phòng không bảo vệ chặc chẽ, phi cơ khu trục chiến thuật rớt quanh đó rất nhiều, mới vừa rồi một gunship AC-130E bị bắn rớt phi hành đoàn coi như tan xác, vi theo ROE chỗ nầy có Sam- enveloped… Các anh có gì để hỏi…? Okay chúng ta chuẩn bị cất cánh”
LLĐB Huỳnh Thuận Nhả xuất hiện trong bộ đồ ngụy trang da-beo lốm đốm và Thượng Sỉ Donald Duncan trong bộ đồ rằng-ri TQLC, trên bộ đồ ngụy trang nầy chằng chịt nhiều thứ máy chụp hình, phim ảnh, dây súng đạn đủ thứ. Người Mỹ ỷ vào sự lớn xác nên họ mang rất nhiều thứ lỉnh kỉnh trên mình, như ống nhòm, gun flare, bản đồ thậm chí còn có kiến mát nữa
Tất cả đều được điều động ngồi gọn lên phần trước của Trực thăng, Cơ-phi Mai đang tháo hai khúc gổ chèn bánh xe quăng vội một bên, rồi nhảy phóc lên sàn tàu, dơ ngón tay Cái ám hiệu sẳn sàng nhưng không quên nhe hàm răng ngó lên cười để cũng cố sự can đảm. Mọi người đều hiểu được đây là chuyến bay định mệnh, đúng nghĩa vào sanh ra tử!

Tôi vừa làm thử một thao tác “Lazy-8” rất ngoạn mục nhưng không biết tới đó, vach núi chập chùng chận cao trước mặt mình có làm được đẹp như vậy không, hay là quá căng thẳng thần kinh cùng sự mệt mỏi, rồi không làm được thì chết mẹ cả lủ năm mạng người. Sào-huyệt Ðoàn 559 (Oscar-Eight) cách Khe Sanh 25 dậm về phía Ðông-Nam, nơi đây tôi phải bay sạt trên ngọn cây không phải vì sợ Radar theo dỏi mà sợ chúng biết tụi tôi mon men tới, chúng sẽ vui vẻ chuẩn bị chào mừng bằng những tiếng pháo phòng không đủ loại. Tôi cứ bám hướng 155 độ, bay sạt trên ngọn cây, dợn sóng lên xuống theo địa hình lồi lỏm của thế đất. Xa xa là tiền đồn Satram của ngày xa xưa nay bỏ ngỏ như một đồn ma hoang vắng, đã bị bỏ hoang từ thời Ðệ-I Cộng Hòa; Trước mặt là dảy núi Tam Bôi, ánh nắng ban mai chói chang đang tỏa xuống cạnh sườn Ðông của thung lủng với vách núi đá sừng sửng dựng đứng, lác đác đó đây trên điểm cao, những ổ phòng không lúc nào cũng sẳn sàng nhã đạn. Dưới đó có một con suối lớn ngoằn ngèo chảy ngược nhưng lại xuôi về Ðông Nam, tiếp nối thung lủng ALuôi, Ashau như tấm thảm xanh bằng phẳng trải dài bát ngát với cỏ rạ sình lầy.
Còn vài phút nửa là chúng tôi sẽ đâm đầu vào ổ kiến lửa; Nó ở giữa lưng chừng của hai tiền đồn đả bỏ hoang từ lâu là Litôn và Tourout, cảm giác ngoại cãnh khác lạ trong tôi, bỗng dưng toát lên hai thái cực đối nghịch với nhau. Hồi còn là phi công quan sát, ở vị trí từ trên cao nhìn xuống, tôi thường chép miệng khen thầm “quê hương mình quả thật quá đẹp, núi non hùng vỉ bạt ngàn. Nhưng giờ đây ngoại cảnh trước mắt quá hải hùng, buộc chặc trong tằm mắt phải nhìn thật gần, thật sát, thật rỏ được những gì đang đe dọa cho đất nước miền Nam. Dưới đây, hoạt cảnh đổi thay nhộn nhịp đến kinh hoàng trên dọc tuyến đường Mòn Hồ Chí Minh, chi chít đường xá mới mọc, lối mòn tua tủa song song chạy về hướng Nam, biết bao là cầu mới dựng tạm bắt ngang. Những doanh trại, nhà kho nằm ẫn dật dưới lùm cây dọc theo con Suối, có nơi lá ngụy trang đã rụng rời phơi bày mái nốc lợp bằng “Tre-đan đập-dập” lộ thiên như thách thức, rẩy nương tạp nhạp lẩn lộn với đủ loại hoa màu, Sắn, Ngô, Khoai, Cải bẹ … để ngụy trang đánh lạc hướng sự chú ý của các phi cơ trinh sát không ảnh U-2 và RF-101 nhưng làm sao lừa được những cặp mắt cú-vọ của Nhả và Duncan qua nhửng thước phim để đời.
Ai dám bảo đảm cho Cộng Sản Hà Nội thôn tính Miền Nam! Tôi nghĩ không phải Liên Xô mà cũng không phải Trung Quốc mà là người bạn quí của chúng ta! Nếu phải nêu đích danh là W.A.Harriman, thủ lảnh đảng hội Skull and Bones thì quả là không sai – Một trò chơi chiến tranh chớ không phải là cuộc chiến tranh thực sự; Nếu Hoa kỳ muốn làm tiêu tan ý đồ của Cộng Sản Bắc Việt, cứ mỗi tuần lể chỉ một lần thôi, thả vào nơi đường Xa lộ Harriman: Vì đã nhiều lần CSBV tuyên bố trước thế giới không có quân lính của họ ở nơi đó, có nghĩa là chỉ có Khỉ và Vượn mà thôi. Ðể phòng thủ tự vệ, Không-quân miền Nam chỉ thả một trái Bom CBU-55, và cứ một tuần một lần rồi dùng AC-130B bay dọc theo hành lang xa lộ dùng đại bác không giật 106ly loại đạn tầm nhiệt mà chơi. Không bao lâu chẳng còn chiếc xe máy nổ nào ở trên tuyến hành lang và chỉ còn lại một loại xe “cải tiến” (nói theo danh từ CS, cho là Xe-thùng) nhưng lại không có người hay trâu bò để kéo. Dĩ nhiên là tiêu tan ý đồ cưởng chiếm Miền Nam bằng vỏ lực.
Phía Cộng Sản thường nói: Mỹ là tay sen đầm quốc tế, còn các nước khác cho Mỹ là cảnh sát thế giới. Riêng Tôi thì cho rằng, Mỹ là Chủ cái chia bài rất điệu nghệ, phát hiện tay Con nào thua quá nhưng muốn cầm chưn để chơi tiếp. Chủ Cái Mỹ bèn có hai cách: Một, lấy tiền của tay Con kia cho tay nầy ăn để chơi tiếp – Hai, Chủ Cái chơi đẹp cho tất cả tay Con đều “hẩu-sực” rồi từ từ lùa hốt sau. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ vừa viện trợ cho Pháp (nhưng thực tâm Mỹ muốn nhờ Pháp tiêu thụ nhửng thứ vất đi nầy và chịu lệ thuộc cho quyền lợi của Mỹ như là một loại lính Lê Dương dặc biệt còn miền nam là loại Lê Dương mới)
Năm 1949, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục TT Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, 4 năm sau lại đề nghị 2 tĩ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình báo OSS, do Ðiệp viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-pó giúp Cụ Hồ cã ngàn khẫu súng Carabin và Trung liên Bar, cho Hạ Sỉ quan OSS huấn luyện Trung đội Vỏ trang tuyên truyền của Vỏ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dủng làm Trung đội phó. Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa chẳng hạn như năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hũy dùm hàng tiêu dùng) Ðể căng bằng lực lượng của hai tay Con, Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa. Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.
Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoặch hòa đàm, thì bị nướng một Ðại đội Dù tại bức tường thành gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? chiến tranh mà (theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông quốc lộ-I, ngoài biển tiến lên để Mỹ cùng phối-hợp yễm trợ training) phải đúng thời điểm mặc-cả tại Hòa đàm Paris mới được phép, còn CSBV muốn Tổng nổi dậy chiếm Miền Nam 1972, nhưng chưa đúng thời điểm nên phải bị hy sinh 100.000 quân, khiến Tướng Giáp phải từ nhiệm. Nhưng quyền hạn do lảnh đạo Mỹ chỉ định là Sư-đoàn TQLC tái chiếm Cổ thành. Báo hại trong buổi hợp tại Camp Evan khi TQLC được chỉ định chiếm Cổ thành, thì bị ngay sự phản ứng của Trung tướng Dư Quốc Ðống phẩn nộ ngay buổi hợp. Tôi xin phát biểu nguyên văn “Ð.M thằng nào ở Dù ra mà phản bội lại Dù thì đéo khá được” Có lẽ Tướng Ðống nghĩ rằng đây là phóng đồ hành quân do Tướng Trưởng quyết định [Chúng ta cũng đừng nên nghĩ rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 là tiếng Việt nhưng Mỷ đã đặt tên qua sự cố vấn của CIA trước một tháng, 18/1/1971, do Richard Helms và Donald Rumsfeld tham mưu trưởng WSAG] làm mất đi tình huynh đệ chi binh giữa các Tướng lảnh với nhau.

(CÒN TIẾP)

vinhtruong
10-23-2011, 01:04 PM
(TIẾP THEO)
Tôi phải mở to mắt ra để nhìn về phía trước, bằng mọi giá phải khóa chặt tầm nhìn của súng phòng không BV. Thông thường chúng điều chỉnh tầm tác xạ ở góc bắn bao quát lên trời chớ không bắn tầm ngang hoặc chỉa xuống dòng Suối của thung lủng; Ðây cũng là cách bay nhũi vào lửa đạn mà tôi đang nghĩ tới cách thoát thân. Tôi quyết định bay thẳng gốc với con đường mòn trước mặt giao tiếp với một con Suối lớn bắt nguồn từ giòng Sông Xê-Pon chảy ngược lên mạn Tây Bắc của Tỉnh lỵ Tchepone.
Bất chợt, như phản xạ, Tôi tự động chúi mũi tăng tốc độ tối đa để vượt qua tầm mắt của Toán người đang cố lội qua Suối; Họ đang cồng lưng vác vật gì nặng lắm! có lẽ đạn phòng không? Mình mẩy ngụy trang đầy cành lá! Tại sao Họ không bắn chúng tôi mà lại vẩy tay chào mừng như đồng chí?
Tôi nghe trong nón bay, ở dưới buồng lái Mai nói nhắn lên: “Anh nghe thấy gì không?”
Tay chân đều kẹt đang lái, Tôi vừa ngậm micro vừa nói ú ớ “Thấy lính BV vẩy tay chào anh”
“Duncan và Nhả đang bận bấm liên tục chiếc máy hình, Tôi đâu có việc gì làm… mà không biết tại sao Tôi tự động vẩy tay, cho nên họ mới vẩy tay lại”
“Tôi hỏi gặn lại, “Tại sao họ không bắn mình”
Mai cười hô hố trả lời “Có lẽ Toán dân công khuân vác, Họ đâu có mang súng, anh nào cũng ì-ạch xiểng niểng chống gậy qua Suối, dường như Họ mang cái khỉ gì trên lưng nặng lắm, qua Suối không vững… nếu như U-2 hoặc RF-101 mà chụp không ảnh… thì Họ cứ cho là một đại-đội hay trung-đội nào đó với đầy đủ súng ống đang băng qua Sông, chớ đâu có biết đây là Toán dân công khuân vác, có người chặt cả cành cây còn lá để ngụy trang, làm gậy chống chỏi qua Suối. Những cái vẩy tay qua lại vô tâm hay lịch sự vô thức? Hay phản ứng tự nhiên? Không phải “tao-ngộ chiến”… trong giây lác ngở ngàng không dự đoán phải làm sao
Chúng tôi sắp lướt nhanh qua con đường đất đỏ trước mặt, lần nầy chắc Mai vẩy tay có ý thức, chớ ở không làm gì, vẩy tay ra cái điều là dân lịch sự hào hoa cũng nên lắm! Quả thật ở ngay trên đường đất đỏ nầy có một chiếc xe ‘hũ-lô’ làm đường, kiểu có ống khói hồi lý-toét xa xưa, vài chục người bu quanh, hai tay cầm cái Rế cái Xọt, dường như đang hất đất đá xuống những lổ trủng làm đường. Làm sao biết được đàn ông hay đàn bà dưới những vành nón lá nhỏ hơn kiểu Miền Nam một chút. Chúng tôi đang nghĩ rằng họ sẽ ngước mặt lên khi nghe tiếng động cơ bay ngang; người ngước lên nhìn trước nhứt là ngay vào lúc Tôi đang bay ngang đầu họ, còn lại phần đông chưa kịp phản ứng; Những chiếc hình nầy của Duncan và Nhả sẽ tái xác định vào lúc nào thì tất cả đều biết chúng tôi bay ngang.
Ðã đến nơi tử địa rồi, Tôi đang căng thẳng thần kinh, hồi hộp mím môi ghìm tay lái. Bay lách qua, lách lại như con cá lia-thia ẩn hiện trong hóc đá san hô, cạnh sườn bên trái con Suối lớn, để tầm quan sát chụp ảnh được rỏ ràng hơn, bên phải tôi, trên cao vách đá, đã phát hiện ra ít sự hoạt động của người qua lại trên lối mòn, cỏ vẹt ra nằm rạt hai bên. Nhưng cảnh vật vẩn yên tịnh, có lẽ là Họ không ngờ rằng giờ nầy có chúng tôi đến thăm mà không hẹn trước; Trên vách đá cao hơn đã thấy có dấu vết phơi áo quần bộ đội, Tôi cảm thấy vững tâm vì các ổ phòng không đang chốt ở các cao điểm, hơn cao độ chúng tôi đang bay dọc theo dưới con Suối. Và dỉ nhiên tầm tác xạ của chúng không làm gì được để gây thiệt hại cho chúng tôi
Thình lình, Tôi nghe khoảng cách sau đuôi hai tiếng nổ ầm ầm, Tôi nhũi mũi tăng tốc độ bay sát vào vách đá, nương vào các chướng ngại vật thiêng liêng để lẫn tránh. Rồi cũng phía sau đuôi tiềng AK nổ dòn tan như bắp rang. Tôi chẳng sợ sệt gì cả vì tầm đạn còn quá xa không thể nào đến đây được; Dường như chúng đã báo động, tôi đã nhìn thấy rỏ những vệt khói trắng từ bên kia Suối. Có lẽ B-40 hay 41 gì đó bắn qua nhưng đạn đạo không tới, nên rơi nổ giữa dưới lòng Suối; Thời gian bay qua Ðoàn 559 Tiền phương sao lâu quá mà khúc ẹo con Suối lại quá gắt, đôi khi lượn trái đôi khi lượn phải mà vách núi đá thì đứng sừng sựng như muốn chụp xuống trực thăng.
Bây giờ ở phía sau đuôi thì hình như không còn đe-dọa nữa, nhưng ác nghiệt thay những mảnh đạn súng cối tối tân nhứt thời đó của Liên Xô là Cối 120ly lại bóc lên trước mặt, có những cột khói nổ tung rải rát không biết đâu mà tránh. Chúng bắn từ những cao điểm ở trên chóp núi dọc theo dưới con Suối, nên luôn luôn chúng tôi phải lướt trên những cụm khói của hỏa pháo, mùi khói thuốc khét nghẹt đến muốn ngạt thở. Trong phản ứng, Tôi dùng hết sức máy để qua khỏi vùng tử địa càng nhanh càng tốt, trực thăng thoáng nhanh có lúc muốn chui vào vách đá bên trái con Suối. Bay như thế nầy có thể tránh khỏi những mảnh đạn của súng cối không, nhưng vô cùng nguy hiểm vì phải đòi hỏi tay nghề khá điêu luyện. Tôi đang thấy rỏ hai vệt khói trắng đục bên phải, từ vách núi phía trên cánh quạt chính phụt xuống, Tôi lại cứ ngở rằng loại B-40 hay 41 gì đó; Nhưng khi chúng bay ngang tôi sức gió thật mãnh liệt và theo sau một vệt khói dài nơi sau đuôi. “Thôi chết rồi SA-7, 5, 3 gì đây” Trong nón bay Tôi vẩn nghe được tiếng gió rít, cảm nhận tốc lực và âm thanh thật hải hùng, rồi hai tiếng nổ kinh hoàng …ầm ầm trên thành đá bên trái của chúng tôi chừng 20 thước. Trực thăng bị ảnh hưởng luồng gió cực mạnh rùng mình đôi chút
Con người thường khi gặp nguy hiểm hay quá thất vọng thường nghĩ đến Thượng đế. Lúc nầy tự nhiên Tôi nhớ đến lời Ni dặn, “Chúa Mẹ Maria ơi cứu con!” Tôi Amen loạn xạ! Có lẽ hai trái hoả tiển SA-7 cầm tay nầy hay đạn pháo 85 ly, 75 ly gì đó. Nếu đạn 85 hay 75 ly thì làm gì có vệt khói mạnh thẳng bon ở sau trái đạn, mà đạn đạo làm gì đi xa thẳng đường như hỏa tiển; Nếu như ống thoát khói của H-34 ở bên phải thì mình đã bị nó hút vô rồi; vả lại khi bắn hoả tiển sẽ không có hiệu quả chính xác, trừ phi trái hoả tiển có đũ tốc lực và cao độ thì nó mới được chính xác nhũi vào mục tiêu. Cho nên chúng tôi đã thoát chết do hai đều may mắn kể trên: cao độ thấp và ống thoát khói ở ngoài tầm nhiệt phi đạo của hoả tiển.
Thôi qua khỏi rồi, đừng quan tâm gì nữa để trí nảo lo chuyện khác, trước mặt lại lập lại cảnh củ, những cột khói súng cối lại cường độ nhiều hơn trước, nhưng thời gian và tâm trí đâu mà đoán ước lượng cở bao nhiêu cự ly; Thôi đành cứ bay sạt ngang cạnh vách đá chớ biết làm sao hiểu được ở đâu mà tránh. Ðạn tránh người chớ người làm sao tránh đạn! Chúng tôi đang thấy một số rất đông người ở dưới Suối, dường như họ đang thản nhiên tắm giặc; Ô coi kìa! Họ đang tũa chạy lên bờ, một lát sau chúng tôi nghe tiếng AK như chưa bao giờ được nghe nhiều như vậy, nhưng chúng tôi cứ tỉnh-bơ vì quá xa sau ấy; Nhưng nếu mà đừng hồi hợp thì nghe tiếng AK dòn như pháo Tết, pháo nổ trước mũi Lân đang múa giao thừa. Nơi đây cảnh vật bắt đầu yên tỉnh, núi đá cao dần, tôi bớt sức máy giữ trong chế độ bay bình thường.
Tôi giựt mình thấy chân ngọn núi Tam Bôi dựng đứng như cánh cửa sắt khổng lồ chấn ngang chực ụp xuống chúng tôi – rán gò tay lái, Tôi bình tỉnh ấn nhanh mũi phi cơ lấy tốc lực, nhanh lần, nhanh hơn đến vận tốc tối đa… đũ tốc độ, kéo mũi phi cơ thẳng đứng, xung quanh toàn vách núi… thân thể mọi người dính chặc vào ghế lái, thân tàu, mặt dài thộn ra…mũi phi cơ ngóc lên thẳng gốc, cao cao dần, một màu xanh bầu trời trước mặt, không còn thấy đất mà chỉ có trời và không-gian …tốc độ giảm dần còn 25 hải lý; đạp nhẹ đều chân phải, mũi phi cơ lắt nhẹ, rồi từ từ đâm đầu xuống Suối… tốc độ nhanh dần đến bình phi. Chúng tôi đang vòng lại 180 độ trong chìu thẳng đứng chử I. Tôi nghe trong nón bay tiếng Mai phàn nàn “Anh ra khỏi vòng nguy hiểm một chút để chúng tôi nghỉ mệt, rồi vào lại sau!” Tôi hiểu được sức chịu đựng có hạn, nghĩ chỉ còn cách dựa vào đám rừng nguyên thũy dầy dật cây cao trước mặt bay qua đó cho anh em nghĩ mệt một chút
“Okay mọi người nằm đại xuống sàn tàu nghĩ 5 phút rồi tiếp tục!”
Lúc nầy Tôi mới có thời gian để hỏi Hảo: “Anh có liên lạc gì với Huệ chưa?”
“Tụi nó ở không, rảnh quá cho nên cứ gọi hoài làm sốt cả ruột”
“Thì anh cũng rảnh, nên trả lời cho Huệ yên tâm… liên lạc tốt chớ”
“UHF và VHF thì rất tốt, duy có FM thì không nghe rỏ”
Nhìn tận mắt thung lủng với vách đá sừng sửng hiểm trở như vậy, quả thật đây là thánh địa khá vững chắc của Bộ chỉ huy tiền phương Ðoàn 559 mà phía Bắc Việt cho là Trung tâm đầu nảo lảnh đạo cuộc chiến miền Nam. Còn phía SOG thì đặt tên cho nó là “Oscar-Eight” – CIA với mục tiêu chiến lược họ gọi rằng: “Mọi nơi miền Nam đều bị đụng trận nhưng chưa hoàn tất và chỉ để gây tiếng vang mà thôi” (Everything worked, but nothing worked enough) Vì thế nên mặc dù Miguez bị mổ ruột và thiêu sống, dù đây là một hành động vô cùng tàn ác trước sự chứng kiến của Toán SOG nhưng lệnh CIA buộc họ phải nhảy vào “Oscar-Eight”
Giữa tháng Sáu năm 1967, lực lượng Hatcher Force được lệnh phải thâm nhập vào Trung Tâm đầu nảo Ðoàn 559 nầy, nó nằm vào khoảng 40 cây số phía tây-bắc thung lũng Ashau/ALuoi mà vừa rồi chúng tôi đã bay qua đó. Nơi đây đường xá cũng như sự hoạt động điều binh rất nhộn nhịp nối liền giữa Ðường 92 từ Lào qua 922 cùng nối liền 548 qua phần đất Việt Nam; Nơi đây ghi nhận số phi cơ đủ loại bị bắn rơi ngoài H-34 Queen Bee của Việt Nam là không hề hấn gì. Với lối bay khóa chặc các họng súng cũng như hóa giải sức thu-hút của hỏa tiển cầm tay của BV. Phi hành đoàn chúng tôi không ngạc nhiên gì về công sự phòng thủ kiên cố, những hầm trú ẩn nằm sâu trong hóc núi đá như những cánh cửa sắt có thừa sức chịu đựng của B-52, hai Tiểu đoàn phòng không già kinh nghiệm đang bảo vệ vùng trời của Tướng một sao Võ Bam trấn giữ tại đây. Ðây mới thật là Trung tâm kiểm soát và điều động hành quân trên trục Xa lộ Harriman
CIA mật báo cho biết, nơi đây là kho tiếp liệu lớn nhứt ngoài phạm-vi miền Bắc. Dỉ nhiên cái kiểu làm ăn của CIA là phải vào hang Cọp mới bắt được Cọp. Trung sĩ John Meyer trước đây đã vào một lần, ông cho đây là “ổ kiến Lửa” (the area was really hot. I mean, every team that went in there got the shit shot out of it) Chỉ trước khi Toán thám sát SOG cho lệnh B-52 oanh tạc, máy dò tìm tình báo của họ phát hiện từ nơi đây phát đi hàng ngày 2300 công điện đi đến từ miền Bắc và song song với Lào. Do đó Tướng Westmoreland tin chắc có một Tướng lảnh tư lệnh nơi đây; Dù rằng rừng nào Cọp nấy, nhưng Tướng Westmoreland rất hăng hái gởi Toán thám sát vào nơi đó định chuẩn rồi đề nghị TT Johnson đưa quân đội Mỹ vào hành quân tiêu diệt. Hậu quả Westmoreland bị triệu hồi về trong im lặng
Nơi đây chúng tôi kiếm một chỗ tương đối đáp được an-toàn không thể có, chỉ duy nhứt là bải đáp ở trong lòng chảo sâu như cái chén, mà xung quanh đó chúng tôi cũng thừa hiểu chằng- chịt những ổ phòng không lộ-thiên trên các sưòn núi đá. Dưới chân núi là các hầm và hang động có thể chứa chấp từ cấp Tiểu đoàn đến Trung đoàn. Nhưng kết cuộc chúng tôi cũng lựa vào thời điểm mà những người ở vùng rừng núi thường chuẩn bị chổ ngũ cho một đêm dài trước đó. Mặt trời tuy ngả về Tây ánh sáng vẩn còn le lói, chúng tôi cách bãi đáp chừng năm mười phút. Bổng dưng ở núi rừng bóng đêm chụp xuống một cách mau lẹ, là lúc đó tầm viển kính thâu ngắn lại. Chúng tôi đã tìm được một hóc đá ở bên sườn xa về hướng Tây, tiếng động bị ngăn cản bằng một triền núi sau lưng chúng; Một cuộc ‘thâm-nhập’ coi như khá chu-toàn!
Sáng sớm hôm sau, thung lủng của cứ điểm chìm đắm dưới bức màn sương lờ mờ dưới con mắt của Toán SOG-Hatcher, B-52 sẽ thả đúng vào lúc 10 giờ sáng, gồm 9 chiếc, ba đợt, mổi đợt ba chiếc với danh hiệu là “Arc-Light” cách nhau 5 phút. Hai toán viên người Mỹ là Thượng sị Billy Waugh và Covey từ cao điểm qua ống dòm: Gần 1000 trái bom loại nhỏ “mắt-Rắn” 250, 500, và lớn nhứt là 750 cân anh trải thảm trên thung lũng Ðoàn 559 Tiền phương. Hai người Mỹ đồng báo cáo ghi nhận có khoảng 50 tiếng nổ-phụ; Waugh vô cùng ngạc nhiên, ngay sau khi ngưng tiếng Bom nổ, Nó thấy lính Bắc Việt chạy ra từ những hang động dưới hóc đá và từ hầm đào sâu trong núi. Chúng ùa ra như ổ kiến lửa bị động, xô đẩy, lăn các thùng phuy xăng còn nguyên vẹn ra thật xa chổ cháy
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh: “Thật đồ chó đẻ, chúng ta thả Bom chẳng ăn-thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn, Tôi thấy họ đang dập tắt các đám cháy và di chuyển xăng dầu ra chỗ an toàn!”
Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, 9 chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đả ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Vỏ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó, chớ còn B-52 bay trên 30.000 bộ có nghe tiếng động gì đâu mà xuống hầm. Vì thế nên trục Ma Quỷ mới gọi là chiến dịch “tiếng sấm rền” nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement) Ðổi lại, lấy thí dụ thành phố Ðà Nẳng chẳng hạn, vào một buổi chiều nào đó khi chiếc Tàu Bệnh-viện của Ðức Helgolan bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẳng chạy ra khơi thì y như rằng Phi trường Ðà Nẳng bị pháo kích; Ở trong phi trường thì sáng hôm đó có máy phóng thanh cho quân đội Mỹ ở trong Main Compound biết trước vào giờ ăn sáng, thường thường họ cho biết giờ nào, bao nhiêu trái đạn sẽ rơi vào phi trường. Ðến khi trước giờ pháo kích 5 phút thì còi báo động nơi Main Compound hụ lên để nhắc nhở mấy thằng Cu Mỹ nào chẳng may ngủ sớm thì thức dậy mà chui xuống hầm, không thì toi mạng ngay. Mục đích trò chơi nầy là để tiêu hủy các phi cơ tại chổ vì chúng nhứt định sẽ không đem về Mỹ, nếu còn nhiều phi cơ trong việc chuyển tiếp qua Việt Nam Hoá chiến tranh phải tốn kém thêm, vì phải bổ xung quân số, tăng cường số đơn vị rất nhiều tốn kém. Cái đỉnh cao trí tuệ dự trù CSBV pháo tiêu hủy càng nhiều càng tốt để sự chuyển tiếp các đơn vị tân lập sẽ thu gọn khi Mỹ rút về nước. [Ðiều nầy làm tôi nhớ lại, khi VC pháo vào phi trường Ðà-Nẳng, Tôi phải di tản các trực thăng vào các bải đậu an toàn, xa các trực thăng đang bị cháy, thì người cố vấn, Thiếu tá Waitt bảo tôi không cần di tản, cháy chiếc nào, Không kỵ Mỹ sẽ giao cho chiếc khác ngay lập tức để đủ cấp số phi đoàn]
Những điều trên đây phải khen vợ Lính Không quân chúng tôi, không am tường chính trị cũng như quân sự, nhưng cứ mổi buổi sáng vào lúc 8 giờ, mấy bà nghe léo nhéo tiếng Mỹ gì đó ở Main Compound, thì các bà thản nhiên đợi đến 5 giờ chiều ra bến cảng Chợ Hàn, Ðà-Nẳng mà thấy chiến Tàu Bệnh viện biến dạng là các bà chạy một mạch về nhà kêu réo mấy ông chồng “Tối nay Việt Cộng pháo kích, Tôi ẩm mấy đứa nhỏ ra phố trốn…còn Ông muốn chết thì cứ ở lại đây mà đợi Pháo!” Quả thật đúng như vậy!

Tôi bay trở vào lại gặp ngay con đường đất đỏ thẳng bon trên thế đất bằng phẳng, nhưng cây to dầy dặt của một khu rừng già nguyên thủy chưa có người khai phá. Bay ôm sát bên trái con đường để Nhả và Duncan được dể dàng xoay sở chụp những gì khả nghi hoặc khác lạ về hoạt động của địch. Con đường bắt đầu chui xuống thấp rồi mất dạng trong đám rừng quá dầy. Tôi không cách nào tìm ra nó, bay cao thêm một chút để tăng tầm quan sát, thêm mười phút nửa để mò tìm, nhưng hoàn toàn không thấy nó đâu mà chỉ thấy trùng trùng điệp điệp toàn rừng cây cao. Theo chiến thuật đột kích chụp ảnh chốp nhoáng không cho phép tôi trên nguyên tắc bay ngược lại tìm nó mà vẩn tiếp tục bay. Tôi lấy qua trái 30 độ bay trong vòng 3 phút, rồi lấy qua phải 60 độ bay trong vòng 3 phút, rồi trở lại 60 độ qua trái…cứ như thế mà bay cho đến khi nào gặp con đường thì bay theo nó, tiếp tục phi vụ, nhưng tuyệt đối không được bay lên cao vòng tròn tìm kiếm con đường. Những con mắt cú vọ lõ ra tìm kiếm, không bao lâu tất cả chúng tôi đã phát hiện được không những một con đường mà 3, 4 con đường, giống 4 con rắn đỏ đang bò trườn song song lượn mình trên đám cỏ. Tất cả chúng đều xuôi xuống về Ðông-nam, Tôi chúi mũi xuống sạt ngọn cây, mắt nhắm vào con đường lớn nhứt vì nó gần với chướng ngại vật thiêng liêng là đám rừng già. Lúc nầy Nhả và Duncan với con mắt kinh nghiệm nên không tránh khỏi thần kinh đang giao động. Họ cũng biết rằng không còn con đường nào khác, tòn teng chắc nịt trong sơi nịt an toàn mà bấm nút.
Ðang suy nghỉ mông lung thì nghe sau đuôi tiếng AK nổ dòn tan như ran bắp. Chúng tôi nghe cũng quen rồi nên ước lượng không đáng ngại vì quá xa, vả lại Họ giựt mình nên bắn hoảng đấy thôi làm sao trúng được; Con đường trước mặt sắp sửa băng qua con Suối lắp sắp nước. Nhìn kỹ con đường làm dấu bởi dây rừng song song hai bên nối qua tận bên kia bờ, để làm gì? Thỉnh thoảng mổi đoạn còn cột một cái gì như miếng vải đỏ để làm điểm chuẩn, rải rác đều nhau qua tận bên kia bờ, dường như để làm dấu cho tài xế khi lái xe qua Suối không bị xụp lổ. Ấy chết! bên kia có chòi tranh, có anh bộ đội vừa trong chòi bước xuống nấc thang. Còn một anh nửa thì đang lom khom dưới Suối; Họ không kịp ngó lên huống hồ gì mà kịp đi tìm súng để bắn. Chúng tôi lướt qua êm ái không nghe một phát súng chào mừng nào cả.
Trên Xa lộ Harriman, chúng tôi đã bay qua hơn 100 cây số từ Vỉ-tuyến 17 đến thung lũng Ashau, nơi đây SOG hành quân được thi hành một các bí mật để thám sát hoạt động mức độ thâm nhập của Hà nội. Thung lủng nằm dọc như một bức tường thành cách bở biển 60 cây số từ Phú Bài đổ dài lên gần Vĩ tuyến theo trục hướng Ðông-nam về Tây-bắc với chìều dài khoảng 40 cây số, song song biên giới Lào/Việt có thãm cỏ xanh bề ngang 3 cây số lau-sậy khắp nơi. Tuy rằng thung lủng bằng phẳng nhưng vô cùng nguy hiểm cho đủ loại phi cơ bay qua vùng nầy với bất cứ cao độ nào; Khi chúng tôi sẽ bay ngang đây, chúng tôi đều cảnh giác không biết bao nhiêu cặp mắt thù địch đang theo dỏi và quyết tâm bắn hạ. Dưới thềm cỏ của thung lủng nầy, hai phi trường Ma ALuối và AShau vừa phải bị hủy bỏ vì áp lực địch cũng như cùng số phận của Ba Căn Trại Ma trống vắng dật dờ dưới lớp mây Stratus phủ ngập lên đó vào những lúc tờ mờ sáng. Trong khi con đường lớn 548 được nối dài từ Lào bởi hương lộ 922. Bây giờ con đường lớn nầy được cải bổ với vận-tốc xe có thễ lên đến 50 cây số một giờ là con đường chạy nhanh duy nhứt trên Xa lộ Harriman với một tốc lực đáng được khích lệ như trên.
Trên những điểm mà chúng tôi vừa bay qua vùng núi Tam-Bôi phía Tây bắc Ashau là những hang động núi đá bao la và cũng là thành trì kiên-cố chống đở B-52 một cách hiệu quả, như Tôi vừa mới nêu trên qua Toán thám sát SOG của Thượng sỉ Billy Waugh báo cáo.
10 ngày sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu, là ngày 18/2/1971, Sáu Toán thám sát SOG được thả xuống dọc theo đường 548, trên những cao điểm để quan sát đồng thời điều động phi cơ oanh kích yểm trợ cho trục tiến quân của quân lực VNCH qua cuộc hành quân Lam Sơn 719 rút lui trở lại đường tiến sát về phía biên giới Việt Nam. Như khóa chận các đoàn quân tăng cường và tiếp liệu từ Căn cứ 559 chuyển qua. Nhưng việc đó đã không xẩy ra, vì TT Thiệu không muốn quân lực VNCH vướng vào cái bẩy của trục Ma-Quỷ!
Thoạt tiên, Tướng Abrams muốn chuyển một Lữ đoàn của Sư đoàn 101 Nhảy Dù xuống nơi đây với 4 Tiểu đoàn tinh nhuệ cũa Lữ đoàn. Nhưng giờ chót Tướng Haig cho lệnh hủy bỏ thay vì đem vào 3000 chiến binh của Sư đoàn 101 thì thay vào đó bởi một số ít người gồm 6 Toán thám sát để giảm bớt sự thiệt hại. Phía phản tình báo Mỹ qua Phạm Xuân Ẩn đã cho Tướng Giáp biết trước, nên Tướng Võ Bam liền thành lập 11 đại đội đặc trách về chống Biệt kích thám sát thâm nhập với một Toán Chó săn chuyên nghiệp tại thung lũng nầy và các Tiểu đoàn xung kích biệt lập sẳn sàng cơ động đến nơi để tiêu diệt tức khắc Toán thám sát.
Nhưng thủng lũng Ashau vẩn được yên tịnh vì TT Thiệu dám ra lịnh cho Tướng Lãm thả một đơn vị nhỏ của Sư Ðoàn-1 xuống Tchepone, “đái một bãi rồi về”, ngay sau khi TT Thiệu phát hiện trên phóng đồ hành quân có tên bãi đáp với danh nhân minh tinh màn bạc như LOLO, (Lolobrigida) LIZ, (Liz Taylor) SOPHIA, (Sophialorren) HOPE, (Bob-Hope) cũng như trước đó vài tháng nữ tài tử Jane Fonda ăn nói bố láo với sinh viên Ðại học Michigan, như là một khổ nhục kế hay chiến tranh Siêu Tình Báo. Ðứng trên phương diện chiến lược của SCP, TT Thiệu cũng thừa hiểu Hoa Kỳ muốn bẽ gảy cái xương sống của Quân Lực VNCH qua tiêu diệt các Sư Ðoàn thiện chiến nhứt của VNCH như Sư Doàn Dù, TQLC, Sư Ðoàn-1 BB, Lử đoàn 1 thiết kỵ, Liên Ðoàn BÐQ…Các Tướng lảnh Mỹ như Westmoreland rất đau buồn vì SCP muốn cho quân lực VNCH không còn những sỉ quan ưu tú trung cấp để thay thế cho cuộc chiến.
Ðây cũng nằm trong ý đồ của trục Ma Quỷ biến vùng núi phía Tây dưới quyền kiểm soát của CSBV để năm sau 1972 chuyển qua mà SCP gọi là Easter Offensive, tấn công từ vùng núi (tây) ra vùng đông dân cư, (đông) Tam trùng Phạm Xuân Ẩn, điệp-viên CSBV được nhiều huy chương do sự báo cáo chính xác, nhưng lần nầy quá hấp tấp suy diển cho cuộc cưởng chiếm Miền Nam 1972 qua cuộc Tổng công kích, nổi dậy quá sớm, kết quả CSBV phải hy sinh 100.000 quân cho chiến dịch Hậu-vệ (Linebacker) Làm sao điệp viên Ẩn hiểu nổi thế chiến lược 20 thù địch (1975-1995) Eurasian trong Á-châu chiến lược. Cưởng chiếm miền Nam 1972 thì quá sớm mà làm sao Ẩn hiểu nổi giữa chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder và Linebacker khác nhau như thế nào

CÒN TIẾP

vinhtruong
10-24-2011, 03:14 PM
Chúng tôi đang bay ngang một cánh rừng chồi, nằm bên trái con đường, “rừng chồi gì?” nương rẩy của lính BV đây mà! Những luống Khoai-lang lẩn lộn Khoai mì nhánh lá xum xê phủ lấp lên trên ấy, thỉnh thoảng lại có vài cây Bắp chêm-châm thêm trên luống, không ảnh làm sao phát hiện và giải đoán cho được! Chỉ có những chuyến bay kỳ quái trong “chiến-sữ” Việt-Nam mới phát hiện được huyền thoại nầy. Giữa vườn bắp lại có hình nộm mặt đồ bộ-đội Cộng Sản. Chim rừng đói quá chúng đâu có sợ Cộng Sản là gì!
Con đường đất đỏ nầy sắp sửa băng qua một con Suối cạn, những hoạt cảnh khác hơn con Suối trước một chút. Không có dây rừng làm dấu chuẩn, Họ lấp đá lên cao khỏi mặt nước, mà chả có chòi gác; Chúng tôi lướt qua quá nhanh trong yên tịnh, Tôi nghĩ: Hồi nảy là “cầu chìm” bây giờ là “cầu nổi.” Nếu như trời mưa bảo ngập nước, tài xế cứ việc chạy giữa những gút vải Ðỏ là an-toàn, Chúng tôi bắt đầu bay vào thung lủng Aluối chạy dài tới Ashau rồi tới Atep. Thung lủng là một thãm xanh đồng cỏ, chiều ngang 2 cây số, chiều dài 40 cây số, nhưng Tôi lại không dám bay giữa thung lũng dù bất cứ vận tốc hoặc bất cứ cao độ nào. Vì hai bên bìa đồi là lính BV đã thiết lập những ổ phòng không cố định chỉa về phía Ðông nơi các phi cơ thường hay xuất hiện từ hướng đó, Tôi căn cứ vào địa lý cũng như quan điểm quân sự thì nổ lực phòng không của BV chỉ nhắm vào phi cơ chiến thuật oanh kích từ ngoài biển đi vào. Tuy không dử dội như ở Căn Cứ Tiền phương, Sào-huyệt Ðoàn 559, nhưng đây là vị thế rất bất lợi cho trực thăng vì thiếu các chướng ngại vật thiêng liêng như vách núi, đồi cây, sườn núi, rừng già, khe tránh hướng gió tránh âm thanh, không có những cụm mây Stratus thấp lè tè che khuất tầm quan sát của địch.
Nói tóm lại hai cạnh đồi hai bên của thung lủng, lính BV chỉ có phối trí cố định súng phòng không ở bên sườn đồi phía Ðông để mở rộng tầm quan sát, làm sao đây, chúng tôi đang bay về hướng Nam đến đỉnh núi Atep thuộc vùng Tà-Bạt, nhưng bắt buộc phải bay phía Tây của dảy đồi trọc đe dọa, làm sao để tránh tối đa trong tầm đạn phòng không, cánh cửa chính lại nằm ở bên phãi mà phi vụ chính là bay chụp “không ảnh” thì làm sao? Tôi thét lớn trong nón bay: “Ê Mai! Mở hai cánh cửa sổ bên trái… mau lên, tạm thời bảo Duncan và Nhả qua bên đó chụp… không thể ở bên nầy chụp… phãi đổi chiến thuật vì địa hình thế đất thay đổi đột ngột”
Phi cơ đang thoáng nhanh trên đồi trọc, bỗng thế đất tuột về hướng Tây quá gắt, không kịp phản ứng nhưng phãi chúi mũi xuống thấp ôm sát sườn đồi. Gió đập mạnh phi cơ hụp xuống quá nhanh; Những cảnh hải hùng đến kinh hoàng đang chui vào mắt chúng tôi. Có lúc bánh xe càng đáp như muốn đụng vào ổ phòng-không, những cột antène và lẩn lộn các cột bằng Tre với dây điện thoại nối dài chằng chịt trên đó. Tôi tin chắc cánh quạt đã dớt đi một vài cộc Tre cùng dây nhợ trên ấy không chừng? Ổ phòng không với hầm miệng Ếch màu đất còn đỏ tươi của đất núi đập vào ngay mắt chúng tôi, thậm chí còn thấy được anh bộ đội mặc áo thung chưa kịp nhìn lên; Hai nòng súng song song chỉa lên đen ngòm, nhưng tại sao chúng không ngụy trang bằng những sợi dây leo có lá như những chỗ khác mà chúng tôi đã bay qua? Tôi chắc rằng sẽ có những tấm hình chụp cách họng súng chưa đầy 20 thước, nhưng tiếc không có xạ thủ trên giàn súng. Rồi thì xa về phía đồi bên kia, giữa cảnh màu xanh của đồi trọc, rải rác biết bao nhiêu cái miệng Ếch màu đất đỏ đã trở nên màu bầm dập như gạch nung, nhiều đến nổi chúng tôi phải rùn mình. Mong rằng các xạ thủ đừng nhìn thấy những người bạn không mời mà tới; Tôi đoán chắc rằng gió biển thổi vào sẽ che lấp âm thanh máy nổ của chúng tôi xuôi sau hướng gió
Bên trái, dưới thung lủng có nhiều đường mòn cũng hướng trục về Ðông-nam, màu đất của sình lầy không phải màu đất đỏ mà chúng tôi thường bay song song, nhưng lại Tôi không dám bay sát gần đường mòn, vì không những hàng trăm mà hàng ngàn con mắt đang theo dỏi, và sẽ bị bắn rụn ngay trên đó. “Can đãm nhưng phải có trí-tuệ” đó là câu nhựt tụng mà tôi thường đem ra dạy dổ các phi công biệt kích; Bất chợt chúng tôi phát hiện hai chiếc xe Trâu, chiếc trước chiếc sau cách nhau vài thước vừa ló dạng sau đám rừng cỏ-lau cao hơn đầu người, làm sao biết chúng chở những gì trong đó vì đang ngụy trang đầy cành lá, đang đến cuối thung lũng Tà-Bạt. Thế đất cao dần, chỉ nhập lại thành một con đường lớn mà chiếc xe đầu đang vào. Tôi tăng tốc lực ôm sát đọt cây trở về bên trái con đường. Tôi báo cho Mai biết để thông báo cho Duncan, Nhả biết để trở lại vị thế bên cửa chính bên phải như thường lệ
Con đường đang từ từ lên cao, Tôi sợ mất nên bám sát thật kỷ, lá rừng dầy đặt, cây cối mổi lúc một cao dần; Con đường đất đỏ lúc ẩn lúc hiện chúng tôi càng dỏi mắt theo nó. Lại mất hút nữa rồi; Tôi bấn xúc-sích hỏi Ba người ngồi dưới phụ giúp tìm nó ra giùm tôi; Tôi nghe trong nón bay, Hảo nói “Nó bên trái nè” Tôi nhìn qua Hảo thấy hắn chỉ ngón tay trái xuống dưói cánh cửa, quẹo gắt qua trái chụp nó ngay không nó sẽ mất. Chúng tôi đang bay lướt trên ngọn cây cách phía Tây Bạch Mả chừng khoảng chục cây số; Con đường đang hiện rỏ ràng dưới ánh nắng chan chói của một vùng trống trải. Càng tróng trải càng có nguy cơ bị trúng đạn, Tôi bay thật thấp như muốn đụng vào ngọn cây, với vận tốc tối đa, dĩ nhiên trên phi cơ ai ai cũng trống ngực đập thình thịch. Ở nơi đây mọc ra chi chích nhiều đường quá, có người kéo xe thùng mà Cộng sản gọi là xe cải tiến cho oai, không biết chở những gì trong đó. Tôi cố bám theo bên trái con đường lớn vì nó nằm gần rừng hơn. Nơi đây khá trống trải qua một cánh rừng chồi nên hiện rỏ lộ ra song song với con đường như có ống cống nổi, chắc là ống dẩn dầu? Ồ, ở trước mặt có một làng nhà tranh to nhỏ đủ loại; Hình như trang trại hoặc nhà kho, Hội trường, Nhà hát chiếu phim; Ô! Họ đang chơi đấu bóng chuyền, Tôi liền tăng thêm vận tốc mặc dù máy đã quay tối đa rồi. Họ ham vui nên không có chuyện gì xảy ra cho chúng tôi
Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy, tiếp tục ôm sát bên trái như ôm một nhân tình, chẳng lẽ suốt đoạn đường đời? Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, Chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biễn để làm gì!? Ðể che mưa vì sợ dột, hay để làm dấu cho chúng tôi khỏi bị bay lạc; Sao chổ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy! Chúng đi đến chổ chúng tôi vừa bay qua để xem đánh bóng chuyền!? Nơi đây Toán thám sát biệt kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hoả tiển 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẳng, nhưng Toán chỉ được lệnh chụp hình lảnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hoả tiển nầy thành quà tặng hải hùng cho người dân Ðà Nẳng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai Miền, tai-họa từ đâu đến! làm sao thế giới hiểu được đây là tấm bi thãm kịch “Eurasian Great Game”mà SCP Mỹ đã cho ra đời từ 1920 cho đến khi kết thúc cuộc chiến Việt Nam sau 50 năm (2025) khi mà những thế hệ dính líu hai cuộc chiến tranh Việt Nam không còn nửa thì sử gia mới có đủ bằng chứng để dẩn-giải.
Lúc nầy là thời gian bức thiết nhứt, họ buộc phải kéo dài chiến tranh vì số quân Mỹ phải từ từ rút về theo đúng lịch trình để nâng đở các hảng hàng không không bị vở nợ và nó cũng là một quyền lợi cấp thiết nhứt cho chương trình CIP. Nhưng nuôi dưỡng đến chừng nào! bao lâu? Cũng tương đương thời gian người Pháp gây chiến; Trong khi quân đội Mỹ mở các cuộc hành quân “Lùng và diệt địch” thì CIA nuôi dưởng tìm mọi cách che chở bảo vệ địch. Nhưng nhiệm vụ của họ cũng rất rỏ rệt: Quân đội lo trau dồi học tập trận chiến, còn CIA chăm lo quyền lợi của Ðảng Công ty WIB [War Industries Board]

Tôi giao tay lái cho Hảo, cảm nhận nên ngồi thư giản thần kinh một lát.
“Hảo … Anh lái đi…bay cách nào mà Duncan và Nhả chụp được tổng quát” Theo kinh nghiệm dưới con mắt nhà nghề của Tôi, nơi nầy cũng chẳng có những gì để chụp… toàn rừng già, không có sự hoạt động của loài người, Hảo lại cẩn thận bay cao lên đôi chút, nhưng không sao. Nơi đây không có chỉ dấu một sự đe dọa nào, bỗng nhiên, một bầy chim Két xanh mỏ đỏ nghe tiếng động vọng tới, ù bốc bay lên từ những lùm cây cao rậm rạp, có tới cả trăm con. Không kịp né…vài chú đang bị cánh quạt chánh chém vào, máu me lông lá dính vào mặt kính cũa phòng lái; Bầy Két nầy mà xà xuống vườn Bắp thôi đừng hòng còn dính lại một hột
“Hảo ơi … Anh mang tội sát sanh rồi!” Tôi thét lớn lên không ngoài mục đích để phổi tống ra những ám khí không trong lành mà nảy giờ đang ém nhẹm nơi đó, trong phòng lái qua khung cửa kính, Tôi lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày, đã được dành sẳn trên túi áo nơi cánh tay, đôi mắt mơ màng ôn lại những câu thỏ thẽ của người đẹp Ni căn dặn phải làm như kinh nhựt tụng của mỗi chuyến bay. Không khác gì phi công làm “tiền-phi” đọc check list, nhưng có bao giờ tôi nhớ đâu. Như tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi nầy, tiếng cánh quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ đều đều xen lẩn với tiếng gió ve vuốt nơi cửa kính, thân tàu, đã giúp tôi trong khoảng khắc tạm quên bao khổ ải hiểm nghèo trong đời phi công biệt kích, cũng như những sự chú tâm rình rập của người anh em thù nghịch dưới đây. Chả trách gì có lúc thế nhân cứ thi vị hóa lối sống cũa những người như chúng tôi; Những nhà văn, nhà thơ, những nàng kiều nữ mộng mơ thường tả “mây” là những gì thơ mộng, huyền ảo, nhưng nếu là phi công biệc kích như chúng tôi: “mây” là bức tường thành bảo vệ chúng tôi che cặp mắt người xạ thủ phòng không nhưng chúng tôi cũng dựa vào mây trong những đêm về sáng để chấp nhận những yếu tố bất ngờ. Nhưng có ai hiểu cho chúng tôi đã phải hy sinh mạng sống 100% vì thời tiết, trong khi chúng tôi chưa bao giờ bị thiệt hại do súng đạn của người anh em thù địch. Có chiếc H-34 đả chịu đựng đến 88 viên đạn AK mà vẩn lết về được nơi an-toàn và cứu sống cả một Toán thám sát. Sự thật mây đâu có phủ phàng mà là kinh hoàng cho chúng tôi! Nhưng đôi khi nó cũng cứu chúng tôi che những cặp mắt thù địch! Tuy nhiên cũng có dăm sự ganh tị nho nhỏ khá dể thương của các cánh chim bạn, sao không được tuyển vào kinh qua lẽ sống ngang dọc của phi hành đoàn Thần Phong-83!
Chúng tôi đang bay ngang bên phải là Bến-hiên, còn bên trái là Bến-Giang, xa về phía biên giới Lào Việt là tiền đồn Poste-6 chỉ cách biên giới vài cây số. Trước mặt là Aro và chệch qua trái là đồn Rô nó nằm ngay trên quốc lộ 14 do thực dân Pháp xây dựng từ khi chế độ thuộc địa được thành lập, nhằm mục đích khai thác các tài nguyên và khống chế các lực lượng nghỉa quân của phong trào Cần Vương ngày xưa. Ngày hôm nay chúng tôi đã có cơ duyên cũng như diểm phúc được bay ngang hai cái ‘nôi’ của Cách mạng Việt Nam. Cái đầu tiên ở phía Ðông Bắc ngọn núi Vôi Coroc, bên kia vĩ-tuyến 17 ngay đèo Lập-Cập, nơi mà Vua Hàm-Nghi mai phục chờ cơ hội lấy lại ngai vàng. Nơi đây cũng là địa điểm phân phối vàng và thuốc phiện từ Lào sang qua ngỏ Poste-6, Bến Giang, Thường Ðức, do những tay tứ chiến giang hồ trong giới trùm buôn lậu quốc tế.
Bây giờ, bắt đầu bay qua vùng đất đầy thử thách, đe dọa, Tôi liền chụp tay lái đâm đầu mau xuống thấp theo bên trái con đường mòn ngoằn ngèo như con rắn Ðỏ-cam trườn qua đám cỏ Lau xanh. Thế đất bắt đầu cao dần báo hiệu sắp đến vùng núi cao hiểm trở; Những ngọn đồi thoai- thoai dợn sóng nằm ngang với những luống đất trồng những cây khoai mì, lá phủ xum xuê, lác đác vài cây Bắp vươn lên èo-uột không đủ cho loài Két liên-hoang vào buổi giao mùa. Ở giữa hai luống còn dặm thêm vài bụi Cải bẹ xanh, đứng xừng xửng ở giữa lại một hình nộm với áo bộ đội để hù dọa bầy Két
Kể ra thì người anh em cũng có sáng kiến ngụy trang khá khéo léo vì trinh-sát cơ U-2 và RF-101 làm sao giải đoán không ảnh với hình tiệp với lá rừng nhưng duy không thể che cặp mắt soi mói của Duncan và Nhả. Nơi đây khá nhiều sinh hoạt của lính BV. Cây cầu Khỉ bắt ngang con Suối nhỏ với lối mòn hiện rỏ nét biết bao sự qua lại trên đó, cỏ rạp rộng ngã qua hai bên lối mòn, bên kia Suối nhiều mái lá còn mới toanh mọc dọc theo dòng Suối với khoảng cách khá đều. Họ cũng rất tinh khôn không dám đụng đến phần đất của đồng bào Thượng. Rất dễ hiểu vì đồng bào Thượng thường ở chung với nhau trong một Sóc-Làng, nhà sàn cao hơn mặt đất chừng hai thước, nằm trên một chiều hình chử I. Hoa màu người Thượng chỉ cần trồng một thứ như Bắp, Khoai. Họ không có trồng tạp nhạp để ngụy trang như lính BV, có nhiều trảng đất bỏ hoang vì đất hết mầu mở, nhưng họ sẻ trở lại trồng trong vài năm sau khi đất tái hấp thụ màu mở thiên nhiên, vì không có phân trồng nên họ phát rẫy, đợi bụi lá vàng khô lâu ngày, rồi lúc đó Họ mới đốt để lấy phân tro-muối. Tro tàn lá mục là lớp phân duy nhứt rất cần thiết cho sự sinh tồn đối với họ
Bắt đầu lại bay vào vùng nguy hiểm, trước mặt là cây rừng bị phá để khai hoang, hai bên đường nhà tranh mọc rải rác xen kẻ như vùng kinh tế mới, lại có xe trâu kéo, xe hủ-lô ống khói chần-dần như ống khói tàu, lại có vài chiếc xe Molotova dường như đang ngừng lại. Con đường đất đỏ bổng đổi qua màu đất sình, nhưng trở nên rộng rãi hơn, dường như đang băng qua vùng lầy lội. “À đây rồi” Bọn chúng chặt thân cây lót ngang đường nằm lúp xúp dưới lớp sình lầy và bên kia lưng chừng đồi xuất hiện nhiều chiếc Molotova đang từ từ lăn bánh. Vài chiếc đi đầu đang mất hút dưới những tàn cây rậm rạp; Chúng tôi bay vèo qua nhanh quá, nên chẳng con ma nào chịu nhìn lên dung nhan tái mét của Nhả và Duncan đang tòn-teng nơi cửa bấm nút liên tục. Nếu lúc nầy chẳng may hết phim hay máy ảnh trục trặc thì thật là quá uổng, dịp may không thể có hai lần.
Trước mặt là vùng Mật khu mà ngày xưa ba chiếc H-34 ngụy trang không bản số đã đáp ba đầu nguồn con Suối. Ba Toán xung kích (Killer Team) mưu toan bắt sống Tướng Nguyển Ðôn Tư lệnh vùng Khâm Ðức nầy; Tôi không nhớ rỏ vào năm nào nhưng chắc chắn là thời Ðệ-I Cộng Hoà của TT Diệm và Trung tướng Trần Văn Ðôn, Bộ tư lệnh đóng tại Huế. “Làm sao bắt sống một cách dễ dàng Tướng BV Nguyển Ðôn” Nhưng Ðại úy Richardson, sỉ quan hành quân Delta Force bắt chúng tôi phải thi hành; Chắc cũng chỉ là thực tập như trực thăng Sikorsky CH-53 cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây 1970 – Tôi còn nhớ rỏ, Ðại úy Richardson bảo chúng tôi, ba chiếc cất cánh khi mặt trời chưa mọc, mỗi chiếc H-34 chở một Toán xung kích 10 người, trang bị tiểu liên xung kích của Tiệp Khắc và phóng lựu, đột kích chớp nhoáng chỉ trong vòng 5 phút ngay khi có tia nắng đầu tiên của mặt trời ló dạng, rồi rút về ngay. Khi đáp xuống sườn đồi thoai thoải nghiêng trái, Tôi cũng chẳng cần vội vả cất cánh bay vòng vòng. Nhìn xuống bánh đáp càng bên phải, Tôi phát hiện ra một ngôi mộ còn mới không hương khói, xung quanh trồng đủ loại hoa màu làm tôi bở ngở ngạc nhiên trong tằm mắt
Bảy phút sau, các Toán đều trở về trực thăng, chúng tôi bay trở về hậu cứ. Chả thấy Toán nào báo cáo bắt được Tướng Nguyễn Ðôn mà chỉ nghe Cơ-phi Vàng nói: “Chỉ tịch thu được một bộ đồ Tướng, một cái quần Jean và một mớ bao cao-su ngừa thai. “khó tin … ở trong rừng mà Tướng CSBV cũng ‘en-doi’ nữa sao?”
Ðồn Chalang cách đây chừng hơn một cây số đường chim bay, hồi trước rừng già trùng điệp bây giờ quá quang đãng, đồn nằm ngay ngả ba con Suối nhỏ. Những khi trần mây chụp xuống thấp, phủ kín thung lũng, các vận tải cơ C-47 thả dù tiếp tế bó tay. Lại phải nhờ vào các chiếc quan sát cơ L-19 thả gạo như khu trục thả Bom, báo hại các quan sát viên nào yếu sức phải ói mửa tùm lum, vì không có cách nào để thả cho được chính xác, bằng cách chúi mủi phi cơ với gốc độ đáng kể, nhưng một bao như vậy chỉ được 8 kilô gạo để sống lay lất qua ngày chờ trời tốt lại. Xa hơn nữa là tiền đồn Dak-Prau, tiền đồn cao nhứt nằm trên chóp núi gần 4000 bộ, chệch về phía Tây nam một tí là ngọn núi cao nhứt của miền Nam Việt Nam, đó là đỉnh Ngọc Linh cao 6200 bộ. Nơi đây biết bao nhiều huyền thoại xảy ra có lúc được xem như là “Tam Giác Quỷ” của miền Nam hồi đó, không thua gì “Tam Giác Quỷ” của Ðại Tây dương, nhiều phi cơ Việt Nam và Hoa Kỳ đã rớt rải rác nơi đó như những cuộc lể tế thần nhưng không chiếc nào bị phòng không của địch hạ.
“Hảo, Anh lái… mình về Quảng Ngải ăn cơm…đói rồi”
Tôi đang lim-nhim đôi mắt trong giấc ngủ chập chờn cùng âm thanh đều đều thoảng mát


CÒN TIẾP

caonguyen569
10-25-2011, 02:41 PM
Kính tango VT,
Thời điểm anh viết bài nầy thì Tư lệnh Binh đoàn Trường sơn 559 VC là Đại tá VB chứ không phải tướng .Mộ Đ/t VB hiện ở Nghĩa trang Trường Sơn (Khu vực Cồn Thiên-QT ) cũ

vinhtruong
10-26-2011, 09:13 PM
Cô gái miền sơn cước và Queenbee-One

Trại LLĐB Lang-Vei, Khe Sanh vào một buổi sáng mờ ảo trong sương mù, bước trên lóp cỏ còn ẩm ướt hơi sương, tôi cố mở mắt tìm Thượng-sĩ Nguyễn Văn Mai, người Cơ-phi mà tôi nhận-xét không những chỉ giõi trong tay nghề mà là phản ứng nhanh-nhẹn khi bị trường hợp khẩn cấp, vì thế tôi đã để trong đầu chọn anh làm Trưởng Cơ-phi của Phi-đội Trực-thăng Project-Delta Force nầy ngay sau khi tôi từ Hàng Không Mễu Hạm Okinawa trở về đơn vị. Kể từ giờ phút nầy, tôi được quyền tuyễn chọn phi hành đoàn cũa bất cứ phi đoàn nào (211 và 213) để thành lập Phi đội Delta Force (Combined Area Studies Flight Group) nhưng tôi lại ích-kỹ muốn chọn người tại PÐ-211, vì hiểu biết được tánh tinh nên dễ điều hành hơn, dĩ nhiên tôi sẽ chọn người bạn cùng khoá là Nguyễn Minh Vui làm Phi-đội-phó

Tôi là người HLV độc nhứt trong số các huynh trưởng cũa tôi, mà họ đã bị wash-out vì bay quá cẩn thận, an-phi nên không đạt yêu cầu đòi hỏi cũa các chuyên viên Seal, Delta Force và SOG Agent đi theo khảo xác, ngồi dưới cabin chấm điẽm (trích một đoạn nhỏ trong sách “The New Legion”: I was checked out by Master Sergeant Donald-Duncan Duncan (CAS) Captain Richarson, J.3 Operation of 1st Observation Group Commandos, and Major Johnson (Seal/Navy Commando) to explore the growing Ho Chi Minh Trail for becoming a Flight-Group-Commander of Combined Area Studies/Project-Delta Forces. I recalled this very Master-Sergeant Duncan, specialist agent instructor selected me become the leader, due to recently all my fellow senior pilots were washed-out because to much hesitation and so much faltered safety flying. During two weeks checking-out operational flight-maneuvers at western area of Động Ba Thìn Camp, and open-sea, Nha Trang were the mountainous, jungle-covered terrain, natural clearings for helicopter landing zones were scarce and likely don’t have any in the most crest-ridge of mountain.
Suddenly, while flying, in down cabin, Captain Richarson radioed “infiltration right here”. I didn’t see any LZ available around, my spontaneous reflection, quickly I idled the engine RPM, made a spin autorotation with falling-steep descendent…At last, I made accuracy precise ‘quick stop’ and putting one wheel right landing gear on a big rock, but I forgot used parking brake; that’s okay, meanwhile left landing gear and tail wheel agitated in the air. I still keep steady high power 2,800 RPM about 10 second, I hear the echoed voice from Richarson: “Touch and go 10 seconds that’s good enough, we go home now”. Shortly, I was passed this tough-hard flight examination. From now on the 1st Observation Group Commandos in Project Delta put my nickname “The Cowboy Pilot”)

Trên HKMH Iwo Jima có 200 chiếc H-34 và một Lữ đoàn TQLC, Sau khi tôi đi check các chiếc H-34 để đem về, sơ khởi chọn 4 chiếc cho Phi đội tân lập Delta Force, cùng đi nhận lãnh với Thượng Si Donald Duncan, để rồi tôi vô cùng thất vọng là không có chiếc nào đũ tiêu chuẫn cho công tác đặc trách thã toán STRATA, vì phi cơ trang bị quá nặng với đồng hồ phi trang cã hai bên cộng thêm bức bững sắt dầy cợm chống đạn bao bọc phía dướii bộ phận máy và phi công, cho nên rất khó để hover thã người nhái vì vị thế trọng lượng C.G nằm tuốt phía sau. Duncan chìu theo ý cũa tôi là lấy phi cơ H-34 loại US Army nhẹ hơn, đồng hồ chĩ có bên TPC ma thôi, nên mạnh hơn đang có sẳn tại PD-211; Ducan nói Marine sẽ chuyễn hoáng giao cho PÐ-211 cấp số hai đỗi một để thành lập phi đội Delta Force … no sweat!

Mới ngày hôm qua, Toán Lôi-Vũ thám báo chụp được một tù binh, tôi liền được lệnh nổ máy, bay lên bốc đem về; Máy bị mất năng-xuất vòng quay, nổ không đều, ho sặc-sụa như muốn tắt; Mai đưa cánh tay ngang cổ ra dấu tắt máy. Tôi vẫn ngồi ỳ trên ghế lái chờ đợi, Hắn mở cửa buồng máy trước mũi, loay quoay gì vào khoảng hơn năm phút rồi ra dấu tôi quay máy lại; Quả thật giỏi như thần, máy nổ rất đều, rất tốt; Tôi đang thắc-mắc nhưng phải thi-hành xong phi-vụ rồi hỏi lại sau cũng không muộn, hắn ta có bí quyết gì mà hay quá vậy?
Bốn mươi lăm phút sau tôi về, đáp với một tù-binh rất trẻ, hắn mặc đồ Kaki Nam-Định nhưng mang giày chớ không phải dép râu.
Mai đứng xớ-rớ ngó về hướng tù-binh đang bị áp giải lên xe Dodge. Tôi chạy tới Mai hỏi giật ngược, mà cũng đễ tỏ lòng biết ơn: “Ê Mai, Bác-sĩ cho thuốc gì mà trị bệnh con Lạc-đà nầy hay quá vậy?”
Hắn mau-mắn: “Ồ dể ợt, có gì khó đâu…rờ xung quanh Cylinder chỗ nào nguội thì thay Bougies có thế thôi là tốt ngay” Vì ở đây mình chơi toàn xăng thùng phuy hoài nên có rắc rối.

Không đợi cho tôi hỏi thêm câu nào, hắn nắm tay kéo tôi đi lần vào gốc cây, nói nhỏ: “Anh với Cô Ni có gì không mà Nàng hỏi tôi lung-tung về đời tư…vợ con anh…đủ thứ”.
Tôi mau mắn: “Rồi anh trả lời sao?”
“Tôi nói anh chưa vợ, hai mươi lăm tuổi, độc thân vui tính, không bị ràng buộc…dại gì nói anh có Bà-Xã”.
Cô nàng cũng hỏi tôi: “Có phải mốt các anh về, nhưng bao giờ trở lại?”
Tôi trả lời: “Có lẽ không trở lại nữa, vì chúng tôi đổi công-tác và vùng hoạt động”.
Cô nàng có đưa cho tôi mãnh giấy nầy đây, dặn khi nào anh đáp xuống thì đưa cho anh ngay;
“Đâu… đưa cho tôi”
“Anh Vinh! Em cần gặp anh ngày mai đúng chín giờ sáng, tại bờ suối chúng mình thường hẹn…nhé anh!”
Chỉ vỏn-vẹn có mấy chữ mà tôi đọc đi đọc lại, mà còn muốn đọc thêm một lần nữa

Nhà cô chỉ cách chỗ Trực-thăng đậu vào khoảng năm trăm thước. Tôi thấy thằng Cu-Ty, đứa em Út của nàng đang chạy chơi trước sân, tôi liền ngoắt nó lại; Cứ mỗi lần tôi lên đây, thường cho nó kẹo Chocolat M/M, nhưng lần nầy gấp quá không có thì giờ ghé qua Quãng-Trị để mua, cho nên tôi đành phải lấy cục Chocolat ở trong túi cấp-cứu đi rừng khi thoát hiểm cho nó, cục Chocolat nầy nó ăn thế nào cũng bị bón, vì sức dinh-dưỡng nuôi sống được một người trong bốn ngày dài.
“Em đưa mãnh giấy nầy cho chị Ni…Hỷ” Vừa nói tôi vừa dí cục Chocolat cho nó
Trong thư tôi hẹn nàng mười giờ, thay vì chín giờ như ý nàng, vì tôi phải bay tập tái xác định-chuẩn cho Chuẩn-úy Tống Phước Hão, tôi dặn rõ khi nào tôi bay tập xong, khi về đáp sẽ bay ngang nhà lắc cánh thì nàng chuẩn bị xong là vừa.
Thường-thường tôi ra suối đợi nàng, nhưng hôm nay tôi vừa đến suối thì đã thấy dáng nàng đứng đó tự bao giờ
“Em đợi anh có lâu lắm không” Nàng gượng cười: “Em vừa mới ra”.
Tôi nghe thoang-thoáng mùi nước hoa Soir de Paris mà tôi vừa tặng nàng, nhưng thật mâu-thuẩn cho chính tôi, tôi lại không thích nàng xức nước hoa, tôi chỉ thích mùi nguyên thủy của da thịt nàng
Tự dưng tôi cảm thấy sợ hãi không dám nhìn mặt nàng. Hôm nay vẽ mặt nàng nghiêm trang, buồn đăm chiêu, trông già ra năm, sáu tuổi, mắt sâu, má hóp mất đi sự hồng-hào khác hẳn với những lần trước, Nàng nhìn tôi với đôi mắt dịu hiền ngời sáng, yến lên sự nhí-nhãnh, nũng-nịu. Trong lòng tôi, cảm giác sợ hải dồn-dập bộc phát mạnh hơn hồi nảy khi tôi bay huấn luyện với Hão để tái xác định hành-quân, vì Hão đã nghĩ bay trên hai tuần. Đây là quy luật định-chuẩn Phi hành của Không-Quân chúng tôi
Tôi vẫn còn hồi-hộp nhiều hơn, dẩu rằng sau những động tác mạnh thô bạo để luyện tập những trường hợp khẩn cấp như tắt máy đáp ép buộc, hệ thống dòng thủy điều hỏng, phải điều khiển bằng sức người… Giờ nầy lại thấy nàng nghiêm trang buồn tẻ, tôi lại toát thêm mồ-hôi, vừa sợ vừa lo cho cái gì bất ổn trong lòng nàng và mình


Tôi làm quen được với nàng hơn sáu tháng, tuy là thời gian có hơi dài nhưng sự thật chúng tôi chỉ ghé lại đây có vài ngày để túc-trực hành-quân khẩn-cấp ngay sau khi toán Lôi-Vũ thảm sát được thả xuống bên kia biên-giới Lào-Việt. Những ngày đầu chúng tôi túc trực hành-quân tại quận Hương-Hóa nầy, những giờ phút rổi-rảnh, tôi đi lang-thang ngắm cảnh rừng núi; Một hôm, Đại-úy Bác-sĩ Trí, thuộc lực-lượng của Sở-Khai-Thác-Địa-Hình có rủ tôi cùng đi săn cho vui, tôi vào lều lấy vội khẩu Tiểu-liên Tiệp-khắc (Swedish) và vài băng đạn chín ly. Khi qua con suối cạn, không biết đây có phải là cơ-duyên hay nghiệp chướng không! Tôi nhìn thấy một cô gái đang giặt áo bên bờ suối, mái tóc đen huyền tỏa xuống lấp đôi vai bé nhỏ của nàng; bỗng nàng có lẽ nghe âm thanh xào-xạc ở sau lưng nên chợt quay lại, bốn mắt nhìn nhau như hào-quang kỳ quái, làm tôi hồi-hộp…tôi thấy đôi mắt nàng long-lanh nhìn tôi làm tôi mất tự chủ, mất thăng-bằng như người lạc hướng, quờ-quạng, như trong giây lác lấy lại được bình tỉnh. Tôi tự động dừng lại, dở cái nón lưởi trai chào nàng theo kiểu xưa rít. Tôi mĩm cười: “Chào O ạ”. Tôi thấy cô bẻn-lẻn, mặt đỏ ửng lí-nhí gì trong miệng rồi quay lại nhúng nước tiếp-tục giặt; Tôi bèn đến nơi phát biểu vài câu không dính-dấp vào đâu và dường như dư thừa: “O giặt áo …hả”?
“Em giặt áo cho Thầy Mạ”
“Nước suối trong ghê há”
“Dạ, vào mùa ni nắng ráo, ít mưa, nên nước trên nguồn không bị nhuộm đỏ”
Tôi cảm thấy đi săn có vẽ không vui mà lại thêm mỏi chân, nên tôi thối-thác xin về; Mục đích là lấy cục xà bông Cadum ra tặng nàng làm quà giao tiếp; Tôi đi thật nhanh như bay trở về Trại, sợ ra không kịp, hoặc nếu ra đến nơi mà nàng đã về, coi như công cóc dã-tràng.
Tôi ra đến nơi, thì nàng cũng đang chuẩn bị xách thau về, tôi nhanh-nhẹn chạy lại gần nàng xúm-xít, nhưng tôi cảm thấy mình hơi vô-duyên
“A …! Về nhà khi nào O tắm, thì dùng cục xà-bông nầy, nó thơm lắm đấy”. Tôi đưa cho nàng, nhưng hai tay nàng đang bận ôm thau quần-áo, nên tôi bèn bỏ vào trong thau cho nàng. Tôi thấy nàng lúng-túng như sợ người qua lại trông thấy; Tôi nói lí-nhí: “Ngày mai em có ra suối giặt nữa không? Tôi lẩm-bẩm, mới giặt hôm nay, ngày mai còn đồ đâu nữa mà giặt! Tôi mừng thầm, bỗng cô nàng trả lời:
“Ngày mai cũng giờ nầy, em sẽ ra suối giặt nữa!” mừng gần chết mà còn làm tài khôn:
“Rủi Ba-Má hỏi, đi giặt gì mà ngày nào cũng giặt, em trả lời ra sao”
“Em phải lợi dụng trời đang nắng, nước còn trong, em đi giặt như vậy là thường, vì nhà em đông người lắm”
“Ngày mai anh ra đây sớm nói chuyện với O được không” Nàng ngó xuống đất, đôi má đỏ hồng rồi bước nhanh hơn về nhà; Tôi phải tế-nhị vì biết nàng không thích tôi đi bên cạnh sợ người ta thấy, nên tôi lủi-thủi chậm bước lui xa dần về phía sau đến khi khuất dạng bóng nàng ở phía trước

CÒN TIẾP

vinhtruong
11-03-2011, 09:46 PM
Lần hẹn thứ Chín, tôi còn nhớ ngày hôm đó sương mù bao phủ dày đặc vùng Khe-Sanh đồi-núi; Nhờ am-tường được đường đi nước bước, nên dù rằng tầm nhìn xa bị hạn hẹp lại vào khoảng vài thước, nhưng tôi cũng mò ra được nơi hẹn, chúng tôi không làm sao quên được những đoạn đường từ phố vào đây, từ những thân cây to nằm dọc hai bên đường, cho đến những tảng đá chắn ngang lối đi, nơi chằng-chịt những dây gai mắc-cở của loài hoa trinh nử, những bụi cây chùm bao rải-rác trong những bụi cây nhỏ chằng-chịt lẩn-lộn những trái cây rừng đỏ tía, đôi khi chúng tôi ngắt bỏ vào mìệng nếm được mùi chua ngọt của đời người, nhưng mong rằng đây không phải là trái-Cấm tội-lỗi của Adam và Eve. Trên lối mòn thoai-thoải xuống bờ suối, ngoằn-ngèo, chợt tôi hồi tưởng một đoạn thơ: “Bóng đêm là đồng lõa của ái-tình, sương mù dày-đặc như vậy thì sao? Không một nhà thơ nào nghĩ đến: “Sương mù rán đừng gây ra tội-lỗi!”
Tôi đang ngồi trên một tảng đá như vậy hơi lâu, đưa mắt về hướng nàng sẽ đến, sương mai vẫn còn vương-vấn núi rừng chưa chịu tan, Tôi đang lo cho nàng có đi được đến đây hay đã té ngã giữa đường. Hơi sương đậm đặc làm ướt đẩm chiếc áo bay, Tôi lắng tai để nghe có gì động-đậy ở xa không…cảnh vật lắng động, tỉnh-mịch bao trùm cả không gian, hơi sương xuống nhiều quá làm tôi cay mắt, gở nhẹ chiếc khăn quàng tím lau trên trán, trên mặt, nhưng mắt vẫn hướng về nơi nàng sẽ đến. Tôi đang mừng vì mới nghe được tiếng động đâu đây, có lẽ một con thú rừng nào đang đi trên lá! Dù vậy tôi vẫn nghiêng vành tai về hướng đó…à có tiếng động hình như bước chân người đang bước tới, nhưng chưa chắc…tiếng bước nhanh hơn và lớn dần về hướng tôi…Thôi đúng rồi nàng chớ không ai khác. Tôi bèn chụm hai bàn tay hú như Tarzan ở rừng núi. Nhưng tôi hú theo kiểu con chim Cu-đất: “Hù-hú…hù-hú…hù-hú”. Tôi nghe bước chân không còn bước mà chạy ù đến Tôi:
“Em đây…em đây…Anh đó hả”
Tôi mừng quá chắc ăn rồi, nhưng cũng dí-dỏm không chịu trả lời, mà hú đáp lễ “Hù-hú…Hù-hú”
Tôi nghĩ nàng sẽ không bao giờ đi lạc, vì chính nơi đây là chỗ nàng chọn rất là đẹp và trữ tình; Sương mù ở Khe-Sanh tan rất trễ ít nhất cũng phải chờ đúng ngọ thì mới hy vọng được thấy trong suốt và sau đó thì nắng chói-chang, nóng bức không có một ngọn gió nào thổi ngang. Thời tiết vùng nầy là vậy, sau sương mù thì lại nắng gắt; Nếu có những cơn gió Lào thì càng khó chịu hơn, những cơn gió đem khí nóng; Đó là một điều khác lạ về gió, người ta xem gió có nghĩa là mát, nhưng đây gió có nghĩa là nóng. Khí hậu khắc nghiệt nên ngày xưa, tù mà bị tội nặng, thực dân Pháp đem nhốt ở Lao-Bảo, mà người dân thường gọi là bị đày đi Lao-Bảo
Hôm nay nàng ăn mặc rất đẹp, mình tự nhủ thầm có lẽ nàng giống mẹ hay sao đây? Gương mặt trái soan, mắt long-lanh ngời sáng đầy trử tình, với chiếc mũi nhỏ cao nhẹ-nhàng giống như Đức-Mẹ. Có lẽ khi mang thai Mẹ nàng thường quỳ dưới chân Đức-Mẹ Maria để cầu nguyện sự an-lành cho nàng, nên gương mặt nàng hao-hao giống Đức-Mẹ chăng? Tính-tình nàng lại hiền-hòa giống Ma-Sơ, đặc biệt má chỉ có lúm đồng tiền bên phải, bù lại bên trái trang điểm được chiếc răng khểnh làm duyên. Nàng đang mặc một cái váy Maxi màu đen kiểu trang điểm như người Thái trắng, trên chiếc áo vải trắng ôm bó sát vào da nằm gọn xuôi theo đôi vai nhỏ bé nỏn nà; Khó mà đếm được từ cổ áo xuống tới rún có bao nhiêu chiếc nút cách nhau chừng một phân. Mái tóc chia hai lọn lớn, thắt bính xõa xuống ôm đôi vai thon-thon; Gương mặt hôm nay trông rất ngây thơ, nhí-nhảnh như con nít so với tuổi đời mới qua mười bảy tuổi. Ni nhìn tôi với đôi mắt ngời sáng vì nàng biết Tôi đang chiêm ngưởng thần-tượng về vẽ đẹp của nàng, Tôi nghĩ thật không bỏ công nàng dậy sớm chắt-chiu từng búi tóc, nỗi hẳn trong bộ đồ sắc tộc Thái rất tuyệt vời, trên ngực trang điểm một chuổi dây Thánh-giá trang nghiêm chứng tỏ con người mộ đạo.
“Hôm nay em đẹp quá, anh cứ tưởng em như là cô bé đang học bậc tiểu học nhí-nhảnh, nũng-nịu đòi quà!”
“Vậy anh cho em quà gì…nì”
Câu nói bất thình lình, mình đâu có chuẩn bị quà gì đâu, tôi đã có ý định kỳ tới sẽ tặng Ni một chai dầu-thơm Soir de Paris, còn bây giờ thì đột ngột quá…!”
“Anh đâu có gì ở đây… anh chưa sẳn-sàng… thôi đợi kỳ sau đi…hỉ!”
“Em thích cái khăn quàng Tím mà anh đang đeo trên cổ”
“Ấy chết…mồi-hôi không hà”
“Mặc kệ em… em thích như vậy”
Tự nhiên tôi riu-ríu cởi ra trao cho Ni mà trong lòng không yên, sợ nàng chê mình ở dơ hôi-hám. Biết bao nhiêu là mồ-hôi đất-đai ướp nơi đó, tôi có bao giờ giặt nó đâu… thấy ốt-dột quá! Vừa trao tôi vừa mau mắn nhắn Ni:
“Em nhớ giặt kỷ… nhiều xà bông nghe, có mùi hôi dữ lắm đó”
Ni bèn nhanh tay chụp lấy quàng một vòng nơi cổ rồi cột chặt thắt lại một vòng, tôi ái ngại không biết nàng có chịu nỗi mùi tục-lụy nầy không?
Sương mù bắt đầu tan dần, mọi vật hiện ra trước mắt chúng tôi, mờ-mờ, ảo-ảo như nơi tiên cảnh, tôi tự nghĩ: sao trên trời nhìn xuống thấy cảnh vật bình thường, nhưng ở dưới đất mới phát hiện được cảnh thần tiên thật sự.
“Mình xuống suối vọc nước đi…cho nó mát anh …hỷ” Tôi đi xuống theo Ni, lủm-bủm trên mặt nước lấp-xấp tạo nên âm thanh êm dịu như reo vang cuốn xoáy tròn trên phím đá nằm rải-rác thoai-thoải theo dòng nước.
Nàng bước trên đá thoan-thoáng như tiên nữ lượn trên mây, mặc dù trời đứng gió nhưng tôi vẩn thấy chiếc váy Maxi của nàng nhún nhẩy theo những đường cong tuyệt đẹp, uốn khúc, xoay tròn nhảy múa lướt qua trên những tảng đá. Tôi cảm thấy hồi hộp trong cái sợ tội-lỗi, tôi lẩm-bẩm: “Sương mù rán đừng gây nên tộì-lỗi”…Nhưng bây giờ sương mù đã tan đi rồi mà?
Con người tôi, giữa cái thiện và cái ác cứ quay cuồng đối chọi nhau liên-miên trong tâm não. Có những đêm dài trằn-trọc, trăn-trở, tôi nghĩ rất nhiều về cuộc đời của một Phi-công gián-điệp, một cuộc sống vội-vàng “bạc mạng” như Mẹ cô Ni thường khuyên nàng: “Con không nên quen với mấy thằng Phi-công bạc mạng đó!” Thật ra Mẹ Ni nói đúng; Tôi đã mất rất nhiều công đi hỏi nơi người bản xứ, như bác Tài của tôi về cái nghĩa chữ bạc mạng nầy; Tôi mới nhận thức: Không có bà Mẹ nào mà không lưu tâm đến hạnh phúc của con gái mình.
Tôi lại hồi tưởng, cũng không lâu lắm, sau hai tuần thi tuyển, trắc nghiệm khảo sát tài lái, khả năng chuyên môn, tôi đã được Cơ-quan tình báo CIA, ở Việt-Nam gọi là CAS (Combined Area Studies) chọn tôi làm Phi-đội Trưởng Delta-Force; Kể từ lúc nầy, tôi được toàn quyền tuyển chọn bất cứ nhân viên phi hành nào; bất cứ Phi-đoàn nào mà tôi thích. Tôi đã chọn ngay những Phi-hành đoàn có cái tính “Bạc-Mạng” như Mẹ Ni đã nói: Sống vội-vàng, không nghĩ đến ngày mai, bê-tha, thích cảm giác mạnh, hư-thân, mất nết… có nghĩa là còn độc thân không ràng buộc, nhưng phải có sự can đảm và tay nghề giỏi, vì chúng tôi sẽ đi vào chỗ chết nhiều hơn chỗ sống.
“Anh đi chi mà chậm rứa: Tôi giật mình trở về thực tế khi nghe tiếng thôi-thúc của Ni. Tôi cũng muốn đi theo cho kịp với nàng, nhưng khổ nổi đôi giày đế cứng chạm vào đá cũng cứng mà lại rông-rêu trơn-trợt, đã biết bao lần tôi gượng lại, sợ té, phải bước từng bước rất thận trọng.
“Coi chừng bổ!” Có phải nàng la lớn làm tôi hết hồn sợ hải, nên bị té! Lưng ngã đập vào phiến đá đau điếng; Tôi trợt chân nhanh đến độ mà khi lưng tôi đập vào phiến đá, lúc đó dây thần kinh mới chuyển lên tới óc cho tôi biết là tôi bị té, cả cuộc đời tôi chưa bao giờ bị té nhanh đến như vậy. Khi nàng chạy đến Tôi nhăn mặt đau đớn:
“Anh có răng không”? Tôi nằm yên không trả lời, nhắm mắt yên lặng
Có lẽ nàng tự trách vì hối thúc tôi đi nhanh lên, nên cớ sự mới như vậy!
“Ối chào … tội anh chưa tề!” nàng dìu tôi đứng dậy, tôi khoác tay “để anh nằm yên…một tí cho khỏe, anh đang đau lắm”
Bây giờ tôi mới cảm giác thấy đau ở nơi đầu; sau phía ót đang sưng lên, có lẽ máu bầm đang tụ ở đó. Tôi mặc một chiếc áo bay nên nàng không thấy những gì ở sau lưng tôi, nhưng nàng chỉ phát hiện trên đầu phía sau ót của tôi bị sưng một cục và đang rướm máu. Nàng chắt lưởi lắc đầu có vẽ thiểu não
“Ôi-chao đầu anh bị sưng “Tôi khoát tay” không sao đâu, anh sẽ khỏe ngay, đừng lo”
Ni ngồi xuống nâng nhẹ đầu tôi lên sờ chỗ bầm chạm vào đá…Chiếc đầu tôi được nhẹ-nhàng âu-yếm gối nhẹ trên bắp vế nàng, tự nhiên tôi cảm thấy cơn đau dịu hẳn, nhưng dường như trong tôi có điều gì tiếc rẽ, tôi lại làm bộ nhăn mặt như còn đau nằm yên đôi mắt nhắm nghiền lại.
Có phải trời nóng-nực, hay là quá lo-lắng, hồi hợp cho tôi…mà mồ-hôi của nàng tỏa ra khắp mặt mũi, Tôi tiếp-tục nhắm mắt để thưởng-thức…không ngọt, không mặn, không thơm, không hôi, không chua, không đắng, không cay, không tanh…tôi không thể tả được nhưng chắc-chắn là tôi sẽ không bao giờ quên được cái mùi kinh dị quyến rủ nầy!
Tôi nheo mắt nhìn nàng, vẽ mặt nàng đăm-chiêu lo-lắng, càng khiêu gợi tăng thêm vẽ đẹp mà tôi đang khao-khát. “Con mắt vô tội, khối óc mới đáng sợ” lòng nhủ lòng đừng gây nên tội; Khi tôi ở bên cạnh nàng con người tôi luôn luôn lương-thiện; Tôi tâm niệm đừng làm khổ nàng, nhưng tôi lại cứ muốn luôn luôn ở bên cạnh nàng, thật con người của tôi vô cùng mâu thuẩn!

Tôi ngồi nhổm dậy, nhưng nàng vội ấn tay giữ tôi nằm yên:
“Anh nằm thêm chút nữa cho khỏe”
“Anh sợ em bị tê chân, anh nằm như vậy đã lâu rồi”
Nàng đứng sau lưng, xốc nách dìu tôi đứng dậy, một cảm giác lâng-lâng là lạ như có hai vật gì như trái cam nhưng mềm dịu hơn, âm-ấm cưng-cứng dán sau lưng tôi; Tôi đang ước gì thời gian ngừng lại nơi đây
“Để anh cởi giày” Tôi tháo đôi giày Bốt cột giây nối lại với nhau, đeo quàng qua cổ, hai chiếc tòng-teng hai bên ngực; Phải tỏ ra mình còn khỏe mạnh ngon lành, tôi nắm tay dìu nàng lên bờ cát
“Em có nóng không…mình xuống suối tắm đi em, nàng gật đầu”
Hồi sáng nầy tôi đã chuẩn bị, mặc một cái Xì-líp cột dây vải, chặt sát vào mình, ở ngoài mặc thêm một cái quần xà-lỏn cho nó đàng-hoàng tử-tế. Khi tôi cởi chiếc áo bay để trên phiến đá, tôi gọi nàng: “Ni, em có thay gì không” nàng đỏ mặt:
“Em mặc như vậy được rồi”
“Rồi ướt đẩm như vậy làm sao mà về”
“Mùa ni mau khô…em về tới nhà là khô rang liền”
Chúng tôi cầm tay nhau đi lấp-xấp, lỏm-bỏm trên mặt nước hướng về nơi sâu hơn để lội. Tôi nhìn nàng lội bướm rất đẹp, lội ra tận chỗ thật sâu, nghĩ mình thật xấu hổ, tôi lấy tay quạt quạt cà bơi, cà bơi lủm-bủm theo kiểu lội chó, nghĩ tức, tại sao hồi nhỏ mình không chịu tập nhiều kiểu bơi để bây giờ thật là quê. Mình lội dở quá nên uống nước cũng không ít, thật là mất mặt; Dù vậy, nhưng cũng rán lội theo nàng, tôi cố lặn xuống dưới chân nàng, nước thật trong nhưng tôi cũng chẳng thấy được gì ngoài hai chân nàng trắng nuốt quạt lên, đập xuống, trên mặt nước cái váy Maxi phùng nỗi chập-chờn như con Thiên-nga cổ trắng. Tự cảm nhận xấu hổ khi lội chung với nàng, tôi muốn lên bờ nên giả bộ:
“Ni…em ơi tự nhiên anh thấy đau đầu, choáng váng, có lẽ chỗ sưng ở nơi đầu nó hành anh”
“Anh đi được không;” Đi được, nhưng em dìu anh thì tốt hơn; Nàng mau-mắn đi nhanh tới dìu tôi; Tôi cố làm bộ đi khó-khăn để nàng dìu tôi chặt thêm một chút nữa, nhưng nghĩ kỷ chẳng lẽ mình cứ làm bộ như vậy mãi sao, nhưng sự thật thân-thể nàng chạm vào da thịt tôi, làm tôi đi không nổi thật
Tôi dỏng-dạc đi nhanh lên bờ cát, nằm giữa nước, giữa cát cho mát
“Anh thấy răng”
“Chỉ còn ê nơi đầu thôi”
“Anh nằm kê lên bắp vế em…nì”
“Anh sợ em tê chân”
“Không răng mô”, rồi nàng nhẹ-nhàng đở đầu tôi lên kê trên bắp vế nàng. Lại mồ-hôi quen thuộc của nàng tỏa ra làm tôi đê-mê ngất lịm nhắm nghiền đôi mắt
Lúc nầy tôi không nên nhắm mắt mà phải mở mắt để nhìn nàng, gương mặt nàng ửng hồng như tôi chưa từng thấy trên chốn trần gian nầy, tôi nhìn kỷ dưới cổ nàng có một nốt ruồi son to bằng hạt cam
“Anh nhìn nốt ruồi của em …hỷ”
“À đẹp lắm…đó là điềm tốt cho cuộc đời của em”
“Bộ anh biết xem tướng số … hỷ”
Anh không biết nhiều nhưng anh có đọc hai cuốn sách của Bác-sĩ Pascal, ông là Bác-sĩ nhưng ông lại thích nghiên cứu chỉ tay tướng số, ông có sáng tác rồi xuất bản ra hai tập truyện nói về tướng số chỉ tay. Anh có đọc về trang nốt ruồi, Ông cho nốt ruồi son như là những cây gỗ quý, nhưng phải mọc ở chỗ kín mới thật là tốt
Nàng tự nhiên hỏi: “à…ở nơi Bụ em có mọc một nốt ruồi son, như vậy có phải là kín…và tốt không anh?”
“Như vậy là tốt”
Tôi nói tiếp, ngày xưa Nữ Hoàng Cleopatre có đưa khoe cái Vú nàng cho Vua Cesar
xem và nói rằng: “Núm vú em đỏ hồng như vậy nè, về sau em sanh cho anh một Hoàng-tử thông-minh khôi-ngô tuấn-tú để nó sẽ làm Vua cho một Tiểu-quốc.”
“Ờ…nì, núm vú của em cũng đỏ au như vậy đó…anh thấy có sướng không”
“Nữa sau nầy em sẽ làm vợ Tổng-Thống”
“Xí anh xạo”
Con mắt là cửa sổ, tầm nhìn bình thản tuy có đôi chút sổ-sàng nhưng khối óc mới suy diễn, phong-phú, tế-nhị có khi đi đến tội-lỗi.
Lần trước cũng trên bờ suối nầy, hai đứa giành nhau tắm dưới dòng nước để được hưởng những hơi-hám của người thương, lấp-xấp những mạng nước nhấp-nhô quanh nơi ngực nàng, tôi đã cố mở mắt nhìn kỷ, thử khảo sát lại đôi mắt Phi-công 100% của mình có đúng như lời Bác-sĩ Phi-hành khám nghiệm không?. Dưới lớp vải thô thấm ướt bó sát vào vòng ngực no-tròn, điểm ngay trung tâm lú lên một hột tròn-tròn như hột chanh giữa một vòng tròn như núm cau lốm-đốm nhiều hột nho-nhỏ rải-rác chung-quanh đó. Lúc ấy tôi chỉ tưởng-tượng ra rằng: Dưới đó, không biết phải màu nâu, màu đen, màu hồng trắng nhạt…những hạt nhỏ li-ti nầy…có lẽ giống như da gà hay lớn hơn da vịt da ngỗng gì đó thôi…
Sự thật, hôm nay tôi lại tưởng-tượng theo cách khác, Nàng đẹp tuyệt vời như tôi chưa từng thấy trên trần gian nầy. Vú nàng hồng đỏ…những hạt cườm li-ti thuộc loại đá quý nằm rải-rác trang điểm trên thạch động vươn lên tròn trịa như một quả táo thời Adam và Eve; Tôi ước gì được cắn vào trái Táo đỏ nầy…rồi có xuống tận cùng Hỏa-ngục cũng mãn nguyện; Tư-tưởng chỉ đạo hành động tội-lỗi; Ngày mới quen nàng, tôi cho nàng chỉ dễ thương thôi, nhưng không có vẽ đẹp cao sang như vợ mình, nhưng bây giờ thì trái lại, cái gì của nàng cũng hơn vợ mình, ngay đến mồ-hôi trong người nàng, mình cũng cảm thấy như là một loại nước hoa huyền-ảo, quyến-rũ khó kiếm được.
“Em có tê chân không, anh ngồi dậy …hỷ”
“Nàng âu-yếm: “Anh đang mệt, anh cứ nằm yên, em chịu đựng được mà!”
Mình cảm thấy vô lý, quá lợi dụng sự nuông chiều của nàng, tôi ngồi phóc dậy, nàng đè đầu tôi xuống lại bắp vế nàng
“Nằm yên, em kể chuyện đời xưa cho anh nghe…hỷ”
Tôi lẩm-bẩm: “Rồi lại chuyện đời xưa nữa, mỗi lần nàng kể, lắng nghe âm thanh Miền-trung trọ-trẹ thật là khổ cho cái lỗ tai, và đầu óc của tôi. Nhiều khi tôi không hiểu nàng muốn nói gì, chữ hiểu chữ không, tôi góp lại đoán mò; nhưng riết rồi cũng hiểu và ghiền giọng nói của nàng không biết từ lúc nào
Tôi bèn xuống nước nhỏ năn-nỉ nàng: “Ni…em cho anh đứng dậy đi lấy cái áo bay gấp lại làm gối kê nơi đầu rồi nằm lại nghe em kể chuyện…chịu không…Hỷ?” Ni khe-khẻ gật đầu
Tôi nằm im thinh-thích lắng tai như đứa trẻ nghe bà-nội kể chuyện đời xưa. Nàng trọ-trẹ cất tiếng:
“Ngày xưa có một ông Vua đi săn qua một khu rừng, sau khi săn đuổi thú rừng, nhà vua thấm mệt mà trời thì nắng oi-ả; Nhà vua tình cờ bắt gặp bên đường có một giây leo dài, lần mò đến cuối giây, nhà vua tìm thấy một trái dưa Hấu rừng rất hấp-dẩn. Nhà vua bèn bứt và bẻ làm đôi ngấu-nghiến ăn nhanh cho đở khát…xong nhà vua “tiểu” vào đó và quăng qua bên kia đường. Sáng hôm sau, lúc tờ-mờ, nàng Út ra rừng mót củi, sau khi lặn-lội tìm kiếm các cành cây gãy đổ, bó được một bó củi khô; Nàng Út thấm mệt mồ-hôi nhuể-nhoải, bèn đứng lại ngồi tạm bên đường, bất chợt nàng Út thấy trái dưa Hấu ai ăn bỏ dở-dang, vừa khát, vừa tiếc, nàng bèn nhặt lên ăn cho đở khát. Vài tháng sau nàng đau bụng mà cái bụng mỗi ngày mỗi lớn dần, có lẽ mang thai. Cuối cùng nàng sanh ra được một đứa bé trai rất là kháu-khỉnh.
Bảy năm sau, nhà vua lại tiếp-tục đi săn ở vùng nầy, đi cả ngày mà không thấy được một con thú nào, đến gần xế chiều, nhà vua đổi hướng đến một đám rừng chồi gần đó, cơ may nhà vua bắn được một con chim Trích-Phụng, chim trúng tên quằn-quại từ trên cây rơi xuống, nhà vua mừng quá bèn xuống ngựa chạy tới, thì gặp thằng bé trạc độ sáu tuổi, đem con chim còn dính máu lẫn mũi tên dâng cho vua “Ông bắn trúng con nầy…hỷ”
Các quan đại thần, có ông dạy võ, có ông dạy văn, có ông dạy đàn cho nhà vua hồi còn thơ-ấu, mỗi ông quan đều trầm trồ và cùng buột miệng một lượt: “thằng bé giống Bệ-hạ khi còn bé quá!”
Như thần giao cách cảm, nhà vua vừa thấy nó đã đem lòng thương yêu liền, Nhà vua bèn ẩm thằng bé con nhà ai dìu lên lưng ngựa sảy nhịp về hướng nhà thằng bé.
Nàng Út hoảng-hồn sợ quan quân bắt con mình bèn chạy ra.
Đứa bé chỉ vào mặt: “ông nầy là Vua đó mẹ”
Nhà vua hỏi cha đứa bé ở đâu? Nàng Út mới ôn tồn kể lại, “cách đây bảy năm, nàng đi mót củi, khi qua khu rừng, thấy ai ăn bỏ dở trái dưa Hấu bên đường, vừa tiếc, vừa khát, nàng nhặt lên ăn nên bị mang thai và sanh ra đứa bé nầy.
Nhà vua suy nghĩ một hồi lâu rồi mừng thầm: “Ta sẽ về tâu với vua cha…âu cũng là số Trời, để xin rước nàng về triều đình làm hoàng-hậu.
Ngày xưa, đường tiêu hóa mà bị mang thai, người ta cho là chuyện thần-thoại, đời nay, trên dòng suối nước chảy xuống vào bộ phận sinh lý, đứng trên cơ sở khoa-học có thể thụ thai không?
Nàng thích tắm ở dưới dòng nước thì nàng được gì; Còn mình thích thì được gì; Tại sao đứa nào cũng thích! Cái nầy chỉ có Trời biết
Có lẽ nàng nhường cho mình dòng nước trên nguồn là vì sạch-sẽ hơn! Tư-tưởng con người quá dồi-dào suy diễn phong-phú, con người có tư-tưởng đẹp thì cuộc sống sẽ đẹp, con người có tính đam-mê lãng-mạng thì cuộc đời càng có ý nhị hơn người phàm-phu tục-tử, quả thật đam-mê là có tội nhưng con người không có đam-mê thì cuộc sống lại vô nghĩa. Tôi rất trân-trọng nàng, xem nàng như một chiếc chén kiểu quý giá chỉ để nhìn ngắm, không nên xử dụng sợ nó bể vở tan-tác; Thật sự tôi là người Hùng chớ, nhưng sao đối với nàng tôi cảm thấy nhỏ bé ái ngại, Phi-công rất bình-tỉnh mỗi khi máy bị trục-trặc khẩn cấp, nhưng trái lại quá yếu đuối, dễ mất bình-tỉnh trong tình yêu. “Vũ-trụ rộng lớn nhưng lại nhở hẹp trong tay Phi-Công”, nhưng trong tay nàng tôi thấy quá rộng lớn, thênh-thang, tôi đang chới-với giữa thinh-không.
Thình lình, Tôi nghe tiếng Trực-thăng ở đằng xa…đang lớn dần, tôi đoán biết có điều gì khẩn cấp nên Trung-Úy Khôi mới cất cánh để gọi tôi về Trại gấp, như hồi sáng, trước khi đi tôi có dặn vì tôi không muốn đem máy truyền-tin tí-hon HT-1 theo, sợ rơi xuống nước thì hỏng.
“Em ơi…mình phải về gấp…chắc anh có Phi-vụ khẩn cấp”

CÒN TIẾP

vinhtruong
11-04-2011, 04:09 PM
Thả toán thám sát STRATA
Nhìn tổng quát, xê dịch qua phía nước Lào chưa đầy chục cây-số thì đất đai có vẽ phì-nhiêu hơn, các con suối nước không chảy siết như bên Trường-Sơn Đông mà chảy êm ái qua phía Tây, lượn khúc để nhập vào con Sông Sé-Kông rồi nhập vào các phụ lưu Sông Mê-Kông, nơi đây một thị trấn nhỏ chiến lược có tên là Attopeu mà tình báo Mỹ đang đặt cặp mắt xanh vào đó. Vì thế mới có cuộc hành quân “Lôi-Vủ” do đích thân trùm Tình báo William Colby tổ chức và điều hành. CIA đặt tên cho cuộc hành quân nầy là STRATA Infiltration: [Short Term Road And Target Acquisition] trãi dài gần 900 miles từ đèo Mụ Giạ, Ban-Karai, Ban Raving, Tchepone đến Attopeu, Tất cả ba cái Đèo ở trên và hậu cần-611 (cargo depot) đều cấm các phi cơ Hải Không Mỹ không được bén mản, vì là vùng SAM- Envelopped-Zone” phi cơ oanh kích vi phạm không phận nếu bị bắn cũng không được trả đủa mà phải bỏ chạy (xem Volume-II, 2 chiếc super Sabre bị bắn rớt 1 chết, 1 cứu thoát mà không được trả đủa) và đây là trục sẽ phát hoạ ra Trường Sơn Tây, tương lai là Xa lộ Liên Bang Ðông Dương theo dự tính của Nhóm tham mưu Harriman để đối chọi với xa-lộ Trung Quốc lén lúc thiết lập con đường từ Côn-Minh chạy xuống đến bờ biển Ấn-độ-dương xuyên dọc theo nước Miến Điện với âm mưu thôn tính Úc Châu.

Những tia nắng cuối cùng yếu ớt đang tỏa xuống từ bên kia biên-giới Lào-Việt, căng-thẳng thần kinh, mở mắt to, Tôi đang ghì tay lái bay là sát trên ngọn cây, vừa phải giữ tốc độ, vừa phải o-bế dưỡng bộ-phận máy đang nổ đều-đều dưới bốn cánh quạt uyển-chuyển nhưng cứng rắn, quay tít tạo nên âm-thanh dễ ru-ngủ người Phi-công Biệt-kích. Nhưng làm sao ngủ được…phải dựng tóc gáy lên vì chút nữa đây sẽ có nhiều biến chuyển bất trắc xảy ra!
Bay “Kạ-Càng” trên ngọn cây như vậy đã tám phút trôi qua rồi, làm sao phi-cơ địch biết được giờ nầy có chiếc Trực-thăng không cờ, không số, màu ngụy trang lá rừng đang tiến về hướng đĩnh núi Coroc. Bay sát trên ngọn cây nhìn nó giống như cái chòi canh khổng-lồ của Lào-quốc nhìn chòng-chọc sang Việt-Nam với những sườn đá vôi dốc đứng, trên cao độ hơn ba ngàn bộ với đĩnh chiều dọc ba dặm trải dài chín mươi dặm đến tận chân đèo Mụ-Già.
Tôi phải tính cách nào đây khi thả Toán Strata nầy vào bãi đáp thì trong giây lát màn đêm phải hoàn-toàn bao phủ, có như vậy mới bảo-đảm được cuộc thâm-nhập tuyệt đối bí-mật cho toán Strata nầy có nhiệm vụ thám sát đường mòn Hồ-Chí-Minh, tuyệt đối tránh đụng độ với địch, báo cáo mọi hoạt động trên đường mòn, Binh trạm, Trạm truyền tin, Bệnh xá, Công-xưởng, tuyến đưòng xe vận-tải Molotova, Bải-đậu, nều cần bắt sống tù-binh đi lẻ-tẽ và gọi Trực-thăng bốc ngay. Toán làm việc ngắn ngày, thời hạn từ mười ngày đến tối đa là hai mươi ngày là bốc về ngay.
Bỗng một cơn gió cuốn giật mạnh con tàu rơi xuống sát ngọn cây, tôi vội-vàng kéo lên, thì cũng trong tít-tắc Phi-cơ thoát qua khỏi một cây khô cao lớn nằm chơi vơi giữa đám rừng chồi, thật hú-hồn, hú-vía vì ánh nắng chiều chói mắt… Đã tới điểm chuẩn núi Coroc, tôi bắt đầu bay sát phía cạnh sườn núi tiến về hướng Bắc đèo Ban-Karai, mừng thầm dãy Trưòng-Sơn phía bên nầy trời nắng tốt, nhưng một nữa bên phía Đông Trường-Sơn mây bao phủ dày-đặc, như vậy là bên kia đang bị mưa giông.
Mới vừa hôm qua đang du-hý ở Vũ-Trường Baccarat, thì được lệnh ngày mai phải có mặt ở Khe-Sanh trước mặt trời lặn; Hí-hửng tưởng bở tôi gọi điện thoại cho Thiếu-tá Chỉ-huy-Trưởng:
“Thưa Thiếu-tá…trời đang bão lớn, Phi-trường Nha-Trang ngập nước, tất cả Phi-cơ không được phép đáp, điều kiện thời tiết QGO (về không-lưu ám hiệu cấm đáp, cấm bay).
“Ối ziời, trời thanh mây tạnh gió mát trăng thanh thì còn con Mẹ gì gọi là yếu tố bất ngờ”.
“Moa muốn Toa có mặt ở Khe-Sanh ngày mai càng sớm càng tốt, trước khi mặt trời lặn”.
Thế rồi phía bên kia một tiếng cụp tắt máy khô-khan lạnh-lùng, đổi lại phía bên nầy một sự nực-nội khó tả. Thôi tôi phải gác qua sự vui chơi đi, không thi hành mệnh-lệnh thì bỏ Mẹ ngay.
Nhìn qua bên phải, phía Bắc vùng phi-quân sự… trống-trơn không có dấu vết gì về sự hoạt động của con người, không đường-sá, không làng-mạc, không có dấu vết gì gọi là điểm chuẩn để định hướng cho Phi-công nhờ, chỉ có những đồi Cỏ Voi nằm thoai-thoải dính vào nhau với cao-độ một ngàn năm trăm bộ như những trứng bể úp vào nhau quây quanh bởi những con suối cạn chằng-chịt như ổ Nhện.
Tôi đang bay sát cạnh sườn núi, trên một thung-lủng thật hẹp mà trước đây Toán Strata đã bắt sống được một tù-binh Nguyễn-Tương-Lai-Lai là một Sĩ-quan đặc trách về đường mòn 559, anh cho biết đoạn đường dọc theo suối dưới nầy xuôi về Nam-Lào là con đường thoai-thoải nhỏ vừa đủ để xe đạp Thồ mà thôi, nó cũng là một nhánh nhỏ của hệ-thống đường mòn Hồ-Chí-Minh chạy dọc xuống Nam-Lào, đặc biệt nó là đường mòn tương đối bí-mật nhất, Phi-cơ không thể nào phát hiện dưới lùm cây ba tầng, vô cùng rậm-rạp nầy, không có ánh nắng nào có thễ chui đến mặt đất.
Một chiếc xe-đạp Thồ có thể mang nổi trên hai trăm Kilô quân dụng đạn dược, thồ từ trạm nầy đến trạm kia xong lại đem xe không về trạm cũ để tiếp-tục thồ lại chuyến khác, đôi khi phải thồ luôn cả ban đêm. Tuyến đường xe thồ nầy hoàn toàn được giữ bí mật kể cả quân đội Bắc-Việt cũng không thể biết chĩ trừ toán khuân vác xe thồ là thông thạo.
Ánh nắng chiều bên trái tôi, đang thoi-thóp yếu dần không đủ cho tôi thấy nỗi những cây cao trơ-trọi không cành, lá đang bay ngược lại trước mặt tôi, hoảng-hốt kéo cần lái vút lên không biết bao nhiêu lần; Là phi-công tình báo gián điệp, tôi rất thông-thạo vùng biên-giới Lào-Việt nầy. Nếu bay cao, hiểm-họa bị bắn rớt sẽ không lường được. Theo tin-tức của trạm tiền-phương Đoàn chuyên vận 559 nơi đây có hai Tiểu đoàn phòng không bảo vệ cung che chở hổ tương bởi Trung đoàn 24B/Sư đoàn 304 BV.
Nỗi lo-lắng bồn-chồn khi tôi nhìn thấy đồng-hồ xăng báo hiệu chỉ còn một bình xăng trước mà thôi, như vậy là tôi còn bay được tối đa là một giờ mười lăm phút. Vì lý-do phải đáp trên đĩnh núi với sức nặng tối đa, nên tôi đã tự quyết định, chỉ đổ hai bình xăng để nhẹ-nhàng dễ xoay-xở vào lúc đáp trên cao-độ với áp xuất bất lợi vào một ngày nắng oi-ã bên Lào.
Trước mắt tôi là đèo Bankarai, tôi bắt đầu dùng sức máy đem Phi-cơ qua khỏi ngọn núi bên kia đèo để khi đáp xuống thì quân Bắc-Việt sẽ không biết gì cả.
Vài sợi nắng vàng còn động lại bên bờ Tây, tầm nhìn xa bắt đầu thâu ngắn lại, tôi bảo Chuẩn úy Huệ tạm giữ tay lái, trong khi tôi đạp kéo cần thắng bánh đáp; Nhanh như cắt, chiếc H-34 chúi đầu xoay tròn như một giọt nước khổng-lồ từ không-trung tuôn xuống…tôi bất chợt giữ đứng khựng lại ‘quick-stop’như con chim gõ-kiến: Càng bánh xe bên phải đang gác lên một tảng đá rong rêu trơn trợt, trong khi càng đáp bên trái và bánh đuôi đang lủng-lẳng ngoài không gian, run-rinh theo cơn gió xoấy, một…hai… rồi năm, sáu giây … Toán trưởng Strata Ðèo Văn Ðức nhãy sau chót đang cùng năm toán viên khác ôm chầm lấy nhau cho khỏi rơi xuống vực thẳm.
“Thật là một sự thâm-nhập ngoạn mục và bí-mật vô cùng!”
Tôi cất cánh chúi mũi…chúi mũi lấy tốc lực, phải nhẹ-nhàng tay lái. Tiếc-kiệm xăng tối đa, tôi rán giữ cao độ ba ngàn bộ không lên không xuống, với cao độ nầy tương-đối là an-toàn lướt qua những dãy núi trước mặt và vùng phụ cận hai bên.
Bây giờ màn đêm hoàn-toàn bao phủ, ở vùng núi màn đêm thường ập tối nhanh hơn ở vùng đồng bằng; Tôi vặn đèn hồng nơi phòng lái điều chỉnh vừa đủ sáng để khỏi mau mỏi mắt theo như sách nhà trường đã dạy. Bay phi-cụ là phải hoàn-toàn tin-tưởng vào.
Bây giờ nỗi băn-khoăn ám-ảnh về số xăng có còn đủ về tới Khe-Sanh hay không, nếu không thì phải đáp ở đâu? Dưới đây vẫn còn trên vĩ-tuyến 17, ánh đèn hồng và những nét chữ, số lăn-tinh cứ quay cuồng theo ánh mắt liếc nhìn qua lại không dứt của tôi, khổ nỗi liên-tục ám-ảnh số xăng còn lại cứ xoáy tròn trong óc
“Phải chi đổ đầy ba bình thì bây giờ mình bớt lo…”
Cứ lẩm-bẩm mãi trong miệng như người điên!
“Nhưng đổ xăng đầy thì sức máy làm sao chịu nỗi khi phải đáp trên đĩnh núi cheo-leo kia”
Vừa nghĩ đến đây, trước mắt tôi đen kịch, bỗng chớp sáng lóe trong giây lát rồi tắt lịm để lại một màu đen rợn người. Có tiếng mưa rào-rạt trước mặt kiếng, coi chừng đám mây hình cái đe, cumulonimbus mà mình vừa phát hiện đám mưa giông khi nãy, nếu máy trục-trặc, dưới đây là dãy Trường-Sơn vẫn còn trên vùng địch, làm sao đáp được an-toàn khi máy mất năng xuất, nhất là lúc đêm tối như mực thế nầy. Phía dưới bên phải, Trường-Sơn Tây, theo không ảnh từ U2 chụp được Bắc-Việt đã mở một con đường mòn dài chín trăm cậy số từ đèo Mụ-Già đến Benhet để xử dụng vào mùa gió Bấc, vì Trường-Sơn Đông bất khả dụng, nước đỗ như thác, suốt ngày xoáy cuốn, mọi sinh hoạt đều phải đình động không xoay-xở xê-dịch được.
Phi-cơ bắt đầu lắc mạnh như sắp chui vào đám mây, làm sao biết được trước mắt mình có gì ngoài một màu đen dễ sợ, dẫu sao, bất cứ giá nào mình cũng phải kềm giữ cao độ nầy, không thể đổi hướng qua trái hay phải, vì phải tiết kiệm xăng tối đa. Xuống thì không được rồi, vì sợ đụng vào núi, mà leo lên thì càng không được, vì dùng sức máy tốn nhiều xăng, đỗi hướng qua lại nhiều lần càng bất lợi vì tăng thêm phút bay.
Xa-xa có ánh sáng chớp lóe rồi vụt tắt, phản ảnh cùng lúc trong nón bay tôi nghe được cùng lúc với ánh chớp, những âm thanh parasite “Chiez…iez” của điện từ.
Tiếng máy gầm thét nổ to bất thường dội ngược vào buồn lái, phi-cơ như bị hút cuốn vào đám mây dày-đặc giữ kín âm thanh không cho thoát ra ngoài, ngọn lửa nơi ống thoát màu xanh rồi vàng đỏ, phun ra to rồi nhỏ lại theo vòng máy bị vùi dập trong cơn gió xoáy nhắc tung bốc lên…kéo trì xuống, phi cơ rùn mình kêu răng-rắc, có lúc Phi-cơ như muốn quay ngang, cánh quạt lớn dường như không muốn ở lại với chủ, cánh quạt đuôi cứ dùng-dằng không biết ở hay đi.
Con người chớ thánh-thần sao mà không hồi-hộp, lo-sợ, rồi một cái chớp sáng lóe cả phòng lái, tôi không còn tâm-trí đâu nữa mà nghe tiếng sét, phản xạ trong nón bay, cánh quạt chặt vào nước nặng-nề như muốn giảm bớt vòng quay, có phải khối nước đang vây chặt vào thân tàu? Phi-cơ bị nhồi lên cao… cao nhẹ cả người… rồi giật mạnh xuống quay phải… như muốn quay đầu lại, chịu thua khối nước độc-ác trước mặt; Những cảm giác dính chặt vào ghế lái cũng như thót ruột không còn trong tâm-trí của tôi nữa, áp lực máu đang dồn lên nơi đầu, trán quá nhiều đến độ tôi cảm thấy khô môi, đắng miệng, khô cổ, mặc cho nước mưa thấm vào mặt, sức nóng rồi lạnh vô chừng làm tôi càng thêm choáng-váng. Cố kềm giữ hướng 160 độ! Cao độ ba ngàn bộ, có phải con tàu quá cũ, nên nước đã chui được vào phòng lái, áo bay ướt đẩm, tôi cảm thấy lạnh ớn xương sống, cứ mỗi lần gió đập mạnh, thân phi-cơ run-rẫy lại phải nhẹ-nhàng nương theo làn gió, không dám dùng những động tác mạnh bạo sửa cưởng lại, vì sợ phi-cơ nỗi giận ho to thì nguy. Tôi đang chui vào đám mây giông tăng trưởng với nhiều hiện tượng đổi hình dạng theo chiều đứng “Cumulonimbus”.
Tự nhủ “Hãy bình tỉnh” dán mắt vào những phi-cụ chính, vì những đồng-hồ con quây gyro khác đã bị điện từ đám mây giông phát ra làm sai lạc, quay tít như chân trời giả, con quay phương hướng …rất nhiều đồng-hồ bất khả dụng, nếu tin vào chúng nó, thì chết ngay, mắt tôi đảo lia về những đồng-hồ ít sai lạc để định hướng bay 160 độ, đồng-hồ thăng-bằng và kim định hướng, nhưng phải liếc mắt vào đồng-hồ tốc độ, coi chừng bị trượt nâng ở tốc độ nhanh thì không còn cứu vãn được. Với Phi-cơ có cánh, tốc lực nhanh thì tốt, chậm quá thì sẽ bị ‘trượt-nâng’, còn với Trực-thăng, nhanh cũng bị stall mà chậm cũng bị trượt nâng (blade-stall) Tôi đang hối hặn, tại sao đang bay phi cơ có cánh ngon lành mà đổi chi qua cái phi cơ cối xây nầy thật là nghiệp chướng, nhức đầu nhức óc quá! Hèn chi phi-công USAF, Không Quân Anh, Pháp … muốn bay trực thăng điều kiện tiên quyết phải là phi công có cánh trước đã, rồi mới được tuyển chọn chuyễn qua bay trực thăng; Tuổi trẻ háo thắng nghe ‘ngầu quá’ nên bây giờ phải chịu hậu quả, ôi cũng số ham chịu-chơi giờ nầy mới té đái.
“Tôi đang run vì lạnh hay quá sợ hãi?”
Tiếng máy nổ gần như bình thường, con tàu bắt đầu giảm độ lắc, hy vọng ra khỏi được đám mây! Nhưng làm sao thấy được gì trong đêm tối, Tôi định-thần lang tai nhận định tiếng “Chiez…iez…” nghe được trong nón bay, nhưng không thấy ánh sáng chớp lóe trước mặt… “An-tâm đám mây giông đang ở sau lưng mình?”
Vừa hết lo sợ ở trong đám mây thì lại ám-ảnh về vấn đề số xăng còn lại trong bình bao nhiêu; Có đủ về đến nhà không! Phải quyết định ngay, không thể về Khe-Sanh vì vẫn còn ở trong đám mây chưa thấy được gì ở dưới đất dù là một đóm lửa thật nhỏ, cũng làm cho sắc mặt mình được tươi, hồng-hào ra.
Tôi quyết định về phi-trường Ðồng-Hà đổ xăng, vẫn giữ ba ngàn bộ đổi hướng 145 độ, nếu chẳng may có trục-trặc mình ở vùng đồng bằng cũng bớt đi sự nguy-hiểm, vặn đài Huế để nghe cho bớt căng-thẳng thần-kinh và cũng định-hướng bằng ADF luôn. Sự thật, đang lùng-bùng lỗ tai, tâm trí còn đâu nữa mà nghe đài, chỉ mong vào hướng phát tuyến của đài mà định hướng thôi.
Bỗng Chuan-uy Huệ la lớn lên trong nón bay, tôi giật nẩy người “Thấy lỗ rồi”
Ý của Huệ muốn tôi chui xuống dưới đám mây đi.
Kinh nghiệm về thời tiết, ban ngày mà chui xuống lỗ trống của đám mây cũng không phải là dễ, Tôi tự nhũ thầm: Ngày mai có cơ-hội tôi sẽ dẫn giải cho Huệ về điểm nầy, Phi-Công Biệt-Kích từ khi thành lập đến nay có đến hầu như 100% mất tích vì thời tiết xấu, chưa có anh em nào bị bắn rơi, hoặc chết vì trúng đạn thù cã. Tối mai tôi sẽ check out final test Trưởng phi cơ cho Huệ lần chót là autorotation ban đêm với ánh sáng trăng 30% bắt buộc không được xữ dụng landing light để touch down. Trực-thăng là phi-cơ không có cánh thăng-bằng, nhiều bộ phận quay tích dễ tạo ra điều kiện ảo-giác “Vertigo” và nhất là xử dụng các động tác thô bạo không thích hợp với cơ-học phi-hành chỉ gây thêm nguy-hiểm không thể cứu gở được như phi cơ có cánh thăng bằng.
Hướng 145 độ, cao độ vẫn ba ngàn bộ, quả thật không bao lâu phi-cơ ra khỏi đám mây trước mắt, bên trái là Đông-Hà, Ái-Tử đèn-đóm chi-chít, chệch bên phải là Gió-Linh, Mai-Lộc
Tôi lại đổi ý về lại Khe-Sanh ngủ cho yên giấc và cũng là hoàn tất công-tác .
Bay một vòng trên Quận Hương-Hóa, tôi biết chắc một chiếc xe Jeep, một xe Dodge 4/4 đang rọi đèn cho tôi dáp.
Ánh đèn rọi trên Trực-thăng xuống chưa bao giờ sáng tỏ như hôm nay.
Tôi vội-vã chạy vào tăng lều rửa mặt, nhìn vào kiếng đã thấy mình già đi hơn mười tuổi, cái trò chơi dựng tóc gáy nầy… khỏi cần phải coi tướng số tôi cũng biết, có lẽ không bao lâu mình sẽ không còn tóc mà chải đầu cho vui với người ta nữa.
Chúng tôi bát bộ đi ăn, Quận Hương-Hóa là một quận lỵ rất nhỏ, dân cư rất thưa thớt chỉ có một con đường duy nhất là Quốc-lộ 9 đi sang Lào, về sau vấn đề an-ninh nên Chính-phủ Ngô-Đình-Diệm đã xóa sổ trong bản đồ và để lại cái tên là Khe-Sanh đồi núi.
Nhà cửa san-sát hai bên đường Quốc-lộ 9, người dân ở đây phần đông làm nghề, gặt hái Café của một đồn-điền người Pháp nhưng đã bỏ hoang từ lâu không còn khai-thác vì chiến tranh. Một quán nhỏ duy-nhất mọc ở đây, lợp bằng Tôn vách ván; William Colby, Thiếu-Tá Trần Khắc Kính, Đại-úy Phú (sau nầy trở nên Tư lệnh SÐ-1 và Quân đoàn-2), Ðại-úy Thơm, và Đại-úy Bác-sĩ Trí đã có mặt ở đây tự hồi nào rồi.
Chúng tôi ăn cơm với món Gà xào Xả-ớt rất cay cùng uống một loại rượu mạnh mà là khẩu vị của Thiếu-Tá Kính: Scotland Black and White hình con Mèo trắng và đen.
Mọi người đều mặc một bộ đồ bà ba đen bằng vải tốt nhưng may tại Okinawa xem chẳng giống anh nhà nông tý nào. Riêng Ðại úy Phạm Văn Phú thì hơi giống nhà nông, vì giáng người roi roi khắc khổ, con người óm nhom, với luôn luôn cầm điếu thuốc lá nặng độ trên tay với vết hằng nhựa thuốc dính khăp noi đầu ngón.

CÒN TIÊP

vinhtruong
11-05-2011, 10:30 PM
“Mình tới phiến đá ngồi đi anh…Em cần hỏi anh nhiều chuyện” Sự hồi-hộp lo-lắng càng tăng thêm, giống như ai đem mình đi tử hình, hay tra tấn để hài tội, vẫn đôi mắt u-buồn, nàng chăm-chăm nhìn…như muốn tìm hiểu những gì trong tôi, tôi làm bộ lánh mắt ngó đi chỗ khác, nhưng không che lấp nỗi đắn-đo chuyện gì xảy ra cho mình đây?
Nàng âu-yếm rờ xoa chung quanh vành tai và màng tang bên phải của tôi, buông lời rất nhỏ nhẹ: “Tai anh sao đỏ rứa…hè” nghe âm thanh của nàng tôi cảm thấy nhẹ-nhàng như bay bổng lên mây.
“Anh vừa đội chiếc nón bay mới, có lẽ hơi chật nên mới bị đỏ như vậy”
Như mắng yêu, nhỏ nhẹ càm-ràm: “Ở trên trời có ai thấy chi mô mà đẹp với đẻ”
“Có chứ…! Có Nàng Hằng-Nga nhìn ngắm anh, khi anh đang bay lả-lướt dưới ánh mắt Nàng”
“Xí…Anh chỉ có tài nói xạo”
Cái nón bay kiểu mới nầy, mắt kiếng mát được kéo che kín vào trong nên không bị trầy, còn cái nón bay cũ thì mắt kiếng nằm trơ-trọi ở ngoài nên dễ bị trầy-xước, nhưng thôi nàng nói sao mình nghe vậy cho nó dễ chịu cái tâm của mình.
Mấy ngón tay Ni bắt đầu vuốt lên mái tóc, tôi cảm thấy đê-mê dễ chịu.
“Tóc anh ướt đẩm mồ-hôi không hà…chắc anh vừa mới bay xuống mệt lắm…hỷ”
Tự nhiên cơn hồi-hộp biến mất, tôi cảm thấy nhẹ hẳn; Lần đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới biết sợi tóc rất gợi cảm, nó như dòng-điện hai chiều chạy đi rồi trở lại từ tay nàng đến tim óc tôi, những ngón tay mềm-mại gợi cảm làm tôi nóng bừng, tim đập mạnh, mồ-hôi toát ra như đang bị một cuộc tra-tấn êm-dịu, tôi lim-dim đôi mắt dựa vào nàng thưởng-thức, nhưng không được bao lâu bị nàng đưa hai tay áp vào má, tôi quay lại đối diện với mặt nàng. Bỗng tôi hồi-hộp trở lại, nàng định tra khảo chuyện gì đây! m ình đả nói dối gì với nàng?
“Đêm hôm em ngủ không được, trăn-trở hoài đợi mau sáng…cứ mong gặp anh, em sẽ nói nhiều chuyện, nhưng khi thấy anh rồi thì em lại quên hết” Trong bụng tôi mừng thầm, cãm thấy cái tính mau quên của nàng sao dễ thương quá
Tôi liếc mắt nhìn nơi hai cườm tay nàng, những sợi lông tơ rất dễ thương trang điểm trên làn da trắng nuốt, tôi nhẹ-nhàng ấn cườm tay nàng lên má tôi cọ qua cọ lại, tôi lim-dim nghe nàng nói.
“Đêm hôm qua em “nằm-chộ” (mơ)…Tôi mau-mắn: “Em nằm chỗ nào?”
“Không phải…em nằm chộ thấy anh ở sau nhà hú em như mọi khi”
À thôi tôi hiểu rồi, nằm chộ là nằm chiêm bao, nằm mơ, những ngày đầu tiên nói chuyện với nàng, mà tôi cứ tưởng như nói chuyện với người ngoại-quốc, bây chừ thì nghe và hiểu được tàm-tạm rồi.
À rồi sao nữa…?”Em luôn-luôn bị ám-ảnh rằng: “Anh đang hú gọi em, nên Em chạy ù ra và bị vấp cái bể nước sau hè, em bổ sấp, ống quyển bị chạm vào đó sưng vù đây nì”
“Ôi chao tội chưa tề…đâu đưa anh xem” Tôi thoa nhẹ chung quanh vết bầm mà tâm hồn cứ bồn-chồn lo-lắng, tôi lại quên đem theo túi cứu thương cá nhân, nên làm sao săn-sóc cho nàng?
“Ôi chao…ôi chao tội chưa tề” Mục đích Tôi nói cho nàng dễ hiểu, chứ lòng dạ nào tôi dám đùa giởn trên sự đau-đớn của nàng
Bắp vế của bất cứ cô gái ở vùng sơn cước nào cũng to đi đôi với cái mông cũng vậy, vì phải leo đồi xuống núi hằng ngày, nhưng rắn chắc và khỏe vô cùng; bỗng dưng tôi suy diễn người ở rừng đẹp hơn người ở thành phố, như vậy có phải là trí óc tôi tưởng-tượng kỳ quái của riêng tôi?
Tôi đã từng chiêm ngưỡng Ni mặc váy Maxi ôm cái mông no-tròn mà hơi de ra sau một tí, đi trông rất dễ thương; tôi nhìn theo không thấy chóng mặt mà lại thích nhìn. Nếu Ni mặc áo đầm đi giày cao gót với dáng đi nhún-nhảy thì thật đẹp tuyệt vời như một cô đầm Pháp ở bờ biển nghĩ mát Canne đang đi dạo phố; ước gì mình có một tuần trăng-mật ở bãi biển nầy với nàng.
Vướng bận nhìn mãi bắp chuối trắng nỏn-nà của nàng như bị thôi miên, tôi giật mình bỏ tay ra. Rờ thoa gì mà lâu quá vậy!
“À quên, em muốn hỏi anh một chuyện…hôm qua anh Mai có cho em biết, gia đình anh đang đi hỏi vợ cho anh, nghe nói…cô đó vừa đẹp…nì, vừa giàu…nì, mà lại còn học giỏi nữa nì…có phải vậy không anh?”
Mình nghĩ thầm: Cô nầy chế chuyện, đặt điều chớ anh Mai nào mà nói; tôi yên tâm trả lời, cốt cho nàng quên lãng mình đi, vì lần nầy có lẽ là lần cuối. Như chạy tội, tôi buông lời dài-giòng tiểu-thuyết: “Cuộc đời làm Phi-Công gián-điệp với cuộc sống bấp-bênh, vội-vàng, rày đây mai đó như gánh hát xiệc đi lưu diễn khắp nơi nên có bao giờ anh nghĩ đến chuyện nợ duyên…sợ người mình yêu phải dang-dở đời hoa, khi đại bàng chẳng may gãy cánh giữa đường bay”
Bất chợt tôi nghe một tiếng thét lên như trách móc thương yêu trong tuyệt vọng:
“Anh chọn nghề chi lạ rứa...! Sao anh không chọn nghề thầy-giáo cho đở nguy-hiểm”
Tôi thấy gương mặt nàng buồn thiu như hối tiếc một điều gì, tôi bèn dã-lã nói bông đùa:
“Nếu anh chọn nghề dạy học thì đâu có cơ duyên gặp em”
Nàng tiếp: “Anh Mai còn nói…Các Anh sắp đổi công tác và vùng hoạt-động có phải không hỷ”
“Đúng, bọn anh sắp sửa không còn là Phi-Công gián-điệp mà là Phi-Công biệt-kích”
Nàng cau mày: “Thế Phi-công gián-điệp và biệt kích khác nhau ở chỗ nào?”
Tôi chậm rải giải thích cho nàng rõ: “Máy bay gián-điệp luôn-luôn có đặt chất nỗ sẳn trên đó, nếu bị rớt xuống vùng đất có địch, thì phải phá cho nỗ ngay; máy bay không số, không cờ, sơn màu ngụy trang lá rừng, để Phi-cơ ở trên cao ngó xuống không thấy, vì tiệp với núi rừng; Phi-hành đoàn không được mang theo giấy tờ tùy thân; nếu bị địch bắt cũng không nhận mình là người của nước nào; kể cả nước nơi mình sanh ra và lớn lên cũng không nhận mình là công dân của nước họ, không được mang theo thuốc lá của Mỹ, đoàn viên trang bị súng tí-hon 6 ly 35, súng lục và Tiểu-liên 9 ly của Thụy-Điển, cán có thể xếp gọn, hay nói cách khác là không được dùng súng của Mỹ; áo quần Bà-Ba đen đi dép râu hoặc là giày tùy-tiện. Còn Phi-công Biệt-kích là bay trong vòng đất của mình, nên phải mặc quân-phục của Việt-Nam Cộng-Hòa, chỉ có khác bấy nhiêu đó thôi!
Nàng thở dài buồn-bả buông ra lời thều-thào như van xin:
“Hàng đêm em cầu nguyện với Đức Mẹ Maria, xin Mẹ theo dỏi, che-chở các chuyến bay của anh được bình-an yên-lành…bay đến nơi về đến chốn”
Thấy vẽ mặt buồn rười-rượi của nàng, tôi nhanh miệng nói tếu một câu cho bớt đi sự căng-thẳng, “Anh bay trên trời, gần thiên-đàng có gì anh lên trước, thò tay xuống kéo em lên sau…có gì mà em phải lo”
“Xí...anh cứ đùa hoài…lên thiên-đàng bộ dễ…hỷ”
“Anh nói đổi vùng hoạt động…chắc chẳng bao giờ anh trở lại …hỷ”
Tại sao nàng cũng có giác-quan như vậy! Hay là tại anh Mai nói…?
Như muốn cho nàng nuôi hy-vọng, hay ít ra làm cho nàng vơi đi sự suy-tư buồn-bã. Tôi tiếp: “Tuy đổi vùng hoạt-động, nhưng Quận Hương-Hóa nầy là lãnh thổ trong đất nước mình, vẫn còn là vùng hoạt-động của các anh. Đường mòn Hồ-Chí-Minh là trọng điểm mục tiêu phải trinh sát! Không-gian tuy rộng lớn nhưng chi thu nhỏ lai trong tay Phi-công Trực-thăng ma thoi, vi em o dau anh cung dap xuong ngoi ben canh em duoc ma … nang Son Nu Khe Sanh hay tin anh di! Vì các anh đáp đâu lại chẳng được…em lo gì anh không trở lại…chỉ sợ lòng người ngại núi e sông mà thôi”

Mình tự chép miệng nhủ thầm: “Đã đổi được không khí rồi, sắc mặt nàng bắt đầu hồng-hào vui trở lại, yến lên nét nhí-nhảnh thơ-ngây của tuổi còn con gái, nhưng lòng mình lại tiềm ẩn xót-xa nỗi buồn vô hạn.
Như đọc được ý nghĩ của mình:
“Dường như anh có gì đang suy-tư lo-lắng”
Tôi giật mình tỉnh giấc:
“Anh đang lo-lắng cho cuộc hành-quân ngày mai”
Nàng nhanh miệng: “Ngày mai các anh rời nơi đây mà?”
Để che lấp sự sơ hở, tôi tiếp: “Anh đang lo cho cuộc hành-quân sắp tới”
“Anh quá cẩn-thận”
“Không cẩn-thận thì chết cả lủ”
Mình không che dấu được nỗi khổ tâm khi sắp xa nàng vã lại những ngày gần đây mình không ngủ được, nên trên vành trán thường có những vết nhăn đăm-chiêu nhiều tội vạ
Nàng sơn-nử nầy chưa đầy mười tám tuổi, nhưng nàng rất lịch-lảm, tế-nhị hơn dân thành, thấy nét mặt tôi lo buồn nên vỗ-về:
“Mình đi chơi “đôi thác-lác” đi anh”
“À…em liệng trước đi…rồi tới phiên anh liệng sau”
Thỏi đá sỏi bay ra từ tay nàng chạm tưng trên mặt nước lên xuống ba lần, tạo nên ba vòng tròn lan dần ra xa rồi biến mất.
Tôi lấy cục đá-sỏi lớn hơn, rồi lấy đà quăng mạnh…Viên đá-sỏi rơi xuống nước một cái “Tủm” rồi chìm mất
“Anh thua em rồi…Anh không được “Tưng” một cái nào…em ‘đôi’… tưng được ba cái”
Tự-ái bị dồn-dập: “Mình là Phi-công, ăn cơm dưới đất làm việc trên trời, mà không lẽ thua cô sơn-nữ quê mùa nầy”
Thôi mình suy nghĩ ra rồi: “Đây là khoa cơ-học phi-hành, qua định-lý “½@SV2 đây mà”
Tôi bèn cẩn-thận tìm kiếm cho bằng được một viên sỏi-đá mõng dẹp có nhiều diện tích mặt bằng hơn:
“Em coi đây, anh sẽ bắt chước em nì…nì” Tôi lấy đà ‘đôi’ (quăng) thỏi đá-sỏi nó bay trên mặt nước thật xa…nhảy tưng bốn cái trông rất đẹp mắt. Nàng vỗ tay: “Phi-công có khác!”
Lỗ mũi tôi dường như nở ra trong hãnh diện với niềm tự-hào
“À Ni, anh thấy em lúc nầy gầy mà xanh ra…không biết em có bệnh hoạn gì không?
“Không biết sao, lúc nầy hằng đêm em trăn-trở không ngủ được…em nghĩ…chắc tại vì em lo đọc kinh nhiều … lâu …hơn”
“Trong người em cảm thấy ra sao! có gì không?”
Nàng lắc đầu đưa đôi mắt buồn rười-rượi nhìn mong lung trên dòng nước như thầm trách một ai!
Cũng may, như chạy tội, chưa lần nào, từ ngày quen nàng đến nay, tôi chưa bao giờ thổ-lộ lời tỏ-tình với nàng, như vậy là tôi vô tội?! Tôi chỉ xem nàng như một người em gái hậu-phương miền sơn-cước; Có đôi khi tôi tự nhủ: “Ước gì mình không bị ràng buộc” Tư-tưởng nầy bỗng biến mất ngay lập tức. Tôi rất yêu thương đứa con gái đầu long, mỗi lần thi hành xong công tác mission impossible trở về nhà, nó thường đeo theo tôi tâm-sự rối-rít: nào là Má nó cứ rầy la nó hoài, đi chợ không chịu mua chuối chưng bột bán cho nó…bắt nó uống sửa hoài…ăn nho chua quá…chỉ chỏ vào trán nó chưởi: Cá thúi mà rắn xương…v.v.
Tôi phải trở về bổn phận, không được mơ-hoa trăng-bướm; Lại giằng-co trong tư-tưởng thiện-ác đáo đầu:
“Tại sao ngày xưa khi mình được quyền chọn lựa Phi-hành đoàn, mình bày đặt ra cái tiêu chuẩn…phải là Phi-công bạc mạng, sống cuộc sống vội-vàng, không màng đến ngày mai, mà mình lại cứ khăng-khăng khe-khắt với bản thân, phải là người mẫu-mực? Nhưng chính mình đã chọn Nguyễn Minh Vui là con người gương mẫu để thay mình, nếu chẳng may mình gãy cánh giữa đường.
Đây là tư-tưởng đứng-đắn, mình cũng không bao giờ để Vui thi hành những phi-vụ nguy-hiểm vì gánh nặng gia-đình, cố gìn-giữ như món hàng dự-phòng, chỉ dùng khi thật cần thiết
“Cám ơn Thượng-Đế đã ban cho con nhiều nghị-lực sáng-suốt để tránh lầm-lẫn ăn vào trái cấm” với tâm niệm: “Trân-trọng xem nàng như một bảo vật quý-giá, không được đụng đến sẽ vở, mà chỉ để vào lồng kín, để ngắm nhìn, thưởng-thức…mà thôi!”
Hôm qua, anh ra sau hàng rào nhà em, định cho em biết, mốt anh về; anh đang xòe hai bàn tay đưa lên miệng để làm cái loa, vừa lấy hơi định hú em ra, ngay lúc đó Mẹ em lú dạng nơi cửa sau, anh giật mình thắng gấp, báo hại hơi nó đổi hướng đi lên đường mũi…óc, làm anh phải ù chạy ra xa để ho sặc-sụa, khó chịu vì không gặp được em, nên đêm rồi anh trăn-trở không ngủ được.
“Bây chừ, anh răng…đở chưa?”
“Anh được bình thường rồi…không sao”
Tôi âu-yếm xoa tay lên cái kẹp trên mái tóc Ni.
“Sao anh thấy lần nào em cũng cài cái kẹp bông Cúc nầy, để lần sau anh mua cho em cái khác nghe hỷ…em thích nó ra sao”
“Hễ anh thích là em thích…Cũng như anh quên rồi, lần đầu anh gặp em, anh khen: “Em cài cái kẹp bông Cúc trắng nầy đẹp quá! Nên em thường kẹp nó, chớ em có thiếu gì kẹp”
“Hay là lần sau, anh có mua thì mua cho em cái kẹp có hai cái bông Cúc trắng nằm gần khắn khít bên nhau…hỷ, em thích kiểu như rứa”
Nàng nũng-nịu: “Nãy chừ mình đứng hơi mỏi cẳng…thôi mình trở về tảng đá ngồi đi anh…em sẽ cho anh ăn một món ni ngon lắm”
Nghe nói ăn là mình sợ rồi, Tôi đang lo nghĩ vừa rồi nàng cho tôi ăn bánh bột-lọc, rồi đến lần sau cùng là bánh quai-vạc, không biết tại sao mỗi lần ăn nó vào là tôi bị sình bụng, trúng thực bốn mươi tám tiếng đồng-hồ không ăn uống gì được cả.
Cứ mỗi lần xách máy bay ra Quãng-Trị ăn cơm tại nhà hàng lớn nhất, vì chúng tôi đi ăn có một hạ Sỹ-quan Mỹ đi theo để đến quầy trả tiền, thì tội gì mà không kêu những mòn ngon vật-lạ để ăn cho sướng cái miệng; nhưng riêng tôi cứ ngồi chầu rìa ngó các bạn mình ăn ngon lành, thỉnh-thoảng có người đưa mắt ngó tôi mĩm cười. Họ tưởng tôi thất tình nên biếng ăn, biếng ngủ chớ có ai hiểu biết mô-tê gì đâu! Hôm nay tôi nhất quyết phải nói thiệt cho nàng biết, vì cũng đã quen lâu rồi, nên dễ tâm-tình thông-cảm nhau hơn

CÒN TIẾP

vinhtruong
11-07-2011, 04:33 PM
Tôi bèn chậm rải thành-thật thổ-lộ cùng nàng:
“Em ơi…kỳ ni em có nhớ đưa đủa không”
Nàng nhanh-nhẩu, vui-vẽ rút ra từ cái bị đan bằng lác:
“Em đem hai đôi đủa…nì, một cái đọi để đựng nước mắm…một chai nước Mắm…và sáu cái bánh …nì, nhân tôm khô em chấy ra đó”
Thấy nàng dứt lời, Mình mừng thầm chắc nàng quên đem ớt trái, nhưng cho chắc ăn tôi tà-lanh tà-lọt hỏi nàng:
“Bộ lần nầy em quên đem ớt hả”
“Có chứ…nó là gia-vị chính, xí nữa em bẻ trái ớt xanh dầm trong đọi nước mắm…nó cay thơm thanh-thao”.
Tôi nghe chữ thanh-thao mà ớn da gà, nỗi cả da vịt, Tôi in trí nên tỏ bày thành-thật với nàng:
“Anh thú thật chuyện nầy cho Ni nghe hỷ”
Sở dĩ anh nhắc em có đem đủa không là vì: Em lấy tay cầm bánh chấm nhiều nước mắm quá, anh nhắm mắt, nhắm mũi hả-họng cho em đút vào…mặn quá, anh về trại uống không biết bao nhiêu là nước, bột khoai mì nó nở ra làm anh bị sình bụng, no hơi; anh không ăn gì được trong hai ngày trời, đã vậy thỉnh-thoảng em kèm theo miếng ớt xanh gọi là cay thanh-tao gì đâu mà nó cay muốn xé cả ruột gan, bao tử…bây chừ…”
Bỗng Tôi thấy sắc mặt nàng se lại hờn-dỗi, nước mắt trào ra chảy nhanh xuống đôi má,
Tôi hoảng-hồn, hoảng-ví, vũ-trụ trước mắt tôi như sụp tối lại, quờ-quạng, cà-lăm, bập-bẹ…nói đi nói lại những câu vô nghĩa dư thừa
Tôi lắc vai nàng, nàng hất tay tôi ra.
“Em ơi…em ơi, anh phải làm răng đây? Anh không biết phải làm răng…Em bày vẽ cho anh đi?...bi chừ anh phải làm răng…em vẽ cho anh đi…? Không biết sao, hay trời cứu mà tôi nói được những tiếng miền trung cho nàng dễ hiễu!
Tôi tự trách mình: Phi-cơ bị tình trạng khẩn cấp đến đâu, tôi cũng rất bình-tỉnh đối phó, nhưng bên cạnh nàng mình lại mất đi cả bình tỉnh, bấn-loạn…có đúng mình quá yếu đuối trong tình-cảm? Chỉ có anh hùng khi trực diện với kẻ thù… “Chả lẽ mình là một Nã-Phá-Luân thời đại?”
Nàng nhìn tôi đang trong bối cảnh bấn-loạn đến tội nghiệp, tự-ái được xoa dịu trước đối tượng đang tỏ bày sự ăn-năn, hối-hận, nàng gạt nước mắt buông tiếng như để trách móc:
“Em sợ anh dơ tay…nên mới đút cho anh ăn chớ bộ”
Rồi nũng-nịu trong nghẹn-ngào:
“Ai vẽ anh không biết ơn…mà còn trách em ni-tê nữa”
Trong đầu tôi lẩm-bẩm: có suối bên cạnh mà lo gì, lúc nào rửa tay lại không được, nhưng thôi nín khe là vàng …
Sẳn đà nàng càu-nhàu: “Từ ngày quen anh đến chừ…chỉ có em là săn-sóc anh thôi…còn anh thì….”
Tôi cướp lời ngay: “Hôm bửa em “bổ” (té) sưng ống quyển anh cũng…”
Nàng cắt ngang: “Anh chỉ rờ thôi, chớ có thuốc men chi mô”
“Thường-thường người ta nói xoa dịu vết thương…thì anh cũng thoa qua thoa lại chung quanh vết bầm...cho nó tan máu, đỡ đau, chớ chả lẽ đi chơi suối mà đem theo túi cứu thương.
“Thôi lần sau anh chừa…anh không nói gì cả…em biểu anh uống nước mắm, anh
cũng làm theo ý em, về trại anh uống nước đã đời, bể bụng chết bỏ cho em vui lòng”
“Anh làm như là em ác lắm không bằng, em chỉ muốn anh ăn được ngon để khen tài Em nấu…chớ bộ”
Tôi trộm nhìn thấy nàng gạt nước mắt một lần nữa, Tôi yên tâm vui-mừng như người vừa mới trúng số độc-đắc; Người con gái miền sơn-cước nầy quả thật bảo-thủ, quá nhạy cảm, không giống như con gái thành-thị, nàng sơn-nữ nầy tự-hào như muốn khoe tài nội-trợ. À mà cũng là lạ, ở rừng núi mà sao có được những ngón tay búp măng thon-thon đang nhẹ-nhàng mở từng chiếc bánh lá, gói bằng lá chuối rất công phu, tay bẻ đôi trái ớt xanh đưa lên mũi ngữi, nàng vừa gật đầu như thích-thú mùi cay thanh-thanh.
Tôi lặng người nín thinh ái-ngại, không biết mình có chịu nỗi sức cay…sẽ hành-hạ ruột gan…có miệng mà chẳng dám nói nên lời! thật tội nghiệp cho tôi!
“Em làm tỉ-mỉ công-phu quá, Má có thấy không”
“Có chứ, mấy lúc sau nầy, Mạ em theo dỏi em, biết em làm bánh cho anh…người
thông cảm sợ em buồn…nên cũng chẳng nói chi…chỉ nhìn em mĩm cười…đôi khi
còn nhắc-nhở em bỏ đúng gia-vị…như tôm khô phải bỏ ra chấy cho thật nhuyển”
“Kỳ ni em nhớ đem theo đủa, nên có lạt mặn gì tuỳ theo khẩu vị của anh…hỷ! Bánh làm bằng bột gạo ăn dể tiêu, anh yên trí không có sình bụng như mấy lần trước mô
mà lo”
Đúng vậy kỳ nầy tôi mới được an-tâm thưởng-thức:
“Ngon quá em ơi…ngon quá”
Ngồi lâu trên tảng đá không quen, giờ cái bàn tọa cảm thấy ê-ẩm hết cảm giác
“Em ơi…mình xuống suối rửa tay, rồi đi bát bộ cho giản gân”
Tôi dang tay kéo, nàng ngoan-ngoản đứng dậy, tiếng suối chảy róc-rách hòa với nhịp chân người, chậm rải, xào-xạc trên sỏi cát, gợi cho tôi biết bao thanh-thản êm-đềm, quên đi những giây phút nghẹt thở khi thả cũng như bốc Toán về từ trong lòng địch, xa-xa có tiếng chim hót líu-lo với âm thanh thảnh-thót nghe vui tai làm tôi chạnh lòng hồi tưởng đến khóa học Mưu Sinh Thoát Hiểm ở Okinawa: phải tự tìm kiếm lá rừng, trái cây như được in hình trong mỗi lá bài của một bộ bài dày cộm.
“Ở đây có trái Sim tím không…Ni”
“Không anh ạ…chỉ có trái Chùm-Bao và Dâu rừng thôi”
“Đâu mình đi kiếm nó ăn chơi cho biết”
“Đừng ăn nhiều…ăn nhiều anh bị rắc-rối…đi bay không nỗi mô”
Nàng đang tìm được cây dâu rừng đầy trái đỏ-ối
“Ôi chào…chua quá đừng ăn anh!”
“Hèn chi ngoài đời người ta kêu cô Dâu, chứ người ta không kêu cô Chuối hoặc cô Xoài’
“Sao vậy anh”
“Vì cô Dâu nào cũng chanh-chua như nhau”
“Anh nói vậy về sau em đi làm Dâu cũng chanh-chua à”
“Em thì chát chớ không chua”
“Thế chát với chua cái thứ mô…anh thích”
“Anh thích chát hơn vì chát chắc bụng, còn chua dễ đau bụng”
Anh biết không, Chúa Mẹ La-Vang, Quảng Trị ban phước, cũng như thiên-nhiên ưu-đải cho dân làng nầy, vì Chùm-bao và Dâu rừng ăn rất mát và nên thuốc nữa, vào mùa nóng dân làng ngủ dậy thấy nuốt nước miếng đau ở cổ, mà ăn nó vào thì đở ngay, lại nhuận trường nữa, đặc biệt trong mùa nắng nầy đâu đâu cũng có, chúng mọc xen kẻ với bụi rậm. Nhưng Trái nầy là của Chúa cho người trong miền núi của chúng em đó!
Hồi xưa anh đi học khóa mưu sinh thoát hiểm, nhà trường có dạy: “Hễ trái nào hoặc lá nào mà Khỉ và Chim ăn là người ta ăn được.
“Sáng nay em chộ Phi-cơ anh bay ngang nhà em, một chặp sau anh đáp rồi lại cất cánh liền, em nghĩ chắc anh quên cái gì nên về lấy…phải không anh?”
Mình nghĩ thầm: “O nầy theo dõi mình dữ quá, nếu nàng làm vợ mình thì đừng có hòng mà bay với bướm, thiên hạ thường nói, khi yêu người ta hay dõi dấu đường đi nước về, nhưng đây mình bay mà cũng bị theo dõi nữa sao?”
“Hôm qua anh bị Phi-cơ khu-trục Hoa-Kỳ F-100 Super-Sabre đuổi phải về lại không phận của mình, mới vừa đáp xuống Đại-Úy Richarson chạy ra biểu phải cất cánh lại ngay, Toán đang bị một Trung-đoàn Bắc-Việt vây đang kẹt cứng trên đĩnh núi, nếu trễ họ có thể bị bắt sống, cho nên em thấy anh cất cánh là vậy đó”
“Thường-thường, các chuyến bay phải báo-cáo cho Tổng Đài Radar biết phi-vụ…”
“Đài đó nằm ở mô anh”
“Trên núi Khỉ-Sơn-Chà, Đà-Nẳng…người chuyên viên đặc-trách Đài khi phát hiện phi-cơ anh, một chấm trắng trên màn Radar mà không thấy ám số nỗi lên liền liên-lạc phối-hợp để biết nguyên nhân từ đâu xuất phát điểm sáng nầy. Họ hỏi Đệ-thất Hạm-đội, Sư-đoàn-2 Không-quân Hoa-kỳ đặc trách Thái-Bình-Dương và Không-quân Việt-Nam Cộng-Hòa, tất cả đều phủ nhận không có phi-cơ của họ ở vùng đó, theo huấn-lệnh điều hành, họ phải cho Phi-cơ Khu-trục lên nghênh cản, trước tiên họ làm thủ tục ép-buộc phi-cơ lạ phải đáp xuống Phi-trường gần nhất, làm theo thủ tục nghênh cản giao-ước quốc-tế xong, phi-cơ lạ vẫn không chịu đáp, lúc đó họ sẽ bắn hỏa-tiển không-không hủy-diệt.
“Ám số trên màn Radar…là gì anh?”
“Ám số là IFF (Identication Friends and Foes) có nghĩa là xác định Bạn hay Địch, người chuyên viên của Đài sẽ cho mỗi phi-vụ một ám số thứ-tự để dễ bề theo dõi vì trên trời rất có nhiều phi-cơ, phi-vụ của anh rất đặc biệt và bí mật, nên anh được lệnh, lúc cất cánh cũng như lúc về đáp không được báo cáo cho ai cả, trong khi cứ mỗi phi-tuần, sau khi cất cánh phải báo-cáo ngay phi-vụ, lệnh hành quân, số phi tác. Vì lý do đó mà anh bị phi-cơ khu-trục F-100 của mỹ đuổi về, khi trên màn Radar có một đóm sáng nỗi lên, nhưng lại không có ám số hành quân.
Ở dưới buồng hành-khách, anh nghe Ông Duncan xổ một tràng văn tục, rồi thúc-dục anh cứ tiếp-tục, vì nếu chậm trễ sẽ vô cùng nguy-hiểm cho Toán, họ có thể sẽ bị bắt sống hoặc khi đáp bốc Toán, phi-hành-đoàn sẽ bị nguy-khốn”
“Thôi bay về cho khỏe…đi anh!”
“Anh bay nữa mà không chịu quay về, khu-trục cơ sẽ bắn hạ anh ngay, vì họ đã làm tất cả thủ-tục ép-buộc không cản rồi, nếu phi-cơ lạ cứ tiếp tục bay thì họ sẽ bắn phi-tiển hạ ngay.
“Thôi họ bảo về …thì cứ về phức đi cho khỏe…anh”
“Khỏe gì được… đáp xuống, bánh xe chưa ngừng hẳn, thì Đại-úy Richarson chạy đến leo lên cho anh biết, có mật lệnh phải cất cánh ngay, dĩ nhiên hai chiếc F-100 cũng đưọc lệnh biết phi-vụ gián-điệp bí-mật của anh cho nên họ bay thẳng một mạch về căn-cứ Udon ở Thái-Lan.
Thọat đầu, bất chợt anh đưa mắt nhìn qua hướng trái, dưới ánh nắng ban mai ở ngoài biển rọi vào, hai vật loang-loáng sang-sáng phản ảnh ở xa xa…dường như hai vật bằng nhôm lóng-lánh dưới ánh mặt trời. Theo phản-xạ, anh định giảm sức máy, chúi mũi xuống núp dưới thung-lủng, vì trong thâm-tâm anh cứ nghĩ rằng Mig-21; nhưng không kịp rồi, anh thấy thân phi-cơ bằng nhôm óng-ánh chần-dần trước mắt anh, gần đến nỗi anh thấy rõ chữ USAF nơi thân phi-cơ, lúc nầy anh mới yên tâm vì biết rằng phi-cơ F-100 của Không-quân Hoa-kỳ. Cho nên khi anh trở về đáp ở Trại, hai chiếc nầy chào anh bằng cách dùng sức máy tạo ra vượt bức tường âm-thanh, rồi vút về hướng Thái-Lan
“Phi vụ của anh là đi cứu, bốc về cho bằng được Toán Strata đã bị thất lạc hơn hai tháng nay, Toán đang bị một Trung-đoàn lính BV bao vây dưới chân núi và họ đang bị mắc kẹt trên chóp núi không xê-dịch được, ngồi đâu lưng với nhau để tử-thủ. Tin mới nhất nhận được trong đó có một toán-viên thất lạc sau khi đụng địch nên chạy lạc lẩn-quẩn đâu đó, anh không có máy HT1 liên-lạc, mà chỉ có độc nhất tấm vải màu da-cam, còn năm toán viên còn lại thì đóng chốt trên đỉnh núi chờ được cấp-cứu, chân cẳng giày mang đều bị rách bươm, tơi-tả…có vài toán-viên bàn chân bị làm độc, nên đã bị sình thối đến nỗi sanh ra con Giòi lúc-nhúc dưới lòng bàn chân.”
Nhận thức phi-vụ nầy vô cùng nguy-hiểm, anh quyết định bay một mình với Duncan: Tôi bổng nghe một tiếng thét lên như mắng yêu trong tức-tối:
“Sao anh chi lạ rứa…bộ điên rồi hả…rủi anh trúng đạn bị thương rồi ai đem phi-cơ về”
“Em nói có lý, nhưng anh cũng cần phi-cơ thật là nhẹ để dễ bề xoay-xở khi đáp ở trên cao độ trong điều kiện khó-khăn và khẩn-cấp nầy” Anh không muốn chuyện đáng tiếc khi đáp xuống mà không còn đũ sức máy để cất cánh lại, vì ở trường Sơn núi cao mà lại trời nóng rát, không khí quá loản không cho phép anh dể dàng cất cánh lại mà sẽ bị power-settling thì nguy cho cã lũ!
“Trước tiên, nhân lúc phi-cơ còn nhẹ, anh nên tìm cách cứu một toán-viên đơn-độc trước, vì anh ta chỉ có một tấm vải màu đỏ cam duy nhất và lẩn-quẩn ở đâu gần đó, sau khi đụng độ với lính Bắc-Việt, anh ta sơ-ý đánh mất máy truyền tin HT1; anh đang cố liên-lạc với Toán-trưởng Strata thì nghe trong nón bay có tiếng la của Duncan át hẳn các tiếng khác:
“Tôi thấy có chữ SOS trên sườn núi, giữa đám cỏ tranh”
Anh mau-mắn la lên: “Ở đâu…ở đâu?”
Duncan la lớn: “Ở hướng bốn giờ”

CÒN TIẾP

vinhtruong
11-09-2011, 06:43 PM
Anh liền quẹo gắt chúi mũi về bên phải, thấy ngay chữ SOS trước mặt; có lẽ trước đó hắn chui vào đám cỏ tranh rồi chạy vòng thành chữ và dùng dao cắt gốc thành chữ SOS, Anh tăng sức máy phóng tới thì cũng vừa nghe Toán năm người kêu cứu ơi-ới,
Anh dặn họ bình tỉnh đợi anh đi cứu toán-viên thất lạc trước rồi sẽ đón các anh sau
Anh vặn âm thanh vô tuyến nhỏ lại chỉ vừa đủ nghe, dành ưu tiên liên-lạc intertone với Duncan để lo chuyện cứu người, nhưng anh vẫn nghe tiếng la-làng thất thanh của Toán-trưởng báo cáo tọa độ bãi đáp, anh bèn tắt máy vô-tuyến để dễ điều-động
Nàng ngắt lời: “Anh kể em nghe hấp-dẫn quá…nhưng lại càng làm cho em hồi-hộp lo sợ cho tánh mạng của anh…Đêm nào em cũng cầu nguyện vời Đức-Mẹ Maria cho những chuyến bay của anh được bình-an vô-sự trong tay Chúa-Mẹ!”
“Thôi, vậy từ bây chừ trở đi anh không kể chuyện nầy cho em nghe nữa mô…!”
Nàng nài-nỉ: “Anh cứ tiếp-tục kể đi…người càng sợ Ma thì càng thích nghe chuyện Ma”
Vừa bay một vòng thì thấy tấm vải Đỏ hiện rất rõ trên màu xanh của lá rừng, nằm trên một ngọn cây cao nhất ở vùng đó. Anh sà xuống bay thấp sạt qua ngọn cây thì phát hiện có một người đang vẩy tay, đúng ám-hiệu giao-ước trước khi thả, cũng bộ đồ rằn-ri đó trước khi lên Trực-thăng.
Chắc-chắn toán-viên của mình rồi, vì gió giật và cao-độ quá cao, anh phải làm cận tiến thật nhẹ-nhàng…anh rán kềm giữ sức máy hơi cao 2700 vòng/phút, giữ đứng yên một chỗ trên ngọn cây; gió núi xoáy tròn giật mạnh quá làm cho Phi-cơ bị chòng-chành rất khó giữ yên một chỗ; anh bắt đầu thả dây Cáp Cần-trục xuống hối thúc Duncan móc vòng-phao an-toàn vào khớp trục, dây phao bắt đầu chạy xuống, nhưng bỗng dưng nó dỡ-chứng khựng lại, không xuống nữa, anh bấn quá không biết phải giải quyết ra sao, thôi rồi, làm sao cứu hắn ta đây; liền đó, anh nghe có tiếng AK dòn như bắp rang từ bên kia sườn núi có chữ SOS bắn qua, yên tâm…còn lâu đạn AK mới qua tới đây, rồi thình-lình có tiếng AK ở sau đuôi bắn tới nhưng nhịp độ có rời-rạc hơn, vừa cố giữ Phi-cơ đứng yên một chỗ, nhẹ-nhàng từ-từ quay mũi chín mươi độ qua phải để quan-sát địch-tình như thế nào, chúng ở dưới cạnh sườn thẳng-đứng, khó mà leo lên đây dễ-dàng được. Dường như có vài viên đạn trúng vào thân tàu, anh rất có nhiều kinh-nghiệm với âm-thanh đạn xuyên qua thân tàu: “âm-thanh nghe như bánh tráng (đa) bẻ đôi, anh thét lên hối thúc Duncan, “ông nịt dây lưng an-toàn thòng người ra khỏi Phi-cơ đứng trên càng bánh xe…máy cần trục hư rồi…bất cứ giá nào cũng phải đem hắn lên, không nó sẽ bị bắt ngay” Anh bắm nút cắt bỏ dây cáp cần trục để khỏi bị vướn khi cất cánh.
Anh ló đầu ngó ra đã thấy Duncan đứng vững chắc trên càng bánh xe trong vị thế sẳn-sàng. Tiếng AK lại nghe gần hơn, chát-chúa như bắp rang, bên kia Toán năm người cũng phát hiện nên kêu cứu rối-rít…lại thêm vài viên đạn trúng thân tàu nữa, rồi phi-cơ bắt đầu run-rẩy chắc trúng vào cánh quạt chính, mong đừng trúng vào chỗ nhược nơi đầu cánh chạm gió, gió núi bắt đầu giật xoáy tròn Phi-cơ chao đảo rất khó mà kềm giữ cho nó ở yên một chỗ.
Anh tăng sức máy lên 2800 vòng/phút, sức máy càng tăng hắn ta càng bị sức gió đẩy mạnh xuống cho nên hắn càng ôm cứng vào cành cây rồi làm sao mà cứu đây, cánh quạt chính đang cắt ngọt những cành cây nhỏ quanh dưới đó.
Anh thét to… “Duncan, Tôi ấn xuống anh rán kéo hắn lên…O.Kay!”
Bây giờ phải chấp nhận dùng cánh quạt chém những cành cây nhỏ để cứu hắn, Tôi lại ló đầu ra cửa sổ…phải thật chính xác, nhìn hắn đang ôm cành cây lao-chao dưới thân tàu, anh ấn xuống đều tay lái vừa đúng tầm tay của Duncan, lúc nầy anh cảm thấy vô cùng lo-sợ và hồi-hộp…tai nghe những âm thanh các cành cây bị cắt gọn, mắt không dám nhìn vào đó, tâm trí chú ý vào Hắn và Duncan.
Anh đang lẩm-bẩm: Duncan khỏe mạnh thật, hắn ta dang tay kéo hắn lên như xách một con Nhái.
Anh kéo nhẹ phi-cơ lên rồi nhúi mũi cất cánh, trực chỉ bay qua cứu Toán năm người
Bỗng nghe trong nón bay, Duncan la hoảng “hắn chảy máu ở nơi đầu nhiều lắm không biết có sao không, Tôi thấy hắn nhắm mắt nhưng còn thở”
“Ông kiểm soát nơi đầu hắn coi sao kỳ vậy”
“Có lẽ lúc tôi kéo hắn lên mạnh quá nên đầu hắn đụng mạnh vào ổ cần trục cấp-cứu…”
“Không sao…Ông kéo hắn gần lên phía trước mũi Phi-cơ, cho nằm ở đó, trọng lực máy bay sẽ nhẹ bớt, tụi mình đi qua bên kia liền để cứu Toán năm người, O.Kay?”
Anh bắt đầu mở vô tuyến âm thanh lớn hơn, thì đã nghe Toán gào thét ơi-ới
“Chúng tôi đã chuẩn bị bãi đáp rồi, chúng tôi đang thả khói màu Vàng”
Anh hoảng-hốt thét lên: “Đừng, đừng lính Bắc-Việt sẽ thấy…”
“Không sao…vì chúng đã biết chúng tôi ở đây lâu rồi…chúng tôi ngồi đâu lưng với nhau tử-thủ… cố gắng nhanh-nhanh cứu chúng tôi…”
Hắn vừa dứt câu thì anh đã thấy màu khói Vàng bung lên cuộn theo chiều gió trông rất đẹp mắt nhưng không đẹp mắt chút nào trong giờ phút nầy. Anh nhìn xuống mừng thầm và lẩm-bẩm:
“Chắc trời thương thêm một lần nữa!” bây giờ bãi đáp thật lý tưởng, một mõm đá nằm cheo-leo trên đĩnh núi dốc đứng, lính Bắc-Việt muốn bắt họ cũng phải hy-sinh ít nhất một Tieu-đội hoặc hơn thế nữa”
Anh bắt đầu nghe tiếng trung-liên rồi Đại-liên hòa lẫn từ dưới chân núi bắn lên mỗi lúc lại càng tăng cường độ ác-liệt hơn, nhưng anh rất yên tâm vì còn quá xa, đạn không thế nào đến đây được! Thường-thường đáp ở trên núi Phi-công không những rất thận trọng trong tay lái mà còn phải làm cận-tiến thật uyển-chuyển nhẹ-nhàng, ở đây vào lúc nầy anh làm đảo lộn cả sách vở nhà trường dạy. Anh bay ù tới thật nhanh…không từ trên tà-tà xuống mà từ dưới phóng nhanh lên, một cuộc đáp cận-tiến không tiền khoáng hậu, có như thế mới tránh được những tràng đạn của địch, rồi Phi-cơ anh đang lướt trên ngọn cây, trên đầu địch, tai anh nghe thật rõ-ràng tiếng AK dòn như bắp rang dưới cạnh sườn bên kia, trên đà Phi-cơ lướt nhanh, anh phải dùng một động-tác vô cùng nguy-hiểm là “đứng-khựng” (quick-stop) thật nhanh trên không gian, đây là một động-tác vô cùng nguy-hiểm, Trực-thăng có thể bị “trược-nâng” cánh quạt có thể bị gãy và xếp lại thẵng đứng.
“Lại Trời thương một lần nữa…Anh làm động tác “đứng khựng” quá chính xác, liền sau đó anh nhẹ-nhàng gác càng bánh xe lên tảng đá với sức máy tối đa, có một điều thiếu sót là không có Phi-công phụ giúp đỡ để thắng đứng bánh xe khi đáp, chắc có lẽ Trời thương một lần nữa nên Phi-cơ không bị tuột dốc mà chĩ cà nhẹ qua lại trên tãng đá”
Anh đang dùng sức máy tối-đa, không được giữ tình trạng nầy quá một phút, máy sẽ mất năng-xuất vòng máy và cơ nguy sẽ bị rơi; Dường như tiếng AK đang tiến tới gần hơn, Anh ngoáy đầu ra cửa sổ, thấy Duncan đang giúp kéo từng Toán-viên lên…bốn người đã vào Phi-cơ rất khó khăn vì chân cẵng bị sưng phù-thúi, anh thấy người cuối cùng là Toán-trưởng Đèo-Văn-Đức đang nhe hàm răng nhìn lên cười nhăn-nheo như chó mếu.
Tiếng súng đủ loại bắt đầu nổ khắp nơi, anh chúi mũi cất cánh dựa vào các chướng ngại vật thiên-nhiên, e-ấp xạc vào sườn núi với cây cao dày-đặc, ôm-sát những tựa-điểm cũng như những vùng không có dấu vết sinh hoạt của loài người.
Anh vẫn còn trên phần đất địch, cạnh Đông dãy Trường-Sơn, trên đường mòn Hồ-Chí-Minh hướng cận Bắc, tiến về hướng Nam-Đông-Nam, bên trái là Xã Hóa-Sơn, Huyện Minh-Hóa, Tỉnh Quãng-Bình, vùng nầy rất hiểm trở, đồi núi dốc đứng muốn tìm kiếm hoặc rượt bắt Toán không phải dễ. Nơi đây lại có rất nhiều kho báu từ đời Vua Hàm-Nghi được chôn dấu vào những hang-hốc của Rặng Mã-Cú thuộc địa phận Hòa-Sơn trên vĩ tuyến 17
Vừa đáp xuống phi-trường Phú-Bài thì đã có vận-tải cơ C-130 đưa Toán về Nha-Trang, rồi đưa họ ra an-dưỡng trên một Trại nhỏ ở trên đảo Bích-Đầm…đích thân Bác-sĩ Trí săn-sóc cho họ, mỗi bửa chỉ ăn được vài muỗng cháo, mặc dầu rất thèm ăn nhưng Bác-sĩ không cho ăn nhiều. Dù vậy, nhưng đói quá, họ cứ đòi ăn hoài nhưng lại bị cự tuyệt. Một thời gian rất ngắn sau đó, họ phục hồi rất nhanh, lúc nầy họ mới được đưa vào đất liền trở lại với cuộc sống bình thưòng
“Em thấy tội nghiệp họ quá…người ta đói mà không cho người ta ăn ác quá!”
“Bộ em muốn họ chết à, ăn nhiều đứt ruột sao!” Bác-sĩ có lý chớ”
“Nếu giao họ cho em chắc chết ngắt hết, uổng công anh cố gắng trong lằn tên mũi đạn đem họ về.
Cô nàng chỉ biết cười trừ!
“Thôi về anh ơi…đã chiều rồi…sợ Mạ em lo”
“À thôi cũng đã chiều tối rồi, chúng mình về đi em”
Tôi nắm tay nàng đi theo những lối mòn quen thuộc mà ruột gan như đứt từng khúc. Khác hẳn những lần trước chúng tôi nắm tay nhau tung-tăng lượn khúc như hai đứa trẻ vô tư; nhưng khi sắp sửa tới đường cái Quốc-lộ 9. Tôi và nàng ngồi xổm trên lối mòn, gỡ ra những gai mắc-cở, những bông cỏ vướng mắc, phủi những bụi phấn còn luyến tiếc không muốn bay đi trên chiếc váy sắc-tộc Thái-trắng của nàng. Nàng rất ái ngại sợ không tươm-tất, thiên hạ nhìn thấy họ cười, nàng sợ nhất là người ta sẽ mách với Thầy Mạ của nàng, thì nàng sẽ bị một trận đòn thích đáng
Tôi đưa tay kéo nàng đứng dậy để theo ra đường cái về nhà; Như đọc được trong tư-tưởng của tôi.
“Sao hôm nay em thấy anh ít nói và gương mặt buồn vời-vợi…rứa”
Tôi dối lòng, cười khô, giật mình lấy lại bình tỉnh: “Anh đang suy-nghĩ về kế-hoạch và trách nhiệm trong phi-vụ sắp tới, nhưng thực ra linh-tính báo trước, tôi sắp xa nàng không biết bao giờ gặp lại nhưng tôi lại không dám nói sự thật cho nàng biết sợ nàng thất vọng; thà để cho thời gian lắng dần, nàng sẽ nguôi-ngoai, vết thương nào rồi cũng phải lành theo thời gian…

Giữa năm 1964 tôi trở lại Khe-Sanh để tranh tài với phi-vụ không-ảnh giữa phi-cơ thám thính U-2, khu-trục-cơ dọ-thám RF-101 Woodo và Trực-Thăng H-34; hình ảnh sẽ chụp từ Đèo-Mụ-Gịa tới tiền đồn Ben-Het, đặc biệt là bộ chỉ-huy tiền phương Đoàn 559 ở giữa thung lủng Ashau-Aluối mà phía SOQ gọi là Oscar-Eight. (Ðọc giã có thể xem chi tiết cuộc tranh tài bằng Anh ngữ qua đề mục ơ đây: “Queenbee-1 razing a flight of HCM Trail”)
-Phi-cơ dọ thám RF-101 Woodo dưới cao độ 10,000 bộ.
-Phi-cơ Gián-Điệp U-2 bay cao hơn, 10,000 bộ.
-Trực-Thăng H-34 bay kạ-càng trên ngọn cây. (Razed-mode)
Trên đường đến Khe-Sanh, tôi để cho Hảo lái, tôi vặn đài Huế nghe nhạc, lòng vui tươi phơi-phới như mở cờ, chân nhịp theo điệu nhạc trong đài. Tôi tự nhủ thầm: Nàng gặp mình chắc vui mừng lắm, vì đã hai năm dài đằng-đẳng trôi qua, biết bao là nhớ-nhung ray-rứt.
Tôi chụp tay lái bay nhanh hơn, nhưng sợ Hảo buồn nên dã-lã:
“Để tôi bay, anh nghĩ tay một chút”
Trong tâm-tưởng cứ nhớ lại kỷ-niệm nàng thường nói: cứ mỗi lần nghe tiếng máy bay là em hồi-hộp, nhưng khi biết được không phải tiếng máy bay của anh là em lại thở dài buồn-bả, Mạ em hiểu được điều đó nên thường hay an-ủi em; tôi có hỏi gặn nàng; thế tiếng máy bay của anh, em phân biệt ra sao?
Tiếng máy bay của anh, nghe rất dễ thương. Dường như tai của phụ-nữ khác tai của nam giới? Hay tại mình nghe tiếng bành-bạch riết rồi chán?
“Làm sao em phân biệt được không phải là tiếng máy bay của anh?”
“Tiếng máy bay kia nhỏ hơn tiếng máy bay của anh”
“Đúng tiếng máy bay hành-khách bay quá cao nên nhỏ hơn”
Khe-Sanh trước mặt, tôi giữ nguyên sức máy đâm đầu xuống cho nhanh; Cảnh núi đồi quen thuộc vui mắt đang chờn-vờn trước mắt dưới bầu trời trong xanh rất là thơ mộng, không một gợn mây, tôi có thể hình dung sắc mặt vui tươi hớn-hở của nàng khi nghe được âm thanh cánh quạt chặt vào không khi hồn nhiên thanh khiết mơ-màng mà nàng đang hít thở.
Phi-cơ càng xuống gần Khe-Sanh chừng nào, thì nhịp tim của tôi đập nhanh chừng nấy, nếu tình trạng nầy kéo dài, thì nhịp tim của tôi đập quá đà, chắc tôi không còn ở cỏi trần nầy. Như có điều gì khác lạ, mí-mắt tôi giật lia-lịa, khi nhìn thấy dưới đất cảnh vật như có nhiều thay đổi, nhà cửa đâu mất, thay vào đó là cỏ hoang đã mọc lên cao, ngay đến những nền nhà cũng không còn thấy, tôi cố mở to đôi mắt nhìn xuống nền nhà của nàng cũng bị lạc phương hướng, không còn dấu vết nào cả, tôi thầm nghĩ: bây giờ nàng thất lạc ở đâu? Tôi bay thấp một vòng quen thuộc trên nhà nàng cũng chẳng còn dấu vết nào cả. Có phải ánh-nắng mặt trời chói-chan hay sao, nước mắt tôi ứa ra ràn-rụa, bải đáp mờ nhòa trước mắt tôi, tôi đang chao-đảo mất đi sự khôn ngoan bén nhạy
“Hảo…anh cầm tay lái, tập đáp cho quen đễ sau sẽ trở thành IP”
Vừa đáp xong, phi-cơ vẫn còn lăn bánh, chúng tôi đã thấy ngay Thiếu-Tá da màu Thompson đứng đợi tự bao giờ, nơi đây chỉ còn độc nhất có một trại Lực-Lượng Đặc-Biệt nầy mà thôi.
Tôi bung xuống chạy tới hỏi người lính Thượng địa phương, ông cho biết: Chính-quyền chỉ thị phải di cư về Cam-Lộ vì ở đây thiếu an-ninh.
“Họ di-tản bao lâu rồi…?
“Được hai năm rồi”
Thiếu-Tá Thompson cho người ra gọi tôi vào họp gấp
Thompson đứng trước các phóng đồ hành-quân, chào mừng chúng tôi, ông tự hào căn-dặn: “Phương tiện chụp không ảnh của chúng ta không những là dùng máy hình theo kiểu cỗ điển mà còn phải bay thật thấp, những hình ảnh quan trọng nhất là Bộ-Chỉ-Huy Tiền-Phương Oscar-Eight của Đoàn 559” các binh trạm trên đường mòn, công binh xưỡng cũng như Trung tâm Huấn luyện bỗ xung quân số cho chiến trường … Trong khi U-2 và FR-101 đã bay cao mà còn dùng máy ảnh tối-tân gắn cố-định trên phi-cơ.
“Các anh nên thận trọng rán cố-gắng vì không ảnh của chúng ta sẽ rất rõ-ràng và chính xác…họ không thể nào thắng hoặc hơn chúng ta được…Các anh đồng ý?”
“Tất cả đều đồng thanh……Đồng-ý”
Tôi thừa biết đây là một phi-vụ vô cùng nguy-hiểm
Tôi bèn quay qua hỏi Thiếu-Tá Thompson:
“Ở đây có xăng 115/145 không”
Ông cho biết, xe Dodge dưới Quãng-Trị vừa chở lên sáng nay sáu thùng phuy xăng.
Tôi lẩm-bẩm có nghĩa là được một ngàn hai trăm lít, nhưng vì an-toàn mình phải bỏ phần nước nặng nằm ở dưới, như vậy là chỉ xử-dụng được chưa đầy một ngàn lít.
Tôi nhắc-nhở Thompson, số xăng nầy tôi chỉ bay được một chiếc mà thôi.
Thompson mau-mắn trả lời: “Ngày mai sẽ có một đoàn quân xa chở toàn là xăng 115/145 cho riêng ông mà thôi”.
Tôi ra lại bải đáp để đốc thúc chuẩn bị phi-vụ, hôm nay tới phiên Cơ-phi Vàng bay với tôi, vừa ra tới nơi, tôi hối-hả dặn:
“Anh Vàng…anh có bỏ xăng cặn ở dưới đáy thùng chưa”
Hắn ngừng tay bơm xăng, thở hổn-hển trả lời:
“Tôi bỏ gần một phần tư thùng”
“Rán bơm cho đầy nhóc ba bình xăng, hôm nay phi-vụ rất nguy-hiểm, tôi để anh ở nhà, anh lấy cho tôi hai dây nịt bụng an-toàn, một cái cho Master Sergeant, Donald Duncan một cái cho Thiếu-Úy Huỳnh-Thuận-Nhã (sau chuyễn qua Không Quân và chết lúc Pleiku di tãn) thuộc Lực-lượng Đặc-Biệt – “Anh để tôi bơm xăng, anh vào lều nói với Thiếu-Úy Tống Phước Hảo chuẫn bị bãn đồ và hành trang đễ bay copil với tôi vì phi vụ nầy phãi chấp nhận đọ sức với AK, và cũng vì an-toàn cho đoàn viên, tôi không thễ bay một mình như mọi khi, và nhớ đem ra cho tôi 2 máy truyền-tin ti-hon HT-1, tôi muốn đem theo hai máy cho chắc ăn.

Thật vô cùng lãng mạn và yếu đuối, nếu những người bạn mà biết được tâm trạng của mình, họ sẽ khinh-khi và cho mình là anh-hùng Rơm, ai ai cũng vì nước mà quên mình, chớ không ai vì tình mà bỏ mạng; Cảnh cũ còn đây nhưng người xưa đâu rồi chẳng thấy, tự nhiên mình cảm xúc chán đời, nhưng biết đâu có như vậy mình mới đâm ra liều lĩnh, sẽ điên-cuồng dấn sâu vào sào huyệt của địch: Bộ-Chỉ-Huy-Tiền-Phương, Đoàn 559, mà Toán SOG gọi Oscar-Eight, nơi ngày xưa mình bay phi-cơ quan-sát chấm vào tọa độ là Đồn ‘Litôn’ và ‘Tourout’ phải luồn lách oằn-èo trên con suối lớn giữa hai vách núi dựng ngược lên trời…mình sẽ vào một cạm bẩy với đầy dẫy súng phòng không, chạy dài xuống thung-lủng Aluoi, Ashau là nơi tử địa, “Anh hùng tử chí hùng nào tử!”
Cứ mỗi lần cất cánh và hạ cánh lại phải bay qua con suối, nơi hẹn-hò trữ tình của ngày xa xưa ấy, thật những gì trông thấy mà đau đớn lòng, nơi đây núi rừng thiên-nhiên, không-khí trong lành không bụi-bặm nhưng sao tôi mãi dụi mắt? Tôi đau-đớn bùi-ngùi thầm nghĩ: “Tưởng rằng nàng đã mất ta nhưng thật sự ta đã mất nàng!!! Bây giờ nàng phiêu bạt ở nơi mô!?
Có một lần, chính tôi cũng không hiểu nguyên nhân nào tôi tự động đi ra chỗ hẹn như một bóng Ma dáo-dác nhìn trời, rờ-rẫm vào những tảng đá như ôn lại những kỷ niệm đã điêu tàn trước mắt; Tôi thét vang trong rừng, rồi âm vang vọng lại như tiếng kêu cứu tuyệt vọng trên sa-mạc mênh-mông lịm dần trong gió cát, nhưng ngược lại, đó là một lời than-thở nhẹ-nhàng, một lời trách móc gởi đi cho gió. Những kỷ niệm ấy vẫn còn lắng đọng trong tâm-trí của người Phi-công hào-hoa, tiềm-ẩn đầy lãng-mạn, dù buộc phải ngụp lặn trong cuộc chiến triền-miên, như nghe đâu đó trên quê-hương mình, chiến tranh là một điều đáng buồn, là tiếng kêu la hoảng-hốt của cả một dân-tộc chớ không riêng gì cho một Miền Nam.
Tin mới nhất do một người lính Thượng có quen biết về gia-đình nàng, rằng gia đình nàng đã phiêu bạt về Cam-Lộ, rồi sau một thời gian ngắn, gia-đình nàng lại định cư tại xóm Đạo La-Vang.
Ai qua xóm Đạo La-Vang
Thấy cô gái ấy cho tôi biết dùm
Ai qua Xứ Đạo La-Vang
Thấy cô gái nớ cho tôi nhắn cùng!
Chỉ là một tiếng kên la thảm thiết…trống vắng…thất thanh…chết lịm giữa bãi sa-mạc!
Ôi…! Ánh mắt đa tình…vẫn còn dõi bóng giai-nhân!!!

CÒN TIẾP

vinhtruong
11-13-2011, 11:46 PM
Huyền thoại Sơn Nữ Rhade ám-ảnh trên đường tìm cứu A-37 lâm nạn

Thời gian thắm thoát trôi qua khá lâu, nay đã tới tháng giao mùa, gió từ Ðông bắc ngưng thổi xuống để nhường cho gió nồm từ Tây-nam thổi lên; Những cơn gió cực mạnh từ Vịnh Thái-Lan thổi liên tục lên miền cao nguyên Pleiku không đụng một sự ngăn cản nào và dừng lại cạnh sườn Tây của núi Ngọc Linh, ngọn núi cao nhứt của miền nam, rồi bám chặt trên đỉnh như một vành khăn tang đời dời đứng giữa trời than khóc, cũng giống như chân đèo Hải Vân tới mùa gió Ðông-bắc mây luôn bao phủ làm chướng ngại không lưu.
Tuy suy nghỉ trong tư tưởng có mạnh dạn, nhưng khi bay gần tới đĩnh Ngọc Linh, Tôi định thần lại bắt đầu run-sợ, vì ám ảnh nhân cách hoá Ngọc Linh như một cô gái Thượng Rhade, nàng đả từng đập gãy đuôi không biết bao nhiêu Queenbees khi bay ngang qua đây. Tôi lén trộm nhìn lên, bỗng cụm mây lớn vội tách rời đỉnh núi bay xa ra biển, tiếp nối theo những những đám mây Cumulus như những cụm bông gòn rời rạc phiêu bồng trên nền trời xanh thẳm, bay đến vướng mắc vào đỉnh Ngọc Linh như luyến tiếc trong giây lác rồi lơ đảng trôi dạt ra xa… cứ như thế mà tiếp nối như những chiếc khăn trắng vây-vẩy chào đón phi công Tìm cứu, với tâm hồn trong trắng lý tưởng hóa tình yêu, luôn luôn e-ấp thầm kín nhưng trong sáng, cao thượng, khác hẳn với phi công Vận-Mạc “bẽ hoa biến dạng”

Ðã thắm thoát gần 10 năm trôi qua, lần nầy Tôi bay qua đây, không khí nhẹ nhàng mát mẻ, lắt lư thân tàu qua lại như chiếc vỏng, nhìn lên đỉnh núi một lần nữa, lại cũng những cụm mây ngàn bỏ núi bay xa như nàng đã quên chuyện tình dĩ vảng, chiếc khăn tang trên đầu đã vất bỏ, còn lại ve vẩy những chiếc khăn trắng như chào mừng phi hành đoàn cấp cứu phi cơ lâm nạn đang bay ngang qua. Trong nón bay, hình như tôi đang nghe the thé tiếng cô gái Thượng Rhade Ngọc Linh nói bập bẹ tiếng Anh:
“Having a nice day”

Tôi bất chợt hồi tưởng lại ngày xưa, chuyện nầy ai tin thật thì là chuyện thật, còn ai không tin thì cứ cho là một chuyện huyền thoại cũng không sao, riêng chỉ có một số ít sỉ quan cùng ở tại Cư Xá Không Quân Nha Trang thì đều hiểu rỏ câu chuyện gọi là ‘thần-thoại’ nầy:
“Tôi còn nhớ vào đầu Thu 1957, tôi cùng phi công Vận-Mạc, sau hai tuần túc trực hành quân ở Pleiku, hết nhiệm kỳ công-tác chúng tôi trở về hậu cứ Ðà Nẳng, Phi Ðoàn 1 Quan Sát.
Phi trường Pleiku lợp bằng vĩ-sắt đã bị dợn sóng theo thời gian mà lại lên dốc vì thế đất thăng bằng rất hiếm hoi. Vận Mạc cất cánh trước tôi và tôi cất cánh sau niên trưởng tôi một chút; Cất cánh lấy cao độ an-toàn, tôi ấn tay khép vào cánh cản gió và tiếp tục lên cao. Trời Pleiku vào mùa nầy buổi sáng rất trong xanh, vài cơn gió núi nhẹ nhàng đem một ít khí lạnh làm dễ chịu qua một đêm dài co ro dưới mái tôn cư xá độc thân. Nhưng vào khoảng trưa những cụm mây Cumulus được nghi ngờ là cụm bông gòn thơ mộng tự nhiên dở chứng trôi dạt về hướng Ðông-Bắc nhập lại thành đám mây giông khổng lồ hình thù kinh dị như chiếc đe, thay đổi và biến dạng các hình thù quái-đãn, như muốn nuốt trững một cánh chim non chưa đủ lông cánh – Ðây là đám mây Cumulonimbus dị hình tăng trưởng cuồn cuộn theo chìu thẳng đứng, chắc chắn đe dọa những phi cơ mỏng manh như chiếc L-19 và phi công mới ra trường như tôi, với số giờ bay chưa đầy 200, tính luôn cả 40 giờ mới tập bay phi cụ cho thời tiết xấu. Dỉ nhiên chả có con ma hành-khách nào dám thữ thời vận ngồi ỡ ghế sau.
Tôi liên lạc với Vận Mạc để xin hỏi ý kiến về thời tiết vì dù sao Vận Mạc cũng là khóa đàn anh và dĩ nhiên có nhiều giờ bay cũng như kinh nghiệm hơn tôi. Vận Mạc chậm rải đáp: “Tôi đang bay dưới trần mây 3000 bộ” Nghe giọng nói bình tỉnh đàn anh ở đàn trước tôi, như người mở cờ yên trí, cảm nhận mừng thầm “Trời chắc cũng khá không đến nổi gì?” Tiếp theo tôi còn nghe Vận Mạc hút gió bãn ‘Bóng Chiều Xưa’ càng làm tôi thêm tin tưởng. (Ngày xưa ít có phi cơ liên lạc trên trời, nên dân bay đã vi-phạm luật hàng không, đôi khi tìm âm thanh cho đỡ buồn tẽ lạnh)

Thình lình, trước mặt tôi trời tối xầm lại, vủ trụ như có gì thay đổi, có phải đây là khởi điểm của tận thế? Vài hạt mưa đả lấm tấp vổ nhẹ rối mạnh vào kiến trước phòng lái, phi cơ của tôi đang nằm gọn trong móng vuốt của đám mây giông vần vủ tối mịt; vừa mới học bay phi cụ có 40 giờ, nên vừa thấy mây là tôi vừa sợ vừa ớn và dị-ứng run-rẫy, chả thấy nó đẹp đẻ tí nào như nhân thế thường thêu dệt. Phải quyết định ngay, bám đất thì không bị lạc mà trời thì cũng sập tối về chiều, mình có thể gọi phi trường Ðà Nẳng đốt đèn dầu cổ ngỗng (ngày xưa các phi trường đều đốt đèn dầu bằng các thùng thiết hình cổ ngổng) Nhưng phải đáp cho đẹp, vì bánh xe mà đụng cán lên đó thì bỏ mẹ thành barbecue ngay! Tôi không tài nào bay dưới mây, vì trước mặt tôi là cơn mưa giông dưới đám mây cao ngất. Tôi đã bay lên cao 5000 bộ tự hồi nào rồi mà chẵng hay, trước mặt vẩn thấy mây cuồn cuộn bóc lên như cuộn khói bom nguyên tử hình trái nấm, cường độ đám mây bóc quá nhanh đền nổi tôi phải dùng sức máy tối đa 2250 RPM mà chỉ sớt trên chóp mây. Một vùng trên mây chói lòa bởi ánh nắng muộn màn cũa buỗi chiều sắp xế
Xa xa về phía tây bắc một chút, một chóp đụn trắng lú lên báo hiệu đang ở cao độ 6000 bộ, rồi phi cơ được nhấc bỏng lên mau đến độ tôi nhìn lại đồng hồ cao độ thì đả được 11.000 bộ, nhưng ác nghiệt thay thảm mây trắng trước mặt tôi vẩn từ từ dân cao lên không biết chừng nào mới chịu ngưng. Tôi có thể bị chết ngạt trên không gian vì không đủ dưởng khí? Nhưng Tôi không đủ can đãm chui xuống dưới mây vì đây là vùng núi cao nhứt của Miền Nam. Thôi hết lên được, đành tiếp tục bay là là trên chớp mây có đôi lúc phải chui qua vì không còn cách nào khác. Tôi cố kéo nó lên cao thêm nhưng chẳng còn hiệu quả, chiếc phi cơ như ngóc đầu ngoi lên trong tư thế nhưng không đủ sức; Tôi có cãm tưởng như phi cơ cố ngóc đầu lên nhưng lại đứng nguyên tại chổ, như con Hãi-cẫu bị kẹt dưới băng tuyết đang ngóc đầu trên lớp tuyết đễ ngam ngáp thỡ

Tôi gọi kêu ơi ới Vận Mạc để hỏi hang thời tiết mà cũng chẳng thấy anh trả lời. Cứ mỗi lần kêu gọi nhưng không thấy hồi âm, một sự im lặng nở nhẩn tâm soi mói vào màn nhỉ tôi làm tôi có cảm tưởng như sắp chết vì sự yên lặng nghẹt thở! Thôi chết rồi làm sao có đủ dưởng khí đây! Nhìn lại đồng hồ tôi đã ở cao độ 13.500 bộ, phi cơ ỡ vị thế ngóc đầu lên như bị treo cỗ? nhưng người tôi nóng bổng, khô môi, đắng miệng chả thấy lạnh lẻo gì cả; Tôi thất vọng đành nghĩ, cũng phải đợi đến gần phi trường Ðà Nẳng mới có thể liên lạc được, vì còn quá xa. Dù không liên lạc được với Ðài kiễm soát phi trường nhưng tôi vẩn nghe được các phi cơ hành khách xử dụng vô tuyến liên lạc; tôi chĩ còn dựa vào sự liên lạc nầy dù không dính dấp gì với mình như chiếc phao định mệnh duy nhứt đễ bám víu
Vào thời buổi nầy, các ngôn từ liên lạc về phi trường, phi công Việt nam dùng tiếng Pháp để liên lạc với đài kiểm soát; Phi cơ L-19 điều kiện bay phi cụ rất nghèo nàn, chỉ có duy nhứt Radio Compass bằng tín-hiệu ..te te tít tít, thế-thôi không còn phương tiện nào khác. Trên thực tế luật hàng không không cho phép cũng như bảo đảm cho chiếc L-19 bay phi cụ IFR (Instrument Flying Rule) vì nó quá mỏng manh ảnh hưởng sự trôi dạt quá nhiều khi bị gió tạt, ngay đến những lần bay tập phi-cụ tại Nha Trang, gió cũng vừa phải mà phi cơ bay vào đài Radio Compass như con Cua bò xàn ngang

Tôi đang mừng rở vì đài không lưu Ðà Nẳng đã liên lạc được, Tôi đả bay được 1 giờ 20 phút rồi, chả lẽ bay hoài hết xăng sao! Tôi chui xuống mây, mím môi giữ tốc độ 90 kts, may mắn mây nầy dễ thương không giậc nhồi nhiều lắm, vừa phải thôi, Tôi bèn hỏi thẳng bằng tiếng Việt cho dể hiễu chớ chữ nghĩa tiếng tây tiếng u bây giờ nó rối beng rồi. “Anh cho tôi biết trần mây bao nhiêu, trời có tốt hay mây mưa gì không”
Tôi hồi hợp lắng nghe: “Thôi chết rồi anh ơi…trời đang mưa tầm tả, gió lớn giậc từng cơn vì đang có Bão, năng kiến độ (visibility) từ một đến ba dậm. Ðang mưa dầm …
Thình lình, Tôi nghe tiếng Vận Mạc la hoảng thất thanh: “May day! May day… toute les
Avions en l’air, Criquet Bravo Delta …Je suis perdu … je suis perdu … perdu!”
Tôi nghe đài không lưu Ðà Nẳng gọi Bravo-Delta liên tục, nhưng chẳng thấy Vận Mạc trả lời; Tôi đang nghĩ, chắc Vận Mạc vào mây và bị xoáy-vòng? (Spin) không biết anh số phận ra sao?
Tôi đã xuống được 5.000 bộ và dự trù sắp tới trên đỉnh đài Compass, nhưng đài vẩn tiếp tục gọi Vận Mạc liên hồi trong tuyệt vọng; Tôi buộc phải cắt ngang liên lạc ngay với đài: “Anh có nghe tiếng phi cơ tôi ỡ trên đầu anh chưa? Người chuyên viên không lưu của Không Quân VN chạy ra ngoài phòng kiến, ngó quanh quẩn lên vòm trời mây mưa tầm tả, rồi trả lời: “Có nghe tiếng phi cơ L-19 ù ù ở trên trời nhưng không biết hướng nào!
“Anh cho tôi Altimeter setting để tôi biết áp xuất mà điều chỉnh lại đồng hồ cao độ” Altimeter setting 30.02
Tôi bắt đầu lấy hướng 60 độ bay ra biển, xuống dần còn 3.500 bộ được 4 phút rưởi tôi bay quẹo lại lấy hướng 240 độ theo mẫu hình (Pattern-A) lúc nầy là lúc phải căng thẳng thần kinh vì có thể đâm đầu vào núi, như vừa rồi có chuyến DC-3 Dakota Air Việt Nam vừa đâm đầu vào đèo Hải Vân, tất cả hành khách và đoàn viên đều tử nạn. Tôi lẩm bẩm sực nhớ dảy núi Sơn Chà cao 680 bộ; Bây giờ xuống tới 1.200 bộ vẩn không thấy gì, toàn màu mây nước trắng xóa, xuống nữa 900 bộ, con mắt tôi như muốn banh ra mở to thêm nhưng chỉ nghe thấy mây và tiếng mưa đập rào rạc vào thân tàu, trước kiến lái, coi chừng xuống thấp nữa có thể đâm đầu vào ngọn núi-Khỉ Sơn-Chà? Hay tiếp tục cao độ nầy thêm một thời gian nữa mình phải đâm vào núi Sơn-Gà cao hơn khi qua khỏi phi trường Ðà Nẳng mà không biết
Từ lúc bay 180 độ ngược lại có nghĩa là hướng 240 độ được 3 phút, gió giật từ ngoài biễn thổi vào, phi cơ đang lao vào hướng phi trường trên trục gió suôi, khoan xuống nữa phãi giữ yên cao độ nầy. Phi cơ bổng bị một luồng gió hút lên khỏi cao độ 1.000 bộ; Tôi nhẫm bẩm định thần hình-dung tưỡng tượng: gió bảo liên tục từ Ðông Bắc thổi mạnh vào đụng phải sườn núi Sơn Chà nên bóc lên, phi cơ mình cũng lên theo? Có lẻ như vậy nên tôi đẩy mạnh cán-chuổi cần lái về phía trước để xuống đúng theo cao độ 690 bộ… vẩn mây mưa gió giật, đập rì rào thân tàu run-rẩy; Bổng Tôi thấy lờ mờ trước mặt bải biển Tiên-Sa, một bải cát dài trăng trắng. Ôi! Trời mưa gió mà sao mình thấy cảnh bãi cát hiện ra tuyệt đẹp! Nhưng khi lướt qua thành phố lại không tìm thấy được phi trường và những cột antenne cao tầng, mưa cứ như thác đổ, trố lõ mắt nhìn cũng chẳng thấy gì ngoài màu thũy tinh đường chéo của nước, những hạt mưa rơi chéo trên mặt kiến, Tôi cố giữ cao độ cố định 300 bộ hướng 250 độ, vì đã ước tính trước độ giạc, coi như không còn kịp để xin phép khi bay ngang trên nốc đài không lưu. Nhìn được khoãn tróng Parking cũa vĩ-sắt màu đen xi hiện lên trong lớp mưa, tôi chấm cánh trên đỉnh đài quẹo thật gắt 90 độ nhưng mắt dính chặc vào đỉnh đài, để tha hồ cho cánh trái quây tròn trong mưa gió

“Criquet Bravo-Alpha en-vent arrière” Ðài trả lời bảo gọi lại khi quẹo vòng chót
“Criquet Bravo-Alpha en dernière virage” Tôi ra cánh cản và chuẩn bị đáp vào đường phi đạo dưới ánh sáng thoi thóp còn lại qua lớp mưa của buổi chiều xế bóng. Tôi đang thấy lờ mờ một chiếc truck có tấm bãng hình chữ nhựt màu trắng đỏ hình vuông biểu tượng của không lưu, trên đó nhân viên phi trường chạy vòng theo phi đoạo để đốt những chiếc đèn dầu “cổ ngổng” với hy vọng Vận Mạc có thễ về đáp!

Tôi nằm ngũ vùi như khúc gổ, chết lịm gần 20 tiếng đồng hồ không biết trời trăng gì hết. 11 giờ sáng tôi mới cựa mình thức dậy. Tôi lên Bệnh Xá gặp Ðại úy Bác sĩ Húc phi hành, sau khi khám bác sỉ cho biết: “Anh sống được là may mắn lắm vì cơ thể thiếu dưởng khí trầm trọng!” Sự thật Tôi bị kẹt ở trên cao 13.200 bộ khá lâu


Thình lình, chiếc UH-1 bị downdraft giựt mạnh xuống quây ngang qua phãi, đưa tôi trở về thực tại, chúng tôi sắp bay vào vùng khuấy động của những luồng gió xoáy như vùng Vạn-Giả, Tuy Hòa có ngọn núi “Mẹ bồng Con” sao trông dễ thương hiền hòa, còn nơi đây dường như có những luồng kim cô, ám khí oan nghiệt. Trên đỉnh Ngọc Linh, rừng cây cổ thụ cao ngất trời, giống như đầu một cô gái với mái tóc xanh, đang ngóng cổ chờ mong chàng trai ‘con-trời’ đã nở quên đi lời hẹn ước. Nơi đây, cụm mây trắng luôn luôn bủa vây trên đỉnh như chiếc khăn tang trồng lên đầu Sơn nử Ngọc linh, như chôn chặc một mối tình tuyệt vọng, nàng đang dỏi mắt nhìn xuống thung lủng, cạnh sườn đồi mà trước đây ‘con-trời’ Vận Mạc từ trên không trung đâm xuống bắn văng vào mái nhà tranh ngoài bìa, cánh trái nằm lại nơi đó phát hỏa thiêu rụi trọn vẹn căn nhà, còn trớn quay tròn xuống gảy thêm một cánh phải thiêu đốt căn nhà thứ hai, thân tàu còn trớn tuôn xuống đám rừng chồi rồi mới chịu nằm yên bên bờ Suối cạn. Vận Mạc trong thế ngồi bị treo ngược bất tỉnh trên ghế lái, máu me vẩn ứa ra từ những vết thương có lẽ bị kiến phi cơ cắt đứt; Cả Sóc Thượng chạy đến cứu, họ cho là ‘con trời’ từ trên trời tìm xuống để giúp người ở Sóc làng nầy. Ông trưởng Sóc bèn dành riêng cho đứa gái cháu ngoại của ông săn sóc người ‘con trời’ trong khi những đứa con gái khác trong Sóc không được đụng đến, không được lai vảng chung quanh nhà của Sóc trưởng. Nàng Rhadé vâng lời ông ngoại ngày ngày vào rừng sâu hái nhũng lá thuốc như tổ tiên đã truyền từ đời nầy qua đời sau, gùi đầy ấp sau lưng khệ nệ khòm lưng vác về nấu trên bếp lửa ở cuối dãy chòi tranh; Nàng xoa bóp rồi đấp vào những vết thương nơi mặt, nơi cổ, nơi háng và bụng bị nhánh cây sóc đâm vào. Thoạt tiên, nàng không thương mà cũng không ghét chỉ làm bổn phận vì nghe lời ông ngoại dặn và chăm sóc người bịnh là chuyện bình thường, cũng như có lắm khi nàng cũng săn sóc những người hàng xóm khi họ cần sự giúp đở cũa nàng
Ðã một ngày trôi qua mà ‘con trời’ Vận Mạc chưa tỉnh, đôi mắt cứ nhắm nghiền làm cho nàng Rhadé lo sợ cứ chạy tìm ông ngoại hỏi-han ý kiến; ông trưởng Sóc cũng giải nghĩa không sao còn thở là còn sống, nhưng ông dặn rất kỷ phải tìm cho đủ và được những lá rừng rất quý-hiếm mà ông đã nhắc nhở nhiều lần, đấp ủ vào vết thương. Sở dỉ Rhadé lo lắng là đã nấu cháo gạo trộn với bắp xong rồi mà người không tỉnh thì làm sao ăn được để có sức tịnh dưởng. Nàng tò mò quan sát nhìn kỷ con người mà ông ngoại nàng cho rằng ‘con trời’ thấy cũng đẹp trai hơn các anh ở chung làng-sóc, nhưng tại sao không có cà răng, căng tai, như vậy đâu có nghị lực, anh hùng? Nhưng môi trên người vảnh lên như có vết thẹo cổ-hửu bẫm sinh, chĩ dấu là lời phán ra là của ông Vua, ông Chúa! Hèn gì ông ngoại mình nói là ‘con trời’ là đúng rồi chớ còn gì nữa? Chiếc áo niên trưởng tôi đã thề và rất ‘cử’ như không bao giờ dám giặc nó từ ngày lảnh nó ra trong nhà kho, màu kaki với dầu mở dính muôn đời vào đó không biết từ thập niên nào. Nhưng Vận Mạc nằm im-lìm từ đó tới giờ; mổi ngày nàng Rhadé ngửi riết cũng quen, mùi máu khô trộn lẩn với mùi xăng dầu, khi quen, thấy thương rồi thì nàng xem như nó là mùi đặc biệt từ trên trời mới có, khác hơn mùi những anh ỡ trong Sóc sao mà thấy mùi khét lẹt
Tự nhiên nàng đỏ mặt, sực nhớ lại hồi nảy khi xoa đấp vết thương nơi bụng và háng, ngó quanh quẩn không có ai, nàng lần mò kéo nhẹ dây kéo xuống hết phía dưới cùng, rồi lắm-lét nhìn phần kín của Vận Mạc. Nàng đỏ mặt nghĩ thầm: “Con trời phần dưới có khác…lông mướt và nhờ gió nhiều nên rạp xuống hai bên, không giống như những anh trai làng…cọng cứng khô như rể Tre gai… lưa thưa cách mấy ‘gạc’ mới có một sợi, còn phần kia của ‘con trời’ xem ghồ-ghề hấp dẩn thấy rỏ…còn các anh của làng mình như đầu con Lươn thấy mà ghê!

Thấm thoát mà đã qua một tuần rồi, nàng dẩn chàng ra Suối tắm, nếu người thành thị đi ngang qua đây cũng có thể lầm Vận Mạc là một trai làng vậm vở cao to nếu đừng cười, và đang mặc một chiếc khố mà ông ngoại nàng mới cho hồi sáng. Dù rằng hai người liên hệ với nhau qua những cử chỉ ra dấu, chỉ chỏ, nhưng họ rất hiểu nhau hơn chúng ta nghĩ; Nàng Rhadé luôn luôn sợ chàng đói bụng nên thỉnh thoảng chỉ vào bụng chàng, rồi nàng cười nhai lên nhai xuống bằng hai cái hàng nướu răng chạm vào nhau, còn tay kia chỉ vào miệng. Ðó là những cử chỉ hiền hòa và nụ cười hiền hậu của cô gái Thượng sợ người mình thương bị đói; Tiếng nói đầu môi chót lưởi sao bằng ánh mắt người sơn nử mộc mạc ngay ngô, như hàm nghĩ bằng cả ngàn câu nói yêu thương, Vận Mạc với tuổi đời chửng chạc chắc đã hiểu tình cảm của nàng đối với mình như thế nào. Nàng không thể nào quên được những nụ cười khúc khích khi vung nước lên mặt chàng, biết bao là hạnh phúc đâu cần nói ra trong những muổn cháo đầu tiên ngọt ngào trong ánh mắt trìu mến của nàng, mà chàng đành lòng quên được sao! Những lần vuốt tay lên má nàng như tỏ bày sự biết ơn cứu tử đã làm cho nàng đê mê nhắm nghiền đôi mắt ước mơ một tương lai hạnh phúc tràn đầy. Tai nàng nghe được tiếng cười của chàng để hiểu được chàng đang sung sướng bên mình. Nàng thường nguyện cầu như muốn ôm ấp những cảnh yêu thương đó đừng mất đi trong kỹ ức cũa nàng

Ðã lâu lắm rồi, từ ngày phi công Vận Mạc mất tích ỡ vùng nầy, hơn nữa tháng sau, Phi đoàn 1 Quan Sát chúng tôi được tin Vận Mạc đã được đồng bào Miền Thượng cứu và đem về một tiền đồn miệt cực Bắc của Tỉnh KonTum, tình trạng sức khỏe được coi là tốt. Giòng đời vẩn như thế bình thản trôi dần với cuộc chiến không có gì là sôi động cho lắm, thế nhưng vào giữa năm 1961, Vận Mạc bổng ra Qui Nhơn cưới một cô giáo làm vợ. Nàng Rhadé nổi điên lồng lộng, câm ghét cho con người tráo trở phụ bạc, vong ơn cứu tử; Thế rồi những năm sau đó, căn nhà Vận Mạc ở cư xá Sỉ quan Không quân Nha-trang, nhiều đồng bào Miền Thượng hiền hòa tốt bụng luôn luôn cố tình giúp đở cho sự bình phục cho Vận Mạc, nhưng bịnh tình mỗi ngày một thêm trầm trọng. Nàng đã ‘thư’ – nói theo ý nàng là gỡi vào trong bụng-dạ chàng những kỷ vật đã chứng kiến cho mối tình thầm kín của nàng sơn cước và con trời bằng những viên sỏi của dòng Suối mơ và một ít sình lầy dưới sàn nhà đã chứng minh cho sự trao thân gởi phận cho chàng. Những thứ nầy chỉ có Thầy ở vùng núi Ngọc Linh mới giải được, nhưng nơi ấy núi quá cao và không có chổ cho trực thăng đáp; Hy vọng một ngày nào đó nàng nguôi giận, vì tình yêu chân thành lúc nào cũng rộng lượng. Ðối với nàng “Yêu là cho và tha thứ”
Vài năm sau, những kỷ vật chứng minh mối tình thầm kín dưới sàn nhà, nơi ông ngoại nàng nuôi nhiều súc vật là ‘bùn đất’ nơi đó và vài thỏi ‘đá-sạn’, vật chứng minh bên bờ Suối đã lần lượt ra khỏi cơ thể của Vận Mạc theo sự rộng lượng buông tha của nàng. Ước mong trong cuộc chiến tàn khốc như thế nầy, phi hành đoàn trực thăng đã gục ngả quá nhiều trên Bốn vùng chiến thuật, riêng nàng sơn nữ Ngọc Linh thôi ngưng ngay những hờn câm vạ lây vào Phi đội Thần Phong của tôi. Liền sau đó, tôi nghe trong nón bay như văng vẳng tiếng người con gái Thượng đang nghẹn ngào phân trần: “Vận Mạc bây giờ là phi công trực thăng, cũng ‘cá-mè’ một lứa chớ bộ” tôi tái mặt bồi hồi trong suy gẫm! rôi bối rối lo lắng; vì tôi sắp sửa bay ngang trước mắt nàng. “Nàng có biết, cứ mỗi lần bay ngang qua đây, nước mắt tôi bổng ứa ra ràn-rụa, phải hồi tưởng đến Khôi, Huệ, Hùng, Long, Tùng, Lành, Vàng …và người Trưởng toán Cơ-phi tài giỏi nhứt là ‘Mai’ phải bỏ mạng dưới con mắt của nàng… hổ thẹn thay từ ngày cuộc chiến đến nay Phi đội của tôi chưa đoàn viên nào bị chết vì đạn thù dù rằng có lần bị trúng đến 88 lổ đạn vẩn an toàn về lại hậu cứ, mà chỉ chết chung quanh vùng nầy trước mắt nàng bên ngọn núi Ngọc Linh. Nếu như nàng không ngưng tay bẻ gảy chiếc trực thăng, chúng tôi sẽ đặt tên nàng như một “Tam giác Quỷ” của Việt Nam, sau cái tên “Tam giác Quỷ” ở bên kia bờ Ðại Tây Dương. Hôm qua, lại thêm một lần nữa, một chiếc A-37 đâm đầu xuống vùng nầy và trước đó biết bao nhiêu chiếc trực thăng khác trong phi đội của tôi đả bị nàng bẻ gảy cánh đuôi; phi công và hành khách bay văng ra tơi tả. Hôm nay, với chiếc UH-1 cánh đuôi rất mỏng manh nhưng tôi không sợ nàng, nếu nàng dám chấp nhận cái tên Tam giác Quỷ. Tuy trong tư tưởng suy nghĩ có mạnh dạng dứt khoát, nhưng trong tâm tôi vẩn không yên, sợ hải bởi cánh quạt đuôi nầy quá mỏng manh hơn H-34 rất nhiều; Nàng đã cướp mất của tôi những phi công tài ba và tự hào giỏi nhứt trên thế giới. Thiếu tá Scotty Crerar thuộc Căn cứ tiền phương của đơn vị biệt kích SOG đã tuyên bố với phóng viên chiến trường: “Họ là những phi công gan dạ, không sợ chết, Họ đã đáp vào trong sào huyệt Ðoàn 559 để cứu thoát hàng chục người biệt kích Mỹ thuộc đơn vị SOG. Họ là những phi công Cow-Boy QueenBee, như đã đem cái phao từ dưới lòng đại dương trồi lên mặt biển trong đêm tối để cứu những người bị chìm tàu đang sặc sụa chờ chết trên biển cả; Có chiếc đã lảnh nhửng 88 vết AK nhưng vẩn đem tàu về vùng an toàn, cứu được nguyên Toán thám sát, giành giựt từ trong tầm tay địch. Nàng có hiểu rằng, Tôi đang đi tìm cứu hai người trên chiếc A-37 mà theo tôi nghĩ là nàng đã ám hại hôm qua. Giờ đây Tôi nhìn thẳng vào nàng, Tôi không còn lắm lét sợ nàng như những lần trước bay ngang đây. Gạt nước mắt khóc bạn, thương tiếc những cánh chim đã vĩnh viển nằm xuống nơi đây, để tìm thấy những gì nằm dưới, một Ðại úy phi công A-37 và một Chuẩn tướng chưa kịp mang cấp bực, nếu nàng cãm thấy hối cải thì hảy mau chỉ cho tôi biết hai chiếc Dù ở đâu, đám lửa, khói hoặc cây rừng ngã rạp giúp tôi cứu người.
Có lẻ nàng quá xấu hổ nên làm thinh; Tôi không phát hiện gì lạ ở dưới, đâu đâu cũng chĩ là rừng núi bạt ngàn
Từ 1970 đến mãi về sau, mặc dù chiến tranh trở nên rất tàn khốc nhưng không có phi cơ quân sự nào bị rớt ở vùng nầy; Tuy thỉnh thoảng nàng sực nhớ lại chuyện tình bạc bẻo của ngày xa xưa, nên đôi khi bực mình quậy bao cơn gió bảo giật mạnh làm cho hành khách của phi cơ dân sự, trước khi xuống phi trường Ðà Nẳng phải ói mửa chút đỉnh cho dịu bớt cơn thịnh nộ của nàng, nhưng không còn quật ngã bất cứ một chiếc phi cơ nào nữa.

HẾT RỒI

TRUONG VAN VINH

vinhtruong
09-06-2013, 11:11 PM
Các bạn đang chạy Moto trên con đường xa lộ HCM mà Queenbee-1, cách đây nữa thế kĩ đã bay lướt qua trên đó … qua như Video dưới đây:


Ho Chi Minh Hwy Heaven - YouTube

www.youtube.com/watch?v=ycKVnefleyg

Skull & Bones cay-cú với tác giả “The New Legion” vì đã dám cả gan tiết lộ bí mật những gì phải đợi USIA cho phép như dám đặt tên là “Xa-lộ Harriman” người thủ lảnh Skull & Bones 322, và “Skull & Bones chọn ngày Quốc Khánh 30/4 cho VN”

-Vietnam War (Book 2010) - Barnes & Noble
http://www.barnesandnoble.com/w/viet...022149605?ean=...
In addition to the Harriman's Highway [Ho chi Minh Trail] ... Excerpted from VIETNAM-WAR by Vinh Truong Copyright © 2010 by Vinh Truong. Excerpted by permission

-“Skull & Bones chọn ngày Quốc Khánh 30/4 cho VN” (phải đợi Mỹ ra Nghị QuyếtSJ454)

Trên báo giấy cũng như các diển đàn đang xảy ra vụ đôi co quyết liệt về Nghị quyết lưởng viện do thượng nghị viện khởi xướng số 455. Chỉ định ngày 30/4 năm 2013 và những năm kế tiếp là "Ngày Ghi Nhớ Nam VN" (South Vietnamese Recognition Day) qua nghị quyết SJ455. Tất cả mũi dùi đều châu vế tấn công oan uổng Học giả Nguyễn Ngọc Bích
Monday, April 29, 2013
Thư Thượng Nghị Sĩ Black Giải Thích Về Nghi Quyết SJ454
THƯ THƯỢNG NGHỊ SĨ BLACK
GIẢI THÍCH VỀ NGHỊ QUYẾT SJ455

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Thưa Ông Nguyễn:

Cám ơn Ông đã gửi cho tôi điện-thư về nghị-quyết mà tôi đã thảo ra và đưa ra khóa năm nay, 2013, để cho Đại-nghị-viện Virginia thông qua. Nghị-quyết đặt ra lệ là kể từ nay, ngày 30 tháng 4 sẽ được đánh dấu như Ngày Việt Nam Cộng Hòa ở Virginia. Nghị-quyết đó đã được đồng-thanh biểu quyết ở Thượng-viện và chỉ có một phiếu chống trong số 100 dân-biểu ở Hạ-viện.

Tôi viết nghị-quyết trên là để tạo ra một văn-bản lịch-sử chính-xác và vĩnh viễn về sự can trường của người Nam Việt Nam đã chiến-đấu chống bạo-quyền Cộng-sản. Nghị-quyết ghi lại cái dã man ác độc của bọn đồ tể đã cưỡng-chiếm được miền Nam. Nó nêu ra chuyện hai triệu người đã bỏ trốn khỏi "Thiên-đàng Nhân-dân" của tên độc-tài khát máu Hồ Chí Minh. Nó kể lại chuyện những quân-nhu quân-cụ bị cắt đứt, làm cho những chiến-binh anh-dũng của Quân-lực VNCH đã không còn đạn dược để tiếp-tục chiến-đấu, và chuyện hơn một triệu người vô tội đã bị gởi đi đến các trại tập trung, nơi dây khoảng 1/3 số người trong đó đã chết.

Hiệp-hội Thương mại Á-châu đã mời một nhóm cựu-quân-nhân và cựu-cảnh-sát VNCH đến văn-phòng của tôi để bàn thảo cái nghị-quyết và đảm bảo là nó chính-xác. Tôi biết ơn Ông Tính Phan, Chủ-tịch, và Bà Mỹ-Lan Trần, Giám-đốc Điều hành của Hiệp-hội, đã đứng ra tổ-chức buổi gặp gỡ đó. Tôi cũng biết ơn Ông Nguyễn Ngọc Bích, Chủ-tịch Ban Điều-hợp Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ, là đã đóng vai trò hướng-dẫn trong cộng-đồng người Mỹ gốc Việt, cũng như Thượng-nghị-sĩ Toddy Puller và các Dân-biểu Mark Keam và Bob Marshall, mỗi một vị này đã có một vai trò đặc-biệt trong việc biến nghị-quyết thành hiện-thực.

Chúng tôi đang dịch nghị-quyết sang tiếng Việt, và tôi mong rằng nghị-quyết này sẽ vào được tận Việt-nam hiện đang bị [CS] chiếm đóng. Nhân-dân Việt-nam đáng được biết là Tiểu-bang Virginia công-nhận sự can trường của người miền Nam VN trong chiến-đấu và rằng những hy-sinh của họ sẽ không bị lãng quên.

Là một phi-công, tôi đã chuyên chở hàng trăm binh-sĩ VNCH đi vào chiến-trường. Như một sĩ-quan bộ-binh thuộc Trung-đoàn 1 TQLC Mỹ, tôi đã tham-dự nhiều trận chiến dưới đất vai kề vai với các binh sĩ VNCH anh-dũng. Trước khi rời VN, tôi bị thương trong một trận ở sông Hội An, ở phía nam Đà Nẵng. Tôi hy-vọng là những người con, trai cũng như gái, của những anh-hùng đã chiến-đấu để bảo vệ tự do của Việt-nam Cộng-hòa sẽ học được sự thật khi nghị-quyết này về đến tận Việt-nam đang bị [CS] chiếm đóng cũng như đi ra khắp thế-giới.

Thân kính,

[ký tên]

Richard H. Black gởi cho Nguyễn Ngọc Bích
Thượng-nghị-sĩ Virginia, đơn-vị 13

vinhtruong
09-13-2013, 03:33 PM
Ngày xưa Queenbee-1 bay lướt qua chụp ảnh bằng máy Canon, bởi thượng sĩ Donald Duncan và chuẩn úy Nhả đeo lủng lẳng nơi càng bánh xe (trung tá KQ Huỳnh Thuận Nhả, chết khi rút bỏ Pleiku) tranh tài không ảnh cùng với U-2 và RF-101 Woodoo có máy ảnh tối tân cố định, ngày nay CIA chạy motor bicycle kiểm lại theo nguyên tắc làm ăn của CIA (biết thêm chi tiết click link dưới đây)

Queenbee-1 over "Saigon" Trail - Hội Ngộ Nha Kỹ Thuật & Phi ...
219squadron.blogspot.com/2010/02/kingbee-over-trail.html
2010-02-02 • ... we plunged over ‘razing-mode- flight’ along HCM Trail and a foremost is snap-shot over ... [Ho Chi Minh Trail] ... 12.Trương Vinh Queenbee ...



Motorbiking the Ho Chi Minh Highway, Vietnam - YouTube

www.youtube.com/watch?v=u1zb8lumelg


Ho Chi Minh Highway Vietnam - YouTube

www.youtube.com/watch?v=Byru3CnvwI4