PDA

View Full Version : Thời-điểm Mỹ cần quật-mồ cuộc chiến VN



vinhtruong
10-07-2011, 04:53 PM
Lần đầu tiên trong lịch sử của Trung Ương Tình Báo Hoa Kỳ (CIA), ban biên tập của CIA cho giải mật hai tập tài liệu quan trọng về mối liên hệ giữa CIA và Việt Nam Trong nhiều năm qua, CIA - theo luật bắt buộc- đã giải mật nhiều tài liệu quan trọng, thí dụ như hơn 1.000 trang phân tích và ước lượng về chiến tranh Việt Nam (Estimative Products on Vietnam, 1948-1975, National Intelligence Council, 2005). Vì vậy, sau 20 năm nghiên cứu trong thư-viện, tôi cho ra (2 Volume) tác-phẫm Vietnam War, “The New Legion” - lần đầu tiên” trong nghĩa này là hai quyển sách trên thuộc loại sử kể (narrative history) có đầu đuôi, chú thích - và quan trọng hơn hết - tác giả là người thật, tham dự hầu hết các cuộc hành quân từ Cambodia, qua Lào cùng bay xa đến vĩ tuyến 18, kể cã phía tây dãy Trường sơn cùng các hải đảo biển đông, vì là một phi công gián điệp được cơ quan SEAL và Delta Force trắc nghiệm và tuyễn chọn.. Ðọc nhiều tài liệu và viết lại có ngọn ngành cho đọc giả, đa số những tài liệu giải mật của CIA trước đây thuộc loại nặc danh vì lý do nghiệp vụ tình báo, hay là những tường trình do nhân viên báo cáo về để “kính tường.”
Nhờ dựa vào được Center for the Study of Intelligence giải mật cho ra công chúng trong dạng một quyển sách (Center for the Study of Intelligence là nhà in riêng của CIA) Theo lời giới thiệu trong sách, quyển CIA and the Generals (CIA & Generals) được hoàn tất tháng 10-1998; và CIA and the House of Ngo (CIA & Ngo) viết xong tháng 6-2000. Hai quyển này được đưa lên web site của Center for the Study of Intelligence vào đầu tháng 3-2009, với dấu mộc ghi “APPROVED FOR RELEASE DATE 19-Feb-2009.” (Được phép đưa ra Công cộng, ngày 19 tháng 2-2009 theo hiến định)
CIA and the House of Ngo: Covert Action in South Vietnam, 1954-1963 (CIA và Những Điệp Vụ Mật ở Miền Nam, 1954-1963, TT Diệm phải ngồi chung với CBCS mà không hay biết) nói về những hoạt động bên trong để giúp đỡ chánh phủ Ngô Đình Diệm, từ ngày ông Diệm về làm thủ tướng cho đến ngày tổng thống Diệm bị hạ sát trong cuộc cách mạng 1 tháng 11-1963. Qua tài liệu này, lần đầu tiên chúng ta biết được, từ năm 1950 cho đến năm 1956, CIA có hai Sở tình báo ở Sài Gòn: một Sở CIA Saigon Station nằm dưới sự điều khiển thông thường từ bản doanh CIA ở Langley, Virginia; Sở kia, có tên là Saigon Military Mission, làm việc trực tiếp, và chỉ trả lời cho Giám Đốc Trung Ương Tình Báo. Saigon Military Mission, theo tài liệu Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) được giải mật trước đây, do đại tá Edward G. Lansdale chỉ huy.
Lansdale đến Sài Gòn tháng 6-1954 với hai nhiệm vụ: huấn luyện những toán tình báo Việt Nam để gài lại ở miền Bắc trước ngày “di cư và tập kết” hết hạn; và, dùng mọi phương tiện ngầm (covert action) để giúp tân thủ tướng Ngô Đình Diệm.
Theo tác giả Thomas L. Aherns, chính Giám Đốc CIA Allen Dulles chỉ định đại tá Lansdale cho điệp vụ ở Sài Gòn - và cũng ra lệnh Lansdale làm việc trực tiếp cho ông; Tác giả Ahern viết, CIA có mặt từ năm 1950 để giúp đỡ quân đội Pháp xâm nhập và thu thập tin tức tình báo. Nhưng từ cuối năm 1953, khi thấy tình hình quân sự nguy ngập của Pháp theo dự mưu của Tam Ðầu Chế (WA Harriman, Pres. Bush, Lovett) Sau khi OSS biến cãi thành CIA 1947 với mục tiêu: Mao giúp Việt Minh chiến thắng Ðiện Biên Phủ (dưới đất) còn Liên Xô giúp Hà Nội chiến thắng Ðiện Biên Phủ (trên không) theo đúng sách lược toàn cầu của Mỹ. Hoa Thịnh Đốn thay đổi nhiệm vụ của CIA Saigon Station: Liên lạc và thu thập tình báo những thành phần có tinh thần quốc gia yêu nước để lập một chánh thể chống cộng trong trường hợp Hoa Kỳ thay thế Pháp (qua truyền thông báo chí và tin đồn: “Khi nào Lúa mọc trên Chì, Voi đi trên giấy, thầy tăng lại về”. Ý muốn nói thầy tăng là thằng Tây lại về, là thằng Tây về xứ thì thằng Mỹ vào thế viện trợ thay các đồng Xu bằng Chì có hình bó Lúa và tờ giấy bạc con Voi) Cùng lúc Hoa Thịnh Đốn gởi thêm một toán CIA để lo về quân sự là Saigon Military Mission (tác giả Ahern chú thêm, trong các công điện của CIA, Saigon Military Mission đôi khi được ghi là Saigon Military Station)
Một vài tiết lộ khác trong sách của Ahern: CIA “bắt liên lạc” được với những nhân vật quan trọng như Trần Chánh Thành, Trần Trung Dung, Trần Quốc Bửu. Và ít hay nhiều, CIA có thể nhìn vào nội tình của Nhà Ngô qua những tin tức do những nhân vật trên cung cấp. Trong cuộc tranh chấp-rồi sau đó là giao chiến giữa chánh phủ Diệm và quân phiến loạn Bình Xuyên, CIA biết được hầu hết kế hoạch và khả năng của Bình Xuyên, nhờ một cận thần của Bảy Viễn đang làm việc cho CIA, và Lansdale móc nối được với Tướng Trịnh Minh Thế. Rồi Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, một đảng chánh trị thành lập để hổ trợ chánh phủ Diệm, nhận tiền Ðôla và cố vấn từ CIA. Nhưng đến đầu năm 1960 khai-triển sách lược Commando Vaught thì CIA cắt ngân khoản vì cơ cấu nhân sự không còn hữu hiệu trong công tác tuyên truyền. CIA kiếm chuyện than phiền nhiều lần về những hoạt động của Đảng Cần Lao và hành vi của ông Ngô Đình Cẩn. Nhưng mỗi lần CIA than phiền với ông Nhu về những hoạt động bí mật - đôi khi trái phép - của ông Cẩn, thì ông Nhu “đưa hai tay lên trời” với một thái độ buông xuôi vì ông không thể nào làm gì được. CIA tìm mọi cách gây mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Ngô để rút kinh nghiệm thi hành việc chia rẽ nội bộ đảng CSVN trong phần mềm hậu-chiến; Ở một tài liệu khác cho biết, khoảng giữa năm 1956, CIA đang tìm cách xúi bẫy ông Cẩn bàn kế hoạch để loại trừ Bộ Trưởng Thông Tin Trần Chánh Thành và Cố Vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi vòng ảnh hưởng ở Dinh Tổng Thống. Qua nhiều trang, chúng ta đọc được sự bất lực của chánh phủ Sàigòn đối với ông Ngô Đình Cẩn ở miền Trung. CIA tạo nên những hành động tàn ác để triệt tiêu giòng họ Ngô sau nầy, cũng như để rút kinh nghiệm sự thanh trừng đãng viên CS vào thời hậu chiến cho lộ-đồ phần mềm
Với hai Sở CIA ở Sàigòn hoạt động độc lập, báo cáo gởi về cho CIA ở Hoa Thịnh Đốn đôi khi trái ngược: (mâu thuẫn giữa chính quyền Kennedy và Permanent Government) Cố vấn Paul Hardwood thì báo cáo tốt, nhân nhượng cho ông Nhu và có ý chỉ trích ông Diệm; Edward Lansdale thì ngược lại: bảo vệ ông Diệm và nói xấu ông bà Nhu. Cuối năm 1956, sau khi Lansdale bị triệu hồi về Mỹ, vì bênh vực TT Diệm đi ngược sách lược Commado Vaught, ông Al Ulmer, Trưởng Vụ Viễn Đông CIA, ra lệnh giải tán những gì còn lại của Saigon Military Mission - và thái độ của Hoa Kỳ cũng bắt đầu thay đổi với chánh phủ Ngô Đình Diệm.
Đầu năm 1958 Hoa Kỳ cho phép CIA Saigon bắt liên lạc với các đảng chính trị đối lập; Tài liệu nói nhân viên của CIA mua chuộc và thành lập một lực lượng đối lập “ngay sau lưng ông Nhu,” để trong trường hợp phải thay đổi cấp lãnh đạo mới – Cuộc đảo chánh 11 tháng 11-1960 là một “hăm doạ” của Hoa Kỳ đối với tổng thống Diệm: Nhân viên CIA có mặt tại bộ chỉ huy của đại tá Nguyễn Chánh Thi và kế bên ông Hoàng Cơ Thụy để giới hạn bước tiến của quân đảo chánh - điệp viên Russel Flynn Miller khuyên đại tá Thi nên thương lượng với ông Diệm, vì bị chính quyền Kennedy trực tiếp can thiệp, ra lệnh trong khi biết rõ quân ủng hộ chánh phủ của đại tá Trần Thiện Khiêm đang trên đường từ Vùng IV về thủ đô tiếp cứu. Khi thấy thái độ trở mặt của CIA, mạng lưới tình báo của ông Nhu cũng không hoàn toàn thụ động: Phó Sở CIA Saigon, Douglas Blaufarb, ngỡ ngàng khi ông khám phá ra người tài xế Việt Nam của ông không bị điếc như lúc được BS Trần Kim Tuyến giới thiệu vào làm việc: người tài xế không điếc mà còn thông thạo hai ngoại ngữ Anh và Pháp!
Tuy là tài liệu được giải mật, nhưng một số lớn chi tiết, tên tuổi của những điệp viên, điềm chỉ viên trong sách vẫn còn bị kiểm duyệt (đục bỏ) Nhưng nếu đọc giả gom những chi tiết trong CIA & Ngo, trong CIA & Generals, và so sánh với một số tài liệu đã được giải mật từ Bộ Ngoại Giao (Foreign Relations of the United States, Vietnam) đọc giả có thể suy luận ai là ai nằm dưới những lằn đen kiểm duyệt so với tác phẫm The New Legion, Vinh Truong thì tất cả đều lòi ra mặt chuột bỡi các sự kiện và tài liệu liên hệ với thực tế rành rành hiện rỏ ra, như tôi phải xác định: đại đế dấu mặt hoàn vủ William Averell Harriman (1891-1986) đang chuyển tiếp bàn giao cho đứa con [phi-công tác chiến George H W Bush] của Chủ tịch Hội đồng kỷ nghệ chiến tranh (WIB) là Prescott Sheldon Bush (1895-1972)

TT Diệm đã thực sự tranh đấu giành Độc-lập, ngăn chận âm mưu trở lại của thực dân, lúc ấy là chính nghĩa sáng ngời, nên Cụ đã được lòng Dân. Thực dân Pháp lúc đó vô cùng căm tức, nhưng không làm sao triệt hạ Cụ được vì Cụ được toàn dân đứng sau lưng; Nhưng sự thành công của Cụ đã có một số ít người đem lòng ghen-ghét, và thế lực trong bóng tối của Mỹ thấy trở nên nguy hiểm đối với sách lược của Hoa-Kỳ, như CIP chẳng hạn, đáng kể là những nhân vật trong Bộ Ngoại Giao Hoa-Kỳ như Averell Harriman, Roger Hilsman, Forrestal, Getsinger, Ball: khiến những năm sau cùng, Cụ đã gặp nhiều khó-khăn, hạch sách của họ qua Đại Sứ Durbrow. Không phải Cụ không biết nước nhà non trẻ còn cần nhu cầu sự viện trợ dồi-dào của Mỹ cả về mặt Kinh-tế lẩn Quân-sự; Nhưng Cụ nhận thức lúc ấy Mìền Nam chưa cần tới quân tác chiến của Mỹ, cái đáng sợ và ám-ảnh nhất của Cụ là quân Mỹ vào, và đồng Dollar sẽ làm đảo lộn thuần-phong mỹ tục, luân thường đạo-lý và rối loạn làm đồi trụy xã-hội. Vì thực ra làm sao chánh phủ Diệm hiểu được Xa-lộ Harriman [Đường Mòn HCM] đả thiết lập từ 4/1959 để cho Hà Nội chiếm miền nam theo lăng kính 30 năm bạo loạn để Mỹ thâu kiếm lợi nhuận rồi mới có độc lập 30/4/1975 mà hiện nay Đảng Việt Tân do Mỹ nhàu nặn luôn luôn bênh vực ngày nầy là ngày đại lể thống nhứt VN như Mỷ không chịu ký chia đôi VN tại H.Đ Genève 1954
TT Diệm đã từng kiên định với Đại-sứ Frederich-Nolting và Tướng Maxwell-Taylor, nếu đến một ngày nào đó, chiến trận bộc phát quyết liệt, cần tới Quân-tác chiến của Mỹ, thì TT Diệm sẽ sẳn sàng ký một hiệp ước song phương, cho cuộc viện trợ nầy đi vào Lịch-sử với danh chánh ngôn thuận, để Cụ có thể trả lời với quốc dân (trong khi định-kiền-2 của WIB, họ nhất quyết không muốn ràng buộc bằng giấy tờ công pháp quốc-tế) Bằng không nếu Mỹ tự ý vào thì Cụ quyết liệt chống đến cùng, dù phải hy sinh mạng sống của Cụ. Sở dĩ TT Diệm cương quyết như vậy vì chủ quyền Quốc-gia là vấn đề nguyên tắc căn bản bất di bất dịch. Nếu để cho người dân và thế giới thấy Quân đội Mỹ chủ động trong cuộc chiến như trận Ấp Bắc thì Quân-đội VNCH dưới quyền lãnh đạo tối cao của TT Diệm theo hiến pháp sẽ trở thành loại “Lính Lê Dương Mới” hay nói cách khác là mất hẳn chính nghĩa và lý tưởng Quốc-gia.
Chính vì sự cương quyết không nhượng bộ trong những vấn đề nguyên tắc căn bản và Chiến-lược của Quốc-gia, đã không làm thỏa mãn một số nhà Ngoại giao Hoa-Kỳ đã kể trên, khiến cho họ tìm mọi cách dàn-dựng lên những lỗi lầm pha chế, bóp méo bởi đội quân nhà nghề về bôi-bác ‘thứ 5’ (báo chí) hầu triệt hạ Cụ, ngay sau khi chính phủ Diệm trục xuất nhà báo CIA, Francois Sully ký giả tờ NewsWeek.
Người em tài ba của Cụ, là Cố vấn Ngô-Đình-Nhu đã nhìn xa và hiểu rõ sách lược của Mỹ, nên hai anh em đã đi đến kết luận “Liên minh với Đế-quốc dù mạnh đến đâu, cũng chỉ đưa đất nước đến ngõ cụt, nếu không có sự đồng thuận, ủng hộ của toàn dân, yếu tố chiến thắng xuất phát từ trong lòng Dân-tộc chớ không phải của Đồng-minh”
Vì vậy, những nhà Ngoại giao chốp bu của Mỹ [Harriman] vì quyền lợi đã phải áp lực TT Kennedy đòi TT Diệm phải đưa Cụ Nhu ra ngoại quốc; Sự việc vừa nêu trên cho thấy họ sợ rằng với Cụ Nhu bên cạnh, thì TT Diệm sẽ không bao giờ cho Mỹ đổ quân tác chiến vào VN (hai Bà Sử-gia Ellen Hammer và Marilin B.Young đã dẫn chứng chủ trương của Ông Cố-vấn Nhu: “nếu ít thì cũng phải rút một số Cố-vấn Mỹ về nước, còn nhiều thì yêu cầu Mỹ rút hết Cố-vấn” để trả lời dứt khoát tới hành pháp Kennedy qua lời khẵng định cùng với báo chí. Ðể đáp lại, TT Kennedy: “Chúng tôi sẽ rút bớt Cố-vấn, bất cứ bao nhiêu, lúc nào mà chính phủ Miền Nam yêu cầu!” [We would withdraw the troops, any number of troops, anytime the government of South VN would suggest it]
Chính quyền Kennedy chủ trương, cần duy trì lý tưởng cao đẹp và truyền thống tôn trọng tự do bảo vệ Nhân quyền mà Hoa-kỳ là tiêu biểu (người ta không thèm nhận viện trợ mà cứ ép buộc người ta nhận viện trợ) Chính sách ngoại giao phải dựa trên sự hổ trợ của toàn dân, Kennedy quyết không thể để cho Nhóm Tài-phiệt của bộ máy chiến tranh WIB lủng đoạn lộng hành thao túng chính sách của hành pháp trung ương. Hoa-Kỳ phải biết hạn chế khả năng của mình, không can thiệp bừa bải vào nhiều nước bạn trên thế-giới và bắt ép thế-giới phải tùng phục, nói cách khác là: Hoa-kỳ không thể giữ vai trò người Cảnh-sát quốc-tế…diệt gian trừ bạo mà để cho họ tự định đoạt lấy số phận của nước họ, khi nào họ cầu cứu thì lúc đó ta mới ra tay. Nếu như TT Kennedy thành công trong sự loại trừ ‘Đảng-hội Ma Đầu-lâu’ thì Hoa-kỳ sẽ cảm hóa được Cộng-Sản bằng chiến thắng qua con đường Vương-đạo: Đông Đức nhập vào Tây Đức, Nam Triều Tiên và Nam Việt Nam sẽ hội nhập vào Miền Bắc trong tình nghĩa ruột thịt, đầm-ấm. Còn như theo con đường Bá-đạo của Nhóm Ma Đầu-lâu nầy thì hậu quả ‘núm ruột’ xa ngàn dậm sẽ thiếu nuôi dưởng của Dân tộc, rồi ung thối theo thời gian để trở thành một lủ ‘lai-căng’ tạp chũng như Nhóm da Màu sẽ không bao giờ muốn nhìn về một Phi-Châu nghèo đói.
Sự việc vừa nêu trên cho chúng ta thấy họ sợ rằng với Cụ Nhu bên cạnh, thì TT Diệm sẽ không bao giờ cho Mỹ đổ quân tác chiến vào VN; Họ quá xem thường một nhà lãnh đạo có bản lãnh, có lập trường kiên định như TT Diệm. Cụ Nhu hay ai khác có ở bên cạnh cũng chỉ là để thực hiện những sáng kiến chiến-lược của Cụ mà thôi, như tát nước bắt cá (Quốc sách Ấp Chiến Lược) Và đời nào Cụ chịu áp lực của ngoại bang mà loại bỏ người em trung thành và hiểu rõ đường lối chính sách của Cụ hơn ai hết. Quá khứ đã chứng minh, TT Diệm đã có thừa tài ba và đạo-đức để bình định cái thời Thập-nhị Sứ-quân loạn lạc vừa qua; Còn vấn đề Cộng-Sản thì niềm tin càng vững chắc hơn trong Quốc sách Ấp Chiến Lược và Chiêu Hồi (tát nước bắt cá) những nơi nào người dân đã sống và có kinh nghiệm với Cộng-Sản thì lại quá dễ-dàng để thuyết phục họ trở về với chính nghĩa và lý tưởng Quốc-gia như những Vùng đã bình định từ Tuy-Hòa, Bồng-Sơn,Tam-Quan, Quảng-Ngải…Vùng Châu Thổ Sông Cửu Long thì càng dễ-dàng hơn, điều nầy luận theo các báo cáo của CIA. Memorandum SVVT.ngày14/Sept/1963
“That the Military and Political situations had declined sharply from present levels”.
Khi mà Chiến lược toàn cầu (của WIB) của Hoa-Kỳ thấy cần đem quân tác chiến vào VN mà bị một nước nhỏ bé phải buộc cần viện trợ của Hoa-Kỳ lại dám bác bỏ và chống đối, thì việc gì sẽ phải xảy ra? Chúng ta cũng dễ tiên liệu được; Vì vậy mà mãi cho đến ngày hôm nay, một số người thương tiếc, vốn ca tụng Cụ và không còn nghi ngờ gì chính Cụ mới thật xứng đáng một chí sĩ yêu tổ quốc, nhưng họ vẩn phê bình trong sự luyến tiếc là Cụ thiếu khôn ngoan, khi không đồng ý để Mỹ đem quân vào giúp? Vì chủ quyền và lý tưởng quốc gia nên Cụ chấp nhận thà hy sinh tánh mạng chớ không cần cầu cứu với Đại sứ Cabot Lodge
Thật đáng tiếc và hết sức đau lòng mà nhắc lại rằng, những người có trách nhiệm trong việc để Mỹ tự do đem quân vào mà không có một hiệp ước song phương quy-định những chi tiết thực hiện lúc ấy chính là Thủ tướng Bác Sỉ Phan Huy Quát và Cố vấn Bùi Diểm (dỉ nhiên những việc trên đây đã có chủ mưu không dính dấp gì tới Việt Nam qua hiệp ước song phương) Những sự kiện nầy xác nhận mình là chính phủ bù-nhìn không hơn không kém; Tất cã nhũng gì xảy ra sau khi TT Diệm bị lật đổ rồi bị giết một cách dã man, hèn nhát đã viện chứng những thành phần chống đối Cụ, đòi Cụ chia sẻ quyền hành một cách quá đáng đều đã có cơ hội thử tài, hay nói theo tướng số thử ‘thời-vận’, nhưng tất cả đều thất bại ê-chề. Rồi chính phủ họ Phan cũng chỉ tồn tại được vài tháng vui chơi, nghĩa là Mỹ khi cần đem công cụ của mình lên để thực hiện ý-đồ đổ quân tác chiến ào ạt vào VN; Sau khi làm xong bổn phận của mình, chính phủ nầy phải được thay thế. Đó là hành động ‘vắt Chanh bỏ vỏ’ nhưng cũng may mà họ không lấy vỏ Chanh làm mức ‘trần bì’.
Vì cần một thời gian tình hình ổn định cần thiết để Mỹ sau khi hoàn thành mục tiêu thí nghiệm đủ loại, trong đó có vũ khí là chính để gối đầu chuẩn bị cho giai đoạn Ba của thế chiến lược Eurasian Great Game như Bom Smart, Laser, CBU-55, hoả tiển vô tuyến điều khiển Cruise, Pul pup…; còn tại Việt Nam nầy, Mỹ phải để cho mấy thằng Cu phi công ưu-tú đem các phi cơ khu trục đả sản xuất từ sau trận chiến Triều Tiên ra mà phế thải, như nguyên-lý hàng sản xuất phải có khách hàng tiêu dùng, đúng theo quy luật làm ăn thông đồng với Quỷ Đỏ mà Tôi cho đó là trục Ma-Quỷ; Sau đó tình hình chính trị phải được ổn định để thiết kế đem Tù-binh cùng rút quân về cho một công trình chiến lược sắp tới (Trung-Đông). Đó là hình thức giao thương của Đảng Công-ty WIB; May thay! Chính phủ Nguyển Văn Thiệu, được sự ủng hộ bền lâu của Mỹ là vì các vấn đề như đã nêu trên, được sự tham gia cũa nhiều thành phần trí thức thuộc các Đảng từng chống TT Diệm, TT Thiệu đã nghiễm nhiên trở thành tai sai đắc lực cũa Mỹ qua việc triệt thoái 2 Quân đoàn Chiến thuật vào những ngày sau cùng theo chiến dịch “rả ngủ QLVNCH của CIA” và việc buộc phải trao quyền chuyển tiếp ngắn hạn cho Cụ già Gân đơn chiếc, để rồi lại phải trao quyền cho một ông Tướng có người em là Cộng Sản gộc, Dương Thanh Nhựt, dâng cả Miền Nam béo bở qua mật kế Pennsylvania của nhóm tham mưu Harriman và sau nầy chuyển tiếp cho George H.W Bush (Bush-Cha) bởi Tham mưu trưởng Donald Rumsfeld trong Nhóm “Đặc Nhiệm Hành Động” (Washington Special Acting Group) Rumsfeld là Tác giả vở bi kịch tháng Tư-Đen mà ông đặt tên là ‘Cruel-April’
Hầu hết các chuyên viên đặc trách về vấn đề chống Cộng Sản trên toàn thế giới đều được nền Đệ I Cộng Hòa tiếp xúc hoặc trân trọng mời đến Saigon để tham khảo, thuyết trình, giới thiệu các nghệ thuật, phương cách chống Cộng Sản hửu hiệu nhất của VNCH; nào là phái đoàn Vương-Thăng của Trung Hoa Quốc Dân Đảng, phái đoàn Sir Thompson của Hoàng Gia Anh, phái đoàn của Nử sĩ Suzane Labin, Tướng Vavuxem, phái đoàn NTS của tổ chức chống Cộng Sản Nga của Pháp và hàng chục chuyên viên chống Cộng HUC của Phi Luật Tân. Lúc bấy giờ, những lảnh tụ hàng đầu trên thế giới như Raymon Magsaysay, Lý Thừa Vản của Đại Hàn, Trưởng Giới Thạch đều trở thành bạn thân chí thiết của TT Diệm.
Còn những nhà chính trị có lương tâm, liêm sĩ, không thể không “sám-hối” về những sai lầm quan trọng của mình, nếu còn muốn chường mặt ra với công luận. Thật đáng hối tiếc đến kinh dị vì những cuốn sách bằng ngoại ngữ của những người có trách nhiệm trong việc làm mất chính nghĩa và lý tưởng Quốc-gia chiến đấu chống Cộng như Nguyễn Cao Kỳ, Trần Văn Đôn, và Bùi Diểm lại chỉ nhằm mục đích duy nhất “đánh bóng cá-nhân” tự biện minh cho việc làm sai trái của mình một cách xảo trá. Cũng phải nhắc đến những cuốn bằng Việt-Ngữ của Tôn-Thất-Đính, Nguyễn-Chánh-Thi, Đỗ Mậu, Vương Văn Đông, và Phạm Văn Liểu…thì chỉ biết vặch lá tìm sâu, chính quyền nào lại không có lỗi lầm? Nhưng những cái lỗi lầm không đáng kể bằng chủ quyền và lý tưởng Quốc-gia là căn bản là tối quan trọng cho Lịch-sử sau nầy. Họ vẽ vời xuyên-tạc, bịa đặt để dễ bề xĩ vã nhà Ái-Quốc đã thà chết chớ không để mất Chủ-quyền Quốc-gia, còn hơn là sống để phải khuất phục Ngoại bang
Chúng ta ước ao rằng, chẳng cứ những nhân vật vừa kể trên, mà tất cả chúng ta, những người còn muốn cho con cháu mình về sau không lên-án Cha ông chúng ta là tay-sai của Mỹ, bán nước cầu vinh, thì hãy làm hết cách để nêu cao chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống Cộng. Và điều trước tiên là chứng minh để con cháu mai sao, kẻ ở ngoài nưóc cũng như trong nước và dư luận Quốc-tế thấy rõ chỉ có duy nhất TT Diệm là người yêu Dân-tộc Quốc-gia VN, còn ngoài ra loại tay sai hai Miền dù cho Khối Cộng hay Đế-Quốc đều nối giáo cho giặc đến cớ sự là 5 triệu người Miền Bắc và gần 1 triệu người Miền Nam phải chết một cách oan-uổng.
Thực tâm mà nói, cuộc đảo chánh 1/11/1963 là biến cố gì? Nó không phải là câu chuyện của một ngày, của một lần, nó có cái đến trước nó và cái đến sau nó, cái nọ giải thích cái kia dẩn đưa đến cái ngày định mệnh đó. Chuyện đã rồi đã xảy ra… mổi người một tâm trạng; Sau cái chết của hai anh em Cụ Diệm đã có biết bao nhiêu người đổ xô ra đường để đón chào một vận hội mới, đón chào những người Lính đã giải cứu họ ra khỏi ngục tù quá khứ; Toàn dân như có sức tái sinh, phấn khởi say men chiến thắng. Các Tướng tá người hùng của biến cố được công kênh lên. Ðó là một ngày hội mới, đó là một ngày đẹp nhứt trên đời, đó là mở ra một trang sử mới, đó là hy vọng từ nổi thất vọng – Sự thật cái khung cảnh vui mừng chiến thắng sau ngày 1/11/1963 là như thế đấy! Nhưng bên cạnh cũng không thiếu những người luyến tiếc chế độ đã mất trong đó có cá nhân tôi; Cứ cho rằng những kẽ thụ hưởng trực tiếp bổng lộc của chế độ cũ đả dành cho, Họ không quên được những lúc ăn trên ngồi trước huy hoàng; Nhưng bên cạnh đó vẩn còn những người dân giả bình thường, họ cũng bày tỏ sự thương tiếc, phải có cái gì chứ? Không nên xếp họ vào loại ngu dân, chả lẻ chúng ta hẹp hòi đến độ không cho phép họ được bày tỏ bất cứ thứ tình cảm gì, dù rằng chỉ một chút thương tiếc! Họ tiếc vì cuộc sống của họ đang sống tuơng đối được dể thở hơn, đi xuống thăm bà con ỡ quê nhà không bị Việt Cộng chận xe đò làm họ muốn đứng tim và trể nải. Người dân quê không muốn chịu cảnh “Ngày sống với Quốc gia, tối lại sống với bóng ma Cộng sản!” và phải đóng thuế cho cả hai bên mà đôi khi còn bị Việt Cộng tuyên án tử hình vì thái độ lừng khừng. Ta vui thì được, tại sao phải cấm người dân không được ngậm ngùi? Dỉ nhiên, những người chán ghét Cụ Diệm có cái lý của họ! Cái lý của kẻ mạnh lúc nào cũng đúng! Họ cho rằng lá bài Ngô Ðình Diệm đã đến lúc cần xóa bỏ.;Vì làm sao người dân bình thường mà thấu hiểu được cái âm mưu hẹp hòi về lợi nhuận, họ đả bảo vệ xa lộ Harrimanm để cho CSBV cưởng chiếm miền Nam. Nhưng những người thương tiếc Cụ đã hẳn cũng có cái gì đó để cho đến giờ phút nầy mà họ vẩn không quên ghi ơn Ngô Tổng thống! Có nên tôn trọng tình cãm đó hay không!? Hảy hồi tưởng lại quá khứ để rút ra bài học gì, hay chỉ để nhắm vào mục đích đào sâu hận thù, cho rằng yêu đất nước yêu dân tộc là yêu con người, yêu đồng bào mình, phải chấp nhận những nổi bất hạnh của người nầy, của nhóm kia, và để nhớ những điều cần phải nhớ cũng như đôi khi phải tha thứ cho nhau. Lịch sử dân tộc Việt từ nữa thế kỷ nay, có lúc nào cho thấy người Việt ta chịu ngồi lại với nhau; Ngồi lại với nhau ở trong nước vốn không dể vì có chế độ Ðảng trị, còn có áp lực bằng bạo lực, bằng kèm kẹp, theo dỏi với chế độ công an trị, với chụp mủ, kiểm duyệt, kiểm soát, điểm nghiệm, thậm chí đi đến cải tạo, tù đày. Người Việt hải ngoại có nhiều cơ may nhất, để ngồi lại với nhau, vì cùng chung thân phận lưu vong, chung lý tưởng tự do, chung tinh thần dân chủ, dân quyền. Nhưng than ôi! Vậy mà thử ngồi lại tính sổ, có chổ nào mà không có chia rẻ, có tổ chức nào mà không có tranh giành cấu xé nhau, có bao nhiêu người thì có bao nhiêu lảnh tụ (tôi phải là Tổng thống) nằm sẳn trong đầu họ!
Ðã hơn 3 thập niên rồi, chúng ta cần nhìn lại, cần biên soạn lại, cần mổ xẻ, cần phê bình, cần nêu bằng chứng rỏ ràng, đến nơi đến chốn, cần giải bày khuyết điểm để phát hiện những điều sai trái, nhận thức được sự thật lịch sử nằm ở chổ nào với tinh thần và tư cách của người hiểu biết. Nếu không làm được điều gì đó, bài thuyết trình, giảng thuyết dù có hùng hồn đi cách mấy cũng chẳng thuyết phục được ai, chỉ gây thêm bực bội, phiền nhiểu!
Và cũng hơn 3 thập niên qua, thời gian vẩn không làm nguôi đi, cũng không xoa dịu được cái tức tưởi, ấm ức trong mổi con người chúng ta; vì cho đến nay, chúng ta vẩn chưa giải nghĩa được tại sao có thể có được một ngày 30/4/1975. Ôi thì, Ông Tướng nầy bảo tại ông tướng kia, ông tướng kia bảo tại ông tướng nọ, người dân nói vì tham nhủng, kẻ bảo Hoa kỳ bỏ rơi, một cách mơ hồ, vu vơ không hiểu ra sao cả! Nói không có sách, mách không có chứng để rồi ỏm tỏi cải nhau mà không đi đến đoạn kết; Theo ngụ ý của Tôi nếu Hoa kỳ muốn giữ vửng Miền Nam, thì lịch sử đã chứng minh: Quân Bắc Hàn với Trung Cộng tràn qua sông Áp lục, vượt vỉ tuyến 38 toan nuốt chửng Miền Nam Triều Tiên bằng chiến thuật biển người, nhưng Hoa kỳ vẩn nhảy vào đuổi quân Cộng sản trở vế Bắc một cách dể dàng. Còn như về tham nhủng, lấy ví dụ một Tổng thống hay Thủ tướng nào đó, gốc từ vùng rừng núi xa xôi như Dak Prau chẳng hạn, trên khoát áo ngoài có cà vạt hẳn hoi, nhưng phần dưới mặc chiếc khố cho có vẻ dân tộc cội nguồn. Ðọc một bài diển văn: “Kính thưa đồng bào…Ð.M đứa nào…con nào tham nhủng…ÐM từ 10.000 trở lên là “Tử hình”..Bắn bỏ, dưới 10.000 chặt một bàn tay …ÐM cho tụi bây chừa” Tôi nghỉ chắc không còn tham nhủng! Tại sao hồi Ðệ-1 Cộng Hòa rất tốt đẹp và lý tưởng!? Ai trắc nghiệm về lủng đoạn nền kinh tế và hổn loạn xả hội, lấy Miền Nam làm thí điểm trong chiến lược toàn cầu, để nhúng sâu vào nội bộ của các nước khác sau nầy với cái gọi là chiêu bài “Dân quyền Dân Chủ” Tôi nghĩ, chỉ cần một giây phút là bà con hiểu ngay ai là thủ phạm? Qua kinh nghiệm CIA làm ung nhọt Miền Nam, Hoa kỳ ngày nay cho tham nhũng là nhân tố để thanh lộc và tái tổ chức chính thể Việt Nam sau chiến tranh, rồi toàn thể hạ tầng cơ sở được tái thiết để cho sẳn sàng, và cú dứt sau cùng là sinh viên học sinh được sự hổ trợ của quân đội non trẻ làm cuộc cách mạng chấm dứt chế độ, liền sau đó, đồng loạt các tổ chức thương mải Hoa kỳ ồ-ạt bỏ vốn vào đầu tư tại VN, biến VN thành một nước VNCH lớn hơn, làm gương kiểu mẩu hùng mạnh cho Bắc Hàn và Miến Ðiện và các nước kém phát triển noi theo sau nầy.
Như xưa kia, lời tuyên bố của đương kiêm Tổng thống mà được đại đa số người Mỹ gốc Việt bầu cho, đáng để cho chúng ta phải suy ngẫm và nhất là phải quan tâm về thế siêu chiến lược! Sự thật Tổng thống nào của thời điểm nầy 2000: “Nhân dân miền Nam không chịu chiến đấu cho tự do, thế nên ngày nay họ không có tự-do, cũng chỉ để khai thác câu nói của TT Kennedy để bóp méo sự thật “Người dân miền Nam phải chiến đấu cho tự do của chính họ, chúng ta không thể chiến đấu thay họ!” Rồi thời gian trôi qua, Tổng thống nào thứ 43 củng phải nói “Yes” mà thôi, cũng như tổng thống thứ 42 nào cũng phải lập bang giao với Việt Nam sau 20 năm thù địch (1975-1995), và 10 năm sau 2005, Việt Nam qua Mỹ mua Boeing cũng y chang như Trung Cộng vậy; điều dễ hiểu SCP muốn chúng ta duy trì cái chiêu bài chống Cộng để quên cái tội ác tài trời của WIB. Nhưng thật ra trong thế Siêu chiến lược họ đả thần thánh đưa chiếc đủa thần ra để biến nhửng nước Cộng sản qua giai cấp Tư bản Mới gọi là Tư bản Ðỏ [điều nầy hơi lạ vì chỉ có Tam-trùng Phạm Xuân Ẩn là biết trước Cộng sản sẽ trở nên Tư-bản Ðỏ từ 1959, khi Lê Ðức Thọ vào Nam cầm đầu MTGPMN] có như thế người Việt lưu vong mới đem đồng đôla chạy qua Mỹ lại và sau đó cố tình lờ đi cho Việt kiều gởi về mổi năm 5, 6 tỷ mỹ kim, thay thế họ hàn gắng vết thương chiến tranh. Thế nên: Trong một sự dàn dựng cuộc phỏng vấn truyền hình, ông O’Reilly móm lời: “Người Miền Nam đã không chiến đấu cho sự tự do của họ, vì vậy mà ngày nay Họ không có tự do!” Vị Tổng thống thứ 43 đáp: “Ðúng” (Interview on Fox News, The O’Reilly Factor aired on September 27/2.004 with President Bush, O’Reilly stated “The South Vietnamese didn’t fight for their freedom, which is why they don’t have it today” President Bush answered: “Yes”
Ðương nhiên không thế nào Bush nói khác đi được, dù rằng thật vô cùng nghịch lý như cuộc chiến Iraq, 98 Nghị sỉ phải nói “Yes” dù rằng đại đa số thành viên LHQ nói “No” trong đó phải kể đến hai nước láng giềng thân thiết là Canada và Mexico cũng nói “No” kể cả ông Tổng thơ ký LHQ cũng nói “No”, bất hợp pháp nếu tấn công Iraq là một hành động vi hiến, nhưng Mỹ vẩn tấn công thì làm gì nhau? Lý của kẻ mạnh! Dỉ nhiên hành pháp Hoa kỳ do Thái tử của một Ðại đế Skull and Bones-II chấp hành lệnh của Thái Thường Hoàng ngay tức khắc. Cho nên chúng ta nên thông cảm hoàn cảnh và cương vị của Thái-tử Bush. Chắc chắn không thể nào một vị tổng thống của siêu cường số một, mà có quân đội tham chiến tại Việt nam lại không biết rằng tổn thất của Ðồng minh VNCH trong cuộc chiến đấu chống Cộng sản là trên 300.000 ngàn binh sỉ tử vong và trên 1 triệu 100 ngàn binh sỉ bị thương. Nếu TT Bush không biết thì đã có vô số Phụ tá của Bush phải biết để nhắc nhở Bush; Vì chính quyền Hoa-kỳ, họ được lệnh không muốn nhìn nhận sự đóng góp của Miền Nam Việt-Nam trong công cuộc chống Cộng và họ không bỏ lở một cơ hội để buộc tội Đồng minh và chạy tội cho âm mưu đen tối của họ đã giật sập nền Đệ I Cộng-Hòa nên mới ra cớ sự (làm sao chúng ta hiểu nổi “định kiền-1 là xóa bỏ VNCH để theo đúng lộ đồ chiến lược Eurasian mà Hoa kỳ đã phải chấp nhận sự hy sinh của 58.000 binh sĩ cho một cuộc chiến cũng chỉ vì thềm lục địa VN có dầu hỏa mà Hoa kỳ muốn hợp thức hóa bằng công pháp quốc tế để rồi bỏ vốn và khoa học kỷ thuật khai thác cùng có lợi)
Riêng nhân dân Miền Nam, không một ai chịu thụ tinh từ một quái-thai để trở thành một đứa con hoang bất đắc dỉ, rồi bị bỏ rơi một cách vô cùng tàn nhẩn không thương tiếc, Chúng ta là kẻ bị bắt buộc thua trận thì có khi nào được quyền nói, rồi lịch sử sẽ cho nó qua đi trong quên lảng; Hoa kỳ muốn chối bỏ, không muốn nghỉ tới, chớ đừng nói nhắc đến sự hy sinh và đóng góp của Miền Nam cho mục tiêu chiến lược của Họ. Vì nó sẽ đặt ra câu hỏi lương tâm, uy tín cũng như danh dự trong lịch sử chính trị đối với Hoa kỳ, nó còn kéo dài mãi như một chấn thương về “Hội chứng VN” mà người dân Mỹ cảm nhận phải hổ thẹn lương tâm với một tư tưởng mọc mạc: Với điều kiện nào, với cái giá nào, Hoa kỳ đã điều đình được sự rút lui trong danh dự cho cá nhân nước Mỹ trong cuộc chiến! Thế nên, Họ đang bóp méo dữ kiện về “Hội chứng VN” đề chạy tội với lịch sử! Căn cứ vào sự bảo vệ luật pháp với danh nghĩa “Academic-Freedom” tại trung tâm đại học WJC, Massachusetts, mà Tôi tạm dịch là “Tư do tư tưởng” của quần chúng Hoa kỳ. Họ sẽ cũng cố sách liệu, rồi chỉ đạo một nhóm học giả tên tuổi làm theo khuôn mẫu mà họ đả ấn định trong kế hoặch chiến lược 100 năm (Eurasian-1920-2020)
Trước đây, trong khi quân đội Hoa kỳ và VNCH chúng ta còn đang chiến đấu, thì trong bóng tối, Tình báo phản gián Hoa kỳ CIA, đã dùng cơ quan truyền thông đâm sau lưng chiến sỉ, điển hình như Thượng tọa CIA Thích Nhứt Hạnh trong “Hoa Sen trong biển lữa”, nhiều đài truyền thông và báo chí nhận tiền để bóp méo, thiên lệch có chủ đích. Một Nhóm khoa bản được mua chuộc vì tiền tài, các nghệ sĩ, Ca sỉ và phóng viên được móc nối như Jane Fonda, Joan Baez, Bob Dylan, Eddie Adams, John Kerry…sau một thời gian khổ nhục kế cần thiết rồi cũng xin lổi, còn trí thức thì tỏ-bày, cho rằng đã tỉnh ngộ sau một giai đoạn ngậm miệng ăn tiền: Eddie Adams, tấm ảnh được giải thưởng “pulitzer”, Tướng Loan bắn tên đặc công CS từ 1968 để dành đến 1975, rồi phóng đại trên màn ảnh Quốc hội, để có cớ chối từ viện trợ, nhưng sự thật họ đả cúp viện trợ ngay khi ký Hiệp định Paris. Ông Eddie Adams tuyên bố trong khi dự tang lể: “Loan là vị anh hùng, cả nước Mỹ nên khóc thương ông mới phải, Tôi không muốn nhìn thấy ông ra đi như thế nầy, trong khi người ta không hiểu về ông ấy! (The guy was a hero, American should be crying. I hate to see him go this way-without people knowing anything about him)
Eddie Adams chỉ có hiễu biết trong phạm-vi “Chiến thuật”, riêng Jane Fonda mới hiểu biết trong phương diện “Chiến-lược” Bà cho rằng: “Những tù binh trở về Mỹ đả nói láo, đạo đức giả (liars and hypocrites) về sự đối xử tàn nhẩn của CSBV có hệ thống tàn bạo (reported systematic abuse and torture by their captors) Tôi đoán chắc chắn rằng Jane Fonda cũng thừa hiểu sự hành-hạ về Thượng nghị sỉ phi công tù binh McCain và rất rất nhiều các tù binh Mỹ khác như thế nào. Nhưng mục tiêu sau cùng là đưa Việt Nam sau gần một thế kỹ phải biết ơn Mỹ quốc đã có công thống nhứt VN thành Một, trong khi hai nước Cộng sản lớn nhứt là Liên Xô và Trung Cộng vẩn muốn duy trì hai nước VN tại Hội nghị Genève 1954! Tuy nhiên Việt Nam nên thông cãm “Muốn có Tự do phải trả một cái giá như lịch sử của nước Mỹ đã…! Có nghĩa muốn có độc lập tự do thì phải lấy máu để mua nó.
Nhưng sự thật vẩn luôn luôn phủ phàng, kẻ chiến thắng là kẻ viết lịch sử, lẻ tất nhiên đó là loại lịch sử bị bóp méo sai sự thật, một lịch sử theo chiều hướng Ðảng trị. Nhưng đừng lo sinh viên và sử học tại Mỹ và các thế hệ sau nầy sẽ viết lại vô cùng trung thực qua các hồ sơ, văn từ, hình ảnh, đối thoại, nói tóm lại chúng ta không nên lo lắng về sự bóp méo nầy! Vì lịch sử không bao giờ trật! Tôi mảnh liệt tin tưởng rằng sau năm 2023 sẻ xuất hiện các Sữ-gia sẽ làm sáng tỏ lịch sử về Hoa-kỳ áp đặt vòng Kim Cô lên đầu người dân Việt như thế nào, và thế giới, hãy bình tỉnh chờ xem! Còn phía Hoa kỳ đang tìm mọi cách để phủ nhận sự hiện diện của họ và chúng ta như không muốn khơi lại, đào xới lên đống phân dỉ vảng, cứ để cho thời gian mùi hôi thối sẽ lịm dần đi, vì trái đất vẩn phải quây đều cho năm tháng qua đi, để rồi mọi việc sẽ bỏ sau lưng khi thế hệ dính dấp vào cuộc chiến không còn nữa!

Tuy nhiên, Chúng ta phải quan tâm vì con cháu chúng ta, thế hệ thứ Hai, rồi thứ Ba và các thế hệ kế tiếp, sẽ còn biết được gì về cuộc chiến đấu cho Tự-do của người Miền Nam VN! Ðối với CS, nhưng thực chất là Mafia-VN, chúng ta là một lủ giặc, đỉ điếm, một lủ phiến loạn bán nước, còn đối với người bạn Lớn, thì làm gì có chúng ta! Họ muốn chối bỏ hoàn toàn như đứa con hoang chơi qua đường. Họa chăng nếu có nhắc đến dân và chính quyền Miền Nam VN thì bọn truyền thông Hoa kỳ đã mấy khi đưa ra sự thật! Hiếm hoi nửa có lẻ đếm được trên đầu ngón tay, là những tác giả Hoa kỳ viết về cuộc chiến với cái nhìn về phía người Việt bằng ngòi viết khách quan. Trong một môi trường như vậy, thì chắc chắn các thế hệ sau nầy sẽ có cái nhìn thiếu sót, nếu không muốn nói là sai lạc về cội nguồn của chúng (Tôi xin đề nghị đọc giả nên mua cho được cuốn sách nầy bằng Anh ngử với tựa đề “The New Legion” cho con em mình biết ID-Card của chúng)
Ðể nói lên, để viết lại cuộc chiến đấu anh dủng cho Tự do Dân chủ của Miền Nam VN, nếu ngày hôm nay chúng ta không làm thì vài năm sau, hay xa hơn nữa… còn ai để viết, để ghi chép! Chúng ta phải thẳng thắn viết lên vì đây là đất nước của Tự do, không cho lương tâm con người dấu diếm sự thật. Vì điều dể hiểu, Chúng ta không thể nào chấp nhận, chính quyền hay bất cứ ai lừa dối phỉnh gạc con cháu chúng ta, nhất là chúng ta không nên phải bị áp đặt là loại đỉ điếm, ham bơ thừa sửa cặn và ôm chân Ðế quốc! Nhưng có một điều chắc chắn “Chiêu bài chống Cộng đả lỗi thời”

KQ: Trương Văn Vinh