PDA

View Full Version : Ai đã gây ra thảm họa 30/4/1975?



vinhtruong
04-05-2011, 04:44 PM
700 triệu tấn vũ-khí mới toanh do LX viện trợ cho VN qua thương ước “renewed Aid to Russia 1941-1946 = (http://www.answers.com/topic/w-averell-harriman, page 1 of 7- Trang 4, Political Career) trong đó phải kể SAM-2 tối tân nhứt thời đó và T-55 … với mục tiêu không phải đem vào Saigon để bắn phi cơ Mỹ mà để yễm trợ cho quân bộ chiến khi đánh chiếm Cambodia, và phòng thũ Hà Nội 1979, trong khi miền nam cạn dần vũ khí đạn dược, nhiên liệu, cơ phận các trang cụ cho đến khi tê liệt rồi đình động

Một tài liệu thuộc về một văn kiện cuối cùng của chính phủ VNCH gởi chính phủ Hoa-Kỳ, nhưng rất “cần thiết” cho Mỹ để tỏ bày cho thế giới thấy rằng, “Chúng tôi bị VNCH đuổi chớ không tử-tế như Ðức, Triều-Tiên, họ mời chúng tôi ở lại :

Thưa Ông Đại-Sứ,
Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại-Sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quốc phòng DAO rời khỏi Việt-Nam trong 24 giờ đồng hồ, kể từ ngày 29/April/1975 để vấn đề hoà bình Việt-Nam sớm được giai quyet
Trân trọng kính chào Ông Đại-Sứ
Sàigòn ngày 28, tháng 4 năm 1975
Đại-Tướng Dương-Văn- Minh
Theo mưu-đồ của CIA định kiến, Dương Văn Minh là người duy nhứt được chĩ định đạp-đổo hai nền Ðệ-1 và -2 VNCH - Bình luận về công-điện nầy, Kissinger nói thẳng ra: “Vì lịch trình nầy trùng hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi (là axiom-1) nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình (cũng giống như Mỹ sẽ rút khỏi hai Căn-Cứ Hải-Quân và Không-Quân, Clarkfield và Subic-Bay ở Phi-luật-Tân, CIA bỏ tiền cho phe đối lập biểu tình chống Mỹ đòi lại đất đai…thì Mỹ rút bỏ…khỏi bị chỉ trích, danh chính ngôn thuận cho việc ra đi của người Mỹ, hiễu như Khách ra đi vì bị Chủ nhà đuổi chớ không phải tự ý Khách … vì không nở lòng nào muốn bỏ rơi chủ nhà mà đi khi tan gia bối rối, đồng thời lập lại lần nữa qua sự đặt hàng cò mồi Nguyễn Tiến Hưng “Khi đồng minh tháo chạy”, để cho Lê Ðức Thọ kêu căng ngạo nghễ tuyên bố: “Quân ta đả đánh thắng Mỹ Ngụy thất bại hoàn toàn trên khắp mặt trận. Trò chơi chính trị do bộ óc của “Nhóm Ăn Sáng” do tham mưu trưởng WSAG, Donald Rumsfeld chỉ thị qua sự điều hành của Kissinger thật là thần sầu quỹ khóc, quá lắc-léo và tuyệt luân

“Kiến trúc sư cuộc chiến VN, William Averell Harriman (1891-1986) là thủ phạm ra lịnh cho CIA giết TT Ngô Ðình Diệm và là soạn giả vở bi-kịch ngày 30/4/75” một decent interval điểm mốc thời gian trong lịch trình sách lược Eurasia mà người thừa kế thế hệ thứ-2 phải tiếp nối là George H W Bush (Busn-Cha).
Cuộc chiến Việt Nam bùng nổ lớn bắt đầu từ cuối năm 1964 trở đi với các trận đánh dữ dội tại Bình Giã, Đồng Xoài, Đức Cơ... cấp Trung Đoàn BV đã vượt qua xa lộ Harriman (Ðường-559) và bắt đầu gọi là leo thang chiến tranh theo lộ-đồ phối hợp của kiến trúc sư Harriman đem quân đội tác chiến Mỹ qua VN cũng vào năm nầy, để tập trận với mưu đồ lợi nhuân cho Hội đồng Kỹ nghệ chiến tranh (War Industries Board) gây tử thương nhiều quân nhân Mỹ mà cái Nhóm WIB cho rằng: “công nhân phải đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có đồng dôla, còn là Lính phải đổ chút ít xương máu mới hưởng được đồng đôla, chớ không thể tập trận tại quê nhà, để tìm cơ hội bị gạch phấn trắng gọi là bị tử thương, loại ra khỏi vòng chiến để nằm nhà với vợ con. Thế nên những hình ảnh quan tài phủ quốc kỳ kèm theo sau hình ảnh dã man và bất lợi (thổi phồng vụ Mỹ Lai & vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan! để chuẩn bị lộ đồ rút lui bằng Air tikets booked trước theo lịch trình phải nâng đở hảng hàng không thế hệ Jet còn phôi-thai không bị Bankruptcy hay Merge) của chiến tranh được giới chóp bu của hệ thống truyền thông Hoa Kỳ, đa số gốc Đại học Yale quản trị, khai thác triệt để qua đơn đặt hàng, để ngày đêm tạo một phong trào phản chiến lớn mạnh chưa từng thấy trên thế giới, không những tại Hoa Kỳ mà còn lan rộng khắp nơi trên nhiều quốc gia khác, nhứt là ngay tại kinh-đô văn hoá thế giới Paris, chuẩn bị cho cuộc rút lui danh dự axiom-3

Tướng độc nhởn cò-mồi, Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái, đột ngột tự ý qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với lực lượng Hải Quân Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam (axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances) đúng vào điểm mốc thời gian Mỹ chuẩn bị rút quân) vì không thể thắng cuộc chiến này được mà hãy để cho Hà Nội chiếm miền nam (axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon) thì mới thắng được Cộng Sản, trong khi nhị trùng Mafia Lê Đức Thọ đã biết trước sẽ thôn tính miền nam, nên 1960 (lúc nầy Mỹ chưa qua) khi thành lập MTGPMN đã tuyên bố cương quyết chống chế độ Mỹ Diệm kèm kẹp, đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào, lúc nầy quân đội Mỹ chưa qua mà đã bị đánh cho cút rồi. Thật rất là vô lý vì sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy! Dayan là cò mồi của Mỹ) dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson và miền Nam VN; Tiếc thay sau này và mới năm ngoái đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam! [Israeli General Moshe Dayan on Patrol with US Marines - South Vietnam 1966] Phong trào phản chiến càng lên cao, Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa. Nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thăng cử làm Tổng Thống
Đến năm 1971, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon. Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27.1.1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam; Chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự, Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, rồi sau đó thì chẳng ai cần đếch gì nữa. Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi hoang vắng” lời nói cũa cựu đại sứ Lào và hiện là phụ tá hành chánh cho Kissinger như ám chĩ miền Nam là bãi tha-ma (free-zone) sau một thời gian làm nơi thí nghiệm đủ loại vũ khí và miền Bắc trở lại thời kỳ đồ-đá, ngay đến thủ đô Hà Nội mà phải thắp đèn dầu leo-lét. Sau khi rút lui lại chơi trò vũ khí khí-tượng (weather weaponry) để cho người Việt ăn Bo Bo một thời gian kiệt quệ rồi mới chịu bôm thuốc kinh tế thị trường sau, có nghiã là tái thiết tối đa sau 50 năm (1945-1995)
Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán dự trù qua lại đi đêm như con thoi của con-rối Kissinger do sự chủ đạo của thế lực Permanent Government [Skull and Bones] Cũng theo lộ trình Political Business lại tiếp nối qua “giai đoạn-3 Eurasian” vùng Trung-Á – Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến Jom Kippur vào ngày 6/10/1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây; Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng giờ chót nhờ con rối của Bones Permanent Government ra lệnh Kissinger thuyết phục gần như ép buộc TT Nixon nỗ lực can thiệp giúp Do Thái nên tình thế không còn bi đát nhiều như trước. Sau vụ Cambodia Nixon đang chới với Power Act gần như mất hết quyền hành, nhưng khi PG cần, thì Nixon vẩn mạnh lại như thường; Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận điều nầy lập năm vừa qua 1972, Tướng Giáp cũng mất chức vì nướng 100.000 quân BV, vì cứ tưởng bở (còn quá sớm chưa phải đúng thời điểm decent interval chiếm miền nam theo lộ đồ Eurasia)

Biến cố thua trận lần đầu tiên Jom Kippur năm 1973 cho thấy thế lực Skull and Bones nhìn rất xa và đang làm bộ với động-thái Hoa Kỳ bị sa lầy ở chiến trường Việt Nam, để rút ra mà thế giới làm sao hiểu nổi Mỹ muốn gì? nhưng sự thật đổi vùng hoạt động qua giai đoạn-3 Eurasian, nên không còn có thể chuyên tâm giúp cho Do Thái thắng trận như trước đây. Cho nên không gì ngạc nhiên khi thế lực Do Thái phải vận dụng toàn diện từ trong lẫn ngoài để thúc đẩy và buộc giới lãnh đạo Hoa Kỳ phải bỏ rơi miền Nam theo đúng lộ-trình đã thiết-kết trước (axiom-1).
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Do Thái hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái (Anti-Semitism). Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị phinh gạt; Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ : Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" (“Vietnam – a 35 Year Retrospective Conference”) tại Washington D.C. vào ngày 9.4.2010 ) lầm lẫn hoặc cố tình cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam (chịu thua ! hay gài bẩy TQ? vì đang câu con cá to hơn “has bigger fish to fry”) Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ khi Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 với gia tăng Việt Nam Hóa Chiến Tranh .
Về phía Cộng Sản Bắc Việt, ngoại trừ lợi thế sẵn có của đường lối độc tài cuồng tín trong chiến tranh dám vô nhân đạo dùng chiến thuật biển người hy sinh "nướng quân" hàng loạt trên chiến trường (theo nhận xét của Tướng Westmoreland !) họ không ngờ có được sự giúp đỡ hữu hiệu của thế lực Do Thái tạo ra phong trào phản chiến đưa tới tình trạng "Đồng Minh tháo chạy" (từ ngữ theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng!) bỏ rơi VNCH, như vậy miền Nam chỉ cần cầm cự được vài năm cho đến khi Tổng Thống Reagan nắm quyền và với tài lãnh đạo xuất sắc cương quyết nổi tiếng của ông này chắc chắn miền Nam sẽ được yểm trợ đầy đủ (đã xảy ra như vậy tại Nam Mỹ và A Phú Hản ! nhưng nó lại đi chệch lộ-đồ Eurasia) để không thể dể dàng rơi vào tay cộng sản như đã xảy ra trong ngày 30/4/1975. Nhưng khỗ nỗi chính sách không do tổng thống Mỹ mà do tập đoàn đại tư bản nắm giữ!
Đa số người Việt chúng ta đều có tâm tình thiện cảm với dân tộc Do Thái (một phần bị ảnh hưởng qua tác phẩm lừng danh "Về miền đất hứa / Exodus" của tác giả Leon Uris) vì ngưỡng mộ tinh thần đoàn kết và chiến đấu dũng cảm của họ sau 2000 năm lưu vong đã thành công trở về tái dựng lại quốc gia Do Thái nhỏ bé bất chấp trước mọi đe dọa của Khối Ả Rập khổng lồ. Cũng trong cảm tình nồng nàn đó, Học giả Nguyễn Hiến Lê vào năm 1968 mang sức ra viết tác phẩm " Bài học Israel” (Do Thái) để nhắc nhở chúng ta nên noi gương vì sự trường tồn, thinh vượng dân tộc; Nhưng thực tế chính trị cho thấy tham vọng thủ đoạn của Do Thái sau khi tái lập quốc, nên chính ông đã không ngần ngại lên tiếng chỉ trích nặng nề; Đó cũng là tâm trạng của tôi khi biết qua Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận khám phá ra mưu sâu của thế lực Do Thái khiến xảy ra thảm họa 30/4/1975 cho quê hương Việt Nam và dẩn tới hiểm họa mất nước vào tay Trung Cộng kế tiếp? nhưng Hoa Kỳ không bao giờ để chuyện ấy xảy ra.
Tôi tin rằng cùng góp phần với Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và Linh mục Cao Văn Luận đã đi bước tiên phong tiết lộ những bí ẩn về thảm họa 30/4/1975 và trong tương lai sẽ được giới truyền thông báo chí chú tâm nghiên cứu khai triển tích cực để các sử gia hậu cận đại Việt Nam và thế giới mai sau không còn bị phĩnh gạt, sai lầm nữa. Mong thay! thí dụ như hai biến cố trọng đại, khúc quanh trong lịch sử VN: Cuộc chiến thắng Ðiện Biên Phủ dưới đất 1954 và cuộc chiến thắng Ðiện Biên Phủ trên không 1972 bằng sự lừa gạt đồng minh 1954 bằng sự hứa can thiệp của B-29, và 1972 bằng B-52. Mục tiêu sau cùng là biến Viet Nam thành một nước Do Thái tại ÐNÁ để bảo vệ quyền lợi cho Mỹ!
Để tiếp nối giai đoạn 3 “Eurasian Great Game”: Chín tháng sau hoà-đàm Paris, ngày 6/10/1973 mục tiêu chuyển hướng qua Trung Đông (Center Asia) bằng 6 chiếc tàu chở đạn-dược cũa Mỹ khi gần đến hải phận VN, bất thần có lệnh của Kissinger qua mật lệnh truyền từ tham mưu trưởng WSAG, Donald Rumsfeld buộc phải trở đầu chạy về Do Thái unload số đạn dược xuống nơi đó gấp. Câu trả lời là Màn-2 giai đoạn-2 về Á-Châu của siêu sách lược Eurasian đã tạm thời chấm dứt để qua Màn-3 Trung-Đông (Center Asia) như những định kiến và đáp số đã nêu dưới đây:
Nguyên nhân chính nào đã phải kéo dài tấn thảm kịch đến 30/4 mà Rumsfeld đặt tên là Cruel April, Hoa Kỳ đã có kế hoạch giải kết (vì đả có mưu đồ bỏ mọi cam kết bảo vệ miền Nam theo định kiến-2 vì không có văn bản ngoại giao nào minh chứng, trong mưu đồ phỉnh gạt miền nam bằng những bức thư riêng tư giữa hai tổng thống) để từng bước rời bỏ miền Nam VNCH; Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của Mỹ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất".
Tuy nhiên ỡ trong nước, tấn thảm kịch 30/4/1975 xảy ra bất ngờ hơn mọi người Việt đã dự đoán bởi vì vụ xì căng đan Watergate tàn-độc dẫn tới sự từ chức của Tổng Thống Nixon vào ngày 9/8/1974 đã làm tê liệt mọi cố gắng để cứu vãng tình thế; Nhưng đã có trong lịch trình giãi đáp trước đây trên trục Chiến Tranh Lạnh của lý thuyết gia George F Kennan (1904-2005)

Tay sai Lê Đức Thọ được CIA và KGB điều vào nam lãnh đạo cuộc kháng chiến thay Lê Duẩn về Hà Nội làm Quyền Tổng bí thư để phát động lại chiến tranh lần thứ hai, qua trò chơi chiến tranh CIP/NLF. Mafia Lê Ðức Thọ còn được hứa sẽ làm vua cho đến khi Thọ chết mà vẩn còn quyền thừa kế người nào mà Thọ thích và tạm thời làm hoàng tử thống lảnh tiểu bá ba nước Ðông Dương theo yêu cầu của Nga/Mỹ. Thế là:

- Siêu chính phủ Mỹ có cuộc họp Hội Đồng An Ninh quốc gia (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) đưa ra 3 định-kiến dưới đây với giãi pháp bằng 3 đáp số:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances

- Ba tháng sau, tay sai Lê Đức Thọ tuyên bố ngày 20/12/1960 thành lập MTGPMN cũng 3 đáp số:
(1) Quyết tâm đấu tranh giãi phóng miền nam (đối chỏi lại axiom-1)
(2) Cương quyết tiêu diệt ngụy-quyền kèm kẹp của Mỹ/Diệm (đối chỏi axiom-2)
(3) Quyết tâm đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào (đối chỏi axiom-3)
Đó là lý do tại sao Donald-Rumsfeld quả quyết: “Miền Nam bù-nhìn, Miền Bắc yêu nước”

Thế lực nào ở Hoa Kỳ dám đứng sau kế hoặch bỏ rơi miền Nam!? - Theo tôi nghiên cứu cho biết trên chính trường Mỹ có hai sắc tộc nổi bật nhứt, đó là sắc tộc gốc Ái Nhĩ Lan (Ireland) và sắc tộc gốc Do Thái, đặc biệt trong biến cố 911 không có người Do thái nào chết trong số trên 3000 người?
- Trên dòng lịch sử Hoa Kỳ, Cộng-đồng người Mỹ gốc Ái-Nhĩ-Lan đã rất nhiều lần thắng cử chức vụ tổng thống.
- Bên cạnh đó Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái chủ trương nắm giữ các cơ cấu quan trọng trong guồng máy điều khiển đất nước Hoa Kỳ nhứt là trong Đại Hội Đồng Kỹ Nghệ Chiến Tranh (War Industrues Board) Họ gài được nhiều nhân sự vào bên Hành- pháp cũng như Lập-pháp. Trong các bộ quan trọng nhứt như Ngoại giao, Quốc phòng và Tài chánh thường thấy đa số có nhân viên gốc Do Thái và nhiều lần cấp Bộ trưởng cũng do người Mỹ gốc Do Thái nắm giữ. Trong Thượng Viện và Hạ Viện có khá nhiều nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái trong cả hai chính đảng; Vì vậy, thế lực của Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái rất lớn và đã khiến cho chánh sách đối ngoại của Hoa Kỳ luôn luôn binh vực quyền lợi của Do Thái

Tham dự Hòa đàm Paris, Giáo sư Huy nhận xét rằng Kissinger (một người Mỹ gốc Do Thái lúc đó còn làm Cố-vấn An-ninh cho Tổng Thống Nixon) có thái độ đáng ngờ là cương quyết muốn thỏa hiệp riêng ("đi đêm") với CSVN bất cứ giá nào để quân đội Hoa Kỳ rời bỏ miền Nam, dù biết rằng sau đó miền Nam sẽ lọt vào tay Hà Nội. Theo kinh nghiệm chính trị thì các chính trị gia gốc Do Thái đều hành động có chủ đích với kế hoạch rõ rệt (Eurasian) như vậy đằng sau Kissinger ắt phải là chủ trương của thế lực Do Thái và Ái Nhỉ Lan (Giòng họ: Harrimans and Bushes)
Thế lực Do Thái này phải hiểu là không phải chỉ thuần túy Cộng-đồng người Mỹ gốc Do Thái, mà là sắc dân Do Thái trải dài trên thế giới từ Tel Aviv đến Washington D.C., Paris, London, Berlin, Moscow... với tổng số 13,1 triệu người, trong đó 5,4 triệu tại quốc gia Do Thái, 5,3 triệu tại Hoa Kỳ và 2,4 triệu rải rác tại 30 quốc gia khác. Thế lực này được điều khiển hữu hiệu từ Tel Aviv với 2 bộ phận đắc lực gồm Cơ quan Tình báo Mossad và Nghị Viện Do Thái Thế Giới (World Jewish Congress - từ năm 2007 đứng đầu là nhà tỷ phú nổi tiếng Ronald Stephen Lauder người Mỹ gốc Do Thái) Ngoài ra, chúng ta cũng nhận thấy được dân gốc Do Thái đặc biệt thường với mũi to loại diều hâu, điển hình như Ngoại trưởng Kissinger hoặc Nữ Ngoại trưởng Albright (hai người nầy là thiên tài trong chuyên môn đơn giản là vậy, nhưng cũng chỉ là công cụ về mặt nổi trên chính trường như một chính khách quyền năng (freewheeling diplomat).

Những tiết lộ tế nhị của Giáo Sư Huy hoàn toàn phù hợp với nhận định của Linh Mục Cao văn Luận (1908-1986) nhân dịp tái bản tác phẩm Bên Giòng Lịch Sử cũng cho rằng thế lực dân Mỹ gốc Do Thái chủ trương Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam. Riêng dư luận báo chí quốc tế đã sớm nhìn thấy rõ Hoa Kỳ muốn rút lui bỏ rơi miền Nam từ khi bắt đầu chánh sách Việt Nam Hóa Chiến Tranh sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 (mà họ phân tích là nhằm thay đổi màu da tử sĩ từ Âu qua Á Châu) nhứt là hòa đàm Paris (axiom-3, mà họ nhận định là nhằm bảo đảm Mỹ rút quân được an toàn) nhưng theo tôi sau khi nghiên cứu là W.A Harriman muốn đưa TQ vào ghế LHQ để tuân thủ luật pháp nên Harriman mới cách chức tư lệnh TBD của tướng Mc Arthur và xoá bỏ miền nam vì nơi đây sẽ xãy ra cuộc xung đột về dầu-khí tại thềm lục địa từ đảo Điếu Ngư đến Hoàng Sa, Trường Sa. Để chứng minh điều nầy: Nhân dịp sinh nhựt thứ 90 của W.A Harriman, người em út của Kennedy là Ed-Kennedy đã nói: “Thế kỷ 21 chúng ta sẽ hưỡng một không khí an-bình là nhờ sáng kiến của Harriman trong thế kỷ bạo loạn 20 vừa qua”
Như vậy thảm họa 30.04.1975 đã xảy ra, nguyên nhân chính là Hoa Kỳ có chính sách bỏ rơi miền Nam VNCH và thế lực skull and Bones thúc đẩy chính sách đó được thực hiện qua ‘con rối’ Kissinger. Tại sao thế lực Skull and Bones muốn Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam!? Thế lực Skull and Bones tại Hoa Kỳ, đối với tôi quả thực hoàn toàn mới mẻ và đầy ngạc nhiên sau khi được biết đến vai trò thực sự của người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan và gốc Do Thái trên chính trường Hoa Kỳ là do 20 năm nghiên cứu trong thư viện. Qua nghiên cứu, tôi công nhận thấy giáo sư Huy và Cha Luận có một phần đúng; Điển hình là cho đến nay có ít nhứt 23 tổng thống Hoa Kỳ gốc Ái Nhĩ Lan (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Irish_ Americans) mà trong đó có Tổng Thống Washington và những Tổng Thống gần đây như Clinton, Reagan, Kennedy và kể cả Tổng Thống Obama (bên ngoại gốc Ái Nhĩ Lan) Cũng như hiện nay tại quốc hội có 15 Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ gốc Do Thái và 33 Dân Biểu Liên Bang gốc Do Thái (xem website http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ politicians# List) Thực sự nếu nghiên cứu sâu rộng thì sẽ thấy thế lực Skull and Bones tại Mỹ còn lớn hơn nhiều. Họ thành công trong việc gài được những nhân sự cấp lãnh đạo ở các bộ phận yết hầu của Hoa Kỳ. Thí dụ điển hình gần đây như:
- Trong Thượng Viện và Hạ Viện hiện nay với tổng số 48 nghị sĩ và dân biểu gốc Do Thái (so sánh chỉ có 1 dân biểu gốc Việt Nam là ông Cao Quang Ánh).
- Trong Bộ Ngoại Giao có Bộ trưởng Henry Kissinger dưới thời TT Nixon và Bộ trưởng Madeleine Albright dưới thời TT Clinton
- Trong Bộ Quốc Phòng có Bộ trưởng James Schlesinger dưới thời TT Nixon và thời TT Ford
- Trong Bộ Tài Chánh có Bộ trưởng Larry Summer và Bộ trưởng Robert Rubin dưới thời TT Clinton
- Trong CIA có Tổng giám đốc George H W Bush thời Gerald Ford, John M. Deutch dưới thời TT Reagan.
- Trong Ngân Hàng Trung Ương (Fed) cầm đầu bởi Tiến sĩ Alan Greenspan từ 1987 đến 2006 và Giáo sư Ben Bernanke từ 2006 đến nay.
Họ còn chủ động nắm những lãnh vực ngân hàng, Wall Street, thị trường chứng khoán, báo chí, truyền thanh, truyền hình, và điện ảnh; Đặc biệt, ngành truyền thông, quan trọng nhứt là điện ảnh Hollywood, nằm trong tay thế lực Do Thái. Tại Hollywood đa số nhân sự từ đạo diễn đến diễn viên đều có gốc Do Thái, nổi tiếng nhứt như Donald Rumsfeld, Steven Spielberg, Liz Taylor, Kirk Douglas, Michael Douglas, Harrison Ford... Khôi hài nhứt là các tên tài tử ciné của Landing-Zones trong hành quân Lam-Sơn 719: LIZ, SOPHIA, LOLO, HOPE (xem website: http://en.wikipedia .org/wiki/ List_of_Jewish_ American_ entertainers) Họ biết rõ rằng nắm giữ được truyền thông trong tay là hướng dẫn được dư luận quần chúng trong mục tiêu phục vụ quyền lợi cho WIB-Bones. Vì thế tôi đã nhiều lần nhắc nhở CIA chỉ là hạng nhì sau Truyền thông Văn hoá, cứ nhìn vào mùa bầu cử tổng thống thì rỏ; Skull and Bones còn điều khiển một phần lớn các viện Nghiên cứu Chiến lược nhằm đưa ra những đề nghị cho chính sách tương lai của chính phủ Mỹ và dĩ nhiên phải phù hợp với quyền lợi của War Industries Board Bones với quỹ Đen tại ngân hàng Thụy Sĩ

Khởi đầu giải quyết cuộc chiến Quốc Cộng tại Lào vào đầu thập niên 1960-62, ông Ngô Đình Nhu đã ngạc nhiên và bất mãn thấy thái độ nhượng bộ quá mức của ông Averell Harriman (đặc trách bộ phận Viễn Đông của Bộ Ngoại Giao Mỹ, mặc dù là người số 3 trong bộ ngoại giao, nhưng là freewheeling diplomat) trong lúc đàm phán. Nên biết ông Averell Harriman (1891-1986) là một nhà tư bản lớn nổi tiếng gốc Do Thái và cũng là một đảng viên cấp lãnh đạo của đảng Dân Chủ ở Mỹ. Rõ ràng phía thế lực Skull and Bones muốn bảo vệ đường mòn Hồ Chí Minh cho lực lượng CSVN kiểm soát được phần lớn các địa điểm chiến lược tại Lào và thiết lập đường mòn Hồ Chí Minh vận chuyển nhân lực và võ khí vào để đánh chiếm miền Nam vào 30.4.1975 để hoàn thành định kiến-1(axiom-1)
Từ khi nhậm chức, Tổng Thống Johnson (dân Texas) cùng ban tham mưu luôn cứng rắn chủ chiến và không muốn Hoa Kỳ bị thua trận đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình, Thế lực Skull and Bones lúc đó không có ảnh hưởng nhiều trong chánh phủ Tổng Thống Johnson để xoay đổi từ bên trong chính sách can thiệp quân sự của Tổng Thống Johnson, cho nên họ phải chờ đợi cơ hội thuận tiện để tấn công từ bên ngoài dư luận quần chúng bằng công cụ số một Truyền thông Văn hóa
Tướng cò-mồi độc nhởn Moshe Dayan, Bộ trưởng Quốc phòng của Do Thái, đột ngột qua Việt Nam 3 ngày (từ 25 tới 27 tháng 7 năm 1966) và cho báo chí chụp bức hình biểu diễn đang đi hành quân với TQLC Mỹ. Sau chuyến "hành quân" chớp nhoáng đó, Tướng độc nhởn cò-mồi Moshe Dayan viết ngay đề nghị Mỹ nên rút quân ra khỏi Việt Nam vì không thể thắng cuộc chiến này được, nếu như muốn thắng CS, hãy để CS chiếm miền nam (rất là vô lý vì thực sự hiện diện xem xét chiến trường VN chỉ có 1 ngày, mà dám đưa ngay đề nghị khủng khiếp như vậy, quả là có mách nước trước cho một sách lược có lộ-đồ sẳn: chích cho dân Việt một mũi thuốc miễn nhiễm Cộng Sản)
Dĩ nhiên lời đề nghị chủ bại này càng được thổi phồng bởi phong trào phản chiến và làm mất uy tín Tổng Thống Johnson buộc Johnson không được tái ứng cử kỳ hai, đây là một hiện tượng kinh-dị hiếm có trong lịch sử Hoa Kỳ, để chắc ăn, họ ám sát người em TT Kennedy liền sau đó làm cho Đệ Nhứt phu nhân khiếp đãm phải lập lại “…Dù ai có đề nghị chồng tôi cũng cương quyết không ra tái ứng cử”
Sự thật gần đây, vẫn còn có những ký giả và bình luận gia Việt Nam trong đó có tôi ca ngợi những phân tích và đề nghị của ông tướng một mắt này, mà không hiểu đó chính là một trong những thủ phạm đã góp phần "khai tử" miền Nam trước mắt, nhưng đúng 50 năm sau (1973-2023) quả thật đúng như vậy, là một nước VNCH lớn hơn và mạnh hơn trên các thành viên Đông Nam Á, trong khi ấy các thế hệ dính dấp vào cuộc chiến đã nằm sâu dưới lòng đất vì định luật mọi việc rồi sẽ bỏ lại sau lưng

Phong trào phản chiến càng lên cao và đã khiến Tổng Thống Johnson vào tháng 3 năm 1968 phải đi đến quyết định không ra tái ứng cử kỳ hai vì nhiều áp lực của Skull and Bones, liền sau đó quyền lực Skull and Bones mướn Mafia làm thịt người em của Kennedy cũng y chang như người anh (vì Robert Kennedy muốn rút hết quân Mỹ về nước nếu thắng cữ và kế đến phải bịt đầu mối vì R. Kennedy đã tìm ra trong đầu người anh có thêm loại đạn của một tay súng khác) buộc Đệ nhứt phu nhân phải tuyên bố: “Dù ai có đề nghị nhà tôi tái ứng cử cũng big sorry”
Sự xáo trộn tranh chấp kịch liệt trong đảng Dân Chủ đã tạo cơ hội hiếm có để cho ứng cử viên của đảng Cộng Hòa nắm chắc sự thắng cử; Vì vậy thế lực Bones đã chọn và gài được thiên tài Kissinger từ năm 1957 làm tư-vấn cho Nelson A. Rockefeller (Thống đốc New York vừa hạ đo ván W.A Harriman để chiếm ghế) đang vận động ra tranh cử làm ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa, nhưng không ngờ Nixon thành công hơn và cuối cùng thắng cử làm Tổng Thống. Nixon lên ngôi làm cho Bones rất lo ngại. Thấy vậy, Bones bèn đưa con gà nhà Kissinger, gọi là trở cờ đầu quân theo Nixon và được trọng dụng làm Cố vấn An ninh và sẽ kiêm luôn Bộ trưởng ngoại giao vào thời điểm cần thiết (decent interval) Dù rằng trong thời gian tranh cữ Kissinger hạ nhục Nixon không tiếc lới. Thế mới biết quyền lực ghê gớm của bọn Skull and Bones đặt để gần như ép buộc Nixon phải nhận Kissinger; Thế lực Skull and Bones còn đưa được thêm nhân sự gốc Do Thái và Ái Nhỉ Lan vào trong guồng máy cầm quyền Mỹ. Đáng kể nhứt là Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger, Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann (1925-1999)... với những chức vụ then chốt này, họ đã thành công bày mưu ép buộc Nixon bỏ rơi miền Nam. Bắt đầu với chương trình Việt Nam Hóa Chiến Tranh, sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 để từng bước giảm con số lính Mỹ tử vong và bớt dần sự hiện diện của Hoa Kỳ tại miền Nam trong thời gian chuẩn bị hoàn thành định kiến-3 (axiom-3)
Đến năm 1971, theo sự chủ đạo của Skull and Bones, Kissinger bí mật qua Trung Hoa tìm cách tái bang giao với chính quyền Bắc Kinh và đưa đến thỏa hiệp Thượng Hải 1972 giữa Mao Trạch Đông và Nixon, đánh dấu giai đoạn lịch sử chấm dứt 20 năm thù địch cũng như sau nầy theo lộ đồ Việt Nam cũng chấm dứt 20 năm thù địch (1975-1995) Rồi thì hai nước Tư bãn Đỏ nầy sẽ mua máy bay Boeing làm một món quà giao-hảo. Tốt đẹp cả làng!
Trên bề mặt, thỏa hiệp này chỉ công nhận một nước Trung Hoa cho thấy Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan trên chính trường thế giới, rồi thì tới VNCH, nhưng bên trong thực tế Kissinger nhằm sửa soạn sự rút lui an toàn cho quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam với sự bảo đảm của Trung Cộng. Có nghĩa là khi Mỹ rút quân và cho phép Hà Nội đem hết quân vào nam để tróng miền Bắc, Trung Quốc đừng làm ẩu đem quân chiếm Hà Nội lấy cớ Hà Nội vi phạm Hiệp định Paris và giúp cho MTGPMQ lên ngôi, làm như vậy bể sách lược cũa Skull and Bones. Kissinger cũng thừa hiểu TQ không dại gì làm vậy vì Mỹ sẽ giúp TQ trở nên một cường quốc kinh tế và mạnh về khoa học kỹ thuật sau nầy

Quả nhiên, chỉ sau đó chưa đầy một năm, Kissinger đã dùng đủ mọi mánh khóe, kể cả đe dọa tánh mạng các cấp lãnh đạo VNCH, thành công trong việc ép buộc VNCH ký kết Hiệp Định Paris vào ngày 27/1/1973 để quân đội Hoa Kỳ được an toàn rời khỏi miền Nam. Phía dư luận báo chí quốc tế đã sớm thấy rõ âm mưu của siêu chính phủ qua Kissinger và đã ví bản hiệp định này giống như tờ khai tử cho miền Nam Việt Nam, chính ngay Kissinger cũng đã tiết lộ bề trái của bản hiệp định cho Cố vấn đặc trách Nội vụ John Ehrlichmann của T.T Nixon như sau: "Tôi nghĩ rằng nếu họ (chánh phủ VNCH) may mắn thì được 1 năm rưỡi mới mất". Tương tự Kissinger đã trấn an T.T Nixon là: “Hoa Kỳ phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau (Decent Interval) sau đó thì …chẳng ai cốc-cần gì nữa . Vì lúc ấy, Việt nam sẽ chỉ còn là bãi tha ma hoang vắng … rồi ăn Bo Bo trừ Cơm! Bởi vậy thảm họa 30.4.1975 xảy ra là điều tất nhiên đúng như tính toán trước của HĐANQG (NSC) ngày 21/9/1960: (Thời chính phủ Eisenhower) qua 3 đáp số dưới đây:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances

Để tiếp nối giai đoạn 3 “Eurasian Great Game”: ngày 6/10/1973 mục tiêu chuyển hướng qua Trung Đông (Center Asia) Chỉ sau Hiệp Định Paris khoảng 9 tháng, cuộc chiến tiếp nối theo sách lược Eurasian là: “Jom Kippur” vào ngày 6.10.1973 giữa Do Thái và các quốc gia Ả Rập láng giềng xảy ra. Việt Nam như vậy đủ rồi, Skull and Bones cần tiếp nối War-Business, lần đầu tiên trong lịch sử tái lập quốc, Do Thái bị thua trận và mất một số lớn phần đất chiếm đóng trước đây. Đáng lẽ Do Thái còn có thể bị thua nặng nề hơn nữa, nhưng làm sao Skull and Bones để mất nước Do-Thái, liền tức khắc Donald Rumsfeld bấm nút Robot Kissinger thuyết phục Nixon nỗ lực can thiệp tối đa giúp Do Thái, nên tình thế không còn bi đát nhiều. Tuy nhiên, sau đó Tướng độc nhỡn Moshe Dayan phải từ chức Bộ trưởng Quốc phòng vì chịu trách nhiệm bị thua trận
Bí ẩn về lý do và động lực thúc đẩy Hoa Kỳ phải rút quân bỏ rơi miến Nam được che dấu tinh vi không đưa ra dư luận nổi, bởi vì phần lớn hệ thống truyền thống báo chí quan trọng nằm trong tay thế lực Skull and Bones hoặc bị họ ảnh hưởng kiểm soát không cho phép làm hoặc sợ bị mang tiếng bài Do Thái và Ái Nhĩ Lan (Anti-Semitism) Cho nên đến 35 năm sau dư luận vẫn còn bị phĩnh gạt dài dài, một cách tinh vi qua truyền thông văn hoá cố tính bóp méo sự thật kể cả những tài liệu mật nhưng không mật tí nào cả. Thí dụ Cụ Hồ là giả, là người Tàu, Nixon đòi cắt đầu TT Thiệu, NCK là người giả giải phẩu, Johnson ra lệnh giết Kennedy, TT Diệm buôn Á phiện bị Kennedy ra lệnh giết …Điển hình, về phía dư luận ngoại quốc vẫn còn có những học giả (thí dụ: Tiến sĩ Stephen Randolph trong Hội Thảo "Việt Nam, 35 Năm Nhìn Lại" - “Vietnam, A 35 Year Retrospective Conference” Tại Washington D.C, vào ngày 9.4.2010, lầm lẫn hoặc cố tình nhàu nặng cho rằng Hoa Kỳ vào năm 1972 muốn tái lập bang giao với Trung Cộng nên phải rút quân ra khỏi miền Nam. Vì đang câu con cá to hơn (“has bigger fish to fry”)
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ lúc Harriman nói chuyện với Lê Đức Thọ tại Paris với những lời vàng thước ngọc giao miền nam cho Hà Nội rồi Harriman rời khỏi vỉnh viễn sân khấu chính trị vào tuổi 78, George H W Bush (Bush Cha) lên ngôi, biết hậu quả sẽ không đẹp gì, là thãm-kịch, nên giao cho Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 bằng đội bóng mà Kissinger là Quarterback, còn Donald Rumsfeld là Linebacker, còn George H W Bush mới thật sự là ông Bầu Coach. Cho nên thế giới không ai biết gì cả chỉ đoán mò mà thôi; Nêu chúng ta thừa cơ hội internet mà nghiên cứu và suy diển liên hệ với thực tế trên vài chục ngàn cuốn sách nói về lịch sử và triều đại nước Mỹ thì rỏ tại Library of Congress, vào những mục cần thiết cho chứng cớ biện minh mà thôi

TRƯƠNG VĂN VINH

Vũ khí làm ra phải tiêu dung, thí dụ như Lam Sơn 719 thiệt hại:



U.S. Army Aircraft Damaged and Destroyed


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302310241.png


B-52 "Arc Light" Operation Summary, LAM SON 719

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302310424.png


U.S. and ARVN Artillery Support

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302310491.png

Nhóm Kỹ nghệ quốc phòng [War Industries Board] rất hã-hê với thiệt hại như trên, với 215 hy sinh và 38 MIA, VNAF nhờ hên nên chĩ thiệt hại 10 hy sinh, 6 MIA (đây là kết quả qua giấy trắng mực đen cũa Mỹ/Việt, bạn có thể kiểm chứng lại trên sách sữ và internet youtube, vì tôi thích viết những gì có sách mách có chứng)

KQ Trương Văn Vinh

vinhtruong
04-28-2011, 06:55 PM
Thực tế Hoa Kỳ đã có kế hoạch bỏ rơi miền Nam từ lúc Harriman nói chuyện với Lê Đức Thọ tại Paris 1968-69 với những lời vàng thước ngọc giao miền nam cho Hà Nội (axiom-1), rồi Harriman rời khỏi vỉnh viễn sân khấu chính trị vào tuổi 78, George H W Bush (Bush Cha) lên ngôi Skull and Bones, biết hậu quả sẽ không đẹp gì, là thãm-kịch, nên giao cho powerman Kissinger bước vào Tòa Bạch Ốc năm 1969 bằng đội bóng mà Kissinger là Quarterback, còn Donald Rumsfeld, tham mưu trưởng là Linebacker, còn George H W Bush mới thật sự là ông Bầu Coach. Cho nên thế giới không ai biết gì cả chỉ đoán mò mà thôi; Nên chúng ta thừa cơ hội internet mà nghiên cứu và suy diển liên hệ với thực tế trên vài ngàn cuốn sách nói về lịch sử và triều đại nước Mỹ “American dynasty” Kevin Phillips 2004 thì rỏ tại Library of Congress, vào những mục cần thiết cho chứng cớ biện minh mà thôi:
Trong số tài liệu tối mật Wikileak, tôi chọn ra vài chứng cớ dính líu vào cuộc chiến VN để soi-rọi làm sáng tỏ những vùng tối tăm của lịch sữ chiến tranh, qua các tài liệu cùng phối hợp chứng cớ với 2 tác phẫm “The New Legion” mà người bình thường khó tin cậy được, hay nói toạt mống heo ra "Bốn thập niên sau khi chiến tranh chấm dứt, đa số người dân có ý kiến về nó, nhưng có rất, rất ít người biết thực chất lịch sử của cuộc chiến này" Vi chúng ta bị nhằm lấn giữa Mafia VN và ĐCSVN, nếu một ai có ít nhởn quan chính trị thử suy gẩm có chút xíu nào về Max-Lê trong xả hội hiện tại? Hay nói trắng ra: khi nào nói về chính trị, thì chính phủ “hiện-hửu” (acting government) Mỹ gọi là ÐCSVN, nhưng còn nói về “Siêu chính phủ” (Permanent Government) là bọn Mafia VN, bồ-tèo (buddy) của PG. Dỉ nhiên cũng có vài người chưa hiểu nỗi … hiểu là chết liền .. . nếu ai thấy bực mình “tức-khí” thì phải chịu khó tra cứu thêm những tài liệu có thật dưới đây mới dễ dàng hiểu rõ thêm; Ðể đi đến kết luận (chính phủ và P.G) Bạn biết được ai nắm chính sách Mỹ sẽ tìm ra ngay đáp số?

Trên trục lộ-đồ Eurasian, tất cả tổng thống Mỹ đều tiếp nối làm tổng-quản-lý (general manager) TT nào bị “chủ-nhân-ông” đặt vào ống kính là chướng ngại vật đều phải bị “trục-bứng” ra khỏi trục-lộ nầy như: anh em Kennedy, (vì thề quyết tiêu diệt Skull and Bones qua lập lại 1942 Trading With The Enemy Act-1941, xem tài liệu dưới đây) TT Johnson, (không được quyền tái ứng cử kỳ-2 vì đeo đuổi chính sách y-chang người tiền nhiệm, có nghiã toa rập với Bộ trưởng Tư Pháp Robert Kennedy tiếp tục triệt tiêu Harriman và Bushes theo hiến luật TWEA) TT Nixon, (phải bị Watergate để hoá giải các bức thư riêng tư giữa Thiệu/Nixon, dù rằng theo hiến-luật Nixon có quyền ân xá cho chính mình, như TT Bush-Con đả làm trong khi vi phạm lừa dối người dân và Quốc Hội về vũ khí …) TT Reagan, (ra lệnh cấm bán lúa mì cho Liên Xô, bồ-tèo partner làm ăn của Permanent Government về Aid to Russia 1941-1946 Plan, vì sẽ renewed và reactivated, như mới đây VN có nhận tàu ngầm và máy bay tối tân của Nga Xô trong khi Mỹ không làm gi được vi lịnh cấm bán vũ khí sát thương cho VN vấn còn có hiệu lực)
Tài liệu internet: Under the World War I era “Trading With the Enemy Act”. However ... rates established by the infamous Smoot-Hawley Tariff Act of 1930 ... The Trading with the Enemy Act 'any person not an enemy or ally of enemy' who claims an interest in vested property and fails torecover it by...

- (A) GIAI ÐOẠN BỊ CHÍNH QUYỀN HIỆN HỬU ÁP DỤNG HIẾN QUYỀN TWEA
Permanent Government 1942 (Skull and Bones) bị tịch thu, Tập đoàn WIB [War Industries Board] bị Confiscation all dates back to the Trading with the Enemy Act of 1917. That year, President Woodrow Wilson signed the “TWEA” into law ...
http://www.silvermonthly.com/.../gov...recould-happen "Under the Trading with the Enemy Act, the government took over the Union Banking Corporation, in which Bush was a director. The U.S. Alien Property ... President Franklin Delano Roosevelt signed the Trading With the Enemy Act after it had been made public that U.S. companies were doing business with the ...
http://www.lycos.com/.../franklin-de...roosevelt.html
- By 9 (a) of the Trading with the Enemy Act 'any person not an enemy or ally of enemy' who claims an interest in vested property and fails torecover it by ... ... 1942, an embargo was imposed on the Silesian-American Corporation - another firm headed by Bush and Walker - under the same Trading with the Enemy Act. ... Prescott Bush was a director of the Union Banking Corporation, which the U.S. government took over in 1942 under the Trading with the Enemy Act. The U.S… His business dealings, which continued until his company's assets were seized in 1942 under the Trading with the Enemy Act, has led more than 60 years later ... The seizure order, issued under the Trading with the Enemy Act, described Silesian-American as a “US holding company with German and Polish subsidiaries” ...more on Bush family, Doing business with the enemy is nothing new to the Bush family... seized by the US government during World War II under the Trading with the Enemy Act. ...
www.rense.com/general14/bushsformer.htm

- (B) GIAI ÐOẠN PERMANENT GOVERNMENT DÙNG LUẬT RỪNG
Harriman & Bushes cương quyết: “Ði với Bụt mặc áo cà xa đi với ma mặc áo giấy” đó là lý do, sáng lập viên W A Harriman (1891-1986) đặt cho cái tên là Skull and Bones 1920 có lúc phải sử dụng luật rừng ở Mỹ hay Cow Boy Texas hối Tấy tiến WWW
Bởi vì Trading With The Enemy Act of 1917 was used by President Kennedy in 1962 to ban virtually all trade and commerce with the Castro regime and also focusing on Bushes. ... 02.03.61 The U.S. government announced it was considering, in the case of Cuba , the enforcement of the Trading with the Enemy Act
http://www.certifiedcubanclaims.org/...rade_enemy.htm
www.hermes-press.com/germany1930.htm -
http://www.rense.com/general40/bushf...ndedhitler.htm -
openjurist.org/.../bank-voor-handel-en-scheepvaart-nv-v-f-kennedy-nv-hollandsch-amerikaansche-beleggings-maatschappij
-(1) Vietnam: Trading With The Enemy or investing in the future, by FG Connor - 1994 - Cited by 7 - Related articles (nhờ Kennedy bị ám sát, ngày nay Mafia VN có tàu ngầm, máy bay chiến đấu tối tân do Nga Xô viện trợ chớ Mafia VN bỏ tiền vô túi còn chưa đủ nói chi mua vũ khí? Có 2 batches vũ khí quan trọng, trước Eagle Pull Operation 1975, Mafia VN nhận 700 triệu tấn vũ khí tối tân với 3 mục tiêu (1) chiếm miền nam, (2) chiếm Cambodia, (3) hệ thống phòng không tối-tân phòng thủ Hà Nội 1979, trong khi chờ đợi Quốc hội cắt bỏ lịnh bán vũ khí sát thương cho VN - Roll-Back 2010, tạm thời nhận phi cơ tàu ngầm Nga Xô trước đả)
-(2) At that time, federal regulations
-(3) promulgated under the authority of the Trading With the Enemy Act (TWEA)
-(4) prohibited virtually all economic ...

TT Kennedy thi hành đúng hiến pháp, hậu quả phi công anh hùng thời chiến, George H W Bush (Bush-Cha) dùng luật Cow Boy Texas, phải ta tay thanh toán JFKennedy killed just days after shutting down Rothschild’s Fed Reserve Apr 19, 2011 ... AFTER 1913 ~ The Glass Steagall Act Enacted By FDR blocked all attempts by ... Well They Turned Another Enemy To Rothschild/Hollywood Media Into A ... Operatives Who's Job Is To Orchestrate Insider Trading Mechanisms ...
politicalvelcraft.org/.../jfk-killed-just-days-after-shutting-down-rothschilds-fed-reserve-in-1963-secret-memo-shows-president-signed-executive-orders...

Thế là Skull and Bones cứ phon phon go ahead Oct 3, 2001 ... One of their businesses that violated the TRADING WITH THE ENEMY ACT became what the Halliburton, company which Dick Cheney ran until he ...
http://www.georgewalkerbush.net/bush...fundedhitler.h

Sau 50 làm lể kỹ niệm cuộc chiến VN như đả ấn định 2023 (y chang 50 kỹ niệm cuộc chiến Triều Tiên 2003 (xem LOGO trang 41/Volume-1) Năm nầy 2023, (những ai dính dấp vào cuộc chiến đều đả nằm yên, không thể trồi lên mà lội ngược dòng lịch sử) chính phủ Hoa Kỳ hiện hửu dĩ nhiên căn cứ theo chính sách của Permanent Government mà TNS cựu tù POW Mc Cain đả bị Hà Nội đánh đập tra tấn tàn nhẩn đến nổi 2 lần tự sát mà không thành, nhưng vì phải trả lại tính trung thực cho lịch sử, nói rỏ mục tiêu chiến lược toàn cầu của quốc gia bằng Patriot Act (The USA PATRIOT Act (commonly known as the "Patriot Act" is an Act of the U.S. Congress that was signed into law by President George W. Bush on October 26 …) muốn nói P.G dù đem chiến tranh hay thậm chí còn thanh-toán các lảnh-tụ trong cũng như ngoài nước không nhằm mục tiêu chủ trương cũng-cố nước Mỹ phãi là một siêu cường số một bỏ xa các nước khác...) nên Mc Cain buộc phải thú thật trước dư luận thế giới ngay tại kinh-đô ánh sáng Paris, chứng minh Cụ HCM là người QUỐC GIA không phải CS trong ống kính P.G và qua định-kiến-1 trước khi khoấy động lại cuộc chiến tranh lần thứ hai, NSC/21/9/1960, với axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon, có nghĩa PG có trách nhiệm sẽ tìm cách bức tử nó sớm hay muộn theo như lộ trình đả quyết định trong phóng đồ PRAISE system

Thế là Cụ Hồ bị Mỹ phỉnh gạc, và phản bội qua 8 bức-thư thĩnh cầu được TT Truman bảo trợ như Phi Luật Tân, nhưng bị P.G quăng vào xọt rác, P.G cách ly cụ ra khỏi cơ quan quyền lực bằng triều đại Mafia Lê Ðức Thọ: (sau một thời gian theo nguyên tắc, CIA buộc phải tiết lộ tài liệu mật về sự phĩnh gạc nầy) Sơ khởi sớm nhứt 2005, The Newsweek “Paris Match” on April 25, 2005 interviewed U.S. POW Senate John McCain, repeated Axiom-I, stance of U.S Permanent Government, was explained the Vietnam-War in universities 1960s: “Les Sud Vietnamiens n’ont jamais cruque le gouvernement en place à Saigon était legitime. Ils savaient que Hồ Chí Minh était un nationaliste qui rechercherait l’unification du pays. En Irak, les elections ont prouvé que les Irakiens croient que leur government est légitime…” Once McCain came back at Hoả-Lò, Hilton Prison, he said “The bad guys won the war!”

QUEENBEE-1

vinhtruong
04-29-2011, 04:58 PM
Trong những nhân vật sừng-sỏ trên đây, chỉ có W.A. Harriman là người có nhiều tham vọng, nhưng thật ra ông cũng là một thiên tài “giấu-mặt” làm nên lịch-sử Hoa-kỳ. Theo cá nhân tôi nghĩ đem so với Quân sư Gia-Cát-Lượng để đánh giá thì Harriman quả thật xứng đáng là một “Đại-đế giấu mặt” không những trong nước Mỹ mà cã thế giới; báo chí thời đó cũng như hai văn hào Walter Isaacson và Evan Thomas mô tả Harriman là người lảnh đạo trong Nhóm “Sáu người thông-thái” nắm vận mệnh thế giới. Riêng Harriman biết xử dụng đồng tiền của người Cha để lại và mở kinh doanh ngân hàng W.A.Harriman and Company rồi trở nên Tổng Giám-Đốc đội thương thuyền lớn nhất thời đó, năm (1917-1925) Sự thành công theo phóng đồ thẳng đứng của ông làm “thôi miên” giòng họ Bushes, trong đó có George Herbert Walker, là tiền bối bốn đời của TT Bush-Con, Tổng-thống thứ 43 của Hoa-kỳ và ông Prescott Bush là cha của George H.W. Bush, Tổng-thống thứ 41 của Hoa-kỳ. Thật cũng là điều lạ, ở trên đời nầy ít ai chịu thuần phục một kẻ nhỏ hơn mình 16 tuổi như so sánh Harriman với Walker, ấy thế mà cả hai ông Bushes nầy đã thích-thú học-hỏi, tự-nguyện làm thành viên trong thương nghiệp mà người Chủ là Harriman; Chẳng bao lâu từ một người đại-lý buôn bán võ xe khiêm-nhường, Ông nội Bush con là Prescott Bush đã trở nên nhà triệu, với số tiền chuyên ngân từ Fritz Thyssen (Đức).
Harriman, tuổi vừa tròn 27 và mới tốt nghiệp 4 năm Đại-Học Yale; Năm 1917, lợi dụng trong thời chiến áp-lực chính quyền phải ký hợp đồng vào sự nghiệp đóng tàu hàng-hải dù cha Ông nổi tiếng là ông Vua về sở hỏa-xa. Harriman đóng tàu thành công trong thời chiến, chẳng bao lâu Harriman trở nên ông Vua về đội thương thuyền hàng hải lớn nhất vào thời đó, được củng cố phát triển qua danh xưng United American Lines, ông đặt vào trọng tâm tham vọng lợi nhuận qua hợp đồng với nước Đức bằng đường hàng-hải Hamburg-American Trong khi hơn nữa thế kỷ, người ta đều nghe danh ngân hàng tín dụng thương mại Quốc-tế BCCI (Bank of Credit and Commerce International) do sư tổ dòng họ Bush, George Herbert Walker sáng lập truyền lại cho cả dòng họ Bush sau nầy.
Trong Đảng Công-Ty, đáng kể là nhánh Cộng-Hòa có dòng-tộc Rockerfeller và Stillman, nhưng tất cả không ai chịu dấn thân ra làm chính khách để bảo vệ quyền lợi Công-ty, mặc dù phần đông, bản chất của họ phát xuất từ Đảng Cộng-Hòa. Đứng trên góc cạnh nước Mỹ, Harriman là một thương gia giàu có, một chiến lược gia có tằm cở quốc tế, một chính trị gia có tầm nhìn sâu-sắc, một chính khách lỗi-lạc, một nhà ái-quốc hiếm có, một đảng viên Dân-chủ đúng nghĩa để lo cho quyền lợi của tất cả Tập đoàn Tư bản không phân biệt lớn nhỏ, chịu dấn thân xa rời sự hưởng thụ giàu sang, hy-sinh và tận-tụy cho sự hùng-mạnh của đất nước Hoa-Kỳ. Yêu nước là yêu Tư-bản Chủ-nghĩa, vì Hoa-kỳ là tiêu biểu.
Khi Cách Mạng Nga thành lập chính quyền (năm 1917) và thành phần Tư-sản bị đày ải cho đến chết tại vùng đông lạnh Tây-Bá-Lợi-Á (Siberia) Harriman nhìn xa hơn vào lá cờ ‘Búa-Liềm’ ông đã đặt nhiều quan tâm đến giai cấp Công-nhân là chính, ông không sợ những giáo điều của Lenine sẽ đi vào thực tế như: “Trước hết, chúng ta sẽ chiếm Đông-Âu, rồi nắm lấy khối quần chúng khổng lồ ở Á-Châu, sau đó bao vây Hoa-kỳ và thành lũy cuối cùng của Chủ-nghĩa Tư-bản. Chúng ta khỏi phải đánh đấm chi cả, Hoa-kỳ cũng sẽ phải rơi vào tay chúng ta như một trái cây đã chín rục. Vì thế đã là người Cộng-Sản phải đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù là giai cấp Tư-Sản” và ‘Chính sách cải tạo’ là kỷ thuật đánh lừa người Tù “luôn luôn làm cho chúng có ý hy-vọng được tự-do, chuyển trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy-vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Siberia còn ở Mỹ là Alaska.
Harriman không căm ghét người Nga mà trái lại Ông rất có cảm tình với người Nga qua nỗi lòng của Ông, lồng vào hai tác phẩm “Peace with Russia” 1959 (hòa bình với Liên-Xô) và “America and Russia in a Changing World” 1971 (Hoa-Kỳ và Liên-Xô cùng thay đổi cục diện thế-giới) Một tư-tưởng vĩ-đại đang nẫy sinh trong khối óc của ông, người Công-nhân và Nông dân là nguồn nhân lực “sản xuất”, xứng đáng được hưởng những của cải do họ làm ra, nổi bật hơn, là tại sao không để cho họ chia phần làm chủ (Profit Sharing) ông vẽ ra một thế-giới phồn thịnh do người công-nhân sản xuất ra của-cải và chỉ có vài người bỏ vốn đầu tư thì chính họ mới là người lãnh-đạo, vì trên thực-tế “người nào chi tiền người đó chỉ-huy” (như trong chiến-tranh Việt-Nam, có lần Tướng O’Daniel nói toạc ra ‘ai chi tiền người đó chỉ-huy) Sự bỏ vốn đầu tư ở Liên-Xô không ngoài mục đích trên và sau nầy là Trung-Quốc; Đây là hình thức cũng như chân lý thực tế nắm chắc giai cấp thợ thuyền một cách tinh-vi với giá rẻ mạt, nhưng căn cứ trên sự hài lòng tự nguyện, thay vì đối xử với Họ như bầy Ong bầy Kiến, Harriman mảnh liệt tin tưởng phải xây dựng thế giới thành nơi an-toàn cho nền dân chủ, bởi vì chế độ Dân chủ sẽ mở rộng để tiếp nhận tất cả năng lực của con người.
Thật vậy, khi cướp được chính quyền vào năm 1917, hăng say trong chiến thắng, Lenine thường chủ quan với đề tài: Cộng-sản, Tư-bản, ai thắng ai?” Và càng đi xa hơn bằng cách tuyên bố: “Tụi Tư bản, nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nổi, nó biết người ta mua dây thòng lọng để treo cổ chúng nó, thế mà chúng nó vẩn sản xuất và bán cho người ta” Từ đó đến nay đã gần 100 năm, và nếu chúng ta lấy mốc điểm thời gian 160 năm khi Karl Marx (1818-1883) viết tuyên ngôn thư Ðảng Cộng sản, suy ngẫm những biến cố lịch sử đã xảy ra: Chúng ta thấy nó hoàn toàn trái ngược lời tiên tri của Marx và Lenine. Marx tiên tri là Tư bản dãy chết, cách mạng tất yếu sẽ xảy ra tại những nước Tư bản, Lenine tiên đoán Cộng sản sẽ treo cổ Tư-bản; Nhưng Tư bản không dãy chết, không bị Cộng sản treo cổ, mà ngược lại, câu nói của Marx trở thành: Cộng sản dãy chết. Cách mạng tất yếu sẽ xẩy ra tại các nước Cộng sản “Và câu nói của Lenine cũng trở thành: “Tụi Cộng sản nó vừa ngu và vừa tham. Tham và ngu đến nổi, nó biết người ta bán Coca Cola, Mac Donald, quần Jeans, hàng hóa cho nó, để dụ nó vào sập-bẫy, để bóp cổ nó chết, nhưng nó vẩn cứ mua!” W.A Harriman quả thật là một chiến-lược gia thiên tài, nếu chúng ta nghiên cứu chiến lược “Eurasian” của Skull and Bones đánh sập các nước Liên Xô và Ðông âu, thì chúng ta thấy họ đến với các nước nầy đầu tiên bằng những bang giao kinh tế, thương mại, đến với Coca Cola, Mac Donald, sau đó từ từ biến kinh tế quốc doanh thành kinh tế tư doanh, với tuyệt chiêu là “tối-huệ-quốc” làm cho xả hội dân sự các nước nầy mỗi ngày một trở nên mạnh; dỉ nhiên Ðãng và nhà nước CS mỗi ngày một yếu đi, đến lúc không thể cưởng lại được, thì chế độ sụp đổ. Lẽ tất nhiên sự sụp đổ của Liên Xô và Ðông âu còn nhiều lý do qua sự nối-tiếp điều hành kiệt xuất của giòng họ Bush: Chiến tranh Tình-báo Phản-gián là một cú đấm sau cùng của loài Ma Ðầu-lâu Skull and Bones, vì đi với Ma phải mặc “Áo-Giấy” là vậy, cho nên Harriman không ngại ngùng khi sáng lập ra Ðảng Ðầu-lâu Xương-người. [Skull and Bones]
Ngày hôm nay, Hoa kỳ cố gắng đưa-đẩy Việt Nam vào Tổ chức Thương Mại Quốc-tế (WTO) theo lộ-đồ, giúp VN trở thành Ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo An LHQ, rồi có Vệ-tinh riêng để bảo vệ lảnh thổ (Hoa-kỳ đã hủy diệt nhửng thám thính cơ bí-mật với âm mưu tìm kiếm hơi đốt cũng như dầu hỏa trên thềm lục địa VN, [kẻ lén lúc dọ thám tìm mỏ, nhưng có người âm thầm triệt hạ cho biết tay mảnh vun rớt trên đảo Phú Quốc] Kẻ bành trướng không chịu hiểu: “Cái ổ con Ó-Mẹ làm ra không thể Le-Le hay Vịt trời-Con nở ra nơi đó!”) Tình báo Hoa-kỳ theo lộ trình sơ khởi về phát họa những chiến thuật ngắn hạn, nằm trong một chiến lược dài hạn, đó là thay thế mô hình tổ chức xả hội độc đoán, độc tài CS, bằng mô-hình tổ chức xả hội Dân chủ, Tự do và kinh tế thị trường. Hoa kỳ tiên đoán theo lộ-đồ: Chế độ Cộng sản chỉ sụp đổ dưới Ba sức ép:
- (1) Nhất là giới trí thức, sĩ phu, sinh viên, học sinh sẽ phải can đãm đứng lên đấu tranh càng ngày càng đông hơn, đấu tranh cho quyền sống và quyền làm người
- (2) Sức ép đến từ quốc-tế, đến từ hành động của Cộng đồng người Việt hải ngoại
- (3) Sức ép đến từ sự rạn nứt, (đây là tuyệt chiêu của CIA) chia rẻ trong Ðảng Cộng sản qua tố cáo chỉ mặt các quan chức tham nhũng

Dưới thời Cách-Mạng Nga thành lập chính quyền năm 1917 bởi Aleksandr Kerensky, đảng Công-ty nầy cho mượn ngay tín-dụng số tiền là 325 triệu dollars để mua các vật liệu làm chiến-cụ, dĩ nhiên vật liệu nầy phải từ Hoa-Kỳ chuyển qua Liên-Xô. Mặt khác Harriman với con mắt nhìn xa thấy rộng, đang dòm ngó nguồn tài nguyên ‘dầu khí’ và mỏ ‘manganese’ để luyện thành hợp kim ‘alloy’ làm vũ-khí, nhất là các túi dầu chạy dài dọc theo các nước Cộng-Hòa Trung-Á đang nằm sâu dưới lớp Tuyết dày đặc mà chỉ có Hoa-kỳ mới có đủ khoa-học và kỷ-thuật để khai thác. Một tư-tưởng kinh-dị về “Eurasian Great Game” đang thoáng in sâu trong óc của Harriman từ dạo đó (1920) Đây là một kế hoặch chiến lược dài lê thê đến hàng thế kỷ mà một đời người không đủ thời gian đảm trách
Harriman chụp lấy cơ hội nhảy vào chính-trường, Thủ-tướng Anh, là Winston Churchill và Chủ-Tịch Liên-Xô, Stalin biết mọi việc ở Mỹ qua Harriman; Trong suốt thời gian Đệ II thế chiến, Harriman là người trao mật tin giữa London và Moscov, ông chọn con số cho gọn trong hồ-sơ phối hợp giữa hai bên là 322 (his diplomatic case the numerals 322) cho tiện giữ bí mật. Dù rằng cuộc đời thương-mại đang quá thành công trong việc làm ăn với hai chính quyền đang xung đột với nhau là Đức và Liên-Xô. Bên cạnh đó Công-ty Remington-Arms của Rockerfeller lại buôn lậu bí mật vũ-khí từ Hoa-kỳ bán cho Đức qua ngã Holland vào đầu năm 1930; Đối với Tập-đoàn Tư-bản nầy chỉ biết có quyền lợi qua đồng Dollar, không có bạn mà cũng không có thù, chỉ có quyền lợi quyết định sự liên-minh.

Harriman bỏ ngành Hỏa-xa qua ngành đóng tàu chiến và trở nên Đại-đế ngoài nước Mỹ, (Overseas-Empire) Theo như báo chí Saint-Louis thời đó mô tả, khi con người quá thành công về tiền-tài thì người ta lại muốn bước vào đài danh-vọng, Harriman biết chuẩn bị cho mình rất chu đáo để trở nên một nguyên thủ Quốc-gia Hoa-kỳ. Nhưng Chúa lại không chìu lòng người, hai lần ra ứng-cử đều bị thất bại, năm 1952 và năm 1956; Mặc dù đã chuẩn bị sẳn-sàng lấy đà lên chức cuối cùng làm Thống-đốc của một tiểu bang lớn nhất nước Mỹ, là New-York.
Năm 1962, Tổng-thống Diệm được sự mách nước của vị Đại-sứ khả ái Frederick Nolting, nên đã đề cử ông Cố-vấn Ngô-Đình-Nhu qua Genève để gặp Phù-thủy Harriman và thuyết phục Harriman đừng ký vào hiệp định Trung-Lập Lào, vì biết chắc rằng Hà-Nội sẽ vi phạm và lợi dụng phần đất Lào để lấn chiếm Miền-Nam. Theo chương trình thì Harriman chỉ tiếp ông Nhu có 30 phút, nhưng cuộc bàn thảo kéo dài đến 3 tiếng; Khi Harriman tiển chân ông Nhu ra về, ông Bộ-trưởng Cao Xuân Vỹ nhận thấy vẽ mặt hai người hầm-hầm như bực tức một điều gì. Khi Cụ Nhu gặp ông Vỹ, Cụ Nhu bèn xả ra cho nhẹ người: “cái thằng Cha nầy không biết gì cả”. Làm sao Cụ Nhu biết được thế siêu chiến lược của Harriman về Eurasian! Định kiến Axiom-1 biến con đường mòn HCM thành Xa-lộ Harriman có ống dân dầu chạy song song theo nó do LX chịu thiết bị?
Đây là sự suy diễn có tính cách riêng tư của người viết: Một ông già 71 tuổi, đầy mưu-mô và bản-lãnh, kiên-nhẫn để cho cậu nhỏ [Cố vấn Nhu] đáng con mình hằn-học, chẳng lẽ Harriman nói toạc ra rằng: vì quyền lợi của Liên-Xô và Mỹ đã đồng thuận dùng Đông-Dương làm nơi thí nghiệm vũ khí mới vừa chế tạo và giải tỏa số Bom đạn thặng dư sau thế chiến-2, bằng cái trò chơi chiến tranh lấy danh từ hào nhoáng, về phía Liên-Xô “chiến tranh giải phóng” (NLF) và huê dạng về phía Hoa-Kỳ như “kế hoạch chống nổi dậy” (CIP) Đối với Harriman và Nhóm tham-mưu Học-giả kiệt xuất của ông sẽ không có Đại chiến thứ-3 mà chỉ có cuộc chiến khu-vực, lấy Triều-Tiên và Đông-Dương làm chiến tuyến thuộc Màn-2 của Eurasian Great Game. Trận Triều-Tiên vì quyền lợi tức thời nên để lại 50.000 quân, còn Đông-Dương vì quyền lợi tiềm-tàng để thành lập một nước VNCH lớn hơn, và sẽ thắt chặc hơn nửa thế kỷ sau đó 1995; Cái thâm-thúy là dùng khuôn viên các trường Đại-học để lý-giải hậu quả nơi chiến trường tại Việt Nam qua ba đáp sổ dưới đây:
(1) Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon
(2) Axiom-2: The US had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affaires
(3) Axiom-3: The US could not have won the war under any circumstances
Cùng với 3 định-đề (axioms) đã được bàn luận sâu rộng tại các Đại-Học về cuộc chiến VN trong giai đoạn năm 1960-1971 như Kenneth E. Sharpe trong “The Post Vietnam Formula Under Siege” và “Political Science Quarterly” đây là thời kỳ giải kết của Mỹ. Cái nhóm Tham-mưu nầy đã có chủ trương đưa Trung-Cộng gia nhập vào Liên-Hiệp-Quốc, nên buộc phải giải nhiệm Tướng Mc Arthur trong cuộc chiến Triều-Tiên và bức tử Miền Nam thuộc VNCH. Chiến-lược giải kết nầy đã tạo nên một tầm vóc Quốc-Tế dù kết quả có bị mang tiếng nhất thời “con Cọp giấy”, “người khổng-Lồ với đôi chân đất sét” và đưa nước Mỹ vào thời kỳ suy thoái. Nhưng tập đoàn Tư-bản cho là thời kỳ nghĩ-ngơi sau khi hoàn-tất một công trình (Inventory năm 1973-1980) Còn Nhóm Học-giả Tham-mưu thì cho rằng, trò chơi cử-tạ để phô trương bắp thịt của Hoa-kỳ đã xong, bây giờ tới phiên người Nga phải trả giá về sự cho ra đời Chủ-nghĩa Cộng-sản khắp Năm châu, bằng cách đặt Liên-Xô vào vị trí của Hoa-kỳ, như quân-đội Nga tiến vào Afghanistan. Ngoài ra Hoa-kỳ cũng phong tỏa kinh-tế các nước chư-hầu của Liên-Xô, buộc Liên-Xô phải tăng cường viện trợ kinh-tế cho họ. Mặt khác Hoa-kỳ cũng gây rối khắp nơi, làm cho Liên-Xô phải quân viện hay chính thức tham chiến để lộ bộ mặt thực dân Đỏ. Để kết cuộc qua đó mà người dân trong khối Cộng-Sản mới có cơ-hội sáng mắt, so-sánh giữa hai thể chế “Dân-chủ Tư-bản” và “Dân-chủ Cộng-sản” ai thắng ai? Một cuộc bỏ phiếu bằng chân! Một cuộc chiến thắng thầm lặng với thủ đoạn Thần sầu Quỹ khóc, nhưng không dám nói ra, sợ lương-tri nhân loại nguyền rủa, vì gieo rắc tai-ương cho các nước nhược tiểu; Cái danh xưng nổi lên cho là thất bại thảm hại của Hoa-kỳ để làm mờ đi cái “mục-tiêu” chủ yếu là đồng Dollar hốt vào qua kỷ nghệ sản-xuất chiến tranh, và nước Mỹ vẫn là Đệ Nhứt siêu cường không nước nào địch nổi.
Sau cuộc chiến khá dài tại Việt Nam, nhưng họ không dám tuyên bố đó là một chiến thắng thầm lặng (Quiet-Victory) biết bao thảm họa cho người dân của ba nước Đông Dương, vì Họ không dám nhận những danh từ không tốt đẹp gì dù đả làm phong phú hoá trong tự điển Anh Ngữ như, “Bỏ phiếu bằng chân” (voted with theirs feet) “Cánh Đồng Chết” (Killing field) “Thuyền Nhân” (Boat People) “Học Tập Cải Tạo” (Reeducation-Camp) “Vùng Kinh Tế Mới” (New Economical Zone)..

12 năm sau, và cũng đã đến lúc kết thúc mật-kế Pennsylvania giao Miền-Nam cho Hà-Nội Năm 1974 đệ tử ruột của Harriman là William H.Sullivan cựu Đại-sứ Lào và đương kiêm thứ trưởng Ngoại-Giao cho Kissinger đã phán một câu rất mất dạy về quan điểm Hoa-kỳ lúc ấy:
“Chúng tôi hy vọng rằng, Đông-Dương sẽ lui vào chỗ của nó trong bóng tối, và nó xứng đáng như vậy”
Thật tôi nghiệp cho các nước nhược tiểu, phù-thủy Harriman đâu cần biết Đông-Dương là gì, ông chỉ coi đó như là một vùng hoang dã chỉ xứng đáng là nơi để thí nghiệm vũ-khí như chúng ta thường cho là “vùng oanh kích tự-do” Dĩ nhiên Tổng-thống Diệm dễ gì để cho đất nước mình trở thành lò luyện thép. Phù-thủy Harriman đích thực trở nên thủ phạm số một đã giật sập nền Đệ I Cộng-Hòa và ra lệnh giết chết hai anh em TT Diệm, Miền Nam trở thành chính phủ bù nhìn từ đấy!
Ấy thế mà ngày sinh nhứt thứ 90 của W A Harriman, người em út cuối cùng cũa dòng họ Kennedy còn sống là Edward Kennedy lại tuyên bố: “Nếu không có Ngài nước Mỹ và loài người không thể sống trong một trật tự thế giới [The New World] như thế kỷ-21 nầy

QUEENBEE-1