vinhtruong
12-07-2010, 10:09 PM
(Air Defoliation) Ánh đèn pin liên-tục qua lại trong bóng đêm, thỉnh-thoảng dừng lại một tụ điểm như xoi-mói tìm kiếm những gì khác lạ nơi cặp càng bằng nhôm, với vô số vòi-phun, chi-chít nằm xen kẽ, trải dài gần 15 thước mỗi bên, cho đến tận đầu cánh. Tôi đang kiểm soát tiền phi cho một phi-vụ khai hoang, mà mục tiêu là khu rừng già nằm bao phủ trên tuyến đường sắt Trãng-Bom, Long-Khánh. Chiều hôm qua, trước khi về nhà, tôi cởi Lambretta chạy ngang, thoáng nhìn hai chiếc Trực-Thăng trang bị giàn phun thuốc đang đậu như hai con chuồn-chuồn Voi khổng-lồ nằm xụ cánh nghỉ ngơi trên thảm cỏ của Phi-Đoàn 211.
Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn đọng lại trong thùng dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
Thiếu-úy Nguyễn-Phước-Điền đang cho nổ máy chiếc 028, còn tôi cho nổ máy chiếc 511 màu xanh rêu của US Marine, tôi phải nhường cho Điền chiếc mạnh hơn, vì hắn mới vừa được xác định bằng Trưởng phi-cơ, chiếc 028 là của Army, màu xám Olive vì trang bị ít phi-cụ, và chỉ có đồng-hồ phi-cụ ở một bên Trưởng phi-cơ có mà thôi, riêng chiếc của tôi thì trang bị rất nhiều phi-cụ, kể cả máy đo khoảng cách (Tacan), tất cả những trang cụ nầy đều gắn ở đằng sau đuôi, nên trọng tâm chạy về phía sau, cất cánh rất khó vì dễ bị mất năng-suất máy.
“Butterfly 2 đây 1 gọi?”
“Butterfly 2 nghe 5/5”
“Chuẩn bị cất cánh”
Tôi cho Trực-thăng lăn bánh ra phi-đạo. Phi-đạo Trực-thăng hình chữ thập, chiều dài khoảng 60 thước do người Pháp xây dựng, gọi là Heliport và chỉ độc nhất cất cánh về hướng Nam mà thôi, tuy vậy nhưng cũng không an-toàn cho lắm vì có những cột Ăng-ten cao hơn 100 thước, cũng may tất cả đều có đèn đỏ trên chóp đỉnh.
May mà chỉ có đổ đầy 2 bình xăng, nhưng tôi phải dùng đến 2800 rpm (vòng phút của máy) mới ì-ạch cất cánh nổi, đi vào thực-tế chỉ phun thuốc được trong vòng 10 phút là hết với vào khoảng 4000 cân anh (lbs) Chúng tôi phải bay vòng qua ngã nhà Bè, vì phi-cơ C-123 Provider của Không-quân Hoa-kỳ cũng đang cất cánh về hướng quận Củ-Chi và cùng bay phun thuốc dọc theo hai bên bờ sông Nhà-Bè ra tận tới Vũng-Tàu. Chúng tôi, Việt-Mỹ đang hành quân trong chiến-dịch Ranch-Hand (năm 1962) mà Tổng-Thống Kennedy đã ra lệnh cho chương trình thí nghiệm thuốc khai-hoang dọc theo những tuyến đường bộ, đường xe lửa, sông ngòi và những Căn-cứ Quân-sự bị rừng già bao phủ, hầu ngăn ngừa Việt-Cộng ẩn núp phục kích hoặc chuyển quân. Phương án của War Industries Board, tổng thống Diệm và Kennedy nghe rất êm tai, có ai hiểu cho chất độc màu Da-Cam và người Mỹ mất tích là cái cớ sẽ nối liền bang giao Việt Mỹ vào gần nữa thế kỹ sau?
Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình thang của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh.
Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng” có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc độc giả nghe hơi chõi lỗ tai?)
Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mỏng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lõng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới.
Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tĩnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy. Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nửa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi” Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương.
Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt. Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc… sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nữ” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi, khi tôi hiểu được Bà Wangari Maathai, một phụ-nữ đáng kính ở Kenya, đã được giải Nobel Hòa-Bình, Bà đã trở thành người phụ-nữ Phi-châu đầu tiên được chọn trao giải thưởng nầy. Vì đã đi đầu trong chiếc dịch trồng hàng chục triệu cây xanh tại lục địa Phi-châu; Ủy-ban trao giải Nobel đã công bố việc tuyển chọn và ca ngợi Bà Maathai về những đóng góp của Bà cho sự phát triển bền vững nền dân chủ và hòa-bình của thế giới! Bà đã vượt lên trên số ứng viên kỷ-lục 194 người để giành giải thưởng trị giá 1.36 triệu Mỹ-kim. Bà sáng lập viên một tổ chức, đa phần thành-viên là phụ-nữ, có tên “Phong trào vành đai xanh” nhằm giảm hậu quả của việc phá rừng. Việc Bà huy động được người nghèo trồng đến 30 triệu cây đã được các nước khác bắt chước; Bà nói rằng: “việc trồng cây sẽ làm chậm lại quá trình phá rừng, bảo tồn hệ sinh thái cho động vật hoang-dã” tạo ra tài nguyên và thực phẩm cho các thế hệ mai sau. Nhưng chữ tài lại liền với chữ tai một vần, vì quá học thức, quá mạnh-mẽ, quá thành-công, quá bướng-bĩnh, và quá khó để kiểm soát, nên Ông chồng của Bà đành phải ly-hôn vì sức chịu đựng có hạn.
Đã đến mục tiêu, một rừng già cây lá xanh tươi, đang phơi mình dưới ánh nắng ban mai tuơi đẹp, ngay ở giữa một con đường sắt ngoằn-ngoèo xuyên qua trên đó, chúng tôi bắt đầu giảm sức máy, bay xuống thấp vào khoảng 300 bộ, trên đường rầy xe lửa, tôi đang nhìn thấy vài toán lính đang tụ hội vào một điểm. Tôi cũng đã được biết trước một Tiểu-đoàn Bộ-binh, sẽ đóng chốt hai bên đường xe lửa để bảo vệ an-toàn khi chúng tôi phun thuốc, vì tuần trước Thiếu úy Chính P Đ-213 bay xịt thuốc bị Việt Cộng ở dưới bắn lên lủng tàu, nên hôm nay tôi mới được có lính ở dưới để bảo vệ. (Thế là VN lại một lần nữa bị Mỹ lừa đảo về chất độc màu Da Cam, chất độc gì mà có Lính ở dưới khi tôi bay xịt thuốc) Dù rằng bồi-thường là nhu cầu sống còn để Mỹ tháo bỏ hàng thặng dư như nhu cầu đi đại tiện rồi xả nước đó mà!
“Hai đây Một… chúng ta sẽ lấy trục từ Đông sang Tây để phun thuốc… tránh bị chói ánh mặt trời, Hai phun bên trái đường xe hỏa, còn Một bên phải… Okay!”
Hai chiếc Trực-thăng đang bay vòng lại 180 độ tiếp-tục giữ cao độ 300 bộ; Tôi bật nút máy bôm, liền tức thì mùi không-khí mát-mẻ sảng khoái ban mai không còn nữa mà thay vào đó mùi thuốc hóa chất nồng-nặc khó chịu như muốn đâm thọc vào mũi chúng tôi… “Mùi tử địa”. Hai chiếc đang thi nhau phun ra những màn sương khói ám chướng, tỏa xuống để hủy diệt, tàn phá cảnh hùng-vĩ của thiên-nhiên mà tạo hóa đã dành cho để cứu rỗi muôn loài.
Chưa đầy 10 phút, đèn báo hiệu trở lại màu đỏ cho biết đã hết thuốc, phi cơ bắt đầu nhẹ dần nên tốc độ đã tăng nhanh được đôi chút, chúng tôi bắt đầu bay lên đến cao độ an-toàn, bình phi và lấy hướng 270 độ trở về lại Tân-Sơn-Nhất.
Trong chiến dịch Ranch-Hand nầy, Hoa-kỳ dùng loại vận tải cơ C-123 để rải những chất khai hoang nhiều loại khác hơn, đặc biệt đầu năm 1965, với sự thiết kế, cứ 11.000 lbs (cân anh) thì phá hủy được 300 acres rừng, và chỉ phun thuốc trong vòng 5 phút, trong vòng một tuần, các cây trong vùng được thử nghiệm lá sẽ trở nên màu vàng nâu, rồi rụng hết lá và tiếp sau đó, ảnh hưởng của Dioxin lan rộng qua các rừng lân cận trong phạm vi đường kính khoảng 1 cây số. Sau đó không lâu cây sẽ hoàn-toàn chết hẳn trong vòng 5 hoặc 6 tuần.
Tại Phi-trường Tân-Sơn-Nhất, trước cổng của Phi-Đội C-123/USAF, chuyên bay phi-vụ khai hoang, có gắn tấm bảng “Only You Can Prevent Forests” Chỉ có Anh mới có thể tránh được là “Hung-thần phá sơn lâm”.
Đối với chiến-tranh Việt-Nam, Siêu-Chánh-Phủ (permanent government) Hoa-Kỳ luôn-luôn nắm phần chủ động, điều dễ hiểu là họ đã tạo nó ra vì quyền lợi, và dĩ-nhiên lúc nào họ cần chấm dứt để rút ra thì đã nằm trong kế hoạch chiến lược dài lê-thê của họ (cho nên ai nói sa lầy thì cứ nói, riêng SCP thì cứ ngậm miệng ăn tiền). Từ ngay sau khi Hội-Đồng An-Ninh Quốc-Gia, ngày 21/9/1960 và sau đó đã có một ‘Viện nghiên cứu’ nằm vào một cánh dãy nhà lầu, chiếm một cạnh đặc-trách về Châu-Á sự-vụ của Ngũ-Giác-Đài (Pentagon) trong đó không loại bỏ lộ-trình đồ bản “Hậu-chiến Việt-Nam” bằng cách nối lại bang giao qua cái cớ danh nghĩa khi cần tiếp nối, nói chuyện với phía Việt-Nam: với chiêu bài “Chất độc màu Da-Cam với người Mỹ mất tích” (MIA). Ðối với Hoa-kỳ đây là vũ-khí chính-trị cần thiết để Họ trở lại Việt Nam, vì thế trước sau gì Hoa-kỳ cũng kiếm cách bồi thường, dù sao cái tội ác nầy cũng còn quá nhẹ so với “những tội ác khác trong những cuộc thí nghiệm đủ loại về vũ khí chiến tranh, làm sao có bằng cớ loại “hoá-chất” giết người dùng để giải-vây cho 6000 lính Mỹ ở Khe-Sanh, đối đầu với 4 Sư-đoàn BV, cộng 2 Trung-đoàn Pháo, (năm 1968). Và chất độc đồ ăn trong những chiếc dù, làm bộ thả lạc để cứu thoát 2 Phi-công, Hambleton và Mark-Lack (năm 1972) trên dòng sông Miếu-Giang, Quảng-Trị, Toán Biệt-hải và Trung-úy Tom Norris đều có nhận lệnh rõ-ràng: là không được ăn các C-Ration đã thả dù xuống vùng nầy).
Về phía Hoa-kỳ, chắc cũng có nhiều lý do để trở lại vấn đề nầy, lý do Hoa-kỳ bị… “Lương tâm cắn rứt vì tội-ác chiến tranh?” hay là quyền lợi chiến lược toàn cầu, qua giai đoạn mới? Còn về vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) thì sao!? Ông Jerry D. Jennings, phụ-tá Bộ-trưởng Quốc-phòng Hoa-kỳ, kiêm đồng chủ-tịch Ủy-ban Hổn-hợp Liên-Xô Hoa-kỳ về tù binh và quân-nhân mất tích, cho biết đang yêu cầu Liên-Xô cho phép những Sĩ-quan hồi-hưu của họ do Hoa-Kỳ tuyển dụng được tham khảo các văn khố lưu trữ của cơ-quan mật-vụ KGB để tìm tin-tức về những Quân-nhân Hoa-kỳ mất tích trong chiến-tranh Triều-Tiến và Việt-Nam. Ông Jennings cho biết Washington cũng đang đàm phán với Việt-Nam về một đề nghị tương-tự.
Trước đó, Mạc-Tư-Khoa đã đồng ý cho Washington xem-xét văn-khố lưu-trữ của Bộ Quốc Phòng Liên Xô và đã được xác minh số phận của 264 binh-sĩ Hoa-kỳ mất tích trong chiến-tranh Triều-Tiên; Đổi lại, Liên-Xô cũng cung cấp cho Hoa-kỳ tài liệu về nhũng vụ Phi-cơ Hoa-kỳ bị bắn rơi ở Việt-Nam. Chúng ta nên để trong đầu Mỹ luôn luôn xem LX là hạng-2 và TQ là hoạ da vàng!
Nay phía Hoa-kỳ muốn được tìm tin-tức qua văn-khố của KGB; Để tỏ thiện chí, Hoa-Kỳ cũng giúp Liên-Xô xác minh số phận của 163 binh sĩ Liên-Xô mất tích trong chiến cuộc A-Phú-Hãn và nhiều nhân-viên khác của Liên-Xô bị thất tung trong thời chiến tranh lạnh.
Trên thực tế, Hoa-kỳ đã đánh dấu được nhờ Khoa-học kỹ-thuật tinh-vi, qua vệ-tinh hay các phi-cơ EC-135 AWACS (Boeing 707 có Radar-Dom trên lưng) quay chụp bằng không ảnh các nơi phi-cơ bị rớt, chỉ cần thời gian sau sẽ lấy xác qua chương trình MIA, như năm 2003 đã tìm ra Phi-hành-đoàn Queen-Bee, gồm Th-úy Phan-Thế-Long, Th-úy Nguyễn-Bảo-Tùng và Thượng-Sĩ Nguyễn Văn-Lành. Phi-hành-đoàn nầy được chánh-phủ Hoa-kỳ vinh danh chôn cất tại nghĩa trang Arlington, nơi đây cũng là niềm danh-dự của người lính QLVNCH được phục hồi sau cuộc chiến đã hy sinh cho lý tưởng Tự-do.
Như trong cuộc Hành-Quân Lam Sơn 719, Hoa-Kỳ có 219 người chết và 38 người mất tích, tất cả là Phi-hành-đoàn của US Army-Aviation đều được phối kiểm đầy-đủ. Nói tóm lại Hà-Nội có thiện chí về trao đổi tin-tức người Mỹ mất tích (MIA) Nhưng trong đó không may mắn cho những người Mỹ của binh-chủng Biệt-kích Delta vì khi bắt được, lính Bắc-Việt hiểu rằng đây là loại người rất nguy-hiểm, chiến đấu tài-tình, vì thế để trừ hậu-họa phiền-phức khi họ sẽ tìm cách trốn chạy thóat, nên tốt nhất là “làm thịt” họ cho nhẹ bớt gánh nặng phức tạp khi chuyển chúng về hậu-cứ có nguy cơ gây tai họa cho các đồng chí khác.
Nhờ khoa-học kỹ-thuật cao, phi-cơ dò thám tìm ra chất kim loại, nên có một trái Bom lớn 15,000 cân Anh (BLU-82s, Daisy Cutter) được mang thả trên chiến-trường Nam VN bằng Vận-tải cơ C-130, nhưng tại vì một trục-trặc nào đó mà rơi xuống không nổ. Thông Tấn-Xã, Press Trust of India và AP loan tin Việt-Nam đã tháo gỡ được ngòi nổ của một trái Bom nổ lớn nhất còn nguyên vẹn sau khi cuộc chiến tranh Việt-Nam chấm dứt gần 30 năm . Giữa năm 1970 theo sự theo dõi của tình báo CIA, từ điểm xâm nhập qua hàng rào Mac Namara, mức độ xâm nhập của quân-đội BV đã ở trong tầm mức báo động “Vàng”, nên Hoa-kỳ dùng loại Bom 15,000 cân Anh để làm một bãi đáp Trực-thăng trong một vùng rừng già ở Cao-nguyên, hầu mở chiến dịch Trực-thăng-vận thả lính chiến đấu Mỹ xuống vùng hành-quân nơi đó để chận đánh quân BV đang ồ-ạt tràn xuống phía Nam. Theo chiến lược nầy thì ở chỗ nào trong phần đất miền Nam cũng có đụng trận, nhưng mục tiêu chính là gây tiếng vang, nhứt định là không đáng kể chỉ để cho các binh chủng quân đội Mỹ có cơ hội luyện tập mà thôi. Theo chính-lược của Permanent Government là “Everything worked but nothing worked enough”.
Sau khi Chính-quyền Việt-Nam được thông báo, 38 chuyên-viên đã phải mất 20 ngày mới tháo gỡ được ngòi nổ của trái Bom và đắp một con đường lên đỉnh núi để chuyển trái Bom xuống, sau khi đã lấy ra được 3 tấn rưởi thuốc nổ ở bên trong. Bom nầy thường được thả bằng dù nổ trên mặt đất. Quả Bom không nổ nầy, vì có thể do lỗi kỹ-thuật, hoặc do đầu ống dài chạm nổ mắc vào cây rừng, hay hệ thống dù không bung ra? Nên 2/3 trái Bom ngập trong lòng đất; Ngoài sức nặng của thuốc-nổ, phần còn lại, võ nặng gần hai tấn đã được vận chuyển về Bảo-tàng-viện Bộ Công-Binh (Hà-Nội). Theo quân đội Hoa-kỳ, hơn 15 triệu tấn Bom, Mìn, Đạn trọng pháo và các loại Đạn-dược khác đã được mang ra xử-dụng trong cuộc chiến-tranh Việt-Nam, và người ta tin là khoảng 10% trong số Bom-Đạn nầy đã không nổ khi được thả xuống.
Những Bom Mìn chưa nổ nầy hàng năm đã gây chết-chóc và thương-tích cho nhiều người trong đó phần nhiều là Trẻ em tại Việt Nam. Theo những số-liệu về phía Việt-Nam đưa ra thì kể từ năm 1975 đến nay đã có 38.000 người thiệt mạng và hơn 100.000 người bị thương vì Bom Mìn chưa nổ. Trong quá khứ, Chính-phủ Hoa-kỳ đã trao tặng cho quỹ Cựu Chiến Binh Việt-Nam 5 triệu dollar để giúp dọn-dẹp những Bom Mìn chưa nổ.
Trong quá khứ dùng Agent Orange làm vũ-khí chính-trị, đã không ít lần Việt-Nam vấp những lỗi ngớ-ngẩn; Thí dụ: có lần Việt-Nam đưa ra các lời thống-thiết của những người tự xưng là nạn-nhân của chất độc màu da Cam, nhưng khi họ kể rằng, trên đường hành-quân, họ bị phun thuốc với những “đám mây màu Cam”, thì phía Hoa-Kỳ cho rằng lời nói của kẻ ‘thất-học’ Agent Orange không phải màu Cam, màu Cam chỉ là màu bên ngoài thùng-phi, chớ chất ấy không hề có màu Cam.
“Agent Orange” là bản dịch tiếng Việt “chất độc màu da Cam”, hai danh từ nầy sanh ra từ chiến tranh Việt-Nam, nay trở nên quen thuộc kể cả người Mỹ cũng như người Việt. Đây là một loại thuốc diệt Cỏ bình thường, chất nầy được xử dụng lần đầu tiên ở Việt-Nam, vào ngày 31/1/1962 trong chiến dịch Ranch-Hand, phát khởi từ Tân-Sơn-Nhất, giữa năm 1962, hai chiếc Trực-Thăng H-34 mang số 028 và 511, chính tôi và Thiếu-úy Lê-Phước-Điền đã phun thuốc trên tuyến xe lửa vùng Trảng-Bom, Long Khánh, ở dưới có Bộ-binh giữ an-ninh khi chúng tôi phun thuốc, chính con mắt tôi nhìn ra đằng sau thì thấy một màu ‘trắng đục’ như hơi sương dày đặc phun ra như màn khói, làm gì có màu vàng Cam! Chất nầy đã được xử dụng với quy mô rộng-rãi vào những năm 1967 và 1968, và thực sự chấm dứt vào ngày 30/6/1971; Đây là thủ đoạn chính trị mà Nhóm học-giả của Harriman đã đưa ra làm nguyên cớ nối lại bang giao cho lộ trình hậu chiến mà các khoa học gia chân chính phải cho rằng chất nầy chỉ có làm ngứa cơ thể con người mà thôi. Thật tội nghiệp cho một nước nhược tiểu bị Hoa Kỳ chèn ép phỉnh gạt, dĩ nhiên Mỹ tha thiết được bồi thường gấp chục lần Viet Nam đòi hỏi bằng đồ thặng dư của Mỹ chớ có bao giờ được đôla Xanh đâu? Bồi thường là yêu cầu sống còn của Mỹ để xả rác (flushing) đồ phế thải cho trong lộ trình gần nửa thế kỷ sau.
Hoa-Kỳ từng dùng nhiều loại thuốc khai-hoang tại Việt-Nam, chúng được chứa trong thùng phuy (thùng sắt 200 lít) tô màu khác nhau, nên được gọi tên theo màu của những thùng nầy. Thí-dụ: như agent Purple (tím) agent White (trắng) agent Green (xanh lá cây)… agent Orange đựng trong thùng sơn vệt màu Cam, gồm 2 hóa chất 2,4-D và 2,4,5-T, là 2 chất được chế tạo dựa theo Hormone thực vật gọi là Auxin (một loại acetic acid). Agent Orange là loại thuốc bột, người ta trộn với dầu Hôi hoặc Xăng Diesel rồi xịt bằng máy bay xuống vùng cần khai hoang.
Tuy nhiên, trong quá trình chế tạo chất 2, 4, 5-T, một hóa-chất khác cũng được tạo ra mà không có cách nào loại ra được, là chất Dioxin. Dioxin là tên gọi chung của một nhóm hóa chất nhưng thường được dùng để gọi riêng chất 2,3,7,8-TCD D, Dioxin là một độc tố, gây nhiều bệnh tật. Dioxin khi nhiễm vào người sẽ nằm trong mỡ, và sẽ tự tan rã với chu-kỳ bán phân khoảng 7 năm (cứ mỗi năm lượng Dioxin bớt đi một nữa) Đàn Ông không có cách nào thải dioxin ra, chỉ chờ cho nó tự nhả. Còn dioxin trong cơ thể đàn Bà sẽ đi ra bằng cách theo chất dinh-dưỡng vào thai-nhi. Ngoài ra sau khi sanh, dioxin cũng có thể ra theo đường sửa Mẹ.
Thế nên có bao nhiêu phần dioxin trong người thì sẽ bị bệnh!? Bác-sĩ nghiên-cứu trên thú vật cho thấy, có khi chỉ có rất ít dioxin cũng có thể gặp bệnh tật về hormone, về miễn nhiễm, về sinh trưởng. Nếu nhiều dioxin có thể bị Ung-thư; Viện-Hàn-Lâm Y-học Hoa-kỳ, công bố 13 loại bệnh có liên-quan đến chất độc Dioxin như: Ung-thư Lympho Hodgkin, Ung-thư Phế-quản (phổi) Ung-thư khí-quan, Ung-thư tiền-liệt tuyến, bệnh thần kinh ngoại vi cấp và bán tính.
Nói một cách cụ thể, chật độc dioxin (màu da Cam) đã được xử dụng thế nào trong cuộc chiến Việt-Nam:
-Chất độc nầy là một hổn-hợp có tỷ-lệ 50/50 của 2 hóa chất là dichlorophenoxy acetic acid (2.4D) và Trichlorophenoxy acetic acid (2,4,5-T). Hỗn-hợp nầy được phun thẳng từ trên không theo tỷ lệ 1/20-1/50. Trong cuộc chiến Việt-Nam, có khoảng 19 triệu gallons chất độc nầy đã được rải xuống miền Nam Việt-Nam (với trọng lượng 5 kilô gram, tương đương với 6, 4 lít, theo US Veteran Dispatch Staff Report, Navember 1990).
Lấy một vườn Cao-su làm thí điểm, thuốc nầy được pha loảng với dung dịch như thế kể trên, rồi được thả xuống trên mỗi acre. Trong vòng một tuần lễ, là các cây Cao-su trong vùng được thí nghiệm đã rụng hết lá và tiếp sau đó ảnh hưởng của dioxin lan rộng qua các rừng cao-su kế cận trong phạm vi đường kính độ 1 km. Trong một báo cáo mật năm 1967, của quân-đội Hoa-Kỳ được công bố sau nầy, quân đội Mỹ được lệnh, không hành quân trong phạm vi 2 km trong vùng đã bị rải Dioxin.
Có thể nói trong đời sống văn-minh hiện nay, con người không thể nào tránh khỏi nhiễm độc bởi nhiều chất hóa-học, trong đó có Dioxin, nhưng con người chịu dựng được bao nhiêu? Tùy theo quốc-gia hoặc Cơ-quan định mức chấp nhận hấp thụ hàng ngày: TDI (Tolerable Daily Intake) của Dioxin được thay đổi và được ước tính bằng pg (hay 10-12) như sau:
- Hòa-Lan 4 pg/ngày/kg cân theo trọng lượng cơ thể
- Cơ-quan Y-Tế Thế-Giới (WHO): 10 pg/ngày/kg
- Cơ-quan lương-thực và dược-phẩm Hoa-Kỳ (FDA) USA: 0.03 pg/ngày/kg
- Cơ-quan Bảo-vệ môi trường Hoa Kỳ (USEPA): 0.006 pg/ngày/kg.
Lấy ví-dụ dễ hiểu, 1 người cân nặng 50 kilô-gram, nếu tính theo định mức 1 pg/ngày/kg, sẽ hấp thụ 50 pg/ngày, trong một năm sẽ hấp thụ: 18,250 pg hay 18, 25 ngày. Và trong 20 năm sống trên đất Mỹ, lượng Dioxin trong Gan người và các mô mở là 365 ng/20 năm; Nếu tính theo thời gian bán hủy (half-life) của dioxin là 10 năm, thì tổng lượng dioxin cô-động trong cơ thể là 185.5 của phần tỷ
Nếu đem so-sánh với lượng dioxin trong máu hay trong sửa Mẹ của các dân-cư sống ở các vùng Chu-Prong (Pleiku) chiến khu D, C, U-Minh Thượng và Hạ, rừng Tràm Cà Mau (trung-bình 10 ppg hay pg (phần-ức) thì số lượng dioxin cô-đọng thường xuyên trong cơ thể con người sống ở Hoa-kỳ vẫn còn quá cao so với Việt Nam!) Và nếu tỷ-lệ dị-thai, ung-thư… của dân Việt ở những vùng nói trên tăng cao như báo cáo Hatfield tường thuật thì chúng ta có thể khẳng định rằng tỷ-lệ Ung-thư, sinh con dị-hình dị-dạng ở Hoa Kỳ sẽ cao gấp nhiều lần hơn! Đối với những nhà Khoa-học hoặc chuyên viên nghiên-cứu, làm việc trong phòng thí-nghiệm hóa-chất trên vài chục năm và trực-tiếp xúc tác tiếp nhiễm (exposure) với các loại hóa chất độc hại, trong đó có dioxin, và nồng-độ của chất nầy đã được tìm thấy trong máu, đo đạt vào năm 1993 là 40 ppt. Nhưng sức khỏe hiện tại của họ vẫn bình thường và không có triệu chứng gì khác lạ.
Lấy thêm một thí-dụ điển hình về sự thải hồi độc-tố của Công-ty General-Electric, một số lượng lớn PCBs, ước tính vào khoảng 43 tấn trên một khúc sông Hudson (New-York) Sau hơn 50 năm, dân chúng sống tại hai thị trấn bên bờ sông là Hudson và Fort Edward vẫn chưa thấy có triệu chứng về các bệnh lạ như dị hình dị dạng gì cả. Nếu so với lượng thuốc màu da cam, ước tính độ 170 kg trải rộng trên một diện tích 24.500 km2 thiết nghĩ mức độ ô nhiễm nếu có ở Việt Nam, thì mức độ nầy, khả năng ảnh hưởng lên con người sẽ như thế nào? Có trầm-trọng như báo chí, báo cáo ở Việt Nam mô tả hay không! Có thể bị thiệt hại về nhân mạng tức thời hay về lâu về dài không? Lúc nào Việt Nam cũng bị người Mỹ lường gạt trong đòn phép chính trị thật là bỉ ổi!
(Còn-tiếp)
Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn đọng lại trong thùng dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
Thiếu-úy Nguyễn-Phước-Điền đang cho nổ máy chiếc 028, còn tôi cho nổ máy chiếc 511 màu xanh rêu của US Marine, tôi phải nhường cho Điền chiếc mạnh hơn, vì hắn mới vừa được xác định bằng Trưởng phi-cơ, chiếc 028 là của Army, màu xám Olive vì trang bị ít phi-cụ, và chỉ có đồng-hồ phi-cụ ở một bên Trưởng phi-cơ có mà thôi, riêng chiếc của tôi thì trang bị rất nhiều phi-cụ, kể cả máy đo khoảng cách (Tacan), tất cả những trang cụ nầy đều gắn ở đằng sau đuôi, nên trọng tâm chạy về phía sau, cất cánh rất khó vì dễ bị mất năng-suất máy.
“Butterfly 2 đây 1 gọi?”
“Butterfly 2 nghe 5/5”
“Chuẩn bị cất cánh”
Tôi cho Trực-thăng lăn bánh ra phi-đạo. Phi-đạo Trực-thăng hình chữ thập, chiều dài khoảng 60 thước do người Pháp xây dựng, gọi là Heliport và chỉ độc nhất cất cánh về hướng Nam mà thôi, tuy vậy nhưng cũng không an-toàn cho lắm vì có những cột Ăng-ten cao hơn 100 thước, cũng may tất cả đều có đèn đỏ trên chóp đỉnh.
May mà chỉ có đổ đầy 2 bình xăng, nhưng tôi phải dùng đến 2800 rpm (vòng phút của máy) mới ì-ạch cất cánh nổi, đi vào thực-tế chỉ phun thuốc được trong vòng 10 phút là hết với vào khoảng 4000 cân anh (lbs) Chúng tôi phải bay vòng qua ngã nhà Bè, vì phi-cơ C-123 Provider của Không-quân Hoa-kỳ cũng đang cất cánh về hướng quận Củ-Chi và cùng bay phun thuốc dọc theo hai bên bờ sông Nhà-Bè ra tận tới Vũng-Tàu. Chúng tôi, Việt-Mỹ đang hành quân trong chiến-dịch Ranch-Hand (năm 1962) mà Tổng-Thống Kennedy đã ra lệnh cho chương trình thí nghiệm thuốc khai-hoang dọc theo những tuyến đường bộ, đường xe lửa, sông ngòi và những Căn-cứ Quân-sự bị rừng già bao phủ, hầu ngăn ngừa Việt-Cộng ẩn núp phục kích hoặc chuyển quân. Phương án của War Industries Board, tổng thống Diệm và Kennedy nghe rất êm tai, có ai hiểu cho chất độc màu Da-Cam và người Mỹ mất tích là cái cớ sẽ nối liền bang giao Việt Mỹ vào gần nữa thế kỹ sau?
Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình thang của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh.
Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng” có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc độc giả nghe hơi chõi lỗ tai?)
Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mỏng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lõng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới.
Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tĩnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy. Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nửa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi” Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương.
Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt. Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc… sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nữ” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi, khi tôi hiểu được Bà Wangari Maathai, một phụ-nữ đáng kính ở Kenya, đã được giải Nobel Hòa-Bình, Bà đã trở thành người phụ-nữ Phi-châu đầu tiên được chọn trao giải thưởng nầy. Vì đã đi đầu trong chiếc dịch trồng hàng chục triệu cây xanh tại lục địa Phi-châu; Ủy-ban trao giải Nobel đã công bố việc tuyển chọn và ca ngợi Bà Maathai về những đóng góp của Bà cho sự phát triển bền vững nền dân chủ và hòa-bình của thế giới! Bà đã vượt lên trên số ứng viên kỷ-lục 194 người để giành giải thưởng trị giá 1.36 triệu Mỹ-kim. Bà sáng lập viên một tổ chức, đa phần thành-viên là phụ-nữ, có tên “Phong trào vành đai xanh” nhằm giảm hậu quả của việc phá rừng. Việc Bà huy động được người nghèo trồng đến 30 triệu cây đã được các nước khác bắt chước; Bà nói rằng: “việc trồng cây sẽ làm chậm lại quá trình phá rừng, bảo tồn hệ sinh thái cho động vật hoang-dã” tạo ra tài nguyên và thực phẩm cho các thế hệ mai sau. Nhưng chữ tài lại liền với chữ tai một vần, vì quá học thức, quá mạnh-mẽ, quá thành-công, quá bướng-bĩnh, và quá khó để kiểm soát, nên Ông chồng của Bà đành phải ly-hôn vì sức chịu đựng có hạn.
Đã đến mục tiêu, một rừng già cây lá xanh tươi, đang phơi mình dưới ánh nắng ban mai tuơi đẹp, ngay ở giữa một con đường sắt ngoằn-ngoèo xuyên qua trên đó, chúng tôi bắt đầu giảm sức máy, bay xuống thấp vào khoảng 300 bộ, trên đường rầy xe lửa, tôi đang nhìn thấy vài toán lính đang tụ hội vào một điểm. Tôi cũng đã được biết trước một Tiểu-đoàn Bộ-binh, sẽ đóng chốt hai bên đường xe lửa để bảo vệ an-toàn khi chúng tôi phun thuốc, vì tuần trước Thiếu úy Chính P Đ-213 bay xịt thuốc bị Việt Cộng ở dưới bắn lên lủng tàu, nên hôm nay tôi mới được có lính ở dưới để bảo vệ. (Thế là VN lại một lần nữa bị Mỹ lừa đảo về chất độc màu Da Cam, chất độc gì mà có Lính ở dưới khi tôi bay xịt thuốc) Dù rằng bồi-thường là nhu cầu sống còn để Mỹ tháo bỏ hàng thặng dư như nhu cầu đi đại tiện rồi xả nước đó mà!
“Hai đây Một… chúng ta sẽ lấy trục từ Đông sang Tây để phun thuốc… tránh bị chói ánh mặt trời, Hai phun bên trái đường xe hỏa, còn Một bên phải… Okay!”
Hai chiếc Trực-thăng đang bay vòng lại 180 độ tiếp-tục giữ cao độ 300 bộ; Tôi bật nút máy bôm, liền tức thì mùi không-khí mát-mẻ sảng khoái ban mai không còn nữa mà thay vào đó mùi thuốc hóa chất nồng-nặc khó chịu như muốn đâm thọc vào mũi chúng tôi… “Mùi tử địa”. Hai chiếc đang thi nhau phun ra những màn sương khói ám chướng, tỏa xuống để hủy diệt, tàn phá cảnh hùng-vĩ của thiên-nhiên mà tạo hóa đã dành cho để cứu rỗi muôn loài.
Chưa đầy 10 phút, đèn báo hiệu trở lại màu đỏ cho biết đã hết thuốc, phi cơ bắt đầu nhẹ dần nên tốc độ đã tăng nhanh được đôi chút, chúng tôi bắt đầu bay lên đến cao độ an-toàn, bình phi và lấy hướng 270 độ trở về lại Tân-Sơn-Nhất.
Trong chiến dịch Ranch-Hand nầy, Hoa-kỳ dùng loại vận tải cơ C-123 để rải những chất khai hoang nhiều loại khác hơn, đặc biệt đầu năm 1965, với sự thiết kế, cứ 11.000 lbs (cân anh) thì phá hủy được 300 acres rừng, và chỉ phun thuốc trong vòng 5 phút, trong vòng một tuần, các cây trong vùng được thử nghiệm lá sẽ trở nên màu vàng nâu, rồi rụng hết lá và tiếp sau đó, ảnh hưởng của Dioxin lan rộng qua các rừng lân cận trong phạm vi đường kính khoảng 1 cây số. Sau đó không lâu cây sẽ hoàn-toàn chết hẳn trong vòng 5 hoặc 6 tuần.
Tại Phi-trường Tân-Sơn-Nhất, trước cổng của Phi-Đội C-123/USAF, chuyên bay phi-vụ khai hoang, có gắn tấm bảng “Only You Can Prevent Forests” Chỉ có Anh mới có thể tránh được là “Hung-thần phá sơn lâm”.
Đối với chiến-tranh Việt-Nam, Siêu-Chánh-Phủ (permanent government) Hoa-Kỳ luôn-luôn nắm phần chủ động, điều dễ hiểu là họ đã tạo nó ra vì quyền lợi, và dĩ-nhiên lúc nào họ cần chấm dứt để rút ra thì đã nằm trong kế hoạch chiến lược dài lê-thê của họ (cho nên ai nói sa lầy thì cứ nói, riêng SCP thì cứ ngậm miệng ăn tiền). Từ ngay sau khi Hội-Đồng An-Ninh Quốc-Gia, ngày 21/9/1960 và sau đó đã có một ‘Viện nghiên cứu’ nằm vào một cánh dãy nhà lầu, chiếm một cạnh đặc-trách về Châu-Á sự-vụ của Ngũ-Giác-Đài (Pentagon) trong đó không loại bỏ lộ-trình đồ bản “Hậu-chiến Việt-Nam” bằng cách nối lại bang giao qua cái cớ danh nghĩa khi cần tiếp nối, nói chuyện với phía Việt-Nam: với chiêu bài “Chất độc màu Da-Cam với người Mỹ mất tích” (MIA). Ðối với Hoa-kỳ đây là vũ-khí chính-trị cần thiết để Họ trở lại Việt Nam, vì thế trước sau gì Hoa-kỳ cũng kiếm cách bồi thường, dù sao cái tội ác nầy cũng còn quá nhẹ so với “những tội ác khác trong những cuộc thí nghiệm đủ loại về vũ khí chiến tranh, làm sao có bằng cớ loại “hoá-chất” giết người dùng để giải-vây cho 6000 lính Mỹ ở Khe-Sanh, đối đầu với 4 Sư-đoàn BV, cộng 2 Trung-đoàn Pháo, (năm 1968). Và chất độc đồ ăn trong những chiếc dù, làm bộ thả lạc để cứu thoát 2 Phi-công, Hambleton và Mark-Lack (năm 1972) trên dòng sông Miếu-Giang, Quảng-Trị, Toán Biệt-hải và Trung-úy Tom Norris đều có nhận lệnh rõ-ràng: là không được ăn các C-Ration đã thả dù xuống vùng nầy).
Về phía Hoa-kỳ, chắc cũng có nhiều lý do để trở lại vấn đề nầy, lý do Hoa-kỳ bị… “Lương tâm cắn rứt vì tội-ác chiến tranh?” hay là quyền lợi chiến lược toàn cầu, qua giai đoạn mới? Còn về vấn đề người Mỹ mất tích (MIA) thì sao!? Ông Jerry D. Jennings, phụ-tá Bộ-trưởng Quốc-phòng Hoa-kỳ, kiêm đồng chủ-tịch Ủy-ban Hổn-hợp Liên-Xô Hoa-kỳ về tù binh và quân-nhân mất tích, cho biết đang yêu cầu Liên-Xô cho phép những Sĩ-quan hồi-hưu của họ do Hoa-Kỳ tuyển dụng được tham khảo các văn khố lưu trữ của cơ-quan mật-vụ KGB để tìm tin-tức về những Quân-nhân Hoa-kỳ mất tích trong chiến-tranh Triều-Tiến và Việt-Nam. Ông Jennings cho biết Washington cũng đang đàm phán với Việt-Nam về một đề nghị tương-tự.
Trước đó, Mạc-Tư-Khoa đã đồng ý cho Washington xem-xét văn-khố lưu-trữ của Bộ Quốc Phòng Liên Xô và đã được xác minh số phận của 264 binh-sĩ Hoa-kỳ mất tích trong chiến-tranh Triều-Tiên; Đổi lại, Liên-Xô cũng cung cấp cho Hoa-kỳ tài liệu về nhũng vụ Phi-cơ Hoa-kỳ bị bắn rơi ở Việt-Nam. Chúng ta nên để trong đầu Mỹ luôn luôn xem LX là hạng-2 và TQ là hoạ da vàng!
Nay phía Hoa-kỳ muốn được tìm tin-tức qua văn-khố của KGB; Để tỏ thiện chí, Hoa-Kỳ cũng giúp Liên-Xô xác minh số phận của 163 binh sĩ Liên-Xô mất tích trong chiến cuộc A-Phú-Hãn và nhiều nhân-viên khác của Liên-Xô bị thất tung trong thời chiến tranh lạnh.
Trên thực tế, Hoa-kỳ đã đánh dấu được nhờ Khoa-học kỹ-thuật tinh-vi, qua vệ-tinh hay các phi-cơ EC-135 AWACS (Boeing 707 có Radar-Dom trên lưng) quay chụp bằng không ảnh các nơi phi-cơ bị rớt, chỉ cần thời gian sau sẽ lấy xác qua chương trình MIA, như năm 2003 đã tìm ra Phi-hành-đoàn Queen-Bee, gồm Th-úy Phan-Thế-Long, Th-úy Nguyễn-Bảo-Tùng và Thượng-Sĩ Nguyễn Văn-Lành. Phi-hành-đoàn nầy được chánh-phủ Hoa-kỳ vinh danh chôn cất tại nghĩa trang Arlington, nơi đây cũng là niềm danh-dự của người lính QLVNCH được phục hồi sau cuộc chiến đã hy sinh cho lý tưởng Tự-do.
Như trong cuộc Hành-Quân Lam Sơn 719, Hoa-Kỳ có 219 người chết và 38 người mất tích, tất cả là Phi-hành-đoàn của US Army-Aviation đều được phối kiểm đầy-đủ. Nói tóm lại Hà-Nội có thiện chí về trao đổi tin-tức người Mỹ mất tích (MIA) Nhưng trong đó không may mắn cho những người Mỹ của binh-chủng Biệt-kích Delta vì khi bắt được, lính Bắc-Việt hiểu rằng đây là loại người rất nguy-hiểm, chiến đấu tài-tình, vì thế để trừ hậu-họa phiền-phức khi họ sẽ tìm cách trốn chạy thóat, nên tốt nhất là “làm thịt” họ cho nhẹ bớt gánh nặng phức tạp khi chuyển chúng về hậu-cứ có nguy cơ gây tai họa cho các đồng chí khác.
Nhờ khoa-học kỹ-thuật cao, phi-cơ dò thám tìm ra chất kim loại, nên có một trái Bom lớn 15,000 cân Anh (BLU-82s, Daisy Cutter) được mang thả trên chiến-trường Nam VN bằng Vận-tải cơ C-130, nhưng tại vì một trục-trặc nào đó mà rơi xuống không nổ. Thông Tấn-Xã, Press Trust of India và AP loan tin Việt-Nam đã tháo gỡ được ngòi nổ của một trái Bom nổ lớn nhất còn nguyên vẹn sau khi cuộc chiến tranh Việt-Nam chấm dứt gần 30 năm . Giữa năm 1970 theo sự theo dõi của tình báo CIA, từ điểm xâm nhập qua hàng rào Mac Namara, mức độ xâm nhập của quân-đội BV đã ở trong tầm mức báo động “Vàng”, nên Hoa-kỳ dùng loại Bom 15,000 cân Anh để làm một bãi đáp Trực-thăng trong một vùng rừng già ở Cao-nguyên, hầu mở chiến dịch Trực-thăng-vận thả lính chiến đấu Mỹ xuống vùng hành-quân nơi đó để chận đánh quân BV đang ồ-ạt tràn xuống phía Nam. Theo chiến lược nầy thì ở chỗ nào trong phần đất miền Nam cũng có đụng trận, nhưng mục tiêu chính là gây tiếng vang, nhứt định là không đáng kể chỉ để cho các binh chủng quân đội Mỹ có cơ hội luyện tập mà thôi. Theo chính-lược của Permanent Government là “Everything worked but nothing worked enough”.
Sau khi Chính-quyền Việt-Nam được thông báo, 38 chuyên-viên đã phải mất 20 ngày mới tháo gỡ được ngòi nổ của trái Bom và đắp một con đường lên đỉnh núi để chuyển trái Bom xuống, sau khi đã lấy ra được 3 tấn rưởi thuốc nổ ở bên trong. Bom nầy thường được thả bằng dù nổ trên mặt đất. Quả Bom không nổ nầy, vì có thể do lỗi kỹ-thuật, hoặc do đầu ống dài chạm nổ mắc vào cây rừng, hay hệ thống dù không bung ra? Nên 2/3 trái Bom ngập trong lòng đất; Ngoài sức nặng của thuốc-nổ, phần còn lại, võ nặng gần hai tấn đã được vận chuyển về Bảo-tàng-viện Bộ Công-Binh (Hà-Nội). Theo quân đội Hoa-kỳ, hơn 15 triệu tấn Bom, Mìn, Đạn trọng pháo và các loại Đạn-dược khác đã được mang ra xử-dụng trong cuộc chiến-tranh Việt-Nam, và người ta tin là khoảng 10% trong số Bom-Đạn nầy đã không nổ khi được thả xuống.
Những Bom Mìn chưa nổ nầy hàng năm đã gây chết-chóc và thương-tích cho nhiều người trong đó phần nhiều là Trẻ em tại Việt Nam. Theo những số-liệu về phía Việt-Nam đưa ra thì kể từ năm 1975 đến nay đã có 38.000 người thiệt mạng và hơn 100.000 người bị thương vì Bom Mìn chưa nổ. Trong quá khứ, Chính-phủ Hoa-kỳ đã trao tặng cho quỹ Cựu Chiến Binh Việt-Nam 5 triệu dollar để giúp dọn-dẹp những Bom Mìn chưa nổ.
Trong quá khứ dùng Agent Orange làm vũ-khí chính-trị, đã không ít lần Việt-Nam vấp những lỗi ngớ-ngẩn; Thí dụ: có lần Việt-Nam đưa ra các lời thống-thiết của những người tự xưng là nạn-nhân của chất độc màu da Cam, nhưng khi họ kể rằng, trên đường hành-quân, họ bị phun thuốc với những “đám mây màu Cam”, thì phía Hoa-Kỳ cho rằng lời nói của kẻ ‘thất-học’ Agent Orange không phải màu Cam, màu Cam chỉ là màu bên ngoài thùng-phi, chớ chất ấy không hề có màu Cam.
“Agent Orange” là bản dịch tiếng Việt “chất độc màu da Cam”, hai danh từ nầy sanh ra từ chiến tranh Việt-Nam, nay trở nên quen thuộc kể cả người Mỹ cũng như người Việt. Đây là một loại thuốc diệt Cỏ bình thường, chất nầy được xử dụng lần đầu tiên ở Việt-Nam, vào ngày 31/1/1962 trong chiến dịch Ranch-Hand, phát khởi từ Tân-Sơn-Nhất, giữa năm 1962, hai chiếc Trực-Thăng H-34 mang số 028 và 511, chính tôi và Thiếu-úy Lê-Phước-Điền đã phun thuốc trên tuyến xe lửa vùng Trảng-Bom, Long Khánh, ở dưới có Bộ-binh giữ an-ninh khi chúng tôi phun thuốc, chính con mắt tôi nhìn ra đằng sau thì thấy một màu ‘trắng đục’ như hơi sương dày đặc phun ra như màn khói, làm gì có màu vàng Cam! Chất nầy đã được xử dụng với quy mô rộng-rãi vào những năm 1967 và 1968, và thực sự chấm dứt vào ngày 30/6/1971; Đây là thủ đoạn chính trị mà Nhóm học-giả của Harriman đã đưa ra làm nguyên cớ nối lại bang giao cho lộ trình hậu chiến mà các khoa học gia chân chính phải cho rằng chất nầy chỉ có làm ngứa cơ thể con người mà thôi. Thật tội nghiệp cho một nước nhược tiểu bị Hoa Kỳ chèn ép phỉnh gạt, dĩ nhiên Mỹ tha thiết được bồi thường gấp chục lần Viet Nam đòi hỏi bằng đồ thặng dư của Mỹ chớ có bao giờ được đôla Xanh đâu? Bồi thường là yêu cầu sống còn của Mỹ để xả rác (flushing) đồ phế thải cho trong lộ trình gần nửa thế kỷ sau.
Hoa-Kỳ từng dùng nhiều loại thuốc khai-hoang tại Việt-Nam, chúng được chứa trong thùng phuy (thùng sắt 200 lít) tô màu khác nhau, nên được gọi tên theo màu của những thùng nầy. Thí-dụ: như agent Purple (tím) agent White (trắng) agent Green (xanh lá cây)… agent Orange đựng trong thùng sơn vệt màu Cam, gồm 2 hóa chất 2,4-D và 2,4,5-T, là 2 chất được chế tạo dựa theo Hormone thực vật gọi là Auxin (một loại acetic acid). Agent Orange là loại thuốc bột, người ta trộn với dầu Hôi hoặc Xăng Diesel rồi xịt bằng máy bay xuống vùng cần khai hoang.
Tuy nhiên, trong quá trình chế tạo chất 2, 4, 5-T, một hóa-chất khác cũng được tạo ra mà không có cách nào loại ra được, là chất Dioxin. Dioxin là tên gọi chung của một nhóm hóa chất nhưng thường được dùng để gọi riêng chất 2,3,7,8-TCD D, Dioxin là một độc tố, gây nhiều bệnh tật. Dioxin khi nhiễm vào người sẽ nằm trong mỡ, và sẽ tự tan rã với chu-kỳ bán phân khoảng 7 năm (cứ mỗi năm lượng Dioxin bớt đi một nữa) Đàn Ông không có cách nào thải dioxin ra, chỉ chờ cho nó tự nhả. Còn dioxin trong cơ thể đàn Bà sẽ đi ra bằng cách theo chất dinh-dưỡng vào thai-nhi. Ngoài ra sau khi sanh, dioxin cũng có thể ra theo đường sửa Mẹ.
Thế nên có bao nhiêu phần dioxin trong người thì sẽ bị bệnh!? Bác-sĩ nghiên-cứu trên thú vật cho thấy, có khi chỉ có rất ít dioxin cũng có thể gặp bệnh tật về hormone, về miễn nhiễm, về sinh trưởng. Nếu nhiều dioxin có thể bị Ung-thư; Viện-Hàn-Lâm Y-học Hoa-kỳ, công bố 13 loại bệnh có liên-quan đến chất độc Dioxin như: Ung-thư Lympho Hodgkin, Ung-thư Phế-quản (phổi) Ung-thư khí-quan, Ung-thư tiền-liệt tuyến, bệnh thần kinh ngoại vi cấp và bán tính.
Nói một cách cụ thể, chật độc dioxin (màu da Cam) đã được xử dụng thế nào trong cuộc chiến Việt-Nam:
-Chất độc nầy là một hổn-hợp có tỷ-lệ 50/50 của 2 hóa chất là dichlorophenoxy acetic acid (2.4D) và Trichlorophenoxy acetic acid (2,4,5-T). Hỗn-hợp nầy được phun thẳng từ trên không theo tỷ lệ 1/20-1/50. Trong cuộc chiến Việt-Nam, có khoảng 19 triệu gallons chất độc nầy đã được rải xuống miền Nam Việt-Nam (với trọng lượng 5 kilô gram, tương đương với 6, 4 lít, theo US Veteran Dispatch Staff Report, Navember 1990).
Lấy một vườn Cao-su làm thí điểm, thuốc nầy được pha loảng với dung dịch như thế kể trên, rồi được thả xuống trên mỗi acre. Trong vòng một tuần lễ, là các cây Cao-su trong vùng được thí nghiệm đã rụng hết lá và tiếp sau đó ảnh hưởng của dioxin lan rộng qua các rừng cao-su kế cận trong phạm vi đường kính độ 1 km. Trong một báo cáo mật năm 1967, của quân-đội Hoa-Kỳ được công bố sau nầy, quân đội Mỹ được lệnh, không hành quân trong phạm vi 2 km trong vùng đã bị rải Dioxin.
Có thể nói trong đời sống văn-minh hiện nay, con người không thể nào tránh khỏi nhiễm độc bởi nhiều chất hóa-học, trong đó có Dioxin, nhưng con người chịu dựng được bao nhiêu? Tùy theo quốc-gia hoặc Cơ-quan định mức chấp nhận hấp thụ hàng ngày: TDI (Tolerable Daily Intake) của Dioxin được thay đổi và được ước tính bằng pg (hay 10-12) như sau:
- Hòa-Lan 4 pg/ngày/kg cân theo trọng lượng cơ thể
- Cơ-quan Y-Tế Thế-Giới (WHO): 10 pg/ngày/kg
- Cơ-quan lương-thực và dược-phẩm Hoa-Kỳ (FDA) USA: 0.03 pg/ngày/kg
- Cơ-quan Bảo-vệ môi trường Hoa Kỳ (USEPA): 0.006 pg/ngày/kg.
Lấy ví-dụ dễ hiểu, 1 người cân nặng 50 kilô-gram, nếu tính theo định mức 1 pg/ngày/kg, sẽ hấp thụ 50 pg/ngày, trong một năm sẽ hấp thụ: 18,250 pg hay 18, 25 ngày. Và trong 20 năm sống trên đất Mỹ, lượng Dioxin trong Gan người và các mô mở là 365 ng/20 năm; Nếu tính theo thời gian bán hủy (half-life) của dioxin là 10 năm, thì tổng lượng dioxin cô-động trong cơ thể là 185.5 của phần tỷ
Nếu đem so-sánh với lượng dioxin trong máu hay trong sửa Mẹ của các dân-cư sống ở các vùng Chu-Prong (Pleiku) chiến khu D, C, U-Minh Thượng và Hạ, rừng Tràm Cà Mau (trung-bình 10 ppg hay pg (phần-ức) thì số lượng dioxin cô-đọng thường xuyên trong cơ thể con người sống ở Hoa-kỳ vẫn còn quá cao so với Việt Nam!) Và nếu tỷ-lệ dị-thai, ung-thư… của dân Việt ở những vùng nói trên tăng cao như báo cáo Hatfield tường thuật thì chúng ta có thể khẳng định rằng tỷ-lệ Ung-thư, sinh con dị-hình dị-dạng ở Hoa Kỳ sẽ cao gấp nhiều lần hơn! Đối với những nhà Khoa-học hoặc chuyên viên nghiên-cứu, làm việc trong phòng thí-nghiệm hóa-chất trên vài chục năm và trực-tiếp xúc tác tiếp nhiễm (exposure) với các loại hóa chất độc hại, trong đó có dioxin, và nồng-độ của chất nầy đã được tìm thấy trong máu, đo đạt vào năm 1993 là 40 ppt. Nhưng sức khỏe hiện tại của họ vẫn bình thường và không có triệu chứng gì khác lạ.
Lấy thêm một thí-dụ điển hình về sự thải hồi độc-tố của Công-ty General-Electric, một số lượng lớn PCBs, ước tính vào khoảng 43 tấn trên một khúc sông Hudson (New-York) Sau hơn 50 năm, dân chúng sống tại hai thị trấn bên bờ sông là Hudson và Fort Edward vẫn chưa thấy có triệu chứng về các bệnh lạ như dị hình dị dạng gì cả. Nếu so với lượng thuốc màu da cam, ước tính độ 170 kg trải rộng trên một diện tích 24.500 km2 thiết nghĩ mức độ ô nhiễm nếu có ở Việt Nam, thì mức độ nầy, khả năng ảnh hưởng lên con người sẽ như thế nào? Có trầm-trọng như báo chí, báo cáo ở Việt Nam mô tả hay không! Có thể bị thiệt hại về nhân mạng tức thời hay về lâu về dài không? Lúc nào Việt Nam cũng bị người Mỹ lường gạt trong đòn phép chính trị thật là bỉ ổi!
(Còn-tiếp)