PDA

View Full Version : BAT-21 & Anh Hung VNCH Nguyen Van Kiet



vinhtruong
10-18-2010, 03:44 AM
Bài Queenbee-1/Delta Force/CAS Flight-Group

Trong bộ phim tựa đề BAT-21 trình chiếu trong chương trình ‘Cable’ đã nói lên quá phủ phàng, sai và còn bóp méo sự thật nữa. Mục đích tạo dựng duy nhất chỉ có một anh hùng Tom Norris mà thôi, không có hai, Tôi thông cảm người đạo diễn muốn cho cốt chuyện như vậy, để gây hồi hộp và hấp dẫn cho người xem và một thế lực truyền thông như ngầm ý không được ca ngợi thành quả của quân lực Miền Nam vi phai chuan bi buc tu che do de hoan thanh AXIOM-1. Các anh Biệt-Hải và tôi, chúng ta đã tự nguyện là những chiến sĩ ‘âm thầm chiến đấu trong bóng tối’ thì cần gì những tiếng khen, hay chê của thế lực nằm trong bóng tối! Hảy gật gù hảnh-diện vì Tổ-quốc đã luôn luôn ghi ơn chúng ta, sự hy sinh trầm lặng vẫn lưu mãi trong lòng Dân-tộc Việt

Anh hùng Biệt-hải dẩm chân trên đất liền cứu Phi-cộng Mỹ:

Đây thuộc loại “đặc-tác” xâm nhập tìm cách giải thoát hai phi-công Hoa-kỳ đang bị mắc kẹt trong vùng địch kiểm soát; khu-trục-cơ chiến thuật và oanh tạc cơ B-66 của họ đã bị phòng không của quân Bắc-Việt bắn hạ trên không phận Bắc Quảng-Trị hơn 10 ngày qua, Trung-tá phi-công Hambleton và Đại-úy Mark Lack đều nhảy dù đáp xuống đất an toàn, và đang tìm cách lẩn trốn chung quanh địa điểm dọc theo quốc lộ 9, thuộc phía Bắc sông Cam-Lộ, tỉnh Quảng-Trị. Hiện vùng đất nầy đã hoàn toàn do lính Bắc-Việt kiểm soát. Hai phi-công vẫn giữ được liên-lạc với thám thính cơ Bronco OV-10 trên không vào mỗi đầu múi giờ; Các Trung-đoàn quân Bắc-Việt chia ra từng vùng trách nhiệm để truy bắt hai phi-công nầy. Vì thế CIA lập lại cái cảnh thả dù tiếp tế như hồi 6.000 Thủy-Quân Lục-Chiến bị bao vây ở Khe-Sanh; Trong 10 ngày qua có những phi vụ bí mật đã thả những thùng đồ ăn, C.Ration xuống đất tiếp-tế. Các anh hùng Biệt-Hải được ân cần nhắc nhở nhiều lần; anh em hãy tránh xa mỗi khi trông thấy những thùng C-Ration đó, lý do có một số hộp đã bỏ chất độc truyền nhiễm hay bị gài chất nổ rất nguy hiểm, chỉ riêng phi-công Mỹ mới biết được ám số nơi đầu mỗi hộp cũng như biết ám số an toàn của các loại thực phẩm, và đây cũng là nguyên nhân theo những tài liệu thư từ của quân Bắc-Việt; lấy đạn địch để tiêu diệt địch, lấy lương-thực địch để nuôi quân. (Dĩ-nhiên Hoa kỳ không dại gì lấy chất độc loại nầy thay vì chất độc màu Da-Cam ít tội-vạ trong cái gọi là nối lại bang giao (theo lộ đồ 20 năm thù địch (1975-1995) qua cái cớ “Chất độc màu da-cam với người Mỹ mất tích MIA) Bạn có biết không cái gọi là bồi thường và hàn gắng vết thương chiến tranh rất cần thiết cho tập đoàn tư bãn để xã-ra (flushing) những thứ thừa thải hết hạn để gọi là bồi thường thay gì phải vất bỏ vào thùng rác
Trong cuộc thuyết trình bỏ túi chớp nhoáng, Toán trưởng chỉ ngón tay trên bản-đồ bao vùng hoạt động tìm kiếm trách nhiệm của Toán, vị trí xuất phát từ một tiền đồn của một Đại-đội thuộc Sư-đoàn 3 bộ binh tân lập, xa về phía Tây tận đến Khe-Sanh dọc theo quốc lộ 9, Cam-Lộ, xuôi theo dòng sông Miếu-Giang chảy ra biển, kể cả vùng Đông-Bắc đều do các Trung đoàn cơ-động Bắc-Việt kiểm soát. Các ngôi sao màu Đỏ tượng trưng cho các Sư-đoàn BV, còn về phiá Đông-Nam màu xanh tượng trưng cho VNCH, chỉ có rải rác các nút chận cấp Tiểu-đoàn hoặc Trung-đoàn hay nhỏ nữa là cấp Đại-đội như ở tiền đồn nầy chẳng hạn. Nhìn tình hình chiến trận tổng quát, làm cho tinh thần của vài người trong toán có phần căng thẳng khi hiễu được tương quan lực lượng giữa hai bên, để kết thúc buổi họp, Toán trưởng hỏi anh em ai có ý kiến gì không? Tất cả đều lặng thinh, các anh em đi đến bàn ghi địa chỉ thân nhân thật rõ ràng khi cần cấp báo, đồng thời đứng chờ lãnh một số quân trang cần thiết cho công tác gồm có: 2 bộ Kaki màu cứt Ngựa (loại lính chính quy BV thường mặc) 2 dây lựu đạn Mini loại nhỏ, giày Bata, súng hỏa-châu tí hon, loại 6 viên đeo nơi cổ (flaregun) còng tay dã chiến bằng nylon, C-Ration đựng trong giấy Nhôm màu Nâu đủ dùng trong 4 ngày; ngoài ra được trang bị một khẩu AK47 và băng được lấp đầy đạn, áo phao chân nhái.v.v..
Xa về phía Tây-Bắc của tiền đồn, dưới chân ngọn đồi có cây cầu bắc ngang qua trên con rạch nhỏ nối liền hai đầu Quốc-lộ, các chiến hữu Bộ-binh vừa cho biết Công-binh phe ta đã cố tình giật sập mấy ngày trước, mục đích ngăn chận tiến quân và xe Tăng T54 của BV xâm lăng ồ-ạt cùng mấy Sư đoàn chính quy. Cách đó không xa, vào khoảng vài trăm thước hướng Tây 7 chiếc T54 bị bắn cháy, đang nằm ngổn ngang như đống sắt vụn, các Xạ thủ bị xiềng chân vào ổ súng, bị chết cháy trông như những con Heo quay nhìn thấy thật là tội nghiệp. Vì tình hình khẩn trương, Trung-úy Tom Norris đề nghị với Toán-trưởng cho xuất phát vào khoảng 5 hoặc 6 giờ chiều nay; Toán-trưởng lưởng-lự, xoay qua đưa tầm mắt nhìn về các Toán-viên như muốn hỏi ý kiến anh em; Châu, một Toán viên thâm niên và đầy kinh nghiệm nhảy Toán liền góp ý kiến: Các hoạt động Biệt-Hải xưa nay chỉ chuyên đột nhập về đêm, thành công hay không đều do yếu tố bất ngờ, nhưng với tình hình nầy, cũng như lộ trình di chuyển xem ra không mấy dễ dàng, nhất là đang lúc ban ngày, ngay đến 2 phi-công nhảy dù thoát hiểm ở vùng nầy cũng phải, ngày trốn, đêm đến thì thả trôi theo giòng sông Miếu-Giang xuôi theo ra Biển, vì một điều quan trọng là Quân BV rất nhiều và kiểm soát khắp nơi, rất nhiều Sư-đoàn Chính-quy từ Bắc mới vào, chúng đang kiểm soát từ tuyến Khe-Sanh dọc theo Quốc lộ 9 và chắc chắn sẽ lan sang những vùng phụ cận, sợ rằng, Toán dễ bị phát giác nhanh chóng bởi các tiền trạm hoặc những Chốt chận của chúng trước khi Toán đến được mục tiêu. Nghe sự giải thích hợp lý, Toán trưởng quyết định bác bỏ lời đề nghị của trung-úy Tom Norris, giờ xuất phát tối nay, khi mặt trời đã hoàn toàn ngủ yên
Đúng 7 giờ tối, Toán chuẩn bị khởi hành, bỗng dưới chân đồi cách Lô-Cốt khoảng độ hơn 1 cây số, ước tính theo tầm mắt, trông khá rõ ràng vì hiện đang là mùa Hè, cho dù mặt trời mới khuất nhưng vẫn còn trông thấy được, xuất hiện một đoàn xe Tăng T54, và Molotova của BV không thể đếm được là bao nhiêu chiếc, tất cả đều bật đèn lên sáng trưng nối đuôi nhau chạy trên Quốc lộ 9, hướng thẳng về phía tiền đồn mà Toán đang chuẩn bị xuất phát, hầu như chúng không sợ chiến đấu cơ của phe ta đến oanh kích, hoặc Pháo-binh sẽ tác xạ, khi sắp gần tới cây cầu mà đơn vị Công-binh đã giật sập trước đó. Bỗng dưng đoàn xe tăng T54 chuyển hướng băng qua nhiều ngọn đồi, chạy thọt sâu vào lãnh thổ Quãng-Trị. Thấy vậy các Chiến-Sĩ Biệt-Hải, lẩm bẩm chưởi thề ‘Mẹ kiếp’ tiền hung, hậu có kiết không đây? Hồi 2 giờ trưa nay, từng đoàn Molotova phát xuất từ hướng cửa Việt cùng lần lượt tiến vào, ở trên đồi cao nhìn xuống thấy rất rõ; đoàn xe băng qua nhiều cánh đồng hoang, sát nách cách tiền đồn không xa lắm, và băng qua một cách thản nhiên, không hề kiêng sợ, làm cát buị bay tung lên mù mịt. Nói tóm lại trong khoảng thời gian nầy (không được oanh kích hoặc pháo-binh tác xạ, vì kẹt Trung-tá Hambleton và Đại-úy Mark Lack đang lẩn trốn trong vùng chúng kiểm soát) Quân BV vẫn liên tục, thường xuyên di chuyển, nhất là những ngày Toán Biệt-Hải có mặt tại đây. Điều làm mọi người ngạc nhiên không ít, là ngày và đêm không hề nghe tiếng máy bay hoặc Pháo-binh của phe ta bắn tới yểm trợ cho quân bạn; Xem như tình hình quanh vùng, ngày càng trở nên căng thẳng đến mức vô cùng tồi-tệ; những giờ phút linh cảm đen tối như thế nầy, các Chiến-sĩ đều nhờ vào hơi của thuốc lá nặng (Basto Xanh) để giúp họ trấn an tinh-thần.
Đã 10 ngày qua, kể từ 9 giờ tối ngày 2 tháng 4 năm 1972, Không-quân và Hải-quân Hoa-kỳ đã lập vùng “cấm hỏa-lực” (no fire zone) quanh vị trí phi-công, Trung-tá Hambleton và Đại-úy Mark Lack bị phòng không BV bắn rơi với đường kính 27 cây số, vùng cấm hỏa lực bao trùm hầu hết các vị trí QLVNCH đang bị áp lực lực lượng BV bao vây tấn công, nên vì thế các đơn vị QLVNCH không còn được máy bay và pháo binh yểm trợ như thường lệ. Đây là cơ hội quý giá nhất cho quân đội BV chuyển quân vào các tỉnh của tuyến đầu lảnh thổ miền Nam một cách rầm rộ nhanh chóng mà không lo sợ, vì thế cho nên các cứ điểm đóng quân của Sư-đoàn 3 BB, sau đó không lâu đã bị Cộng-quân tràn ngập. Gần 8 giờ tối, màn đêm bắt đầu buông xuống phủ kín cảnh vật chung-quanh, nhường chỗ cho những sinh vật sở trường hoạt động về đêm, trong đó có Toán Biệt-Hải. Tối nay Toán áp dụng đội hình di hành hàng dọc, mỗi người cách nhau 3 thước, theo thứ tự đã được chỉ định trước khi xuất phát; Riêng trung úy Tom Norris luôn luôn đi giữa. Còn Trung-tá Andy Anderson thì nhận trách nhiệm ở lại Tiền đồn làm trục ‘trung gian’ móc nối, liên lạc với thám thính cơ OV-10 với Toán Biệt-Hải cùng với 2 phi-công Hoa-kỳ đang lẫn trốn trong lòng địch 8 giờ 20 tối, Toán bắt đầu rời khỏi tiền-đồn dưới sự hướng dẫn của người lính gác, vượt, luồn lách qua nhiều vòng kẻm gai, mìn bẩy phòng thủ quanh căn cứ. Nhờ buổi chiều lúc vừa đến Toán-trưởng đã nghiên cứu địa hình, nên trong đêm tối, tìm hướng lộ trình dẫn Toán mon-men xuống bờ sông Miếu Giang cảm thấy không mấy khó khăn, con sông được chia ra nhiều nhánh, đặc biệt giòng nước thường chảy cực mạnh dù nhịp độ thủy triều có lên hay xuống; đứng dưới bờ sông nhìn lên Quốc lộ 9 vào lúc nầy không tài nào ước lượng nổi, khoảng cách bao xa! Hơn nữa nhiều cây to cao mọc lên san sát, nên đã che khuất phía trước. Trong màn đêm tịch mịch thanh vắng, mọi người trong Toán vẫn nghe được tiếng ho hay tiếng khua động từ chỗ đóng quân của các Trung-đòan thuộc Sư-đoàn 324B Cộng Sản vọng lại.
Bầu trời về khuya cảnh vật càng trở nên tỉnh mịch thanh vắng đến rợn người, ngoại trừ tiếng kêu của các loại côn trùng, như muốn chui rúc vào tai. Ám ảnh bởi những ‘oan hồn sinh Bắc tử Nam’ làm những vị anh hùng vô danh nầy chiến đấu âm thầm trong bóng tối, phải cảm thấy len lẻn một nỗi buồn man mác tẻ lạnh, khi nghĩ đến thần chết vẫn quanh quẩn đâu đây! Phút chốc, vài loài chim đậu ngũ yên trên các nhánh cây vụt bay tán loạn khi nghe tiếng chân của người dù rất thận trọng, vô tình làm lồng ngực cả Toán đập thình thịch, vì tưởng rằng đã bị địch phát giác theo dõi. Di chuyển ban đêm cảm thấy có nhiều khó khăn hơn, vì bất cứ tiếng động nào cũng có thể tạo ra cảm giác lo sợ, vì bị hạn chế tầm nhìn xa, duy chỉ tin tưởng vào thính giác giúp Toán phán đoán sự việc có thể sắp xãy ra, để tùy nghi ứng xử cho hợp với hiện trạng. Tâm trạng của Tiền-sát viên hết sức phân vân lo nghĩ, hình dung những sự việc không may có thể xảy ra thình lình cho Toán.Hắn mau chóng nẫy sinh ý kiến vội vàng thay đổi lộ trình dẫn Toán đi xuống dọc theo mé nước cạnh bờ sông, nhưng phải sâu ít nhất cũng ngang đầu gối, nhưng đôi lúc gặp phải chỗ trũng lên tận tới ngực, tuy sự xê dịch có phần chậm hơn nhưng chắc chắn không gây tiếng động, hoặc không để lại dấu vết giúp Cộng Sản dễ dàng theo dõi.
Đúng nữa khuya, 12giờ30, tất cả 6 người đều đến mục tiêu một cách bí mật và kín đáo, nhưng không tài nào đoán được Toán đã di chuyển được bao nhiêu cây số. Theo sự hiểu biết, qua liên lạc được thì hai phi-công sẽ thả trôi theo dòng nước như họ đã làm trong những đêm vừa qua, còn ban ngày thì tìm những bụi rậm, để nghĩ ngơi lấy sức cho đêm tới. Mọi người chia ra tìm các bụi cây gần đó không được cách xa quá để ẩn nấp; Đồng thời phải chú ý nghe ngóng về hướng trên của Quốc-lộ 9 mà hiện quân lính BV đang đóng quân, cũng như ở phía dưới dòng sông; Vì trước giờ khởi hành, Trưởng-toán cho biết tối nay, 1 trong 2 phi-công sẽ từ chỗ lẫn trốn thả trôi theo dòng sông, trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 3 giờ sáng; mọi Toán viên đều cố để mắt quan sát. Nghe ngóng và khi tìm gặp họ, thì bằng mọi cách phải đem họ ra khỏi chỗ nầy càng sớm càng tốt; Vì đây là ổ ‘kiến lửa’ trong lòng địch; Đêm nay là mấy! mà sao màn đêm lại mù mịt giống như đêm 30, chỉ có một vài vì sao lờ mờ lộ diện, chỉ nhìn thấy được trong chốc lát, qua đám mây mỏng tìm ẩn phơi bày nhẹ nhàng trôi về phía Tây Trường Sơn. Nhìn về hướng Đông cửa Việt, một vài vì sao nằm rải rác lấp lánh tựa như ánh sáng của loài đom đóm, muốn chia xẽ một chút ánh sáng để giúp cho những Biệt Hải anh hùng chiến đấu trong bóng tối, quanh đây trên các ngọn cây lớn nhỏ không hề lay động, chứng tỏ thời tiết miền Trung sắp sửa bước qua mùa hè, nóng nực, oi bức, khiến cho ngoại cảnh chung quanh càng thêm ngột ngạt, ngoại trừ hơi thở dồn dập, nhưng không đều của một vài Toán viên đang cố tình nén lại đột biến…đâu đây có một hơi thở nhè nhẹ, nhưng chắc chắn không phải là ngũ mà đang mở to đôi mắt nhìn vào những lùm cây tìm kiếm xem có cây nào lay động không, nhưng chỉ nghe thấy tiếng nước chảy róc rách của dòng thủy triều đang hồi chảy xiết ra hướng Đại Dương..
Thình lình ở giữa dòng sông, Toán viên tiền vệ bất chợt phát giác có 1 chấm đen từ trên trôi xuống rất nhanh, một lúc một gần, bập bềnh trôi theo dòng sông đang chảy cuồn cuộn, chỉ vài phút sau, thì đã thấy chấm đen lớn dần rồi vụt qua khỏi tầm mắt của vài Toán viên đứng chận cách đó chừng 10 thước, gần đến độ nghe được tiếng thở phì phào mỏi mệt khá rõ, phát xuất từ chính vật đen đang hấp hối trôi qua …ở trong lòng địch, làm sao ai dám kêu gọi ơi ới?
Chẳng bao lâu, Toán tập họp lại đi đến quyết định, ban đêm không thấy nhau để bị ngộ nhận mà lại bất đồng ngôn ngữ, còn ban ngày lại càng không nên, vì Toán Biệt Hải ăn mặc theo lính chính quy BV, nếu đến gần phi-công có thể bị cho ăn kẹo đồng như chơi
Quyết định rồi, nhanh như chớp Tom Norris mang chân nhái một mình phóng xuống nước, dùng hết sức mạnh lặn lội theo cho kịp vật đen; nhưng vào khoảng 20 phút sau Tom Norris lội trở lại vị trí của Toán, có lẽ vì dòng nước trên đã chảy mạnh, đã cuốn vật đen đi xa, nên Tom Norris lội theo không kịp. Vừa rồi, tất cả sự việc xãy ra trong khoảng khắc, nên cả Toán chẳng ai có đủ thời gian để kịp phản ứng hành động; Dù vậy vẫn án binh bất động chờ đợi lệnh; tuy không nói ra nhưng cả Toán đều nghi ngờ vật đen lúc nãy có thể 1 trong 2 viên Phi Công Mỹ đang nương theo dòng nuớc với hy vọng về tới Đồng bằng có phe ta chờ sẳn, nhưng không may vượt khỏi tầm tay chờ đợi của Toán; xem như cơ hội hiếm hoi đã bị tuột mất, thình lình nghe tiếng đối thoại vừa đủ nghe giữa Tom Norris và Trung Tá Anderson đang trực máy ở tiền đồn, có lẽ đang bàn thảo diễn tiến về sự kiện vừa mới xãy ra. Kể từ lúc phát hiện vật đen đã gần 30 phút trôi qua rồi, Trưởng Toán cho lệnh đi ngược trở lại, nhưng xuôi theo bờ sông về lại tiền đồn, nhìn vào mặt của đồng hồ dạ quang, đã hơn 2 giờ sáng. Trên đường trở lại lộ trình cũ, đi nữa người dưới mực nước nhưng phải thận trọng cảnh giác đề phòng, nhất là những chỗ đáng nghi ngờ, trong đầu mọi người vẫn luôn luôn bị ám ảnh không ít, hiện giờ trời quá tối, vã lại cây cối rậm rạp thế nầy, lỡ mà lọt vào ổ phục kích của lính BV, thì chắc chắn không còn một mống chạy thoát.
Theo như tin vừa mới biết, một số dân trong vùng chạy giặc về cho biết, bọn lính BV đang tung ra nhiều toán nhỏ, như ở ngoài Bắc thường truy lùng các Toán gián điệp đột nhập, từ trên không theo thế cài răng lược cho nên hai phi-công Hoa-kỳ nầy khó hy vọng thoát khỏi cái lưới bẩy chặt chẽ nầy của chúng! Vì thế, nên ngày thì vô bụi rậm ngũ lấy sức, đêm thì thả trôi theo dòng sông, hy vọng xuống vùng đồng bằng sẽ gặp quân bạn.
Nổi thắc mắc của mọi người, vật đen và tiếng thở của con người đang trôi vụt qua, đầu óc luôn ám ảnh thắc mắc và tự hỏi, không biết vật đen đó có phải là người… mà là người phi-công Hoa-kỳ mới đúng!’ Thật Toán Biệt Hải nầy quá khó tánh! phải là phi-công Hoa-kỳ mới đúng? Nên bụi cây nào ở trước mặt, Toán sắp sửa lướt qua là mở to đôi mắt soi bói như tìm một bảo vật đang lẫn trốn trong ấy, nhưng ác nghiệt thay, những bụi cây trước mặt không thèm lay động, thì lại càng làm nản lòng cho những người trông ngóng đi tìm, kể từ khi Toán nhận lệnh, rời khỏi mục tiêu cho đến giờ là hơn một tiếng đồng hồ rồi, thì hy vọng đang tan dần theo những áng sương mù của màn đêm chụp xuống…Rồi bổng chốc, như một điệu nhạc ‘rock and roll’ 6 cái đầu và 12 con mắt đều đồng loạt hướng về một bụi cây phía trước, nằm sát mé sông cách Toán chừng 10 thước, trong màn đêm tỉnh mịch làm sao không nghe rõ được những âm thanh giao động trên dòng nước, mọi người lấy lại bình tỉnh quan sát chung quanh cẩn thận trước khi ứng xử, như phản xạ trong kinh nghiệm chiến đấu, mọi người đều tìm một nơi ẩn nấp thuận lợi gần nhất, tất cả các bụi cây đều đứng yên bất động: và cả Toán không ai bảo ai đều giữ im lặng, đứng yên không lay động…và lắng nghe, theo dỏi. Sau một hồi khá lâu, tất cả đều lắng nghe trong hồi hộp phập phồng, quan sát lại một lần nữa bụi cây trở nên yên lặng đến khó thở; vì trời sắp sáng đến nơi rồi không thể chần chờ được nữa. Tiền sát viên được một Toán viên ỳểm trợ cố đến sát mục tiêu, hai nòng súng AK47 chỉa vào bụi cây trước mặt; khi khoảng cách bụi cây thật ngắn, người tiền đạo nhận thấy bụi cây bỗng run lên như sợ hãi, rồi mổi lúc một mạnh hơn, đồng thời nghe tiếng người phát ra yếu ớt như van xin {có vẽ viên phi-công đã thấy trước Toán người lố nhố từ nơi xa) ‘No, No’ bằng anh ngữ phát ra từ nơi thân cây, làm cho hai Toán viên đi đầu không còn nghi ngờ gì nữa, đích thực đây là viên phi-công Hoa-kỳ mà cả Toán đang vượt mọi nguy hiểm để đi tìm, ngay dưới thân cây lờ mờ trong tầm mắt của Toán chừng 5 thước, viên phi-công đang run rẩy vì bị ám ảnh và in trí rằng đây là những đơn vị bộ đội BV đang lùng bắt ông, tinh thần quá sa sút vì đói khát trong 10 ngày qua, vì đã lẫn trốn nên càng làm cho ông trở nên hoảng sợ khi nhìn thấy Toán người đang lố nhố trước mắt ông.
Tiền sát viên xác định mục tiêu có phần chắc chắn, bèn đứng yên bất động tại chỗ, cốt để mắt quan sát, theo dõi, không dám khiêu khích hay động tỉnh, vì sợ viên phi-công hoảng hốt, và sẽ buông tay khỏi gốc cây lần nữa để trốn theo dòng nước đang chảy xiết, hoặc là vì bản năng tự vệ ông ta có thể dùng súng P.38 trong người để bắn trả lại thì sẽ bị lộ tông tích cả lũ. Tiền sát viên đã trông thấy khá rõ viên Phi công, tử trên đỉnh đầu dùng khăn quàng cổ ngụy trang phủ kín đến cổ, hai tay ôm chặt dưới thân cây ngập nước, lom khom dưới mức nước sâu đến lồng ngực của ông, tiền sát viên vỗ nhẹ lên đầu ra dấu cho toán viên trở lại phía sau báo động cho Tom Norris biết; không bao lâu thì có tiếng bì bỏm cuộn quặng trên mặt nước, hai người hiện rõ, đó là Toán-trưởng và Tom Norris; Tiền sát viên chỉ về hướng thân cây đang ngập nước nơi đã phát hiện ra viên Phi công, trong giây lát Tom Norris xác định được vị trí rõ ràng, thì vội vàng lên tiếng vừa đủ nghe, rồi bất ngờ viên Phi công từ trong bụi cây nhanh nhẹn bò ra (giống như Bò mẹ khi sanh Bò con dấu trong lùm cây, khi Bò con nghe tiếng kêu của Bò mẹ thì dựng phóc dậy chạy ra). Thật là cảm động! Cả hai quỳ xuống ôm chầm lấy nhau giống như đôi tình nhân đã xa cách hằng thế kỷ, mà nay bỗng nhiên gặp lại; Mọi người đều nghe rất rõ, tiếng đứt quảng từ người Phi công thốt ra “Thank…Thank” làm cho mọi người ai ai cũng hết sức vui mừng phấn khởi và đầy cảm động! Và có lẽ ông quá xúc động sau 10 ngày lẫn trốn, phần thì bị lính BV truy kích, phần thì đói khát, ông tưởng rằng sớm muộn gì rồi cũng sẽ bị bắt, nhưng không ngờ nay được cứu sống qua sự hy sinh của các chiến hữu cùng một chiến hào Thế Giói Tự Do.
Niềm vui sướng nào có thể so sánh cho bằng hai chữ Tự Do, vì tưởng đã vĩnh viễn mất đi, nay tìm lại được, nhưng đối với những chiến sĩ đã âm thầm chiến đấu trong bóng tối là cả một phần thưởng thầm kín, lớn lao vô giá đối với tinh thần thượng võ, Toán đã vượt tất cả khó khăn nguy hiểm để hoàn thành công vụ trong một đêm đầu, càng tăng niềm tin theo những chuyến nối tiếp. Dù vậy, thời gian không cho phép ở đây quá lâu, Toán-trưởng tức khắc ra lệnh rút lui nhanh, không thì sẽ bị lộ ngay, vì quanh đây vẫn là chỗ đóng quân của một Sư-đoàn lính BV, nên mọi người đều phải cảnh giác và cẩn thận đều đó, ngoài ra còn có trách nhiệm phải đưa viên Phi công về phần đất an toàn nữa chớ?
(con-tiep)

vinhtruong
10-18-2010, 07:57 PM
(Tiếp-theo)
“Nhất là những bài viết phỏng theo hay dịch lại trong những tài-liệu không thật - Get real!!! Và tệ nhứt là phim BAT-21 Bravo cũa Hollywood
http://www.homeofheroes.com/brotherhood/seals.html
It’s a great movie. However, the REAL story is even better. You can read about it here
http://www.vnafmamn.com/bat21.html
http://www.homeofheroes.com/brotherhood/seals_kiet_award.html
- Còn Hollywood thì họ cho rằng: “Hollywood không bị bắt buộc phải phóng tác câu chuyện hoàn toàn sự thật” Ðúng thôi!
Ngay đến tài-liệu được phổ biến rộng khắp cũng không thực tế xảy ra theo sự hiểu biết của tôi, như Mỹ phản ứng sử-dụng “rãi Mìn chung quang Hambleton dưới đây! Chả lẻ họ muốn Hambleton không được di-chuyễn ra khỏi nơi nầy, và cũng không muốn ai đến gần để giãi cứu?
“As morning dawned on April 3rd, Lieutenant Colonel Hambleton's position had been marked within 30 feet by onboard LORAN (long-range navigation systems) The Air Force knew where the injured survivor the the EB-66 was, but couldn't reach him because of the massive enemy force that surrounded him. Fellow pilots had circled above his position throughout the night, then with the first rays of dawn, they began dropping mines around him. If they couldn't fly in to rescue him, they could at least keep the North Vietnamese from reaching him as well. Then, as the dawn gave way to daylight and the cloud cover lifted, a new rescue effort was mounted”
Và thêm nữa “Classified military Secrets to protect the nature of such SAR actions on the ground by The US Naval Special Warfare Archives. (Có nghiã là câu chuyện không được quyền phỗ-biến sâu rộng, tỗng quát theo luật pháp liên bang của Hoa Kỳ, ngăn cấm chuyện trình chiếu bất cứ một phim ảnh nào do Cơ quan Truyền Thông Hoa Kỳ (United States Information Agency), trong đó có phim "Việt Nam! Việt Nam” Cho nên phim tài liệu cuối cùng của ông John Ford đã được khóa kín trong két sắt 37 năm trời cho đến khi luật pháp được thay đổi cho phép phim được chiếu cho công chúng xem. Dù rằng có nguồn tin đáng tin cậy: Thomas Norris (personel conversation) – Micheal Thornton (personel conversation) – Ltc Iceal Hambleton, USAF (ret) who gracious proof-read this report for accyracy – The Rescue of Bat-21 by Darrel D Whitcomb Brave Men, Dark Waters, by Orr Kelly SOG, by John L. Plaster.
Vì thế, tôi luôn có quan điểm tôn trọng sự thật đúng như nó có, không thêm không bớt, không tô hồng, nhưng phãi lý luận cho đúng thực tế có xãy ra, cũng không bôi đen, không đẹp đẽ phô ra, xấu xa đậy lại, không vì ghét chinh sách Mỹ, giận Mỹ thì tô-vẽ Mỹ xấu hơn thực tế dù chỉ một chút, cũng không thân với Bên nào, Miền nào (vi cã 2 đều là công cụ bị ngoại bang ũy nhiệm), như ưa bên nào thì tả bên ấy tốt hơn thực tế, che dấu bớt mặt xấu một chút - Làm như thế là thiếu công tâm, thiếu khách quan, thiếu lương thiện của con người “toi mong ước trả lại tính trung thực cho quân-sữ và lịch sữ”. Quả thật đánh giá đúng, thật đúng một bài vỡ không dễ chút nào, mỗi người đều vừa là tác nhân, là chứng nhân của lịch sử, vừa có thể là nạn nhân của lịch sử - Một bài có thể đúng về mặt này, trong phạm vi này, lại sai trái về mặt khác, trong phạm vi khác. Lại còn tuỳ theo điều kiện khách quan, tuỳ theo chỗ đứng và góc nhìn, lại còn tuỳ theo lập trường kiến thức hiểu biết và nhãn quan chính trị nữa. Muốn rõ hơn xin tra cứu hình “giãi mật” ỡ Website: Lý do vì tôi đi tìm hiểu những bí ẩn lịch sử nên trong lúc tra cứu phát giác trên online có preview 178 trang giới thiệu, đang chờ đọc khi in ra.
http://books.google.com/books?id=UIwCD6DtFLUC&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false

Bài trước tôi viết xong Rescue Nail-38 (Trung úy Quan-sát-viên Mark-Clark) và dưới đây là tiếp theo Rescue Bat-21 Bravo (Trung Tá Hambleton, Ðiều-hành-viên, Navigator B-66)
(In one of the most bizarre rescues of the Vietnam War, Lt. Col. Iceal Hambleton was recovered from enemy territory in northern South Vietnam after 11 1/2 days on the ground. This was the largest rescue operation in USAF history.
On Easter Sunday, April 2, 1972, Lt. Col. Hambleton was flying as navigator in an EB-66 electronic counter-measures aircraft (call sign Bat-21) When the aircraft was struck by a surface-to-air missile, he was the only man to eject safely, landing near a busy highway junction on a Communist supply route. Intelligence sources reported the area contained 30,000 enemy troops. When he came up on a survival radio an effort was immediately instituted to try and rescue him. A Huey helicopter was shot down with a three-man crew. Two of them were killed and one of them was captured.
On the second day, two more helicopters went in and were so badly shot up they had to abort the mission, and a forward air controller aircraft was shot down, putting two more individuals on the ground. One was captured and one became just like Hambleton. They went in with one more rescue attempt. They were shot down and lost a six-man crew. The day after that another forward air control aircraft was shot down with two men aboard. One was killed and the second one, First Lieutenant Bruce Walker, was missing on the ground. After five days effort, we had 14 people killed, we had lost eight aircraft, we had two people captured, and we had three on the ground to be rescued. That's when Lt Tom Norris and a team of 5 ARVN Sea Commandos became involved: (Theo sự thông dịch bình thường, Queenbee-1 dịch Lieutenant=Trung úy, như vậy cũng tạm ổn theo nghĩa bình dân? nhung theo Seal Naval la dai-uy!
)
Vì quyền lợi hẹp hòi ích kỹ cũa bọn tư bản quốc phòng (War Industries Board) áp đặt nhân viên phi hành Mỹ cũng như Việt Nam phải trả một cái giá quá đắt cho cái gọi là xuất khẩu phi cơ phải tiêu dùng cho hết theo định luật làm ăn “xuất khẩu phải được tiêu xài” Cái giá phải trả cho sự thực tập trắc nghiệm hoả tiển ‘phòng không’ và ‘chống phòng không’ giữa hai thế lực LX và Mỹ, sau khi đã trắc nghiệm chiến đấu cơ lần đầu tiên thế hệ phản lực, Mig-15 (LX) và F-84 (Mỹ) trên bầu trời Triều Tiên là do âm mưu cấu kết giữa Ðại sứ Mỹ tại Moscow là William Averell Harriman và Stalin truoc khi ket thuc WW-2 (sau khi cả hai Mỹ và Liên Sô sẽ chia nhau chụp các nhà bác-học Ðức rồi phãi có chiến trường để trắc nghiệm: ưu tiên quốc phòng trên bầu trời Triều Tiên và cho hàng không dân dụng bằng cuộc chiến tại VN; cho nên phải chia 2 nước nầy thành bãi chiến trường để thí nghiệm vũ khí mới và tiêu thụ vũ khí củ)

Trung tá Hambleton thình lình bị sức ép tống văng ra khỏi chiếc oanh tạc cơ EB-66, chiếc phi cơ điện-tử không vũ trang bị trúng một hoả tiển Sam địa không (surface to air missile) nổ tung thành trăm mãnh vụn rơi xuống, trong khi Hambleton vừa thấy thoáng qua hình bóng phi công đang trong vị thế hoảng hốt, toan nhảy dù nhưng đã trể vì phi cơ đang bùng nổ tan ra thành cả ngàn mãnh vụn, phi hành đoàn 5 người còn lại chắc chắn phãi tan xác trong đám lửa. Vừa bị bắn văng ra ngoài, vị trung-tá 53 tuỗi đang lững lờ trên trời không biết vận mạng ra sao; May mắn thay chiếc dù đã được Chúa che chở chui vào đám mây dầy-dặt bao-che cho đến xuống tận đám rừng chồi thưa cây. Con người số mạng lớn như thế nầy chắc sẽ thoát khõi nanh vuốt quân Bắc-Việt như linh cãm của tôi. Số phận trung tá rồi cũng sẽ giống y chang 2 phi hành đoàn UH1-H của Trung úy Ðạt bị phòng không 37 ly bắn cháy trên không và chiếc Thiếu Phúc bị bắn tê-liệt khi còn cách LZ Hồng Hà-2 vài chục thước. Tất cả đều được cứu thoát nhờ vào câu nhựt tụng truyền thống cuả KQVN “không bỏ anh em không bỏ bạn bè” dù bất cứ hoàn cảnh nguy hiểm nào
Dưới đây, nằm ngay trung tâm điễm trách nhiệm kiễm soát cũa 30.000 lính BV mà quân BV đã từng có kinh nghiệm chia từng toán nhỏ lục soát từng vùng, cùng đồng loạt bung ra để bắt Biệt kích nhảy toán ngoài bắc, làm sao họ thoát khỏi bi chụp đây? Dĩ nhiên liền sau đó một cuộc Rescue được mật thiết tổ chức (SAR) để càng sớm càng tốt cứu tất cả những người lâm nạn, 2 chiếc trực thăng UH1 được phóng vào liền bị bắn hạ ngay tại trận, nhưng may mắn nhờ phi công gan dạ liều mình của chiếc CH-53 Jolly Green bay dùng Minigun bắn xối xã bao vùng, vào cứu được tất cả đoàn-viên về hậu cứ. Rồi màn đêm buông xuống bao phũ khung cảnh cô đơn hãi hùng vây quanh Hambleton đêm nay, Chúa nhựt 2/4/1972.
Sáng tinh sương 3/4/1972, trung tá Hambleton đã được phi cơ trắc-giác xác định vị trí cũa ông qua trên LORAN (long range navigation system) USAF biết chắc vị thế nhưng chịu thúc-thũ vì ông đang nằm kín mích giữa ranh giới của 2 sư-đoàn 304 và 308 . Dù vậy suốt đêm phi cơ thám thính vần vũ trên ấy, đợi đến sáng phi cơ sẽ vào thã mìn? (Theo tài liệu nầy các bạn quân nhân nên để ra vài phút suy gẫm, việc làm thã Mìn nầy có phải con dao 2 lưởi …gây ra cảnh gậy ông đập lưng ông? Có nghiã là giết hết kể cả nhân viên phi hành lâm nạn! Trong cuộc rút lui êm thắm cũa 6.000 TQLC Mỹ từ Khe Sanh, đoàn convoy chạy một mạch từ Khe Sanh ra đến nơi và lên Hạm đội trên hàng không mẫu hạm Okinawa bình-an là sao? Trước đó hơn nữa năm, đầu năm 1968, ngày nào trên TV khắp thế giới đều có rao giãn quân BV có ở miền nam hay không? Và quân BV sẽ bắt TQLC Mỹ giống như Ðiên Biên Phủ vào năm 1954! Ðược Hà Nội trả lời là không! Chĩ có nhân dân miền nam nổi lên chống Mỹ/Diệm, còn Khe Sanh vùng rừng núi thì chĩ có Khĩ ... rồi bao nhiêu sư đoàn cũa tướng Giáp chết tươi ở đây mà Hà Nội có miệng mà nói không nên lời? Chiếc C-130 thả các chiếc dù tiếp tế thường điều chĩnh ở cao độ thấp để bung dù cho chính xác không bị lạc ra xa, bằng hệ thống sensor “altimeter setting” Tuy nhiên bỗng có sự kiện mới, các chiếc dù đều được thả ở cao độ, cứ cho lý do là phi cơ C-130 và C-123 đáp xuống bị pháo kích cường tập, nên có nhiều chiếc dù lạc ra ngoài, trong mỗi ballet đều có cấp số đan cối và lương thực giống nhau mà lính BV có viết thơ về nhà khoe ta cướp đạn Mỹ để đánh Mỹ (thí dụ dan cối 81 dùng 82ly BV) và lương khô để nuôi quân. Tất cả Ballets đều giống nhau, bổng dưng thình lình có lệnh chuẩn bị rút khõi Khe-Sanh, và Tiểu đoàn 37/BÐQ giử vòng đai Khe Sanh phãi rút vào ben trong cùng chuẫn bị lên đường.
Một buổi sáng đẹp trời, nhiều cánh dù lơ lững trên cao chung-quanh phi trường. Ngay khi vài chiếc dù rơi vào trong vòng đai phi-trường và bị các MP Mỹ ra gác chận lại không cho ai đụng tới, mà dồn nổ lực xắp xếp chuẩn bị rút. .. Chuyện gì sẽ xảy ra hãy để cho phản tình báo CIA trả lời! Hoac xem sach Vietnam War “The New Legion”, Vinh Truong, Library of Congress Control Number 2010902134.
Khi cần cứu nvph như 7 người trong đoàn viên UH1-H rơi ở bên Lào 1971 và được đại đội Hắc Báo cứu như thế nào hảy xem ở mục Chuyện đời-lính, Canh Thep “Lam Sơn 719” thì rỏ qua hình tài liệu, Mỹ đã dùng BLU-82Al và BLU-82S để tiêu diệt nguyên một sư-đoàn nỗi tiếng là Sư Ðoàn-2 Sao Vàng đang phục kích cố thủ dưới công sự phòng chống kiên cố tại Căn-cứ hậu cần 604
Nói cách khác họ làm cách nào mà quân BV không thễ vào để chụp Hambleton, có nghiã là họ thả dù với lương khô có chất độc và truyền nhiễm (bacteria weaponry, như họ đã có căn dặn nhiều lần cho toán Biệt Hãi truoc khi xuat phat) để tiêu diệt mọi mầm mống đe doạ tính mạng của Hambleton, Mark Clark miễn làm sao cứu được phi hành đoàn dù phãi trã bất cứ giá nào, vì thế các Biệt Hải được nhắc nhở nhiều lần không nên ăn những thức ăn mà Mỹ thả dù xuống hiện trường.
Rồi thì thêm một cuộc hành quân rescue khác sẽ được dựng lên để cứu Hambleton, cuộc rescue kỳ nầy đụng phải sự chuẩn bị sẳn sàng chống trả cũa quân BV, nên vô cùng khó khăn nguy hiểm, làm sao chui vào một màn lửa đạn đang giăng-mắc chung quanh? Hambleton như nằm sau một bức tường lữa, thách đố sư can đãm cũa phi công Ðế quốc Mỹ, bất chợt chiếc trực thăng Jolly Green CH-53 phãi do-dự nhưng vẩn hùng dũng chui vào mây để tránh tằm đạn của địch, thay vì lướt qua vùng lửa đạn để cấp cứu Hambleton. Khi vừa ra khõi mây phãi đương đầu trước mắt với 10 chiến xa T-54 và PT-76, nhưng Trung tá phi công Bill Harris can đãm vận dụng phi cơ luồn lách đến gần cách Hambleton vài trăm thước, nhưng khắc nghiệt thay tình thế rất nguy kịch, 2 minigun trên CH-53 phãi giao chiến với thành phần của sư đoàn 304 khắp mọi nơi; Có tiếng phi công chiến thuật muốn can thiệp giúp đở, gọi phi công Harris on guard frequency “Where’s the enemy fire coming from?” Harris trả lời khắp mọi nơi trong lúc mưa đạn ghim vào fuselage như tiếng bánh tráng bễ vào xuyên thẵng cockpit; Thôi đành bõ cuộc vì phi cơ trúng đạn quá nặng, Harris phãi lấy cao độ và tìm ẫn trong mây để tránh đạn, May mắn thêm một lần nửa 2 chiếc Jolly Green lại mình mẫy đầy vết đạn nhưng cũng lết được an-toàn về hậu cứ.
Vào lúc sương chiều đang xuống thêm một chiếc OV-10 Bronco FAC bị trúng Sam rơi xuống, Ðại úy William Enderson, phi công và quan sát viên ngồi sau Trung úy Mark Clark đang sữ dụng ống nhòm quan sát; cã hai nhãy dù ra khõi phi cơ cũng gần địa phận cũa Hambleton. Thế là cuộc rescue thứ 3 bắt đầu cứu bạn, hiện giờ tổng số là 3 nhân viên phi hành đang ẩn trú dưới đất. Màn đêm lại sập tối buông xuống không còn thấy đường nữa, 3 chiếc trực thăng phãi bay về hậu cứ; Hiện giờ Henderson, Clark và Hambleton đang ẩn núp 3 nơi khác nhau. 24 giờ qua các toan-tính rescue đều thất bại, 3 phi cơ bị hạ, 5 chiếc hư hại nặng, 3 người bay rescue đã chết, và người thứ 4 đang bị bắt làm tù binh và vẩn còn 3 người đang ẩn núp đâu đó giữa vùng địch kiễm soát bao trùm dưới màn đêm u-ám.
Suốt đêm 3/4/1972 Ðại úy Enderson bị quân BV lùng bắt được, để rồi còn lại chĩ 2 người là Clark và Hambleton; Ðây là cuộc cấp cứu phải trả một cái giá quá đắc trong cuộc chiến VN, nhưng nghịch lý thay đây là mục tiêu yêu cầu phải có là tiêu-xài cho hết hàng tiêu dùng là đũ các loại phi cơ đã sản xuất quá nhiều mà công nhân Mỹ đã làm quá nhiều giờ Overtime để sắm thêm những tiện nghi cho cuộc đời. “Chỉ có các chiến sĩ tham dự trận chiến khắc nghiệt để trả cho cái nghiệp chướng nầy”
Ngày 6/4/1972, Ðại úy Chapman quyết tâm cứu đồng đội, ông phóng nhanh liền vào nơi Hambleton trú ẩn một cách điên cuồng, quân BV bắn ào-ạt vào phi cơ bóc cháy, khói mù mịch bao quanh phi cơ rồi phát hoã, nổ tung bay ra từng mãnh vụn, Hambleton ôm mặt khóc ngất nhưng không dám gây nên tiếng động, khi nhìn thấy tình đồng-đội quá thắm thiết. Sáu đoàn viên trên chiếc trực thăng nầy đã hy sinh trước mắt Hambleton; Ông khóc tức tưởi cho chính ông trong yên lặng cô đơn, rồi đây những ngày dài trước mắt trong lòng địch với biết bao đói khát, thương tích đầy mình, kèm theo sợ-hãi, kiệt sức …rồi một ngày mai vô định. Ông phãi sống để kể lại, nói lên sư hy sinh vô bờ bến cũa tình huynh đệ chi binh mà chĩ có thể hiện trên chiến trường như thế nầy “Họ không bao giờ bõ bạn bè nơi chiến địa, thật cao cã thay!” Ðây cũng là truyền thống của dân bay!
Cuộc Rescue bầng USAF không thành công, bây giờ đổi sang sữ dụng toán Sea Commandos Biệt Hải. Vì phải vào hang Cọp mới bắt được Cọp Con! Queenbee-1

vinhtruong
10-20-2010, 04:14 AM
(Coi như hoàn thành Rescue NAIL-38 Bravo, (trung úy air-observer Clark OV-10 FAC) Bây giờ theo đây tiếp tục giai đoạn-2 Rescue BAT-21 Bravo, Trung tá navigator/B-66, Hambleton)

Vào lúc 7 giờ sáng, ngày 11 April 1972, tất cả Toán cùng Quan sát viên, Trung úy Mark-Lack về tới dưới chân triền đồi của tiền đồn nơi xuất phát, có nghĩa là vùng đất tư do của phe ta, lúc nầy sức khỏe của Quan sát Viên (air-observer) Lack đã quá bết bát không thể tự đi được sau hơn 10 ngày lẫn trốn, vì đã vắt hết sức mạnh của nghị lực tinh thần mà phấn-đấu quyết-liệt đến cạn mòn, nên cả Toán kẻ trước người sau phải thay phiên nhau cõng Lack chạy thẳng lên dốc tiền đồn, vì sợ để lộ thì bị lính BV trông thấy sẽ pháo kích. Khi lên đến đỉnh, phía ngoài hàng rào dây kẻm gai của tiền đồn, lúc nầy tất cả đều ngất ngư và mệt vì đã thức trắng đêm, thêm vào đó thân mình ai cũng bị ướt đẩm mồ hôi vì đã leo dốc mà còn phải thay phiên nhau cõng người bạn Mỹ nữa, nhưng dù sao thì cả Toán đều thở khì sung sướng vì đã hoàn thành công tác một cách mỹ mãn, giờ nầy thì Toán mới cảm thấy an toàn, nên cả Toán đã ngồi bệt xuống trước cổng gác để thở dốc; một số anh em trong tiền đồn thấy vậy, vội chạy ra tiếp ứng, phụ dìu quan sat viên Mark đặt nằm nghĩ trong Lô-Cốt cho an toàn hơn, để tránh đi sự quan sát của tiền sát viên BV và rồi có thể bị pháo kích nữa. Một vài chiến sĩ của Đại-đội đi lục lọi, tìm kiếm những gói càfê trong phần luơng khô C Ration, và họ đã pha nước nóng vào ly nhôm bọc ngoài Bi-đông đưa cho Mark để thể hiện tình chiến hữu. Trung úy Mark cầm ly càfê trên tay với đôi mắt đỏ hoe rơi lệ, anh thốt ra không biết bao nhiêu tiếng Thank… Thank…Ai có chứng kiến được trong hoàn cảnh nầy, thì mới hiểu thấu được tình nghĩa huynh đệ chí binh Việt/Mỹ thắm thiết là dường nào! Tại sao chúng ta không làm một tượng đồng Việt Mỹ, trong đó có ba người: Trung-tá Ðiều hành viên Hambleton và Quan sát viên, Trung-úy Mark Lark đứng hai bên còn một anh Chiến-sĩ Biệt-Hải Nguyễn Văn Kiệt đứng giữa? Trong bảng đồng khắc chữ: “Mùa-Hè Đỏ-Lửa, trên dòng sông Miếu Giang, Cam Lộ, Quảng-Trị, ngày 13/April/1972, để thể hiện tình chiến hữu Việt-Mỹ” rất hay và ý nghĩa muôn đời, phải không các bạn?
10 giờ sáng cùng ngày, một chiếc thiết vận xa M 113 xuất hiện thình-lình, không biết từ đâu chạy tới đứng đậu sẳn phía sau Lô-Cốt dùng làm phương tiện chở trung úy Mark về hậu cứ, xem như chuyến công tác đầu tiên đã hoàn thành tốt đẹp. Chiếc M 113 rời khỏi Tiền-đồn tức khắc sau khi đã chuyển tản Mark rời khỏi Lô-Cốt, bây giờ Toán mới yên tâm lấy khẩu phần C Ration ra ngấu nghiến ăn vội-vàng cho xong bửa, và mọi người đi tìm một chỗ tạm trong Lô-Cốt để ngũ lấy sức, nhưng nào có ai yên được giấc nồng! Không tài nào chợp mắt được vì bị ám ảnh của đêm hội hợp lắng động vừa qua
2 giờ 30, trưa cùng ngày mọi người đều nghe một loạt đạn pháo từ phía Tây-Bắc bủa tới, nổ rền vang từng đợt rải rác trên các miệng hố cá nhân, có lẽ chúng đã có tiền sát viên điều chỉnh, nên pháo khá chính xác, tất cả đều xách súng chạy ra ngoài hầm phòng thủ vì lính BV có thể tấn công đồn ban ngày; cứ mỗi tạc đạn sau khi hú rít xé tan không khí là nổ rung chuyển cả Lô-Cốt, bất chợt, có mấy anh lính chia ra hai nhóm đang dìu Trung-tá Anderson và Toán-trưởng Thọ từ ngoài đặt vào sâu trong Lô-Cốt, tìm cách băng bó vết thương cho hai người, trên áo quần cả hai lúc nầy thấm ướt đầy máu. Có vài anh lính tiền đồn thuật lại, trước khi xãy ra khoảng 10 phút, họ thấy hai vị nầy đang đặt ống dòm nhìn về phía bên kia đồi, vì thế lính BV mới pháo tới tấp vào đồn. Ở trong Lô-Cốt Tom Norris đang liên lạc máy vô tuyến để tìm phương tiện di chuyển tản thương về hậu cừ gấp
4 giờ chiều hôm đó, một chiếc thiết vận xa M 113 ló dạng để nhanh chóng đem hai vị Sĩ-Quan bị thương nầy rời khỏi vùng hoả tuyến càng nhanh càng tốt; thể theo lời quyết định của Trưởng-toán Thọ, Toán viên Châu, người có nhiều kinh nghiệm và thâm niên nhất, cùng theo giúp để săn sóc vết thương cho cả hai vị Sĩ-quan. Làm sao đây! Kể như tối nay Toán mất hết 2 người cùng đi hành quân mà đây là hai người giỏi và nhiều kinh nghiệm nhứt trong toán và một Trung-tá Anderson, trực máy vô tuyến phòng khi Toán bị khẩn cấp sẽ dùng không quân chiến thuật can thiệp và liên lạc trung gian với Trung tá Hambleton. Chúng ta hãy khách quan mà nhận xét, chuyến đi tìm cứu tới đây có bao nhiêu phần trăm an-toàn trở về?
Không ngờ sự việc xãy ra quá mau chóng trong chiều nay, làm thay đổi hoàn toàn diễn tiến công tác tối nay chỉ dành riêng cho 4 người, coi như ra ngoài chương trình dự liệu; Trung-úy Tom Norris thay thế Trưởng-toán Thọ làm cho 3 toán viên người Việt còn lại thêm hoang mang và lo lắng, đó cũng là điều vô cùng hữu lý và thực tế vì ngôn ngữ bất đồng, Norris chả biết gì về địa hình địa vật trên đất nước xa lạ nầy, công bình mà nói địa lý và địa hình cũng rất lạ đối với người Mỹ dẫn đạo thì làm sao hoàn thành công tác, nhưng có một đều chắc chắn là Tom Norris đã hiểu được tình trạng cũng như vị trí của Trung-tá Hambleton như thế nào, theo như khách quan tôi nghĩ thì cũng không xa tiền đồn là bao nhiêu, và con đường phiêu lưu nầy Norris đã nắm vững trong công tác vừa qua theo đường đi nước bước, ít ra cũng vững tâm như phi công có nhiều kinh nghiệm khi bay trong mây mù, trong điều kiện IFR mà không cần phãi nhìn ra ngoài? - Riêng 3 toán viên Việt còn lại như rắn không đầu, họ có quyền suy gẫm, cân-nhắc cho tính mạng cũa họ được thữ thách trong hoàn cảnh khắc-nghiệt nầy ra sao? Những cảnh bị pháo kích vừa rồi đập vào mắt họ, gây ám ảnh không ít, càng làm cho họ thêm phân vân hơn, thêm vào đó nhiều đoàn xe Molotova và T54 của BV ngày cũng như đêm ngang nhiên di chuyển quanh vùng, đã làm chấn động đến tâm lý của 3 toán viên còn lại; Tóm lại tình hình ở đây càng ngày càng trở nên đen tối thêm, không kể nhiều đợt pháo kích dồn dập tới tấp của lính BV
Trung-tá Hambleton, trong tình trạng đang bị thương quá nặng, hiện đang lẫn trốn sâu trong vùng địch kiểm soát, thời gian đã 11 ngày qua, sức khỏe đã sa sút đến mức tồi tệ, kiệt sức không thể di-chuyển được xa, đêm đêm chỉ nương theo dòng nước của thủy triều, và mong được vận may trôi đến vùng quân bạn.trú đóng

Ngày 11/April/1972, Tom Norris cho Toán khởi hành y như ngày hôm qua, vì quá nôn nóng nên khởi hành ngay khi bóng đêm vừa sụp xuống, nhìn vào đồng hồ dạ-quang đúng 7 giờ tối, Tom Norris nắm được tin khá vững, Hambleton không xa tiền đồn bao nhiêu, nhưng có điều Ông bị thương sốt rất nặng và kiệt sức, với số bốn người nầy chỉ yểm trợ để cố tình kiếm ghe xuôi theo bờ sông mà thôi, chớ không thể cõng hay dìu được trong vùng bị địch kiễm soát về đến vùng đất an-toàn
Hai Toán viên dẫn đầu, có vẽ do dự áy náy, khi nghĩ đến vấn đề ngôn-ngữ, nếu lỡ có chuyện đụng-độ gì xãy ra, thì không biết phải ứng xử ra làm sao, lệnh lạc như thế nào? 3 người Việt thật vô cùng lo sợ với lý do chính đáng không thể chối cải được! Nhưng Tom Norris thì sao, Ông có lo sợ như mọi người hay không? Dĩ nhiên là có rồi, nhưng ông hình dung được nằm lòng đoạn đường đã vượt qua vào đêm rồi nên cũng có phần yên tâm hơn, mà đêm nay Hambleton đã cố thâu ngắn thã trôi theo dòng nước, bởi sự nguy hiểm sẽ vượt qua ít hơn, dẫu sao, Tom Norris cũng biết được tình hình qua liên lạc với FAC, thì cũng đỡ hơn 3 người mù băng rừng lướt bụi ban đêm tối. Vì thế, nào ngờ chính điều nầy đã gây ra sự ngộ nhận của Tom Norris, trong tài liệu BAT-21, làm đau lòng những người lính Biệt Hải đã dấn thân trong đêm nguy hiểm đã qua để cứu bạn!...Hay là Tom Norris muốn ‘đánh bóng’ tính anh hùng cá nhân? Không hẳn là vậy! nhưng theo đơn đặt hàng cũa một thế lực muốn chối bõ sư anh dũng cũa một quân lực được gọi là đồng minh cho mưu đồ thực hiện âm mưu xóa bỏ miền nam theo thế chiến lược toàn càu cũa Mỹ, nên bọn chúng không tiếc gì tiền tài trợ cho truyền thông văn hoá bóp méo sự thật qua cuón phim BAT-21 nầy cũa Hollywood, vá 13 thiên truyền hình bóp méo về cuốc chiến VN để dọn đường cho người dân Mỹ hiễu được vì sao Quốc hội Mỹ buộc phải cúp viện trợ. Mãi cho đến ngày hôm nay, các chính quyền Hoa-Kỳ đương đại vẫn tiếp tục cũng như các chính khách có trách nhiệm phải bảo vệ, làm sáng tỏ chính sách về cuộc chiến VN trước nhứt tập trung vào định-kiến-1, 1960 (Axiom-1: There was never a legitimate non-communist government in Saigon by a dissolution GVN solution)
Ba định kiến nầy được công bố trước khi quân tác chiến Mỹ qua VN, bởi NSC ngày 21/9/1960 và phải phổ-biến, giãi nghĩa sâu rộng trong các trường đại học (Jane Fonda đặc trách vụ nầy tại đại học Michigan trước 2.000 sinh-viên) Thế nên lui lại lịch sữ cận-đại đến điễm mốc thời gian (decent interval) Thí dụ từ TT George Bush qua cò-mồi nêu lên sách lược về VN – Interview on Fox News, The O’Reilly Factor aired on September, 27/2004 with president George Bush. O’Reilly questioned: “The South Vietnam didn’t fight for their freedom, which is why they don’t have it today?” President Bush answered “Yes!!!”
- Thượng nghị sĩ Mc Cane bị Hà Nội cầm tù tàn-ác đến nổi 2 lần ông toan tự sát nhưng bất thành, nên tức-khí phải thốt ra “The bad-guys won the war!” Nhưng bị một thế lực Permanent Government “óp” ngay - Muốn có tiền tài trợ để bước vào chiếc ghế quyền lực phải ăn-nói có đượm màu chính trị một tí - Cựu tù binh nầy bèn đổi thái độ 180 độ ngay: The Newsweek Paris Match on April 25, 2005 interviewed US POW Senate John Mc Cane, by repeated Axiom-1, stance of US P.G, was explained the Vietnam War in universities 1960 “Les Sud Vietnamiens n’ont jamais cruque le gouvernement en place à Saigon etait legitime. Ils savaient que Hồ Chí Minh etait UN NATIONALISTE qui rechercherait l’unification du pays … En Iraq, les elections ont prouvé que les Irakiens croient que leur government est legitime” Một điều rất lạ là tại sao Hoa Kỳ muốn ám chĩ cụ HCM là người quốc gia … tai sao? Vì P.G muốn trã lại tính trung thực cho lịch sữ sau khi buộc phãi phãn bội không giữ lời cam kết vì quyền lợi thấp hèn cũa bọn tư- bản quốc phòng (War Industries Board)
- Và người soạn giả vở bi kịch 30/4/75 là một chính khách rất trẻ Donald Rumsfeld, tham mưu trưởng WSAG (Washington Special Action Group) đã thốt ra một cách thẳng thừng: “Miền Nam bù-nhìn, Miền Bắc yêu nước!” Than ôi! Sự thật nó phủ phàng như vậy sao? “Nghèo là có tội…một nước nhược tiểu …tội càng nhiều hơn” Mãi cho đến giờ nầy, mỗi ngày chúng ta chỉ biết đấu khẩu qua lại với nhau, rồi bàn luận những chuyện trớt-huớt không đi vào đâu kéo dài hàng nữa thế kỷ nay, vì bị một thế lực trong bóng tối phĩnh-gạc một cách tinh vi, để rồi tự phiền lòng nhau! Câm giận thù hằng nhau! Thật ra do một cái gọi là đĩnh cao trí tuệ, vì chúng ta không hiểu bề trái tinh-vi đến độ thần sầu quỷ khóc cũa cuộc chiến vừa qua, mà phải gọi là danh nghiã cuộc chiến Chống Cộng-Sản theo giất trắng mực đen, nhưng không phải là vậy. Ðáng lẽ chúng ta phải nói chống Bộ chính trị ‘Mafia toàn trị’ thì đúng theo định nghiã bãn chất cũa nó. Có nghiã tài sản mà bọn chúng (Mafia) ăn cướp của dân cho đến ngày N và giờ G thì có cuộc lật đổ do Tam-trùng Nguyễn Chí Vịnh, lúc nầy các trương mục, tài sản sẽ xáp nhập vào ngân hàng Hoa Kỳ bắng giao trả lại cho dân Việt Nam qua đồ viện trợ sau cùng

Dưới bầu trời vừa nhá nhem tối, mọi người được lệnh sẳn sàng rời khỏi tiền đồn, đội hình: Toán viên tiền đạo, cách sau vài thước Toán viên tiếp ứng, cách sau vài thước Tom Norris, cách sau vài thước Toán viên hậu vệ; đêm nay phải thay đổi lộ trình di hành, từ điểm xuất phát đến bờ sông, chú trọng cạnh mé bờ sông, có phần thay đổi vì e ngại có Mìn bẩy của lính BV, nhưng đối với Norris thì anh ta biết chắc rằng Mỹ không chơi dại rãi Mìn chung quanh vùng nầy đâu! nhưng có thể bị gài bẩy phục kích, nên đi lệch qua phải cách lối cũ khoảng 40 thước, có phần gần mé sông hơn, để đề phòng, biết đâu đêm qua bọn chúng đã nghe rõ và theo dõi Toán đang đi tìm kiếm phi-công mất tích.
Sau hơn 3 tiếng, thận trọng di hành theo mé bờ sông, tất cả 4 người tới được điểm hẹn vào lúc 11 giờ đêm, trước khi khởi hành Tom Norris cho biết, Trung tá Hambleton sẽ theo dòng nước thả trôi ra tương tự như quan sát viên Mark-Lack đêm qua; Rút kinh nghiệm của chuyến vừa rồi, nên lần nầy Toán rất thận trọng, ít gây ra tiếng động, chú ý quan sát và nghe ngóng nhiều hơn, thời gian nằm kích nơi địa điểm hẹn đã 2 tiếng trôi qua, nhưng không thấy động tỉnh gì cả, cả 4 người trong Toán tiếp tục kiên nhẫn nằm chờ, nhưng vẫn không thấy tông tích của Hambleton thả trôi theo dòng nước như đã cho biết trước, vã lại vào giờ nầy, nước thủy triều đang hồi chảy xiết. Bỗng Tom Norris cho biết sau khi liên lạc được FAC, Hambleton không thể rời khỏi vị trí ẩn trốn, vì vết thương quá nặng và ra hiệu làm dấu rút lui như đêm hôm qua, lui về dọc theo mé sông trên đường trở về, Toán vẫn cố quan sát coi có gì lạ không, nhưng không phát hiện được gì cả, ngoài tiếng nước chảy rì rào và đôi khi cũng nghe được tiếng vỗ cánh của loài chim đang hoảng sợ vụt bay lên. Cả Toán đi lần về được tới gần vòng đai của tiền đồn, lúc gần 4 giờ sáng, lúc nầy Toán bắt đầu lạc nhau chia ra hai nhóm, Tom Norris và hậu vệ Kiệt không biết đi về hướng nào, hay là có lẽ họ đã liên lạc được có tin gì mới, nên 2 người nầy phải tẻ ra bờ sông Miếu Giang để kiếm ghe hòng chuyên chở được Hambleton về đồn vì Norris liên lạc được với FAC? Còn hai toán viên dẫn đạo có biết gì đâu, cứ tưởng rằng toán về lại tiền đồn, vì cũng đã sắp gần sáng rồi? Tôi tin tưởng rằng Hambleton vẫn còn theo dỏi được qua máy phát tuyến Guard tí-hon nằm gài chắc trong áo lưới cấp cứu của phi hành, mà tôi vẫn thưòng dùng mỗi khi bị rơi trên đường mòn Hồ Chí Minh, lúc đầu cứ mỗi đầu giờ là liên lạc một lần cho biết tọa độ vị trí, về sau vì tiết kiệm batterie, nên mỗi 3 giờ mới liên lạc một lần (3 giờ, 6..9..rồi 12 giờ, cứ như thế mà liên lạc) phi-cơ thám thính OV-10 FAC hay Toán thám sát dưới đất có thể định hưóng qua máy trắc giác để dò tìm (homing) đến ngay người phi công bị nạn. Ðang di hành Norris bỗng đi chậm lại với Kiệt, để liên lạc với FAC thì họ bị lạc nhau lúc nầy, chia ra hai nhánh, người tiền đạo và người thứ hai tiếp ứng cùng nhau thành toán-1, và Norris cùng hậu-vệ Kiệt họp nhau thành toán-2, họ đang bị lạc bầy trong đêm tối mà không thể la kêu ơi ới gì được. Sau khi Norris liên lạc được vơi FAC rằng Hambleton ở cách thượng nguồn trong vòng một cây số và không thể di chuyễn được vì sau 11 ngày vết thương làm độc trầm trọng, sức người và tinh thần đã xuống thê thãm; không còn sức di hành. Chắc chắn Norris và Kiệt không thể khiên vác Hambleton nỗi, Norris dẫn Kiệt vượt lên nguồn nước đang chãy khá mạnh, cũng may nhờ sương mù bao phũ nên quân BV không thể phát hiện. Họ đang âm thầm chui qua dưới chân cầu Cam Lộ một cách khó khăn vì nước chãy ngược, nhưng thật êm ái không gây ra tiéng động trong khi tiếng bộ đội BV ồn ào vang dội trên bờ sông; Họ vẫn đi chõi ngược dòng nước, có nghĩa là đi song hành với Norris đang ỡ dưới song, chúng nói nói cười cười huyên thuyên

Kể từ ngày 5/4/1972 Ðại tá Al. Gray Marine tiếp tục cuộc Rescue thay thế USAF thất bại trong việc tìm cứu; Al Gray chĩ thị Norris phãi tiến vào ngôi làng đã bị bom đạn tàn phá, và hãy kiếm cho ra phương tiện làm bè đễ đưa Hambleton xuôi dòng nước về lại tiền-đồn cũa quân bạn cách đó khoảng chừng 3 cây số theo xuôi dòng sông Miêu Giang. Nhưng ánh sáng ban mai sắp sữa chiếu rọi nên Norris cùng Kiệt phải trở về nơi tiền đồn đã xuất phát. Hai người dẫn đầu đi lạc, nằm ẩn núp dưới chân đồi của tiền đồn chờ đợi lệnh, cho đến khi trời sáng trưng mới leo lên được tiền đồn, và nôn nóng không biết chuyện gì sẽ xãy ra cho Norris và Kiệt. Nhưng sau cùng bốn người cùng về tới tiền đồn, Họ đang quá mệt mõi nên cần một giấc ngũ vùi trong lô-cốt.
FAC trên vùng trời Hambleton thúc dục Norris cùng toán Biệt Hải qua trung gian Ðại tá Al Gray: Hambleton đã 11 ngày qua không còn đũ sức cũng như tinh-thần, họ phãi đến gấp để cứu nếu không còn kịp nữa, vì Hambleton trong tình trạng sốt nặng do vết thương bị làm độc cã hơn mười một ngày qua. Nhưng Norris không tài nào thuyết phục được hai Biệt-Hãi kia vì họ không tin vào Norris, nhứt là ngôn ngữ bất đồng khó ứng xữ cho hiệu quã nên họ từ chối không chịu tham dự, chĩ có toán viên Nguyễn Văn Kiệt là tình nguyện theo Norris, vì Kiệt biết Hambleton cũng quanh quẫn đâu đó không xa lắm, Kiệt tin tưởng Norris sau nhiều ngày làm việc chung với nhau với vị trí hậu duệ. Riêng Norris thì có thễ ước lượng được vị trí cũa Hambleton cho nên hắn rất yên trí mà đi tìm dựa vào những chặng đường cũ đã đi qua
Ánh sáng sau cùng đã khuất hẳn dưới trời tây, Norris được Nguyễn Văn Kiệt tình nguyện đi theo, họ trang phục như người chài lươi nghèo nàn đi kiếm sống qua ngày cũa dân địa-phương. Xuất hành thêm lần nữa, hai người Mỹ Việt dường như thông thạo đường đi nước bước, đi thẵng một lèo ngược nguồn nước đang chãy siết với âm thanh che lấp những bước chân âm thầm trong đêm tối; Họ di hành theo cạnh bờ nước lấp sấp vừa đũ không gây tiếng động hay hoà lẫn theo điêp khúc cũa dòng nước đang róc-rách chãy. Mục tiêu là ngôi làng đã bi Bom đạn cày nát với hy vọng tìm được vật thể làm bè hay phao để đưa Hambleton suôi về lại tiền đồn. Khi tới bìa làng thì may mắn họ tìm được chiếc xuống đang bị bõ hoang tróng vắng không có bóng dáng ai nơi làng nầy. Cả hai đẫy nhẹ chiếc xuồng xuống nước và chèo lên thượng nguồn chừng cây số, dọc hai bờ sông chúng nghe tiếng máy nỗ cũa chiến xa, Molotova, và bộ đội đang di hành, có tiếng nói chuyện qua lại hoà lẫn âm thanh tiếng nước chãy, nhưng không làm sao chúng phát hiện được có một chiếc xuồng đang chèo ngược dòng nước trong sương mù đang trùm phũ. Mặc cho sự hiễm nguy đe-doạ, Norris và Kiệt vẫn âm thầm chèo thẵng đến dưới chân cầu Cam Lộ với hy vọng sương mù sẽ che mắt toán lính BV gác cầu; May mắn chúng đã chèo qua khõi cây cầu mà không bị phát hiện,. Thình lình Norris nghe trong vô tuyến bão phãi thã xuôi về lại vài trăm thước, và ép vào bờ phãi đi lên bờ vài chục thước nơi bụi râm. Rồi thì chúng chia nhau thận trọng mò-tìm Hambleton, nhưng không dám lên tiếng trước mà phãi đợi Hambleton kêu khẽ trước, trong sư hồi họp khó tã; Ði tìm người bị nạn trong đêm tối mà không được la ơi ới? Chúa ơi! May mắn như tôi đã tiên-đoán định mệnh của con người khi đã may mắn thoát chết như thế thì Chúa sẽ bảo vệ đến cùng. Norris và Kiệt đang tìm được Hambleton đang nằm im-lìm trên bụi cỏ cạnh bờ, Hambleton đã vui mừng nói vừa đũ nghe “Tôi đây” Người điều hành viên (navigator) 53 tuổi nầy đã được cứu thoát với cái giá chịu đựng cã thễ xác lẫn tinh thần là mất đi 45 pounds trong thời gian 12 ngày với vết thương nơi cườm tay bị gãy, cũng nhờ gầy ốm như vậy mà Norris và Kiệt mới khiên nỗi tới chiếc xuòng con
Norris và Kiệt mau mắn nhưng không được gây ra tiếng đông khi dìu Hambleton xuống bờ sông, đễ nhẹ ông nằm xuống dưới lườn ghe, rồi lấy lá Chuối phũ lên che kín mích; Họ chèo nhẹ nhàng bắt trớn cho xuồng suôi theo dòng nước, thoát qua biết bao chỗ đóng quân cũa BV, trong sương mù ầm vang tiếng máy nỗ của xe cộ trên bờ. Vừa đũ nghe Norris gọi về FAC là đã cưu được Hambleton nhưng không biết sẽ xãy ra chuyện gì trong tương lai thì chưa thể biết được; Tuy nhiên khi ánh sáng ban mai rộ lên thì không biết chuyện gì xãy ra nếu hình bóng hai người chài lưới địa phương, tại sao dám chài lưới tại vùng nguy hiễm nầy, đập vào mắt quân đội BV mà đễ yên thì chỉ hy vọng có Chúa che chỡ. FAC đang cho lệnh Phi cơ chiến thuật phãi đang trong tình trạng báo động khẩn cấp, chuẩn bị bao vùng nếu xãy ra nguy cơ cho ba người nầy, ngay lúc dòng nước dang chãy siết suôi theo xuống tiền đồn
(còn tiếp)

vinhtruong
10-28-2010, 01:26 AM
(Ðọc giả nên click vào website của bài thứ 2 http://www.vnafma....để lấy cảm giác: Norris và Kiệt di hành ban đêm bên bờ sông phía trái như thế nào (hinh-1) - Cầu Cam-Lộ, Mỹ gọi là Cam- Lộ river nhưng người Việt gọi là sông Miêu Giang - hình Norris và Kiệt khi về đến tiền-đồn, con sông Miêu Giang lúc sâu lúc cạn)
Thình lình nghe tiếng la-ó cũa quân BV trên bờ “đuỗi theo bắt chúng … đuỗi theo bắt chúng!” Norris và Kiệt quạt mạnh tay chèo như điên tiết. Chỉ có Chúa lại ra tay cứu thêm một lần nữa, dòng nước bỗng dưng tuột xuống chãy siết thật nhanh đẩy chiếc xuồng mau suôi theo dòng nước, rồi che phũ biết bao tàn cây bụi lá bao bọc, cách xa bờ, rừng cây dầy hơn như bức tường ngăn chận, đưa mau cho chúng đến gần bờ phải, chiếc xuồng xa lần tiếng la-ó khũng khiếp cũa bọn bắc kỳ nhà quê nói ngọng “khẩn trương tiến nên! Tiến nên” Rồi thì Norris gọi phi cơ đến can-thiệp Chúng chèo sát vào bên phải bờ sông càng xa tầm đạn AK càng tốt, chờ đợi phi cơ can-thiệp. Trong giây lác, từng đợt tiếng bom đạn từ 2 phi tuần A-6, Intruder của Marine, thã chụp xuống thành một biển lữa phũ đầy bên bờ bác giữa tiếng kêu la thãm thiết, vì quá gần nên không khí bao trùm nóng rát. Sau đợt bom chính xác trên bờ bắc, Norris và Kiệt bắt đầu chóng đẫy xuồng ra giữa dòng sông để nương theo sức mạnh cũa con nước thủy triều suôi về tiền đồn. Chẵng bao lâu cã ba về tới tiền đồn giữa tiếng súng qua lại hai bên bờ bắc nam. Liền tức khắc Norris và Kiệt vội vã káo lê Hambleton vào nơi một ụ-đất đễ núp và thở nghĩ mệt; Lúc nầy là 9 giờ sáng, Toán viên Kiệt phóng bay từ ngoài cổng gác chạy vào gọi 2 toán viên Biệt hải kia phải gấp rút xuống bờ sông để phụ giúp cõng Hambleton lên, nhìn thấy thân hình viên Phi công tương đối khá cao và gầy, ở nơi chân bị một vết thương khá sâu cùng nơi khũy tay bị gãy, vì không thuốc men, nên làm cho chung-quanh vết thưong bị nhầy nhụa, da thịt đã trở thành màu tím bầm. Từ mé sông ngược lên tiền đồn, đường mòn khá dốc, nên 3 Biệt Hải phải thay phiên người trước kẻ sau phụ cõng và nâng bỗng hai chân của Hambleton lên, Chẳng bao lâu họ lên tới tiền đồn, khi đã đặt ông nằm an toàn trong Lô Cốt rồi. Norris đang băng bó vết thương cho Hambleton và chuẫn bị rời khỏi nơi đây tức khắc; Áo quần mọi người ướt đẩm mồ hôi do ánh nắng gay gắt của buổi sáng đầu ngày. Theo dự trù một chiếc M-113 sẽ đến đón họ, khi đã đặt ông nằm an-toàn trong Lô Cốt rồi; Ngay chiều hôm đó, tất cả Biệt Hải được lệnh rời khỏi tiền đồn trở về lại BCH/Tiền-Phương/ Quãng Trị gấp
Ðể lại số phận cho tiền đồn nầy phải bị dẫy chết liền sau đó. Tưởng chúng ta cũng nên hồi nghi lại những chiến hữu của Đại-đội thuộc Sư-Đoàn 3 Tân lập gồm 80 chiến-sĩ với 2 chiến-xa M.48 ngụy trang phòng thủ. Khi các anh Biệt hải và 4 người Mỹ đã vinh vien rời khoi tiền đồn nầy rồi thì chuyện gì đã xảy ra chỉ vài ngày sau đó: So phan cua mot tien don nam cheo leo tren tuyen phong thu chiến lược có thể quan sát xuyên suốt từ bờ Tây dòng sông Miếu-Giang gồm quốc lộ 9, bao vùng miền Cam lộ đến tận Đông-Bắc Quảng-Tri, há không làm cho linh BV ngứa mắt? Các Chiến-sĩ ta của tiền đồn nầy làm sao hiểu được, họ đang bị bao vây từ 3 huong bởi 5 Trung-đoàn Pháo và 10 Trung-đoàn Bộ-binh cơ-động BV được chia ra từ 2 Sư-đoàn 304 va 308
“Tổng công kích và Tổng nỗi dậy” đây là lệnh truyền từ các Cán-bộ Chính-ủy từ Trung ương xuống tới đơn-vị nhỏ nhất, bằng mọi giá phải đạt được yêu cầu (Hoa-Kỳ gọi là Easter-Offensive có nghĩa từ trên núi tràn xuống phía Đông, vùng đồng bằng đông dân cư) Bên phía VNCH gọi là: “Mùa-Hè Đỏ-Lửa” Nhưng chiến dịch Tổng công kích nầy còn quá sớm chưa đúng thời gian điểm mốc của lộ-đồ “Eurasian” nên Hoa kỳ đã co du mu phải dùng chiến dịch cường tập Hậu-vệ-1 (Linebacker-1) để tiêu diệt 100.000 quân CSBV (điểm mốc thời gian là 1975 đến 1995, tổng cộng 20 năm thù địch (hostility) rồi sau đó sẽ mua Boeing cua My, y chang như Trung quốc sau 20 nam thu dich (hostility))
Đúng 3 ngày sau khi các anh Biệt-Hải và 4 Sĩ-quan Hoa-kỳ rời khỏi nơi đây, vào lúc 12 giờ
Trưa, sau một thời gian dài chuẩn bị chu-đáo, Quân-đội BV bắt đầu khai hỏa; Đến nữa khuya,
chúng pháo 4,000 trái đủ loại từ súng cối, đến Hỏa-tiển 122 ly, rồi pháo hạng nặng như 152 ly,
130 ly, 122 ly…đến tờ-mờ sáng chúng tràn ngập các tiền đồn từ Cam-Lộ dọc xuống đồng bằng
Quãng-Trị, riêng tiền đồn nầy còn bị dưới hỏa-lực bắn trực xạ bằng pháo chiến xa T.54 của BV
trước khi chúng tràn ngập vào đồn. Chúng được lệnh đây là trận cuối, đánh dứt điểm và đồng
khởi nỗi dậy khắp nơi.
Trước đây một năm, chiến cuộc Lam-Sơn 719 đã không đi đúng theo dự trù của máy tính
điện tử thiết kế mà soạn giả Tướng Haig và Richard Helms đã hoạch định theo lộ trình, lý do TT
Nguyễn Văn-Thiệu đã ra lệnh ngầm rút quân không chiếm Tchepone, mà chỉ cho một đơn-vị nhõ
thuộc SÐ-1 nhãy xuống chụp hình ‘đái một bãi’ rồi về ngay, trong khi Trung-úy phản-chiến John Kerry đã móm ngầm” với Võ-Nguyên-Giáp, để tuyên bố gài bẩy thách thức trên đài: “Nếu “Quân-Lực VNCH chiếm được Tchepone xem như kẻ chiến-thắng”
TT Thiệu đã cứu QLVNCH khỏi phải lọt vào cái bẩy của Hội-Đồng An ninh quốc gia Hoa-Kỳ! (January 18/1971, national archives) Mục đích tiêu diệt hai đối lực mạnh nhứt để bàn giao miền nam không tắm máu mà chĩ rĩ-máu. Ðối với Permanent Government là rút ngắn cuộc chiến và giãm thiểu số người phải hy sinh
Đô-Đốc Mc Cain, Tư-Lệnh Đệ 7 hạm đội và Đại-Tướng Abrams, Tư-Lệnh Mỹ ở chiến
trường VN đã nắm chắc và hiểu rất rõ chiến dịch nầy, và lần nầy không giống như Lam-Sơn 719,
B.52 chỉ để hù qua Rolling Thunder (Neutralization) lính BV, mà tiêu diệt chúng bởi chiến dịch Linebacker-1; Hai vị Tư-Lệnh nầy đã cùng đi đến quyết định xử dụng hỏa-Lực tối đa từ Hải-pháo, Phi-cơ chiến-thuật, nhưng BV vẫn tự cho rằng sẽ thừa thắng xông lên; Sau khi Tướng Liên-Xô Pavel Batitski đến Hà Nội, trước đó một tháng (March/1972) tái kiểm kê cùng đánh giá “hàng-tiêu-dùng”(vũ-khí, chiến cụ lỗi thời) và sẽ sản xuất để viện trợ dồi-dào hơn theo chỉ thị của Chủ nợ Tư bản Mỹ: “Aid to Russia 1941-1946 Renewed-Plan”. Sau chiến tranh, Liên-Xô không đòi nợ Việt-Nam vì Mỹ, người chủ nợ chịu đài thọ vào chổ ngân khoản đó; Thế nên lãnh đạo Hà-Nội liền cho lệnh tổng tấn công và nổi dậy (Easter Offensive) vào ngày March 30, 1972. Cũng phù hợp với tu chánh-án Mỹ ‘Cooper-Church’, giai đoạn chót cần phãi giải tỏa cho hết vũ-khí chiến cụ lỗi thời tại Đông-Dương.
Trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế nầy, mà Nguyễn-Cao-Kỳ lại xúi bẩy hai Tướng Vùng làm đảo chánh, Tướng Trưởng không chịu nghe vì ông bận rộn với chiến trận, ông cũng chẳng sợ ai vì hậu thuẩn rất mạnh của Mỹ; còn Tướng Dzu thì rất khôn ngoan, cho rằng TT Thiệu đã làm phật lòng Tướng Haig và Kissinger, hai công-cụ bén nhậy của Tham mưu trưởng quyền-lực WSAG, Donald Rumsfeld trong cuộc chiến Hạ Lào thì thế nào cũng phải bị làm vật tế thần như Tướng Tư Lệnh Ðệ Thất Lavelle cho mà xem. Nhưng Tướng Kỳ và Dzu làm sao hiểu được Hoa-kỳ đang ủng-hộ mạnh mẽ cho sự đứng vững của TT Thiệu để dự hòa đàm Paris, đồng thời theo lộ-đồ tuần tự rút quân Mỹ về nước an-toàn. Đại-Sứ Bunker, có tục danh là cái “tủ-lạnh” cho Kỳ là lóc-chóc không đủ bản lãnh là người lãnh đạo, phải có bản lãnh cứng rắn điềm tỉnh như TT Thiệu mới được, thế là TT Thiệu đưa băng Thiết Giáp là Tướng Nguyễn Văn Toàn lên thế Ngô Dzu cũng là để an-ũi băng thiết Giáp Tướng Lãm mới vừa mất chức Tư lệnh do yêu cầu của phía Mỹ để tái chiếm Cỗ thành Quảng Trị. Phía Hoa-kỳ, Tướng Lavelle, Tư-Lệnh Ðệ 7 Không-Lực vừa bị Tham-Mưu Trưởng Không-Quân triệu hồi giải nhiệm và giải ngũ, (chỉ lảnh hưu bổng của Tướng hai sao mà thôi, thay vì 4 sao) cái lý do tạm gọi là Tướng Abrams phàn nàn “Phản ứng chậm chạp không thích hợp với chiến trường. Sự thật có phải như vậy không!? Có trời mà biết! Nhưng theo linh cảm của tôi, Tướng John Vogt đến thay đúng vào lúc mà Hoa-Kỳ cần dọn dẹp trước khi rút về. B.52 qua chiến dịch Linebacker-1 sẽ thả tiêu diệt chớ không còn hù dọa như chiến dịch ‘tiếng sấm gầm thét’ (Rolling thunder cho lính BV bị lủng lá nhĩ ‘điếc tai’, để lưu lại kỷ niệm kinh-hoàng như trước đó) Có lẽ như vậy nên sau trận Mùa-Hè Đỏ-Lửa, Tướng Giáp đành ngồi chơi xơi nước, sau khi nướng 100.000 quân? Chỉ có CIA là cãm thông cho sự hy sinh chức vụ của Tướng Giáp: Thay đổi Tướng Không-Quân là thay đổi thế ‘Chiến-Thuật’, cũng như thay đổi Đại-Sứ là đổi thế ‘Chiến-lược’ hay nói cách khác là chính sách đường lối mới. Cứ hồi tưởng lại chế độ VNCH thì rõ:
- Khi Lansdale qua VN, để giúp TT Diệm hất chân người Pháp ra khỏi Đông-Dương.
- Khi Durbrow qua, sau khi (NSC) Hội-Đồng An-Ninh họp, cần thay đổi chính sách, nên thay đổi chính-phủ Diệm (có sự mâu-thuẩn trầm-trọng về chính sách giữa Kennedy và Harriman (vì nước Mỹ lảnh đạo bằng Tập-đoàn Tư-bản WIB nên TT Kennedy phải bị hy sinh, vì tổng thống Mỹ chỉ là quản lý tổng quát (General Menager) của công ty mà ông chủ là Permanent Government) .
- Khi Cabot Lodge qua, phải làm đảo chánh Diệm do mật lệnh Harriman (policymaker)
- Khi Bunker qua, giữ tình trạng chính trị ổn định để hòa đàm Paris đi đến rút quân, dù
rằng Tướng Kỳ có âm mưu nhiều lần làm đảo chánh nhưng không thành vì bị Mỹ bẽ gãy.
- Khi Martin qua, chuẩn bị kế hoạch “rã-ngủ” Quân-lực VNCH, và chấm dứt chế-độ Việt
Nam Cộng-Hòa đúng theo “định kiền-1” của kế hoạch siêu chiến lược toàn cầu, giãi-kết chiến tranh Việt-Nam, hoàn thành axiom-1
Chỉ trong vòng 5 ngày, quân BV đã tấn công bằng biển người “tiền pháo hậu xung” và tràn ngập tất cả các Căn-cứ Hỏa-lực của ta và tiến sâu về phía Nam gần bờ sông Bến-Hải, nhưng quân-lực VNCH chiến đấu gan dạ, dù rằng lực-lượng rất ít so với quân số của địch, thế nên địch phải dừng khựng lại để tái phối trí và đợi bổ sung, sự thật cũng nhờ B.52, hãi-pháo yểm trợ khá hữu hiệu. Trái ngược với lệnh của Chính-ủy là phải tiến chiếm như vũ-bảo, nhưng có cố gắng lắm thì cũng chỉ được chưa đầy 30 cây số trong 3 tuần lễ, nên họ đành án-ngữ trên tuyến phòng thủ, Đông-Hà, Ái-Tử và La-Vang Quãng-Trị [Hà Nội chỉ chiếm được Miền Nam đúng với thời gian coi cho được (decent interval) có nghĩa là 1975 để đúng điểm mốc thời gian 20 năm thù địch sẽ lập bang giao 1995, cũng như mốc thời gian 20 năm thù địch với Trung-cộng 1952-1972] Sau đó sẽ nối tiếp bang giao qua món quà mua “Boeing” khai màu tình chăn gối
Tuy nhiên, Quãng-Trị đã lọt vào tay địch ngày 1/May/1972, Căn-cứ Hỏa-lực Nancy phải di tản chiến thuât 2 ngày sau. Đại-tá Nguyễn-Trọng-Luật, chỉ huy Lữ-Đoàn 1 Thiết kỵ phải ra lệnh rút 1 Thiết-đoàn mà không cần đợi lệnh trên, để bảo toàn Lực-lượng cũng như thông báo cho đơn-vị bạn. (Lệnh ngầm của Mỹ khuyên nên rút lui vì muốn giữ danh dự và mạng sống cho Đại-tá Luật như Đại-tá đã lăn-lóc năm vừa qua tại chiến trận Hạ Lào năm 1971, người Mỹ rất kính trọng sự hy sinh và bị tai tiếng hàm oan trong chiến trận năm vừa qua của vị đại tá nầy khác hẳn với trường hợp của Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai bị trực thăng Mỹ bóc ra khõi vị trí hành quân, mà TT Thiệu rất tức giận cho rằng ‘politic sabotage’ do Mỹ dàn dựng để đẹp lòng phía Hà-Nội) Thế nên, quân BV và Chiến xa T.54 mới xuyên thủng phòng tuyến quân bạn
Ngày 24/4/1972 Tướng Abrams gọi cho Bộ-Trưởng Laird đánh giá tình hình “Quân BV đã vào hết Miền-Nam, chỉ còn duy nhất 1 Sư-đoàn trừ bị nhưng đang di chuyển xuống vùng Phi-quân sự và sẽ sẳn-sàng nhập trận 3, 4 ngày sau đó khi nhận lệnh. (Lúc nầy nếu quả tình muốn chiếm Miền Bắc, chỉ cần hai sư đoàn Tổng trừ bị Nhảy Dù và TQLC là Saigon đã nắm phần chắc bằng đổ bộ thẳng ngay Hà Nội và quân Mỹ trấn giữ tại Miền Nam, nhưng như vậy là đi chệch mục tiêu chiến lược của Mỹ là giao miền nam cho Hà Nội) Với sự đồng tình của Mỹ, Lê Đức Thọ (tay sai gián tiếp của Mỹ) tung hết 4 Sư-đoàn và 1 Trung-đoàn độc-lập, cho vào Nam nhập cùng 7 Sư-đoàn khác, 22 Trung-đoàn biệt lập cùng 7 Trung-đoàn Pháo đã lâm trận; họ đang dùng những Vũ-khí tối-tân hơn hẳn Quân-Lực Miền-Nam…Nhưng Quân-lực VNCH chiến đấu rất oanh-liệt trong hoàn cảnh vô cùng khó-khăn (luôn-luôn Quân-đội BV xử-dụng vũ-khí trên cơ QLVNCH.
14 năm qua, tại miền Nam quân ta xử-dụng vũ-khí bắn từng phát một như Garant và Carabin M.1, còn CSBV dùng AK.47 tự động hay AK.50 của Trung-Quốc. Hoa-kỳ cố tình để VNCH xử dụng cho hết số đạn dược tồn kho mà không còn thích hợp cho cuộc chiến mai sau, như những quả đạn nặng hàng tấn cồng-kềnh của các pháo hạm như New-Jersey, Oklahoma…xong chiến tranh nầy trở về Mỹ để nằm nghĩa địa. Đồng thời huy động tất cả Phi-cơ chiến-thuật giải tỏa hết những Bom đạn lỗi-thời tại chiến trường VN; Đây là sự thực-thi cho tu-chánh-án “Cooper-Church” cho quân đội Mỷ và “Case-Church” cho quân đội VNCH. Thế là có lệnh huy động hơn 100 B.52 tại đảo Guam, phải đóng bớt đường Phi-đạo cất cánh để làm chỗ đậu Phi-cơ mới đủ chỗ. Hơn 50 đơn-vị chiến đấu từ Không-Quân, Hải-Quân và Thủy-Quân Lục-Chiến, tụ hội từ những Lục-địa Mỹ, Hawaii, Korea, Japan, Okinawa và Philipinne; từ 35 Phi-đoàn chiến thuật gồm cả Không-Quân Miền-Nam lên đến 74 Phi-đoàn. Tính trung bình, mỗi ngày từ 380 đến 650 Phi-vụ chiến-thuật, B.52, từ 33 đến tối đa 150; Sáu hàng không mẫu hạm luôn phiên với 4 chiếc luôn túc trực tại chiến trường. Mục đích phải giãi toả (flushing) cho hết thứ quỷ nầy, có thế thôi!
Giũa tháng May/1972, B.52 và Hải-Pháo đã gây tổn thất hết sức trầm trọng cho 3 Sư-đoàn 304, 308 và 324 của BV, âm mưu tràn xuống Huế đã vở mộng; Chúng đành trấn giữ tuyến sông Mỹ-Chánh là ranh-giới cực Nam của Tỉnh Quảng-Trị để tái phối trí và chờ tiếp liệu.
Ban tham-mưu Quân-sự của Tướng Haig theo dỏi các hoạt động quân sự của hai bên và điều chỉnh phối hợp cách nào đi đúng theo lịch trình và thời gian trong kế hoạch đã thiết lập một cách tỉ-mỉ từ trước. Gần cuối tháng 6 năm 1972, Tôi, phi tuần trưởng, 4 Trực-thăng võ trang hướng dẫn 100 chiếc UH.1 gốm (60 chiếc của Mỹ và 40 chiếc của VN) Trực thăng-vận Lữ-đoàn-1 Dù xuống bờ Tây Nam sông Mỹ-Chánh. Trong cuộc chiến, sự lầm lẫn về thời tiết cũng như hướng gió có thể gây ra tai nạn thảm khốc; Nhưng cũng may nhờ sự phản ứng mau lẹ của các Phi-hành đoàn Việt-Mỹ nên mọi việc cũng trôi qua êm đẹp. Chúng tôi đang bay từng họp đoàn 4 chiếc hình nấc thang trong vị thế sẳn sàng tác xạ, thì bỗng dưng một màn khói của Không-quân Hoa-kỳ thả xuống để che lấp sự quan sát của địch phía trong núi bên trái chúng tôi, nhưng không ngờ họ lại tính trật hướng gió nên chúng tôi bị bao phủ bởi màn khói, gió từ biển thổi vào, nhưng lúc nầy tự nhiên ngưng thổi vào núi. Tôi ra lệnh cho tất cả đáp đại xuống đất càng sớm càng tốt, và chờ lệnh cất cánh lại, Tôi nghĩ 60 chiếc của Mỹ đi sau chúng tôi 30 giây, họ cũng sẽ đáp xuống như vậy.
Cuối cùng, Tôi đáp xuống trên một mảnh đất của vùng đồi trọc, khi cặp càng chiếc Trực Thăng võ trang vừa chạm đất, thì tầm nhìn xa hoàn toàn thu hẹp lại đến nỗi tôi không thấy gì chung quanh ngoài một màu trắng đục dày đặc khác hơn màu trắng thoang thoảng của mây. Tôi chỉ thị “Tất cả nòng súng Mini-gun đều phải sẳn sàng ở vị thế 160 độ để dễ quay chuyển khi cần phải nhã đạn”. Tôi cũng nghĩ rằng 100 chiếc ‘Slicks’ chở LÐ-1 Dù cũng sẽ phải bung ra hai bên để phòng thủ. Nếu chẳng may chúng tôi đang đáp ngay xuống lòng địch (quân lính Bắc Việt) thì chuyện gì sẽ xãy ra? Đụng-độ với quân Dù và chúng tôi…cuộc chiến sẽ vô cùng tàn khốc…mà tôi cho rằng đây là cuộc tao-ngộ-chiến do định mệnh!
Tuổi trẽ dễ nổi nóng, tôi lầu bầu trong miệng chửi thề loạn xạ một hồi, nhưng có lẽ những Phi công Hoa-kỳ của Sư-đoàn 1 Không-kỵ, cũng xổ ra một tràng tiếng anh như tôi mà mắng nhiết Không quân Hoa-kỳ “đồ cà chớn cà cháo … thả bức tường khói để giết bạn, chớ không phải bảo vệ bạn…đồ cái thứ đâm sau lưng chiến sĩ” Vì chúng tôi từng Box 4 chiếc một, lần lược sẽ đáp trên đồi trọc, nhìn xuống đồng bằng sông Mỹ Chánh
15 phút sau, tôi nghe chiếc Trực-thăng ‘C&C chỉ huy’ (Command and Control) ra lệnh chuẩn bị cất cánh lại (dù rằng tôi là vị chỉ huy lớn nhất trong cuộc hành quân nầy) đối với không quân VN, nhưng trong phi vụ nầy tôi chỉ là một Phi-công Trực-thăng võ trang bình thường, và phải chịu dưới quyền điều động của C&C (chiếc Trực thăng chỉ huy) Trong phút chốc, tôi hướng đẫn đoàn Trực-thăng gồm 25 hộp đoàn (formation) từng 4 chiếc hình nấc thang sẽ đáp xuống cạnh một sườn đồi trọc nằm cạnh nguồn Tây dòng sông Mỹ Chánh. Và 4 chiếc Trực Thăng võ trang chia làm 2 hợp-đoàn xung kích, Hợp đoàn 1 gồm có 2 chiếc, hợp đoàn 2 phải cover cho 1. tôi có trách nhiệm đánh dấu bãi đáp bằng Lựu đạn khói màu và bao trùm vùng tác xạ yểm trợ hoả lực cho 40 chiếc của VN, riêng Trực-thăng võ trang Cobra của Sư-đoàn 1 Không-kỵ Hoa-kỳ thì lo yểm trợ cho 60 chiếc của Mỹ sẽ đáp sau chúng tôi.
Dưới bãi đáp, cuộn khói màu vàng bốc lên tỏa về hướng núi như mơn-trớn theo những cơn gió thoảng từ biển cả thổi vào. Tôi quay đầu Phi-cơ lượn gắt qua phải lên cao độ để tác xạ, tôi không nhìn máy nhắm mà dùng đến kinh nghiệm phản xạ tự nhiện, có phần linh động và nhanh nhẹn hơn…những bụi cây nào còn sót lại, mà nghi ngờ, thì tôi có trách nhiệm phải nhổ sạch hết. Đối với kẻ địch, tôi không thù hận họ, vì họ cũng như tôi, “ăn cây nào, phải rào cây đó” và cả hai bên, chúng tôi phải chịu hy sinh cả tuổi Thanh xuân của đời mình cho chiến đấu, cũng chỉ vì những danh-lợi chính-trị hẹp hòi của giai cấp lãnh đạo, quên đi sự đoàn kết dân tộc, và phản bội lại công lao của Tiền-nhân đã dày công xây dựng đất nước. Tôi cũng thừa hiểu rằng, người ‘bạn lớn’ của tôi, cũng chỉ vì quyền lợi riêng tư của họ, nên đã bán đứng chúng tôi qua hành động giật sập nền Đệ 1 Cộng Hòa và cố tình giao cho kẻ địch có một chính nghĩa trong tay (theo như tầm nhìn của Thế giới hồi đó). Tôi không có Quê-hương, “Tổ Quốc”, giờ đây tôi chỉ là loại lính “phi -công Lê Dương Mới” Nhưng với hỏa lực trong tay, tôi cương quyết và dứt khoát phải tận diệt kẻ địch để bảo vệ “danh dự” vì là một Phi-công của QLVNCH và “trách nhiệm” bảo vệ những cánh chim non, đang lặn hụp dưới bầu trời lửa đạn mà không phải dân Việt Nam đúc ra.
Khi đoàn Trực-thăng đầu tiên vừa chạm đất, chúng tôi đã oanh tạc vào những điểm nghi ngờ có quân BV phục kích, những quả Rockets nổ ầm vang sau cái quẹo gắt của chiếc trước và tiếp theo đó 2 Mini-Gun 6 nòng nhã đạn ra như tiếng bò rống…tiếng nổ liên hồi hòa với mùi thuốc súng khét lẹt tỏa ra cả phòng lái, các dây kẽm của rockets bắn vào cổ vào mặt kiến mát đang xụp xuống, nhưng phải cắn răng lỏ con mắt vào mục tiêu…những bụi rậm, cây cối bị tróc gốc nằm ngỗn ngang dưới các cột khói dựng đứng. Chẳng bao lâu tất cả 40 chiếc Trực Thăng của VN đều đáp xuống an-toàn giữa những màn khói của hỏa tiển hôi thối còn vương vấn chưa tan; Tôi gọi máy FM 42.5 bàn giao lại trách nhiệm cho AH-1G Cobra yểm trợ hỏa lực bãi đáp cho Lữ đoàn-1 Không-kỵ của Hoa-kỳ.
Mỗi chiếc võ trang còn lại 6.000 viên đạn 7 ly 62 để phòng khi hữu sự…Tuần vừa rồi, với cây Đại liên 6 nòng nầy (cũng nhờ Đệ 7 Hạm Đội Hoa-Kỳ phát giác 1 chiếc tàu của BV thuộc loại viễn duyên do Trung Quốc chế tạo thuộc Đoàn 759 chuyên trách nhiệm chở quân trang quân cụ cho lính BV vào trong Nam) Chúng tôi đã dùng cây Đại Liên 6 nòng nầy mà ‘rĩa’xuống 4.000 viên trong 1 phút, làm thiệt mạng tất cả đoàn viên trên tàu, và con tàu ma cứ như thế mà lủi vào bờ, thuộc Quận Phong Điền Quãng Trị…rồi thì, sau đó đủ loại súng chỉa vào con tàu Ma, kể cả Chiến xa M-48; đặc biệt trên chiếc tàu nầy chở vô số những hộp thịt, do Trung Quốc làm ra có ghi chữ “Thịt Lợn kho”, tất cả đều là chiến lợi phẩm của Lữ-đoàn (hình như LÐ 258 thì phải?) Thủy Quân Lục Chiến VNCH.
Chúng tôi kè hai bên hông để hộ tống đoàn Trực-thăng Slick về lại hậu cứ, vẫn tốc độ và cách bay khiêu khích, hùng dũng như tự bao giờ. Từ xưa tới nay, tôi thích bay ở độ thật thấp như muốn thách đố kẻ địch, vì với cao độ nầy , khi lâm trận thì tôi cảm thấy tin tưởng về sự quan sát cũng như sự phản xạ nhạy bén hơn của phi hành đoàn, còn như nếu bay hơi cao, thì địch có thể bắn lén mình mà mình không thấy, không biết và nhất là từ năm 1970 cho đến nay quân Bắc Việt có nhiều loại phòng không rất là tối tân như: SA3, SA5, SA7 mà súng Đại Liên phòng không 14 ly 5 là lợi hại nhất. Với cao độ sà thấp nầy không những làm cho đối phương sợ hãi, mà còn vô hiệu hóa với các hỏa tiển cầm tay của địch, vì chúng chỉ có thể tìm nhiệt vào mục tiêu với điều kiện có đủ cao độ và tốc lực khá nhanh, vì thế với cao độ nầy thì chúng không thể nhũi vào ống thoát hỏa của Trực-thăng được. Đây cũng là kinh nghiệm trong các phi vụ yểm trợ tản thương tại chiến trường Hạ-Lào (Lam sơn 719) mà phi hành đoàn gunship không có ai phải tử thương; Cũng với cao độ nấy, tôi đang nhìn xuống thấy rõ cảnh điêu tàn của làng xã bỏ hoang, có cả hàng trăm, hàng ngàn hố bom, và lỗ đạn Đại-bác…đất còn tươi, lớn nhỏ rải rác đó đây, đào xới trên nhiều thửa ruộng của làng mạc, khiến cho tất cả nơi nơi thành hoang phế điêu tàn, những làn khói trắng đục tỏa ra mùi khét lẹt, đang bốc cháy dở dang từ nơi các căn nhà đỗ nát do pháo địch tàn phá đêm qua, trên Quốc lộ 1 xe cộ đủ loại nằm ngỗn ngang, lẫn với xác người đang bị sình trướng (mùi xác chết rất quen thuộc đối với lỗ mũi của Phi hành đoàn Trực-thăng chúng tôi). Thì làm sao mà Thế-giới không cho đây là “Đại Lộ Kinh Hoàng”, chứng tỏ tình hình ở đây hiện đang chịu nhiều trận dội pháo, hay nói theo danh từ của BV là “trận địa pháo nặng nề nhất của quân BV”
Một nhà Văn và cũng là nhà báo của Pháp, Michel-Tanriac đã lên tiếng tố cáo qua tác phẩm lừng danh “Việt Nam, le dossier noir du Communisme-de 1945 à nos jours” (Hồ sơ đen của Cộng Sản từ năm 1945 đến ngày nay) (Plon, Paris 2001, trang 252). Tác giả dành hẳn một chương mục viết về “Đại Lộ Kinh Hoàng” (Boulevard de la terreur-Quãng Trị, năm 1972) Tác giả Tanriac đã là nhân chứng nhìn thấy tận mắt những nấm mồ tập thể “vĩ đại” mà Việt Cộng là những tên giết người có máu lạnh rất chuyên nghiệp (có khoảng 15.000 người chết, và 24.000 người bị thương, sách đã ghi ở trang 221-223). Dì nhiên CSBV sẽ không thể nào chạy tội với lịch-sử!
Chúng tôi đã bay qua khỏi vùng tử địa, dọc theo Quốc lộ 1, hướng về Huế, phía bên phải Quốc lộ, cả hàng trăm lều vải màu trắng của cơ quan Hồng Thập Tự dựng lên san sát theo thứ tự, nơi đây làm chỗ tạm trú cho nhiều ngàn người dân tỵ nạn từ khắp thôn quê chạy về ẩn nấu.
Sau khi Lử-đoàn-1 Dù đặt chân xuống bờ Tây sông Mỹ Chánh, đường tiến sát điều binh một cách thận trọng về hướng Bắc, trục dọc theo phía Tây Quốc-lộ 1, đẩy lùi quân Bắc Việt về ngược lại, cách Quảng Trị 20 cây số về phía Nam, cùng với các đơn vị Bộ-binh và Sư-đoàn TQLC tiến lên hướng Bắc của Quảng Trị. Sở dĩ quân BV yếu lần sau vài đợt tấn công vũ bão, nhưng bị Quân Lực VNCH tuy ít hơn, nhưng vì một lòng một dạ quyết tâm tái chiếm lại Cổ Thành Đinh Công Tráng. Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng: chưa bao giờ quân Mỹ lại tận tình giúp tối đa hoả lực cho Quân Lực VNCH như lấn nầy! B.52 và Hải Pháo dứt điểm những loại đạn tồn kho, nặng hằng tấn như con bò bay vào và cũng đã lỗi thời, không còn dùng vào chiến tranh trong tương lai nữa, và đây là dịp duy nhất mà Mỹ cần chỗ để phế thải cho tận-hết …và cũng ngăn chận Hà Nội chiếm Miền Nam chưa phải lúc! Theo đúng lộ đồ mà PG đã thiết kế trong máy tín điện-tữ
Kết cuộc, sau trận mùa hè “Đỏ Lửa” Tướng Võ Nguyên Giáp bị cho đi về vườn, còn tam trùng Phạm Xuân Ẩn tuy mất điểm nhưng sẽ phục hồi sau. Tướng Abrams dù là võ tướng nhưng vô cùng xúc động, nên ông nói: “Cái gì đang xãy ra cho hằng loạt người chết vô ích”. Cuộc họp của Tổng Hội Thánh Tin Lành tại Atlanta, tất cả các Đại Biểu đều lên án Hoa-Kỳ là đã gây ra tội ác chống nhân loại. Thiệt hại giữa 2 miền, Miền Nam có 8.000 người chết, còn số thương binh thì gấp 3 lần, mất tích gần 3.500 người, đào ngũ hơn 40.000 người. Còn Miền Bắc có 40.000 người chết, và 100.000 người bị thương, và tổn thất hơn phân nữa số chiến xa và pháo hạng nặng, vì thế Tướng Giáp buộc phải từ nhiệm.
Hãy nghe hồi ký của H.R. Haldeman, vào ngày 1/5/1972 rằng: “Cả hai ông Nixon và Henry Kissinger, bình thản không quan tâm việc gì xãy ra, chiến tranh sẽ chấm dứt vào tháng 8/1972 và cũng đến lúc hai bên đều đã kiệt quê, ngoài bắc lính già chết hết. Quân của Miền Bắc thiệt hại rất nhiều so với quân của Miền Nam” Như vậy chúng ta cũng cảm nhận rằng: mục tiêu của họ đã đúng hạn kỳ phải chấm dứt một thời điểm cho nhiều giai đoạn khác nhau (Giai đoạn từ sự ngụy- tạo vụ tàu Maddox (1964) đến cuộc họp giữa Mao và Nixon (1972) “8 năm máu lửa!!!” Thời gian nầy nhóm tham mưu của Harriman không muốn kéo dài hơn thời gian của Pháp (1945-1954)QUEENBEE-1

vinhtruong
10-29-2010, 10:20 PM
Còn TT Thiệu cho rằng: “Political sabotage” ngay sau khi trực thăng Mỹ vào bốc Tướng Vũ Văn Giai ra khỏi vùng hành quân. Thật là quái gở, cái gì cũng muốn: Siêu chính phũ Mỹ (permanent government) cho rằng chưa tới thời điễm (decent interval) hoàn thành định-kiến-1 (axiom-1) và buộc QLVNCH phãi tái chiếm Cỗ Thành Quãng Trị. Theo lệnh P.G, qua tướng Al-Haig, tướng Abrams đề nghị TT Thiệu đề cữ Tướng Ngô Quang Trưỡng từ trong nam ra Vùng-1 để tái chiếm. TT Thiệu liền ra điều kiện với tướng Abrams: “No more political sabotage” Liền tức khắc Abrams đánh công diện thượng-khẫn nghiêm khắc ra lệnh các dơn vị trưởng Mỹ, tất cã phi cơ có cánh cũng như trực thăng không được bốc bất cứ đơn vị trưởng Việt Nam ra khõi vùng hành quân nếu không có lệnh cũa Tướng Ngô Quang Trưởng (Shortly Abrams have given a grim order to his field commanders. “Effective immediately no Vietnamese commander will be airlifted out of a unit defensive position by U.S fixed-wing aircraft or helicopter unless such evacuation is directed personally by the RVNAF corps commander”)

(Vì thế hệ trẻ cần biết sự thật cũa tấn bi-thãm-kịch nầy, nên tôi chuyển qua mục dành riêng cho ngoại ngữ, nếu đọc giã nào cần biết thêm chi tiếc xin đọc vào mục Anh ngữ, để hiều hai nhân vật, TT Thiệu cương quyết 4 không, và Trung tá Ðính được người Mỹ cho rằng con Sư-Tử cường tráng bão vệ thành phớ Huế (Young Lion of Hue) … tương lai và vận nước như thế nào? TT Thiệu có thể đóng vai Tướng Giai, và Trung tá Ðính có thể đóng vai vị tỗng thống 72 tiếng Dương Văn Minh?

vinhtruong
09-05-2013, 03:57 PM
Vietnam Air Rescue (There is sound) - YouTube

www.youtube.com/watch?v=MKIhXAEMzxM

Suốt đêm 3/4/1972 Ðại úy Enderson bị quân BV lùng và bắt được, để rồi còn lại chĩ 2 người là Clark và Hambleton; Ðây là cuộc cấp cứu phải trả một cái giá quá đắc trong cuộc chiến VN, nhưng nghịch lý thay đây là mục tiêu yêu cầu phải có là tiêu-xài cho hết hàng tiêu dùng là đũ các loại phi cơ đã sản xuất quá nhiều (mà công nhân Mỹ đã làm quá nhiều giờ Overtime để sắm thêm những tiện nghi cho cuộc đời. “Chỉ có các chiến sĩ tham dự trận chiến khắc nghiệt để trả cho cái nghiệp cơm gạo áo tiền nầy”)

Ngày 6/4/1972, Ðại úy Chapman quyết tâm cứu đồng đội, ông phóng nhanh liền vào nơi Hambleton trú ẩn một cách điên cuồng, quân BV bắn ào-ạt vào phi cơ bóc cháy, khói mù mịch bao quanh phi cơ rồi phát hoã, nổ tung bay ra từng mãnh vụn, Hambleton ôm mặt khóc ngất nhưng không dám gây nên tiếng động, khi nhìn thấy tình đồng-đội quá thắm thiết. Sáu đoàn viên trên chiếc trực thăng CH-53 nầy đã hy sinh trước mắt Hambleton; Ông khóc tức tưởi cho chính ông trong yên lặng cô đơn, rồi đây những ngày dài trước mắt trong lòng địch với biết bao đói khát, thương tích đầy mình, kèm theo sợ-hãi, kiệt sức …

Coi như hoàn thành Rescue NAIL-38 Bravo, (trung úy air-observer Clark OV-10 FAC) Bây giờ theo đây tiếp tục giai đoạn-2 Rescue BAT-21 Bravo, Trung tá navigator/B-66, Hambleton)
Kể từ ngày 5/4/1972 Ðại tá Al. Gray Marine tiếp tục cuộc Rescue thay thế USAF thất bại trong việc tìm cứu; Al Gray chĩ thị Norris phãi tiến vào ngôi làng đã bị bom đạn tàn phá, và hãy kiếm cho ra phương tiện làm bè đễ đưa Hambleton xuôi dòng nước về lại tiền-đồn cũa quân bạn cách đó khoảng chừng 3 cây số theo xuôi dòng sông Miêu Giang ...