PDA

View Full Version : Đặc San Hội Ngộ kỳ III



hung45qs
10-03-2010, 03:40 PM
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286125302.JPG

:rose:Bạn bè SVSQ thân mến,
Thấm thoát thế mà đã 3 tháng kể từ ngày anh em chúng mình họp đàn trong ngày Hội Ngộ Liên Khóa SVSQ/KQ Kỳ III. Đặc San Hội Ngộ đã chào đời với rất nhiều khích lệ mặc dù vẫn còn rất nhiều sơ sót. Tinh thần bao dung của người đọc với những lời phê bình xây dựng đã làm cho BBT rất cảm kích và ghi ơn.

Để giúp cho các bạn bè và thân hữu SVSQ KQ đã không có dịp về dự Hội Ngộ và không có trong tay cuốn Đặc San, kể từ hôm nay những bài đã được đăng trong Đặc San sẽ được lần lượt post lên đây để bạn bè cùng thưởng thức.
hung45qs :41:

hung45qs
10-03-2010, 04:13 PM
:rose:Lời mở đầu:rose:

Thưa các Niên Trưởng và các bạn,
Năm nay, lịch sử đã ghi lại đúng 35 năm kể từ ngày anh em chúng ta chấm dứt đời binh nghiệp. Hoàn cảnh đã khiến anh em chúng ta mỗi người một ngã nhưng tâm hồn Không Quân đã khiến tình cảm chúng ta ngày càng thêm khắn khít hơn.
Những chàng trai trẻ Không Quân Hào Hùng của ngày xưa nay không còn nữa mà thay vào là những vị lão thành trên dưới 60 nhưng vẫn còn cố giữ trái tim trẻ trung của Không Quân ngày nào. Chúng ta vẫn yêu cái Không Quân và vẫn hành diện là Không Quân, và trong truyền thống “Không Quân không bỏ anh em, không bỏ bạn bè”, Hội Ngộ Liên khóa 72-73 được thành hình như một lời mời gọi.
Hôm nay, chúng ta lại có dịp quay quần bên nhau để chuyện trò, để nhắc lại chuyện xưa, để cười đùa vui vẻ. Ban Tổ Chức ước mong đã được là một nhịp cầu tri âm để nối lại những tình cảm tưởng rằng đã mất trong tháng ngày qua.
Đặc San Hội ngộ đã được đóng góp bởi những đứa con Không Quân hoặc những thân hữu đã có một sự ràng buộc với Không Quân. Chúng tôi hy vọng đứa con tinh thần này sẽ sống mãi trong tâm hồn chúng ta và ước mơ sẽ để lại những ấn tượng đẹp đẽ cho thế hệ đời sau khi chợt nghĩ về cha và anh của họ.
Hãy cùng nâng ly và hãnh diện là các bạn đã có mặt trong ngày Hội Ngộ này, hãy mỉm cười và tự hãnh diện là mình đã có đóng góp một tí gì trong những bước chân duy trì truyền thống Không Quân.
Thay mặt BBT
hung45qs

hung45qs
10-03-2010, 05:53 PM
49 Ngày Với Em

Lê Khánh Thọ. Thứ Ba, 2/23/2010, 12:00:00 AM
Tác giả: Lê Khánh Thọ
Bài số 2871 -1628971- vb3024110


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286126778.JPG

Đây là một chuyện tình cuối đời, vui vẻ và tỉnh thức trước cửa tử sinh.Tác giả là một họa sĩ viết văn định cư tại Pháp. Năm 2005, cô nhận giải hội họa Pháp lần thứ hai và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ.
Bài viết đã đăng trong báo xuân Việt Báo Tết Canh Dần 2010 và đã khiến nhiều độc giả bầy tỏ sự xúc động. Ông Nguyễn Đăng, viết trong email ngày 9-2-2010, “Sáng nay nhận Việt Báo có bài "49 ngày với em", tôi đọc một mạch. Rất xúc động về mối tình thật đẹp... Tôi đã học được một vài điều về tình yêu, khổ đau, cuộc đời, sự sống,cái chết qua bài viết này của chị.”
Trong email ngày 16 tháng Hai, cô Diệu Hoa viết, “Em là độc giả của Việt Báo. Em đã nín thở đọc “49 Ngày Với Em”. Bây giờ em đã hiểu sự mầu nhiệm của 49 ngày rồi. Tiếc quá, phải chi em biết điều này sớm hơn. Mẹ em mất hồi hai năm trước.”
Nhiều độc giả khác, trong email ngợi khen bài viết còn lưu ý “Trong bài chàng từ trần 2 giờ sáng, sao cuối bài lại ghi là 4 giờ sáng?”
Trong bản trích đăng lại sau đây, sự lầm lẫn của toà báo đã được chỉnh sửa theo đúng bản chính của tác giả.
***

1. GIỚI THIỆU
Trước 1975, tôi là một phi công Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Tôi qua Mỹ từ ngày mất nước, khi tuổi đời vừa mới 25. Mang tiếng pilot bay bướm nhưng tôi không có lấy một mảnh tình, bởi vì tôi không có tài tán gái. Thời đó mặc dù phụ nữ Việt nam cao giá, mấy thằng bạn không quân lanh lẹ vẫn vớt được một cô vợ Việt. Tôi khù khờ, vài năm sau đành yên bề gia thất với một thiếu nữ Mỹ tuổi đôi mươi. Hồi mới cưới, cuối tuần tôi thường dẫn Carrol hội họp bạn bè, nhưng nàng cảm thấy lạc lõng giữa đám người Việt bất đồng ngôn ngữ và từ chối những buổi họp mặt. Xuất giá tòng thê, mất liên lạc với đám bạn cũ, tôi hoàn toàn hội nhập vào đời sống Mỹ. Khi đứa con gái lên 5, chẳng may Carrol bị bịnh thận. Căn bịnh quái ác kéo dài hành hạ nàng hơn 20 năm và nàng qua đời vào thời gian đứa cháu ngoại vừa tròn 3 tuổi. Gần 2 năm qua, nổi buồn mất người vợ Mỹ tuy đã nguôi ngoai nhưng tôi vẫn giữ thói quen sống không bè bạn, vẫn âm thầm cô đơn chiếc bóng.

2. Minie
Đọc địa chỉ minie52@yahoo.fr qua người bạn thân giới thiệu, tôi tính ra năm nay nàng 53 cái xuân vàng. Tuổi này hồi đó má tôi nhai trầu nhổ nước miếng đỏ lòm.
Tôi ngắm hai tấm ảnh hoàn toàn trái ngược nhau. Hình đầu tiên nàng mặc áo thun xanh thẫm bó sát, vùng ngực khoét sâu lồ lộ hai trái cam trông ngồ ngộ. Tai đeo bông lủng lẳng bự tổ chảng. Đôi môi dày tô son đỏ láng lườm. Nàng ngồi bên cạnh đám bạn cả nam lẫn nữ, trước mặt đống vỏ chai bia ngổn ngang trên bàn, bối cảnh “tuổi chiều thác loạn”. Tấm hình gởi sau nàng mặc quần đen. Chemise dài tay cổ bẻ. Mặt mũi nàng nhợt nhạt thiếu phấn son đứng bên cạnh các trẻ mồ côi Việt nam, bối cảnh“hoa úa rụng sân chùa”.

Mail qua mail về tương đắc, bỗng nhiên mất liên lạc hai tuần lễ, tôi bị chứng hồi hộp mỗi khi mở hộp mail.
Houston: Hello Minie,
Mình tôi ngồi với đìu hiu
Mù tăm, biệt tích…mất tiêu em rồi !
Tơ vương!?

A ha ha, sáng nay có mail Minie. Tôi cứ lo nàng trốn luôn. Ngậm điếu thuốc chưa vội châm lửa, tôi hí hửng lướt qua những dòng chữ:
France: Salut anh Tốt !
Em mới đi Việt nam về.
Xin lỗi anh, em gián đoạn mail vì em đang bận rộn giải quyết một vấn đề mà em đã hùn vốn tình cảm. Em đã không sáng suốt nghĩ ra rằng người đàn ông cùng lối xóm hồi thơ ấu, sau nhiều năm sống dưới chế độ Cộng sản, đã có cách tính toán cư xử làm em vô cùng thất vọng. Lâu nay em đi tìm mà vẫn chưa được gặp người trong mộng.
. . .

Houston: Hi Minie,
Ở đời, chẳng dễ gì gặp được người trong mộng đâu em! Trong tình cảm, người ta lại thường dè xẻn, mặc dù tình cảm là thứ càng tiêu hoang lại càng giàu. Dĩ nhiên, không ai muốn trao duyên lầm tên tướng cướp. Không đi khó mà đến, không hôn con cóc làm sao biến nó thành hoàng tử. Trong con cóc nào cũng có hoàng tử, chỉ chờ có nụ hôn thôi.
Không lẽ, em duỗi chân nằm đợi tuổi già rêu phong cho đến ngày trở về cát bụi!?
. . .

France: Salut anh Tốt,
Em thử hôn con cóc ở Việt nam từ 4 năm nay, hy vọng nó sẽ biến thành hoàng tử. Ai ngờ cóc vẫn là cóc. Hè năm nay em còn bị cóc cắn te tua nữa đó. Em sẽ không vì sợ mà trốn cóc.Em sẽ lạc quan như lời anh khuyên nhủ, sẵn sàng hôn thử con cóc khác...
. . .

Houston : Hi Minie,
Hạnh phúc không hề là món quà tặng đương không, tựa như người bên cạnh dọn cỗ sẵn cho mình ăn, không vừa miệng thì la làng thay vì bỏ một bàn tay vào xào nấu phụ.
Minie ơi, em có biết mỗi ngày anh ngắm hình của em. Còn ăn tiền lắm đó. Together, we can make it! Mi em

Sau 6 tháng với gần 200 mails tán tỉnh, tốn mấy chục thẻ điện thoại, nghe nàng nói nhiều hơn tôi nói, Minie đồng ý gặp mặt tôi. Tôi hẹn bác sĩ khám răng, khám tổng quát. Đến chợ mua vớ và đồ lót trắng tinh, chờ giờ lên máy bay...
3. Gặp gỡ - France
Minie bằng xương bằng thịt trước mặt tôi. Điểm đầu tiên « coi được » nhờ đầu tóc nhuộm nâu hợp với khuôn mặt và bộ đồ đúng mode bó sát thân hình tròn trịa, chưa đến nổi phát phì như Carrol. Hai vết dài hằn sâu hai bên miệng nàng in dấu thời gian tàn ác. Tôi không thất vọng, trái lại cảm giác thân quen tự bao giờ tràn ngập trong tôi niềm bình an kỳ lạ. Không biết diễn tả bằng lời, tôi âu yếm nói với nàng qua ánh mắt. Mấy mươi giây trôi qua, nàng bẽn lẽn lãng tránh, gương mặt đỏ rần kiểu nữ sinh biết yêu lần đầu. Nếu bắt chước tiểu thuyết lãng mạn, chàng thanh niên hào hoa tuấn tú nâng cằm người đẹp, mắt nàng từ từ khép lại, đôi môi hé mở chờ đợi một nụ hôn nồng cháy. Khổ nỗi niềm xao xuyến dâng trào mãnh liệt khiến tôi bối rối, tôi bật tiếng cười khan và xổ đại một câu:
- Chời ơi, già rồi còn bày đặt đỏ mặt!
Nàng cười khúc khích, ngúng nguẩy:
- Hihi, anh đừng nhìn em!
Tôi ôm nàng vào lòng, nàng không chống cự, đồng lõa ép sát vào người tôi. Nhịp tim tôi đập loạn xà ngầu.

Tôi yêu tiếng cười của nàng. Tiếng cười hồn nhiên tắm mát tâm hồn tôi vốn lâu nay cằn cỗi. Người vợ Mỹ không có được tiếng cười tràn đầy sức sống đó, kể cả những năm đầu tiên bả còn mạnh khỏe. Nàng khen giọng Sài gòn của tôi quyến rủ và tôi có lối kể chuyện tiếu lâm hấp dẫn, tôi vô cùng ngạc nhiên về tài năng chưa từng được ai khám phá. Sau mỗi câu chuyện, nghe giọng cười dòn dã của nàng thay cho lời khen thưởng, tâm hồn tôi phơi phới. Để chứng tỏ tài nghệ, tôi mất nhiều thì giờ lên Net sưu tầm truyện cấm đàn bà.

Trước hôm tôi về lại Mỹ, nàng ngắm ngía xấp hình tôi và nàng đi chơi Paris, đang cười nói vui vẻ nàng bỗng ngậm ngùi:
- Em già hơn trong hình anh hé!?
- Ờ.
- Phải chi em đẹp giống trong hình cũng đỡ. Thật sự em xấu anh há!?
- Chớ còn gì nữa!
Im lặng mấy giây và hai vai nàng run nhẹ. Lần đầu tiên tôi thấy nước mắt đàn bà rơi, tim tôi bỗng nhiên thắt lại.
- Xấu đâu có sao đâu em!
Lời an ủi vụng về khiến nàng nổi giận:
- Người ta nói: “Bất cứ người đàn bà nào cũng đẹp trong đôi mắt của người yêu”. Rõ ràng là anh không yêu em.
- Chời ơi, em nghe gì mấy thằng cha ba xạo bày đặt xổ ranh ngôn. Tại em xấu thì anh nói em xấu.
Nàng hất tay tôi khỏi vai, giọng lạnh lùng:
- Từ nay về sau, em chỉ xem anh là bạn.

Về lại Mỹ, sau nửa tháng cầu hoà vẫn không ăn thua gì, tôi vào thư viện Hoa Sen, miệt mài nghiên cứu Phật pháp và forward tới tấp, cốt ý mượn lời vị tha của các bậc đạo sư thay lời giúp tôi, đồng thời tôi gọi phôn tán thêm:
- Em hổng hiểu gì hết, đừng giận anh nữa cưng à! Em có biết“Thập trọc nhất thanh” là quý tướng, còn “thập thanh nhất trọc” là phá tướng? “Thập trọc nhất thanh” nghĩa là 10 phần tướng xấu mà ở trong lại ẩn 1 quý tướng thì như đá ẩn ngọc quý. Đấy là trường hợp của em. Còn tụi tài tử đẹp dàn trời nhưng thuộc về “thập thanh nhất trọc”, nghĩa là 10 phần tướng tốt đẹp, lại ẩn bên trong một tướng rất xấu, cho nên gọi là phá tướng.
Nàng phì cười:
- Bộ uống rượu đế sao mà hôm nay xổ Nho dữ vậy anh?

Tôi nghỉ việc một tuần bay qua Pháp. Đúng như tôi hy vọng, nàng hiểu sự trở lại Pháp cấp tốc chỉ sau ba tuần lễ xa nhau là bằng chứng hùng hồn cho tình yêu “nặng ký” của tôi.

Một tuần lễ hạnh phúc trôi qua thật nhanh, tôi bịn rịn giã từ nàng, trở về Houston với công việc. Cạnh computer, tấm hình tôi ôm vai nàng đứng trước tour Eiffel lồng lộng gió xác nhận tôi đang yêu và được yêu. Từ nay tôi được nói và được nghe tiếng Việt nam. Tôi sẽ cùng nàng du lịch khắp Âu Châu và về Hội An thăm nơi nàng chôn nhau cắt rún. Mấy thằng cha thi sĩ “vì em tôi làm thơ”, nhưng vì em tôi sẽ làm overtime chết bỏ!

Mỗi lần nghe tôi làm overtime, nàng phản đối:
- Overtime một vần với die. Anh đừng cố quá mà quá cố.
4. Houston
Tôi báo tin nàng sẽ qua ở với tôi 3 tháng, con gái tôi, Jenny phụ tôi vất hết đồ đạc của mẹ nó, chỉ trừ mấy tấm hình tạm dẹp vào nhà kho. Ngày đầu tiên, nàng thắc mắc:
- Ủa, anh theo Phật giáo nhưng tại sao em không thấy bàn thờ Phật?
- Mình ở với người ta thấy cũng kỳ.
Nàng trợn mắt:
- Vợ con anh chớ ai mà anh nói “người ta” !?
Tôi không trả lời, bàng hoàng vì câu hỏi của nàng. Câu hỏi như nhát búa tỉnh thức nổi đau âm ỉ từ mấy chục năm qua. Tôi làm việc nuôi vợ con; căn nhà của tôi trả góp nhưng tôi không hoàn toàn nghĩ là của tôi. Mặc cảm ăn nhờ ở đậu như một vết xâm khó gột rửa. Có phải vì đây không phải là quê hương tôi!? Có phải vì Carrol và con gái tôi không cùng chung ngôn ngữ!?

Từ ngày có nàng, tôi vặn đồng hồ báo thức sớm hơn 15 phút, để được ôm ấp nàng trước khi đi làm và nói những câu thuộc loại không giống ai:
- Tội nghiệp hông! Tự nhiên ở đâu bên Pháp qua đây cho người ta dzày dzò!

Mỗi sáng tôi được nàng trao ly cam tươi tự tay nàng vắt. Tôi nao nao xúc động nhìn bóng dáng nhỏ nhắn qua kính chiếu hậu, bàn tay vẫy tiễn đưa tôi đến sở làm. Đến từng tuổi này, chưa bao giờ tôi được hưởng loại cảm giác tình cảm đậm đà.

Tôi xin nghỉ hai tuần lễ cùng nàng du hí Cali. Từ Houston tôi lái xe xuyên bang, ngày đi đêm nghỉ motel. Tại Las Vegas, chúng tôi làm lễ cưới đơn giản. Nhìn ngón tay nàng mang nhẫn mới, tôi bồi hồi cảm động tấm lòng nhân đạo đã chọn nhẫn cưới chỉ hơn 100 đô la. Đêm động phòng hoa chúc… lần thứ mấy mươi, nàng âu yếm hôn tôi:
- Con cóc đã biến thành hoàng tử rồi thì cứ hoàng tử luôn nha. Xớn xác là em lột da cóc đó!

Về đến Houston, nàng hối tôi ra phố lựa tượng Phật Quan Âm và ghé chợ Mỹ mua bó hoa cúng Phật. Nàng yêu cầu tôi chọn thêm cho Carrol bó hoa bả thích hồi còn sống. Sau khi lập bàn thờ Phật trên bệ lò sưởi, nàng kéo bàn salon ra giữa nhà, sắp trái cây và chưng bó hoa hồng tươi. Nàng nói:
- Em là kẻ đến sau, vô nhà người ta mình phải xin phép đàng hoàng. Anh vái bả bằng tiếng Mỹ, nói rõ cho bả biết là bả chết rồi, lo đầu thai đi, có thương yêu anh thì còn nhiều kiếp khác. Anh xin phép bả cho anh lấy vợ. Em nghi bả lưu luyến anh nên vẫn còn ở nhà này, nhất là bả chết trong giấc ngủ ngay trên giường của bả. Anh vái xong đến phiên em. Em nói tiếng Mỹ bồi chắc bả cũng hiểu. Ăn thua anh dỗ bả trước cho thật hay.

Khói hương nghi ngút, tôi cầm ba cây nhang rưng rưng nước mắt. Tình nghĩa hơn 25 năm với người vợ Mỹ hiền lành xấu số làm sao tôi quên cho được ! Tôi nao nao xúc động vì nàng giúp tôi cởi mở một gút mắc tâm tình.

Ngày nọ ra chợ Việt tình cờ tôi gặp lại Đản, người bạn cũ báo tin tối hôm đó tổ chức họp mặt bạn bè. Tôi nôn nao được dịp gặp lại nhóm bạn không quân. Tòng từ Dallas, mặc dù sức khỏe bấp bênh cũng chịu khó lái xe mất nhiều tiếng đồng hồ, cặp mắt sáng rỡ khi nhận ra tôi, giọng miền Nam oang oang chọc phá:
- Tưởng ai, khỏe không Tốt lèn ? Thằng Đản phôn nói có người muốn gặp tao, không ngờ là mầy !

Đọc trong ánh mắt bốn thằng bạn cũ tràn ngập nổi vui mừng tôi có vợ, nhất là vợ Việt nam, điều này hứa hẹn tôi sẽ không biệt tích giang hồ như trường hợp với người vợ Mỹ. Bốn bà xã của họ cũng vui vẻ chấp nhận nàng. Tôi thầm nghĩ…Nếu tôi dại dột rinh con vợ nhí Việt nam qua đây thì một sự xung đột về nhan sắc và tuổi tác với bốn nữ tướng kia dễ bề bùng nổ, tôi sẽ rất khó lòng trở về vòng tay ấm áp với tụi bạn cũ.
Vừa trở lại nhà, Đản vui vẻ phôn :
- Ê Tốt lèn, Má mầy để quên cái bóp, khi nào rảnh ghé tao lấy.
5. Tai họa
Ngày nàng sắp sửa trở lại Pháp, tôi phải vào bệnh viện. Bác sĩ quyết định khẩn cấp mỗ, cạo chất vôi bám trên cột xương sống, là nguyên nhân chận dây thần kinh khiến chân tôi tê liệt.
Vết mỗ của tôi bị nhiễm trùng làm mủ phải mỗ đi mỗ lại bốn lần. Ngảy tái khám, bác sĩ Mỹ báo tin tôi bị Hépatitis B. Chết điếng cả người, tôi phôn hối nàng đi thử máu. May mắn mười năm trước nàng đã chích ngừa miễn nhiễm.

Vợ chồng con gái tôi đi làm cả ngày. Đến giờ ăn, tôi mệt nhọc ăn đại món gì trước mắt, hoặc lái xe ra ngoài ăn tiệm. Bụng tôi trương phình lên và ngẹt thở, phải vào nhà thương hút nước khẩn cấp. Bác sĩ báo tin tôi cần thay lá gan mới (hậu quả lạm dụng trụ sinh trong bốn lần mỗ). Bầu trời quay cuồng sụp đổ. Không, thà chết chớ tôi không muốn kéo dài cuộc sống èo uột như người vợ Mỹ, mỗi tuần phải vào nhà thương vài lần và rốt cuộc cũng không thoát khỏi tử thần. Ngày đó Carrol còn có con gái, còn có tôi bao bọc, phần tôi chẳng có gì ngoài gánh nặng bệnh tật. Tôi quyết định về Việt nam ở với chị tôi để chữa trị thuốc Nam.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286127043.JPG

6 - Việt nam
Tôi trở về căn nhà thời thơ ấu của ông bà ngoại tôi vùng Phú Nhuận. Ba bà dì không chồng ở chung trên căn nhà chính, gia đình chị tôi ở căn nhà ngang. Tôi được ở trong một phòng nhỏ bằng nửa căn nhà bếp của tôi bên Mỹ. Đây là căn phòng chị tôi xây thêm ở góc sân để má tôi dưỡng bịnh cuối đời. Mỗi bề 3m, giường chỉ cách toa –lét hai bước chân, rất tiện lợi cho người bệnh khó kềm hãm nhu cầu vệ sinh. Cũng may phòng có máy điều hòa không khí.
Nàng điện thoại trấn an tôi:
- Mấy đứa em của em nói anh đừng lo. Báo Cali đăng rần rần có ông nghệ sỹ T. bị ung thư bác sĩ Mỹ chạy, ổng về Việt nam chờ chết, không ngờ số ổng hên gặp thầy chữa thuốc Nam nào đó giỏi dàn trời. Nghe nói ổng lành bệnh xong cưới một con bồ nhí, mới đẻ đứa con trai.
Những loại tin tức này gây phấn chấn cho nàng và cả cho tôi. Tôi không cần con bồ nhí, tôi chỉ cần nàng, người đàn bà tuổi nhai trầu thích nghe tôi kể chuyện tiếu lâm, người mang đến cho tôi hạnh phúc.

Hai giờ trưa, tôi ngồi trên băng ghế đá trong sân, đọc báo, uống càfé, thình lình nghe tiếng xe hai bánh ngừng trước cổng nhà. Một bà dáng thấp bé, mặt bịt khăn, đầu đội mũ bảo vệ tròn vo, áo khoác rộng dài tay, kiểu thời trang Sài gòn làm xấu thành phố. Tôi liên tưởng đến con vịt đẹt. Con vịt đẹt tiến lại gần tôi, lột mũ và khăn che mặt.
- Anh biết ai đây không?
Minie của tôi đang nở nụ cười Mona Lisa. Nàng hôn nhẹ lên má tôi.
Tim tôi thót lại:
- Ủa, sao em nói còn hai tuần nữa mới dzề!?
- Em đổi vé, nói trước làm chi, để anh ngạc nhiên chơi!
Chị Hai mời nàng vào phòng khách. Giọng nàng dõng dạc:
- Em nghe anh bị hút nước trong bụng, em nghĩ là bịnh tình trầm trọng nên em đổi vé về sớm hơn. Em gái em ở Cali nói người ta đồn có ông thầy Châu Đốc chữa ung thư gan giỏi lắm. Em dẫn anh đi nghen anh!
Tôi không thích bị ai dẫn dắt, cương quyết:
- Không.
Nàng lục lọi trong bao nhựa đem theo, rút tờ báo Phụ Nữ, đọc lớn tiếng:
- “Bác sĩ cho biết bịnh ung thư vẫn có người sống thêm 10 năm 14 năm, vẫn sinh con nhờ thuốc men và chế độ ăn uống cẩn thận”. Trên internet bác sĩ Pháp cũng viết y chang, em có ghi rõ nhân chứng, vậy buổi trưa em nấu và em cùng ăn với anh. Anh đọc nè.
- Khỏi cần đọc. Anh hổng phải ung thư.
- Thì anh bị gan nặng cũng phải chữa chớ. Anh thương em chìu em chút đi mà.
Giọng nàng mềm như bún kèm theo gương mặt thiểu não. Tôi mềm lòng nói nhỏ:
- O.K, đi thì đi.

Tôi mệt mỏi vào phòng nằm nghỉ. Tôi ôm nàng vào lòng, rưng rưng cảm động.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286127187.JPG

Giường chật hẹp chỉ đủ chỗ cho một người…rưỡi. Muốn nằm thẳng người, nàng bắt buộc trồi lên đầu tôi, cánh tay phải sát vách tường duỗi thẳng dọc theo thân hình và cánh tay trái duỗi ngang. Tôi thầm thì:
- Cái mặt thấy ghét! Cho anh dzớt cái nha em!
Lập tức nàng hốt hoảng:
- Thượng mã phong đó!
Tôi thở dài. Quả thật tôi không tin tưởng “chú A37” cho lắm! Sợ chú bay không ra bay, chỉ làm mất mặt đàn anh. Tưởng tôi buồn, nàng xoa đầu trọc an ủi:
- Để khi nào anh lành bệnh rồi muốn dzớt bao nhiêu thì dzớt!

Buổi tối nàng về nhà em gái. Sáng hôm sau nàng đem tới đồ ăn nấu sẵn.
Sau hai lần bị hút dịch tràng, chị dọn cho tôi ăn một mình, chén bát để vào một mâm riêng. Tôi có cảm tưởng mọi người e dè tôi vì sợ căn bịnh truyền nhiễm nhưng cố gắng giữ lịch sự tối thiểu. Các cháu lễ phép chào cậu rồi lẫn tránh thật nhanh. Ông anh rể lạnh nhạt, chỉ trừ chị Hai gần gũi tôi nhiều nhất, nhưng chị em hỏi han vài câu là hết chuyện nói, nhất là chị cũng đang khổ sở về bịnh đau khớp chân.
Đi Châu Đốc về, cả nàng và tôi đặt nhiều hy vọng. Ba chén thuốc Nam uống mỗi ngày đưa tôi đến tình trạng đi tiêu, đi tiểu liên miên.
Theo lời thầy thuốc, nàng cho tôi ăn cá sông. Cử dầu, gia vị, nước mắm, chỉ trừ được thêm nghệ và gừng. Rau luộc cũng lạt nhách. Tôi quạu quọ:
- Em đừng nấu nữa, để chị anh nấu.
- Vậy buổi trưa chị anh nấu cho em ăn luôn à!?
- Thì em ăn xong hãy tới.
- Không.
- Tại sao em ăn chung với anh?
- Cho vui. Anh thấy chưa, em ăn giống như anh dễ dàng mặc dù em không bịnh.
- Em khác anh khác!
- Khác ý chí. Cho dù anh không muốn em cũng cứ nấu đem tới, ăn hay không ăn là quyền của anh.
Tôi cau mặt lạnh lùng:
- Em đừng tới nữa, em về đây làm anh mất tự do.

Ba bà dì và chị tôi nói tôi tên Tốt nên số tôi tốt, bịnh gần chết còn có “hồng nhan tri kỷ” cận kề săn sóc. Bụng tôi xẹp xuống, da mặt hồng hào hơn trước. Mỗi 4 giờ rưỡi sáng, tôi chống walker bước chầm chậm quanh những con đường gần nhà. Mặt trời chưa lên, thành phố còn ngái ngủ thoang thoảng mùi cống rãnh. Thỉnh thoảng một con chuột ló đầu dáo dác. Vài quán hàng chuẩn bị mở cửa, xe chạy thưa thớt. Cho dù Sài gòn thay đổi, nhưng những con đường hồi nhỏ tôi thường đi qua tuần tự trở về sống động trong trí nhớ.

Những buổi sáng cảm thấy khỏe, tôi ra trước sân ngồi đọc báo. Nghe tiếng xe ôm ngừng trước cửa, xuất hiện dáng dấp người đàn bà thấp bé tay xách túi đồ ăn, bịt mặt như dân khủng bố, tôi vui vẻ chọc:
- Con dzịt đẹt hôm nay sao tới trễ dzậy!
Nàng trả đũa:
- A ha, ngày nào cũng xô đuổi người ta, rứa mà tới trễ chút xíu anh “sáng chói” (sói trán) cũng để ý. Con dịch đẹt tới trễ vì nghe điện thoại bên Mỹ gọi. Ba hỏi thăm anh đó.
Ngồi bên nhau không lâu, khoảng 15 phút tôi phải lết vào toa –lét. Mỗi lần trở lại sân với nàng, nhìn khoảng trời xanh, nổi bực bội tù túng khiến tôi mất tự chủ. Vào phòng ăn, nàng xin phép cháu tôi mượn bếp. Vừa luộc rau vừa kể:
- Hồi sáng em bị trợt té trong phòng tắm, tay bầm đen nè!
Mặt tôi đanh lại:
- Sao không chết phứt cho rồi!
Hai đứa cháu lớn nhìn nhau nhướng mắt ngạc nhiên về lời độc ác. Tôi chờ nàng nổi cơn thịnh nộ nhưng sắc mặt nàng vẫn không thay đổi. Tôi chê nàng không biết xới cơm, tôi chê cá tanh, tôi đòi thêm nước mắm. Nàng điềm đạm:
- Em biết anh rất bực bội và anh không thể trút giận vào ai ngoài em cả. Nếu điều đó giúp anh khỏe hơn thì anh cứ việc tiếp tục, còn muốn chọc tức để em không tới nữa chỉ là vô ích.
Vẻ bình thản của nàng khiến tôi càng khổ tâm.
Ăn xong tôi vào phòng trước, một lát sau nàng vào nằm kế bên tôi, tay trái nhè nhẹ xoa đầu trọc. Tôi hất tay nàng :
- Đừng đụng anh. Anh quăng em ra cửa bi giờ.
Như trò chơi con nít, tôi hất tay nàng, nửa phút sau nàng vẫn tiếp tục vuốt ve cái đầu trọc. Sừng sộ vẫn không ăn thua gì, tôi mệt mỏi chịu thua.
Một lúc sau tôi quay người, đầu nép sát vào ngực nàng, tôi nghe rõ tiếng tim nàng đập và giọng nàng nghèn nghẹn:
- Gan anh nát bấy rồi!
Tôi nổi tức:
- Em nói gì kỳ dzậy!?
- Anh cứng đầu thì em nói sự thật luôn. Anh bị ung thư thời kỳ chót. Hôm anh mới về, chị Hai dẫn anh đi bịnh viện hút nước bụng hay dịch tràng gì đó, bác sĩ Việt nam đưa kết quả ghi chữ K có nghĩa là giai đoạn cuối cùng, có nghĩa là cancer. Bây giờ tâm hồn anh đang giao động, hãy suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Anh muốn ăn ngon để rồi chết sớm thì cứ yêu cầu chị Hai nấu. Em yêu anh, em muốn anh sống cho dù anh tật nguyền. Theo kinh nghiệm, những người bị cancer mà ăn thả dàn đến khi hấp hối sẽ rất đau đớn.

Nàng nghẹn ngào, vội vã rời khỏi phòng. Tôi ngồi ôm đầu nghe đất trời sụp đổ. Cancer, ung thư. Trời hỡi! Hạnh phúc mới lóe sáng đã vội vã tắt ngúm. Bụng tôi quặn đau, mới đứng lên, chưa kịp vào toa – lét, chất lỏng tanh tưởi tuôn xối xả xuống hai ống chân teo tóp.
Rửa ráy và thay đồ xong, tôi chống walker ra sân. Nàng đang ngồi trên băng ghế, buồn bã nhìn vào khoảng không. Tôi hút xong cả gói thuốc vẫn chưa trấn tỉnh. Nàng dịu dàng để bàn tay lên đùi tôi, bắp đùi nhăn nheo chỉ còn da bọc xương. Tôi bùi ngùi nói nhỏ:
- Cancer lây bịnh đó em!
- Em biết anh cancer khi còn ở Pháp, chính vì vậy em đổi vé về sớm hơn.
- Số mệnh đã như dzậy thì cũng đành chịu thôi!
- Em không đồng ý. Anh và chị anh bị Nho giáo chi phối. Khổng Tử cho rằng “Tử sanh hữu mạng, phú quí tại thiên”, rằng con người không thể cãi lại mệnh Trời, con người cần phải đặt hết mọi niềm tin vào ý chí của Trời. Khổng Tử cũng nói: “bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử dã” , không hiểu mệnh Trời, không xứng đáng là người quân tử (Luận ngữ - Thiên Nghiêu viết). Anh có nhận thấy Nho giáo triệt tiêu mọi nỗ lực chuyển hóa, hướng thiện của con người, giao phó toàn bộ đời mình cho một đấng quyền năng quyết định!? Hồi còn đi học, có một số điểm em không phục Khổng Tử, nhất là ổng đưa ra những nguyên tắc bất công đối với phụ nữ.
- Theo Phật giáo, con người tạo ra nghiệp sẽ không thể và không bao giờ trốn thoát được những nghiệp do mình gây tạo ra.
- Anh nói đúng, nhưng điểm khác nhau giữa nghiệp (Phật giáo) và số mệnh (Nho giáo) ở chỗ, nghiệp do chính con người tạo ra, bất định tính nên nghiệp có thể chuyển hóa được. Do đó, con người có thể thay đổi, chuyển hóa nghiệp báo của mình từ xấu thành tốt, từ ác thành thiện hoặc ngược lại. Năng lực chuyển hóa Mãn nghiệp trở thành tốt hơn hoặc xấu đi được gọi là Năng tiêu nghiệp. Tác dụng của Năng tiêu nghiệp trong đời sống hiện tại rất lớn. Một người thông minh và khỏe mạnh là kết quả của Mãn nghiệp, nhưng nếu sống buông thả, đồi trụy thì trở nên ngu đần, ốm yếu. Năng tiêu nghiệp đã làm tiêu hủy nghiệp tốt của người này. Ngược lại một người với quả báo Mãn nghiệp bị bịnh tật nhưng nhờ biết cách bảo vệ sức khỏe vẫn chiến thắng bịnh tật, như Stephen William Hawking – nhà Vật lý người Anh của thế kỷ hôm nay, tuy bị liệt toàn thân chỉ còn ba ngón tay nhưng vẫn liên tục đưa ra nhiều phát minh quan trọng. Thuyết Nghiệp khích lệ con người hành động và tiến bộ, hoàn toàn không phải tiêu cực, yếm thế như Nho giáo.
Nàng bóp nhẹ tay tôi và nói tiếp:
- Một tháng rưỡi trước bác sĩ nói với chị Hai rằng anh chỉ còn sống được ba tháng, khuyên chị cứ cho anh ăn những gì anh muốn. Vậy tính ra anh chỉ còn một tháng rưỡi nữa thôi. Em nghĩ nếu anh ăn uống cẩn thận, sự sống sẽ được kéo dài. Chị anh muốn dấu anh vì không muốn anh đau khổ. Chị Hai thương anh theo lối của chị, em thương anh theo lối của em. Em muốn anh biết rõ sự thật. Em muốn anh can đảm, không bi thảm hóa và lẫn tránh nó, vì như vậy giai đoạn hấp hối sẽ thê thảm hơn. Theo quan điểm Phật giáo, suy ngẫm để chuẩn bị cái chết rất quan trọng. Mặc dù sự tái sinh của ta phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nghiệp, song tâm trạng ta vào lúc chết ảnh hưởng không nhỏ tới tính chất của tái sinh kế tiếp.

Tôi bỏ bữa ăn tối, nằm gậm nhấm nổi buồn trong bóng đêm. Ba chữ “tôi bị cancer”ngân nga mãi trong đầu từ trưa nay, từ từ dịu xuống và thiếp đi vào giấc ngủ.
Cây mai trước ngõ trổ bông vàng rực rỡ. Tôi lắng nghe tiếng chim sẻ ríu rít trên cành cây, ngước mắt thấy hai con chim nhỏ đứng cạnh nhau, tim tôi se thắt. 33 năm xa xứ, cái Tết đầu tiên trên quê hương chỉ đầy hương vị chua chát. Nàng ngồi bên tôi, nói:
- May mà mồng một Tết em có anh bên cạnh.
- May cái gì! Anh bị cancer mà may cái gì!
- May là hiện tại mình được gần nhau. May là số anh quá cha thiên hạ! Ngay tại thành phố Sài gòn mà nhà anh ở có vườn cây như vườn Thượng Uyển; hòn non bộ cá lội thảnh thơi, cây cối xum xuê mát rượi, chim hót và có cả đàn piano nữa.
Bỗng dưng tiếng đàn im bặt, nàng ngoáy cổ vào phòng khách la lớn :
- Hay quá! Đàn nữa đi con.
Thằng cháu nhỏ tập tễnh vào nghề, hứng chí dạo thêm vài bản. Tôi cười:
- Đàn trật lất. Em đừng khen nữa để nó đi chơi chớ!

Nàng nói tiếp:
- Số anh y chang số Hoàng tử. Dưỡng bịnh có ba người đàn bà hầu hạ: em nấu ăn, chị anh sắc thuốc, em gái anh giặt quần áo. Còn muốn gì nữa! Mấy năm trước em tới viện ung bướu Sài gòn thăm người bạn bị ung thư vú, em thấy hai người bệnh nằm chung một giường, có người nằm dưới đất, nóng nực hôi thúi như địa ngục. Thân nhân ngồi chò hỏ trong sân viện, mặt lo âu vì thiếu tiền hơn là vì lo cho người bệnh. Anh đẻ bọc điều chắc! Em thích câu nói “Con người đánh mất hạnh phúc thường là do mong muốn một hạnh phúc cao hơn hạnh phúc mà mình đang có”.
Những lời nàng nói có tác dụng mạnh, nổi bất hạnh uất ức trong tôi từ từ dịu xuống.

Mồng hai Tết tôi bồn chồn nhìn đồng hồ, gặp dì trước sân tôi buột miệng hỏi:
- Dì thấy dzợ con tới chưa?
- Chưa. Mày đuổi nó quoài sao giờ còn hỏi!?
Tôi đuổi nàng vì tôi không muốn nàng khổ, nhưng nàng không tới thì tôi khổ.

Hôm nay nàng tới trễ. Dọn đồ ăn ra bàn xong, nàng buồn bã báo tin:
- Ba em mất rồi. Ba bị đứng tim bất ngờ.
Tôi bàng hoàng sửng sốt. Ba nàng không bịnh hoạn gì cà. Đáng lý tôi phải là người đi trước ông.
- Kể từ hôm nay em không ăn giống anh. Em ăn chay 49 ngày.
Tôi theo nàng vào phòng. Nàng thổn thức, hai vai run nhè nhẹ. Tim tôi se lại. Ôm nàng vào lòng, tôi vỗ về:
- Anh xin chia buồn với em.
Bây giờ dưới mắt tôi, nàng chỉ là đứa con gái bất hạnh mang nổi đau khổ của người con mất cha. Trong tôi bỗng lai láng niềm thương xót. Nếu không vì tôi, giờ này nàng đang trên đường qua Cali dự đám tang thân phụ. Tôi quên bệnh tật, cảm thấy có bổn phận phải an ủi nàng. Bàn tay gầy guộc của tôi vận dụng hết sức lực thoa nhè nhẹ tấm lưng mầu mỡ, tai tôi lắng nghe tiếng giảng phát ra từ CD, điều mà trước đây tôi vẫn nghe nhưng không chú ý:
“Đức Phật dạy: Thân bệnh nhưng đừng để tâm bệnh. Chúng ta có thể không thể làm được gì nhiều cho thân nhưng chúng ta có thể làm được gì đó cho tâm. Chúng ta có thể giữ tâm bình tĩnh khi chúng ta đau yếu. Chúng ta có thể theo dõi sự tăng giảm của đau đớn, nó đến và đi từng đợt như thế nào. Chúng ta có thể hiểu biết bản chất của khổ đau. Chúng ta có thể gặp nó và học hỏi từ nó. Chính nó là một cuộc thử nghiệm – Làm sao chúng ta hiểu rõ bản chất của sự sống, làm sao chúng ta hiểu rõ ràng không có cái ngã thường còn nơi đây mà chỉ có sự thay đổi liên miên của sinh và diệt, giống như dòng sông trôi chảy bất tận...

Vai trò bỗng dưng đảo ngược… Một người bịnh cancer gần chết phải săn sóc người mạnh khỏe. Dường như Trời sinh ra tôi để phục vụ đàn bà, dù thân xác rã rời nhưng tôi cảm thấy vui vui nghe tiếng nàng ngáy đều. Vừa ôm nàng trong tay, vừa có dịp chú tâm những lời giảng phát ra từ góc phòng…
Tôi thuộc diện khổ đau do luyến ái người. Cũng may đây là người đàn bà tuổi xế chiều nhan sắc tàn phai, nếu luyến ái loại nhí xinh đẹp thì không biết tôi còn khổ đến cỡ nào!?
.......
Tâm trí tôi từ từ lấy lại thăng bằng. Sáng nay hiện rõ trên nét mặt khiến nàng chú ý:
- Lâu ngày em mới thấy anh cười tươi hết xẩy!
- Thở vào tâm tĩnh lặng
Thở ra miệng mỉm cười
An trú trong hiện tại
Giờ phút đẹp tuyệt vời
(Thiền sư Nhất Hạnh)
- Hôm nay Sainte Valentine, tụi mình qua càfé Du Miên nghen em.
Nàng há hốc mồm ngạc nhiên.
- Ơ hơ, em không nhớ. Sao lâu nay em rủ hoài anh không chịu đi!?. Đi, đi anh.
Từ quán càfé, tôi chỉ cho nàng thấy mái ngói căn phòng của tôi khuất sau bụi chuối cuối sân. Nàng nhìn quanh và có vẻ thú vị với lối décor thiên nhiên. Cảm giác đem niềm vui đến cho nàng khiến tôi tạm quên bịnh hoạn. Tôi thèm càfé nhưng bị cấm nên phải gọi trà đá. Nàng hớp một ngụm sinh tố thơm, kể lể:
- Em có người bạn ác ôn ở bên Đức, nghĩ rằng em có số sát phu.
Tôi cười ha hả:
- Chớ còn gì nữa! Ai đụng tới em là từ chết đến bị thương.
- Bà vợ Mỹ của anh cũng chết nghe chưa, vậy là anh cũng có số sát thê đó. Vì mạng em lớn mới đè được mạng anh.
Tôi vui vẻ lập lại:
- Đụng tới em là từ chết đến bị thương! Anh cũng vì em mà thân tàn ma dại nè. Héhé!
- Anh nói kiểu mê tín dị đoan. Nghiệp anh cũng nặng lắm nên gặp người hết xẩy như em mà không được hưởng! Hihi, Anh không hiểu chi cả. Nghiệp xấu của anh đến lúc phải trả, nhưng nhờ có hiếu nuôi vợ bịnh hơn hai chục năm, do đó Ơn Trên ban thưởng em cho anh. Anh có thấy sự huyền bí … mỗ xong anh tỉnh dậy cùng ngày em trở về Pháp, vé anh mua cho em từ bốn tháng trước tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như vậy!? Anh thấy chưa? Vì sứ mạng em đã xong, em ở lại Mỹ vô ích nên em bay về Pháp ngay. Sự sắp đặt vô hình hay hết chỗ chê. Rồi bây giờ anh bịnh, em về Sài gòn với anh không phải vì em trả nợ kiếp trước mà em là món quà tặng quí giá của Ơn Trên cadeau cho người chồng nhân đức. Có thể hiểu đây là khởi nghiệp, anh đang mắc nợ em đó, hihi!
Tôi phì cười:
- Con dzịt đẹt môi dày chu chu xạo thấy mẹ!
Nàng lém lỉnh chu thêm miệng hô ra chọc ghẹo tôi.

Mỗi khi nghỉ trưa, nàng mở CD “Tạng thư sống chết” của xứ Tây Tạng. Tôi nói:
- Em mở quoài băng này dzậy em! Có phải vì thầy của em là dịch giả!?
- Em không có máu phe đảng. Tại vì sách có giá trị, càng nghe càng thấm thía. Giọng thầy Tâm Kiến Chánh hay hết xẩy, giống y chang giọng của anh.
Tôi không nói gì, lắng nghe giọng đọc của người đàn ông mà nàng xác nhận giống giọng mình. Nàng ôm tôi vào lòng, tay xoa đầu tôi nhè nhẹ. Mặt ép sát vào ngực nàng nhưng tâm tôi không gợn chút ái dục, cảm giác tin cậy một đồng đội không bỏ rơi tôi, sát cánh cùng tôi chiến đấu bên cạnh giờ phút vô cùng cam go. Chúng tôi im lặng suy ngẫm:
“Dù bạn có tin tôn giáo nào hay không, điều rất quan trọng vẫn là có được tâm an bình lúc chết. Điều đó có lợi cho sự tái sanh. Theo quan điểm Phật giáo, dù người chết có tin luân hồi hay không, thì sự tái sinh của họ vẫn hiện hữu. Thời gian kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào một cơ thể mới là 7 tuần lễ. Tuy nhiên có người sau khi chết chỉ mất 2 giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác, đặc biệt những bậc thánh thiện hoặc những kẻ đại gian đại ác. Nhưng một số người khác cứ vất vưởng trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu, có lúc đến 7 năm mới đi tái sinh. Nếu trường hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ sẽ trở thành ma quỷ. Đặc biệt vong linh trong cõi trung ấm 49 ngày có khả năng nghe, cảm nhận tư tưởng...”
- Nếu em chết trước anh, em sẽ ở bên anh 49 ngày.
Tôi hiểu nàng thầm nhắn nhủ tôi hãy thực hiện điều đó với nàng.
Tinh thần tôi càng ngày càng thanh thản. Mỗi chiều tôi thường rủ nàng đi ăn chè đậu đen, đậu ván ở những quán cóc bên đường. Mỗi lần nàng lăng xăng chận xe sợ tôi bị tai nạn, tôi tức uất người. Tôi bắt nàng đi vào trong lề, bổn phận đàn ông là che chở đàn bà, tôi không thích nàng làm điều trái ngược. Sau vài lần nổi xung, nàng hiểu và để yên cho tôi giữ vị trí bảo bọc nàng. Một hôm nàng hỏi tôi:
- Hồi trước anh có bồ với bà nào không? Đưa em địa chỉ, em dẫn bả tới thăm anh.
- Anh không có bồ nào cả.
Nàng ngạc nhiên:
- Em xem hình hồi trẻ, thấy anh coi được lắm! Ít nhất anh cũng có dẫn một cô đi chơi chớ!
- Hồi học lớp đệ nhất, anh có rủ một cô cùng lớp đi ciné.
Mắt nàng thích thú sáng lên:
- A, anh kiss cổ trong rạp ciné.
- Hổng dám đâu! Anh chỉ khều mấy ngón tay thôi. Sau đó cổ giận anh.
- Anh hiền queo, chỉ dám khều mấy ngón tay thôi à. Vậy mà giận à, vô lý!
- Hổng phải. Hôm đó đông đảo chen lấn mệt hộc xì dầu. Gần hết phim cổ hối anh: “Đông người quá mình ra trước, hông thì chút nữa chen lấn hôi lắm!”. Anh nói :“Thì cũng đã hôi rồi !”.
Nàng cười ngặt ngoẽo và láu lỉnh hỏi tiếp:
- Vậy anh còn trinh với bà vợ Mỹ à!?
Tôi phì cười:
- Trinh cái lỗ rún. Hồi còn đi học, có thằng bạn dưới quê lên Sài gòn thuê nhà trọ, tụi anh hùn tiền bao một em nhím. Thời đó dzui thật là dzui!
- Thanh niên mới lớn lên hầu như ai cũng vậy!
Được nàng khuyến khích, tôi hứng thú kể tiếp:
- Sau đó tụi anh thằng nào buổi sáng đi học bụng cũng đói meo, tại tiền dành để chích pénicilline. Hehe, thằng nào cũng đi cà náng. Ba anh hỏi, anh nói anh bị té xe đạp. Cả bọn té xe đạp. Xạo thiệt tình! Tụi anh còn phải năn nỉ bà y tá cùng xóm giữ bí mật dùm.
Nàng cười nắc nẻ.
- Hihi, đám anh em trai nhà em y chang đám bạn của anh.
Tôi đổi đề tài:
- Anh tính lành bịnh sẽ mua miếng đất vùng quê làm nhà ở. Anh sẽ nuôi vài con gà chạy lanh quanh cho dzui. Em chịu dzề ở với anh hông?
- Không được đâu anh ơi, em ớn lắm! Anh là Việt kiều, tụi công an sẽ tối ngày kiếm chuyện đòi “quà thông cảm”, hoặc dân xì ke đêm khuya tăm tối sẽ giết anh chỉ vì mấy chục dollars. Lành bịnh anh qua Pháp với em là tiện nhất.

Có những ngày chán ngán bịnh hoạn, tôi lại nghĩ khác:
- Anh biết đời anh tiêu rồi, em lo kiếm người khác đi.
- Em già và xấu nữa ai mà lấy em! Chính anh cũng công nhận em xấu. Họa may nhờ anh phò hộ em...
Nàng trả lời diễu cợt với ánh mắt láu lỉnh.
- Cho dù anh không linh thiêng, em cũng đừng lo. Hoàng tử Charles mê bà già Camilla trong khi Diana đẹp tản thần. Em nên nhớ rằng trên đời này vẫn có những cha yêu đàn bà không phải vì nhan sắc.
- Hơi hiếm! Nếu gặp một người nào đó giống như anh, em mới chịu.
- Làm sao có người nào mặt mũi giống anh được!
- Xí, ý em nói giống tính tình của anh kìa. Làm như anh đẹp trai lắm!
Cả tôi và nàng cùng cười, quên hẳn mình đang ở trong hoàn cảnh mếu máo.

Thấm thoát ba tháng trôi qua, chỉ còn vài tiếng nữa nàng lên máy bay trở về Pháp. Tôi ngồi trên giường, hai chân dạng ra ôm lấy nàng đứng giữa. Hai tay nàng không ngừng ve vuốt đầu tôi.
- Sao em dzày dzò đầu anh quoài dzậy?
Nàng áp sát đầu tôi vào ngực nàng.
- Tại em không biết để tay ở đâu!
Nàng cười khẻ nhưng tôi cảm giác những giọt nước mắt rơi trên da đầu trọc.
- Anh đừng ăn bậy bạ nghen anh.
- Ờ.
- Lành bệnh qua Pháp ở với em, nhớ mua bảo hiểm sức khỏe loại du lịch.
- Ờ.
- Nếu, nếu…anh có mệnh hệ nào, chắc em không về được, anh đừng buồn em nghen.
- Bộ em nghĩ anh chết sao!?
- Biết đâu được! Tốt nhất anh cứ chuẩn bị tinh thần, nhớ nghe băng giảng mỗi ngày, nghe đi nghe lại mới thấm anh à.
- Ờ.
- Và nhớ rằng em yêu anh.
Tôi nuốt nước mắt nói:
- Anh đi được là anh qua với em ngay.
Nàng hôn môi tôi và vội vã lấy khăn bịt kín khuôn mặt đẫm lệ. Tội nghiệp từ ngày yêu tôi, nàng khóc nhiều lần. Tôi chợt nhớ chưa bao giờ thấy người vợ Mỹ nhỏ một giọt nước mắt. Chậm chạp chống Walker, tôi tiễn nàng ra ngõ. Đứng lặng người một lúc thật lâu, tôi nhìn theo chiếc xe ôm chở nàng khuất xa cuối con đường hẻm.

Qua phôn, tôi nói chuyện với nàng một lần chót, để an tâm nàng bình an về tới Pháp. Và rồi tôi trốn tránh, vì giọng nói quen thuộc đó chỉ khiến tâm hồn tạm thời an bình của tôi trở nên xao động. Tôi biết rõ mình đang may mắn không vướng bận gì khác, ngoài việc quán sát cái đau để buông cái đau, đừng dại dột rơi vào luyến ái.
Tôi sẵn sàng rời cõi trần gian với tâm an lành, đó cũng chính là điều nàng ao ước tôi đạt được.

11 giờ khuya. Tôi rung chuông gọi chị Hai. Tôi điềm tĩnh nói:
- Em thấy trên trời đầy sao chiếu sáng ngời. Hình em hiện lên quanh bốn bức tường. Em nghe rõ tiếng ai gọi tên em. Em biết tới giờ em đi rồi đó chị.
Chị tôi an ủi:
- Giữ lòng thanh thản nha em.
- Em sẵn sàng rồi. Chị à, em có lỗi nhiều với ba má phải hông chị?
- Hông, em hổng có lỗi gì cả. Ba má thông cảm hoàn cảnh của em. Những ngày nước mới mất, tụi nó vào nhà mình làm khó dễ quoài, điều tra “thằng giặc lái cút theo Mỹ”.
- Dzợ em sao chị?
- Nó ở Pháp làm sao chị biết. Lần nào nó gọi, em cũng hổng chịu tiếp chuyện.
- Chân chị còn đau hông?
- Đau lắm em!
Tôi cười thân mật nói:
- Mặt bà mệt quá chời, thôi đi ngủ đi bà ơi!

7- Ra đi
4 giờ sáng thứ năm 9/10/2008
Theo thường lệ, người đàn ông làm vệ sinh vào phòng chào hỏi :
- Ngủ ngon hông anh Tốt ?
Tôi không trả lời.
Vì tôi đã chết.
France, khuya hôm sau...
Tôi trở lại mạnh khỏe và cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái, đi đứng bình thường không cần walker. Tôi không gặp ba má tôi, không gặp Carrol, cũng không gặp ba của nàng. Chung quanh tôi là một số người tôi không quen biết, họ đi lại với dáng vẻ thanh thản.

Điều kỳ diệu, tôi mong muốn được gặp nàng thì tức khắc tôi đã có mặt bên nàng. Tính thời gian, tôi quen nàng được 3 năm 2 tháng; gần gũi nhau tổng cộng khoảng 7 tháng. Tương tự cuộc tình ngắn ngủi của vua Chế Mân và Huyền Trân công chúa, cũng như chuyện phim Love Story.

Tôi bồi hồi ngắm tấm hình đặt trên bàn ngủ. Tấm hình tôi và nàng chụp hôm picnic vùng Nam Cali, tươi cười dựa vai nhau ngồi bệt trên bãi cỏ xanh mướt. Nàng đang say ngủ, cái cổ ngấn nọng làm nàng già hơn sáu tháng trước. Tôi nằm cạnh nàng với tâm hồn bình thản.
Chợt biết có tôi bên cạnh, nàng hấp háy mắt nhìn tôi. Giọng nàng vui mừng ngái ngủ:
- Anh qua với em đó à!
Tôi cười nhẹ và lập lại câu nói hôm chia tay :
- Anh đi được là anh qua với em ngay.
Nàng dường như không mảy may ngạc nhiên, cánh tay nàng ôm choàng qua bụng tôi làm vòng khóa êm ái, mỉm cười và tiếp tục ngáy đều. Mân mê những ngón tay nàng theo thói quen những ngày chưa bịnh hoạn, mắt tôi nhìn lên trần nhà màu trắng. Một màu trắng tinh khiết và tang tóc.

Nàng tỉnh giấc, ngơ ngác tiếc nuối giấc mơ vô cùng sống động. Nàng không ngờ rằng thế giới nàng đang sống chỉ là mộng, thế giới nàng nằm bên tôi trong giấc ngủ mới chính là thật.

Nàng điện thoại về Việt nam nói chuyện với chị tôi, biết tôi ra đi trong một trạng thái tốt lành, và linh tính tôi đang ở bên cạnh nàng, tư tưởng nàng truyền đạt đến tôi lời khen ngợi :
- Em rất hãnh diện vì anh.

Bây giờ nàng đang mang nổi buồn ủ rủ của loài chim lẻ bạn, não nề của loài người khóc cô đơn. Tôi có nhiệm vụ an ủi nàng, nhắc nhở nàng phấn đấu, tiếp tục đời sống bình thường. Mỗi ngày nàng nhận nhiều mails bạn bè khuyên đừng buồn nhưng vô hiệu quả. Khi màn đêm buông xuống, nàng thổn thức nghe tôi vỗ về:
- Em còn nhớ những điều chúng mình đã từng nghe qua: “Ta không thể nào tránh né khổ đau. Khi ta cố tự vệ chống lại đau khổ, thì ta chỉ càng thêm đau khổ và không học được gì về kinh nghiệm khổ đau”. Em nên lấy làm an ủi: “Một trái tim chưa hề mở ra nhận chịu sự mất mát, một trái tim được che chở, luôn vô tư an ổn, thì không thể biết yêu thương”.

Nước mắt nàng ràn rụa. Tôi tiếp tục thầm thì:
- Em hãy suy nghĩ lời giảng hữu ích: “Đừng dập tắt nổi đau khổ của bạn, hãy chấp nhận nó và giữ tâm nhạy bén với nổi khổ đau. Dù tuyệt vọng đến đâu, bạn hãy nhận nổi đau khổ như nguyên trạng của nó, vì kỳ thực nó đang đem lại cho bạn một món quà vô giá, nhờ tu tập, bạn sẽ có cơ hội tìm ra được cái ẩn dấu sau nỗi đau buồn. Đau buồn có thể là khu vườn bi mẫn. Nếu bạn mở lòng ra với mọi sự, thì nỗi khổ có thể trở thành đồng minh lớn nhất của bạn trên đường tìm kiếm từ bi và trí tuệ.”

Tôi nói thêm :
- Em nên ghi nhớ điều quan trọng mà anh đang trải qua kinh nghiệm: « Những kiến thức thu lượm được trong vấn đề tôn giáo không có giá trị gì cả . Tôn giáo là một điều phải tự kiểm chứng lấy qua sự thực hành”.

Trước khi vĩnh viễn ra đi, tôi muốn tiếp xúc với chị tôi, với con gái tôi và một số bạn thân nhưng thất bại. Tôi chỉ liên lạc được ba người. Đứa cháu dâu trong giấc mơ thấy một đám mây trắng nhẹ nhàng bốc lên từ thân thể tôi, chầm chậm bay lên cao và tan loãng vào không gian như làn khói. Cháu thức dậy nhìn đồng hồ đúng 2 giờ sáng, như vậy chị tôi sẽ hết thắc mắc về giờ giấc chính xác tôi trút hơi thở cuối cùng.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286127376.JPG

Hôm sau, thằng bạn thân ở Chicago mừng rỡ ngạc nhiên gặp tôi trong giấc ngủ: «Tao nghe nói mầy chết rồi mà !». Tôi tươi cười trả lời : « Ờ, tao về thăm mầy đây».Vậy càng hay, người bạn Công giáo này là nhân chứng hùng hồn về thuyết siêu hình.
Có lẻ linh hồn là dòng điện tinh tế, muốn phát ra phải chạm đúng tần số tương tự làn sóng đài phát thanh. Tôi liên lạc với nàng dễ dàng, có lẻ vì nàng tập trung mãnh liệt tư tưởng vào tôi cùng với thiện chí ăn chay 49 ngày. Chắc hẳn sức mạnh tình yêu đã giúp chúng tôi.

Tôi bảo nàng vào trang nhà “Cánh Thép”. Những đồng đội vẫn chưa quên tôi, có đứa thương tôi làm thơ khóc bạn. Có đứa nhắn nhủ: “Mầy linh thiêng phù hộ tụi tao nghen Tốt”. Tụi nó không biết rằng tôi có khả năng nghe và đọc được tư tưởng của người khác nhưng tôi không có quyền phép gì để phù hộ ai cả. Tôi vẫn là tôi. Tôi chỉ lìa bỏ cái xác phàm bệnh hoạn. Linh hồn của tôi trong cuộc đời hiện tại này đến từ linh hồn của đời trước và là nguyên nhân của linh hồn trong đời sau.

Nàng đọc đi đọc lại mấy lần lời phân ưu của Phong, tôi thầm cám ơn đây cũng là điều tôi muốn nói:
“Từ khi gặp Tốt và chị, tôi đã vui mừng vì Tốt đã có cả một khung trời hoa mộng, dẫu là ngắn nhưng tôi đoan chắc một điều là Tốt cất cánh trong phi vụ cuối cùng để đi vào miền miên viễn với nụ cười hạnh phúc”.

Mùi hương thơm ba cây nhang phảng phất trong đêm khuya tĩnh mịch. Tôi và nàng ngồi trước màn ảnh computeur, nhưng duy nhất bóng đen của nàng cô đơn phản chiếu lên bờ tường lạnh lẽo. Tôi không hôn nàng vì tôi không muốn cả hai thêm bịn rịn. Tôi mân mê những ngón tay nàng... những ngón tay một ngày không xa cũng sẽ trở thành cát bụi. Nó chỉ tạm thời là dụng cụ của con người trên dương thế, chỉ là phương tiện cho tôi nhắn gởi dòng tâm thức.
Tôi nói câu cuối cùng:
- Hôm nay đúng 49 ngày, anh phải bye cưng. Bài viết này anh muốn lấy tựa đề « 49 ngày với em ». Cưng nghĩ sao?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286986825.JPG
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287036926.JPG

(Nguyễn văn Tốt, từ trần 2g sáng 9/10/2008)

LÊ KHÁNH THỌ -FRANCE

hung45qs
10-05-2010, 02:39 AM
1000 Con Hạc Giấy !!

Sự hiểu lầm có thể làm cho con người ta mất đi vĩnh viễn 1 thứ gì đó mà ta rất yêu quý, để rồi, khi nhận ra thì đã quá muộn...

Có một chàng trai đã gấp 1.000 con hạc giấy tặng người anh yêu. Mặc dù lúc đó anh chỉ là một nhân viên quèn trong công ty, tương lai chẳng có vẻ gì sáng lạng nhưng họ vẫn luôn rất hạnh phúc bên nhau.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286247349.JPG

Rồi cho đến một hôm người yêu của anh nói rằng nàng sẽ đi Paris, sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại anh nữa. Nàng rất lấy làm tiếc về điều này và an ủi chàng rằng rồi nỗi đau của chàng cũng sẽ trở thành dĩ vãng. Hãy để cho nó ngủ yên trong ký ức của mỗi người.

Chàng trai đồng ý nhưng trái tim tan nát. Anh lao vào làm việc quên cả ngày đêm, cuối cùng anh đã thành lập được công ty của riêng mình. Nó không chỉ giúp anh vươn đến những điều mà trước đây vì thiếu nó mà ngưới yêu đã rời bỏ anh, nó còn giúp anh xua đuổi khỏi tâm trí mình một điều gì đó của những tháng ngày xưa cũ.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286247416.JPG

Một ngày mưa tầm tã, trong lúc lái xe, chàng trai tình cờ trông thấy một đôi vợ chồng già cùng che chung một chiếc ô đi trên hè phố. Chiếc ô không đủ sức che cho họ giữa trời mưa gió. Chàng trai nhận ngay ra đó là cha mẹ của cô gái ngày xưa. Tình cảm trước đây anh dành cho họ dường như sống lại.

Anh chạy xe cạnh đôi vợ chồng già với mong muốn họ nhận ra anh. Anh muốn họ thấy rằng anh bây giờ không còn như xưa, rằng anh bây giờ đã có thể tự mình tạo dựng một công ty riêng, đã có thể ngồi trong một chiếc xe hơi sang trọng. Vâng, chính anh, chính người mà trước đây con gái họ chối từ đã làm được điều đó.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286247485.JPG

Đôi vợ chồng già cứ lầm lũi bước chậm rãi về phía nghĩa trang. Vội vàng, anh bước ra khỏi xe và đuổi theo họ. Và anh đã gặp lại người yêu xưa của mình, vẫn với nụ cười dịu dàng, đằm thắm nàng từng đem đến cho anh, đang dịu dàng nhìn anh từ bức chân dung trên bia mộ. Cạnh cô là món quà của anh, những con hạc giấy ngày nào, đến lúc này anh mới biết một sự thật: nàng đã không hề đi Paris. Nàng đã mắc phải căn bệnh ung thư và không thể qua khỏi.

Nàng đã luôn tin rằng một ngày nào đó anh sẽ làm được nhiều việc, anh sẽ còn tiến rất xa trên bước đường công danh. Và nàng không muốn là vật cản bước chân anh đến tương lai của mình. Nàng mong ước cha mẹ sẽ đặt những con hạc giấy lên mộ nàng, để một ngày nào đó khi số phận đưa anh đến gặp nàng một lần nữa, anh có thể đem chúng về bầu bạn.

Chàng trai bật khóc.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286247581.JPG

Chúng ta cũng vậy, như chàng trai kia, cũng chỉ nhận ra giá trị lớn lao về sự có mặt của một người mà cuộc đời đã ban tặng cho cuộc sống của chúng ta khi một sáng mai thức giấc, người ấy đã không còn ở bên ta nữa. Có thể họ đã chẳng yêu bạn như cách mà bạn mong đợi ở họ nhưng điều này không có nghĩa rằng họ không dâng hiến tình yêu của họ cho bạn bằng tất cả những gì họ có.

Một khi bạn đã yêu, bạn sẽ mãi mãi yêu. Những gì trong tâm trí bạn có thể sẽ ra đi, nhưng những gì trong tim bạn thì mãi mãi ở lại.

Trương Công Bình Sưu tầm

hung45qs
10-06-2010, 12:40 AM
BỘ ĐỒ BAY


(Kính tặng tất cả những anh SQKQ liên khoá72-23, đặc biệt là những anh nào hãy còn giữ lại bộ áo bay của thời trai trẻ)

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286500159.jpg


Nâng niu bộ áo năm xưa
Một thời quân ngũ, nắng mưa dãi dầu
Áo nay dù đã phai màu
Đã co rút lại vết nhàu thời gian

Vẫn còn dấu tích hiên ngang
Của đời chinh chiến nguy nan kiêu hùng
Anh mang áo, bay khắp vùng
Vì quê hương, chằng ngại ngùng tử sinh

Chỉ mong giây phút thanh bình
Quê hương một dải, ấm tình nước non
Mấy mươi năm áo đã sờn
Tình quê ly tán, nỗi hờn chưa nguôi

Cuộc đời chằng thề êm xuôi
Binh đao thế sự nổi trôi theo giòng
Bao nhiêu số phận tù gông
Người đi, người ở, nghe lòng xót xa

Thanh bình trong nỗi phong ba
Người còn , người mất nghĩ mà thương tâm
Buồn cho vận nước thăng trầm
Thương quê mình vẫn còn lầm than thôi

Dẫu nhiều năm đã qua rồi
Áo bay mãi gợi nhớ đời gian truân
Một đời huấn luyện không quân
Anh mang áo trận bay gần, bay xa

Kim Mai

hung45qs
10-06-2010, 04:23 PM
Bay Trên Lửa Ðạn


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286382833.JPG

Thường thường những chiến trường càng sôi động, càng có một hấp lực lôi cuốn tôi phải đến, phải ghi nhận và phải viết. Tôi đến chiến trường bằng mọi phương tiện: máy bay, tàu thủy, xe và cả đi bộ. Nhưng thường là đi bằng đường bộ, từ phía sau trận tuyến để tiến dần vào vùng giao tranh theo những hướng tiến quân của các đơn vị đang tham chiến. Như vậy, cái nhìn của người phóng viên chiến trường bị giới hạn bởi những điều kiện tương đối an toàn nên sự ghi nhận sẽ thiếu phần trung thực. Và tôi tâm niệm mình phải có một cái nhìn khái quát hơn, những cảm xúc mạnh mẽ và sống động hơn, từ một độ cao, ngay trên lằn đạn, để ngòi bút mô tả thật đúng với những trận đánh đang ở mức khốc liệt nhất của một vùng được mệnh danh là Vùng Hỏa Tuyến. Tôi cố gắng thực hiện điều đó để đạt được cái nhìn cần thiết của một người viết phóng sự chiến trường, và đồng thời mới có cơ hội trực tiếp nhìn thấy sinh mạng của những chiến sĩ Không Quân thật như treo trên sợi chỉ trong những lần đùa với tử thần, bay trên lửa đạn.

Năm 1970, nhìn tình hình chiến sự ngày càng sôi động, tôi nghĩ đến lúc muốn có mặt tại chiến trường để viết, e rằng những phương tiện như xe cộ không còn tiện dụng. Hơn nữa, một phóng viên chiến trường mà không có mặt tại chiến địa cùng lúc với những đơn vị đang hành quân, thì những bài viết nếu không phải là sản phẩm của tưởng tượng, thì cũng chỉ là nghe kể lại hoặc dự những buổi thuyết trình của phòng hành quân mà thôi. Do đó, tôi nạp đơn xin phép Bộ Tổng Tham Mưu theo học một khóa Nhảy Dù. Đơn xin của tôi được chấp thuận thì không may, một tai nạn xe cộ khiến tình trạng sức khỏe của tôi không thể theo học được. Cách còn lại duy nhất là bay trên chiến địa để trực tiếp ghi nhận những diễn biến của chiến trường và những đơn vị đang chiến đấu bên dưới.

Từ mặt trận Cao Nguyên vừa về tới Saigon, tôi trở ra lại miền Trung để tiếp tục tham dự chiến trường Trị Thiên. Tôi chọn Huế để viết phóng sự, một phần vì mặt trận phía Bắc của thành phố này đang tới hồi nóng bỏng, một như bị quyến rũ bởi những lời mời mọc âm thầm của đất Thần Kinh, sự cảm phục sức phấn đấu của người dân miền Trung, và cũng tựa hồ như định mệnh.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286382906.JPG

Pilot Phi Ðoàn 516 "Phi Hổ" & A-37 Dragonfly

Với miền Nam và Gia Định, nơi tôi sinh trưởng, thì Huế là một vùng đất xa xôi với nhiều huyền thoại lịch sử. Huế của cung miếu, đền đài. Huế như người tình vừa kiêu sa vừa lãng mạn. Huế như đấng quân vương đến hồi sa cơ thất thế, vẫn kiêu ngạo với một thời vàng son dĩ vãng, và cả những khổ đau mà hiện mình đang gánh chịu.

Vào những ngày đầu của tháng 7, thành phố Huế đã nằm trong tầm pháo của Cộng quân. Mọi đơn vị và kể cả dân chúng đang nỗ lực phòng thủ. Cái nóng của mùa hè ở Huế thật oi nồng. Gió Hạ Lào luồn qua những khe núi của rặng Trường Sơn đưa mùi khói súng về tận sông Hương. Huế đang ở trong vùng hành quân. Xe nhà binh di chuyển vội vàng. Đủ mặt quân binh chủng trên đường phố. Hàng ăn, quán uống rộn ràng với những đoàn xe chuyển quân tạm dừng chân giây lát. Người dân đào hầm trú ẩn ngay trong nhà. Bao cát ở chợ trời Đông Ba bán chạy như tôm tươi.

Sau khi đi thăm những đơn vị có nhiệm vụ giữ vòng đai của Huế, tôi liên lạc với Biệt Đoàn Tiền Phương đóng ở phi trường Phú Bài để xin được tháp tùng theo những phi vụ mà Biệt Đoàn này đang yểm trợ cho mặt trận phía Bắc của Huế. Đó là cách duy nhất mà tôi có thể dự phần và hiểu một cách rõ ràng những giây phút hào hùng và thập phần nguy hiểm của những người đấu từ trên không, của những cánh chim bằng vào ra chiến trận như trò đùa, đem mạng sống của mình treo trên lửa đạn. Những cuộc sống hào hùng đó, tôi đã được nghe nhắc đến trong lần đầu gặp Thiếu Tá Diệm, Biệt Đoàn Trưởng Biệt Đoàn Tiền Phương, một người trầm lặng, ít nói, thường vẫn ngậm ngùi nhắc đến những người bạn, những huynh đệ đã vĩnh viễn ra đi và những người đang làm rạng danh cho binh chủng như Thiếu Úy Nguyễn Xuân Chi của Không Đoàn 41, Thiếu Úy Tạ Nhất Chí của Không Đoàn 5...

Buổi sáng, nắng hè đang còn dịu, tôi ngồi nghe vị Sĩ Quan Trưởng Phòng Hành Quân của Biệt Đoàn Tiền Phương tại Phú Bài thuyết trình về tình hình chiến trường và các nhiệm vụ yểm trợ của Biệt Đoàn. Những dặn dò và quy luật mà tôi phải tuân theo, đồng thời phải để lại địa chỉ, điện thoại những nơi sẽ được cấp báo nếu có gì không may xảy ra cho chuyến bay này. Tôi để lại số điện thoại của người chị bà con ở Saigon và của một người mới quen ở Huế.

Người phi công mà tôi tháp tùng là Đại Úy Trần Ngọc Hoàng. Phi cơ L-19 có hai chỗ ngồi, tôi ngồi phía sau với mũ nghe và một chiếc ống dòm. Phi cơ cất cánh rời phi trường Phú Bài lúc 10 giờ 24 phút, Đại Úy Hoàng nhắc nhở tôi:

- Đây không phải là một chuyến bay quan sát khơi khơi trên cao, mà là một phi vụ yểm trợ thực sự trong vùng giao tranh.

Tôi hiểu ý người phi công. Không có một sự an toàn nào cho tôi, dù là tối thiểu như những lần quan sát chiến trường từ sau lưng những đơn vị Bộ Binh. Tôi nhủ thầm, con người sống chết có số và chuyện sinh nghề tử nghiệp cũng là chuyện thường tình mà thôi. Cũng có thể vì tôi là phái nữ và ở từ một nơi yên ổn như Saigon mới ra đây xa lạ nên được căn dặn kỹ càng.

Như hai hôm trước, tôi xin trực thăng đi từ Đà Nẵng ra Huế, nơi đáp sẽ là bãi đáp trực thăng trước Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh tại Mang Cá, Huế. Khi trực thăng gần đến Huế, người phi công cũng dặn dò tôi:

- Máy bay đáp xuống là chị phải chạy ngay vào giao thông hào bên cạnh, kiếm một chiếc nón sắt đội lên đầu cho chắc ăn rồi mới di chuyển vào trong doanh trại. Tôi hồi hộp chờ đợi, và có cảm tưởng những khẩu pháo của Việt Cộng đang im lặng như một cái bẫy chờ đợi con mồi... Nhưng khi trực thăng vừa đáp xuống, tôi thấy người đón tôi vẫn chiếc mũ lưỡi trai trên đầu và điếu thuốc cố hữu trên môi, đứng dựa lưng vào xe Jeep, rất thản nhiên, cái thản nhiên của những người đã quen sống trong vùng lửa đạn.

Hôm nay là ngày 5 tháng 7, năm 1972. Một ngày nắng thật đẹp. Những người phi công không thích sương mù. Bây giờ đang ngồi trên máy bay, tôi mới hiểu điều đó. Trời trong sáng giúp sự quan sát dễ dàng hơn. Dưới chân tôi là núi rừng, đồng ruộng. Trên đầu tôi từng đám mây trắng bay ngược chiều. Chợt nhớ lời một người phi công trẻ nào đó:

- Mỗi ngày chúng tôi bay đi trước khi mặt trời mọc, và trở về sau khi mặt trời đã lặn.

Nhiệm vụ của những người phi công lái L-19 là nhiệm vụ có tầm quan trọng trong một cuộc hành quân: hướng dẫn hành quân, quan sát mục tiêu, quan sát những biến chuyển của trận đánh, phối hợp hỏa lực... Nhưng những phi công lái L-19 lại là những cánh chim đơn độc, đi một mình, về một mình và đến trận địa thì cũng tự lo lấy thân mình. Nhiệm vụ muốn lo cho hoàn hảo phải bay thật thấp, dưới 2000 bộ, để quan sát cho chính xác, mà hỏa tiển SA-7 của Việt Cộng rất nhẹ, như võ khí cá nhân, có thể mang trên vai, bắn cao đến 9,000 bộ. Như B-40 biến cải cũng có thể bắn lên tới 4000 bộ rồi...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286383652.JPG

Đến 11 giờ, dòng sông Mỹ Chánh hiện ra trước mắt. Đây là một con sông nhỏ, như một lằn ranh giữa hai thành phố Huế và Quảng Trị. Bên kia bờ phía Bắc sông Mỹ Chánh không thấy bóng dáng một người dân. Đại Úy Hoàng chỉ cho tôi các vị trí của quân bạn bên dưới và một đoàn công voa của mình đang di chuyển. Tôi nhìn thấy rõ những đám bụi đỏ bốc lên mù mịt đằng sau mỗi chiếc xe. Chúng tôi đang cách cầu Mỹ Chánh khoảng 4 cây số về hướng Đông. Tôi biết chỉ trong chốc lát chúng tôi sẽ đến quận Hải Lăng. Hải Lăng đằng trước mặt. Chiếc L-19 nhẹ nhàng bay vào vùng đang giao tranh bên dưới.

Tiếng của Đại Úy Hoàng trong mũ nghe:

- Chị nghe tôi rõ không?

- Rõ.

- Chị nhìn qua phía bên phải, bên trong Quốc Lộ 1, xe tăng của Việt Cộng đó, chụp hình đi.

Người phi công cho máy bay đảo nhiều vòng trên cao để quan sát tổng quát tình hình bạn và địch, đồng thời liên lạc với những đơn vị bên dưới để biết yêu cầu của họ. Tôi vừa quan sát, vừa chụp hình, vừa lắng nghe cuộc đối thoại của những đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến với máy bay của tôi:

- Hotel, Hotel, đây Sóng Thần, nghe rõ không, trả lờị

- Tôi nhận bạn 5 trên 5. Có gì cho đi.

- Việt Cộng đang nằm trên gò mả, xem dùm tôi, trả lời.

- Chờ một chút.

- Nhờ bạn quan sát chính về hướng Ðông, Tây Bắc điểm đã chọn.

- Bảo Phong, đây Chung Sơn gọi.

- Tôi đưa nón sắt đến cho bạn đó. Bạn hướng dẫn tôi, trả lời.

- Tôi đã tới ngay nhà thờ mà chưa thấy bạn.

- Hoa Đào, đây Tiêu Lương gọi.

- Đánh dùm tôi cách 100 mét, nghe rõ không, trả lời.

Nhiệm vụ của Đại Úy Hoàng thật đơn giản nhưng thập phần nguy hiểm. Nguy hiểm là vì bên dưới gặp khó khăn, mới nhờ trên không giải quyết dùm, và nơi nào mà Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gặp khó khăn, là nơi đó đang đong đưa một lưỡi hái của tử thần.

Qua ống dòm, tôi thấy một ngôi nhà thờ nhỏ nằm trong vùng giao tranh, trên gác chuông và những cao điểm khác, những ổ súng của Cộng quân đã cầm chân các đơn vị Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến một cách hữu hiệu. L-19 phải dùng trái khói để đánh dấu những vị trí đó cho phản lực cơ đánh.

Đại Úy Hoàng ra hiệu cho tôi biết phi cơ sẽ xuống thấp để làm nhiệm vụ. Tôi thật sự hồi hộp trong giây phút này, vì đây là lần đầu tiên tôi theo máy bay ra tận giữa hai lằn đạn của một cuộc giao tranh mà hai bên đang cố gắng đẩy lui đối thủ và giữ từng tấc đất.

Chiếc L-19 xuống thấp rất nhanh bên phần đất của các đơn vị bạn rồi bay thẳng về phía địch. Tôi nhìn rõ bằng mắt những chiến sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang tiến công bên dưới như xem phim trên màn ảnh. Họ tiến tới chậm và khó khăn vì hỏa lực của Cộng quân từ các cao điểm. Chậm nhưng vẫn anh dũng tiến và tiến tới không ngừng. Đại Úy Hoàng đã cho máy bay vào phần đất của địch. Máy bay bay sát trên ngọn cây và những họng súng phòng không bắt đầu chuyển hướng nhắm vào chiếc L-19.

Chiếc máy bay nhỏ bé khi thì lượn lờ trên cao như đùa giỡn, khi thì để thả trái khói cho thật chính xác, đã phải lao xuống thật thấp, xuyên qua những lằn đạn, rồi phóng lên cao và lại nhào xuống như vậy nhiều lần. Những giây phút đó mới thấy sự phối hợp nhịp nhàng, hữu hiệu của Không Quân. Trong khi chiếc L-19 cố gắng xuống thấp, đến gần để ghi dấu vị trí địch bằng trái khói, thì đằng xa, những chiếc phản lực đang đảo vòng, gầm thét thị uy. Và khi chiếc L-19 vừa cất mình lên cao nhường chỗ, thì những chiếc phản lực như những con diều hâu đã thấy mồi, lao xuống mục tiêu như một mũi tên. Địch thừa hiểu L-19 chỉ đâu, phản lực đánh đó, nên hầu hết các ổ súng đã châu lại nhả đạn vào chúng tôi cùng một lần.

Đại Úy Hoàng đang cố gắng xuống thấp hơn để ghi dấu một ổ súng phòng không của địch. Đã bao lần tôi thấy rõ là phi cơ sẽ trúng đạn, nhưng rồi vẫn tránh được. Vừa bị một tai nạn xe trầm trọng năm ngoái, sức khỏe của tôi chưa được bình phục, nên sau một hồi phi cơ bay lên, nhào xuống, gan ruột tôi cảm thấy nhộn nhạo. Và lần này, khi tôi vừa kịp thấy một màn lưới lửa từ dưới đất xẹt lên hướng máy bay chúng tôi, Đại Úy Hoàng đã nhanh nhẹn đưa phi cơ ngược lên trời như một mũi tên để tránh. Sự thay đổi độ cao và áp suất bất ngờ đó làm cho tôi không còn cố gắng hơn được nữa.

Trước khi ngất đi, tôi còn nghe văng vẳng tiếng của người phi công hỏi tôi:

- Chị Duyên, chị Duyên, nghe tôi rõ không, trả lời.

Tôi muốn nói, "Đại Úy cứ tiếp tục phi vụ," nhưng hình như tôi không nói được. Tôi biết lúc đó máy bay của tôi chỉ mới thực hiện được 48 phút bay, và tình hình bên dưới làm cho Đại Úy Hoàng trong một lúc hình như quên mất sự hiện diện của tôi trên máy bay.

Khoảng 15 phút sau, tôi có cảm giác như máy bay đang ở trên một mặt phẳng, không còn nhào xuống rồi vút lên như trước nữa và tiếng người phi công lại vang lên trong mũ nghe:

- Chị Duyên, chị Duyên, chị tỉnh lại rồi phải không? Ngả về đằng sau, nhắm mắt một lát cho khỏe.

Tôi dùng ngón chân ấn nhẹ lên chiếc nút dưới sàn tàu:

- Cứ bay hết giờ nghe Đại Úy.

Tuy nói vậy, nhưng bay đến phút thứ 150 thì tôi lại muốn ngất đi như trước. Chiếc mũ bay vẫn chụp trên đầu, nên trong trạng thái mơ màng, tôi còn nghe những lệnh lạc, những lời gọi khẩn cấp, những câu cự nự nhau và cả những tiếng chửi thề. Có những câu nói chưa trọn đã im bặt, có lẽ bởi một viên đạn nào đó... Tôi biết mình đã phí mất những giây phút quý báu này. Sau một phi vụ dài hai tiếng rưỡi với L-19, những dự tính tháp tùng bay theo khu trục A-37 và phản lực F-5 của tôi đã tan theo mây khói vì tự hiểu sức khỏe của mình không thể nào theo được.

Phi cơ trở về lại phi trường Phú Bài, một số những người quen biết trong Biệt Đoàn đến chúc mừng tôi bình yên sau những giờ bay nguy hiểm trên chiến trận. Đại Úy Hoàng vừa rời phòng lái là vội vã đi ăn cơm trưa. Ăn xong lại lên máy bay bay tiếp. Một phản lực cơ của ta bắn cháy 3 chiến xa của địch, Đại Úy Hoàng được lệnh bay đến chụp hình. Người phi công lần này vai mang máy ảnh có gắn telé, ông vẫy tay chào và nói:

- Bắn cháy chiến xa thì phải chụp hình chứ để người ta không tin.

Từ phi trường Phú Bài, tôi xin vào Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương Huế nằm tĩnh dưỡng một vài hôm trước khi tiếp tục loạt phóng sự cho chiến trường Trị Thiên. Trong quân y viện, đêm đêm không ngủ được, tôi nằm lắng nghe và đếm từng chuyến trực thăng tải thương về. Cứ mỗi giây, mỗi phút, bao nhiêu người đã hy sinh cho đất nước?

Làm một việc gì với tất cả nhiệt tình của mình, thì cuối cùng cũng có một phần thưởng, dưới bất cứ một hình thức nào đó. Với những loạt phóng sự và hình ảnh sống động trong chuyến đi này, tôi được sự tán thưởng của độc giả. Ðiều đó xem như là một khích lệ đối với cá nhân tôi, một nữ phóng viên chiến trường đã đi và viết ngay trên chiến địa như vậy. Những khen tặng chút can đảm đó của tôi thật chẳng xứng đáng gì so với sự quả cảm và hào hùng của những chiến sĩ đang mặt đối mặt với quân thù bên dưới, và của những người vẫn vào sinh ra tử trên ngàn bộ cao với đôi cánh chim bằng mà một lần tôi đã trực tiếp chi xẻ từng cảm xúc.

Kiều Mỹ Duyên

hung45qs
10-07-2010, 03:45 AM
BÀI THƠ CHO NGƯỜI GÁI HUẾ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286603579.JPG


Chiều nao em đứng bên bờ
Nước Sông Hương vẫn lững lờ cuốn trôi
Mắt em bỗng chợt xa rời
Thuyền ta như lạc giữa đời sông em

Nghe mưa miên viễn trên triền
Núi che mắt hút em miên man buồn
Gió phơ phất mái tóc huyền
Tà huy máu nhuộm giữa miền nước đau

Rồi từ khi gãy nhịp cầu
Ôi thương thành nội những ngày đao binh
Giặc về em bỏ kinh thành
Sau lưng kỷ niệm đã xanh những mồ

Ta thân phiêu bạt vô bờ
Mấy năm xuôi ngược tàn mơ đợi chờ
Chợt nghe thương nổi bơ vơ
Nhớ em ta nhớ cả bờ bến xưa

Ôi xa rồi em tôi người gái Huế
Có đôi mi cong với mắt vọng buồn
Chừ em biết có còn thương
Hay như cánh vạc giữa sương trời mù

Tình như chiếc lá mùa thu
Bay theo cơn gió ta sầu trăm năm
Ôi đôi mắt ! Mắt em ngời ngời sáng
Một tinh cầu ta lơ lững giữa không gian

Thuyền lạc hướng ta về đâu trăm ngả
Một giòng sông em đã chở ta về
Ôi đôi mắt ! Mắt em buồn vô kể
Sóng xô bờ từng đợt cuốn hồn anh

Nước luân lưu mâ trắng bỗng xây thành
Ta đã thấy mênh mông chiều tưởng nhớ
Ôi đôi mắt ! Mắt em người gái Huế
Một trời thơ mang nặng những u hoài

Giòng sông đó như vẫn còn cuốn mãi
Trong mắt em con nước xoáy tâm hồn
Ta từ độ giặc về gieo chết chóc
Những hầm chông ụ pháo bỗng nhiều thêm

Đạn gào lên! Tăng rú! Quỷ ma cười!
Và từ đó ta đi ngoài sương gió
Mùa Xuân nào lũ giặc phá nội thành
Ta còn nghe những âm hưởng thất thanh

Trong bể lửa ôi tiếng cười rỉ máu
Xác nào đây ôi mẹ hiền đó phải
Bà mẹ hiền khốn khổ suốt trăm năm
Chừ nằm xuống mắt vẫn còn trân tráo

Chờ thằng con độc nhất tận phương nào
Mẹ nằm đó như vẫn còn hối tiếc
Rồi buông xuôi như một tiếng thở dài
Non thế kỷ ôi một đời hệ lụy

Còn gì nữa không em người gái Huế ta ơi!

(Viết tại TTHLKQ Nha Trang 1973)
Trần Hậu

hung45qs
10-08-2010, 01:04 AM
CÁM ƠN CÁC ANH


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286326237.JPG

Thấm thoát từ ngày các anh xếp bỏ bút nghiên, chấm dứt thời học sinh thơ mộng để bước vào binh chủng Không Quân đã hơn ba mươi tám năm. Thật sự huấn nhục đã thay hình đổi dạng những thanh niên trẻ từ một chàng thư sinh bé bỏng sớm đã phải làm quen với những hình phạt phủ đầu, vô lý, mồ hôi nước mắt đã nuôi nấng lòng tự tin kiên nhẫn chịu đựng để trở thành những anh hùng tương lai của non sông đất nước.
Năm nay Đại Hội SVSQKQ kỳ III được tổ chức thật long trọng ngay trung tâm Little Saigon tại Orange County, Ca. Do đó tôi có cơ hội tham dự và xin được viết lên vài lời cám ơn các anh trong cuốn Đặc San. Các anh và chồng tôi là những người lính Không Quân hào hùng đầy nhiệt huyết. Tôi rất hân hoan, hạnh phúc đi bên anh trong những ngày hội họp của khóa, con cái tôi khi học đến chiến tranh VN chúng rất hãnh diện về sự oai hùng của người Cha thân yêu. Tuy đất nước đổi thay, mỗi người một phương trời nhưng chính các anh đã đan giây nối kết, giăng cầu kỷ niệm để các anh em cùng nhau nắm tay trở về sum họp như đàn chim thất lạc, chia lìa..Nay nhắn nhủ nhau tìm về tổ ấm. Cám ơn các anh trong Ban Tổ Chức thật nhiều.

Trong gia đình, anh tôi là một người lính KQ, tôi có nhiều thiện cảm với bộ quân phục của anh, nhưng không biết nhiều về Pilot KQ. Khi tôi lớn lên vào lứa tuổi tràn đầy ước mơ, e thẹn cũng là ngày tôi đã có nhiều thành kiến với những chàng Pilot lả lướt trước cổng trường học của tôi. Những buổi chiều tan trường, tôi thấy những ông mặc áo liền quần, cổ thắt khăn màu tím hay màu cam lái xe Lambretta đứng chờ ngay cổng nữ sinh có ông chở đào về, còn ông chờ mãi.. Không có ai chở về dùm bắt buộc chạy xe chậm chậm bắt chuyện với những cô nữ sinh đi bộ về nhà. Hình ảnh này tạo cho tôi không mấy thích Pilot KQ. Thật đúng, VN ta có câu: ghét của nào trời trao của ấy! Tôi đã gặp chồng tôi khi gia đình tôi tạm trú tại đảo Wake chờ làm thủ tục giấy tờ nhập cảnh Hoa Kỳ. Một người đàn ông với khuôn mặt bầu bĩnh với làn da trắng tạo nên nét mặt hiền hậu dễ mến. Anh mặc quần Jean với áo xanh sọc đầu đội mũ xanh đậm đứng ngay cửa nhà supply. Qua sự giới thiệu của bạn bè, chúng tôi thân nhau và yêu nhau từ dạo ấy…mọi chuyện dường như đã xắp đặt vì anh cũng là cựu Phi Công. Thời gian sau này khi vợ chồng tôi nhắc đến câu chuyện cũ, tôi gân cổ cãi: lúc em gặp anh anh đâu còn là Phi Công nữa! Anh mặc quần jean mà, anh đâu có khăn quàng mà quần cũng không liền áo. Anh chỉ nhìn tôi cười xòa.

Năm tháng trôi đi thật nhanh, chồng tôi vẫn thường liên lạc những bạn bè cùng khóa. Tôi đã có dịp gặp gỡ các anh chị từ các tiểu bang xa xôi về quay quần bên nhau trong những dịp lễ hay những ngày tổ chức Đại Hội Không Quân, Đại Hội Trực Thăng, ngày liên khóa 72-73. Những dịp này tôi có cơ hội tìm hiểu các anh hơn .Các anh thật vui tính, hoạt bát (có phải lúc trước các anh đã từng nặn óc, suy nghĩ cố tìm chữ văn hoa để tán đào nên các anh khéo nói?). Anh nào cũng có nét đẹp trai riêng, dáng người cao ráo dù cho vùng bụng hơi nở nang theo số tuổi đang lên nhưng nét hiên ngang và oai hùng vẫn còn đậm nét trên mặt các anh. Càng giao thiệp tôi càng mến các anh nhiều hơn.

Những người vợ các anh thật dễ thương vui tính. Chị em chúng tôi rất tâm đầu ý hiệp vì tuổi tác không chênh lệch nhiều nên rất quý trọng nhau như chị em trong nhà. Trong khóa 72 B các anh đã sống kề vai sát cánh bên nhau từ trại huấn nhục, trong đó có anh Lê Mạnh Hiệp, anh Mỹ, anh Sơn, anh Lộc, anh Hồng, anh Thành, anh Tuấn, anh Chúc và anh Út. Đặc biệt trong lính các anh đều đặt tên đệm cho nhau nghe thật bi đát, mới nghe qua tôi bắt chồng tôi giải thích..Vì tôi không hiểu những tên thật kinh hoàng này phát xuất từ đâu? Đôi khi cái tên đệm quái ác gắn liền với người, như anh Hiệp bị gọi là Hiệp mập hay Hiệp Heo vì người anh tròn trĩnh, vòng bụng nở nang như một đại thương gia. Anh Mỹ có làn da nâu được gắn tên Bảy Chà (anh là thứ bảy trong gia đình) .Anh Sơn Thầy Bói, ngày xưa anh đeo kính đen như Thầy Bói hay Tony Hô (bây giờ anh có da có thịt nên hết hô). Anh Lộc Rùa làm gì cũng chậm chạp nên bị gắn tên chậm như rùa. Anh Hồng có tên thật quái ác: Hồng Dâm, mặt anh lúc nào cũng ửng hồng..Như thể sẵn sàng ứng chiến? Anh Thành họ Dương nên lúc nào anh cũng dương..hết! Anh Tuấn Bệu và anh Chúc Ngố không biết hai anh này có ngố và bệu bạo không? Còn ông xã yêu quý của tôi tên Phước Quẹo (anh ở khu Bà Quẹo) các anh đã hỏi tôi xem “cái” của ông nhà quẹo hay thẳng vậy? Các anh muốn chọc ghẹo để tôi mắc cỡ chứ có gì phải hỏi phải không các anh? Của mấy anh như thế nào cái của nhà tôi cũng như vậy thôi ạ.

Thời gian trôi đi thật nhanh, các anh đang bước sang lục tuần, mái tóc đen nhánh phô trương sự hùng dũng, tráng kiện tràn đầy sinh huyết nay đã phảng phất hơi sương..Theo thời gian, mái tóc đen pha lẫn những sợi tóc trắng bạc lấp lánh dưới nắng và linh động dưới ánh đèn màu khi dìu vợ lả lướt trên sàn nhảy. Các anh ơi đừng sợ nhé, các chị hãnh diện lắm đi bên chàng đấy! Màu tóc của người từng trải, kinh nghiệm (đầy mình)..Trên mọi mặt? Các anh đừng thèm nhuộm, cứ để màu pha của Picasso trên tóc..Có lý lắm.

Tôi còn nhớ cách đây vài năm, ngày tổ chức liên khóa đầu tiên 72-73 tại Cali. Rất đông người tham dự. Buổi lễ diễn ra thật hoàn hảo, thành công rực rỡ. Lần đầu tiên tôi chứng kiến nghi lễ rước Quốc Kỳ, các anh mặc đồng phục trắng cầm cờ thật trang trọng uy nghiêm. Nhạc Quốc Ca VN vang lên thật hùng hồn như nhắc nhở mỗi công dân VN yêu nước hãy đứng lên đấu tranh cho quê nhà. Đến bài Không Quân Hành Khúc lời ca hùng dũng..Ta là đoàn chim bay trên không trung... bài hát làm máu và nhịp tim trong người tôi chảy nhanh và đập mạnh hơn.bàn tay nắm chặt, mắt hướng theo mây khói trên nền trời như các anh đã từng mang cánh chim sắt bảo vệ giữ gìn quê hương ngày nào. Màn slide show đặc sắc, hình trắng đen chụp khi các anh còn trong trại huấn nhục, người nào cũng đen, gầy nhưng vẫn nở những nụ cười thật vui bên nhau dưới ánh gay gắt của quân trường. Kế tiếp là hình ảnh các anh thực thụ điều khiển những con chim sắt ,những chiếc Trực thăng , F-5, F-37, Cessna lả lướt trên nền trời xanh mây trắng quyện theo nhạc đệm thật oai phong. Cám ơn các anh 72-73 đã tổ chức thật chu đáo và tạo điều kiện cho anh em từ xa gặp gỡ nhau đồng thời các chị có dịp nhìn thấy nghi lễ và những hình ảnh quý giá của các anh đã một thời hy sinh thân mình bảo vệ quê hương Tổ Quốc.

Ngày họp mặt liên khóa 72-73 kỳ II tổ chức tại Virginia thật hoàn hảo, công phu và kỷ niệm không bao giờ quên. Các chị trong ban tổ chức đã bỏ nhiều thời gian tập dợt những bài hợp ca rất hay, áo dài màu xanh đồng phục duyên dáng lộng lẫy làm tăng vẻ đẹp thùy mị của các chị. Màn biểu diễn tân khóa sinh rất linh động và hồi hộp.. Màu áo cứt ngựa tân binh trên vai đeo nặng trĩu bao dụng cụ cá nhân, mỗi lần bị phạt nhẩy xổm phải đội bao này lên đầu nhẩy như con cóc vậy..Thấy thương quá chừng. Từ trước tôi chỉ nghe nói bây giờ mới chứng kiến..Thật cảm động. Màn biểu diễn chấm dứt, chúng tôi đứng lên trao tặng các anh tràng pháo tay thật lớn như không muốn dứt vì quá hay và thương các anh nhiều… nhiều lắm. Các anh đã biểu hiện tinh thần chung, đoàn kết mang đến buổi họp mặt rất thành công và nâng cao tình đồng đội năm xưa. Thật đáng kính.

Lần họp mặt lần này đòi hỏi rất nhiều thời gian tập dợt, từ màn tân khóa sinh bị phạt đến những phần Văn Nghệ đặc sắc, các anh BTC không quên sự có mặt của các chị, các anh đã trao tặng mỗi người một pin cài áo ở giữa in hình hoa màu hồng nhạt, chính giữa hình trái tim màu đỏ tươi có câu: To my other half with love& honor. Các anh ơi... hãnh diện quá! Cám ơn các anh thật nhiều. Khi tôi đón nhận pin này tôi cảm động đến chảy nước mắt…hôm ấy tôi lên có lời cám ơn các anh trong BTC nhưng nghẹn ngào nói chẳng nên lời nay lòng tôi được trải lên trang giấy để gửi đến các anh trong BTC lời cám ơn vô tận.

Năm nay 2010 tháng bảy là tháng hội họp dựa vào mùa lễ Độc Lập Hoa Kỳ , anh em trong BTC được dịp mở rộng bàn tay chào đón những anh em khắp nơi trở về đoàn tụ nhắc lại những kỷ niệm xa xưa ..Một thời vang bóng. Một buổi tổ chức rất công phu. BTC đã hy sinh thì giờ riêng tư làm việc cho hội nếu không có việc làm cao quý này chúng ta không có dịp gặp nhau. Các anh ơi đây là món ăn bồi bổ tinh thần vô giá. Thời gian là người bạn không mời vẫn đến, không đuổi vẫn đi.. Đôi khi gặp nhau chúng ta quá vui mừng muốn níu kéo thêm thời gian nhưng nào đâu giữ được. Do đó các anh muốn tăng tuổi thọ nên tổ chức thường xuyên rất có lợi cho sức khỏe và chính liều thuốc bổ không cần toa là động lực thúc đẩy BTC kêu gọi các anh em gặp nhau trong ngày Hội Ngộ.

Thân mến chào tất cả các anh trong liên khóa 72-73 đã cho tôi cơ hội cám ơn cùng bày tỏ lòng tri ân và lời tâm sự cùng các anh.

Kim Quy

hung45qs
10-08-2010, 01:23 AM
Cho những CÁNH CHIM không còn VÚT BAY...

Thứ bảy, 21/03/2008 13:00 pm

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286501588.JPG

Quỳ gối xuống _ nữa cánh chim gửi lại
Đứng lên đi _ hai cánh rộng xoè bay
Mang trách nhiệm từ đây hai vai nặng
Nợ tang bồng hồ thỉ viết vào tay...

... thế là chúng mình chẳng còn dịp đọc lại những câu ấy nữa phải không các bạn _ Air Cadets, seventy-five-oh-eight TH55A... tao không phải là người thích dẫm chân lên hiện tại, bước vào tương lai với hành trang là một túi đầy ắp quá khứ vác nặng trên vai... nhưng lại post entry này như một hoài niệm dành cho con cháu thay cho lời cổ tích của cha ông & cũng để thực hiện lời hứa với thaonguyen nhân buổi họp mặt thường niên của chúng mình trên Biên Hoà...
... ngày đó, thời buổi loạn ly chinh chiến, dù ở bên này hay phía bên kia, tuổi trẻ vẫn phải lên đường... những chàng tuổi trẻ, (nhưng chưa chắc) vốn dòng hào kiệt ... nhưng vẫn phải xếp bút nghiên theo nghiệp kiếm cung ... ba tháng Nha Trang nhọc nhằn huấn nhục, nhưng cũng vui với "tứ khoái profile":
Ăn cơm Nhà Bàn
Ngủ sàn Thiên Nga
Đ... gái Thành Nha
I... cầu Hoàng Yến
Thân trai tứ chiến
Dãi nắng dầm sương
Dẫu có phong sương
Cũng tròn Tứ Khoái...
... Rồi đêm lột xác cũng đến, nhọc nhằn lần cuối, áo thấm đẩm sương đêm lẫn mặn chát mồ hôi, ngồi đợi vầng dương xuất hiện cho cặp alpha bắt đầu ngời trên vai áo...
... ngày phép đầu tiên, chàng SVSQ lớ ngớ ra thành phố biển NT, ngơ ngẫn không biết xử lý ra sao khi cái nón képpi bay vèo ra khỏi đầu vào tay đứa con gái thành Nha... đang cười khoái chí còn vứt ra sau cho chàng cái hôn gió chọc quê!... thôi đành chịu phạt "hậu lột xác" vậy!...
... ba tháng sau, chuyển về trường Sinh Ngữ Quân Đội, chuyên luyện Anh văn, đợi ngày du học... ơ hơ!... gần nhà quá ta... thế là từ một SV tác phong kỷ luật nghiêm chỉnh, chàng tập tành leo rào, vượt chướng ngại vật... để được về nhà: mọi kỷ thuật ẩn nấp, ngụy trang...thời còn đi hướng đạo sinh được chàng áp dụng để qua mặt quân cảnh... không từ luôn những thủ thuật tình cảm ... hehe... ...
...nhớ nhất vẫn là kỷ niệm dzí đại uý Lãm trưởng trại Tent-City, dân bộ binh... kg hiểu sao lão rất ghét dân KQ... hôm ấy, mình áp dụng chiến thuật tâm lý _ nơi nào gần mặt trời nhất, nơi đó an toàn nhất... và mình chọn nơi vượt rào cạnh văn phòng đại uý Lãm... nè nha! Hãy quan sát... một khoá sinh Hải Quân leo qua và... thoát... đến phiên mình, được phân nữa rào rồi... chết mịa! Đại uý Lãm đang đứng chống nạnh, cười đểu, tay quắc quắc... lại đây em! hềhề... bộ não mình lúc đó bắt đầu ép xung overclock... đằng sau lưng mình xuôi theo chiều xe jeep của lão là cổng gác của tiểu đoàn 6 Quân Cảnh & lính của Bộ Tổng Tham Mưu... bề ngang đường không đến 5m, còn khuya mới quay đầu kịp mình... thế là giả bộ riu ríu tiến đến xe jeep, lão cười đắc thắng bước lên xe trước... kakaka, ta chỉ đợi có thế mà thôi!... 100m nước rút cho tui... bay dzô cái ào, vào trong cái bar... chui tận buồng của mấy em... nghe tiếng xe thắng gấp, tiếng lão hét hỏi: có thằng SV nào chạy vào đây hok?... không có đại uý ơi _ em đang ôm mình trả lời... hìhì... thoát nạn...
... nhưng mà, đi đêm có ngày gặp ma... hôm leo rào chắn B40 qua sân golf, tiếng súng chỉ thiên bên TTM nổ đì đùng, núp dzô trong khoảng 30'... chắc ăn rồi, bước ra... 2 họng M16 chỉa ngang hông, bước lên xe jeep, 5 em ngồi trước mình gòy, đích thân Đại Tá Huỳnh Vĩnh Lại _ Chỉ Huy Trưởng Trường SNQĐ đi bắt để chấn chỉnh lại quân phong quân kỷ nhà trường... thôi rồi kỳ này chắc tiêu tan đời binh nghiệp... nhất là vừa mới đậu off-shore để đi Mỹ...
... hay chẳng bằng hên, trong 6 tên có tên là cháu của Tôn Thất Đính, nên không bị loại ra khỏi quân chủng... và hên hơn nữa Bô Tư Lệnh KQ lại gọi dzìa cho tài khoá mới sang Mỹ học...
... Rồi thì... đi cho biết đó biết đây, ở nhà dzí mẹ biết ngày nào khôn... thế là cũng biết đất rộng, trời cao... cũng tập tành làm người xa xứ...

DLI_LACKLAND AFB...(cho những CÁNH CHIM không...)


Thứ bảy, 27/03/2008 13:02 pm


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286501816.JPG

... Thế là ta lên đường... tiển đưa không chỉ có gia đình mà còn 3 em mặt ngầu... như bà Smith sữa soạn bấm mìn nổ, thịt ông Smith... mà mình nhớ đâu có cho ai biết ngày lên đường đâu ta?! ... thyanh thì mang cặp mắt kiếng đen to đùng nhưng không dấu được 2 dòng nước mắt đang chảy, ngập lụt cả phi trường ... thloan & kimxuan thì khoanh tay, mặt hầm hầm, như đang đói... bị ai giựt mất ổ bánh mì ... tớ đành im thin thít nép mình vào hai đấng song thân ...
... rồi cũng tới giờ cất cánh... chiếc C 141 Lockheed _ Starlifter 4 động cơ phản lực theo chuyến bay P2T2/04; xuất phát từ Bangkok ghé qua phi trường TSN để đón bọn mình... cánh cửa phi cơ khép chặt... chợt bỗng thấy như đã xa xăm, dù phi cơ vẫn còn trên đất Việt... chung quanh ngoại trừ 18 tên SVSQ/KQ/VN, chỉ toàn người ngoại quốc...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286501888.JPG
C141 Starlifter

... hihi... bi jờ bắt đầu áp dụng những gì đã học từ ngôn ngữ đến cách ăn uống, giao tế, etc... & thực tế thì vẫn còn một khoảng cách với lý thuyết:... cô tiếp viên dễ thương đưa ra menu hỏi mình dùng gì?... uh thì cũng như bạn bè kêu một món dễ nhất cho người Việt mình thôi _ Fried Chicken... rồi thì _ theo đúng bài bản: nĩa tay trái, dao tay phải, bắt đầu vật lộn với cái đùi gà to đùng... xong, nhưng sao miếng xương vẫn còn nham nhở những miếng thịt không rời... những đĩa của người nước ngoài thì xương sạch boong, láng coóng... liếc sang tên Mỹ bên cạnh còn đang ăn... xời ơi! Có dùng dao nĩa gì đâu?!... Bốc tay không, ăn xong còn mút tay nữa chớ... uhm! Phải thực tế, thực dụng như thế thôi!...
... Sau hơn 30h bay, lần lượt ghé qua sân bay Clark của Philippine, Guam, Honolulu... phi cơ đã đáp xuống phi cảng quốc tế San Francisco... Ah! Nước Mỹ là đây...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286501943.JPG

Ngày xưa mình cũng ăn ảnh quá đi chứ... còn bi jờ chắc ảnh nó ăn mình... hìhì...

PhiLan

hung45qs
10-09-2010, 02:43 AM
CHO TÔI YÊU LẠI TỪ ĐẦU


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286592478.JPG

Buổi họp mặt tân niên của khóa AC 73F vào ngày mùng sáu tết năm con cọp thật vui và tràn đầy xúc động, lần đâu tiên được tham dự với các niên trưởng, tôi thấy như mình đang sống lại những ngày còn thơ. Cả một đám cận kề “sáu bó” mà cứ như đám trẻ con tiểu học trên sân trường vào ngày đầu năm học

Các anh ồn ào đến nỗi “chủ xị” phải cầm micro hét toáng lên “AC73F họp mặt hay họp chợ ?”, nhưng cuối cùng cũng đành thông cảm cười trừ vì cả mấy chục chàng trai ưu tú của quá khứ này ngày xưa đâu phải ở cùng barrack với nhau, và cũng đâu phải cùng thân thiết với nhau, mà trong đó có những người cùng nằm cạnh giường của nhau, có người cùng nhóm huấn nhục với nhau, có người cả hơn ba chục năm mới gặp lại nhau lần đầu tiên, dù khóa đã có nhiều lần gặp mặt, thế nên khi gặp lại cố nhân là vội vàng nhào đến nhắc nhau những kỷ niệm mà trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn những tưởng các anh đã không còn nhớ nữa.

Có nhiều anh trông vẫn còn phong độ, nụ cười vẫn còn mang dáng dấp hào hoa của một binh chủng hào hùng, nhưng cũng có những anh thật chân chất nông dân, nếu không gặp trong khung cảnh này chắc là tôi không thể nào hình dung nổi. Sự chân chất thật thà đặc trưng của người nam bộ khiến khi nhìn mình rưng rưng muốn khóc, rưng rưng thương nhớ một thuở vàng son đã thoáng chốc vụt bay.

Những anh em gặp nhau hôm nay, mỗi người hẳn đã chất chứa trong lòng những nỗi niềm riêng không sao nói hết, dù có nhiều anh giờ nhà cao cửa rộng, vợ con hạnh phúc đề huề, nhưng tôi cũng đọc được đâu đó trong những đôi mắt thoáng buồn nhớ về quá khứ, khi nghe các anh nhắc lại những kỷ niệm một thời ở quân trường, những ngày huấn nhục tưởng đã không còn nhớ nữa.

Nghe các anh nhắc những kỷ niệm, những ma mãnh của một thời tuổi trẻ, những anh chàng ngày xưa được cho là “chân chỉ hạt bột”, nghe Bình nhắc chuyện nhờ anh Sơn viết thư tán gái dùm, lúc ra về nghe “nhà mình” nói: “anh Sơn hồi xưa cũng giống anh, không có thư bồ nên mới viết thư dùm thằng khác cho đỡ ghiền, anh cũng vậy, hồi đó mong thư em gần chết mà bà đâu có thèm viết cho tui, nghe ông Sơn nói không, huấn nhục khổ hơn con chó, nhiều khi khóc lên được, chỉ có thư người yêu để chia sẻ, vậy mà bà ở sài gòn lo chuyện gì đâu không, “chờ thư bà dài cả cổ” mà mình thấy thật tội lỗi, có biết chuyện đó đâu, anh cứ có tật cái gì cũng không chịu nói, anh Sơn nói “ Thằng Tân ồn ào lắm, nó là người của đám đông chứ không phải như anh, anh thì thích những cái gì trầm lắng. . .”

Người của đám đông ơi! Anh có bao giờ nói, có bao giờ chịu chia sẻ với em đâu- Từ những ngày học cùng mái trường Nguyễn Công Trứ, những ngày yêu nhau, khi tự nguyện đi Không Quân anh cũng không hề nói với em, và cả bây giờ nữa, những nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh anh cũng tự gánh vác một mình.. Hôm nay em mới biết một chút xíu những ngày gian khổ của anh.

Những ngày hào hùng của một thời trai trẻ đã thóang bay đi, ba mươi lăm năm như một cái chớp mắt phải không anh, chúng mình già hết cả rồi, nhưng như lời hát của Ngô Thụy Miên mà em muốn gửi trao anh trong buổi họp mặt tân niên đó “Dù cho mưa, em xin theo anh đến hết cuộc đời...,

Không chỉ mưa đâu, mà cho dù bão táp phong ba, dù cho đời ta rồi trôi dạt, dù em phải trầm luân hết kiếp này chăng nữa thì em vẫn cứ yêu anh... Yêu anh mãi mãi cho đến tận hơi thở cuối cùng của đời em, bù đáp lại những ngày huấn nhục mà em đã không hề biết đến.

Cám ơn các niên trưởng, cám ơn ngày họp mặt, nhờ câu chuyện hôm nay mà em thấy yêu” nhà mình” hơn, và ước gì thời gian có thể quay trở lại để em “ Xin yêu lại từ đầu . .”

Phạm thiên Thu

hung45qs
10-09-2010, 06:53 AM
Chuyện Đã Lâu Rồi Bây Giờ Mới Kể…Theo Trí Nhớ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286607323.jpg

Hồi xửa, hồi xưa 1972… khi tôi mới vào ngõ cụt Phi Dũng. Sau mấy tuần huấn nhục, có mấy đàn anh tốt nghiệp Phản Lực cơ A37 ở hải ngoại về, khoảng một chục mạng. Mấy con ma mới nầy mon men đến hỏi thăm:

“Niên trưởng, cho đàn em biết, vậy chớ các ông học hành bay bổng như thế nào??

Tay nào cũng trắng trẻo đẹp trai, lịch lãm như Mai Ngọc Trai khoá tôi cả. Có tay trả lời:

“Trực Thăng hay Phản Lực mình đâu có chọn. Chính số phần đã chọn cho mình. Học bay và tốt nghiệp như là chuyện hên xuôi mà. Có những đứa rất đẹp trai, nhưng chưa chắc không gian đã chọn hắn. Có những tay nhà quê ở miền Tây, Mỏ Cày….nhưng lọt vào cặp mắt xanh của không gian và thích hợp với mây trời…mấy em gái hậu phương mê nó như em Oanh Sún mê Huỳnh Thanh Hải vậy…”

Tên nào có số “Trời Sanh Ta Ra Để Bay” như Lưu Khải Minh thì chẳng nói gì. Còn như C.B Phan Việt Quốc Vận và Nguyễn Hoàng Tân thì phải còn xét lại….

Hãy xem cái tướng của hắn kìa. …Phi Công hả??!!!! Trời hởi! Nó chỉ có một khúc hà. Không biết hai ông thần nầy có “chè lá” với BTLKQ phòng khám nghiệm y khoa không??? Có lần Trần Lâm Già Dịch ở Vancouver hỏi:

“Ê Tân Già! hồi đó lúc khám sức khoẻ gia nhập, mầy có đứng trên vài chục tờ “giấy con cọp ” không mà đủ thước tấc vậy?? ”.

“Trùi ui! Tao mà không sợ ở tù, tao sẽ xé mầy ra từng mảnh, tao sẽ vác M16 cho mầy một bài học, để mầy câm cái mồm mầy lại được không Lâm GD. Tao có lùn đó, nhưng ông Lữ cho tao pass, thì mầy còn théc méc cái nổi gì. Có thằng xấu trai như mầy, mà có chiều cao lý tưởng, cũng chẳng làm ăn gì đâu”.

“Phải hông? Mầy xách M16 mà có biết lên đạn không, coi chừng kéo lết cái bá súng, vì nó cao hơn mầy, thì làm sao mà bắn. Lúc học giai đoạn 1 ở núi Sạn thì trốn tập bắn. Mầy lấy cây chổi chà rượt, thì họa may tao sợ. Chứ chưa chắc biết bắn súng đâu”.

Hmmm. Chèn ui! Câu nói ấy ám ảnh tôi gần 4 thập niên, vẫn chưa nhúc nhích gì cả. Mỗi lần đứng trước gương, tôi chẳng thấy mình lùn tí nào…cao đến 1 thước 63 phân đó. Tại sao hắn ăn mắm, ăn muối nói xấu, nói bậy bạ “Phi Công Hào Hùng Độc Đáo của K.L.V.N.C.H”. Có lẻ mình “đẹp trai” nên nó ganh tỵ chớ gì…..

…..Trong phòng lab , tôi liếc quanh quẩn bốn hướng, quẹt cho đầy trang giấy, và trả lời đủ 100 câu ECL , được 65 điểm…. Bà mẹ nó… chó táp phải ruồi. ….Phen nầy du học là cái chắc….

…Ba tháng sau… rồi 6 tháng, không có tài khoá du học. Điểm ECL dần dà theo ông theo bà đi hết rồi, phải thi lại. Đến chừng có tài khoá thì thiếu điểm…thi rớt. Bọn tôi gọi đó là ECL lèo…

Thôi chắc phải “gôm ống quần” rồi. Tôi “vọt” đã 10 ngày không trình diện. Coi như chỉ thêm vài ngày nữa thì cuộc đời tôi sẽ là một hướng đi khác. Hướng mà mình chưa bao giờ mong đợi, nghe sao mà chua như khế. Vì 15 ngày vắng mặt, sẽ bị báo cáo đào ngũ. Ra “Bộ Binh”, “Ở Tù”, “Trại Tương Lai”, “Thặng Số”. Trời hởi! Những từ ngữ nầy không có một thằng SVSQ nào muốn nghe đến. Trại Tương Lai là trại nằm chờ cho Tương Lai quyết định thế nào cũng được, chứ không phải do mình định. Trại Tương Lai là trại không có tương lai tí nào cả. Nhưng tôi không còn con đường nào để chọn nữa.

….Tôi lang thang ở chợ Sài Gòn, gặp Trung Uý Nguyễn Văn Năm, Sỉ Quan Huấn Luyện Trường Anh Ngữ Quân Đội. Ông rất quý tôi, hay coi tử vi cho mấy đứa nầy. Ông ta rất lạc quan về số phận của mấy ông thần khoá 72 A nầy. Nên thường hay xem quẻ tử vi trong giờ rảnh. Ông bảo có lúc, ông đã đoán vận mạng của mấy vị chỉ huy, lần nào cũng trúng cả. Hỏi thăm cớ sự, ông mới bảo:

“Ngày mai vào trại, chú mầy có tên trong danh sách thi “off shore” đấy. “

Tôi bảo “ Em trốn 10 ngày rồi, vào trại không được, đàng nào thì Trung Uý Ba trưởng trại “Tent City” sẽ bắt nhốt. Em vắng mặt bất hợp pháp. Làm sao đi thi??

Ông Năm bảo: " Chú mầy ngồi sau xe Honda, tao chở thẳng vào trường Anh Ngữ. Ai mà bắt được mầy. Thi xong chịu khó ngồi Conex cho nó đếm quân số, đậu thì đi Mỹ, rớt thì cũng đã ngồi Conex cũng sướng thôi!!! Cũng nở được bề ngang…."

Tôi thưa “Em lâu rồi không dò bài, làm sao mà qua nổi điểm Off Shore ông thầy??”

Ông Năm “Chú Mầy quên là tao đoán tụi bây có số du học sao???”

Tôi đáp “Thôi được, có ông thầy ra tay cứu mạng, thì ngày mai tôi đứng ngay Ngã Ba Chú Ía đón ông, làm phước chở tôi vào cổng trường Anh Ngử. Mối thù nầy tôi không bao giờ quên”.

Y như rằng, tôi đứng tại điểm hẹn, sáng sớm ông Thầy Năm lù lù tới, tôi liền phóng lên yên sau ngồi, vào cổng Trường Anh Ngữ êm ru, như thằng trốn quân dịch.

Trong phòng thi, mồ hôi ra đầy cả người, tay chân bủn rủn, sợ bị nhốt bất tử, sợ không làm bài được. Sau cùng chuyện gì đến rồi cũng đến. Anh Mỹ trắng mở phong bì ra đưa cho mỗi đứa một tập bài thi. Coi như đề thi quá bí mật, đến giờ chót mới biết.

Lần thi nầy là lần thi sau cùng của tôi. Đủ điểm thì cuộc đời khác hẳn, nếu thiếu thì cuộc đời vẫn nhàm chán như tự bao giờ.

Không lẻ ông Năm gỏ lộn mu… rùa hay sao, mà quẻ của tôi lãng đến thế, bây giờ thì chỉ có chó dẫn đường, chứ tài gì mà tôi thi đủ điểm..

Thi xong, tôi xếp hàng trở về Địa Ngục Trần Gian “Tent City”. Tôi vào hàng trở về trại. Đếm xuôi, đếm ngược, dư một tên.

Trung Uý Ba phán rằng: “Ai mới vào trại bước ra khỏi hàng”.

Tôi đưa tay lên chào:” SVSQ Nguyễn Hoàng Tân, số quân 73/606502 có mặt.”

Ông Ba: “Thượng Sỉ Mười đâu, cho anh nầy lên tới ốc o, và bỏ vào Conex lập tức.”

Án lệnh đã ra, Thượng sỉ Mười, dẫn tôi vào Conex không một lời từ giả. Nhưng không quên dùng tông đơ, để một đường thẳng từ cạnh lổ tai đến đỉnh ốc ở trên đầu.

Trước khi thi hành “án lệnh” tôi vẫn không quên nói với Trần Trung Tín

“Tín à! Làm ơn nhớ rằng tao vẫn còn ở Conex nhé. Mầy phải nhắc nhở Trung Uý Năm. Khi nào có kết quả thi off shore thì báo cho Ông Năm biết. Đậu thì báo. Còn rớt thì thôi, Hãy nhớ rằng tao đang bị ở tù nhé.”

Số phần của tao, chắc chọn Conex là quê hương thứ hai rồi. Cái đầu tóc bị cạo tới ốc o, lần nầy sao mà xú quẻ quá, ông Ba chơi tới ót, làm sao mà đội nón.

“Phạn xá chiều nay buồn tê tái
Anh âm thầm vác sắc tới trường bay”

Hay

Phạn xá chiều nay buồn tê tái
Ánh lửa tù đốt cháy cả tương lai”

Mấy câu thơ mà khoá đàn anh viết lại, để chọc quê các đàn em trong các Conex từ Nhatrang về Sài Gòn, để mỗi lần có đàn em nào nhập thất, biết được đời cay đắng như thế nào. Không biết mấy câu thơ trên của ông thần đàn anh nào, viết lên lúc ngồi Cải Hối Thất sao mà nghe thơ mộng quá, y như là tù chung thân vậy.

…Ngày một, ngày hai, rồi một bửa nọ thằng Tín báo:

“Mầy OK rồi, xém bị cháy đít (đậu sát nút)”.

Rỏ ràng quẻ ông Năm linh thiệt, tôi pass off shore mắc me. Trúng lọt lưới qua khỏi địa ngục trần gian “ Tent City ” . Thầy Năm ơi! Mu Rùa của thầy linh còn hơn ….

Ông Năm nhắn: “Hãy ngồi tù chơi thêm mấy ngày nữa, chờ cho đến khi có Sự Vụ Lệnh của BTL thì sẽ mãn hạn tù. Chuyện Conex là chuyện nhỏ, xử nội bộ trong trại cho vui thôi. Chừng nào, bị nhốt ở Cải Hối Thất Sư Đoàn kìa, mầy là SVSQ thì chuyện tù rạt nầy là chuyện nhỏ như con thỏ.” (Thầy Năm, nếu Thầy đang xem những dòng chữ nầy…nơi cỏi xa xôi nào đó… thằng Tân xin chúc thầy an lành…)

Tôi được Lưu Khải Minh tặng cho mấy điếu Bastos Xanh. Châm điếu thuốc sau cùng trong Conex, rồi không biết thuốc lá đâu nữa mà đốt, chừng nào mới rời hoả ngục nầy. Chà! Nếu ông Năm quên, mà thằng Tín cũng không nhớ, thì đời tôi đen như mõm chó.

Chính ông Ba phải mở tù cho tôi ra, vì Sự Vụ Lệnh củ BTL cho phép tôi “phóng thích”. Không bị khống chế bởi “khách sạn 5 sao của ông Trung Uý Ba” nữa.

Đáng lẻ tôi nhập khoá cùng với bọn 7504 ở Sheppard, nhưng cũng tội tà tà nên ra trường khoá 7506….

Trước ngày du học, tôi có gặp bạn già Nguyễn Thanh Tòng, hắn bảo:

“Mầy nhớ mua cho tao cái nón kalo size số 6, và cái hộp quẹt Zippo, làm kỷ niệm”

Tôi vẫn còn nhớ lời bạn già năm xưa nhắn nhủ. Thế mà khi trở về vào tháng 2 năm 1975. Khi đến tìm Tòng (cây Xăng Shell đường Lê Văn Duyệt). Bố hắn bảo rằng: không thấy nó trở về sau 1975….Tôi cầm món quà định tặng cho Tòng mà lòng ngậm ngùi, sau nầy giữ lại cho chính mình, mà ngỡ như món quà kia chính Tòng đã tặng cho tôi vậy.

…Tôi và Trần văn Lợi (Guitarist), Nguyễn thanh Minh (Minh Mỏ Cày). Ba thằng nằm dưới trướng của ông thần Ortiz. Ông thần nầy dạy T41 ở Hondo, tánh rất cao bồi, có lẻ lạnh cẳng nên Ortiz chỉ vớt một hoặc hai khoá sinh, còn lại bỏ rơi rớt chẳng ngại. Tôi nằm trong số bị đánh rớt, vì đã không solo sau 20 giờ bay huấn luyện. Khoá nầy lên Sheppard nhập vào khoá 7504. Tôi có biệt danh là “Thằng Tân bay từ trong Board bay ra”.

Tôi bị đánh rớt bay và coi như ra hội đồng kỷ luật, chờ ngày về nước. Ôi buồn 5 phút.

Đang đứng tần ngần ngoài lang cang trường bay Hondo, sau khi phi vụ bị suspend, vì ông thần Ortiz không thả solo theo thời gian ấn định.

Một tay Đại Uý đẹp trai, tên Marc Marchessault trong trường bay, ít có SVSQ nào biết nhiều về tay nầy, đi ngang và hỏi tôi, sao thấy buồn quá vậy.

Tôi bảo, thôi có lẻ đời bay bổng đến đây là chấm dứt.

Ông ta hứa rằng: Nếu ra Board, không nên ký vào giấy chấp nhận của Hội Đồng. Thì ông ta sẽ giúp tôi bay trở lại. (Sau nầy tôi dùng first name của ông làm tên mình đến bây giờ).


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286607927.jpg

….Một lần nữa tôi lang thang, lần nầy không phải là chợ Sài Gòn, mà Winns thuộc San Antonio, Texas (1973). Captain Marchessault tới tận shopping tìm tôi và bảo rằng: Vì tôi không ký vào quyết định của Board, nên tôi được phép đứng ngoài vòng kềm toả, kể cả Sĩ Quan Việt Nam mình, không làm gì được tôi. Dạo đó Thiếu Tá Duy có mặt trong phiên xử của tôi. Ông Duy rất khó chịu, khi tôi từ chối ký tên. Định hăm dọa phạt nặng vì cho rằng tôi bất tuân, tức là vô kỷ luật. Nhưng ông không biết, vì tôi có Marchessault đã back up.

Tôi được đi xe riêng với Marchessault mỗi lần đến trường bay, ông dàn xép tôi thêm 3 rides nữa và hứa thả solo.

Trời ơi! Cuộc đời sinh viên sĩ quan phi hành chỉ chờ đến giây phút nầy thôi. Thả solo thì mới sống trong làng bay, không solo thì coi như xù cả cuộc đời.

Sau 3 rides, ông cho máy bay vào ramp, bôm thêm xăng, và đưa cho tôi thêm cái flight guide. Cẩn thận kéo ghế phải ra phía sau, buộc seat belt vào ghế trống bên phải.

Và bảo rằng: “Mầy đi đi, chúc may mắn. Nếu 30 phút sau mầy trở lại, thì tao có thêm thằng bạn, nếu mầy đi luôn thì tao mất thằng học trò…”

Tôi théc méc hỏi tại sao….ông không trả lời, lặng lẻ tiển tôi taxi ra phi đạo.

….Bây giờ là giờ thứ 25, cuộc đời phi hành xét ra cũng huy hoàng đó. Nhưng có ai biết được những lúc cô đơn như thế nầy, biết ngỏ cùng ai. Lòng vui tràn đầy hạnh phúc, nhưng vẫn lo sợ. Không biết mình có làm vừa lòng con chim sắt nầy không? Không biết không gian có đãi ngộ mình không? Không biết mình chọn mây trời là chuyện số phần hay là nghiệp dử. Thôi thì hãy làm công việc, mà bao nhiêu chàng trai miền Nam tuổi đôi mươi, thuở bấy giờ mơ ước…..mà chính mình cũng từng mơ ước. Hãy ráng sống với mây trời một lần xem sao. Bây giờ, trên không, một mình ta…Trời ơi! Sao tui oai quá vậy nè….

Người yêu ơi! Anh đang làm người hùng nè em ơi! Không biết rồi đây, vài mươi phút nữa anh sẽ trở lại “in one piece” hay là đây là lần đầu nếm mùi không gian, cũng làn lần cuối giả từ không gian, cái mà mình yêu quý nhất đời, tợ như giấc mộng đẹp……

Kéo qua, kéo lại cái sừng trâu thử hướng gió, nhìn đằng xa, phía trước phi đạo thẳng băng, gió hiu hiu, ngọn wind sock lững lờ như gà chết. Thì ra, đó là thời tiết lý tưởng nhất của mấy chàng solo.

Tống hết gas, mặt đất dâng cao… dâng cao.. Rồi không còn nhìn thấy phi đạo và đường chân trời nữa. Lòng bối rối như lần đầu ngồi cạnh người yêu ở bải biển Nha Trang. Không biết phải làm gì. Ngồi gần nàng, mà tim hồi hộp, xa nàng thì buồn thảm, Đời người mâu thuẫn, thật là những chuyện ngớ ngẫn, xa thì mong chờ, gần thì hồi hộp, run sợ. Bây giờ sao không dám tỏ tình với người đẹp T41….Những động tác trên không, đã được học thuộc từ lâu rồi. Tôi lăng xăng như cái máy, không còn một khoảnh khắc mơ màng nào khác nữa.

Ai đã từng solo đầu tiên, nếm mùi không gian và mây trời, sẽ thấy con người mình sao quá bé nhỏ, nhỏ bé và e dè như đang nâng niu vật gì vô giá, chỉ sợ đánh rớt làm hư hao cả đời người. Giờ nầy, trên buồng lái chỉ một mình ta, đáng lẻ ra, muốn làm gì thì làm. Nhưng, chỉ vì một mình ta, nên không dám làm gì cả!! Vì con chim sắt sẽ vô tình bất khả dụng, khi có những động tác không thuộc sách vở. Chỉ dám đụng tới những gì đã căn dặn, dạy dỗ nhiều lần, trước khi rời mặt đất.

Flare!….Flare!…đùng!.. ành!…. hai bánh sau con chim sắt chạm đất touch and go trên phi đạo, sau hai lần vòng quanh Pattern. Sau cùng hạ cánh an toàn trên phi đạo. Kể từ nay tôi làm cuộc đổi đời.

Ra khỏi con chim sắt T41, chân cẳng tôi không bước đi bình thường được, ông Thầy bảo:

“Bây giờ tao có thêm thằng bạn nữa. Vì tao là Pilot mầy là Pilot, tao mầy là bạn…Còn như mầy đi luôn, mà chưa có cánh, thì tao vĩnh viễn mất thằng học trò…”

Thằng Vận giấu cái tông đơ ở đâu chẳng biết, nó chơi tôi một cái tới ốc o. Nó lấy chai Coca đựng nước lạnh, đổ vào người của tôi. Nó bảo:

“Ở đây không có bồn tắm, vòi nước, tắm bằng chai coca để làm lể “tẩy trần” vậy.”

Ước mơ nào rồi có lúc cũng thành sự thật. Bây giờ nhớ lại, thà cho tôi được đứng ngoài vòng ước mơ của mình, để chưa bao giờ biết yêu mây trời, chưa bao giờ vắng mây trời, để đời tôi sẽ không bao giờ nhớ mây trời….chuyện thời hoa niên, thời mà ngày tôi đạt được ước mơ, cũng là ngày bắt đầu sự cay nghiệt, buộc phải bỏ cuộc, khi tuổi đời chỉ mới 23. Trời ơi! Hãy cho tôi quên đi quá khứ, hãy chôn vùi những kỷ niệm xa xưa, để tôi vẫn còn là mình, cho dù tôi đã tự hiến dâng đời mình cho không gian và mây trời.

Giống như ai đó đã từng nói một câu bất hủ, hình như CB Nguyễn Ngọc Châu Phòng thỉ phải, hắn là người Phi Công Boeing 747 Tài Hoa của khoá 72 A nói rằng:

“Bạn có thể đem tôi ra khỏi Không Quân. Nhưng bạn không thể đem Không Quân ra khỏi tôi được”.

Không gian bây giờ nó xa lạ làm sao ấy. Xa lạ như tôi chưa bao giờ từng ôm ấp trên tay cái “Sừng Trâu” để được sống với nó ở đầu đời, và xin được chết với nó ở hởi thở sau cùng.

Thì ra vào nghề bay là một chuyện hên xui. Mấy ông đàn anh nầy nói bậy bạ thiệt là đúng.

Tân Già 72 A

hung45qs
10-10-2010, 04:45 AM
CHUYỆN ÔNG GIÀ NOEL KHOÁ 4 HTTT
PT-Version


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286689396.JPG

Được lệnh bay công tác cho Dome Petroleum, một hãng sản xuất và tìm kiếm dầu hoả offshore ở vùng biển Beaufort Sea, thuộc miền Tây Bắc Arctic Canada, một địa danh của người dân Eskimo; thành phố có tên là Tuktayotuk, dân cư ở đây người ta gọi tắt là Tuk ! Cầm phi lệnh trên tay, tôi lăm răm đọc mấy câu thần chú thuở xưa, lúc tôi hãy còn là khoá sinh Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang:

Ôi không gian giờ đây ta mới biết!
Mộng mây trời đã giết chết đời ta
Hôi hận ư! Cũng đã muộn màng rồi
Ta thèm khát một khung trời thoải mái.

Kỳ này thoải mái là cái chắc, không sợ quấy rầy: “hành xác tối đa" mà đám cán bộ đàn anh "áo vàng” thường hay hò hét. Tôi xa bạn bè thân yêu của tôi đã bao năm nay, tiếp tục theo cái nghiệp “ăn cơm dưới đất - làm việc trên trời" sau ngaỳ 30 tháng 4 -75.

Dở bản đồ không hành để thiết lập chuyến không hành (VFR Flight Plan) từ thành phố Calgary, thuộc tiểu bang Alberta để đi đến Tuk, chấm toạ độ cho những phi trường liên cận trong đường bay để đổ xăng phi cơ và nhiên liệu cho cái thân mình.

Tổng cộng đường bay vào khoảng trên dưói 1000 nautical miles, với chiếc trực thăng Aerospatiale 355 trang bị bởi hai động cơ Allison 250 turbine jet.

Tốc độ bình phi (normal cruising airspeed) của chiếc trực thăng này là 130 knots, cuộc không hành dự tính tốn khoảng 11 giờ đồng hồ tất cả. Sau khi điền phiếu phi hành và khai báo với Air Traffic control Calgary là tôi đã hoàn tất xong thủ tục hành chánh cho chuyến bay thật hiếm hoi, và có lẻ thật tê tái trong đời, Với tôi, chỉ phải settle down miền đất Canada cũng đã là một thử thách rồi, huống chi còn dzọt tuốt lên North Artic Circle.

Sau chín giờ bay trong ngày đầu tiên của chuyến không hành, mọi sự được thuận buồm xuôi gió (every thing đều Okey Dokey) như dự tính trong bản VFR Flight plan đã nộp cho đài kiểm báo Calgary (Air traffic control). Tôi ghé đáp phi trường Inuvik để nghỉ qua đêm.

Phi trường Inuvik, cũng là tên của thành phố thuộc tiểu bang Northwest Territories còn trong lảnh thổ Canada. Tôi lay quay, vội vã mướn khách sạn cho sớm, để còn giải quyết cái bụng đang đánh loto!

Tôi bước vội vào bên trong một quán ăn độc nhất do người Eskimo làm chủ, nhà hàng này bán những món ăn vùng Bắc cực; chế biến từ các loại thịt rừng Reindeer hay thịt Caribou bản xứ , không biết ở đây người ta ướp gia vị bằng cái giống gì ? Khi họ mang ra cho mình ăn, vị thịt rừng nướng ăn kèm bánh mì, rau quả toàn đặc sản: Ngon lành mùi thơm ngất - không chổ nào chê được. Đói khát quá sau một ngày ăn uống thất thường, kèm theo được thưởng thức món ăn lạ trong đời .Tôi dùng bữa hôm ấy thật khuây khỏa, nhiệt tình.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286689527.JPG

Trên đường về lại hotel
Nơi đây Inuvik đèo heo
Mùa Thu đêm sáng trong veo
Phố xá ….Hỡi ơi, tí teo- cù teo !

Chẳng có gì hấp dẫn, cho một du khách hiếu kỳ lần đầu. Tôi đành thúc thủ quay ra ôn lại sự việc xẩy ra hôm nay, briefing cho chuyến đi ngày mai trước khi chìm vào giấc ngủ.

Sau một đêm dài ngủ lấy sức, 6:00 giờ sáng, nghe đồng hồ báo thức, tôi lật đật thức dậy, làm thủ tục vệ sinh, rồi đón taxi trực chỉ ra phi trường Inuvik.
Tôi chuẩn bị tiếp tục cuộc không hành giai đoạn cuối, bay 130 nauticaul miles nữa thôi, mình sẽ tới nơi tới chốn, rồi nhủ thầm ý tưởng tự an ủi lấy mình chấp nhận làm con bà Phước trong chuỗỉ ngày cô đơn chiếc bóng.

“Cũng được thôi! Miễn sao có người, bất cứ người nào chỗ tôi đáp xuống cũng làm cho tôi vui mừng lắm rồi. Vã lại có ai là ngườì da vàng mũi tẹt Việt Nam, ai là người vô tích sự lên đây, lên cái xứ khỉ ho cò gáy này làm gì!. Mình đừng đòi hỏỉ quá đáng chứ! Phở Dakao, Hủ tiếu Mỹ Tho, Chả cá Thăng Long, Bún bò Huế, Bánh Canh Cua đồng chợ củ v v.. Ôi thôi! Tôi không thèm đâu.....Không thèm ăn món quê hương thuần tuý. Chỉ vì một lý do duy nhất là tôi đang sống ở chốn địa đầu vĩ tuyến.”
Đến nơi, tôi vừa làm một tua D.I. (Pre-flight Daily Inspection) cho con tàu có mang kiểu số 355 (dê 5 lần), đầu óc vừa miên man, tay chân lạnh quờ quạng.
Sau khi hoàn tất thủ tục DI, mình đi bộ tới đài kiểm báo Inuvik để lấy tin tức khí tượng trong ngày, và đồng thời khai báo để mở lại VFR fight plan cho đoạn đường cuối của cuộc không hành đến Bắc cực.
Thời tiết đầu mùa thu ở vùng Arctic hôm đó được thông báo là clear sky, visibility +40 miles, temperature 15degree F, wind 250 degree at 10 MPH, barometer 2995.
Leo lên phi cơ, liếc sơ qua bản check list, quay máy bắt đầu động cơ số 1, rối tiếp theo đó động cơ sồ 2, .. vv.. kiểm soát lại phi cụ một lần nữa, bấm microphone để gọi clearance:

Tôi gọi đài kiểm báo:
- Inuvik, helicopter Charlie Gulf Kilo Hotel Whiskey (nick name C-GKHW)

Inuvik trả lờì:
- Kilo Hotel Whiskey goes ahead

Tôi gọi đài kiểm báo tiếp theo:
- Kilo Hotel Whiskey is ready for take-off and would like to re-open the VFR flight plan to Tuktayotuk.

Inuvik trả lời:
- Roger that, contact Inuvik when you are 20 nautical miles out.

Tôi trả lời lần cuối trước khi take-off:
- Kilo Hotel Whiskey roger

Từ từ nâng nhẹ cần collective pitch, đem chiếc trực thăng mới toanh trị giá khoảng 2 triệu mỹ kim lên vị thế hover. Tôi đẩy nhẹ cần cyclic forward, tiếng máy động cơ và tiếng xé gió phật phật của 3 cánh quạt từ từ tăng lên. Tôi trực chỉ bay về North Artic circle hướng tây bắc 330 degree.

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn; tôi đã tới cao độ bình phi, mở tầng số để intercept Tuk's VOR (Very High Frequency Omni-directional Range) and NDB (None Directional Beacon). Từ cao độ 2500 (feet above sea level) nhìn xuống vùng Arctic Circle lổm chổm toàn là những hồ nước phủ với một lớp tuyết trắng, rải rác khắp nơi như những tổ ong, hay như là mặt đất của những Hoả Tinh mà mình đã từng thấy qua trên TV, tuyệt nhiên không một ngọn cây nào thấy được nơi đây! Xa xa vài đám reindeer chỗ này, đám caribou chỗ kia đang thong thả rảo bước tìm miếng ăn.

Trên đường về lại hotel
Nơi đây Inuvik đèo heo
Mùa Thu đêm sáng trong veo
Phố xá ….Hỡi ơi, tí teo- cù teo!

Chẳng có gì hấp dẫn, cho một du khách hiếu kỳ lần đầu .Tôi đành thúc thủ quay ra ôn lại sự việc xảy ra hôm nay, briefing cho chuyến đi ngày mai trước khi chìm vào giấc ngủ.

Sau một đêm dài ngủ lâý sức, 6:00 giờ sáng, nghe đồng hồ báo thức, tôi lật đật thức dậy, làm thủ tục vệ sinh, rồi đón taxi trực chỉ ra phi trường Inuvik.
Tôi chuẩn bị tiếp tục cuộc không hành giai đoạn cuối, Bay 130 nautical miles nữa thôi, mình sẽ tới nơi tới chốn. Rồi nhủ thầm ý tưởng tự an ủi lấy mình chấp nhận làm con bà Phước trong chuỗi ngày cô đơn chiếc bóng.

“Cũng được thôi! Miễn sao có người, bất cứ người nào chỗ tôi đáp xuống cũng làm cho tôi vui mừng lắm rồi. Vả lại có ai là người da vàng mũi tẹt Việt Nam, ai là người vô tích sự lên đây, lên cái xứ khỉ ho cò gáy này làm gì!. Mình đừng đòi hỏi quá đáng chứ! Phở Dakao.... Hủ tíu Mỹ Tho. Chả cá Thăng Long, Bún bò Huế, Bánh Canh Cua đồng chợ củ v.v.. Ôi thôi! Tôi không thèm đâu..... Không thèm ăn món quê hương thuần túy. Chỉ vì môt lý do duy nhất là tôi đang sống ở chốn địa đầu vĩ tuyến.”
Đến nơi, tôi vừa làm một tua D.I. (Pre-flight Daily Inspection) cho con tàu có mang kiểu số 355 (dê 5 lần), đầu óc vừa miên man, tay chân lạnh quờ quạng.

Sau khi hoàn tất thủ tục DI, mình đi bộ tới đài kiểm báo Inuvik để lấy tin tức khí tượng trong ngày, và đồng thời khai báo để mở lại VFR fight plan cho đoạn đường cuối của cuộc không hành đến Bắc cực.
Thời tiết đầu mùa thu ở vùng arctic hôm đó được thông báo là clear sky, visibility + 40 miles, temperature 15degree F, wind 250 degree at 10 MPH, barometer 2995.

Leo lên phi cơ, liếc sơ qua bản check list, quay máy bắt đầu động cơ số 1, rối tiếp theo đó động cơ số 2, .. v.v.. kiểm soát lại phi cụ một lần nữa, bấm microphone để gọi clearance:

Tôi gọi đài kiểm báo:
- Inuvik, helicopter Charlie Gulf Kilo Hotel Whiskey (nick name C-GKHW)

Inuvik trả lời:
- Kilo Hotel Whiskey goes ahead

Tôi gọi đài kiểm báo tiếp theo:
- Kilo Hotel Whiskey is ready for take-off and would like to re-open the VFR flight plan to Tuktayotuk.

Inuvik trả lời:
- Roger that, contact Inuvik when you are 20 nautical miles out.

Tôi trả lời lần cuối trước khi take-off:
- Kilo Hotel Whiskey roger

Từ từ nâng nhẹ cần collective pitch, đem chiếc trực thăng mới toanh trị giá khoảng 2 triệu mỹ kim lên vị thế hover. Tôi đẩy nhẹ cần cyclic forward, tiếng máy động cơ và tiếng xé gió phật phật của 3 cánh quạt từ từ tăng lên. Tôi trực chỉ bay về North Artic circle hướng Tây Bắc 330 degree.

Chỉ trong khoảng thời gian ngắn; tôi đã tới cao độ bình phi, mở tầng số để intercept Tuk's VOR (Very High Frequency Omni-directional Range) and NDB (None Directional Beacon). Từ cao độ 2500 (feet above sea level) nhìn xuống vùng Arctic Circle lổm chổm toàn là những hồ nước phủ với một lớp tuyết trắng, rải rác khắp nơi như những tổ ong, hay như là mặt đất của những Hoả Tinh mà mình đã từng thấy qua trên TV, tuyệt nhiên không một ngọn cây nào thấy được nơi đây! Xa xa vài đám reindeer chỗ này, đám caribou chỗ kia đang thong thả rảo bước tìm miếng ăn.

My God! Trời cao thăm thẳm - Đất rộng mênh mông! Ngút ngàn ganh nhau một màu trắng sát dài vô tận.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286689672.JPG

“North Artic Circle! Vương quốc truyền thuyết ngàn năm của tổ phụ tôi đây sao?

Hoàn cảnh hi hữu mãi cho đến hôm nay, tôi mới được tìm về quê hương đất tổ truyền tụng trong nhân gian... bởi câu nick name mà bạn bè trong khoá gọi tôi là: "Ông Già Noel “

Cross check hàng phi cụ, đồng hồ DME (Distance Measurement Instrument) mới chỉ 20 nautical miles, bấm microphone tôi gọi Inuvik:

- Inuvik center, this is Kilo Hotel Whiskey

Inuvik trả lời: Kilo Hotel Whiskey this is Inuvik, go ahead

(Tôi cho biết tọa độ con tàu, gởi lời cám ơn trước khi rời đài kiểm báo Inuvik)
- Kilo Hotel whiskey is 20 nautical miles to the North West at 2500 feet, have a good day sir!)

Inuvik trả lời:
- Kilo Hotel Whiskey thank you, contact Tuk flight service station at 123. XX when you are 20 nautical miles away, and have a good day yourself too.

- Kilo Hotel Whiskey roger that.

Thời gian như chớp mắt, xa xa hướng chân trời, Tuktayotuk mờ mờ xuất hiện quyện lẫn trong màu tuyết trắng,.

Tôi lại bấm microphone:
- Tuk radio, this is Kilo Hotel Whiskey

Đài kiểm báo Tuk
- Kilo Hotel Whiskey, this is Tuk radio, go ahead.

- Kilo hotel Whiskey is a TwinStar helicopter, presently 20 nautical miles to the South, South East at 2500 feet inbound for landing.
(Tôi vang lên cho đài biết là mình đang cận tiến đáp xuống phi trường cách 38 cs, từ hướng Nam, Đông Nam)

- Kilo Hotel Whiskey roger that, current wind condition is at 250 degree at 15 knots, visibility is at 20 miles, barometer is at two niner, niner three (2993), and please be advised that there is a helicopter also inbound from the South West at 1500 feet.

- Thank you Tuk, Kilo Hotel Whiskey will keep an eye on that.
(Tôi trả lời cám ơn và thông báo cho đài kiểm báo Tuk là sẽ để ý chiếc phi cơ bạn cùng lúc thực hiện việc đáp xuống làng Eskimo; town có tên là Tuktayotuk)

Sau vài phút im lặng, đột nhiên tiếng gọi đài từ chiếc trực thăng kia vang lên trong helmet: Tuk radio this is helicopter Charlie XXX (mình đã quên ký hiệu của chiếc phi cơ này)

Đài kiểm báo Tuk trả lời: Charlie XXX go ahead

Charlie XXX is Bell 214 helicopter, 5miles to the SW on final approach

Tôi ngạc nhiên khi nghe âm thanh request landing của chiếc phi cơ bạn dường như hơi quen thuộc.

Đài kiểm báo Tuk gọi: Kilo Hotel Whiskey, this is Tuk radio, do you have him insight?
Rồi tiếng đài kiểm báo Tuk radio gọi lại cho tôi, xem tôi có thấy phi cơ bạn đang cận tiến phía trước không?

Tôi trả lời ngay : Roger that Tuk, Kilo Hotel Whiskey has him insight and I'm presently 10 miles to the SSE descending to land after Charlie XXXX.( Hiểu rỏ Tuk, tôi thấy phi cơ bạn, và tôi đang 10 miles hướng Nam Đông Nam. Tôi đang hạ xuống cao độ cận tiến đáp tiếp theo sau đó)

Hai chiếc phi cơ trực thăng không hẹn nhau, lại cùng nhau đáp xuống North Artic Circle ngày hôm ấy. Chuyện càng hy hữu hơn thế nữa danh xưng Charlie kia không ai xa lạ, đó chính là niên trưởng Không Quân Tr/uý Tuấn bay ở Phù Cát hay Pleiku gì đó năm xưa.

Thật là hạnh phúc cho chúng tôi vô cùng, khi tình cờ hội ngộ với nhau nơi chốn đỉnh đầu của trái đất. Trong khoảng thời gian biệt phái này hai anh em chúng tôi chia sẻ với nhau đầy đủ ý nghĩa của chữ chia sẻ. Tâm tình với nhau mọi chuyện có thể tâm tình, hầu vơi đi nỗi cô đơn giá buốt và cũng để nói lên truyền thống của Không Quân VNCH là "Không quên anh em, không quên bạn bè" dù tôi và anh Tuấn chưa một lần biết nhau trước khi biến cố 4/1975


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286689429.JPG

Phan Toan - Dec-15-2008

hung45qs
10-10-2010, 09:15 PM
Chuyện Tình Với Chàng Cựu Không Quân Y 2 K

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286746390.jpg

Giữa chàng với tôi là hai thái cực khác nhau. Tôi yêu văn thơ, ca nhạc, chàng thì không. Khẩu vị của tôi là đồ ngọt, còn chàng thì lại thích chua và đắng. Chàng trông cao ráo, hoạt bát, nhanh nhẹn, ngược lại tôi thì lù đù chậm chạp và thấp bé. Đôi lúc chàng cứ như người ở trên mây (không quân mà), mặc dù tâm hồn chàng chẳng có tí gì là nghệ sĩ cả. Không biết đã nợ nần nhau tự kiếp nào mà ông trời lại se duyên cho chúng tôi ở tuổi hoàng hôn đang dần dà xuống.
Tôi gặp chàng ở cái tuổi mà theo quan niệm của các cụ xưa cho là tuổi “quá lứa nhỡ thì” nếu không muốn nói là ê sắc. Lần đầu tiên quen nhau trên diễn đàn bạn đọc của tờ báo Suối Nguồn.com, lúc ấy tôi là người thỉnh thoảng viết bài gửi cho báo, với bút hiệu là Thiên Lý (mỗi tác giả thường đề email của mình dưới bài viết để độc giả có thể liên lạc) còn chàng là độc giả đi tìm một người bạn gái cũ cũng có tên là Thiên Lý. Không biết chàng thật tâm đi tìm hay chỉ là giả vờ. Tôi thành thật cho chàng biết; tôi không phải là người bạn gái mà chàng đang tìm, vì Thiên Lý chỉ là bút hiệu của tôi mà thôi. Sau lần đó, chàng vẫn email cho tôi bàn chuyện văn chương như một nhà bình luận gia chuyên nghiệp, và chàng tự giới thiệu với tôi trước năm 1975 chàng là phi công phản lực. Tôi đã nửa tin nửa ngờ khi nghĩ đến những anh chàng “bốc phét” mà tôi đã gặp trước đây. Cái ngờ là thế, nhưng tôi cũng tự trấn an mình để có được một niềm tin nơi chàng, rồi xem nếu chàng là Không Quân chàng sẽ kể thêm những gì về đời quân ngũ của chàng. Để củng cố lòng tin của tôi, chàng liệt kê tên những quân trường chàng đã đặt chân qua trên đất Mỹ từ năm 1969, nào là: Travis, Lackland, Sheppard, Tincan, Hondo, Medina… Chỉ nghe qua vài tên thôi, tuy không biết được đâu là đâu, tôi cũng đoán ra chắc chàng là Không Quân thật rồi. Tôi cố tưởng tượng đến hình ảnh những anh chàng Không Quân trong bộ đồ bay vừa oai hùng, vừa hào hoa phong nhã. Chàng nào cũng một vai gánh vác việc quân, còn một vai thì vắt vẻo vài mối tình văn nghệ; và dẫu bây giờ chàng đã không còn là không quân nữa, nhưng biết đâu cái máu bay bướm từ mấy chục năm trước vẫn còn trong cá tính của chàng. Và tình cảm với chàng chắc cũng chỉ là: “Tình vui trong phút giây thôi”…Nghĩ đến đây một cảm giác thất vọng và chán chường bắt đầu len lỏi trong tôi. Tôi xếp lại lá thư xem như đó là một trò chơi không đoạn kết như những chuyện tình vớ vẩn trước đây.
Ngày lễ tình yêu Valentine năm 2000, qua email chàng gửi đến tôi một bông hồng tươi thắm với một bản nhạc đệm không lời rất hay. Chàng bảo: hy vọng sau này chàng sẽ có dịp gởi cho tôi cả bó hồng chứ không phải một đoá như bây giờ. Chà, chỉ là lời hứa hẹn thôi mà sao lúc đó lòng tôi đã có chút xao xuyến kỳ lạ. Để tỏ lòng cảm kích tặng phẩm cánh hồng đặc biệt của chàng, tôi cũng gõ lại mấy hàng cảm ơn và cố ghi nhớ ngày sinh nhật của chàng vào đầu tháng ba, tôi sẽ gởi lại tấm E card chúc mừng cho đúng phép lịch sự. Ngày nối tiếp ngày, chàng viết thư cho tôi đều đặn hơn, chàng kể chuyện tiếu lâm của mấy ông Hoàng, bà Chúa thời xưa, thời nay. Chàng viết thư rất vui, nên mỗi khi buồn, tôi thường mở thư chàng ra đọc rồi cười một mình.
Tôi còn nhớ một buổi trưa sau khi tôi từ trường về nhà, đang vội vã sắp xếp túi cơm mang đi làm thì tôi nhận được một bó hồng rực rỡ cùng tấm card nhỏ vỏn vẹn có 3 chữ: “I love you” và chữ ký của chàng. Tôi vừa ngạc nhiên, vừa ngẩn ngơ, lòng băn khoăn tự hỏi: Sao cái ông này gan thế nhỉ? Chưa biết mặt ngang mũi dọc của mình ra sao mà đã bày tỏ rồi, ông ta là ai? Ở đâu, sao lại gửi hoa nhanh đến thế? Tôi không có câu trả lời cho những câu hỏi của mình. Ngày hôm ấy trong sở làm tôi cứ miên man nghĩ đến bó hồng và anh chàng Không Quân bí mật kia. Chàng khôn quá đã âm thầm bắt tôi phải tò mò đến chàng rồi.
Càng ngày chàng viết thư càng nồng thắm hơn, chàng tả những giấc mơ của chàng về tôi, chàng tưởng tượng ra ánh mắt, mùi hương… cứ y như một anh chàng văn sĩ, có lúc tôi đã nghĩ sao chàng không làm nghề viết văn mà lại đi lính Không Quân nhỉ? Vốn là người đa cảm, tôi rất xúc động với những bày tỏ tình cảm chàng viết cho tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn còn ngại ngùng, lo lắng cho sự thật, giả lẫn lộn trong những lời lẽ ấy, và vì tôi cũng không mấy tự tin lắm về vóc dáng bên ngoài của mình. Tôi tự hỏi ở đời có mấy ai nhìn thấy được sự tốt đẹp bên trong tâm hồn mình đâu? Đàn ông chỉ toàn là mơ mộng về bóng sắc thôi. Tôi liền cảnh giác chàng rằng đừng quá mơ nhiều như thi sĩ Đinh Hùng là: “Chưa gặp em, anh đã nghĩ rằng…”.để chàng không thực sự thất vọng nếu sau này có dịp gặp nhau, thực ra tôi chỉ là một người bình thường, đã già, lại còn lùn và xấu nữa. Khi nghe qua ba chữ tóm tắt rất giá trị về ngoại hình của tôi như thế, chàng bảo rằng không sao, chàng không hề chú ý đến những tiểu tiết bên ngoài ấy. Điều này tôi rất nghi ngờ, tâm hồn tôi cũng đã bắt đầu xáo trộn bởi những lo âu, những nỗi buồn, những sợ sệt, những nhung nhớ vu vơ…
Sau mấy tháng email và chuyện trò qua điện thoại. Chàng nồng nhiệt mời tôi đến Farmington, nơi thành phố chàng đang ở thuộc tiểu bang New Mexico. Tôi thật e dè không muốn đi, vì tôi cảm thấy sờ sợ. Chàng cố gắng thuyết phục tôi, và còn mang cả danh dự của một người đã từng là lính Không Quân ra thề rằng, chàng sẽ không làm gì tổn hại đến tôi, sẽ giữ gìn và bảo vệ tôi từ đường răng kẽ tóc. Chàng thêm rằng, nếu tôi không tin chàng thì khi tôi đến phi trường, chàng sẽ đưa cho tôi một khẩu súng, vừa để làm tin, và cũng vừa để tôi tự vệ. Trời ơi! chỉ nghe nói đến súng thôi là tôi đã khiếp vía rồi, huống hồ là cầm đến cây súng. Tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy cây súng thật thì làm sao mà biết đến chuyện sử dụng nó để bảo vệ mình khi gặp nguy hiểm. Song, vì lời chàng quá chân tình nên tôi đã siêu lòng. Chàng ân cần đặt vé cho tôi, dặn dò tôi từng đường đi nước bước đến phi trường.
Tôi không bao giờ quên được cái ngày đầu tiên “blind date” đó. Sợ chàng chê tôi lùn, tôi đã mang đôi giày cao gót đến 10 phân và cứ đi tới đi lui trước gương ngắm nghía xem mình đã cao lên bao nhiêu… Môt cảm giác lo sợ, một chút mắc cỡ và một chút sững sờ khi tôi nhìn thấy chàng xuất hiện bằng xương bằng thịt. Chao ôi, tôi không tin được chàng đây chính là người đã viết email nồng nàn và nói chuyện hết sức tình cảm với tôi qua điện thoại mấy tháng nay. Chàng cao lớn, lại trông rất già và rất “dữ” với cái đầu cạo trọc, và cặp kính mát đen thui trông như là một lãnh chúa trùm băng đảng nào đấy. Tôi thật kinh hãi muốn quay lên máy bay trở về nhà ngay. Nhưng tôi đã không thể làm gì khác hơn là phải giữ phép lịch sự cho việc xã giao, và tôi thầm nhủ: ồ nếu chàng có chê tôi xấu thì tôi cũng hết sức thank you, rồi vui vẻ say “bye bye forever”. Chàng đến bên tôi với nụ cười rất hiền và một giọng nói quen thuộc mà tôi vẫn nghe hằng đêm. “Lý đấy phải không? Trông em xinh như thế này mà cứ bảo là xấu lắm.” Ối trời! Lần đầu tiên trong đời có người khen tôi xinh, ồ mà có thể so với chàng thì tôi xinh hơn một tí. Lòng tôi chợt dịu lại, không phải vì lời khen của chàng mà là cử chỉ thân ái, trân trọng, và nồng nhiệt đã làm tôi cảm thấy giá trị của người phụ nữ trong tôi được nâng lên một chút. Đúng là Sĩ Quan Không Quân có khác, và cũng đúng như lời chàng đã nói, chàng chẳng để ý gì mấy đến thước tấc của tôi trong khi tôi cứ ra sức nhón thêm khi đi bộ với chàng quanh ven hồ. Nhón hết sức mà đầu tôi chỉ vừa chạm đến bờ vai chàng, tôi chắc lúc đó chàng đã cười thầm tôi là nhà quê. Đi bên chàng tôi có cảm giác được bảo vệ, chở che. Chúng tôi chia xẻ với nhau chuyện sóng gió trong cuộc đời riêng của mỗi người suốt một buổi chiều mưa trong công viên Cotez. Chàng cho tôi xem những tấm hình từ hồi chàng còn trong hàng ngũ Không Quân, có tấm chàng chụp chung với bạn bè, có tấm chàng chụp một mình khi đang thực hành. Mỗi tấm hình là một câu chuyện kỷ niệm về công việc huấn luyện bay của chàng. Tôi không thề tưởng tượng hết được những nỗi gian khổ của đời lính lúc phải đương đầu với cuộc chiến tranh ác liệt là như thế nào, và mỗi người lính đều phải sẵn sàng cho mình một ngày đi có thể sẽ không bao giờ trở lại. Thật là anh hùng làm sao!
Sau hai ngày rong chơi tâm tình qua nhanh, dường như chàng sợ tôi đi luôn hay sao nên không ngần ngại đề nghị chuyện đám cưới nếu tôi muốn bất cứ lúc nào. Chàng làm tôi giật mình cho sự quyết định táo bạo của chàng. Ồ chàng là phi công phản lực mà, tốc độ muốn tiến đến hôn nhân của chàng cũng thật là “phản lực.” Tôi cứ gặng hỏi chàng rằng anh nói thật hay đùa vậy? Chàng nhấn mạnh; chàng đã qua rồi cái thời xây lâu đài trên cát, bây giờ chàng không còn thì giờ để đùa nữa mà chỉ dành thời giờ cho một tình yêu nghiêm túc. Tôi thật bối rối không biết nói sao, tôi hẹn chàng là tôi sẽ trả lời sau khi hỏi ý kiến của dì tôi.
Khi về lại thành phố Hồ Muối, tôi hỏi ý của dì tôi (bố mẹ tôi đã qua đời) về chuyện ngỏ lời cầu hôn của chàng cựu Không Quân và tôi thật do dự khi quyết định. Dì tôi bảo: “Thế mày định đợi đến bao giờ nữa, bốn chục rồi còn gì, đừng có chần chừ rồi tới năm mươi thì chẳng có ma nào ngó tới đâu con ạ”. Lời của dì làm tôi thấy tủi thân cho phận mình, phải rồi tôi đang tiến đến tuổi già, tôi không có thời gian lựa chọn như hồi còn son trẻ nữa. ..Thôi thì cũng đánh liều với số phận một phen.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286745699.JPG

Chúng tôi đã thành hôn sau 3 tháng chuẩn bị. Trong đám cưới, chúng tôi được vinh dự đón ông thầy đã thả chàng bay solo mà chàng tha thiết gọi là “my IP”. Mặc dù đi đứng rất khó khăn vì chứng bịnh Parkinson, nhưng ông vẫn bay từ Dallas sang thành phố Hồ Muối đứng bên phía nhà trai dự đám cưới thân mật. Trong ngày cưới chàng cũng đeo lại chiếc nhẫn bay năm xưa, chiếc nhẫn vàng trắng mà chàng đã phải trả bằng hai tháng lương sinh viên. Đứng bên cạnh chàng, tôi cứ tự hỏi thầm: “Chồng mình đây sao?”
Thấm thoát mà đã mười năm chung sống bên nhau, mười năm chưa đủ dài để tôi có thể hiểu hết được chàng vì thế trong mười năm đã có bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, giận hờn, cãi cọ, để rồi có lúc đã gần đến lằn mức chia tay. Thật tình mà nói, chúng tôi cũng đã xa nhau một thời gian, vì sự độc tài của chàng, vì chàng cho rằng chàng lớn tuổi hơn tôi, kinh nghiệm sống nhiều hơn tôi nên chàng luôn luôn đúng, còn tôi thì luôn luôn sai. Những lúc bất đồng ý kiến với nhau, chàng tranh cãi rất hùng hồn, và luôn tạo cho mình một thế mạnh để đánh bại ý tưởng của tôi bằng cách lên cao giọng, rồi lại đập bàn, xô ghế, có khi còn quăng cả đồ đạc nữa… Cũng chính những lúc nóng giận chàng xem tôi như là một địch quân của chàng. Chàng đổ lỗi cho tôi nào là sống với Việt Cộng lâu ngày nên giọng lưỡi của tôi cứ y như Việt Cộng, nào là chàng đã bị tôi, một nữ cán bộ thâm độc bỏ bùa yêu thuốc lú…. Tôi khóc nhiều hơn là tranh cãi, sợ hãi đã dập bớt ngọn lửa yêu thương trong tôi. Tôi chán nản, tôi tức giận cho sự ngu ngốc của chính mình, tôi hối hận cho cuộc hôn nhân “phản lực” có lẽ chỉ có một không hai này. Ôi, hôn nhân không còn là hoàng hôn cùa ái tình như một nhà danh ngôn nào đã nói. Với tôi lúc ấy, hôn nhân như một bóng tối kinh hoàng, một con đường “dead end” thê thảm. Tôi càng buồn hơn những khi ngồi một mình và nghe câu hát quen thuộc: “Tình chỉ là giấc mơ thôi, nào ai sống trong mơ hoài. Tỉnh giấc ta nghe con tim đau…” Thế nhưng, chính thời gian xa nhau lại là thước đo tình cảm của nhau. Khi ra đi, tôi đã mong cho chàng sớm gặp được người đàn bà khác để chàng trả tự do cho tôi, thế mà chuyện đó lại không dễ dàng như tôi mong muốn, bởi lẽ chàng vẫn bám địch quân của chàng rất sát. Khi thì chàng phục kích tôi bằng máy bay, có lúc chàng tấn công bằng xe hơi. Chàng cũng chẳng ngần ngại đi xe bus mười mấy tiếng sang Hồ Muối trinh sát. Ngoài ra chàng còn email truyền đơn “chiêu hồi” địch với giọng văn thiết tha tình cảm. Chàng, một cựu Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Việt Nam luôn dang rộng cánh tay chào đón người đi sai đường lạc lối trở về. Thấy chưa, rõ ràng là chỉ trích tôi sai mà! Song, qua những chiến dịch bủa vây chặt chẽ của chàng, tôi đã nhận ra tình yêu chân thật giữa hai chúng tôi, và tình yêu đã giúp chúng tôi “cho hận thù vào lãng quên”…
Khi cơn giông bão của sự hờn giận đã qua đi, tôi hỏi chàng: “Lúc mình giận nhau, sao anh không đi tìm bà nào khác để thả em ra luôn cho rồi. Không Quân như anh thì thiếu gì bà.” Vẫn nụ cười hiền như ngày nào mới gặp tôi, chàng thì thầm: “Anh đã không thể tìm được bà nào… lùn hơn em và khờ khạo hơn em.” Thế đấy, vẫn còn giọng điệu trêu tức tôi, nhưng tôi không còn giận hờn chàng nữa. Bây giờ chàng rất ngoan hiền, thỉnh thoảng, chỉ thỉnh thoảng thôi, mới gầm gừ một chút khi gặp chuyện bất bình. Dù như thế nào đi nữa, chàng vẫn là người có lòng hướng thiện, và trong mười năm qua, tôi đã nhận ra ở con người chàng tính kiên cường, gan dạ của một người lính trên cả hai mặt trận chiến trường và tình ái. Đó phải chăng cũng là hình ảnh của những chàng cựu Không Quân, một thời bay nhảy và một đời bền bỉ, thủy chung với bạn tình trăm năm?
Chuyện tôi với chàng cựu không quân Y 2 k chỉ giản dị là thế!

Thiên Lý

hung45qs
10-12-2010, 12:36 AM
CHUYẾN VỀ THĂM AN LỘC

Bạn thân,
Nhận được thư bạn kèm theo những hình ảnh trong cuộc chiến tranh biên giới Hoa Việt năm 1979, bao nhiêu hình ảnh đó đã đủ làm ám ảnh mình suốt ngày hôm ấy... tàn bạo thay, thật tai họa thay! Bởi chính con người gây ra chiến tranh mà hung thủ chỉ vì tham vọng quyền lực, ích kỷ, khác nhau về ý thức.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286844191.JPG

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286844250.JPG

Năm 2007 gia đình chúng tôi có làm một chuyến về thăm quê cha đất tổ Việt Nam sau hơn 32 năm xa cách. Tôi có bao một chuyến xe đi lên An Lộc, nơi mà cuộc chiến mùa hè đỏ lửa tàn phá vùng III chiến thuật. Hồi ấy quốc lộ 13 đi từ Lai Khê lên quận lỵ Chơn Thành rồi đến An Lộc là cả một địa ngục trần gian ai oán, xác người nằm la liệt chồng chất lên nhau, con nít, đàn bà, ông già, bà lão, nam phụ, lão ấu, xác anh em chiến hữu bên ta, xác chính qui bộ đội bên kia! Không chỗ nào là không có cảnh chết chóc tan thương.

Bây giờ thì cũng đoạn đường ấy, xe chạy thênh thang, yên bình vượt qua những khu rừng cây cao su, vườn cây trái ngút ngàn trùng trùng điệp điệp. Ôi quê hương Việt Nam, đất nước mà ông cha chúng ta gây dựng suốt bao tháng năm dài lập quốc, đối với tôi, con dân nước Việt lưu lạc, thật thơ mộng và đẹp quá.

Khi xe chạy đến Tàu Ô, địa danh này nơi đây 35 năm trước cả hai bên Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và VC Chính Qui dành nhau từng tấc đất. Ngồi trong xe, tôi miên mang suy tư giữa hai cảnh đời thay đổi, rồi tôi cảm thấy lành lạnh nồi da gà khi tưởng đến nơi đây sanh ra biết bao nhiêu là oan hồn uổng tử.

Anh tài xế nhỏ tuổi hơn mình vài tuổi có lẽ lo lắng sao đó nên mở miệng góp ý với vợ chồng chúng tôi:
- Anh chị ơi! Mấy chổ này đi chơi thăm bà con xong rồi mình nên dzọt về sớm... Buổi chiều tối sợ tụi nó lẽng ra, mình chạy trên đường một thân một mình, thấy ngại lắm.

Anh tài xế này thật là hiểu được lòng mình!
- Tôi cũng đang lo trong cảnh hoang vắng mịt mùng đâu đâu cũng toàn cây xanh che rợp bóng, rủi VC nó ra chận xe thì mình chỉ có nước mạc vận hết thời thôi.
Anh tài xế có vẽ thông cảm cho tôi, một người xa xứ trong thời gian còn chiến tranh, nên lúc nào trong tư tưỏng cũng hướng về quê cũ, lời ăn tiếng nói cũng không "hợp thời buổi"! Anh tài xế cười trả lời một cách thật dễ chịu:
- Ôi bây giờ hết VC rùi, tui chỉ ngại tụi ăn cướp địa phương lẽng ra khi chiều tối, mình phải liệu đề phòng mà về sớm vậy thôi.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286844329.JPG

Đã đến nơi rồi, hình như là thị xã An Lộc hồi xưa thì phải! Bây giờ người ta đã đổi thành chợ Bình Phước... Ngoài trời thì cơn mưa tầm tã không nhìn được gì ngoài 15-20 thước.
Tôi muốn tìm xem chiếc xe tank T-54 của phía bên kia bị lực lượng phòng thủ lúc bấy giờ phang cho sứt càng gãy gọng ngay cửa vào thị xã An Lộc, mà người xạ thủ là đàn bà khi chết còn bị xiềng chân trong pháo tháp. Tôi muốn tim thấy bao kỷ niệm ngaỳ xưa khi lên đây bằng trực thăng biệt phái cho liên đoàn 5 BĐQ, trước khi tôi xuông thì phía dưói đất quân bạn bắn "hoả châu" hổ trợ cho phi hành đoàn xuống an toàn.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286844406.JPG

Ngày xưa khi bay lên đây sau trận đánh mùa hè đỏ lửa năm 72, chỉ cần phi cơ cận tiến vào không phận thị xã An Lộc ở trên nhìn xuống, bạn sẽ thấy một cảnh hoang tàn kinh hồn. Bạn thấy thị xã An Lộc thân yêu trù phú, hôm nay đã thu gọn lại sau trận thư hùng. An Lộc chỉ còn võn vẹn lớn hơn một sân vận động thể thao soccer ball. Phía trên thành phô lúc bấy giờ không một mái nhà nào còn nguyên vẹn, tất cả và tất cả bị chiến tranh tàn phá san bằng.
Sức sống của An Lộc thân yêu không còn gi nữa, chỉ còn chăng trong hầm sâu địa đạo mà liên đoàn 5 BĐQ trấn thủ bên trong thị xã.
Lần nào biệt phái cho An Lộc riêng tôi cũng rất mệt, vì chúng tôi không được bay theo tiêu chuẩn normal, mà bắt buộc theo kiểu cách riêng đặc biệt của ngành trực thăng Việt Nam Cộng Hòa, cách bay này hoàn toàn không có trong tự điển chiến tranh cận đại, để tránh phòng không và Sam-7 nghĩa là làm vòng xoáy bay lên, đủ cao độ rồi nương theo mây bay theo, từ căn cứ Sư Đoàn 5 BB ở Lai Khê, hướng về An Lộc khi đến nơi, tắt động cơ cho phi cơ rơi xuống tự do, gần đến đất mới mở máy lên lại đáp khẩn cấp. Một ngày như mọi ngày, lần nào cũng như thế, lý do an toàn "né đạn" mà phải làm như thế. Chơi mấy ride như vậy là mệt lứ đừ lư. Take off lên thì không thể ra xa căn cứ bạn, lúc xuống đất thì cứ force landing …. Ôi sức người nào chịu nổi!

Tôi nhớ một lần bay hơi trưa mới đến An Lộc ở trên trời, trưởng phi cơ gọi xuống liên lạc với quân bạn xin đi về Lai Khê để phi hành đoàn ăn cơm. Anh em BB dưới đất năn nĩ hết ý và dụ chúng tôi đáp xuông hứa là cho phi hành đoàn ăn uống ngon lành... Sẽ có phở Ba Lê cho anh em phi hành đoàn, các bạn đừng lo v.v..

Không biết ông trưởng phi cơ của tôi lúc đó suy nghĩ thế nào, có lẽ ông ái ngại đi về Lai Khê ăn xong rồi phi hành đoàn cũng phải mất thời giờ bay lên An Lộc trở lại, nên ông ấy quyết định nhào xuống.

Thật đúng như lời hứa của tên sĩ quan liên lạc vô tuyến, bữa ăn trưa hôm đó, phở Ba Lê là một trong những bữa ăn ngon lành nhất, mà cuộc đời nhà binh của chúng tôi có được. Phi hành đoàn cấp bực cao nhất lúc bây giờ là Tr/uý Định Lôi Vũ 221, tôi là T/uý pilot lơ tơ mơ mới ra lò cùng hai anh em cơ phi xạ thủ, bốn anh em phi hành đoàn chúng tôi ngồi ăn trưa với Đ/tá LĐT/LĐP các sĩ quan hầu bàn cấp bậc nhỏ nhất thì cũng bằng cỡ trưởng phi cơ của mình, hay là Đ/uý làm mình ngại quá... hên một chuyện là phơ Ba Lê ăn rất ngon nên cứ thê mà chơi thẳng cẳng ai sao thì tui vậy, chẳng phải làm sao, “trước có Phước thì cứ hưởng rồi từ tính với toán"

Giòng đời thông thả buông trôi, không một mãi mai nuối tiếc, cành củ ngưòi xưa qua bao nhiêu thăng trầm lich sử . Tôi bay đến đây nhiều lần trong nhiêu thời gian khác nhau năm 1975, có khi đến An Lộc quân bạn thì ân cần mời gọi, lúc thì kẻ thù phòng không trù dập đuổi xua... Riêng hôm nay 32 năm trở về thăm lại An Lộc lòng tôi bồi hồi, nhiều cảm xúc bâng khuâng. Nghe loáng thoáng trong cơn mưa giông như thác đổ, dư âm tiếng tơi bời của đạn pháo binh âm ỉ gần xa, tiếng bom nổ, tiếng đạn xung phong nổ don của AK của M-16, súng đan vô tình môt thơi khói lửa chiến tranh, đã cướp đi bao nhiêu sinh linh vô tội.. Trong số người bạc mệnh & hy sinh ấy có đông bào ruột thịt và chiến hữu anh em đồng đội của tôi.

Bấy nhiêu kỷ niệm ấm ức khắc ghi trong tâm tư chờ đợi 32 năm, đến An Lộc hôm nay tôi như một chứng nhân ngỡ ngàng tư lự, bối cảnh quá thay đổi về không gian lẫn thời gian.
Trước cảnh hồn thiêng sông núi yên bình... Tôi nghiêng mình tưỏng nhớ đến con dân An Lộc & những đồng đội anh hùng của tôi vị quốc quên mình vì lý tưởng tự do, dân chủ.

PS khóa 72G

hung45qs
10-12-2010, 06:25 AM
Chuyến Vượt Biên Bất Thành

Từ thị trấn Xuân Lộc Long Khánh ba người chúng tôi đáp chuyến xe đò Long Khánh - TPHCM về Sàigòn. Tôi, bà vú dẫn đường người gốc Long Xuyên, một đệ tử em của thằng bạn lúc đó khoảng 15 tuổi cư ngụ trong ấp Nùng xuôi Nam trên chuyến xe đò đã xuống cấp thê thảm nhưng vẫn còn chạy được. Thời điểm năm 1982 muốn mua đựợc một chỗ ngồi trên xe quả thật vô vàn khó khăn, thiên hạ xếp hàng dài dài, ngóng dài cả cổ để chờ đến lượt, khi có chiếc xe đò nào được điều vào bến ai ai cũng nhấp nhõm mong sao tới lượt mình. Từ tờ mờ sáng chúng tôi đã có mặt ở bến xe nhưng tới gần trưa mới có vé lên xe, thế là mừng rồi. Những thành phần ưu tiên xếp hàng mua vé là đám cán bộ công nhân viên nhà nước, còn dân đen và phó thường dân nam bộ đành chịu phép, phải chờ các đầy tớ của nhân dân đi sạch sẽ mới mong tới phiên mình.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286867265.JPG

Chiều cùng ngày bộ ba chúng tôi về tới Xa Cảng Miền Đông và đi xe ôm xuống Xa Cảng Miền Tây. Tại Xa Cảng Miền Tây này ba người mua 3 ổ bánh mì để dành lên xe ngồi ăn, tranh thủ mua vé về Long Xuyên. Lúc lòng vòng ở Xa Cảng này đợi mua vé xe không ai để ý ai cả vì ai cũng có những nỗi lo riêng, theo tôi nghĩ lúc đó biết đâu trong số những người vội vã chen lấn đó cũng có những đồng bào có cùng tình cảnh như mình, cũng đang hướng tới một nơi nào đó của miền Tây, tổ chức vượt biên, những năm này phong trào vượt biên lên cao, nhà nhà vượt biên, người người vượt biên ngoại trừ cột đèn không thể nhúc nhích mà thôi. Thằng đệ tử người trắng trẻo lại hay lấm la lấm lét làm tôi cũng hơi hồi hộp vì từ nơi nó có thể gây chú ý của đám Công An bận đồ vàng.

Tới đây xin nói rõ về bà vú người Long Xuyên một chút, chúng tôi biết bà vì bà là người nhà của một gia đình Hòa Hảo gốc Long Xuyên, làm rẫy và buôn bán trái cây đặc sản ở Long Khánh. Gia đình này ở chung trong xóm Nùng để kinh doanh làm ăn với người bản xứ nơi này. Tôi dạy kèm buổi tối cho con gia đình này nên lâu ngày dần dần thân tình bà vú mới móc nối và nhờ tôi quen biết để tìm người vượt biên. Chuyến đi này chỉ có tôi và thằng đệ tử tên A Coỏng theo bà vú dẫn đường.
Xe đò chạy tuyến đường TP - Long Xuyên coi bộ khá hơn một chút, có lẽ xe chạy đường dài nên được chuẩn bị sửa chữa sơn phết giống như còn mới. Lên xe ngồi mình có cảm giác an toàn trên xa lộ, yên tâm hơn mặc dù trong lòng lúc nào cũng hồi hộp. Còn A Coỏng có lẽ mệt mỏi nên lên xe ngủ gà ngủ gật…

Đoạn đường từ bến xe Xa Cảng Miền Tây chạy dài theo Quốc Lộ số 4 xuống tới Bắc Mỹ Thuận mất độ trên 2 tiếng đồng hồ. Trên đường đi xe thỉnh thoảng ngừng lại ở các trạm kiểm soát đột xuất, tụi CA kinh tế chỉ kiểm soát hàng của các bà buôn chuyến, không biết họ buôn những gì nhưng mỗi lần xe ngừng là chàng lơ xe có nhiệm vụ nhảy xuống phóng tới trước các đầy tớ rù rì ngoại giao, một lát sau lơ xe hớn hở quay lại phóng lên xe la lớn với bác tài: “ Tới”.

Không thấy kiểm tra giấy đi đường nên tôi cũng mừng thầm trong bụng. A Coỏng ngủ vùi (đúng là thằng con nít mới lớn không biết lo gì), bà vú trông có vẻ bình thản, có lẽ vú đã quen với hoàn cảnh như vậy rồi - chuyên gia dắt vượt biên.
Khi xe chạy gần tới Bắc Mỹ Thuận, nói là gần chứ thực sự xe còn cách mấy cây số phải ngừng lại và từ từ bò dần tới bến. Giống như người ta xếp hàng mua vé xe ở các Xa cảng, đoàn xe hàng dài như rồng rắn, khi tới gần trạm lơ xe la làng lên hối thúc khách xuống xe đi bộ mua vé qua trạm xuống phà phía trước. Sợ A Coỏng ngố ngố đi lạc tôi phải kêu nó đi trước tôi để dễ kiểm soát nó. Hai bên lề đường đầu phà vô số những trẻ bán mía ghim, bánh mì. Các bà già có, trẻ có bưng các thúng nem, cóc, ổi, xoài, mít...rao inh ỏi, người mua kẻ bán chụp giựt hối hả cãi vã nhau tranh giành mối đúng như người ta thường nói ồn ào như cái chợ. Lúc bấy giờ cũng đã chiều tối, đèn điện ở hai đầu phà sáng trưng, càng lùi xa bờ ánh đèn mờ dần, xa một chút là ánh đèn dầu lờ mờ trên tủ thuốc của các cô thiếu nữ bán thuốc lá bên vệ đường. Tôi ghé mua 2 điếu thuốc có đầu lọc hút cho tỉnh táo vì thời gian lâu rồi tôi không nhớ tên thuốc là gì.

Cuối cùng chúng tôi 3 người xuống phà trước qua tới đầu phà bên kia sông đợi xe qua. Sinh hoạt về đêm của hai bến phà giống y chang nhau. Gần nửa tiếng sau xe đò mới sang sông. Xe ai nấy lên, tôi phải nhắc chừng A Coỏng coi chừng mất đồ mặc vì chúng tôi mang theo chỉ một bộ đồ để thay và một số lặt vặt cần thiết. Rồi cũng tới Bắc Cần Thơ, qua phà cũng y như phà Mỹ Thuận, nhưng nước sông ở phà Mỹ Thuận chảy xiết hơn. Khi vô bến xe Cần Thơ chúng tôi phải đổi xe Cần Thơ - Long Xuyên. Đường từ Cần Thơ về Long Xuyên xấu dần do ảnh hưởng bom đạn của chiến tranh trước 75, đến thời điểm này vẫn chưa được tu sửa lại. Lỗ chỗ ổ gà, ổ vịt, xe dằn sóc muốn đau cả cái lưng. Không ai có thể chợp mắt được cho dù rất buồn ngủ. Ngồi trên xe tôi với A Coỏng chưa biết sẽ đi về đâu, không biết đích tới, không biết cá lớn cá bé ở mô tê (cá lớn là tiếng lóng gọi ghe dùng để ra biển, cá bé là chiếc xuồng nhỏ dùng chèo để đưa khách qua cá lớn có nơi gọi là taxi). Chỉ biết theo bà vú mà đi tới thôi, tôi chỉ lờ mờ đoán chắc bà vú dắt đi đường Hồng Ngự Châu Đốc qua Miên.

Xuống xe tại bến xe Long Xuyên, A Coỏng và tôi không khỏi bỡ ngỡ vì những chiếc xe đạp lôi nhiều vô kể, chiếc xe đạp kéo rờ-moọc phía sau ngồi được cỡ 4-5 người và hành lý (những xe chế này ở Sài Gòn và Long Khánh làm gì có). Bà vú kêu một chiếc lôi 3 người chạy vòng vòng một hồi về tới nhà bà vú ở gần chợ Long Xuyên. Chúng tôi không thể hình dung được cái thị xã Long Xuyên lớn cỡ nào vì vọn vẹn một ngày một đêm ở nhà vú chỉ có ăn uống tắm rửa và nghỉ ngơi, chẳng dám ra khỏi nhà. Sáng hôm sau, vú lại dắt cả hai người ra bến xe kiếm xe về Rạch Giá.

Con đường từ Cần Thơ về Long Xuyên xấu 5 thì đường từ Long Xuyên về Rạch Giá xấu 10, nhất là từ khúc quẹo ở ngã ba Lộ Tẻ về Rạch Giá - Ôi thôi đường xấu ơi là xấu, xấu không thể tưởng tượng được, Quốc Lộ gì mà trơ ra toàn sỏi đá. Sau 7 năm " phỏng giái " đường xá xe cộ, giao thông khắp nước xuống cấp hư hại thê thảm, nhà cửa loang lỗ, nhìn vào đó đủ biết đời sống của dân chúng thê lương thế nào.

Chiếc xe mà 3 người ngự trên đó là một chiếc xe tải không ghế ngồi, chúng tôi phải ngồi bẹp xuống sàn xe, mỗi lần xe lọt ổ gà 3người bị hất qua bên này lúc qua bên kia y như con lật đật, đau khổ nhứt là mỗi khi xe cán trúng đá bị nảy lên như nhảy cóc cái mông của 3 người ê thấu trời xanh. Nhìn mặt thằng Coỏng lúc đó không biết phải diễn tả như thế nào, nó muốn khóc mà chẳng dám thấy mà tội cho nó. Xe chạy khá lâu và đặc biệt song song với con lộ là con sông hay con kênh, nhìn ghe thuyền chở đủ thứ hằm bà lằng mà tôi chỉ nhìn vu vơ không chủ đích nên không nhớ rõ lắm. Hình như ghe thuyền là phương tiện vận chuyển và lưu thông chủ lực của dân vùng lục tỉnh nhiều sông lạch lắm kênh đào này. Còn xe cộ do đường xá quá bết bát nên chỉ lưa thưa không nhiều như thuyền bè trên sông.
Xe chuẩn bị vào thị xã, từ xa chúng tôi nhìn thấy quang cảnh biển Rạch Giá, lại gần mới thấy biển khơi xa xa; tôi liếc mắt nhìn A Coỏng, nó cũng liếc nhìn tôi gật gật tỏ ý ngầm hiểu chắc chúng ta vượt biển từ nơi đây. Lúc đó mặc dù khá mệt mỏi do suốt ngày ngồi bó gối trên xe nhưng cũng vui ra mặt vì cảm thấy le lói ánh sáng của hy vọng. Hy vọng thực sự được bước xuống ghe vượt biên chứ không phải tới để ém quân rồi về.
Đêm đó ngủ ở nhà do tổ chức sắp xếp, tôi lấy chiếc khâu 1chỉ đưa cho bà vú đem bán lấy tiền chi tiêu mua những thứ cần thiết. Sáng hôm sau dậy thật sớm, ba người ra kêu một chiếc xe đạp lôi chở tới bến tàu Rạch Sỏi. Xuống một chiếc vỏ lãi chở khách (danh từ địa phương ám chỉ chiếc ghe dài có 2 hàng ghế 2 bên có mui che nắng mưa cho bà con qua đò sang sông) chạy gần tới một bến đỗ, bà vú dắt 2 người xuống đò lên bờ. Vú dắt đi bộ một hồi tới 1 căn nhà lợp lá dừa gần một trại cưa mà giờ không còn nhớ tên. Ở nhà này cơm nước và chuẩn bị, trời chưa sáng có một chiếc xuồng do một ông chèo tới, bà vú dặn dò xong tụi tôi theo ông ta xuống xuồng. Tôi biết ông này đang chèo đưa 2 chúng tôi về hướng sông Cái Lớn, bà vú cho tôi biết cá lớn đang chờ đón tụi tui nơi đó. Sau này tôi mới biết đây là con kênh đào nối dài từ huyện Rạch Sỏi qua rừng U Minh Thượng, U Minh Hạ tới miệt dưới Cà Mau.

Trở lại ông chèo xuồng đưa 2 chúng tôi tà tà theo làn nước, luồn lách qua các trạm biên phòng trên bờ kênh giả giống như dân địa phương đi vô trông rẫy dứa, tới trưa mặt trời đứng bóng, lủi chiếc xuồng vô một gốc rừng tràm nghỉ mệt lấy cơm nước ra ăn uống. Dĩ nhiên cả 2 thằng tui đều mặc đồ y như dân ở đây, cũng giỏ cói khăn rằn máng trên vai, nón lá đội lụp xụp để che nắng che mặt. Dân trong vùng đa số trồng dứa nên nhiều ghe chở toàn dứa đầy khẩm, nhiều ghe máy chạy ngang tạo sóng vỗ vô bờ làm ánh mặt trời phản chiếu lóng lánh hắt vô mặt làm chói cả 2 mắt. Chiếc xuồng này có lẽ chở tôi với thằng Coỏng thôi nên suốt ngày lênh đênh trên nước cũng thoải mái. Tới chiều lúc mặt lặn chúng tôi ăn vội mấy cái bánh ú đem theo, ông chèo chèo nhanh hơn hướng về cửa sông Cái Lớn. Khoảng 8 giờ tối, màn đêm bao trùm không gian, mặt nước bập bềnh theo mái chèo và chiếc xuồng, gần tới ngã tư giữa con kênh và sông Cái, ông chèo chèo nhanh đưa chúng tôi vào bờ hữu của con sông; nhìn lên bầu trời trong xanh có vài vì sao lấp lánh, xa xa có vài ánh đèn leo lét mà mình không biết là ánh đèn nhà dân hay ánh đèn của những ghe đêm. Và đúng giờ hẹn chiếc ghe đã cặp vào bên hông của chiếc ghe lớn nằm khuất trong lùm cây lớn, ông chèo ghe nói vừa đủ nghe:
- Cá lớn đó leo qua đi.

Tôi và A Coỏng mừng quá trèo vội qua chiếc ghe lớn làm nó hơi tròng trành. Ông đưa xuồng lúc đó kêu mọi người trên cá lớn giao mật mã để đem về, ông ta chèo đi và chúc mọi người may mắn.

Khi ông taxi (người chèo xuồng) đi khuất rồi bọn tui mới ổn định được lại vị trí, đếm đi đếm lại chỉ có vọn vẹn 7 người vượt biên đêm nay mà thôi. Tôi, A Coỏng, anh Quang làm tài công, Hoàng, chú Sáu và 2 thanh niên nữa tôi không còn nhớ tên. Nhìn lại chiếc ghe gọi là cá lớn, chỉ là loại ghe tam bản loại chở hàng chạy trong sông, dài cỡ 8 mét, bề ngang chừng 2 mét, có 2 máy đặt ngoài: một máy Nhật loại Yanmar 7 và máy kia là máy xăng. Nếu mặt biển êm thì còn tạm được còn biển động có sóng chắc không xong. Biết sao bây giờ, lao đã phóng rồi, cưỡi lên lưng cọp rồi, Quang, Hoàng và chú Sáu nói đi được, còn tôi đâu biết gì thuyền bè và hải hành, nghe mấy giả nói được thì cũng cầu sao cho được thôi, thì hên xui may rủi vậy. Chết cũng đành chịu vì đến nước liều rồi, tôi không tin dị đoan, nhưng chú sáu là người lớn tuổi nhứt trong đám cứ lẩm bầm: “Tại sao lại là 7 - 7 là thất”. Tui nghe ông lầm bầm mà giựt mình. Bà mẹ nó! Tới nước này rồi tới đâu thì tới hơi đâu mà lo!

Quang cầm lái, Hoàng phụ và quay máy, 2 máy nổ đều và ghe vọt tới trước. Còn tụi tôi 5 người ngồi mọp xuống lườn ghe, ghe phóng dọc theo bờ sông hướng ra cửa biển. Thay vì lái ghe ra giữa sông anh Quang cứ cặp bờ miết nên ghe lướt qua những cái đáy đóng ngầm dưới sông của dân. Cũng may nhờ máy đặt ngoài nên không bị vướng đáy, nếu không là dính lại hết chạy. Ghe chạy chừng 10 phút thì nghe mấy tràng AK bắn phía bên kia sông, không chừng bị phát hiện rồi chăng. Nỗi lo lắng tăng dần, ghe vẫn phóng tới. tuy ban đêm không nhìn thấy mặt nhưng tôi biết ai ai cũng đang căng thẳng. Một tiếng đồng hồ sau vẫn không thấy tàu nào đuổi theo nên cũng an tâm. Ghe bắt đầu ra cửa biển, giờ phút quan trọng từ đây, nhìn xa xa ngọn hải đăng ngoài Rạch Giá quay vòng vòng chiếu sáng trên mặt nước biển.
- Chết cha! Ghe vô nước.

Tiếng ông già Sáu vang lên báo động. Ai nấy hết hồn, rồi ai đó kiếm được miếng giẻ nhét vô lỗ thủng. Chắc lúc phóng qua mấy cái đáy trong bờ làm thủng chăng!. Nước vẫn rỉ vô ghe nên thay phiên nhau tát nước. Nước vô không nhiều nên tát được, còn hy vọng.

Ghe vẫn tiếp tục chạy khoảng 2 tiếng nữa thấy đi ngang qua một hòn đảo có ánh đèn mờ mờ trên đó, tài công nói đó là Hòn Khoai. Nhờ không có trăng nên ghe khó bị phát hiện trong đêm. Lúc đó đã xa bờ, nếu tài công ngon lành chắc ghe ra tới hải phận quốc tế trước khi trời sáng sẽ thoát.

Thật không may, khi trời hừng đông ghe vẫn còn loay hoay trong vùng biển Thổ Chu. Phía sau là quần đảo Nam Du. Còn chếch về phía tay phải đảo Thổ Chu sừng sững xa xa. Và chuyện gì đến rồi sẽ đến, khoảng 7 giờ sáng tài công la lên:
- Có tàu đuổi theo.

Nghe la tôi nhón chân ló đầu quay sau nhìn thấy một chiếc tàu lớn đuổi theo sau. Ống khói tàu này khói xịt đen bầu trời, rõ ràng nó đang tăng tốc để bắt chiếc tàu vượt biên nhỏ bé này. Ai nấy đều hối tài công mở ga lớn đua với nó. Nhưng chiếc ghe sao mà chậm quá, nhìn lại thấy tàu sau dí theo mỗi lúc một gần. Bị dí gần 2 giờ đồng hồ, tôi thành tình hình bi đát rồi nên quăng hết giấy tờ đặc biệt xuống biển mà vô cùng tiếc nuối. Không lâu sau đó tiếng đạn chíu chíu trên đầu, tụi nó bắn trực xạ đó, tui la lên tài công buông cần lái ôm đầu nhào xuống lườn ghe núp chung với tụi tui .Chiếc ghe không người lài xoay vòng vòng rồi tắt máy. Cũng may tụi nó không bắn nữa, không ai bị thương.

Chiếc tàu quốc doanh đánh cá chạy vòng vòng chiếc ghe và giữ một khoảng cách an toàn đúng bài bản đề phòng chúng tôi có vũ khí chơi lại. Tụi nó bắt loa kêu tụi tôi giơ tay lên đồng thời AK chỉa thẳng vô đám vượt biên khốn khổ này. Tụi nó cũng chưa dám sáp lại gần và chạy vòng thêm 2 vòng nữa mới cho tàu sáp vô. Sau đó thảy dây qua kéo ghe vượt biên sát vô mạn tàu và tụi tôi lần lượt leo qua. Chúng trói mọi người lại thành một xâu chẳng khác gì cá bị dính câu, cho ngồi đàng trước mũi tàu. Mọi người nhìn nhau thở dài, buồn bã mắt rưng rưng muốn khóc cho số phận đen đũi này, đúng là công dã tràng. Tương lai mịt mờ, nhà tù đang rộng mở. Tâm trạng lúc đó chán chường vô cùng, bao nhiêu mơ ước tan theo dòng nước, số phận thật nghiệt ngã. Bảy người đúng là thất bại như điều mà chú Sáu đã lo sợ.

Chúng đưa tụi tui vô Hòn Máu nơi tụi biên phòng này đóng chốt. Giam lỏng trên đảo đúng 1tuần mới có ghe dân vô đất liền mới dẫn độ chúng tôi vô bờ. Ông chủ ghe bữa đó nói nhỏ với chúng tôi, sao các người chạy vô nạp mạng vậy, tụi nó đâu có phương tiện đâu, tại tài công ôm sát hòn quá nên nó nhìn thấy mới mượn ghe đánh cá dân ra rượt đó. Nghe xong chúng tôi ngỡ ngàng, ai cũng nhìn anh tài công mà lắc đầu, thật là khốn nạn thay, đời đen như mõm chó.

Bữa đó có sóng vì biển động, trên đường vô bờ anh Quang ói quá chừng, chúng tôi càng buồn thêm, đúng là dỏm, dỏm nên không biết đường lái ra xa, và hậu quả cả nhóm phải vô tù ngồi. Khi vô trong trại tạm giam Tà Niên ở Rạch Sỏi rồi ,ngày nào ông Sáu cũng đay nghiến mỉa mai chàng tài công dỏm này. Trại tạm giam này có người kể lại có cô ca sĩ Thanh Lan cũng đã từng bị bắt vô đây rồi, bây giờ đến phiên chúng tôi, nơi đây mỗi ngày đều có những chuyến vượt biên bị bắt giải tới giam chung với tụi tôi. Hỏi ra đa số bị bắt trong đất liền, chỉ có nhóm 7 người chúng tôi là bị bắt ngoài biển thôi. Nếu tổ chức mướn được tài công đúng tài công chắc tụi tôi thoát được trong chuyến đi này rồi.

Trong vòng chỉ có một tháng mà nhân số trong trại tăng nhanh chóng mặt. Có một số anh tham gia phục quốc bị bắt giam bên Khám Lớn, Rạch Giá cũng bị giải qua đây, rồi thêm đám ngư phủ TháiLan bị bắt cũng đưa vô, nhà tù trở nên chật chội.

Hai tháng sau A Coỏng được thả vì tuổi vị thành niên, gần đến Tết tụi tôi bị gom xuống tàu chở tuốt tới Thứ Bảy. Đây là nơi tập trung lao động “cải tạo" - nơi đầy ải con người - một thứ địa ngục trần gian. Sáu tháng trầm luân trong bể khổ này thì nhóm tôi được thả về. Mừng quá vừa ra khỏi cổng là xá nó luôn, tổng cộng ở hai trại giam đúng 9 tháng. Một ngày trong tù bằng 3 năm ngoài đời, ai có trong tù cộng sản mới thấm thía hai chữ tự do. Mãi tới năm 1989, tức 6 năm sau hai vợ chồng tôi mới vượt thoát được bằng đường qua Phnom Penh (Miên) xuống tàu ở cảng Kom-pong -som trực chỉ đảo Bidong - Malaysia.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286865570.JPG

Vong A Duong 72H
30/5/2010

hung45qs
10-13-2010, 12:17 AM
CON NGỗNG


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1286929457.JPG

Lúc nhỏ tôi thường đuổi gà, đuổi vịt, rượt bắt để làm thịt nấu cháo trong những đám tiệc của họ hàng thân tộc, nhưng tới lúc lớn lên đi lính thì hởi ôi tôi phải có trách nhiệm săn sóc kỷ càng con ngỗng.

Là Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân khi tình nguyện gia nhập quân đội tôi không ngờ cuộc đời mình thê thảm như vậy, cứ ngỡ rằng cố gắng học hành, tuân hành kỷ luật răm rắp thì mình sẽ thỏa mộng mây trời, sẽ bay bổng và lã lướt không gian, oai phong của chàng trai thời đại, chết cũng vui , khoe khoang tán gái, tự hào về thể lực của mình, nhưng trời đã phụ lòng người, đi dọc theo phòng tuyến Long Thành vai mang súng, đầu đội nón sắt, chân mang giày trận, với lưới lê bên hông phải, bình ton nước bên trái, giây đạn đầy người, thêm vài trái lựa đạn lủng long tòn teng, ai ở ngoài nếu nhìn thấy hình ảnh đó của tôi thì đúng là một chiến sỉ thứ thiệt, nhưng hôm nay tôi lại có một hình ảnh lạ đời vì đôi tay ôm thêm con ngỗng,

Kỷ luật quân đội là thi hành trước khiếu nại sau, làm sao mà khiếu nại đây khi mà mình bắt thăm nhằm chữ "ngỗng,"

Mỗi buổi chiều, bọn tôi phải chia nhau canh gác chung quanh phòng tuyến của quân trường, phải lo gài những trái sáng, trái khói, lựa đạn, mìn claymore, trong khu vực trách nhiệm của mình, là lính thì xử dụng vũ khí là lẽ đương nhiên, không ai phàn nàn gì cả, nhưng không biết sáng kiến cao minh của ai mà quân trường lại có thêm rất nhiều chuồng ngỗng dọc theo tuyến thủ, được đánh số thứ tự đàng hoàng, được đặt phía ngoài tuyến không xa lắm khoảng 10, 15 thước, nói rằng nó sẽ kêu khẹc khẹc khi quân địch bò vào, quân phòng thủ phát giác kịp thời mà nả súng, mìn và lựa đạn thì mọi người ai nầy đều vui vẽ nhận công, còn mấy con ngỗng quái ác kia thì phải bắt thăm vì ai nấy cũng không có tấm lòng yêu thương ngỗng, ai không may mắn mà bắt thăm nhằm chử ngỗng có con số đính kèm, thì lên gặp thằng Minh Đại Khí, nó có trách nhiệm giữ vũ khí kiêm luôn chủ trại ngỗng, những con ngỗng nầy là chiến sĩ tiền sát chuyên phục kích ban đêm, được ăn uống đầy đủ và đúng giờ, là tài sản quốc gia, không được sơ sót, tôi phải trình giấy ký tên rồi nhận một con ngỗng ôm ấp vào mình vì nếu nó xảy mất thì mình khốn nạn, theo con số chuồng mà mình bắt thăm trúng phải, lội dọc theo tuyến tìm cho đúng số rồi bỏ nó vào trước khi trời tối, sáng hôm sau trở lại ôm ngỗng đem trả lại có ký giấy đàng hoàng, nếu ai xui mà có con số quái ác phải lội tìm xa xôi rả cẳng, khi về tới trạm gác của mình thì mồ hôi ướt đẫm đầm đìa.

Trong đời thỉnh thoảng tôi có đọc những sách về chiến tranh, tấn công hay phòng thủ, chiến lược, chiến thuật, nhưng những kỳ công của con ngỗng thì chưa có ai nhắc đến bao giờ, nếu con ngỗng mà thay được người lính gác, thì cấp chỉ huy nên cho binh sĩ ngủ ngon chứ canh gác để làm gì, có nhiều lần gác gần chuồng ngỗng tôi để ý nó im re không lên tiếng cho tới sáng, có lẻ nó có những giấc ngũ
ngon lành vì không có bạn bè chen chúc chung quanh, không biết cấp chỉ huy nghiên cứu từ đâu mà có sáng kiến lạ đời, nếu có hiệu quả thì tại sao toàn quân lực không cho ngỗng canh gác ở những tiền đồn hẻo lánh hoặc tất cả những căn cứ trên toàn cỏi quốc gia, theo tôi lựa giữa chó và ngỗng để canh gác thì tôi chọn chó, thính giác của nó không tệ và khỏi ẩm bồng.

Lúc ôm con ngỗng trong lòng, tôi tự an ủi vì đâu phải chỉ có một mình ta mà trong cái Tiểu Đoàn Không Quân nầy tối nay có rất nhiều thằng xấu số cũng đang như mình, biết đâu tụi nó còn tệ hơn phải ôm con ngỗng quá mập.

Minh Khải

hung45qs
10-14-2010, 12:31 AM
CổNG Số 9 TRƯỜNG BỘ BINH LONG THÀNH
NGÀY 30 THÁNH 4 NĂM 75

NT 73F THÂN MẾN!

Đọc bài "Trận đánh không có Đại bàng" cùng ký tên của ba người là: Lê Nguyễn, Trần văn Trung và Hải Triều, đọc xong tôi nhận thấy cần phải bổ túc thêm cho chính xác, vì khóa 73F của chúng ta và một số ít SVSQ/KQ khóa khác là quân chủ lực của Trường Thủ Đức trong ngày 30-4-1975, bản thân tôi xin kể lại những gì mà mình nhớ được trong trí nhớ của mình.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287017570.JPG

Tiểu đoàn Không Quân của trường Bộ Binh Long Thành gồm những SVSQ từ khắp mọi nơi qui tụ về, từ những chàng đang học bay bên Mỹ, từ những chàng đã đậu Anh ngử và đang chờ đi Mỹ cùng các bạn ở Macv, Nha Trang v..v đều có cùng chung số phận vì sự bôi tín mà Hoa kỳ đã cúp ngang ngân khoảng viện trợ từ 600 triệu US $ xuống 300 và triệt tiêu ở con số zero, mộng bay bổng tan tành, Tiểu đoàn Không Quân được thành lập tại Trường Bộ Binh Long Thành vào đầu năm 1974.

Giai đoạn thụ huấn của SVSQ Thủ đức là 9 tháng, cho nên trong vài ngày cuối của cuộc chiến, các khóa khác đã ra trường, còn lại Không Quân là khóa sinh kỳ cựu, hơn nửa tính từ ngày nhập ngủ đến tháng tư đen chúng ta ai cũng tròm trèm gần ba tuổi lính, có một số khóa đàn anh tuổi lính càng cao hơn, còn Sinh viên của trường Võ Bị Đà Lạt và trường Chiến tranh Chính trị chạy về thì phong độ không còn, có một khóa làm lể ra trường tại Long Thành chỉ học có 3 năm, các Sỉ Quan học Bộ Binh Trung cấp thì không có súng ống gì, các trường khác như Tình báo cũng vậy, di tản từ Long Thành về Thủ Đức vào ngày 28-4-75, Sinh viên Sỉ Quan Không Quân được phân chia làm kháng tuyến chính án ngử bốn mặt của quân trường, được trang bị một hỏa lực tối đa ngoài cấp số, hơn hẳn những cấp số 2, 3 của những đơn vị tác chiến ngoài chiến trường mà chúng ta được biết.

Tất cả những đơn vị khác là khách cho nên được ở bên trong làm quân trừ bị, được gọi là Kháng tuyến phụ, ngoài M72 còn được phát thêm nhiều thùng đạn M79 chống chiến xa đầu đạn dài hơn đạn thường bắn vào vùng tử giác, mìn, lựu đạn M26 thì quá nhiêu ,theo bài bản quân trường thì hỏa lực của chúng ta được trang bị kinh hồn, hơn nửa chúng ta từng đã học Quân sự taị trường Phi Dũng của Không quân, mượn những bải tập của trường Đồng Đề, về Bộ Binh sơ cấp , cấp trung đội trưởng chúng ta bị đã học tới học lui đến binh pháp lào thông, nhàm chán, có thể làm huấn luyện viên về môn cơ bản thao diển, chưa ra trường nhưng chúng ta đủ trình độ của một anh lính chuyên nghiệp để bắn đủ loại súng, không hoang mang khi thấy chiến xa T54 địch đang rầm rì tiến vào căn cứ với đại bác to nòng đang pháo ầm ì.

Thông thường thì Trung uý Sáng, Sĩ Quan Liên Lạc Không Quân phát lương vào ngày 20 hoặc 21 mỗi tháng , nhưng tháng tư 75 chờ mãi không thấy, để trả nợ và chi phí cho bao tử nên khi vừa về tới Thủ Đức tôi phải cầm ngay cái đồng hồ Rado kỷ niệm, địa hình địa vật của trường nầy tôi không biết nhiều vì phải canh gác và túi thì rổng tuyếch, vì ở đây chỉ có vài ngày phù du.

Dưới quyền Đạị úy Thu, Đại Đội Trưởng, Trung Úy Triều Trung Đội Trưởng, đại đội 4 mang khăn màu vàng trong đó có tôi được đóng quân ngay cổng số 9 của quân trường Thủ Đức, cổng số 9 phía trước có những thùng phuy làm hàng rào cản, dọc theo tuyến là một hàng rào kẽm gai, ngoài lớp kẽm gai là một giao thông hào lớn giống như trường Long Thành mà khi chúng ta mới về được Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi thay thế Trung Tướng Nguyễn văn Minh, Tướng Nghi đã cho một tiểu đoàn công binh đào chung quanh căn cứ Long Thành, bề ngang rộng và sâu để cản chiến xa, tank sẽ bị sụp hầm nếu càn qua, xa hơn là một khoảng đồng trống và xa hơn nữa là một xóm nhà với những nóc nhà màu trắng xen kẽ đỏ xám, trộn lẩn với cây cối xanh rì, tầm xa khoảng 700 đến 1km, đêm 29 ngồi gác nghe rỏ những âm thanh của phèn la, chiên trống , tiếng phát loa văng vẳng từ xóm nhà trước mặt, có lẻ là họ tổ chức biểu tình.

Hai cái poncho kết lại thành túp lều lý tưởng, lều chõng được giăng bên trong tuyến rợp rời, kế sát một giao thông hào nhỏ chạy dài theo tuyến thủ, nón sắt, lưỡi lê, balo, mìn , lựu đạn, M72, M79, M26, M16, M60, những thùng lựu đạn, thùng là thùng, thùng đại liên , những dây đạn được mang đầy mình vì ai đó tung tin rất có lý là sẽ chống miểng hay đạn ghim vào người, đầy đủ quân số, cấp số dư thừa, hỏa lực đủ niềm tin khi giáp trận.

Trong khí thế sẳn sàng, trận chiến đang hồi hộp không biết sẽ xãy ra trong giây phút nào, tin Biên Hòa Thất thủ, tất cả những phi cơ đủ loại bay rợp trời về hướng Sài gòn trong đêm tối, những tiếng đì đùng ầm ĩ vang vọng từ xa, những ánh lửa nháng lên tứ phía, tin nghe được Long thành bị mất, Long Bình kho đạn bị nổ, Thủ đức đã kề bên, súng đạn đã lên nòng trong hồi họp lo âu, thì hởi ôi một tiếng nổ lớn đau lòng đã làm bay nguyên một bàn tay của AC Nguyễn văn Bình do cây M72 mà anh giương sẳn kế lều của tôi, NT Bình từ Mỹ về đang học bay trực thăng và cùng chung Trung đội với tôi, anh ta có cái răng vàng duyên dáng, giọng nói miền Trung, tôi không biết anh thuộc khóa nào của Không Quân chúng ta, giờ nầy anh ra sao ?

Chỉa súng ra ngoài , về hướng phải của cổng số 9 khoảng 150 m có một cái lô cốt bằng xi măng lớn có nhiều lổ châu mai, Tuần sự đại đôi 4 khăn vàng đóng đô tại đó, có máy truyền tin , chất chứa rất nhiều thùng đạn dự trữ đủ loại, lều của tôi căng ngay tại đó.

Tình hình căng thẳng nên sự canh gác rất cẩn mật, những diển tiến chung quanh quân trường Thủ Đức tôi không biết gì, những Đại Đôi khăn đỏ, khăn xanh , khăn tím của Không Quân đóng ở tuyến số mấy bao quanh quân trường tôi không biết được, nhờ quý NT bổ túc, hơn nửa chúng ta không phải là cấp chỉ huy nên tình hình càng mù tịt, làm sao mà nghe những mẫu đối thoại giữa cán binh nói chuyện và bàn tính với nhau, làm sao biết được những ý định của địch, làm sao biết hết tình hình trận địa, do đó tôi chỉ nói về cổng số 9 của sáng 30.

Tiếng súng cắt bùm hòa lẩn những tràng liên thanh hàng loạt thỉnh thoảng vang lên cộng thêm tiếng phèn la phát ra từ xóm nhà trước mặt, Đạị Đội 4 không tài nào ngủ được trong cái đêm 29 nầy, thằng gác cũng như thằng ngủ đều chập chờn căng thẳng cho đến rạng sáng 30.

Mờ sáng nhưng không nhìn thấy được gì ngoài đám sương mù dày đặc trắng xóa che mất tầm nhìn trước mặt, được tan dần theo ánh nắng mặt trời le lói chiếu nhẹ nhàng trong buổi sáng nhiều sương, từ từ nhìn được khoảng cách xa hơn, 10m, 20m , rồi 30m, bổng nhiều tiếng la hốt hoảng " xe tăng xe tăng " vang lên dọc theo tuyến thủ, đang ngồi trong lo cốt tôi chạy ra ngoài nhìn ra chẳng thầy gì hết mà chỉ nghe tiếng rầm rì của xe tăng đang lăn bánh, vài phút sau thì hiện rỏ ra một chiếc tank đang chạy về hướng quân trường, ngay trước mặt tôi, nhìn kỷ hơn thì thấy một lá cờ xanh đỏ với ngôi sao vàng nhấp nhô trong những bụi chà chôm của những cành cây ngụy trang trên xe, khoảng cách chừng 30 tới 40m, không biết lệnh lạc từ đâu súng đã nổ dòn tan dọc theo tuyến của cổng số 9, rồi thì trận địa bắt đầu, nòng súng của chiếc T54 phun ra lửa khói, tiếng đạn rít ngang đầu bay vào bên trong liên tục, tiếng ngói đổ rì rào sình đất bay tứ tung , đủ loại tiếng nổ và ánh sang nhấp nhóe tạo nên chiến trường thật sự, lửa đủ màu bay quanh chiếc tank mà nó cứ tiếp tục lăn bánh gần sát giao thông hào, những ngọn lửa của M72 che khuất chiếc xe cùng theo những tiếng "cháy rồi, cháy rồi " inh ỏi, lửa tắt bánh xe vẫn còn lăn, nhiều ngọn lửa khác tiếp tục, nòng đại bác của tank vẫn đều đều phun lửa, tiếng ì ầm vẫn rền vang toàn khu vực, tôi bò ra ngoài giao thông hào vì sợ nó quay nòng vào lô cốt thì mình phải chầu diêm vương, ai bắn mặc ai tôi cứ mò mẩm chung quanh thân mình để coi đã bị thương chổ nào rồi , may quá chỉ là sình đất mà thôi, vài phút tỉnh hồn ngẩng đầu lên thì chiếc tank vẫn còn nổ máy đang trước mặt mình vài thước, nó bị khựng lại bởi giao thông hào cứu mạng, tôi giương cây M72 của mình chỉa thẳng vào xe và nhấn nút, ngọn lửa đã phà bít chiếc xe và chính miệng tôi cũng reo vang " cháy rồi " rất lớn, máy xe vẫn còn nổ và nòng súng vẫn còn phun lửa, Kỳ nầy chết chắc thật rồi, tôi than thầm trong bụng và chưởi thề mấy thằng quỷ bạn cách vài chục thước hai bên trái phải của tôi sao không chịu bắn vào giây xích với góc độ 60 độ ,như những lần thực tập, mà cứ bắn trợt qua trợt lại, nhìn lên chiếc tank xuyên qua miếng sắt chắn đạn tôi thấy ánh mắt hốt hoảng của anh tài xế xe tank, cứu mạng tôi thì anh phải chết, tôi nâng cây M16 lên và nhắm vào mắt của anh bò bóp cò từng viên một, anh cho xe thụt lùi và chạy nhanh qua cổng số 9 ngay chổ của đám Huỳnh Phú Hiếu vào bên trong sau lưng bọn tôi, chúng tôi không biết phải làm gì, tiếng súng tại cổng 9 không còn nửa và chiếc tank nầy bị bắn cháy gần cổng số 1, do Đại Đội mấy của Không Quân bắn thì tôi không biết được.

Lệnh đầu hàng từ lúc nào không ai được biết, Sỉ Quan trực không liên lạc được một ai, tôi chỉ nhớ có một ông Thiếu tá rất nhỏ con, có râu, mang ống dòm với huy hiệu trường Võ Bị Đà Lạt, lái chiếc xe Jeep thắng lại cổng 9 và khen rằng: "Mấy anh Không Quân hay quá ", rồi khui một thùng Ruby Quân Tiếp vụ tặng thưởng, tôi được một gói trước khi tan hàng, khoảng 2 giờ trưa ngày 30-4-75.

Thằng Nguyễn Văn Quới cùng lều với tôi đã khóc sướt mướt, nó còn lay quay lo gài lựu đạn và mìn, tôi phải khuyên nó gài chốt lại.

Lạc Vệ Hùng rất ba gai trong Đại Đội 4, nên được chọn là Trưởng ban Kỷ Luật, nó vẫn ba gai chạy tới, chạy lui theo tuyến, trong lúc mọi người dưới giao thông hào, hình ảnh đó thật khó quên, không biết nó có cùng khóa 73F của chúng ta hay không?

Sau nầy nghe kể lại thì Trịnh Văn Tá của khoá 73F và một số Sinh viên sĩ Quan của khóa khác đã tử thương trong trận chiến giờ thứ 25 nầy vì đạn pháo của tank 54 bắn trực xạ không có mục tiêu nhứt định, hơn nửa nó đang hốt hoảng chạy chết, khi tank 54 bị bắn đứt giây sên nằm ỳ một chổ thì có hai Sinh viên Sĩ Quan Không Quân rút chốt lựu đạn nhảy tới và trèo lên mở nấp tung lựu đạn M26 vào , theo lời kể của NT C thuộc đại đội khăn đỏ thì màn nầy còn hấp dẩn hơn xi- nê của HOLLYWOOD rất nhiều, vì xảy ra trong tích tắc, nhanh va chính xác, sau đó thì thép của Nga Sô đã bốc cháy dể dàng.

Trong tâm trạng là một xác người biết đi, tôi cởi bỏ áo trận chỉ còn áo thun trắng, vẫn mang đôi giày bố cùng một đám bạn rời bỏ Trường Thủ Đức lội bộ về tới Sài Gòn thì màn đêm đả xuống, đài phát thanh Thủ Đô không còn những tiếng nói quen thuộc nữa mà thay vào những âm thanh chát chúa lanh lãnh khó nghe, lòng rối bời chua xót cho vận nước, cho cuộc đời và cho cả bản thân tôi, từ ngày đó tôi biết được danh từ Tù được thay bằng cái tên hoa mỹ là Học tập cải tạo, tôi biết được rừng tràm U-minh mà từ lâu chỉ nghe tiếng, Độc lập, Tự do, Hạnh Phúc dân Việt chưa bao giờ có được từ ngày đó.

Thân mến

Minh Khải

hung45qs
10-14-2010, 02:04 AM
Dòng Thơ Trần Thanh Quang 72F - Phần I

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287023107.JPG
Tranh Thương Nhớ - Lê Khánh Thọ - France

Vô đề

Nếu là một chút hương bay
Thì xin đọng mái tóc mây của người
Nếu là một chút nắng trời
Thì xin rụng xuống mảnh đời của nhau.


Lời ru cuối

Ru em ru một đời tình
Ngã nghiêng ta hát mới mình ta chơi
Ru em ru tiếng à ơi
Câu ca khẻ rụng thành lời dấu yêu
Ru em ru sớm ru chiều
Ru điên ru dại ru xiêu xát lòng
Ru em tịnh cõi hư không
Mãn khai thành triệu đóa hồng cho ai
Ru em ru suốt đêm dài
Hòa âm cùng gió ru khai tử tình.


Chân dung

Ta thân ngựa một đời rong ruỗi phố
Móng khua vang đánh thức mấy con đường
Máu luân lạc trong trái tim loang lổ
Cõi ta bà sao cứ mãi vấn vương

Ta thân ngựa một đời mơ bóng núi
Bóng mù xa mà bóng lại gần
Chân rời rã lòng còn ôm gối mộng
Ở nơi nào ta vét chút tình thân

Ta thân ngựa một đời mơ về biển
Mộng phù du in dấu cát phiêu bồng
Chân nghiệt ngã trước hồn nhiên của sóng
Hạt muối nào mặn chát giữa hư không

Ta thân ngựa một đời làm thân ngựa
Bờm rụng rơi theo gió thốc của đời
Cỏ rũ mục trên thảo nguyên xa tít
Biết khi nào ta ngã ngựa em ơi !


Hành Trình

Những chuyến xe đời long lóc đi qua
Để lại khói đen bùn nhơ và cỏ rác
Dăm nụ cười khan vài lời thô thốc
Rớt xuống ta nỗi chết muôn trùng

Buổi sáng hoàng hôn rớt trên mặt người dưng
Bình minh trong ta nói lời hoan hĩ
Những khúc thức trường canh giai điệu
Biến tấu ca từ xô lệch nhân gian

Chốn xa xăm em ngân khúc thiên đàng
Em tránh nỗi đau né lời rao giảng
Ta ngập ngụa trong thánh kinh xa lạ
Đạo đức giải lên ngôi xé toạc tim người

Đôi khi thấy đời như một cuộc chơi
Sinh – tử – thiệt – hơn vờn trên sân bóng
Kẻ thủng lưới chưa hẵn người chiến bại
Bục vinh quang đừng thắm máu con người.


Vô cùng

Ta đi hoang một đêm
Em giận ta một kiếp
Ta đi hoang một đời
Mẹ vẫn thứ tha

Cái nghịch lý vẫn là điều nghịch lý
Cái vô cùng muôn thuở vẫn vô cùng.


Bên bờ sông tím

Em yêu ạ, trăng đã già mấy lứa
Mối tình đầu se sắt nữa đời thôi
Ta vẫn đợi bến bờ xa quạnh quẽ
Con nước nào thê thiết một dòng trôi

Em yêu ạ, tóc đã vài sợi nhớ
Phả một màu thánh khiết cuộc tình thơ
Em bến lạ sông đời đừng xoáy lỡ
Để an nhiên ta hiu hắt bóng chờ

Em yêu ạ, giá ta đừng rất Huế
Nghìn trùng xa không cạn một mùa yêu
Không ngăn cách ta em và mãi mãi
Tội tình chi giọng nói gọi là kiêu

Em yêu ạ, thôi thì xa xa mãi
Hoa cúc này ta gởi lại sông xưa
Xin mặc khải khối tình mình dấu ái
Chuyến đò đời ai cũng một lần đưa.


Mùa trinh nguyên

Em từ độ trăng rằm thôi xõa tóc
Cây trăm năm lá chết cuộc tình phai
Mắt khô đục ôm buổi chiều xám ngắt
Tay mênh mông gầy với những ngày dài

Em từ độ ngày đi không biết hẹn
Nụ hoàng hôn theo gió rụng sân đầy
Hoa vàng úa ngập chân đồi hoang mộng
Cuộc tình xanh xưa đọng xuống vũng lầy

Em từ độ lấy chồng bên quê nội
Ngày xuân buồn loang tím một nguồn sông
Đêm thu khóc thương người xa quá đỗi
Con thuyền trôi bến đục xót nao lòng

Em từ độ bỏ ta vời chốn mộng
Mùa Trinh nguyên bạc tóc xám chân đời
Thân ngựa chạy rạc rời bao con phố
Vẫn mong nằm trong tay nhỏ buông lơi.

hung45qs
10-15-2010, 04:18 PM
Đại Bàng Gãy Cánh

Nghe nói ngày trước, khi tuyển một khóa sinh Không Quân, ngoài phần khám y khoa, còn có mục khảo sát về thẩm mỹ ngoại hình. Chẳng biết tin này có thiệt hay không, nhưng năm 1969 không còn thấy áp dụng nữa. KQ lúc này không còn ròng rã là những đấng hào hoa đẹp trai, mà đã lẫn lộn vào đó là vài khuôn mặt không mấy rạng rỡ. Nhân cơ hội này, Tú, Lương và tôi đã trà trộn vào thành phần "Thượng lưu của quân đội".


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287102014.jpg

Diễn tả lại dung mạo của thằng Tú, không gì điển hình hơn là nhắc lại câu nói của niên trưởng ngày huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang:
- Không hiểu ban tuyển mộ KQ mù cả hay sao mà ông lại lọt được vào đây!
Thật ra thằng Tú không đến nỗi xấu, nó chỉ bị rỗ hoa, miệng lúc nào cũng toe ra cười như cái loa của Tổng Lãnh Thiên thần Mi ca e. Nó nhỏ con nhưng có đặc tính là hễ giận ai thì hay nói:
- Ông vặn cổ mày bây giờ.
Hỗn danh nó là thằng Hố Lai, tuy nhà nó ở Sài Gòn. Phần tôi không biết căn cứ vào sách tướng số nào, mà thằng Tú nói tôi là thằng lừa thầy phản bạn, tiểu nhân và ra đời đụng đâu thua đó. Thằng Lương thì ngược lại, nó to con, da ngăm đen và có gương mặt rất nông dân chân chính, nên bọn tôi gọi nó là Võ Tòng Sát Tẩu. Con gái nhìn thấy nó cứ phải len lén quay đi chỗ khác, vì sợ nó tán nhầm.

Ba đứa chúng tôi thi nhau làm lung lay cái huyền thoại hào hoa của quân chủng. Nhập khóa 69A ở Nha Trang, Lương lớn nhất nên được tôn là sư huynh. Có một niên trưởng rất hắc ám tên là Thái hay phạt thậm vô lý nên Lương ra lệnh cho tụi tôi:
- Tao đặt tên cho thằng Thái là Dúi, nhưng tụi mày chỉ nên kêu nó là Dúi thôi chứ kêu Thái Dúi, nó biết nó phạt cho thì toé khói.
Tính Lương rất vui, một bữa kia nó thấy thằng Liên đang lau súng để gác đặc công gài chất nổ trong barrack (Chắc mọi người còn nhớ năm 1969 VC đã dùng plastic nổ doanh trại Trường HSQ Đồng đế làm chết rất nhiều khóa sinh) nó đến gần nhỏ nhẹ hỏi:
- Ê Leng, ke đẹ leng béng nghe bèng bèng hỉ?
(Ê Liên, cây đại liên bắn nghe bằng bằng hả)
Liên gốc người Quảng Nam nên nổi tam bành, xách súng đuổi Lương chạy vòng vòng trong barrack, miệng liên tục chửi:
- Tau béng xí mẹ thèng Béc Kỳ.
(Hình như nó nói: Tao bắn thấy mẹ thằng Bắc Kỳ) làm náo loạn cả Phi đội.
Mãn khóa quân sự trở về TSN, thi xếp lớp Anh ngữ, Lương học lớp 1100, tức lớp Anh ngữ vỡ lòng. Tôi rất ngạc nhiên vì trước khi sang KQ, Lương đã là Tr/s Thông Dịch Viên, nhưng nó tâm sự:
- Làm Thông Dịch Viên dễ hơn là học Anh Văn để du học. Hồi tao đi theo toán Dân Sự Vụ vô làng nọ để khám bệnh, phát thuốc cho dân chúng, có một bà khai bị bịnh mất ngủ, tao không biết dịch thế nào, nghĩ mãi mới ra câu; "Xi nô xì líp. Xi nít áp bờ rin". Không biết thằng cha BS Mỹ có hiểu tao nói "She no sleep. She need aspirin" không mà nó cũng phát cho bà ta một bốc thuốc.
Thấm thoát mấy tháng ở trường Sinh ngữ cũng qua mau, cả ba thằng chúng tôi lại gặp nhau ở Lackland, San Antonio, TX. Không biết thằng Lương kiếm ở đâu ra mà nhiều "bùa" lắm. Hôm trước khi thi test, nó mò xuống phòng tôi rồi bảo:
- Mày nhớ kỹ câu này "Có con chó cái cắn bạn đau chẳng ai đền. Bốn anh công an đi bên đường đỡ cho bạn".
Tôi cũng chưa hiểu công dụng của lá bùa thì nó giải thích thêm:
- Cứ theo mẫu tự câu bùa mà khoanh vào. Có con chó cái nghĩa là bốn câu đầu là c, c, c và c; cắn bạn đau chẳng ai đền là c, b, d, c, a và d.
Quả thật bùa của nó rất linh, hôm đó tôi được 20/20. Lương xuống BX (Base Exchange) mua sắm, nó muốn mua một bộ đồ ngủ để mặc buổi tối. Ông nông dân này muốn đóng vai phú hộ trưởng giả ngày xưa. Nó ôm về một bịch ni lông trên đó đề rõ ràng chữ Pajama, nhưng mở ra thì cái quần cụt ngang đầu gối và cái áo cổ trái tim! Lương mặc vô trông rất cũn cỡn, nó chữa thẹn bằng câu khen: "Hết xẩy" rồi uốn éo đi tới đi lui như một tên GAY chính hiệu.
Đến nay hơn 30 năm đã trôi qua mà tôi vẫn còn hình dung được cái dung nhan Uất Trì Cung của nó rất tương phản với bộ đồ ngủ, mà tôi cứ ngờ ngợ là dành cho đàn bà. Lương ở khu GOẠP trong căn cứ (WAF: Woman Air Force) nhưng hầu như tuần nào nó cũng đón xe bus lên chỗ chúng tôi ở, những lúc này là lúc bạn bè tâm sự nhiều nhất, và cũng là lúc nó chọc thằng Tú nhiều nhất. Nó hỏi:
- Ê Hố Lai (Hố Nai) nghe nói ông cố nội mày ở gần nhà bà hàng xóm ông thầy đồ phải không?
Thằng Tú không hiểu nó muốn nói gì, nhưng cũng vặn lại:
- Ừ rồi sao?
- Vậy chắc mày rành điển tích lắm. Mày có biết ông Lê Quý Đôn than rằng "Phi công nghèo lắm ai ơi. Áo thời thiếu nút quần thời thiếu lưng" không?
- Xạo vừa vừa thôi bố, thời đó làm gì đã có máy bay.
Lương gân cổ lên:
- Thằng nhãi ranh, nói có sách mách có chứng đây này. Ông Lê Quý Đôn có nói: Phi trí bất hưng. Phi công bất phú. Phi nông bất ổn. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú không phải lái máy bay nghèo mạt rệp là gì?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287181582.jpg

Thời gian du học sung sướng trôi qua nhanh, chúng tôi đều tốt nghiệp rồi về nước nhưng mỗi đứa một nơi. Lương ra Nha Trang lái A37; Tú lái trực thăng ở Phù Cát còn tôi Biên Hòa. Hôm Lương về SG rủ tôi xuống xứ Bùi Thái thăm thằng Trinh, bạn cùng khóa 69A nhưng sau thiếu sức khoẻ phi hành nên đổi ra Bộ Binh. Lương nghe đồn là kế bên nhà Trinh có ông bán bánh mì bị ma bắt.
Câu chuyện thật hoang đường nhưng sự kiện thì rất khó giải thích theo khoa học. Khi chúng tôi đến Bùi Thái thì ông bán bánh mì vẫn còn nằm trong buồng, đầu tóc rụng trọc lóc. Người nhà kể trước đây ông vẫn lên chợ Thủ Đức lúc ba bốn giờ sáng lấy bánh mì về bán rong. Hôm ấy như thường lệ ông chở một sọt đầy bánh mì đem về, khi chạy ngang Nghĩa trang Quân Đội Biên Hòa thì có người gọi lại mua cả sọt. Ông nhìn mặt quen quen nhưng không nhận ra là ai. Mừng vì hôm nay được nghỉ sớm, ông ngủ một giấc nữa rồi ngồi dậy móc tiền ra đếm thì hỡi ơi, toàn là tiền vàng mã, loại để cúng người chết.
Lúc này ông mới sực nhớ lại khuôn mặt người mua bánh lúc sớm, đúng y như bức tượng Thương Tiếc mà ông vẫn thấy mỗi ngày khi chạy ngang qua nghĩa trang! Ông Bánh Mì hồn phi phách lạc, ông ốm luôn và mấy hôm sau thì tóc rụng sạch.
Lương trầm ngâm nói:
- Nghĩa Trang Quân Đội linh lắm. Nếu có chết, tao thích nằm ở đó hơn là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Vài tuần sau trong lúc ngồi hớt tóc, tôi đọc báo thấy phân ưu kín cả trang cuối, đọc kỹ thì ra đó là thằng Tú, vừa gãy cánh ở Phù Mỹ, Qui Nhơn. Tôi lặng người, thương tiếc một đứa bạn thân vừa hy sinh cho dân tộc.
Năm 1973 Lương đang bay A37 ở Nha Trang thì chuyển về phi đoàn F5 Biên Hòa. Nó tâm sự là tuổi mình cũng đã lớn, gia đình muốn nó "có nơi có chốn để gửi tấm thân", nên lập gia đình với một người mà Lương mô tả là hết xẩy. Khoảng hơn năm sau, có đứa con trai đầu lòng nó khoe với tôi:
- Tao đặt tên con là Vũ, chữ vũ là mạnh, là mưa, là... nhiều nghĩa lắm.
Tôi chọc nó:
- Ừ "Vũ ỷ mạnh, Vũ ra Vũ múa. Vũ gặp mưa Vũ ướt hết lông".
Lần cuối cùng tôi gặp Lương ở quán cà phê của phi đoàn nó, hôm đó nó đang trực hành quân. Tôi hẹn hai ngày nữa gặp nhau ở nhà Lương ngoài Tân Mai nhậu chơi.
Vài hôm sau, khoảng 5g chiều tôi từ SG lên Biên Hòa, vừa quẹo vào con hẻm nhỏ thì thấy chị của Lương. Tôi chưa kịp hỏi thì chị òa lên khóc:
- Thằng Lương nó đi hai ngày rồi không về.
Tôi tưởng nó biệt phái vùng khác nên nói:
- Biệt phái ít ngày rồi về chứ có gì đâu mà khóc.
- Không phải cậu ạ. Người ta nói nó nhảy dù khi máy bay bị bắn rớt.
Đoán là đã có chuyện khẩn cấp nên tôi hỏi vài câu rồi vọt vô phi đoàn, thấy Phi vụ lệnh có chiếc sẽ đi rescue chiếc F5 bị rớt tôi tình nguyện đi liền.
Khi chúng tôi đáp ở Bộ Tư Lệnh QĐ III để nhận tin tức của Quân Báo, thì vị Th/tá Trưởng phòng nói:
- Thôi anh về đi. Tin nhận được là tụi Trung Đoàn 24 Chiến xa BV đã bắt được phi công rồi!
Tôi trở về phi trường, lấy xe chạy ra nhà Lương thì chỉ gặp cô Mừng, cháu gái của Lương đang coi nhà. Tôi cũng không biết báo tin thế nào cho ổn nên xã giao vài câu rồi ra xạp báo đầu đường mua tờ Tuổi Ngọc, trở lại đưa cho cô bé, trong đó có kẹp tờ giấy ghi vài dòng: "Cậu Lương đã bị VC bắt. Báo cho ba má cháu biết".
Hôm ấy đứa con trai của Lương mới được 20 ngày.
Đời phi công, có lẽ khổ tâm nhất là lúc đi báo cho thân nhân biết bạn bè mình gẫy cánh. Có một lần tôi phải ra Biên Hòa báo tin là thi hài Đ/úy Hoài đã tìm thấy ở Hạ Lào. Tôi cứ đinh ninh rằng gia đình ông đã biết Đ/úy Hoài chết trước đó cả tuần lễ. Thực ra BTL/KQ chỉ báo là ông bị mất tích vì chưa lấy được xác. Khi tôi báo tin xong, cô em gái Hoài la lên:
- Má ơi, anh Hoài chết thật rồi.
Cô ngã ra bất tỉnh. Cả nhà vang tiếng khóc.
Khi tôi đổi ra Phù Cát, nghe đồn là SĐ 25BB có thấy một xác chết lâu ngày ở trong rừng, còn mặc đồ bay, tôi cứ ngờ ngợ, không biết có phải là xác của Lương không.
Năm 1978 sau khi đi tù về, tôi bị quản chế nên thường bị Công an gọi tập trung lên Huyện, gặp một người trông quen lắm, anh ta gọi tôi:
- Ê Toàn, tao là Hà Diên Tuynh bạn học ngày xưa đây. Có phải mày quen thân với thằng Lương lái F5 không?
Thì ra trước đây tôi cũng tưởng thằng Tuynh đi BB tử trận ở Bù Na gần Đồng Xoài.
Tôi ngạc nhiên sao thằng này lại biết Lương (?)
Nó kéo tôi ra xa xa rồi kể:
- Tao bị bắt làm tù binh rồi bị đưa ra Bắc, nhốt chung một chỗ với thằng Lương lâu lắm. Khi biết nó là pilot, tao mới hỏi nó có biết mày không, thì ra tụi mày là bạn cùng khóa. Thằng Lương gan cóc tía, mấy tay quản giáo đì nó lắm vì nó là "Lãnh tụ" trong tù của bọn tao đó. Cũng vì vậy mà hiện nay nó vẫn còn bị tù ngoài Bắc đấy. Hôm tao về có ghé nhà nó đưa thư.
Tôi mừng khi nhận được tin này, nhưng cũng buồn cho số phận hẩm hiu của Lương, sau bao nhiêu năm tù tội mà vẫn chưa được thả cho về.
Tỵ nạn tại Mỹ, một lần trong giấc mơ tôi gặp lại Lương. Nó ôn chuyện cũ với tôi, về những lần đánh xe tăng vào Mùa Hè Đỏ lửa, về chuyện nó ốp thằng Trung (Nguyễn Thành Trung thả bom Dinh Đọc Lập) khi bắt gặp thằng này đi trượt patin ở Bình Triệu mà mặc đồ bay. Tôi mất liên lạc với gia đình Lương đã lâu, nhưng vẫn mường tượng bạn mình đã chết trong tù. Tôi mong mỏi có ngày nào đó được tin xác thực của Lương.
Vào đầu tháng Giêng năm 2004, Email của Khóa 69A có bản tin nói rằng ít tháng trước khi mất nước, tại núi Bà Đen Tây Ninh, có một phi công trực thăng thuộc khóa 69A đã cứu được Phan Huy Bách cùng khóa với mình (Bách là con của cựu Thủ Tướng Phan Huy Quát) khi chiếc A37 bị bắn rơi và Bách kịp bung dù. Còn hai phi công nữa cũng lái A37 thì bị VC bắt, trong đó có Trần Văn Lương, tự Lương Răng Vàng.
Tôi trả lời email trên là Lương Răng Vàng không rớt tại núi Bà Đen; Lương cũng không còn lái A37 nữa mà vào năm 74 nó đang lái F5 và rớt khi đang lái loại máy bay này, chứ không phải mãi đến năm 75 mới bị bắn rơi với chiếc A37.
Ít lâu sau, Nguyễn Tài Cơ cho tin đích xác: Lương đã chết trong một trại tù miền Bắc. Hoàng Gia Viễn bạn học cùng khóa T28 với Lương còn cho biết chị Lương đang sống ở Washington và cho số phone để anh em liên lạc.
Cuối cùng tôi đã liên lạc được với chị Lương. Hiện nay chị đang sống với người em tại Seattle. Cháu Vũ đã học thành tài và đang làm việc ở California. Chị cho tôi biết kể từ khi Lương bị bắt, gia đình không được một tin tức gì, cho mãi đến sau ngày mất nước mới nhận được tin chồng còn sống và bị giam ở ngoài Bắc. Qua bao nhiêu khổ ải chị mới tìm ra chỗ trại giam, lúc này Lương đã bị bịnh thật nặng, chỉ còn da bọc xương, bạn bè phải cõng ra chỗ thăm nuôi.
Trở về SG, chị vội vã mua thuốc men để ra thăm lần nữa, nhưng không kịp nữa rồi, có người được thả về tới báo tin anh Lương đã nằm xuống vĩnh viễn ngay vào ngày kỷ niệm hôn nhật của hai người, tại một vùng đất có tên là trại Đô Lương, Nghệ Tĩnh, có ám số là AH 118 NT K2. Chị Lương đã nhiều lần cố gắng tìm hài cốt của chồng nhưng chưa kết quả. Chị hy vọng một ngày rất gần sẽ kiếm được mộ phần của chồng để di chuyển về miền Nam.
Vậy là hơn 30 năm, chúng tôi đã nhận tin tức chính xác về Lương, đêm hôm đó tôi ngủ mơ gặp lại nó đang đứng cười, không nhận ra hai đứa đang ở đâu, nhưng cả hai đều vui vẻ lắm. Nơi cõi thiên thai nào đó có phải Lương đang hài lòng vì cuối cùng, toàn thể các bạn đồng khóa cũng đã biết số phận của Lương, tuy buồn thương nhưng cũng thật dũng cảm, một cánh đại bàng đã gãy cánh nơi chiến trường, sa vào tay địch, vẫn ngửng cao đầu lên đến ngày cuối của cuộc đời.
Lương, anh hồn mày nơi vĩnh hằng xin về với chúng tao, cả khóa 69A họp mặt lần thứ 40 kể từ ngày bọn mình quen nhau, để tưởng nhớ đến mày, thằng Tú, thằng Toản, thằng Sương... Và nhiều đứa bạn khác đã nằm xuống cho quê hương mình. Bọn tao đã liên lạc được với gia đình mày. Xin chúc mừng con mày, không hổ danh là con một phi công, cháu Vũ đã thành đạt nơi xứ người, tiếng Anh hẳn là lưu loát không còn phải nói "Xi nô xì líp" như mày ngày nọ. Vợ mày, chị Lương đã ở vậy thờ chồng nuôi con khôn lớn từ ngày mày nằm xuống, cho dù lúc ấy tuổi mới ngoài hai mươi.
Hãy cùng chúng tao cầu nguyện cho quê hương mình mau quang phục, để chúng tao và những người thân của mày có dịp về lại Việt Nam, đón rước thi hài đại bàng gãy cánh trở về, cùng với hài cốt của những đồng đội đã bị tứ tán mọi nơi về an táng tại Nghĩa Trang Quân Đội, nơi mày từng ao ước được nằm bên cạnh những chiến hữu chung một màu cờ.

Phương Toàn

hung45qs
10-19-2010, 03:11 PM
Đoạn đường Alpha

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287502810.JPG

Những ngày tháng chờ khóa học thật là dài và chán nản, không hiểu sao khu tạm trú Tân Sơn Nhất không gợi cho tôi một ấn tượng tốt đẹp nào cả. Có lẽ nằm không rồi cũng chán thì phải. Thôi thì ngày nào cũng như ngày nào...Sáng 8 giờ tập họp điểm danh, tiếp đến là phần điểm tâm rất ư là thịnh sọan...Một phần ba ổ bánh mì(Khi thì đường, lúc thì chuối, khi thì sửa hộp ) Sau phần điểm tâm là những thủ tục giấy tờ như : Ký Khế ước phục vụ trong Không Quân, lãnh quân trang...Và sau đó thì...Tự do nghĩ.....mặc tình mà khuây khỏa cho đến 11 giờ lại phải khăn gói đến Nhà Bàn (Nhà ăn) làm phận sự cho cái dạ dầy đòi hỏi. Hỡi những ai từng ở khu tạm trú của Thượng sĩ Tiến chắc hẳn cũng biết đoạn đường đi đến Nhà Bàn dài như thế nào rồi nhỉ! Thú thật với các bạn cái tính lười biếng cố hữu đời học sinh còn vướng vào tôi khá nhiều, cho nên chỉ nghĩ đến cái nắng gay gắt của ban trưa và đoạn đường dài xa tít đó là tôi đủ lắc đầu rồi. Vì vậy không còn con đường nào tốt nhất bằng cách nhờ bạn bè “Chôm” cơm về phòng ăn. Như thế các bạn sẽ cho tôi là lợi dụng bạn bè chứ gì? Không đâu thưa các bạn! Đời có qua có lại mà! Mỗi lần đem cơm về, tên nào cũng than thở nào là:
-Hôm nay các bộ kiểm soát dữ lắm! Phải là tao mới đem về được.
Hoặc là:
-Mệt quá! Tới ba bốn thằng nhờ lấy cơm nên chẳng ăn được bao nhiêu...
...vân vân và vân vân...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287502873.JPG

Nghe bạn bè than như vậy, ai mà không cảm động phải không các bạn! Thế rồi những món ăn mang theo từ gia đình nào là: Thịt kho, chà bông, đồ hộp......mang ra mà chiêu đai. Cơm đem về thì chẳng bao nhiêu, mỗi người một ít, thì các bạn cũng dư biết thân hình tôi càng ngày càng tiều tụy như thế nào rồi. Thôi! Than thở mà làm gì! Đã lỡ mang bệnh lười thì đành chịu chứ biết than với ai bây giờ...Thế là xong một buổi sáng rồi đó. Bây giờ thì mặc tình mà đi tắm (Thật ra là tránh né một chút chứ không phải công khai) hoặc tán gẫu với bạn bè cho vui, thường thì chủ đề xoay quanh những ngày sắp tới, những tương lai thật gần...Tất cả cũng chỉ là tưởng tượng và là những tưởng tượng hoàn toàn không giống chút nào hết sau này...
Buổi sáng rồi cũng qua nhanh. Sau giấc ngủ trưa khá dài, đến 02 giờ thì lại phải tập họp lần thứ hai trong ngày. Tập họp trưa là điều mà chúng tôi ngao ngán nhất...Tuy nhiên cũng có ngày cán bộ thấy vui vì một chuyện nào đó nên cho tập họp trong phòng..Khoan khoái nhất và sung sướng nhất, vì chỉ việc điểm danh xong là rung đùi nghe nhạc bên tách cà phê trong câu lạc bộ, hoặc lang thang ngoài chợ trời, và có thể ...tại gia...tùy ý thích. Buổi tối, lần tập họp cuối cùng trong ngày cũng chỉ điểm danh rồi tha hồ mà...Im lặng nghĩ và Tự do nghĩ...
Rồi thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, những tháng ngày chờ đợi, những một ngày như mọi ngày rồi cũng trôi qua êm ã.Hơn nữa tháng trời “Đi lính” vẩn chưa thấy gì là lính, ngoại trừ bộ quân phục kaki xanh, với hai mảnh vải màu đỏ chữ trắng hai bên ngực. Một bên là bảng tên, một bên là hàng chữ SVSQ (Có thằng gọi đùa là sợ vợ sút quần) Thôi thì chưa có lúc nào chán như lúc này. Các bạn thử nghĩ xem: Giã từ một ghế ngồi nơi trường sư phạm, bỏ lại sau lưng tuổi học trò vàng son yêu dấu,
và ngay cả can đảm xa rời người yêu để tình nguyện vào Không Quân, vào đây để mong thực hiện được ước mơ của những ngày còn thơ ấu. Vậy mà đến giờ phút này chẳng thấy gì gọi là bay bổng, chẳng thấy gì là những phi công với bộ đồ bay ngang tang đi mây về gió hết. Tất cả chỉ có ....chờ đợi ...và...chờ đợi...
Sau một đêm Giáng Sinh với những niềm vui trọn vẹn. Chúng tôi càng hạnh phúc hơn khi được hưởng một đêm Giao thừa Dương Lịch bên những người thân trong gia đình và cả những bạn bè còn đi học. Niềm hạnh phúc sau cùng của đời học sinh của chúng tôi là đây...Thời gian lại trôi qua êm ã...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287502961.JPG
Ảnh của niên trưởng Phạm quang Khiêm

Tôi còn nhớ! Một sáng thứ ba trời nắng đẹp .Chúng tôi đã sẳn sàng khăn gói đến bãi chờ phi vụ đi Nha Trang. Khí hậu lành lạnh của một sáng Sài Gòn những ngày giáp Tết làm chúng tôi thấy dễ chịu là lạ. Cùng chuyến đi với khóa tôi có vài mươi mạng khóa đàn anh 72E (Các ngài về Sài Gòn để thi Anh ngữ) Chao ôi! Nhìn Alpha trước ngực các ngài mà ước ao mà thèm muốn .Tôi nhủ thầm: Sau một tháng huấn nhục thì mình cũng Alpha, cũng ta đây chứ có thua gì các ngài đâu. Nhưng mà ...chỉ nghĩ đến ...Huấn nhục...tôi bất chợt rùng mình...Ba mươi ngày huấn nhục, ba mươi ngày chịu đựng những hành hạ xác than, ba mươi ngày để không biết mình là ai, để tôi luyện, để trưởng thành...Ba mươi ngày......Thời gian sao mà dài ghê gớm quá! Dù sao thời gian chờ phi cơ cũng là dịp để chúng tôi hỏi thăm về những gì sẽ xảy đến cho mình. Thôi thì khỏi nói! Các đàn anh tha hồ vẽ rồng vẽ rắn với chúng tôi...Mặc dù chúng tôi cũng biết khá nhiều về quân trường sắt thép đó, qua những gì tìm hiểu trước khi vào lính. Vậy mà bây giờ chính những người đi trước chúng tôi đang kể lại, đang liệt kê những món ăn chơi mà mình sẽ thưởng thức càng làm cho chúng tôi lo âu và chán nản hơn bao giờ. (Lúc này mà gửi khám ECG thì Inapte là cái chắc).


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503037.JPG
Phi trường Nha Trang

Dù sao thì việc gì đến rồi cũng đến. Khi ánh nắng vỡ tan, phá loãng đi màn sương mù còn vướng lại. Bọn chúng tôi kẻ đứng người ngồi đã sẳn sàng nơi phi đạo. Vậy mà đến tận 12 giờ trưa mới có tàu về Nha Trang. Hai chiếc vận tải C130 khổng lồ từ từ hiện đến gầm gừ như đe dọa nuốt trọn chúng tôi vào hai con cá mập khổng lồ này. Tôi không may hơn các bạn mình, nên hân hạnh cùng đàn anh đi chuyến trước và...
-Đi trước thì rách trước.
-Kiến vàng chờ đầy dưới phi đạo đó! (Là những đàn anh mặc quân phục kaki vàng)
-Ít lắm cũng vài mươi mạng đi bệnh xá.
-Khóa đàn anh 72C có 2 người tự tử. Thế nào mấy ông cũng có dịp lên núi thăm mồ niên trưởng...
Thôi thì tràn ngập những lời hăm dọa, những lời an ủi...Tôi cố làm ra vẽ thản nhiên vác sắc (Túi quân trang) bước vào lòng con cá mập khổng lồ. Ba phi công người Mỹ đã sẳn sàng và sau vài dấu hiệu riêng biệt, cửa phi cơ từ từ đóng lại ngăn cách chúng tôi với thế giới bên ngoài. Đúng 12 giờ 5 phút phi cơ từ từ cất cánh .Tôi nhổm dậy nhìn qua ô cửa kiếng. Sài Gòn đẹp như những lời ca ngợi nó thời tôi còn là học sinh tiểu học. Từng khu phố cao vời vợi như có bàn tay khổng lồ nào sắp xếp một cách ngăn nắp giữa những con đường ngập nắng. Tôi đưa mắt nhìn những hình ảnh yêu dấu đó lần cuối rồi ngồi xuống và không quên thốt lên lời giã biệt:
-Sài Gòn ơi! Tạm biệt mi Sài Gòn nhé! Hẹn ngày ta trở lại với màu áo Sĩ quan...
Phi cơ bay được khoảng 30 phút, mọi người đa số đều lim dim đôi mắt, hoặc gục đầu trong giấc ngủ gượng gạo. Tôi thì không .Có lẽ hơi lạnh của chiếc máy trong tàu làm tôi thấy thoải mái và dễ chịu. Thỉnh thoảng tôi còn nhóm dậy hầu tìm kiếm một vài hình ảnh thơ mộng của quê hương Việt Nam yêu dấu...
Mới đấy mà đã gần đến 01 giờ, bên dưới cánh máy bay là vịnh Cam Ranh tuyệt đẹp. Màu xanh của biển ngăn cách bởi những bãi cát trắng phau phau, đẹp không bút mực nào diển đạt nỗi. Phi cơ giảm dần cao độ, tiếng xôn xao bắt đầu vang vọng trong lòng tàu. Phi trường Nha Trang dần dần hiện rõ dưới mắt tôi. Từng trái núi màu xanh chạy lùi lại phía sau. Khuôn mặt chúng tôi bắt đầu lo sợ thật sự. Tiếng bánh xe chạm nhẹ vào phi đạo đã đánh thức nỗi lo, nỗi sợ, tiếng thở dài và cả tiếng cười méo xệch...
Cửa phi cơ từ từ bật xuống. Một luồng gió mang đầy chất mặn của biển cả thổi thoáng qua, như mời mọc, như chào đón chúng tôi đến để chiêm ngưỡng cái nắng, cái mỹ miều của miền Thùy Dương cát trắng...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503211.JPG

Xuống phi cơ chúng tôi tập họp thật nhanh. Một vài ca khúc lại trỗi lên:
-Ũa! Sao không thấy kiến vàng nào hết vậy?
-Chắc mấy ổng gần tới rồi! Chuẩn bị đi...
Tôi lầm chăng? Không! Đôi mắt của tôi đã qua phòng khám của Trung Tâm Y khoa Không Quân (Nơi mà biết bao thanh niên phải vỡ mộng mây trời vì mắt yếu)
Làm sao mà tôi nhìn lầm được. Nhưng sự thật thì vẫn chưa thấy một bóng áo vàng nào cả. Sự trống vắng càng tăng thêm phần hồi hộp cho chúng tôi. Một vài giọng đàn anh chỉ vẽ:
-Mấy ổng chưa tới thì ăn uống xã giản đi tôi gì mà nhịn đói.
-Ăn cho đã đi chút nữa không còn dịp đâu.
Như chợt nhớ ra điều chí lý này. Chúng tôi chen nhau vào một nhà ăn gần đó. Thôi thì bánh mì và nước ngọt thay nhau mà mời mọc. Tôi mới gặm được nữa ổ bánh mì, là đã thấy một trước mặt một xe buýt màu xanh Không Quân và một GMC mui trần vừa đậu lại. Vội quá! Tôi đã phải mắc nghẹn đến hai ba lần phần bánh mì mới vơi đi chút ít. Bấy giờ giọng nói ẻo lã của Thiếu úy Hoàng người hướng dẫn chúng tôi (Thực ra đây là sinh viên sĩ quan đàn anh bị Inapte an ninh hay cái gì đó, chưa được đi học nên lo nhiệm vụ hướng dẫn khóa sinh ra đây. Chúng tôi gọi đùa Thiếu Úy để an ủi ông đàn anh bất hạnh này) vang lên:
-Toán đi đầu lúc nảy lên xe buýt trước. Còn khóa 72E đi GMC về Ngân hà. Một lần nữa tôi lại than thầm trong bụng:
-Ôi! Hôm nay sao mà xui xẻo thế!


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503340.JPG

Miệng thì lầm bầm như vậy, mà chân thì cứ bước đều đến cửa xe. Chiếc GMC chạy trước, vài cánh tay đưa lên vây vẩy chúng tôi. Toán còn lại cũng bắt chước cái màn tạm biệt ấy. Xe từ từ lăn bánh, tôi ngồi gần bên cửa nên tha hồ mà trố cặp mắt ếch ra nhìn cảnh lạ. Cảnh vật đối với tôi hoàn toàn xa lạ, từ cành cây đến ngọn cỏ.
-Nhưng sao chỉ toàn là núi và trại lính trông đến phát khiếp vậy!
Tôi nhủ thầm trong bụng, tai vẫn nghe tiếng trả lời của bác tài xế già:
-Gần tới rồi đàn anh chờ đông lắm!
Than ôi! Chỉ nghe như thế là đủ thấy nổi da gà rồi. Một giọng nói từ cuối xe vọng lên:
-Về Phi Dũng hay Ngân Hà bác tài?
Tiếng ông lính già thật cộc lốc:
-Phi Dũng.
Vài tiếng ồ vang lên. Một giọng nói có vẽ ta đây thành thạo lắm:
-Xui quá! Chừng qua Ngân Hà lại rách một lần nữa.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503407.JPG
Trại Phi Dũng

Mặc những tiếng nói bên tai. Tôi khép kín đôi mắt lại, thầm mong cho đoạn đường dài thật là dài, và chuyến xe cứ chạy mãi như vậy. Nhưng rồi xe cũng có bến và tàu cũng có bờ. Những tiếng ồn ào lại trỗi lên khiến tôi phải bừng mắt dậy. Từ xa xa xuất hiện một trại lính, mang dòng chữ Phi Dũng vừa cũ kỹ vừa trơ trọi trông phát ghét. Xe từ từ dừng lại, hàng chục chiếc áo vàng ùa đến như là cọp tìm thấy mồi vậy.
-Xuống xe nhanh lên coi. Mấy ông lè phè phải không?
-Tôi đếm ba tiếng đếm tập họp không xong là rách như cái mền đó!
-Đến đây mấy ông đừng mong về Sài Gòn nữa.
-Tập họp như vầy phải không? Một trăm công lực coi...
-Ông nào liếc đâu? Ông này nè! Rã đây coi...

Thế rồi xen lẫn trong tiếng thét, tiếng đập vào thành xe, là những tiếng nhảy bình bịch của chúng tôi vang lên đều đều như nhịp trống quân hành .Thôi thì người bò, người nhảy, người chạy...Những con người ướt đẫm mồ hôi của chúng tôi đang bắt đầu viết lên trang đầu tiên của con đường Alpha đầy gian khổ này. Thế rồi!” Đi trước thì rách trước” kéo dài cho đến khi hai chuyến xe nữa đỗ các bạn tôi đến đầy đủ, thì mới bắt đầu làm thủ tục chào quân trường .Vừa vác sắc chạy vào đến cổng .Chúng tôi phải rùng mình khiếp đãm vì những tiếng hét cùng vang lên một lượt:
-Bò xuống! Bò xuống hết coi...
Hai tay ôm túi quân trang tôi vừa định” Ăn gian” bò bằng hai bàn tay thì...
-Bò thấp xuống coi! Ông nào ma giáo đâu ra đây...
-Bò bằng hai cánh chõ biết không! Ông nào không biết ra đây...

Than ôi! Vừa nắng vừa bụi, vừa xót xa bởi hai cánh tay rướm máu vì những viên đá xanh lót đường. Thú thật với các bạn! Tôi quá ngao ngán hào quang lấy không gian làm lý tưởng rồi. Trong tôi bây giờ không còn anh chàng pilot hào hoa phong nhã, không còn mộng mây trời đi mây về gió ,chỉ mong có một phép lạ nào đó cho chúng tôi được bình yên , được bình thường như mọi người....Có hối hận , có muốn ra bộ binh , hay muốn xin về dân sự ...Tất cả đã muộn màng...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503478.JPG

Ôi! Không gian giờ đây ta mới biết,
Mộng mây trời đã giết chết đời ta.
Hối hận ư! Thôi đã muộn rồi!
Ta thèm khát một khung trời thoải mái...
Vừa bị phạt vừa ngâm câu thơ đàn anh dạy cho sao mà bất mãn quá!
Chạy đi ông đừng tà tà ở đó!
Bò đi ông đừng có lếch có la...
Không quân này không chấp nhận bê tha,
Ông ở đó là ông thác đó!...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503569.JPG

Chưa hết......
Trăm công lực mặt mày tôi méo mó
Chống thế chờ rát bỏng cả hai tay
Cán bộ ơi! Hành xác đã dài dài
Xin cho được một vài giây khuây khỏa...
Đoạn đường “Chiến binh” từ cổng vào đến sân tập họp dài khoảng hai trăm mét. Còn đường không dài, nhưng hình phạt thì không sao kể hết...Nhảy công lực, nhảy xổm, hít đất, quay sắc, gà chết, Quan Công ngồi ghế đẩu...Toàn là những tên gọi nghe là thấy lạnh mình.
Ấy vậy mà trong giờ phút bi đát này, có bạn nào không may ngất xĩu (Dù thật hay giả) đều bị cởi áo và kéo dài trên sân ximăng, hoặc đổ nước vào mũi. Khóa tôi có Nguyễn duy Kim không may gặp một đàn anh kéo ra “ưu ái” ,và sau màn mến bạn ấy suốt tuần lễ Kim chỉ có ở trần và nằm xấp.( Chắc hẳn sau này Kim sẽ có dịp kể lại cho người thân nghe về những chứng tích, kỷ niệm còn vương lại trên tấm lưng của mình)Những hình phạt cứ thế tiếp diển đều đều cho đến 08 giờ tối, chúng tôi mới được bò vào Phạn Xá dùng cơm (Nhà ăn).Suốt nữa ngày trời mệt nhoài dưới nắng, đôi môi tôi đã khô và nứt nẻ tự bao giờ. Phần cơm trong mâm đã được tôi thanh toán một cách vội vã. Nhưng nào có yên được đâu:
-Mấy ông uống hết nước mắm coi.
-Ông nào uống canh nhiều là Inapte tim đó!
-Mấy ông không muốn bay bổng phải không?
-Uống nước mắm để giữ mồ hôi, mấy ông uống nhiều lên coi...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503634.JPG

Phần mệt, phần đói và khát, cơm nuốt còn không nổi làm sao mà uống nước mắm đây. Một anh bạn ngồi trước mặt tôi vừa uống một muỗng nước mắm là ói cả thức ăn ra bàn...
-Trời ơi! Ông chê cơm Phạn Xá phải không?
-Tư cách của ông như vầy phải không?
-Trong ba tiếng đếm ống nuốt vào coi...
Hai ba niên trưởng (Niên trưởng chăm sóc ăn uống là khóa 72G) ùa đến và ra lệnh cho anh bạn nuốt phần thức ăn vừa ói trên bàn...Chao ôi! Trong gia đình cha mẹ có bắt buộc chắc củng chẳng ai thi hành. Ấy vậy mà anh bạn tôi làm ngon ơ.
Có bao giờ các bạn thấy cảnh này chưa? Tôi và các bạn ngồi gần đấy đang muốn tống hết những gì trong bụng mà ban trưa cố nhét vào....Bây giờ thì đang đưa tay lên cổ mà chận mà đè nén lại. Đứng trước cảnh tượng này, không anh chàng nào đủ can đảm đóng vai chính như anh bạn vừa rồi. Dùng cơm xong, về phòng chúng tôi lại phải qua một màn kiểm soát quân trang nữa. Ôi thôi! Đủ thứ tạp nhạp nào là: Bánh ngọt, chà bông, dao làm, thuốc bổ... đủ mọi thứ trên đời...Cán bộ của chúng tôi lại có thêm một màn vui vẽ nữa...Tất cả những thức ăn, quà bánh mang theo đều phải mang ra mời bạn dùng (Thời gian huấn nhục không cho ăn uống bất cứ món gì ngoại trừ cơm và bánh mì buổi sáng)


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503734.JPG

Hôm đó tôi đúng là bị sao quả tạ chiếu. Bạn bè trước mặt được nếm mùi chanh ngon đáo để, đến phiên mình được tặng ngay vào họng miếng bánh to tổ bố mà còn phải cám ơn bạn nữa chứ! Nếu không có cán bộ là tôi đã có màn nói tiếng Đan Mạch rồi. Đêm đó gần 11 giờ chúng tôi mới được tạm yên để đi ngủ. Một giấc ngủ mệt nhọc đầy kỹ niệm nhớ đời vừa trôi qua rồi đó!
Sáng thứ tư! Mới 06 giờ sáng là những tiếng quát tháo ầm ĩ vang lên khắp phòng. Không hiểu một động lực nào trợ giúp, mà chúng tôi thật nhanh chóng có mặt ngay đầu giường. Nhưng nào có yên được đâu...
-Trưởng phòng đâu! Cho cả phòng 100 công lực cho tỉnh ngủ coi.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503797.JPG

Thế là những tiếng nhảy bình bịch lại trỗi lên, mở đầu cho bản nhạc số 2 của bản trường ca 30 tập. Sau phần tỉnh ngủ, mỗi người được điểm tâm bằng một ổ bánh mì với chuối. Không được đánh răng, súc miệng vậy mà tôi ăn bánh mì ngon hơn bao giờ hết. Buổi sáng vẫn những hình phạt hôm qua tái diển, cho đến khi dùng cơm trưa xong thì được lệnh lên giường ngủ một giấc khuây khỏa. Lúc này tôi chợt nghĩ huấn nhục mà như vầy thì không sao, mình chịu đựng được. Tôi lầm! Vâng một cái lầm to lớn. Đang mơ màng trong giấc ngũ, tôi giật mình vì những tiếng hét, tiếng dậm chân từ ngoài cửa vọng vào...
-Thức dậy hết coi! Trời ơi! Huấn nhục mà ngủ phải không?
-Trong ba tiếng đếm tất cả đứng hết đầu giường coi...
-Trưởng khóa đâu! Cho cả phòng một trăm công lực coi...
Thế là từng nhịp điệu lại vang lên trong Phi Dũng 13.Sau phần tỉnh ngủ, bây giờ mới vào phần chính: Vác sắc đi “Chào Đại bàng” Ôi! Con đường đi đến Thần ó sao mà dài thăm thẳm quá! Tôi không biết là dài bao nhiêu cây số, chỉ biết sau này có dịp đi bộ mỏi nhừ cả đôi chân. Sau khi được Thiếu tá Liên đoàn phó Liên đoàn khóa sinh chấp nhận lời tuyên thệ: Trung thành với Tổ Quốc và Không Gian...Chúng tôi lại phải 1,2....3,4...chạy về trại.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503863.JPG
Thề Trung Thành với Tổ Quốc và Không gian

Trên đường về có vài cánh chim 73A ngất xỉu phải nằm lên xe chở về trại. Tôi gắng lắm mới lết được thân tàn về đến trại. Hình ảnh của ngày hôm qua lại tái diễn. Hôm nay thì có quá nhiều người đi bệnh xá, và cũng chính từ hôm nay chúng tôi mới chính thức là Tân Khóa sinh của binh chủng Không Quân....
Những ngày dài gian khổ cứ thế lần lượt trôi qua. Một ngày như mọi ngày...Sáng sớm tập thể dục ngoài phi đạo, cả ngày học quân sự, chiều về tập cơ bản thao diễn...tối thì dành cho phạt và phạt.....Thời gian cứ trôi và chúng tôi như là nhũng người máy, bấm nút vận hành và vận hành...Nhưng rồi cũng có một ngày phá bỏ lời hăm dọa của cán bộ:
-Tư cách mấy ông như vầy còn lâu lắm mới gắn Alpha...
-Ngày Alpha của mấy ông còn xa lắm!
-...................................
Hôm đó! Sau một chiều đi học quân sự về. Chúng tôi được nghĩ tập cơ bản thao diễn như thường lệ. Các bạn ơi! Niềm vui chờ đợi cả tháng trời là đây....
-Đêm nay sẽ là đêm lột xác khóa 73A. (Từ bỏ kiếp Tân khóa sinh để trở thành Sinh Viên Sĩ Quan)
Khẩu lệnh của cán bộ sao mà dễ thương quá! Có lẽ đây là lần duy nhất trong 30 ngày qua khẩu lệnh này được hoan nghênh nhiệt liệt. Lột xác là gì nhỉ! Tại sao chúng tôi mừng vui? Thì đây mời các bạn....Trước hết là phần trao găng tay vào lúc 10 giờ đêm. Buổi lễ này có lẽ còn trang nghiêm hơn cả lễ gắn Alpha. Nhìn những khuôn mặt hồi hộp lo âu và bẽn lẽn trong bộ kaki vàng còn thơm mùi vải mới. Tôi thật sự xúc động! Có một điều gì đó lâng lâng trong lòng mà không sao diễn đạt được. Một cán bộ đại diện (Niên trưởng Phạm Tưởng khóa 72A không phi hành) đứng ra chủ trì buổi lễ. Sau đôi lời phi lộ và cả lời mời gọi linh hồn những đàn anh đã mất về chứng kiến buổi lễ. Giờ trao găng bắt đầu. Cán bộ và đàn anh lần lượt đeo găng tay cho từng người. Trong không khí tĩnh mịch và im lặng giửa những ánh đèn cầy chập chờn theo gió.(Theo truyền thống ai mà bị tắt đèn sẽ gẩy cánh sớm)Chao ôi! Ai mà không sợ! Tim của tôi cũng lập lòe theo từng ánh chớp của ngọn đèn. (Phi dũng 13 nằm ngay vòng đai phi trường lại cạnh những đồi núi chập chùng nên gió lúc nào củng mạnh và đều đều(Không biết tắt đèn có gẩy cánh hay không chỉ biết đừng tắt là hay hơn hết).Buổi lễ kết thúc trong đơn sơ và trân trọng. Bấy giờ thì tắt đèn đi ngũ. Hình ảnh tươi đẹp của ngày mai, sẽ lột xác để trở thành SVSQ khiến tôi không sao chợp mắt được..


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287503921.JPG
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287504001.JPG
Lễ Gắn Alpha (Con đường Alpha đã đến đích rồi đó)

Những tiếng la hét quen thuộc của cán bộ ngoài đầu phòng lại vang lên. Chúng tôi đã sẳn sàng túi quân trang trên vai để chuẩn bị thi hành lệnh phạt. Trước Phạn xá tối hôm đó. Khóa tôi được các cán bộ niên trưởng cho tìm lại những kỹ niệm nhớ đời trong thời gian Huấn nhục. Không một hình phạt nào không được chúng tôi xào lại cả. Tuy cả người đã ướt đẫm mồ hôi, và thể xác mệt nhoài...chúng tôi vẫn vui, không buồn và bất mãn như những ngày mới đến. Gần 03 giờ sáng! Chúng tôi được trở về phòng tạm nghĩ, khoảng 30 phút lại trở ra sân và tiếp tục cho đến khi trời sáng .Trong lần này thì hoàn toàn tự giác, mọi người cứ thi hành lệnh phạt hết sức mình. Ai không còn sức có quyền ra khỏi hàng nghĩ. Thôi thì đủ thứ: Toán này một ngàn nhảy xổm, toán kia tám trăm công lực, toán nọ một ngàn hít đất...trông như một cuộc ganh đua trong ngày hội thể thao vậy. Đặc biệt khóa tôi không có tiết mục đi phá rối các niên trưởng (Gọi các đàn anh khóa khác thức dậy không cho ngủ) Đêm đó có lẽ các đàn anh khóa khác cũng một đêm không yên giấc.
Sáng thứ bảy, mặt trời lên rất chậm. Bọn tôi được đi tắm để rửa sạch những ba mươi ngày gian khổ, nhưng gợi lại chúng tôi khá nhiều kỹ niệm. Chiều hôm đó! Một chiều 30 Tết! Tôi được hân hạnh nằm trong toán gắn Alpha ngoài sân lễ và thật hồi hộp khi nghe:
-Các Tân khóa sinh tiến đến vị trí hành lễ. Đằng trước ....bước.
Cảm động tràn trề:
-Quỳ xuống các Tân Khóa sinh.
Và ấn tượng không bao giờ quên khi trên vai một đôi Alpha vừa được lắp vào.
-Đứng dậy các Tân Sinh Viên Sĩ Quan.
Cả tháng trời qua đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận đầy đủ niềm vui và sung sướng. Mặc dù hiện tại hai đầu gối tôi đau buốt vì những viên đá xanh kiêu hãnh làm nệm lót đường. Cán bộ và niên trưởng đến bắt tay và chia vui cùng chúng tôi trong ngày trọng đại này. Bây giờ thì những ác cảm, những bất mãn của chúng tôi với khóa 72C Không phi hành hoàn toàn biến mất. Có lẽ chúng tôi đã ý thức được tất cả những hình phạt cũng chỉ vì huấn nhục, không hề có một ganh ghét hay một thù oan riêng tư nào. Đoạn đường Alpha của tôi đã tới đích rồi đó! Nhìn lại mới ngày nào, cũng trên con đường này. Thân xác tôi đã từng hôn lên nó, cánh tay tôi đã chia sớt những giọt máu hồng .Thế mà bây giờ cũng nó đây! Nhưng còn tôi....Tôi đã đổi khác thật rồi! Tôi đã là một Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân hào hùng và độc đáo. Tôi chợt nhớ tới lời dặn dò của Thiếu Tá Liên Đòan Trưởng Liên Đòan Khóa Sinh (Thiếu Tá Tôn Thất Lăng).Người đã chấp nhận lời tuyên thệ của chúng tôi:
“....Các anh đã bước lên được một nấc thang đầu của con đường binh nghiệp. Trong tương lai các anh còn bước thêm nhiều nấc thang nữa. Vậy hảy xem huấn nhục như là cái nền cơ bản, để tạo cho con người các anh cứng cáp thêm hầu chịu đựng đựợc nhiều gian khổ sau này....”
Những lời nói đó tôi còn nghe hình như đang thoang thoảng đâu đây trong gió....


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287504054.JPG
Trại Thùy Dương, chiều 23/3/1973
Trong phiên gác cuối tuần.


*Đoản văn Đoạn Đường Alpha đăng trong Bích Báo Thùy Dương 9 đoạt Giải I Không đoàn SVSQ.
(Ban Biên tập: Lê văn Hải-Nguyễn duy Kim-Thái tâm Ngọc)
*Được chọn đăng trong đặc san Cánh Én của TTHL/KQ.
*Được thưởng 4 ngày phép đặc biệt của Chuẩn Tướng Chỉ Huy Trưởng TTHL/KQ (Nguyễn Ngọc Oánh)

Thái Tâm Ngọc

hung45qs
10-19-2010, 04:44 PM
Dòng Thơ Trần Thanh Quang 72F - Phần II


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287506637.JPG
Tranh A37 - Lê Khánh Thọ - France

Mặt nạ

Những mặt nạ hình người
Hình Tiên ông quỷ sứ
Hình cọp ngựa đười ươi
Mặt hiền và mặt dữ

Chẳng biết chọn mặt nào
Mẹ chọn hình mặt Bụt
Chòm râu dài trắng phau
Một đời luôn cứu giúp

Con chọn mặt Sa tăng
Có nanh dài râu ngược
Mắt lộ khí đằng đằng
Không ai bắt nạt được

Mẹ ơi, những mặt nạ
Vẫn là mặt nạ thôi
Con không thích trò chơi
Trò chơi đeo mặt nạ.


MỘT NGỌN TÌNH trên đồi hoang mộng

Em dấu ai một đời mộng mị
Ta rong rêu mục ruỗng thiên đường
Thân biệt xứ lưu đày chốn lạ
Níu hồn hoang trong giấc mộng thường

Em dấu aí một đời tiếc nhớ
Ta huênh hoang trên ngọn cỏ thơ
Quê chốn cũ ai ngồi đứng đợi
Cây trăm năm vẫn mãi ơ hờ

Em dấu ái một đời tạ tội
Ta cầu kinh trong nỗi ê chề
Chúa độ lượng găm mình trên giá
Để hôm nay mở lối ta về

Em dấu ái một đời dấu ái
Ta cúi đầu trước mộ tình xưa
Phật hỷ xả em nào nỡ đoạn
Tình mù xa ru mấy cho vừa.


Ngồi ru tình xuân

Ta ngồi dưới cội mai già
Nhẩm lời ru cũ nhạt nhòa tình xưa
Cải vàng chớm nụ lưa thưa
Ngỡ màu áo của chiều mưa xuân thì
Dẫu rằng người đã ra đi
Nơi đây vẫn nặng nỗi si mê đầy
Rượu xuân không uống mà say
Thơ xuân chưa viết lại gầy hắt hiu
Thôi thì ném nỗi buồn thiu
Về bên sông hát ru chiều với ta.


GIÒNG THƠ LỤC BÁT TÌNH

1.
Ta về ru giấc ngủ thôi
Tĩnh ra sẽ thấy một trời bình yên
Ta về trút hết ưu phiền
Thênh thang gót nhẹ lên triền đồi xa
Ta về soi lại chính ta
Thấy u ám quyện ố tà áo xanh ...
Ta về thôi dạ cũng đành
Nói lời sám hối bên cành từ bi.

2.
Ta về đốt nỗi buồn kia
Ném tro ra biển chạy dzìa (với) má thôi...
Ta về ôm gối ngủ vùi
Tìm trong chăn dạ một mùi thân quen
Ta về thắp sáng ngọn đèn
Đề giòng thơ tặng người em xưa nào
Ta về rũ áo chiến bào
Tìm bình an thay chiến hào rối ren
Ta về bóng ngã chênh vênh.

3.
Ta về tựa gốc thị già
Nơi, em bảo để gọi là nhớ thương
Bây chừ mùa thị tỏa hương
Còn em đi lạc ở phương trời nào
Vẳng nghe tiếng gió lao xao
Ngỡ chân em bước bên rào cỏ may
Bây chừ chim én về đây
Vắng em cúc cũng héo gầy với xuân ......

4.
Em ngồi xõa tóc chờ ai
Để ta rơi rụng một vài câu thơ
Em ngồi dấu mặt ơ thờ
Để ta đọng vọng nổi chờ trăm năm.

5.
Ta về rũ áo phong sương
Gói từng hạt bụi yêu thương của đời
Ta về ngước mặt lên trời
Thấy mênh mông tận ngàn lời thiết tha
Ta về ngồi dưới hiên nhà
Tịnh tâm nở những đóa hoa nhân tình
Ta về tìm lại chính mình
Não nề còn đọng trong hình hài khô.

hung45qs
10-20-2010, 05:04 PM
GỢI NHỚ!


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287596961.jpg

Có một buổi tôi về ngang phố nhỏ
Thăm đường xưa nhớ lại tiếng quân đi
Hàng cây xanh sao lặng lẽ bên đường
Không rộn rã như những ngày xưa cũ.

Có một thoáng tôi mơ về chốn cũ,
Trại Thùy Dương, Phi Dũng đến Thiên Nga
Trời Nha Trang gay gắt nắng Ngân Hà
Bao kỹ niệm biết bao là nỗi nhớ.

Có một sáng tôi khó mà quên được
Ngày đầu tiên làm bạn với trời xanh
Hồn lâng lâng ngây ngất giữa lưng trời
Vớt mây trắng mang về làm kỹ niệm.

Rồi chợt nhớ tôi quay về thực tại
Cũng đường xưa phố cũ vẫn còn đây
Bạn bè xưa! Giờ ai mất ai còn?
Đường bay đó! Biết bao giờ trở lại.

Thái Tâm Ngọc

hung45qs
10-20-2010, 08:27 PM
Hè 1972 - Ngày tháng cũ

Tôi viết bài này để xin được tưởng nhớ đến hai người bạn cùng nhập ngũ năm 1972:

1. Cố Thiếu úy Trần Tiến Lộc SVSQ KQ khóa 72H đã gẫy cánh trong một phi vụ trên vùng trời Đà Nẵng.
2. Cố Thiếu úy Ngô Quốc Huy SVSQ khóa 7/72 Võ Bị Thủ Đức đã hy sinh tại Vùng 4 năm 1973.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607141.JPG

Ngược dòng thời gian của 38 năm về trước, các bạn cùng lứa tuổi đôi mươi ngày ấy, chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ quên được mùa hè năm 72. Cái năm đã mang một dấu móc quan trọng trong cuộc đời, đã đánh dấu một đổi thay quan trọng trong lý tưởng về sự trưởng thành của chúng ta. Những ngày tháng rời bỏ đời sống dân sự, rời bỏ mái ấm gia đình, trường học và bạn bè, bỏ cả người tình học trò nho nhỏ mới quen, vừa được nàng cho phép nắm tay băng qua đường, nụ hoa dại ép cho nàng chưa kịp khô đã vội chia tay…. Bao nhiêu là kỷ niệm của một thời quần xanh áo trắng, với điếu Pallmall trên môi như để chứng tỏ cho sự trưởng thành.

Hôm nay trên đường đi làm về, trên radio tầng số FM 101.1 được nghe lại bản Bridge over trouble water do Simon và Gasunklel chơi, bản nhạc năm 1972 một thời thanh niên Sài gòn say mê và trên đài FM của quân đội Mỹ ở Việt Nam) Ôi bao nhiêu hình ảnh ngày tháng cũ trở về trong ký ức.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607239.JPG
Đường Tự Do, Trung Tâm Thủ Đô Sài Gòn năm 1972

Miền nam chúng ta chỉ có hai mùa mưa và nắng, tôi còn nhớ Saigon trời tháng năm, những cơn mưa đầu mùa đã bắt đầu với cái hầm hầm oi bức trước cơn mưa, lúc này không khí của các thành phố miền nam như sôi sục đầy không khí chiến tranh. Khắp nơi từ thành thị đến thôn quê, đi đâu ta cũng thấy quân nhân mọi binh chủng, ra đường phố, xe Jeep và quân xa nhiều hơn xe dân sự, đâu đó khắp mọi nơi, những trại lính, cơ quan chính phủ với những bao cát chồng chất, vọng gác và hàng rào kẽm gai. Không xa thành phố lắm, những căn cứ của quân đội Hoa Kỳ hoặc Đồng Minh, xung quanh những nơi này thì cả là một sinh hoạt náo nhiệt, nào là quán rượu, hớt tóc, may mặc, giặt ủi, khu chợ trời bán hàng hóa của Mỹ từ bánh kẹo, đồ hộp, rượu, thuốc lá đến máy móc vân vân….. Dọc con đường Kỳ Đồng, khu Dân Sinh, Tân Sơn Nhất là nơi ồn ào náo nhiệt nhất, từ đâu đó một anh lính Mỹ đang ngây ngất bước ra từ quán Bar rượu bên cạnh người con gái Việt mặc mini jupe nhỏ bé dập dìu tiếng nhạc vọng từ trong các quán Bar, ở góc đường gần đó là xe quân cảnh MP hỗn hợp giữ an ninh những nơi thường có quân nhân Mỹ lui tới, được biết lúc này quân đội Hoa kỳ có mặt tại Việt Nam đã lên đến con số cao nhất (nửa triệu)


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607293.JPG
Xe tuần tiểu của MP Mỹ ở đường Hai Bà Trưng tại Sài Gòn năm 1972

Riêng Sài Gòn thủ đô Việt Nam, tuy không nên thơ như Huế, không mặn nồng như Nha Trang, không sương gió cao sa như Đà Lạt, không mộc mạc như Cần Thơ, Mỹ Tho nhưng Sài Gòn vẫn là hòn ngọc yêu quí trong lòng mọi người. Sài gòn có những hàng cây xanh dọc hai bên đường, những cành Phượng Vĩ nở rộ mỗi khi hè đến, mùi Dạ Lý Hương thơm nồng ngây ngất những ai đi về quá đêm qua những biệt thự vắng, những quán cafe ngon quanh Sài gòn như Văn Hoa, Dakao, Hầm Gió, Pénse Nguyễn thiện Thuật đầy ấp những sinh viên học sinh ngoài việc thưởng thức cà phê còn được nghe những bài nhạc thịnh hành Pháp Mỹ. Sang hơn, những Crystal Palace, Grival, La Pagoda, những Rex, Eden cứ vẫn dập dìu tài tử giai nhân vào những ngày cuối tuần, Sài Gòn vẫn là Sài Gòn dù đang chiến tranh. Mặt trái của Thủ Đô hoa lệ xảy ra không quá xa nơi ngoại ô, đêm đêm người dân thành phố vẫn nghe tiếng pháo vọng về, những trái hỏa châu sáng tỏa cả góc trời, những chiếc trực thăng bay tuần thật thấp làm thức giấc mỗi đêm khuya, từng đoàn công voa băng xuyên qua phố để lại đám bụi mờ… Đâu đó từ trong ngõ hẻm sâu vắng chợt nghe tiếng kèn, tiếng đàn cò réo rắc hòa với tiếng nghẹn ngào nức nở của người thiếu phụ trẻ đang quằn quại bên quan tài người chồng vừa hy sinh, những hình ảnh ta thấy hằng ngày…


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607329.JPG
Đường Lê Văn Duyệt trong giờ cao điểm tại Sài Gòn năm 1972

Một vài sự kiện xảy ra trong năm 72, trước hết, phải nói về nền kinh tế xã hội, mặc dầu là một nước đang có chiến tranh nhưng nhờ sự giúp đỡ và viện trợ của khắp nơi trên thế giới, Nam Việt Nam có nhiều nhà máy sản xuất có tầm cỡ quốc tế như nhà máy xi măng, đường, bột ngọt, dệt, đặc biệt về gạo, nhờ sự thành công của chánh phủ qua chương trình Người Cày Có Ruộng, không bỏ đất hoang và sự thành công của giống lúa Thần Nông, đây là loại lúa mà hội Lương Nông Quốc Tế đã thành công ở Phi luật tân, đặc điểm của loại lúa này là dân đồng bằng miển nam có thể thu hoạch được 3-4 vụ mùa trong năm thay vì lúa mùa chỉ có 1-2 vụ mùa . Tuy ăn không ngon như gạo mình nhưng đạt về năng xuất nên dân Việt Nam có đủ gạo ăn mà còn xuất cảng sang Nam Dương và In Đô.. Ở thời điểm năm 1972 nếu so sánh với các nước láng giềng như Lào, Cam Bốt, Thái Lan, In Đô và Phi Luật Tân thì Nam Việt Nam văn minh và hùng mạnh vượt trội trên nhiều phương diện, sông ngòi biển cả rộng mênh mông, dù đang chiến tranh nhưng chưa có một chiếc ghe thuyền nào ra khơi tìm đường tị nạn, Sinh Viên Việt Nam du học năm châu đã trở về quê hương phục vụ, đây là điểm son của người dân sống trong chế độ tự do …

Một sự kiện quan trọng nữa trong năm 1972 là Hội Đàm Paris, cho đến tháng chín năm đó theo báo Times có tất cả 501 buổi họp công khai, 45 buổi họp kín các bên (Nam Việt Nam, Cộng Sản và Hoa Kỳ) có 500 cuộc họp báo, 1000 cuộc phỏng vấn nhưng vẫn cù cưa chưa có kết thúc dù rằng các bên đang chạy đua nước rút. Riêng Cộng Sản Bắc Việt coi hội nghị Paris không những là cuộc đàm phán ngoại giao, mà còn là mặt trận tuyên truyền, những phong trào phản đối chiến tranh Viet Nam khắp nơi mà giới nằm vùng Cộng Sản đã khuynh đảo để làm nản lòng các Đồng Minh Nam Việt Nam. Trong ngạn ngữ của người Hy Lạp có câu “Có lúc ném đá đi, có lúc phải nhặt đá lại, có lúc ôm nhau phải có lúc buông nhau ra” và người Mỹ đồng minh của chúng ta lúc này đang buông ta ra.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607376.JPG
Kissinger bắt tay cáo già Lê đức Thọ

Vào đầu tháng ba 1972, những cơn nóng như thiêu đốt ở miền địa đầu, lợi dụng mùa khô bắt đầu, Cộng Sản Bắc Việt đồng loạt tấn công các miền giới tuyến như An Lộc, Đông Hà, Quảng Trị cùng với các tỉnh miền nam mà nhà văn Phan Nhật Nam gọi là mùa hè đỏ lửa, dù thất bại trên các mặt trận nhưng Việt Cộng vẫn lấy đó làm tiếng vang cho hội nghị Paris làm áp lực Hoa Kỳ.

Tháng sáu năm 1972, sinh viên học sinh miền Nam đã bắt đầu vào hè, những cuộc thi cử như Tú Tài, các Phân Khoa Đại Học đã xong, vì cuộc chiến leo thang, Hoa Kỳ đang chuẩn bị chính sách Việt Nam hóa chiến tranh, Nha Động Viên, Bộ Quốc Phòng ra lệnh Quốc Gia Tổng Động Viên, khi lệnh này ban ra tức thời một số lớn thanh niên miền nam không còn đủ tuổi để được hoãn dịch tiếp tục học, thế là hàng trăm ngàn thanh niên hoang mang đua nhau hoặc tình nguyện đầu quân vào các binh chủng chuyên môn trước khi giấy hoãn dịch hết hạn, được biết sau ngày 23 tháng 9 năm 1972 ai bị bắt sẽ coi như tội trốn quân dịch sẽ không được khoan hồng . Năm 1972 là năm có lệnh Tổng Động Viên lần thứ hai sau lệnh Tổng Động Viên tết Mậu Thân 1968. Quân lực Việt Nam Cộng Hòa lên tới con số một triệu.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607420.JPG
Rạp Casino đường Paster Sài Gòn vào một buổi sáng năm 1972

Cũng vào tháng sáu năm đó, hai binh chủng nghành Không Quân và Hải Quân cũng phát đơn và tuyển mộ, riêng Không Quân, nơi có Bộ Tư Lệnh ở Tân Sơn Nhất, hàng ngàn thanh niên ăn ngủ tại chỗ để được lấy đơn khám sức khỏe vào các ngành Kỹ Thuật, Phi Hành và Không Phi Hành. Riêng tại trường Võ Bị Thủ đức số SVSQ thụ huấn quá đông, một số chuyển qua trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế Nha Trang và một số phải đi chiến dịch ở các vùng nông thôn.
Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, sau những ngày ròng rã khám sức khỏe tôi đã được nhận vào Không quân nghành phi hành. Cầm tờ giấy hoãn dịch còn hạn trong tay, tôi được dịp hưởng những ngày tháng cuối cùng của đời sống dân sự . Hình như những ngày tháng này trong năm, phố xá có vẻ vắng đi nhất là thanh niên, thay vào đó màu áo xanh của lính xuất hiện nhiều hơn ở khắp nơi.

Cuối tháng 10 năm 1972, tôi làm thủ tục nhập khóa tại Tân Sơn Nhất cùng với các anh em đã đậu sức khỏe ở Đà Nẵng và Nha Trang tổng cộng có 119 khóa sinh thành lập ra khóa 72H, khóa cuối cùng của năm 1972.

Sau 4 tuần huấn nhục, làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống từ một thanh niên ngoài việc ăn học, rong chơi vô tư, nay đã trở thành một quân nhân, không biết có nhiều nhiệt huyết bao nhiêu nhưng bây giờ thì rắn chắc, đi đứng nói năng nghiêm chỉnh, mặt lúc nào cũng ngước lên (vì nhìn xuống đất, đàn anh cho là đi tìm bạc cắc.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287607463.JPG

Hôm nay trong không khí lành lạnh của những ngày cuối năm, nghe tiếng thông reo vi vu quanh doanh trại Phi Dũng, báo hiệu một buổi giao mùa những ngày tháng của năm 1972 sắp hết. Đứng trước tấm gương lớn trước trại SVSQ với hàng chữ lớn “Nhìn quân phục biết tư cách” tôi chỉnh lại đôi Alpha mới gắn, nhìn lại đôi giầy đen bóng trước khi đi phép, cái phép ra phố đầu tiên của một SVSQ với cái hân hoan khó tả. Bước ngang qua phạn xá (nơi ăn cơm của SVSQ) tôi thấy khóa 73A còn đang bị huấn nhục, cả khóa đang chống thế chờ, nhìn lên nóc của cây cột lớn tôi thấy Tân Khóa Sinh 73A Trần Đường Vinh đang bị Niên trưởng Cán Bộ 72C Ninh Việt Bình cho thi hành hình phạt “Dơi ngủ mùa đông” với hai chân treo ngược trên cột. Vinh nhìn tôi đi phép với cặp mắt thèm thuồng, tôi thầm nói “Thôi ráng đi cưng, anh mày đã từng nếm qua mùi này rồi, chắc là nổ quá nên bị móc ra phạt riêng!!” Vinh bây giờ là tay Guitar thường đệm cho anh em hát trong những ngày tuổi gần “xế chiều”.

38 năm trôi qua, khoảng cách của một nửa đời người rồi còn gì nữa, mọi việc cứ tưởng như xảy ra ngày hôm qua khi mà cả ngàn mái đầu xanh lần lượt quỳ dưới cánh Đại Bàng xin lấy Không Gian làm Tổ Quốc.... Cũng theo dòng thời gian và định mệnh mà mỗi chúng ta mang theo, dù gì đi nữa cũng xin cám ơn cuộc đời, trong đó đã cho chúng ta đôi Alpha gắn liền với định mệnh đó. Vì vậy hôm nay khi mái tóc đã ngã màu, mỗi khi gặp lại nhau, nhắc đến nhau, dù vài năm không gặp hoặc gặp lại nhau ở khoảng cách hai bờ đại dương, vẫn cái chọc phá, mạnh thằng nào thằng đó nổ, cuối cùng vẫn cái khắn khít, giúp đỡ nhau khi cần thiết, như ngày xưa đã từng cover cho nhau....

Những vui buồn đó chỉ có SVSQ KQ mới có, chắc chắn chúng ta sẽ còn giữ mãi ký ức của ngày tháng cũ đó, như một "Trang Sử Nhỏ", trong đó có trang in đậm nét “Một thời để nhớ” ...... Tưởng chừng đã quên….

Hè 1972-2010
Nguyễn Tấn Hùng

hung45qs
10-21-2010, 06:42 PM
Hào Hùng Độc Đáo

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287687187.jpg

Là Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân ít nhiều ai cũng bị phạt te tua trong những ngày đầu bỡ ngỡ khi vào Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, các Niên Trưởng đàn anh hạch hỏi bất ngờ không theo thứ tự nào một trong mười điều tâm niệm của SVSQ/KQ, có rất nhiều lý do bị phạt trong thời gian huấn nhục, nhưng10 điều tâm niệm Tân Khóa Sinh bắt buộc phải thuộc nằm lòng, ai mà ấm ứ thì trở thành cái mền rách, có thể bị hành xác cả ngày vì không trả lời đúng theo điều tâm niệm thứ mấy mà Niên Trưởng cán bộ nêu ra.

Dù ai có lãng trí đến đâu đi nửa mà quên đi tất cả 9 điều tâm niệm còn lại, chắc rằng không một ai quên được điều tâm niệm số 1 của SVSQ/KQ
là HÀO HÙNG VÀ ĐỘC ĐÁO.

Ngoài các điều Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm, Tự Thắng, Tự Giác, Tự Chỉ Hay, v.v,, như những SVSQ của các quân trường bạn, riêng SVSQ/KQ phải
Hào Hùng và Độc Đáo trước tiên, điều tâm niệm quan trọng số một, không có lời giải thích nào mà tự bản thân của mỗi cá nhân phải tự hiểu cho riêng mình, phải Hào Hùng và Độc Đáo, phải Hào Hùng trên mọi bình diện và phải Độc Đáo trên mọi hoàn cảnh, trong cuộc sống và ngay cả trong cái chết, trong huy hoàng hoặc trong cùng tận của đau khổ, gian lao, cộng thêm sự huấn nhục cực kỳ gian khổ mà mỗi SVSQ/KQ rất tự hào đã trải qua, sự luyện tập nầy là hành trang vào đời sống gian nguy trong thời binh lửa, của một quân nhân sẵn sàng ra trận, phải có hào khí ngất trời , phải hùng dũng ra trận mạc, phải độc đáo với mọi người, mọi hoàn cảnh và trong mọi tình huống.

Người ngoài đâu có ai ngờ rằng sự luyện tập thể lực kinh khiếp đến chết người của những SVSQ/KQ trông bề ngoài bình thường , là những anh lính chiến tương lai, chỉ có chúng ta tự biết Hào Hùng và Độc Đáo ngay cả trong thời gian huấn luyện, khổ luyện trong tất cả các bộ môn, những bài học đáng quý tại các quân trường và Trung tâm huấn luyện trong thời là SVSQ/KQ

SINH VIÊN SĨ QUAN KHÔNG QUÂN

Hào hứng như mùa xuân bất tận,
Hào hiệp với những kẻ không thân
Hào hoa có chết cũng bất cần
Hào nhoáng bề ngoài dù túi rỗng
Hào phóng thói quen trong cuộc sống
Hào khí ngất trời luôn trong mộng
Hào kiệt noi gương bậc tiền nhân
Hào quang chiếu rọi khi banh xác
Hào cường trong tươi mát tuổi xanh

Hùng dũng nguyện đi khắp mọi vùng
Hùng tâm dù chết vẫn ung dung
Hùng hỗ hăng say ra trận tuyến
Hùng anh nguy hiểm vẫn không chùng

Hùng cứ trên không mộng thiếu thời
Hùng tài rèn luyện đến tả tơi
Hùng vĩ giang sơn non nước Việt
Hùng cường dân chúng được thảnh thơi

Hùng khí bất khuất sống trên đời
Hùng tráng giữ đất rộng , biển khơi
Hùng hồn tuyên bố trong tâm tưởng
Hùng hậu đoàn quân tung khắp nơi

Độc, có nghĩa duy nhất ai ơi
Đáo, là đáo để hết chỗ chê
Sinh Viên tâm nguyện một lời thề
Trau giồi cho đến phút hết hơi

Hào Hùng và Độc Đáo của thời trai trẻ, giờ đây chúng ta chỉ còn Hào hùng trong tim óc, có một điều duy nhất chắc chắn là rất độc đáo với tình bạn, tình đồng đội và tình thắm thiết của Không Quân,

AC ĐỊNH 73F

hung45qs
10-21-2010, 07:01 PM
Hoàng Kỳ Ca


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287687602.jpg

Nghìn thuở trước, khi cha ông dựng nước
Lấy Cờ Vàng làm biểu tượng Giang Sơn
Ngọn cờ thiêng liêng thắm đượm Quốc hồn
Mà Quốc Tổ Hùng Vương từng soi bóng

Từ Bà Trưng, Cờ Vàng bay lồng lộng
Đến Ngô Quyền lừng lẫy Bạch Đằng Giang
Nơi biên cương, Lý Thường Kiệt ngâm vang
Đất Nam, trời Nam, dân Nam làm chủ

Hưng Đạo Đại Vương lòng như thác lũ
Đã cuốn trôi trăm ngàn vạn quân Nguyên
Muôn đời sau, sử sách vẫn lưu truyền
Tài thao lược Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ

Trải năm tháng, qua dần bao thế hệ
Đất nước ta không hề đổi màu cờ
Dù ngàn xưa, mai nữa, hoặc hiện giờ
Ta mãi mãi chỉ màu Vàng óng ánh

Cờ Vàng! Cờ Vàng! Oai linh thần thánh!
Dân Nam ta gìn giữ sắc dân ta!
Dù phiêu lưu bốn bể vẫn một nhà
Vẫn giữ vững Cờ Vàng làm biểu tượng

Khi gặp nhau, nếu hoài nghi chân tướng?
Căn cước ư? Chỉ một lá Cờ Vàng!
Là đủ nhìn thấu suốt tận tâm can
Đủ nhận biết: ai người chung Tổ Quốc!

Bốn nghìn năm, ta chưa từng đổi nước
Ta chưa từng thay màu sắc Quê hương .
Ta chưa từng biến chuyển ánh huy hoàng
Của lá Cờ Vàng rộn ràng lóng lánh

Những kẻ mộng du đi tìm ảo ảnh
Đi đêm với ma, chực đổi sắc cờ
Hận nghìn đời, lịch sử sẽ không tha
Kẻ phản bội thù nhà và nợ nước

Dân Nam ơi! Hỡi hồn thiêng Tổ quốc!
Nhớ rằng ta có truyền thống huy hoàng
Cội nguồn ta bền vững bởi Cờ Vàng
Nên không thể nhất thời thay thế được!

Tường Vân

hung45qs
10-22-2010, 05:51 PM
BBT xin ngỏ lời cám ơn đến Cựu Th/Tá Nguyễn Văn Bé, người đã gửi thư trả lời theo thiệp mời của BTC Hội Ngộ Liên Khóa 72/73 kỳ III. BBT dự định đăng vào Đặc San nhưng vì nhận được quá trễ nên không thực hiện được, nhân dịp này BBT xin đăng vào trang Đặc San này để mọi người cùng xem. Một lần nữa BBT xin chân thành cám ơn và cũng xin tạ lỗi là đã không kịp đăng vào Đặc San.

Xin kính chúc anh và gia đình được an bình

Thay mặt BBT

hung45qs


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287772552.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287769972.JPG
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287770028.JPG

hung45qs
10-22-2010, 07:53 PM
Kỷ Niệm Đời Khóa Sinh

Khổ vì gái 1

Lớn lên trong chiến tranh, nhất là con trai, nếu không có lý do chính đáng để được miễn dịch thì sẽ phải thi hành nghĩa vụ công dân, nói thẳng ra là phải đi lính. Binh chủng nào cũng cần nhân lực cả, bạn bè tôi đứa vào KQ, đứa vào HQ, thằng đi BB, kẻ vào LH, rồi PB, TQLC, ND, BDQ…. Tôi may mắn được KQ chấp nhận dù rằng kết quả sức khỏe cho biết là tôi bị thiếu hơn 2 kg mới đủ tiêu chuẩn. Ba vị BS trong HDYK đã ban cho tôi ân huệ đó sau khi xem qua hồ sơ của tôi và cẩn thận cân nhắc mọi vấn đề.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287776493.jpg

Đoạn đường Alpha là những nấc thang đã được vạch sẵn mà chúng tôi là thân phận khóa sinh chỉ biết nương theo, nào là huấn nhục, nào là quân sự, nào là sinh ngữ. Đậu sinh ngữ, đi Mỹ học bay, theo tôi đây là niềm mơ ước của tất cả SVSQ, ai lại không muốn đi Mỹ học bay. Rớt sinh ngữ, học bay quốc nội, lúc đó KQ mình có vài tài khóa quốc nội là TT, HTQS, A37 và QSV. Riêng trường hợp của tôi, hơi khác thường một tí, sau 3 lần đậu ECL đủ điểm để đi Mỹ mà vẫn không được gọi để khám sức khỏe tôi hơi phân vân về tương lai của mình, may có người bạn tên Hoàng Huy Lãnh (Lãnh CoCa) về nhờ bố xem hộ hồ sơ, tôi khám phá ra mình bị kẹt an ninh, sẽ không bao giờ được đi Mỹ. Bố của Lãnh có khuyên tôi nên làm đơn tự loại ra khỏi trường SNQĐ nếu muốn đi học bay quốc nội, ông cho biết sắp có khóa HTQS ngoài Nha Trang. Bây giờ tôi mới biết là sau khi học hết cuốn 2400, đậu đủ điểm thì họ vẫn tiếp tục cho mình học, không loại mình ra dù biết rằng mình sẽ chẳng bao giờ được đi Mỹ cả.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287775747.JPG

Một tuần sau khi làm đơn tự loại, tôi được Sự Vụ Lệnh về nằm thặng số ở Trại Tương Lai – Biên Hòa để chờ ngày đi học bay. Nơi đây tôi gặp một thằng bạn cũ cùng khóa tên Phạm Văn Hạnh (Hạnh bao tử), nó vừa có Sự Vụ Lệnh đi học địa huấn cho khóa bay Trực Thăng Quốc Nội. Nó bàn giao lại cho tôi công việc cũ của nó là canh gác trại Tương Lai cũ, chỉ có ăn với ngủ, khỏi canh gác ngoài vòng đai ban đêm. Công việc cần 4 mạng, tôi tuyển được 3 tên quê ở miền Trung, như vậy không sợ tụi nó đòi trốn về phép cuối tuần, tụi nó sẽ ở trong trại để coi trại 24/24, riêng tôi, tôi phải ở ngoài trại để….lo cho tụi nó. Mỗi tuần tôi sẽ vào trại một lần để đem thức ăn và sách truyện tiểu thuyết cho tụi nó đọc, thương bạn bè vậy thôi chứ. Chúng tôi ký giấy tờ, đi lãnh súng ống rồi dắt nhau sang trại Tương Lai cũ để bắt đầu công tác mới.

Đất Biên Hòa hình như hợp với tôi vì tôi cảm thấy toàn những chuyện may mắn xảy ra. Tôi được 4 ông đàn anh bay F5 ở Biên Hòa thương tình cho về ở chung (Châu, Thanh, Hưng và 1 người tôi quên tên), căn nhà rất nhỏ (hình như chỉ có 1 phòng ngủ) nhưng đầy tình huynh đệ, mỗi ngày đàn anh thay phiên nhau để lại 1 xe gắn máy cho tôi xử dụng. Tôi ở Biên Hòa được đúng một tháng, nẩy nở được ba mối tình, với cái tuổi mới lớn, cả ba mối tình đều đến trong vội vã, háo hức nhưng rất thản nhiên. Trong thâm tâm, tôi tự nhủ tình đến rồi tình sẽ đi, tôi sẽ không nuối tiếc, không giận hờn và không trách nhiệm.

Tôi có Sự Vụ Lệnh ra Nha Trang để học khóa HTQS, tôi tự an ủi thôi không được học ở Mỹ thì Học ở Việt Nam vậy, rồi cũng trở thành Pilot thôi. Trước ngày ra Nha Trang, bốn ông đàn anh F5 làm một cái tiệc nho nhỏ để tiễn thằng đàn em đi học bay, tôi mời cả ba mối tình đến để chia tay một lượt... Thoạt đầu không ai biết ai, chị chị em em cười nói vui vẻ, đến lúc vỡ lẽ ra thì… tôi nghĩ các bạn có thể đoán ra là chuyện gì đã xảy ra rồi. Coi như bữa tiệc biệt ly thành công mỹ mãn, cả ba mối tình đều chấm dứt cùng ngày, cùng lúc, hình như cả ba đều không còn chút gì để nhớ với tôi nữa… Hy vọng là vậy.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287777049.jpg

Sau một thời gian học xong địa huấn, tôi có tên trong danh sách của khóa 45 HTQS, ông thầy dạy bay tên là Dương Đình Hoàng, so với những người bạn cùng khóa, tôi cho đây là một trong những may mắn trong cuộc đời bay bỗng ngắn ngủi của tôi. Đúng là đất Nha Trang khô cằn xỏi đá vì cho đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa tìm được mối tình nào cả, mỗi cuối tuần lấy phép đi phố chỉ để nhìn thiên hạ hạnh phúc thôi, số phận cả. Rồi tôi cũng được thầy Hoàng thả solo, tôi muốn thầy cho tôi solo đầu tiên nhưng không được, cái háo thắng của tuổi trẻ cứ làm cho tôi lúc nào cũng nghĩ mình bay hay cả, sự thật sau này tôi mới biết… Chẳng hơn ai cả.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287776647.JPG

Một ngày đẹp trời, trên loa phóng thanh của Trại Hoàng Yến:
“SVSQ Nguyễn Việt Hùng ra phòng tiếp tân gấp có người nhà muốn gặp”.
Tôi không nghĩ là mình nhưng không lẽ có hai Nguyễn Việt Hùng mà mình không biết, thôi cứ ra đó xem sao. Từ từ ra đến phòng tiếp tân, tôi lén nhìn vào bên trong, một hình ảnh quen thuộc làm tôi phải buột miệng:
“Chết mẹ, khổ rồi!!! Khổ rồi!!!”

Một trong ba mối tình mà tôi ngỡ đã chấm dứt ở Biên Hòa đang ngồi chờ tôi, tôi đứng lặng người thật lâu, không nói nên lời. Sau khi hoàn hồn, tôi bước vào phòng tiếp tân để chào nàng, tôi đón tiếp nàng trong ngạc nhiên, trong phân vân và trong lo sợ. Ngạc nhiên vì tưởng rằng đã mối tình đã chết mà nàng lại ra thăm, phân vân vì không biết phải xử lý ra sao và lo sợ vì trong túi không có một xu. Làm sao đây bây giờ, chưa bao giờ tôi lại bị lâm vào tình trạng khó xử như vậy, sau khi hút tất cả không khí còn xót lại vào lồng ngực mà tôi cứ ngỡ là không còn để thở, tôi thở một hơi thở dài và quyết định… chuyện tới đâu hay tới đó. Tôi nói nàng ngồi chờ rồi trở về trại để hỏi ý kiến bạn bè, đây là lúc tôi cảm nhận được tình bạn quân trường, thiêng liêng và vô giá. Những cuốn truyện tiểu thuyết bạn bè đang đọc được gom lại đưa cho tôi để đem ra trả lấy lại tiền đặt cọc, những tình cảm thương yêu của bạn bè đánh đổi cho tôi được bốn ngày sống với nàng ngoài phố Nha Trang.

Ngày cuối cùng tôi gọi cho anh của nàng là một Đ/Úy lái vận tải ngoài Đà Nẵng vào Nha Trang để đón nàng. Từ trong rạp Cine, chúng tôi tay trong tay bước ra thì được ông anh nàng đang đứng chờ để tiếp đón ở bên ngoài. Tôi vẫn không hiểu là sao ông ta tìm được chúng tôi dễ dàng như vậy, chắc có tình báo. Anh hỏi, tôi trả lời, anh biết tôi học khóa 45 HTQS, tôi biết anh là bạn thân của Th/tá Tâm trường Phi Hành. Chúng tôi chia tay nhau từ đó, chấm dứt một cuộc tình ngây dại (lần thứ hai) và bắt đầu cho một đoạn đường đầy chông gai cho đời khóa sinh của tôi.

Tôi không biết tôi được gửi gấm như thế nào mà sau đó ba ngày tôi được lệnh “thưởng” là cạo đầu mỗi 4 ngày và ở tù suốt khóa bay từ Th/tá Bé. Cuộc đời bay bỗng chưa bị gián đoạn vì tôi vẫn được đi học bay, chỉ khác với mọi người là tôi không được ăn uống cùng bàn, không được ngủ cùng phòng với các bạn cùng khóa và đi học bay có QC đưa đón. Tôi tự an ủi lấy: mình bây giờ quá thoải mái, ngủ có phòng riêng, ăn uống có người bưng tới phòng, đi bay có ngưòi đưa đón, không bận tâm chuyện canh gác và tha hồ viết thư và đọc truyện.

Có thể tại thế mà tôi không có nhiều hình kỷ niệm đời Quân Trường của mình, đầu trọc lóc nên không dám gửi hình về cho gia đình xem, mẹ tôi tính hay lo nên tôi không muốn mẹ buồn, tất cả các bất hạnh trong cuộc đời quân ngũ tôi đều âm thầm chịu đựng. Sau một thời gian, cửa tù hình như không khóa nữa, tôi vẫn phải ỡ trong tù nhưng hình như các sĩ quan trực đều nhìn sang hướng khác để cho tôi có một tự do tối thiểu. Không ai nói thẳng với tôi là tôi được tù thả lỏng nhưng với những dữ kiện xảy ra hằng ngày, tôi cảm nhận ra điều đó. QC không còn đón đưa tôi đi bay nữa, tôi thử đi phố, đi câu lạc bộ, không ai nói gì cả, tưởng rằng đã qua cơn hoạn nạn, không ngờ……

Giờ bay huấn luyện T41 bị cắt giảm, học chưa đủ giờ nhưng coi như đủ, chúng tôi phải đậu T41 mới được qua học L19. Tôi được cắt bay với TR/Úy Phúc. Trước giờ bay khoảng 15’, tên Tr/Úy Phúc bị xóa bỏ và được thay vào bằng Th/Tá Tuấn. Rời Phi trường Nha Trang, ông bảo tôi bay ra vùng 6 với cao độ 3000 bộ, ra đến nơi, ông bảo tôi bay theo chỉ thị mà tôi đã học rồi bay về. Tôi cảm thấy tự tin vì không thấy quờ quạng gì cả, trong lòng hơi hớn hở và tôi mỉm cười trong lòng, L19 đang chờ tôi.... Ra khỏi phi cơ, ông báo cho tôi biết là ông mới đánh rớt tôi và báo cho tôi biết nếu tôi bị rớt một lần nữa tôi sẽ bị loại ra bộ binh. Tôi vẫn không tin là mình bị đánh rớt, mình bay có thua ai đâu mài lại bị đánh rớt. Hay là… Thôi đúng rồi, chắc lại bị gửi gấm nữa rồi…Tôi nghĩ vậy!!

Hai tuần sau tôi có tên đi thi lại lần thứ nhì nhưng không có tên của vị Sĩ Quan nào sẽ bay với tôi, tôi kiên nhẫn chờ đợi, hồi hộp và âu lo… rồi chuyện gì đến cũng phải đến. Th/Tá Tuấn bước vào rồi ghi tên ông vào chỗ vị Sĩ Quan sẽ bay với tôi, tim tôi như ngừng đập, không thể tưởng tượng cuộc đời bay bỗng của mình chấm dứt từ đây. Tôi không nói gì cả, lặng lẽ đi về cái nhà tù thương yêu của tôi để suy nghĩ, để chán đời và để chấp nhận cái không may của mình, tất cả chỉ vì…gái.
Một đoạn phim ngắn ghi lại cuộc đời Quân Ngũ của tôi từ từ hiện ra trong bộ óc phân vân không định hướng của tôi. Đang suy nghĩ, đang mơ màng thì…

Thằng bạn tôi chạy vào trại tù của tôi, thở hổn hển..
- Ê mày, lên trường Phi Hành gấp, Th/Tá Thiếc kêu
- Thôi, lên làm chi, trước sau cũng rớt. - Tôi trả lời.
- Th/Tá Thiếc gạch tên ông Tuấn đi rồi, ỗng ghi tên ỗng vô, mày sẽ bay với ỗng…đ.m. lẹ lên trước khi ỗng đổi ý - Nó la lên
- Thiệt không mày?
- Mẹ mày, tao chạy về đây để giỡn với mày hả?

Hai thằng tôi cắm đầu cắm cổ chạy, vừa chạy nó vừa cố gắng kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra, tôi nghe tiếng mất tiếng còn nhưng cũng hiểu đại khái, thì ra trời cũng còn thương tôi.

Tôi theo Th/Tá Thiếc ra tàu, ông đứng chờ tôi kiểm tàu mà không nói tiếng nào cả. Tôi cất cánh, ông bảo tôi ra vùng và cao độ theo bảng cắt bay rồi cứ bay cho ông thấy những gì tôi đã học được. Tôi cứ thế mà bay, thỉnh thoảng liếc xem ông có phản ứng gì không…. Mọi việc đều tốt đẹp, tôi được chấm đậu T41 để qua L19, hú hồn… Tôi và mối tình tù tội đấy mất liên lạc, chẳng còn gặp nhau nữa.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1287776941.jpg

Chưa kịp solo L19 thì vì xăng nhớt giới hạn, chúng tôi phải tạm ngừng học bay, trong thời gian chờ đợi chúng tôi được gửi sang Trại Phi Dũng để học khóa 65 ĐCSQ, mở đầu cho một đoạn trường thứ hai trong cuộc đời quân ngũ của tôi,
Xin hãy tạm gọi là

Khổ vì gái 2

Làn sóng SVSQ học bay quốc ngoại về rất đông, tất cả chúng tôi phải chịu 16 tuần huấn luyện thay vì 3 đến 4 tuần như lúc trước. Tôi cảm thấy may mắn là vẫn còn được huấn luyện dưới mái trường của TTHLKQ Nha Trang thay vì Đồng Đế, Long Thành hay Thủ Đức như một số bạn tôi phải gánh chịu.

Cuộc đời đưa đẩy, tôi quen một cô bạn gái người Nha Trang, nàng là nữ ca sĩ của trường HSQ Đồng Đế… vì thế bao tai ương đang chờ đợi để trút xuống cuộc đời không may mắn với nữ giới của tôi. Đã biết khổ mà sao vẫn không màng vì nếu màng thì làm sao biết khổ và chuyện xảy ra như sau:

Trong khóa chúng tôi có mấy thằng dân Nha Trang nên tụi nó có đem vào một chiếc xe đạp Mini gửi ở một quán nhậu ngoài cổng trại Phi Dũng. Thông thường thì chúng tôi thích đi bộ hơn nhưng hôm ấy không hiểu sao tôi lại đổi ý, tôi đạp chiếc xe đạp mini tà tà đến nhà nàng. Vừa đến nơi thì đúng lúc nàng cũng vừa định leo lên chiếc xe Jeep lùn của một ông bộ binh mang lon Đ/úy, tôi nghĩ ông này chắc là quan lớn của trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Vừa thấy tôi nàng ngừng lại, quay sang nói với ông ta gì đó rồi tiến về phía tôi, leo lên ngồi đàng sau chiếc xe đạp bé nhỏ của tôi. Ông Đ/Úy xuống xe nhìn tôi với đôi mắt không thiện cảm, tuy không nói với nhau tiếng nào nhưng tôi có thể đoán là không phải ông xuống xe là vì muốn làm bạn với tôi. Chúng tôi ra phố Nha Trang, vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, tối ấy tôi về nhà nàng ăn cơm tối rồi tôi về trại.

Cuối tuần đó, tôi đi uống café với vài người bạn, sắp sửa ra về thì cô hàng café đến rủ tôi đi ăn tối, nổi máu KQ, tôi nhận lời. Nàng cũng có một chiếc xe đạp mini, chúng tôi đèo nhau đi dạo phố, dạo biển và cuối cùng ghé vào một quán cơm ở trước cổng Quân Y Viện Nguyễn Huệ để ăn cơm tối. Ăn chưa xong bữa cơm thì tôi thấy có 4 tên lính Lôi Hổ vào quán và chia nhau ngồi 4 bàn chung quanh bàn tôi . Tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra nên tôi khuyên nàng đi hãy rời quán và liếc quanh quán để tìm đồng minh, may quá có 3 KQ ngồi ở cuối quán, 4 thằng chơi 4 thằng thì đồng đều, không ức hiếp ai cả.

Tôi móc điếu thuốc ra hút thì một tên đứng lên tiến đến bàn tôi, tôi cũng đứng lên dựa lưng vào vách để chuẩn bị chiến đấu, nhìn qua bàn của 3 người bạn KQ để cầu cứu thì họ không còn đó nữa. Thôi thì đổi chiến thuật,1 chọi 4 thì hơi thất thế nhưng tôi đang ở trong tư thế không có sự lựa chọn, chơi luôn, tới đâu hay tới đó. Đấm đá nhau chưa được bao lâu thì tôi cảm thấy có một cái gì vừa đập vào đầu tôi, tôi nhìn sang thì thấy một tên đang cầm trên tay một cổ chai đã vỡ nát. Thì ra nó vừa đập vào đầu tôi bằng 1 chai xá xị, máu trên đầu đã tuôn xuống cái áo 4 túi của tôi, tôi đưa tay lên bịt vết thương, trong đầu thì đang nghĩ không nhớ lúc nãy bỏ cái hộp quẹt Zippo ở đâu. Bốn tên bỏ chạy ra khỏi quán, bà chủ quán đem khăn lên cho tôi lau vết máu, ba chàng KQ vừa trở lại với vũ khí trong tay, tôi vẫn đang đi tìm cái hộp quẹt Zippo của tôi.

Họ dìu tôi đi thẳng vào QYV Nguyễn Huệ, nơi đây họ không cho tôi vào vì tôi đang mặc đồ KQ, họ bảo tôi phải vào bệnh viện của KQ. Tận dụng cái thông minh tối thiểu của mình tôi giả vờ xỉu, ông y tá trưởng nhấn còi báo động, y tá chạy đến cho tôi vào phòng để chuẩn bị may vết thương. Họ cạo chung quanh vết thương, rửa sạch sẽ và bắt đầu may mà không dùng thuốc mê gì cả. Tôi vì giả vờ xỉu nên nằm chịu trận luôn, đau mấy cũng nằm yên, sợ bể ra họ không may nữa thì chết. Khi biết đã may xong, tôi tỉnh dậy, họ khuyên tôi nên vào bệnh viện của KQ để chụp hình X-ray. Họ quấn đầu tôi như một ông Ấn Độ, cho tôi vài viên thuốc rồi cho tôi ra về, có lẽ họ không muốn có trách nhiệm, dù sao tôi cũng xin cám ơn họ đã cầm máu được cho vết thương của tôi.

Cô hàng café trở lại đúng lúc, nàng nói nàng chạy đi tìm QC nhưng không ra, tôi nhờ nàng chở tôi về trại Phi Dũng. Tôi ngồi sau chiếc xe đạp mini, hồi tưởng lại để tìm hiểu đầu đuôi câu chuyện, toàn là những giả thuyết mông lung nhưng giả thuyết nào nghe cũng có lý cả. Trên đường vào trại có 2 trạm gác, toàn bạn bè cả nên thằng nào cũng mở cổng cho tôi qua, cô hàng café chở tôi vào đến tận phòng. Chưa kịp nói lời chia tay là vị Sĩ Quan trực đã có mặt ở phòng, ông ra lệnh cho cô hàng café rời trại, gọi xe từ bệnh xá đến đón tôi, tôi nhập viện lúc 1 giờ sáng.

Hai hôm sau, Tr/Tá Lăng có vào bệnh viện thăm tôi, ông hỏi tôi đầu đuôi câu chuyện, lấy tên tuổi, khóa học rồi từ giã. Hôm sau bệnh xá cho tôi xuất viện, họ cho tôi biết là tôi nứt sọ, rất nhỏ nhưng phải cẩn thận , hình như họ có khuyên không nên đánh lộn nữa. Về đến trại, chưa kịp nghỉ ngơi tôi đã nhận được Sự Vụ Lệnh trục xuất tôi ra khỏi KQ, ra trình diện trường HSQ Đồng Đế (cơ hội để gặp ông bạn Đ/Úy) và sẽ xuống Trung Sĩ khi ra trường vì lý do kỷ luật ký bởi Ch/Tướng Nguyễn Xuân Oánh, Chỉ Huy Trưởng TTHL KQ Nha Trang. Cả một bầu trời KQ mơ mộng xụp đổ, bao nhiêu mơ ước đã trở thành mây khói, tôi hơi đau khổ nhưng không biết làm sao hơn, thôi thì tạm chấp nhận cho số phận của mình vậy.

Một lần nữa, tôi quyết định sẽ không báo cho nhà biết, tôi chỉ viết một bức thư về cho thằng bạn thân trong Trung Học, đại khái là báo cho nó là “khi mày nhận được thư này thì tôi đã có thể tao đã về Bộ Binh”. Bây giờ tôi mới tin con người đếu có số phận cả, mình có muốn cũng không được và không muốn thì cũng không tránh khỏi. Thằng bạn nhận thơ ngày thứ sáu cũng đúng là ngày ông bố tôi sang nhà nó để hỏi thăm về tin tức của tôi, tôi nghe kể lại là hai người đang nói chuyện thì ông phát thư đến. Sau khi đọc thư xong bố tôi về nhà và tìm phương tiện ra Nha Trang, trưa thứ bảy bố có mặt ở Nha Trang, đến trại Phi Dũng bố vào gặp Tr/Tá Trung, hai người đi gặp Ch/Tướng Oánh.

Theo Sự Vụ Lệnh thì tôi sẽ rời KQ ngày thứ ba, sáng thứ hai tôi có Sự Vụ Lệnh mới hủy bỏ Sự Vụ Lệnh cũ, tôi được ở lại KQ, dù rằng chẳng bao lâu sau thì cũng phải gián đoạn vĩnh viễn nhưng tôi vẫn cảm thấy may mắn là được mặc bộ đồ KQ cho đến ngày cuối cùng.

Người ca sĩ của trường HSQ Đồng Đế bỗng dưng trở thành người xa lạ, cô hàng café bỗng dưng trở thành người tình cho đến ngày tôi rời bỏ Nha Trang ngày 1 tháng 4 năm 1975. Tôi rời Sài Gòn ngày 30 tháng tư năm 1975 trên chiếc tàu Trường Xuân mang theo một mối tình thật ngắn ngủi nhưng đầy những cam go của một con người mang số phận……”Khổ vì gái”

hung45qs

hung45qs
10-25-2010, 08:06 PM
Kỷ niệm một mùa Xuân

Từ Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang vừa làm lễ mãn khóa 2 Hoa Tiêu Trực Thăng, khoá này được huấn luyện tại Phi Đoàn 211 Thần Chùy tại căn cứ Trà Nốc, Cần Thơ sau khi tốt nghiệp chương trình Giai Đoạn II Quân Sự tại đây, tôi bốc thăm trúng về Sư Đoàn IV Không Quân tại Cần Thơ. Quê tôi ở miền Trung, đúng ra thông thường bạn bè có gia đình ở miền Nam muốn được gần gia đình thường trao đổi nhau và có bù thêm một số tiền. Tuy nhiên, tôi quyết định mình bốc thăm trúng nơi nào thì về nơi đấy vì tôi tin rằng đây cũng là số Trời đã chỉ định mặc dù nếu về Vùng I tôi có mấy cái lợi, vừa được phục vụ gần gia đình mà vừa lại có chút tiền còm.

Nhận được Sự Vụ Lịnh của Bộ Tự Lệnh Không Quân đi nhận nhiệm sở mới: Phi Đoàn 225, Sư Đoàn IV KQ tại Căn Cứ Trà Nóc, Cần Thơ mà Tết lại gần kề. Ý nghĩ lúc bấy giờ là “đi về quê ăn Tết thay vì đi thẳng ra đơn vị mới,” chợt đến trong trí tôi, kỷ niệm những ngày Tết với gia đình sống lại làm tôi phân vân và đắn đo mãi. Một bên là tình cảm gia đình và một bên là quân kỷ đang dằng co mãnh liệt trong tôi.

Cuối cùng, tôi quyết định đến trạm Hàng Không Dân Sự Việt Nam Nha Trang để mua vé. Nhân viên bán vé từ chối vì lý do là Sự Vụ Lệnh của tôi đi về Cần Thơ mà lại mua vé về Quảng Ngãi. “Lính tàu bay” bây giờ phải chọn con đường đi bằng xe đò. Thật là một cuộc mạo hiểm, chiến sự lúc bấy giờ bỗng trở nên yên tĩnh, chờ đợi, nhưng thật là trầm trọng, những đoạn đường phải đi qua như Bồng Sơn, Tam Quan ở Bình Định, Diên Trường, Mỹ Trang ở Đức Phổ, Quảng Ngãi, v.v… làm chùng bước chân tôi. Nhưng Tết với gia đình lại tiếp tục thôi thúc mãi trong tôi. Cuối cùng, tôi quyết định mua vé xe đò trực chỉ về Quảng Ngãi, mặc dù trong lòng vẫn hồi hộp lo âu không biết “vẹm” đón đường lúc nào và nếu có phải phản ứng ra sao. Một liều thì ba bảy cũng liều cầu xin Trời Phật phù hộ.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288041591.jpg

Tết! Chỉ một tiếng cụt thế thôi đã cho nỗi nhớ nhung vời vợi vì đã lâu chưa có dịp về thăm gia đình, làm cho tôi bất chấp hậu quả để có được một thời gian thật ngắn ngủi với cha mẹ, chị em, bà con thân tộc, xóm làng trong dịp Xuân về. Lòng miên man suy nghĩ như nghe văng vẳng trong mơ tiếng hát Duy Khánh vang lên: ...nếu con không về chắc Mẹ buồn lắm … đàn trẻ thơ ngây chờ mong anh trai”…. trong bản nhạc “Xuân này con không về”, tôi nghe chừng như xúc động quá nhiều. Quê hương ơi! Những bà Mẹ Việt Nam, những em thơ mừng đón Xuân về trông mỏi mòn chờ đợi…
Hành trang chỉ có vài bộ đồ lính và những vật dụng cần thiết. Trên đường đi, có nhiều khúc gập ghềnh, hư hại do bọn Việt Cộng đặt mìn phá hoại, đôi khi xe đò phải chạy vòng xuống ruộng thay vì chạy trên quốc lộ. Xe đi được hơn nửa ngày, bỗng dưng nghe tiếng súng cách đó không xa nổ vang, tài xế thình lình cho dừng xe lại rồi mọi người vội vã xuống xe tìm chỗ trú thân ở các bờ ruộng dọc theo quốc lộ. Một lúc sau, tiếng súng thưa dần rồi chấm dứt, xe đò lại tiếp tục đi trên con đường cái quan đầy bất trắc này. Tôi ngồi trên xe như ngồi trên lò lửa, trong lòng hồi hộp từng giây từng phút và mong sao được tới nơi đến chốn bình an…

Trên suốt lộ trình này, tôi đã chứng kiến những cảnh cửa nát nhà tan, ruộng vườn hoang tàn bỏ ngỏ, không khí nặng nề của chiến tranh, của chết chóc, của hận thù làm tôi thấy thương quê hương, thương đồng bào, những người dân cần cù chất phác sống với làng mạc ruộng vườn và mồ mả tổ tiên phải di tản tìm nơi an toàn hơn hay phải sống trong âu lo hàng giờ dưới hầm hố để tránh bom đạn. Càng thương quê hương, càng thương cho kiếp sống đau thương của đồng bào tôi, tôi lại càng căm thù những tên lãnh đạo Cộng Sản bấy nhiêu…

Miên man suy nghĩ mãi, rồi trước mặt là xứ Quảng thân yêu càng lúc càng hiện rõ, qua những nơi mà tôi khó khăn lắm mới nhận diện nổi. Xe qua khỏi Sa Huỳnh, nơi có nhiều ruộng muối, qua khỏi đèo Mỹ Trang là tới quận lỵ Đức Phổ. Tôi cố gắng nhận diện những nơi mà thuở “khi xưa ta bé” với nhiều kỷ niệm. Đây rồi, tại ngã ba con đường rẽ tay phải dẫn đến trường tiểu học Phổ Hưng A nơi tôi theo học, đi thêm một khoảng nữa là trường tiểu học Phổ Hưng B, bên trái là trụ sở Hội Đồng Xã Phổ Hưng. Lúc xưa, trong giờ nghĩ, tôi thường qua đó chơi và làm quen với ông Huỳnh, vị Đại Diện Xã Phổ Hưng.
Ông dáng người to lớn phải nói là quá cỡ so với người Việt Nam. Tuy vậy, ông lại thích trò chuyện với tôi. Đây là một trong những kỷ niệm làm tôi thích thú - một chú bé tiểu học bạo gan làm quen với một vị Đại Diện Xã mà giờ đây mỗi lần nhắc lại, tôi không khỏi tự hào về sự “quen biết” đó.

Tôi bùi ngùi không thấy căn nhà trọ xưa, không biết gia chủ và những người tôi quen đã mất còn hay đã trôi dạt phương nào. Nhà trọ này là nơi có nhiều kỷ niệm của cha con tôi. Quán bên đường, món thịt gà hon, mềm, cay cay mà tôi ưa thích, nơi ăn trưa của cha con tôi trong suốt thời gian Ba tôi dạy học ở trường Đăng Khoa và thời gian học hành của tôi ở trường tiểu học Phổ Hưng A.
Kia là trường trung học Đăng Khoa bên cạnh dòng sông đào nhỏ bé, ngôi giáo đường, tháp chuông giờ đây không còn nữa và khuôn viên trường chỉ là những đống gạch vụn, quan cảnh thật hoang tàn. Trường Đăng Khoa do Linh Mục Bích sáng lập và nơi đây Ba tôi đã dạy học và có lắm học trò ngày nay vẫn còn thương mến ông.

Qua khỏi cầu đúc nho nhỏ là thị trấn Trà Câu. Chợ Trà Câu sầm uất ngày nào, những tiệm buôn hai bên quốc lộ 1 nhộn nhịp một thời không còn nữa. Chiến tranh đã cướp mất sự sống. Bên trái, một hương lộ chạy theo cánh đồng ruộng qua chợ Liên Chiểu, bên bầu sen bát ngát - Liên Trì Dục Nguyệt, một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi – là đến trạm xe lửa Trà Câu, nơi đây bà Mợ tôi làm trạm trưởng, con đường tiếp tục qua bên kia đường xe lửa đến Phố Nghĩa, Phổ Phong… Tôi nhớ Mợ tôi vì bà rất thân thiết và gần gũi với Má tôi như hai chị em ruột.

Tưởng cũng cần nhắc lại là gia đình bên Ngoại tôi đều là nhân viên hỏa xa nên gia đình tôi đi xe lửa không phải mua vé. Ông Ngoại tôi đã về hưu, lúc xưa là nhân viên phát lương và sau đó làm Thanh Tra cho sở Hỏa Xa và sau nầy Má tôi làm trưởng ga Mộ Đức sau nầy đổi tên là ga Thạch Trụ.

Nhớ lại những chuyến tàu chợ, tàu suốt, kẻ đón người đưa, cảnh ga chiều làm lòng dạ tôi cũng lắm miên man. Những năm thanh bình vào giữa thập niên 1950’s, đường xe lửa lúc đó ít khi bị Việt Cọng đặt mìn, cứ mỗi lần Tết Trung Thu, sở Hỏa Xa cho một chuyến xe lửa đặc biệt để chở con em nhân viên hỏa xa đi du ngoạn và phát quà. Sau đó, chúng tôi được chở đi vào Tam Quan để dự Tết Trung Thu. Thị trấn Tam Quan bóng dừa rợp nắng tôi không thể nào quên được và tôi bắt đầu mơ mộng… Trung Thu chúng tôi được xem nhiều cuộc vui chơi nhưng mục “mô-tô bay” là không thể nào tôi quên được.

Rời Trà Câu, nơi đây tôi thuở bé đã mài đũng quần để bắt đầu cho sự nghiệp làm "lính tàu bay”, qua khỏi làng Quạ Kêu, Vinh Hiển, đến cầu Suối Giới, chuyến xe đò từ từ vào thị trấn Mộ Đức. Tại đây gọi là ngã tư Thạch Trụ là nơi phát xuất tỉnh lộ chạy về hướng Tây qua ga Mộ Đức dẫn đến Ba Tơ lên Kontum miền cao nguyên Trung Phần. Nhà Ba Má tôi ở sát ga Mộ Đức, nơi tôi đã sống phần thời thơ ấu cùng các chị em tôi, bà con thân tộc, xóm làng. Những năm thanh bình, nhiều chuyến xe lửa về đêm làm tôi lại mơ mộng viễn du… Tôi nhớ ngày xưa quá, ngày xưa còn bé nhìn nắng hồng vươn sườn núi Thụ của làng tôi. Tại vùng này có một chỗ người dân ở đây quen gọi "Vũng Nước Sôi". Vũng Nước Sôi là vùng đất có mấy hồ nước nóng liên tục chảy ra từ lòng đất cũng giống như ở Yellowstone National Park nhưng nhỏ hơn nhiều.
Nơi đây ông Bảy Tròn, người địa phương chuyên đúc bằng xi măng các chậu kiểng trồng bông hay những kệ có hình các con thú như con voi, sư tử...

Ông xây những con mương để dẫn nước lạnh và nước nóng vào một hồ tắm xây bằng xi măng và đá để tắm. Gia đình tôi cũng như dân chúng trong vùng thường đến đây để tắm, nước có nhiều khoáng chất tốt cho da và chữa bịnh ngoài da. Trầm mình trong hồ tắm nước ấm áp cũng có thể bớt những bịnh tứ thời cảm mạo. Đôi khi dân làng còn mang cả gà heo ra chỗ vũng nước sôi để cạo lông, nhổ lông thật tiện lợi vì không cần phải đun nước.

Thạch Trụ là một trong những địa danh lừng lẫy của QLVNCH nói chung, một chiến tích oai hùng của Tiểu Đoàn 37 Biệt Động Quân nói riêng. Nơi đây khi xưa, Thiếu Tá Sơn Thương, vị Tiểu Đoàn Trưởng cùng với các chiến sĩ Biệt Động Quân can trường đã đánh tan tành ba Trung Đoàn Cộng Sản Bắc Việt, giữ vững hậu cứ, bảo vệ thị trấn không để lọt vào tay giặc, duy trì an ninh cho đồng bào.

Tôi đã buồn thật nhiều, cái buồn vu vơ, tôi đã luyến nhớ từ con đường mòn, bạn bè, nỗi sợ hãi vào những đêm khi nghe tiếng chó sủa báo hiệu các "ông kẹ" về.

Không xa lắm là núi Thụ cũng gọi là núi Đất vì phần trên đỉnh núi trơ trọi không cây cối, chơ vơ trơ trụi đang ngắm nhìn những thay đổi của cuộc đời. Trăng thanh bình đã bị lũ mờ bởi khói lửa chiến tranh. Từ đó tôi bắt đầu băn khoăn về cuộc đời.

Phố xá buồn tênh vương vấn, cảnh vật đìu hiu, sự sống hầu như không còn nữa. Những căn nhà còn lại loang lỗ những vết đạn như những vết thương lòng…

Xe qua quận ly Đồng Cát, thị trấn Thi Phổ, Liên Khương, Sông Vệ, rồi đến La Hà - La Hà Thạch Trận cũng là một trong 12 thắng cảnh của Quảng Ngãi -, núi Thiên Bút, cống Kiểu. Và cuối cùng chuyến xe đò đã đổ bến. Tôi đã trải dài những kỷ niệm tuổi thơ suốt con đường từ Nha Trang về Quảng Ngãi. Tôi đã mơ trong nỗi lo âu… Tôi thở phào nhẹ nhõm, tôi dâng lời cảm ơn Trời Phật đã phù hộ và đã cho tôi trọn ước mơ nhỏ bé là được sum họp với gia đình trong ba ngày Tết.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288041705.jpg

Niềm vui khó tả, tôi vội vàng đón xe ôm chở về nhà. Vừa đến nhà, Ba Má tôi ngạc nhiên mừng rỡ, các em tôi sung sướng được gặp lại người anh lớn đã lâu chưa về thăm nhà.

Nhà cửa được quét dọn và trang hoàng sửa soạn đón Xuân. Bộ lư hương, tam sự được cẩn thận lau chùi cho bóng loáng. Bàn thờ gia tiên, nơi gặp gỡ của tổ tiên và đàn con cháu, nơi khói hương nghi ngút mang quá khứ về hiện tại và mang hy vọng đến tương lai… sự giao cảm mật thiết của đại gia đình trải qua từ đời này đến đời nọ, con cháu tiếp nối mãi mãi về sau… đang được sửa soạn lại cho ngay ngắn.

Má tôi và chị tôi lo làm đủ loại bánh mứt. Bánh nổ là món tôi ưa thích nhất. Nếp rang nổ xong, lựa cho sạch trấu. Nước đường được xên với gừng cho thơm, trộn đều nổ và nước đường xên gừng vào một cái thau, đổ vào cái khuôn gỗ hình khối vuông dài độ hơn nửa thước, nện cho chặt đều tay, gỡ khuôn ra, khối bánh được sấy khô và sau đó dùng dao thật bén cắt ra từng miếng vuông mỏng. Sau đó được cắt xén từng bánh nổ cho vuông vức, phần rìa gọi là đầu đày là phần tôi và các em tôi có thể "xơi" ngay được và không có gì ngon và thú cho bằng. Ngoài ra còn có bánh thuẩn, mứt gừng, mứt dừa, mứt bí, dưa món, củ kiệu và những món thịt cá được Má và chị tôi đã lo sẵn mấy ngày trước Tết.

Bánh chưng hộc dừa (hộc là khối vuông nhỏ) phải có trong dịp Tết. Những năm chưa xa nhà, tôi thường đi hái là dừa non ở khuôn viên trường Bồ Đề về làm hộc để gói bánh. Những năm sau này, vì không còn ở nhà nên tôi không còn được làm công việc thích thú này nữa. Các em tôi phụ Má trong công việc này. Năm nay, tôi có dịp cùng em tôi xuống trường Bồ Đề để hái lá dừa như những năm trước vì dừa được trồng chung quanh khuôn viên trường. Lúc xưa, chị em tôi theo học ở bậc trung học đệ nhất cấp và Ba tôi dạy học tại đây.

Lá dừa phải chọn lá non và bề ngang phải đầy. Bánh chưng gói bằng lá dừa khi nấu chín có mùi thơm đặc biệt và khi chưng bày trên bàn thờ trông thật đẹp mắt vì sự ngay ngắn và vuông vức như biểu hiện cho sự trọn vẹn cao quí. Tôi không quên được đêm hôm đó ngồi nấu bánh chưng cùng em gái kế tôi suốt đêm. Anh em tôi đã nói chuyện nhiều về những kỷ niệm xưa. Bên ngoài, Tết tiết trời lành lạnh, lửa củi cháy sáng, bập bùng trong đêm trừ tịch. Đêm nay, mọi người nôn nao để tống cựu nghênh tân, đón giao thừa. Bàn thờ nhỏ được sắp ngoài sân để cúng giao thừa, tôi suy nghĩ mông lung và nghĩ về những người lính xa nhà, họ nghĩ gì, họ đón giao thừa bằng phiên gác đêm.

Tiếng pháo nổ trong giờ giao thừa như xua đuổi tà ma… nhưng không, pháo không được đốt vì lý do an ninh vào những năm sau này, nhưng súng nổ vang trời từ những căn cứ quân sự, hỏa châu soi sáng cả vòm trời. Súng đuổi giặc thay pháo, ánh sáng hỏa châu làm mất đi cái tịch mịch của đêm ba mươi. Nhưng nó chiếu sáng trên quê hương như để chiếu sáng những con người đang rình rập cướp lấy những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giờ giao thừa là giờ rất quan trọng, giờ chuyển từ củ sang mới, giờ nghe ngóng con vật gì ra đời và đặc tính con vật là biểu hiệu những gì xảy ra cho năm mới. Tôi không biết con gì ra đời nhưng dù con gì đi nữa thì chiến tranh vẫn tiếp diễn và quê hương vẫn còn chìm đóng trong khói lửa chiến tranh. Thanh bình thật xa vời!

Sáng mồng một Tết, tất cả anh chị em chúng tôi quần áo tươm tất thay phiên nhau chúc Tết mừng tuổi ông bà Ngoại và Ba Má sau đó cùng nhau đi lễ Chùa hái lộc đầu năm tại Chùa Tỉnh Hội. Trong dịp Tết này, Ba tôi có thực hiện một cuốn băng sinh hoạt gia đình. Anh chị em chúng tôi thay phiên nhau hát những bản nhạc Xuân ưa thích. Sau này tôi được biết Ba tôi vẫn giữ cuốn băng nhạc ấy, thỉnh thoảng ông đem ra nghe lại giọng hát của chúng tôi, và có lẽ là muốn nghe lại "tiếng nói" của tôi cho thỏa lòng thương nhớ vì cách xa.

Ba ngày Tết ngắn ngủi quá mau, phút chia tay thật bùi ngùi, tôi phải khăn gói lên đường để trở về đơn vị mới, trễ phép vì đáng lẽ tôi phải trình diện trước Tết. Qua sự quen biết địa phương nhà nên tôi đã mua được vé máy bay vào Saigon không mấy khó khăn. Những năm gần đây, Phi trường Dân sự Quảng Ngãi không sử dụng nữa vì thường bị Việt Cộng pháo kích nên được dời vào Căn cứ Quân sự Chu Lai cho an toàn. Đứa em gái kế tôi muốn tiễn đưa tôi tận phi trường nên cùng tôi xuống trạm Hàng Không để đi xe buýt ra Chu Lai .

Vì lý do an ninh và số ghế giới hạn nên em tôi không được đi theo, chúng tôi nhìn nhau buồn vời vợi. Tôi đã nhìn em tôi thật lâu trước khi xe chuyển bánh. Tôi nhớ mãi giây phút này, tôi nhớ mãi những ngày Tết mà hình ảnh thân yêu êm đẹp vẫn còn ghi khắc vào tâm tư tôi. Tôi nhớ và tôi nhớ!!!

Xe lăn bánh xa dần thị xã Quảng Ngãi, qua cầu Trà Khúc giòng nước lặng lỡ trôi cùng năm tháng. Sừng sững bên phải là núi Thiên Ấn biểu tượng một uy quyền Trời ban cho xứ Quảng đang ngắm nhìn biển Đông.

Đến Châu Ổ, qua những thị trấn cực Bắc của tỉnh nhà, xe vào căn cứ Chu Lai. Tất cả hành khách phải trình giấy tờ tại trạm Kiểm Soát. Dân sự đứng một bên trình cho Cảnh Sát, quân nhân đứng một bên trình cho Quân Cảnh. Ở Mỹ Murphy’s Law nói rằng: Chuyện gì có thể xảy ra thì nó sẽ xảy ra” và cũng đúng với câu: "chạy trời không khỏi nắng" của người Việt nam. Anh Trung sĩ Quân Cảnh đến lược xem giấy tờ của tôi, tôi hồi họp theo dõi. Sau khi xem xong, anh "lịch sự" ra lệnh cho tôi đứng riêng và mang giấy tờ vào trình xếp lớn của anh. Sau đó, anh mời tôi vào gặp vị Đại Uý Quân Cảnh. Tôi chào kính xã giao, ông Đại Uý muốn biết lý do tại sao tôi lại đi ngược đường và trễ phép không như trong Sự Vụ Lệnh cấp.

Tôi thật tình “khai báo sự thật" rồi ông nhìn tôi hồi lâu, mỉm cười cho tôi đi. Tôi chỉ biết cảm ơn rồi vui mừng vội vã ra sân bay bước lên phi cơ. Sự thông cảm của ông, có lẽ phát xuất từ tình chiến hữu, tình quê hương, và những ngày đầu năm có lẽ lòng người rộng rãi và dể tha thứ hơn.

Phi cơ từ từ chuyển bánh ra phi đạo cất cánh, bỏ lại sau lưng vùng trời miền Trung xứ Quảng thân yêu. Phi cơ bay vòng để lấy cao độ, từ trên nhìn xuống, tôi thấy dòng sông Trà Khúc vẫn lặng lỡ trôi, cầu Trà Khúc vẫn còn đó bên cạnh núi Thiên Ấn hùng vĩ từ từ nhỏ dần và che khuất trong những đám mây trắng. Lòng tôi cảm thấy một nỗi buồn khôn xiết vì không biết ngày nào tôi trở lại. Tôi suy nghĩ vẫn vơ rồi thiu ngủ lúc nào không hay đến khi giọng nói cô chiều đãi viên trên máy cho biết phi cơ sắp đáp xuống Tân Sơn Nhất. Máy bay đổi cao độ từ từ thấp dần rồi đáp xuống phi đạo.

Thủ đô Sài Gòn về đêm muôn màu thật đẹp, giòng sông Sài Gòn chảy ngang qua như cánh tay người tình trải dài ôm ấp người yêu. Sài Gòn thật an bình dù chiến tranh đang xảy ra khốc liệt đó đây. Không biết người dân thủ đô có hiểu được cái giá của sự an vui mà họ đang hưởng. Và dù không, thì người “trai thế hệ" cũng không màng đến. Đến Sài Gòn bình an, sau đó tôi đáp xe đò xuống Cần Thơ. Đến đơn vị mới, lòng hồi họp lo sợ bị "ký củ". Bị ký củ nhiều thì đường binh nghiệp xem chừng không khá lắm. Phòng Nhân Viên làm tất cả thủ tục đáo nhận đơn vị mới cho tôi mà không có điều gì thắc mắc. Thế là mọi chuyện được êm xuôi, không có chuyện gì xảy ra. Một lần nữa, tôi thở phào nhẹ nhõm, Trời Phật lại phù hộ cho tôi.

Nếu không có gian truân và kỷ niệm thì làm sao con người có thể gắn liền với quê hương… giờ thì quê hương tôi rộng lớn hơn. Tôi thực sự biết thêm về quê hương mình, quê hương miền Nam với những ruộng đồng bát ngát, những kênh lạch, giòng Tiền Giang và Hậu Giang mang màu mỡ tưới lên ruộng đồng bao la. Tôi đã đi bay trên các nơi thuộc Vùng IV Chiến Thuật như Sóc Trăng, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên, Châu Đốc, Cà Mau, v.v.. mỗi "quê hương" có những nét đặc thù riêng và tất cả đều đẹp cả. Người miền Nam hiền hòa, dễ dãi. Những chiều buồn trên bến Ninh Kiều tôi lang thang tìm ý nghĩa cuộc đời.

Quả thật, thế hệ chúng tôi đang bảo vệ quê hương nhưng rồi cuộc chiến bỗng dưng chấm đứt trong tủi nhục, lệnh đầu hàng do vị Tổng Thống cuối cùng – Dương Văn Minh – tuyên đọc, ngày 30 tháng 4 năm 1975. Lúc đó tôi đang là Sĩ Quan trực của Phi Đoàn có nhiệm vụ phân công các phi vụ bay yểm trợ các đơn vị Bộ Binh bạn đang hành quân. Được tin Chuẩn Tướng Tần, Tư Lịnh Sư Đoàn IV KQ vừa rời bỏ đơn vị, trước tình cảnh này, chúng tôi quyết định vội vã ra đi mà trong lòng thầm oán trách các cấp chỉ huy và lãnh đạo.
Từ trực thăng nhìn xuống, tôi nhìn lại quê hương tôi lần chót, giòng Cửu Long như những con rồng uốn khúc, xuyên qua cánh đồng ruộng bao la. Phố xá xưa, tiếng cười vui rộn rã và tất cả thực sự mất rồi.

Tôi may mắn được sống trên đất nước tự do, còn lại đồng bào tôi, bạn đồng đội tôi, những người thân yêu tôi còn ở lại phải sống dưới cai trị độc tài của tập đoàn Cộng Sản vô thần. Tôi hoang mang đến tận cùng. Quê hương yêu dấu ơi! Đã hơn ba mươi lăm mùa Xuân lạnh lùng trôi qua, tôi vẫn nhớ đến quê hương tôi, nơi tôi đã được sinh ra, lớn khôn bằng sữa Mẹ và "đã phục vụ". Tôi ấp ủ những kỹ niệm vui buồn hòa lẫn đắng cay và mơ ước một mùa Xuân thanh bình thực sự cho quê hương mình

Tết lại về, Tết về trong giá lạnh, tuyết trắng nơi đây mà cứ ngỡ như màu tang trắng phủ kín quê hương mình, tôi nhớ mãi cái Tết năm xưa. Má ơi! Con đâu ngờ đó là cái Tết cuối cùng của con với Má và cũng là lần Má vĩnh biệt con. Má yêu!

Hiệp An Nguyễn Thanh Bình
Xuân 2010

hung45qs
10-26-2010, 08:18 PM
Lịch sử Việt Nam


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288126760.JPG

Nhớ lại lúc Lạc Long Quân dựng nước
Cùng Âu Cơ thành lập họ Hồng Bàng
Mười tám đời kế tiếp ở Văn Lang
Danh Phù Đổng Thiên Vương truyền hậu thế
Nước Âu Lạc theo lao thành đổ bể
Gươm Lữ Gia còn vấy máu Ai Vương
Trải ngàn năm Bắc thuộc chịu đau thương
Dân tộc Việt đã nhiều phen quật khởi
Mấy đời sau thêm nữ tướng Nhụy Kiều
Từ Cửu Chân vùng dậy cỡi voi theo
Lý Nam Đế trao quyền cho họ Triệu
Đầm Dạ Trạch, lừng danh nơi hiểm yếu
Mai Thúc Loan rồi kế đến Phùng Hưng
Đất Giao Châu, Dương Viên Nghệ vang lừng
Phá Bắc Tống lai có Hầu Nhân Bảo
Lý Thường Kiệt tiến quân như vũ bảo
Hạ Khâm, Liêm rồi vây hãm Ung châu
Hội nghị Diên Hồng tính kế cùng nhau,
Phá Mông Cổ, anh hùng Trần Quốc Tuấn
Hưng Đạo Vương với trận Bạch Đằng Giang
Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp phải tan hàng
Mấy đời sau, Bắc Binh Vương Nguyễn Huệ
Xuân Kỷ Dậu, với tri tài thông tuệ
Thăng Long Thành, Tôn Sĩ Nghị phải chui
Ống đồng là phương tiện để rút lui
Nước Nam ta có quá nhiều Hào kiệt
Trần Bình Trọng với một câu oanh liệt
Ta thà làm Quỷ của nước Việt Nam
Còn hơn làm Vua của người phương Bắc
Phạm Ngũ Lão bị đâm không thắc mắc
Chuyện nước nhà đã đầy trong trí não
Nguyễn Trung Trực tấn conga bằng lửa bão
Đốt tàu Pháp trên giòng sông Nhựt Tảo
Chứng minh rằng trong nước Việt Nam ta
Biết bao người cùng bảo vệ Sơn Hà
Quyết giử gìn mảnh đất của ông cha
Xá gì những đảo nhỏ thuộc Trường Sa
Sẽ không mất được, hỡi dân nước Việt

AC DINH NGUYEN 73F

hung45qs
10-26-2010, 09:06 PM
LỜI CUNG CHÚC MUỘN MÀNG


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288128017.jpg

Em thương yêu,
Lẽ ra những lời chúc cầu này phải đến với em vào lúc không giờ, khi bắt đầu một ngày mới của năm , cũng như lúc khởi đầu cho một ngày tình yêu của chúng ta – Ngày Valentine đầu tiên của chúng mình sau những tháng năm đằng đẳng khổ đau trong anh. Vậy mà đến tận bây giờ, khi sắp hết một ngày mới, khi ánh sáng của bình mình sắp lụi tàn anh mới có chút thời gian rảnh rỗi để viết cho em

Em thương yêu,
Anh đang tưởng tượng ra khuôn mặt lạnh lùng, bất cần đời và giận dỗi của em khi cả ngày không có một lời nhắn nhủ, một cuộc điện thoại nào của anh, cái nết giận dỗi của em thật đáng sợ, cho đến tận bây giờ, cái phụng phịu dỗi hờn thời tuổi trẻ của em vẫn còn nguyên như ngày cũ; nhưng dù sao anh cũng còn được an ủi là tình yêu trong em dành cho anh còn cao hơn nhiều so với cái dỗi hờn của em

Em thương yêu,
Chắc chắn em lại trách móc, lại suy diễn và lại khóc nhè vì những suy nghĩ chỉ của riêng em, anh đã nói trăm vạn lần với em, thậm chí còn phải mượn lời của nhạc sĩ Từ Công Phụng , và tiếng hát của đàn anh không quân, đại tá Vũ văn Ước “Nếu có điều gì vĩnh cửu được, thì em ơi đó là tình yêu chúng ta, dù mai sau hương sắc có phai nhòa, anh vẫn yêu như ngày đôi ta mới biết. . .. . để “thay lời muốn nói “ với em mà em cứ mãi không tin, cứ mãi lo buồn vì những chuyện không đâu. Hình như điều đó là bản chất của phụ nữ, phải không em.

Em thương yêu,
Anh không hề muốn nhắc lại chuyện xưa cũ, vì em đã nói với anh ngày hôm qua, khi hai chúng mình thắp hương trước bàn thờ của ba, anh đã thưa với ba dù chúng mình gặp lại nhau trong muộn màng tiếc xót, nhưng chúng con nguyện yêu thương nhau cho đến ngày con nhắm mắt, và em cũng đã nói với anh trong nước mắt muộn màng là đừng nhắc lại thời đã qua, những lỗi lầm tuổi trẻ, nhưng đúng là cũng phải mượn lời nhạc của Từ Công Phụng để trách cứ em thêm một lần cuối, chỉ tại em ngày xưa : “Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu sa ?!” Giá như ngày xưa em đừng như thế thì ngày nay đâu phải sót sa . . .

Em thương yêu,
Nói thì thế thôi nhưng anh nghĩ là em hiểu anh, vì ngoài công việc anh không còn nhớ tưởng đến ai ngoài em ra, em nói với anh trái tim đàn ông có tới bốn ngăn : tình yêu, công việc, bạn bè và giải trí , vậy thì em ráng thông cảm nghe em. . . Anh cũng biết trái tim phụ nữ chỉ có một ngăn, anh cũng biết em lúc nào cũng chỉ nghĩ đến mình anh . . Đó chính là động lực thúc đẩy anh sống và làm việc- thế nên, yêu là thứ tha và thông cảm, yêu là không vênh vang, không tự đắc nhưng cũng đừng tự ái thái quá nghen em

Em thương yêu,
Anh lại lan man giống em rồi đó, tha lỗi cho những lời chúc muộn màng của anh, và tha lỗi cho anh nghe em


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288128245.jpg

HAPPY VALENTINE, MY DEAREST !

(Viết thay cho nỗi lòng của một người bạn)
AC Tan

hung45qs
10-27-2010, 07:48 PM
MÈO HOANG VỚ CÁ RÁN


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288209361.jpg

Học hành ba chữ lem nhem
Thấy gái thì thèm như chửa thèm chua

Cuối tuần nào trung tâm huấn luyện Sheppard Air Force Base ở thành phố Wichita Falls, Texas cũng có chương trình giải trí dành cho khoá sinh ngoại quốc đang thụ huấn: Để quảng bá văn hoá Hoa kỳ với du học sinh ngoại quốc SAFB có thể cho đi nghe trình diễn nhạc kịch opera, nào đi xem những chương trình thể thao quận lỵ, nào đi thăm bảo tàng viện nhỏ của địa phương. Thường thường thì có tổng cộng chừng hai chục vé mời, khoá sinh không kể từ nước nào ai ghi tên vào danh sách trước thì được, đi du hí lại có thêm tiền phụ trội ăn lunch ngoài các cafeteria dân sự thức ăn trăm phần ngon hơn mì ramen do khóa sinh tự mua ở siêu thị quân tiếp vụ. Cuối tuần nằm trong khu cư xá độc thân, xem xi nê thí nhiều quảng cáo hơn xi nê trên tivi, hay sắp hàng đợi tới phiên chơi bi da, thật không còn gì chán hơn. Mỗi ngày mỗi khóa sinh được phát $9.00, tháng nào 31 ngày thì mừng rơn vì được thêm mấy tì lẻ, ai nấy cũng lo dành dụm hy vọng mai mốt học xong về nước có tí tiền may ra kiếm được một cô vợ cho ra hồn. c/U tôi có một kỷ niệm khó quên là một lần ghi tên đi xem chợ phiên state fair đâu vùng ngoại ô Dallas.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288209576.JPG

Xe buýt của US Air Force màu xanh đậm rời căn cứ từ 3 giờ sáng, thường thì ai cũng mặc thường phục nhưng thế nào tôi cũng khoác thêm cái áo blouson của Không quân mặc cho đỡ lạnh vì chẳng có tiền dư đâu mà mua áo jacket gần $25.00 bán ở Base Exchange. Trên áo này tuy chưa có mấy giờ bay nhưng thôi thì may thêu đủ thứ nào binh chủng KQ là con "rồng lộn" - xin đừng nói lái lại nghe chói tai lắm, nào huy hiệu sư đoàn "ó đâm", nào "hà bá", nào "voi rừng", "cọp biển" toàn tên những phi đoàn nổi tiếng mà chúng tôi sau khi mãn khoá muốn được về phục vụ. Tám giờ sáng chúng tôi được nhắn nhủ một lần chót điểm hẹn và giờ tập họp ra về chúng tôi tủa ra khu chợ phiên: thôi thì đánh vòng, thảy banh, nhất là lái những cái xe điện nhỏ đâm vào nhau - bumper cars - khóa sinh VN không được phép lái xe vì không có tiền mua xe và mua bảo hiểm, và chiếc xe lửa - roller coaster - tuy nhỏ nhưng phóng thật mau trên đôi đường sắt ngòng ngoèo làm cho người ngồi trên xe lên ruột. Còn một trò chơi nữa là một bánh xe - ferris wheel - có nhiều ghế treo tòng teng cho hai chỗ ngồi đưa người ngồi lên cao rồi lại xuống thấp. Chẳng mấy hấp dẫn, tôi lững thững nhìn mọi người vui chơi bỗng tôi có cảm tưởng nhột nhạt là đang bị nhìn, đảo mắt nhìn thì thấy một "con bé" hình như là nữ sinh của một trường gần đó chắc cũng tổ chức cho đi chơi chợ phiên đang nhìn tôi chằm chặp. "Nó" cũng khá cao, tóc cột cái băng-đô bằng nhung đen, mặc một cái váy đầm trắng dài qua đầu gối, cổ phồng, tay dài bằng một thứ vải cotton trắng rất... bình dân. Tôi đoán chừng "nó" là con nhà nghèo nên không mặc đồ jean như phần đông mọi người, cao lắm đệ tam là cùng, chắc "thằng bồ" nó quanh quẩn gần đó. Tôi tiếp tục nhìn những quán hàng bán thức ăn và những con thú con con nhồi bông. Mắt tôi lại thấy "con bé" hồi nãy đứng ở cạnh xe bán bắp rang vẫn nhìn mình. Có phải tôi đang mơ không ? Tôi ghé vào một xe bán nước mua hai ly nước Coca Cola, xin thêm hai cái nắp và hai cái ống hút. Tôi đi vòng sau quầy hàng tiến lại gần "con bé" đưa ly nước ra mời "I bought this soda for my classmate but he get lost in the crowd, I can't drink both, can you help me ?" Tránh tia mắt tinh nghịch, soi mói của tôi cô ta nhìn xuống bãi cỏ "I'm sorry, but I don't know you." "Tôi tên AnhHùng, tiếng Mỹ là hero nhưng bạn cùng khóa gọi tôi là con gấu dịch sang thành bear, phi đoàn tôi đóng cách đây chừng 200 dặm" "Ông là người ngoại quốc hả ?" "Tôi là người Việt Nam cô ạ." "Ông là phi công sao?" "Tôi đang học điều khiển tàu bay phản lực" "Sao cô không nói cho tôi biết tên cô là gì nhỉ ?" Một thoáng ngại ngùng và rồi ngập ngừng "Má em đặt tên em là Wilma" "Tên lạ nhỉ ! Vậy ba cô gọi cô bằng tên gì?" Biết mình nói hớ tôi vội chữa "Bạn cô đi đâu rồi ?" "Tụi nó dẫn nhau đi hết, em chờ tí nữa Mary và Nancy trở lại tụi em sẽ đi sau." "Nãy giờ đi một mình mỏi chân quá, tôi đứng đây chờ bạn cô với được không ?" "Không được đâu, nó biết, kỳ lắm! Thôi ông đi đi !" Tôi vẫn không di chuyển và được đứng gần tôi mới nhận ra Wilma có cặp mắt màu nâu. "Dân Á đông chúng tôi thường thường mắt đen. Tôi chưa thấy ai có màu mắt nâu đẹp như mắt của cô hết!" Dưới làn da trắng bóc tôi thấy gò má con bé ửng hồng.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288209620.jpg

Con bé này đâu biết rằng sau khi huấn nhục được đeo Alpha xong, một câu hát trong bài KQ hành khúc của nhạc sĩ Văn Cao... Ôi phi công danh tiếng muôn đời... đã sửa thành... Ôi phi công ma giáo vô cùng....Tôi tìm những sơ hở của đối phương để bắt đầu tấn công toàn diện "Tôi hơi đói cô biết món nào rẻ tiền ngon hơn cơm lính bao tôi ăn với" "Sáng nay má em cho em có $10.00 thôi, chỉ đủ mình em ăn trưa, không đủ bao ông đâu!" "Cô nghĩ mình nên ăn món gì? " "Nãy em thấy hàng corn dog coi cũng ngon lắm." "Tôi bao cô nhé?" Nói thế thôi nhưng tôi cũng hơi lo vì sợ rớt mất nên gởi hết trong chương mục tiết kiệm chỉ dám mang theo mỗi một tờ $20.00 và nắm tiền xu cộng thêm $15.00 trường cho. Tôi và Wilma song song đi tìm hàng bán thức ăn Mỹ. "Cô học lớp mấy ?" "Freshman !" Tôi nào cần biết freshman nghĩa là cái giống gì hỏi cho có hỏi vậy thôi. Được dịp cô ta kể hết chuyện trường ra chuyện nhà với con mèo lông xù Tomtom. Ngồi tạm trên một khúc cây tôi nuốt trọn hai cái corn dog trong khi Wilma chậm rãi nhai mấy cọng khoai chiên và một cái corn dog mà nàng tự trả tiền không để tôi tranh trả hộ. Trước khi ăn Wilma bỏ viên kẹo chewing gum đang nhai dở lên nắp ly nước, có thể vì không muốn xả rác khu hội chợ hay một lý do gì mà tôi chẳng hỏi. Sau khi ăn xong phần của tôi, nốc cạn nửa ly nước, tôi thò tay bốc viên kẹo Wilma nhè ra bỏ vào miệng mình nhai tiếp. Cô bé trợn mắt tỏ vẻ kinh hãi "Sao ông ăn ghê quá vậy? Bụi bậm dính tùm lum." Wilma dọa "Tui có bệnh truyền nhiễm thì sao?" Thấy tôi vẫn tóp tép nhai Wilma ngại ngùng "Vứt bỏ đi, em cho ông thẻ khác !" Tôi trở nên lỳ lợm hơn "Ối ! Dân VN khó bị bệnh vặt lắm, mà tôi thấy cô mạnh khoẻ tươi tốt lắm mà, nếu bịnh mà xinh như cô thì tôi cũng muốn bịnh! Hơn nữa kẹo này cô nhai sẵn mềm rồi tôi khỏi mất công nhai, vẫn còn thơm chán". Cặp mắt nâu chớp nhẹ rồi thoáng nhìn về chân trời xa... Tôi miên man kể cho người bạn mới quen những thao tác mà tôi mới học được khi tập làm cái loop, thật ra thì mình chỉ bay sao cho thành một hình tròn đứng. Tôi bịa ra là lần nào tôi vẽ hình tròn này cũng tròn như mặt trăng rằm nhưng thường thì méo xẹo giống quả trứng hay tệ hơn thì giống trái banh football vì tay kéo cần lái và tay tốc độ không đều. Wilma chẳng thâu nhận được tôi ba hoa chuyện gì nhưng cô ta vẫn tỏ ra chăm chú theo dõi và rất thán phục. Chẳng bao lâu thì tôi và Wilma đã ngồi chung trên bánh xe ferris wheel. Khi bánh xe này quay ngược lại gây cho người ngồi cảm giác vô trọng lực trong khoảng chừng vài giây. Đã làm quen với cảm giác này mỗi chuyến bay nhưng lần này thì tay tôi được nắm chặt vì cô ta bị hụt hẫng chăng ? "Viên kẹo cô nói cô cho tôi đâu ?" "Em lỡ nhai mất rồi ! Tí nữa em mua phong khác!" "Trả lại tôi đi, cô mới nhai chắc vẫn còn ngọt, không sao đâu" Cô ta nghiêm mặt từ chối thẳng "Thôi". Tôi ngúng ngẩy quay nhìn ra chỗ khác. Wilma thấy không khí căng thẳng, nhượng bộ đưa tay lên miệng định lấy viên kẹo nhai dở ra nhưng tôi ngăn lại "Ngón tay cô dơ lắm" "Vậy sao ông cứ đòi." "Thiếu gì cách..." Đoán ra tà ý của tôi "Ai làm vậy, kỳ lắm" "Thì mình ra chỗ nào vắng vắng đâu có ai thấy đâu" "Em không chịu đâu!" Biết không còn cách nào thuyết phục được chúng tôi bèn dắt tay nhau thả bộ nhìn người ta đi chơi. Đã sắp đến giờ về, khi đi ngang sau căn nhà được bơm hơi cho cao lên dùng cho trẻ em làm cầu tuột nên ánh đèn bị che khuất, Wilma bỗng kéo tay tôi rồi đứng khựng lại, quay sang nhìn tôi thấy Wilma đang giữ mảnh kẹo giữa hai hàm răng với cặp mắt nhắm nghiền lại. Tôi xúc động quá nên tìm mãi vẫn không cắn được viên kẹo mà chỉ thấy cặp môi mềm mềm. "Sao ông nói ông muốn nhai kẹo ?" Tôi thú nhận "I'm not looking for the gum beside I never kiss a pretty girl like you!" "You lie !" Wilma cười bẽn lẽn và sau khi đẩy viên kẹo sang, tôi đã gặp chót lưỡi của nàng đùa với chiếc răng khểnh của tôi. Lúc còn bé tôi thường nhặt những cục pin 9 volt khối chữ nhật, không có cách nào thử nên đưa hai cực chạm vào đầu lưỡi xem còn tốt hay không, tùy theo điện còn nhiều hay ít thì mình bị giựt nhẹ hay mạnh, lần này tôi bị pin Wilma giựt xiểng liểng vì ngồi gật gù trên đường về môi và lưỡi vẫn bị tê tê. Cho đến nay mỗi lần đi ngang dãy hàng kẹo thế nào tôi cũng mua một phong Wrigley's Juicy Fruit Gum màu vàng chuối bỏ túi để "tưởng nhớ mùi hương", vì đã nhổ hết mấy cái răng hàm nên dù muốn cũng không nhai được nữa. Khi Wilma lên xe rồi tôi vẫn còn ráng đứng lên bánh xe, chồm lên cửa sổ hôn gỡ thêm lần chót và có người bạn đã chụp được bức hình lưu niệm ngày xanh này, tuy không thấy mặt nhưng với tướng cao lòng khòng 1m70 và cái áo blouson khoác trên tay thì khó có thể lầm lẫn với ai khác được. Sau khi xe buýt trường Wilma lăn bánh đi một đoạn xa rồi tôi mới chợt nhớ ra rằng tôi đã quên hỏi nhà cửa hay tên họ, trường, lớp, địa chỉ, ngay cả số điện thoại cũng không nốt. Hình như tôi thấy một bàn tay vẫy vẫy sau cửa kính. Tôi vô tâm quá, mắt tôi cay cay, tôi giận tôi. Wilma ơi, anh nhớ em vô cùng.

Mỗi khi đi thấy một chợ phiên nào đó tôi lại liên tưởng đến hai con chim sẻ một hôm không biết từ đâu bay vụt về đậu trên hàng rào nhẩy nhót, kêu chí choé, tôi thấy chúng nó chạm mỏ nhau nhưng không biết có phải thế là chúng nó hôn nhau không, rồi sau đó lại bay vụt đi trả lại sự yên tĩnh cho sân sau...

Cậu Út

hung45qs
10-28-2010, 03:58 PM
MƠ MỘT LẦN BAY


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288281600.jpg
(Kính tặng Lôi Bằng 1, Lôi Bằng 2 và thầy Trần Anh Hải, Saudi Arabia.)

Khi xưa đang học lớp 12
Em mơ ráng đậu được tú tài
Trước nhất lấy le cô bạn gái
Sau là đi lính cũng "hoa mai"

Đến lúc mùa hè năm 72
Động viên tất cả các tú tài
Em mơ vào được Không Quân chủng
Ai ngờ được học lái máy bay

Nhớ ngày trình diện Tr/Tá Lai
Nhìn anh như một đấng anh tài
Đứng trước hàng quân anh ngậm pipe
Thì thầm em bảo tướng anh oai !

Đến lúc giới thiệu Lôi Bằng 2
Tướng anh mảnh khảnh khá đẹp trai
Thì ra Đào Vũ Anh Hùng thật
Em đã nghe danh viết truyện hay

Rồi đến khi được chọn thầy bay
Thầy Trần Anh Hải cũng rất tài
Cực nhọc dạy em hơn 6 tháng
Ra trường em được xếp hạng 2

Em mơ bây giờ có dịp bay
Chiếc UH1 cánh quạt dài
Bay tới, bay lui, lên, xuống, thẳng
Ước gì em được một lần bay

Trần Thanh Thiếc
Khóa 4/73HTTT
Cali 12/11/07

hung45qs
10-28-2010, 05:57 PM
Mỗi tuần tôi chọn… cùng niềm vui

Giọng hát Thu Phương qua một bản nhạc của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn làm tôi tự mỉm cười, tôi đang lái xe nên nếu người ngoài nhìn vào họ sẽ cho tôi là thằng khùng đang mãn nguyện với những vật vã của cuộc đời. Kệ họ, mình vui là được rồi, tôi không hiểu sao càng về già, niềm vui của tôi lại trở thành đơn giản, chỉ cần gặp bạn bè ngồi tán dóc là vui rồi…

“Mỗi ngày tôi chọn đường mình đi..”
“Đường đến anh em, đường đến bạn bè..”

Sao Trịnh Công Sơn lại cùng tư tưởng với mình như vậy, chúng tôi, những cựu SVSQ KQ tuổi đã gần 60 bỗng dưng cảm thấy việc gặp nhau cuối tuần là một nhu cầu cần thiết của đời sống (vợ con không đồng ý…). Chúng tôi có thói quen hay tụ tập ở Café Mưa Rừng mỗi thứ bảy và chủ nhật dù mưa hay nắng. Tôi ở cách Café Mưa Rừng trên 60 miles thế mà tuần nào cũng cố gắng đến để gặp bạn bè, may có Trí Bop ở gần nên chúng tôi thay phiên nhau lái xe. Những gương mặt thường trực ở đó là Vinh (nổ), Nam (nọc), Hùng (Mễ), Hùng (lác), Hùng (ruồi), Hải (râu), Hảo (TL), Trí (bop), Lộc (thủ), Nguyên (TĐ), Bình (răng vàng)……


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288288537.JPG

“ Đả hơn 1 năm nay, một số anh em của LK72/73 có thói quen vẫn thường tụ tập vào mỗi sáng thứ bảy và chủ nhật tại quán cà phê Mưa Rừng, thành phố Fountain Valley từ 10 sáng cho đến 3 giờ chiều để cà phê, cà pháo , sau đó tan hàng và re-group trở lại ở quán nhậu di động " Té Giếng" cho đến sáng sớm Chủ Nhật mới tan hàng.
Qua sự nhận xét của đặc phóng viên Lôi Thiên, thì gần 1 tháng nay, số người gặp nhau ở quán cà phê đả tăng lên đáng kể, có lẻ vì muốn gặp lại bạn bè để tán dzo'c, đồng thời cũng muốn biết anh em trong BTC liên khóa đã làm việc đến đâu rồi.”
(trích từ HQPD – loithien)

Chẳng biết đặc phóng viên Lôi Thiên là ai nhưng phải công nhận ông này chắc phải có theo dõi tụi này vì những diễn tiến xảy ra mà ông tường thuật đều đúng cả. Không biết ông có biết rằng đã có một quán nhậu khác đã mở ra để cạnh tranh với quán “Té Giếng”, đó là quán “Té Mương” do Hân (73F) trông nom. Tôi không biết có đúng không nhưng hình như quán này mở cửa 24/24 mà giá cả rất phải chăng, châm ngôn của quán này là “Trước mua vui, sau làm nghĩa”. Quán lại có phòng cho anh em nào quá chén thì có thể ở lại qua đêm, đặc biệt là tiền phòng đã tính luôn trong tiền nhậu rồi.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288288862.JPG

Tưởng cũng nên nhắc lại là quán “Té Giếng” do Sinh (lác) 72E làm chủ nhân, đối đãi cũng rất ân cần chẳng kém gì “Té Mương”. Một điểu tôi khám phá ra là cả hai quán đểu do một ông đầu bếp phụ trách tên là Quốc (ngon), ông này nấu theo dạng nhảy show nên nơi nào có khách thì ông đến nấu rồi ở lại nhậu luôn. Chủ quán chơi kiểu này nên khỏi trả tiền cho ông đầu bếp này, nhiều khi hứng sảng ông bỏ tiền ra mua thức ăn rồi đem lại nấu luôn….chì chài đi hết.

Trở lại Café Mưa Rừng, lần đầu tiên đến quán, cô Dung và cô Nga là hai chi em chủ quán với nụ cười chào đón:
“Uống gì anh “đẹp trai””?
Tôi nhìn chung quanh, không biết cô ta đang hỏi ai, chưa kịp mừng thì cô hỏi tiếp Trí (Bop), Hùng (lác) với cùng một câu hỏi, bây giờ mới biết, khi đến với Café Mưa Rừng, chúng ta đều “đẹp trai”. Nhưng không phải vì thế mà chúng tôi thích đến Mưa Rừng đâu nhé, chúng tôi đến để nghe và tìm hiểu những tin tức của bạn bè Không Quân. Đối với tôi Mưa Rừng là phòng sinh hoạt và tin tức của SVSQ KQ do Vinh (nổ) phụ trách, hầu như anh này nắm rất rõ trong tay tất cả cuộc đời của các SVSQ KQ liên khóa 72-73. Đến nơi này, tôi chỉ cần hỏi tên của ai là tôi sẽ nghe tất cả lý lịch người đó với đầy đủ thăng trầm trong đời binh ngũ, không thể tìm được ở bất cứ nơi nào.

Vinh (nổ) và Nam (nọc) là một cặp bài trùng mà khi nhập lại thì cứ như là một cặp vợ chồng khắc khẩu mà mỗi câu đối thoại là một trận cười nghiêng ngã. Chúng tôi cười bò lăn, cười thoải mái, cười… nhiều khi thấy hơi vô duyên. Có vài lần có Vinh (nổ) mà không có Nam (nọc) và ngược lại thì chúng tôi cũng cảm thấy hơi mất mát một tí, một thoáng vô tư bỗng chợt buồn.

Tôi chợt nghĩ sau ngày Hội Ngộ không biết anh em chúng mình có còn gặp nhau thường xuyên như bây giờ không, hy vọng sẽ còn rất nhiều cơ hội để gặp nhau. Dù sao đi nữa tôi cũng xin cám ơn BTC Hội Ngộ đã tạo cơ hội cho tôi được gặp các anh, đã cho tôi sống lại cái KQ trong tôi, đã cho tôi tìm được những niềm vui của tuổi về chiều. Xin cám ơn những người bạn mới trong cuộc sống hiện tại nhưng đã là tri kỷ từ những ngày tháng trong Quân Trường. Cũng không quên cám ơn Café Mưa Rừng đã là

“Tụ điểm gặp mặt cuối tuần của các cựu SVSQ KQ”

Tháng 5 năm 2010
Lục Tuần

hung45qs
10-29-2010, 08:10 PM
Một chuyến đi


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288384028.jpg

Mãi đến bây giờ tôi vẫn không hiểu được là đi hay về. Đi đâu? về đâu??
Chỗ nào che chở được với nắng mưa thì chỗ ở đó là nhà, chỗ nào không thể tồn tại được thì làm sao gọi là nhà?? Nơi tôi đã từng sanh ra và cũng là nơi từng bỏ chạy trốn. Mâu thuẫn thì thôi, khi chính mình hiểu rành mạch chỗ nào là chỗ ở của mình. Nhưng sau bao nhiêu biến đổi, thăng trầm của đời người…đi hay về cũng chỉ cùng một ấn tượng tương đối với tôi. Ấn tượng nầy sống với tôi bao lâu nữa, để lòng mình không còn nhầm lẫn để bảo rằng đi hay về. Nơi nào mà tôi sống và làm quen với phần nào của trái đất, nơi ấy được gọi là nhà.

Miên man trên chiếc phi cơ hàng không dân sự, sau 14 giờ lặn hụp trên những tầng mây bạc, chiếc phi cơ đã hạ cánh xuống miền trái đất tôi đã sanh ra…không phận Việt Nam.
Bây giờ là 10 giờ đêm Sài Gòn. Trời cuối năm, hơi ẩm ướt, cái nóng vẫn còn hừng hực sau một ngày chói chan, tuy nhiên tôi vẫn cảm nhận trời đất đang chuyển mình bước sang một ngày mới, với một chút gió lơ là.

Sài Gòn chưa bao giờ đi ngủ, lúc nầy là giờ thức để tiêu tiền của những người giàu có trong xã hội mới, và cũng là lúc thức để kiếm tiền của những kẻ nghèo vì phải phục vụ trong bar, hàng quán để đổi lấy miếng ăn. Xe cộ dập dìu, đủ màu sắc. Chiếc xe van chở bọn tôi đi lướt qua bao nhiêu khu phố để rời thành phố đông người ngột ngạt, khói bụi.
Hồn tôi đã lạc vào cảnh giới nào chẳng biết, cứ như ngây dại chìm vào giấc ngủ, ngất ngư như sóng biển trong suốt đoạn đường về quê…
Nghe văng vẳng tiếng anh tài xế bảo, bà con xuống xe qua Bắc Cần Thơ nhe…

Bên kia bờ là quê tôi, dòng sông nầy đã nuôi tôi khôn lớn, cũng dòng sông nầy đã tiễn chân tôi, cũng dòng sông nầy đã mang tôi trở lại. Tôi làm sao quên được cuộc đời mình gắn liền với dòng sông Hậu. Có lúc cũng muốn quên, nhưng vì giận mà quên chứ không phải ghét mà quên. Có lúc tôi cho rằng có lẽ dòng sông quá vô tình…lúc hận, lúc yêu, lúc là phương tiện, lúc là chướng ngại, ngăn…đôi bờ. Có lẽ tại lòng người…

Bây giờ trời đã tờ mờ sáng. Sài Gòn cách Cần Thơ chỉ 168 cây số. Thế mà phải mất cả buổi để tới lui, nhưng có khi mất cả đời để dân Cần Thơ hiểu được đời sống của dân Sài Gòn và ngược lại.
Quê mình, các thành phố không cách nhau xa lắm, thế mà đời sống và văn hoá cũng khá cách biệt. Dân Sài Gòn không tình cảm bằng dân các tỉnh, con gái Sài Gòn phớt tỉnh hơn con gái miền Tây. Nhìn con gái miền Tây muốn nhìn hoài không chán, dù không sắc xảo bằng. Không biết trong ánh mắt đó có chứa đựng ẩn khuất gì mà “có người” đã mất một đời tìm hiểu vẫn chưa ra câu trả lời nào ngã ngủ. Có người đã nhìn ai đó ở miền Tây một lần, mãi sau 40 năm mà vẫn chưa quên. Bởi thế họ vẫn còn ở mãi bên nhau để tự mình dấn thân và “khám phá”…!!! (dù cô ta không phải là Hoa Hậu).
Trời tờ mờ sáng, thế mà phà Cần Thơ đã chật cứng với khách địa phương qua lại, giới lao động là chủ chốt trên chuyến phà sớm nầy, họ vật lộn với không gian và thời gian, sao cho kịp giờ giao hàng ra chợ. Kẻ đứng, người ngồi trong tư thế chờ đợi. Con phà nặng nề hướng đầu qua bên kia bờ một cách mệt mỏi.

Nước sông đục ngầu, có lẽ đất cát phù sa đã lẫn vào dòng sông như định mệnh tự bao giờ, màu nước sông vẫn một màu đỏ ngầu muôn thuở. Những dề lục bình lang thang trôi dạt không biết về đâu. Có lẽ đời mình không khác những cụm lục bình kia, tan hợp theo dòng nước, lúc đi lúc về, và có lẽ ngay lúc đi cũng chính là lúc về chăng???
Quê tôi đây rồi, Cần Thơ đang trở mình thức dậy sau cơn ngủ vùi của đêm dài, những người bên nầy bờ, nhìn ai cũng thân quen, thân quen đến đổi như nhìn lại chính người thân của mình ngày nào.
Đến bến xe mới, bến xe nầy là nơi trạm xe hành khách SG & Cần Thơ và khắp nơi của lục tỉnh. Nơi nầy cũng đánh dấu mỗi lần đi xa. Lúc còn bé, mỗi lần theo má đi xa, tôi vẫn còn nhớ, bà thường chọn chiếc xe nào chạy chậm và an toàn. Bà vẫn không quên nhắn nhủ nhiều lần cùng bác tài. Thế mà má tôi lần nào cũng giống như mọi lần, bà vẫn không yên tâm khi bác tài nào cũng vẫn hứa, thế mà làm bà muốn lọt tim ra ngoài…


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288383648.JPG

Chiếc xe van rẽ phải hướng Bình Thủy. Qua lộ 19 và lộ 20…nơi đây là khúc quanh của cuộc đời. Trường Nông Lâm Súc nằm bên trái dọc theo quốc lộ liên tỉnh, cạnh lộ 20. Mái trường xưa vẫn còn ngủ yên bất động. Một thời học viên ở trường, sống và làm quen với dân địa phương như người hàng xóm. Họ đến từ khắp nơi của các tỉnh lân cận. Sau ngày ra trường họ dọn về chốn nào đó và định cư hẳn, như chưa từng biết đến trường NLS Cần Thơ, như chưa bao giờ mặc chiếc áo nâu ngày nào. Bây giờ còn xa hơn nữa, những người như tôi, đã từng ngồi cùng ghế nhà trường, khó mà tưởng tượng được, ngày nào đó mình đi ngang đây và nhìn vào như một người khách lạ. Vâng, lạ lắm bạn ơi, còn gì nữa mà không lạ. Đã hơn bốn thập niên rồi, những thư sinh ngày nào bây giờ tóc bạc phơ. Mái trường xưa phô bày bên dãy mặt tiền văn phòng có cột cờ phía trước, bên trái là một căn nhà hai tầng, có cầu thang hai bậc bên ngoài, bên phải hun hút sau hàng dừa nhỏ có cái cầu bắt ngang mương để qua dãy lớp học, đường dẫn vào có mấy cây bạch đàn. Dưới hàng mương chạy dọc theo đó, thẫn thờ đây đó mấy con cá thòi lòi phóng trên mặt nước. Hình ảnh nầy là biểu tượng chăng? Không những hình ảnh quá tầm thường thuở xưa đã không bảo giờ là biểu tượng của trường xưa, nhưng chúng vẫn nằm đâu đó trong tim người. Nếu cần thì chúng nỗi dậy như đóm than hồng bị phủ bởi lớp bụi tro mờ. Thời gian chẳng có vô tình với ai bao giờ, có lẽ nó đẹp và bền vững, vì chưa bao giờ dám kiêu ngạo với ai. Còn những thứ khác được thiên hạ dựng lên như một biểu tượng duy nhất độc đáo, có lẽ thời gian rồi họ sẽ quên. (Cái tượng bằng xi măng, đứng trơ trọi dưới bến Ninh Kiều không giống ai, thế mà vẫn mặt lì lộm đứng mãi chỉ là biểu tượng của sự gian ác). Vì nó không phù hợp với tự nhiên. Không giống như lâu rồi không còn nghe tiếng mẹ hiền đong đưa bên võng kẽo kẹt, nhưng biểu tượng dân gian hiền lành kia làm sao mà biến mất theo thời gian được.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288383759.jpg

Tiếp theo ranh giới trường NLS Cần Thơ là bãi trực thăng của Phi Trường Bình Thủy. Hồi xửa hồi xưa, mấy em nữ sinh trường “tha hồ” mà mơ làm người tình của mấy chàng phi công trực thăng. Tôi còn nhớ mỗi chiều tan trường, khi đi ngang bãi trực thăng, tôi rất ghét mấy tay “giặc lái” nầy. Chỉ vì mấy em đâu thèm nhìn thằng học trò nghèo nàn nầy, tương lai chẳng biết về đâu. Còn mấy tay giặc lái thì tay nào cũng thơm phức, có hàm râu thấy ghét, dáng vẻ thì sở khanh, mang khẩu P.38 thấy mà khó ưa, trong chiếc áo bay “áo liền quần”. Tôi ghét giặc lái lắm….vì nghĩ rằng chẳng bao giờ là đối tượng của chính mình….

Có lần cô bạn gái thơ ngây của tôi bảo rằng:
“Em muốn có kép Pilot, để cuối tuần anh mặc đồ bay chở em đi nhà thờ nhé.”
Tôi giận chín người, vì câu nói của em, làm tôi ăn ngủ không ngon cả tuần.
“ Em bé ơi..Anh làm sao mặc được đồ bay, và chở em đi nhà thờ…Thôi thì em muốn chia tay phải không???”
Thời gian dần trôi, tôi rời trường đi vào quân ngũ…”Em ơi, bây giờ chiếc áo bay của ước mơ năm nào, anh đã xếp lại trong ngăn tủ phai mờ, người phi công trực thăng hào hùng mà em mơ ước, bây giờ đã giã từ cuộc chiến và hắn đã gần 6 bó, tóc bạc phơ, da nhăn nheo, dáng một thanh niên hào phóng ngày xưa đã chết theo năm tháng, ngày sau cùng ấy chắc em còn nhớ lúc chia tay vào cuối tháng tư đen….Anh bây giờ là người xa lạ với chính kỷ niệm của đời mình, những kỷ niệm mà không ngờ đã qua đi, như chưa bao giờ có, dù mình đã từng ấp ủ và sống với nó như hơi thở của đời mình. Em bây giờ ở đâu? Mộng ước ngày xưa em có còn ấp ủ, để đón nhận người Phi Công già sau cuộc bể dâu……..”


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288383826.JPG

Vi vu theo tiếng gió, trong chốc lát, chúng tôi đã đến Bình Thủy. Nơi đây, Đại Thần Nguyễn Trung Trực, trước kia ngài đã tránh sóng gió ngoài sông cái và dừng quân chốn nầy. Thấy mặt nước phẳng lặng, ngài đặt tên nơi đây là Bình Thủy. Ngay cạnh dốc cầu, ẩn khuất trong hàng cây và đường mòn dẫn đến bờ sông, Chùa Nam Nhã toạ lạc nơi đây kể từ cuối thế kỷ 19. Chùa Nam Nhã theo phái Nam Tông (Trung Quốc). Khởi công xây dựng khoảng năm 1911 và hoàn tất năm 1917. Nơi đây, những sĩ phu thời bấy giờ tụ tập để chống Pháp, trong đó có các thời kỳ Phong Trào Đông Du. Ngoài ra cụ Bùi Hữu Nghĩa và con trai là Cụ Bùi Hữu Sanh là một trong những vị chơn tu thời bấy giờ.

Ông bà tôi đã tu ở chùa nầy đã bốn đời. Cho đến khi tôi ra đời thì mái ngói đã rêu xanh, tường đã mục, những cây trắc bá diệp có mùi hương cong queo, đã trơ mình hàng thế kỷ vẫn còn đứng trước chùa. Trên tường cửa ngõ có mấy hàng liễng mà người xưa cố ý gởi gấm cả một sự nghiệp giải thoát của mình vào mấy hàng chữ nho như sau:
“Hàng Long Phục Hổ Thông Huyền, Bất Tất Mịch Bồng Lai”
Hàng chữ trên được giải thích như sau: Hàng phục được âm dương trong người, tức là thông mọi huyền khiếu. Hà tất phải đi tìm bồng lai nữa làm gì???

Hôm nay ngày cuối năm, nắng xuân nhợt nhạt, tan biến theo mây trời, quê tôi lúc nào cũng nắng hay mưa, chúng tôi phải chọn một trong hai thái cực…Phải mà, là người bình thường trong một xã hội bất công, chúng tôi ít có cơ hội để chọn…. ngay cả thời tiết.

Thiên hạ ở đây riết rồi quen, họ quen với đời sống bình thường, giản dị. Bình thường có nghĩa rằng cái tiêu chuẩn nào đó là sự gói ghém của gia đình, chứ không phải nhu cầu tạo ra sản phẩm, mà chính sản phẩm nào đó đã tạo ra nhu cầu cần thiết hàng ngày. Tôi phải bỏ ra mấy ngày để làm quen với thời tiết, phong tục, thói quen, giờ giấc, ăn uống. Những cái phải làm quen, đáng lẽ ra, đấy là những chuyện mà tôi đã từng làm quen gần nữa đời người trước kia.

Lúc ra đi vô tình đánh mất những thói quen cũ bao giờ mà không hay. Những thói quen ngủ trưa, ăn, nói lớn tiếng ngoài đường, thói quen hay đi trễ, khạc nhổ, xả rác nơi công cộng, “tè” không đúng chỗ, bạo lực với con cái, không xếp hàng trật tự, lái xe uống rượu… ăn hàng ngoài vĩa hè, ăn no không cần ngon, lén hút thuốc lá ngoài lớp học, hay cúp cua đi ciné, thấy gái đẹp hay nhìn, ….chờ mưa xuống đi bắt dế…..và còn nữa….

Bây giờ tôi muốn về quê làm lại từ đầu. Tôi muốn bỏ hết tất cả, chỉ chừa lại vài thói quen dễ thương thôi, để mình sống lại với chính mình và những người hàng xóm, bạn bè cũ thân thương nữa. Nhưng tôi phải bắt đầu từ đâu, khi mình chỉ là người ngoại cuộc đang đứng trên phần đất của chính quê hương mình. Những người con trai có lòng với đất nước, bị gạt ra khỏi xã hội mới, xã hội “ưu việt” của thế giới tư bản đỏ, chúng tôi những thanh niên lớn lên từ miền Nam, cũng từng bị đi tù vì mang tội “Bảo Vệ Quê Hương”.

Tôi nhớ lắm, nhớ thật nhiều vì cuộc đời mình đã mất quá nhiều rồi, thời gian còn lại của kiếp người không biết có còn đủ để hàn gắng lại những đổ vỡ trong tim mình hay không?
Tiếng chuông chùa Nam Nhã vang vọng khắp xóm nhà mình, ai cũng hiểu rằng, cuộc đời là những chuyện lôi thôi, hãy gác lại chuyện lẩm cẩm để còn tu thân. Để còn thực hiện những hoài bảo lớn hơn, lợi người, lợi mình.

Lần nầy, đi hay về, đối với tôi bây giờ vô nghĩa, khi chính mình chưa bao giờ thật sự sống, chỉ cần sống một cách hoàn hảo trong từng hơi thở hàng ngày …đi và đi mãi, nhưng dù đi xa đến đâu, thì vẫn quanh quẩn bên cái thói quen, kỷ niệm thời xa xưa khó quên, chạy làm sao cho khỏi chính mình …và có lẽ ngay lúc đi cũng chính là lúc về chăng???

Nguyễn Hoàng Tân
Tháng 4, 2010

hung45qs
10-30-2010, 08:45 PM
MỘT CHUYỆN TÌNH… PHẢI QUÊN ĐI


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288478508.jpg

Đang kẹt cứng trong dòng xe giữa cái nắng oi nồng của mùa hạ thì chuông điện thoại réo rắt vang, tiếng chuông dai dẳng khiến Tuyên dù không muốn cũng phải tìm cách tấp vào bên đường để xem thử ai gọi – số điện thoại lạ quá - Thường thì Tuyên chẳng bao giờ trả lời những số lạ gọi đến, nhất là những lúc đang kẹt xe như thế này, nhưng dường như người ở phía bên kia nhất định gọi bằng được hay sao mà vừa dứt hồi chuông này thì hồi chuông khác lại réo rắt
• Alo! Ai gọi tôi đó
• Phải số máy này của Tuyên không?
• Phải, có gì không? Ai đó
• Tui nè, biết tui là ai hông?

Tuyên vừa bực lại vừa buồn cười vì cái kiểu hỏi của người đầu kia, và mặc dù chưa nhận ra giọng ai nhưng cái kiểu nói chuyện này sao Tuyên nghe có vẻ rất quen, Tuyên cũng trả lời kiểu tưng tửng
• Không biết
• Trời đất, người yêu mà không nhớ ta ơi, hồi xưa ông yêu ai nói coi
• Yêu quá trời sao nhớ chớ
• Cho ông nói lại đó, hồi học ở Cường Để ông yêu ai? Hồi đó ông ca bài “em tan trường về, anh theo Ngọ về cho ai, nói sai bị đòn đó.

Nghe đến câu này thì quả thật Tuyên không thể tin vào tai mình, chẳng lẽ chính là “nhánh sông xưa”, thế nhưng Tuyên cũng trả lời như cái máy
• Thuận, Thuận phải không?
• Em chớ ai
• Sao biết số của anh vậy?
• Anh Ba cho, em đang ngồi ở nhà anh, đang nhậu với anh Ba nè
• Cái gì? Ở đâu, nhậu với ai, anh có nghe lộn không vậy?
• Không có lộn đâu, em có việc công tác về quê và ghé tìm lại nhà anh

Tuyên thật sự bất ngờ và bối rối khi nghe Thuận nói, lại thêm việc quá cấp bách nên đành hỏi:
• Số đang gọi của em phải không? Anh sẽ gọi lại cho em sau nghen, giờ có công chuyện gấp lắm
• Được rồi, em ở chơi với anh Ba và út Hạnh một chút em cũng phải về với đoàn, sắp tới giờ tập trung rồi, bye anh nghen
• Bye!

Công việc của một nhà máy mới bắt đầu đi vào hoạt động thật bề bộn nhưng cũng không thể dứt Tuyên ra khỏi những nghĩ ngợi miên man về Thuận, “Nhánh sông xưa” một thời trai trẻ của chàng. Hơn ba mươi năm rồi Tuyên mới nghe lại giọng nói của Thuận, vẫn ríu rít và trẻ trung như ngày nào dưới mái trường Cường Để, mặc dù bây giờ tuổi Thuận cũng đã ngoài 50

Thật ra lúc này Tuyên cũng không hiểu nổi mình như thế nào, lẽ ra là oán hận thì thay vào đó lại là niềm hạnh phúc lâng lâng dâng trào trong lòng Tuyên. Chàng đã gọi liên tiếp cho Thuận không biết bao nhiêu cuộc gọi nhỡ từ tối cho tới giờ, bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu thắc mắc cứ vang vang trong đầu Tuyên khiến chàng không tài nào nhắm mắt nổi, nhưng cuối cùng sự mệt mỏi vì quá thiếu ngủ cũng đã làm Tuyên thiếp đi.

Trong giấc ngủ mê mệt đó, cả một quá khứ vàng son như hiện về đầy đủ từng chi tiết, Thuận như đang đứng đó nhìn chàng với suối tóc dài, tà áo lụa trắng và đôi mắt to tròn nghịch ngợm năm nào.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288478709.jpg

Tuyên quen và biết Thuận năm học lớp đệ nhất, năm đó Thuận vào lớp trễ cả tháng trời, cô gái Sài Gòn kiêu sa với đôi mắt to tròn nhưng lạnh lùng và nghiêm nghị ấy đã hớp hồn gần như cả đám con trai cùng lớp, vì là ban B (ban toán), nên con gái trong lớp thật là của quý hiếm, kể cả Thuận nữa thì lớp cũng chỉ có 7 cô nàng. Thế nên việc các cô nàng được các chàng cùng lớp “chăm sóc kỹ lưỡng” cũng không có gì là lạ, huống hồ là cô gái đặc biệt như Thuận. Thế nhưng việc để ý cũng chỉ ở mức độ bình thường nếu không có dịp sinh nhật của Thuận và Tuyên được mời gián tiếp qua lũ bạn .Nói là gián tiếp vì lúc đó Tuyên thuộc loại cao kều nhất lớp nên ngồi tuốt bàn chót trong lúc đó Thuận ngồi bàn đầu nên thân với tụi ngồi gần, Thuận nhờ gửi lời mời đến đám bạn cùng lớp thông qua tụi thằng Tâm, Tĩnh , Tiến , Khắc , Ngọc… và dĩ nhiên cả 6 nàng kia cũng có mặt. Hình như sau bữa sinh nhật đó cả đám con trai trong lớp đều thấy cô nàng Thuận như vì sao lấp lánh, đứa nào cũng có chút gì đó mơ tưởng đến nàng, riêng Tuyên, tình yêu dành cho Thuận là một tình yêu chân thành của một cậu con trai tỉnh lẻ, yêu với ý định xây dựng một gia đình hạnh phúc, thế nhưng trong mắt Thuận hình như không có Tuyên…Nhưng có ai cấm mình yêu cơ chứ, thế nên tình yêu trong Tuyên cứ lớn dần theo ngày tháng, riêng Thuận, tình cảm của Thuận hình như có điều gì đó rất khác với những người bạn cùng lớp, và cũng chính những khác biệt đó đã làm nên một Thuận bất tử trong lòng Tuyên, bất tử vì tình yêu cũng như bất tử vì những hận thù trong lòng Tuyên khi tim chàng bị thương tổn.
Mới đó mà đã hơn ba mươi năm trôi qua, biết bao vật đổi sao dời. Từ một chàng trai hiền lành, nhút nhát Tuyên đã là một ông chủ thành đạt với vợ con đề huề theo một nghĩa nào đó khi xã hội nhìn vào, nhưng có ai biết cho sự trống vắng mênh mộng trong lòng Tuyên. Đã có lúc Tuyên có “bồ nhí” và những tưởng cô bồ nhí đó có thể lấp đầy khoảng trống mênh mông trong lòng mình, nhưng không…có rất nhiều khi chàng vẫn thấy lòng nhớ thương một điều gì đó mà không sao giải thích hay hiểu nổi… Và bây giờ Tuyên mới hiểu khoảng trống mênh mông này của Tuyên ở đâu và ai mới có thể lấp đầy.

Sau nhiều lần chuyện trò qua điện thoại, cuối cùng cả hai đã gặp nhau, một cuộc gặp gỡ quả là ngoài dự kiến của cả hai, Tuyên và Thuận đều không nghĩ tình yêu trong lòng của cả hai vẫn còn quá mãnh liệt đến không ngờ như thế. Cả hai đều bị hút vào nhau như hai cực nam châm cực đại, cả hai đều không nhìn thấy tuổi sáu mươi đang ngấp nghé của mình, mà vẫn cứ như là anh chàng Tuyên ngờ nghệch năm xưa với cô Thuận kiêu kỳ của tuổi đôi chín năm nào… Cả hai đã có với nhau một buổi sáng của “Nắng sài gòn anh đi mà chợt mát…” Tuyên cứ bám sát Thuận trong từng bước đi, cả khi ăn sáng cả hai cũng không rời khỏi mắt nhau, chỉ nhìn nhau và cười như hai đứa khùng….

Hạnh phúc đơn giản thế đó…nhưng cuộc đời thì chẳng hề đơn giản chút nào…và luôn luôn Thuận là người tỉnh thức trước, Tuyên nhiều khi nổi giận với Thuận vì những lo sợ mà chàng cứ cho là không đâu, nhưng thật ra chàng cũng biết và biết rõ hơn cả Thuận về những khó khăn của cuộc tình muộn màng này, bởi một lẽ đơn giản là chàng vì quá yêu nên đã tự dối gạt mình và dối gạt Thuận. Đó chính là bi kịch dù không muốn nhưng chàng cũng đã mang đến cho Thuận. Lòng chàng đau xé khi nghe những lời nói thật nhỏ nhẹ và dịu dàng nhưng đẫm nước mắt của Thuận khi Thuận nói lời chia tay, cứ mỗi lần như thế Tuyên lại gạt đi và cố thuyết phục Thuận bằng cả ngàn lý lẽ biện hộ cho tình yêu, cho mối quan hệ của hai người, kết quả là Thuận không sử dụng số điện thoại quen thuộc đó nữa, cửa nhà thì đóng kín, mặc cho chuông reo rộn rã.

Công việc kinh doanh bận rộn điên đầu với những hợp đồng, những cuộc hẹn làm ăn với đối tác khiến Tuyên như mụ cả người vì thiếu ngủ, nhưng dù mệt mỏi đến đâu chàng cũng không thể nào thoát nổi nỗi ám ảnh về Thuận, giọng nói ướt đẫm của nàng theo Tuyên ngay cả khi chàng mệt mỏi thiếp đi trên đường công tác…

Nhiều lúc chàng thấy quá mỏi mệt vì công ty, và gia đình với cô vợ luôn càu nhàu, lại thêm sự giằng xé lương tâm mà Thuận luôn nhắc bên tai…nhưng bắt chàng phải buông Thuận ra thì quả thật Tuyên không đủ can đảm, nhưng vứt bỏ gia đình chàng cũng không thể…không chỉ vì con cái mà còn vì gì nữa thì Tuyên không hiểu, Thuận nói là sự tham lam của đàn ông, Thuận chấp nhận móc trái tim của mình vứt đi để trả Tuyên về với gia đình và bổn phận… Và cuối cùng dù không muốn thì Tuyên cũng phải đọc lá thư này do bưu điện chuyển phát nhanh


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288481619.jpg

THƯ GỬI NGƯỜI TÌNH XƯA,

Anh thương yêu,
Vậy là chúng mình đã gặp lại nhau sau hơn ba mươi năm xa cách, một cuộc gặp mặt đầy ngỡ ngàng và chua xót phải không anh. Chua xót và ngỡ ngàng vì cả hai chúng ta đều không ngờ rằng hơn ba chục năm qua chúng ta đã cùng sống chung trong một thành phố. Hít thở cùng một bầu không khí đầy bụi bặm và ô trọc này mà dường như không hề biết đến sự hiện diện của nhau. Rất có thể nhiều lần trên những nẽo đường xuôi ngược, chúng ta đã cùng tình cờ đứng cạnh nhau trong lúc chờ tín hiệu giao thông, hoặc giả có những lúc chúng ta đối mặt nhau khi đi ngược chiều xe…thế mà chưa bao giờ chúng ta nhận ra nhau. Nghe buồn quá phải không anh? Càng nghĩ em lại càng thấy lòng mình đau xé, và không tài nào nhắm mắt được anh ạ!

Anh thương yêu,
Ba mươi năm, biết bao thay đổi “Thương hải biến vi tang điền” phải không anh, em không hề trách khi anh không còn nguyên vẹn là Tân của em ngày nào. Không nguyên vẹn là chuyện rất bình thường của cuộc đời. Nếu còn nguyên vẹn mới là chuyện bất thường, thế nên em không hề trách móc anh đâu, anh cũng nên như thế với em anh ạ! Gặp lại nhau là ơn trời rồi đó anh, trách móc nhau chi cho thêm đau long, có cứu vớt được những giấc mộng cũ đâu anh, mà có được thì cũng đừng nên anh ạ! Chúng ta chỉ nên cứu vớt những niềm tin còn lại trong nhau, nhưng cuộc đời không chỉ có hai chúng mình anh ạ. Là đàn ông, em nghĩ anh nên nhận ra điều gì nên và không nên…. Em không dám “làm thày” anh đâu nhưng dù sao chúng ta cũng nên chấp nhận thực tế đau lòng này. Em không phải là người nóng vội, là người hay chao đảo, là người không có lập trường như anh nghĩ. Thậm chí anh cho là em không biết yêu hay không hề yêu anh.
Tình yêu của một người phụ nữ sắp bước vào tuổi lục tuần không phải là tình yêu nông nổi của cô bé 16, nhưng vẫn là tình yêu nồng nàn và mãnh liệt, tình yêu của em không hề ích kỷ như thời trẻ trung mà là một tình yêu sẵn sàng chấp nhận khổ đau và hy sinh cho người mình yêu, cũng như hy sinh cho cả những người có liên quan đến người mình yêu. Nói ra thì có thể nhiều người không tin, nhưng em thật lòng thương những đứa con anh, cũng như thương cho người vợ hơn ba chục năm chung sống mà không có diễm phúc nhận được chút tình yêu chân thành của anh… Thế nên dù không muốn em cũng phải viết những dòng này cho anh

Anh thương yêu,
Em chắc rằng anh rất bực mình khi nhận thư này, em biết nên em xin lỗi anh trước, thậm chí còn ngàn lần xin lỗi nữa đó. Em biết, với một người đàn ông thành đạt như anh, lại đang sống trong một xã hội mà những giá trị đạo đức về tình yêu được các cô gái chân dài xếp hạng: “nhất muối tiêu, nhì việt kiều“ thì anh đúng là ở vào hàng “top ten”, vậy mà bị một phụ nữ ngấp nghé tuổi sáu mươi như em từ chối tình yêu thì quả là một chuyện không thể nào chấp nhận được phải không anh?

Anh thương yêu,
Khi chúng mình gặp lại nhau sau hơn ba mươi năm lạc mất nhau trong đời, khi anh hẹn gặp qua điện thoại em không hình dung ra những biến chuyển tình cảm của chúng mình, thậm chí em đã tự “trang bị” cho tình cảm của mình trong tình huống xấu nhất, đó là bộ mặt lạnh lùng, nụ cười xã giao và giả tạo trên môi anh, thậm chí là cả sự diễu cợt trong mắt anh khi gặp lại cô gái kiêu kỳ một thời đã khiến anh phải khổ đau vì cái tính khí kỳ quặc, một thời anh đã phải mượn thơ của anh NHIÊN để nói với em:
“Đôi mắt tròn đen như búp bê, cô đã nhìn anh rất kiêu sa
Anh vái trời cho cô vấp té….để anh nâng…”

Vâng, và đời em đã vấp ngã như lời anh cầu khẩn nhưng rồi cũng không có anh ở đó để đỡ nâng, em đã bước xuống cuộc đời với những đắng cay cùng cực, với sự chịu đựng ngoài sức tưởng tượng và đợi mong của chính em cũng như của bạn bè… Có nhiều đứa bạn ngày xưa đi học không thích bản mặt lạnh lùng của em nên chúng mong cho em gục ngã thật sự để chúng có thể giúp em với nụ cười mai mỉa, nhưng may là em còn đứng vững trên đôi chân của mình, em luôn nhớ đến lời nhắn nhủ ngày xưa khi em lần đầu tiên thi rớt tú tài II khóa một “đứng vững trên mặt đất, sẽ vượt qua được vũng lầy, em hãy mạnh mẽ lên, hãy luôn tâm niệm: ta là ngọn sóng, là con sóng giữ, bao trùm mọi thành quách, lâu đài, san bằng tạo vật và người đời, bởi vì ta là sức mạnh của chính ta”. Những lời nhắn nhủ đó của anh đã theo em suốt mấy chục năm trường và chính nó đã giúp em đứng được trên đôi chân của chính mình….

Thế nhưng khi gặp nhau thì lại khác, tình huống không đợi mong đã bất ngờ ập đến, chúng mình đã cùng ào vào vòng tay của nhau không chút ngại ngần, vòng tay đã cùng xiết nhau đến nghẹt thở, vậy mà như thấy vẫn còn chưa đủ, khi đôi tim cùng rộn rã reo vui, khi chiếc xương sườn bị thất lạc của ADAM xưa nhận ra người chủ cũ của mình, chúng ta đã cùng làm nhau nghẹt thở một lần nữa bởi nụ hôn thật dài, thật sâu…rồi nụ cười, rồi nước mắt, rồi cả những thẹn thùng của thời mới lớn bỗng dưng hiện về khiến em không dám nhìn thẳng vào mắt anh đến nỗi anh phải xoay đầu em lại để nhìn sâu trong đôi mắt đã không còn trong trẻo của em. Anh đã nói với em những lời nói khiến em cảm nhận được tình yêu của chính em như vẫn còn ngủ yên đâu đó trong tim mình. Thế nhưng lại cũng vì tình yêu đó nên một lần nữa em phải đau đớn nói lời từ biệt với anh.

Em nói là đau đớn, vì thật lòng em không muốn xa anh, em muốn những ngày cuối đời của chúng mình là những buổi chiều xuống êm đềm, những buổi cùng ngồi bên nhau nói chuyện vu vơ, em sẽ hát lại những bài hát ngày xưa em đã hát, những bài hát đã làm nên chuyện tình thời thơ trẻ của chúng ta, để anh nghe, và để cả hai ta cùng hoài niệm tuổi xuân xanh của chúng mình… Nhưng cuộc đời giờ đã khác nhiều phải không anh? Thế nên chúng ta phải can đảm nhìn vào sự thật chứ chúng ta không thể có “thái độ đà điểu” anh ạ, chúng ta không thể vùi đầu vào cát để không nhìn thấy ai, không nhìn thấy chuyện gì thì không ai nhìn thấy chúng ta. Anh là người đàn ông từng trải, mạnh mẽ và thành đạt trong cuộc đời, chắc chắn anh hiểu hơn em cả trăm lần... Anh chỉ vờ không hiểu bởi anh choáng ngợp với tình yêu vừa tìm lại thôi, rồi nhưng xôn xao ban đầu cũng sẽ trôi đi, anh sẽ thấy em không còn là cô sinh viên năm nào, anh cũng không còn là chàng Pilot hào hoa năm xưa. Em không yêu anh chàng Tân năm xưa nơi anh, em cũng không yêu một doanh nhân thành đạt nơi anh mà em chỉ yêu bởi vì anh chính là anh mà thôi…. Đàn bà chúng em không phức tạp như các anh vốn nghĩ đâu, chúng em chỉ cần một tình yêu thật, một “true love” đúng nghĩa thôi anh ạ! Nhưng chính vì cần một tình yêu thật sự nên em phải bắt mình đối đầu với thực tế phũ phàng anh ạ!

Anh nói với em là anh đến với cô vợ của anh hoàn toàn không có tình yêu, anh đến trong lúc đau khổ vì trong mắt em không có anh, anh đến chỉ vì thúc ép của những đòi hỏi của một người đàn ông đang thời sung sức, bằng chứng là anh và cô ta đến giờ vẫn không có một ràng buộc nào về cả phép đạo lẫn phép đời nhưng…ba đứa con anh sờ sờ ra đó thì anh trả lời với em thế nào đây? Dĩ nhiên chuyện có vợ con là chuyện bình thường, nếu anh không có vợ con mà cứ ngồi đó mà ngóng chờ một hình bóng đã dần khuất về cuối đời như em mới là chuyện không bình thường…thế nhưng không thể nói đơn giản là không yêu mà vẫn có con, em hiểu, vì em là người chuyên giảng dạy về chuyện này, nhưng không thể phủ nhận bằng đó năm sống với nhau mà không có chút nghĩa tình. Em không cố tình đặt anh vào tình trạng khó xử, cũng không đưa ra những câu hỏi có tính thúc ép, đơn giản em chỉ muốn chúng ta nhìn vào sự thật, dù có phũ phàng đắng cay thì ta vẫn phải nhận chân sự thật đó anh ạ!

Chẳng lẽ ba mươi năm trời chung sống chẳng có lúc nào các con anh không đau ốm, và cả anh nữa, không có lúc nào anh hay vợ anh không có một lần cảm cúm, chẳng lẽ không lần nào cô ấy phải nấu cho anh bát cháo hành giải cảm như Thị Nở đã nấu cho Chí phèo hay những lần cô ấy sinh nở anh không một lần dìu nhẹ bước cho cô ấy, không có lần nào cả hai người cùng lo âu bên đứa con đang cơn nóng sốt hay sao?

Và cả những ngày tháng gian nan của thời bao cấp, những ngày tháng khó khăn kiếm sống cho gia đình, những tháng ngày lẽ ra anh đã làm hồ sơ theo bằng hữu đi ngoại quốc nhưng vì sợ vợ mình không có khả năng nuôi con một mình nên anh đã chấp nhận ở lại để giữ từng chiếc xe, kiếm từng kilo gạo nuôi con, những ngày cùng chia sẻ đắng cay đó không có hình bóng em, thậm chí trong lòng anh lúc đó em chỉ là một kẻ xấu xa vì đã phụ bạc tình anh… Thế thì em đâu có tư cách gì hiện diện trong đời một doanh nhân thành đạt lúc này cơ chứ. Nếu là một kẻ phụ bạc thì bên anh bây giờ phải là một em chân dài đáng tuổi con anh, như đã có lần có một cô nhỏ như thế trong đời anh (nhưng cũng vì thương con nên anh đã quay lại kịp thời), thế nên một bà già ngấp nghé tuổi sáu mươi như em thì chỉ nên làm một điều khôn ngoan và sáng suốt nhất là “vĩnh biệt tình anh”

Tình yêu một thời thơ dại của chúng ta, và cả những đam mê cháy bỏng nhất thời này cũng không thể nào làm cán cân thăng bằng được đâu anh. Hãy cứ thử để lên bàn cân ba đứa con, một chàng rể, một cháu ngoại, một bà vợ, một cô em vợ…và bên kia là một bà già nặng 45 kí như em thì chắc chắn là em sẽ vút cao đơn độc bên kia cán cân, nếu em không cố mà ôm chặt lấy chiếc đĩa cân chắc là em té nhào mà chết.

Giữa chúng ta chỉ có tình yêu, chứ chưa có tình thương, chính điều này khi em hỏi anh cũng đã gật đầu đồng ý và chính cái gật đầu đó đã bóp nghẹt tim em, cũng như bóp chết tình yêu bộc phát của chúng mình cũng như lương tâm bấy lâu thoi thóp giằng xé của em đã hiểu rõ mình phải làm gì, con đường em phải đi qua là con đường nào. Lâu nay không có anh em vẫn sống, không có người đàn ông nào, không có bờ vai nào em vẫn tự bước đi dù xiêu vẹo trong những cơn mỏi mệt hay đau đớn…nhưng em vẫn bước đi.

Cám ơn anh đã cho em hiểu thế nào là tình yêu, thế nào là đau khổ, thế nào là hạnh phúc cũng như hiểu hết đắng cay của một tình yêu phải tự mình rứt bỏ, chỉ vì em là một con người chân chính, em không thể nào làm kẻ thứ ba trong đời của bất cứ ai anh ạ! Dù là người yêu đầu đời của anh, dù là tất cả trong tim anh (đó chỉ là lời anh nói) nhưng em vẫn chỉ là người đến sau, thế nên anh thông cảm cho em.

Chuyện tình của chúng mình phải quên đi anh ạ! Em không thể đánh mất chính mình, em phải sống sao cho xứng đáng với chính bản chất con người thật của em, dù tim em có nát tan làm trăm mảnh thì ta cũng phải chia tay thôi. Cuối cùng em xin được nói với anh: “Dù mọi chuyện có ra như thế nào chăng nữa, em cũng vẫn yêu và không bao giờ oán trách anh, cho dù lựa chọn nào của anh em cũng luôn tôn trọng và xin hết lòng Cám ơn vì anh đã yêu em!”

Vĩnh biệt tình ta

Phạm Thiên Thu

hung45qs
11-01-2010, 07:25 PM
Một thời đề nhớ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288640352.jpg

Em đã xem qua những tấm hình
Bạn anh chung một khóa nhà binh
Bây giờ ai cũng hai màu tóc
Nhắc đến chuyện xưa biết mấy tình.

Đây những chàng trai đã một thời
Nghiêng mình tung cánh thép chơi vơi
Bay cao trên chín tầng vô định
Lượn gió vờn mây lướt đỉnh trời

Mấy chục năm rồi xa cách nhau
Tìm vui trong kỷ niệm ban đầu
Quân trường huấn nhục vào ra đó
Bao chuyện vui buồn quên được đâu

Tình ái loanh quanh chẳng hẹn thề
Yêu đương giây phút thoáng cơn mê
Chiến tranh xé nát thời hoa mộng
Đâu biết ngày đi có trở về?!

Em chẳng hiểu gì đời không quân
Chỉ nghe anh kể một đôi lần
Chuyện thời nghịch phá và hành phạt
Huấn luyện can trường bao gian truân

Huynh đệ chi binh cũng một thời
Tung hoành ngang dọc khắp muôn nơi
Bây giờ hội tụ trên màn ảnh
Ôn lại đời nhau giữa tiếng cười

Kim Mai

hung45qs
11-02-2010, 04:13 PM
MỪNG NGÀY QUÂN LỰC
MỪNG NGÀY CỦA CHA

(Riêng tặng cho những Cánh Chim Liên Khóa SVSQ/KQ 72-73 trong bổn phận vừa là Người Cha vừa là Người Lính bất hạnh trong cuộc chiến, nhân dịp Hội Ngộ ngày 3 tháng 7/2010 tới đây, tại Nam Cali.)


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288714818.jpg
KQ Lê Văn Hải

Lời mở đầu: Một vài ngày nữa Ngày lễ của Cha lại trở về. Một văn hào đã viết “Nơi chốn bình an nhất của đứa trẻ trên thế giới này là căn phòng của cha nó!” Tình cha nhiều người cho rằng không đằm thắm bằng tình mẹ, có lẽ chỉ vì người cha ít chịu diễn tả mà thôi. Thật ra tình cha như nền móng của căn nhà, giá trị của nó là phần nằm sâu dưới mặt đất. Nhiều người còn ví tình cha như miếng cam thảo, phải ngậm lâu mới ra chất ngọt.
Riêng người Việt ly hương chúng ta, Ngày Của Cha (Father’s Day) thường rơi đúng vào ngày kỷ niệm Quân Lực VNCH 19 tháng 6 mỗi năm. Nhớ lại hình ảnh những người trai thời chinh chiến, trong các binh chủng Hải, Lục, Không Quân, vừa làm người lính gìn giữ quê hương, vừa phải lo cho gia đình chu toàn bổn phận làm cha. Nên người cha trong đất nước khói lửa, hầu như phải hy sinh tình nhà nhiều. Nhưng không vì thế mà tình cha không đậm đà, thắm thiết. Nhân ngày Quân Lực và Ngày Của cha, KQ Lê Văn Hải xin đóng góp một câu chuyện nhỏ kể theo Angie Kucer, nhằm vinh danh những người cha bất hạnh, hy sinh nhiều, nhưng nhận... chẳng có bao nhiêu! Nhất là những chiến hữu KQ liên khóa 72-73 đã lao theo ánh tinh cầu “ra đi không ai tìm xác rơi!” Đem thân xác mình hòa vào không gian đất Mẹ để vợ con, anh em, đồng bào mình được sống mãi mãi.

BỐ TÔI, NGƯỜI LÍNH PHI CÔNG QUÂN LỰC VNCH

Tôi có một người cha già, lại tàn tật, cụt một chân. Khi tôi sinh ra đời bố tôi cũng đã gần 50 tuổi. Trong một thời gian dài, bố tôi đóng vai trò của một người mẹ, tuy di chuyển khó khăn, nhưng ông lo lắng cho tôi không còn thiếu một thứ gì. Bạn bè thường gọi là “Ông nội trợ” và khen là đàn ông mà bố tôi có đầy đủ các đức tính của người phụ nữ Á đông “công, dung, ngôn, hạnh”, nuôi con khéo léo không ai bằng.
Hồi còn bé, tôi không hiểu được, vì sao không phải mẹ tôi, mà bố tôi luôn luôn ở nhà chăm sóc cho tôi. Từ từ tôi mới nhận ra, trong đám bạn bè, tôi là người duy nhất luôn luôn có người bố bên cạnh. Thiếu tình mẹ, tuy nhiên, tôi cũng cảm thấy an ủi, mình là người rất may mắn, còn hơn nhiều đứa trẻ thiếu cả tình thương của cha lẫn mẹ.
Sau này tìm hiểu thì tôi biết, bố tôi là một lính VNCH, một phi công bị thương trên chiến trường, được mẹ tôi bảo lãnh theo diện đoàn tụ, bà lo cho ông hưởng tiền trợ cấp tàn phế. Lúc tôi được hơn 3 tuổi, bố tôi và mẹ tôi ly dị, bà đã lập gia đình với một người đàn ông khác, nhường tôi lại cho bố tôi nuôi. Trong ký ức trẻ thơ, tôi có hình dung được hình ảnh của mẹ tôi một vài lần, khi bà đến thăm, nhưng rất xa lạ, vì luôn luôn bà đi với một người đàn ông nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng.
Tôi có tí mặc cảm về địa vị bố tôi ngoài xã hội, so với bố của những đứa trẻ khác, tuy nhiên việc chăm sóc tôi thì hoàn hảo, ông chăm lo cho tôi từ việc lớn đến việc nhỏ, không phải đụng tay vào bất cứ thứ gì. Trong suốt thời gian tôi học tiểu học, ông còn thuyết phục ông tài xế xe bus đón tôi đi học ngay tại cửa nhà, thay vì ở trạm xe , cách xa nhà tôi 4 dãy phố. Khi tôi bước vào nhà, lúc nào bố tôi cũng chuẩn bị sẵn thức ăn trưa, nào cá kho, thịt kho, rau xào và có cả canh nữa. Lâu lâu cũng có thức ăn Mỹ, sandwich, hamburger, bơ đậu phộng, và còn thay đổi theo mùa. Giáng Sinh bánh có viền xanh hình cây thông, Valentine có hình trái tim..vv...
Khi tôi lớn hơn một chút, vào năm đầu tiên trung học, tôi lại thích sống độc lập, tôi muốn thoát ra những cử chỉ yêu thương dành cho con nít của bố, vì sợ chúng bạn trêu chọc. Nhưng chẳng bao giờ bố buông tha tôi cả, một đôi khi tôi rất bực mình.
Cấp trung học, tôi không thể về nhà ăn cơm được nữa, phải bắt đầu tập tự lo cho mình. Nhưng bố tôi lại thức dậy sớm hơn thường lệ để chuẩn bị bữa ăn trưa cho tôi. Ông cẩn thận ghi cả tên tôi bên ngoài túi giấy đựng đồ ăn. Lật dưới đít bao giấy, luôn luôn có một vài hình vẽ nhỏ, khi thì căn nhà, khi thì dòng suối, ngọn núi, chim cá và hình trái tim với dòng chữ “I Love You Tammy!” Nào hết đâu, bên trong những chiếc khăn giấy cũng có những dòng chữ triều mến “Bố thương con nhiều”. Ông luôn viết, hay có những câu nói bông đùa như thế để nhắc nhở là ông yêu thương tôi nhiều, và muốn làm cho tôi vui.
Tôi thường lén ăn trưa một mình để không ai thấy được cái túi giấy và khăn ăn. Nhưng cũng chẳng giấu được lâu. Một hôm, một đứa bạn tình cờ thấy khăn ăn của tôi, nó chộp lấy la lên và chuyền đi khắp căn phòng cho mọi người xem. Mặt tôi nóng bừng, bối rối, mắc cỡ muốn chui đầu xuống đất.
Bữa hôm đó tôi về, đã làm mặt giận với bố tôi và “cấm” ông ấy không được viết, vẽ “bậy bạ” trên khăn giấy nữa, để bạn bè không coi tôi như đứa con nít lúc nào cũng cần người lớn chăm sóc. Lần đầu tiên tôi thấy bố tôi buồn, lặng lẽ vào phòng đóng cửa.
Ngày hôm sau, tôi vô cùng ngạc nhiên vì tất cả bạn bè bu chung quanh tôi, chờ để được xem chiếc khăn ăn, nhưng lần này thì trống trơn, không có dòng chữ hay hình vẽ gì cả. Nhìn mặt bọn chúng thất vọng, hụt hẫng, tôi mới hiểu ra, tất cả chúng nó đều mong ước có một ai đó biểu lộ tình thương yêu ngọt ngào giống vậy đối với chúng. Lúc đó lòng tôi len lén cảm thấy vui vui, dâng lên niềm tự hào về bố. Tôi vội về làm lành với bố, và những giòng chữ, những hình vẽ yêu thương lại tiếp tục.
Những năm còn lại trong trường trung học, tôi vẫn đều đều có những chiếc khăn đặc biệt ấy. Và từ đó, tôi giữ lại, chứa trong một cái hộp riêng, giấu kín.
Chưa hết, khi vào đại học, tôi phải rời xa bố, tôi nghĩ thông điệp xưa kia của bố sẽ phải chấm dứt. Nhưng tôi và bạn bè rất vui sướng vì những cử chỉ biểu lộ tình cảm của bố tôi vẫn tiếp tục qua hình thức khác.
Ở cấp đại học, dĩ nhiên không còn thấy bố tôi đứng chờ khi tan học, vì thế, tôi hay gọi điện thoại cho ông, chi phí điện thoại khá cao, nhưng không sao, tôi chỉ muốn nghe được giọng nói của ông mà thôi.
Suốt năm học đầu tiên, chúng tôi quen lối nói chuyện như thế và sau đó kéo dài một năm. Thường thì sau khi tôi nói lời tạm biệt, câu cuối cùng không bao giờ thiếu.
“Này Tammy”
Tôi thường trả lời “Dạ, gì thế bố?”
“Bố thương con nhiều.”
“Con cũng thế. I Love You!”
Hình như bố tôi nhận ra chi phí mắc mỏ cho những cuộc điện đàm, từ đó, tôi bắt đầu nhận thư mỗi thứ sáu. Ban thường trực phát thư của trường đều biết ai là người thường gửi lá thư này, mặc dù địa chỉ hồi âm luôn luôn ghi là KBC 1678. (Sau này tôi khám phá ra, KBC viết tắt là Khu Bưu Chính, địa chỉ trong quân đội ngày trước nơi bố tôi phục vụ. Còn số 1678 dễ quá, là số nhà tôi hiện tại.)
Nhiều lúc bên ngoài bì thư, địa chỉ được viết bằng bút chì và tiếp theo đó là những lá thư có hình con mèo và con chó của gia đình tôi, có vẽ những hình tháp nhiều từng, hình cây cầu nhiều nhịp in trên sóng nước. Hè năm đó, bố tôi và tôi du lịch về Việt Nam, lúc đó tôi mới biết là Chùa Một Cột, Chùa Thiên Mụ, Cầu Tràng Tiền v.v...
Sau chuyến du lịch ấy, tôi tìm hiểu về Việt nam nhiều hơn, nhất là cuộc chiến tranh trước 75, tôi bắt đầu thấy thương bố nhiều, ông là người lính bại trận, nhưng quân lực ấy đã chiến đấu dũng cảm cho tự do, cho hạnh phúc của người dân miền Nam trong suốt 20 năm. Nếu không bị đồng minh bán đứng, cuộc chiến chưa chắc ai thắng ai.
Thư đến và được phát mỗi ngày sau buổi ăn trưa. Tôi thường đi nhận thư và mang theo mỗi khi đi uống cà phê. Tôi nhận thấy chẳng cần phải giấu giếm làm gì nữa, bởi bạn cùng phòng tôi là những đứa bạn hồi còn trung học, chúng nó biết rất rõ về những chiếc bao giấy, khăn ăn. Và rồi trở thành như một tập tục, tôi đọc thư, còn bì thư và hình vẽ thì được chuyển khắp bạn bè, thư từ bố tôi thành niềm vui của cả phòng.
Trong năm cuối cùng đại học, bố tôi bị căn bịnh ung thư hành hạ. Mỗi khi tôi không nhận được thư vào ngày thứ sáu, tôi biết ông ốm nặng, không thể viết được. Ông thường thức dậy lúc 4 giờ sáng để có thể ngồi trong nhà yên tĩnh nắn nót viết những lá thư. Nếu không kịp cho đợt phát thư vào thứ sáu, thì chỉ sau đó, một hai ngày, thế nào rồi thư cũng đến. Bạn bè tôi bình bầu ông là “Người cha thương con nhất trên thế giới này!”
Ngày lễ cha, Father’s Day, chúng nó gởi một tấm thiệp phong tặng ông danh hiệu đó và tất cả đều ký tên trên tấm thiệp. Tôi tin rằng ông đã dạy cho tất cả chúng tôi về tình phụ tử, bạn bè tôi bắt đầu nhận những tấm khăn ăn giống như tôi từ gia đình chúng nó, với những lời để lại ấn tượng mà sẽ thôi thúc họ hãy biểu hiện tình thương của họ với con cái sau này.
Suốt thời gian đại học, những lá thư và những cú điện thoại như một chu kỳ đều đặn.
Ngày ra trường, tôi quyết định chọn công việc làm gần nhà, để được ở cạnh bố tôi, vì căn bệnh bố càng ngày càng nặng. Thời gian được ở gần bố không còn bao nhiêu lâu nữa.
Đó là những giây phút khó khăn, đau khổ nhất cuộc đời tôi phải trải qua.
Tôi ở bên cạnh bố tôi một vài ngày trong bệnh viện trước khi ông mất. Vài giờ trước khi hấp hối, ông nắm tay tôi bảo “Bố nhờ con một điều, con về nhà lấy cho bố cái hộp gỗ mà bố để trên đầu tủ, đây là hộp chứa đựng những kỷ niệm đời lính mà bố yêu thương nhất. Bố muốn nhìn nó lại một lần.”


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288714938.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288714970.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288715010.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288715037.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288715071.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288715132.jpg

Tôi lái xe về nhà, và cũng tìm ra ngay chiếc hộp phủ đầy bụi thời gian. Có gì bên trong? Tôi tò mò mở nắp hộp. Mắt tôi bắt đầu cay cay nhòa lệ, khi nhìn thấy những tấm hình của bố tôi còn trẻ, đứng bên cạnh chiếc trực thăng chiến đấu trong bộ quân phục thật oai phong. Có những tấm chụp chung với những người lính bộ binh cầm súng đằng sau chiến trường còn bốc mùi lửa khói. Lật ra đàng sau, những ngày tháng cũ, 68, 70, 71, 72... với những địa danh xa lạ: An Lộc, Bình Long, Đồng Xoài, Khe Sanh... Dưới đáy hộp là căn cước quân nhân, giấy giải ngũ và những tấm huy chương, bộ lon gắn trên cổ áo khi ông mặc những bộ quân phục.
Bây giờ thì tôi mới hiểu hết, không còn mặc cảm hình ảnh có ông bố tàn tật chỉ biết lo việc “nội trợ”, ngược lại là đàng khác, Bố tôi đã một thời là một người lính chiến oai hùng, đổ máu hy sinh một phần thân thể mình cho một cuộc chiến đầy chính nghĩa, bảo vệ quê hương.
Rõ ràng bố tôi chăm sóc tôi, vui vẻ làm những việc của người phụ nữ bao nhiêu năm nay, chỉ vì tình thương con mà thôi. Ông thật là người cha tuyệt vời
Tôi ôm cái hộp, chạy gấp lại bệnh viện, định nói lời xin lỗi với người cha thân yêu của mình, nhưng đã trễ! Người y tá trực cho biết, bố tôi vừa trút hơi thở cuối cùng. Rồi người y tá trao cho tôi chiếc khăn giấy nhà thương, với giòng chữ cuối cùng run rẩy của một người cha dành cho con “Tammy, ba thương con nhiều! Vĩnh biệt!”
Nước mắt tôi trào ra như suối, cầm tấm khăn giấy trong tay áp vào ngực, tấm khăn giấy cuối cùng, mà cả cuộc đời mãi mãi không còn nhận được nữa.
Lúc liệm xác, tôi bỏ theo chiếc hộp kỷ niệm đời lính vào hòm cho bố, còn những chiếc khăn giấy tôi sẽ giữ mãi bên cạnh cả cuộc đời tôi.
Bây giờ thì những chiếc khăn giấy đã đổi màu vàng khè, nhưng tình tôi dành cho người bố càng ngày càng thấm thiết, bất diệt, muôn đời không thay đổi.
Happy Father’s Day
Mừng Ngày Của Bố
Mừng ngày Quân Lực 19/6/2010

KQ Lê Văn Hải

hung45qs
11-03-2010, 03:51 PM
NGÀY VỀ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288809139.jpg

Chinh chiến người đi mãi chẳng về
Người còn ở lại dệt tình quê
Hương xưa còn ngát bờ ao lúa
Bụi đỏ phong trần trong giấc mê

Người vẫn còn xa ánh lửa hồng
Vầng trăng cô lẻ bóng phòng không
Ai ngồi đan áo mùa đông đến
Gởi cánh chim bay vạn nẻo đường

Chinh chiến người đi có trở về
Người thành góa phụ đợi bên song
Lệ rơi rơi lắm nhiều năm lẽ
Ai bỏ đời ai sớm muộn màng

Chinh chiến người về một sớm mai
Gặp nhau ngày ấy lệ vơi đầy
Tóc ai đã trắng mùa thương nhớ
Lòng ai nở rộ cuộc tình mơ

HOA SỨ

hung45qs
11-03-2010, 08:18 PM
Người Yêu Của Lính


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288815963.jpg

Các Anh Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân thân mến.

Khi quê hương còn trong khói lửa, khung trời mây xám đầy cánh sắt dưới đóm mắt hỏa châu, sao hôm vẫn đứng một mình, âm thầm lặng lẽ hiền hoà dướí đám mây mù che lấp và cố chen chút những tia sáng lung linh để soi mòn lối nhỏ.... khi những cánh chim sắt quên đường về…. tiếng súng vẫn rền vang, tiếng bom nổ ì ầm của vùng trời giới tuyến, dưới dãy ngân hà chập chùng có tiếng nỉ non của loài côn trùng như tiếng khóc ru ai oán cho cuộc đời của người chiến sĩ ra đi không người đưa... trở về không người đón.... Sự sống chết gần kề trong phút chốc và trong gang tấc.

Các anh đã vứt áo thư sinh, từ bỏ thời gian trai trẻ, đẹp nhất của đời mình.. Với những chiều tay trong tay trên phố Bodard mưa nhạt... mưa nhoà, hay những ngày ôm cây đàn bên dòng sông xưa.... nghêu ngao giọng hò Nam bộ..... ghẹo tình cô thôn nữ e ấp dưới chiếc nón bài thơ..... Các anh đã sống với những đóng góp thật nhiều xương máu, một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất cho cuộc đời. Các chiến sĩ là những người sống có lý tưởng..... đã làm những gì đẹp nhất cho quê hương, giữ gìn bờ cõi để các em nhỏ còn thẹn thò núp áo Mẹ cắp sách đến trường làng vớí tiếng... ê... a...... Bác nông dân cày bừa, lom khom dưới đám mạ non, nghe mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, đưa trâu về chuồng, chiếc xe bò chở lúa gập ghềnh chậm rãi trên bờ đê, một cuộc sống yên bình hiền hòa, chất phác chứa ẩn trong lòng một sự kiên cường nhất của dân tộc ta.

Hôm nay đây, trải qua bao cuộc sống đầy vất vả cam go của kẻ ly hương, tuổi đời chồng chất, chân mòn gối mỏi, để cho tâm hồn được thanh thản hay cũng để chuẩn bị cho sự lùi về phía sau... dành cho thế hệ tương lai nối tiếp. Một sự ghi ơn rất trân trọng cho những người nằm xuống đã hy sinh vì Tổ Quốc mà khi ra đi là giã biệt người thân...... Ánh mắt Cha già cứ mãi ngóng trông ở lối đi về, Mẹ thân xác gầy gò, dấu đi hàng lệ rơi trong khoé mắt, luôn cầu nguyện cho con được bình an trong đường tên mũi đạn, có những... người vợ ngày hai buổi gồng gánh, tay xách vai mang, dãi nắng dầm mưa vừa làm Mẹ và thay Cha trong những ngày chăn đơn gối chiếc, một lòng son sắc nuôi nấng dạy dỗ đám con thơ dại, từng đêm mòn mõi trông chờ những lá thư các anh từ chiến trường được bình yên. Cũng thật may mắn hơn, còn các anh được đọc những lá thư từ "Người yêu của lính" mong chờ... đẻ cùng hoà đồng nhịp cảm của một tình yêu da diết ở con tim......
Nhưng ngày trở về.... có khi là chiếc khăn tang với nén hương quỳ bên nắm mộ Mẹ, người còn đâu nữa... còn đâu những ngày lặn lội bờ đê, ngày hai buổi với cơm canh rau cà ãm đạm..... còn đâu người ngồi tựa cửa vá áo cho con, mắt mỏi mòn trông bóng dáng đứa con, để được vuốt ve ân cần cho đứa con trai như những lần con đi học về, trên bờ đê đạp chiếc xe đạp cọc cạch thật nhanh, vứt cặp vở chạy đi tìm kiếm.... Mẹ, Mẹ ơi... Mẹ ơi !

Cũng thật vô cùng đau xót, không gì đau đớn cho bằng cho những chiến sĩ ra đi biền biệt bỏ thân nơi sa trường trận mạc, hay trở về bằng tấm Thẻ bài, chiếc Poncho ấp ủ... phủ kín đời con..... hoặc làm kẻ trở về trên cây nạng gổ ,trên chiếc xe lăn ,đầy dẫy những bệnh tật vương vấn mãi không buông tha cho kiếp sống tật nguyền.... Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, con người tuy nhỏ bé, nhưng ý chí mãnh liệt với những sự hy sinh cao đẹp của các anh.... đã đánh dấu sự khâm phục của Thế giới, cũng như để lại một nền tảng hào hùng trong lịch sử cho xứ sở quê hương , cho cả thế hệ đi sau........

Tổ Quốc Ghi Ơn
Đời Đời Nhớ Ơn Các Anh!


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288816250.JPG

Nghe tin ngày Đại Hội SVSQ KQ Liên Khoá 72-73 của các anh sắp gần kề, là ngày các anh hãy trở lại núi rừng trong những giây phút thiêng liêng hiện hữu, cùng những bạn bè từ các nơi, tay bắt mặt mừng, hồi âm lại quá khứ của những trận đánh khốc liệt, những lần đem về chiến thắng vẽ vang, ngày hôm nay với sức sống tràn đầy, hãy nâng ly chúc tụng sức khỏe, lòng ấm áp hoà theo tiếng nhạc.... tiếng ca hào hùng ... thay cho tiếng súng.... Giả -Từ-Vũ-Khí!!!!
Các anh cũng đã có những trận chiến thắng trở về thật lừng lẫy, kiêu hùng. Đừng bao giờ nghĩ rằng là những kẻ bại trận...... trong bất cứ trận đấu nào, cuộc chiến nào cũng đều có chiến thắng hay thất bại, tất cả đều là máu đổ, tang tóc và sự chia ly..... Các anh không bao giờ là kẻ bại trận hay thua cuộc, các anh vẫn còn chiến đấu đến giây phút cuối cùng.... trong tư tưởng vẫn còn ý chí hào hùng, trong những lần rợp trời tung bay cánh sắt, một hình ảnh hiên ngang... kiêu hùng của một thời trai ngang dọc.. luôn ngự trị ở tâm hồn của các anh.... mãi cho đến ngày hôm nay.... Đó là lòng yêu Quê hương và Tổ Quốc, trong tinh thần một lòng giữ nước lẩn ý chí quật cường của toàn dân ta đã trải qua bốn ngàn năm văn hiến "Dựng nước Giữ nước"..... đánh đuổi giặc Tàu, quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi.
Tôi yêu tiếng nước tôi!...Tôi yêu quê hương tôi !
Lời cầu chúc riêng đến tất cả các anh SVSQ KQ Liên Khóa 72-73 trong kỳ Hội Ngộ Liên Khoá nầy, công ơn các anh sẽ được trả bằng những ngày yên vui và thoải mái nhất trong suốt cuộc đời còn lại với những chiến thắng lẫy lừng và những chiến công lẫm liệt của các chiến sĩ là "Một Thời Để Nhớ ...Để Yêu" trong một trang Sữ Oai Hùng của Dân Tộc Việt Nam Cộng Hoà... ghi tạc đến ngàn đời sau.

Và vẫn mãi mãi yêu anh....... người chiến sĩ !

Em Gái Hậu Phương
Canhen

hung45qs
11-04-2010, 06:00 PM
Nha Trang ngày về


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288895770.jpg

Tín biết cuối cùng rồi anh cũng chỉ là chiếc bóng của Ngọc. Chiếc bóng cứ bên cạnh Ngọc chảy trôi trên suốt đường đời. Sau ngày 30 tháng 4 năm 75 Tín trở về quê chịu đựng những tháng ngày đày đoạn vì đã là người lính. Anh cố gắng sống để nhận ra mình vẫn còn tồn tại sau cuộc chiến dài. Trong những ngày đổi đời đó Tín gặp lại Ngọc. Cô lúc nào cũng ngọc ngà óng chuốt như tên của cô. Còn anh lúc nào cũng chạy theo sau niềm ao ước của mình.

Tín nhớ lại lúc anh sắp vào lính vào cuối mùa hè năm 72, tình cờ gặp Ngọc. Tình yêu bùng vỡ. Tín chỉ còn lại vài ngày ở quê nhà, sau đó, là những thăng trầm trong đời quân ngũ. Anh yêu Ngọc vội vã như chưa bao giờ được yêu và trả giá cho tình yêu mãnh liệt này là những đêm mộng mị về Ngọc. Tín lang thang trong những đêm trăng, vội vã trong những buổi chiều để tìm gặp người yêu. Anh thu vén tình yêu vào một góc nhỏ của cuộc đời, nơi đó chỉ có mình anh tận hưởng.

Chỉ vài tháng sau Tín làm sinh viên sĩ quan (SVSQ) của quân trường Không Quân (KQ) Nha Trang. Anh đã xa Ngọc ở một nơi rất xa, nhưng vào một buổi chiều, khi toán quân đang di chuyển cho một lần học quân sự „ké“ bên quân trường Đồng Đế, Tín đã gặp một cô gái giống y như Ngọc. Tín bắt gặp lại hình ảnh Ngọc. Cô gái đang chăm sóc vườn cây trái. Tín bên ngoài khu vườn. Cô gái bên trong khu vườn, đang với tay hái mấy trái ổi trên cành. Biết mình đã lầm người nhưng là cái lầm thật vui. Tín không thể nào quên ngay được lầm lỗi đáng yêu ngày ấy. Như vậy với Tín có nghĩa là Ngọc đã rời Sài Gòn và ra đến tận Nha Trang với Tín qua hình ảnh cô gái.

Tháng 10 năm 1972, trước khi mang túi quần áo vào Quân Vụ Thị Trấn để trình diện đi lính, Ngọc rủ Tín với hai người bạn, một trai một gái, về quê cô „chơi“ một lần cho biết. Tín quê ở miền Đông Nam phần, lớn lên về học ở Sài Gòn, chưa biết gì về sông rạch miền Tây, những buổi chiều hơi sương trên sông Vàm Cỏ, những cô gái mỹ miều trên một góc đường ở bến Ninh Kiều, Tây Đô. Mọi điều đối với anh đều rất còn xa lạ như môi người tình của cậu thiếu niên ở tuổi mười lăm vẫn còn là những mộng mị, ước mơ. Nhưng quê Ngọc không phải ở trên sông Vàm Cỏ hay bến Ninh Kiều. Quê Ngọc ở tận Núi Sập thuộc tỉnh An Giang. Những địa danh xa xôi của miền Tây Nam nước Việt. Buổi chiều ngồi trên chiếc suồng ba lá với khoảng chừng mười lữ khách đi từ bến xe Long Xuyên về Núi Sập, Tín mới biết thế nào là cuộc sống Miệt Vườn của những cuộc đời trôi dạt theo những bến sông. Suốt một đoạn đường dài, nhìn lên là thấy những ngọn cây lá cây màu xanh tươi với đầy hoa trái, nhưng nếu nhìn dọc hai bờ sông sẽ thấy toàn một màu bùn đen sông rạch, thấy những thân cò lặn lội bờ sông, những thiếu nữ tóc mai sợi vắn sợi dài với chiếc áo bà ba chân không lam lũ. Những cậu bé ngây thơ đánh đu tòn ten trên những cây bần cây đước. Những chú heo ụt ịt, dạo ăn quanh những căn nhà lá, mái tranh chiều đang ủ chụp những làn khói mảnh như sương.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288895836.jpg

Quê Ngọc ngày đó đem lại cho Tín nhiều thích thú, y như ngày đầu tiên anh bị „hốt hồn“ khi bắt gặp Ngọc trong Thảo Cầm Viên ở Sài Gòn khi cô đang vui đùa với những chú khỉ. Cô gái với chiếc áo dài trắng thướt tha (các cô nữ sinh ngày ấy bao giờ lại không thướt tha!) đang đi với một cô bạn gái. Mái tóc dài đến đến bờ vai, dáng người mảnh khảnh, môi mộng đỏ như chuẩn bị đón những nụ hôn từ những ngọn gió lùa khi mùa xuân sắp đến. Tín không nhớ là nguyên do nào anh đã quen Ngọc. Nhưng anh biết chắc ngày đầu tiên hai đứa quen nhau là một buổi trưa đầu hè trong sở thú hôm đó. Ngọc đi với một cô bạn gái và anh cũng đi với một người bạn trai. Tiếng chim hót trong vườn Bách Thảo trong buổi trưa đã thay tiếng tơ tình từ hai đứa. Ngày cuối tuần trời Sài Gòn bên ngoài vẫn đầy ồn ào tiếng động, nhưng chỉ cách vài trăm mét đã là yên ắng, đã là chơi vơi. Những ngày sau đó, Tín chỉ đi với Ngọc, và Ngọc cũng chỉ có Tín, tay trong tay khi hai người hẹn hò gặp nhau trong một ngày cuối tuần nào đó trong thành phố Sài Gòn.

Ngọc đã dẫn Tín đi trên những con đường quê của cô, đất đá lồi lõm, như những chiếc lưng khòm của những bác nông phu già đang ngồi trên những chiếc xe bò, xe trâu trong buổi chiều nơi quê cô. Vùng Núi Sập có những cây thốt nốt. Ngọc chỉ cho Tín xem khi thấy một người nào đó đang lấy nước thốt nốt trên cây. Một mình anh ta „lã lơi“ trên cành nhánh. Ngọc chỉ cho Tín xem gánh xôi của cô gái quê trong phiên chợ sáng. Cô gái quê bán xôi ở Núi Sập như hàng hàng lớp lớp những cô gái quê trên mọi nẽo đường Việt Nam. Bàn tay gọn gàng vội vã với những nắm xôi, buôn bán không chỉ bằng môi miệng mà còn bằng ánh mắt. Ánh mắt của những cô gái một nắng hai sương, lúc nào cũng muốn là vui lòng ở mỗi người khách: vừa mời mọc, vừa van lơn, kêu gọi. Ngọc chỉ cho Tín xem quán cà phê nơi góc đường, khi chiều đã đi và đêm dần đến. Cô chủ hàng cà phê, theo như Ngọc kể, đã là nơi hẹn hò của những người lính Địa Phương Quân rày đây mai đó khi có dịp đóng quân ở đây. Nước da trắng, mặt mày hồng hào, dáng người khoẻ mạnh, cô chủ quán cà phê đã như đóa hoa hồng thu hút những bướm ong xa lạ.

Không như cô chủ hàng cà phê, Ngọc ngày đó gầy gò hơn, nhỏ hơn, nhưng nước da Ngọc trắng, màu trắng của những cô gái ở Sài Gòn. Ngọc lại có chiếc răng nanh duyên dáng mỗi khi cô cười. Là dân gốc Núi Sập, nhưng trông Ngọc như dân Sài Thành thứ thiệt. Những ngày gặp Ngọc là những ngày mộng mơ cho một tình yêu của chàng thanh niên mới lớn tên Tín. Ngôi nhà Ngọc tọa lạc trong một khu vườn rộng lớn, nhà có cả kho chứa lúa phía sau. Tín nghe Ngọc kể, nhà cô có mấy chục mẫu ruộng. Ba cô quanh năm làm ruộng để nuôi chị em cô ăn học ở Sài Gòn. Nhìn ba Ngọc, Tín nghĩ nghề làm ruộng nhưng chắc là ông chỉ mướn người ta làm rồi cuối mùa đong lúa trả, vì trông ông thảnh thơi, tận hưởng. Má Ngọc trông giống mấy bà Biện, bà Lý thời xưa trong những tuồng cải lương đang hát ở Sài Gòn.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288903411.jpg

Nhưng chỉ sau đó vài ba tháng Tín đã lăn lộn ở miền Trung nắng nóng đến rát da. Tín đã trở thành người lính Không Quân đang học giai đoạn quân sự trong quân trường Đồng Đế Nha Trang, đã trở thành người bạn của những loại súng, những đường dây tử thần, giao thông hào, đoạn đường chiến binh v.v…, y như lính bộ binh thứ thiệt, nhưng Tín cũng còn là bạn những cô gái bán chè xôi, bánh ngọt, nước trà đá… trên những bãi tập miền biển cát nóng phỏng da này. Hình ảnh Ngọc đã vời vợi mất hút nơi khung trời Sài Gòn. Ngọc đã xa Tín, Tín đã xa Ngọc, vòng tay ôm đã trả lại cho người. Những cánh thư viết gửi về Sài Gòn không thấy hồi âm. Bàn tay, dòng chữ, hơi hướng Ngọc đã xa vời vợi, đã bị cuốn hút bởi chiến tranh và bởi những đoạn đường xe không còn yên bình trên đất nước. Buồn quá Tín lại làm quen với Mẫn trong một lần đi phép ở phố Nha Trang. Mẫn quê ở Thành, cách Nha Trang gần hai mươi cây số. Mẫn có cách đẹp khác Ngọc, và rất „riêng tây“ (1). Vẫn người nhỏ, vẫn khuôn mặt xinh, nhưng khác một điều Mẫn không có màu nước da trắng như Ngọc, mà là màu da bánh mật, màu „biển mặn“, và Mẫn cũng không mảnh khảnh như Ngọc mà lại hồng hào có da có thịt. Chiếc áo dài màu hoa hồng sậm ngày ấy khi nàng đi dạo với Tín trên bãi biển ở Hòn Chòng, cũng làm cho các cậu còng gió nếu hiện diện nơi đây sẽ điên đảo trước nhan sắc của cô gái ở Thành.

Tín yêu Nha Trang ngày đó không chỉ qua các cô gái Nha–Thành, như Mẫn, mà còn qua những hàng dừa chạy dài theo bãi biển để cho bóng mát như mái tóc của một cô gái buông lã lơi xuống đến thắt lưng, mỗi khi gặp làn gió nhẹ đã điểm trang cho khuôn mặt thêm vẻ khêu gợi, tình tứ. Tín cũng yêu Cầu Đá, Hòn Chòng, Chợ Đầm và những con đường Phước Hải, Độc lập…, mà buổi chiều thứ bảy có lần đã vào một quán kem với người bạn lính khi trời bên ngoài trời đã se se lạnh. Nhìn khói thuốc từ miệng bạn bay lên, Tín mới thắm thía cho kiếp sống xa nhà của các bạn anh và ngay cả của chính mình, cô đơn bay vào không gian, như cứ mỗi buổi sáng những chiếc Cesna tập lái cô đơn bay vào cõi trời bao la của biển núi, hay cứ chiều chiều, khi trời chạng vạng, chiếc C47 màu đen thui với ánh đèn chớp tắt, cô đơn một mình cất rời phi đạo, lao vào bóng đêm để tiếp viện, làm „lên tinh thần“ cho những anh Nghĩa quân, Điạ Phương Quân đang làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh trên các trục lộ giao thông, hay những chiếc cầu quan trọng, để Huyền thoại về một chiếc cầu đã gảy không thể tái diễn nữa. Nha Trang ngày đó là như vậy.

Ngày đó, Tín đến Nha Trang sau Nghĩa, làm đàn em của Nghĩa. Nghĩa không có huấn nhục trực tiếp Tín, không phải là Khánh là Tốt (72G), không phải là Hòa (73C), những niên trưởng chịu trách nhiệm huấn nhục khóa Tín, nên Nghĩa không thể giảm cho Tín một cái hít đất hay một lần đi „bay đêm“ với các bạn đồng khóa. Nhưng mỗi khi Nghĩa xuất hiện ở cửa phòng Thiên Nga của Tín, ôi thằng bạn cùng lớp tên Nghĩa ấy đã đem lại cho Tín đầy sức mạnh để tiếp tục „đón tiếp“ thêm một ngày mai „thê thảm“, trong chuổi ba mươi ngày dài huấn nhục. Nghĩa chỉ cười cười nháy mắt ra tín hiệu, như cho Tín biết mọi việc huấn nhục cho SVSQ KQ ở quân trường Nha Trang này như là trò chơi để thử sức các tân khóa sinh, những người gọi là những thanh niên rường cột nước nhà, để xem các anh có sức khoẻ tới đâu, hào hùng tới đâu mà dám vào đăng ký để đi lính KQ. Bằng chứng là mỗi lần đến đứng nơi đầu Barrack, nhìn Tín, Nghĩa lúc nào cũng cười với nụ cười thật tươi, trong khi mới vài ba tháng trước đây Nghĩa cũng giống như Tín „bay đêm bay ngày“, húp nước mắm, môi miệng khô ran và lở vì thiếu nước. Nghĩa đã đem lại cho Tín nghị lực để vượt qua bốn tuần huấn nhục.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288903676.jpg

Ngày đó, thiếu tá Bé, Đoàn trưởng đoàn SVSQ KQ lúc nào cũng nghiêm trang nhưng hiên ngang với bộ đồ bay màu xanh sậm với chiếc xe Dogt màu xanh da trời. Đại úy Thắng, Đoàn phó, cũng với bộ đồ bay, không những nghiêm như thiếu tá Bé mà còn „ngầu“ nữa bởi bộ râu. Không những „ngầu“ trong lúc đi lại, làm việc trong trại Ngân Hà, Thiên Nga mà ngay cả những lúc đã ngồi trên chiếc xe Lambrettic rời trại để về nhà với bà xả (hay với người yêu?) cũng còn „ngầu“. Thành thật mà nói, thuở ấy, hai vị sĩ quan này rất đẹp trai, rất Không Quân. Ngày đó có việc gì mà phải lên trình diện thiếu tá, đại úy là chết! Làm như nếu không ngầu, không nghiêm không làm được cán bộ cho đoàn SVSQ? Kỷ niệm một lần Tín có với thiếu tá Đoàn trưởng là buổi sáng ngày lễ Phật Đản. Tưởng gặp ngày lễ Phật là sẽ có một ngày rảnh rang. Tưởng vậy mà không phải vậy. Rảnh mà không rảnh. Mặc cho ngày thứ bảy, gặp ngày lễ Phật Đản là các khóa sinh theo đạo Phật phải đi… chùa (chớ không phải đi phố!). Gặp lúc Tín đã mặc đồ xong nhưng còn „chậm chạp“ chưa chịu đi chùa, thiếu tá đã quát. Anh có phải là người theo đạo Phật không? Với cái chào Tín làm ngay như một người máy: SVSQ ….. khoá ….trình diện thiếu tá! Thiếu tá vừa chào vừa lập lại câu hỏi: Anh có phải là người theo đạo Phật không? Dạ phải! Phải mà giờ này anh còn ở đây à? Dạ…! Dạ cái gì? Anh làm cho tôi 10 cái hít đất coi! Tín nghĩ: Buổi sáng chưa tập thể dục thì 10 cái hít đất nhằm nhò gì thiếu tá. Thiếu tá còn nói bâng quơ như để „ hăm dọa“ đến với các bạn khác. Các anh không phải vô thần, các anh có đạo các anh phải đi chùa, đi nhà thờ. Lính thuở VNCH là vậy, không biết bây giờ bộ đội ở VN ra sao!? Phu nhân thiếu tá ngày đó là cô giáo trong một trường trung học ở ngoài phố Nha Trang. Trong một lần Tín đã thấy mặt cô, khi cô cùng chồng vào trại Thiên Nga. Mặt cô rất phúc hậu.

Đó là kỷ niệm cho những lần hít đất, nhảy xổm lai rai, chứ còn chuyện bị cạo đầu (Tông-đưa chỉ đi một đường lã lướt sát da đầu từ trước tráng ra tận sau ót đủ…gọi là… cạo rồi!) là chuyện cả khóa đều bị chứ đâu phải mình Tín bị đâu mà phải ráng nhớ. Nhưng ngày ấy có nhiều bạn không chịu đi cạo trọc luôn, ỷ lại tóc còn đang dài nên cứ lấy tóc cho che „đường rảnh“ trên đầu là qua mắt được các người đẹp Nha Thành, như Nhân đã làm, lại lấy làm hảnh diện lắm. Giống y những người dân quê lấy lá dừa đắp lên những đường mương nuôi cá. Không biết bây giờ Nhân, gốc gác Hố Nai, ở đâu rồi? Có nghe rõ năm trên năm không?

Trung úy Tấn những ngày Tín ở Nha Trang thì chuyên lo về tiếp liệu. Cô „ trung úy“ là cô thợ may, may hầu hết đồ đi phép của SVSQ trong một hiệu may rất nhỏ nằm ngay trong trại. Trung Úy Tấn ngày đó không „ngầu“, lại còn hay cười đùa với khóa sinh, nhất là những lúc đi đá banh hoặc đánh bóng chuyền với các SVSQ.

Còn Trung Tá Lăng, Chuẩn Tướng Oánh, những ngôi sao nằm tuốt ở trời xanh, Tín chỉ thấy mặt hai ông trong buổi sáng thứ hai khi chào cờ. Mà cũng không thấy rõ được mặt chuẩn tướng vì lúc nào ông cũng đeo kiến đen. Nghe nói HAI TÊ (2), là cháu của chuẩn tướng ngày đó, nhưng cũng bị phạt như điên, chẳng „con ông cháu cha“ gì cả. Tê Anh thì Tín không nhớ không thấy (có thể ở toán khác trong lúc huấn nhục) chứ Tê Em thì Tín thấy cũng bị đàn anh phạt kinh hoàng, vì Tê Em cao ráo, hay đứng đầu hàng. Y như Đạt từ Đà Nẳng vào, cũng nghe nói có „cậu làm lớn“ nhưng cũng bị phạt te tua. Hình như nghe nói ai có thân nhân „làm lớn“ lại càng bị phạt nặng! Đúng là mấy niên trưởng mình ngày đó điếc không sợ súng. Không biết Đạt bây giờ ở đâu? Chắc là Trần Viễn biết. Cũng giống như Dũng Hitler, mà Dũng giống Hitler thật, lúc ở Tân Sân Nhất, Dũng đã quần đàn em vô sau quá cở...thợ mộc, nên tin dữ đã đến Nha Thành. Thế là ngày đến Nha Trang, Dũng Hitler là một trong những người bị phạt nặng nhất. Đâu ông nào là Dũng Hitler đâu? Ra trình diện niên trưởng thử coi! Ông đã.. „giết“… đàn em ông ở trong Tân Sân Nhất phải không? Bây giờ ông „giết“ tụi tôi thử coi. Ôi cái giọng „chì chiết“ của đàn anh nghe sao mà dễ…sợ! Sau đó Tín không thấy Dũng Hitler nữa. Dũng Hitler „đi bay“ một mình mất biệt. Dũng Hitler rất dễ thương của những ngày anh em cùng khóa có nhau sau đó. Bây giờ Dũng Hitler ở đâu? Trong danh sách các bạn Tín không thấy. Chắc thế chiến thứ hai chấm dứt, Dũng Hitler cũng đã phải ra toà án Nuernberg ở Đức? Chớ sao giờ không thấy tâm hơi gì cả (nói chơi một chút cho dzui!).

Rồi cái gì đến phải đến. Đêm „đi bay“ suốt đêm ở… dưới giao thông hào, rảnh nước, để chờ ngày mai trời lại sáng quả là đêm dài…vô tận! Bì bõm lội dưới giao thông hào đầy sìn nước, bên trên đàn anh lại còn la hét. Các ông bò không nổi nữa phải không? Các ông có muốn ngày mai gắn Alfa không? Các ông có muốn ngày mai đi phép không? Ông nào không muốn thì lên đây. Đây là cơ hội cuối cùng cho các ông. Các ông có thấy chán KQ chưa. Các ông có muốn ra khỏi KQ không. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Các ông hãy nhanh lên! Mặc các niên trưởng „dụ dỗ“, ai mà dám lên trong lúc „dầu sôi lửa bỏng“ đó. Mà đúng thật, chỉ sau đó vài giờ, khi „ánh bình minh vừa ló dạng“ là thời gian huấn nhục chấm dứt, cũng là lúc không còn thấy bóng một niên trưởng nào ló…mặt để lo cho đàn em nữa. Không như buổi chiếu tối hôm trước, lúc còn trong các Thiên Nga, trước mỗi tân khóa sinh đều có một cây đèn cầy đã được đốt lên. Mỗi khóa sinh đều giữ gìn cây đèn mình, che khư khư chỉ vì sợ gió làm tắt, vậy mà các niên trưởng vẫn đâu có để yên. Các ông có muốn tôi thổi tắt đèn của mấy ông…không? Tắt đèn là cuộc đời mấy ông sẽ tắt theo đó mấy…ông .. ơi! Vậy mà sáng nay không niên trưởng nào dám ở lại để thổi tắt mặt trời, chỉ còn biết trốn về Barrack để ngủ bì cho một đêm thức trắng vì „bận lo“ cho đàn…em.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288903826.jpg

Đêm Văn nghệ gắn Alfa cho khóa cũng rất là ầm ĩ. Trên sân khấu có Lập, Trí, Tuấn (râu), Tiền đóng vỡ kịch trào lộng „Đông Tây gặp nhau“. Đường Sơn Đại Huynh Lý Tiểu Long đến từ Hồng Kông, Hiệp Sĩ Mù nghe gió kiếm đến từ Nhựt, Charle Bronson, cây súng cao bồi đến từ Pháp đã làm các tân SVSQ cười nghiêng ngữa. Rồi bản Tình Nước với SVSQ Lý Tỵ, Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sõi đá tôi với anh hai người xa lạ…, đã làm nỗi buồn vì vận nước đang điêu linh bởi chiến tranh nổi lên trong lòng các tân SVSQ. Mỗi người đều tự hỏi không biết ngày sau sẽ ra sao, khi cuộc đời người lính Không Quân ví như những sao băng giữa vùng không gian trong đêm tối, đi không ai tìm xác rơi. Trên sân khấu ban nhạc hình như cũng là do các tay đàn tay trống của khóa đảm nhiệm. Trong đó có Tâm, thủ trống, là người đã từng chơi trong ban nhạc của Jo Marcel ở Sài Gòn.

Với những Hạnh, Trân thủ Quốc Quân kỳ, cùng với Dũng, Lễ…và ai nữa, trong toán hầu kỳ. Lễ còn „nổi tiếng“ lúc huấn nhục vì bị niên trưởng bắt làm thầy tụng đi tụng kinh ở các Barrack, cũng như Tín hay bị niên trưởng Khánh, Hòa bắt ca hoài …Lội bùn nhơ đêm lau lách sương khuya sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh đầy…hay…Xin hiểu lòng nhau trong thời chiến tranh này mấy người mơ ước cho tròn…là những lời ca mà Tín cứ phải ca đi ca lại trong thời gian huấn nhục. Ông ca đi! Ông ca để bạn bè ông được nghỉ! Đó là lời của niên trưởng Hòa hay nói.

Với Trần Tuấn, trưởng phi đội từ Tân Sân Nhất ra, khi vừa rời chiếc C130 đã phải đứng đầu hàng để ra lịnh huấn nhục các bạn theo lịnh đàn anh. Với PT Nghị, hay cười hay giỡn, có lần còn dám „giỡn“ với thiếu tá Bé, với H Đ Nghĩa, L H Bình, HTX Thưởng, LPL Sơn, Hải, Hùng, Tuấn (sữa), Hân, Hoàng, Lộc, Chánh, Thành, Hiệp, Vàng, Hiếu, Bữu (đá banh), Cơ, Hảo, DV Hiển, TT Khen, Khai, Tân, Ngô, Minh, Sang, Giản, Bích, Trung ...và gần hơn 300 SVSQ cùng khoá, Tín đã sống trọn vẹn những ngày thật sôi động ở quân trường KQ Nha Trang, những chia ngọt xẻ bùi, và những ngày phép vội vã cùng những phiên gát đêm làm hao gầy sức lực, khi nhìn ra phố Nha Trang trong những đêm về trên phố khuya yên tĩnh. Bạn bè trong khóa nhiều quá. Không thể nhớ hết tên, và cũng không thể kể hết mọi kỷ niệm, dù kỷ niệm đó vẫn còn nằm yên đây, nhưng mỗi khi có ai khơi dậy là bật tung lên như ánh bình minh vươn lên trên mặt biển trong những ngày hè.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288895878.jpg

Những ngày gặp lại được Ngọc thì bóng hình Mẫn đã biền biệt cách xa. Cũng biền biệt cách xa như Nha - Thành. Cô đã ở lại Nha Trang vĩnh viễn hay đã trốn chạy vào Nam trong những ngày gần cuối tháng tư đen? Cô đã ra ngoại quốc, hay đang lênh đênh trên những con thuyền định mệnh muốn rời bỏ quê hương. Mọi việc đều đã tan theo hư không mà đi. Có lẽ chỉ những hàng dừa trên bãi biển Nha Trang và những mối tình với những cô gái Nha -Thành của những chàng trai xếp bút nghiêng theo việc kiếm cung từ mọi nơi đổ về đây là còn để lại ít nhiều vết tích.

Gặp lại Ngọc. Ngọc vẫn óng mượt kiêu sa. Tín đã tự ti để tìm cách xa Ngọc dù nhung nhớ đã tràn đầy tim óc, như phù sa đã rải đầy trên những cành đồng sau mùa nước nổi, nhưng cô lại mở rộng vòng tay như ngày nào còn trong thời chiến tranh, dù bây giờ không ít những cán bộ, bộ đội đã theo cô trên mỗi đoạn đường cô đi làm về. Những ngày này, Tín cũng gặp lại những người bạn lính KQ hoặc nghe nói về các người bạn lính. Nghĩa ra Vũng Tàu làm ghe để tìm đường vượt biên. Cơ về làm ruộng quê nhà, chiều chiều đánh xe bò chở lúa, chở cũi về, y như nông dân thứ thiệt, ngọn roi đánh bò cũng điệu nghệ không thua gì người cha già đã có mấy mươi năm làm ruộng. Thành là công nhân cho một nhà máy ở Sài Gòn, dáng dấp cũng giống công nhân lắm! Vài người bạn đang ngồi tù vì tội vượt biên. Và ai đó nữa đã trở thành „cán bộ“ Thủy…lợi. Mọi cuộc sống mới đều đẩy mỗi người vào con đường mới, không thụt lùi lại được. Cứ phải tiến lên thôi. Ngoại trừ những người bạn đã có cơ hội cất cánh bay, bay thẳng ra ngoại quốc trong tuần lễ sau cùng trước khi lịch sử Việt Nam lật qua một trang sử mới. (Bỏ lại anh em chết lên chết xuống ở quê nhà!)

Nha Trang Ngày Về chắc có lẽ chỉ còn nghe được trong bản nhạc, chứ từ ngày ấy đến nay Tín chưa có dịp một lần trở lại Nha Trang. Nha Trang biền biệt. Nha Trang mất hút trên đường đời của Tín từ đấy.

Nhưng rồi vì tương lai Ngọc cũng đã ra đi. Ngọc yên lặng ra đi, vội vã ra đi, trong một ngày gió Bấc sắp về. May mắn chuyến ghe cô đi vượt biên đến Indo an toàn. Và Ngọc đến Mỹ.

Sau đó Tín cũng ra đi. Anh về trời Âu. Sống với mây mù. Nơi đây ít ánh nắng. Nhưng lòng vẫn nóng hổi với những kỷ niệm ở quê nhà. Kỷ niệm với Ngọc của những ngày ở Sài Gòn. Kỷ niệm với Mẫn, với quân trường và các Sĩ quan, niên trưởng, các bạn cùng khóa ở Nha Trang và với cả Nha -Thành. Kỷ niệm còn đây nhưng người đã ở đâu? Ngoài chân mây hay tận góc phương trời nào?

1) Riêng Tây: Chữ hay dùng của một nhà văn khi viết tạp bút.
2) Nguyễn Tuấn, Nguyễn Thắng

Vũ Nam

hung45qs
11-05-2010, 06:20 PM
Nhớ bạn hiền khóa 72G


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288981576.JPG
http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288981612.JPG

Tay bưng ly rượu dâng lên
Nhớ về dĩ vãng lòng tê tái buồn
Chấp tay xin đấng cao xanh
Trọn tình bạn cũ một lòng Thành Tâm

Bạn ta Chiến Xị Bến Tre
Có Huỳnh Văn Tỷ Ba-Ghe Kiến Hòa
Có Lực, có Tốt, có San
Trong hàng tê dại có Hoàn Ni Cô

Vịt bầu bạn Trịnh văn Minh
Tranh phần Thắng bại có Cường móc chân
Việt Nam còn có tương lai?
Miệt mài lam lũ ông Hai Rạch Ròi

Hoàng xuân Sỹ ,Vi tiến Mai
Hai bạn nổi tiếng ăn chơi đứng đầu
La thanh Bình giọng thật to
Khi hò, khi hét, thua chào Két Lăng

Trong khóa có hai bạn già
Có người bạn trẻ tên Thành Baby
Già Thìn tuổi mới dậy thì
Già Linh nghiệp dứt, chỉ vì an ninh

Châu Xẹo, Châu Ngố, Thanh Chì
Già Linh, Ái Lý, giã từ Thuỳ Dương
Thế là Huynh đệ lạc đàn
Thằng về đi Mỹ, đứa còn Nha Trang

Nguyễn Khánh tên thật của anh
Ðứng trước phạn xá xưng danh Khánh Thùy
(Cán bộ phạn xá tên Thuỳ
Có đào tên Khánh làm trong nhà bàn)

Tân khóa sinh Nguyễn văn Ðông
Là người mới nhất được sang Hoa Kỳ
Sport có Phước Mỹ Tho
Cái Bè có Phước gọi là chăn trâu

Bạn hiền ơi hết chổ chê
Giọng cười bỉ ổi tài tình Trần Quang
Tại bạn cã khóa khóc than
Ðạp chết con gián đám tang kinh hoàng

Kha, Lộc, Hải, Trọng củ sâm
Cùng nhau lũ lượt Long Thành bộ binh
Ngọc Hoàng lão tổ thiên đình
Thương đàn con dại hai hàng lệ rơi

Luông Nguyễn, cùng với Kiều Khiêm
Theo chân Tuấn, Ngọc, bay đêm chưa về
Tưởng rằng ‘dạ chiến’ dễ thôi
Ai ngờ cán bộ Nẩu chơi thiệt tình

Nhớ bạn Duy Quý, Như Tùng
Nhớ Lộc, Tịnh, Tổng, bây giờ nơi nao
Nhớ bạn Phạm Hồng, Trần Khang…
Nhớ đêm bắn súng chết dê Trưởng Ðoàn

Ðứng trước Thôn, Trấn với Hoàn
Khóa sinh Thanh Thiếc xưng danh... bò vào !
Đứng trước cán bộ dàn chào
Phạm văn Nhớ vợ, Nhớ đào, Nhớ ai?


Đi trước Minh ruộng Cần Thơ
Đi sau, Minh Ngáp, Minh Thiền, Minh Tu
Nguyễn hoài Thu bạn ở đâu ?
Tăng Ðược vương vấn nỗi sầu năm xưa

Việt Mọi xứ thượng thành danh
Trương Văn, Liêm Ðặng, thêm anh Thanh Lùn
Liêm Nguyễn, Thanh kim, Tâm gù
Bảy chàng pháo thủ, Thưởng công lẫy lừng

Ðạo Quạp giờ ở Cà Mau
Chơn, Thọ, Cợt hởi, Bạch Ðằng… mỗi nơi
Bao nhiêu năm , cuộc đôỉ đơì
Lòng ta nhớ mãi bạn ơi! Bạn Hiền

Cuối cùng kính cẩn nghiêng mình
Vinh danh các bạn đã lìa thế gian
Nguyễn hưng Quốc, Phạm ngọc Thanh
Anh hùng vì nước, vang danh muôn đời ./.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1288981657.JPG
Toán Cần Thơ chụp ảnh lưu niệm taị trại Phi Dũng TTHL/KQ Nha Trang 1972

"... Khóa 72G nhập khoá ngày 15 tháng 12 năm 1972 và được huấn nhục tại trại Phi Dũng do các SVSQ Cán Bộ đàn anh khoá 72A KPH chăm sóc. Gồm có 76 SVSQ được nhập lại từ bốn vùng chiến thuật : Saigon 14, Trung Tâm III 33 , Cần Thơ 25 và Đà Nẵng 4.

Khoá 72G đã có một số ra trường là Hoa Tiêu Trực Thăng, Hoa Tiêu Quan Sát, Hoa Tiêu A-37, và Quan Sát Viên Phi Hành... về phục vụ tại các đơn vị từ Đà Nẵng, Phù Cát, Nha Trang, Biên Hoà, Saigon, Cần Thơ… (TTT 72G)”

PS khóa 72G

hung45qs
11-08-2010, 03:06 AM
Nhất Quỷ Nhì Ma Thứ Ba...
Pilot Trực Thăng

Bài này riêng tặng những phi công trực thăng can trường của Quân lực VNCH và tất cả anh em hoa tiêu khóa 72-73. Và đặc biệt gửi đến Huỳnh Trung Tỉnh, một người bạn thân từ "miền quê hương cát trắng".


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289186515.jpg

Lời mở đầu: Trong cuộc sống của tuổi trẻ, đôi khi có những hành động ngông cuồng, thiếu suy nghĩ. Nhưng đó là bản chất của con người, nhất là trong là ở một hoàn cảnh chiến tranh, chết chóc, mà tương lai chỉ là những giây phút hiện tại.

Trong tiếng động cơ nổ ì ầm đều đặn cùng với tiếng cánh quạt gió phần phật quen thuộc của chiếc trực thăng, tôi ngồi lặng yên chiêm ngưỡng một bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời đang trải dài dưới chân. Từ cao độ bốn ngàn bộ, thành phố Nha Trang đang im lìm sưởi nắng mai bên bãi cát vàng hình vòng cung cạnh bờ đại dương bao la, bát ngát. Trên mặt biển phản chiếu ánh mặt trời, chói lọi lấp lánh như một tấm gương bạc khổng lồ, những chiếc thuyền đánh cá bé tí teo nhấp nhô hướng mũi ra khơi.

Đã hơn một tuần lễ tôi mới được ngồi lại trên căn phòng lái nhỏ bé này. Từ khi hiệp định Paris ký kết ngày 27 tháng Giêng năm 73, lệnh ngưng bắn được ban hành trên toàn cõi Việt Nam, tất cả những phi vụ hành quân, tác chiến đều bị đình chỉ. Phi vụ bị cắt giảm, giờ bay bị giới hạn, phi đoàn 215 Thần Tượng chỉ còn lại những chuyến bay liên lạc, huấn luyện hoặc linh tinh khác. Chiến trường ngưng đọng, phi đội trực thăng võ trang không còn đất để dụng võ, tôi bỗng dưng bị "thất nghiệp"... một cách bất ngờ! Suốt ngày quanh quẩn ở phòng hành quân, đấu láo, đánh cờ tướng, chơi domino, binh xập xám hay đánh bi da...Để trám vào khoảng thời gian trống trải, vô vị, tôi thường lấy những phi vụ huấn luyện để tập dợt, hay bắt vài con thú rừng đem về chia vui trong những bữa ăn nhậu cùng với anh em bạn bè.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289186809.jpg

Đã từ lâu, cuộc sống của người phi công trực thăng là gian khổ, hiểm nguy, thường xuyên đối đầu trực diện quân thù trên đầu đủ mọi loại súng rình rập con tàu chậm chạp, ăn ngủ sống chết bên quân bạn như hình với bóng ở những tiền đồn xa xôi hẻo lánh hay luôn luôn sát cánh với bộ binh trên những chiến trường đẫm máu, mạng sống như chỉ mành treo chuông. "Phi công trực thăng là lính bộ binh của Không quân"! Câu nói tuy ví von nhưng đã hàm chứa phần nào sự thật của một cuộc đời phong sương, gió bụi. Những lúc ngồi trên chiếc tàu võ trang lướt trên đầu rừng cây trùng điệp đã cho tôi cảm tưởng mình là một kỵ mã trên con ngựa sắt xông pha nơi chiến địa, hơn là một phi công tung mây lướt gió.

Tuy nhiên, sự gian khổ và hiểm nguy của cuộc sống đó, người phi công trực thăng đã được đền bù bằng nhiều giây phút ý nghĩa, đầy mầu sắc, hào hứng và thú vị. Ngoài những giờ phút rượt đuổi những tên du kích trong rừng sâu, núi thẳm, hay vẫy vùng trước họng súng của quân thù, là những ngày được dong duỗi trên khắp nẻo đường đất nước, được ngắm nhìn non sông cẩm tú, thoả chí tang bồng hồ thỉ. Sau nhiều năm dong duổi trên chiến trường, tôi càng cảm thấy yêu mê, và gần gũi con tàu chậm chạp, ầm ỉ này. Nó là một chiếc máy bay kỳ diệu, tuyệt vời!..có thể cất cánh và đáp bất cứ nơi nào, có thể đứng giữa không trung hay bay lùi lại như loài chim "humming bird". Nó là một phương tiện chuyển vận tối cần cho chiến trường rừng rú Việt Nam! Đôi khi cũng là một món đồ chơi lý tưởng cho những "cái-thằng-tôi-trực -thăng" thỏa mãn bản chất tinh nghịch, phá phách của tuổi trẻ ngông cuồng, để xoa dịu bớt những giờ phút căng thẳng trong những phi vụ đầy máu lửa.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289186707.jpg

Tôi dựa ngửa đầu trên ghế bay, hai chân duỗi thẳng trước mặt. Chiếc trực thăng rung nhẹ như ru ngủ. Tôi lim dim, mơ màng, nghĩ mệt sau một tiếng đồng hồ nhào lộn, thực tập ở bãi cát cạnh phi trường.

-Này!,..mày đang mơ mộng gì đó,..tao có mang theo cà phê đây, muốn uống không?

Tiếng nói trong "intercom" bất chợt cắt đứt dòng tư tưởng đang miên man trong đầu. Tôi quay nhìn Thành, Trung úy trong phi đội trực thăng võ trang của tôi đang ngồi trên ghế phải:

-Mơ mộng đếch gì!..đang buồn ngủ đây! Mày có mang theo cà phê thì còn chờ đợi gì nữa,..cho tao một ly đi!

-Bay đi,..để tao lấy cà phê.

Tôi ngồi thẳng dậy, cầm cần lái. Thành quay người ra sau, mở túi bay treo trên lưng ghế móc ra một bình thủy màu đỏ mở nắp rót đầy rồi đưa cho tôi. Cầm nắp bình thủy, tôi nhắp một ngụm nhỏ. Mùi cà phê nóng bốc lên mũi thơm ngào ngạt cùng với khói thuốc lá quyện bay trong căn phòng lái quen thuộc. Tôi hít mạnh vào hai buồng phổi làn gió trong lành của đại dương đang đập phần phật vào khoang tàu.

-Này Thành!..mày có thấy tụi mình được may mắn hơn nhiều người không? Cà phê thuốc lá trên tay, tự do bay lượn như cánh chim trời thế này,..mấy ai mà có được!

-Đồng ý,.. còn gì hơn nữa!..nhưng tụi mình cũng có lúc khổ còn hơn con chó, mấy ai biết! Thành trả lời.

- Mày muốn xuống đất, mang ba lô lội rừng lội suối như người lính bộ binh không? Đừng đòi hỏi nhiều quá.

-À!.. mấy hôm trước, thằng Vĩnh "gấu" đi bay về bắt được một con rùa to tổ mẹ, mày biết không? Tôi đổi đề tài.

-Không!..Có nghe nó nói gi đâu?.. Thành trả lời.

-Tao nghe kể lại, thằng Vĩnh "gấu" bay từ Phan Thiết về,..ngang Phan Rí, thấy một con rùa đang đẻ trứng trên bãi cát, nó đáp xuống "dzớt" lên. Con rùa bự lắm, hai anh mê vô xạ thủ lật không nổi con rùa! Tao chưa ăn thịt rùa, không biết có ngon không?

-Mẹ,..ăn hết xẫy! Nấu đủ kiểu! Rùa ăn ngon và mát,..rất tốt cho người bị "âm hư hỏa vượng", nghe mấy ông thầy thuốc bắc nói vậy! Cái thằng Vĩnh có con thú nào mà nó tha. Lúc biệt phái ở Phan Rang, nó dùng trực thăng rượt theo bắn một con chim ưng đang bay lượn trên trời bằng đại liên M-60. Mày không biết đâu,..hai cái cánh chim của nó xỏa ra dài cả thước. Kẹt đang biệt phái, đâu nấu nướng gì được, tụi nó liệng thùng rác. Uổng quá!

Vĩnh là một hoa tiêu trong phi đội tải quân, có một thân hình cao to, và khuôn mặt bự trên vần trán rộng nên anh em gọi là Vĩnh "gấu". Một lần đang đi trên đường phố với người bạn gái, tình cờ gặp Vĩnh, tôi giới thiệu: "Đây là Trung úy Vĩnh 'gấu', ở cùng phi đoàn với anh". Cô bạn gái quay qua nhìn tôi, rồi ngây ngô hỏi: " Hai anh cùng họ hả?.. có bà con gì với nhau không vậy?". Vốn bản tánh hiền hòa khác hẳn với hình tướng của anh, Vĩnh nhe miệng cười trả lời: "Tôi tên là Vĩnh chứ không phải là Gấu!.."

Tôi đưa ly cà phê lên miệng nhấp một ngụm nhỏ rồi nhìn Thành hỏi:

-Này Thành,..mình còn hơn cả tiếng đồng hồ để bay, tao muốn lên "Thành" kiếm con gì nhậu chơi,..mày nghĩ sao? Thành là tên gọi của quận Diên Khánh cách Nha Trang chưa tới mươi cây số. Gần đó hoa tiêu 215 thường hay bay đến để thực tập đáp trên những ngọn đồi nhỏ (pinnacle landing), lúc xưa là đồn lính của Đại hàn, nay đã bỏ trống.

Thành trả lời không một giây suy nghĩ:

- Còn chờ gì nữa!..Tao cũng đang cần đem về cho vợ tao vài con gà, con thỏ gì để nó nấu thêm cho mấy đứa con ăn đây! Con vợ tao được cái cần kiệm, lo cho con cái, nhưng với số lương lính, chẳng đủ thiếu tới đâu. Nhiều lúc thấy nó cũng tội nghiệp!..Lúc lấy tao, nó tưởng mấy anh pilot là ngon lành, phong lưu. Mày biết không!.. nhiều lúc đồ hộp phi đoàn mình phát để tao đem đi biệt phái,.. tao phải để nhà cho nó lo cho mấy đứa con.

Nghe Thành than thở, tôi hiểu ý, quay mũi tàu bay về vùng "đất hứa".

Trung úy Thành "râu" là một phi công đẹp trai, có nét tây phương, cao ráo. và rất tinh nghịch, thích săn bắn. Chưa có một loại thú rừng nào mà Thành tha mạng. Từ gà tới thỏ, nai, heo rừng, chồn, nhím...và ngay cả cọp. Riêng chỉ có một loài thú mà không bao giờ một ai trong phi đoàn tôi đụng đến, đó là Voi, biểu hiệu của phi đoàn Thần Tượng. Một lần Thành rủ tôi đi đảo Hòn Tre chơi với một ông bạn chài lưới tên Năm dẹp, có chiếc ghe con. Thành mang theo một nồi cà ri chồn vừa bắn được ngày hôm trước. Thú thật hôm đó, tôi phải ăn bánh mì không với xi dầu vì không chịu được vị khai khai của thịt chồn. Ở nhà, Thành "râu” có một hũ rượu thuốc ngâm nhung, hà nàm (bào thai) nai, bao tử nhím..v...v...để dành cho vợ uống tẩm bổ trong thời gian mang thai. Tôi rất nghi ngờ về cái hũ rượu bổ vô song mà anh thường quảng cáo, cho đến khi thấy đứa con trai anh ra đời. Bồng thằng bé mấy tháng trên tay mà tôi tưởng như đang bế một ông Phật Di Lạc con. To gấp đôi những đứa trẻ cùng trang lứa, đầu không một sợi tóc và trắng như một cục bột. Không biết có phải nhờ mẹ nó uống rượu ngâm hà nàm đó, hay nó đúng thật là một ông Phật Di Lạc vừa tái sanh?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289186624.jpg

Điếu thuốc chưa tàn trên tay, chiếc trực thăng đã đến nơi. Đây là một vùng đồng ruộng mênh mông, bỏ hoang không canh tác, nằm cạnh bìa rừng cây thấp, chạy dài từ chân núi ra tới QL-1, đoạn đường từ Nha Trang tới quận Diên Khánh. Nơi đây thường xuyên có nhiều loại thú ưa chạy ra mé rừng kiếm ăn. Tàu giảm cao độ. Từ trên cao khoảng năm bảy trăm bộ, tôi chợt thấy một con gì đang lững thửng kiếm ăn trên bãi ruộng hoang sát bìa rừng. Bất chợt Thành la to trong intercom:

- Ê,..ê,...con...con gà,..đó..đó, thấy chưa? Vừa nói Thành vừa đưa tay chỉ.

- Con công!..chứ gà gì... mà bự vậy? Để đó cho tao. Mày leo ra sau lấy túi bay sẵn sàng đi!

Nghe tôi nói, Thành không một chút thắc mắc, vội vã gỡ dây nịt bụng, lom khom chui ra sau khoang tàu.

Bắt sống công hay gà rừng là một nghệ thuật, đòi hỏi một tay lái thành thạo, kinh nghiệm trong nghề bay. Kỹ thuật này tôi đã học hỏi và thực tập khi quan sát con chim ưng săn mồi. Chiếc trực thăng đang ở cao độ khoảng năm trăm bộ, tôi đẩy cần lái, hạ cần cao độ, chúi mũi lao chiếc trực thăng xuống ngay con công đang đứng trên mặt ruộng khô. Tàu vừa cách mặt đất chừng vài chục bộ, tôi kéo mũi tàu ngửa đầu lên trời, rồi kéo nhanh cần cao độ. Chiếc trực thăng đứng khựng trên đầu con vật. Sức gió từ cánh quạt (down wash) thổi xuống đất ào ào. Đất cát, cỏ lá bay tung mù mịt. Con công lộn thùng phèo, lăn lông lốc trên mặt đất như một bao rác. Sau sàng tàu, Thành phóng xuống đất, tay xách theo túi bay, rượt theo con vật đang bị gió cuốn. Cho chiếc trực thăng sà theo con công, tiếp tục dùng sức gió không cho nó ngóc đầu dậy - đó là một động tác rất quan trọng mà tôi đã thiếu sót khi chưa có kinh nghiệm, và đã làm vuột mất nhiều con mồi. Trong đám bụi mù, cỏ lá bay tung, nhìn Thành râu đầu đội nón bay, tay cầm túi xách chạy theo vồ con công đang "cuốn theo chiều gió", bị vấp, té chúi nhủi. Đang tập trung điều khiển con tàu, tôi không nhịn được, bật cười thành tiếng! Sau vài lần vồ hụt, con công cuối cùng chui gọn vào túi bay của Thành.

Chiếc trực thăng hạ thấp xuống, chưa đụng mặt đất, Thành, tay xách túi đựng "chiến lợi phẩm", phóng lên sàn tàu nhanh như cắt. Mặt lấm tấm hồ hôi, đỏ ửng dính đầy bụi đất, Thành nhe răng cười thỏa mãn! Bỗng Thành chồm lên ghế bay, vỗ vai tôi:

- Ê!..ê,..thanh long,..thanh long! Vừa nói, Thành vừa chồm lên trên cockpit, đưa tay chỉ một tàng cây cao nhô lên khỏi đám rừng thấp trước mặt mũi tàu.

-Đâu?..đâu?...Tôi hỏi.

- Kia, kìa..., cặp tàu vào, tao hái cho. Làm luôn đi, mắc cở gì nửa! Thành nói vội vã, giọng nói kích động.

Tôi nhìn theo hướng chỉ tay của Thành, cách chừng vài trăm thước, một thân cây cao, nhô lên khỏi rừng thấp, những trái thanh long đỏ tươi nổi bật trên những cành lá xanh. Đẩy cần lái, tôi bay tới gần, đưa hông chiếc trực thăng ép sát vào tàng cây, gần những trái chín bên ngoài và ở trên cao. Gió từ cánh quạt thổi xuống ào ạt ngả nghiêng cành lá!

-Gần vào chút nữa!..chút nữa.., OK!...được rồi! Thành ngồi sát mé cửa, tay vịn vào thành tàu, thò hẳn người ra ngoài, miệng vừa nói vừa vói tay hái những trái thanh long liệng lên trên sàn. Có những trái nằm sâu vào trong cành lá, hai càng chiếc trực thăng gần như nằm lọt vào tàng cây rậm, cánh quạt quay vùn vụt chém đứt mấy cành lá văng tung tóe! Người trước, người sau, lẹ làng. Trong vòng vài phút, hơn mười mấy trái thanh long đỏ, mập ú nằm lăn lóc trên sàn tàu.

- Đủ rồi!..Thành,..Tao "dzọt" đây! Tôi la to, rồi nghiêng cánh quạt. Chiếc trực thăng tách rời khỏi tàng cây như một con ong vỗ cánh rời nhụy hoa sau khi đã hút hết mật.

Ở phía sau, Thành gom hết những trái thanh long trên sàn, thồn vào túi bay rồi leo lên cockpit ngồi vào ghế. Lấy ra một con dao nhỏ, Thành cắt làm đôi một trái xong lột vỏ đưa tôi. Tay cầm cần lái, tay đưa nửa trái thăng long lên miệng cắn một miếng thật lớn. Vị ngọt của trái cây rừng mới hái thấm vào đầu lưỡi mát rượi. Tôi chắt lưỡi:

-Ngon hết sẩy!

Miệng đang ngồm ngoàm thưởng thức hương vị đồng quê, bổng tôi nghe Thành la chói lói::

- Ê!..Heo!...Heo!...Heo!..Thành chồm về phía trước, như muốn nhảy ra khỏi ghế bay, vừa la lớn vừa chỉ xuống dưới đất.

Tôi nhìn xuống dưới bụng con tàu. Một con heo đen thui thủi, bự tướng đang lủi nhanh dưới mặt rừng thưa.

- Mẹ,..từ từ,..mày la làm tao giật cả mình!..Hôm nay mình xuất hành chắc trúng giờ tốt đó Thành! Vừa nói tôi vừa đẩy vòng vèo chiếc trực thăng trên đầu rừng cây thưa, tìm bóng dáng con thú chạy loáng thoáng dưới những bụi cây.

Thành "râu" là một trong những hoa tiêu tôi gần gũi nhất trong phi đội trực thăng võ trang. Tôi rất hiểu Thành. Hay hoảng hốt bất chợt, lại thêm cái tánh háo sát. Khi vào bay ở vùng hành quân, bất chợt gặp mấy tên du kích Việt Cộng là anh nổi cơn, hăng tiết vịt, muốn ăn tươi nuốt sống kẻ thù. Trong một phi vụ truy kích, lùng địch ở một mật khu Việt Cộng. Tôi bay chiếc trực thăng võ trang dẫn đầu, trên mặt rừng cây, tinh thần đang tập trung nhìn xuống bên dưới, trong tư thế sẵn sàng tác xạ. Đột nhiên trên tầng số có tiếng la chói lói củaThành đang bay theo sau; "Á..., Á...nó đó, bắn!...bắn!" Thần kinh đang căng thẳng, nghe tiếng la thất thanh của Thành "râu" làm tim tôi như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực! Tôi vòng con tàu trở lại. Bóng dáng của một trâu rừng đang vụt chạy biến mất vào bụi rậm, trên cao là chiếc trực thăng của Thành đang bay vòng vèo.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289187709.jpg

Một lần khác, hai đứa tôi đang đèo bồng nhau trên xe Honda trên đường Biệt Thự *, bỗng một chiếc xe Jeep do một anh Mỹ G.I phóng vụt ngang, nhanh như ăn cướp, ép sát xe Thành vào lề đường lọt xuống một ổ gà chúi nhủi, gần té. Phản ứng nhanh như một anh cao bồi bắn súng, Thành rút nhanh khẩu súng lục đeo bên hông, chỉa về phía chiếc xe Jeep liên tiếp bóp cò...giữa thanh thiên bạch nhật! Anh tài xế Mỹ quay đầu lại nhìn, rồi đạp ga phóng chạy như bị ma đuổi!
Vài câu chuyện nhỏ đã nói cá tánh của một người bạn đồng sanh, đồng tử của tôi. Anh là một trong những hoa tiêu trực thăng võ trang đã gây rất nhiều tổn thất cho quân địch trong những năm tháng phục vụ tại phi đoàn Thần Tượng.

-"Lẹ lên,..ép nó ra đồng...trống!..Đó đó!...Heo nái!..bự quá cỡ! Ép bên trong...kẻo nó chạy mất! Thành tiếp tục la to.

Bên dưới, con thú rừng đen đủi tiếp tục phóng nhanh như một mũi tên xuyên qua những bụi cây rậm rạp. Trong một động tác máy móc, tôi lái con tàu bay phía bên trong bìa rừng, ép con thú chạy ra đồng trống. Tiếng động cơ ầm ỉ trên đầu đã làm con heo hốt hoảng hướng mũi ra phía đồng ruộng. Đúng như ý tôi muốn!..
Chạy ra tới vùng đồng trống, con thú rừng càng sợ hãi, cuống cuồng lấy hết sức bình sinh phóng như bay trên mặt ruộng khô lồi lõm. Như một anh chăn bò, tôi cho con tàu bay sau lưng con heo rừng, cho nó tiếp tục chạy thẳng. Số phận con heo đen đủi, đơn độc, nổi bật giữa cánh đồng mênh mông màu vàng cháy cỏ rạ đã được định đoạt,..vấn đề còn lại là thời gian! Bao lâu nữa nó thì sẽ hết "xăng" trước khi tàu tôi hết xăng?
Nhìn con heo rừng đang phóng như điên cuồng, mắt Thành mở lớn như hai đèn pha. Có lẽ đang liên tưởng tới những món thịt heo rừng hấp dẫn mà anh sẽ chế biến như:
* Thịt heo rừng nướng (ướp ngũ vị)
* Thịt heo rừng nướng dân tộc
* Thịt heo rừng nướng chao
* Thịt heo rừng xào lăn
* Thịt heo rừng tái dấm
* Thịt heo rừng xáo măng
* Thịt heo rừng nấu rựa mận...

- Ép sát sau lưng nó,.. đừng cho nó... chạy vào bìa rừng.., cứ để cho nó chạy thẳng như vậy. Đừng cho nó quay trở lui!

- Biết rồi!...mày nín đi!..Sao mà nóng thế,..để nó cho tao! Tôi la lớn, rồi quay qua hỏi Thành:

-Trong túi bay mày có đem súng gì không?

- Đ. có!..sáng này dậy trễ, vội quá quên mẹ cây súng M-18 ở nhà!

-Tao có cây súng "rouleaux" với sáu viên đạn đây. Mẹ,..con heo rừng này, theo tao nghĩ, quá to. Sáu viên đạn rouleaux này chắc đếch làm gì được đâu!

Thành "râu", cười đưa hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đậm được cắt tỉa kỹ lưỡng.

-Thì cứ thử đi!..không được tính sau!

- OK Thành!..mày bay đi. Tao bắn. Đừng bay gần nó quá,.. nó lòn dưới bụng tàu là hết bắn được đó!

Nói xong tôi giao cần lái cho Thành. Chiếc trực thăng bay song song, sát bên con thú vẫn đang phóng hết tốc lực, miệng sủi bọt mép trắng, đưa hai cái răng nanh dài ngoằng, nhọn hoắc. Luồn tay dưới quần bay móc ra khẩu súng lục, tôi thò tay ra khỏi cửa. Con heo chạy quá gần, tôi không cần nhắm, bóp cò bắn từng phát một. Tôi thấy rõ từng cụm bụi nho nhỏ bung lên mỗi khi viên đạn chạm vào làn da đen xám. Sáu viên đạn đã ra khỏi nòng, con heo vẫn chạy! Hai đứa tôi nhìn theo,..trong bụng đánh lô tô. Nhưng không lâu! Chạy một khoảng ngắn, con heo rừng đứng khựng lại một giây, rồi hai chân sau quỵ xuống, hai chân trước chống xuống đất. Tôi đút khẩu súng hết đạn vào túi quần, giật cần lái của Thành:

- Để tao đè nó!

Cho chiếc trực thăng "hover" (đứng yên) đúng trên đầu con heo chừng một sải tay, tôi đè nhanh cần cao độ. Chiếc trực thăng rơi thẳng xuống, cái càng bên trái đè lên mình con vật khốn khổ. Con tàu mất thăng bằng, nghiêng hẳn qua bên phải chao đảo, cánh quạt đập không khí kêu phần phật như muốn chém vào mặt ruộng khô. Hết hồn!.. tôi kéo tàu vụt lên cao! Thành "râu" nhổm người trên ghế bay la lớn:

- Coi chừng!..coi chừng!...không được đâu!..coi chừng "crashed"!

Đang lấy lại thăng bằng, tôi nghe Thành nói:

-Tao thấy đằng xa kia có người đang làm ruộng. Mày bay tới đó cho tao,..tao muốn mượn cái rựa.

Không có cách nào hơn, tôi bay đến bên luống đất. Một cụ già đầu quấn khăn, đang cầm rựa phác cỏ hoang. Thành vội vàng nhảy xuống, cầm tay cụ già kéo lên tàu. Tội nghiệp ông cụ!..mặt ngơ ngác, chẳng hiểu chuyện gì đang xẩy ra. Tôi bay trở lại đậu bên con heo rừng. Thành nhảy phóc xuống đất, tay cầm cái rựa phang tới tấp trên đầu con thú rừng đã kiệt lực. Gầm gừ một lát nó ngã quỵ. Thành ngoắc ông già, hai người hì hục cố đẩy con thú lên sàn tàu. Con heo quá nặng! Tôi mở cửa nhảy xuống phụ. Con thú rừng lên tới sàn tàu. Máu me tanh tưởi hòa với mùi thú vật bốc lên mũi đến lợm giọng. Tất cả diễn tiến xảy ra tưởng dài như một "thế kỷ" như thực ra không quá mười phút đồng hồ. Cuốn phim đang chiếu với tốc độ "fast forward"!

- Bay thả ông già về chổ cũ đi! Thành ghé tai tôi hét lớn.

Chiếc trực thăng bay trở lại đám ruộng, ông cụ già lom khom nhảy xuống đất.

- Cho ông ít tiền đi! Tôi nói vói theo.

- Tiền đ. đâu mà cho!.. tao dúi ông gói thuốc Quân Tiếp Vụ mới mua rồi, mày yên chí!

Thành nói tiếp:

- Dọt lẹ đi!.. Bay lên Đồng Đế thả con heo này xuống rẫy của người quen tao,..chiều tao sẽ đi lấy!

Kéo cần cao độ, chiếc trực thăng bốc cao lên bầu trời đang còn hanh nắng. Tôi nhìn Thành đang lúi húi cột "seatbelt":

- Mày làm cái gì thì làm,..nhưng nhớ lấy cho tao một cái nanh heo nghe!

Cho tàu bình phi, tôi nghĩ xả hơi, móc thuốc ra hút. Điếu thuốc run rẩy trên hai ngón tay, tôi rít một hơi dài, phà vào căn phòng lái, đầu óc vẫn còn căng thẳng như vừa thi hành xong một phi vụ rức tim trên vùng hỏa tuyến. Có tiếng sột soạt sau lưng. Con công đang quẩy mạnh trong túi bay móc sau lưng ghế. Tôi mỉm cười, liên tưởng tới bữa nhậu "hoa đồng cỏ nội", khoảng đãi mấy thằng bạn trong phi đội võ trang, những phi công cảm tử trên chiến trường dậy sóng...

Tháng tư, ngày18 năm 2010
Vĩnh Hiếu

hung45qs
11-09-2010, 08:51 PM
Những Cánh Chim Non

(Những chi tiết và tên nhân vật đều có thật, và người viết cố gắng diễn tả đúng và trung thực... những ngày học bay của mình.)

Sáng hôm nay, sau khi thức dậy, nhìn ra ngoài đường, cả thành phố Portland
bị bao phủ một lớp đá dầy, ngoài đường đóng băng không ai đi được, ngồi đây xem đi xem lại video clip của chiếc Trực Thăng bị nạn rớt xuống biển, và truyện của một người Phi Công khu trục bị bắn rơi, tự nhiên tôi cảm thấy buồn và thương cho những Anh Hùng vắn số, could've been me!...trời ơi tội nghiệp quá! Đã hơn ba mươi năm rồi tôi còn nhớ rỏ như ngày hôm qua.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289334994.JPG

Cuộc đời bay bổng của tôi lận đận vô cùng. Những ngày đầu học bay Cessna T-41 là những ngày đau khổ nhất của cuộc đời tôi. Mấy lần bay đầu tiên liên tiếp tôi bị ói. Và khi bị ói thì mệt và chóng mặt, như vậy thì làm sao học bay được nữa? Vì quá lo lắng nên hễ nghe đến đi bay là mặt mày tôi xanh lè xanh lét, bao tử tôi đau và sôi lên.

Sau mấy tuần học bay, khoá 75-02 bắt đầu solo… Nhưng tôi thì vẩn còn bay straight and level (bình phi). Khi Thầy tôi bắt đầu chỉ dẩn cách làm những động tác khó như quẹo gắt (steep bank turn) hoặc triệt nâng (stall), mỗi lần như vậy là tôi chuẩn bị bao ni lông để ói thay vì ngồi chăm chú nhìn và lắng tai nghe Thầy chỉ dẫn.

Những ngày ở Căn Cứ Không Quân Medina thật là buồn bã. Vì bay bị khó khăn trong khi tập luyện nên tôi thường hay đi theo nhóm Na, Nhuận, Trường, Bảo, Vinh… Các bạn này đã rớt bay và đang nằm nhà binh xập xám trong lúc chờ tài khoá đi học Kiểm soát Không lưu, hoặc những ngành cơ khí v.v… ở những căn cứ Không Quân khác.

Còn Trời còn đất còn mây nước
Chẳng lẽ ta U mãi thế này?
(thơ KQ)

Việc gì đến sẽ đến, khi một khoá sinh phi công (student pilot) bị 3 chữ U (unsatisfactory) thì bị loại ra khỏi khóa bay. Thầy dạy lái máy bay T-41 của tôi còn rất trẻ. Ông có 3 đứa học trò : tôi, Thức, và Tiến, lúc đó khóa 75-02 quá đông nên lớp tôi chia làm hai nhóm. Một nhóm đi xe bus đến Tincan Field và nhóm tôi đi xe bus đến Hondo Field. Thường thì tôi bay với Thầy trước, ra vùng thực tập rồi bay về đáp ở Tincan. Mỗi lần về đến Tincan là Tiến phải lau tàu, vì khi ói tôi chụp bao ny lông không kịp nên văng đầy trên đông hồ phi cụ và trên sàn tàu! Thằng Tiến vừa lau vừa chửi thề vì cái mùi tanh khó chịu trong phòng lái (cockpit). Mỗi lần Tiến về đến Medina là nó chửi tôi thậm tệ, không còn chữ gì để diễn tả cái bực mình của nó, vì đáng lẽ tôi phải ở lại để tiếp nó và Thầy lau chùi tàu… nhưng xe bus và các bạn đang chờ để về căn cứ.

Những lần Thầy tôi biểu diễn cách làm stall (triệt nâng), kéo cần lái lên để máy bay vọt lên thẳng đứng, rồi cắt tay ga, chân trái đạp bánh lái (rudder)… Máy bay không còn đủ sức bay lên vì hết ga (power) nên cắm đầu rớt xuống như cục gạch thì làm sao tôi chịu nổi ? Tôi buồn nôn và ói ra liền, chụp bao ói không kịp trong lúc máy bay đâm nhào xuống.

Những đứa đã solo (bay một mình) bắt đầu chuẩn bị xếp va li đi qua trường bay phản lực. Lòng tôi buồn vô hạn. Hằng ngày ở Medina tôi ghé thăm Vũ Nam Nhuận ngồi nói dóc, than thở ngậm ngùi cho số phận của mình. Lâu lâu lại theo Nguyễn Na đánh bài, vì tôi sắp bị Thầy cho nghỉ bay để chờ đi học ngành khác !

Thầy của tôi chẳng màng gì đến tôi vì ông biết rằng chắc chắn, và không sớm thì muộn là tôi sẽ bị loại ra khỏi ngành bay. Bạn cùng lớp thì Thầy cho điểm E (excellent), hoặc G (good), tôi thì chữ F (fair) và chữ U (unsatisfactory). Cuối cùng Ông không bay với tôi nữa vì ông nói tôi thiếu khả năng bay. Tôi phải đi kiểm tra khả năng bay (checkride) với Ông Volander, Trưởng phòng huấn luyện.

Những ngày đầu tháng 12 năm 73 gió lạnh, thời tiết bắt đầu xấu và có gió nhiều. Thường thường khi Thầy đã từ chối bay với học trò và cho chữ U, thì Ông Thầy Trưởng ngành huấn luyện chắc chắn sẽ cho chữ U kế tiếp. Tôi hồi hộp và lo lắng khi đi bay với Ông Volander, trong đầu lúc nào tôi cũng nghĩ rằng cuộc đời bay bổng của mình sẽ chấm dứt từ đây ! Bay chỉ có một vòng chung quanh phi trường (traffic pattern), rồi đáp xuống… Ông Volander bảo tôi phải tự đáp một mình. Tôi run lẩy bẩy cầm cần lái. Thầy tôi có bao giờ dạy cho tôi đáp một mình đâu ? Cắn răng chịu đựng, tôi từ từ vào Cận Tiến (final approach). Mặt đất dâng lên thật nhanh, quá sợ tôi kéo cần lái thật mạnh, con tàu bay ngóc lên, rồi ập xuống, nó nhảy như con cóc và chút xíu nữa thì ra cỏ !

Mặt Ông đỏ lòm như người say rượu. Ông hét lên :
“No...No… That's it, I have the air craft” (Đưa cần lái cho tôi ngay ! Anh ngồi đó để tôi bay !).
Trong bụng tôi nghĩ... mới bay có một vòng chưa đầy 20 phút tại sao lại ngưng ? Như vậy thì Ông sẽ cho thêm một chữ U nữa rồi ! Lại thêm một cái đinh đóng vào quan tài ! (one more nail in the coffin) Ôi từ đây tôi sẽ vẫy tay từ giã cuộc đời bay bổng… của tôi. Con đường taxi vào sân đậu máy bay sao mà dài quá ! Mặt tôi buồn rầu, nghĩ đến tương lai mà nước mắt rưng rưng... Nhìn qua Ông Volander mặt lạnh như tiền, không nói một câu.

Ôi Không Gian giờ đây ta mới biết
Mộng mây trời đã giết chết cuộc đời ta
Hối hận ư .?...thôi đã muộn rồi
Tôi thèm khát một khung trời thoải mái
(thơ KQ)

Đang ngồi nhìn ra bầu trời xám ngắt, nghĩ đến những ngày đi theo thằng Na, thằng Nhuận. Hai thằng này bán trời không mời thiên lôi, một lời nói ra là thiên hạ cười bể bụng, rất ma giáo, nhưng lúc nào cũng tốt với ban bè, ai bị nạn hoặc có vấn đề gì… đều sẵn sàng quên mình giúp bạn. Cho đến bây giờ 30 năm sau vẫn vậy.

Ít nhất mình cũng được an ủi một phần nào, thôi thì theo hai thằng này coi bộ vui nha ! Pha cà phê và đi mua thuốc lá cho nó hút, giặt đồ dùm nó, bù lại nó dắt mình đi chơi thăm mấy em "xì" ở dưới Down Town, ngày ngày có những trận cười bể bụng… Như vậy cũng vui rồi...

Đang theo dõi những dòng tư tưởng … Tự dưng chiếc máy bay thắng thật gấp, chút xíu nữa là đầu tôi đụng vào bảng đồng hồ phi cụ (instrument panel)... Ông Volander nói như hét
“I am getting out.. good luck!” (Tôi đi ra khỏi phi cơ đây ! Chúc anh may mắn !)
Chưa kịp nói gì thì Ông đã đóng cửa và bước ra ngoài, thả tôi bay solo…


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335063.JPG

Những chuyến bay đầu tiên ngày nào tôi cũng bị ói, lúc nào tôi cũng mệt nhoài, chóng mặt nên chẳng học được gì. Thầy của tôi cũng chẳng muốn tập dợt cho tôi đáp (landing) hoặc những động tác điều khiển khác. Thôi thì đến nước này rồi thì một liều ba bảy cũng liều… Đã cỡi cọp rồi thì bây giờ biết làm sao ? Cất cánh thì dễ rồi, nhưng làm sao mà đáp xuống an toàn ? .Đường bay chung quanh phi trường để vào đáp, và động tác điều khiển máy bay thì quờ quạng, đồng hồ phi cụ cả chục cái nhìn làm sao hết ? Chết rồi... !

Bây giờ không lẽ chạy vô bến đậu và từ chối solo (bay một mình không có Thầy ngồi bên cạnh) ? Như vậy làm sao sống nổi với sự cười chê của bạn bè, nhất là hai cái miệng của thằng Nhuận và Na ? Các bạn Không Quân ở Lackland và Medina sẽ chê mình là gà chết, tiếng đồn nhanh như điện xẹt, có nước mà đi xứ khác làm ăn ! Tôi một mình taxi ra phi đạo , gọi đài xin take off clearance (cho phép cất cánh), đẩy tay ga (power) 100% và cất cánh bay lên, làm một vòng bay trên phi trường...

Thánh nhân đãi kẻ khù khờ. Cuộc đời cũng có lúc hên ! Gió ngang thật mạnh ! Thời tiết đột ngột thay đổi, đài bảo tất cả máy bay về đáp vì gió lớn. Đang lo âu không biết mình làm sao xuống ? Các động tác phương pháp điều khiển máy bay (Procedures)… tất cả lộn xộn trong đầu. Thôi thì vô cận tiến (final approach) rồi tính... Trên đầu phi đạo (landing threshold) tôi giảm ga, con tàu từ từ đáp xuống thật chậm.
Ầm ...Con tàu chạm đất bằng ba bánh, nhảy lên thêm vài lần nữa rồi chạy chậm dần trên phi đạo… Thế là tôi đã đáp xuống an toàn. Hú hồn hú vía !

Muốn tiếp tục học lên giai đoạn phản lực, khoá sinh (student pilot) phải solo và đáp 3 lần. Nhưng hôm đó trời gió lớn, nên tôi đáp được có một lần, vậy là tôi solo ! Đó là điều kiện để tiếp tục giai đoạn kế tiếp.

HA HA HA ! Con đường trở thành Phi công Phản lực thênh thang rộng mở từ đây.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335140.JPG

Đến căn cứ Không Quân Sheppard, thành phố Wichita Falls, Texas, mọi thứ đều mới lạ. Thiếu Tá Tạ hòa Hưởng như con Đại Bàng dang đôi cánh rộng chào đón những con chim non mới đến. Vẻ mặt Ông nghiêm nghị, người cao, ốm đen như người của sắt thép làm ai cũng kính nể.

Noel 1973, Sheppard chào đón lớp 75-02 bằng một bữa tiệc linh đình. Thiếu Tá Hưởng mở màn buổi tiệc tất niên ở Officer Club bằng môt khiêu vũ với một người con gái đẹp Việt Nam duy nhất trong buổi dạ vũ, Nga. Nàng Tiên này là Tiếp viên phi hành (Airline stewardess) ghé ngang thành phố Wichita Falls Texas để thăm người yêu, một khoá sinh tên Mến đang thụ huấn tại đây. Sau này tôi đinh cư ở Portland và gặp lại cô Nga năm xưa... Tôi có nhắc đến bài khiêu vũ đầu tiên của cô và Thiếu Tá Hưởng. Cô Nga xinh đẹp ngày nào bây giờ đã có chồng... Mỹ, tên Jones. Còn chàng Phi Công phản lực đẹp trai hào hùng và độc đáo năm xưa có lẽ bị đi học tập mút mùa tại một nơi rừng rú xa xôi nào đó ở Việt Nam.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335207.JPG

Những ngày học nhảy dù đã xong, không ai bị què chân gẫy gọng, phòng cao độ là chuyện nhỏ. Bây giờ đến trường bay, những chiếc phản lực cơ T-37 và
T-38 huấn luyện lên xuống gầm thét liên hồi... Trước căn cứ có bảng đề chữ thật lớn, và vẽ hai chiếc phản lực hợp đoàn bay lên...............ROARING TO THE FUTURE...............( GẦM THÉT ĐỂ TIẾN ĐẾN TƯƠNG LAI )


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335275.JPG

Những ngày đầu khóa tôi đến Flightline nhận dù, mặt nạ chụp vào mũi và miệng để thở khí oxy (oxygen mask) và nón bay (helmet)... Đang loay hoay trong phòng dù thì Trịnh Khanh, trước tôi một lớp vừa đi bay về, đầu tóc bờm xờm, mặt mày xanh lè và nhăn nhó như con khỉ. Chắc hôm nay thằng Khanh bay quờ quạng nên bị thầy uýnh ! Khi thấy tụi tôi vui vẻ cười nói ngắm nghía nón bay, nên hắn quạu quọ và phán cho tui tôi một câu :
_ Đ. m. Không có sướng đâu con ơi ! Đeo mõm chó vô thì đời của mấy con tàn rồi... !
Có lẽ còn chưa hả dạ, sau khi ra khỏi phòng dù, Trịnh Khanh còn ngoái đầu lại bực dọc :
Đ. m.. cười cho đã đi con, tuần sau tụi mày sẽ biết!

Đúng như lời Khanh tiên đoán... Những ngày đau khổ của tôi lại diễn ra Tôi bi ói 7, 8 phi vụ liên tiếp. Ngày nào cũng ói ra tàu, có lúc giật mask ra không kịp tôi ói luôn vào mask .Sau khi bay tôi phải rửa tàu, rửa mask… Tôi phải dùng tăm xỉa răng để lấy từng hạt cơm, vì trong mask có những lỗ rất nhỏ để liên lạc vô tuyến, người pilot khi liên lạc vói đài phải nói vào trong mask (mặt nạ). Và mask cũng là dây để thở oxygen.

Lúc ấy Texas là mùa đông, Wichita Falls có tuyết, lần đầu tiên trong bao nhiêu năm. Tôi phải xách từng sô nước đi bộ từ Flight Line đến chổ đậu máy bay rất xa. Ngồi trong phòng lái (cockpit), tôi cặm cụi lau tàu… Lau từng đồng hồ phi cụ. Bàn tay tôi lạnh cóng. Lâu lâu tôi lại ngừng tay nhìn ra ngoài thấy bạn bè mình đi ngang với Thầy nói cười vui vẻ...


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335320.JPG

Trời ơi ! Tôi thèm được như mọi người… Tôi thèm được thầy tôi yêu mến...Tôi hoàn toàn thua kém bạn bè về nhiều mặt, nhất là kiểm soát tiền phi (Pre-flight check). Đào Công Chánh hết lòng giúp đỡ tôi để theo kịp bạn bè cùng lớp. Thầy tôi đối với tôi lạnh nhạt, chỉ chờ cơ hội để ‘dứt chỉ’ thằng con. Một là chuyển cho tôi đi qua Thầy khác, hoặc hai là… đánh rớt tôi. Tôi cô đơn. Trong lớp tôi là con vịt đẹt chỉ chờ ngày để tế thần ! Tôi mơ ước hình ảnh oai hùng của người Phi công Phản lực, của Thiếu Tá Tạ Hòa Hưởng... oai phong lẫm liệt đứng trước hàng quân !

Bây giờ thằng Nhuận, thằng Na đã đi xa. Nhuận và Bảo đi Mather học C-130 Navigator, Na đi Tyndall học Kiểm soát không lưu, còn ai đâu mà nghe tôi kể lể
những khó khăn của tôi ?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335374.JPG

Thầy tôi không còn bay với tôi, và chuẩn bị thả thằng học trò duy nhất Trần văn Ngôn 72C solo. Tôi là đứa con lạc loài ! Những Thầy lớp khác khi cần giờ bay huấn luyện thì xuống M Flight để bay với tôi. Họ đâu cần biết thằng học trò này cần tập dợt những động tác nào để mà dạy ?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335424.JPG

Rồi khóa tôi chuẩn bị solo. Phạm Kim Ngôn 72 E và Dũng "lia chia" 72C solo đầu tiên. Và lần lượt đến mọi người… Khi Thầy thả solo, thì Thầy rất hãnh diện vì mình đã thành công trong việc dạy học trò mình. Đã đến lúc tôi phải solo để theo kịp ban bè cùng khóa, hoặc là nằm nhà chờ đi học ngành khác, hoặc về Bộ Binh Long Thành…

Thầy của Phạm Kim Ngôn là Richard Karch, một người đẹp trai cao lớn tính tình hiền hậu và rất cởi mở. Ông đi bay với tôi được hai lần. Ông rảnh rỗi vì chỉ có một học trò. Học trò của Ông có khiếu bay nên Ông cũng rất hãnh diện.

Tôi đã đi bay với Lt. Karch. Ý tưởng solo cũng chẳng đến với tôi vì tôi biết khả năng của mình. Và đâu có ai ngu dại gì thả solo một đứa học trò mà mình chưa biết khả năng của nó ? Lỡ nó đập tàu thì sao ???Ai sẽ thả tôi solo ?

Hôm đó tôi không ra ngoài vùng nửa mà thực tập đáp ở phi trường (traffic pattern). Đáp được hai lần tạm được. Thầy Karch ngừng, và chạy vào bến đậu. Ông bảo tôi mở canopy ra và nhỏ nhẹ nói với tôi : Chúc may mắn (good luck !) và leo ra ngoài.
Vẻ mặt Ông rất lo âu, và Ông cười đau khổ :
_ Will I lose this wing ??? ( Anh có làm tôi có bị mất cánh bay không ? )Ông chỉ vào cánh bay của Ông trên ngực áo, và vẫy tay tạm biệt. Khi Thầy thả solo... nếu học trò "đập tàu" thì Thầy sẽ bị mất cánh bay.
Tôi Taxi ra phi đạo, và cất cánh bay lên. Tiếng động cơ phản lực gầm hú vang trời như hỏa tiễn phóng về phía trước. Bay vòng đầu, trên cao độ 2000 feet, vận tốc (air
speed) 200 knots…


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335474.JPG

Tôi bay lệch lạc và không thẳng đường trên phi đao. Thức dặn dò tôi hoài, dễ ẹt, mày cứ để "thằng nhỏ" của mày trên Phi đạo là mày sẽ bay thẳng băng. Lần đầu tiên trong đời solo phản lực, tôi ra mồ hôi như tắm. Ướt đẫm áo bay, cố gắng nhớ những gì Thầy và Thức đã dặn dò : "Thằng nhỏ" trên phi đạo, cao độ 2000 feet… Cánh trái ngang với đài kiểm soát không lưu (control tower), 60% tay ga… Nghiêng cánh 60 độ quẹo gắt về bên trái để vào inside down wind, kéo stick lên để khỏi mất cao độ…

Tôi mãi nhìn đồng hồ phi cụ (air speed indicator. altitude indicator) và đài kiểm soát mà quên đi điều quan trọng nhất là trước khi quẹo gắt (pitched out) phải... clear... clear... clear. Khi quẹo phải nhìn xem có ai bay gần mình không?

Sau khi quẹo quay vòng thật gắt 180 độ và lấy lại thăng bằng, tôi thấy hai chiếc phi cơ phản lực bay hợp đoàn (formation) ngay trước mặt. Khoảng cách rất gần giống như bạn lái xe trên đường xa lộ cao tốc (freeway). Nếu lái xe thì tôi đã nhẹ nhàng đạp thằng và từ từ cách xa xe đằng trước. Nhưng trên trời máy bay phản lực jet plane bay rất nhanh làm sao mà thắng? Trong khoảng tích tắc, tôi nghe tiếng la trong máy:
_ Formation number two breaking out for spacing (Hợp đoàn chiếc số hai bay thẳng lên cao độ 3000 bộ để tránh tai nạn.)


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335530.JPG

Chiếc formation number 2 bắn như pháo thăng thiên lên 3000 feet. Chiếc hợp đoàn số một quẹo trái vào vòng đáp cận tiến. Trong lúc lo sợ đó, tôi đã quên bỏ bánh đáp !
Lúc đó tôi phải quẹo vào vòng đáp cuối cùng, và vào cận tiến. Tôi nhắm vào cuối phi đạo và chuẩn bị hạ cánh. Tôi nghe tiếng la thất thanh trong máy :
_ Final approach go around. (Phi cơ đang vào cận tiến không được phép đáp. Phải bay lên và làm vòng đáp khác.)

Lúc đó chiếc hợp đoàn số một đã ở trên đầu phi đạo (landing threshold) và sắp chạm đất (touch down).Tôi đang ở vị trí cận tiến (final approach) trên cao độ khoảng 300 feet và thấy rỏ chiếc hợp đoàn số một (formation #1). Tôi thầm nghĩ, tại sao tên Pilot của con tàu trước mình không nghe lệnh của đài và bay lên để làm lại một vòng đáp khác vậy cà ? Hay là nó ngủ quên nên không nghe đài nói ?

Chiếc hợp đoàn số một (formation number 1) đã đáp và đang quẹo vào bến đậu máy bay. Tôi lại nghe đài, lần này la lớn hơn :
_ Go around, Go around ! (Không được đáp, làm vòng đáp khác.)
Lúc đó tôi thấy chỉ có một mình tôi đang vào cận tiến (final approach) ! Ngay lập tức tôi đẩy tay ga 100%, ấn hết tay ga… Tiếng phản lực gầm rú vang trời. Thay vì vào đáp, con tàu phóng thẳng về phía trước…
Khi đẩy tay ga, tôi lấy tay đấy tay điều khiển nâng bánh đáp lên. Nhưng, trời ơi ! Cần điều khiển bánh đáp (gear) đã nằm ở vị trí khoá (lock) rồi !Tức là tôi chưa bỏ bánh đáp xuống ! Khi làm xong vòng quẹo gắt và thấy 2 chiếc hợp đoàn phản lực, tôi đã sợ quá mà quên bỏ bánh đáp !.Đáp bụng thì đi đời nhà ma.
Lúc đó Thức đang trực ở nhà nhỏ cuối phi đạo. Sau này khi gặp lại ở Flight line Thức nói với tôi là chút nữa là họ bắn flares ra phi đạo để báo cho tôi biết là đừng có đáp vì không thấy bánh đáp ở dưới bụng máy bay.
Trên đường đi vào Flight line tôi vừa buồn vừa sợ. Ước chi có phép nhiệm mầu nào đó để tôi biến đi, cho tôi tan vào hư không để khỏi nghe tiếng cười chế nhạo của bạn bè và không gặp lại người Thầy đã thả mình solo !


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335657.JPG

Mọi việc theo thời gian trôi mau. Tôi đã quen dần với con chim sắt, từ lúc đó tôi không bị ói, tôi được chuyển qua Thầy mới. Ông hết lòng giúp đỡ tôi và tôi là học trò duy nhất của Ông. Những giai đoạn kế tiếp, ngày đêm chuyên cần luyện tập, việc học bay dần dần trở nên dễ dàng với tôi. Bay trong thời tiết mây mù, bay hợp đoàn với ba chiếc hoặc bốn chiếc phản lực cơ, hoặc bay lật ngửa và nhào lộn tôi không còn thấy khó khăn nữa. Tôi cố gắng hết sức mình, nhất là với sự giúp đỡ của bạn bè và những khóa đàn anh, tôi đã vượt qua bao sự khó khăn.

Mỗi lần check ride tôi đều được thuận buồm xuôi gió và không bị khó khăn như những ngày đầu học bay, trước sự ngạc nhiên của bạn bè cùng khóa. Có nhiều bạn không tin và cho rằng tôi nuốt phải ruồi ở 20 ngàn feet. Những ngày chuẩn bị ra trường gần đến. Mọc đủ lông đủ cánh... làm chim Đai Bàng. Tiền thưởng hơn hai ngàn đô la.

Tiền đầy trong túi, sòng bài lại được lập ra... nhưng thằng Na đã học xong và về nước rồi. Thiếu Uý Na lúc đó đã về Pleiku hay Đà Nẵng... lấy ai dạy tôi đánh bài
đây?


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335708.JPG

Rồi một tin đồn được tung ra : Bắt đầu từ khóa tôi tất cả sẽ được tiếp tục bay T-38, và F-5 E. Nguồn tin này ai cũng tin tưởng chắc chắn là đúng vì mấy tháng trước nửa lớp 74-09 va 75-01 đã bắt đầu tiếp tục huấn luyện T-38 tại căn cứ Webb Air Force Base. Như vậy thì đời tôi lên hương quá cỡ rồi. (Tôi lại lầm thầm trong bụng : hi vọng lần này lên T-38 va F-5 E không bị ói nữa, hihihihi!)
Nhưng, than ôi ! Phước bất trùng lai... họa vô đơn chí !
Trái với niềm hi vọng của mọi người, toàn khóa 75-02 được lệnh phải về nước bay chiến dấu, vì tình hình quá sôi động ở quê nhà. Việt Cộng đã bắt đầu tấn công vào các Tỉnh miền Trung.

16 Cadets và 1 SQ Đà Lạt (Trung Uý Nguyễn đắc Trung ) đã được gắn cánh bay phản lực ngày 6, tháng 9, năm 1974, Tất cả được gắn cánh bay (United States Air Force Silver Wings) và lên đường về nước ngày 12 tháng 9 năm 1974.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289335766.JPG

Bảo Quốc Trấn Không...Thề Trung Thành với Tổ Quốc.....lúc nào cũng văng vẳng bên tai của những chàng Phi Công Nước Việt
.
30 tháng Tư năm 1975...Đứt phim ...
Đàn chim 75-02 tan tác bay đi, Hai đứa đã đi thành lập phi đoàn bên kia thế giới, mấy đứa học tập mút mùa, đi HO qua đây lại bệnh tật yếu đau vì những năm tháng dài trong trại học tập, những đứa ở lại Việt Nam cuộc đời bấp bênh, nghèo đói, bán cà phê vỉa hè, hoặc đạp cyclo sống tạm qua ngày. Tôi bây giờ không sợ bị ói nữa, nhưng những lo sợ khác lại đến với tôi... Tôi sợ không làm tròn nhiệm vụ để giúp đỡ bạn bè…cho đúng với tình nghĩa Không Quân…

"Không bỏ Anh Em... Không bỏ bạn bè"

Bebau

hung45qs
11-11-2010, 06:52 AM
Những Giòng Ký Ức


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289459650.jpg

Quyên ngồi yên lặng bên cửa sổ nhìn ra ngoài trời; tuyết vẫn rơi mỗi lúc một nhiều hơn. Cả đất trời như đang chìm trong một màu trắng mênh mang, lạnh ngắt. Những bông tuyết bay bay rồi đậu lại trên các nhánh cây khô làm nên từng cụm hoa trắng tinh khôi. Từng giây, từng phút, tuyết cứ phủ dày lên bao mái nhà, bao đồi cỏ một màu trắng xóa đến não lòng người. Tuyết đẹp chỉ để ngắm nhìn, nhưng tuyết gợi buồn quá, cứ mỗi một bông tuyết rơi lại một nỗi nhớ mông lung, rời rạc dậy lên trong ký ức Quyên. Những ngày thơ ấu nào đã rất xa, rồi những ngày bắt đầu làm người lớn, biết cảm xúc với thiên nhiên, biết cười bằng ánh mắt, biết mơ mộng về con tim, biết hát những bài tình ca và biết vần vơ nhung nhớ…một người…một người từ lúc là thư sinh cho đến khi anh vào lính. Rồi một ngày, tình cờ gặp anh trở về từ trại tù cải tạo; tàn tạ, khập khễnh với vết thương bên chân phải, chứng tích của sự trốn thoát tù tội. Nỗi vui mừng chứa chan nhiều nước mắt, hạnh phúc được gặp nhau chưa nói hết lời, và nụ cười chưa trọn vẹn. Anh lại ra đi, lại biệt tăm tông tích. Dù năm tháng đã quá xa, anh vẫn là anh đó, một người quen, một người bạn, một người yêu nhưng không đã là yêu. Anh đi, anh đến cũng như một huyền thoại trong lòng Quyên để cho Quyên bao mong nhớ, khắc khoải, chờ đợi, ngập buồn lên đôi mắt. Tuyết cứ rơi và lòng Quyên cứ nhớ, nỗi nhớ cứ dày theo từng hàng tuyết phủ lên giòng ký ức nặng nề, xa vắng…

Sau biến cố lịch sử đau thương xuân 68, lúc ấy Quyên chỉ mới lên mười. Tình hình kinh tế trong gia đình Quyên bắt đầu đi xuống, vật giá leo thang, tiền lương của một sĩ quan biệt phái cấp úy như bố không đủ chi tiêu. Mẹ lại vừa sinh thêm em bé trai thứ tám, không thể mướn người làm, nên là con gái lớn trong nhà, Quyên phải gánh vác một phần công việc nội trợ để giúp mẹ. Khi bố mở lớp dạy kèm luyện thi tú tài toàn phần ban toán tại nhà sau giờ làm việc thì cũng là lúc anh xuất hiện. Trong số khoảng bốn, năm anh học trò đến học, chỉ có mỗi mình anh là hay nhìn Quyên mỉm cười, đôi khi anh còn cho Quyên kẹo nữa. Những hôm anh đến sớm nộp bài tập cho bố chấm, anh không hề ngồi tại bàn học để theo dõi bài sửa mà thường đến chỗ Quyên ngồi trông em nói chuyện, lần đầu anh hỏi Quyên: “ Em tên gì vậy?”, lần sau thì: “ Em học lớp mấy? Trường nào?” Có lần Quyên đang đút cơm cho đứa em trai thứ bảy, thằng bé được mười lăm tháng. Hôm đó, nó rất khó chịu không muốn ăn, cứ khóc và lắc đầu nguầy nguậy. Tưởng em đòi bế, Quyên xốc nách nó trên tay dỗ dành nhưng nó vẫn khóc tức tưởi, nó nắm tóc Quyên rồi ngả đầu ra phía sau gào to giận dỗi. Nó giẫy cái chân rất mạnh làm Quyên mất thăng bằng chao đảo rồi té. Ngay lúc ấy, Quyên cảm thấy như có bàn tay ai đó đã chụp lấy hai chị em Quyên từ phía sau. Lúc hoàn hồn lại, Quyên mới biết đó là bàn tay trợ giúp của anh học trò lơ đãng. Quyên nhìn anh bằng ánh mắt nửa biết ơn, nửa xấu hổ. Có lẽ tiếng em bé khóc đã làm anh phân tâm ngó ra ngoài sân, Quyên nghĩ chắc anh học dở lắm mới phải đi học thêm, đã thế sao thấy anh chẳng chú ý gì tới bài giảng của bố, cứ ngồi cười hoài trông anh điên điên làm sao. Một hôm, Quyên than phiền với mẹ rằng: “Bố có anh học trò kỳ cục quá, cứ nhìn con cười hoài.” Mẹ đã mắng Quyên: “ Ơ hay, mày không nhìn người ta làm sao mày biết người ta nhìn mày.” Quyên ngập ngừng không biết trả lời sao, mẹ nói thêm: “ Này, con hãy còn bé lắm nhé, đừng có nhìn ai vớ vẩn mà bị thôi miên đấy, lại coi chừng bị bắt cóc nữa , thời buổi loạn lạc này, đàn ông, con trai tuổi nào cũng đáng sợ.” Quyên hỏi mẹ: “Thôi miên là gì hả mẹ?” Mẹ nói: “Thôi miên là khi hai nguời nhìn nhau như bị bỏ bùa mê, tốt hơn hết là con không nên nhìn ai lâu nghe chưa?” Quyên chẳng hiểu hết lời mẹ dặn, nhưng nghe đến chữ bùa mê và bắt cóc thì tự nhiên Quyên thấy sợ anh thật. Những lần sau anh đến học, Quyên hay bế em trốn dưới bếp, rồi khi em khóc quá lại phải bế nó đi ngang qua phòng bố dạy học để ra ngoài sân dỗ em, để cho anh có dịp lơ đãng nhìn chị em Quyên chơi. Nhớ đến lời mẹ, Quyên nhất định không nhìn anh chàng điên này một phút nào, kể cả những lúc anh lân la đến nói chuyện với Quyên. Anh hỏi gì, Quyên cũng không nói. Tuy nhiên, thỉnh thoảng những viên kẹo anh cho như một lời giảng hoà kín đáo làm Quyên cảm thấy anh cũng không đến nỗi điên lắm.

Một năm sau, trước ngày bố thuyên chuyển lên Đalạt làm việc. Anh đột ngột đến thăm bố với món quà nhỏ. Anh cho bố biết là anh đã đậu tú tài toàn phần hạng ưu năm ngoái, dự định sẽ nhập ngũ. Bố rất vui và có ý khuyên anh với bằng tú tài toàn phần nên thi vào Võ bị Đà Lạt, nếu anh thích đời binh nghiệp. Anh tủm tỉm cười tiết lộ rằng: “ Thưa thật với thầy là em đã vào không quân cũng từ năm ngoái, và đang được huấn luyện ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân NhaTrang gần năm nay rồi. Em cũng vừa may mắn trúng tuyển kỳ thi khoá học bay ở Mỹ. Chắc khoảng hơn hai tháng nữa em sẽ rời Việt Nam.” Anh đã cho bố sự ngạc nhiên và khâm phục đến độ bố buột miệng: “ A, cậu này giỏi thật, giỏi thật”. Lần đó anh có vẻ tự nhiên hơn với chị em Quyên, anh cho các em Quyên rất nhiều kẹo bánh và anh cho Quyên một cái kẹp tóc bằng đồi mồi. Lúc chào tạm biệt bố ra về, anh không quên quay lại cười với Quyên và nói : “ Khi nào tóc em dài nhớ kẹp tóc bằng kẹp đồi mồi nhé!” Đó là lần cuối cùng gặp anh trong thời thơ ấu của Quyên, cái vóc dáng thư sinh cao, gầy, đôi mắt sáng tràn đầy tự tin. Nụ cười vui mang nhiều hoài bão. Quyên bâng quơ nhìn theo bóng anh khuất sau giàn bông giấy trước hiên nhà.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289459724.jpg

Vài tháng sau, bố thu xếp cho cả nhà dọn lên Đà Lạt, chị em Quyên háo hức được đi máy bay và đổi nhà mới. Cũng trong năm đó, bố được thăng cấp bậc thiếu tá với chức “Văn Hoá Vụ phó” kiêm trưởng khoa toán ở trường Võ Bị Đà Lạt. Gia đình Quyên ở trong một khu cư xá dành cho sĩ quan gọi là cư xá Lý Thường Kiệt ở Chi Lăng, phía ngoài cổng vào cư xá có một đồn lính canh gác, người lạ muốn vào thường phải xuất trình thẻ căn cước. Quyên rất yêu thích khung cảnh mới của những ngôi nhà cư xá, buổi sáng ở đây thật là yên tĩnh, cảnh vật mờ ảo như trong truyện thần tiên bởi sương mù còn giăng mờ trên những ngọn thông cao ngất. Quyên hay dắt em ra khu vườn sau nhà buổi sáng để cùng thi nhau thở ra khói, rồi đùa vui dưới hơi lạnh của bầu trời sương sớm.

Mùa xuân năm 1973, mùa xuân bắt đầu nở ra trong Quyên một chồi non mơ mộng. Cứ mỗi lần mẹ sai lau cửa kiếng là Quyên lại đứng hàng giờ nhìn ra khu vườn nhỏ bé tuyệt vời sau nhà. Quyên yêu sao cây đào rừng với màu hoa hồng tươi thắm, giàn hoa bìm bịp tím thẫm leo quanh bờ rào. Quyên yêu những sáng xuân trong lành có tiếng chim cười rúc rích trong vòm lá. Một làn gió nhẹ qua, thoảng mùi hương cỏ ướt quyện với mùi đất ẩm, mùi thông non, mùi hoa dại…. Cũng vào một buổi sáng đang lau cửa kiếng phía trước nhà, Quyên chợt thấy bố lái chiếc xe Jeep vào sân, từ trên xe bước xuống cùng với bố là hai chàng thanh niên trẻ mặc hai bộ quân phục khác nhau. Quyên có thể nhận ra một người là sinh viên Võ Bị vì anh mặc quân phục Võ Bị, còn người thanh niên kia mặc bộ quân phục màu xanh trông rất oai nghiêm. Quyên chép miệng: “Lại có khách”, rồi vội vàng chạy tọt vào trong, luồn cửa bếp để ra vườn sau. Quyên rất sợ cái cảnh bưng khay trà ra mời khách, phải trốn cho lẹ để mẹ sai Trâm. Khổ nỗi Quyên vừa ngồi xuống bậc thềm sân sau thì đã nghe tiếng mẹ gọi giật lại: “Quyên, lên pha trà cho khách này”
Quyên nhăn nhó:
“Mẹ bảo Trâm pha trà đi, con mắc bận rồi.”
“Bận việc gì cũng mặc, mau lên pha trà cho khách không bố mày lại la bây giờ. Con Trâm tha em đi chơi đâu rồi”
Quyên đành phải đứng lên vào bếp đặt ấm nước, Quyên phân bì:
“Mẹ xem con Trâm chẳng bao giờ ở nhà phụ mẹ, việc gì cũng tới con, mệt quá”
Mẹ mắng: “ Lại cành nanh với em, mày là chị lớn kia mà”

Quyên chỉ biết thở dài. Sắp đặt xong khay trà, Quyên trịnh trọng bưng ra mời khách. Một sự ngạc nhiên đến sững sờ khi Quyên nhận ra anh, người thanh niên mặc quân phục màu xanh, chắc chắn đó là quân phục của không quân rồi. Trông anh có vẻ đen và già dặn hơn hồi Quyên gặp anh mấy năm về trước. Anh cũng tròn mắt nhìn Quyên, một cái nhìn rất lạ, nụ cười ngày xưa đã không còn trên môi anh. Quyên thấy lúng túng trước cái nhìn đó, run tay đặt khay nước trên bàn, Quyên lí nhí: “ Mời bố , mời hai anh dùng nước” rồi chạy nhanh vào trong nhà. Quyên nghe tiếng anh hỏi: “Có phải em Quyên đó không thầy? “
“Ừ Quyên chứ còn ai, năm nay nó đang học đệ tam, lớp mười bây giờ đấy”
“ Trời ơi Quyên lớn quá, nếu gặp ngoài đường chắc em chẳng nhận ra”


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289459786.jpg

Quyên không biết mình đã lớn và đổi khác ra sao như anh nhận xét, nhưng Quyên biết chắc là trông Quyên nhếch nhác, lam lũ lắm. Mẹ có thêm em bé gái thứ chín, Quyên lại bận hơn với hàng đống công việc nhà sau giờ học. Không có quần áo đẹp như mình mơ ước, không được phép đi đâu chơi với bạn bè, Quyên cảm thấy mình thua sút rất nhiều so với những cô gái cùng trang lứa. Dù lúc đó bố đã được thăng cấp lên bậc trung tá, lương bố vẫn không đủ để mướn ngườì làm, cảnh nhà Quyên vẫn không sung túc như những gia đình sĩ quan khác trong khu cư xá. Chị em Quyên thường đi bộ đi học, không có tài xế đưa đón…Quyên thở dài, lặng lẽ đến bên cái gương nhìn xem mình đã lớn như thế nào, mà không thấy anh cười với Quyên như lúc trước. Xem này cái mặt Quyên lúc nào cũng đỏ bừng như người bị lên máu bởi lẽ Quyên cứ ở trong bếp luôn, tóc Quyên dài thì phải búi lên cho gọn để làm việc, muốn xoã tóc ra làm điệu cũng không được. Quyên chợt nhớ đến cái kẹp đồi mồi anh cho đã bị gẫy vì tóc Quyên quá dày. Quyên nói thầm: “Trông mình giống như bà cụ non thật, khiếp quá” Rồi Quyên quay ra miệng vẫn còn lẩm bẩm: Khiếp quá, khiếp quá. Tiếng anh hỏi đã làm Quyên giật mình: “Cái gì khiếp hả Quyên?” Quyên nhìn anh sửng sốt:
“Ủa ! sao anh lại đứng ở đây?”
“ Anh muốn xem cây đào rừng sau nhà, nghe thầy nói đẹp lắm, anh lại chưa bao giờ thấy hoa đào, thầy bảo vào nói Quyên dẫn anh ra xem”
“Ồ, cây đào ở đây nè” Quyên và anh ra sau vườn, cây đào đang trổ nhiều bông hoa tươi thắm trông rất đẹp mắt. Anh ngắm cây đào thì ít mà ngắm Quyên thì nhiều làm Quyên ngượng ngùng cứ phải quay đi để tránh cặp mắt kỳ quái của anh. Cặp mắt mà hình như đã nhốt cả thời thơ ấu của Quyên trong ấy, Quyên hỏi anh một câu thừa thãi: “Hoa đẹp quá anh hả?”
Anh nói tỉnh bơ: “Ừ đẹp như em vậy!”
Quyên ngạc nhiên: “ Em mà đẹp gì, như lọ lem ấy”
“Ừ, thì đẹp như công chúa lọ lem”
“ Anh cứ nhạo Quyên hoài ” Quyên mắc cỡ quay đi
“ Anh đâu có nhạo Quyên làm gì, thời gian đi nhanh quá, lần cuối gặp Quyên ở Sài Gòn , Quyên hãy còn nhỏ xíu mà bây giờ đã đệ tam rồi.”
Quyên nhặt một chiếc lá rơi trên ghế băng, buồn buồn nói:
“ Em còn mong cho mình lớn thật mau để đi làm kiếm tiền”
“Sao em mong dại dột thế, làm người lớn nhiều nỗi lo lắm. Kiếm tiền là nỗi lo khủng khiếp, cay đắng nhất. À mà Quyên học ban gì vậy?”
“ Em học ban C”
Anh trợn mắt:
“ Ban C? Sao bố dạy toán mà con gái lại không học ban toán?”
Quyên vò nhẹ chiếc lá trong tay ngập ngừng:
“ Tại …tại em … dốt toán nên đành phải chọn ban văn chương. Bố cũng buồn em lắm”
Anh lắc đầu:
“Anh không tin là em dốt toán, anh còn nhớ hồi học bố em ở nhà, anh có lén xem tập toán và tập chính tả của em, thấy toàn điểm mười không à. Hồi đó không nhớ em học lớp mấy mà chữ em đẹp ghê”
“Anh cũng tò mò quá há, không lo học mà cứ rình coi tập người ta. Hồi em học tiểu học em rất thích môn toán, nhưng khi lên lớp đệ thất thì em bắt đầu ghét toán, và thích môn văn. Em không chú ý đến môn toán nữa, rồi mất căn bản từ lúc đó.”
Anh gật gù: “À, ra thế! Mà em chọn ban C cũng hay, con gái học ban toán thì thấy khô khan quá, học ban C nghe ướt át tình cảm hơn”
Nói xong, anh nhìn Quyên cười cười, nụ cười quen thuộc của ngày nào mà Quyên đã nghĩ là điên. Quyên chợt hỏi:
“À, anh có thích đọc thơ không?”
“ Không thích lắm, nhưng nếu thơ của Quyên làm thì anh rất thích đọc”
Quyên tròn mắt nhìn anh hỏi lại: “ Sao anh biết em làm thơ?”
Anh lại cười: “ Thì anh nghe thầy than là con gái thầy dạo này cứ hay làm thơ thẩn chẳng chịu lo học hảnh gì cả”
“Chết, bố em nói với anh vậy hả, vậy mà bố hay đưa sách thơ cho em đọc, lại còn mang giấy màu về cho em đóng tập thơ nữa. Lần tới anh về chơi em sẽ làm một bài thơ tặng anh nhe”
Anh cười to: “Ủa , phải lần tới mới được tặng thơ hả? Sao lần này không tặng anh cho rồi, lỡ mai mốt anh không có dịp nào ghé đến đây nữa thì sao!”
Quyên cúi đầu thở dài: “ Em sưu tầm được nhiều thơ hay lắm, làm cũng nhiều nhưng đã bị mẹ xé hết hai cuốn rồi.”
Anh ngạc nhiên: “ Sao vậy ?”
“ Mẹ không thích con gái làm thơ, mẹ bảo mơ mộng hão huyền, lãng mạn thì chóng hư, mẹ chỉ muốn em làm việc nhà thật giỏi, thật nhanh”
Nói đến đó tự nhiên Quyên thấy buồn muốn khóc, Quyên tiếc những tập thơ mà Quyên đã ngồi nắn nót chép hàng giờ, và vẽ vời đủ màu sắc. Thú vui duy nhất của Quyên đã bị đập vỡ rồi. Quyên nghe như có tiếng chân anh bưóc đến gần Quyên cùng tiếng anh nói:
“ Mẹ Quyên phòng thủ cho con gái kỹ quá! Thật là tội cho Quyên.” Quyên ngước lên thấy anh đã đứng sát bên mình. Anh đưa bàn tay lên vuốt má Quyên thì thầm “ Quyên dễ thương lắm em có biết không ?”. Quyên đỏ mặt chạy vụt vào trong nói to: “Không, em không biết”, mặc kệ cho anh gọi “ Kìa Quyên đi đâu vậy?”

Quyên nghe trái tim mình đập thình thịch, một cảm giác xấu hổ lan trong người tê cứng, Quyên sờ mặt mình thấy nóng ran, giận anh sao kỳ cục quá, mình đâu còn là trẻ con nữa mà vuốt má. Rồi Quyên lại tự trách mình sao mắc cỡ một cách lãng nhách thế, phải nên tự nhiên hơn và xem mình hãy còn là con nít dưới mắt anh, lúc nói chuyện với anh Quyên cũng thấy vui vui vậy. Quyên vén rèm cửa nhìn ra ngoài phòng khách, thấy anh đã ngồi bên cạnh bố tự lúc nào, nhìn anh rất oai phong trong bộ quân phục, bấy giờ Quyên mới thấy trên hai bên cầu vai áo anh có một bông mai . Trời ơi anh đã là thiếu úy rồi kia! Quyên nghe anh nói với bố là lần sau nếu phi đoàn anh đóng ở NhaTrang thì anh sẽ có dịp ra thăm em trai anh, và thăm bố. Vậy là lần đó anh đi phép ra thăm em trai anh, người sinh viên Võ Bị đang đứng cạnh anh. Quyên nhủ thầm nếu anh đến thăm bố lần nữa, Quyên sẽ cố nói chuyện với anh tự nhiên hơn. Đấy là lần đầu tiên gặp lại anh của thời thiếu nữ, Quyên đã bắt đầu nghĩ đến anh nhiều hơn, đã thích đọc những bài thơ tình của lính… Và cũng kể từ sau ngày đó Quyên không còn dịp nào gặp anh nữa, chắc anh phải đi bay nhiều nơi vì tình hình chiến sự trong những năm tháng ấy rất gay go, khốc liệt; bố cũng phải cấm trại luôn.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289459845.jpg

Đầu Xuân năm 75, Quyên có thêm em bé gái thứ mười, Quyên càng bận hơn với trăm công việc nhà, không có thì giờ để ngồi mơ mộng hay chép thơ tình của lính. Dù vậy, trong lòng Quyên lúc nào cũng nghĩ đến anh. Quyên cứ ước mong một ngày nào anh sẽ đột ngột ghé qua thăm bố, và Quyên lại có dịp được nói với anh vài câu. Khi Việt Cộng chiếm Ban Mê Thuột vào tháng ba, bố đã tất bật lo cho cả nhà di tản về Sài Gòn, Quyên thấy thương bố quá…
Ngày trường Võ Bị rời về Long Thành và làm lễ ra trường vội cho sinh viên. Tình cờ, cũng lại tình cờ bố đã gặp anh khi anh chạy sang Võ Bị để xem tình trạng của người em trai. Sau ngày lễ ra trường, anh đã chở bố về nhà bằng Honda, Quyên nghe bố kể , anh chạy như bay dưới làn đạn pháo, bố cứ tưởng là cả hai người khó mà sống sót trở về. May mắn thay, bố Quyên chỉ bị trúng một mảnh đạn nhỏ vào chân trái, còn anh thì không việc gì. Ngày hôm ấy, khi anh ngừng xe dìu bố vào nhà, thấy chân bố chảy máu chị em Quyên sợ đến nhốn nháo. Mẹ chạy ra chạy vào lo băng bó cho bố. Quyên mong anh sẽ nói một câu gì với Quyên, hay ít ra một cái nhìn tạm biệt, nhưng anh đã vội vã đi ngay.

Chiến tranh chấm dứt, bố đi học tập cải tạo, cuộc sống của gia đình Quyên càng thê thảm hơn. Mẹ vất vả ngược xuôi với đủ mọi nghề để nuôi mười đứa con. Bố bặt tin từ lúc ra đi khi em bé út của Quyên chỉ vừa tròn 4 tháng tuổi, mãi đến lúc bé út biết đi, biết chạy thì gia đình Quyên mới nhận được tin đi thăm nuôi bố. Lần đầu tiên đi thăm bố cả nhà đều khóc, bố trông gầy yếu, xanh xao quá, tóc bố bạc đi nhiều, râu bố dài tới ngực. Bố đưa tay ra bế em bé út, nó khóc thét lên vì sợ bộ râu dài của bố. Mẹ hỏi bố có gặp người bạn nào chung trại không? bố nói chẳng gặp ai quen, chỉ gặp có mỗi thằng Đại hôm đi lao động. Tưởng là không quân như nó thì phải đi trước hết, có ngờ đâu bị kẹt lại. Nó cũng bị đày ở đây, nhưng mà ở khác chỗ. Quyên giật mình, có sự xui khiến nào mà anh và bố lại gặp nhau trong cảnh tù đày thế này. Thầy trò nhìn nhau chắc không sao tránh khỏi sự ngậm ngùi cho số phận bi thương của người lính sau chiến tranh. Quyên nhìn quanh khu nhà thăm nuôi, thầm mong sao có một sự màu nhiệm nào đó để Quyên có thể nhìn thấy anh ngay tại đây, để khóc, đề được nói với anh rằng: Quyên luôn nghĩ đến anh, từng ngày, từng tháng, vì Quyên đã biết yêu đời lính từ lúc bắt đầu thành thiếu nữ. Đời lính của anh luôn gắn liền với hy sinh, mất mát. Đời lính của anh luôn là những giấc mơ thanh bình, tự do, no ấm cho quê hương, giờ đây khi thanh bình đã thực sự đến, những người lính như bố như anh đã không còn tự do, và tất cả những người dân hiền lành cũng chằng có ấm no trọn vẹn.

Sáu năm sau bố trở về, sự vui mừng của ngày xum họp không kéo dài được bao lâu thì một nỗi buồn lớn lại đến với gia đình Quyên. Cơn bệnh ung thư quái ác đã tàn phá cơ thể mẹ trong những năm tháng vật lộn với cuộc sống cơm áo. Lo lắng, buồn rầu, suy dinh dưỡng là những nguyên nhân đã tăng nhanh mầm bệnh và kéo mẹ đi đến chỗ kiệt sức. Cuối cùng mẹ đã bỏ bố và chị em Quyên ra đi không một lời trăn trối. Bố thay mẹ tiếp tục phần đời còn lại nuôi các con, bố bắt đầu nghề dạy kèm toán tại tư gia. Quyên cũng đi kèm trẻ nhiều chỗ ngoài giờ làm việc để phụ với bố nuôi em. Cuộc sống tạm yên ổn, và bố cũng tạm vui trong cảnh gà trống nuôi con. Những buổi tối khu phố bị cúp điện, chị em Quyên thường ngồi quanh bố để nghe bố kể chuyện, có khi bố kể chuyện kiếm hiệp, có khi bố kể chuyện trong tù cải tạo. Môt ngày nọ, bố kể về anh, người học trò giỏi, người sĩ quan không quân trẻ mà bố rất khâm phục. Anh đã gan dạ dám trốn trại một mình, dù bị rượt đuổi gắt gao, bị bắn cảnh cáo nhiều lần anh vẫn cứ chạy, chạy cho đến khi anh bị thương và ngã gục. Trời ơi! Anh thật là một người lính kiên cường bất khuất. Dẫu phải đương đầu với hoàn cảnh tù đày nghiệt ngã, anh vẫn không muốn đầu hàng. Nghĩ đến anh, lòng Quyên trào lên một nỗi xót xa, lo lắng. Không biết số phận anh đã ra sao? bao giờ anh mới được thả về, và Quyên có còn dịp nào gặp anh nữa không?

Rồi trời cũng thương số phận người hiền, anh được trả tự do và bất ngờ đến thăm bố, anh là thế, sự thăm viếng của anh luôn luôn bất ngờ. Hôm ấy bố lại đi vắng, Quyên đón anh ngay cửa , cả hai không nhận ra nhau, anh gầy, đen, râu tóc mọc dài như người tiền sử, môi anh không còn nụ cười vui, mắt anh thôi tràn đầy tự tin chiếu sáng.. Khuôn mặt anh hằn lên nỗi ưu tư, chán nản và buồn bã. Có lẽ trông Quyên cũng già và khác nhiều trong mắt anh, nên nhìn Quyên anh ngập ngừng nói:
“ Tôi...tôi là Đại , mới đi học tập về ghé qua đây thăm thầy cũ”
Nghe giọng nói, Quyên đã nhận ra anh, Quyên nghẹn ngào: “Trời ơi anh Đại trông anh thay đổi nhiều quá ”
Anh khựng lại vài giây: “Xin lỗi, chị.. à cô.. là…”
Quyên ngắt ngang lời anh: “Là Quyên đây mà, anh quên rồi sao!”
Anh mừng rỡ, thảng thốt gọi: “Ồ Quyên, Quyên đó hả, nhìn em thấy lạ, anh hoàn toàn không nhận ra.”
“Anh vào nhà chơi uống nước đợi bố Quyên về, gặp lại anh bố Quyên mừng lắm đó”

Anh dắt chiếc xe đạp vào sân, Quyên để ý thấy anh đi như người có tật chân cao chân thấp, nhớ đến chuyện bố kể về anh, lòng Quyên chợt nhói đau. Thời chinh chiến, anh đã vượt qua được bao nhiêu sự hiểm nguy, chết chóc, thương tật. Vậy mà khi hoà bình anh lại mang thương tật bởi họng súng điên rồ của những người cùng tiếng nói da vàng với mình. Không biết bố và anh đã mang tội gì với nhân dân? để rồi phải đền tội bằng những năm tháng tù đày khốn khổ như thế.

Anh ngồi xuống ghế, mắt nhìn Quyên đăm đăm. Cái nhìn đã không còn làm cho Quyên ngượng nghịu, tránh né như thuở nào, trái lại nó thôi thúc Quyên phải nhìn sâu hơn vào mắt anh. Một cảm giác nào đó thật thiết tha, thật trìu mến, thật đắm đuối, thật vui và cũng thật buồn. Quyên rót cho anh một tách trà nóng, Quyên hỏi anh đã về hôm nào? Anh nói chỉ mới hôm qua thôi, hôm nay anh dành một ngày để đi thăm người quen thân thuộc. Anh hỏi Quyên:
“ Thầy vẫn khoẻ chứ Quyên?”
“ Bố Quyên vẫn khỏe, chỉ bị máu cao một chút thôi.”
“ Bây giờ thầy làm gì?”
“ Bố Quyên dạy kèm toán ở nhà, có khi dạy nhóm ở nhà học trò nữa.”
“ Thầy lại trở về với nghề dạy học, thầy thật yêu nghề quá. Còn cô?”
Nghe anh hỏi đến mẹ, nước mắt Quyên chợt ứa ra, chỉ lên bàn thờ Quyên nức nở: “ Bố Quyên về chưa được một năm thì mẹ mất, trời còn thương cho bố mẹ gặp nhau lần cuối, chứ nếu mẹ Quyên mất trước khi bố về , Quyên không biết phải làm sao, chắc Quyên chết luôn quá”.
Quyên nghe anh thở dài: “ Thật là tội” rồi anh đứng lên tiến đến bên bàn thờ mẹ, thắp một nén nhang. Quyên nhìn anh từ phía sau, dáng anh vẫn cao, gầy, anh gầy đi nhiều. Quyên không còn tin được ở mắt mình đây chính là anh của năm nào trong bộ đồ không quân oai hùng. Trông anh bây giờ thật tuyệt vọng, chờ anh ngồi xuống, Quyên hỏi:
“ Vết thương ở chân anh còn đau không?”
Anh chậm rãi lấy thuốc ra hút, nhìn Quyên qua khói thuốc anh hỏi:
“ Sao Quyên biết anh bị thương? Chắc thầy kể chuyện của anh phải không?”
Quyên gật đầu: “ Nghe bố kể, thấy anh gan lì quá đi thôi, lỡ bị bắn chết thì sao?”
“ Chết thì thôi có gì phải sợ! Không phải là anh gan lì đâu, mà là anh liều mạng thì đúng hơn. Lúc trốn được ra ngoài anh nghĩ mình đã thoát, nhưng khi bị phát hiện anh phải chạy cho mau để không bị bắt lại, lúc đó anh có nghe nhiều tiếng la hét phía sau, rồi tiếng súng nổ. Anh không cần biết gì hết, trước mắt anh, và cả trong đầu anh bấy giờ chỉ có hai chữ: phải thoát, thế là cứ chạy như điên.”
Anh ngừng nói, rít một hơi thuốc dài. Quyên hỏi: “ Rồi sao nữa anh?”
“ Anh đã bị ngất đi nên không còn biết gì hết, mà thôi chuyện buồn lắm Quyên nghe làm gì, thầy cũng kể cho các em rồi”
“ Bố Quyên chỉ kể đại khái thôi, không có chi tiết, Quyên rất muốn nghe chuyện buồn của anh, muốn biết sau đó họ đã làm gì anh?”
“Khi anh tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong nhà thương, tay chân bị trói, anh rất là đau đớn… Anh cứ tưởng rằng chân anh sẽ bị cưa, vì vết thương bị nhiễm trùng ghê gớm lắm… Nhưng rồi có lẽ mạng anh hãy còn lớn, và cũng nhờ ở sự đức độ của mẹ, con trai nhờ đức mẹ mà, nên anh đã qua khỏi …Sau đó anh bị chuyển trại. Anh không muốn nhớ lại chuyện đó nữa, đừng bắt anh kể thêm nhé.”
Quyên nhìn anh, lòng dạt dào thương cảm, muốn nói với anh vài câu an ủi mà không biết mở đầu làm sao. Tìếng anh hỏi Quyên:
“ Hiện giờ Quyên đang làm việc gì?”
“ Quyên đi dạy tiểu học”
Anh chợt cười nhẹ:
“À, Quyên là cô giáo rồi đấy, thảo nào trông cô giáo chững chạc quá.”
Nhìn anh cười, Quyên cảm thấy mạnh dạn lên đôi chút, Quyên nói:
“ Thì anh cứ nói là thấy Quyên già đi, anh dùng chữ chững chạc nghe chua xót làm sao”
“Ơ kìa, chững chạc đâu phải là già, mà nếu nói Quyên già thì anh cũng thành cụ rồi. Anh hơn Quyên đến tám tuổi kia mà.”
Quyên ngạc nhiên: “ Sao anh biết tuổi của Quyên?”
“ Anh đoán tuổi theo lớp học. Này nhé, lần anh gặp Quyên ở Đà Lạt, lúc đó anh hai mươi ba tuổi, Quyên học lớp mười thì có phải là Quyên mười lăm tuổi không? Anh nhìn Quyên bây giờ thấy lạ chỉ tại trong đầu anh lúc nào cũng nhớ đến hình ảnh của Quyên lúc đó, da trắng má hồng, mũm mĩm như con búp bê, suốt ngày nấu cơm, giặt quần áo, bế em…”
Quyên phì cười: “ Bộ hồi đó Quyên mập lắm hả?”
Anh dụi tàn thuốc, nghiêng đầu nhìn Quyên: “Không mập gì, chỉ hơi tròn tròn như hột mít thôi. Mà anh nhớ không lầm thì đã mười năm rồi, mười năm phải cho người ta trường thành chứ. Đâu có thể mãi là cô bé hoài để mình cho kẹo, dù gì bây giờ đã là cô giáo rồi, mình phải thận trọng chứ.”
Quyên cụp mắt nhìn xuống hai bàn tay mình, một niềm vui đang trải rộng trong lòng Quyên. Anh thực sự cũng có nghĩ đến Quyên sao, bao năm tháng nhớ mong, mơ mộng về anh như một ảo ảnh, Quyên không dám tin rằng có một ngày như hôm nay gặp anh, mặt đối mặt để nghe anh nói chuyện thật tình cảm với Quyên. Ồ mà biết anh có nói thật lòng không, hay chỉ là một lời tán hưu tán vượn cho vui.
Tiếng anh hỏi cắt đứt ý nghĩ của Quyên:
“ Sao Quyên im lặng vậy? Quyên buồn hả?”
Quyên lắc đầu, nhìn anh: “ Không, Quyên đang vui vì nghe chuyện một người hãy còn nhớ đến Quyên từ mười năm trước, Quyên cảm động quá”
Cuộc đàm thoại hôm ấy cũng khá lâu mà bố vẫn chưa về, anh không thể chờ lâu hơn nữa nên đành phải cáo từ, hẹn hôm khác sẽ đến thăm bố. Trước khi anh đứng lên, anh chợt nắm lấy bàn tay Quyên vuốt nhẹ rồi nói: “ Quyên này, trông em gầy và xanh xao lắm , em ráng giữ sức khỏe nhé, đừng suy nghĩ hay lo lắng nhiều quá mà thành bệnh đấy”
“ Anh cũng gầy nhom à, nhìn anh sa sút Quyên thật muốn khóc luôn”
Câu nói của Quyên đã làm anh khựng lại, anh nhìn Quyên thăm thẳm, khó hiểu quá. Rồi anh vụt quay đi : “ Anh là đàn ông mà, lại đã từng đi lính , anh chịu cực khổ quen rồi, thôi anh về nhé”


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289459893.jpg

Anh đã tạt qua thăm bố thêm hai lần nữa, cả hai lần đều không gặp được bố. Một lần thì Quyên đi vắng, anh ngồi nói chuyện với mấy em Quyên. Nghe Trâm nói anh cũng có ý ngồi chờ Quyên và bố về, chờ dài cả người mà chẳng thấy bóng em và bóng thầy đâu. Chán quá chàng đành ra về, Trâm còn diễu cợt: “ Xem ra, cái ông Đại này có vẻ si tình chị Quyên rồi nhe” Quyên đập vai Trâm “ Bậy bạ nào” Những đứa khác được thể nhao nhao lên: “Ờ bậy bạ vậy mà trúng tùm lum, ổng điều tra chị mình kỹ dễ sợ luôn, đúng là dịp may để tụi em tha hồ nói xấu chị , lúc chị đang dạy học trò có bị nhảy mũi không ? Có thấy ngứa lỗ tai không?” Quyên hỏi: “Ổng điều tra cái gì?” Thịnh cười: “Trời, trời hỏi tới nghe” Con bé Hương làm ra vẻ người lớn trịnh trọng nói: “Đây nè để em nói cho mà nghe ổng hỏi chị Quyên có hay đánh mấy em không ? Em liền nói chị Quyên đâu có uy trong nhà mà đánh ai. Chị Trâm có uy quyền hơn chị Quyên, nên tụi em sợ chị Trâm hơn chị Quyên” con bé Út thêm: “ Chị Trâm có nhiều bạn trai đến nhà chơi cho tụi em quà, muốn có quà thì phải nghe lời chị Trâm, còn chị Quyên chẳng có ai”. Quyên bẹo má em phì cười: “ Toàn nói nhảm nhí”.

Lần thứ tư anh đến thăm thì đã gặp được bố, thầy trò hàn huyên tâm sự rất lâu. Hẩu hết những lần anh đến chơi sau này chỉ ngồi trò chuyện với bố. Anh và Quyên rất ít có dịp nói chuyện với nhau. Cho đến một ngày, anh hẹn Quyên đi chơi, đó là môt ngày vui nhất trong đời Quyên kể từ lúc gặp anh. Hai đứa đi bộ hết con đường Nguyễn Du thanh vắng mà vẫn không mỏi chân. Hôm ấy, Quyên nói chuyện huyên thuyên không ngớt, Quyên kể về con đường Nguyễn Du này đã cho Quyên bao nhiêu kỷ niệm vui buồn của thời còn đi học sư phạm. Quyên kể những nỗi buồn chán trong suốt hai năm trời mệt nhoài với sách vở … Những ngày đi bộ dạy kèm rời rã cả chân tay. Quyên nói nhiều như chưa bao giờ được nói hết tâm sự trong lòng mình. Anh chỉ im lặng lắng nghe, trông anh rất là tư lự. Quyên hỏi:
“ Hình như anh đang suy nghĩ chuyện gì hả anh? Có nghe Quyên nói không, sao anh cứ im lặng hoài vậy?”
Anh lắc đầu: “À không , anh có nghĩ gì đâu, anh đang nghe Quyên kể chuyện mà”
Quyên biết anh nói dối, chợt linh tính một điều gì đó không hay sẽ đến. Quyên nghĩ đến niềm vui hiện tại, niềm vui có anh bên cạnh như lúc này sẽ kéo dài được bao lâu, hay chỉ là thoáng chút thôi, rồi Quyên lại trở về với những nhớ nhung chờ đợi. Quyên mạnh dạn hỏi:
“ Anh à, không biết chuyện giữa hai đứa mình rồi sẽ đi đến đâu?”
Anh chép miệng:
“ Anh cũng đang tự hỏi mỉnh câu hỏi đó”
Rồi anh dừng lại, rít một hơi thuốc, anh tiếp: “Anh vẫn không tìm ra câu trả lời cho mình.”
Anh quăng mạnh tàn thuốc vào gốc cây, quay sang phía Quyên, anh bất chợt ôm vai Quyên kéo sát vào anh. Quyên chống chế một cách yếu ớt, mùi thuốc lá nồng nồng từ hơi thở anh làm cho Quyên phải bật ho khan mấy tiếng. Quyên nghe như bờ môi anh đang chạm trên tóc mình, và lướt qua vầng trán, trôi bên má rồi nhẹ nhàng xuống đôi môi. Người Quyên mềm nhũn trong tay anh, nụ hôn đầu đời sao vụng về mà thân thiết quá, sao ngọt ngào mà vẫn nghe cay đắng, sao nồng nàn mà chua xót tận đáy tim, sao đam mê mà đau thắt cõi lòng. Quyên nghe tiếng anh thì thầm bên tai tựa hồ như vọng lại từ nơi nào rất xa:
“ Quyên dễ thương lắm, em có biết không ? Đã mấy lần anh cũng muốn liều nhờ mẹ đến xin thầy cho Quyên về với anh, nhưng nghĩ đến phận mình mới đi tù về, việc làm không có, tiền bạc cũng không lấy gì mà nuôi Quyên. Ở đây tương lai mù mịt quá, anh đành phải nghĩ cách ra đi thôi.”
Quyên sửng sốt: “ Anh đi đâu?”
Anh ngập ngừng: “ Anh đi ...vượt biên”
“ Trời ơi, chừng nào anh đi?”
Anh thở dài: “Đêm nay”
“Đêm nay, sao gấp quá vậy anh? Sao anh không nói trước với Quyên?” Quyên kinh ngạc hỏi
“ Nói trước để làm gì?”
Đêm nay anh đi, Quyên mím chặt môi lại để không bật ra tiếng khóc tức tưởi. Đêm nay anh đi, trái tim Quyên như thắt nghẹn, mắt Quyên như mờ đục, đầu Quyên choáng váng. Quyên nói như mê:
“ Anh đi bằng đường nào vậy ?Quyên có thể tiễn anh được không ?”
“ Cứ coi như bây giờ là lúc mình đang tiễn nhau đi, anh đi đường bộ nên khó khăn lắm”
“ Trời ơi! Đường bộ nguy hiểm vô cùng anh có biết không?”
“ Anh biết nhưng nghe nói nó gần hơn đường biển”
Quyên nghe cõi lòng mình nát tan từng mảnh vụn. Ngày đầu tiên hò hẹn cũng là ngày cuối cùng chia tay. Quyên không biết nói gì hơn nữa, nước mắt Quyên cứ trào ra, trào ra... Anh nhẹ đưa những ngón tay khô rám gạt nước mắt cho Quyên:
“Đừng khóc nữa Quyên, anh đi rồi không biết thành công hay thất bại, sống hay chết, thế nên em đừng chờ đợi anh lảm gì để phí hoài tuổi xuân. Nếu sau này có người nào thương yêu em thì hãy lập gia đình. Anh không dám hứa với em điều gì chỉ sợ mình thất hứa.”
Quyên lắc đầu buồn bã: “ Mình về đi anh, ở đây càng lâu , Quyên không chịu nổi giây phút ảm đạm này đâu”

Trên đường về nhà, cả hai đều im lặng, sự im lặng như tăng nỗi buồn lên gấp bội, ánh nắng chiều soi bóng anh dài bên bóng Quyên ngắn, chùng lại trên mặt đường thênh thang. Chia tay ở đầu ngõ, anh nhìn Quyên lưu luyến, anh nắm tay Quyên, nhưng Quyên đã giựt tay lại. Anh thở dài: “Anh đi nhé!” Quyên thẫn thờ nhìn theo bóng anh lung linh, mờ ảo, nhoè nhoẹt xa dần, xa dần…

Quyên vẫn có thói quen ngồi bất động trước cửa sổ hàng giờ, để thả những giòng ký ức đi lang thang. Từ cái khung cửa nhỏ trên căn gác thấp lè tè hồi còn ở quê nhà, nhìn ra chỉ thấy những mái ngói chồng chất lên nhau, lâu lâu có vài đám khói từ bếp nhà ai đó bay ra. Đến cái khung cửa sổ lớn ỏ xứ người những khi nhìn tuyết rơi. Cả hai khung cửa ở hai phương trời đã chất chứa bao nỗi nhớ về anh, sự chờ đợi, mỏi mòn khô héo đã hai mươi mấy năm rồi. Không biết bây giờ anh đang ở đâu, làm gì ? Nơi anh ở có nhiều tuyết như chỗ Quyên không? Anh đã có khi nào nghĩ đến Quyên, dù chỉ là một thoáng nhớ qua thôi. Chắc anh đã có một gia đình mới rất hạnh phúc, ấm êm, và biết đâu anh đã có một đàn cháu nội, cháu ngoại. Nhưng sao anh không liên lạc với Quyên ? Hay anh đã bị chết giữa rừng sâu nước độc. Quyên rùng mình xua đi ý nghĩ chết chóc đó. Không, anh không thể chết, anh không bao giờ chết được trong lòng Quyên. Hình như anh đang trở về với bộ quân phục không quân, anh đi nghênh ngang dưới làn mưa tuyết phủ trắng xoá trên người anh. Quyên mừng rỡ chạy đến bên anh gọi to: “ Anh Đại , anh Đại”, ơ kìa sao anh chỉ cười mà không bước lại gần Quyên, anh cứ lùi, lùi mãi, lùi mãi cho đến khi bóng anh tan ra.
“ Nhà có chị gái mà đi làm về không có cơm ăn, chị Quyên, chị Quyên đâu rồi?” . Tiếng Thịnh, em trai Quyên gọi đã kéo Quyên về thực tại. Quyên ngơ ngác hỏi:
“ Mấy giờ rồi ?”
Thịnh nói: “ 4 giờ chiều rồi, sao chị không nấu cơm nước gì hết vậy ? lại ngồi ngẩn ngơ suy nghĩ chuyện cũ phải không ?”
“Đâu có suy nghĩ gì đâu”
“ Bác sĩ dặn chị rồi đó, đừng có nghĩ ngợi chuyện buồn nhiều mà bệnh depress lại nặng thêm. Tuyết ngưng rồi, thôi ra cào tuyết với em cho vui chứ để ngày mai nó đóng đá thì cào không nổi đâu”
Quyên lững thững đi theo Thịnh, tuyết đẹp chỉ để ngắm nhìn, nhưng tuyết lại làm khổ người ta khi trở về đời sống thực.Cũng như chuyện của anh và Quyên có lẽ chỉ đẹp khi mình ngồi ngắm nghía và hồi tưởng đến nhau cho Quyên lại được sống trong những giấc mơ yêu thương, mong ngóng, để khi tỉnh giấc mơ nghe lòng mình trống rỗng, trái tim mình tê tái. Quyên chợt hát nho nhỏ:
“ Một lần nào cho em gặp lại anh, nghe anh nói em vui một lần
Một lần nào cho em gặp lại anh rồi thiên thu sẽ là nhung nhớ
Giòng đời nào đưa anh đi về đâu, sao không thấy qua đây một lần
Giòng đời nào đưa anh đi về đâu những bến bờ xưa cũ đã mờ” (1)

(1) bài hát: “ Một Lần Nào Cho Tôi Gặp Lại Em” của Vũ Thành An

Quế Hương
Tháng giêng 2010

hung45qs
11-15-2010, 06:55 PM
Những Ngày làm lính Không Quân


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289846406.jpg

Ba mươi mấy năm trôi qua, kể từ ngày phải xa đại gia đình Quân đội, binh chủng Không Quân của QLVNCH, tôi chưa viết lại được gì, hẳn vì bọn chúng tôi, những thằng nhập ngũ trước sau Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72. Những thằng chỉ chống chọi, trôi nổi vào cuộc chiến Quốc-Cộng, khi cuộc chiến sắp hạ màn, chiến tranh sắp đến hồi kết thúc. Cơn bão rớt, từ hoàn cảnh ngập lụt đã nhiều ngày qua.

Những người hiện nay đã viết, đang viết và sẽ viết về cuộc chiến là những niên trưởng của các quân binh chủng, đã có thời gian khá lâu, rất lâu, rất dài trong quân đội, nằm gai nếm mật, sống bên và trên những xác chết của đồng đội, của phe bên kia. Họ đã Dựa Lưng Nỗi Chết (1) ở những ngọn đèo, con suối; trên những đỉnh đồi đầy mùi tử khí của xác người. Những người đã từng thấy đạn tầm nhiệt SA7 lao vào phi cơ bạn, mà không làm sao cứu được bạn, những người đã từng thấy phi cơ bạn lao xuống, đánh bom vào vùng địch để cứu bạn mình dưới đất, rồi vĩnh viễn ở lại làm kẻ đi không ai tìm xác rơi. Những vị Hải Quân anh hùng đã để lại cho hậu thế trận Hoàng Sa chống Trung quốc thật đáng tự hào. Tôi, kẻ hậu sinh trong cuộc chiến, rất trân trọng khi lật từng trang sách của các vị này để đọc. Sự thật bao giờ cũng là sự thật.

Ở đây tôi chỉ viết lại vài kỷ niệm vui buồn của những ngày tôi ở binh chủng Không Quân.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289846600.jpg

Chúng tôi vào lính trong và sau mùa hè năm 72, khi hoa phượng đang nở tưng bừng trên khắp mọi con đường. Trong những ngày đi thi tú tài, đại học là những ngày đã chuẩn bị tinh thần sau kỳ thi này đậu rớt gì cũng vào lính, vì lịnh tổng động viên của chính phủ vừa ban hành. Vừa thi, mà chiến sự ngoài chiến trường bay về thành phố như những hoả châu nóng chiếu sáng trên mọi khung trời, để thấy miền Nam Việt Nam đang đi vào chỗ đối đầu quyết liệt nhất trong cuộc chiến, chỉ có sống hoặc chết, không còn con đường nào khác. Phía bên kia họ đã đưa ra những chọn lựa như thế. Những ngày học thi, tin tức chiến sự, những trận đánh lẫy lừng lấy lại Quảng Trị, giải thoát Bình Long được tường trình trên tivi, báo chí Sàigòn mỗi ngày, đôi khi làm bọn trẻ đã ngẫn ngơ để quên đi những vòng tay êm ái từ người yêu, quên đi ánh mắt dịu dàng từ những cô bé tuổi mười sáu trăng tròn, mười tám, đôi mươi dành cho người anh, người tình.

Vừa lách mình qua khỏi cổng Quân vụ thị trấn ở đường Lê Văn Duyệt, Sàigòn, vào một ngày của tháng 10 năm 1972 là tôi biết tôi đã giã từ đời sống dân sự, và đời sống quân nhân bắt đầu. Ngay chiều hôm đó đã có xe nhà binh đưa chúng tôi ngay vào Trung Tâm 3 Tuyển mộ nhập ngũ.

Xe chạy trên con đường Lê Văn Duyệt dẫn đến Trung Tâm 3, trời về chiều, Sàigòn vẫn rộn rã tiếng người tiếng xe. Những cô nữ sinh áo dài trắng từng đôi trên những xe Honda Dame, PC đẹp thật kỳ lạ dưới mắt tôi trong buồi chiều vàng của thành phố. Tôi tự nhắn nhủ mình rồi cũng phải xa vắng những hình ảnh mộng mơ này một thời gian dài, để chịu ghép mình trong bổn phận làm lính và những kỷ luật quân đội.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289846805.jpg

Nhìn những cô nữ sinh tôi chạnh nhớ đến Hương, cô bạn cùng lớp. Hương chăm chỉ, học giỏi, đưa những tia nhìn tình tứ với tôi trong những ngày chúng tôi sắp bãi trường. Hương người Tàu lai, mắt một mí, nước da trắng, hàm răng có những chiếc răng trắng đều như những hạt bắp. Tôi biết giờ này Hương đang ở nhà, phụ má nấu cơm. Vì những khi tôi đến mượn bài vở vào những buổi chiều như hôm nay là lúc Hương đang quanh quẩn trong bếp, trên con Trần Hoàng Quân đang ồn ào náo nhiệt bên ngoài. Hương biết tôi sắp đi lính, như Viễn, như Quý, những thằng bạn trai sẽ ra đi sau kỳ thi, nhưng Hương và tôi chỉ đi xa hơn tình bạn một chút, là chúng tôi nhìn nhau tình tứ, chớ một cuộc hẹn hò cho chuyện trăm năm, vẫn chưa ai, một trong hai chúng tôi nói đến. Mục đích Hương là tiếp tục học, học cao hơn. Còn tôi không còn mục đích nào cả, chỉ còn một con đường trước mặt: vào lính.

Màn đầu tiên ở Trung Tâm 3 là màn la ó của vị quân nhân mang cấp bậc trung sĩ nhất, hay thượng sĩ gì đó. Tướng ông to cao, giọng nói rổn rảng. Mỗi lệnh lạc ông đều la to làm các lính mới thật vô cùng bở ngở, nhưng sợ. Kỹ luật quân đội là đây sao? Chúng tôi phải di chuyển theo từng nhóm thật nhanh khi bị gọi tên. Sàn qua sàn lại như đàn vịt. Nguyễn văn A. Có mặt. Trần Văn B. Có mặt… Cứ thế chúng tôi được xếp thứ tự thành tiểu đội, trung đội, đại đội. Cứ hai thằng đứng cạnh nhau là trở thành đôi bạn ngay, đồng cam cộng khổ cho những ngày lính sắp tới.

Chúng tôi đi hớt tóc, lãnh sac marin và xuống nhà bàn ăn cơm khi trời đã chạng vạng tối.

Một ngày đã qua, hôm sau có kẻn đánh thức dậy, thi hành những thủ tục như một người lính. Thời gian này là tổng động viên nên tất cả các nơi trình diện nhập ngũ đều rất đông tân binh. Ở Trung Tâm 3 này cũng vậy. Hàng hàng lớp lớp tân khóa sinh. Đi đâu cũng gặp những bộ áo lính đồng màu cứt ngựa rộng thùng thình. Trong trại, căn-tin, những gốc cây… Mặc dù nghe nói đã có rất nhiều khóa sinh đi về các quân trường Quang Trung, Đồng Đế, Thủ Đức v.v…, để thụ huấn, nhưng những ngày này ở đây còn rất đông.

Rồi chúng tôi cũng được đi phép cả… tháng. Lý do: Các quân trường không còn đủ chỗ để chứa. Mà cứ nằm dài ở Trung Tâm 3 để làm gì chớ. Thôi cứ cho tân khóa sinh về nhà nghỉ phép dài hạn là hay nhất.

Tôi quê ở Bà Rịa nhưng đi trọ học ở Sài Gòn. Nên những ngày được nghỉ phép lúc này tôi trở về lại Bà Rịa. Gia đình cha mẹ đang ở vùng hơi mất an ninh vào ban đêm, nên những ngày phép tôi ở tạm trong gia đình bà chị trong khu gia binh của những sĩ quan Trung Tâm Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp.

Ban ngày tôi hay lấy xe Honda của anh chị chạy đi thăm bạn bè cũ, những thằng bạn thời trung học đệ nhứt cấp ở thị xã Bà Rịa trầm lắng này. Chiều tôi đi xem đá banh. Tối ra ngồi chơi nơi những vọng gác với những tân binh đang theo học tại Trung Tâm Vạn Kiếp. Trung Tâm nằm ngay gần thị xã, tình hình yên tĩnh, nên vừa gác, ai gác thì gác, còn lại các bạn vừa uống rượu, đấu láo. Tôi thức cả đêm với họ, đến khi buồn ngủ mới về. Lúc trăng lên cao, trời về khuya, nhưng khí hậu vẫn ấm, khi đã ngà ngà say một vài lính mới cất giọng hát chung bài Chiến Sĩ Vô Danh, tôi cũng họa theo: Mờ trong bóng chiều, một đoàn quân thấp thoáng, lá cây rừng, lắng tiếng nghe hình bóng, của người anh hùng…, ra biên cương trong một chiều sương âm u, âm thầm theo khói mờ…. Hay bản nhạc Hòn Vọng Phu: …Có ai xuôi vạn lý, nhắn cho tin mấy lời… Giọng ca chung, tài tử, nhưng có lúc trầm hùng, lúc bảng lảng như gió rừng. Bên những chun rượu đế càng về khuya giọng ca, lời nói càng buồn, càng nói lên được thân phận trai thời ly loạn. Các bạn này, cũng giống như tôi, cũng vừa mới bị động viên vào lính, mặt mày trẻ măng, từ „bốn phương trời ta về đây chung vui“, nên chúng tôi dễ dàng thông cảm, chơi với nhau rất hợp. Cứ khi nào thiếu mồi, hềt mồi, tôi chạy về bếp nhà bà chị lục tôm khô, củ kiệu, vì ông anh rễ tôi lúc đó cũng là tay nhậu. Còn rượu thì các bạn lo. Trong khu gia binh, dù khuya, nhưng vẫn còn có quán mở cửa bán.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289846867.jpg

Trong những ngày này tôi gặp Quyển, cô nữ sinh mười bảy tuổi, đang học lớp đệ tam tại Bà Rịa. Mặc đồ dân sự nhưng tóc hớt cao, ắt hẳn cô cũng biết tôi đang là lính. Như những học sinh nam ở Sàigòn, tôi quen khá nhiều các cô gái bạn học cùng lớp, dưới lớp, hàng xóm, nhưng chưa ai làm xao xuyến lòng tôi bằng Quyển, kể cả Hương như tôi vừa kể. Tôi đã đi bộ theo Quyển để tán tỉnh trong những buổi chiều khi cô đi học về. Cô rất mắc cở, vành nón lá che nghiêng, điệu bộ lúng túng, đúng là nữ sinh, nhưng qua người bạn gái cô cũng gửi tôi một lá thư để trả lời thư tôi, cô chúc tôi những ngày trong quân trường sắp tới được mạnh khoẻ, ráng vượt qua giai đoạn khó khăn, để làm sĩ quan với người ta. Những ngày này trong giấc ngủ của tôi hình ảnh Quyển thỉnh thoảng hiện về. Mỗi ngày tôi cứ trông đến chiều, khi Quyển tan trường, tôi chạy xe Honda theo nhịp bước của cô. Mối tình tôi và Quyển tôi vẫn giữ mãi đến tận bây giờ. Dù bây giờ hai đứa đã có gia đình, nhan sắc Quyển đã tàn phai theo thời gian và tuổi tác, nhưng mỗi khi nhớ về Quyển lòng tôi vẫn rạo rực như ngày đầu tiên gặp nàng.

Trước lần đi phép dài hạn lần thứ hai, do bạn bè rủ tôi đi vào Tân Sân Nhất xin đơn để gia nhập Không Quân. Nộp đơn xong lòng dững dưng không hồi hộp đợi chờ. Được vô KQ cũng được, không cũng không sao. Bạn học tôi, tên Quý, đang là SVSQ Thủ Đức, đang đi chiến dịch ở Bà Rịa, gặp, thấy Quý cũng đẹp trai phong độ trong bộ đồ quân nhân bộ binh tác chiến. Cổ áo đeo uy hiệu Alfa màu vàng rất nổi bật trên nền áo xanh đậm nét lá cây rừng. Quý chắc cũng làm các cô nữ sinh chết mê chết mệt. Đầu năm 1974, khi đang học sinh ngữ ở trường Sinh Ngữ Quân đội, tôi nghe tin Quý tử trận. Sau đó Viễn, người bạn học cùng lớp, và cùng phòng thi trong ngày thi tú tài ở trường Việt Nam Học Đường, Sài Gòn, cũng tử trận. Trong lớp, tôi ít thân với Quý, nhưng rất thân với Viễn vì chúng tôi cùng học chung một lớp, lại gần nhà. Nghe tin Viễn tử trận tôi rất buồn. Chắc hai bạn bây giờ là cố thiếu úy!

Nộp đơn vô KQ xong tôi về nhà nghỉ phép như thường lệ. Sau đó khoảng một tuần có giấy gọi kêu đi khám ở Tân Sân Nhất. Toán tôi khoảng 45 người, khám qua mắt, tai, răng, mủi, họng, tim, thân thể…, cuối cùng đậu khoảng 20, trong đó có tôi. Có nhiều bạn trong toán cao to hơn mình vẫn không đậu, chắc tại vì mắt, tai không còn tốt, chắc vì yêu nhiều quá nên tim đã bị…yếu. Giấy báo cáo đã đậu vào KQ chuyển về Trung Tâm 3, chúng tôi chỉ chờ KQ gửi giấy gọi.

Ngày ở Trung Tâm 3 nhập ngũ buồn nhất là ngày Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc bài diễn văn trên truyền thanh truyền hình đầu năm tết Âm lịch 1973. Chúng tôi đứng tập trung quanh ông thượng sĩ già có cái radio đang phát thanh lời tổng thống. Thời gian này là đang (hay sắp?) ký Hiệp Định Ba Lê, nên tổng thống báo cho toàn dân Miền Nam biết về chuyện Hiệp Định. Nói chung là rất bi quan, đừng tin tưởng nhiều vào phe Miền Bắc, dù họ có ký Hiệp Định Ba Lê để chấm dứt chiến tranh. Ông thượng sĩ già người Bắc có những dẫn giải làm buồn lòng các tân binh thêm. Kinh nghiệm của ông vào thời điểm 54 ở miền Bắc, làm ông không thể tin ở phe bên kia chiến tuyến.

Lúc tôi được triệu tập vào trình diện ở Tân Sân Nhất để gia nhập Không Quân là vào khoảng tháng 2 năm 1973. Các niên trưởng mới vô trước vài ba tuần cũng hò hét ỏm tỏi. Nhưng quen bên Trung Tâm 3 rồi nên tôi không còn thấy sợ. Dũng có biệt danh „Dũng Hitler“ là niên trưởng hò hét to nhất, dữ nhất trong ngày đầu khi toán tôi vào. Thời gian này có những cán bộ cộng sản Bắc Việt nằm trong Ủy Ban Hiệp Định Đình Chiến ở ngay Tân Sân Nhất. Theo tinh thần ký kết hiệp định, phe Quốc gia phải bảo vệ họ. Hằng ngày di chuyển trong Tân Sân Nhất, thỉnh thoảng tôi thấy xe họ chạy ngang qua. Những ngày này, lính Mỹ theo hiệp định đã rút hết về nước. Những barrack lúc trước cho lính Mỹ ở, giờ trống không, không người ở, nhưng đồ đạc như tủ lạnh, máy lạnh còn nguyên. Chỉ mấy ngày sau, theo lịnh đại úy Hiệp chỉ huy chúng tôi lúc đó, tôi và vài người bạn cùng trong phi đội 68 được đưa đi trực gác ở ngoài các vọng gác của phi trường với mấy cây súng Cabin M1, hướng đông bắc. Chỉ huy chúng tôi là vị trung úy còn rất trẻ. Ông đến chia chúng tôi gác rồi đi mất, ít khi xuất hiện đột ngột. Từ vọng gác nhìn ra thấy toàn là nhà lá của dân nghèo, không thấy một chiếc xe hơi chạy ngang. Trời trưa nắng chang chang nhìn ra thấy như mặt đất bốc khói, văng vẳng bên mé nhà dân vọng lại bản vọng cổ Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài do Minh Cảnh và Lệ Thủy ca. Tuấn Mã ơi mi hãy phi mau về báo hung tin cho quân ta được rõ, vì Võ Đông Sơ đã lìa xa vĩnh viễn Bạch Thu Hà. Bạn tình ơi đừng mòn mỏi đợi chờ, nghe „mùi tận mạng“. Sau lưng tôi là Sài Gòn với những cao ốc, nhưng trước mặt tôi là nhà dân nghèo, tôi thấy rõ sự nghèo giàu chênh lệch, đúng là đất nước đang ở trong tình trạng có chiến tranh. Hết giờ gác tôi tự động „chuồn“ ra đi chơi ở Sàigòn, khi nào có ca gác vô trở lại. Thời gian này bạn học cũ đang học ở các quân trường Quang Trung, Thủ Đức về những quận ở vòng đai Sài Gòn nằm ứng chiến. Có thì giờ dư giả chúng tôi cứ tụ họp nhậu nhẹt.

Chúng tôi, khóa 73F, được tập trung để vận tải cơ C130 chở ra Nha Trang vào khoảng cuối tháng 3 năm 1973. Trên mỗi chiếc chắc là khoảng 50 mạng có mang theo sac marin. Tôi không có một người bạn học nào trong khóa 73F này. Lần đầu tiên đi máy bay, tôi thấy cũng bình thường như đi xe đò. Nỗi lòng háo hức lần đầu tiên được ngồi trên „máy bay“ phút chốc cũng qua. Năm chục mạng ngồi yên lặng không ồn ào sôi nổi, vì tất cả đều nghe phong phanh trong một tháng huấn nhục ở Nha Trang sẽ „tả tơi“, sẽ như „mền rách“ nên ai cũng lo. Nhìn qua cửa kiến thấy bầu trời xanh và những áng mây trắng bên ngoài. Thỉnh thoảng phi cơ mất độ nâng, rớt xuống, chắc đâu vài chục mét, làm ruột gan chạy ngược lên gần tới đầu.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289846973.jpg

Suốt hơn một tiếng đồng hồ ngồi phi cơ để ra Nha Trang tâm hồn tôi dửng dưng thật lạ. Mình có chuẩn bị vào KQ đâu, rồi cũng vào. Mình có chuẩn bị bay bổng đâu giờ cũng ngồi trên phi cơ. Rồi ngày sau cũng chưa biết ra sao? Chỉ biết một đều là đã xa Sài Gòn, xa Bà Rịa, xa Quyển, xa Hương mà chưa biết bao giờ mới gặp lại.

Qua cửa sổ nhỏ của phi cơ, khi tôi thấy mặt biển Nha Trang cũng là lúc bánh phi cơ gần chạm mặt phi đạo. Công nhận Nha Trang có biển thật đẹp. Trời trong xanh, nắng mười giờ óng ánh trên mặt nước gợn sóng lăng tăng. Tháng ba bà già đi biển, nên mặt biển êm ru như mặt hồ. Phi cơ dừng lại. Cửa sau phi cơ vừa bật lên thì hởi ơi một bày „kiến vàng“ đã bắt đầu hò hét bên dưới. Các ông xuống tập họp nhanh lên! Lính mới trên phi cơ chưa nhốn nháo, mà các niên trưởng cán bộ ở bên dưới nhốn nháo như có lửa cháy.

Rồi cái gì đến phải đến. Ngày đầu của một tân binh, một tân khóa sinh. Những động tác cho một người lính đã bắt đầu sau khi bước chân ra khỏi phi cơ. Tiếng hò hét của các cán bộ niên trưởng. Tập họp nhanh, đều. Tinh thần đồng đội. Kỷ luật quân đội. Tổ Quốc Không Gian. Hào hùng độc đáo. Ăn cơm nhà bàn. Giày trận áo lính và những bài hùng ca…. theo nhịp bước di hành.

Phút chốc phải quên đi hình ảnh người tình, một cô bạn học dễ thương, cô gái hàng xóm sớm chiều trông đợi…ai, để lao vào cuộc huấn nhục trước cái đã.

Ánh nắng chói chang tại phi trường Nha Trang của trời tháng 3, năm 1973 đang đón chúng tôi, những tân khóa sinh khóa 73F Không Quân. Trước đó, tôi chưa một lần đến Nha Trang, nhưng bản nhạc Nha Trang Ngày Về không phải là bản nhạc xa lạ. Nhưng ngày tôi và các bạn cùng khóa đến Nha Trang là những ngày khác với bản nhạc rất nhiều. Những ngày này tôi quên cả bản nhạc lẫn lời ca. Quên tất cả mọi việc và chỉ còn biết một việc cố gắng cùng anh em, ai tới đâu mình tới đó, để cho qua giai đoạn một tháng huấn nhục, ban đầu tưởng bở, sau mới biết „tưởng dzậy mà không phải dzậy“. Thật kinh…khủng!

Mộng ước đầu đời của thằng con trai vừa mười tám tuổi của tôi không phải là đời lính, áo trận giày sô, để đêm ngày nghe những bản nhạc Anh Tiền Tuyến Em Hậu Phương…, và càng không phải là những anh Không Quân hào hoa, hay Hải Quân với những đoàn tàu lướt sóng ra khơi làm rạng danh đức Trần Hưng Đạo. Tôi có giấc mộng bình thường, được học để sau này làm công chức. Vì chiến tranh nên như mọi bạn bè trang lứa tôi cũng phải xếp bút nghiên theo việc kiếm cung. Và đã đến trại Thùy Dương, Nha Trang, sau khi đã cùng anh em vác sac marin chạy bộ từ phi trường về quỳ gối trước tượng Đại Bàng của Trung tâm huấn luyện Không Quân, để nhận lịnh bắt đầu cho những ngày huấn nhục. Mãi cho đến bây giờ tôi vẫn không còn nhớ bạn nào đã đứng hai bên phải và trái của tôi trong những ngày huấn nhục ban đầu, chớ nói gì đứng trước và sau tôi.

Tiếng hô của các niên trưởng cán bộ đàn anh liên tục, hết niên trưởng này đến niên trưởng khác…. Các ông tà tà phải không? Các ông có biết tụi tôi đã đợi các ông bao lâu rồi không? Ai là… ra trình diện niên trưởng coi. Ông giết bạn bè ông ở trong Tân Sân Nhất phải không. Bây giờ ông giết tụi tôi thử coi. Ai gắn lon thiếu úy dắt đào di dạo ở Sàigòn. Ông nào tự giác coi. Đừng để tụi tôi lôi các ông ra. Lôi ra riêng là các ông tiêu đó các ông ơi…. Tôi dư biết những lời đó là những lời vừa nói thiệt lẫn nói chơi, nhưng lúc đó muốn cười cũng cười không nổi!

Và sau đó là cả khóa chỉ còn biết thi hành lịnh phạt. Ai bò riêng cứ bò. Ai „ma giáo“ bị các niên trưởng phát hiện phải „đi bay“ riêng cứ đi: chống tay trên dĩ sắt nóng, lăng thùng phi trên cát nóng giữa trưa…, còn lại chung cả khóa là bò, là nhảy xỏm, nhảy công lực, hít đất (chớ không phải nằm bẹp xuống đất) vài ba trăm cái là chuyện bình thường. Hết đợt này đến đợt khác, hết món này đến món khác mãi cho đến tận giờ…cơm mới được di chuyển đi bộ đến nhà bàn.

Ở bàn ăn, một điều tôi nhớ rất rõ là không thằng nào ăn nổi, dù là ăn chỉ một phần ba mâm cơm. Riêng tôi chỉ liếm láp vài ba hột cơm, rồi húp nước súp, trên cặp môi đã khô khóc. Cặp môi này vài ngày sau đó đã bị lở ra, vì thiếu nước. Bạn bè, nhìn thằng nào cũng thấy thảm thương, tôi cũng vậy. Tụi tôi chỉ chực kiếm nước uống. Nước lúc này là vàng là bạc. Nước lúc này quý cả hơn người yêu, quý hơn các bản hùng ca. Và bất kỳ nước gì, có cứ uống. Nước rửa chén, nước trong trong hồ tắm, nhà cầu. Nếu có là uống ngay, không còn biết nghĩ đến sạch dơ. Nhưng không, chúng tôi, sau ba bốn giờ „bị quầng“ giữa nắng chang chang giờ chỉ có uống được mỗi thằng ba nắp bi-đông nước, không hơn không kém, còn lại là húp nước mắm! Húp nước mắm lúc này không có việc tự nguyện hay không tự nguyện. Không có việc „ em không thích nước ...mắm, em chỉ thích nước.. đá… lạnh thôi“. Mà là, một hai ba „dzô“ tất cả đều phải húp nước mắm dưới sự giám sát chặt chẽ của các niên trưởng cán bộ. Húp đều đều bằng muổng như húp súp. Uống nước lạnh là các ông bị „i-nap“ hết đó các ông ơi! Uống nước mắm để giữ mồ hôi, để các ông không bị xỉu. Một tháng huấn nhục còn dài lắm!… Vừa uống các niên trưởng còn theo „chăm sóc“ như thế.

Giờ phút này bỗng dưng tôi nhớ đến má và những ly nước đá chanh của những ngày còn nhỏ, thế mới chết! Lúc khoảng 12 tuổi, cứ mỗi buổi sáng trong những ngày hè nghỉ học, tôi hay đạp xe đạp theo ông già đi thăm khu vườn của ông cách nhà khoảng mười cây số. Đến nơi ông chăm sóc cây trái trong vườn, còn tôi chỉ chơi : bắt dế, cào cào, hái trái thù lù ăn. Đến trưa hai cha con mới đạp xe trở lại về nhà. Trời mùa hè ở miền Nam, trưa đứng bóng, đạp xe đi trên một đoạn đường mười cây số về đến nhà tôi cũng „ná thở“. Nhưng một ly nước đá chanh đã làm tôi tỉnh táo lại ngay. Chất ngọt của đường và chua của vitamin làm cơ thể của một thằng con nít sau những giờ đạp xe mệt, trở lại bình thường. Nhà là quán ăn, nếu khi về không gặp má tôi đang ở quán, chăm sóc tôi bằng một ly nước đá chanh, tôi tự động vào làm để uống tùy thích… Còn buổi trưa hôm nay, ở Nha Trang này, mệt hơn những ngày còn nhỏ đến hai ba chục lần, nhưng tôi chỉ có được „3 chun“ nước lạnh! Cái khát như cấu vào cổ.

Cơm nước xong, về phòng nghỉ chút ít cho tiêu cơm, xong lại phải tập hợp ra trở lại ngoài sân để được tiếp tục… huấn nhục!

Có những việc riêng, cá biệt thì riêng anh em biết, hay những người đứng cạnh ở gần biết, những người ở phòng khác chỉ nghe kể lại. Như ngày hai bạn cùng khoá, Tran Tue va Nguyen Van Hop, chết trong lúc huấn nhục tôi cũng chỉ nghe, chớ cũng chưa bao giờ biết mặt hai bạn. Riêng việc uống nước tiểu thì tôi biết một trăm phần trăm vì anh bạn nằm cạnh tôi trong đêm đã uống, tôi thấy và anh bạn cũng đã kể việc này, trong ngày hôm sau khi tôi hỏi cho ra lẽ. Anh nói tại vì khát nước quá, đái ra hứng ở bi-đông rồi uống đại, nhưng cũng chẳng đã khát! Và có những chuyện khác tôi cũng biết như trong những ngày huấn nhục, đang ngồi, nằm đứng gì đó trong phòng (ngoại trừ giờ đêm đi ngủ), hể có một cán bộ nào vừa để chân lên thềm xi-măng của phòng là bạn ở đầu phòng phải hô „vào hàng, phắt“. Hô không kịp cũng bị phạt cả phòng. Ai không kịp đứng dậy cũng bị phạt. Ai cố tình chống đối còn bị phạt dữ hơn. Có các niên trưởng cán bộ còn chơi ác, cứ để chân lên rồi rút xuống, cứ thập thò, vô không hẳn vô, ở ngoài không hẳn ở ngoài, làm thằng bạn ngồi đầu cửa phòng cũng mệt cầm canh.

Sau giờ đi ngủ tất cả đều phải nằm xuống. Đèn tắt. Các cán bộ đi tuần đi rình bên ngoài. Ai lom khom ngồi dậy, tìm kẹo, tìm nước (đã giấu giếm được trong ngày) để ăn để uống mà cán bộ bắt gặp là hôm sau phải đi bay riêng. Cũng có khi đi bay ngay trong đêm, nếu „tội trạng“ xét ra thấy nghiêm trọng.

Hình như trong những ngày huấn nhục mỗi tuần chúng tôi được tắm một lần. Tắm theo 30 (hay là hơn?) tiếng đếm từ 1 đến 30 của cán bộ. 1 là bắt đầu cửi áo quần ra chạy ra chỗ tắm, và 30 là đã mặc quần áo xong (sau khi tắm!) đứng xếp hàng ngay ngắn trong phòng. Các bạn sao thì tôi không biết, riêng tôi, lúc đi tắm, chuyện uống nước là quan trọng, chớ không phải chuyện tắm, dù mình mẩy sau một tuần đã quá bốc mùi.

Trong thời gian huấn nhục, tuần đầu là tuần khổ nhất, xỉu nhiều nhất, và có cả cái chết như tôi vừa kể ở trên, nhưng đến tuần thứ hai là chúng tôi đều biết „ma giáo“, hoặc các niên trưởng cán bộ giả làm ngơ để tụi tôi ma giáo. Tự giác, thành thực là chỉ có chết! Nhất là những bạn làm trưởng toán, các bạn „thông minh“ không thể ngờ. Cán bộ ra lịnh một trăm cái nhảy xổm. Ban đầu bạn đếm còn ra ngô ra khoai 1, 2, 3, chừng vài phút sau thấy niên trưởng cán bộ „lơ là“ là thay vì thứ tự đến 21, 22 bạn đếm ngay 31, 32, như vậy đã ăn gian được mười cái nhảy xổm. Nếu niên trưởng cứ mãi lơ là thì bạn tôi cứ „lo“ đếm lộn. Nếu bạn nào hại bạn (thành thật quá không chịu đếm lộn) thì anh em trong hàng xì xào lên ngay. Lên tuần thứ 3 thứ 4 của một tháng huấn nhục tụi tôi ăn gian (đếm số lộn) là chuyện thường.

Hoặc nếu thấy các cán bộ không nhìn về chỗ mình thì tụi tôi cứ nhún lên nhún xuống, chứ không ai ngu, thành thực nhảy đúng thế một trăm cái nhảy xổm hay công lực. Sau vài ba ngày huấn nhục, cả cặp đùi đều mỏi nhừ, có muốn nhảy đúng thế cũng không ai còn nhảy nổi, nhất là phải đội sac-ma-ren trên đầu mà nhảy. Ngoại trừ muốn nhảy đúng thế xong rồi xỉu…để được khiêng vào bịnh xá.

Ăn gian thứ hai là các bạn bè với nhau từ hồi còn ở ngoài đời, bây giờ dù làm cán bộ trực tiếp coi huấn nhục hay không vẫn tìm cách gián tiếp giúp bạn mình. Ban đêm nhét kẹo chua vào những khe hở của Barrack để tiếp tế cho bạn thêm sinh lực. Dẫn riêng bạn đi để cho bạn uống một miếng nước…cam. Dù sao bạn học từ ngoài đời thì trong cơn hoạn nạn không thể không giúp nhau. Vì ai cũng đã từng biết qua cảnh huấn nhục.

Đến tuần thứ ba, thứ tư chúng tôi được những giờ sinh hoạt trong phòng. Ai nhảy đầm được thì ra nhảy giúp vui cho bạn, ca được thì ca, kể chuyện làm trò cười được thì cứ kể cứ làm… Tất cả là vì các niên trưởng cán bộ muốn để chúng tôi nghỉ ngơi sau một hai tuần bị hành xác tối đa. Hình như trong thời gian huấn nhục khoá chúng tôi được một lần đi tắm biển.

Đêm trước ngày gắn Alfa làm sinh viên sĩ quan chúng tôi phải „đi bay“ suốt đêm ở… dưới giao thông hào, rảnh nước, để chờ ngày mai trời lại sáng, quả là đêm dài…vô tận! Bì bõm lội dưới giao thông hào đầy sìn nước, bên trên cán bộ đàn anh lại còn la hét. Các ông bò không nổi nữa phải không? Các ông có muốn ngày mai gắn Alfa không? Các ông có muốn ngày mai đi phép không? Ông nào không muốn thì lên đây. Đây là cơ hội cuối cùng cho các ông. Các ông có thấy chán KQ chưa. Các ông có muốn ra khỏi KQ không. Chỉ còn vài giờ nữa thôi. Các ông hãy nhanh lên! Mặc các niên trưởng „dụ dỗ“, ai mà dám lên trong lúc „dầu sôi lửa bỏng“ đó. Mà đúng thật, chỉ sau đó vài giờ, khi „ánh bình minh vừa ló dạng“ là thời gian huấn nhục chấm dứt, cũng là lúc không còn thấy bóng một niên trưởng nào ló…mặt để lo cho đàn em nữa. Không như buổi chiếu tối hôm trước, lúc còn trong các Thùy Dương, trước mỗi tân khóa sinh đều có một cây đèn cầy đã được đốt lên. Mỗi khóa sinh đều giữ gìn cây đèn mình, che khư khư chỉ vì sợ gió làm tắt, vậy mà các niên trưởng vẫn đâu có để yên. Các ông có muốn tôi thổi tắt đèn của mấy ông…không? Tắt đèn là cuộc đời mấy ông sẽ tắt theo đó mấy…ông .. ơi! Vậy mà sáng nay không niên trưởng nào dám ở lại để thổi tắt mặt trời, chỉ còn biết trốn về Barrack để ngủ bì cho một đêm thức trắng vì „bận lo“ cho đàn…em. Và chúng tôi đã trở thành sinh viên sĩ quan từ độ ấy.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289847082.jpg

Tết năm 1974, tôi được „về phép“ đặc biệt để thăm nhà vì có điện tín „cha bịnh nặng“. Không chờ được phi cơ, tôi đi từ Nha Trang về Sài Gòn bằng chuyến xe đò Phi Mã. Lần đầu tiên tôi đi theo đường Quốc lộ 1. Đang là lính ở quân trường mà ngày Tết được ở nhà thì không còn gì bằng. Nhưng vì tóc hớt cao, da mặt đen nên tôi cũng ít đi ra đường, chỉ quanh quẩn với ông bà già và chị em trong nhà. Bạn bè, bà con thân nhân nào đến thăm tôi rất vui, chớ tôi ít đi đến nhà ai. Không khí chiến tranh vẫn rình rập ở một làng quê trong tỉnh Phước Tuy này.

Mấy ngày Tết này chỉ có một điều làm tôi vui vui. Đó là gặp lại Thảo, cô bạn gái thời tiểu học và hai năm học đệ thất đệ lục ở trường làng. Tính ra đã bảy tám năm chúng tôi mới gặp lại. Học hết đệ lục tôi rời quê về thị xã học tiếp. Thảo nghỉ học ra phụ nhà bán quán tạp hoá. Ngày mùng hai Tết, Thảo cùng mấy người bạn gái học cùng lớp ngày trước đến thăm tôi, vì nghe nói tôi đi lính ở xa vừa về phép. Ngồi chung bàn ai cũng chọc tôi và Thảo, bởi vì các cô bạn này vẫn còn nhớ cuối năm đệ lục tôi đã gửi cho Thảo một cánh thư tỏ tình. Thú thật tôi cũng không còn nhớ việc này! Đúng là các cô gái tinh tế hơn đám đàn ông con trai, những kỷ niệm về tình yêu họ thường da diết nhớ. Nhớ hoài. Họ không quên được „người đi qua đời tôi“ dễ dàng như đám con trai. Lúc Thảo vừa 12 tuổi, „phải lòng“ Thảo, tôi đã biết viết những lời tỏ tình vô tội vạ, vậy mà giờ cô gái Thảo 19 tuổi đang ngồi trước mặt tôi, tôi vẫn dửng dưng. Có lẽ đời sống lính tráng, quân trường đã làm tôi mệt mõi, không còn nỗi hưng phấn với tình yêu. Tôi đang chờ ngày trở lại quân trường Nha Trang, chờ những ngày tháng căng thẳng sắp tới. Các bạn đều nói tôi đen nhưng thấy vẻ khoẻ mạnh. Đúng là nhờ cơm nhà bàn.

Tôi cũng không ghé qua tìm gặp Quyển trên thị xã Bà Rịa, dù trước ngày đi Nha Trang, hình ảnh cô vẫn lảng vảng bên mình. Tôi chỉ có 6 ngày phép, ngày đi ngày về đã mất hai. Nên bốn ngày phép còn lại tôi dành trọn cho gia đình. Còn chuyện thăm lại Quyển, Hương tôi muốn để khi nào tôi rời Nha Trang trở lại Sài Gòn luôn cái đã. Trong bốn ngày phép, sáng, chạy xe Honda từ thị xã Bà Rịa về làng thăm cha mẹ, chiều đã lo trở lại thị xã. Dù Tết, nhưng với tình hình an ninh, là người lính tôi không thể lơ là được. Như lúc ở trên đường từ Nha Trang về Sài Gòn cũng vậy. Gần đến Rừng Lá, Long Khánh, tài xế thường nhét chúng tôi vào ngồi giữa, vì theo kinh nghiệm các tài xế sợ „bên kia“ ra chận đường bất tử.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1289847144.jpg

Nhờ những buổi sáng sớm chạy xe Honda qua những làng quê trong những ngày Tết, tôi mới tận hưởng được trọn vẹn không khí Tết. Buổi sáng thật yên bình khi xe chạy ngang những cánh đồng, qua những làng quê, đì đùng tiếng pháo nổ. Về đến làng, trên đường gặp đầy những bộ quần áo mới đang di động của trẻ con làm trong lòng tôi thấy vui hơn, quên hết mọi chuyện, kể cả những thằng bạn thân giờ này đang nằm trong quân trường ở miền thùy dương nắng gió.

Sau mấy ngày phép tôi trở lại Nha Trang, trong tay mang theo những phong bánh ngọt. Ngay buổi tối, pha nước trà, mở phong bánh ra, đãi vài người bạn thân trong phòng, tôi quên ngay những ngày Tết vừa qua, chỉ còn lại là bắt đầu cho một ngày mai trong quân trường cùng các bạn.

Thời chúng tôi vào lính là thời cuối cuộc chiến. Thời cuộc đã nhốn nháo. Viện trợ cúp. Thiếu thốn đủ điều. Chính phủ, Bộ TTM, các quân binh chủng đều tập trung lo chống trả với địch quân ở các chiến trường, chớ đâu có phải như thời gian trước, còn yên bình, còn dồi dào viện trợ để lo cho các tân khóa sinh, lính mới, các quân trường. Chúng tôi đành cam chịu sự thiếu thốn nhưng vẫn làm tròn lời hứa với QLVNCH. Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm, Tổ Quốc Không Gian vẫn khắc ghi.

Cho đến ngày cuối cuộc chiến, tính theo âm lịch ngày tháng này là cuối mùa xuân. Nhưng xuân năm này đúng là xuân tan thương! Vì chiến tranh đã và đang đến hồi cao độ. Tây nguyên mất, miền trung mất, miền duyên hải nam trung phần mất, Long Khánh mất và cuối cùng là chính một bạn trong khóa 73F chúng tôi đã bắn cháy một chiếc xe T54 và đổi lại là Trinh Văn Ta, cũng khoá của chúng tôi, đã tử thương ở giờ thứ 25, vì bị đạn từ chiếc xe tăng này bắn trả lại tại cổng quân trường Bộ Binh Thủ Đức, sáng ngày 30 tháng 4, 75, khi xe tăng chạy vào cổng quân trường.

Chúng tôi vào lính là những SVSQ Không Quân, nhưng trớ trêu thay, ngày Quân lực VNCH tan hàng, 30 tháng 4, 75, đại đa số chúng tôi lại là những sinh viên sĩ quan KQ, cùng với những sinh viên sĩ quan Đà lạt, Thủ Đức „trấn thủ lưu đồn“ ở trường Bộ Binh Thủ Đức (cũng có các bạn cùng khóa đã học bay xong và đang ở các phi đoàn), nằm ở cửa ngỏ vô Sàigòn „để cản“ những chiếc xe T54 đang ồ ạt tấn công vào thành phố ở mạn đông này. Chúng tôi vẫn ghìm tay súng và chỉ bỏ súng rời trường Thủ Đức sau khi tổng thống Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng, các sĩ quan cán bộ cho lịnh giải tán. Tan hàng, chia tay với lòng thanh thản, nhưng buồn. Thanh thản là vì mình đã làm tròn bổn phận của người thanh niên trong thời đất nước có chiến tranh. Còn buồn cho vận nước vì sự kết cuộc của một cuộc chiến.

Buổi sáng hôm đó, khi tôi ra khỏi trường Thủ Đức với Hảo bằng con đường mòn nhỏ bên hông trường, mặt hướng về Sài Gòn, vừa đến chỗ ra đã có những anh bộ đội cộng sản người Bắc hùng hổ chạy tới, tay chỉa súng Aka, vai quấn vải đỏ, bộ tịch dữ dằn, tra hỏi lung tung, thái độ của kẻ chiến thắng. Giờ, sau ba mươi mấy năm, mình chạy trước họ chạy sau (vượt biên, vượt biển ra khỏi nước, đi lao động, du lịch, hay bằng cách này hay cách khác để rời VN), cuối cùng mục tiêu rồi cũng tìm cách đến với Mỹ, Tây Âu. Bây giờ đại đa số cán binh, cán bộ cộng sản soi lại tâm mình lòng mình, hầu hết đều nói, cuộc chiến vừa qua, không có ai thắng ai thua, chỉ có một người thua là dân tộc VN. Câu nói quả cũng đáng suy nghĩ. Còn Hảo, chiều ngày 1 tháng 5, 1975, hai đứa chia tay tại Bà Rịa đến nay tôi vẫn chưa gặp lại.

Trong năm này, ngày 4 và 5 tháng 7 năm 2008, khóa 73F có tổ chức Ngày Hội Ngộ ở Virginia sau 33 năm kể từ ngày tan hàng, 30 tháng 4 năm 75. Khóa có trên dưới 350 anh em, nhưng ngày hội tụ chỉ có khoảng trên dưới 20 niên trưởng về dự. Con số thật ít ỏi! Nhưng cộng với vợ con, và các niên trưởng Không Quân ở các khóa khác, tất cả khoảng gần 70 người. Tôi không có mặt nhưng nghe nói rất vui. Đủ trò. Xôm tụ. Nhậu nhẹt. Kể chuyện vui, chuyện cũ, chuyện huấn nhục. Đấu láo. Chụp hình kỷ niệm...Tuấn râu, Tuấn sữa, Tuấn Tabert, Thắng (ở Virginia) đứng ra tổ chức. Các Bạn và các bà xả nghe nói rất mệt, rất bận, nhưng vui, vì tổ chức được cho các bạn hội tụ là vui rồi. Có Hiển,Thưởng ở những tiểu bang đông bắc gần đó về phụ. Có cựu đại úy Thắng, sĩ quan cán bộ ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân/ Đoàn sinh viên sĩ quan, cùng phu nhân về tham dự. Có mặt trong hai ngày hôm đó có Tâm và Lễ ở Âu Châu qua. Ở Canada có Lợi, Hoàng nhí. Ở Mỹ có Hân, Lập, Định, Giảng, Trung, Minh (GA)), Minh (CA), Toản, Tỉnh, Nhựt.... Con số ít ỏi nhưng cũng đại diện cho vài quốc gia ở hải ngoại này. Chỉ tiết là ở VN không ai qua được vì không gian cách trở, hoặc các NT ở VN chưa chuẩn bị kịp. Lần khác chắc chắn sẽ có các NT ở VN tham dự. Tuy nhiên dù không gian cách trở, nhưng vẫn có những bạn từ VN đã viết email chào mừng Ngày Hội Ngộ của khóa 73F.

Ngày nào trẻ trung, mười tám hai mươi, cùng chịu cực khổ trong quân trường, cùng chịu đựng những lần “hành xác” trong bốn tuần huấn nhục ở Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang, cùng làm SVSQ Không Quân của cái thời chiến tranh Quốc-Cộng, thời của những nỗi buồn át hẳn những niềm vui, vậy mà nay, khi gặp lại nhau ai cũng tươi cười. Nhìn hình các bạn tôi cảm được sự lạc quan yêu đời trên từng gương mặt, ánh mắt.

1) Tựa một truyện dài của nhà văn Phan Nhật Nam

Vũ Nam

hung45qs
11-17-2010, 04:57 PM
NỖI NHỚ HẮT HIU


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290013416.jpg

Tờ bạc mới em cho làm kỷ niệm
Của đời nhau mong sẽ đẹp sau này
Chỉ mấy mươi đồng mà nghìn kỷ niệm
Mỗi đông về nỗi nhớ hắt hiu bay

Bốn câu thơ tôi đã tình cờ đọc đâu đó trên một tờ báo văn nghệ trước năm 1975, bài thơ cũng khá dài nhưng tôi chỉ nhớ lõm bõm vài câu, mà tên tác giả cũng không tài nào nhớ nổi, tuy nhiên , cứ mỗi độ xuân về , những câu thơ này cứ như một kỷ niệm nào đó nằm trong một phần đời đã cũ của mình cứ tự dưng hiện ra trong đầu mình, và quả thật nhiều lúc nó làm tôi bần thần cả người vì một nỗi nhớ nhung nào đó không rõ ràng nhưng cứ thoắt ẩn, thoắt hiện . . .

Chiều nay nỗi nhớ đó lại về trong tôi, nó khiến tôi như muốn trốn chạy, muốn thoát ra khỏi cái không gian nhộn nhịp của những ngày giáp tết, cái vội vã đua chen của cuộc sống quanh mình chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa thôi nên mọi người hối hả mua sắm, hối hả trả tiền, hối hả đòi nợ, chỉ riêng tôi( hay còn nhiều người khác nữa cũng có tâm trạng nhưng mình không biết ), tôi thấy mình lạc lõng và buồn bã thế nào đó trong cái hối hả của mọi người

Quán không lớn lắm, khung cảnh đìu hiu buồn bã như mùa xuân không hiện diện nơi này, chủ quán ôm cây guitar thùng bập bùng bài “Niệm khúc cuối ” , tôi rít một hơi thuốc, nghe lòng mình chùng xuống từng nỗi nhớ nhung “Dù có ước, có ước ngàn lời, có trách một đời cũng đã muộn rồi . . .” Ông Ngô Thụy Miên ơi! Sao mà ông hay thế, chắc ông cũng đã từng có tâm trang như thế phải không? Cám ơn ông đã nói hộ tôi những gì thầm kín mà một thằng đàn ông trong tôi nhiều lần muốn mà cái tự ái to đùng khiến tôi bao lần phủ nhận, khiến tôi bao lần nói cái điều ngược lại với lòng mình. Để hơn ba chục năm đau khổ lại tiếp tục khổ đau vì những giằng xé trong nhau

Cái tự ái to đùng đã một lần nữa khiến tôi ngồi hiu hắt trong quán nhỏ ngoại ô để thầm trách móc, để thầm ước mơ, để thầm lẩm nhẩm những câu thơ vô nghĩa :
Chiều ba mươi buồn qua giọt nước
Khoanh tay mà đứng đợi ai đây
Thèm ánh mắt ru lòng về phố
Ở chốn người chắc lắm men say

Chủ quán nghe tôi âm ư mấy câu thơ, thì buông đàn nhìn tôi thở dài.. Nó làm như hiểu tôi lắm hay sao đó nên nói vọng qua
- Làm ly rượu cuối năm với em nghe anh
- Ừ thì làm một ly, rượu gì đó nhóc?
- Trời đất, người ta râu mọc đầy mà anh kêu là nhóc- rượu này bảo đảm trên cả tuyệt vời, chính gốc bàu đá, thuốc rượu do chính tay mẹ em ngâm, thang gia truyền đại bổ, sau đó ngâm thêm sâm và đại táo, rượu này có tuổi trên chục năm rồi
- Nhóc xạo vừa thôi, xuất xứ rượu thì tao tin, thuốc ngâm tao cũng tin, còn hơn chục năm thì tao không tin
- Sao anh không tin chứ
- Không tin vì tao e rằng mẹ mày không cho thì mày cũng uống hết của bả từ mười đời chin kiếp rồi
- Trời đất, anh nghĩ sao mà nói vậy? Đừng có coi mặt mà bắt hình dong nghe, em bặm trợn vậy chứ có biết uống rượu đâu
- Không biết uống mà má mày ngâm, chắc bả ngâm cho ông già mày hả
- Không có, ông già em không biết uống rượu, mà ổng cũng bỏ mẹ con em theo người khác lâu rồi, chắc ổng có biết uống, mẹ em cũng sẽ không ngâm cho ổng đâu, là em, em cũng không thèm nhìn ổng chứ nói chi mẹ
- Ê mày, mày có phải đàn ông không? Mày phải rộng lượng một chút chứ nhóc, rủi sau này mày bay bướm con nào về vợ mày nó đuổi luôn thì tính sao đây ?
- Em không thèm cưới dzợ
- Trời đất, mày đi tu chắc, có thất tình con nhỏ nào không mà nói chuyện chán đời dữ mày
- Không, nhưng em thấy mẹ với ông già em chán, lấy vợ làm gì để đẻ con ra bỏ rơi rớt như thế
- Bậy mày, có ông già tía mày thôi chứ đâu phải ai cũng thế, anh mày đây nè, có cưới đâu- cặp nhau ở có con rồi giờ cũng phải mang một gánh giang san
- Chi mệt , ở không cho sướng đời
- Ê, không được ở không, mấy con nhỏ ế chồng nó kiện mày lên tới thương đế à
- Tụi con gái mà sợ ế, hổng dám đâu- tụi nó đá trai Việt đi lấy tàu phù hết trơn rồi ở đó mà anh lo tụi nó ế
- Ê, mà bà già mày sao không lấy chồng khác đi, ngồi đó mà ôm chi nỗi tiếc hận
- Ê, không được đụng tới mẹ em à nghen, nói chi thì nói, đụng tới mẹ em là không được, kể cả gọi mẹ em bằng bà già cũng không à nghe
- Ê, cái thằng này, mẹ của nhóc chứ bộ má của anh mày hay sao mà bắt bẻ - Chắc mày thương mẹ mày lắm hả- thôi, mày muốn thì tao không gọi như thế nữa, nhưng mày làm tao tò mò quá- má mày đẹp không nhóc
- Đẹp xấu tùy mắt người nhìn, nhưng theo em thì mẹ em đẹp
- Mẹ mày ở đâu
- Ngoài quê chớ đâu
- Nhóc ở đây với ai
- Em với mấy đứa bạn hùn mở quán , em ở tại quán này chớ đâu, anh là khách quen mà hỏi kỳ dzậy
- Trời đất! thằng nhóc này lạ nghe, quen thì quen chứ làm sao anh mày biết mày ở đâu, à mà quê nhóc ở đâu
- Em dân gốc nẫu
- Nẫu là sao- là dân Bình Định hay dân Huế
- Sao lại dân Huế, anh có lầm lẫn không
- Không, tao biết “nẫu” là dân Bình Điện của nhóc, nhưng hồi tao đi Không Quân, tụi Nam kỳ tao đụng với mấy thằng Huế, tụi tao không ưa tụi nó nên gọi tụi nó là mấy thằng nẫu
- Trời đất, nẫu tụi em dễ thương hết hồn luôn mà anh lại gán ghép kiểu đó coi bộ không ổn rồi
- Biết rồi nhóc, nhưng sao mày không về quê ăn tết với má mày- ba mươi tết rồi mà mày còn tình tính tang ở đây là sao
- Sao là sao, sao anh không về nhà với dzợ con mà ngồi đây với thằng em này, lại còn bày đặt thắc mắc này nọ là sao
- À, tao có cái tật cuối năm lại buồn nản và thích lang thang một mình cho quên sầu mà nhóc
- Quên sầu là sao
- Là sao, là sao, sao nhóc hay hỏi linh tinh vậy- phục vụ coffee cho anh mày đi chớ nhóc
- Anh uống gì ?sao lạ vậy, có khi nào anh uống cà phê đâu, anh “ bất hiếu muôn năm” mà
- Ê thằng nhóc, sao mày nói anh mày bất hiếu
- Trời đất, ngó vậy mà anh cũng cù lần dữ , bất hiếu là đánh cha, đánh cha là đá chanh
- Thằng này nhiều chuyện, tuổi nhóc mà cũng xài chữ ‘cù lần”, chắc mày bắt chước bà già mày
- Má em hay chê em là cù lần
- Dzậy sao? chắc là má mày cùng thời với tao, năm nay bả nhiêu tuổi rồi
- Ai lại đi hỏi tuổi phụ nữ, má em là má em, anh hỏi tuổi làm gì
- Cái thằng nhiều chuyện ác đạn, tao hỏi mày chứ có hỏi trực tiếp má mày đâu mà mày bắt bẻ
- Ừa há, má em cũng gần sáu bó rồi
- Sáu bó?
- Là sáu chục đó
- Trời, má mày lớn dzậy sao ?, nhưng chắc còn nhỏ hơn tao, bữa nay không được gọi tao bằng anh nghe, chú hay bác mới được, vì chắc chắn tao lớn hơn má mày, không chừng hồi xưa bả là người yêu tao
- Anh đúng là khùng rồi, anh có biết má em đâu mà nói tầm bậy vậy chớ
- Ừa, chắc tao khùng, thôi, đi pha cho tao ly cà phê không đường, cho chút rượu rhum vô nghen nhóc
- O.K. có liền. À mà anh có uống rượu của má em không
- Thôi nhóc, uống xong ly cà phê của nhóc về tới nhà chắc cũng sắp giao thừa- tao phải về trước giao thừa không thì con vợ tao nó cằn nhằn rằng tao là tuổi con mèo, suốt năm kêu meo meo, nghe giống chữ nghèo nên nó làm ăn không nên nông nổi, không được xông đất nhà nó, mẹ kiếp, nhà tao còng lưng làm ra mà tối ngày nó đòi là nhà nó- mà nó thì có ngon lành gì hơn anh mày đâu chứ, cái đồ con dê cái
- Thôi anh về đi, khỏi uống cà phê, anh có biết uống cà phê đâu mà còn đòi pha rhum vô
- Ừa thôi tao về- hẹn mày năm tới nghe nhóc,
- Chúc anh năm mới vạn sự như ý
- Cám ơn nhóc, chúc mày sang năm có dzợ nghen.
Tôi lang thang qua những con đường về nhà với nỗi nhớ hắt hiu trong lòng, thấy mình sao giống thằng khùng quá - Chúc mọi người một năm con cọp khỏe như cọp nghen

AC Tan

hung45qs
11-19-2010, 04:56 PM
Nửa Giờ Bay

Lời trần tình:
Tôi viết bài nầy để tưởng nhớ NT 72E Phan v Mang, đã bỏ mình ở Sheppard AFB, chuyến bay solo của NT Mang crashed trước tôi chỉ vài tuần lễ. Để tưởng nhớ Lê văn Lộc, thằng bạn bay cùng lớp đã ra đi vì bệnh ung thư năm 2003.

Tặng Đinh quốc Cường, cũng là bạn bay cùng lớp, người đã bật mí cho tôi làm sao để kéo những cái LOOP thật tròn trịa.

Xin tặng tất cả pilots thụ huấn các khoá bay phản lực ở Mỹ, đặc biệt là ở Webb AFB, khi tôi có nhắc đến những 'Landmark' trong hồi ký nầy.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290185868.JPG

Tôi chuyển tần số từ "Webb Departure" sang "Webb arrival", và gọi :
'May day, May day. This is Webb one five, solo, declaring an emergency'.
Ngay tức khắc, có tiếng trả lời xuyên qua intercom:
'Webb one five, report your position'.
Tôi tiếp tục: 'Webb arrival, this is Webb one five, one zero thousand feet, Vealmoor. Fuel gauge displays only 300pounds on each wing, after approximately two-zero mins airborne'.
'Roger, Webb 15. Will provide vectors back home, turn to heading niner zero and descend to eight thousand feet'.

'Webb one five solo' là call-sign của tôi. Ngày đó, tôi được cắt bay đơn phi cho một phi vụ huấn luyện, vùng trời nằm ở phía bắc của căn cứ, ở trên cái hồ có tên là JB Thomas. Đây cũng là một trong những chuyến bay cuối, tôi đang chờ đợi một ngày mãn khoá học, một ngày về...
Lúc đó, tôi có khoảng ba trăm giờ bay.

300 giờ ! Thật ra, có không ít 'giờ' được 'bay' trong 'Link', đúng ra là bay trong T-37-simulator, mà IP là một thượng sĩ già, rất gân, ông ta bay nhuyễn nhừ khiến nhiều người khâm phục. Bay link thời xưa, có cái sướng là tha hồ mà kéo, pilot sẽ không bị ăn G's, sẽ không có 'black-out', và nếu có crashed, người hoa tiêu vẫn còn cơ hội để kêu Trời.... Ở đây, nó cũng huấn luyện cho hoa tiêu làm quen nhiều hơn với phi cụ, khoá sinh dán cặp mắt của mình trong phòng lái, tương phản với một chuyến bay dual thật, trên đó, cái 'mõm chó' thường bị IP kéo qua, kéo lại, kép lên, kéo xuống và phán: "Clear, clear, V.F.R".


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290185942.JPG

Lúc dispatching (ký nhận máy bay) hồi 10:15 sáng, tôi đã hoạch định một chuyến bay thích thú, ngoài vùng cao (high-area), tôi sẽ log ít nhất 1.5 hay 90 phút trên vùng trời của thành phố Big Spring. Tôi sẽ kéo cho thoả thích những cái LOOP, mà sẽ không có ai khen tròn chê méo, đây là cơ hội tôi sẽ làm vài cái BARREL ROLL, mà thường bị IP chê là 'bay như con nít mới đẻ', bị chê là 'Bà ngoại của tao, còn bay hay hơn mầy'..., hay là tìm một cái ngã tư dưới đất để pull một cái CLOVERLEAF....Sau đó, sẽ quay về làm vài cái 'Touch n Go' overhead traffic pattern.

Đời khoá sinh, đố ai quên được những cái LOOP bị IP chê 'xấu như c.ứ.t', hay những khi làm LOOP, ăn G's, lỡ có lệch lạc một chút, thì tôi không bao giờ quên lời kể của thằng bạn cùng lớp, học trò của IP Conklin. Rằng," khi mầy làm LOOP, thì nhớ kéo cái cần lái ngay con c..c của mầy".?.?

Nhưng, chuyến bay đó đã bị tôi hủy bỏ sau 0.5 giờ cất cánh.

Tôi đeo ear-muffs, vai vác theo chiếc dù, hai tay xách nón bay và checklist, đi bộ ra RAMP như những chuyến bay trước. Tiếng máy rú nhè nhẹ phát ra từ những chiếc T-37's, T-38's nghe dể thương làm sao, những âm thanh quen thuộc đã làm bạn với biết bao khoá sinh xa xứ, quen thuộc đến nỗi, người phi công có thể phân biệt được rõ ràng, đó là âm thanh của T-37 đang bẽn lẽn taxiing, hay tiếng rú gầm gừ hết ga, sắp sửa rời phi đạo của T-38. Còn nữa, ở đây... các bạn của tôi còn có dịp chiêm ngưỡng thêm những khúc lửa, màu xanh dương, AFTER-BURNERS của những T-38's TALON, nhất là lúc cất cánh khi trời vừa tờ mờ sáng.

Tôi vẫy tay chào thân mật với anh crew-chief, máng nón bay lên móc windshield, anh crew-chief lịch sự giúp hộ tôi để chiếc dù lên ghế trái. Sau một vòng kiểm soát như thông lệ, tôi leo vào cockpit bắt đầu một chuyến bay...

Dùng phi đạo 17R quen thuộc, tôi cho phi cơ cất cánh đúng 90Knots, những 'gear-up', 'flaps-up' hay 'trim', chắc không cần phải nhắc tới nữa, vì chúng đã đi vào tiềm thức. Tôi thoải mái leo từ từ về hướng bắc, với 1000 bộ/phút, trong khoảng hơn 10 phút bay, tôi đã có mặt ở cao độ mười ngàn bộ. Tay vợ 'un-hook' cái chốt dù, tay mặt tôi 'switch-on' 100% Oxygen, rồi thì tay vợ lại bấm intercom, tôi gọi Webb departure channel:
'Webb departure, Webb one five, solo, one, zero thousand feet', cũng ngay trong lúc đó tôi đẩy nhẹ cái 'toggle-switch' qua trái, rồi phải của cái 'Fuel gauge'. Danger...

Chỉ còn non 1000 # xăng khi chưa đầy mười lăm phút bay? Tôi có đọc lộn không? Tôi bình tĩnh, kiểm điểm lại một lần nữa. Lần nầy, để cho thấy rõ ràng, cùng một lúc, hai tay tôi đẩy lên tuốt luốt hết hai cái visors, lõ to cặp mắt theo dõi cái kim xăng.

300 # xăng mỗi cánh!
Hệ thống xăng chắc chắn đang có vấn đề, tôi kết luận nguy hiểm đang theo tôi trong chuyến bay.

Khi bàn đến 'Emergency' trong đời bay bổng, trong lớp của tôi, cũng có vài trường hợp đã xảy ra trong các phi vụ huấn luyện tương tự, tôi nhớ, nhưng hầu hết là phi vụ DUAL, ngoại trừ một 'Lê văn Lộc', xuất thần trong chuyến đơn phi-emergency, khi anh trở về đáp an toàn trước những FLARE màu xanh (clear to land), được RSU bắn ra ngay đầu phi đạo. Ngày ấy, Lộc bị 'lost radio' và đã bay vắt võng (rock-wing) 1000 feet trên phi đạo.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290186064.JPG

Bây giờ thì đến lượt của tôi, chỉ có một mình giữa trời, với một chiếc máy bay bệnh, xăng nó ngốn gấp 2,3 lần bình thường, hay là nó vừa bay vừa đái ra xăng ? Ai biết nó sẽ chết máy, hay có thể cháy lúc nào đây? Trên vòm trời Vealmoor, ở cao độ nầy, xuyên qua lớp mây mỏng, tôi có thể thấy được cái phi trường phụ, bỏ hoang "Peckerwood", mà khi bay DUAL, nó được dùng cho 'straight-in' landing với IP, chỉ dài bằng cái tăm xỉa răng, mờ mờ dưới cánh, tôi có thể xin đáp đại ở phi trường nầy mà!

Nhưng Webb radar đã cứu tôi, bằng giọng nói rõ ràng, chậm rãi, tôi đã được hướng dẫn, từng bước một, phi trường quen thuộc đang hiện ra trước mũi phi cơ, tôi đang trở về, bình phi 200 Knots, heading 170, 1000 feet AGL.

Chuyển sang tần số của RSU, tôi bấm máy:
"Horntoad, this is Webb one-five, radar initial". Không có tiếng trả lời trong tích tắc, rồi sau đó là những đối đáp chí choé, quen thuộc nhưng rất trật tự trong over-head traffic pattern.
Nào là "Tweet 24, gear-check", rồi tới " Tweet 40 request closed" rồi "Negative closed", hay "Webb XX on the go", nhưng tôi âm thầm cảm ơn một phi cơ bạn đang bay ở 45-initial, nhìn từ chiếc ghế trống, không có IP, từ phía 1 giờ, bạn đó đã "break-out" để nhường cho tôi một spot trong traffic-pattern, mặc dù:
Thứ nhất, tôi đang có quyền ưu tiên vì đang bay về từ vùng, tiếp đến tôi đang ở trong một tình trạng khẩn cấp.
Đến đúng cái điểm quen thuộc giữa phi trường, tôi nghiêng tàu 60 độ về phía phải, rồi bớt ga, thả 'speed-break', 2g's, tôi hạ bánh-đáp trong tiếng 'BIP BIP BIP' ở 'inside downwind', vừa hạ hết cánh cản, nhìn chòng chọc vào 3 cái đèn xanh, sáng lên trong màu xanh lá cây, trong hơi thở hơi dồn dập, lúc nghiêng cánh vô final, tôi ráng bình tỉnh:
'Webb one five, solo, gear check, full stop'.
Khác với bao lần chạm bánh của những chuyến bay trước, lần đáp này, với một thoáng lo âu, hình như hai cánh của tôi có chút chao đảo trên một phi đạo thênh thang đang dâng lên, dâng lên, tôi nghe hai bánh-đáp chạm đất, nặng trĩu, vụng về..., có một xe cứu thương bật đèn đỏ, chớp chớp chạy theo sau, cái đèn đỏ 'LOW-FUEL' sao đúng lúc quá, bật sáng chình ình trước mặt.

Vận tốc của chiếc máy bay chậm lại thấy rõ, khi cái nắp 'canopy' ngoan ngoãn từ từ vươn lên cao, bọc gió. Tôi ngừng hẳn chiếc T-37 bên cạnh xe cứu thương ở cuối phi đạo. Nguy hiểm đã hết rồi, tôi định là, mình cứ thoải mái tắt máy theo cái checklist. Không, tôi không nhớ rõ lắm, hình như là tôi đã dùng tới 'Emergency shut-down procedures'. Tiếng máy bị shut down nghe cũng dễ thương làm sao.
Đó là một chuyến bay thách thức và ngắn ngủi cho một khoá sinh như tôi. Đây là lần đầu tiên, chỉ một lần thôi, tôi đã không dùng tới những thói quen SHUT-DOWN của checklist, ngược lại tôi còn có cơ hội để "E.M.O".... Vừa lúc toggle cái Battery switch OFF thì cũng là lúc một sĩ quan an phi mở dây an toàn cho tôi, tôi leo xuống mang theo cả chiếc dù trên vai, lôi theo cái helmet trên đầu còn lủng lẳng cái mõm chó, được rước về phi đoàn bằng ambulance, chấm dứt một chuyến bay đáng nhớ, khoảng chừng nửa giờ nhưng đầy thử thách.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290186226.jpg

Hôm sau, bình xăng chính trong bụng phi cơ được báo cáo là bị nứt trong khi bay. Ôi, hai cánh xăng cứ vô tình tiếp tế, mà bình xăng chính cứ vô tư xã JP4 ra không gian. Với số lượng thất thoát như thể nầy, tổng cộng 2000#, ước đoán sẽ cạn khô trong vòng 45 phút.

Xin được mạn phép chú thích những 'từ' được kể bằng tiếng Anh:
"WEBB departure": tần số cho các phi vụ đi ra vùng.
"WEBB arrival": tần số để liên lạc từ vùng trở về.
"Webb XX, solo": call-sign cho đơn phi ra ngoài vùng.
"Webb XX, solo stage" call-sign cho đơn phi traffic patterns, "Touch n Go" landings.
"Tweet XX": call-sign của phi vụ Dual T-37 (bay với IP).
"Big Spring, Vealmoor, Snyder, Peckerwood" là tên những địa danh ở đây.
"Horntoad": call-sign của R.S.U. Runway Supervise Unit T37.
"Request closed": dual maneuver at Webb, shortcut, pull to inside-downwind, on takeoff leg, only with RSU's approval in Overhead Traffic Pattern.

Trương Kim Sang

hung45qs
11-22-2010, 05:17 PM
Tháng Tư Nhớ Nhà


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290446374.jpg

Nhớ nhà, ai nhớ, nhớ ai !!
Nhớ môi em mộng, nhớ vai em tròn
Nhớ xưa khi tuổi còn non
Nhớ về quê cũ thon von thả diều
Nhớ từng con phố đìu hiu
Nhớ chiếc xe đạp dập dìu trường tan
Nhớ khi lẻo đẻo theo nàng
Nhớ đôi mắt biếc rộn ràng tim ai
Nhớ chừ chưa tỉnh cơn say
Nhớ em, nhớ, nhớ, nhớ hoài không phai
Nhớ khi tập tểnh làng bay
Nhớ chiều phi đạo miệt mài trời mây
Nhớ bè bạn, nhớ tao mầy
Nhớ lần dạo phố ngất ngây bên nàng
Nhớ tháng tư lệnh tan hàng
Nhớ ôi lần cuối ta choàng áo bay
Nhớ đời tàn tạ chông gai
Nhớ điếu thuốc cháy trên tay vội vàng
Nhớ lần giả biệt xóm làng…
Nhớ lúc sóng vổ lang thang “biển đời”
Nhớ khi “cặp bến” đến nơi…
Nhớ “nước mắt nóng” tuôn rơi hai hàng
Nhớ đấy ngỡ “cảnh thiên đàng”
Nhớ ôi là nhớ “muộn màng đời trai”
Nhớ khi tìm kế sinh nhai
Nhớ cảnh vinh nhục tháng ngày tha phương
Nhớ thân lưu lạc đoạn trường
Nhớ ai anh nhớ xót thương phận mình

Tân Già 72A

hung45qs
11-23-2010, 06:39 PM
Phi Vụ cuối cùng

Lời mở đầu : Trên mảnh đất bình yên này, nơi xa cách Việt Nam ngàn dặm đường, cứ mỗi lần nhìn lên khoảng trời xanh mênh mông, rồi bỗng bắt gặp một chiếc phi cơ nào đó lướt qua, lòng tôi lại chùng xuống khi hồi tưởng lại những người bạn đã một thời cùng với mình bay bổng ngày xưa Mới buổi sáng hai đứa còn ngồi trong phòng hành quân để cùng trò chuyện, thì buổi chiều, trong một phi vụ kế tiếp, đã ra đi vĩnh viễn theo cánh bay.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290538262.jpg

Nhớ những phi công đàn anh, gan lì, đầy dũng cảm, mới ngày nào còn dạy cho tôi những kinh nghiệm bay đầy quý giá, đáng lẽ phải sống để nêu danh người phi công Việt hào hùng, thì đã gãy cánh bay trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến.

Nhớ những người bạn phi hành trẻ trung, đầy vô tư, đầy nhiệt tình trong nghiệp bay bổng, hôm nào còn cùng nhau đùa giỡn và kể cho nhau nghe những phi vụ ác liệt, thì nay chẳng còn nữa.

Những chàng phi công vô danh, họ chẳng cầu mong tên tuổi được nêu danh, nhưng đã sống và chết trong da sắt bọc thây.

Và rồi trong những ngày kỷ niệm về Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trên mảnh đất xa quê hương ngàn dặm này, lúc mọi người Việt đốt nén hương lên để tưởng niệm những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua, tôi lại xúc động khi nhớ về những người anh, những người bạn "bay" năm xưa mà giờ đây không còn nữa.

Nhiều lúc tôi muốn quên đi, muốn thu mình lại cho lòng được thanh thản, muốn nhồi nhét vào trong cùng kịt tủ áo chiếc áo bay ngày nào đã cùng tôi một thời tung bay trên bầu trời Việt, nhưng kỷ niệm cũ vẫn luôn trở về .......

Tôi về trình diện Phi đoàn 520, một phi đoàn mang danh hiệu Thần Báo, trực thuộc Sư đoàn 4 Không quân, tại căn cứ Trà nóc, tỉnh Cần thơ, sau bốn năm dồi mài kinh sử trong trường Võ bị Quốc gia Việt Nam, và ngót hai năm huấn luyện tại Mỹ để trở thành phi công cho chiếc khu trục A-37. Một khu trục cơ xinh xắn, gọn nhỏ như thân hình người Việt, tuy nhiên cũng gầm thét đến đinh tai, nhức óc vào mỗi lần được những chàng phi công mở máỵ

Lúc mới về, tôi rất phân vân. Toàn thể Phi Đoàn tôi, từ vị Phi Đoàn trưởng cho đến tất cả sĩ quan phi hành đoàn, đều là dân Không Quân "gốc", còn tôi, "lọt chọt" là một anh lính tàu bay từ quân trường khác đến, không hiểu có bị "đít cờ ri mi nết" không !

Vòng trình diện vị Phi Đoàn Trưởng của tôi đã qua, không có gì trở ngại Ông ta chỉ hỏi tôi qua loa về việc học, rồi chỉ định cho tôi về phi đội A của Phi đoàn, và không quên chúc tôi cố gắng trong bước đường bay bổng. Chiều nay, tôi phải đi trình diện Đại Úy Sơn, vị Phi Đội trưởng mà tôi được chỉ định về phục vụ trong phi đội của ông ta.

Theo đúng tác phong của quân trường, khi bước vào phòng tôi đứng thẳng người, chào kính theo lối "Đà Lạt" để trình diện vị chỉ huy mới của tôi. Điều khiến tôi ngạc nhiên pha lẫn thích thú là Đại úy Sơn đã vỗ vai tôi thân mật:

-Đại úy..."Đại wéo" gì! Gọi tao là anh Sơn như mấy tụi em trong phi đoàn là được rồi !

Một đặc điểm của anh Sơn, mà sau này tôi mới biết là anh không bao giờ đeo cấp bậc trên áo, ngoại trừ mỗi sáng thứ hai, khi cả Không Đoàn làm lễ chào cờ. Ngoài ra, anh không bao giờ có những lời lẽ "dao to, búa lớn" với những người đối thoại với anh. Anh luôn đối xử với chúng tôi như anh em trong một nhà. Anh bao giờ cũng kiên nhẫn trong việc chỉ bảo, nâng đỡ những phi công trẻ mới về Phi Đoàn. Theo tôi hiểu, khi nói chuyện với những người bạn mới trong Phi Đoàn, có lẽ vì tính khí "trên không đội, dưới không đạp" của anh, nên cho dù đã mang cấp bậc Đại Úy đã lâu, nhưng anh vẫn "dậm chân tại chỗ" trên bước đường... "bay" nghiệp.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290538734.jpg

Trong suốt tuần lễ đầu tiên, anh Sơn đã chỉ dạy cho tôi từng đường đi, nước bước trong Phi Đoàn, từng chi tiết những điểm "hot" hành quân trên bản đồ trong những vùng mà chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ. Tôi còn nhớ, trước ngày bay "check out" hành quân, tôi cùng ngồi chung với anh trong một phi vụ do thám cơ sở địch quân trên vùng biên giới Kampuchia. Khi cất cánh bay, anh đã nói đùa với tôi:

- Mày ở Đà Lạt ra hả? Để tao coi giò cẳng mày cứng tới cỡ nào.

Quả nhiên lần bay này tôi thật hú vía. Anh đã hướng dẫn tôi bay sát ngọn cây trong những vùng mật khu địch. Như phản ứng tự nhiên, chân tôi chỉ muốn... co lại vì sợ...ï "chạm" những ngọn cây cao. Sau lần bay ấy về, anh vui vẻ bảo tôi :

- Mày... được! Ngày mai, tao xếp mày đi check out với Trung tá Phi Đoàn trưởng.

Tôi là người được anh cho bay hành quân sớm nhất trong toán bảy lính bay "tò te" về Không Đoàn cùng một lượt với tôi.

Một vài nét về anh Sơn tôi xin được kể lại. Anh là một phi công đã lớn tuổi so với tôi lúc bấy giờ, tuy thế, anh chưa từng lập gia đình. Anh sống một mình trong cư xá độc thân với bọn "lục tổn" như chúng tôi. Hằng ngày, cứ mỗi buổi chiều, sau khi bay về, anh lại rủ bọn sĩ quan độc thân chúng tôi ra sân đánh cá trong những buổi chơi volley. Anh là tay chơi bóng chuyền rất giỏi. Ít đứa nào dám cá với anh về môn chơi này. Chỉ "từ chết tới bị thương". Tuy nhiên, dù thắng hay bại, anh là người đứng ra trả tiền ăn uống cho bọn "cù lũ nhí" chúng tôi. Bọn "wing men" chúng tôi, đứa nào cũng thích bay chung phi tuần với anh, vừa... vững tâm, lại vừa học được những "trick" hiếm có của anh trong những lần hành quân. Anh bay gan dạ ít ai sánh bằng. Ngay cả Phi Đoàn trưởng của chúng tôi cũng phải "phán" : "Đi bay hành quân với thằng Sơn Gáo - biệt hiệu của anh - lạnh cẳng... bỏ mẹ"

Kể từ khi được check out hành quân, anh xếp cho tôi đi hành quân với anh "liền tù tì". Nhiều hôm, cứ xong phi vụ này, là tiếp theo sau một tiếng, xách dù ra cho phi vụ kế tiếp. Bọn "wing men" có than phiền với anh thì anh giải thích : "Đạo nó ở Đà Lạt ra, đã là Trung úy rồi. Tao phải xếp nó bay nhiều để có đủ giờ bay rồi còn lên phi tuần trưởng chứ.". Biết được hảo tâm của anh dành cho tôi trong nghiệp bay bổng, nên dù có bị "đì" bay hành quân liên miên, tôi vẫn thầm cám ơn anh. Một người anh trong đời quân ngũ mà tôi hằng ngưỡng mộ.

Thế rồi tình hình chiến sự ở miền Nam càng ngày càng bùng nổ mãnh liệt. Chúng tôi phải "bao" một vùng hành quân rộng hơn. Từ vùng IV chiến thuật, giờ đây, phi đoàn chúng tôi còn có trách nhiệm yểm trợ cho cả vùng IIỊ Tất cả những sĩ quan phi hành tất bật cho các chuyến bay hành quân dồn dập nên những cuộc trò chuyện vui đùa của chúng tôi trong khi chờ bay giảm hẳn đi. Ai nấy đều đăm chiêu, chăm chăm vào tấm bản đồ hành quân chiến sự. Không một ai có thì giờ rỗi rảnh, nhiều khi những bữa ăn trưa của tôi chỉ là một khúc bánh mì, được nhét trong túi chân áo bay, để rồi sau khi cất cánh lên trời, bay ra vùng hành quân, là lôi ra "gặm". Ai bảo đời phi công chúng tôi là ăn sung, mặc sướng, là không gian lao.

Vào thời điểm này, anh Sơn cũng ít nói cười như trước. Có lần cùng anh, vừa đeo dù lên vai, vừa bước ra phi cơ để đi hành quân chung với anh trong một phi tuần, anh nhắn nhủ tôi:

- Cẩn thận nghen Đạo. Trong vùng hành quân của mình, bọn nó có nhiều hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 lắm. Nhớ sau mỗi lần chúi xuống thả bom, khi kéo lên, bay hình chữ chi và thả faire nghen Đạo!

Tôi rưng rưng nước mắt, khẽ gật đầu, khi cảm nhận được sự lo lắng của anh dành cho tôi, trước khi hai anh em cùng bay vào vùng địch.

Thế rồi tin Ban Mê Thuột mất, tin miền Trung thất thủ làm cho anh em trong phi hành đoàn ủ rũ như trong những ngày tang chế. Ngày lại ngày, vùng hành quân càng lui về phía Nam. Nào Phước Long, rồi Tây Ninh, Long Khánh. Cho dù bao tin xấu đem lại, nhưng đa số anh em phi hành trẻ vẫn cùng nhau thi hành nhiệm vụ được giao phó mà chẳng màng hiểm nguy.

Bầu trời đen tối cứ đổ ập đến chúng tôi ngày một nhiều. Hôm qua, một người bạn đã gẫy cánh ở vùng trời Mộc Hóa thì ngày hôm nay, một sĩ quan phi hành trong phi đoàn bạn đã hy sinh trên tỉnh Tây Ninh, khiến tôi muốn khóc. Có những ai trong tình huống này, tình huống của những chàng phi công, hàng ngày phải bay ra trận địa, khi trở về, được tin đồng bạn của mình không còn nữa, mới hiểu được tâm tình của người phi công trong thời chiến. Những con người rất kiêu hùng, cứng cõi lúc cưỡi mình trên con "ngựa sắt", nhưng cũng rất yếu mềm khi hay tin đồng bạn mình đã gãy cánh bay.
Vào một buổi chiều đầu tháng Tư, sau khi bay về trong một phi vụ hành quân trên núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh, tôi đưa mắt nhìn lên bảng hành quân thì biết anh Sơn vừa cất cánh trong một phi tuần kế tiếp để yểm trợ quân bạn tại Long An. Như thường lệ, tôi vào phòng nghỉ dành riêng cho sĩ quan phi hành nghỉ ngơi sau mỗi chuyến hành quân. Mắt còn đang lim dim trong giấc ngủ để lấy sức cho phi tuần tiếp theo trong ngày, thì tôi nghe loáng thoáng bên ngoài :

- Sơn "Gáo" bị bắn rồi !

Tôi chợt bừng tỉnh dậy như thể có luồng điện giật chạm vào người, rồi phóng vội ra ngoài :

- Sao ! Sao ! Anh Sơn bị bắn hả ! Có nhảy dù ra không ? Có nhảy dù ra được không ?
Vừa hớt hơ, hớt hải hỏi trống không, tôi vừa cầu mong anh đã nhẩy dù ra khỏi chiếc phi cơ đã bị bắn. Mọi người vây quanh chiếc điện thoại liên lạc với phòng hành quân chiến thuật để nghe thêm tin tức về phi tuần này. Người tôi rũ rạ Sao anh lại có thể bị bắn được. Nguời phi công vừa tài giỏi, vừa gan lì như anh thì không thể bị bắn được, tôi thầm cầu mong. Ước vọng duy nhất của tôi lúc bấy giờ là anh nhảy dù ra khỏi chiếc A-37 xấu số để trở về với các anh em của phi đoàn, để kể cho chúng tôi nghe những kinh nghiệm vượt thoát trong cơn nguy nạn của người phi công.

Người tôi muốn chao đi, khi nghe loáng thoáng bên tai:

- Không thấy dù mở từ chiếc A-37 lâm nạn...vì bay quá thấp.

Đúng rồi, đó là anh. Người phi công gan lì của chúng ta lúc nào cũng thích bay thật thấp trong những phi vụ hành quân. Ngày xưa, anh đã từng nói "Bay thấp, thả bom mới chính xác. Nếu bị phòng không bắn thì chỉ một mình phi công là..."ra đi", nhưng đỡ nguy hiểm cho nhiều quân bạn lúc cận chiến với địch". Lời nói gỡ đó của anh chẳng may nay đã trở thành hiện thực. Có phải vì anh lo cho người khác hơn bản thân anh nên mới có ngày đau buồn hôm nay cho cả phi đoàn. Thế là anh đã ra đi thật sự rồi sao. Ước vọng rồi anh sẽ trở về của tôi tan như mây khói.

Tôi bước ra ngoài phòng hành quân phi đoàn để ngước nhìn lên khoảng trời cao ngày hôm ấy mà ngóng trông anh như đứa trẻ ngóng trông mẹ trở về. Bầu trời thật ảm đạm như thể đang cùng tôi đưa tiễn người anh hùng ra đi. Chiếc A-37 của anh đã hun hút tận phương trời nào. Anh đã ra đi như các chiến tướng ngày xưa. Chiến tướng ngày xưa mỗi lần ra trận chỉ ước mong được da ngựa bọc thây. Anh đã ra đi với da sắt quấn thân người.

Rồi đây còn có ai để chỉ dậy cho đàn em của anh trong nghiệp bay bổng này, còn có ai luôn nhắn nhủ đàn em "Hãy cẩn thận nghen em" mỗi lần cất cánh bay. Anh ra đi để đàn em như rắn mất đầu.

Thế rồi anh được vinh thăng Thiếu tá. Tại sao lại không thăng cấp cho anh khi anh còn sống. Anh đã xứng đáng gấp ngàn lần để mang lên chiếc áo bay cấp bậc ấy. Xin anh cho tôi được đứng thẳng người để đứng chào kính anh như tư thế của trường Võ bị đã dạy như ngày đầu tiên tôi đã gặp anh. Trước mắt tôi, lung linh hình ảnh của anh ngày nào mà anh đã từng mở một nụ cười hiền lành, bảo tôi : "Thiếu tá, thiếu "téo" gì mày ! Gọi tao là anh Sơn là được rồi."

Nhưng không, thưa Thiếu Tá. Lần này, xin Thiếu Tá cho tôi được "cãi lệnh" Thiếu Tá. Tôi biết Thiếu Tá không muốn đàn em gọi Thiếu Tá bằng cấp bậc, nhưng cấp bậc của Thiếu Tá không phải do luồn cúi mà có. Cấp bậc ấy đối với tôi là do tài năng và đức độ của người anh hùng Không Quân rất xứng đáng được hưởng. Người Không Quân luôn sáng ngời trong tâm tưởng những đàn em phi hành đã theo đôi cánh bay của Thiếu Tá trong cuộc đời bay bổng.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290538125.jpg

Sau khi anh mất đi tôi không còn hăng hái như xưa trước mỗi lần cất cánh. Nhiều lúc trong bầu trời tĩnh mịch, chỉ có tôi và con chim sắt, tôi như "nhìn" được hình ảnh của anh trách móc : "Không được nản chí Đạo! Gắng lên! Cuộc đời em còn trẻ. Nghiệp bay bổng em còn dài. Đời phi công tuy hiểm nguy nhưng rất hào hùng. Gắng lên "cù lũ nhí" !!!!" Lời khuyên của anh văng vẳng đâu đây như tiếp sức, như thổi vào tôi một luồng sinh lực, cho tôi cất cánh bay cao cho dến ngày tôi dã thực hiện phi vụ cuối cùng trong cùng ngày cuối cùng mất nước.

Ngày 25 tháng Tư, tất cả phi hành đoàn chăm chú vào tấm màn ảnh nhỏ trên chiếc máy truyền hình được đặt trong phòng nghỉ phi đoàn. Mọi người lắng nghe lời tuyên bố từ chức của vị nguyên thủ quốc gia, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu. Ông hứa sẽ đứng trong hàng ngũ những chiến sĩ của quân lực VNCH để bảo vệ miền Nam này. Sự từ chức của ông kéo theo một loạt những rối ren trên thượng tầng cơ sở quốc gia.

Sáng ngày 30 tháng Tư, tôi có trong danh sách trong phi tuần đầu tiên. Phi tuần tôi được lệnh cất cánh bay về Sài gòn để yểm trợ cho quân bạn đang giao tranh với địch quân vùng ngoại ô của thủ đô. Và lần cất cánh của tôi sáng hôm ấy cũng là phi vụ cuối cùng của tôi trong nghiệp bay bổng. Khi chiếc A-37 vừa vào vòng đai của Sài Gòn, tôi chuyển tần số để liên lạc với Paris, danh hiệu của trung tâm liên lạc hành quân chiến cuộc xin chi tiết để yểm trợ, thì chỉ nghe những âm thanh rè rè mà không một ai trả lời. Không một chiếc máy bay quan sát nào hướng dẫn chúng tôi. Lắc cánh trên không nhìn xuống dưới là cảnh hỗn độn trên đường phố ngoại ô thành phố. Xe tăng địch lẫn lộn với người dân chạy giặc.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290538791.jpg

Làm sao bây giờ ? Phải chi còn anh Sơn. Tôi tiếc rằng anh đã ra đi quá sớm. Có anh ở đây, anh sẽ chẳng để cho xe tang địch quân ngờ ngờ trên đường phố. Tôi không có bản lĩnh như anh. Làm sao để đánh địch mà không chết dân đây. Người lính miền Nam khi ra trận là đánh trận cho dân chứ không phải cho chủ nghĩa. Người lính quốc gia khi ra tay không phải chỉ là một cái máy vô hồn. Họ luôn trong người giòng máu mang tình tự dân tộc.

Chúng tôi được lệnh quay trở về phi trường Trà Nóc. Trên đường bay về, tôi nghe lời tuyên bố của Tổng thống đương nhiệm Dương văn Minh kêu gọi quân đội miền Nam hãy buông súng để trao quyền lại cho Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Sau đó, một vài phi tuần trên không, không cam chịu sống chung với người "chủ mới" nên đã rủ chúng tôi cùng bay sang Thái Lan. Đầu óc tôi như muốn vỡ. Tay cầm cần lái mà như mơ. Đất nước tôi, nơi tôi đã sinh ra và lớn lên còn kia. Dân tộc tôi, người đã cưu mang tôi từ khi tôi còn bé vẫn còn đó. Người vợ hiền thơ dại dưới mảnh đất xanh ngát ruộng lúa đang còn ngóng trông tôi trở về như sau những lần cất cánh bay. Trời ơi! Tình nghĩa trong tôi quá nặng, tôi phải quay trở về...

Tôi đã rời con ngựa sắt ở phi vụ cuối cùng trong nỗi tủi nhục của người lính đã không làm tròn nhiệm vụ. Phi vụ cuối cùng của anh Sơn hào hùng bao nhiêu thì phi vụ cuối cùng của tôi đã chấm dứt trong nỗi đau ê chề của một người đã thua trận trong cuộc chiến.

Xin anh cho tôi được viết những lời này để tạ lỗi cùng anh, một đứa "cù lũ nhí" đã không làm tròn trách vụ mà anh đã đặt hết niềm tin tưởng

KQ Đinh Tiến Đạo

hung45qs
11-25-2010, 03:46 AM
Quyền giành Đáp / Không Hành


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658026.jpghttp://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658074.JPG

Đây là năm rides không hành của tôi với IP, Trung uý Daniel Runyan:
1- Từ Webb AFB đi Amarillo AFB.
2- Từ Amarillo AFB đi Cannon AFB.
3- Từ Cannon AFB đi El Paso International Air-port (ELP).
4- Từ ELP đi Sheppard AFB.
5- Từ Sheppard AFB về Webb AFB

Hành trình hơn một ngàn dặm, nhưng... Tôi chỉ vắn tắt phi vụ thứ 3, mến tặng bạn đọc.
Tặng Lưu thiện Chính, bạn bay cùng lớp, cùng đường số 3 nầy. Chính bay trước với IP/Lt Conklin, "touch-down" ở ELP trước tôi một giờ bay. Lưu thiện Chính là người lảnh cúp "Academics" của 75-06 ở Webb với số điểm tuyệt đối.

Khoảng 3 giờ trưa, trong cái thời tiết mát rượi của mùa đông, sang Xuân 75, tại bãi đậu của phi trường quân sự Cannon trong tiểu bang New Mexico, tôi gấp cuốn "Playboy" lại, sau khi "logged" vô đó giờ cất cánh (1601hours), cẩn thận, tôi nhét "nó" vào cái bao đằng sau ghế trái... (Thật ra đó là quyển sổ "781" của Tweet-Cessna T-37). Nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình, mới có 1500 hours, vẫn còn sớm.... Theo hoạch định, chúng tôi sẽ cất cánh đi xuống El Paso, một phi trường biên giới của tiểu bang TX, Mỹ và Mexico.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658196.jpg

Nếu quân trường Thủ Đức hay quân trường Võ Bị của Lục quân có "Di-Hành", thì ở các trường bay Không quân, trước khi "rời tổ", các hoa tiêu cũng không ngoại lệ, không tránh khỏi năm (5) chuyến bay liên tiếp trong hai ngày, hai đêm, gọi là "X-country" hay "Không Hành".

Hai thầy trò đã làm xong những động tác cuối của tiền phi, hai người cùng "thumps-up" sau khi mở-checked-khoá lại hai cái nắp xăng hai bên cánh, trước khi cùng "thót" vào cái buồng lái nhỏ, chật hẹp T-37, mở máy để bắt đầu bay xuống El-Paso Inter-Aiport (ELP), phi vụ chót trong ngày 1, cũng là phi vụ thứ 3/5 "Không-Hành", và sẽ ngủ đêm thứ nhứt tại đây.

Đây sẽ là chuyến bay thứ ba trong ngày, sẽ cất cánh từ một phi trường rất lạ lẫm đối với tôi. Nếu ở nhà, (Webb) có hai đường băng song song 17/35 thì ở đây, có hai phi đạo thẳng góc (13/31) và (4/22). Lạ từ phi đạo tới cái nhà bàn, vì đây là "CANNON AFB", nằm sát thành phố Clovis trong tiểu-bang New Mexico. Đến cái "ramp" của nó cũng không có dáng dấp của T-37 bén mãng.... Lúc đáp xuống đây hồi giữa trưa, khi tà tà chạy ngang qua mấy B-52's đang soải cánh nằm nghỉ, hay ngang qua những chiếc F-111's thì, tôi mới tận mắt thấy "tụi nó" khổng lồ cỡ nào! khi tụi tôi taxi ngang một B-52, hãy nhìn cái bánh-đáp của nó, T-37 còn thấp hơn..., đường kính đo chừng hai thước tây, hoặc 'nhìn lên' 2 anh F-111's, sắp sửa take-off-formation, đang vươn rộng hai cánh, tôi nghĩ thầm, cho tới chừng nào, nước mình mới có được những loại phi cơ nầy!?

Theo 'Flight-plan' được hai thầy trò bàn bạc trong cái Mess-Hall lạ quắc được kể ở trên, (hai đứa trông nổi bật "không giống ai", bị bao quanh bởi nhiều hoa tiêu tại địa phương với G-suits, và áo lưới mưu sinh thoát hiểm) chuyến 'navigation' nầy, sẽ không gặp mưa đá hay icing, được ước tính, sẽ chạm bánh ở El Paso, khoảng 1730 hours chiều cùng ngày.

Khi hai máy đã được làm nóng, tôi rút hai "chốt lựu đạn" cuối cùng khỏi "ghế dù" và "cái nắp hòm", cất vào túi thì cũng là lúc tôi sắp sửa đẩy tay ga ra đường băng.
(IP cũng rút hai chốt như tôi)
Tôi bấm máy xin phi đạo:
"Cannon Tower, Bart zero, one, request taxi".
"Roger, Bart 01, clear to taxi, runway four, winds are calm, altimeter-setting 29.92"


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658286.jpg

Gần tới #1, khi nắp hòm vẫn chưa được đóng kín, chúng tôi đã chứng kiến một F-111 cất-cánh. Tiếng gầm thét 100% rung chuyển trời đất của nó, như một cơn động đất, như là bom nổ, cộng với cái "after-burn" rực màu cam làm long-lanh, lung linh cả một góc trời, nó nhả thắng chạy dài như nuốt chững cái phi đạo, phút chốc, nhỏ dần nhỏ dần như con quạ đen trên đường chân trời.

"Rails are clear, sir". Rồi tôi hạ nắp, khoá canopy, chuẩn bị so hàng với đường băng số 4.
"Number one position, you are clear for take-off"
Cất cánh lên về hướng 40, hay Đông-Bắc, vừa qua 1000 bộ AGL, tôi lắc cánh 30 độ về phía phải như vẫy chào tạm biệt và 'thoát' khỏi căn cứ không quân Cannon, vẫn tiếp tục lên cao, tôi thoải mái trèo với cái thế "đằng sau đổi hướng". Theo flight-plan tôi lấy hướng Tây-Nam hay 220, cao độ 20,000 feet, và bình phi 200 Knots, với đường dài 280 miles, tôi trực chỉ EPL với ETA là 1730 hours.

Bình phi ở hai chục ngàn bộ...phi cơ giống như bay chậm lại, đường chân trời trước mặt, giăng ngang cố định giữa khung kính phi cơ, xa xa xung quanh và dưới bụng tàu, có những đám mây "Stratus" trắng nõn, dầy cui, pha màu nắng giăng đầy lối, khi bay trên những đám mây mỏng, chỉ thấy toàn là núi lờ mờ ở dưới kia. Ông IP tuy ít nói, hình như ông ta không muốn quấy rầy thằng học trò cưng của ông đang bận rộn không hành, nhưng ông ta cũng dòm trời, dòm đất, mà clear đúng theo luật an phi. Ở hai chục ngàn bộ ngút ngàn, tôi gọi Albuquerque flight control.

"Al...bu..quer... que center, this is Bart zero one, two, zero thousand feet".

Úi chà, cái từ "Albuquerque" nầy, tại sao nó khó đọc quá vậy? Vì không chuẩn bị cũng như tập nói trước, nên tôi vừa ngọng, vừa cà...lăm, khiến ông thầy vừa cười vừa lắc đầu vừa chào thua.
Trên đường bay, có một Landmark quan trọng, khi hai thầy trò bay ngang cái động dơi danh tiếng "Carlsbad" ở New Mexico. Ông phán một câu bất hủ mà không bao giờ tôi quên.
“Sang, Carlsbad is beneath your ass."


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658385.jpg

Không sai chút nào, tôi đang ở trên không phận của Carlsbad, tuy bay cao trên mười ngàn, nhưng nhìn đằng kia kìa, theo ngón tay IP chỉ về phía đó, đỉnh Guadalupe- trọc, đứng sừng sững giửa một dãy núi chạy dài trong sa mạc theo trục Bắc-Nam, xuống tận biên giới.

Carlsbad caverns là tên của động thạch nhủ, động dơi danh tiếng ở gần Webb AFB, TX, nhưng nằm trong tiểu-bang NM. Ở Carlsbad Cave, đúng giờ, mỗi chiều sẽ có một đàn dơi bay ra... nhưng không ai thấy tụi nó bay về....
Dưới lòng đất, Carlsbad mát lạnh quanh năm với những thạch nhủ tráng lệ, huy hoàng
Hầu hết các khoá sinh 75's ở Webb, đều đã có dịp đi thăm địa danh nầy, do chính trường bay tổ chức, ngoài nó ra Webb khô cằn sỏi đá không còn c.. gì hết, nếu không nhắc tới cái động khác tên là "Settle", danh tiếng đứa nào cũng biết.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1290658430.jpg

Đến 1700 hours, tôi liên lạc với ELP control xin hạ cánh. Theo hoạch định, tụi tui vẫn phải bay trên 10.000 bộ MSL để clear những ngọn núi Guadalupe và Franklin ở đây, tụi nó cao gần chín ngàn bộ rồi.

Chúng tôi được "clear to land straight-in approach runway 8R ", được dẩn vào bằng GCA. (Ground Control Approach)
Khi cái phi đạo lờ mờ hiện ra từ xa xa, tôi thấy nó giống cây thước kẻ "12 inch" không hơn không kém, theo kinh nghiệm, tôi "để" cây thước nầy nằm ở đáy windshield.

Còn đúng 5 (DME) miles tôi bớt ga, hạ bánh-đáp, vừa lúc phi cơ xuyên qua cao độ hai ngàn, tốc độ dưới 150 Knots. Ra cánh cản ở 2 mile, tôi tăng ga để giữ cho vận tốc không giảm dưới 120 Knots, chiếc tàu trồi cao hơn glide path, tôi đẩy cần lái tới trước, rồi trim-down như phản ứng. Cái phi đạo "khôn nhà dại chợ" mắc dịch đằng trước, sao cứ xê dịch lên, xuống..., càng lúc càng hiện rõ, dần dần to lên dưới nắng chiều. Đảo mắt như chớp qua các phi kế trong phòng lái, tôi nói qua intercom:
"Landing configurations ready, Sir".

Trong lúc tôi đang chăm chú, tập trung cho một cái đáp full-stop sau chuyến bay dài, thì bổng nhiên...
Cái stick giữa hai đùi tôi nhúc nhích, lắc lư, tôi tự hỏi có phải con tàu đang chạm phải "turbulence" hay một "down-draft"?. Không đúng, thầy của tôi đang giành lấy cái cần lái, rồi quát:
"I have the air-craft". rồi tiếp: " An air-liners on #1"
Không do dự, không phản ứng, tôi buông stick, để 2 tay lên flight-plan và checklist, trên hai bắp vế rồi trả lời:
"Roger, you have the air-craft".
Tiếp theo là tiếng vọng của ELP tower:

"Bart 01 you're on course, on glide path, & clear to land".

Chiếc T-37 bay vào cận cận-tiến (short-final-approach), ở bên trái, tôi thấy chiếc Boeing-727 đang đậu thẳng góc với đường băng, chợt vụt qua biến mất sau cánh-bay trái, quang cảnh hai bên phi-đạo dâng lên ngược chiều với tốc độ 90-100 Knots, nhìn về phía trước, những đoạn thẳng màu trắng phân ranh giữa đường băng, to dần, to dần như đâm thốc, ngược vào mũi con tàu đang ở trong tư thế gần chạm đất, khi mũi con tàu bắt đầu ngoi lên, che khuất đi cái "đường chân trời" mờ mờ xa, tôi để cả hai tay lên dash-board, nhắm mắt lại....

Chiếc tàu rung nhẹ khi 2 bánh-đáp chạm đất, tôi mở mắt, liếc vào cái đồng hồ theo thói quen, 1730 hours. "Perfect, isn't it? Ông IP cũng gáy lên: 'Shit hot' (excellent).
Sau cú đáp đẹp, chắc chắn là để "show-off" phi hành đoàn của Boeing air-lines, thầy tôi có vẻ thoả mãn giao cần lái lại cho tôi. Tôi quẹo trái rẽ vào taxiway tiến vào Terminal, lúc đó trời ở El Paso cũng bắt đầu vào hoàng hôn, khi mặt trời vàng rực bắt đầu lặn bên cánh bay trái.

Tối đó, 4 thầy trò check-in trong khách sạn Hilton hay Marriott gì đó ở El Paso, tôi không nhớ rõ tên của khách sạn, nhưng tôi có nhớ là, chúng tôi ăn cơm tối trên tầng lầu thượng của Hotel có Ballroom, có ban nhạc sống chơi toàn nhạc Tây Ban Nha, có những bước nhảy Cha Cha, Tango chập chững, rụt rè, đã được các đàn anh huấn luyện từ trại Ngân Hà

Chú thích: Hai "chốt lựu đạn" tôi đã đề cập trong bài là hai safety-pins, một, kích hoả cho Ejection-seat và hai, cho Jettison-canopy.

AC Sang Trương 73A
Lớp 75-06 SATP Webb AFB

hung45qs
11-29-2010, 07:17 AM
Tình Muôn Thuở


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291014988.jpg

Yêu em lắm, hỡi người tình muôn thuở
Lỡ xa em, anh tiếc nuối muôn đời
Nhớ những lần trong gió lộng chơi vơi
Em ẻo lả nghiêng mình trong nắng sớm

Anh vẫn biết những lần em ngon trớn
Chuyển mình đi trên phi đạo thênh thang
Cần trong tay anh ấn rất nhẹ nhàng
Kim tốc độ cao dần trong phi kế

Em rùng mình trong vị thế bay lên
Thoáng mây trôi như tơ lụa êm đềm
Làm quên hết những ưu phiền giông bão
Tốc độ cao em vùn vụt như tên

Vỗ về anh trong tiếng máy vang rền
Thu khoảng cách, giảm dần giờ tách bến
Để thăng bằng anh phi chỉnh bình phi
Dưới thân em những rặng núi xanh rì

Em kiêu ngạo cùng anh trong luân vũ
Khi đã tới phi trường thương yêu cũ
Em nhẹ nhàng buông bánh đáp chạm sân
Lúc ra đi anh vẫn đứng tần ngần

Tình e ấp em thầm như muốn bảo:
Đợi chờ anh, phi vụ tới nha anh
Em không sợ làm uổng phí tuổi xanh
Mà kiên nhẫn phơi mình trong bến đậu

Này em hỡi người tình anh yêu dấu
Có giận hờn, khi ta đã xa nhau?
Thoáng nhìn em trong ẩn hiện tinh cầu
Buồn rười rượi anh đành thân lưu lạc

Phi Yến 52

hung45qs
11-30-2010, 10:55 PM
SAIGON 35 NĂM NHÌN LẠI.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291157564.jpg

.....Ngày 10 tháng 3.... (35 năm về trước)....
Hàng ngàn quả đại pháo của CSBV n ã vào Thành Phố Ban Mê Thuộc.......
Vài ngày sau Thành Phố thất thủ, không có kế hoạch tái chiếm....và lệnh di tàn QK2, bắt đầu cho một trong những ngày đau thương của dân tộc Việt Nam.
Rồi Huế, Đà Nẵng và các thành phố khác lần lượt thất thủ, dù chưa m ột lần giáp mặt quân thù.

Đến mặt trận Long Khánh, rõ ràng QLVNCH là một đội quân thiện chiến, quân CS như gặp phải bức tường lửa, đội quân mà cả thế giới cho là thiện chiến nhất ở Đông Nam Á....
Nhưng lực bất tòng tâm, vì chênh lệch quá lớn về quân số và vũ khí, một lần nữa mặt trận Long Khánh đành thất thủ.....

Đêm 29 tháng 4.....
Saigon mưa........
Mưa ngoài trời, và hàng triệu trái tim người miền Nam thổn thức......
Đêm đó trời mưa không lớn lắm, buổi chiều từng đám mây đen từ đâu kéo về, giăng khắp bầu trời thủ đô..........

Đã 35 năm rồi tôi vẫn còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua, chúng tôi những người lính đang ôm súng chờ giặc, nhìn lên không trung, những giọt nước mưa như nhạt nhòa, trong ánh mắt........

Xa xa hàng đoàn phi cơ đủ loại đang bay lượn, đang gầm thét, cùng tiếng mưa tạo thành một âm thanh cuồng loạn, người ta đang bốc người di tản, trong số những người đó có những người trước đó là cấp chỉ huy, là người lãnh đạo từng kêu gọi tử thủ đến viên đạn, hạt gạo cuối cùng.....

Từ hướng Biên Hòa, hướng Thủ Đức tiếng súng lớn nhỏ đang vọng về, và hàng loạt tiếng depart đại bác 155 ly cũng bắt đầu nhả đạn về một phương trời nào đó......

Đêm đó tôi còn nhớ, đài truyền hình quân đội chỉ phát những bài hát tình cảm rất hay, và không nói gì đến tin tức chiến sự, bài hát nầy nối tiếp bài hát khác và tôi không nhớ đến bao giờ......?

Sáng ngày 30....khoảng gần 9 giờ, tiếng súng nổ thật gần, dường như CS đang đánh vào đơn vị chúng tôi, tiếng đạn pháo kích, tiếng phản pháo và hàng ngàn tiếng súng cá nhân đủ loại như một bài hòa tấu ghê rợn, lúc đó chúng tôi chỉ biết chờ đợi và chờ đợi.........
Trận chiến nổ ra hơn một giờ thì dường như chỉ còn những tiếng súng lẻ tẻ, khi đâu đó từ chiếc radio đang phát lời nói của Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, sau đó là lời phát biểu của Dương văn Minh trên đài phát thanh, lúc đó chúng tôi đã hiểu cuộc chiến nầy đã chấm dứt, và cuộc đời binh nghiệp chúng tôi cũng chấm.......

Ngày 30 tháng 4 năm 2010 lúc 12giờ trên HKMH US MIDWAY, chúng tôi các bạn cùng khóa ngày trước, các niên trưởng các quân binh chủng và hàng ngàn người Việt, cùng đứng lên mắt hướng về đài chỉ huy của HKMH, dưới tiếng nhạc của bài Quốc ca VNCH, lá cờ vàng thân yêu ngày nào đang được từ từ kéo lên, đang bay phất phới dưới ánh nắng tự do, chúng tôi giơ tay chào lá quốc kỳ thân yêu, chúng tôi hãnh diện về đất nước, quân đội hào hùng , không hiểu hàng ngàn người Việt lúc đó nghĩ gì........??

Sonnyng 72F


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291157621.jpg

Cảm nghĩ của....

Chiến tranh khốc liệt VN đã để lại bao nhiêu cảnh tương tàn... Sau bao nhiêu năm chinh chiến... sau 35 năm.... kiếp sống tha hương, mơ một ngày trở về thực sự trên quê hương mình để nhìn lại dòng sông xưa, dưới mái nhà tranh có giàn thiên lý toả ngát hương thơm, làng thôn quê hiền hoà có hàng dừa bóng mát, hàng cau lưa thưa quê ngoại của những buổi trưa hè, con chó vện nằm lim dim ngủ, dưới chiếc võng đưa kẽo kẹt với tiếng à..ơ ...ngọt ngào của mẹ ru... con ngủ đi con... Hình ảnh người mẹ quê đã đi vào một huyền sử của dân tộc Việt Nam.
Ngoại đưa đẩy chổi trên sân nắng,
Quét lá làm sao quét ánh trăng...

Tiếng gà gáy khi bình minh vừa lố dạng, mặt trời lên như những vừng hồng bụi đỏ núp sau hàng cây, ngoài đồng ruộng tiếng gọi nhau ơi ới, họ cắm cúi cấy những luống mạ non, cười nói với giọng hiền hòa ăn vội vàng những nắm cơm vắt vài con cá khô mặn mà, với những giọt mồ hôi còn đượm thắm trên lưng.

Ôi! Quê hương, ta mơ ước quay về trong những ngày mùa rực nắng, làn gió thoảng mùi lúa hương đồng nội, từ thôn xóm dưới ai gieo tiếng hát buồn vọng cổ hò..ơ..ơ.. tình anh bán chiếu.
Chiếu Cà Mau nhuộm màu tươi thắm,
Thân anh cực lắm mưa nắng giãi dầu....

Mặt trời óng ả, thanh tịnh của buổi chiều tà, mục đồng ngồi trên lưng trâu thổi sáo, tiếng sáo ru xưa, ru một quá khứ hồn nhiên, khoan thai gõ nhịp đưa đám trâu về chuồng.
Ai bảo chăn trâu là khổ,
Chăn trâu sướng lắm chứ...

Mục đồng xưa thả trâu về, và nếp bình lặng ngày nay không còn nữa, nhìn ánh trăng với lòng buồn vời vợi và bước chân ai cũng còn vương nặng nỗi niềm riêng...

Dòng sông nước lững lờ trôi, ông lái đò đưa khách sang sông, khách qua đường giờ đây vắng bóng, nhưng ông vẫn còn đứng đó để mong đợi người về...

Sông núi chờ mõi mòn trông, biển đà cho ta một chút tình sâu đậm... để ta thấy dòng sông thở lắng đọng một nổi nhớ u sầu với đám mây phiêu lãng giữa trờì đông, rồi sao không thấy lũ chim bay, để hót lên khúc hát bình minh, mà chỉ có kẻ ly hương khóc ngỡ ngàng.

Em Gái Hậu Phương
Canhen

hung45qs
12-02-2010, 05:37 PM
SAN ANTONIO, Một Ngày Đáng Nhớ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291310891.jpg

Lần đầu tiên tôi theo chồng đi dự buổi họp mặt cựu Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân và cựu nhân viên huấn luyện bay, do căn cứ huấn luyện Không Quân Sheppard ở San Antonio tổ chức nhân ngày Memorial day năm 2003. Ðó thực ra không chỉ là một ngày, mà cả ba chúng tôi (gồm hai vợ chồng và ông thầy dạy bay của ông xã) đã trải qua gần ba ngày tràn đầy niềm vui và ý nghĩa trong suốt buổi họp mặt chuyện trò. Ông xã tôi và hầu hết tất cả các bạn bè của anh, ai ai cũng như được sống lại với những kỷ niệm xa xưa của một thời trai trẻ khi còn trong quân ngũ qua những mẩu chuyện vui, buồn về hình phạt, tập dượt trên không, và còn có cả những chuyện tình ái vụn vặt, lăng nhăng. Hàn huyên lại mới thấy thời gian sao trôi nhanh quá, mới đó mà đã ba mươi năm. Ba mươi năm với bao nhiêu thăng trầm biến đổi trong cuộc đời của mỗi người lính phiêu bạt trên đất Mỹ. Ba mươi năm gặp lại nhau để có chung nụ cười cho người có dịp được hội ngộ, và nước mắt cho người đã mất.

Buổi đi thăm viếng đầu tiên bắt đầu vào trưa thứ sáu ngày 23/5 lúc một giờ, từng chiếc xe nối nhau rời khỏi khách sạn Laquinta ( nơi mà ban tổ chức đã dành trọn chỗ ở cho nhũng người đến tham dự từ Houston, Dallas…và nhiều tiểu bang khác nhau ) để đến trường Raindoph. Mọi người được chia thành hai nhóm lên hai chiếc bus của trường. Một chiếc bus dành cho những nguời muốn bay link, vợ chồng tôi và ông IP (Instructor Pilot) của chàng lên chiếc bus đi tour vòng quanh trường. Trên chiếc bus của chúng tôi có hai nữ hướng dẫn viên duyên dáng trong bộ đồng phục Không Quân. Hai cô lần lượt giới thiệu lịch sử của từng building khi xe chạy ngang qua, ngôi trường thật rộng lớn như một thành phố. Tôi không thể nhớ hết những chỗ tôi đã đi qua, nhưng tôi không quên được sự oai dũng của những chiếc máy bay khác nhau đậu rải rác ở một vài phi trường. Tôi còn nhìn thấy cả những toà nhà từ nhà trẻ mẫu giáo cho đến trường trung học dành cho các con em của nhân viên trong trường. Xe ngừng ở một phi trường khoảng 30 phút cho mọi người xuống chụp hình. Những “anh hùng của thời xa xưa” đã hào hứng thay phiên nhau leo lên chiếc T37, T38, có chàng thì hiên ngang đứng, có chàng thì thư thái ngồi như hồi niệm lại lúc vừa đáp xuống phi trường quân sự sau mấy giờ bay trinh sát. Có cả những hiền thê cùng tham gia bên chồng trên chiếc may bay oai hùng. Những chiếc máy ảnh đủ loại hết dơ lên cao rồi lại hạ xuống, nghiêng sang trái, sang phải, vội vã tươi cười. Tôi cũng hân hạnh được trở thành một nhiếp ảnh trong giây phút đó để tranh thủ chụp cho chồng vài tấm trước khi rời khỏi khu vực phi trường… Sau buổi đi viếng cảnh đó , xe bus chở chúng tôi về lại chỗ đậu xe để mọi người lên xe riêng của mình trở về khách sạn nghỉ ngơi. Trên xe bus không ngớt những tiếng trò chuyện giữa bạn bè, tiếng cười vui đùa, chọc ghẹo hai nàng hướng dẫn viên và anh chàng tài xế còn trẻ măng , tiếng Anh, tiếng Việt lẫn lộn tạo nên một âm thanh ồn ào mà ngộ nghĩnh. Tôi không có ai quen để chuyện trò như ông xã tôi và với bản tính thụ động kém xã giao tôi chỉ ngồi im lặng để nghe cuộc đàm luận. Dù như thế tôi vẫn cảm thấy vui lây với niềm vui của mọi người.

Về đến khách sạn, ông xã tôi gặp thêm vài người bạn cũ, lại những cái bắt tay xiết chặt, những vòng tay ôm vai thân mật. Tôi thật khâm phục cho trí nhớ của những anh chàng mặc áo bay, không ai có dịp gặp lại nhau sau 30 năm xa cách vậy mà bây giờ chỉ cần nói tên là các anh đã nhận ra nhau rồi. Riêng ông xã tôi thì đặc biệt hơn, anh nhìn ra ngay vóc dáng của từng người bạn cũ và còn lập lại biệt danh của họ khi xưa còn trẻ trong đơn vị đã đặt .Thí dụ như anh bạn Hiệp hơi có da thịt một chút thì được đặt là “Hiệp mập”, anh Dương Điền thì gọi là “Dê Điên”. Các anh thật sự đang vui như cái thời còn trẻ tuổi nghịch ngợm. Chiều hôm ấy cũng có thêm nhiều người đến tham dự, Tôi gặp lại vài chị bạn quen, chúng tôi trò chuyện vui không kém gì các đấng lang quân. Cũng ngay chiều hôm ấy một bữa tiệc vui ngoài trời cho mọi người đã kéo dài đến gần nửa khuya giữa các vị gentlemen Mỹ -Việt với nhau. Không ai cảm thấy mệt mỏi, họ cứ uống, cứ trò chuyện, chỉ có cánh Ladies là phải từ bỏ cuộc trò chuyện để về phòng.

Sáng thứ bảy ban tổ chức có hoạch định chương trình bay thử cho những anh chàng cựu phi công nào muốn bay cùng thân nhân mỗi vòng bay gồm 20 phút. Ông xã tôi có ý muốn thử nhưng tôi sợ nên không muốn chàng tham gia. Chúng tôi kết hợp với vài nhóm bạn lái xe đi River Side Walk ở Down town San Antonio. Giòng sông được thiết kế giống như một khe suối lớn giữa lòng thành phố với nhiều bậc thang dẫn xuống tận đáy sông, chung quanh là những mõm đá và nhiều cây xanh bóng mát. Trên sông thật tấp nập với hai chiếc thuyền lớn chở đầy những khách du lịch, có một cây cầu ngắn chạm đá nổi nối ngang hai bên bờ. Cảnh đẹp nhưng lại thiếu sự yên tĩnh cho những ai yêu thiên nhiên và thích tản bộ trong sự thong thả, vì các quán ăn đầy dẫy hai bên bờ, người đi bộ qua lại rất đông, có những chỗ người ta gần như phải chen nhau để tìm lối đi. Tôi đi mà luôn có cảm giác sợ bị lạc. Chúng tôi chụp hình giữa đám đông qua lại, chụp trên cầu, dưới bờ sông. Ði dạo một vòng bên này bờ sông, chúng tôi vào một quán ăn tạm hamburger để rồi lại đánh một vòng sang bên kia bờ sông đi tiếp... Cuộc hành trình lẽ ra còn tiếp tục, nhưng vài người đã thấm mệt, và mệt nhất là ông thầy của ông xã tôi, ông bị chứng bệnh Parkinson không thể ngồi lâu hơn trên chiếc xe lăn dưới cái nắng của bầu trời San Antonio, nên chúng tôi đành phải trở về khách sạn.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291311017.jpg

Ðêm thứ bảy, một đêm đầy ý nghĩa. Chúng tôi có mặt tại hội trường Lackland đã thấy các bàn tiệc tròn sắp sẵn. Trên mỗi chiếc bàn đều có đặt hai lá cờ Mỹ Việt ở chính giữa, phía trước chính diện là một chiếc bàn dài phủ khăn trắng, bên trên được xếp đặt 4 cái nón tượng trưng cho 4 ngành quân đội khác nhau, những chiếc ly được úp xuống bên cạnh một lọ hoa đỏ và hai lá cờ Việt Mỹ (Ông xã tôi bảo đó là chiếc bàn dành để tưởng niệm những chiến sĩ trận vong). Một ban nhạc với người nhạc trưởng da đen trên sân khấu đang chuẩn bị dây đàn. Khi mọi người đã đến đông đủ, ban tổ chức ngỏ lời chào mừng tất cả những khách đến dự và sau đó là lễ chào cờ. Trong không khí trang nghiêm, một ban hầu kỳ gồm bốn người, ba người đàn ông và một người phụ nữ, người đàn ông dẫn đầu lá cờ Mỹ được trịnh trọng cầm trong tay người phụ nữ theo sau, kế tiếp là một chàng cựu sinh viên Việt Nam với lá cờ vàng ba sọc đỏ, sau cùng là một người sĩ quan, cả bốn người bước đều theo nhịp hô đi lên phía trước sân khấu quay mặt lại khán giả đứng im chào. Ban nhạc trổi lên bài quốc ca Mỹ hùng tráng, để lại trong những đôi mắt đang hướng về phía lá cờ kia có lẽ là những hồi tưởng hay những ý nghĩ khác nhau về nước Mỹ, mà phảng phất một ngày buồn 9-11 ?.. Sau bài quốc ca Mỹ, ban nhạc chuyển sang bài Quốc ca miền Nam Việt Nam, tự động vài tiếng hát cất lên và rồi dần dần nhiều tiếng hát cùng hoà nhịp vào nhau theo ban nhạc. Tôi thật xúc động khi nghe lại bài Quốc ca, và trong trí nhớ tôi lúc ấy chợt hiện lên hình ảnh của những người Sĩ Quan Võ Bị nghiêm trang đứng chào cờ trong ngày duyệt binh chào mừng lễ Quốc Khánh. Tiếng kèn như nhấn nốt cao hơn, tiếng trống như cũng dập mạnh hơn… Tôi lại nhớ đến cha tôi ngày xưa khi còn trong quân đội, cha tất tả về nhà ăn vội miếng cơm rồi lại ra đi, có khi mấy ngày cha tôi phải cấm trại không về. Thời chiến tranh là thế, hy sinh, mất mát, chia ly… những ánh sáng chớp nhòe từ những máy chụp hình và máy quay phim nhá lên liên tục, ai cũng muốn ghi lại hình ảnh giây phút trang trọng này. Bài Quốc ca vừa xong thì ban nhạc lại tiếp đến bài “Không Quân hành khúc “, lần này chẳng ai đợi ai, các chàng thi nhau đồng ca chung bài hành khúc, rất tự nhiên mà đều một nhịp điệu oai hùng. Sau bài hát là phần tưởng niệm các chiến sĩ trận vong. Phút mặc niệm được thể hiện bằng những lời đọc của một vị (có lẽ là cựu sĩ quan người Mỹ) nào đó, và lần lượt hai người đàn ông trong ban hầu kỳ trang nghiêm bước đến chiếc bàn phủ khăn trắng, bằng động tác từ tốn họ trân trọng nâng chiếc ly lên ngang tầm mắt dừng lại một chút và rồi từ từ hạ chiếc ly xuống úp vào chỗ cũ. Khi giờ phút mặc niệm đã xong, mọi người cùng ngồi xuống để bắt đầu buổi tiệc. Tôi nhìn khung cảnh chung quanh mà luôn chớp mắt vì những ánh đèn flash, tiếng chuyện trò vui không ngớt, sau màn tiệc là phần giới thiệu những cựu nhân viên đã từng phục vụ trong căn cứ huấn luyện Sheppard từ năm 1972 và phần phát biểu cảm tưởng của từng người. Ðiều đặc biệt nhất trong đêm hôm ấy đã làm tôi hết sức cảm kích đó là bài phát biểu được một chàng cựu Không Quân đại diện toàn thể khối Sinh Viên Không Quân Nam Việt Nam đọc. Bài viết đã nói lên được tất cả sự ưu ái chân thành của tất cả các cựu Sinh Viên Không Quân Nam Việt Nam đối với các cựu IP, sau bài đọc đó là phần bắt tay thân thiết giữa các thầy trò, bè bạn, ông xã tôi là người Việt nam duy nhất có thầy cũ đi tham dự cùng. Anh đã ôm chầm ông thầy để bày tỏ sự cảm ơn thắm thiết. Tôi còn nhớ thêm một nhân vật cựu Không Quân Nam Việt Nam đã đến tham dự từ nước Pháp xa xôi. Anh cũng được mời lên phát biểu cảm tưởng lúc đó. Kế tiếp là phần diễu hành các cờ đồng minh đã tham dự cuộc chiến tranh Việt nam và phần giới thiệu các thành viên trong ban nhạc. Người nhạc trưởng đã trình bày sơ qua thành tích về những buổi trình diễn của nhóm, ông cũng cho biết ban nhạc của ông đã hân hạnh được chơi bài Quốc ca Nam Việt Nam 13 lần ở nhiều tiểu bang khác nhau. Ðiểm đặc biệt thứ hai mà cũng đã làm tôi xúc động khi tất cả các chàng cựu Sinh Viên và cựu thầy dạy bay được mời lên trên phiá trước sân khấu để chụp hình, số lượng người quá đông không đủ chỗ đứng phải chen sát vào nhau. Ngay lập tức toàn bộ cánh phụ nữ dơ cao máy lên để chụp, để quay. Với chiếc máy ảnh nhỏ trên tay, tôi cũng cố chen chân vào để chụp, cái vui làm tôi hứng thú chạy lăng xăng nháy lia lịa, chẳng biết ai với ai. Khi đoàn người Mỹ đã tản mác bớt, những chàng không quân tập hợp nhau lại để chụp một tấm hình chung, lúc đó các chàng hứng chí đồng thanh ca bài “Việt Nam” thật hay, bài hát gợi lên trong tôi một niềm tự hào về dân tộc Việt mà từ bao lâu nay tôi mới được nghe lại giai điệu hùng mạnh đó. Sau màn chụp hình là phần khiêu vũ…

Cuộc vui nào cũng tàn, hội ngộ rồi cũng đến giờ phải chia tay, niềm lưu luyến như hãy còn vương trong từng ánh mắt, trong những cái bắt tay nồng nhiệt và những lời hò hẹn cho kỳ gặp mặt tới. Chúng tôi giã từ San Antonio vào buổi trưa chủ nhật với vài người bạn trong bữa ăn thân mật ở một quán ăn Việt Nam nho nhỏ. Hương vị của những ngày vui đã theo tôi trên suốt đoạn đường trở về Farmington heo hút. San Antonio, ôi những ngày thật đáng nhớ.

Thiên Lý
Tháng 6 2003

hung45qs
12-03-2010, 05:10 PM
TIẾNG VỌNG TỪ KHE NÚI SƠN TRÀ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291396476.JPG
Trung Tâm 2 Kiễm Báo Panama trên đỉnh Sơn Trà, nằm ngay cửa Vịnh
Đà Nẵng, xa xa chân rặng Hải Vân mờ mờ trong mây thấp

Đã một ngày hai đêm, chúng tôi chôn chân trên bán đảo này, mong tìm tàu bè hay một vật gì nổi mà thoát đi, trong khi từ cửa sông Hàn, tàu bè lớn nhỏ tua tủa nhắm chiếc tàu sắt trông mờ mờ ngoài khơi mà tiến tới, đứng trên bãi cát, tưởng chừng như đưa tay ra với được những chiếc ghe thuyền kia, nhưng giờ nầy là giờ thứ hai mươi lăm.

Lần hồi chúng tôi cũng ra tới một bãi cát hẹp, ngắn độ nửa cây số, Bãi Bắc của bán đảo Sơn Trà, mà mùa này chưa hết mùa biển động, sóng cuồn cuộn tràn xa lên bờ, đêm hôm qua chúng tôi nằm ngủ co quắp trên cát trần, sát tận bờ cỏ và vài loại giây leo bò ngổn ngang, hai đầu bãi cát là ghềnh đá lượn vòng bao bọc quanh đảo, sóng vỗ dồn dập làm tung bọt trắng lên cao, tạo nên chuỗi âm thanh liên hồi như thúc dục chúng tôi phải tìm đường sống.

Đúng nữa đêm hôm trước, đêm 28/03/1975, sau khi phá hủy máy móc đặt trong hai vòm cầu của Trung Tâm 2 Kiểm báo Đà Nẳng, đài Panama, thì đơn vị gần tám chục người thả mình theo khe suối trong đêm đen, tìm đường xuống biển, trước khi có lệnh rút vài giờ có tiếng trực thăng đáp, không lâu rồi cất cánh nhưng không ai rõ chuyện gì, lúc này đã trong tình trạng báo động đỏ sau khi mất Ban Mê Thuộc, VC tấn công vào thị xã tại đài Kiễm Báo Pyramid, Th/úy Hưng 72B hy sinh trong đêm đó.

Chúng tôi tới chân núi khi trời vừa hừng sáng, rồi đi bọc theo bờ biển hết một ngày, cố leo qua những mõm đá xanh rêu cho đến khi gặp bãi cát này, không hẹn ai cũng dừng lại nghỉ ngơi. Theo như lệnh, đơn vị rút ra bờ biển sẽ có tàu đón, tất cả máy truyền tin thi nhau gọi liên hồi mà bặt vô âm tín, vài nhóm với quân phục khác nhau đã có mặt ở chân núi từ trước, đang tìm cách liên lạc với đơn vị mình nhưng vô vọng, chỉ còn sóng và nước, gió và bụi mưa.

Đơn vị tôi lúc này đã phân tán khắp mạn Bắc núi Sơn Trà, hai anh bạn trong Nam cùng ra nhận đơn vị, Th/úy Vượng và Th/úy Thái cũng chẳng thấy đâu, riêng tôi nhập vào một toán khoảng hai chục mạng, không có ai quen, soát lại trên người đâu còn trang bị ứng chiến, áo giáp, nón sắt, súng dài… may còn lại hai bịch gạo sấy, nhìn quanh các anh em binh chủng khác đã hòa nhập tự bao giờ, mấy hôm trước có tin các đơn vị Bộ Binh và Tổng Trừ Bị đã di tản bằng tàu thuyền từ biển Lăng Cô ghé vào đây, toán chúng tôi có một số anh em Biệt Kích, họ như còn công tác và có bản đồ vùng núi này, gồm Đại úy Th., một Thiếu úy và một Chuẩn úy phụ tá, trong toán có nhiều Sĩ Quan cấp tá cùng nhau tìm đường thoát.

Ba mươi sáu giờ đồng hồ trôi qua, những ai bị kẹt quanh đảo coi như bị tách biệt với thế giới bên ngoài, không biết Đà Nẵng mất chưa?, làm cách nào đi về bên đó hay đi ra con tàu đang chờ ngoài khơi, nơi đây chẳng có thực phẩm và phương tiện gì, vỏ mấy bao gạo sấy cuối cùng đã nằm rải rác trên bãi cát, anh em bàn đi bọc quanh đảo để tìm tàu thuyền, sau cùng chúng tôi đồng ý đi về bãi Nam hay qua An Hãi để dò hỏi tin tức, một anh tìm trong bản đồ rất kỹ mới thấy được một đường chấm nhỏ, đứt khúc khi ẩn khi hiện, ám chỉ một con đường mòn ít xử dụng, tạm gọi là nối từ Bãi Bắc sang Bãi Nam.

Nếu tính đường chim bay bán đảo Sơn Trà có chiều dài 13 Km, chiều ngang 5 Km, trên hai đĩnh cao hình yên ngựa, một phía là đài Kiểm báo Không quân, trách nhiệm vùng trời, bao phủ địa đầu giới tuyến và quần đảo Hoàng Sa, không phận đảo Cồn Cỏ là nơi thường hay thực tập không chiến vào buổi sáng, phía núi đâm ra biển là đài Kiểm báo Hải quân, tôi chưa ghé qua nhưng vẫn vẫy tay chào khi xe hai đơn vị gặp nhau trên núi, con đường đèo tráng nhựa ngoằn ngoèo khá dốc từ chân lên đỉnh dài 7 Km, leo bằng GMC mười bánh cũng mất ba mươi phút, chúng tôi không biết con đường chéo mơ hồ này dài bao nhiêu và có đi được tới Bãi Nam không?

Sau cùng chúng tôi cũng mò ra đầu mối con đường mòn trên thực tế, hai bên là những cây trà cằn cỗi xen lẫn những bụi gai, chúng tôi có lúc phải leo, nhảy trên những mõm đá, bây giờ là buổi sáng, mưa bay bay và gió khá mạnh, bóng chiếc tàu lớn không còn thấy nữa, mọi người đã thấm ướt, hốc hác nhưng vẫn còn hăng hái, có vẻ lên tinh thần hơn hôm qua vì biết là mình đang đi đâu, ai cũng quyết tâm bằng mọi cách để thoát khỏi nơi này, thật hoang mang không biết những gì đang xẩy ra ở thế giới bên kia, đoàn người lặng lẽ theo lối mòn, vạch lá, lội khe, thỉnh thoảng lại gặp một toán mới, nhập vào, bên đường tiếng một con gà rừng bay vù.

Con đường lại dẫn ra khỏi rừng cây để nhìn thấy biển, dưới kia là một bãi cát nhỏ mà anh em nói là bãi Nam, chẳng thấy có bóng người hay tàu bè gì nên lại tiếp tục hành trình, hy vọng gặp bãi đá An Hãi, đã xế chiều dù không thấy mặt trời, từ sáng đến giờ không thấy ai ăn uống, mưa vẫn lâm râm, đi mãi miết nên không thấy lạnh, đêm nay lại ngủ ở chốn này ư!, mọi người nhìn nhau mà chưa có câu trả lời, chẳng có gì nuôi sống, chỉ còn mấy cây súng là vốn liếng chung.

…Nhưng! khi vừa ló ra khỏi lùm cây, những người đi đầu cùng ồ lên một tiếng và đưa tay chỉ về chiếc ghe đang dập dềnh bên ghềnh đá, có lẽ là một chiếc ghe đánh cá, sao giờ này còn neo nơi đây!, anh em tụ lại bàn là đi hỏi xem họ có thể đưa chúng ta ra chiếc tàu ngoài khơi kia không?, chúng ta trả tiền, bao nhiêu cũng được, (tôi sực nhớ chỉ còn số tiền còm cõi), hai anh biệt kích dợm bước đi thì Đại úy Th. kêu ra xa dặn riêng điều gì, hai thuộc cấp luôn lận sẵn mấy trái mini và Colt, mang theo sứ mạng tìm đường giải thoát cho số người còn đứng trên bờ đá cheo leo.

Chúng tôi hồi hộp trông theo họ nhảy lên hụp xuống, lấp ló trên đường tiến đến chiếc ghe, đường thoát là đây, nổi xúc động tăng dần, phần đói và lạnh làm thêm run, khoảng cách độ hai trăm thước mà ai cũng thấy quá xa! chúng tôi ngồi xuống chờ, phóng tầm mắt bám theo hai người đi, ngoài khơi thoáng bóng chiếc tàu hy vọng.

Họ đã đứng trước mũi chiếc ghe, rồi bước xuống, chui vào trong khoang, như vậy công việc có vẻ thuận lợi, một hồi lâu họ vẫn chưa trở ra, có gì trục trặc, thật căng thẳng!…Nhưng có ai vừa chui ra khỏi ghe… vẫy vẫy, rõ ràng là một anh đang đứng trước mũi ra hiệu cho chúng tôi tiến lại, mọi người thở ra nhẹ nhõm, cuối cùng rồi cũng còn đường, chúng tôi chưa tới số, lúc sau mới biết Đại úy Th. dặn họ là tùy cơ ứng biến và lúc gay cấn họ buộc phải khống chế chủ thuyền.

Chiếc thuyền con phon phon ra khơi mang theo độ bốn chục mạng người, hướng về con tàu sắt mỗi lúc mỗi lớn dần, đã thấy rõ màu xam xám của nó, mưa vẫn bay và gió xốc ngược nhưng ai cũng muốn đứng phía trước mũi, ngóng ra biển khơi, mong khoảng cách mặt nước giữa hai con tàu biến đi, mọi người im lặng theo đuổi ý nghỉ của riêng mình, chỉ mấy ngày mà biết bao thay đổi, tiếng máy nổ đều đều, lòng phơi phới… Tôi quay nhìn lại Sơn Trà nhỏ dần trong sóng nước, nhìn lên hai ụ trắng hình cầu mờ trong hơi sương, chạnh nhớ quanh năm khí hậu trên đỉnh rất dễ chịu nếu không muốn nói là mát lạnh như cao nguyên, đôi khi tôi đứng đây nhìn về Đà Nẵng qua màn mây thấp mà thương nhớ thành phố, thời cắp sách đến trường, phố phường dìu dập, chốn phồn hoa dù là thời chiến tranh?, trái lại Sơn Trà như một miền đất lạ, các căn cứ nằm rãi rác chân núi, các công xưởng trải dài đến cảng Tiên Sa, im lặng, vắng bóng thường dân, thỉnh thoảng nghe tiếng gà rừng, đêm nghe con mang kêu tát, dọc đường lên núi đôi khi gặp mấy chú khỉ mông đỏ, gọi là giác hoàng hay giáp hoàng vì lông nó màu vàng, chúng nhún nhảy trên các tảng đá bên lề như muốn ra đón đường.

Tôi dõi mắt nhìn chân trời xa xa, có lẻ những người trên thuyền này cũng như tôi, có những người thân đang lênh đênh trên biển, cùng đoàn người xuôi Nam và hẹn gặp ở phần đất tự do còn lại, Sài Gòn, tôi đã từ giã gia đình tại bến cặp mấy chiếc xà lan trong cảng Tiên Sa và trở lại đơn vị, lúc đó các ngã đường dẫn đến ngã ba Sơn Trà không còn chỗ đặt chân, ai muốn ra Tiên Sa để xuống tàu phải bỏ vũ khí tại đây… sóng vỗ tung tóe mạn thuyền, văng lên mặt, thôi tạm biệt Đà Nẳng!..

Chiếc ghe hăng hái lướt đi trên đường hướng tới tương lai, bỗng sao nghe tiếng máy nổ rời rạc, pạch, pạch… rồi ngừng hẳn, có nhiều tiếng kêu hụt hẫng, mọi người xôn xao…chiếc ghe chậm lại rồi không tiến được tất nào, chòng chành gục gặc, chủ ghe tiến vào buồng máy, khom xuống đứng lên, vặn vặn gõ gõ, quay máy liên tục nhưng động cơ vẫn im lìm, rồi ông ta nhảy ùm xuống biển lạnh ngắt để xem chân vịt có vướng rác rưới rong rêu gì không?, mọi người hồi hộp, kiên nhẫn theo dõi chủ ghe và nhân công làm việc nhưng vô vọng, ụ máy vẫn là một đống sắt vô tri.

Để ghe trôi lênh đênh, mặc cho gió đưa sóng đẩy rồi tấp trở về bãi đá, lại bờ đá oan nghiệt, bờ nào trông cũng giống nhau, trời đã chiều, chủ ghe buồn rười rượi nói chúng tôi lên bờ chờ tìm phương tiện khác, nếu ở lại trên thuyền lắc lư một hồi mà không tát nước kịp rồi cũng chìm, chúng tôi đành từ giã vật nổi được cuối cùng, một nổi hụt hẫng bối rối khôn tả, tất cả đều thúc thủ ở đây sao! Cái lạnh đã thấm vào người, nhìn xa xa dưới ghềnh, tôi thấy một chiếc xuồng cao su đen của Hải quân, loại nầy ít khi gặp, có mấy người đang khom khom ở đằng đuôi, không nghe tiếng máy nổ, vài người đang cố chèo ra bằng dầm tay nhưng công lao của họ chỉ cần một cơn sóng là đẩy chiếc xuồng vào gần bờ hơn, cuộc vật lộn này với phong ba đến bao giờ mới chấm dứt?, chúng tôi đứng ngồi trên những tảng đá nhìn nhau không ai mở lời, đây đó từng nhóm núp sau những lùm cây hay dựa vào vách đá để tránh gió, tâm trạng lúc nầy và một giờ trước đây thật khác biệt, ở hai thế giới tương phản, có và không, còn và mất, muốn tin vào tương lai nhưng còn gì quanh đây?, đêm nay xuống rồi sáng mai có còn thấy một ngày, ngoại trừ một phép lạ.

Chiếc ghe trống không đậu lắc lư một hồi rồi từ từ trôi ra xa, vẫn còn trông rõ mồn một, bỗng dưng nổ máy nhắm một đường hướng về mũi đất phía Nam, chúng tôi sửng sốt!, sao không kiên nhẫn chờ sửa chửa, hay có gì khó hiểu trong việc này, có nhiều tiếng giận dữ, dù gì thì chiếc ghe cũng đã xa tầm đạn súng tiểu liên.

Thời gian lúc này cứng ngắc, máu trong người như sôi lên, ai cũng muốn phải làm một điều gì đó, đâu là giải pháp cho tình huống này? Chúng tôi không dám nhìn vào mắt nhau nhưng cũng cảm nhận ra bao nổi oan khiên, uất hận trong đó.

Từ xa có bóng hai chiếc ghe nhỏ vừa ló ra khỏi mũi đất mà phía bên kia là Đà Nẵng, hình như đang tiến về hướng chúng tôi, tiếng động cơ nghe rõ dần, chúng từa tựa như chiếc ghe cá hồi chiều, không lẽ ông chủ ghe đó về kêu chiếc khác ra cứu chúng tôi, lòng phập phồng vui sướng khôn tả, sắc mặt ai cũng tươi trở lại, mấy hôm nay tâm trạng chúng tôi thay đổi liên tục, từ cực tiểu đến cực đại, rồi ngược lại, chúng tôi nhốn nháo tìm một chỗ đứng để nhìn cho rõ, chờ đợi… Nhưng mọi sự đã kết thúc!, hai chiếc ghe chậm chậm dừng lại cách một khoảng, văng vẳng tiếng loa kêu đầu hàng, những họng súng hờm sẵn, ghe cập vào bờ, chúng tôi tiến ra, xuống thuyền, có người đi ngược lại, lẫn vào những lùm cây, họ không chịu đầu hàng.

Khi hai chiếc ghe chở chúng tôi rời xa bãi đá một đoạn thì tôi nghe những tiếng nổ từ trong bờ vọng ra, mọi người quay đầu lại, thấy từng cụm khói đậm màu sau mỗi tiếng vang, phủ trên những tảng đá, ngọn cây, một người nghẹn ngào thốt lên: “chúng nó rút chốt rồi!”(chốt lựu đạn), cay đắng dâng trào…các anh đã ở lại vĩnh viễn với đồi núi Sơn Trà.

Chiếc ghe chở chúng tôi lướt vào một bãi cát rộng khi trời tối hẳn, tôi vẫn nhận ra Thọ Quang nhưng khác lạ, biển đông người, dơ bẩn, nhốn nháo, mấy người đeo súng chấm đất chạy tới chạy lui, tôi lặng người nhìn ra biển lớn, một màu xám đen ngang tầm mắt, chỉ còn hình dáng núi Sơn Trà cao lồ lộ, hiện rõ trên nền trời như muôn đời che chắn cho Đà Nẳng, dọc theo nền cát nham nhở, đây đó những ánh đuốc lập lòe như ma trơi trên bãi biển thân yêu.

Sau hơn ba mươi năm, những diễn biến ngoài ghềnh đá bán đảo Sơn Trà như một đoạn phim gay cấn, tôi vẫn không sao biết được là chiếc ghe chở chúng tôi ra con tàu lớn, có thật sự bị hư máy hay chúng tôi đã bị lừa?, số tiền đưa ra thuê là bao nhiêu, có được chấp thuận không và hai anh Biệt kích đã cướp chiếc thuyền như thế nào?. Tôi có nghe tin Đại úy Th. đi tù cải tạo ở Kỳ Sơn, Tiên Lãnh, hai người bạn, Thiếu úy Vượng 72A, trên đường rút xuống biển gặp đoàn xe di tản của đơn vị Hải quân giữa đường đèo, anh quá giang vào cảng Tiên Sa xuống tàu, qua nhiều chặng anh tới Sài Gòn và di tản vào phút cuối, hiện định cư ở North Carolina; người bạn thứ hai, Thiếu úy Thái 72B, trong đêm lội bộ xuống núi anh lọt vào địa phận cảng Tiên Sa, sau qua bao gian nan đến phút cuối anh ra tới đảo Phú Quốc nhưng không thoát được; ba người bạn cùng điểm xuất phát đài Panama, 72 A,B,C, một đến miền đất hứa, hai đi tù cải tạo.

Có những anh hùng hy sinh với tên tuổi, mộ bia và vòng hoa tưởng niệm nhưng cũng có vô số anh hùng Miền Nam tự nguyện ra đi không để lại dấu tích và xác thân họ tan biến vào không trung, trong đó có những anh hùng vô danh bên khe núi Sơn Trà, xin kính cẩn nghiêng mình ngưỡng mộ.

Bút ký Phan Văn Dinh 72C
Thu 2009

hung45qs
12-06-2010, 05:45 PM
Tình Theo Vận Nước

Thân tặng các bạn SVSQ KQ Liên khóa 72-73 nhân ngày Hội Ngộ 2010

http://hoiquanphidung.com/user-upload/hqpd/HQPD_1291657719.jpg

Anh đã đến với tình em như mộng
Những tưởng cùng nhau dệt mộng tơ duyên
Miền Thùy Dương một thuở yêu đương
Tình yêu nào chả đẹp tựa thiên đường

Cuối tuần ngày phép nói được bao lời
Dấu trong tim bao điều nguyện ước
Anh yêu em tựa cánh thép yêu mây trời
Bao đường bay rồi cũng hồi cố quận

Cầu Xóm Bóng mấy nhịp chia cách đôi ta
Em ở lại dõi bước anh chân trời xa
Chí trai tung hoành vút trời bao la
Nợ tang bồng không thẹn với nhân gian

Thùy Dương buồn ngã bóng theo thời gian
Tuổi thanh xuân em rồi cũng phai tàn
Anh rong ruổi đường bay mấy nẽo quan san
Lấy không gian là nhà, bay bỗng là nghiệp

Em vẫn biết yêu anh là thua thiệt
Mối chân tình nào toan tính cho cam
Rồi một ngày tai họa giáng xuống trời Nam
Con tạo xoay vần tình ta cũng ly tan

Theo vận nước anh ra đi trong uất nghẹn
Bước chân đi nào ai có hẹn ngày về
Em cũng đành ôm mối sầu chất ngất
Xá gì tình ta khi “Nước mất nhà tan”!!

Từ Trường 73C

hung45qs
12-09-2010, 09:35 PM
Người Phi Công Già

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1291930575.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1291930700.jpg

/user-upload/img/HQPD_1256181473.mp3
Do chính Tác Giả trinh bày

hung45qs
12-11-2010, 08:33 AM
TƯỞNG BỎ ANH EM


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057237.jpg

Đã hơn tuần nay, không một hợp đoàn trực trăng nào đáp được vào An Lộc, vì hỏa lực phòng không dầy đặc, cùng với những trận pháo kích như mưa vào bãi đáp, mỗi khi có tiếng động cơ trực thăng vọng tới tai quân địch. An Lộc giờ đây chỉ còn trông nhờ vào sự tiếp tế duy nhất của những phi cơ vận tải, bay tít tận trời xanh, thả dù xuống thị trấn nhỏ bé, đang bị đoàn quân "sanh Bắc tử Nam" hăm he nuốt trửng.

Sáng sớm hôm ấy như thường lệ, tôi bước vào Phòng Hành Quân Phi Đoàn, nhìn lên bảng Phi-vụ-lệnh, sau tên của phi-hành-đoàn "C&C" (command and control) là tên của hai phi-hành-đoàn gunship chúng tôi, và bốn phi-hành-đoàn slick (đổ quân), với hàng chữ "Bộ Tư-lệnh Quân-đoàn III - Lai Khê - T.O.T. 7.00". Có nghĩa là hôm nay chúng tôi bay công tác cho Bộ Tư Lệnh Quân-đoàn III, bãi đáp là sân bay Lai Khê vào lúc 7 giờ sáng. Tôi nhủ thầm: "Hôm nay tới phiên mình, có thể sẽ vào An Lộc". Liếc vội qua tên của hai nhân viên phi hành khác cùng chung phi vụ với mình - Tài và Xuân, tôi hơi yên tâm. Tài và Xuân là hai chàng cơ phi và xạ thủ dày dạn kinh nghiệm, đã từng bay cùng chúng tôi trong những phi vụ "đứng tim", trong nhiều cuộc hành quân vượt biên sang Kampuchia trước đó, và họ đã chứng tỏ được lòng can trường cũng như khả năng tác chiến, trên hai khẩu minigun 6 nòng, của những chiếc UH võ trang quen thuộc.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057506.jpg

Tất cả hợp đoàn bảy chiếc của chúng tôi đáp xuống Lai Khê đúng 7 giờ. Sương mai vẫn còn vương đọng trên những ngọn cao su dầy đặc, của vùng đồn điền Thủ Dầu Một. Phi trường Lai Khê đã nhộn nhịp hẳn lên, kể từ khi cuộc chiến ở mặt trận Bình Long - An Lộc bắt đầu. Mỗi ngày, từng hợp đoàn trực thăng thay phiên nhau lên xuống, ở cái phi trường nhỏ bé, với phi đạo được lót bằng những tấm vĩ sắt thô sơ.

Sau khi tắt máy, chúng tôi kéo nhau vào câu lạc bộ dã chiến, của Bộ Tư-lệnh Tiền-phương Quân-đoàn, được thiết kế một cách vội vàng, trong bìa rừng cao su cạnh phi trường, để đáp ứng nhu cầu hành quân của các đơn vị tham gia. Như để cố quên đi những hiểm nghèo sẽ phải đối phó trong những giờ phút sắp tới, tất cả chúng tôi ai cũng cười nói vui vẻ, nhất là mấy anh chàng cơ phi - xạ thủ. Nào là hồi đêm rồi đi chơi với cô bồ nào, bắt "ghệ" ở đâu... Sau những tô mì ăn liền, những gói xôi, những ổ bánh mì và những ly cà phê uống vội vã, chúng tôi trở ra bải đáp, nơi những "con chuồn chuồn sắt" thân yêu đang nằm chờ đợi. Tới nơi thì thấy hai hợp đoàn của hai phi đoàn trực thăng bạn - Lôi Vũ, Lôi Điểu - cũng đã có mặt sẵn rồi. Tôi nghĩ thầm: "Hôm nay chắc chắn phải có những diễn biến vô cùng quan trọng cho chiến trường An Lộc!".

Năm phút sau, một chiếc trực thăng lẽ loi đáp xuống giữa những hợp đoàn của chúng tôi đang nằm chờ lệnh. Từ trên phi cơ bước xuống, đi đầu là Trung tá Không-đoàn-Trưởng, sau đó tới ba ông Phi-đoàn-Trưởng - Lôi Vân (phi đoàn của tôi), Lôi Vũ và Lôi Điểu. Không còn nghi ngờ gì nữa, phải là những phi vụ vô cùng quan trọng, nên mới có những ông số một "lên vùng". Dĩ nhiên, "Đồng Nai 1" và "Đồng Nai 2" (Tư-lệnh và Tư-lệnh-phó Sư-đoàn 3 Không Quân), đã có mặt ở bộ chỉ huy của Bộ Tư-lệnh Chiến-trường cùng với các tướng lãnh bên Quân-đoàn. Tất cả đều vội vã leo lên những chiếc xe jeep chờ sẵn, chạy thẳng vào Bộ Chỉ-huy Hành-quân, đặt bên trong những tòa nhà cổ, của đồn điền cao su, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, như thầm bảo nhau một điều gì, không ai nói ra, nhưng tất cả đều hiểu.

Nửa giờ sau, một chiếc xe Jeep chạy thẳng ra bãi đáp, nơi chúng tôi đang quây quần tán gẫu. Một sĩ quan bước xuống và lên tiếng: "Kính mời quý vị C&C, lead gun và lead hợp đoàn vào họp". Một lần nữa, chúng tôi lại đưa mắt nhìn nhau, để cùng thầm đánh giá tầm mức quan trọng của những phi vụ hôm nay.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057568.jpg

Rồi những gì chờ đợi cũng đã đến. Mười lăm phút sau, tất cả đều có mặt ngoài bãi đáp. Lôi Vân 1 của chúng tôi cho biết, ông sẽ bay với Lôi Hổ 1 (Không-đoàn-Trưởng) trên chiếc C&C, để trực tiếp hướng dẫn chúng tôi bay vào An Lộc. Một cuộc họp ngắn diễn ra ngay tại bãi đáp, qua đó chúng tôi được biết, nhiệm vụ của chúng tôi là bằng mọi giá, trong ngày hôm nay, phải đổ cho xong Liên-đoàn 81 Biệt Cách Dù vào An Lộc; nếu nhiệm vụ không hoàn thành, An Lộc có thể bị địch tràn ngập nội tối hôm nay!... Không ai bảo ai, tất cả chúng tôi đều hiểu rằng, dù có phải trả giá đắt tới đâu, chúng tôi vẫn bắt buộc phải hoàn thành nhiệm vụ. Sau cùng, trước khi trở lại phi cơ của mình, Lôi Vân 1 tươi cười nói thêm: "Trung tướng Tư-lệnh Quân-đoàn sẽ tưởng thưởng cho hợp đoàn nào đáp xuống An Lộc trước tiên. Sĩ quan ngôi sao vàng, hạ sĩ quan ngôi sao đồng và mỗi phi cơ mười ngàn để làm tiệc liên hoan. Hợp đoàn đầu tiên cất cánh sẽ là hợp đoàn của chúng ta".

Nghe xong câu chót, tuy đang vô cùng lo lắng, chúng tôi cũng không khỏi nức lòng; nức lòng không phải vì những cái huy chương tưởng thưởng, mà vì thấy mình được đóng một vai trò vô cùng quan trọng, trong việc bảo vệ vùng lãnh thổ này của Tổ Quốc.

Chúng tôi trở lại phi cơ và bắt đầu "quay máy" (mở máy).

Các đơn vị của Liên-đoàn 81 Biệt Cách Dù lần lượt lên từng chiếc phi cơ đang nổ máy chờ. Họ là những chiến sĩ can trường và vô cùng tinh nhuệ, được huấn luyện đặc biệt và trang bị để chiến đấu ngay trong lòng quân địch. Với khả năng tác chiến và lối đánh giặc thần sầu của họ, các cấp chỉ huy hy vọng Liên-đoàn 81 được đổ giữa lòng An Lộc, sẽ hợp cùng những đơn vị bên trong, đánh bật những đội đặc công Việt-cộng đã xâm nhập thành phố. Từ đó mở rộng vòng vây và bắt tay với những đơn vị bạn từ phía ngoài đành vào. Họ đã không phụ lòng kỳ vọng của mọi người.

Rời phi trường Lai Khê, hợp đoàn chúng tôi thẳng đường tiến lên An Lộc. Trên tấn số vô tuyến, chúng tôi hoàn toàn giữ im lặng. Tâm trí dồn hết vào cuộc đổ quân sắp tới, trong đó tất cả chúng tôi sẽ là những Kinh Kha sẵn sàng sang sông Dịch Thủy mà không hẹn ngày về.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057663.jpg

Đến gần phi trường Chí Linh - một phi trường nhỏ nằm giữa An Lộc và Đồng Xoài - giọng của Lôi Vân vang lên trong máy: "Hợp đoàn làm vòng chờ ở phi trường Chí Linh, Charlie vào quan sát bãi đáp".

Rồi phi cơ của ông vụt bốc lên cao và bay sâu vào gần An Lộc. Sau ba vòng chờ, chúng tôi thấy phi cơ của ông quay mũi ra. Ông ra lệnh:

- Hợp đoàn hướng vào An Lộc. Hạ cao độ ở ngọn cây, theo sự hướng dẫn của Charlie - Bay vào!

- Nhận rõ, Charlie!

Sau mỗi một mệnh lệnh của Charlie, hợp đoàn nhắc lại thật rõ ràng. Tất cả giữ im lặng trên tần số, ngoại trừ emergency...

- Check vô tuyến lần chót!

- Một rõ - Hai rõ - Ba rõ...

- OK, good!.(*)

Giọng Lôi Vân vẫn tiếp tục phát ra đều đều..

- Hợp đoàn thẳng hướng trước mặt... Trái 5 độ... Phải 10 độ... Trái... Phải... Trảng trống lớn trước mặt - Quẹo gắt phải 10 độ... Bay thẳng...

Duy nhất chỉ có giọng Lôi Vân và lead hợp đoàn - Bình tĩnh, rõ ràng và chắc nịch. Chúng tôi dồn hết tâm trí vào đôi mắt và đôi tai, điều khiển con tàu của mình theo đúng đội hình của hợp đoàn, xuyên ngang qua đầu quân địch. Để tận dụng yếu tố bất ngờ, hai chiếc gun của chúng tôi hoàn toàn im tiếng. Khoảng năm phút sau, giọng Lôi Vân bắt đầu dồn dập..

- Phải 5 độ... Thêm 5 độ nữa... Bay thẳng... Trái 5 độ... Giảm airspeed... Bãi đáp có panel đỏ, hướng 12 giờ, 200 mét... Thấy chưa?

- Thấy rõ Charlie.

- OK. Slick đáp. Gun cover. Xong cất cánh thẳng - Quẹo gắt 180 độ quay ra.

- Nhận rõ Charlie.

Hai chiếc gun cover chưa hết một vòng thì đã nghe lead hợp đoàn báo cáo:

- Hợp đoàn an toàn. Cất cánh Charlie.

(Biệt Cách Dù nhảy trực thăng rất nhanh - nghề của chàng mà - phi cơ chưa chạm đất, họ đã phóng hết ra ngoài)

- OK! Quẹo gắt 180 độ - Theo lệnh tôi đi ra.

- Nhận rõ.

Hợp đoàn cũng lặng lẽ nghe lệnh hướng dẫn, theo đường cũ bay ra, nhường bãi đáp cho hai hợp đoàn bạn đang trên hướng bay vào.

Những giây phút hiểm nghèo của chúng tôi chỉ thật sự chấm dứt, khi nghe Lôi Vân 1 ra lệnh "Hợp đoàn lấy cao độ, thẳng về Lai Khê".


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057739.jpg

Khẩu lệnh vừa phát ra, từ chiếc số một cho đến chiếc số bốn, như những cây pháo thăng thiên phóng thẳng lên trời, bỏ mặc cho hai chiếc gun của chúng tôi cà rịch cà tàng từ từ lên sau. Bởi vì slick sau khi đổ quân tàu nhẹ hẫng, trong khi gun vẫn nặng nề vì còn đầy súng đạn.

Tất cả chúng tôi thở ra một hơi dài nhẹ nhỏm. Phép lạ đầu tiên trong ngày đã đến với chúng tôi. Sau khi đáp, tắt máy, check tàu, thấy cả hợp đoàn không ai bị một lỗ đạn nào. Rồi tất cả tên tuổi chúng tôi đã được sĩ quan trực Quân-đoàn cẩn thận ghi vào sổ. Bữa cơm trưa hôm đó, mặc dù chỉ có mấy lát thịt hộp và một tô canh cải bẹ xanh, nấu với tôm khô, chúng tôi cũng đã thưởng thức ngon lành, như một bữa ăn thịnh soạn ở một nhà hàng sang trọng.

Nhưng giờ phút khoan khoái này cũng chẳng kéo dài được bao lâu. Bởi vì chưa đầy nửa giờ sau, chúng tôi được lệnh cất cánh phi vụ thứ nhì, đồng thời những tin chẳng lành về hai hợp đoàn bạn cũng đến với chúng tôi; Lôi Vũ, Lôi Điểu, hợp đoàn nào cũng có người rơi rụng!

Chuyến thứ nhì, mọi thủ tục cũng diễn ra như chuyến đầu. Chúng tôi cũng bắt đầu hạ cao độ từ phía phi trường Chí Linh. Kèm theo khẩu lệnh, Lôi Vân cho hai gun chúng tôi biết là sẽ tác xạ theo sự hướng dẫn của Charlie. Sau khi ghi nhận mọi chi tiết, chúng tôi lặng lẽ tập trung điều khiển con tàu. Những ngón tay của chúng tôi bắt đầu hoạt động sau khi Charlie cất tiếng "Bravo 1,2 sẵn sàng tác xạ". Từng loạt rocket của chúng tôi nhịp nhàng phóng ra hai bên sườn, theo đội hình hàng dọc của bốn chiếc đổ quân, cứ mỗi khi rocket vừa ngưng, thì hai khẩu minigun do các chàng xạ thủ lão luyện, từ hai bên vẽ thành đường dài, từ xa phiá trước đến cuối phía sau, với nhịp độ hai ngàn (2000 viên trong một phút), tạo thành một lưới đạn bảo vệ cả hợp đoàn. Từ trên cao nhìn xuống, Lôi Vân đã phải buột miệng khen "Bravo bắn đẹp lắm - Cứ tiếp tực như thế nữa đi!"

Nhưng chúng tôi chưa kịp hãnh diện với lời ngợi khen của cấp chỉ huy, thì từng tràng đạn phòng không 12 ly 8 của địch đã từ lòng suối phun lên. Không một phút chần chờ, tôi lập tức quay mũi phi cơ hướng về những nòng đại liên phòng không của địch, bật cả hai nút công tắc rocket trái, phải, ngón tay cái trên cần, bấm liên tục, như muốn trút hết căm hờn lên đoàn quân xâm lược "sinh Bắc tử Nam". Từng cặp, từng cặp rocket xé gió phóng ra, nổ tung để đưa đám xạ thủ địch về bên kia thế giới. Nhưng cùng lúc đó, chúng tôi cũng không còn đủ thời giờ để nhìn thấy kết quả chiến công vừa tạo được. Tàu tôi đã bị trúng đạn phòng không của Bắc quân.

Sau những tràng rocket phóng ra, tôi vội vàng quay mũi phi cơ trở lại với hợp đoàn, thì mới phát giác ra rằng, bộ phận truyền lực (transmission) của phi cơ đã bị trúng đạn bể rồi. Nhớt nóng từ trong buồng máy phọt ra, ướt phỏng người Xuân, làm anh chàng tưởng rằng mình đã bị trúng đạn. Tôi bấm máy liên lạc Charlie:

- Charlie. Gun 1 bị bắn bể transmission rồi!

- Còn bay được nữa không?

- Negative!

- Đáp ngay! Bãi trống hướng 10 giờ. Gun 2, quay lại cover gun 1.


Chúng tôi quay mũi về hướng Lôi Vân vừa chỉ, và cũng vừa đủ thời giờ cho phi cơ từ ngọn cây rơi xuống theo đà thẳng cánh tay trái của tôi (đẩy hết cần cao độ xuống). Chiếc trực thăng "vùng vằng" mấy cái thật mạnh, rồi mới chịu nằm yên. Ngay sau đó, chứng tôi đã kịp nhận ra từng loạt đạn AK và tiếng thét dồn dập"Xung phong! Bắt sống giặc lái ngụy". Nhưng tiếc thay cho đám "bộ đội cụ Hồ", một hàng rào lửa từ trên không do gun 2 trút xuống, đã khiến cho lũ giặc phải lắc đầu, le lưỡi... Ngay sau đó, một chiếc slick trong hợp đoàn - tàu của Trương Công Bình - sau khi đổ các chiến sĩ Biệt Cách, trên đường trở ra, đã tức tốc theo lệnh Charlie, đáp xuống ngay bên cạnh chúng tôi.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292057815.jpg

Vì phải loay hoay phá hủy tần số truyền tin, tôi là người sau cùng rời khỏi chiếc phi cơ lâm nạn. Ngay khi vừa thoát khỏi buồng lái, tôi thấy đôi càng của phi cơ bạn đang vội vàng rời khỏi mặt đất!... Tôi thở dài tuyệt vọng, nhưng do bản năng sinh tồn thúc đẩy, đôi chân vẫn dồn dập phóng theo. Lửa đạn vẫn tiếp tục cày xéo chung quanh - vừa đạn từ phi cơ vừa đạn địch. Tôi những tưởng phen này đành bỏ lại anh em, giã từ phi cơ, giã từ bè bạn... Nhưng may mắn thay, vào lúc đôi chân tôi gần như quỵ xuống, Phạm Ngọc Rĩnh - hoa tiêu phó cho Bình - đã phát giác ra việc tôi còn lọt lại dưới đất. Anh không còn một sự lựa chọn nào khác hơn. Và trước khi Bình kịp định thần trước sự việc bất ngờ xãy ra, Rĩnh vừa la lớn "Còn một người nữa" vừa đẩy mạnh cần lái xuống. Đôi càng phi cơ bám trở lại xuống mặt đất, kịp cho tôi đưa cánh tay ra chụp lấy một cánh tay khác, từ trên phi cơ, lôi mạnh tôi lên.

Tôi đã trở lại với anh em, với bạn bè. Nhưng đành phải vĩnh viễn từ giã chiếc phi cơ thân yêu, mang số phi vụ 526 - chiếc phi cơ đã gắn bó với chúng tôi trong bao phi vụ hành quân, đã cùng vào sanh ra tử, trên khắp các chiến trường vùng 3 chiến thuật.

Lôi Vân 71

Tác giả bài này là Tr/Úy Nguyễn Văn Đạt hiện đang định cư ở Úc
Vị Phi Đội trưởng trong câu chuyện là Đ/Úy Trương Công Bình hiện đang cư ngụ ở California
mà anh em trong HQPD đã biết anh dưới nickname LoibangTQLC

hung45qs

hung45qs
12-14-2010, 06:03 AM
TRÊN CHUYÊN XE LAM


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292269378.jpg

Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy
Tôi quen nàng trên chuyến xe lam
Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng
Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói

Xe vẫn chạy phun ra nhiều khói
Trời đang trưa, sao bổng đổ mưa
Nàng nhìn tôi ấp úng có thừa
"Cho xin lổi, anh về đâu nhỉ?”

Tôi lấp vấp, “Thưa về cầu Vĩ "
Tìm người quen tri kỷ rất thân
Nhớ khi xưa tôi ghé một lần
Nay không nhớ, cô đây có biết?

Nàng nhìn tôi nụ cười da diết
Trả lời không, nhưng cố tìm xem
Rồi xin tôi địa chỉ làm quen
Nhỡ mai mốt tìm ra liên lạc

Xe đến bến, mưa rơi nhẹ hạt
Nàng xuống xe từ giã tôi đi
Bỏ mình tôi, đôi lúc nhiều khi
Chạy theo nói cho đi cùng với

Sau cơn mưa trời thêm u tối
Tôi tìm ra người bạn chí thân
Vẫn không quên cô gái ngồi gần
Mong tin lắm, cô ơi có biết...

Trần Thanh

hung45qs
12-18-2010, 06:37 PM
Đôi lời cảm tạ


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1292536750.JPG

Hôm nay Đặc San Hội Ngộ được thành hình với bài vở thật phong phú là nhờ vào những bàn tay đóng góp của các anh, các chị mà tôi vẫn thường gọi là “Cây Bút Đặc San”. Mỗi bài viết đều có một sắc thái riêng nhưng chung quy cũng chỉ để tô đậm những cái đáng yêu của những đứa con Không Quân.

Khi nhận lãnh trọng trách này, tôi rất lo âu nhưng sau khi nhận được bài vở và những lời khuyến khích đầy thâm tình tôi đã cảm thấy rất an tâm để hoàn tất trọng trách này. Xin các anh, các chị đón nhận nơi đây lời cảm tạ chân thành nhất của BBT và mỗi khi cầm cuốn Đặc San này trong tay, xin các anh, các chị một nụ cười mãn nguyện là mình cũng đã có đóng góp một phần trong công trình gầy dựng đứa con tinh thần này.

Thân chúc tất cả một ngày Hội Ngộ đầy niềm vui và hạnh phúc bên cạnh người thân và bạn bè. Hy vọng tinh thần Huynh Đệ Chi Binh sẽ sống trong chúng ta mãi mãi và mãi mãi…..

BBT cũng xin được cám ơn các mạnh thường quân đã gián tiếp giúp đỡ cho Đặc San được thành hình qua những mục quảng cáo cho các cơ sở thương mại của mình. Xin các anh chị nhiệt liệt ủng hộ cho các cơ sở thương mại này và xin mến chúc những cơ sở thương mại này được luôn thành công để phục vụ cộng đồng.

Tôi xin đặc biệt cám ơn KQ Lê Văn Hải 73A, chủ nhiệm báo Thằng Mõ Bắc Cali đã đứng ra để nhận lãnh phần ấn loát cho cuốn Đặc San này. Nghĩa cử cao đẹp này đã một lần nữa thể hiện tinh thần Huynh Đệ Chi Binh của anh và sẽ được BTC nói chung và BBT nói riêng ghi nhớ mãi.

Thay mặt BBT

hung45qs

hung45qs
12-26-2010, 05:46 AM
Bắt đầu từ trang này, xin mời các cựu SVSQ liên khóa 72-73 gửi hình ảnh xưa và nay về để tôi xin giới thiệu với bạn bè và thành viên của HQPD.
Tất cả hình ảnh xin gửi về: vnjhn@yahoo.com
Xin đề rõ tên họ, khóa quân trường, khóa bay hoặc đơn vị phục vụ nếu có

hung45qs

hung45qs
01-03-2011, 06:22 AM
CẤP CHỈ HUY


XƯA



NAY


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302938807.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302938828.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302940524.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302940561.jpg

hung45qs
01-06-2011, 06:34 AM
72A


XƯA



NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297131825.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297131547.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297131679.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1294036283.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1294036761.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1294037910.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297131978.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132048.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132091.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296710903.JPG http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297006718.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880218.jpg


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302937710.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302937752.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302937786.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302940670.jpg

hung45qs
01-28-2011, 06:32 PM
72B


XƯA



NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296325294.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296325342.jpg

GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296325377.jpg

hung45qs
01-28-2011, 06:33 PM
72C


XƯA



NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297134814.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297134844.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880277.jpg

hung45qs
01-28-2011, 06:33 PM
72d


xưa



nay

hung45qs
02-01-2011, 06:43 AM
72E


XƯA

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296545127.jpg

NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132677.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132720.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880338.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132806.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132855.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132919.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296362573.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297132965.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297133082.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297133131.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297133275.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1297135722.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298336564.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298337218.jpg


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302938347.jpg

hung45qs
03-01-2011, 05:39 AM
72F


XƯA


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296545206.jpg

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296544516.jpg

NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296542584.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296543335.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1296544559.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298336463.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1304400660.jpg


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302938187.jpg

hung45qs
04-15-2011, 01:19 AM
72G


XƯA

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880693.jpg

NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298337841.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880408.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880437.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298880461.jpg


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298956849.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298956927.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298956982.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957022.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957060.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957097.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957168.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957199.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957253.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957301.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1298957364.jpg

hung45qs
04-16-2011, 07:12 AM
72H


XƯA


http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302675537.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302762227.JPGhttp://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302762291.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302829790.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302830612.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302676138.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302676172.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302831430.jpg

NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302762580.jpg http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302831138.jpg


GIA ĐÌNH

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302762882.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302763204.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302830155.JPG
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1308151012.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1302936785.JPG

hung45qs
05-17-2011, 03:50 AM
73A


XƯA


NAY

http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305603950.jpg
http://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305604076.jpghttp://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305604114.jpghttp://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305604150.jpghttp://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305604190.jpghttp://hoiquanphidung.com/user-upload/users/HQPD_1305604234.jpg