PDA

View Full Version : Luật Nhân quả



Thienbang
03-10-2010, 11:06 AM
Luật Nhân Quả và làm sao thay đổi được vận mạng


Trong kinh nói người ta trên thế gian này có hai thứ nghiệp báo :

Thứ nhất là ‘dẫn nghiệp’, dẫn dắt bạn đầu thai trong mười pháp giới . ( Chú thích: mười pháp giới gồm có: Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, Trời, A tu la, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ, và Ðịa ngục. )

Dẫn nghiệp này tức là ngũ giới , thập thiện .

Trong đời quá khứ tu ngũ giới thập thiện, tu rất tốt , nghiệp lực này dẫn dắt bạn đến thọ sanh trong loài người .

Sanh vào nhà ai , ai làm cha mẹ của bạn là do duyên phận mà định .

Cái duyên này rất phức tạp nhưng không ngoài bốn loại : báo ân , báo oán , đòi nợ , trả nợ .

Nếu là báo ân thì con bạn sẽ là con hiếu cháu ngoan , bản tánh bẩm sanh là tốt .

Nếu là báo oán thì tương lai sẽ làm cho bạn nhà tan cửa nát , nó đến để báo thù .

Nếu là đòi nợ thì bạn vui vẻ nuôi nấng , cung phụng nó , đến lớn nó sẽ chết . Tiền bạn nuôi cho nó lớn lên đều là tiền thiếu nó , nó đòi hết thì ra đi .

Nếu là trả nợ thì nó đến chăm sóc , phụng dưỡng cha mẹ , chăm sóc những thứ nhu yếu trong lúc tuổi già , nhưng nó không có tâm cung kính, tâm hiếu thuận .

Nếu không phải là bốn thứ quan hệ này thì sẽ không sanh vào nhà bạn .

Sau khi hiểu rõ rồi , chuyển biến những thứ nghiệp duyên này thành pháp duyên , như vậy là giác ngộ .

Không kể là bạn sanh vào cõi này như thế nào , chúng ta đều khuyên bạn niệm Phật , đều khuyên
bạn học Phật , khuyên bạn tiếp nhận lời dạy của Phật Bồ Tát , như vậy là chuyển biến nghiệp duyên từ đời trước thành pháp duyên , oán nợ hận thù hoàn toàn tiêu mất , đây là trí huệ chân thật .

Thứ hai là ‘mãn nghiệp’.

Sau khi chúng ta được thân người , sự hưởng thụ trong đời này,những của cải tiền bạc có được trong đời này , công danh địa vị trong xã hội đều là từ quả báo của đời quá khứ tu thiện hoặc làm ác .

Bố thí tài vật là nhân , được giàu sang là quả báo ;

Bố thí pháp là nhân , được thông minh trí huệ là quả báo ;

Bố thí vô uý ' (giúp cho người khác không sợ hãi) là nhân, được khỏe mạnh sống lâu là quả báo .

Nếu làm đủ ba thứ bố thí này, quả báo của bạn sẽ vô cùng đầy đủ , viên mãn , bạn sẽ có giàu sang , thông minh , trí huệ , khỏe mạnh , và sống lâu .

Tuy nhiên chúng ta thấy có nhiều người giàu sang nhưng không có thông minh , trí huệ , thậm chí chưa học đến tiểu học , nhưng cơ duyên của họ rất tốt , rất nhiều học sinh đại học và bác sĩ làm việc cho họ .

Họ làm người chủ , nhân viên thuộc hạ đều ra sức làm việc cho họ , những nhân viên này đến là để báo ân , trả lại nợ đời trước thiếu họ .

Vì vậy cho nên người ta tu thiện tích đức thì mãn nghiệp sẽ tốt .

Trong đời quá khứ tu không đủ thì đương nhiên mọi việc trong đời này đều khó khăn .

Sau khi bạn hiểu được Phật pháp rồi nỗ lực hết lòng tu học vẫn còn kịp .

Nếu thật hết lòng nỗ lực đi làm , ba năm sau quả báo sẽ hiện ra , vận mạng sẽ biến đổi .

Nhất định là có vận mạng và vận mạng này cũng có thể sửa đổi .

Nếu chúng ta có tâm thiện , hành động thiện , quả báo sẽ càng ngày càng tốt đẹp và càng thù thắng ;

Nếu chúng ta có tâm không thiện , hành vi không thiện , tuy là có phước báo , phước báo này cũng
bị tổn hao , thời gian hưởng phước rút ngắn lại , khi phước hưởng hết rồi thì ác nghiệp sẽ hiện ra .

Chúng ta xem trong xã hội hiện nay có rất nhiều nhà giàu có , buôn bán không được mấy năm thì sập tiệm , đây là vì trong đời quá khứ có phước báo nhưng đời này không làm việc thiện nên phước báo rất dễ dàng hưởng hết .

Nguyen Hoang Tan
03-11-2010, 08:15 AM
Nhân quả là nguồn gốc của vạn hữu. Khi tâm chúng ta còn sinh hoạt trong đối đải, thì sự vay trả sẽ nối tiếp. Bạn muốn chấm dứt sự vay trả nầy không.?? Hãy làm thiện mà không nghĩ đó là thiện. Hãy cố tập quên mình trong giây lát, và tiếp tục quên sự hiện diện trong đời sống nầy...mãi cho đến khi gọi là thuần, thì nhân quả không còn bám nổi chân bạn nữa.
Phật có dạy: Không có một "thế gian pháp" nào khả dĩ tiêu diệt được nghiệp quả, hay còn gọi là vô hiệu hoá một cách hoàn hảo. Chỉ có pháp Phật mới trừ tuyệt đối luân hồi. Nếu có pháp thế gian khả dỉ chi phối, chẵng qua chỉ trong giai đoạn mà thôi.
Phàm muốn trừ Nhân Quả phải tuyệt đối không: Nhìn ra, nghe ra, thở ra, tưởng ra....mà một lúc gom lục thức về một chỗ. Nghe, nhìn, thở...cùng một lúc, vào một chỗ...chỗ nầy còn gọi là "Vô Sở Trụ". Khi thiện và ác không còn chỗ để trụ nữa thì hẵn nhiên bạn đã học pháp lià ngã.......cần phải gặp Minh Sư thì mới xong.
Chúc may mắn.
NHT

TAM73F
03-13-2010, 07:59 AM
Để đóng góp tiếp Đề Tài '' Luât Nhân Quả '' của NT Nguyển Hòang Tân (già)
Tôi xin mang phép đăng thêm phần thăc mắc thường khi nhửng Ai muốn tìm hiểu về
Phât Giáo...Bài Sưu Tầm

THÍCH CHÂN TUỆ

Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:

1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?

2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?

3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy (hay Sư phụ), người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?

4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng "con" được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là "con" với vị xuất gia?

5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?

* * *

Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, chúng ta cần thông qua các điểm sau đây:
1) Chư Tổ có dạy: "Phật pháp tại thế gian". Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời. Chư Tổ cũng có dạy: "Hằng thuận chúng sanh". Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.
2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp: Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh. Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà thôi. Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.
3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo. Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp). Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời. Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.

Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ. Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là "khu ô sa di" (sa di đuổi quạ).

Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô (nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia. Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bên ni, bên tăng không có. Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới.

Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch), không phải thụ giới nào cao hơn. Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam tông không có giới này. Ở đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.

Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng như sau theo hiến chương của giáo hội Phật giáo:
1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.
2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng Tọa.
3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ):
4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).
5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.
6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).

Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của giáo hội Phật giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp đại lễ hay đại hội Phật giáo, trong các giới đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ. Ni sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ. Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ. Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: "Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni", chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa thượng ni. Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không quen tai nhưng không phải là sai.

Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở giáo hội Phật giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại tùng lâm, Phật học viện, Tu viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng minh tối cao của các giáo hội Phật giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu).

* * *
Đến đây, chúng ta nói về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.

1) Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư). Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.

2) Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy. Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.

3) Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là "quí Phật tử". Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là Phật tử, chứ không riêng tại gia là Phật tử mà thôi. Việc một Phật tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng "con" thực là không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời: ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia.

4) Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí Phật tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di (Tín nữ, Cận sự nữ).

5) Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng "con" trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm "con" của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng "con" trong giáo pháp của đức Phật.

6) Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác. Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, đảm nhận trọng trách, nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.

7) Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư ông, Sư cụ thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là Pháp sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.

8) Danh xưng Sư tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính.

9) Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức.

10) Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Thường bất khinh Bồ tát, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cho nên đơn giản nhất là "xưng con gọi Thầy". Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.

* * *
Tóm lại, ngôn ngữ, danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên cách xưng hô trong đạo Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần tu tướng.

Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị tại gia phát tâm tu tập, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi. Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia. Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.

Cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi! Đó là phần tu tâm.

Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không biến đổi, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng tu tâm dưỡng tánh không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật tử tại gia cũng như xuất gia.

Đó chính là một phần ý nghĩa của "tùy duyên bất biến" trong đạo Phật vậy. ?

Cơ sở Phật học Tịnh Quang Canada
Email: cutranlacdao@yahoo.com
(Quảng Đức: http://www.quangduc.com)

Nguyen Hoang Tan
03-13-2010, 08:47 PM
Có lẻ CB Tâm kiếp trước làm dàn ná để bắn chim.....nên kiếp nầy....bị....làm Pilot....phản lực chăng????
TG

TAM73F
03-14-2010, 07:38 AM
Luật Nhân Quả
Thưa Bác NT Tân ,
Không riêng gì Tôi mà tất cả Pilots Anh Em tui mình đèu bi cái Nghiêp Pilot đó phải trả ,nhưng may mắn còn sống nhăn răng là tai còn Nơ Đời chưa trả dứt !!!
Luôn chúc NT Tân nhiều sức khoẻ .
TAM73F

TAM73F
06-16-2010, 10:44 AM
Chỉ có một cuốn sách đáng đọc nhất, đó là tâm của chính mình.

. Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ tất cả những gì làm tâm ta đau khổ trong khi hành thiền. Phiền não đau khổ, chứ không phải tâm đau khổ. Chúng ta chẳng biết cái gì là tâm, cái gì là phiền não. Những gì không làm ta thỏa mãn thì ta không muốn gặp. Cuộc sống của chúng ta chẳng khốn khổ gì ! Cái khốn khổ ở đây là không thỏa mãn, không hài lòng với cuộc sống. Thật vậy, chỉ có phiền não và khốn khổ mà thôi.

. Thế gian đang ngùn ngụt cháy. Trong sự nóng bỏng này, tâm thay đổi từ yêu sang ghét. Biết cách làm cho tâm an tịch tĩnh lặng sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho thế gian.


. Nếu tâm bạn an lạc hạnh phúc thì ở nơi nào cũng an lạc hạnh phúc. Khi trí tuệ khai mở trong tâm bạn thì bất kỳ nơi nào bạn nhìn đến cũng đều là chân lý. Chân lý ở khắp mọi nơi, chẳng khác chi một khi biết đọc chữ thì ở đâu bạn cũng đọc chữ được.


. Nếu bạn cảm thấy không hài lòng ở một nơi, bạn sẽ cảm thấy không hài lòng ở mọi nơi. Chẳng có nơi nào bên ngoài làm bạn khó chịu. Nơi khó chịu nằm bên trong bạn.


. Hãy nhìn vào tâm mình. Người mang vật nặng chẳng thấy gì, nhưng người ngoài nhìn vào thấy nặng. Vất bỏ mọi vật, buông bỏ tất cả, bạn sẽ nhẹ nhõm.


. Tâm vốn an tịnh tĩnh lặng. Khi tâm ra khỏi an tịnh tĩnh lặng thì bất an rối loạn sẽ nhảy vào. Khi nhìn thấy được bất an rối loạn này thì an tịnh tĩnh lặng sẽ trở về.


. Phật giáo là đạo của tâm. Thế thôi! Người nào đào luyện tâm, người đó thực hành Phật giáo.


. Khi đèn mờ, bạn không thể thấy mạng nhện giăng ở góc phòng, nhưng lúc đèn sáng bạn có thể thấy rõ ràng để quét sạch đi. Cũng vậy, khi tâm trong sáng bạn sẽ thấy rõ phiền não để khử trừ.


. Huấn luyện tâm không giống như huấn luyện cơ thể. Muốn cơ thể mạnh phải bắt cơ thể vận động, nhưng muốn tâm mạnh phải giữ tâm đứng yên.


. Vì không nhìn thấy chính mình nên người ta làm mọi điều sai lầm. Họ không nhìn vào chính tâm mình. Khi sắp làm điều gì sai quấy, họ nhìn trước, ngó sau xem thử có ai nhìn thấy không: Mẹ mình thấy không? Chồng mình thấy không? Vợ mình thấy không? Con mình thấy không? Nếu không ai thấy, họ vội làm ngay. Đó là họ tự nhục mạ chính mình. Có một điều họ quên mất là chính họ cũng đang nhìn thấy họ đấy!


. Hãy dùng tâm để nghe giáo pháp, đừng dùng tai.


. Chiến đấu với phiền não là chiến đấu bên trong. Dùng bom đạn súng ống để đánh nhau là chiến đấu bên ngoài. Chiến thắng kẻ khác là đường lối của thế gian. Chiến thắng chính mình là đường lối của giáo pháp. Chúng ta không chiến đấu để chống lại ai cả mà chiến đấu để chinh phục chính tâm mình, kiên trì chống lại mọi tình cảm xung động của chính mình.


. Nước mưa đến từ đâu? Nó đến từ những nguồn nước dơ bẩn trên mặt đất và bốc hơi mà thành. Thật kỳ lạ làm sao? Đối với phiền não, tâm bạn cũng có thể làm được như vậy, nếu bạn để nó làm.


. Đức Phật dạy chúng ta hãy xét đoán chính mình mà đừng xét đoán kẻ khác dầu họ tốt xấu thế nào đi nữa. Đức Phật chỉ cho ta con đường và nói: “ Chân lý là như vậy đó ”. Tâm ta có được như vậy không?

Nguyen Hoang Tan
06-16-2010, 07:05 PM
Sẽ không bao giờ bạn bị khổ tâm nếu bạn biết cô lập cái gì làm bạn phiền nảo. Trong kinh có câu: Tá giả tầm chơn" có nghĩa là dựa vào cái giả để tìm ra cái thật. Giống như muốn làm giàu thì chỉ cần không xài phí. Ðây là trường hợp người có tiền kià. Còn bạn là người không có tiền thì phải làm thành triệu phú trước tiên. Trỡ lại vấn đề nầy. Bạn phải tập một thói quen mới. Thói quen nầy là thói quen chưa bao giờ từng làm: Tức là không làm gì cả. Chúng ta đã từng làm quá nhiều việc, suy nghĩ lung tung cả đời, bây giờ bảo đừng làm gì cả, quả là chuyện rất khó. Bởi vậy mới mới niệm Phật. Niệm Phật có nghĩa là niệm Vô Niệm chứ không phải niệm tên ông Phật nào đó. Vì còn niệm tức là còn khổ, Bất cứ bạn niệm gì, chỉ khi nào đến tình trạng vô niệm thì mới bớt phiền nảo. Khi đã an lạc thì phiền nảo, nghiệp quả làm sao mà đến với bạn được.
Muốn niệm vô niệm phải có pháp môn hẵn hòi, phải có người hướng dẫn niệm như thế nào mới gọi là vô niệm. Chữ niệm trong chữ nho không có chữ khẩu. Chỉ có chữ nhân và chữ tâm. Vậy niệm Phật là vô niệm. Vì chính chữ Phật là chữ nhân và chữ phất. Có nghiã là người không làm gì cả là Phật. Không làm gì cả khác với không biết làm gì cả. Biết mà không bị chi phối bởi sự đối đải của thế gian được gọi là Phật.
Sẽ còn tiếp....

loibangTQLC
06-18-2010, 07:20 PM
. Nếu tâm bạn an lạc hạnh phúc thì ở nơi nào cũng an lạc hạnh phúc. Khi trí tuệ khai mở trong tâm bạn thì bất kỳ nơi nào bạn nhìn đến cũng đều là chân lý. Chân lý ở khắp mọi nơi, chẳng khác chi một khi biết đọc chữ thì ở đâu bạn cũng đọc chữ được.

Cám ơn hai bạn N H Tân và Tâm 73F , thật lý thú qua sự tranh luận của các bạn .

TAM73F
06-19-2010, 02:02 PM
Đến Một Lúc...

Đến một lúc, chúng ta bỗng thông hiểu tất cả mọi quy luật của đất trời rằng không có gì là trường tồn bất biến, ngược lại chính nhờ sự biến đổi ấy mà chúng ta có những điều mới mẻ tinh khôi.

Đến một lúc, mọi giông tố mịt mùng không che nổi sự bừng sáng của con tim và mọi khổ đau buồn tủi không đánh gục được niềm lạc quan tiềm ẩn trong một tinh thần.

Chúng ta sống quá lâu trong thành kiến và định kiến hẹp hòi cùng với lòng kiêu ngạo chen chân trong một ngôi nhà bản ngã; đến một lúc, chúng ta cần phải bước ra khỏi cửa để ngắm nhìn toàn bộ sự mênh mông và bát ngát của đất trời.

Đến một lúc, chúng ta cảm nhận được niềm vui khi tấm lòng rộng mở và trái tim thắp sáng lên niềm tin yêu cuộc sống.

Đến một lúc, chúng ta nhìn lại và cười nhạo vào những trò hề do chính mình tạo ra và chúng ta trở nên lặng lẽ để thấy rõ sự cần thiết của tĩnh tại tâm hồn.

Chúng ta chợt nhận thấy quy luật sâu xa của cuộc sống hạnh phúc không chỉ là đón nhận mà còn phải là sự cho đi.

Đến một lúc, cảm thấy ngập tràn hạnh phúc không phải vì chúng ta vớt lên được cái gì đó từ dòng nước mà chính là quăng bỏ bớt cho dòng nước cuốn trôi.

Đến một lúc, chúng ta hiểu được sự thật của niềm vui không phải là ở đỉnh vinh quang hay ngọn núi ngập hoa vàng mà chính là từng bước chân thảnh thơi và được ngắm hoa cỏ dại trên đường.

Chúng ta chợt nhận ra rằng hạnh phúc không phải ở đâu xa mà chính là sự mãn nguyện trong từng phút giây hiện tại.

Khi đã trải qua bao nhiêu buồn vui thương ghét, bao hi vọng chán chường, bao thành công thất bại, đến một lúc chúng ta chợt nhận thấy rằng tất cả mọi sự đời đến và đi, có rồi không dường như chỉ là một tuồng ảo hóa.

Chúng ta cảm thấy mọi lý luận, ngôn từ đều thừa thãi, thay vào đó chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt hoặc một tình thương nồng ấm dẫu chỉ là của người khách qua đường cũng đủ làm cho ta ấm lòng và tươi vui hơn trong cuộc sống.

Đến một lúc, chúng ta thấy tuổi trẻ của mình chỉ toàn là ước mơ cùng với nỗ lực vào tương lai hun hút, và đến lúc già đi thì luôn hồi ức tiếc thương một dĩ vãng xa rồi.. Trong đời người ngắn ngủi chúng ta đã lỡ đi bao sự sống nhiệm mầu trong thực tại giản đơn.

Đến một lúc, chúng ta hiểu ra rằng duy chỉ có tình thương, chứ không phải có bất cứ thứ gì khác giúp con người thiết lập được trật tự mới và hòa bình cho nhân loại.

Mọi dòng sông đều chảy ra biển cả, mọi con đường chân lý đều hướng về nẻo đạo vô biên và mọi yêu thương chung cuộc đều đạt đến chân phúc.

Đến một lúc, chúng ta cần phải dọn đất trồng hoa trên mảnh vườn của mình còn hơn mỏi mòn chờ đợi ai đó mang hương sắc đến dâng cho.

Tất cả mọi hành động của ta chỉ là những đợt sóng lăn tăn trên mặt biển.

Đến một lúc, chúng ta cảm thấy những việc làm thường nhật phải là niềm vui cho sự sống hàng ngày chứ không phải là sự bắt buộc hay là một tập quán khô khan, máy móc của đời mình.

Hiểu ra rằng ích kỷ thường khiến mình nhìn thấy lỗi lầm, xấu xa của người khác hơn là chính bản thân. Chúng ta thường che đậy và bảo vệ mình khỏi tổn thương nhưng vô tình điều ấy là tự ôm chất độc và giết chết bản thân.

Đến một lúc, chúng ta cảm thấy sự tha thứ, bao dung là món quà tặng vô giá và cầ thiết mà con người có thể trao tặng cho nhau không bao giờ cạn..

Khi chúng ta thấy mình tham vọng quá lớn trong khi đời người thật ngắn ngủi, đó là lúc mình hiểu ra hành trang cho lộ trình vạn dặm không phải là những gì có thể nắm bên ngoài mà đó là tâm linh bất diệt bên trong.

Đến một lúc, chúng ta hiểu con đường tâm linh thì tuyệt đối đơn độc, không ai có thể đi theo, dẫu đó là người thân yêu nhất.



Chúng ta cảm nhận những khoảnh khắc tĩnh lặng nhỏ bé của tâm hồn còn quý giá hơn cả những tài sản được cất chứa chung quanh là lúc chúng ta định được giá trị chân thật của một kiếp người.

Chúng ta hiểu rằng cần thánh hóa đời sống hơn là chạy đi tìm thiên đường ở chốn xa xăm. Đến một lúc, chúng ta cảm thấy không sợ hãi địa ngục hoặc một thế lực tối cao, nhưng bằng trí tuệ tuyệt vời, chúng ta thấy rằng vạn pháp vốn là không và số phận tùy thuộc vào khả năng giác ngộ của chính mình.

Chúng ta cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thản trước những mất mát, đau thương vì lòng nước thanh lương có thể cuốn trôi đi bao hệ lụy và có thể đưa chúng ta bến bờ rạng rỡ của ngày mai..



Thích Thông Nhã

Nguyen Hoang Tan
06-19-2010, 09:04 PM
Rồi có một ngày…

Rồi có một ngày… danh dự, tiền bạc, hạnh phúc của bạn không còn nữa. Ngay lúc đó bạn không còn cơ hội dùng ngôn ngữ là phương tiện để diễn đạt nữa (dù bất cứ dạng ngôn ngữ nào).
Hãy tưởng tượng rằng khi con người bị triệt đi cái vốn cần thiết, họ sẽ về đâu? Có lẻ lúc đó mọi sự thù hận, thương yêu sẽ xoá sạch.
Khi bạn không còn cái thói quen xử dụng ngôn ngữ, ngay cả giới tính trỡ thành trung tính. Hay nói đúng ra là vô tính. Có nghĩa là bạn không phải đồng tính, bán nam, bán nữ hoặc bi-sexual. Bạn đã vô tình đánh mất chủng tính tự nhiên cố hữu tự bao giờ. (hãy coi như là một biến cố cá nhân).
Màu da, tuổi tác, kiến thức bây giờ đồng hạng. Bất kể quá khứ của bạn có kinh nghiệm khác nhau. Có nghĩa rằng cái biết của muôn loại sẽ đồng cảm và bằng nhau. Bạn không thể thêm bớt cảm tính nào của vạn hữu. Nếu trời mưa thì cả thế gian cùng ướt, nếu nắng thì cả thế giới chói chang.
Bạn tự hỏi thế giới có còn chiến tranh hay không?? Ngay cả tình yêu, hạnh phúc, chân lý cũng không cần thiết để tồn tại.
Bóng tối và ánh sánh là hai thái cực tương phản nhau. Không có ánh sáng thì tuyệt nhiên cái gọi là bóng tối, không là đối tượng của chính nó. Hai ấn tượng nầy không tồn tại nữa, ngay cả bạn đã đi ra khỏi giới hạn của cái gọi là không gian và thời gian.
Con người khi sống trong phạm vi của “môi trường chung quanh”. Môi trường nầy hẵn ban đầu là điều kiện bở ngở để sống, (giống như hơi thở đầu tiên chào đời, thật là ngột ngạt, mãi rồi quen, bạn đến từ mội trường tối tăm, ẫm ướt trong bụng mẹ) thế rồi một ngày nào đó bạn dần hoà nhập như chính mình chưa từng thay đổi đến thế, và sau cùng, cũng chính môi trường nầy là cái quen thuộc mà thiên hạ không thể không có. Chính vì cái sản phẩm mặc nhiên nầy, tồn tại bởi môi trường nào đó, đã vô tình làm cho chúng ta hệ luỵ với sản phẩm mới nầy, và dần dà bị mê hoặc và cho rằng “nhu cầu cần thiết duy nhất”.
Một anh chàng sống trong cơ quan Rehab., anh ta cho biết một cái dose nào đó để thoả mãn đời sống hạnh phúc của anh ta trong những cơn ghiền. Thật ra, trước kia nhu cầu đó chưa từng có, khi anh ta chưa hề biết ma tuý là gì.
Ðời sống chúng ta đôi khi trong “ môi trường lý tưởng” vô tình tạo lên nhu cầu của thế gian, từ đó được định vị như là mẫu mực của đời sống. Có lúc chúng ta đánh mất những thứ “nhảm nhí” đó một lúc thình lình, thì đâm ra hục hẫng, khó chịu. Chỉ vì chúng ta đã từng gom góp đem vào, và tự sở hữu những thứ ngoại vi nầy. Và cho rằng đó là nhu cầu không thể thiếu.
Ngày nào đó, khi đời sống vật chất không tồn tại nữa, khi còn người bị mất đi cái phương tiện hằng có, và phải sống với hoàn cảnh mới, …một thời đã qua…giấc mộng đẹp. Giấc mộng mà ai cũng từng đón nhận với đầy cả niềm mơ ước. Thế mà khi nó ra đi không từ giả…. tiếc thì thôi…giấc mơ đời. …(Giống như có anh chàng hoa tiêu hào hoa của binh chủng Không Quân V.N.C.H. Anh ta từng lấy mây trời làm lẻ sống, và thề “chết cho quê hương”. Ôi quê hương đã bị giặc tàn phá, cánh thép ngày nao đã gãy vụn, mơ ước cuối đời tan tành….khốn nạn thật…không có gì đau cho bằng….) Rồi hắn cũng phải đành sống với chính cái ước vọng xa mờ kia, như chưa bao giờ biết không gian là gì.
Cái lối sống mới nầy cũng rất ư là củ kỷ, dù tái đi tái lại trong quá trình dài của mấy kiếp người. Thế nên vẫn phải làm quen và khó chịu như đôi giày mới, bộ đồ bay mới, helmet mới (bị hot spot), cockpit xa lạ với hàng tá phi cụ.
Thế rồi cái biên giới của mới và củ, chỉ là một sợi dây mong manh, mong manh đến đổi khó mà phân biệt được không gian và thời gian tính của cá nhân rất thình lình không ngờ.
Bạn có giàu đến đâu đi nữa, trong khi đó những thân phận không có cơm để ăn, đời sống của họ gắng liền với nghèo đói. Thế thì ai là kẻ được ca ngợi và ai là người đáng trách.
Danh dự, tên tuổi của bạn không hẵn là những hương hoa đã nở, hay đang nở trong lúc bạn còn vinh thân với đời, mà phải là những hương hoa vượt thời gian, không gian, sau khi những tên tuổi kia bất tử với thiên cổ. Mới thật đáng sống.
Quyền lực của bạn như thế nào đi nữa, cũng không vượt qua sanh tử, giới hạn của sanh tử là cái nhà tù sơn son, phết vàng để giam giữ những tư tưởng vốn sở hữu vật chất làm cứu cánh. Khốn thay, bạn đã làm quen với trọng lực của trái đất kể từ khi lọt lòng mẹ. Cái gì mà không bị rơi xuống đất…Thế rồi ngày nào đó, chính bạn nhìn ra cái chân lý của trọng lực trái đất rất buồn cười. Chỉ vì sức hút của quả địa cầu chi phối những ai đứng trên mặt đất ở một khoản cách nào đó mà thôi….
Bằng cấp với thành tích học vị cao xa nào đó của bạn, trong khi có những đứa trẻ chưa bao giờ được đến trường, hãy còn lang thang ngoài hè phố, tìm miếng ăn trong đống rác thành phố, học vị kia có chia sẻ được gì không?
Bạn có xây bao nhiêu lâu đài, thì một ngày nào đó chúng sẽ trỡ thành cát bụi. Cái mà bạn có chẵng qua chỉ sở hữu nhất thời, vì chúng sẽ chuyền tay nhau qua tay người khác bản lảnh hơn, biết xử dụng hơn, biết trân quý hơn, biết chia sẻ hơn, dù một ngày nào đó chúng cũng sẽ trỡ thành cát bụi.
Khi bạn nhận bất cứ gì, thì hãy nhớ rằng có những thân phận khốn cùng khác, đang chờ sự chia sẽ từ bạn. Làm được như vậy, bạn sẽ thấy mình là tất cả, tất cả là chính mình, cũng đang thở, cũng đang đối diện với bao nhiêu đối đải, và cùng một lúc đóng hai vai trò, vừa nhận vừa cho. Nhận khi mình không có, cho lúc cần san sẻ. Lúc nầy thế gian là nơi đáng sống chứ không phải là nơi để chạy trốn.
Hãy san bằng mọi ảnh hưởng ưu điểm của mình để chia sớt cho thế gian một nụ cười. Chính đó là món quà quý giá trong đời người.
Rồi có một ngày nào đó… bạn đang nằm hấp hối trên giường bệnh, chiếc xe cứu thương chở bạn đi đến nơi sau cùng…và cả thành phố nầy sẽ thương tiếc bạn.

Nguyễn Hoàng Tân

PhiLan
06-20-2010, 04:59 AM
. Nếu tâm bạn an lạc hạnh phúc thì ở nơi nào cũng an lạc hạnh phúc. Khi trí tuệ khai mở trong tâm bạn thì bất kỳ nơi nào bạn nhìn đến cũng đều là chân lý. Chân lý ở khắp mọi nơi, chẳng khác chi một khi biết đọc chữ thì ở đâu bạn cũng đọc chữ được.

Cám ơn hai bạn N H Tân và Tâm 73F , thật lý thú qua sự tranh luận của các bạn .

... đúng như TÂM AN VŨ TRỤ AN... TÂM ĐỘNG CÀN KHÔN ĐỘNG... phải không các Niên Trưởng?...

PL tui chỉ là người sơ cơ trong Phật Pháp nên nghĩ về NHÂN QUẢ như: Nhân sinh ra Quả... trong Quả hàm chứa Nhân... cứ như thế chúng ta mãi loanh quanh lẫn quẫn LUÂN HỒI, trôi lăn trong vòng Lục Đạo, biết bao giờ mới thoát ra bể khổ?

Thôi thì cứ ráng lo tu tập đặng đạt được gươm Trí Tuệ, chặt đứt xích Vô Minh của Thập Nhị Nhân Duyên, thoát khỏi vòng Sinh Tử...

http://inlinethumb13.webshots.com/45516/2835963900098439191S600x600Q85.jpg

Hehe... nói nghe dzữ dzằn như thế, nhưng Ngũ Giới em còn chưa giữ trọn huống chi... hì...