PDA

View Full Version : Angkor Thom và Đền Bayon của Xứ Miên.



TAM73F
03-08-2010, 05:56 PM
Vào một thời kỳ khi mà hầu hết toàn thể lục địa Âu Châu đang ngụp lặn trong kỷ nguyên u tối của thời Trung Cổ thì nơi miền Đông Nam Á xa xôi, các tay thợ kiến trúc, xây dựng và điêu khắc đang xây cất những đền đài mà tầm vóc của chúng có thể sánh với những công trình của nhân loại ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đáng kể nhất là những đền Borobudur, Prambanan ở Java, khu thánh địa vùng Pagan, Miến Điện, và quần thể những đền thiêng ở Cambodia. Tiếp theo bài kỳ trước, chúng ta hãy cùng viếng kinh đô cổ xưa Angkor Thom với khu đền trung tâm Bayon huyền bí.

Angkor Thom có nghĩa là Thành Phố Lớn là thành phố kinh đô lâu dài nhất và cũng là cuối cùng của vương quốc Khmer được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 12. Sau khi vua Suryavarman II là người xây dựng Angkor Wat băng hà vào khoảng năm 1150, Kampuchia rơi vào tình trạng rối ren, vô chính phủ. Quân Chiêm Thành nhiều lần tấn công và cuối cùng cưỡng chiếm Angkor Wat. Jayavarman VII lúc sinh thời vốn là một người thích sống ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, ông thờ ơ với mọi biến động trong đời sống. Đến 50 tuổi, thấy đất nước quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm dày xéo, ông thấy không còn con đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn nguy khốn. Năm 1181, ông dấy binh khởi nghĩa, sau ròng rã bốn năm chiến đấu, ông đánh đuổi được Chiêm Thành ra khỏi đất nước mình, khôi phục lại thanh bình và xây dựng nên một đất nước hùng mạnh.

Kinh thành Angkor Thom chiếm một diện tích xấp xỉ 10 cây số vuông mà thời cao điểm của nó dân số lên đến một triệu người trong khi ở Luân Đôn thời ấy chỉ có năm mươi ngàn dân. Bên trong Angkor Thom là những kiến trúc có từ thời các vua trước cùng với những khu đền xây dưới thời vua Jayavarman VII, cộng với những gì được xây dựng tiếp vào các đời sau. Chính ngay ở Angkor Thom vua Jayavarman cho xây dựng các công trình ồ ạt đên nỗi về sau người ta tìm thấy một phiến đá ghi khắc lại Jayavarman như là chú rể mà thành phố chính là cô dâu. Ba thế kỷ trước, đây là kinh đô dưới thời vua Yasodharapura, trung tâm nằm hơi chệch về hướng tây bắc, kinh đô Angkor Thom nằm chồng lên một phần của kinh đô cũ đó. Những khu đền đáng chú ý có từ trước gồm các đền Baphuon, khu cung điện Phimeanakas của vua Suryavarman I, Sân voi, và Sân tượng vua "cùi" được sát nhập vào khu vực hoàng cung. Ngôi đền sau cùng được biết đã xây thêm trong khu vực Angkor Thom là Mangalartha vào năm 1295. Về sau các công trình sẳn có được thêm thắt ít nhiều nhưng không tồn tại lâu vì được dùng những vật liệu không có độ bền cao. Angkor Thom vẫn tiếp tục được chọn làm kinh đô nhưng tàn lụi dần mãi đến khi bị bỏ hoang phế.

Thành Angkor Thom cao 8 mét, vuông vức bốn cạnh mà mỗi cạnh dài 3 cây số, che chở một kinh đô rộng gần 10 cây số vuông. Bên ngoài bao bọc bằng một hệ thống hào rộng chừng 100 mét mà theo truyền khẩu thời ấy chứa đầy loài sấu hung dữ. Hào vừa được dùng đề bảo vệ thành vừa làm hệ thống dẫn thủy cung cấp nước cho dân chúng. Thành làm bằng đá ong ở hai mặt, giữa phủ đầy đất. Ở giữa bốn mặt thành nhìn ra các hướng đông, tây, nam, bắc có cổng thành với tháp đền cao 23 mét nằm bên trên, được tạc hình bốn khuôn mặt trông ra bốn hướng. Ngoài ra, 500 mét về phía bắc cổng phía đông một cổng khác được xây thêm và có tên là Cổng Chiến Thắng, con đường đi vào cổng này chạy song song với đường vào cổng phía đông, đi vào công trường Chiến Thắng và hoàng cung, lệch về phía bắc của khu đền Bayon. Lối vào các cổng thành là một cầu đá chạy qua hào nước, hai bên có hình tượng các quỉ thần đang ôm kéo rằn thần Naga mà bên trái là 54 thần devas và bên phải là 54 quỉ asuras như thường thấy ở Angkor Wat và một số đền khác. Đây có lẽ là hình ảnh tiêu biểu cho truyền thuyết Khuấy Động Biển Sữa để tìm thuốc trường sinh, một truyền tích thấy đầy dẫy trên những tranh chạm khắc trong các đền ở Angkor. Đây được xem như là nơi chuyển tiếp giữa thế giới người với thế giới quỉ thần. Cổng phía nam tấp nập nhiều du khách nhất vì nơi đây đã được phục chế gần hoàn toàn và các tượng tương đối ít mất đầu. Hơn nữa đây là đường chính gần nhất nối thẳng từ Angkor Wat đến Angkor Thom.

Henri Mouhot khi mới đến đây vào khoảng năm 1858, từ tường thành vào trong là rừng già rậm rạp, dây leo, cây cao khắp nơi không thể nào biết được có sự hiện diện của thành phố và đền thiêng. Khó khăn lắm ông mới khám phá được khu đền Bayon mãi xa tít tận bên trong, ở đó lần đầu tiên ông nhìn thấy những tháp với những khuôn mặt với nụ cười bí hiểm.

Khu đền Bayon nằm ở trung tâm Angkor Thom, cách cổng thành khoảng 1 cây sô rưởi. Bayon là khu đền súc tích với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ. Được xây dựng trong khoảng cuối thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ thứ 13 như là đền chính thức của vua Jayavarman VII, tin theo Phật giáo đại thừa khác với tín ngưỡng Ân Giáo như các vua trước nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (devaraja). Vua Jayavarman VII cải giáo sang đại thừa vì các vua đời trước nối nghiệp vua Suryavarman II theo Ấn Giáo, người xây dựng Angkor Wat đã để quân Chiêm đánh bại. Sau khi Jayavarman VII chết, những vua nối tiếp với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Giáo, Phật Giáo Nguyên Thủy, đã xây thêm cho ngôi đền dựa theo tín ngưỡng của mình.


Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu trên tường. Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt. Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman với Chiêm Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở dang, chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman qua đời.

Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá tảng, chạm khắc thành 2, 3 và chung chung là 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Những khuôn mặt có nụ cười bí ẩn như nụ cười của nàng Mona Lisa trong bức danh họa La Joconde của Leonardo Da Vinci. Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong khi Angkor thuộc phái cổ điển.

Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua. Người khác thì cho là của Quán Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay Lokesvara). Nhà học giả chuyên về Angkor học Mr. Coedes thì lý luận rằng vua Jayavarman theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (devaraja), khác với các vua trước theo Ấn Giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi Jayavarman là một phật tử nên cho hình ảnh Phật, và Bồ Tát là chính mình. Có tất cả 37 tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và nhìn đi bốn hướng như thể quan sát chúng sanh và che chở cho đất nước.

Bên trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên. Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp bề 140 m và bề 160 m, trong khi phần chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích thước 70 m x 80 m; khác với Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với qui mô to lớn và thoáng rộng của nó. Ta có thể ví von sự xây dựng Bayon trong một không gian chật hẹp như xây một giáo đường lớn trên vị trí của một nhà thờ làng. Từ xa nhìn vào Bayon rải dài theo chiều ngang như một đống đá lổn chổn muốn vươn lên trời cao. Kết cấu của nó là một mớ bòng bong lộn xộn nhưng khi đã đặt chân lên tầng trên người ta bỗng thấy trầm lắng lại. Cảm thấy nhỏ bé trước vẻ uy nghi của những khuôn mặt khổng lồ tạc trên đá, người ta không còn quan tâm đến cái tổng thể hay cái mớ hỗn mang của đồ án nữa. Bâng khuâng giữa hàng chục tháp đền với vô số khuôn mặt với nụ cười bí hiểm được hình thành vượt khỏi tỷ lệ thông thường, xa vời với mọi qui ước của kiến trúc, người ta chỉ chú ý đến vẻ mặt của từng khuôn mặt. Dần dần cái mớ bòng bong vô trật tự ấy lại trở thành rất trật tự, người ta thấy nơi cái vô số tháp đền đó như tổng hợp của nhiều phân tử gom lại ở trung tâm dưới hình thức một bó. Cái cấu trúc của khu đền không còn là vấn đề nữa mà chính biểu tượng của nó mới đáng kể.


Một trong bốn khuôn mặt nhìn bốn hướng với nụ cười thần bí tạc trên tháp trung tâm. Đây là tượng được nhiều du khách đứng cạnh để chụp hình nhất vì người ta tin sẽ được mang lại nhiều may mắn.

Các tháp có kích cỡ cao thấp khác nhau, có tháp thật thấp khiến khuôn mặt như nhìn thắng vào mắt của du khách. Đi theo những lối đi quanh co, người ta có cảm giác như đi lạc vào một mê trận. Bất cứ rẽ vào lối nào du khách cũng trực diện với những đôi mắt đang chăm chú nhìn mình. Người ta hẳn đều phải tán đồng với Pierre Lôti qua lời nhận xét của ông: "Máu tôi như đông lại…Tôi thấy như mình bị quan sát từ mọi phía."
Henri Parmentier, người đã dành hầu hết cuộc đời trưởng thành của mình cho việc tái xây dựng một Angkor điêu tàn, đã gọi đền Bayon là "hết sức ấn tượng và lãng mạn. Du khách thường bị ám ảnh bởi những cảm xúc ghê rợn."
Henri Marshall, người quản thủ khu Angkor, đã viết trong cuốn Cẩm Nang Khảo Cổ Về Các Đền ở Angkor của mình như sau: "Đặc biệt vào những đêm trăng, người ta có cảm tưởng như đang viếng một ngôi đền thuộc một thế giới khác…Người ta cảm giác như mình đang sống trở lại với một thời đại của những chuyện thần tiên, lúc mà thần Indra xây dựng một đền thờ dành cho đám cưới của con trai mình lấy con gái của vua rắn Nagas nhiều đầu."
Trong số hằng trăm ngôi đền nơi quần thể Angkor, Bayon khiến cho các nhà khảo cổ thắc mắc nhiều nhât. Bayon hiện vẫn bao trùm nhiều bí ẩn mà lời giải đáp vẫn đang còn được tranh cãi: nó được xây với biểu tượng gì, để thờ ai? Có lẽ thích hợp với lời giải thích nhất vẫn là khuôn mặt với nụ cười hết sức bí ẩn nằm ở tháp trung tâm. Một số dân Khmer cho rằng Bayon được xây dựng vào thời vương quốc này được chia thành 54 tỉnh, những đôi mắt của những bức tượng này nhìn về phía muôn dân trong các tỉnh đó để cứu độ (dưới hình ảnh bồ tát Quán Âm), để che chở (dưới hình ảnh của vua Jayavarman).

Thoạt đầu vào năm 1929, Robert J. Casey trong cuốn sách về Angkor nhan đề In Fact cho rằng những khuôn mặt đá là những khuôn mặt của thần Siva thuộc Ấn giáo. Thế rồi trong thập niên 1930, các nhà khảo cổ thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ khám phá ra rằng cái mô-típ ấy thuộc bên Phật giáo đại thừa mà những hình ảnh bốn mặt đó là của Bồ Tát Quán Thế Âm (Bodhisattva Avalokitesvara). Họ lý luận rằng theo tông phái đại thừa, bồ tát là người đã hoàn toàn giác ngộ để đạt thành Phật. Thay vì nhập niết bàn (nirvana), họ chọn ở lại trần gian để cứu độ những kẻ đang bị trầm luân trong khổ ải. Qua nụ cười bí ẩn của các khuôn mặt, vị bồ tát mà dân Kampuchia gọi là Lokesvara đang tỏ lòng thương cảm trước nỗi đau của chúng sinh. Đồng thời có thuyết cho rằng vua Jayavarman VII tự cho mình hiển thị qua hình ảnh của Lokesvara, một vị Phật sống qua vai trò của một vị vua thần.

Nhìn ngược về lịch sử, chiến thắng bất ngờ của vua Jayavarman VII dành lại độc lập cho xứ sở từ quân Chiêm đã chiếm được trái tim của mọi con dân Khmer. Sau khi đánh bại quân Chiêm, ông thừa thắng thôn tính luôn nước Chiêm Thành và mở rộng lãnh thổ trải dài khắp vùng Đông Nam Á. Những tháp với bốn khuôn mặt nhìn ra bốn hướng có lẽ để làm e dè những kẻ đến chiêm bái ở đền Bayon. Nhìn đâu họ cũng thấy những đôi mắt của vị vua thần đang chằm chằm nhìn họ. Đồng thời những kẻ sùng bái thần phục lòng thương yêu của vị vua dành cho họ qua những hình ảnh trên những bức phù điêu mô tả đời sống thường nhật của dân chúng. Ngoài ra còn những bức miêu tả công lao đánh đuổi ngoại xâm Chiêm Thành nhắc nhở với thần dân rằng họ mang ơn vô vàn đối với vị vua thần đầy nhân ái, kẻ đã xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Jayavarman còn có công xây dựng vô số bệnh viện khắp đất nước Kampuchia. Một bản bia đá tìm được có trích dẫn rằng "ngài cảm nhận được nỗi khổ của tha nhân hơn của chính mình bởi nỗi khổ của kẻ khác tức là nỗi khổ của ngài, sự đau khổ của thần dân còn lớn hơn nỗi khổ của chính ngài nữa."

TAM73F
03-16-2010, 07:00 PM
Ðời sống thời đại Angkor

Qua hằng trăm di tích trên khắp đất nước Cambodia ngày nay, nhân loại biết được có một nền văn minh Khmer rực rỡ hiện hữu cách đây ngót một ngàn năm vốn đã chìm sâu trong quá khứ, khiến người ta bâng khuâng tự hỏi cuộc sống con người thuở ấy sinh hoạt ra sao.

May thay, một tài liệu viết tay miêu tả khá tỉ mỉ về kinh đô Khmer cổ xưa được Châu Ðạt Quan (Chou Ta-Kuan) để lại. Năm 1295, ông ta đến Angkor làm đặc sứ cho Timur Khan, hoàng đế Mông Cổ thống trị nước Trung Quốc, kế vị Hốt Tất Liệt (Khublai Khan).

Vào thời ấy, Jayavarman VII, vị vua hùng mạnh cuối cùng của dân Khmer đã chết từ trăm năm trước. Thời cực thịnh của Angkor không còn nữa và vương quốc này đang độ suy tàn dần nhưng lãnh thổ mênh mông của đất nước Cambodia vẫn còn nguyên vẹn; và mặc dầu không còn xây dựng thêm đền đài mới, dân Khmer vẫn vui hưởng nền văn minh mà Angkor để lại. Với khuynh hướng bảo thủ, cách sống của họ vẫn hệt như trước. Do vậy, bài thuật của Châu Ðạt Quan tuy viết vào thời này vẫn có thể xem như miêu tả đời sống của Angkor thời Jayavarman VII hay vài thế hệ sau.

Châu Ðạt Quan tả các tháp bốn mặt trên cổng vào thành Angkor Thom cũng như ngày nay, chỉ khác là tháp trung tâm của mỗi cổng được dát vàng. Ở trung tâm của kinh đô có một tháp vàng với hai mươi tháp đá chung quanh (phải chăng là đền Bayon?). Phía Ðông của đền có một cây cầu dát vàng, hai bên có hai tượng sư tử bằng vàng, và tám pho tượng Phật cũng bằng vàng, mỗi tượng ngồi trong một ngôi miếu nhỏ bằng đá. Cung điện cũng như nhà của các quan đều quay về hướng Ðông, tất cả đều bằng gỗ và mái ngói có màu vàng đất nung. Ở điện nơi vua thiết triều, các cửa sổ đều có khung cửa bằng vàng. Châu Ðạt Quan nghe nói bên trong cung vua rất tráng lệ nhưng canh gác rất nghiêm ngặt.

Ông Châu được chứng kiến nhiều lần cảnh vua ra khỏi cung và miêu tả một số hình ảnh khá lý thú về những dịp quan trọng đó. Vua mang giáp, đầu đội vương miện bằng vàng hoặc một vành kết hoa có mùi thơm như hoa nhài. Cổ đeo những dây ngọc trai, tay, chân mang dây chuyền vàng, và các ngón tay có những nhẫn vàng. Vua đi chân trần, ở gót và lòng bàn tay nhuộm đỏ. Tay cầm thanh gươm vàng Preah Khan (ngày nay vẫn còn dùng như biểu trưng quyền uy của vương quốc Cambodia).

Dẫn đầu là đoàn thiếu nữ tay cầm đồ dùng bằng vàng hoặc bạc, tiếp đến là đoàn xe dê hoặc ngựa kéo, tất cả đồ trang trí đều bằng vàng. Khoảng hơn một trăm cây lọng điểm tô bằng vàng, cán cầm cũng bằng vàng. Tiếp theo, nhà vua, tay cầm kiếm vàng đứng trên một con voi lớn, hai ngà bọc toàn vàng. Bảo vệ quanh vua là vệ quân gồm các nữ binh tay cầm giáo và khiêng, cùng những kỵ binh cỡi ngựa hoặc voi. Vương tôn công tử, đại thần, các nhà chiêm tinh được rước kiệu có điểm vàng, mỗi kiệu có bốn lọng với cán bằng vàng che hai bên, trong khi quan nhỏ chỉ được che với lọng có cán bạc. Các nhà sư đầu cạo nhẵn, mặc cà sa vàng để hở trần bên vai phải. Họ cũng được che lọng với cán vàng hoặc bạc tùy theo chức sắc.

Về ngành thiên văn, Châu Ðạt Quan cung cấp rất ít thông tin, ngoại trừ cho biết rằng các nhà chiêm tinh có thể tính được khi nào có nguyệt hay nhật thực.
Vương quốc Khmer hầu hết đều là rừng hoang, đầy dẫy cọp, voi, hưu, gấu, khỉ, tê giác. Ở vùng Ðông Nam Á không có sư tử nhưng lại thấy nhiều trên các huy hiệu, đồ trang trí hoặc tượng đá. Chim muông gồm công, két đuôi dài, ưng, trĩ, gà rừng, và nhiều loại khác nữa. Vịt trời, chim cốc, thiên nga thường xuyên lui tới các hồ lớn cạnh bên Angkor; trong khi ở Biển Hồ có nhiều loại cá, tôm khổng lồ, rùa, cá sấu; riêng cá sấu, theo Châu Ðạt Quan thì rất lớn.

Trên các vùng đồi núi có trâu bò rừng, ngựa hoang, và người rừng. Những người rừng này bị săn bắt đem về phố bán làm nô lệ với giá rẻ. Dân miền núi săn bắt sản vật rừng như mật ong, nhựa cây, mây, tre, nứa, ngà voi, sừng tê giác, lông chim, trái rừng về phố đổi chác lấy những thứ cần thiết cho nhu cầu đơn giản của họ.

Khu vực bình nguyên rộng lớn quanh Angkor được dùng để khai khẩn nông nghiệp. Những hệ thống dẫn thủy tuyệt vời cùng những hồ chứa nước nhân tạo mang phù sa màu mỡ cho đất canh tác. Làng mạc nông dân nằm giữa cánh đồng, họ dùng lưỡi cày, cuốc, liềm để làm việc đồng áng. Thu hoạch ba bốn vụ mùa mỗi năm, ngoài ra họ còn gieo trồng thêm hoa màu, mía, và cây ăn trái. Có lẽ họ dùng trâu để cày bừa, nuôi heo, cừu, dê, gia súc, ngựa, ngổng, và gà vịt để lấy thịt. Muối lấy từ các ruộng lúa ven biển.

Châu Ðạt Quan, lẽ tự nhiên coi các dân không phải người Hoa đều là man di, miêu tả người Khmer thô kệch, có màu da rất sậm, nhưng “ở các lâu đài, cung điện, nơi không bị ánh nắng thiêu đốt, nhiều phụ nữ có màu da trắng như ngọc.” Ðàn ông, đàn bà để ngực trần, chỉ vấn che phần dưới rốn một tấm vải hoặc lụa, và đi chân đất. Ðầu búi, không đồ trang sức nhưng chỉ mang vòng và dây chuyền vàng. Ngay đàn bà lao động cũng mang đồ nữ trang rẻ tiền. Ðàn ông, đàn bà như nhau, họ đều xức xạ hương hoặc các thứ dầu thơm khác.

Chợ ở phố cũng nhỏ và tồi tàn như chợ làng, chỉ toàn đàn bà buôn bán nhỏ. Không có hàng quán cố định, ngày ngày họ trải chiếu trên đất bên vệ đường bày hàng hóa ra bán. Họ ngồi chồm hỗm, miệng nhai trầu và tán gẫu với người cạnh bên. Một hình ảnh quen thuộc vẫn còn thấy ở các nước Ðông Nam Á. Mua bán nhỏ, họ trả bằng gạo, ngũ cốc, hoặc đại loại tương tự, nhưng đồ giá trị hơn thì được trao đổi bằng vàng hay bạc.

Thương gia Hoa kiều thì có mặt khắp nơi. Họ thích đến đây làm ăn sinh sống vì, theo họ, đây là nơi dễ buôn dễ bán, gạo cơm dư thừa, đàn bà dễ kiếm, nhà cửa, đồ đạc gia dụng rẻ rúng. Vào thời này, hàng hóa các thứ từ Trung Hoa thường xuyên được mang đến bằng thuyền biển hoặc lạc đà. Họ mang đến những thứ mà dân Khmer ưa chuộng như lụa màu, khay cẩn, đồ men sứ trắng xanh, dù, lược, thức ăn, kim loại quí và những vật liệu tiện ích khác.

Giới quan quyền, học thức, sống tập trung ở những trung tâm lớn. Chỉ người có chức quyền cao mới được ở nhà lợp ngói, ngoài ra thì toàn mái tranh.
Mỗi nhà không có hệ thống nước hay cống rãnh. Người ta tắm nơi công cộng mà hồ và kênh đào có khắp mọi nơi. Về vấn đề vệ sinh, họ đào nhiều lỗ trong sân nhà rồi tạm lấy cỏ lấp lại sau mỗi lần dùng đến. Châu Ðạt Quan còn thêm: “Nhiều đàn bà đái đứng trông thật kỳ cục.”

Ngoài bài miêu tả của Châu Ðạt Quan về Angkor, không còn chứng tích gì để lại nhắc nhở đến đời sống của kinh đô ấy.

Angkor bị lãng quên như thế nào?

Người Thái tấn công cướp phá Angkor năm 1431, qua năm sau Angkor bị bỏ phế và từ đó nhân loại quên lãng nó đi đến vài thế kỷ. Mặc dù người Khmer không bao giờ trở lại Angkor Thom trong suốt 400 năm, nhưng kinh đô ấy vẫn còn lưu giữ trong ký ức họ. Thỉnh thoảng khi được hỏi đến, họ kể lại cho những người Âu nghe, và những người này không bao giờ tin, cho đó chỉ là những nơi tưởng tượng như khi người ta nhắc đến các kho tàng của Vua Solomon, hoặc lục địa Atlantis bị chìm đắm dưới đáy Ðại Tây Dương.

Khi người Pháp lập thuộc địa trên ba nước Ðông Dương, họ bắt đầu chú ý đến những lời truyền miệng ấy ít nhiều. Thế rồi một buổi sáng năm 1860, một nhà thiên nhiên học người Pháp tên Henri Mouhot tình cờ rẽ vào một góc rừng từ một đường mòn của dân tiều phu, qua kẽ lá lùm cây ông nhìn thấy những ngọn tháp xám xịt của Angkor Wat. Mouhot sững sờ, không tin những gì mình thấy là thật. Sau đó ông viết lại rằng giữa chốn thâm u cô tịch bỗng khám phá ra Angkor, thấy như giữa nước Cambodia lạc hậu của thế kỷ 19 tìm thấy lại nền văn minh rực rỡ của dân tộc này có từ hằng bao thế kỷ trước, như sự chuyển đổi giữa u tối sang ánh sáng.

Các sử gia chưa hiểu vì sao Angkor bỗng nhiên tàn rụi nhưng nhiều yếu tố khác nhau có thể đóng góp phần nào cho lời giải thích:
1. Việc xây dựng ồ ạt của Vua Jayavarman VII đã làm kiệt quệ tài nguyên của đất nước Khmer.
2. Cuối thế kỷ 13, Phật Giáo Tiểu Thừa du nhập từ Tích Lan. Một tín ngưỡng giản dị đến nỗi không tin có một đấng thần linh mà đặt trọng tâm vào tín điều giải thoát do nỗ lực của mỗi cá nhân. Tính chất bình đẳng của giáo thuyết này làm suy yếu hẳn hệ thống đẳng cấp của đời sống xã hội và chính trị Khmer xây dựng theo Bà La Môn.
3. Ðể phòng thủ chống những cuộc tấn công cướp phá liên tục của quân Thái khiến vương quốc phải hao tổn nhân lực trầm trọng, không đủ người để bảo quản hệ thống dẫn thủy nhập điền cần thiết cho sản xuất nông nghiệp đủ để nuôi một dân số xấp xỉ một triệu người.

Theo thăm dò gần đây, diện tích đất quần cư của Angkor thời cổ đại lớn gấp ba lần mà người ta vẫn tưởng. Angkor bấy giờ rộng đến 3,000km vuông, xấp xỉ Los Angeles ngày nay. Việc cung cấp nước thời ấy là một hệ thống kênh đào duy nhất chạy từ trung tâm kinh đô Angkor ra xa hơn 20km. Cái hệ thống mà mãi đến gần đây người ta vẫn tưởng để làm mỹ quan đô thị và dùng trong các cuộc tế lễ, nhưng nay mới hay là dùng để cung cấp nước cho các ruộng nương, sản xuất lúa gạo hằng loạt. Một hệ thống dẫn và thoát nước tinh vi được thực hiện để nuôi dưỡng một dân số quá đông, trong đó gồm việc chuyển hướng chảy của dòng sông Siem Reap cho đi qua trung tâm đô thị. Công trình tinh vi đến nỗi dân Khmer có thể trồng và thu hoạch nhiều vụ lúa mỗi năm thay vì một lần do phải trông vào mùa mưa để có nước cho ruộng.

Những phân tích mới nhất về hệ thống dẫn thủy hé rạng cho thấy phần nào nguyên nhân đưa đến sự sụp đổ của một nền văn minh huy hoàng. Nhiều vết tích cho thấy có sự vỡ đê, cùng những nỗ lực sửa chữa các hệ thống kinh đập, như vậy hệ thống dẫn thủy nhiều lúc trở nên ngoài tầm kiểm soát. Khi việc bảo quản hệ thống dẫn thủy trở nên ngoài tầm tay, sau khi cây rừng bị tàn phá quá nhiều gây nên nạn đất chuồi đổ thẳng xuống các kênh ở mức độ quá nhanh không đủ nhân lực để nạo vét, gây nên bế tắc. Thêm vào đó dân cư quá đông, việc phá rừng bừa bãi, đất màu mỡ trên mặt bị bào mòn góp phần cho sự đột ngột biến mất của cư dân trên kinh đô này. Angkor đã bành chướng quá mức, một nền nông nghiệp đã bị khai thác quá mức, đưa đến những vấn đề môi sinh cực kỳ nghiêm trọng.

Giả thuyết thì nhiều nhưng không có thuyết nào giải thích rõ Angkor Thom bị vua quan cùng dân chúng bỏ phế mà đi lập kinh đô ở nơi khác như thế nào. Nghi vấn hợp lý nhất là phải có một biến cố nào đó thật kinh thiên động địa đã xảy đến với Angkor khiến cả dân Khmer lẫn quân thù của họ là người Thái, vì quá sợ hãi, mà không còn dám lưu lại để sinh sống. Nguyên nhân nào khiến mọi người đều đồng loạt bỏ cái kinh đô lớn bậc nhất thế giới mà đi. Chưa ai biết rõ. Cũng chẳng ai biết được người ta kéo nhau đi bỏ lại Angkor sau lưng trong một ngày, một tháng hay một năm. Không một tài liệu, chứng tích, hay ngay cả lời khẩu truyền còn lưu lại nhắc nhở đến cuộc ra đi vĩ đại ấy. Hơn một triệu người bồng bế nhau ra đi, không một lời kể lại. Một điều đáng suy ngẫm thay!
Triêu Phong

TAM73F
10-21-2013, 07:41 AM
Phim Tài Liệu nói về Angkor của Xứ Miên

Angkor, capitale disparue de l'empire Khmer

<iframe width="640" height="360" src="//www.youtube-nocookie.com/embed/xx5vtA3QnpM" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

TAM73F sưu- tầm