tiensha
04-16-2020, 03:01 PM
Dòng sông vĩnh biệt
Phần A
- Ngay hôm nay à?
- Vâng. Tiếng người con gái trả lời vội vã bên kia đầu dây điện thoại.
- Ba và ngoại có khỏe không? Ðã báo tin cho anh Trung biết chưa? Người thanh niên hỏi lại.
- Cả nhà vẫn khỏe. Tinh thần ba rất tốt để chuẩn bị trị liệu. Vợ chồng anh Hai sáng mai sẽ có mặt, cả nhà chỉ còn trông mỗi mình anh.
- Anh sẽ cố gắng và khi nào có ngày giờ lên đường, anh lập tức báo cho em biết ngay.
- Không cố gì hết, chắc chắn anh phải có mặt vào ngày mai. Ba bảo muốn gặp mặt tất cả mọi người.
- Vâng, em yên trí.
Nghĩa đặt điện thoại xuống rồi không lưỡng lự một giây, anh bấm số gọi đến sở làm nói chuyện với sếp, xin nghĩ phép mấy ngày. Câu chuyện ngắn ngủi chấm dứt sau vài phút rồi Nghĩa mở computer, lên mạng tìm chuyến bay đi gấp Cali. May quá, có chỗ stand-by đây rồi. Nghĩa lại nhắc phone gọi Dung báo ngày giờ anh đến phi trường cho nàng biết để ra đón.
Trời Maryland mấy hôm nay mây mù ảm đạm, mưa bay lất phất, sắp vào tiết lạnh. Nghĩa xếp nhanh vài bộ quần áo và mấy món quà vào chiếc vali nhỏ kéo tay. Anh phân vân không biết có nên mặc áo khoác và đội mũ ấm không? Có khi để đầu trần và mặc sơ mi ngắn tay lại hóa hay, thích hợp hơn với trời Cali đang hanh nắng. Từ lâu vùng thung lũng hoa vàng vẫn luôn là nơi khí hậu ấm áp kia mà. Nghĩa tặc lưởi, bước lên xe mở máy. Trên đường ra phi trường Nghĩa băn khoăn tự hỏi: còn hai hôm nữa ba mới phải làm chemo, vậy sao hôm nay ba lại gọi mọi người về sớm để làm gì nhỉ? Nhưng cũng không sao, về trước vài hôm để ba được vui cũng tốt mà.
1- Căn bệnh trầm kha của bố Nghĩa mấy năm nay vẫn là nổi lo sợ thường trực, ám ảnh gia đình. Ông Khải đã âm thầm chiến đấu vật vã với bệnh hoạn và thân xác ông mỗi ngày một thêm teo tóp. Tuy không nói ra nhưng ai cũng nghĩ thời gian không xa nữa rồi ông sẽ từ giã mọi người ra đi. Biết vậy nhưng anh em Nghĩa vẫn quyết không chịu bó tay đầu hàng số phận. Họ cố gắng chạy chữa hết sức mình để kéo dài chuỗi ngày sống còn của người bố thân yêu mà cả đời đã vì họ chấp nhận cô đơn vò võ, cực nhọc làm lụng hy sinh tất cả để nuôi các con ăn học thành tài, nên người.
2- Ông Khải góa vợ từ ngày còn ở trong nước, lúc người con trai cả lên chín và cô gái út mới chập chững đến trường học lớp mẫu giáo. Ngày vợ ông mang bạo bệnh qua đời, hai con - Nghĩa và Diễm còn bé quá chưa kịp nhận biết nỗi đau cốt nhục phân ly. Ngoại và dì ôm hai cháu vào lòng nức nở. Cậu Ba lặng lẽ chui vào xó nhà, ngồi thổn thức không thành tiếng. Chỉ mỗi mình anh Trung là kêu gào khóc lóc đòi mẹ. Ba được tin báo, từ vùng hành quân vội vã trở về để kịp nhìn mặt và tiễn đưa người trăm năm về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đám tang, nhà buồn như nấm mồ. Ba âu sầu đau đớn, mặt mày còn đọng đầy dấu vết bàng hoàng ngơ ngác trước cái chết tức tưởi, đột ngột của vợ hiền. Ông ở nhà với các con đủ mười hôm phép rồi lại lên đường ra mặt trận.
Niềm đau chưa nguôi thì những biến động dồn dập của thời cuộc không cho phép gia đình có thời gian để bi lụy. Nỗi âu lo hiện rõ trên khuôn mặt mọi người. Thành phố biển quê ngoại ngập tràn các sắc áo lính và dân từ các nơi chạy giặc đến. Mấy tháng qua ba vẫn biền biệt, chỉ gởi tin nhắn về bình an. Những đoàn quân xa chở súng đạn, chở lính chạy đi chạy về như mắc cửi. Ngoài khơi thấp thoáng bóng tàu Hải Quân lớn bé rải rác. Chưa bao giờ người dân ở đây sống căng thẳng đến như thế. Không khí chiến tranh hãi hùng dầu sôi lửa bỏng đang sùng sục trước mắt. Quân đội dàn trận khắp nơi, trên bộ dưới biển để chống kẻ thù xâm lăng phương Bắc đang lăm le tiến chiếm thủ đô Sài Gòn. Thế rồi vào một đêm tháng Tư, súng lớn súng nhỏ bỗng thi nhau nổ vang rền. Bầu trời chợt bừng sáng lên bởi những ánh hỏa châu treo lơ lửng và không gian Vũng Tàu bé nhỏ như bị đan dày những tấm lưới lửa. Cả nhà đang kinh hoàng thì Ba và một số quân nhân, nón sắt áo giáp lấm bụi đường xa, trên mình mang đầy súng đạn, đi trên mấy chiếc xe nhà binh lem luốc, bất ngờ xuất hiện. Họ đưa cả gia đình lên xe chở về hướng Bãi Sau. Nơi đây Nghĩa đã thấy có vài đứa bé trai gái cùng trang lứa. Ba tìm gặp mấy người sĩ quan Hải quân nói chuyện gì đó rồi quay lại với gia đình. Ông chỉ kịp trao túi lương thực và dặn dò cậu, dì lo cho ngoại với các cháu. Ba trầm tĩnh nói:
- Mẹ và hai em yên tâm đưa các cháu lên tàu di tản trước. Con trở lại đơn vị và sẽ đi sau.
Dặn rồi ông ôm ba con thơ vào lòng, âu yếm hôn từng đứa. Lát sau, ông lẳng lặng quay đi, dẫn đám lính bước lên xe về lại đơn vị, tiếp tục cuộc chiến đấu chống kẻ thù vừa tấn công vào thành phố, trước khi con tàu quay đầu chạy ra khơi. Cả nhà bật khóc. Ngoại kêu tên ba khản tiếng nhưng tất cả bị át đi bởi những âm động vang rền dữ dội của tiếng súng đại bác. Mọi người được các chú lính Hải Quân đưa hết xuống tàu. Một đêm kinh hoàng và hỗn loạn đau thương. Bình minh hôm sau tàu nhổ neo, trực chỉ hướng ra phía biển khơi.
Gần tháng sau cả nhà mới gặp lại ba tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ trên đảo Hawaii. Trông ba già sọm và trở nên biếng nói nhác cười, trầm tư tự bao giờ. Mọi người mừng vui không sao kể xiết. Ngoại chấp tay, cúi đầu tạ ơn trời. Chiến tranh vốn vô tình, đã có bao gia đình vĩnh viễn mất đi người thân khi sắp tàn cuộc.
Sau đó chúng tôi được đưa đến Mỹ định cư với tư cách tỵ nạn chính trị. Thời gian kế tiếp là chuỗi năm tháng dài đăng đẳng đầy phiền muộn, buồn đau của những con người vừa đánh mất tổ quốc, phải sống lìa xa quê hương với mặc cảm thua cuộc dằn vặt và nỗi cô đơn chán chường trên mảnh đất tạm dung. Anh em Nghĩa thương nhớ mẹ hiền chỉ qua tấm di ảnh trên bàn thờ và biết về mẹ qua ký ức của ngoại và dì Út. Ngoài ra, trong mắt mấy đứa bé mồ côi, chỉ có duy nhất tình yêu thương của người cha với tất cả nỗi đằm thắm, ngọt ngào riêng dành cho chúng tôi.
3- Người Việt ra đi tỵ nạn cộng sản mỗi ngày một đông. Cộng đồng ngày càng khởi sắc lớn mạnh. Lác đác đã có chuyện dạm hỏi cưới xin. Một hôm ngoại đi dự tiệc cưới của gia đình người quen, khi về nhà ngoại ôm chúng tôi vào lòng, vẻ mặt có chiều suy nghĩ lung lắm rồi chợt bà gọi ba đến, ngoại bảo:
- Mấy đứa cháu còn bé quá mà tuổi đời của con cũng chưa hẳn đã già lắm, mẹ nghĩ là con nên tục huyền để có người giúp đỡ chăm lo các cháu.
Một thoáng buồn bất chợt hiện ra trong khóe mắt ba nhưng tan biến thật mau. Giọng ông tỉnh queo:
- Mẹ đừng lo. Các cháu đã có bà ngoại và dì Út chăm sóc chu đáo rồi, vả lại...
Ngoại tằng hắng ngắt lời ba:
- Thằng ba con út rồi cũng phải lấy vợ lấy chồng, ra sống riêng. Mẹ thì càng ngày càng già. Dẫu sao con cũng cần phải có một người đàn bà để đỡ đần, săn sóc cho cuộc đời của con nữa chứ.
- Mẹ quên là con đã có một người rồi sao.
Vừa nói ba vừa chỉ tay lên bàn thờ má. Ba đùa mà sao giọng ướt sũng nỗi xót đau nghẹn ngào, trong lúc ngoại cúi đầu quay đi để kịp dấu đôi dòng lệ thương cảm đứa con rể chung tình, sống đời đơn chiếc, chịu cảnh gà trống nuôi con hằng bao năm rồi.
Ba không tu hành mà tự nguyện kìm giữ, tiết chế tối đa những quyến rũ sắc dục. Ông sống như một nhà tu đạo hạnh, tự khép mình vào khuôn khổ giới luật khắt khe. Ngoài thời gian làm việc hai job ở hãng, trở về nhà ba chỉ quanh quẩn bên các con, chăm sóc từng miếng ăn, bày biểu từng con toán, từng chữ đánh vần ý tứ, để đừng bao giờ đám con trẻ quên mất tiếng mẹ đẻ. Lớn dần lên trong vòng tay chăm chút giáo huấn của cha, các con biết thêm được sự thiêng liêng của tình yêu quê hương, thế nào là nỗi nhục mất nước lưu vong và đạo lý nghĩa nhân trong cõi đời mênh mang hận thù nầy. Ông sợ đến thế hệ các con sẽ phôi phai dần hết đi, nên ông dạy các con đạo làm người đừng bao giờ quên cội nguồn, tổ tông. Suốt mười mấy năm dài đăng đẳng trên xứ người, trong tâm hồn các con chỉ có độc nhất mỗi một hình ảnh cao quý của người cha, lặng lẽ mà ngọt ngào, âm thầm mà son sắc. Ông như cây phong, lá chuyển màu theo từng thời gian đổi thay, giống như mái tóc bạc trên đầu của ba, mà thân cây thì vẫn lừng lững thẳng đứng, giữ nguyên được cái cốt cách thanh cao, bền bỉ giữa phong ba bão giông cuộc đời. Anh em Nghĩa chưa hề bao giờ thấy ba than van nửa lời. Ông câm nín chịu đựng, chấp nhận số phận như một an bài định mệnh. Ba âm thầm sống như một chiếc bóng cô đơn. Thảng hoặc lắm, họ mới thấy ba và cậu ngồi nhâm nhi bên cốc rượu trong những ngày cúngl giỗ. Bửa nhậu ê hề những món ngon do tự tay ngoại và dì nấu ra nhưng bao giờ cũng lặng lẽ vắng tiếng nói cười, ngược lại có khi còn rưng rưng những giọt nước mắt bi thương buồn tủi. Hình như hai người đàn ông đang ngồi uống những giọt buồn quá khứ chứa đựng nhiều hồi tưởng xót xa hơn là thưởng thức rượu ngon. Men cay 75, họ chỉ nhấm nháp một lần mà cơn say kéo dài hằng mấy mươi năm vẫn còn làm họ váng vất, cơ hồ chưa tỉnh. Không biết trong cuộc đời trai trẻ của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa năm xưa đã có bao nhiêu lần ba ngồi như thế, tư lự một mình với những hồi ức dĩ vãng thâm trầm và day dứt? Dần theo với thời gian, hình ảnh cao cả mà lắng đọng đó đã từ lâu thâm nhập vào tâm thức của anh em Nghĩa, làm họ suy nghĩ băn khoăn không ít. Mãi nhiều năm tháng về sau nầy, khi đã trưởng thành, họ mới hiểu và cảm nhận được phần nào mối tâm tình sâu lắng và hoài niệm đau khổ thầm kín của người lính già phiền muộn.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, rồi cậu Ba có vợ dọn ra ở riêng và dì Út cũng đã đi theo chồng. Tiếp theo anh Trung tốt nghiệp đại học và có công việc làm ăn khấm khá ở thành phố Philadelphia tận miền Bắc. Năm kế, anh lập gia đình với người nữ đồng sự ở bên đó. Hai năm sau Nghĩa tốt nghiệp cử nhân kinh tế, được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc tại sở thuế tiểu bang Maryland. Ðến phiên Nghĩa phải rời xa mái ấm gia đình. Cảnh nhà vắng vẻ dần, chỉ còn chơ vơ lại bà ngoại, ba và bé út. Không nói ra nhưng ai cũng thấy buồn, tuy cậu và dì vẫn thường xuyên chạy đi chạy về, nhưng vẫn không thể nào giống được như xưa.
4- Khắc kỷ và trầm tư đến thế mà ngay sau khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cho phép người chạy đi nước ngoài được quyền trở về thăm quê hương, thì ba đã có mặt lập tức trong chuyến về đầu tiên, sau thời gian mười bốn năm lìa xa tổ quốc. Ba bảo với gia đình là ông đã mòn mỏi chờ đợi giờ phút đó từ lâu lắm rồi.
Sau ngày trở qua lại Mỹ, tâm tình ba đã có nhiều
chuyển biến lớn lao. Ông không còn ủ ê sầu muộn như trước nữa, mà trở nên vui vẻ khác thường. Chúng tôi nghĩ, có thể sau chuyến về thăm quê hương đã giúp ba hồi phục lại trạng thái tâm lý bất ổn, vơi bớt nỗi cô đơn đau buồn và vui sống trở lại. Chúng tôi nhìn ba với ánh mắt chan hòa niềm vui.
Từ đó ông chịu khó để ý mua sắm nhiều thứ như quần áo, giày dép, đồ gia dụng thậm chí cả nước hoa, mỹ phẩm nữa kìa. Thỉnh thoảng còn gởi tiền về Việt Nam. Ba bắt đầu xài đến số tiền dành dụm để lo cho Dung khi vào đại học, có tiền chi trả các khoản phí tổn học hành, sách vở, xe cộ... tốn kém. Ðó là phần tài sản ba đã nhọc nhằn đổ mồ hôi, vất vả làm lụng hằng bao nhiêu năm mới tích lũy nên được. Chúng tôi tự hỏi ba đã gởi quà cho ai? Ba mồ côi từ tấm bé. Gia đình ngoại thì ở hết bên nầy rồi. Câu hỏi cứ lớn dần theo với thời gian mà việc làm của ba thì vẫn còn nằm trong bí mật. Ba cũng chưa hề có một lời giải thích, vì chủ quan tin rằng chưa ai biết được việc làm bí ẩn của ông. Tuy không dám nghi ngờ ba có tình riêng, nhưng quả thật chúng tôi không làm sao không suy nghĩ đến điều đó. Riêng ngoại, cậu và dì út thì sâu sắc hơn, họ nhìn ba với ánh mắt có chút hoài nghi thầm kín, nhưng ai cũng im lặng không chịu nói gì.
Thế rồi đến năm sau ba lại chuẩn bị về Việt Nam chuyến nữa. Tất cả đã sẵn sàng thì thình lình ba ngã bệnh nặng. Một cái bướu nhỏ xuất hiện dưới hàm bên trái gây đau nhức và tăng trưởng rất mau. Ðến bệnh viện, sau khi rút ra một ít dịch thể và bệnh phẩm của bướu để làm xét nghiệm, các bác sĩ kết luận rằng đó là khối u ác tính, nghĩa là một cái bướu ung thư, cần phải hủy diệt gấp bằng phương pháp chemo therapy hiện đại để tránh lây lan qua các tế bào lành khác, đe dọa nguy hiểm đến tính mạng. Cách chữa trị nầy rất hiệu quả nếu sức khỏe bệnh nhân chịu đựng được các dược liệu, hóa chất cần thiết phải đưa vào cơ thể để tiêu diệt mầm ung thư.
Không còn giải pháp nào khác, ba đành hoãn lại chuyến về VN. Ông đánh giá được tầm mức quan trọng tử sinh của phương pháp trị liệu mới mẻ nầy, do đó, trước khi vào bệnh viện để tiến hành điều trị, ba đã gọi các con về dặn dò mấy điều quan trọng. Ba lo xa, nhỡ không may có điều gì bất trắc xảy ra. Con người sinh hữu hạn tử vô kỳ, mấy ai biết trước được mệnh trời.
5- Trong phòng khách ấm áp, cả nhà quây quần đông đủ. Ba mời bà ngoại và cậu, dì ngồi rồi xin phép bắt đầu câu chuyện với chúng tôi.
Ba bảo rằng, sống đến tuổi nầy rồi ông không có điều gì để ân hận nếu không may phải xa lìa các con ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo. Cuộc đời của ba đã cố gắng thực hiện những điều tốt đẹp có thể làm. Ðã nuôi dạy các con nên người, không xấu hổ với linh hồn của mẹ; Đã một đời tận tụy với tổ quốc dân tộc, không trái đạo lý làm trai thời loạn; Đã sống trọn vẹn thủy chung với bằng hữu và những người thân thuộc. Tất cả những gì ba làm, đã giúp ông tìm được sự thanh thản tâm hồn trong chuỗi ngày lưu vong xa quê hương và tìm được niềm an vui hạnh phúc bên các con đã trưởng thành. Duy chỉ còn một điều độc nhất ...
Giọng ba bỗng chùng xuống, run run xót xa. Khuôn mặt người lính già lớn lên trên quê hương có chiều dài lịch sử với nhiều biến động thăng trầm, rất hiếm hoi tìm thấy chút thời gian riêng tư hạnh phúc, nhưng lại dư thừa nhọc nhằn cay đắng ly tan, chợt hằn sâu những vết nhăn dấu tích một thời mịt mùng lửa đạn. Ðôi mắt lờ đờ mệt mỏi của người bệnh hình như ứa ra chút ngấn lệ thương đau. Ba nghẹn ngào tiếp lời:
- Năm xưa ba đã phát nguyện một lời hứa, hay đúng hơn là một lời thề với một người đã khuất, nhưng mãi đến hôm nay ba vẫn chưa thực hiện được cho gia đình họ một chút gì gọi là bù đắp tấm ân tình sâu nặng.
Câu chuyện của người lính trận trong cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ mảnh đất tự do thân yêu và đồng bào miền Nam ruột thịt, đã đưa mọi người trở về quê hương của năm tháng tang tóc, rền vang tiếng bom đạn chiến tranh hận thù ...
Chiếc trực thăng chở trả ra mặt trận vị sĩ quan trẻ, mang mảnh khăn tang cho người vợ hiền vừa mới qua đời. Anh tiếp tục ra đi chiến đấu, làm nhiệm vụ người trai thời loạn, gởi lại quê nhà ba đứa con còn bé dại. Thượng cấp và đồng đội ai cũng nhìn anh với ánh mắt thương cảm lẫn kính phục.
Vị Lữ đoàn trưởng sau khi ân cần hỏi han và tỏ lời chia buồn với Khải xong, ông lập tức chỉ vào bản đồ, trình bày cặn kẻ tình hình khó khăn của tiểu đoàn Khải vấp phải mấy hôm nay, khi bị chạm địch trong một địa thế rất phức tạp, hiểm trở. Ông dặn dò anh phải hết sức thận trọng và thường xuyên liên lạc để kịp thời yểm trợ cho đơn vị được an toàn. Sau một hồi thảo luận, vị chỉ huy lữ đoàn khả kính thân ái tiễn chân Khải ra tận trực thăng về lại tiểu đoàn.
... Ðã một tuần lễ nay, chiến trường luôn căng thẳng và đẫm máu. Tiếng súng lớn nhỏ rền vang ngày đêm khắp trận địa như bất tận. Tiểu đoàn Khải lãnh nhiệm vụ hành quân tiếp ứng, cứu nguy một đơn vị bạn đang bị địch vây hãm nhiều ngày. Là một cấp chỉ huy tác chiến dày dạn kinh nghiệm trận mạc, Khải nhanh chóng nhận ra tiểu đoàn đang bị dồn vào một vị trí quá ư bất lợi. Thế núi dốc đứng từ trên cao tiếp giáp ngay với bờ sông chạy dài mấy cây số nằm phía dưới chân núi. Lòng sông tuy hẹp, thuận lợi cho việc tổ chức vượt sông nhưng phía bên kia là rừng lau sậy um tùm, nếu địch quân phục kích trên triền núi, thì chiến sĩ tiểu đoàn khi qua sông sẽ là những tấm bia thịt cho địch tập bắn và nguy hiểm hơn nữa là chờ khi đơn vị qua hết bên kia sông, địch tập trung đánh hỏa công, thì rừng lau sậy sẽ biến thành biển lửa thiêu sống đoàn quân thiện chiến. Nhìn địa thế quá ư hiểm ác, song không thể có sự chọn lựa nào khác hơn là phải tiến quân, chứ không thể nằm yên một chỗ chờ chết. Khải suy nghĩ rồi gọi tiểu đoàn phó và trưởng ban Ba đến hội ý. Chiều hôm đó, anh dùng kế nghi binh để lừa địch phán đoán sai về kế hoạch hành quân của mình. Khải tung hai đại đội áp dụng chiến thuật “dương Ðông kích Tây”. Một ÐÐ tiến về hướng chân núi, ra lệnh cho binh sĩ bắn súng và khua động ầm ĩ làm như sắp tấn công lên núi để thu hút sự quan sát của địch. Một ÐÐ khác âm thầm lục soát và im lìm nằm án ngữ an ninh bên nầy sông, để cánh quân B gồm hai ÐÐ còn lại do vị tiểu đoàn phó chỉ huy, bất ngờ tổ chức vượt sông khi trời mờ tối. May mắn thay kế hoạch thành công. Cánh B qua sông an toàn và binh sĩ lập tức được lệnh bung rộng ra, chia nhau kiểm soát được một vùng lau sậy rộng lớn, làm đầu cầu yểm trợ an toàn cho Bộ chỉ huy của Khải và cánh quân A sẽ vượt sông vào tảng sáng hôm sau.
Suốt đêm hôm đó Khải nằm trằn trọc, lo lắng không làm sao ngũ được dù anh rất mệt. Ðêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió thổi, tiếng côn trùng nỉ non. Khải biết chung quanh đây có nhiều chiến sĩ và đông đúc địch quân rình rập. Nằm thao thức trên cánh võng mắc thật thấp sát mặt đất, kề bên hố cá nhân, anh nghe rõ tiếng thủy triều dâng nước cuồn cuộn, lòng thầm mong trời mau sáng. Cuộc đời những người chiến binh như các anh ví cho cùng cũng chẳng bằng được dòng sông nầy, bình an với hai con nước lớn, ròng cố định hàng ngày. Riêng với anh, số phần còn cay nghiệt hơn, cả hai vai gánh nặng, một của Tổ quốc và một của trách nhiệm làm cha. Khải thở dài. Phải chi người vợ hiền đừng đoản mệnh, còn sống để san sẻ cùng anh gánh nặng gia đình. Nhớ đến vợ, lòng Khải bỗng quặn thắt. Hình ảnh người đàn bà nhu mì, hiền thục như chập chờn ẩn hiện trước mắt anh mỗi lúc một rõ ràng hơn. Nàng đi đến đứng bên cánh võng, một tay lay gọi vai anh, một tay chỉ về hướng doi cát cạnh bờ sông, bảo anh mau thức giấc. Thấy vợ, Khải mừng rỡ chống tay ngồi dậy, nhưng thân thể anh như bại liệt bất động, không làm sao ngồi lên được. Anh thử cố gắng nhiều lần nhưng vô ích. Lát sau nàng nhìn anh, mặt buồn rười rượi rồi buông tay, thất thểu quay bước đi về hướng doi cát. Hình ảnh nàng mờ dần rồi tan biến trong màn sương đục của sông núi, cùng lúc có tiếng gọi thảng thốt “ông thầy, ông thầy” của người hiệu thính viên, vực Khải ra khỏi giấc mơ hoang tưởng. Khải ngồi bậy dậy, anh ngơ ngác nhìn quanh. Tứ bề vẫn yên tĩnh, cái im lặng rờn rợn trước cơn bão lửa sắp giáng xuống. Khải bần thần nhớ lại giấc mơ rồi tự hỏi: “mình đâu có ngũ mà bảo là nằm mơ”. Anh đưa mắt nhìn về phía bờ sông, hướng vợ anh vừa mới đi đến. Chiều hôm qua Khải đã lội dọc theo bờ sông để tìm địa điểm cho đơn vị vượt sông, nhưng có thấy doi cát nào đâu. Hay sắp xảy ra điều gì bất ổn nên vợ hiền mới hiện về báo mộng. Tự dưng bụng anh nóng cồn cào như có lửa đốt. Khải đứng dậy bảo người sĩ quan phụ tá gọi con cái của hai đại đội còn nằm lại án ngữ bên nầy sông, lợi dụng lúc trời còn tối chuẩn bị lên đường.
5 giờ sáng, toán quân tiền phong gồm những chiến sĩ lội giỏi, trang bị nhẹ, bắt đầu xuống nước. Lòng sông hẹp khoảng 30 mét, mặt nước mờ hơi sương giăng phủ và may mắn nhất là thời điểm con nước đang rút dần, chỉ còn cao ngang thắt lưng. Ðợi toán quân mở đường kéo theo những sợi dây bắt ngang dòng sông, đã qua đến bờ bên kia an toàn, Ðại đội trưởng Hùng ra lệnh cho các trung đội tuần tự xuất phát vượt sông, rồi anh bước xuống nước cùng với Khải và Bộ Chỉ huy tiểu đoàn tiến lên. Trước lúc quay đi, Khải còn cẩn thận dặn vói lại đại đội sau cùng nằm đoạn hậu cho tiểu đoàn, phải nhanh chóng rút qua sông trước khi trời sáng hẳn.
6 giờ sáng. Vầng đông vừa hừng chút ánh sáng le lói ở góc chân trời, Khải vừa cảm nhận ra cái lạnh buốt của nước sông thấm qua chiếc quần trận, thì bất ngờ hàng loạt tiếng nổ chát chúa của đạn AK, B40, thượng liên từ trên sườn núi dội lửa ầm ầm xuống lòng sông. Tiếng kêu la nháo nhác, hoảng loạn. Có ai đó vừa xô ngã Khải xuống, rồi nằm đè lên lưng che chắn cho anh, bên tai tiếng đạn réo rợn người. Hỏa lực địch tới tấp đổ bừa xuống cả một khúc sông dài. Chúng bắn hú họa nhưng cũng đã có một số chiến sĩ bị thương vong. Chợt như có một sức mạnh thần bí bỗng kéo Khải bật dậy, chạy ngược thật nhanh trở lên bờ và bất ngờ anh nhìn thấy một doi cát nhỏ nằm gồ lên vừa đủ che chở an toàn cho mọi người. Không kịp suy nghĩ về điều kỳ lạ, anh chụp máy gọi lữ đoàn xin máy bay yểm trợ và điều động chiến sĩ đơn vị phản công tiến chiếm sườn núi, trong lúc tiếng súng cối của cánh quân B bên kia bờ sông, đang tới tấp rót đạn xuống triền dốc, nơi địch quân ẩn núp. Ruột gan Khải như bị cấu xé khi nhìn thấy thuộc hạ kẻ chết người bị thương la liệt, đang kêu gào giãy giụa tuyệt vọng dưới nước, chỉ cách chổ Khải chừng 20 mét mà anh đành chịu bó tay không cứu giúp gì được. Ðại đội trưởng Hùng nằm đè lên trên, lấy thân che đạn cho Khải, bên mông trái bị một mảnh B40 phá nát, anh cố gắng lết lên bờ cát ướt. Khải hét lớn gọi Hùng:
- Cố lên Hùng, cố lên. Có anh đến đây.
Rồi bất chấp hiểm nguy, Khải liều lĩnh lao ra. Hai chiếc bóng rằn ri phóng liền theo sau, nhưng hàng tràng đạn nổ cày tung mặt đất khiến cả ba bật dội lại. Người sĩ quan ban Ba nắm cứng bâu áo Khải hét lớn:
- Không được đâu thẩm quyền, đừng liều lĩnh.
Khi Hùng cố gắng đứng lên, lại bị thêm một phát đạn thứ hai đẩy anh té sấp xuống mặt cát lần nữa, chiếc nón sắt văng ra nằm lăn lóc bên cạnh. Hùng chống tay cố ngồi dậy nhưng kiệt sức đành phải gục xuống. Rồi trong khoảng cách 20 mét, rất gần để có thể nhìn thấy rõ nét mặt Hùng tuy đau đớn nhưng rất trầm tĩnh, trầm tĩnh đến lạ thường. Anh ngồi nghiêng, một chân co một chân duỗi, tay trái ôm vết thương loang máu trên ngực, tay phải Hùng cầm cây Colt 45 đưa lên vẫy chào chiến hữu, đôi mắt anh rực sáng, khuôn cằm bỗng đanh lại cương quyết, rồi bất ngờ anh trở nòng súng thật nhanh vào thái dương và bóp cò. Giữa muôn ngàn tiếng nổ của các loại súng từ cả hai phía bạn và thù, mọi người vẫn nghe rõ mồn một tiếng súng đĩnh đạc, lẻ loi, tự kết liễu đời mình của Hùng. Nhiều tiếng kêu thảng thốt đau đớn bật ra từ cửa miệng những đồng đội đã tận mắt chứng kiến cái chết bi hùng của người đại đội trưởng anh dũng. Hùng biết mình bị thương nặng khó thể sống nỗi, nên quyết định tự sát để dành lại sinh mạng cho những đồng đội khác, có thể vì mạo hiểm cứu anh sẽ phải hy sinh oan uổng. Thân xác Hùng đổ nghiêng nằm bất động trên cát. Máu anh tuôn chảy thành dòng, hòa chung với máu của những chiến binh bất hạnh khác, quyện lẫn vào dòng nước trong xanh, tạo nên một màu đỏ thật đặc biệt. Màu của chiến tranh, hận thù, tang tóc và phân ly.
Khải đau đớn gào lên, đập tay xuống mặt cát còn ướt lạnh sương đêm, rên xiết kêu trời. Nước mắt anh ứa ra tuôn thành dòng bi phẫn. Còn nỗi thống khổ nào hơn khi phải tận mắt chứng kiến cái chết của người chiến hữu thân yêu, đã hy sinh mạng sống để che chở cho mình được an lành. Nỗi đau đớn cùng cực cào xé tâm can, biến thành nỗi uất hận, bốc cháy hừng hực trong đôi mắt đỏ ngầu, rực lửa căm hờn, khiến Khải tê dại chết điếng, không khóc nỗi thành lời. Tất cả chỉ còn lại hận thù phải trả bằng máu. Anh giật combiné trên tay người hiệu thính, hối hả gọi Hỏa Long phải trút sấm sét tiêu diệt kẻ thù. Chưa đầy mười phút sau, một phi tuần AC.119 lượn tới bao vùng, khạc từng dây đạn lửa khủng khiếp như bò rống xuống đầu địch quân. Tiếp theo một chiếc F105 xuất hiện, thả ngay vào vị trí chỉ điểm một quả bom lửa Napal. Không gian như chao đảo sau tiếng nổ long trời lở đất. Khói lửa văng ra tứ tán, không khí bị đè nén ngột ngạt, sức nóng như thiêu cháy mọi thứ, tất cả cùng lúc đổ ập xuống sườn núi, hủy diệt đám người cuồng tín sinh Bắc tử Nam, chuyên đi gây họa chết chóc và gieo rắc tang thương đến với mọi nơi, mọi người.
Kết thúc trận đánh. Khải chọn bộ đồ trận tốt nhất của mình, tự tay anh mặc cho Hùng và lau sạch các vết máu trên khuôn mặt phong trần vẫn còn phảng phất nét hào hoa, trước khi gói xác Hùng vào poncho. Lúc cột theo tấm thẻ bài, Khải lẩm bẩm trong miệng như tâm sự với một người em thân thích, không may vừa nằm xuống sau cuộc chơi sinh tử: “Hãy yên giấc đi Hùng. Mọi chuyện gia đình của em, ngày nào còn sống anh hứa sẽ gánh vác tất cả để đền ơn cứu mạng. Hùng ơi! hãy bình an ngủ yên giấc đi em.”
Khi đoàn trực thăng vận chuyển thương binh và tử sĩ cất cánh, các quân nhân trong tiểu đoàn tự động cùng đứng nghiêm, đưa tay chào vĩnh biệt lần cuối. Khải ngậm ngùi dõi mắt nhìn theo những cánh chim sắt đang bay về phương Ðông, mang theo thân xác những chiến hữu thân yêu vừa trả xong nợ nước, trong đó có người sĩ quan trẻ tuổi đã anh dũng hy sinh cứu mạng Khải. Lòng anh buồn rười rượi, Khải như thấy có trách nhiệm đối với cái chết của người đại đội trưởng thuộc cấp. Ðứng giữa trời đất mông lung, Khải tâm nguyện lập một lời thề sắt son có núi sông chứng giám: “Nếu ngày nào còn sống trên cõi đời nầy, anh quyết tận sức tận tâm chu toàn lo cho đời sống của vợ con Hùng được hạnh phúc để đền ơn sâu cứu tử.”
Ba đột nhiên ngừng lời. Ông trầm ngâm nhìn ra khoảng trời thu hẹp bên ngoài khung cửa sổ như để hoài niệm quá khứ đau thương. Bóng tối lan dần, che khuất vạt nắng chiều thoi thóp trên mấy ngọn cây phong. Từng đàn chim ríu rít gọi nhau sau vườn. Ðôi mắt ba mệt mỏi đau khổ, ông thở dài buồn bã rồi tâm sự:
- Ba đã vĩnh biệt người ân nhân cứu mạng mình bên dòng sông định mệnh kể từ đó. Thế rồi cuộc chiến khốc liệt cứ cuốn hút bước chân người chiến sĩ, không có được một ngày phép rảng rang để ghé về thăm vợ con Hùng. Tuy nhiên trước khi Sài Gòn thất thủ, một lần may mắn duy nhất trên đường chuyển quân, ba đã cố gắng tạt qua nhà của Hùng, thắp cho chú nén nhang và tự nhắc lại lòng phải nhớ lời thề xưa, rồi trao vội món quà cho hai đứa con còn bé của Hùng, một trai một gái, ba vội vã lên đường để kịp theo chân đoàn quân ứng chiến ...
Giọng ba khàn đục, chìm xuống mênh mang tựa như tiếng vọng về từ quá khứ. Ông nói với các con mà như tâm sự với chính mình:
- Cứ những tưởng còn súng đạn trên tay, còn đầy đủ các chiến hữu bên cạnh, còn vùng đất điểm tựa cuối cùng của miền Tây phì nhiêu, sông rạch hiểm yếu chập chùng nối tiếp là còn khả năng tiếp tục chiến đấu, còn hy vọng có ngày trở lại thủ đô Sài Gòn. Ai ngờ... tất cả đều sụp đổ. Từ đó, lời thề ngày xưa cũng luân lạc theo vận nước nổi trôi, rơi rụng theo năm tháng truân chuyên của thân phận tha hương, kiếp đời vong quốc. Lòng ba mãi ray rức ân hận, cứ nghĩ rằng cuộc đời nầy chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa năm xưa với người ân nhân nghĩa dũng bên dòng sông định mệnh. Thế nhưng một ngày, may mắn trời còn đoái thương cho ba có cơ hội trở về quê hương để bắt đầu thực hiện điều tâm nguyện.
Rồi như đến lúc cần thiết phải vét cạn cả cõi lòng, dàn trải hết trăm mối tâm sự ngổn ngang, để các con có thể hiểu được tấm lòng cưu mang của đời mình:
- Về Việt Nam ba đã dành hết thời gian, lặn lội nhiều ngày, hỏi han nhiều người mới tìm gặp được vợ con chú Hùng. Gia đình họ bây giờ cơ hàn lắm, sống chui rúc trong một căn phòng ổ chuột mãi tuốt trên tầng mười của khu chung cư cũ kỷ. Những món quà ba chắt chiu gởi về chỉ vỏn vẹn là chút phần thưởng nhỏ bé dành cho hai cháu học trò con nhà nghèo nhưng ngoan hiền, thực tế chưa giúp gì được nhiều cho đời sống họ. Cứ tưởng có thời gian thư thả, ba sẽ tìm cách cải thiện đời sống họ bớt phần cơ cực, nhất là với hai cháu, không những cho chúng học hành thành đạt trong nước mà còn có thể xuất dương du học nữa kìa. Nào ngờ ...
Ba bỏ lửng câu nói. Vầng trán hằn sâu những nếp nhăn thời gian của con người cả đời lao đao lận đận. Giọng ông trầm xuống, thiết tha như phơi bày, dàn trải cả tấm lòng:
- “Lực bất tòng tâm”. Ngày nay thân mang trọng bệnh, ba biết là không thể nào tiếp tục làm tròn lời hứa với người đã khuất, đó là điều tủi nhục, xấu hổ. Ba cho gọi các con về sớm trước ngày ba nhập viện, chính là để kể cho các con biết câu chuyện thương tâm nầy và khẩn khoản nhờ các con cố gắng giúp ba, tiếp tục thực hiện lời thề năm xưa nếu không may ba có mệnh hệ nào trong lần chửa trị nầy. Ba muốn lòng mình được thanh thản dầu sống hay chết, để mai nầy khi xuống suối vàng gặp lại đứa đàn em dũng cảm, nghĩa tình năm xưa, ba cũng không thấy có điều gì hổ thẹn.
Phòng khách yên tĩnh như tờ, chỉ có âm thanh rì rầm đều đều của máy điều hòa và tiếng sụt sùi của ngoại, dì Út và Dung. Mọi người lặng lẽ cúi đầu trầm mặc xót xa trước câu chuyện quá đỗi bi thương. Thế mà bấy lâu nay họ lại đem lòng nghi kỵ việc làm đạo nghĩa của người lính già, trọn đời luôn xem trọng danh dự, lời hứa còn hơn cả của cải tiền bạc và sự an nguy bản thân mình. Sự thật ba không hề có tình riêng, ông vẫn một lòng chung thủy với người vợ hiền đã khuất. Thì ra trên cõi đời nầy chỉ có mỗi mình mẹ là hiểu rõ và tin tưởng ba nhất mực, nên dầu thân xác đã tan vữa thành cát bụi mà hồn mẹ vẫn còn vật vờ theo ba phù hộ, dẫn lối chỉ đường cho ông thoát họa tử vong trong đường tơ kẻ tóc.
Cánh cửa căn phòng khách đang khép hờ bỗng mở toang, gió từ đâu lồng lộng ùa vào tưởng như có linh hồn mẹ phảng phất theo về, lẩn quất quanh đây.
6- Anh em Nghĩa nhìn người cha thân yêu ngồi im lìm, bất động trên chiếc ghế sô-pha, như đang thiền định bình an giữa giang sơn của mình. Thân xác ông gầy gò ốm yếu, đôi mắt mỏi mệt ẩn giấu bên trong những điều thầm kín, đã không còn vẻ tinh anh của ngày xa xưa, khuôn mặt xương xẩu trầm tư như một chiếc bóng hiu hắt... tất cả đã điểm nhiều vết nhăn phong trần phôi pha của thời gian, nhưng vẫn không thể che lấp cốt cách lương chính của con người nhân hậu, thủy chung. Họ nhìn người cha như phảng phất hình ảnh một nhà hiền triết đạo đức, biết rõ cội nguồn đau khổ của nhân loại và muốn được cùng chia sẻ. Ông có tâm hồn quảng đại của nhà tu đạo trên con đường khai hóa, giải thoát và tiêu trừ nghiệp chướng, dẫn độ chúng sanh đến cõi hạnh phúc.
Anh em Nghĩa bồi hồi xúc động nhìn sự hiện hữu héo mòn của cha. Qua câu chuyện kể của ông, họ thầm nghĩ: “Giữa cõi đời ô trọc nầy há dễ gì tìm được một tâm hồn cao quý giống như cha”. Chính vì thế họ thấy cần thiết phải có bổn phận tích cực giúp đỡ ông sớm thành toàn lời nguyện thề của một buổi sáng oan khiên bên dòng sông định mệnh năm nào trên quê hương cội nguồn./-
TiênSha-LêLuyến
Virginia, ngày Lập Ðông 2005
(Xin đọc tiếp phần B - Nỗi lòng người lính già)
Phần A
- Ngay hôm nay à?
- Vâng. Tiếng người con gái trả lời vội vã bên kia đầu dây điện thoại.
- Ba và ngoại có khỏe không? Ðã báo tin cho anh Trung biết chưa? Người thanh niên hỏi lại.
- Cả nhà vẫn khỏe. Tinh thần ba rất tốt để chuẩn bị trị liệu. Vợ chồng anh Hai sáng mai sẽ có mặt, cả nhà chỉ còn trông mỗi mình anh.
- Anh sẽ cố gắng và khi nào có ngày giờ lên đường, anh lập tức báo cho em biết ngay.
- Không cố gì hết, chắc chắn anh phải có mặt vào ngày mai. Ba bảo muốn gặp mặt tất cả mọi người.
- Vâng, em yên trí.
Nghĩa đặt điện thoại xuống rồi không lưỡng lự một giây, anh bấm số gọi đến sở làm nói chuyện với sếp, xin nghĩ phép mấy ngày. Câu chuyện ngắn ngủi chấm dứt sau vài phút rồi Nghĩa mở computer, lên mạng tìm chuyến bay đi gấp Cali. May quá, có chỗ stand-by đây rồi. Nghĩa lại nhắc phone gọi Dung báo ngày giờ anh đến phi trường cho nàng biết để ra đón.
Trời Maryland mấy hôm nay mây mù ảm đạm, mưa bay lất phất, sắp vào tiết lạnh. Nghĩa xếp nhanh vài bộ quần áo và mấy món quà vào chiếc vali nhỏ kéo tay. Anh phân vân không biết có nên mặc áo khoác và đội mũ ấm không? Có khi để đầu trần và mặc sơ mi ngắn tay lại hóa hay, thích hợp hơn với trời Cali đang hanh nắng. Từ lâu vùng thung lũng hoa vàng vẫn luôn là nơi khí hậu ấm áp kia mà. Nghĩa tặc lưởi, bước lên xe mở máy. Trên đường ra phi trường Nghĩa băn khoăn tự hỏi: còn hai hôm nữa ba mới phải làm chemo, vậy sao hôm nay ba lại gọi mọi người về sớm để làm gì nhỉ? Nhưng cũng không sao, về trước vài hôm để ba được vui cũng tốt mà.
1- Căn bệnh trầm kha của bố Nghĩa mấy năm nay vẫn là nổi lo sợ thường trực, ám ảnh gia đình. Ông Khải đã âm thầm chiến đấu vật vã với bệnh hoạn và thân xác ông mỗi ngày một thêm teo tóp. Tuy không nói ra nhưng ai cũng nghĩ thời gian không xa nữa rồi ông sẽ từ giã mọi người ra đi. Biết vậy nhưng anh em Nghĩa vẫn quyết không chịu bó tay đầu hàng số phận. Họ cố gắng chạy chữa hết sức mình để kéo dài chuỗi ngày sống còn của người bố thân yêu mà cả đời đã vì họ chấp nhận cô đơn vò võ, cực nhọc làm lụng hy sinh tất cả để nuôi các con ăn học thành tài, nên người.
2- Ông Khải góa vợ từ ngày còn ở trong nước, lúc người con trai cả lên chín và cô gái út mới chập chững đến trường học lớp mẫu giáo. Ngày vợ ông mang bạo bệnh qua đời, hai con - Nghĩa và Diễm còn bé quá chưa kịp nhận biết nỗi đau cốt nhục phân ly. Ngoại và dì ôm hai cháu vào lòng nức nở. Cậu Ba lặng lẽ chui vào xó nhà, ngồi thổn thức không thành tiếng. Chỉ mỗi mình anh Trung là kêu gào khóc lóc đòi mẹ. Ba được tin báo, từ vùng hành quân vội vã trở về để kịp nhìn mặt và tiễn đưa người trăm năm về nơi an nghỉ cuối cùng. Sau đám tang, nhà buồn như nấm mồ. Ba âu sầu đau đớn, mặt mày còn đọng đầy dấu vết bàng hoàng ngơ ngác trước cái chết tức tưởi, đột ngột của vợ hiền. Ông ở nhà với các con đủ mười hôm phép rồi lại lên đường ra mặt trận.
Niềm đau chưa nguôi thì những biến động dồn dập của thời cuộc không cho phép gia đình có thời gian để bi lụy. Nỗi âu lo hiện rõ trên khuôn mặt mọi người. Thành phố biển quê ngoại ngập tràn các sắc áo lính và dân từ các nơi chạy giặc đến. Mấy tháng qua ba vẫn biền biệt, chỉ gởi tin nhắn về bình an. Những đoàn quân xa chở súng đạn, chở lính chạy đi chạy về như mắc cửi. Ngoài khơi thấp thoáng bóng tàu Hải Quân lớn bé rải rác. Chưa bao giờ người dân ở đây sống căng thẳng đến như thế. Không khí chiến tranh hãi hùng dầu sôi lửa bỏng đang sùng sục trước mắt. Quân đội dàn trận khắp nơi, trên bộ dưới biển để chống kẻ thù xâm lăng phương Bắc đang lăm le tiến chiếm thủ đô Sài Gòn. Thế rồi vào một đêm tháng Tư, súng lớn súng nhỏ bỗng thi nhau nổ vang rền. Bầu trời chợt bừng sáng lên bởi những ánh hỏa châu treo lơ lửng và không gian Vũng Tàu bé nhỏ như bị đan dày những tấm lưới lửa. Cả nhà đang kinh hoàng thì Ba và một số quân nhân, nón sắt áo giáp lấm bụi đường xa, trên mình mang đầy súng đạn, đi trên mấy chiếc xe nhà binh lem luốc, bất ngờ xuất hiện. Họ đưa cả gia đình lên xe chở về hướng Bãi Sau. Nơi đây Nghĩa đã thấy có vài đứa bé trai gái cùng trang lứa. Ba tìm gặp mấy người sĩ quan Hải quân nói chuyện gì đó rồi quay lại với gia đình. Ông chỉ kịp trao túi lương thực và dặn dò cậu, dì lo cho ngoại với các cháu. Ba trầm tĩnh nói:
- Mẹ và hai em yên tâm đưa các cháu lên tàu di tản trước. Con trở lại đơn vị và sẽ đi sau.
Dặn rồi ông ôm ba con thơ vào lòng, âu yếm hôn từng đứa. Lát sau, ông lẳng lặng quay đi, dẫn đám lính bước lên xe về lại đơn vị, tiếp tục cuộc chiến đấu chống kẻ thù vừa tấn công vào thành phố, trước khi con tàu quay đầu chạy ra khơi. Cả nhà bật khóc. Ngoại kêu tên ba khản tiếng nhưng tất cả bị át đi bởi những âm động vang rền dữ dội của tiếng súng đại bác. Mọi người được các chú lính Hải Quân đưa hết xuống tàu. Một đêm kinh hoàng và hỗn loạn đau thương. Bình minh hôm sau tàu nhổ neo, trực chỉ hướng ra phía biển khơi.
Gần tháng sau cả nhà mới gặp lại ba tại căn cứ Không quân Hoa Kỳ trên đảo Hawaii. Trông ba già sọm và trở nên biếng nói nhác cười, trầm tư tự bao giờ. Mọi người mừng vui không sao kể xiết. Ngoại chấp tay, cúi đầu tạ ơn trời. Chiến tranh vốn vô tình, đã có bao gia đình vĩnh viễn mất đi người thân khi sắp tàn cuộc.
Sau đó chúng tôi được đưa đến Mỹ định cư với tư cách tỵ nạn chính trị. Thời gian kế tiếp là chuỗi năm tháng dài đăng đẳng đầy phiền muộn, buồn đau của những con người vừa đánh mất tổ quốc, phải sống lìa xa quê hương với mặc cảm thua cuộc dằn vặt và nỗi cô đơn chán chường trên mảnh đất tạm dung. Anh em Nghĩa thương nhớ mẹ hiền chỉ qua tấm di ảnh trên bàn thờ và biết về mẹ qua ký ức của ngoại và dì Út. Ngoài ra, trong mắt mấy đứa bé mồ côi, chỉ có duy nhất tình yêu thương của người cha với tất cả nỗi đằm thắm, ngọt ngào riêng dành cho chúng tôi.
3- Người Việt ra đi tỵ nạn cộng sản mỗi ngày một đông. Cộng đồng ngày càng khởi sắc lớn mạnh. Lác đác đã có chuyện dạm hỏi cưới xin. Một hôm ngoại đi dự tiệc cưới của gia đình người quen, khi về nhà ngoại ôm chúng tôi vào lòng, vẻ mặt có chiều suy nghĩ lung lắm rồi chợt bà gọi ba đến, ngoại bảo:
- Mấy đứa cháu còn bé quá mà tuổi đời của con cũng chưa hẳn đã già lắm, mẹ nghĩ là con nên tục huyền để có người giúp đỡ chăm lo các cháu.
Một thoáng buồn bất chợt hiện ra trong khóe mắt ba nhưng tan biến thật mau. Giọng ông tỉnh queo:
- Mẹ đừng lo. Các cháu đã có bà ngoại và dì Út chăm sóc chu đáo rồi, vả lại...
Ngoại tằng hắng ngắt lời ba:
- Thằng ba con út rồi cũng phải lấy vợ lấy chồng, ra sống riêng. Mẹ thì càng ngày càng già. Dẫu sao con cũng cần phải có một người đàn bà để đỡ đần, săn sóc cho cuộc đời của con nữa chứ.
- Mẹ quên là con đã có một người rồi sao.
Vừa nói ba vừa chỉ tay lên bàn thờ má. Ba đùa mà sao giọng ướt sũng nỗi xót đau nghẹn ngào, trong lúc ngoại cúi đầu quay đi để kịp dấu đôi dòng lệ thương cảm đứa con rể chung tình, sống đời đơn chiếc, chịu cảnh gà trống nuôi con hằng bao năm rồi.
Ba không tu hành mà tự nguyện kìm giữ, tiết chế tối đa những quyến rũ sắc dục. Ông sống như một nhà tu đạo hạnh, tự khép mình vào khuôn khổ giới luật khắt khe. Ngoài thời gian làm việc hai job ở hãng, trở về nhà ba chỉ quanh quẩn bên các con, chăm sóc từng miếng ăn, bày biểu từng con toán, từng chữ đánh vần ý tứ, để đừng bao giờ đám con trẻ quên mất tiếng mẹ đẻ. Lớn dần lên trong vòng tay chăm chút giáo huấn của cha, các con biết thêm được sự thiêng liêng của tình yêu quê hương, thế nào là nỗi nhục mất nước lưu vong và đạo lý nghĩa nhân trong cõi đời mênh mang hận thù nầy. Ông sợ đến thế hệ các con sẽ phôi phai dần hết đi, nên ông dạy các con đạo làm người đừng bao giờ quên cội nguồn, tổ tông. Suốt mười mấy năm dài đăng đẳng trên xứ người, trong tâm hồn các con chỉ có độc nhất mỗi một hình ảnh cao quý của người cha, lặng lẽ mà ngọt ngào, âm thầm mà son sắc. Ông như cây phong, lá chuyển màu theo từng thời gian đổi thay, giống như mái tóc bạc trên đầu của ba, mà thân cây thì vẫn lừng lững thẳng đứng, giữ nguyên được cái cốt cách thanh cao, bền bỉ giữa phong ba bão giông cuộc đời. Anh em Nghĩa chưa hề bao giờ thấy ba than van nửa lời. Ông câm nín chịu đựng, chấp nhận số phận như một an bài định mệnh. Ba âm thầm sống như một chiếc bóng cô đơn. Thảng hoặc lắm, họ mới thấy ba và cậu ngồi nhâm nhi bên cốc rượu trong những ngày cúngl giỗ. Bửa nhậu ê hề những món ngon do tự tay ngoại và dì nấu ra nhưng bao giờ cũng lặng lẽ vắng tiếng nói cười, ngược lại có khi còn rưng rưng những giọt nước mắt bi thương buồn tủi. Hình như hai người đàn ông đang ngồi uống những giọt buồn quá khứ chứa đựng nhiều hồi tưởng xót xa hơn là thưởng thức rượu ngon. Men cay 75, họ chỉ nhấm nháp một lần mà cơn say kéo dài hằng mấy mươi năm vẫn còn làm họ váng vất, cơ hồ chưa tỉnh. Không biết trong cuộc đời trai trẻ của người chiến binh Việt Nam Cộng Hòa năm xưa đã có bao nhiêu lần ba ngồi như thế, tư lự một mình với những hồi ức dĩ vãng thâm trầm và day dứt? Dần theo với thời gian, hình ảnh cao cả mà lắng đọng đó đã từ lâu thâm nhập vào tâm thức của anh em Nghĩa, làm họ suy nghĩ băn khoăn không ít. Mãi nhiều năm tháng về sau nầy, khi đã trưởng thành, họ mới hiểu và cảm nhận được phần nào mối tâm tình sâu lắng và hoài niệm đau khổ thầm kín của người lính già phiền muộn.
Ngày tháng lặng lẽ trôi qua, rồi cậu Ba có vợ dọn ra ở riêng và dì Út cũng đã đi theo chồng. Tiếp theo anh Trung tốt nghiệp đại học và có công việc làm ăn khấm khá ở thành phố Philadelphia tận miền Bắc. Năm kế, anh lập gia đình với người nữ đồng sự ở bên đó. Hai năm sau Nghĩa tốt nghiệp cử nhân kinh tế, được tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc tại sở thuế tiểu bang Maryland. Ðến phiên Nghĩa phải rời xa mái ấm gia đình. Cảnh nhà vắng vẻ dần, chỉ còn chơ vơ lại bà ngoại, ba và bé út. Không nói ra nhưng ai cũng thấy buồn, tuy cậu và dì vẫn thường xuyên chạy đi chạy về, nhưng vẫn không thể nào giống được như xưa.
4- Khắc kỷ và trầm tư đến thế mà ngay sau khi nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cho phép người chạy đi nước ngoài được quyền trở về thăm quê hương, thì ba đã có mặt lập tức trong chuyến về đầu tiên, sau thời gian mười bốn năm lìa xa tổ quốc. Ba bảo với gia đình là ông đã mòn mỏi chờ đợi giờ phút đó từ lâu lắm rồi.
Sau ngày trở qua lại Mỹ, tâm tình ba đã có nhiều
chuyển biến lớn lao. Ông không còn ủ ê sầu muộn như trước nữa, mà trở nên vui vẻ khác thường. Chúng tôi nghĩ, có thể sau chuyến về thăm quê hương đã giúp ba hồi phục lại trạng thái tâm lý bất ổn, vơi bớt nỗi cô đơn đau buồn và vui sống trở lại. Chúng tôi nhìn ba với ánh mắt chan hòa niềm vui.
Từ đó ông chịu khó để ý mua sắm nhiều thứ như quần áo, giày dép, đồ gia dụng thậm chí cả nước hoa, mỹ phẩm nữa kìa. Thỉnh thoảng còn gởi tiền về Việt Nam. Ba bắt đầu xài đến số tiền dành dụm để lo cho Dung khi vào đại học, có tiền chi trả các khoản phí tổn học hành, sách vở, xe cộ... tốn kém. Ðó là phần tài sản ba đã nhọc nhằn đổ mồ hôi, vất vả làm lụng hằng bao nhiêu năm mới tích lũy nên được. Chúng tôi tự hỏi ba đã gởi quà cho ai? Ba mồ côi từ tấm bé. Gia đình ngoại thì ở hết bên nầy rồi. Câu hỏi cứ lớn dần theo với thời gian mà việc làm của ba thì vẫn còn nằm trong bí mật. Ba cũng chưa hề có một lời giải thích, vì chủ quan tin rằng chưa ai biết được việc làm bí ẩn của ông. Tuy không dám nghi ngờ ba có tình riêng, nhưng quả thật chúng tôi không làm sao không suy nghĩ đến điều đó. Riêng ngoại, cậu và dì út thì sâu sắc hơn, họ nhìn ba với ánh mắt có chút hoài nghi thầm kín, nhưng ai cũng im lặng không chịu nói gì.
Thế rồi đến năm sau ba lại chuẩn bị về Việt Nam chuyến nữa. Tất cả đã sẵn sàng thì thình lình ba ngã bệnh nặng. Một cái bướu nhỏ xuất hiện dưới hàm bên trái gây đau nhức và tăng trưởng rất mau. Ðến bệnh viện, sau khi rút ra một ít dịch thể và bệnh phẩm của bướu để làm xét nghiệm, các bác sĩ kết luận rằng đó là khối u ác tính, nghĩa là một cái bướu ung thư, cần phải hủy diệt gấp bằng phương pháp chemo therapy hiện đại để tránh lây lan qua các tế bào lành khác, đe dọa nguy hiểm đến tính mạng. Cách chữa trị nầy rất hiệu quả nếu sức khỏe bệnh nhân chịu đựng được các dược liệu, hóa chất cần thiết phải đưa vào cơ thể để tiêu diệt mầm ung thư.
Không còn giải pháp nào khác, ba đành hoãn lại chuyến về VN. Ông đánh giá được tầm mức quan trọng tử sinh của phương pháp trị liệu mới mẻ nầy, do đó, trước khi vào bệnh viện để tiến hành điều trị, ba đã gọi các con về dặn dò mấy điều quan trọng. Ba lo xa, nhỡ không may có điều gì bất trắc xảy ra. Con người sinh hữu hạn tử vô kỳ, mấy ai biết trước được mệnh trời.
5- Trong phòng khách ấm áp, cả nhà quây quần đông đủ. Ba mời bà ngoại và cậu, dì ngồi rồi xin phép bắt đầu câu chuyện với chúng tôi.
Ba bảo rằng, sống đến tuổi nầy rồi ông không có điều gì để ân hận nếu không may phải xa lìa các con ra đi vì căn bệnh hiểm nghèo. Cuộc đời của ba đã cố gắng thực hiện những điều tốt đẹp có thể làm. Ðã nuôi dạy các con nên người, không xấu hổ với linh hồn của mẹ; Đã một đời tận tụy với tổ quốc dân tộc, không trái đạo lý làm trai thời loạn; Đã sống trọn vẹn thủy chung với bằng hữu và những người thân thuộc. Tất cả những gì ba làm, đã giúp ông tìm được sự thanh thản tâm hồn trong chuỗi ngày lưu vong xa quê hương và tìm được niềm an vui hạnh phúc bên các con đã trưởng thành. Duy chỉ còn một điều độc nhất ...
Giọng ba bỗng chùng xuống, run run xót xa. Khuôn mặt người lính già lớn lên trên quê hương có chiều dài lịch sử với nhiều biến động thăng trầm, rất hiếm hoi tìm thấy chút thời gian riêng tư hạnh phúc, nhưng lại dư thừa nhọc nhằn cay đắng ly tan, chợt hằn sâu những vết nhăn dấu tích một thời mịt mùng lửa đạn. Ðôi mắt lờ đờ mệt mỏi của người bệnh hình như ứa ra chút ngấn lệ thương đau. Ba nghẹn ngào tiếp lời:
- Năm xưa ba đã phát nguyện một lời hứa, hay đúng hơn là một lời thề với một người đã khuất, nhưng mãi đến hôm nay ba vẫn chưa thực hiện được cho gia đình họ một chút gì gọi là bù đắp tấm ân tình sâu nặng.
Câu chuyện của người lính trận trong cuộc chiến chính nghĩa, bảo vệ mảnh đất tự do thân yêu và đồng bào miền Nam ruột thịt, đã đưa mọi người trở về quê hương của năm tháng tang tóc, rền vang tiếng bom đạn chiến tranh hận thù ...
Chiếc trực thăng chở trả ra mặt trận vị sĩ quan trẻ, mang mảnh khăn tang cho người vợ hiền vừa mới qua đời. Anh tiếp tục ra đi chiến đấu, làm nhiệm vụ người trai thời loạn, gởi lại quê nhà ba đứa con còn bé dại. Thượng cấp và đồng đội ai cũng nhìn anh với ánh mắt thương cảm lẫn kính phục.
Vị Lữ đoàn trưởng sau khi ân cần hỏi han và tỏ lời chia buồn với Khải xong, ông lập tức chỉ vào bản đồ, trình bày cặn kẻ tình hình khó khăn của tiểu đoàn Khải vấp phải mấy hôm nay, khi bị chạm địch trong một địa thế rất phức tạp, hiểm trở. Ông dặn dò anh phải hết sức thận trọng và thường xuyên liên lạc để kịp thời yểm trợ cho đơn vị được an toàn. Sau một hồi thảo luận, vị chỉ huy lữ đoàn khả kính thân ái tiễn chân Khải ra tận trực thăng về lại tiểu đoàn.
... Ðã một tuần lễ nay, chiến trường luôn căng thẳng và đẫm máu. Tiếng súng lớn nhỏ rền vang ngày đêm khắp trận địa như bất tận. Tiểu đoàn Khải lãnh nhiệm vụ hành quân tiếp ứng, cứu nguy một đơn vị bạn đang bị địch vây hãm nhiều ngày. Là một cấp chỉ huy tác chiến dày dạn kinh nghiệm trận mạc, Khải nhanh chóng nhận ra tiểu đoàn đang bị dồn vào một vị trí quá ư bất lợi. Thế núi dốc đứng từ trên cao tiếp giáp ngay với bờ sông chạy dài mấy cây số nằm phía dưới chân núi. Lòng sông tuy hẹp, thuận lợi cho việc tổ chức vượt sông nhưng phía bên kia là rừng lau sậy um tùm, nếu địch quân phục kích trên triền núi, thì chiến sĩ tiểu đoàn khi qua sông sẽ là những tấm bia thịt cho địch tập bắn và nguy hiểm hơn nữa là chờ khi đơn vị qua hết bên kia sông, địch tập trung đánh hỏa công, thì rừng lau sậy sẽ biến thành biển lửa thiêu sống đoàn quân thiện chiến. Nhìn địa thế quá ư hiểm ác, song không thể có sự chọn lựa nào khác hơn là phải tiến quân, chứ không thể nằm yên một chỗ chờ chết. Khải suy nghĩ rồi gọi tiểu đoàn phó và trưởng ban Ba đến hội ý. Chiều hôm đó, anh dùng kế nghi binh để lừa địch phán đoán sai về kế hoạch hành quân của mình. Khải tung hai đại đội áp dụng chiến thuật “dương Ðông kích Tây”. Một ÐÐ tiến về hướng chân núi, ra lệnh cho binh sĩ bắn súng và khua động ầm ĩ làm như sắp tấn công lên núi để thu hút sự quan sát của địch. Một ÐÐ khác âm thầm lục soát và im lìm nằm án ngữ an ninh bên nầy sông, để cánh quân B gồm hai ÐÐ còn lại do vị tiểu đoàn phó chỉ huy, bất ngờ tổ chức vượt sông khi trời mờ tối. May mắn thay kế hoạch thành công. Cánh B qua sông an toàn và binh sĩ lập tức được lệnh bung rộng ra, chia nhau kiểm soát được một vùng lau sậy rộng lớn, làm đầu cầu yểm trợ an toàn cho Bộ chỉ huy của Khải và cánh quân A sẽ vượt sông vào tảng sáng hôm sau.
Suốt đêm hôm đó Khải nằm trằn trọc, lo lắng không làm sao ngũ được dù anh rất mệt. Ðêm tĩnh lặng chỉ có tiếng gió thổi, tiếng côn trùng nỉ non. Khải biết chung quanh đây có nhiều chiến sĩ và đông đúc địch quân rình rập. Nằm thao thức trên cánh võng mắc thật thấp sát mặt đất, kề bên hố cá nhân, anh nghe rõ tiếng thủy triều dâng nước cuồn cuộn, lòng thầm mong trời mau sáng. Cuộc đời những người chiến binh như các anh ví cho cùng cũng chẳng bằng được dòng sông nầy, bình an với hai con nước lớn, ròng cố định hàng ngày. Riêng với anh, số phần còn cay nghiệt hơn, cả hai vai gánh nặng, một của Tổ quốc và một của trách nhiệm làm cha. Khải thở dài. Phải chi người vợ hiền đừng đoản mệnh, còn sống để san sẻ cùng anh gánh nặng gia đình. Nhớ đến vợ, lòng Khải bỗng quặn thắt. Hình ảnh người đàn bà nhu mì, hiền thục như chập chờn ẩn hiện trước mắt anh mỗi lúc một rõ ràng hơn. Nàng đi đến đứng bên cánh võng, một tay lay gọi vai anh, một tay chỉ về hướng doi cát cạnh bờ sông, bảo anh mau thức giấc. Thấy vợ, Khải mừng rỡ chống tay ngồi dậy, nhưng thân thể anh như bại liệt bất động, không làm sao ngồi lên được. Anh thử cố gắng nhiều lần nhưng vô ích. Lát sau nàng nhìn anh, mặt buồn rười rượi rồi buông tay, thất thểu quay bước đi về hướng doi cát. Hình ảnh nàng mờ dần rồi tan biến trong màn sương đục của sông núi, cùng lúc có tiếng gọi thảng thốt “ông thầy, ông thầy” của người hiệu thính viên, vực Khải ra khỏi giấc mơ hoang tưởng. Khải ngồi bậy dậy, anh ngơ ngác nhìn quanh. Tứ bề vẫn yên tĩnh, cái im lặng rờn rợn trước cơn bão lửa sắp giáng xuống. Khải bần thần nhớ lại giấc mơ rồi tự hỏi: “mình đâu có ngũ mà bảo là nằm mơ”. Anh đưa mắt nhìn về phía bờ sông, hướng vợ anh vừa mới đi đến. Chiều hôm qua Khải đã lội dọc theo bờ sông để tìm địa điểm cho đơn vị vượt sông, nhưng có thấy doi cát nào đâu. Hay sắp xảy ra điều gì bất ổn nên vợ hiền mới hiện về báo mộng. Tự dưng bụng anh nóng cồn cào như có lửa đốt. Khải đứng dậy bảo người sĩ quan phụ tá gọi con cái của hai đại đội còn nằm lại án ngữ bên nầy sông, lợi dụng lúc trời còn tối chuẩn bị lên đường.
5 giờ sáng, toán quân tiền phong gồm những chiến sĩ lội giỏi, trang bị nhẹ, bắt đầu xuống nước. Lòng sông hẹp khoảng 30 mét, mặt nước mờ hơi sương giăng phủ và may mắn nhất là thời điểm con nước đang rút dần, chỉ còn cao ngang thắt lưng. Ðợi toán quân mở đường kéo theo những sợi dây bắt ngang dòng sông, đã qua đến bờ bên kia an toàn, Ðại đội trưởng Hùng ra lệnh cho các trung đội tuần tự xuất phát vượt sông, rồi anh bước xuống nước cùng với Khải và Bộ Chỉ huy tiểu đoàn tiến lên. Trước lúc quay đi, Khải còn cẩn thận dặn vói lại đại đội sau cùng nằm đoạn hậu cho tiểu đoàn, phải nhanh chóng rút qua sông trước khi trời sáng hẳn.
6 giờ sáng. Vầng đông vừa hừng chút ánh sáng le lói ở góc chân trời, Khải vừa cảm nhận ra cái lạnh buốt của nước sông thấm qua chiếc quần trận, thì bất ngờ hàng loạt tiếng nổ chát chúa của đạn AK, B40, thượng liên từ trên sườn núi dội lửa ầm ầm xuống lòng sông. Tiếng kêu la nháo nhác, hoảng loạn. Có ai đó vừa xô ngã Khải xuống, rồi nằm đè lên lưng che chắn cho anh, bên tai tiếng đạn réo rợn người. Hỏa lực địch tới tấp đổ bừa xuống cả một khúc sông dài. Chúng bắn hú họa nhưng cũng đã có một số chiến sĩ bị thương vong. Chợt như có một sức mạnh thần bí bỗng kéo Khải bật dậy, chạy ngược thật nhanh trở lên bờ và bất ngờ anh nhìn thấy một doi cát nhỏ nằm gồ lên vừa đủ che chở an toàn cho mọi người. Không kịp suy nghĩ về điều kỳ lạ, anh chụp máy gọi lữ đoàn xin máy bay yểm trợ và điều động chiến sĩ đơn vị phản công tiến chiếm sườn núi, trong lúc tiếng súng cối của cánh quân B bên kia bờ sông, đang tới tấp rót đạn xuống triền dốc, nơi địch quân ẩn núp. Ruột gan Khải như bị cấu xé khi nhìn thấy thuộc hạ kẻ chết người bị thương la liệt, đang kêu gào giãy giụa tuyệt vọng dưới nước, chỉ cách chổ Khải chừng 20 mét mà anh đành chịu bó tay không cứu giúp gì được. Ðại đội trưởng Hùng nằm đè lên trên, lấy thân che đạn cho Khải, bên mông trái bị một mảnh B40 phá nát, anh cố gắng lết lên bờ cát ướt. Khải hét lớn gọi Hùng:
- Cố lên Hùng, cố lên. Có anh đến đây.
Rồi bất chấp hiểm nguy, Khải liều lĩnh lao ra. Hai chiếc bóng rằn ri phóng liền theo sau, nhưng hàng tràng đạn nổ cày tung mặt đất khiến cả ba bật dội lại. Người sĩ quan ban Ba nắm cứng bâu áo Khải hét lớn:
- Không được đâu thẩm quyền, đừng liều lĩnh.
Khi Hùng cố gắng đứng lên, lại bị thêm một phát đạn thứ hai đẩy anh té sấp xuống mặt cát lần nữa, chiếc nón sắt văng ra nằm lăn lóc bên cạnh. Hùng chống tay cố ngồi dậy nhưng kiệt sức đành phải gục xuống. Rồi trong khoảng cách 20 mét, rất gần để có thể nhìn thấy rõ nét mặt Hùng tuy đau đớn nhưng rất trầm tĩnh, trầm tĩnh đến lạ thường. Anh ngồi nghiêng, một chân co một chân duỗi, tay trái ôm vết thương loang máu trên ngực, tay phải Hùng cầm cây Colt 45 đưa lên vẫy chào chiến hữu, đôi mắt anh rực sáng, khuôn cằm bỗng đanh lại cương quyết, rồi bất ngờ anh trở nòng súng thật nhanh vào thái dương và bóp cò. Giữa muôn ngàn tiếng nổ của các loại súng từ cả hai phía bạn và thù, mọi người vẫn nghe rõ mồn một tiếng súng đĩnh đạc, lẻ loi, tự kết liễu đời mình của Hùng. Nhiều tiếng kêu thảng thốt đau đớn bật ra từ cửa miệng những đồng đội đã tận mắt chứng kiến cái chết bi hùng của người đại đội trưởng anh dũng. Hùng biết mình bị thương nặng khó thể sống nỗi, nên quyết định tự sát để dành lại sinh mạng cho những đồng đội khác, có thể vì mạo hiểm cứu anh sẽ phải hy sinh oan uổng. Thân xác Hùng đổ nghiêng nằm bất động trên cát. Máu anh tuôn chảy thành dòng, hòa chung với máu của những chiến binh bất hạnh khác, quyện lẫn vào dòng nước trong xanh, tạo nên một màu đỏ thật đặc biệt. Màu của chiến tranh, hận thù, tang tóc và phân ly.
Khải đau đớn gào lên, đập tay xuống mặt cát còn ướt lạnh sương đêm, rên xiết kêu trời. Nước mắt anh ứa ra tuôn thành dòng bi phẫn. Còn nỗi thống khổ nào hơn khi phải tận mắt chứng kiến cái chết của người chiến hữu thân yêu, đã hy sinh mạng sống để che chở cho mình được an lành. Nỗi đau đớn cùng cực cào xé tâm can, biến thành nỗi uất hận, bốc cháy hừng hực trong đôi mắt đỏ ngầu, rực lửa căm hờn, khiến Khải tê dại chết điếng, không khóc nỗi thành lời. Tất cả chỉ còn lại hận thù phải trả bằng máu. Anh giật combiné trên tay người hiệu thính, hối hả gọi Hỏa Long phải trút sấm sét tiêu diệt kẻ thù. Chưa đầy mười phút sau, một phi tuần AC.119 lượn tới bao vùng, khạc từng dây đạn lửa khủng khiếp như bò rống xuống đầu địch quân. Tiếp theo một chiếc F105 xuất hiện, thả ngay vào vị trí chỉ điểm một quả bom lửa Napal. Không gian như chao đảo sau tiếng nổ long trời lở đất. Khói lửa văng ra tứ tán, không khí bị đè nén ngột ngạt, sức nóng như thiêu cháy mọi thứ, tất cả cùng lúc đổ ập xuống sườn núi, hủy diệt đám người cuồng tín sinh Bắc tử Nam, chuyên đi gây họa chết chóc và gieo rắc tang thương đến với mọi nơi, mọi người.
Kết thúc trận đánh. Khải chọn bộ đồ trận tốt nhất của mình, tự tay anh mặc cho Hùng và lau sạch các vết máu trên khuôn mặt phong trần vẫn còn phảng phất nét hào hoa, trước khi gói xác Hùng vào poncho. Lúc cột theo tấm thẻ bài, Khải lẩm bẩm trong miệng như tâm sự với một người em thân thích, không may vừa nằm xuống sau cuộc chơi sinh tử: “Hãy yên giấc đi Hùng. Mọi chuyện gia đình của em, ngày nào còn sống anh hứa sẽ gánh vác tất cả để đền ơn cứu mạng. Hùng ơi! hãy bình an ngủ yên giấc đi em.”
Khi đoàn trực thăng vận chuyển thương binh và tử sĩ cất cánh, các quân nhân trong tiểu đoàn tự động cùng đứng nghiêm, đưa tay chào vĩnh biệt lần cuối. Khải ngậm ngùi dõi mắt nhìn theo những cánh chim sắt đang bay về phương Ðông, mang theo thân xác những chiến hữu thân yêu vừa trả xong nợ nước, trong đó có người sĩ quan trẻ tuổi đã anh dũng hy sinh cứu mạng Khải. Lòng anh buồn rười rượi, Khải như thấy có trách nhiệm đối với cái chết của người đại đội trưởng thuộc cấp. Ðứng giữa trời đất mông lung, Khải tâm nguyện lập một lời thề sắt son có núi sông chứng giám: “Nếu ngày nào còn sống trên cõi đời nầy, anh quyết tận sức tận tâm chu toàn lo cho đời sống của vợ con Hùng được hạnh phúc để đền ơn sâu cứu tử.”
Ba đột nhiên ngừng lời. Ông trầm ngâm nhìn ra khoảng trời thu hẹp bên ngoài khung cửa sổ như để hoài niệm quá khứ đau thương. Bóng tối lan dần, che khuất vạt nắng chiều thoi thóp trên mấy ngọn cây phong. Từng đàn chim ríu rít gọi nhau sau vườn. Ðôi mắt ba mệt mỏi đau khổ, ông thở dài buồn bã rồi tâm sự:
- Ba đã vĩnh biệt người ân nhân cứu mạng mình bên dòng sông định mệnh kể từ đó. Thế rồi cuộc chiến khốc liệt cứ cuốn hút bước chân người chiến sĩ, không có được một ngày phép rảng rang để ghé về thăm vợ con Hùng. Tuy nhiên trước khi Sài Gòn thất thủ, một lần may mắn duy nhất trên đường chuyển quân, ba đã cố gắng tạt qua nhà của Hùng, thắp cho chú nén nhang và tự nhắc lại lòng phải nhớ lời thề xưa, rồi trao vội món quà cho hai đứa con còn bé của Hùng, một trai một gái, ba vội vã lên đường để kịp theo chân đoàn quân ứng chiến ...
Giọng ba khàn đục, chìm xuống mênh mang tựa như tiếng vọng về từ quá khứ. Ông nói với các con mà như tâm sự với chính mình:
- Cứ những tưởng còn súng đạn trên tay, còn đầy đủ các chiến hữu bên cạnh, còn vùng đất điểm tựa cuối cùng của miền Tây phì nhiêu, sông rạch hiểm yếu chập chùng nối tiếp là còn khả năng tiếp tục chiến đấu, còn hy vọng có ngày trở lại thủ đô Sài Gòn. Ai ngờ... tất cả đều sụp đổ. Từ đó, lời thề ngày xưa cũng luân lạc theo vận nước nổi trôi, rơi rụng theo năm tháng truân chuyên của thân phận tha hương, kiếp đời vong quốc. Lòng ba mãi ray rức ân hận, cứ nghĩ rằng cuộc đời nầy chẳng bao giờ thực hiện được lời hứa năm xưa với người ân nhân nghĩa dũng bên dòng sông định mệnh. Thế nhưng một ngày, may mắn trời còn đoái thương cho ba có cơ hội trở về quê hương để bắt đầu thực hiện điều tâm nguyện.
Rồi như đến lúc cần thiết phải vét cạn cả cõi lòng, dàn trải hết trăm mối tâm sự ngổn ngang, để các con có thể hiểu được tấm lòng cưu mang của đời mình:
- Về Việt Nam ba đã dành hết thời gian, lặn lội nhiều ngày, hỏi han nhiều người mới tìm gặp được vợ con chú Hùng. Gia đình họ bây giờ cơ hàn lắm, sống chui rúc trong một căn phòng ổ chuột mãi tuốt trên tầng mười của khu chung cư cũ kỷ. Những món quà ba chắt chiu gởi về chỉ vỏn vẹn là chút phần thưởng nhỏ bé dành cho hai cháu học trò con nhà nghèo nhưng ngoan hiền, thực tế chưa giúp gì được nhiều cho đời sống họ. Cứ tưởng có thời gian thư thả, ba sẽ tìm cách cải thiện đời sống họ bớt phần cơ cực, nhất là với hai cháu, không những cho chúng học hành thành đạt trong nước mà còn có thể xuất dương du học nữa kìa. Nào ngờ ...
Ba bỏ lửng câu nói. Vầng trán hằn sâu những nếp nhăn thời gian của con người cả đời lao đao lận đận. Giọng ông trầm xuống, thiết tha như phơi bày, dàn trải cả tấm lòng:
- “Lực bất tòng tâm”. Ngày nay thân mang trọng bệnh, ba biết là không thể nào tiếp tục làm tròn lời hứa với người đã khuất, đó là điều tủi nhục, xấu hổ. Ba cho gọi các con về sớm trước ngày ba nhập viện, chính là để kể cho các con biết câu chuyện thương tâm nầy và khẩn khoản nhờ các con cố gắng giúp ba, tiếp tục thực hiện lời thề năm xưa nếu không may ba có mệnh hệ nào trong lần chửa trị nầy. Ba muốn lòng mình được thanh thản dầu sống hay chết, để mai nầy khi xuống suối vàng gặp lại đứa đàn em dũng cảm, nghĩa tình năm xưa, ba cũng không thấy có điều gì hổ thẹn.
Phòng khách yên tĩnh như tờ, chỉ có âm thanh rì rầm đều đều của máy điều hòa và tiếng sụt sùi của ngoại, dì Út và Dung. Mọi người lặng lẽ cúi đầu trầm mặc xót xa trước câu chuyện quá đỗi bi thương. Thế mà bấy lâu nay họ lại đem lòng nghi kỵ việc làm đạo nghĩa của người lính già, trọn đời luôn xem trọng danh dự, lời hứa còn hơn cả của cải tiền bạc và sự an nguy bản thân mình. Sự thật ba không hề có tình riêng, ông vẫn một lòng chung thủy với người vợ hiền đã khuất. Thì ra trên cõi đời nầy chỉ có mỗi mình mẹ là hiểu rõ và tin tưởng ba nhất mực, nên dầu thân xác đã tan vữa thành cát bụi mà hồn mẹ vẫn còn vật vờ theo ba phù hộ, dẫn lối chỉ đường cho ông thoát họa tử vong trong đường tơ kẻ tóc.
Cánh cửa căn phòng khách đang khép hờ bỗng mở toang, gió từ đâu lồng lộng ùa vào tưởng như có linh hồn mẹ phảng phất theo về, lẩn quất quanh đây.
6- Anh em Nghĩa nhìn người cha thân yêu ngồi im lìm, bất động trên chiếc ghế sô-pha, như đang thiền định bình an giữa giang sơn của mình. Thân xác ông gầy gò ốm yếu, đôi mắt mỏi mệt ẩn giấu bên trong những điều thầm kín, đã không còn vẻ tinh anh của ngày xa xưa, khuôn mặt xương xẩu trầm tư như một chiếc bóng hiu hắt... tất cả đã điểm nhiều vết nhăn phong trần phôi pha của thời gian, nhưng vẫn không thể che lấp cốt cách lương chính của con người nhân hậu, thủy chung. Họ nhìn người cha như phảng phất hình ảnh một nhà hiền triết đạo đức, biết rõ cội nguồn đau khổ của nhân loại và muốn được cùng chia sẻ. Ông có tâm hồn quảng đại của nhà tu đạo trên con đường khai hóa, giải thoát và tiêu trừ nghiệp chướng, dẫn độ chúng sanh đến cõi hạnh phúc.
Anh em Nghĩa bồi hồi xúc động nhìn sự hiện hữu héo mòn của cha. Qua câu chuyện kể của ông, họ thầm nghĩ: “Giữa cõi đời ô trọc nầy há dễ gì tìm được một tâm hồn cao quý giống như cha”. Chính vì thế họ thấy cần thiết phải có bổn phận tích cực giúp đỡ ông sớm thành toàn lời nguyện thề của một buổi sáng oan khiên bên dòng sông định mệnh năm nào trên quê hương cội nguồn./-
TiênSha-LêLuyến
Virginia, ngày Lập Ðông 2005
(Xin đọc tiếp phần B - Nỗi lòng người lính già)