PDA

View Full Version : Đổi tên ...Đổi đời .



loibangTQLC
09-13-2009, 07:51 AM
Đổi Tên Đổi Đời


Phan Hạnh

Thành có dịp quen biết anh ta lần đầu tiên gần bốn mươi mươi năm trước, thời gian mà trên thế giới này còn có một quốc gia mang tên VNCH với một quân lực vô cùng bận rộn trong sứ mạng chống giặc giữ nước. Anh ta có mấy điểm rất đặc biệt khiến cho Thành bắt nhớ mãi. Những nét đặc biệt đó tưởng đâu đã chìm dần vào nguội lạnh với thời gian, nhưng rồi do một sự tình cờ, chúng lại được lôi lên trong đống kho tàng ký ức, hâm nóng lại, và hiện ra trên màn ảnh não của Thành.
Điểm đặc biệt đầu tiên ở nơi anh là cái tên. Lần đầu tiên nhìn thấy cái tên đó trên tờ Lệnh Thuyên Chuyển của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, Thành đã giật mình vì nó gợi sự liên tưởng đến một ông thần ác ôn nào đó ở dưới nước mà trẻ con tắm sông đều sợ. Thành tò mò nao nức muốn xem mặt mày của anh ta ra sao. Đến khi trông thấy anh, Thành thở phào an tâm vì hình thù của anh không giống như Thành đã nghĩ, nghĩa là anh cũng bình thường như mọi người chứ không có gì gớm ghiếc đáng sợ cả. Anh ta chỉ hơi xấu trai dưới mức trung bình. Mặt của anh ta xương, răng bịt vàng hai cái, mắt ti hí và xếch, nước da ngâm và bóng nhẫy mồ hôi, dáng gầy nhưng khỏe. Bộ đồ trận hơi rộng anh mặc trên người không hợp với anh chút nào. Nó không làm cho anh oai nghiêm thêm lên mà có khi còn làm cho anh mất tự nhiên. Điều đó chứng tỏ việc trở thành một người lính không làm cho anh hãnh diện. Nói khác hơn, anh là một người lính bất đắc dĩ. Nhưng điệu bộ nhanh nhẹn và tài ăn nói biết đẩy đưa của anh đã cứu gỡ cho khuyết điểm thể chất.
Trước đó, vào buổi sáng hôm ấy, Thành vào văn phòng của ban phân phối tân binh trình sự vụ lệnh để đón nhận cho đơn vị bốn chàng binh nhì vừa xong một khóa căn bản quân sự ba tháng. Ông thượng sĩ phụ trách dò danh sách một lúc, xong trịnh trọng dùng một cây thước gỗ và bút nguyên tử đỏ gạch tên bốn người thật ngay thẳng. Ông nhướng mắt lật một xấp lệnh thuyên chuyển để trên bàn, vừa lẩm nhẩm tên đơn vị của Thành; xong ông rút ra một tờ đưa cho Thành và nói:
- Ký tên vô đây rồi theo ông trung sĩ nầy ra ngoài kia nhận.
Thành chào ông thượng sĩ già mang kính lão xệ sống mũi rồi theo một ông trung sĩ ít già hơn ra sân, nơi có một đám tân binh đang đứng dưới nắng trưa mà vẫn cười nói ồn ào, mỗi người cạnh túi quân trang của mình. Không khí nhộn nhịp của quân trường làm cho Thành cảm thấy nao nao hồi tưởng lại sáu năm trước đó, Thành cũng là một tân binh hai mươi tuổi yêu thích nếp sống kỷ luật. Ông trung sĩ bảo đám đông yên lặng rồi lần lượt đọc lớn:
- Trần Văn Hai! Dương Cam Muội! Trịnh Kiều Phước! Hà Thủ Bá!
Một chàng tân binh ngổ ngáo trong hàng nói lớn:
- Hổng phải đâu trung sĩ ơi! Tên của nó là Hà Bá Thủ Dâm đó!
Cả đám cười rầm. Bá giả bộ vung tay mắng chửi chúng bạn nhưng cũng cười theo một cách vui vẻ. Cứ xét qua phản ứng của đám đông, Thành cũng biết Bá là mẫu người có nhiều bạn. Anh ta xách túi quân trang lên bước ra khỏi hàng. Tiếng léo nhéo của một anh nào đó trong hàng đuổi theo:
- Hà Bá lên bờ rồi!
Trong số bốn người vừa được xướng tên và bước đến bên Thành, Bá trông lớn tuổi nhất và có vẻ còn lớn hơn cả Thành nữa. Thành liếc nhanh lệnh thuyên chuyển để xem kỹ lại số quân của anh ta thì rõ ràng hai số đầu là 62, có nghĩa là anh ta trong hạng tuổi của những người sinh năm 1942. Nếu quả thật như giấy tờ đã ghi thì Bá phải lớn hơn Thành hai tuổi. Như vậy có nghĩa là 28 tuổi anh ta mới vào lính. Thành không nghĩ hắn tự động đút đầu vào. Chỉ có cách giải thích hợp lý còn lại là hắn bị bắt vào lính sau một thời gian dài tám năm trốn tránh quân dịch. Thời bấy giờ có một số thanh niên người Việt gốc Hoa giàu có trốn qua Hồng Kông. Có người thoát lọt, có người bị kẹt và bị bắt dẫn độ trở về Việt Nam. Thà họ trốn ra ngoại quốc còn hơn trốn vào rừng theo Việt cộng. Mà người Việt gốc Hoa thì không thể có bất cứ một lý do gì để theo Việt cộng cả ngoài trừ lén cung cấp hàng lậu cho chúng để làm giàu.
Thành bắt tay từng người và tự giới thiệu, nói tên đơn vị cho họ biết, xong mời bọn họ xách túi quân trang theo Thành lại chỗ đậu xe. Anh chàng Bá bạo dạn hơn hết, đi gần bên Thành rồi chỉ cái phù hiệu may trên tay áo bên trái của Thành hỏi:
- Phù hiệu của đơn vị đây hả thượng sĩ? Đơn vị nầy ở đâu vậy? Em chắc nó ở Saigon, phải hôn thượng sĩ?
Thành dừng lại, nhìn anh ta và nói:
- Anh Bá à. Cấp bậc của tôi là trung sĩ nhứt chớ không phải thượng sĩ. Vậy anh đừng kêu tôi là thượng sĩ làm tôi ngượng lắm. Anh cũng đừng xưng "em" với tôi, hay với bất cứ ai khác trong quân đội hết, dù người đó có cấp bậc cao hơn anh nhưng nhỏ tuổi hơn anh. Anh lớn hơn tôi hai tuổi mà!
- Dạ. Trung sĩ sanh năm bốn mấy?
- Tôi sanh năm bốn bốn.
- Dạ đúng. Xin lỗi, trung sĩ bỏ qua cho.
- Anh biết như vậy là tốt. Các anh leo lên xe nầy rồi mình về!
Thành có cái tật gặp người nào ăn nói khéo quá, anh đâm khớp và lúng túng. Nhiều khi người ta thật lòng khen, nhưng Thành vẫn thấy ngượng như thường. Hà Bá ăn nói đưa đẩy như vậy có khi đã trở thành thói quen, anh ta nói một cách tự nhiên không ngượng miệng. Sau sáu năm mặc áo lính phục vụ hai đơn vị, một huấn luyện, một tham mưu, Thành từng gặp những người như hắn: tâng bốc để mưu cầu tư lợi. Có người vì tư lợi mà thay đổi cá tính, không còn giữ được phẩm cách, liêm sĩ và nhuệ khí. Phần lớn khác thì chấp nhận thái độ bàng quan, ba phải, nín thở qua sông.
Thành thấy trong số bốn tân binh có nghề chuyên môn được về phục vụ đơn vị thì đã có ba người Việt gốc Hoa. Không phải Thành kỳ thị họ. Thành chỉ ngần ngại, vì dư luận thường cho rằng họ giỏi hối lộ. Sau nầy có dịp kiểm chứng lại, Thành nhận thấy chỉ có Bá là không bị nghi oan. Trần văn Hai là con nhà nghèo, có tật nói lắp, là tay nghề vẽ biểu ngữ với một nét cọ sắc sảo, rất cần thiết cho đơn vị, không thể có điều kiện hối lộ chạy chọt, mà việc đó cũng không cần thiết. Dương Cam Muội là thợ điện; Trịnh Kiều Phước là thợ ống nước; cả hai đều chuyên nghiệp, tuy nói tiếng Việt không sõi nhưng siêng năng cần cù, tính tình ngay thẳng. Đôi lần Thành gạ chuyện hỏi thăm thì hai anh đều tỏ vẽ bất mãn vì lâu lâu lại bị mấy ông lớn trong đơn vị sai làm việc riêng nơi tư gia của các ông ấy, một hình thức thâm lạm của công. Còn lại có mỗi anh chàng Hà Thủ Bá. Anh ta khai chuyên môn thợ hồ. Nhưng khi xem lại bảng cấp số của đơn vị, Thành chẳng thấy ám số chuyên nghiệm quân sự của thợ hồ đâu cả. Đơn vị cũng chẳng có nhu cầu về xây cất hoặc tu sửa doanh trại. Như thế Hà Thủ Bá rõ ràng là một anh lính kiểng.
Đôi khi Thành cũng trào lộng tự ví mình là một tên lính kiểng. Ý Thành chỉ muốn nói mình là một người lính văn phòng, không trực tiếp tác chiến. Gặp bạn đi đánh trận về phép Saigon, Thành mặc cảm với chúng nó. Nhưng biết làm thế nào bây giờ khi mà Thành tình nguyện đi Lực Lượng Ðặc Biệt trong ngày tốt nghiệp nhưng bị từ chối vì lý do sức khỏe. Thấy lính ma, lính kiểng, lính con ông cháu cha, Thành cũng biết bất mãn. Một tập thể phức tạp như quân đội với nhu cầu phát triển cấp bách dĩ nhiên có những bất công. Bất công gây bất mãn. Bị gọi nhập ngũ theo lệnh động viên, không ai có thể biết trước được là khi tốt nghiệp ra trường, mình sẽ đi đâu, về đơn vị nào, văn phòng hay tác chiến. Sự kiện Thành làm một người lính văn phòng không phải là do Thành quyết định mà do sự bổ nhiệm của Bộ Tổng Tham Mưu tùy theo khả năng của người lính và tùy theo nhu cầu của quân đội.
Theo như Thành biết, đơn vị của Thành còn có cả một anh lính ma. Anh ta là con của một bà chủ nhiệm của một lượt mấy tờ báo lớn ở Saigon. Anh ta có tên trong đơn vị nhưng mỗi tuần chỉ vào đơn vị một lần để biếu một đống báo cho các xếp lớn trong đơn vị. Một điều rõ rệt để nhận ra hai anh chàng lính một ma một kiểng nầy là, cả hai anh đều đi xế hộp. Một anh chạy chiếc Citroen hai ngựa, anh kia chạy chiếc Datsun loại "pick-up" có mui và băng ghế biến cải.
Trở lại cái ngày đầu tiên Thành gặp Hà Bá, ngồi trên xe và trên đường về, mặc dầu ngồi ở phía sau của chiếc 4x4, Bá thò đầu qua tấm bạt hỏi Thành:
- Trung sĩ ơi! Trời nóng nực quá, trung sĩ cho ghé vô cái quán nào, anh em mình uống nước chơi, trung sĩ.
Thành chưa kịp trả lời, cả đám đã cùng nhao lên tán đồng lời yêu cầu đó của Bá, kể cả anh tài xế là hạ sĩ Chính. Thấy cũng đã đến giờ ăn trưa, Thành chịu. Cả bọn sáu người vào một cái quán ăn trưa. Hà Bá cười xuề xòa:
- Trung sĩ chịu chơi quá. Anh em tui cám ơn lắm. Trung sĩ uống gì, bia nghen?
- Các anh cứ tự nhiên, tôi làm một ly trà đá được rồi.
- Anh em muốn ăn mừng ngày về đơn vị mới. Trung sĩ chung vui với anh em chút thôi mà.
- Ừ! Cũng được!
Bọn Thành kêu mỗi đứa một dĩa cơm sườn bì chả với mấy chai bia con cọp. Trong bữa ăn, ai cũng vui. Bá điều tra gia cảnh Thành bằng câu hỏi chận đầu bốc thơm:
- Trắng trẽo đẹp trai như trung sĩ chắc là có vợ rồi, phải hôn?
Hạ sĩ Chính tài xế thèo lẽo đáp vừa thật vừa đùa:
- Một vợ hai con, đào vài cô không kể!
Hà Bá cho biết hắn cũng có một vợ ba con, gia đình khá giả ở Thủ Đức, có tiệm tạp hóa gần chợ. Bá hỏi quê Thành tỉnh nào, Thành nói Mỹ Tho, vợ gốc Biên Hòa. Bá cũng mừng rỡ nói vợ Bá là người Việt, cũng gốc Biên Hòa. Bá còn mời có dịp nào, Thành tới nhà Bá chơi cho biết.
Tưởng đâu nói chơi vậy thôi, không ngờ về sau Thành có dịp gặp gia đình của Bá thật. Về đơn vị lông nhông làm những công việc tạp dịch một thời gian, Bá chán, bèn nhờ Thành giúp làm đơn xin đi học khóa huấn luyện tài xế quân xa. Chuyện quá dễ, vì Thành là Trưởng Ban Quân Số, Phòng Nhân Viên của đơn vị, chuyên môn thảo mọi văn thư như sự vụ lệnh, lệnh thuyên chuyển, đề nghị thuyên chuyển, đề nghị thăng cấp, đề nghị bổ sung quân số, phúc trình, quyết định, sự vụ văn thư, báo cáo quân số. Thật ra, Thành chỉ dựa theo đúng các mẫu văn thư đã có sẵn mà thôi, cũng như ngày nay người ta xài nhu liệu "Office Manager" của Microsoft có sẵn đủ loại mẫu văn thư vậy.
Lấy được cái bằng lái quân xa xong, Bá khoái lắm. Từ nay, Bá được giao cho trách nhiệm lái và bảo trì một chiếc GMC của đơn vị. Thành biết, với tài chạy chọt móc nối, và với phương tiện chở hàng trong tay, Bá khoái là phải, chẳng khác nào như trúng áp phe.
Một bữa Thứ Sáu nọ, Bá gặp Thành và ngỏ ý muốn rủ Thành Chủ Nhựt đi Vũng Tàu chơi bằng xe nhà của Bá. Thấy Thành chần chừ e ngại, Bá bảo:
- Trung sĩ ngại gì. Tôi chở gia đình đi tắm biển hóng gió, sẵn cho vợ tui đi cúng tượng Phật nằm mới xây. Trung sĩ đi theo chơi cho vui.
Chủ Nhựt đến, Thành lái xe Honda vô đơn vị bỏ đó, leo lên chiếc Datsun của Bá đi Thủ Đức. Gặp vợ Bá, Thành ngạc nhiên quá. Vợ hắn đẹp một cách thanh thoát quý phái bên cạnh hắn eo xèo phàm tục. Để xem nào, năm 1970, Bá 28 tuổi, vợ hắn chỉ khoảng 24 là cùng. Bá giới thiệu. Vợ Bá tên Xinh, tên xứng với người, xinh như mộng, miệng cười thật tươi, răng đều, da mịn, hai má và môi hồng tự nhiên, thân hình cân đối trong y phục áo cộc quần tây. Vợ chồng Bá chỉ dắt theo hai đứa con lớn năm với ba tuổi. Đứa con gái út mười mấy tháng ở nhà với bà nội. Thành ngồi phía trước với Bá, vợ Bá ngồi phía sau với hai đứa con trai.
Trong câu chuyện trên đường đi, Thành có hỏi hai anh chị gặp nhau trong trường hợp nào thì vợ Bá từ phía sau lẹ làng kể hết:
- Em đâu có muốn gặp ảnh hồi nào đâu. Hồi đó em có người yêu sắp sửa phải ra Nha Trang học khóa sĩ quan hải quân, ảnh lấy vespa chở em đi Saigon chơi, ghé vô quán trong chợ Thủ Đức ăn nem và tâm sự chia tay. Ông Bá nhậu với bạn gần đó say rồi kiếm chuyện dàn cảnh làm hư xe vespa của người ta; xong rồi còn làm bộ ra tay nghĩa hiệp chở giùm ảnh với em về nhà. Khi người yêu của em đã đi Nha Trang rồi, ông Bá lên Biên Hòa theo đuổi quấy phá em hoài, lại còn hăm dọa người yêu của em. Ổng nói hải quân mà gặp Hà Bá thì nguy lắm đó! Ồng nói ổng làm ẩu tại vì ổng thương em quá.
Bá cười khoái trá hỏi vợ:
- Hồi đó em ghét anh nhưng mà bây giờ em thương anh rồi phải hôn?
Hắn cười lên đắc chí và bị vợ mắng yêu: "Đúng là đồ thiên lôi hà bá!" Thì ra Bá đã chiếm đoạt Xinh từ tay kẻ khác. Và đó cũng là điểm đặc biệt thứ hai của anh ta.
Ra đến bãi biển Ô Quắn, bọn Thành thay đồ tắm xuống nước vẫy vùng. Bá hãnh diện ra mặt khi thấy mọi cặp mắt của đàn ông đều đổ dồn về thân hình hấp dẫn của vợ hắn, trong đó có cả cặp mắt của Thành, tuy chỉ nhìn một cách vụng trộm. Ai ngắm mặc ai, Xinh cứ tự nhiên nằm phơi núi của trên cát hoặc chạy nhảy nô đùa với hai đứa con của mình. Nếu nói Bá không ghen thì không đúng. Hắn ghen ngầm. Hắn khéo che đậy cái ghen của một người chồng có nhiều tự ái đàn ông. Hắn khoe vợ đẹp để chứng tỏ mình là một người đàn ông có giá trị, có quyền lực và có khả năng thu hút phái nữ. Miễn là hắn bao giờ cũng là sở hữu chủ duy nhứt của Xinh, ai trầm trồ ngắm nghía chiêm ngưỡng mặc ai. Hắn coi Xinh như là món hàng quảng cáo cho hắn, cũng giống như một ông bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ dùng vợ hoa hậu quảng cáo cho tay nghề cao cấp của mình.
Một ngày đi chơi Vũng Tàu vui thú rồi cũng qua. Bá ghé nhà ở Thủ Đức bỏ vợ con xuống, xong vào đơn vị, Thành với hắn chia tay. Anh ta ở lại Saigon đêm hôm đó, nói là để giải quyết vài công việc riêng trong họ hàng bà con.
Cái đặc biệt thứ ba của hắn là sự đòi đổi họ đột ngột. Một bữa nọ, gần tới giờ nghỉ trưa, Bá tìm gặp Thành, mời Thành xuống câu lạc bộ cùng ăn cơm.
Theo lệ thường, buổi trưa Thành hay xách xe chạy về ăn cơm nhà. Nhà Thành ở sát vách nhà cha mẹ trong cư xá. Hai nhà ăn cơm chung, do mẹ Thành nấu. Cơm do chính tay mẹ nấu là nhất, lúc nào cũng ngon. Cơm nước xong cũng vừa đến giờ để quay trở vào sở. Hôm nào lười về nhà, Thành ở lại ăn cơm câu lạc bộ cũng vui, có thì giờ chơi banh điện "pin ball" hoặc đá banh bàn, không thích chơi thì leo lên bàn giấy đọc sách, lim dim tơ lơ mơ hay chợp mắt một lúc.
Quất sạch dĩa cơm, Bá vừa xỉa răng vừa nói chuyện về vụ đổi họ. Hắn bảo:
- Trung sĩ à. Tui thấy cái tên của tui cứ bị người ta chọc quê hoài nghe kỳ quá. Với lại vì cái vấn đề hưởng gia tài gặp rắc rối cho nên tui muốn đổi họ. Tui chỉ nhờ trung sĩ viết mấy cái đơn giùm thôi, mấy chuyện khác tui lo được.
Bá nhờ Thành làm đủ thứ đơn từ để xin đổi lấy họ mẹ là họ Tô. Thành làm đơn viết tay, hắn chỉ việc ký tên và đi vận động. Chữ nghĩa không rành, thế mà hắn lo đâu được đấy, cửa nào vô cũng lọt. Sau hai tháng, Hà Thủ Bá đã trở thành Tô Thủ Bá, cả ba đứa con của Bá là Hối Đại, Thất Cự và Cung Hằng cũng đổi họ luôn.
Sau đó một thời gian, Xinh vào đơn vị tìm Bá. Lần nầy trông Xinh còn lộng lẫy hơn trước với y phục ủi thẳng nếp và tóc gọn gàng, mặt lại có trang điểm phơn phớt một ít phấn son, chân đi giầy cao gót. Tuy nhiên nét mặt của nàng trông có vẻ nghiêm trang hơn chứ không vui tươi trẻ con như trước. Xinh đứng ở trước cửa nhà trực chờ chồng. Sự xuất hiện của cô nàng như có sức hút. Từ các phòng khối dài theo hành lang hai tầng của doanh trại. nhiều bóng người lấp ló nhìn. Mấy chục cô nữ huấn đạo và nữ quân nhân trong đơn vị vốn chỉ mặc đồng phục một màu xanh và xám tẻ nhạt cũng chỉ chỏ bàn tán xôn xao. Xinh và chiếc Toyota của nàng trở thành một cuộc triển lãm bất ngờ. Mọi người thắc mắc hỏi nhau nàng là ai. Bỗng dưng nhiều chàng quân nhân đang làm việc thi nhau khát nước. Họ giả vờ xuống câu lạc bộ hoặc cần ra nhà trực có việc, nhưng thực ra là để có dịp nhìn nàng gần hơn. Mấy anh chàng cố vấn Mỹ từ nãy giờ ngồi trong phòng làm việc có máy lạnh đóng kín cửa bây giờ cũng túa ra đứng tựa lan can ngắm thoải mái. Có anh bạo hơn, huýt sáo miệng tỉnh bơ.
Vừa lúc ấy Bá lái xe cam nhông đi công tác trở về. Hai vợ chồng Bá đứng bên nhau trò chuyện, sự không tương xứng của hai người càng làm cho thiên hạ trố mắt ngạc nhiên xì xào.Thật ít ai ngờ một anh chàng binh nhất tài xế trong đơn vị lại có vợ đẹp và giàu như vậy. Nhưng cái giàu dường như chỉ làm cho Tô Bá eo xèo thêm, thân hình càng choắt lại. Trong con người của Bá phải chứa đựng một sức khỏe tiềm tàng, vì anh ta lúc nào cũng làm việc không biết mệt.
Một năm sau nữa, Thành rời đơn vị trong trại Lê Văn Duyệt vì được thuyên chuyển về Khối Sưu Tầm của Bộ Quốc Phòng. Thỉnh thoảng, Thành về thăm đơn vị cũ, nhờ thế mới hay tin dữ. Xinh chết thảm khốc trong một tai nạn trên xa lộ Biên Hòa. Xe của Xinh và một xe vận tải hạng nặng của quân đội Mỹ đụng nhau gần căn cứ Long Bình. Bạn bè của Thành trong đơn vị cũ kể rằng vợ chết mà binh nhất Bá cứ tỉnh bơ. Hắn sang lại tiệm tạp hóa cho người khác, nhưng vẫn xông xáo đầu tắt mặt tối lo chạy áp phe như trước. Dứt hạn quân dịch, Bá được giải ngũ. Điều đó không khó đối với Bá vì hắn vốn là vua chạy chọt, một điểm đặc biệt khác của Bá nữa.
Những tưởng như thế là sự quen biết giữa Thành và Bá đã chấm dứt, không ngờ hai người còn gặp lại.
Năm nọ, vợ chồng Thành từ Toronto đi Florida để thăm gia đình một đứa con gái. Xuống phi trường Orlando, vợ chồng Thành được thằng rể xách xe ra đón. Trên đường về nhà, Thành hỏi qua loa cho có chuyện, đại khái như việc làm của nó ở hãng dạo nầy ra sao, có thoải mái không, có làm việc chung với người đồng hương nào không. Nghe Thành hỏi câu đó, thằng rể như chợt nhớ ra một điều gì quan trọng. Nó hỏi Thành một cách sốt sắng:
- À! Hồi ba còn làm ở cái Cục gì đó trong trại Lê Văn Duyệt, ba có biết ông trung úy nào tên Tô Thủ Bá không?
Vừa nghe nói đến cái tên Tô Thủ Bá là Thành như bị điện giựt. Thành hỏi lại:
- Trung úy Tô Thủ Bá? Chẳng lẽ có người trùng tên? Vô lý! Phải ông ta là người Việt gốc Hoa không? Đen đen ốm ốm?
- Ổng người Việt gốc Hoa, nhưng không đen mà cũng không ốm.
- Ổng nói với con ổng là trung úy hả?
- Đúng.
- Ba chỉ biết Tô Thủ Bá có ba đứa con hai trai một gái.
Tôi định nói rằng tôi chỉ quen biết có một Tô Thủ Bá binh nhứt, nhưng nghĩ sao, tôi ngưng kịp. Thằng con rể tiếp:
- Ông nầy cũng có với vợ trước ba đứa con, hai trai một gái, nhưng tụi nó lớn ra riêng hết rồi. Bây giờ ổng đang ở với bà vợ sau. Bả đẹp lắm đó ba!
- Con có gặp bả rồi hả?
- Có. Rất nhiều lần. Con với ổng làm chung department mà. Ồng bả khoái con lắm! Rủ con lại nhà chơi hoài hà! Để chiều mai con dắt ba đi lại nhà ổng bả chơi.
Chiều hôm sau, thằng rể Thành gọi điện thoại trước cho bạn nó rồi chở Thành đến nhà ông ta. Vợ Thành ở nhà nói chuyện với con gái và nựng cháu ngoại. Xe chạy qua cổng chính bằng gạch với hai lối xe chạy chiều ra chiều vào riêng biệt được ngăn ở giữa bằng một doi đảo thon dài trồng hoa đủ màu phủ kín tận đường viềng xi măng. Trên bức tường thấp trước đảo, một hàng chữ nổi Oakridge Estate bằng đồng sáng choang bệ vệ nằm một cách kiêu hãnh có đèn chôn dưới bãi cỏ chiếu lên. Chiếc xe chầm chậm lăn bánh ở vận tốc giới hạn hai mươi dậm một giờ để vào một khu nhà sang trọng có kiến trúc mang nét Y pha nho. Mái ngói đỏ nổi bậc trên tường trắng, nhà nhiều kiểu khác nhau nằm so le trên mấy lối đường vòng chạy quanh một cái hồ nho nhỏ cạnh một khóm rừng thưa. Một đàn gà tây lửng thửng nơi mé rừng, cạnh đó hai con cò trắng đang thư thả tìm mồi nơi vũng cạn ven hồ. Xe rẻ vào driveway ngôi nhà số 3303 hai tầng với cửa chính có vòm cao hình vòng cung, trước sân trồng hai cây gồi đang trĩu buồng hoa cau màu ngà, dưới gốc là những bụi lá gai hình rẽ quạt. Ðức, thằng rể của Thành, bấm chuông cửa. Thành chờ gặp một người với tâm trạng hồi hộp như lần đi nhận tân binh mấy mươi năm trước.
Cánh cửa vừa lạch cạch mở ra thì đã có tiếng một người đàn ông hớn hở reo lên:
- A! Đức! Khỏe hả em? Còn ai đây sao thấy quen quen.
Đức giới thiệu, tự xưng tên mình theo thói quen thường thấy của bọn trẻ lớn lên nơi xứ người:
- Đây là ba vợ của Đức. Còn đây là anh Bá làm chung với con đó ba. Ba có quen ổng không?
- Quen! Quen lắm!
Thành bắt tay Bá trong khi anh ta nhìn Thành ngờ ngợ. Lần đầu tiên Thành thấy con người Bá lộ vẻ bối rối. Phải chăng Thành đã thay đổi nhiều đến nỗi Bá nhận không ra. Hay là Bá sợ Thành làm bể mánh vì anh ta đã lỡ đóng vai một cựu trung úy với Đức và những người bạn đồng sở. Vì thế, Thành nói ngay:
- Trung úy nhớ tôi không? Trung sĩ Thành ở CCH Trại Lê Văn Duyệt đây. Người đi đón trung úy ở Quang Trung đó.
Bá ôm vai Thành đi vào vừa thấp giọng xuống:
- Chết! Chết! Trung sĩ đừng nhắc! Đừng nói gì với vợ tôi nha!
- Anh Bá đừng lo. Chuyện nầy riêng chỉ có mình tôi biết thôi.
Bá đã thay đổi, có da có thịt hơn, nước da nhả nắng và bớt sạm, thân hình trông sạch sẽ tươm tất hơn trước nhiều. Tóc Bá nhuộm đen đều, sấy chải gọn ghẽ. Hai cái răng vàng đã đi chỗ khác chơi, khiến cho nét anh chị đã biến mất trên khuôn mặt. Bá bây giờ trông sang cả hẳn ra, đồng hồ, quần áo rất hợp thời trang. Thành mừng thầm cho hắn đã may mắn thay đổi trong chiều hướng tốt. Chẳng bù với Thành chỉ có đi xuống với mái tóc bạc phơ, mắt đeo kính lão, những đốm đồi mồi như trăm hoa đua nở trên khắp mặt mũi. Chưa chi Thành đã già trước tuổi, đi đứng chậm chạp, dáng điệu hom hem. Bằng chứng là Thành không còn dám lái xe suốt hai mươi tiếng đồng hồ từ Toronto xuống Florida như mọi năm nữa. Đức hỏi Bá:
- Chị có nhà không anh?
- Có em, mới tức thì đây mà. Em ơi! Có Đức tới chơi nè!
Một phụ nữ khoảng bốn mươi tuổi bước ra. Đức kêu lên mừng rỡ:
- Chị Ngân. Đây là ba vợ của em ở Toronto mới qua chơi.
Lại một phen nữa Thành kinh ngạc. Bà vợ mới của Bá trẻ hơn anh ta ít ra cũng gần hai chục tuổi, cũng đẹp không thua gì cô vợ trước. Anh chàng nầy thật là khéo lựa vợ. Dù đã già, anh ta vẫn có thể chinh phục phái nữ trẻ đẹp. Có điều bây giờ Thành cũng đã già, trái tim đã nguội lạnh sau hai mươi mấy năm sống nơi xứ tuyết Canada, cho nên Thành không còn cảm thấy một xao động ngẩn ngơ trước nét diễm kiều của một phụ nữ trẻ đẹp nữa. Thành tò mò muốn cập nhật hóa tin tức về cái anh chàng Tô Thủ Bá nầy hơn. Đợi khi Đức đã theo chị Ngân vào phòng ăn ngồi gọt trái cây ăn với nhau, Thành nhìn qua một lượt khắp nhà rồi nói với Bá:
- Lâu ngày gặp lại, thấy anh sung túc hạnh phúc như vầy, tôi xin mừng cho anh.
Bá đọc thấy sự thán phục của Thành trước cảnh nhà giàu sang của anh ta nên rạng rỡ trở lại và khéo léo khoe:
- Nhà nầy mới cất chưa đầy hai năm, giá cũng chỉ có hai trăm rưỡi hà anh. Mua cho bà xã vui thôi mà, chớ tôi thì ở chỗ nào cũng được không thành vấn đề.
Rồi Bá nghiêng đầu về phía Thành nói nhỏ giọng hơn:
- Lỡ nói mình là cựu sĩ quan qua đây từ bảy lăm tới giờ mà lèng xèng quá, người ta cười chết!
Thành nói:
- Tôi lại nghĩ khác. Anh không cần phải xưng là cựu sĩ quan làm gì. Anh cứ nói thiệt hồi đó anh chỉ là một binh nhì, binh nhứt, chừng đó người ta chưa chắc tin anh. Mà nếu như người ta tin thì người ta còn phục anh nhiều hơn nữa vì ngày nay anh đã thăng tiến vượt bực, cựu sĩ quan mấy ai đã được như anh.
- Trung sĩ nói vậy chớ người Việt mình hay coi trọng cái bề ngoài, bằng cấp và địa vị lắm đó. Mình mà không tự đưa mình lên cho bằng với thiên hạ thì thiên hạ coi thường không thèm chơi. Nhứt là con gái ai cũng muốn có chồng sĩ quan. Tôi nói bằng chính kinh nghiệm bản thân đó. Tôi mà nói tôi binh nhì, sức mấy mà tôi cua được bà vợ nầy. Vậy chớ hồi đó tới giờ, trung sĩ không thăng cấp sao?
- Có chớ! Sau khi thuyên chuyển về Bộ Quốc Phòng, tôi đã được thăng cấp thượng sĩ.
- Anh Thành à! Anh nói như vậy càng làm cho tôi cảm thấy mắc cỡ đó! Hồi đó trong đơn vị ai mà hổng biết anh có bằng cấp mà không thèm đi học sĩ quan. Đời thiệt là ngộ. Người có thì không muốn; người muốn thì không có. Nhưng tôi đã lỡ nói với vợ tôi và mấy đứa trong hãng tôi là sĩ quan, bây giờ nói lại, tụi nó cười chết.
- Anh yên chí đi. Tôi sẽ không nói với ai cái quá khứ thật của anh đâu. À, anh Bá. Khi chị Xinh mất, tôi có hay tin nhưng không được gặp anh để chia buồn. Một lần khác tôi về thăm đơn vị cũ thì anh đã giải ngũ. Từ dạo đó đến nay anh trôi nổi ra sao mà bây giờ ở đây?
Bá thở dài trầm ngâm, gương mặt cùng lúc biểu lộ nhiều cảm xúc không vui. Bá cau mày, mím môi, híp mắt. Dường như anh ta vừa bị chạm trúng một vết thương lòng. Hắn kể:
- Nói thiệt với anh Thành nha. Con vợ trước của tôi nó chết là tại vì tôi trù ẻo nó đó. Nó mà không bị xe nhà binh của Mỹ đụng chết thì cũng có ngày tôi bỏ nó!
Nghe Bá kể, Thành không khỏi lấy làm sững sốt. Thành ngầm hiểu chữ "bỏ" của Bá còn có nghĩa là "giết". Bá thấy Thành im lặng nên tiếp lời:
- Anh Thành nghĩ coi. Mình lo làm ăn vất vả cho nó sướng thân, vậy mà nó còn ngoại tình. Nó tiếp tục lén lút gặp thằng bồ cũ, cái thằng thiếu úy hải quân Hà Bá vật cũng không chết!
Thành sợ hắn có vợ đẹp quá rồi đâm ra ghen mù quáng nghi oan cho vợ nên Thành hỏi Bá:
- Anh có biết chắc không?
Câu hỏi của Thành dường như có tác dụng chọc giận, Bá vung tay nói:
- Thì chính thằng em ruột của tui thấy mà! Nó thấy thằng thiếu úy hải quân trời đánh đó xách vespa tới chợ Thủ Đức ngồi chỗ cái quán cũ. Con Xinh ra đó gặp nó ngồi ăn nem xong rồi chở nhau đi. Anh thấy chưa? Tui chỉ có ăn cơm sườn bì chả thôi, còn con vợ tui nó ăn nem ngoại tình!
Thấy ông thần Hà Bá dưới nước dường như đã nhập Hà Bá trên bờ rồi, Thành vội vàng khuyên can:
- Thôi anh Bá à. Chuyện buồn đã qua rồi, anh hãy cố quên đi.
Thành cố tình lái câu chuyện qua đề tài khác:
- Còn ba đứa con của anh ra sao?
- Tụi nó có gia đình hết rồi, đứa vợ Mỹ, đứa vợ Tàu, đứa chồng Lào. Đứa ở bang nầy, đứa ở bang nọ, có khi cả năm không gặp đứa nào!
- Nhưng mà anh qua đây hồi nào?
- Sau khi Xinh bị tai nạn chết rồi, tụi Mỹ có cử người tới nhà tui để bồi thường một số tiền mặt kha khá. Có một ông đại úy Mỹ tên Johnson hỏi tui có muốn ông ta giúp cho ba đứa con tui đi Mỹ không. Tui nói tui còn kẹt lính. Đến khi tui giải ngũ rồi tui lại không muốn đi Mỹ. Ông Johnson nói chừng nào tui thay đổi ý kiến và muốn đi Mỹ thì hãy liên lạc với tòa đại sứ Mỹ, người ta sẽ giúp cho vì tên của tui đã có trong hồ sơ. Tới giữa tháng Tư năm 75 tui thấy ghê quá mới chạy lại tòa đại sứ Mỹ xin đi. Qua tới trại tạm cư Mỹ rồi thì liên lạc được với ông Johnson. Ổng là...là “mây dơ”, mà tiếng Việt kêu là ông thị trưởng đó. Ổng mới bảo lãnh gia đình tui. Ồng làm thị trương của một cái town nhỏ xíu hà, chỉ có mấy trăm người dân, ở tiểu bang Missouri đó. Ở đó buồn muốn chết hà! Mà tức cười lắm đó, anh biết hôn. Hồi bốn cha con tui tới, ông thị trưởng giăng một tấm banner chào mừng tụi tui đó. Bữa hôm sau dân làng bu lại nghe ông thị trưởng đọc diễn văn, tui nghe ổng nói tiếng Việt một câu tôi hết hồn luôn. Anh biết ổng nói câu gì hôn?
- Câu gì?
- Ổng muốn nói "Chào mừng Tô Thứ Bá, Tô Hối Đại, Tô Thất Cự, và Tô Cung Hằng", nhưng vì ổng nói theo kiểu tiếng Mỹ cái tên để ở đàng trước, cái họ để ở đàng sau, và nói bỏ dấu lộn xộn, cho nên bốn cha con tôi nghe rõ ràng là "Welcome Ba Thu To, Dai Hoi To, Cu That To and Hang Cung To!" Nghe ổng nói như vậy, tôi nghĩ lại phải dè hồi đó tôi đừng có đổi họ. Thà là Hà Bá còn hơn. Phải hôn anh Thành?
Đấy, bạn thấy chưa, anh ta có những cái đặc biệt như vậy thì làm sao người quen cũ quên cho được!

Phan Hạnh Toronto.