PDA

View Full Version : Phi Đoàn THẦN TƯỢNG - GIỜ THỨ 25



Thuyduong
08-13-2009, 01:17 AM
Phi Đoàn THẦN TƯỢNG - GIỜ THỨ 25

Vĩnh Hiếu

Thành kính nghiêng mình tưởng niệm đến phi hành đoàn AC-119 cùng các chiến sĩ VNCH đã anh dũng hy sinh tính mạng cho Tổ Quốc trong giờ phút thứ 25 của đất nước.
Bài viết này ghi lại một chuyến bay định mệnh sau hơn 30 năm rời quê hương. Tôi xin gủi đến tất cả các vị chiến hữu niên trưởng và các bạn để chia sẻ một kinh nghiệm đã qua trong giây phút cuối cùng của cuộc chiến.
Tất cả được viết lại từ vị thế của tôi dưới một góc độ nhỏ hẹp và đã qua bao năm tháng trí nhớ lu mờ nên có thể nhiều chi tiết không được chính xác. Nếu có gì sơ sót thì mong các vị niên trưởng cũng như các bạn có mặt trong cuộc hành trình này thông cảm.
Xin thành thật cám ơn.

29 tháng 4/75 - Phi truờng Tân Sơn Nhất

Khoảng mười giờ sáng, chiếc xe Ford pick-up bắt đầu lăn bánh chở ba phi hành đoàn trực thăng võ trang phi đoàn 215 ra bãi đậu trong một phi vụ yểm trợ vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất. Tất cả phi hành đoàn nhận chỉ thị thì hành phi vụ này như bao nhiêu phi vụ khác nhưng không thể ngờ đây là một chuyến bay định mệnh sẽ có ảnh hưởng lớn đến cho sự sống còn của nhiều nhân viên phi hành của phi đoàn Thần tượng.

Tôi và Tr/u Sơn ngồi ép sát nhau trên băng xe trước, băng sau là bốn hoa tiêu khác, mỗi người ôm chặt lấy túi bay để trên đùi, không ai nói với ai một lời. Trên khuôn mặt trầm tư của mọi người hiện lên nét mệt mỏi sau những ngày tháng căng thẳng và một đêm không ngủ vì trận pháo kích ào ạt vào căn cứ hôm qua.

Người trung sĩ tài xế chăm chú nhìn mặt đường lác đác những miểng đạn pháo, trên khuôn mặt gầy guộc hiện lên một nét sầu muộn và lo lắng. Mỗi khi nghe tiếng pháo kích "oành"..., anh giật mình co rút người lại như để tránh những mảnh đạn vô hình đang rít lên trong bầu không khí căng thẳng sáng hôm nay. Chắc hẳn anh ta ngạc nhiên không hiểu tại sao trong giờ phút phi trường gần như đã bõ ngõ lại có những phi vụ kỳ lạ này.

Dọc theo hai bên đường dẫn ra sân đậu trực thăng là những bãi đất trống đầy cỏ dại cao chạy dài ra vòng rào kẻm gai phòng thủ, khoảng chừng vài ba trăm mét lại có một công sự chiến đấu chồng chất những bao cát cũ kỹ loang lổ những vết lủng do mảnh đạn pháo kích. Phía bên phải, một barrack trước chứa đồ tiếp liệu nay bỏ trống, bị trúng đạn cháy gần hết chỉ chừa lại bốn bức tường nám đen. Gần đấy là những hố lớn mới toanh phơi màu đất đỏ đang còn bốc khói. Tất cả là hậu quả của một đêm tổng pháo kích của CS trước khi chiếm cứ mục tiêu cuối cùng. Mục đích của chúng là cố phả hủy tất cả các phi cơ của QL/VNCH để chận đường rút lui của tất cả hoa tiêu còn kẹt lại tại TSN dùng làm phương tiện thoát khỏi miền Nam.

Theo lệnh của Trung tá Khưu Văn Phát, phi đoàn trưởng Phi đoàn 215, nhiệm vụ của chúng tôi sáng hôm ấy dùng 3 chiếc trực thăng võ trang bay theo vòng đai phi trường đánh phá những mục tiêu nào trong tầm tay để làm chậm bước tiến của Cộng Quân đang trên đà tràn ngập căn cứ. Tôi hơi ngạc nhiên khi nhận được chỉ thị này vì đây là phi vụ đầu tiên của tôi trong 30 ngày qua kể từ ngày phi đoàn di tản chiến thuật từ Nha trang vào trú đóng tại Tân Sơn Nhất. Trong giây phút này đa số những đơn vị chủ lực quân VNCH có thể đã bị tan rã hay bị cô lập đâu đó, nên tôi ý thức rằng chúng tôi phải hoàn toàn dựa trên hỏa lực của mình mà không hề hy vọng có sự yểm trợ nào khác. Trước đó không hơn một giờ, chiếc gunship AC-119 bị bắn rớt bởi SA-7 ngay trên vòm trời Sài Gòn, một bằng chứng rõ ràng là mũi dùi của địch quân đã tiến đến rất gần thủ-đô và đang nắm phần chủ động chiến trường.

Khoảng tám giờ sáng chúng tôi đứng tụm năm tụm ba bàn tán xôn xao với mấy người bạn trước cổng phi đoàn. Trên trời chiếc AC-119 bay trên cao độ khoảng 3 ngàn bộ và chừng vài ba phút lại khạc ra những tràng đạn liên thanh. Có lẽ đây là một phi vụ yểm trợ cho quân bạn vùng ngoại ô Sài gòn. Bỗng nhiên một lằn khói trắng nhỏ dài, xẹt thẳng từ dưới đất lên nhanh như một mũi tên lửa trúng ngay giửa đuôi tàu. Con chim sắt như đứng khựng lại, chiếc đuôi gãy lìa ra, thân tàu chúi xuống đất rồi quay vòng vòng hình trôn ốc rơi xuống đất như chiếc lá vàng lìa cành. Từ chỗ chúng tôi đứng nhìn lên tuy xa nhưng thấy được bốn năm bóng hình nhỏ nhảy thoát ra khỏi con tàu bị nạn và cùng rơi nhanh xuống mặt đất. Trong sự chờ đợi chúng tôi vô cùng thất vọng vì không hề thấy một chiếc dù nào mở ra cả. Đứng nhìn nhau bàng hoàng không nói nên lời, một cảm giác đau buồn khó tả dâng lên trong lòng tất cả những người đang có mặt tại đây, thương cảm cho số phận của những người chiến sĩ đã hy sinh cho Tổ Quốc trong giờ phút tận cùng của cuộc chiến này.

Tối hôm 28, anh em 215 còn ở lại trong phi trường, tại Câu lạc Bộ đối diện phi đoàn mạnh ai nấy kiếm chổ ngủ, người thì nằm trên những chiếc bàn hay những chiếc ghế nối lại, người nằm dưới đất, kẻ nào may mắn thì kiếm được ghế bố, trong tư thế tác chiến, áo quần giày vớ để nguyên trên người. Khoảng hai giờ khuya, một tiếng "Oành" đầu tiên làm rung chuyển cả mặt đất, mọi người đang say sưa trong giấc điệp tức thời choàng tỉnh dậy chạy ùa ra cửa hướng về những hố cá nhân mà mấy tháng trước đây nhân viên trong phi trường được lệnh đào trước mổi phần sở của mình. Trời tối mịt, không thấy rỏ đường tôi phóng đại xuống ngay cái hố đầu tiên kế bên cổng. Một tiếng la oái:

- Á, chết tui rồi ...

Hố cá nhân này đã có chủ rồi, tôi chạy vội qua hố kế bên nhảy đại vào.
.... "Oành, Oành, Oành"....

- Ê,... ê,... kiếm chổ khác đi cha....

Lại một ông khác đang co rút người trong cái hố cạn như một con nhộng trong tổ ong. Tôi xuống giọng năn nỉ:

- Cho ké chút đi, chật chật chút không sao mà...

"Oành, oành, oành...", cả hàng trăm trái đạn bắt đầu nhắm vào phi trường như mưa rơi, liên tiếp không ngưng. Chưa bao giờ trong đời binh nghiệp của tôi được đối diện một đêm pháo kích kinh khủng như đêm nay. Những tiếng nổ đủ loại xa gần, âm thanh chát chúa, đinh tai nhứt óc. Bản nhạc đại hòa tấu bắt đầu từ hai giờ sáng, kéo dài mấy tiếng đồng hồ. Tiếng động của những mảnh sắt bay xé không gian rít lên những âm thanh lạnh lùng chết chóc. Những tiếng động do hàng trăm mảnh sắt vụn rơi rớt rổn rảng trên mái ngói, trên nóc tôn, trên mặt đường như bất tận càng làm gia tăng thêm vẻ khủng khiếp đe dọa. Chúng tôi nằm bẹp dí trong hố cá nhân cả mấy tiếng đồng hồ, chân tay bắt đầu tê cứng. Đến gần sáng tiếng pháo mới bắt đầu thưa thớt dần dần rồi chỉ còn lại những tiếng đì đùng đó đây...

Qua một đêm nằm yên chịu trận trong hố đất cạn, hình ảnh cuộc đời bay bỗng của tôi lần lượt diễn ra như cuốn phim quay chậm. Khi còn là một hoa tiêu chân ướt chân ráo du học Mỹ trở về, tôi được chỉ định gia nhập Phi đoàn 215 trong phi đội võ trang. Hãnh diện trong chiếc áo bay oai vệ sẽ được khoác lên người với danh hiệu Thần Tượng trên ngực áo. Ôi sao cái tên nghe quá oai phong lẩm liệt: "Thần Tượng". Có phải các anh là "Thần tượng" của các em gái hậu phương chăng? Đêm ngủ tôi mơ màng ấp ủ một hình ảnh hào hùng đẹp đẽ đó, cho đến khi nhìn thấy tận mắt phù hiệu phi đoàn chỉ là một con voi trắng ngồi trên trái banh tô màu vàng đỏ rực rỡ như đang ở trong gánh xiệc, Thần Tượng là voi Thần chứ không phải là thần tượng của lòng em. Khí thế cao ngất trời của một chàng thanh niên trai trẻ mới bước vào đời binh nghiệp phút chốc tan thành mây khói.

Phi đoàn 215 trú đóng tại Nha trang, thành phố nho nhỏ êm đềm nép mình bên bờ biển xanh cùng hàng thùy dương rì rào trong gió. Dù đang ở trong một cuộc chiến tranh khốc liệt, Nha trang vẫn là một em gái còn trinh nguyên, chưa bao giờ thật sự nếm mùi vị của chết chóc tàn phá. Những buổi chiều vàng từ những phi vụ hiểm nghèo trên những chiến trường sôi động đẩm máu miền cao nguyên, nhìn trên cao thành phố hiền hòa dể thương mở rộng vòng tay chào đón những đoàn chim sắt trở về tổ ấm.

Những nỗi lo âu mệt mỏi tan biến theo những giải mây trắng đang trôi nhẹ nhàng trên bầu trời xanh lơ.
Những chàng trai Không Quân trong bộ đồ bay oai hùng bao giờ cũng là "Thần Tượng" của những người em gái nữ sinh trong tà áo trắng thơ ngây. Nhớ những ngày sau phi vụ nóng bỏng, chúng tôi đến thăm em "áo anh mùi thuốc súng". Nhớ những buổi chiều vàng ngồi đựa lưng bên nhau dưới hàng thùy dương bóng mát hướng nhìn ra chân trời trong sáng, xa xa những con thuyền đánh cá nhấp nhô trên sóng biển, rồi cùng uống những trái dừa tươi ngọt dịu, chia sẻ những chuyện vui buồn lính chiến. Nhớ những lúc mặt biển trong xanh êm ả như mặt hồ thu một buổi sáng đẹp trời, những chiếc trực thăng bay là sát mặt nước chở đầy những em gái hậu phương và cùng gia đình đáp trên nhửng hòn đảo thanh vắng, thức ăn thức uống tràn đầy... Và làm sao tôi quên được cảm giác bay về câu lạc bộ phi đoàn từ hải đảo, chỉ độc trong chiếc quần tắm để lấy thêm nước đá cho mọi người, chiếc máy bay gần sát mặt biển đến độ tôi cảm tưởng những ngọn sóng lăn tăn chạm mủi tàu.



http://hoiquanphidung.com/user-upload/img/HQPD_1250125824.png


Giây phút rời bỏ Nha trang để vào cố thủ tại Tân Sơn Nhất, tôi có cảm tưởng đó là một sự ra đi vĩnh viễn, cơ hội nhìn lại thành phố thân thương êm đềm bao nhiêu kỷ niệm đẹp đó có lẽ không bao giờ đến nửa.
Chiếc xe chở chúng tôi đã tới bải đậu. Mấy tuần nay trực tại phi đoàn tôi chưa có cơ hội ra đây, giờ nhìn thấy một cảnh tượng hoang tàn đổ nát làm tôi sững sờ. Sau một đêm bị tàn phá bởi hàng trăm trái đạn pháo, bãi đậu đã biến thành một bải phế thải. Những chiếc bị trúng đạn, gãy đổ, những chiếc bị mảnh văng lủng lỗ chỗ, cánh quạt buông thả dập dềnh, bỏ dở.

Hai trưởng phi cơ theo tôi trong phi vụ này có Trung úy Sơn, Đại úy Chín từ phi đoàn Mãnh sư 243. Trung úy Sơn, trong phi đoàn thường gọi anh là "Sơn Mực" vì nước da ngăm ngăm đen. Anh đã cùng đi bay chung với tôi cả hàng trăm phi vụ trực thăng võ trang trong những phi vụ hiểm nghèo của mặt trận vùng II: Tiền đồn 6, Tiền đồn 5, Komtum, Pleịku, Tam biên, Mùa hè đỏ lửa...

Đại úy Chín là một hoa tiêu đầu đàn của phi đội trực thăng võ trang của Mãnh Sư, Phù Cát. Anh là một trong những hoa tiêu lên cấp bậc nhanh nhất vì những chiến công đã đem lại cho phi đoàn trong những trận chiến đẫm máu. Từ sau vụ di tản chiến thuật bỏ vùng 2 để về cố thủ Tân sơn Nhất phi đoàn 243 Mãnh Sư đã sát nhập với phi đoàn chúng tôi.

Nhìn Sơn đang lúi húi kiểm soát chiếc trực thăng võ trang dùng cho phi vụ, tôi đến gần và nói với anh :

-Này Sơn,... bạn nghĩ chúng ta sẽ làm được gì trong hoàn cảnh này...?

Không ngạc nhiên chút nào trong câu hỏi chứa đựng một hàm ý nào đó, Sơn trả lời như đã đọc hết tư tưởng trong đầu tôi:

-Tùy bạn. Bạn tính như thế nào thì tôi theo vậy.

Tôi đang phân vân suy nghĩ, quyết định của tôi có thể thay đổi cuộc đời của tất cả phi hành đoàn hôm nay: Một là cất cánh ba chiếc trực thăng võ trang và thi hành những gì đã được giao phó, hai là chọn vài chiếc tàu còn tốt đầy đủ xăng nhớt bay thẳng ra đảo Côn Sơn. Tối hôm qua tất cả vợ con gia đình của nhân viên 215 đã được gửi theo máy bay C-130 bay ra đảo Côn Sơn trước, vì thế mà chúng tôi đều nôn nóng ra đó.
Giây phút tiến thoái lưỡng nan này, bài ca hùng tráng của Không quân đã bao năm in sâu trong tiềm thức tôi như vang dậy:

"Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến đấu...
Cố chiếm chiến công ngang trời...
Giờ từng đoàn người vượt qua biên giới quyết chiến thắng,
Đi không ai tìm xác rơi...
Lúc đất nước muốn bao người con thân yêu ra đi,
Hối tiếc tấm thân làm chi..."

Trong lúc đất nước đang lâm nguy những người con thân yêu phải hy sinh cho Tổ Quốc, không hối tiếc tấm thân... Tâm tư tôi đang phân vân giửa bổn phận của một chiến sĩ và sự sống còn của một con người. Tôi suy tư và tự hỏi sự hy sinh cho Tổ quốc trong giây phút vô vọng này có còn cần thiết nữa hay không? Ba chiếc trực thăng vỏ trang với hỏa lực hạn hẹp để ngăn cản bước tiến ào ạt của Cộng Quân lúc này không khác vài con muỗi vo ve đốt đàn con voi đang hung hăng tiến bước. Hình ảnh của con chim sắt AC-119 gãy cánh trên vòm trời Sài gòn còn in sâu trong đầu tôi. Lương tâm của một người lính chiến đã dằn vặt trong tâm tư tôi không ít khi phải đứng trước một quyết định khó nghĩ này. Nhưng cuối cùng như đã ý thức được thực tại , có lẽ tôi quyết định chọn giải pháp thứ hai, giải pháp đi tìm sự sống, sự sống trong tự do và hạnh phúc.

Tập trung tất cả phi hành đoàn lại, tôi tuyên bố quyết định vượt ra khỏi vòng vây của địch bay về phía vùng trời tự do. Mọi người đều hăng hái tán thành. Trên những khuôn mặt đầy nét hân hoan tất cả vội vã lăng xăng đi tìm những chiếc tàu khả dụng. Có thể nói rằng hơn 70% của những chiếc đậu trên bãi này đã bị trúng miểng pháo kích đêm qua. Nhiều chiếc tàu còn nguyên vẹn nhưng lại không còn đủ xăng hoặc bình điện bị yếu. Một chuyện lạ làm tôi nhớ mãi là gặp một chiếc tàu đầy đủ tất cả điều kiện tốt nhưng cần lái bị ông hoa tiêu nào mua khóa ngoài chợ khóa lại làm của riêng và đã bị quên lãng.

Tôi chợt nghĩ đến Bộ chỉ huy 215 và vài chục nhân viên phi hành đang còn ở lại tại phòng hành quân phi đoàn.Tôi không thể bỏ những người mà tôi đã từng sát cánh bên nhau, chia sẻ cái sống cái chết qua những năm dài chiến đấu, những người mà trong giờ phút cuối cùng này của đất nước vẩn còn ở lại cố thủ, sẵn sàng dân hiến tánh mạng mình cho quê hương, họ thật sự là những người hùng của Tổ Quốc. Tôi muốn họ phải rời khỏi nơi đây như chúng tôi để đoàn tụ với vợ con đang mong ngóng trên hòn đảo xa xôi hẻo lánh. Nhìn anh tài xế còn ngồi trong xe tôi bước đến bên cạnh nói:

-Anh hảy về thông báo phi đoàn rằng chúng tôi sẽ đi Côn Sơn và ai muốn đi thì anh chở ra giùm. Còn riêng anh có muốn đi với chúng tôi thì tùy ý. Nhanh lên nghe...

Hai chiếc tàu bắt đầu quay máy sẵn sàng để cất cánh. Theo như dự tính của tôi thì có thể mất mười lăm tới hai chục phút trước khi chiếc xe hậu trạm chở những hoa tiêu 215 trở lại. Giờ phút đi qua thật chậm, tôi cố lấy bình tĩnh kiểm soát tất cả phi cụ một lần nữa.

Thỉnh thoảng một trái pháo đánh "ình" một cái đâu đó càng làm ruột gan tôi nóng như lửa đốt. Bỗng từ xa thấp thoáng trong những chiếc tàu ngổn ngang tôi thấy bóng dáng của hai người trong bộ đồ bay chạy về hướng tàu tôi. Khi đến gần họ nhảy vội vàng lên sàn tàu tôi không hề hỏi ý, tôi nhận rõ là hai hoa tiêu trong cấp bật Thiếu úy, một người mang phù hiệu trực thăng và người kia mang phù hiệu khu trục. Một người chồm lên phòng cockpit, trong tiếng động ầm ỉ của tiếng máy đang ở tốc độ cao ghé vào tai tôi nói như hét vừa chỉ tay ra hướng hàng rào phòng thủ:

-Cất cánh nhanh đi, tôi thấy tụi nó đang lố nhố ở ngoài hàng rào có chừng cây số thôi...gần lắm ...

Quay đầu nhìn theo nhìn theo hướng anh chỉ về phía ngoài hàng rào phòng thủ, tôi không ghi nhận một động tỉnh hay một yếu tố nào khả dĩ nói lên một sự đe dọa, tất cả vẩn yên tỉnh. Người hoa tiêu mới này có lẽ chờ lâu sốt ruột thỉnh thoảng nắm dây an toàn của tôi giật giật thúc dục càng làm cho tôi nóng ruột. Trong tiếng ầm ỉ của động cơ tôi quay lại phía sau gào lớn:

- Anh kiếm một chiếc khác bay trước đi, tôi còn phải chờ...

Có lẽ không còn đủ kiên nhẩn, khi tôi vừa dứt lời hai anh nhảy phóc ra xuống đất chạy biến mất dạng giữa những chiếc tàu trong bãi đậu. Vài phút sau tôi nghe tiếng xè xè của một chiếc tàu nào đang quay máy gần đâu đây và không lâu thì thấy một chiếc trực thăng đang từ từ "hover" chuẩn bị cất cánh. Chuyện đó không quan trọng đối với tôi trong giây phút này, tôi trở lại hướng tầm mắt đến con đường từ phi đoàn hy vọng sẽ thấy bóng dáng của những chiếc xe hậu trạm thì đột nhiên nghe một tiếng nổ "ầm" long trời xẻ đất như một trái đại pháo nào vừa rới rất gần. Phản ứng cấp thời tôi định kéo tàu ra khỏi bãi thì tiếng anh xạ thủ trong tàu tôi la lớn:

- Chết rồi, chết rồi tầu bị lật ...

Cách chúng tôi khoảng vài trăm feet con tàu của hai vị hoa tiêu lúc nãy bây giờ nằm lật úp quay mòng mòng quằn quại như con vật đang dảy chết, cánh quạt đập xuống đất bể từng mảnh vụn bụi tung mịt mù.

Trung úy Sơn buộc miệng:

-Hình như đuôi tàu bị vướng hàng rào kẽm gai...

Trong hoàn cảnh căng thẳng này tôi cảm thấy bất lực, tôi không thể bỏ tàu để đến cứu họ, chỉ biết ngồi chết cứng trên ghế bay chịu trận chờ đợi. Chỉ trong vòng vài phút sau hai người hoa tiêu lúc nảy trong bộ đồ ướt đẩm, hớt hải chạy đến nhảy phóc lên sàn tàu nồng nặc mùi xăng máy bay, chiếc nón trên đầu không còn, trên khuôn mặt còn lộ nét kinh hoàng. Làn da của họ đỏ ửng vì xăng nhưng cơ thể không một hề thấy một vết trầy nhỏ. Tôi sững sờ không nói lên lời và tin rằng trên đời này vẫn còn có những phép lạ.

Từ xa hai chiếc xe dodge phăng phăng chạy đến, chở khoảng ba bốn chục người. Xe chưa kịp ngừng tất cả vội vàng nhảy xuống chạy về phía hai chiếc tàu của chúng tôi đang chờ. Tôi nhận thấy có Trung tá Phát Phi đoàn trưởng, Thiếu tá Đức Phi đoàn phó, Thiếu tá Lương Phi đội trưởng 259C, ngoài ra còn có Thiếu tá Hạnh Trưởng phòng Hành quân chiến thuật Phan-rang cùng nhiều hoa tiêu khác. Lòng tôi bổng nao lên một niềm xúc động khi thấy con chim đầu đàn của chúng tôi Trung tá Phát và một số lớn anh em có mặt tại đây.

Sau khi tìm thêm một chiếc tàu nữa mới đủ chổ cho tất cả, ba chiếc trực thăng đã sẵn sàng lên đường. Trung tá Phát dẩn đầu cùng với Thiếu Đức, chiếc thứ hai Đại úy Chín của phi đoàn 243 và chiếc thứ ba do tôi cầm lái cùng Trung Sơn. Chiếc số một cất cánh nhẹ nhàng không một tiếng thông báo trong tầng số, lần lượt chiếc thứ hai, rồi tới chiếc sau cùng của tôi. Ba con chim sắt đã tung cánh lên vùng trời quen thuộc ra khỏi vùng lửa đạn bay về vùng trời tự do. Chiến tranh, hận thù, chết chóc...tất cả đã bỏ lại đằng sau.

Không lâu hợp đoàn 3 chiếc trực thăng đã lên cao độ, nhìn lại phi trường nhỏ dần với những con tàu nằm rải rác trên mặt đất như những món đồ chơi tí tẹo. Gần bốn ngàn bộ sông Đồng nai như con rắn lớn uốn lượn quanh làng mạc. Những cụm khói bốc lên từ những xóm làng xa xa vì bom đạn cho ta cảm tưởng như khói lam chiều của mẹ già đang thổi nồi cơm nóng, hình ảnh của một bức tranh thái bình không hề mang một chút gì của không khí chiến tranh tàn bạo, chết chóc ...

"Sai gòn ơi, quê hương ơi, xin giã từ"..., tôi thì thầm trong hơi gió, nước mắt lưng tròng.

Bây giờ không còn gì phải lo sợ nữa, đường mây rộng thênh thang trước mặt, Côn Sơn đảo đang chờ đợi chúng tôi. Tôi nhường cần lái cho Sơn rồi duổi thẳng tay chân ra cho máu chạy đều xong móc một điếu thuốc lá đưa lên miệng châm lửa hút một hơi dài. Hơi thuốc lá đã làm cho thần kinh sảng khoái sau một thời gian dài và căng thẳng. Quay lại phía sau sàn tàu tôi nhìn thấy Thiếu tá Lương, Đại úy Huỳnh râu, Thiếu úy Từ Bộ Chừng một hoa tiêu "sữa" đẹp "gái" từ Phù cát, bốn năm anh cơ phi, xạ thủ...cùng vài hoa tiêu phi đoàn khác cả thảy trên mười người. Khuôn mặt tất cả đều biểu lộ một nét hân hoan nhẹ nhàng.

Lên đến không phận Sài Gòn, một quang cảnh nhộn nhịp bận rộn khác thường, hoàn toàn khác hẳn cảnh tượng tiêu điều vắng vẻ tại bãi đậu sáng nay. Đủ mọi loại máy bay trực thăng của Không Lực Hoa Kỳ từ ngoài hải phận Việt Nam bay ra vào dập dìu. Tiếng nói của những phi công Mỹ oanh oanh trên tầng số guard rộn rịp, tiếng xè xè xạch xạch trong radio không ngưng nghỉ. Không Quân Mỹ đã làm một cầu không vận cuối cùng để di tản nhửng người của họ còn kẹt lại tại thành phố Sài Gòn. Hình như đã có một thỏa ước ngầm bảo đảm sự di tản an toàn của quân đội Mỹ rời khỏi miền Nam Việt Nam trong giờ phút này, tôi không hề thấy một hỏa lực nào từ mặt đất bắn lên. Bay trong hành lang chuyển vận này, chúng tôi được an toàn không còn sợ phòng không của địch nữa.

Sau bốn mươi lăm phút hợp đoàn đã ra quá hải phận Việt Nam, trước mặt là vùng trời xanh biển rộng bao la bát ngát. Một cảnh tượng vô cùng ngoạn mục đã hiện ra dưới mắt chúng tôi: vô số tàu chạy đầy trên mặt biển ngoài khơi hải phận. Nguyên hạm đội của Hoa Kỳ đang thi hành một công tác cuối cùng cho cuộc chiến tại miền nam Việt Nam. Đủ loại tàu lớn nhỏ chạy ngoằn nghèo theo một đội hình tác chiến để lại sau đuôi những vệt dài trắng xóa, trên cao nhìn xuống giống như một mô hình của một trận đồ hải chiến. Chúng tôi không thể nào ngờ đang làm nhân chứng cho một khúc quanh lịch sử, một lực lượng Hải quân hùng hậu của một cường quốc đang thu dọn chiến trường sau hơn chục năm dài chiến đấu. Ba con tàu nhỏ xíu của chúng tôi như ba chấm đen nhỏ trên vòm trời xanh tiếp tục lầm lủi bay qua hạm đội không hề thay đổi lộ trình. Một cơ hội ngàn vàng để đáp xuống an toàn trên hạm đội đã bị bỏ qua không một giây suy nghĩ. Chúng tôi một lòng quyết chí hướng về nơi có thân nhân vợ con đang chờ tại Côn Sơn, một hòn đảo nhỏ xíu chơ vơ nằm trong vùng đại đương bao la bát ngát. Chúng tôi đang đánh một ván bài với định mệnh, với thần chết.

Với số xăng rất có giới hạn, không có một khí cụ điện tử nào để hướng dẫn chúng tôi đến mục tiêu ngoài tấm bản đồ trên tay. Một yếu tố vô cùng quan trọng có thể ảnh hưởng đến sự chính xác của lộ trình bay là vận tốc và chiều gió điều mà chúng tôi không hề có.

Sau chừng hai mươi phút sau tất cả hạm đội sau lưng chỉ còn là những chấm nhỏ li ti. Tôi bắt đâu lo ngại khi nhìn đồng hồ xăng và thấy số lượng không còn đủ bay bao lâu nữa. Trên sàn tàu tôi nhìn thấy Thiếu tá Lương đang điều chỉnh lại áo phao cấp cứu mặc trên người. Vị niên trưởng từ phía sau sàn tàu vói chồm lên trên cockpit ghé vào tai tôi nói lớn:

- Bạn có thể để cho tôi lên bay thế Sơn được không?

Tôi nhìn Sơn, qua intercom tôi nói:

- Sơn nghe không? Tùy bạn quyết định, tôi không có ý kiến...

Sơn đang ngồi bên ghế trái, không nói gì, rồi trong một cử chỉ dứt khoát tay gật mở nịt an toàn đứng dậy khỏi ghế bay, leo ra sau để nhường chổ cho Thiếu tá Lương. Hợp đoàn chúng tôi tiếp tục hướng về phía đại dương thăm thẳm, ba con chim sắt bây giờ là những hạt bụi trên vòm trời bao la không bờ bến. Tất cả bao nhiêu cặp mắt mở lớn như radar quét về phía chân trời hy vọng một hòn đảo nào đó sẽ xuất hiện. Theo sự ước đoán của tôi, đường chim bay từ Sài gòn ra đảo gần 150 chục dặm. Nếu đầy đủ xăng nhớt không kể yếu tố gió thì cỡ một tiếng rưỡi bay chúng tôi sẽ đến đảo. Từ khi cất cánh đến giờ đã trên một tiếng rưỡi rồi ba con tàu vẫn lầm lủi vào chốn hư không, Côn Sơn đảo vẫn mịt mù trước mặt. Trước mặt là chân trời vô tận, sau lưng là Hạm đôi Mỹ đã không còn trong tầm mắt, kim xăng đồng hồ đã tụt xuống đến mức độ báo động, không ai nói với ai một lời nhưng cùng mang một tâm trạng lo âu tuyệt vọng. Đang hoang mang không biết phải làm gì, chợt nghe tiếng Thiếu tá Lương trong intercom:

- Đèn xăng đỏ rồi đó, coi chừng...

Vừa nói Thiếu tá Lương vừa chỉ chỉ cái đồng hồ xăng đang bật sáng báo hiệu tàu chỉ còn khoảng hai mươi phút nữa để bay.

Một luồng điện lạnh chạy dài theo xương sống tôi. Chưa bao giờ tôi có cảm giác như thế này, ngay cả trong những phi vụ hiểm nghèo nhất ở sâu trong lòng địch hay những giây phút trên những chiến trường nóng bỏng. Phía sau tàu một quang cảnh nhốn nháo xao động. Trong một hành động hầu như là tuyệt vọng và vô nghĩa mọi người trên tàu đều cởi giày ra. Rơi xuống biển khơi mênh mông hoang vắng này không hề có một chiếc tàu nào trong tầm mắt, mạng sống của mấy chục nhân viên phi hành này coi như đã được an bài. Phép lạ có thể đến với chúng tôi trong giây phút tận cùng không lối thoát này không?

Trong sự lo âu và vô vọng tôi cố đảo mắt nhìn mặt biển mênh mông bỗng tầm mắt tôi ngừng lại, hướng mười giờ của tôi chừng vài chục dậm như có một chấm đen nhỏ đang nằm chơ vơ trên mặt biển sáng bạc ánh mặt trời. Đưa tay chỉ cho Thiếu tá Lương về hướng đó tôi nói:

-Nhìn xem kìa Thiếu tá..., cái gì vậy... có phải là chiếc thuyền không?

Theo chỉ tay của tôi, sau vài giây chăm chú nhìn, Thiếu tá Lương trả lời:

- Xa quá, không rỏ, nhưng hình như vậy...

Theo linh cảm tôi hiểu là không còn một sự chọn lựa nào khác nữa, trong một hành động dứt khoát tôi ngoặc cần lái về hướng đó, tách rời hợp đoàn trong im lặng. Là chiếc bay sau cùng nên hai chiếc đầu không hề hay biết hành động của tôi. Đó là một hành không thể chấp nhận được trong kỷ luật phi hành. Người cấp bậc cao nhất chỉ huy trong hợp đoàn luôn luôn bay lead, dẩn đầu và quyết định tất cả mọi hành động của hợp đoàn. Chiếc sau cùng của hợp đoàn, gọi là trail, luôn luôn được bay bởi người có cấp bậc hoặc vị thế quan trọng thứ hai, trong trường hợp này là tôi. Dĩ nhiên tất cả mọi hành động của tôi đều phải được sự chấp thuận của chiếc dẫn đầu trước khi thi hành. Trong giây phút mạng sống chỉ còn trong vài ba chục phút nữa tôi không còn đầu óc để nghĩ đến chuyện gì ngoài sự sinh tồn của tất cả mọi người trên tàu. Trong thâm tâm nghĩ rằng chỉ cần vài phút bay nữa là đến mục tiêu và sau khi nhận diện được rỏ ràng như thế nào thì tôi sẽ thông báo với chiếc lead cũng chưa muộn.

Sau vài phút bay, chấm đen đó đã hiện rõ ra dần và chúng tôi nhận thấy đó là một chiếc tàu có một tầm vóc khá lớn và hình như là một thương thuyền thì phải. Tất cả mọi người trong tàu đều khấp khỏi mừng rỡ và cầu mong rằng đó không phải là tàu của Cộng sản. Nhưng cho dù là tàu của quốc gia nào đi nữa thì cũng không có gì thay đổi cả, con đường quay trở lại đã khép kín từ lâu rồi.

Chỉ còn chừng chưa tới một dậm ở cao độ khoảng 500 feet, hiện rõ ra một thương thuyền với những cột buồm cao ngất, trên đỉnh cao phất phới những lá cờ màu sắc đủ loại:

-Tầu Anh Quốc...Thiếu tá Lương buộc miệng như đồng tình với ý nghĩ của tôi.

-Tầu Anh Quốc, đúng rồi, tàu Shell chở dầu, đúng rồi...Giọng nói tôi mang một âm thanh chất chứa nỗi vui mừng phấn khởi...

Lá cờ màu xanh đậm cùng hai dấu thập đỏ nền trắng cắt chéo vào nhau trên đỉnh cột cờ cao ngất bay phất phới như vẫy tay tươi cười chào đón chúng tôi, những con người trở vể từ cõi chết. Dưới đó là lá cờ màu vàng thắm với hình con sò màu đỏ tươi cùng đồng múa trong gió khơi với những lá cờ màu sắc rực rỡ khác càng làm cho lòng chúng tôi thêm rộn ràng. Chắc đây là tàu chở dầu cho Việt Nam Cộng Hòa nhưng không vào hải phận được phải tạm neo lại đây chờ.

Mọi người trên tàu xôn xao rộn rịp lên, khác hẵn với cái không khí u ám trong vài phút trước đây, những lời nói chúc tụng đồng thời những tiếng vổ tay bôm bốp như bắp rang....người thì ôm choàng lấy nhau, người thì bắt tay nhau rối rít như những đứa trẻ con.

Không còn suy nghĩ gì nữa tôi vội vàng bấm intercom:

-Lead đây trail.

-Lead nghe...

-Tôi đã đến được bên tàu dầu của Anh Quốc. Lead nên bay về đây...

-Trail cho biết vị trí...

Tôi vội vàng đáp:

-Khoảng hướng 7 giờ của Lead, khoảng 5 phút bay...

- OK..hai chử vắng tắt nhưng Lead đã hiểu...

Tàu của chúng tôi đã xuống gần sát mặt nước cở 100 feet, tôi cho lượn một vòng quanh chiếc thương thuyền để quan sát và tìm được chổ nào khã dĩ có thể đáp được. Đây là một chiếc tàu chở dầu hạng lớn dài cả vài trăm feet, với những cột cao đầy những giây cáp chằng chịt, không có một chỗ hở nào có thể đủ cho một chiếc trực thăng đáp xuống được. Trên bong tàu vài chục thủy thủ ngoại quốc đang đứng hóng mát, mắt hướng nhìn vào bờ biển Vũng tàu, quan sát những hoạt động của hạm đội Mỹ bằng những ống dòm cực lớn. Người thì đánh trần, quần sọt tay cầm lon bia, người thì bận áo mai dô hút pipe trông rất là nhàn nhã. Khi thấy tàu tôi bay vòng quanh tất cả thủy thủ trên boong vẫy tay chào một cách rất thân mật và không hiểu tại sao chúng tôi làm gì để lại lạc loài tới ngoài khơi xa xôi này.

Trong lòng tôi ruột gan rối như tơ vò vì chỉ còn trên mười phút xăng để bay. Phía dưới là mặt biển mênh mông đe dọa há miệng chờ đợi con chim sắt đang thi hành sứ mạng cuối cùng của nó: đưa những người bạn đồng hành, những chiến sĩ cùng vào sanh ra tử đến chốn bình an. Như một con ngựa già cố đưa chủ nó thoát khỏi vòng vây của kẻ thù trước khi ngã quỵ vì kiệt sức.

Trên tàu chúng tôi vài người lấy súng flare nhỏ trên người bắn lên trời vài ba phát nhưng hình như trên boong tàu không ai hiểu chúng tôi muốn gì. Phải có một người của chúng tôi hy sinh nhảy xuống trước, dù phải bị gãy chân, để báo cho thủy thủy đoàn là chúng tôi đang cần hạ vài chiếc canoe cấp cứu của họ xuống biển sẳn sàng vớt anh em khi họ xuống nước.

Tôi có ý định đem chiếc tàu thật thấp gần boong tàu để một người nào đó tình nguyện sẽ nhảy xuống. Nhưng sau hai ba lần thử lửa, mỗi lần tàu bay gần kề bên hông thương thuyền thì cánh quạt chỉ còn cách những giây cáp vài feet. Nhìn xuống boong tàu thì quá cao chừng hai ba tần lầu không ai dám nhảy cả. Sau vài vòng bay quanh, không thể nào chờ đợi được nửa xăng càng cạn đến mức tối thiểu, tôi đem con tàu sát vào boong tàu một lần cuối. Chiếc máy bay với cánh quạt khổng lồ quay vù vù gần bên những sợi giây cáp, nín thở tôi ráng hạ dần hạ dần xuống được chút nào hay chút nấy. Hình như tất cả mọi người trên sàn tàu ý thức rằng họ không còn một sự chọn lựa nào nữa, tất cả thi nhau nhảy xuống boong tàu không một chút lưỡng lự đắn đo. Con chiếc trực thăng nhẹ hẳn đi, tôi liền tách rời nó khỏi hông chiếc thương thuyền, lòng nhẹ nhàng hơn như đã trút đi phần nào trách nhiệm.
Sau khi tiếp xúc được với thủ thủy trên boong tàu, hai chiếc canoe được hạ xuống biển cấp thời. Bây giờ tôi mới có thì giờ để nhận biết Lead và chiếc số 2 đã đến với chúng tôi từ lúc nào. Một lần nữa tất cả anh em của hai chiếc kia đã nhảy xuống boong tàu "không dù" an toàn.


http://hoiquanphidung.com/user-upload/img/HQPD_1250125937.png

Ba chiếc tàu còn lại với những hoa tiêu đang cầm lái. Chiếc tàu của tôi thì vẫn còn hai người, Thiếu tá Lương và tôi. Chỉ cần một trong hai chúng tôi ở lại với con tàu đến giây phút cuối cùng của nó. Ai sẽ đóng vai "thuyền trưởng" trong giây phút này?

Thiếu tá Lương trên người đang mang một áo cấp cứu cùng với cặp phao hai bên hông. Trong giây phút hỗn tạp này mà "thầy" còn có đủ đồ nghề như thế thì thật xứng đáng với chức vụ Sĩ quan An-phi mà vị niên trưởng này đã giử trong thời gian còn ở với Phi đoàn Thần Tượng. Với trang bị như thế thì Thiếu tá Lương sẽ an toàn hơn tôi khi phải "ditching" xuống biển, tôi nghĩ thầm. Quay mặt nhìn vào mắt người niên trưởng đang ngồi bên chiếc ghế trái bất động, trong giây phút cực kỳ nghiêm trọng này tôi đã đọc được ánh mắt của anh. Trong một hành động nhanh và dứt khoát tôi nắm chốt nịt an toàn giật mở bung ra, quay người lại tôi leo vội về phía sau sàn tàu. Thiếu tá Lương đã can đảm nhận trọng trách cuối cùng trong chuyến bay đệnh mệnh này: "ditching" !



Tay tôi xách túi helmet, trong đó chứa một vài đồ lặt vặt như cuốn album những hình ảnh cũ, một bộ áo quần dân sự và đặc biệt là chai rượu Champagne mà tôi đã nâng niu gìn giử dùng để ăn mừng khi đến được nơi an toàn. Ngồi sau sàn tàu tôi chợt thấy ngay gần sau đuôi tàu, một thùng connex nhỏ đang nằm chơ vơ sát thành tàu trên mặt của nó bằng phẳng không có chướng ngại vật nào cả, nếu với tài khéo léo của Thiếu tá Lương thì tôi giúp tôi dể dàng hơn để nhảy xuống trong chiều cao cở bốn năm feet. Tôi quay lại phía cockpit chỉ cho Thiếu tá Lương xong trở lại sàn tàu. Nhẹ nhàng chiếc trực thăng cặp sát hông tàu, hai cánh tay ôm kín túi bay như để bảo vệ chai rượu đã cưu mang từ mấy hôm trước, tôi nhảy phóc ra khỏi sàn và đưa tay ra hiệu cho Thiếu tá Lương tôi đã an toàn.

Bây giờ chỉ còn lại là số phận của 3 hoa tiêu trên ba chiếc còn lại . Hai chiếc ca-nô cấp cứu dập dềnh trên mặt biển cách chiếc thương thuyền này vài trăm feet kiên nhẩn chờ...

Tất cả chúng tôi tụ tập trên bong tàu và hồi hộp nín thở theo dõi. Một số thủy thủy sẳn sàng trong nhưng chiếc máy chụp hình hay quay phim chuẩn bị ghi nhận những giây phút lịch sử mà họ được cơ hội chứng kiến.



http://hoiquanphidung.com/user-upload/img/HQPD_1250126020.png


Chiếc tàu đầu tiên của Đại úy Chín hình như đang sẳn sàng trong tư thế ditching. Con tàu đứng yên cách mặt biển chừng mươi feet trong vài giây, cánh quạt đang quay tốc độ nhanh bỗng chậm hẳn lại, con tàu rơi nhẹ nhàng như chiếc lá vàng đồng thời nghiêng mình qua phía trái, cánh quạt chém mạnh mặt nước văng ra từng mảnh tung tóe trên những làn sóng nhấp nhô, bộ máy nóng như cục than đỏ gặp nước lạnh nổ "ầm" lên khủng kiếp như trái phá. Con tàu lật nghiêng rồi từ từ đưa hẳn bụng lên trời, trong năm bảy giây ngắn ngủi nó chậm rải lắng chìm xuống đáy biển sâu, như một con ngựa già gĩa từ cuộc đời không một tiếc nuối sau khi đã làm tròn bổn phận cao cả cuối cùng. Mọi người trên boong lo lắng cho số phận của người bạn mình. Trong vùng nước sôi sục đó, một cái đầu đang trồi lên khỏi mặt nước, Đ/u Chín đang vẩy vùng bơi ra khỏi vùng nguy hiểm. Chiếc ca nô gần đó vội vã chèo đến, chiếc phao cấp cứu được liệng ra kéo người phi công can đảm lên thuyền. Mọi người trên boong tầu la lớn reo mừng trong tiếng vổ tay. Trong chúng tôi có người ôm chầm lấy mấy anh thủy thủ người Anh hoặc nhảy cỡn lên như những đứa trẻ thơ.

Chiếc trực thăng đang còn bay vòng trên trời do Trung úy Vĩnh cầm cần lái, mọi người trong phi đoàn thường gọi anh là Vĩnh Gấu vì anh to lớn không khác gì cái tên được đặt. Có lẽ Vĩnh đã tình nguyện bay thế chiếc Lead do Trung tá Phát vì biết Thầy Phát nhà mình là một người rất thiện nghệ trong vấn đề bay bổng nhưng về chuyện bơi lội thì hoàn toàn còn yếu kém. Không chờ đợi lâu, một phút sau Vĩnh bay gần đến chiếc canoe đang chở Đại úy Chín, theo đúng phương pháp như đã học anh cho con tàu rơi xuống mặt biển. Con tàu thứ hai lại từ từ biến dạng khỏi mặt nước. Một vài giây phút trôi qua trong im lặng, mọi người nín thở theo dõi và chờ đợi sự xuất hiện của Vĩnh. Thời gian trong khoảng khắc như ngưng đọng, anh Vĩnh trồi vội vã lên khỏi mặt nước, máu đỏ tươi chan hòa trên khuôn mặt của anh. Tất cả mọi người lại một lần nữa vỗ tay reo mừng khi thấy Vĩnh đã chiến thắng tử thần.

Chiếc thứ ba Thiếu tá Lương còn lưỡng lự khi nhìn thấy cái đầu máu của anh "Vĩnh Gấu" bay vòng trở lại thương thuyền cố tìm chổ đáp trước mũi tàu. Khi con chim sắt này tiến đến gần bong tàu, những giây cáp chằng chịt trên bong tàu như chờ đợi cánh quạt khổng lồ quay vù vù cắt chúng từng mảnh. Hết tất cả chúng tôi chạy ùa lên phòng lái của thuyền trưởng ở trên cao theo dõi diển tiến. Ngươì thì la hét, người thì lấy tay ra hiệu cho biết rằng chuyện đáp không thể được, nhưng vị niên trưởng này tinh thần đang tập trung vào tay lái, không hề để ý đến chúng tôi. Nếu chiếc trực thăng rớt và nổ trên boong tàu chở đầu dầu này thì tất cả chúng tôi sẽ không có một hy vọng nào để sống sót. Sau khi vài lần cố gắng biết là vô vọng vị này quay tàu trở ra. Và như hai chiếc trước, người hùng cuối cùng của chúng tôi đã lên boong tàu an toàn.

Thế là tất cả chúng tôi, sau những khúc quanh hiểm nghèo, sau như giây phút tưởng chừng như tuyệt vọng, thập tử nhất sanh, đã đến bến bờ bình an. Trong mấy chục người của chúng tôi trên thương thuyền, có chừng mười mấy người bị trặc chân hoặc sưng chân, nặng hay nhẹ tùy người vì đã nhảy xuống boong tàu quá cao. Đó chĩ là một điều xui xẻo quá nhỏ nhoi đối với quá trình mà chúng tôi đã đi qua. Riêng anh "Vĩnh Gấu" thì chỉ có một vết cắt nhẹ trên vừng tráng cao rộng của anh mà thôi.

Ở lại với thương thuyền này một đêm, chúng tôi được hậu đãi như những vị anh hùng. Rượu bia, thịt cá ê hề. Những câu chuyện huyên thuyên không ngớt, vui vẻ ồn ào ăn mừng cho chuyến đi thành công. Thủy đoàn và chúng tôi trao đổi nhau những kỷ vật, phù hiệu, chụp hình lưu niệm để đánh dấu cho một ngày không thể quên được cuối đời của những người phi công thời chiến.

Sáng hôm sau, một tàu chiến Mỹ đã đến và bốc chúng tôi về với Hạm đội, sát nhập với tất cả những người đã thoát khỏi Việt nam để tiếp tục đoạn đường đi tìm tư do đang còn dang dở.

Phi vụ bất ngờ cuối cùng của một trận chiến, trong giờ thứ 25, đã biến thành một chuyến bay định mệnh đưa tất cả chúng tôi vượt ra khỏi vùng lửa đạn. Một cuộc đời mới đang chờ đợi chào đón những chiến sĩ lưu vong trên con đường đi tìm tự do và hạnh phúc ở một vòm trời xa lạ nhưng đầy hứa hẹn....
Vĩnh Hiếu
Phi đoàn 215 Thần Tượng

(Bài đăng lại từ www.canhthep.com, xin chân thành cám ơn Niên Trưởng Vĩnh Hiếu cùng quý NT Cánh Thép)