PDA

View Full Version : Những ngày cuối cùng ở Sài Gòn



Longhai
08-24-2016, 05:51 AM
Những ngày cuối cùng ở Sài Gòn


Toàn Như


Tháng 10-2014, cuốn phim tài liệu “The Last Days in Vietnam” (Những Ngày Cuối Cùng ở Việt Nam) của đạo diễn Rory Kennedy (một hậu duệ của dòng họ Kennedy) được trình chiếu tại Quận Cam. Phim kể về những ngày cuối cùng hỗn loạn trong những ngày tàn của cuộc chiến vào tháng Tư năm 1975. Đó cũng là hình ảnh của những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa trong đó có cảnh hàng chục ngàn người đang tìm cách trốn thoát khỏi miền Nam bằng mọi cách trước khi quân Cộng sản tràn đến. Tôi không nằm trong số những người may mắn ra đi trong những thước phim đó, nhưng những hình ảnh này đã gợi lại trong tôi ký ức về những ngày cuối cùng của chính mình trước khi rời khỏi Việt Nam trong chương trình tái định cư những người cựu tù “cải tạo”mà sau này được gọi là chương trình H.O.

Trong cuốn phim “The Last Days in Vietnam” có một cảnh thật cảm động. Khi chiếc chiến hạm chở đồng bào di tản đến gần bờ biển Phi Luật Tân, mọi người Việt Nam (quân và dân) trên chiến hạm đã hát bản Quốc ca VN lần cuối cùng trong khi lá cờ vàng ba sọc đỏ VNCH hạ xuống. Tôi đã nhìn thấy những khuôn mặt đẫm lệ nghẹn ngào cất cao lời hát “Này công dân ơi, Quốc gia đến ngày giải phóng…”. Cảnh tượng đó làm cho tôi nhớ đến những ngày ở Bangkok, Thái Lan, trong khi chờ đợi làm thủ tục nhập cảnh vào Mỹ theo diện H.O. Trong những ngày này, chúng tôi đã được cho xem những cuốn phim Video giải trí và tài liệu, trong đó có cuốn phim tài liệu về cuộc diễn hành Ngày Quân Lực ở Sàigòn. Tôi thật vô cùng xúc động khi lần đầu tiên được nhìn lại lá cờ vàng, dù chỉ ở trên màn ảnh nhỏ, sau mười sáu năm kể từ 1975. Chỉ thấy như vậy thôi mà tôi đã rưng rung nói gì những người trên chiếc Chiến hạm kia…

Vào giữa thập niên 1980, ở Sàigòn và có lẽ ở cả nhiều nơi khác tại Việt Nam, đã có những tin đồn rằng, những cựu tù nhân chính trị Cộng sản, tức những người từng bị Cộng sản bắt đi “Học tập cải tạo”, thực chất là đi tù, sau tháng Tư 1975, sẽ được phép xuất cảnh đi định cư tại Mỹ theo một sự thỏa thuận hay thỏa hiệp giữa Hoa Kỳ và Việt Cộng.

Tôi cũng như các bạn cựu tù cải tạo khác rất phấn khởi trước tin đồn trên. Mọi người phấn khởi vì hy vọng nhờ đó có thể thoát khỏi một cảnh sống tù túng đầy rẫy những âu lo có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào mặc dù đã được trả tự do sau nhiều năm bị tù đày trong những trại cải tạo. Hầu hết các cựu tù cải tạo sau khi được thả về đều rất chật vật trong cuộc mưu sinh. Họ hầu như không thể xin vào làm việc ở bất cứ một cơ quan nào. Một số phải sống bằng nghề đạp xích lô, buôn bán chợ trời, hoặc về quê làm ruộng, làm rẫy, v.v…Cho nên, tin đồn đã như một cái phao cứu sinh, một niềm hy vọng giúp họ được đổi đời, dù chưa biết cuộc sống mới ở một nơi xứ sở xa lạ sẽ như thế nào, nhưng ai cũng nghĩ chắc chắn sẽ được hít thở một bầu không khí tự do.

Cá nhân tôi, sau gần bảy năm bóc lịch ở trong nhà tù Chí Hòa mới được thả về .Tôi bị ghép vào tội “Ngụy quân, Ngụy quyền trốn học tập cải tạo” mặc dù mình chẳng hề trốn tránh đi đâu cả. Thời gian đầu, sau khi được về, vào mỗi thứ hai hàng tuần, tôi phải đến trình diện cái gọi là “Ủy Ban Quản Lý Người Học Tập Cải Tạo Trở Về” để báo cáo những công việc mình đã làm trong tuần. Báo cáo này phải được ghi chép vào một cuốn vở trình cho tên cán bộ Chủ tịch ủy ban do tên phó Chủ tịch Phường kiêm nhiệm. Tuy nhiên, để tránh những rắc rối gây khó khăn cho mình, trong báo cáo những công việc hàng ngày, tôi đều ghi hầu như cùng một nội dung đến nhàm chán. Như, buổi sáng đưa con đi đến trường, buổi trưa đến trường đón con về, thời gian còn lại là những công việc vặt như dọn dẹp nhà cửa, rửa chén, lau nhà, dạy kèm con học ở nhà, hay phụ vợ buôn bán lặt vặt mưu sinh (bán chợ trời), v.v… Nghĩa là toàn những công việc linh tinh, vô thưởng vô phạt.

Có lẽ việc báo cáo của tôi như vậy,có cũng như không, nên khoảng hai tháng sau, tên Cán bộ phụ trách đã nới lỏng việc trình diện cho tôi. Thay vì tôi phải báo cáo mỗi tuần một lần, hắn đã ra lệnh cho tôi chỉ phải báo cáo mỗi tháng một lần. Thế nhưng, hàng tháng tôi vẫn bổn cũ soạn lại, vẫn báo cáo công việc hàng ngày chẳng khác gì hơn những sinh hoạt thường nhật mà tôi đã báo cáo trước đó. Sau mấy lần như thế, có lẽ thấy báo cáo của tôi chẳng khai thác được gì, một hôm tên Cán bộ này đã nói : “Thôi từ nay anh không phải trình báo cáo nữa”.Tuy nói thế, nhưng hắn lại thòng thêm câu, “Anh có thể đến báo cáo - bất cứ khi nào - có gặp những việc bất thường”. Mặc dù hắn đã ra lệnh như vậy, nhưng tôi chẳng bao giờ trở lại gặp hắn. Hắn đã “xả chế” cho tôi (nghĩa là tôi không còn bị quản chế) nhưng chỉ về mặt không phải báo cáo hàng tháng, chứ còn việc xả chế thực sự cho tôi, tôi phải đợi mãi hơn hai năm sau mặc dù trong giấy ra trại chỉ ghi tôi bị quản chế một năm. Đúng là đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ việc chúng làm, như ông Thiệu đã nói.

Để chuẩn bị cho tôi được “xả chế, trả quyền công dân”, tôi phải đến họp ở Tổ dân phố để họ lập biên bản lấy ý kiến trình lên Phường, lên Quận. Xui cho tôi là cái tổ dân phố nơi tôi ở có nhiều cán bộ VC và tổ trưởng lại là một tên Cán bộ phường. Khu vực tôi ở có nhiều căn nhà của những Sĩ quan, viên chức chế độ cũ đã di tản năm 1975 nay bị bọn VC chiếm. Trong buổi họp, một tên Cán bộ đã phê bình tôi ít đi họp tổ nên họ không biết gì về hạnh kiểm của tôi để báo cáo. Những tên khác cũng nói, chúng cần có một thời gian để tìm hiểu về tôi trước khi có ý kiến. Sau buổi họp, có người đã mách tôi, muốn được “xả chế” thì đừng quên cái “thủ tục đầu tiên” (tiền đâu) với tên Tổ trưởng dân phố. Biết điều với hắn, hắn sẽ viết cho một cái biên bản khác là xong ngay.

Sau đó, để tránh bị làm khó dễ và bị ép phải đi kinh tế mới, tôi đã xin làm thiện nguyện viên cho Hội Chữ Thập Đỏ (theo cách gọi của VC để chỉ Hội Hồng Thập Tự). Vào đầu thập niên 1980, mọi sinh hoạt của người dân vẫn còn bị VC kiểm soát chặt chẽ chứ đừng nói gì với những người cựu tù cải tạo. Đó là lý do tôi phải xin làm việc bán thời gian (nửa ngày) không lương cho Hội Chữ Thập Đỏ để làm tấm lá chắn có làm việc cho nhà nước để bảo vệ mình. Nửa ngày còn lại tôi phụ với vợ buôn bán quần áo cũ ở chợ trời An Đông và dạy kèm thêm Anh Văn cho mấy em học sinh trung học ở gần nhà. Một hôm tôi đang dạy học thì tên Công an khu vực đến hỏi tôi có giấy phép dạy học của Phòng Giáo Dục Quận không. Dĩ nhiên là tôi không có. Thế là, tôi đành phải dẹp cái lớp học này để tránh rắc rối dù chỉ mới mở được mấy tháng.

Khi những tin tức về việc tái định cư các cựu tù cải tạo lan truyền ở Sàigòn, tôi và các bạn tù rất náo nức hy vọng. Mọi người ai cũng mong đó là sự thật để được thoát khỏi cảnh tù túng dưới chế độ Cộng sản. Biết bao nhiêu những tin đồn được rỉ tai nhau hàng ngày chẳng biết hư thực đến mức nào. Nơi phát xuất ra những tin đồn loại này nhiều nhất là ở bãi cỏ công viên phía trước Sở Ngoại Vụ Thành phố (Bộ Ngoại Giao VNCH cũ), phía trước Dinh Độc Lập, gần nhà thờ Đức Bà. Thỉnh thoảng tôi cũng đến đây để nghe ngóng tin tức. Ở đây, các anh em cựu tù tụ tập thành từng nhóm để bàn tán truyền tai nhau những tin tức “bên lề” về cái chương trình định cư hấp dẫn này. Vì không có một thông cáo chính thức nào về chương trình này, nên những tin đồn tha hồ được thêu dệt. Nào là đáng lẽ việc ra đi này đã được thực hiện từ trước ngày 30-4-1975, giống như cuộc di cư của đồng bào miền Bắc sau hiệp định Genève năm 1954. Hay, việc ra đi này để đổi lại, Hoa Kỳ sẽ nới lỏng cấm vận cho Việt Nam và từ từ đi tới tái lập bang giao (tin đồn này có lẽ đúng, vì sau đó vào giữa thập niên 1990, Hoa Kỳ đã xóa bỏ cấm vận rồi sau đó nối lại bang giao với VC).Thậm chí còn có tin đồn, các cựu tù khi đến Mỹ còn được truy lãnh lương tính từ năm 1975 cho đến nay. Tin này đa số đều nghĩ, đó chỉ là tin vịt cồ, nhưng cũng có người vẫn nuôi một ảo tưởng tin rằng đó là sự thật và lại còn giận dỗi nếu có ai không tin vào chuyện này.

Mãi đến khoảng giữa năm 1989, chương trình tái định cư các cựu tù cải tạo sau được gọi là chương trình H.O. mới bắt đầu chuyển động. Nhưng vẫn không có thông cáo chính thức nào về việc này được đưa ra cho đến khi một số cựu tù bổ túc hồ sơ bảo lãnh (ODP), lúc đó họ mới biết mình đã được chuyển vào danh sách HO.1, HO.2... Mặc dù vậy, mọi người vẫn còn bán tín bán nghi. Đa số vẫn còn dè dặt chưa dám xúc tiến nộp hồ sơ vì chỉ sợ bị gài bẫy, rồi tiền mất mà tật vẫn mang, nghĩa là vẫn chẳng được đi đâu cả. Chính vì biết tâm lý này nên Công an VC đã bày ra cơ quan Trung Tâm Dịch Vụ Xuất Cảnh để thâu gom những dịch vụ về việc nộp đơn xin xuất cảnh theo diện cựu tù cải tạo. Trụ sở của trung tâm này ở ngay trên đường Võ Tánh, phía trước đối diện cổng Bộ Tư Lệnh CSQG/VNCH (Tổng Nha Cảnh Sát) cũ.

Sau nhiều ngày “điều nghiên” cho chắc ăn, mãi đến cuối năm 1989, tôi mới mang hồ sơ của mình tới trung tâm này nộp. Lúc đến nơi mới thấy nhiều người cũng đã biết tin như tôi đến nộp đơn khá đông. Mọi người nộp đơn phải đóng một số tiền lệ phí khá lớn khoảng 200.000 đồng tiền Hồ cho mỗi đầu người trong gia đình cộng thêm một vài phụ phí linh tinh khác.

Khoảng sáu tháng sau, gia đình tôi mới nhận được giấy mời đi bổ túc hồ sơ ở một văn phòng nằm trên đường Nguyễn Du, đối diện với một góc vườn Tao Đàn, nơi góc đường Nguyễn Du và Lê Văn Duyệt (nay là đường Cách Mạng Tháng 8). Theo rỉ tai của những người đi trước, để việc bổ túc hồ sơ được dễ dàng thuận lợi thì nhớ “bồi dưỡng” tên Cán bộ phụ trách một bao thuốc lá 555. Có người vì chủ quan hay vì không biết chuyện này nên đã phải ra về, đi tới đi lui bổ túc nhiều lần mà vẫn chưa xong việc. Nghe nói vậy, nên trước khi vào trình giấy tờ, tôi đã ghé sạp bán thuốc lá của một bà ngồi trên lề đường phía trước văn phòng. Bà bán thuốc lá đưa cho tôi một gói thuốc lá có vẻ đã cũ, tôi nói bà đổi cho gói khác nhưng bà nói : “Cậu mua thuốc mang vào bên trong phải không ? Không sao đâu. Nó vào trong rồi chiều nó cũng ra lại đây thôi.”Tôi hiểu ý bà muốn nói gì nên trả tiền mua gói thuốc đó. Quả nhiên, khi vào gặp tên Công an phụ trách, trong lúc y đang xem hồ sơ, tôi để gói thuốc lá 555 lên bàn và nói : “Mời cán bộ hút thuốc.” Nói là mời nhưng gói thuốc lá của tôi vẫn còn nguyên chưa xé bao. Tên Công an vẫn lầm lỳ, mặt lạnh như tiền, không nói gì và cũng không ngẩng đầu lên. Hắn lấy tay lẹ làng gạt gói thuốc lá vào trong ngăn kéo bàn đã mở sẵn mà tôi nhìn thấy đã có sẵn mấy gói thuốc lá 555 ở trong. Trong khi đó hắn giả bộ kiểm soát những giấy tờ tôi mang theo để bổ túc xem đã đầy đủ chưa một lúc rồi nói tôi có thể ra về.

Sau nhiều lần bổ túc hồ sơ ở nhiều chỗ khác, rồi khám sức khỏe, chụp hình, lăn tay, phỏng vấn tôi mới nhận được giấy báo hồ sơ của tôi đã được chấp thuận để chờ ngày lên đường. Nhưng trước khi để được lên đường, tôi còn phải trải qua nhiều thủ tục cũng nhức đầu không kém. Nào là phải có giấy không thiếu nợ ngân hàng. Ngân hàng VC còn nợ tôi thì có chứ tôi nào có vay mượn gì của ngân hàng VC đâu mà thiếu nợ. Trước 1975, tôi có khoảng mấy trăm ngàn đồng tiền VNCH trong sổ tiết kiệm của ngân hàng Việt Nam Thương Tín chưa kịp rút ra nhưng VC nói họ không có trách nhiệm gì về số tiền này. Trái lại, đối với những ai có vay mượn tiền của Ngân hàng trước 1975 thì họ lại nói, họ là người tiếp quản Ngân hàng nên họ có quyền truy thu những món nợ này. Có những món nợ khi trước chỉ khoảng vài chục ngàn nay cộng với lãi suất lũy tiến từ đó cho đến nay, đã bị kết toán lên đến mấy trăm triệu đồng. Dĩ nhiên, những người này phải “chạy chọt” chứ làm gì họ có đủ số tiền lớn như vậy để thanh toán. Hơn nữa, dù có nợ hay không có nợ Ngân hàng (như tôi) thì ai cũng phải mất một số tiền để có được tờ giấy chứng nhận không nợ Ngân hàng.

Một loại giấy tờ khác rắc rối nữa là giấy xác minh không vướng bận về vấn đề nhà đất. VC đưa ra một quy định vô lý là cấm mua bán, sang tên chủ quyền nhà đất đối với những người xuất cảnh nguyên là những Sĩ quan chế độ cũ : từ cấp Thiếu tá trở lên cho các Sĩ quan Quân đội và từ cấp Trung úy trở lên cho các Sĩ quan cảnh sát. Tôi là một Sĩ quan Cảnh sát cấp Đại úy nên phải giao căn nhà của chúng tôi ở chung cư Minh Mạng - Q.10 - Saigon cho chúng; đã thế, tôi còn bị chúng bắt phải làm đơn xin nhà nước quản lý giùm vì nhà vắng chủ, thế có tức hay không (?) Không những vậy, chúng còn truy thu, bắt chúng tôi phải nộp tiền thuế thổ trạch cho căn nhà chung cư này kể từ khi chúng được xây cho đến nay. Thiệt là một điều vô lý vì nhà chung cư, mà lại ở trên lầu như nhà của chúng tôi, thì làm gì có đất đâu mà phải nộp thuế thổ trạch. Nhưng thôi, coi như “thí cô hồn” cho chúng, tôi nghĩ vậy. Thế là tôi lại phải tốn mất mấy chục ngàn tiền thuế thổ trạch cho yên chuyện.

Để tránh bị trục trặc vào giờ chót, tôi đã nhờ một văn phòng dịch vụ lo trước các giấy tờ liên hệ. Lúc các giấy tờ đã xong, hai ngày trước khi lên đường, tôi hẹn sẽ giao chìa khóa nhà cho phường rồi đến ở tạm nhà chị tôi cho đến ngày ra phi trường cho chắc ăn. Tuy nhiên, trước khi giao nhà cho Phường, tôi đã tháo gỡ hết những cửa sắt, bóng đèn, ổ điện trong nhà đem bán ve chai hay cho người nhà cho bõ ghét. Đến ngày hẹn, hai tên Cán bộ Phường đến nhà tôi để nhận chìa khóa. Chúng hỏi :

- Nhà sao không có bóng đèn và ổ điện sao hư hết rồi ?

Tôi nói :

- Đây là nhà của chúng tôi, chúng tôi giao lại cho nhà nước nhờ quản lý giùm trong thời gian chúng tôi ra nước ngoài. Nó như thế nào thì các anh cứ tiếp nhận như vậy. Hôm nay, tôi chỉ có nhiệm vụ giao chìa khóa cho các anh thôi. Các giấy tờ liên hệ tôi đã được cấp đầy đủ rồi.

Hai tên Cán bộ hơi bị quê, biết không thể làm khó dễ gì được tôi nên quay sang nói chúc tôi lên đường may mắn.

Hai ngày cuối cùng ở nhà chị tôi, tôi hầu như không ngủ được. Chị tôi và em tôi cũng thức theo tôi ngồi nói chuyện với vợ chồng tôi đến tận nửa đêm. Chúng tôi ôn lại những kỷ niệm và dặn dò nhắn nhủ nhau đủ điều.

Đến ngày chính thức ra phi trường Tân Sơn Nhất để ra đi, cảnh chia tay thật là bịn rịn. Chị tôi rưng rưng nước mắt nắm tay tôi lúc chúng tôi phải bước vào phòng cách ly trước khi đi ra sân bay. Từ cửa sau phòng cách ly, chúng tôi bước ra ngoài sân bay để đi ra máy bay. Tôi không dám quay đầu lại vì tôi sợ tôi cũng sẽ khóc khi thấy chị tôi đang khóc đứng nhìn theo chúng tôi. Tôi biết từ nay tôi đã xa chị, người chị cả thương yêu của tôi. Và cả cái đất nước này, chỉ trong chốc lát nữa thôi, tôi sẽ xa rời nó mà chưa biết đến bao giờ mới trở lại.

Trong lúc chúng tôi đi đến chiếc máy bay đậu ở đằng xa, tôi thấy có một ông trung niên đã bước lên cầu thang máy bay. Khi đến trước cửa máy bay, người đàn ông này đã quay đầu lại nhìn về phía phòng khách phi trường, rồi bất ngờ ông quỳ xuống chắp tay lạy ba lạy trước khi bước vào bên trong khoang máy bay. Tôi không hiểu, ông lạy giã từ đất mẹ, hay ông lạy cám ơn trời đất đã cho ông được thoát khỏi cái “thiên đường” Cộng sản này.



Toàn Như