PDA

View Full Version : Ái Ưu Du > Truyện Tình Xa... Nhớ... Nhiều... !



Tinh Hoai Huong
07-03-2009, 06:32 PM
:rose:



Tình yêu đã đem lại cho lứa đôi niềm an thư, vui vẻ, hạnh phúc trong mấy ngày, rồi cũng đem đến cho nhau bao nỗi ưu buồn, lo âu và run sợ. Do có gay gắt đột ngột giữa chị Khánh và chuyện hai người yêu nhau, nên chàng không xuống nhà chị Khánh nữa, mà “hai anh chị nhỏ” lén lút hẹn nhau ở nhà anh chị Tuế.
Việc anh chị Tuế bao che, “chứa chấp nàng, và chàng” có nghĩa là chị Tuế cho họ ngồi nói chuyện với nhau trong phòng khách thôi, cũng khiến chị Khánh nổi giận hơn. Chị Khánh gọi chị Hách (vợ anh Tuế) qua nhà la cho một trận. Thế là con nhỏ hết đường đi. Chị Khánh dồn cô em vào ngỏ cụt không lối thoát, tiến thối lưỡng nan rồi. Đêm đêm nằm úp mặt xuống giường, con nhỏ khóc ướt gối.
Khi nhỏ chạy qua được bên nhà chị Hách, chàng đã đợi con nhỏ ở đó ba giờ liền. Nam và Mười đi lên giáo đường “con gà”, hai cô cậu quỳ bên nhau cầu nguyện thật lâu, mong cho lòng thanh thản, dịu êm đôi chút. Nhỏ không thể ngăn dòng nước mắt uất nghẹn tuôn trào. Nàng thì thầm van xin cùng Mẹ Maria, cho mình thoát khỏi đắng cay, xin gìn giữ tình yêu bền chặt, lâu dài.
Khi quá lo âu, đau khổ, buồn phiền, run sợ cùng tuyệt vọng, người ta thường tìm đến Đấng Tối Cao nhiệm mầu, xin Ngài mở rộng vòng tay từ ái. Ngài là nơi an hoà, bình yên, yêu thương tuyệt diệu, là điểm tựa vững chắc miên viễn. Chàng cũng rướm lệ, uất ức, buồn phiền, khi qùy trong giáo đường. Năm lấy khăn tay lau khô hàng nước mắt trên má nàng, và tự lau nước mắt.
Ra khỏi giáo đường nàng và chàng đến văn phòng hội quán, nơi chị Hách làm việc, chàng giúp chị đánh máy thật nhanh, chị Hách mừng lắm. Mấy chị em buồn rầu chuyện trò nho nhỏ, chị khuyên nhủ hai em cố chịu đựng, lo gắng học hành cho có tương lai. Chị nồng nhiệt an ủi, vỗ về hai em. Chiều đến, ba chị em chia tay, mỗi người đi mỗi nơi.
* * *

Nam trằn trọc trên giường, chàng vắt tay lên trán nghĩ ngợi mông lung, đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ đóng kín. Nam không thấy gì hơn là nỗi tức giận, buồn phiền. Nam muốn đến nói thẳng, nói thực, nói với chị Khánh. Nhất là Nam sẽ nói nhiều với nàng khi ngày chia tay gần kề, chàng sẽ nói với người con gái, tha thiết hơn là bạn thân, dù chưa là vị hôn thê, chưa là vợ chàng, rằng:
- Anh yêu Mười – Em quan trọng hơn thế gấp ngàn lần, trong đời của Phương Nam nầy. Bởi vì Mười chính là Tình Yêu. Và, anh đã yêu em nhiều, yêu nhiều lắm! Cho dù mai đây anh sẽ xa xa xa... Mười. Nhưng anh luôn nhớ nhớ nhớ... Mười. Anh mãi thương thương thương... Mười. Nhiều! Nhiều! Nhiều...! Tình yêu, là hạnh phúc duy nhất trong cuộc đời anh, sao bây giờ vô cùng mong manh bé nhỏ, đau buồn đến thế!? Như đám mây hồng thoáng bay qua nơi tầm tay, Nam không thể làm cho lòng mình yên vui thanh thảng lại tháng ngày hồn nhiên, nên thơ, yên vui xưa cũ. Hở em!?
Nhưng sao hôm sau, khi chàng gặp Mười trong chốc lát thì, những lời định nói - ngọt ngào như trái dâu chín nép bên lá xanh, bỗng dưng rụng rời, khô héo, tóp teo, như trái dâu đã hong khô trên giàn bếp! Bây giờ Nam không nói được, mai kia giữa Sài Gòn và Đà Lạt, hay giữa Sài Gòn và Huế xa xôi nghìn trùng, sẽ ngăn chia biết bao sông núi ao hồ, tít mù ngót nghìn cây số đường trường, xa xăm đến tận chân trời mút tầm mắt, đường dài như vô tận. Mười và Nam sẽ bị ngăn cách bởi không gian, thời gian, bởi đỉnh núi rất hiểm trở, biển đèo, hồ ao, sông ngòi vạn dặm, chia lìa bởi vực thẳm cheo leo hun hút. Mặt cách mặt, lòng xa lòng. Biết ra sao ngày sau!? Bây chừ muốn nói; mà chàng sẽ nói gì đây?
Buổi trưa ngày thứ mười ba, Nam thấy Mười cùng mấy bạn đi học về ngang qua cầu Bá Hộ Chúc như mọi khi, Mười không cười nói tung tăng vô tư như trước, nàng lầm lũi bước đi bên bạn. Bỗng chàng thấy hai chị Lê, Khánh, từ trong ngỏ Đoàn thị Điểm đi ra, hai chị đứng sững lại chỉ chỏ con nhỏ em, nhìn Mười chằm chằm. Nam không hiểu Mười có thấy hai chị không, mà nàng cúi đầu lẫn trong các bạn đi lên con dốc Bà Triệu, về nhà?
Tựa lưng bên cầu Bá Hộ Chúc, cây cầu gỗ đen sì như tương lai hắc ám của người bạc phận. Chàng nhìn theo bóng Mười mãi. Khi bóng nàng dần khuất sau dốc vòng cao, Nam quay người chống hai tay lên thành cầu, anh cúi nhìn khá lâu xuống con suối chảy siết dưới chân cầu. Nước chảy qua cầu cuộn sóng, cuốn theo cây lá bồng bềnh trôi lênh đênh trên mặt.
Tự dưng chàng cảm thấy buồn bã, đơn điệu, trống vắng vô ngần; một sự đau đớn phiền muộn nặng nề, đầy bức xúc phủ chụp xuống tâm hồn Nam, khiến chàng buông nhiều tiếng thở dài. Nam quên tiệt, và không thể ngờ bên kia quán cóc của cô Lượm, có hai bà chị của Mười còn đứng như trời trồng, họ đang dán mắt nhìn Nam, theo dõi từng cử chỉ nhỏ nhặt nhất của chàng.
Nam đến chào gia đình anh chị Lê, chị Khánh, chị Hách, để ngày mai chàng về Sài Gòn. Còn Mười thì xin phép chị Khánh cho mình đi nói chuyện "dứt khoát với Nam".
Ngày cuối cùng sánh bước bên nhau. Nam âu yếm hôn lên đôi mắt nàng ứa lệ. Chàng không thổn thức như nàng, nhưng hai hàng lệ từ trong tuyến nước mắt Nam tự động lăn trên má, uất nghẹn. Vì, nhiều điều không thể nói hết, vì bao trăn trở ưu phiền, lo lắng buồn đau, tức giận chính thân Nam chưa đem đến cho Mười có điều vui, chàng mong Mười là người trước tiên cần an hòa trong tâm hồn. Sau là để hai chị lớn của Mười thấu hiểu, thông cảm, yêu thương cô em của họ hơn.
Dòng lệ chảy từ đôi mắt dấu yêu từng nén lại nỗi nghẹn ngào, uất ức có tác dụng mạnh hơn cả ngàn lời chia tay. Nỗi đau của Mười, Nam, đột ngột bất ngờ phủ chụp xuống đầu, khiến họ không thể chịu nỗi cuộc chia tay, chưa hẹn ngày tái ngộ ở phương nào? Họ không lường chuyện gì sẽ xảy ra từ phía trước. Nơi Mười sẽ đến, nơi chàng quay về chốn phồn hoa đô hội cũ? Nơi họ sẽ sống thấp thỏm lo âu, khắc khoải mòn mõi, bồn chồn, quắt quay nỗi đau, nỗi nhớ, nỗi thương yêu và, nỗi ân hận dày vò.
Ngồi trên đám cỏ bồng bềnh ở góc đường Phạm Phú Thứ, hai bạn nhìn xuống nhà thờ Tịnh Tâm. Họ cảm thấy rã rời, đau đớn, cái đau tâm hồn làm dại khờ thể xác. Nam và Mười, không muốn cất bước dìu nhau đi nhặt trái thông khô, hái hoa hoặc lượm lá vàng rơi, đem về ép trong trang sách. Mặc dù thả bộ trên con đường rợp bóng cây nhặt lá hái hoa là điều hai người cùng yêu thích. Họ nhìn xe cộ, người người qua lại rải rác.
Thỉnh thoảng có nhiều đôi trai gái nắm tay nhau cười vui tung tăng trên đường. Không hiểu chàng nói điều gì, khiến cô gái cười dòn tan, đầy vui thích. Có lẽ họ là những cặp tình hạnh phúc thực sự, không rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt, gia đình họ không lấy “quyền huynh thế phụ”, buộc em chấm dứt đủ mọi thứ. Nhất là buộc em nghỉ học trong lúc mùa thi cử sắp đến, mất cả niên học, chẳng còn cơ hội đến trường. Nghĩ vậy, nàng càng tủi thân, thương cảm biết mấy!
Chàng cầm tay Mười, âu yếm nói:
- Nếu gia đình quyết định về việc em ra Huế, Thì cho anh biết gấp. Nhé.
Mười gật đầu im lặng. Chàng ôm chặt Mười trong vòng tay thư sinh, như sợ Mười sẽ xa mình, cô nhỏ sẽ tan biến vào giấc mộng trắng toát tuổi học trò. Nam dặn dò:
- Giữ liên lạc thường xuyên nhe. Chờ đợi anh, đừng nãn lòng nhe. Lúc nào buồn, nhớ viết thư thật dài, kể cho anh nghe về mọi sinh hoạt của em, qua đó, anh có thể an lòng. Tình yêu của anh. Hạnh phúc của anh ở nơi nầy.
Chàng chỉ tay lên ngực nàng, nơi Mười đeo một mặt dây chuyền vàng, có khắc chữ NM.
Đó là lời trao yêu tha thiết, chân thành nồng nhiệt, lời hứa hẹn đầy ắp ân tình trìu mến, tương kính như tân. Bằng cử chỉ dịu dàng, thân ái và trân trọng, Nam đắm đuối hôn lên môi Mười, nụ hôn có nhiều vị đắng, vị cay, vị chua, vị mặn, vị nồng, từ hai hàng nước mắt lăn xuống, để bù đắp lại bao trống vắng, chia lìa mai đây.
Xa! Xa! Xa... là xao xuyến, nhớ nhung ngẩn lòng. Là mến tiếc bâng khuâng. Là lo lắng băn khoăn, bồn chồn ray rứt. Là bất ổn đớn đau trong lòng nhiều lắm! Là quạnh vắng nhớ thương, mòn mõi đợi trông. Là suy tư đắm chìm về từng kỷ niệm, vui buồn xếp lớp lăn tăn trong tiềm thức. Là kéo dĩ vãng về với hiện tại, để sống cho tương lai. Là ước nguyện và hy vọng trùng phùng một thuở bên nhau. Là nguồn yêu thương chân thật, an ủi nhất. Là điểm tựa cuối cùng, trong muôn điều đắng cay, đau khổ, vừa ập đến. Và, thực tế là xóa sạch nỗi hận không ngờ, tẩy bỏ niềm đau buồn đột ngột, làm bàng hoàng, vò xé, ân hận, thương tổn tình yêu ít nhiều.
Ôi! Còn đâu nữa những tiếng cười hồn nhiên, rơi trên từng giọt mực tím trái mồng tơi? Còn đâu sự ân cần âu yếm, gọi nhau bằng "bậu" mà xưng là "qua". Hoặc như người miền Bắc ngọt ngào xưng "đây" goị "đấy". Hay là “ta” với “mình” ríu ra ríu rít âu yếm thủ thỉ bên tai.
Thôi! Em hãy về bên con sông Hương điệp trùng xa cách, em uống nước thượng nguồn, sẽ nhớ người anh hậu giang. Em như con cò hiu hắt đơn độc, nép mình bên bờ ruộng khô lững thững côi cút đi tìm mồi. Anh muốn mình hóa thành bóng mây bồng bềnh, lang thang phiêu lãng cùng Mười bay về vùng trời quê hương của em, hai đứa mình sẽ cùng nhau nhìn con đò êm êm, lướt nhẹ trên dòng sông xưa, mà có lần Mười thân thiết gọi:
- Con thuyền hoa chở Mười đi gặp Nam".
Chúng ta sẽ cùng nhau tìm lại dĩ vãng hoang dại, có một thời thân thương xiết đỗi mến yêu dưới mái nhà ấm áp, gợi nhớ bữa cơm chiều thân mật. Anh sẽ về tìm em, nơi phương trời xa xôi vạn dặm ấy, nơi xứ lạ phương xa mà anh chưa hề biết đến. Anh sẽ về tìm em, dù xa xôi và muôn vàn cách trở. Anh sẽ về bên em, dù bất cứ giá nào!
Nghĩ vậy, nên chàng quá thương yêu Mười, Nam càng ôm chặt nàng vào lòng, dường như chàng sợ mất cô em. Nam muốn ghì xiết Mười, như con sên suốt kiếp bám chặt vào ốc vỏ.
Những giờ phút cuối trong giờ chia tay thật yên lặng, buồn bã, đầy xúc động bên nhau. Hai người thong thả đứng dậy, từ từ dời gót như còn cả tương lai và chân trời trước mặt, họ không vội vàng chi. Một giờ trưa. Họ dìu nhau đi thật chậm trong lòng phố thênh thang. Cúi đầu trên mái tóc nàng, một tay chàng xách valy, một tay Nam ôm bờ vai người yêu bé nhỏ.
Nam, Mười, đứng khuất sau bức tường, trên bến xe cũ, ở đường Hàm Nghi. Họ ngắm nhìn nhau, không thốt lời nào. Hình như trải qua bao nhiêu đắng cay, buồn phiền, trong tích tắc thời gian nóng bỏng nhất, cổ họng họ đã tuôn trào mật đắng. Đắng nghét. Không còn hơi sức thốt nên lời.
Chàng lấy mũi dao nhỏ, trong cái kéo bấm móng tay, khắc vào bức tường:

Nam + Mười


_ * _

Ái Ưu Du

loibangTQLC
07-03-2009, 10:00 PM
Thân tặng bạn AUD bài thơ để cám ơn về bài viết trên


Núi Nhớ

Chiều đầu sông ngóng cuối sông
Quê ai một rẻo lau bồng lẻ loi
Nước nguồn cuốn lá nguồn trôi
Thừng côi cút buộc thuyền côi cút bờ

Bơ vơ này níu bơ vơ
Kia mây núi vấn mây chờ nẻo mây
Nhớ khôn nguôi với dặm dài
Trước sau cách một miên trường

Còn chong đèn nhỏ lửa giường nhớ nhung
Nhớ vời một thoáng chân dung
Bao giờ hết được Vô Cùng thì thôi
Thuyền soi nước cũng bồi hồi

Núi kiên tâm vấn mây ngồi để tang
Chim tha thế kỉ bộn bàng
Chiều về trọ nghỉ nóc hoàng hôn cao
Nao nao sóng bóng thuở nào
Dặt dìu nước tỏ tường sao đậm đà
CTT

Tinh Hoai Huong
07-21-2009, 07:52 PM
:rose:





Sáu giờ sáng phố nhỏ chìm trong biển sương mù trắng xóa, khí trời ban mai thoáng mát, tỏa lạnh cùng khắp núi đồi. Thoang thoảng hương bưởi thơm từ ngoài vườn bay vào. Thật dễ chịu.
Mười thức dậy, mở tủ lấy áo lạnh mặc vào, nàng xuống bếp cắm điện nấu nước sôi. Pha cà phê cho anh Khánh uống, (anh đi làm sớm tại Hotel Palace, anh nổi danh là một cây đánh ténnis xuất sắc, anh thường giật cúp vàng, bạc, mỗi khi thi đấu cùng các cao thủ từ Thủ Đô đến dự tranh. Mấy chiếc cúp danh dự đang chưng bày nơi phòng khách. Anh có biệt danh là Tư Cóc. Giới thể thao Đà Lạt và khu xóm nầy, không mấy ai không biết tên anh).
Anh Khánh ngạc nhiên hỏi:
- Sao hôm nay cô đặc biệt thế?
Nàng ngại ngùng ghê. Làm sao nói được! Làm sao nói hết những xôn xao trẻ dại của người con gái trước cảnh đời rộng mở hôm nay!
Cả nhà thức dậy khi mặt trời bừng lên ở phương đông. Mặc áo dài ''hắc y nữ hiệp", Mười thích màu tím, màu đen, màu vàng. Không hiểu tại sao thích màu ấy!? Vừa mặc thêm áo lạnh màu xanh cẩm thạch, chị Khánh gọi:
- Mười à! Ra đây chị biểu cái nầy.
- Dạ.
Trống ngực đánh loạn xạ. Nàng hồi hộp lo sợ khi vào nhà kho gặp chị. Chị kiểm lại kho lương thực; chị nhìn em từ đầu đến chân, rồi nói:
- Đi đóng tiền huê ngoài cô Ba Chỉ cho chị, lúc về mua một bóng đèn tròn, mua hai chục hoa hồng. Nhớ chưa?
- Dạ nhớ.
- Tính đi đâu đó?
- Em trả phù hiệu, chưa trả trường, chị à.
Không nói gì, chị đưa tiền và giấy tính tiền, chị và nhìn nàng y như lần trước. Lồng ngực bé tí xíu của cô em nổi lên nhịp trống, mạnh đến nỗi em sợ chị nghe thấy, thì phiền lắm. Đây là lần đầu Mười nói dối ngọt xớt.
Ra ngã ba Đào Duy Từ và Yersin, Mười thấy Nam mặc bộ complé, đi tới đi lui ở điểm hẹn, điếu thuốc đỏ gài trên môi. Từng làn khói vờn quanh khuôn mặt vật vờ bay lên. Nhìn thấy nàng, chàng vứt điếu thuốc xuống lề đường, chàng lấy gót giày dậm tắt, tiến về phía nàng, Nam cười vui. Mười hỏi:
- Nam chờ Mười có lâu không?
- Mươi phút thôi, nhưng thấy… lâu ơi là lâu.
- Em đi đúng giờ mà.
- Đồng hồ tự động biết anh sốt ruột. Nên co giản kiểu cao su ấy mà.
- Nó hợp gu với hoàn cảnh của mỗi người. Anh nhỉ.
Nhìn nhau mỉm cười âu yếm, ánh mắt trao đưa nồng nàn. Đón taxi ra phố, Nam nghiêng đầu trên mái tóc nàng, giọng nói êm ái, hơi thở ấm áp len vào tóc nàng:
- Đêm qua, em ngủ có ngon giấc không?
Nàng nũng nịu lắc đầu không nói, Nam tiếp:
- Anh cũng vậy, trằn trọc mãi không sao ngủ được. Khiến hai bạn mất ngủ luôn. Thạch, Trung, dậy trêu phá anh một hồi lâu. Họ pha cà phê uống, hút thuốc. Ra balcon ngắm thành phố mờ ảo, ẩn hiện trong biển sương mù. Bây giờ hai anh đó ngủ li bì. Mười có biết tại sao chúng mình ngủ không được. Hả em?
Tại sao? Nàng biết rồi. Biết, nên em nép đầu bên vai anh, e ấp kéo mái tóc dài che bớt bên má dấu nỗi thẹn thùng; cho chàng đừng trông thấy. Bởi vì, có nhiều điều quá sức lạ lùng, đến nỗi tim mình như chạm phải dòng phún thạch.
Xe ngừng ở đầu tiệm Vĩnh Hòa, hai người làm công việc chị Khánh dặn xong. Nam mua quyển sách "Kim chỉ nam của học sinh" do Nguyễn Hiến Lê" viết. Mua tờ nhật báo. Mua kẹo, chewing gum. Chocolate. Nam định đón taxi, nhưng nàng gạt đi, sợ anh tốn tiền. Vả lại tản bộ bên nhau thú vị biết mấy. Dù cõng thêm mấy thứ đồ đạc, lỉnh kỉnh lủng củng. Nhất là có cái nón lá kè kè nữa chứ! Mặc kệ! Chả sao cả.
Qua khỏi cầu Ông Đạo rẻ về lối Thủy Tạ. Nam vội nắm tay nàng dừng lại chờ chiếc xe hàng qua mặt. Có thế thôi. Phải! Chỉ có thế thôi. Thế mà, đôi bàn tay hai người chợt nóng chợt lạnh, như có dòng điện vút qua. Khiến tay nàng run rẩy trong tay chàng. Dù chỉ có thế thôi. Nam mỉm cười thầm nghĩ: “Từ giờ phút nầy trong tâm tư của anh và em, sẽ luyến lưu ngọt ngào và chẳng bao giờ lặng yên nữa”.
Hai người thả bộ xuống cuối Thao Trường, họ ngồi dưới chòm thông cao, xanh ngắt, ngút ngàn. Nhìn xéo về hướng trước mặt là vườn Bích Câu Kỳ Ngộ bên kia hồ. Thỉnh thoảng Mười bóc chewing gum đưa cho chàng; Nam bóc chocolate đưa nàng. Nam đốt điếu thuốc thơm; vì gió lộng thổi nên chiếc nón lá Mười đội trên đầu bay vù vút vút ra trên mặt hồ. Ô hô! Mất nón rồi, Mười sẽ về nói dối làm sao với chị đây cho khéo nhỉ?
Mười lấy tờ báo che chiều gió. Vẫn không cháy, lần nầy nàng lấy chiếc veston của Nam đang vắt trên băng ghế đá, và trùm trên đầu hai người, phía trước vẫn che tờ báo. Đánh hai cây diêm một lúc, chàng cười, nói:
- Lần nầy nếu không có lửa, anh bỏ hút thuốc thật.
- Anh nói thật nhe.
- Ơ... nghe hù vậy, sợ anh giận, nên gió ngừng thổi, anh có lửa hút thuốc kià. Em có bắt chước gió. Dỗ dành khi anh giận không em?
- Em không thèm dỗ người thích hút thuốc.
- Khổ thật.
Chàng quàng chiếc áo veste lên vai nàng cho đỡ lạnh, Nam âu yếm cụng nhẹ vào đầu nàng. Hơi thở ấm nồng vương trên làn tóc rối, như làn sương mong manh. Chàng cầm tay nàng, Nam muốn nhìn đôi má đào ửng hồng ấy, ngắm hai hàng mi cong cong chơm chớp, bẽn lẽn ngại ngùng ấy, thấy hàm răng trắng bóng đều đặn, e dè cắn lấy làn môi Mười. Nam rất yêu nàng vì nét ngây thơ hồn nhiên, pha chút bối rối thẹn thùng của tuổi thơ ngà ngọc xanh ngát, đôi mắt Mười sáng long lanh chưa vương bụi đời, và Nam yêu nụ cười nàng rạng rỡ làm thắm khuôn mặt. Nhất là Mười thông minh, hiểu Nam, nàng cảm nhận sâu sắc điều mình chưa diễn tả về vấn đề nào đó.
Ôi! Nam yêu Mười như trời yêu đất. Như suối yêu ngàn. Như chim yêu cánh. Như cây yêu cành. Như đồi thông yêu tiếng thông reo. Như dãy trường sơn yêu mây tím lưng trời. Như tinh tú yêu hằng nga. Như sao yêu đêm. Như cá yêu nước. Như Nam từng ngất ngây yêu Mười, như những… “nàng yêu chàng” trên thế gian nầy.
Nam muốn thì thầm khe khẽ nói với Mười điều nầy, nhưng em đừng giận nhe:
- (Phải rồi em ạ! Trên đời nầy, nếu không có em, thì từ nay xin sẽ không còn anh. Chúng ta hãy xiết chặt tay nhau đi hết cuộc đời, có khi phẳng lặng bình an, hay có lần dốc đá cheo leo cách trở. Em nhé. Từ ngày hôm nay, của anh là của em. Tương lai cuộc sống của Nam là của Mười. Đếm được bao nhiêu sao trên trời, anh sẽ gom lại. Trao về em bằng ngần ấy tình yêu tha thiết, nâng niu và trân trọng. Tất cả. Bầu trời, tinh tú, gió mây, sông nước, biển cả, núi non, ao hồ. Trên vũ trụ nầy là của chúng ta. Của muôn người yêu nhau say đắm trên trái đất. Ta theo nhau suốt đời, dù có “ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa”. Cũng đành. Em có muốn anh thổ lộ tâm tư thầm kín trong đáy lòng anh? Hay là em đã biết tỏng tong rồi! Khiến anh cảm thấy ngại ngùng, không dám nói ra).
Nhìn chiếc áo veste khoát trên vai, Mười nói:
- Tóc em cùng màu, với chiếc áo anh.
- Về nhà nhớ em, anh chỉ biết đem chiếc áo ra nhìn. À, mấy câu thơ nầy trong: “Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế Giới”. Anh đọc lại, em nghe nhé: "Anh nhớ nụ cười, gương mặt, suối tóc, làn môi, Anh nhớ em ngay từ buổi chia phôi. Anh mong mỏi ngày về, gặp gỡ".
Hai người chụm đầu bên nhau thảo luận một hồi lâu, sau đó cùng làm bài thơ kỷ niệm: Tiễn Anh.
Bàn tay lại tìm nhau vấn vít bàn tay, cho tim Nam tan ra trăm ngàn mảnh, cho lòng dạo khúc hoan ca, mừng vui cuống quýt. Ôi! Đôi mắt ấy quyện hút lòng chàng, soi dọi vào lòng Nam vùng trời tình yêu có hào quang rực rỡ huy hoàng. Nơi ấy hứa hẹn bến bờ hạnh phúc đời mình. Là suối mát, tình yêu bất diệt. Là giấc mơ hoa không lụi tàn.
Mười một giờ trưa, họ dìu nhau trở về trên con đường lộng gió dưới bóng mát hai hàng cây xá lị ven đại lộ quạnh vắng dẫn qua lối Hotel Palace nên thơ. Họ không thấy mỏi mệt, lòng chợt lắng xuống với niềm vui thả bộ. Ôm mấy thứ lỉnh kỉnh, tay kia chàng nắm tay Mười như sợ "em tôi thất lạc" mất. Nam nói:
- Nếu em bị mệt mỏi, vì phải đi bộ nhiều hôm nay. Lát nữa về nhà, em pha khoảng trăm gram muối cho vào nước ấm mà tắm. Hoặc ngâm chân trong xô nước ấm có pha muối. Em sẽ thấy dễ chịu ngay.
Chưa kịp trả lời Nam, chợt Mười nghe tiếng ai gọi tên mình ơi ới sau lưng. Nàng giật mình quay nhìn. Thì ra Nhan chở Nga bằng xe gắn máy, họ chạy về đường Trần Hưng Đạo. Hai cô bạn nhìn Mười và cười tít mắt. Nhan giơ cao nắm đấm dọa nàng. Còn Nga giơ cạnh bàn tay cứa lui cứa tới ngang sau gáy Nhan. Và chỉ về phía Mười. Họ cười ngất. Mười ngẩng nhìn Nam, thỏ thẻ nói:
- Chết rồi! Bị bắt gặp, mai mốt tha hồ họ làm tội, làm thịt em. Anh à.
- Em có sợ không?
- Ồ! Có chứ. Thầy Đệ còn sợ đám học trò, và có em. Họ nghịch như "quỷ xứ". Nhưng... anh có biết, ai là đầu đảng không vậy?
- Chắc là... em rồi đó.
Mười nhìn anh, phì cười:
- Anh đoán hay thật.
- Nếu không hay! Sao ngày đó anh làm quen em được kià.
Nàng kể nhiều chuyện đùa nghịch trong lớp cho chàng nghe. Họ khoái chí cười to. Lúc đi ngang qua bưu điện, Mười ghé vào lấy thư lưu trữ. Đúng như dự đoán, có thư Nam. Thư gửi trước cả tuần; sau đó chàng mới lên Đà Lạt. Thế mà người đã đến trước thư. Nàng yêu cầu chàng đọc thư cho mình nghe. Nam mỉm cười cặp mấy quyển sách, báo, ở dưới nách, chàng đưa chục hoa hồng, nhờ nàng cầm hộ. Xé thư ra, Nam làm bộ hắng giọng mấy lần lấy hơi, để trêu đùa Mười, chàng bắt đầu đọc:

Sài Gòn, ngày 26 tháng 10 năm l9...

Em Mười thân ái,


Vừa ở thư viện về, thì Toma cho anh biết có thư em. Anh mừng quá định lấy thư xem. Nhưng chú ta không chịu đưa. Nó cầm phong thư chạy lên lầu ba, lên sân thượng. Bắt anh chạy theo năn nỉ nó, bằng cách là anh phải đãi nó một chầu ciné, và ăn cơm ở tiệm ở Victory. Chú ấy mới chịu đưa thư cho anh. Thế đấy.
Mười ơi! (Em dạ đi) Khỏi cần dài dòng, em biết là anh nhớ em như thế nào rồi. Nhất là buổi chiều trời mây vần vũ trên Đô thành. Con đường Duy Tân xám ngắt như cuộc đời của chàng trai đang nhớ người yêu. Nam nhớ Mười. Anh yêu em. Và lòng anh cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn.
Anh ngồi đây giữa cánh thư màu xanh và những xương hoa, mà em đã ép rồi gửi về anh. Ah ha! Nói đến hoa, anh phải nghĩ đến Đà Lạt. Nhớ đến hoa anh nhớ Đà lạt. Chỉ vì ở Đà Lạt mới có đầy đủ một vườn hoa thành phố núi, đủ mọi loài hoa tuyệt diệu: Từ loài hoa Daisy. Tulip. Pensée. Mimosa. Violette. Forget Me Not. Mãn Đình Hồng. Anh Đào. Mồng Gà đỏ tía. Hoa Mận. Hoa Roi. Hoa Huệ. Hoa Lan. Cả loài hoa phù dung rất đẹp. Hoa qùy cánh lá toả rộng mọc dễ dàng, ở bất cứ nơi đâu. Không cần ai chăm sóc, nó vẫn xanh lá vàng hoa bốn mùa nữa chứ! vân vân...
Tại thành phố muôn hoa đó. Có cả người con gái khá độc đáo. Mà, anh rất yêu. Nàng ưa ép hoa trong trang sách học trò, rồi gửi trao tặng anh. Anh ngồi đây với suy tư chất chồng, qua phong cách em viết thật đặc biệt. Lời lẽ trong thư giàu chất thơ, pha lẫn tính bông đùa tươi trẻ của mạch văn. Khiến người đọc cảm thấy mình sống lại tuổi thơ rong chơi thuở thiếu thời. Em như viên đá lóng lánh chói sáng hơn viên đá qúy, mà anh đã gặp. Bởi thế, khi em phân vân hỏi anh:
- "Sao ở nơi xa hoa hào nhoáng. Anh không chọn ai, mà anh chọn em? Em hoang dại vụng về, đơn sơ giữa chốn gió núi mây ngàn nầy thôi?"
- Theo anh nghĩ, đó là một cách nói của người tự biết mình, và biết người nữa. Mười yêu! Trăng đêm nay ở Sài Gòn buồn như ánh đèn vàng vọt ngoài phố. Sao rơi rụng từng mảng u sầu. Mây xám nhạt từng cuộn lang thang trôi. Đại lộ Duy Tân càng về khuya, càng ít người qua lại. Khuya về trắng cả tâm tư anh. Tiếc rằng thiếu một cơn mưa phùn, cho trọn vẹn khúc nhạc thê lương đang trổi trong lòng. Ngồi trên sân thượng, anh miên man nghĩ đến em. Nghĩ đến bóng hình tha thiết bắt anh lo âu chờ đợi, (khi anh chưa nhận thư em. Dư âm đó, bây giờ anh còn thấy sợ. Mặc dù anh vừa đọc thư em).
Nầy nhé! Anh ngắt em một cái, để bắt đền cái tội em bắt anh đi bộ theo em trên con đường mưa phùn. Anh nhéo em hai cái; bắt đền tội em giận anh, không thèm viết thư đều đặn như đã hứa. Cào em ba cái bắt đền (nhè nhẹ thôi mà, hổng đau đâu) vì anh nhớ mong và trông chờ. Cấu Mười . . .
Coi kià! Sao em giựt cây bút, không cho anh viết tiếp, thì anh giận em thật à. Ta giận nhau rồi, còn ai viết thư để anh len lén đọc thư tình và khúc khích cười? Còn ai ngắm nhìn em cho tình hồng dâng lên sóng mắt? Ai dìu em đi giữa buổi hoàng hôn sương trắng núi đồi? Ai đưa em về trên vũng nhạc, rừng thơ? Hai người cùng che chung một áo mưa, mặc cho gió bão gào thét trên đôi mái đầu!? Ai đón em đi xem thắng cảnh Đào Nguyên thơ mộng của Đà Lạt như: Cam-Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Suối Vàng, Suối Bạc, hồ Xuân Hương, hồ Lãng Ông, hồ Than Thở, Sân Cù, rừng Ái Ân, Thung Lũng Tình Yêu, Đồi Thông Hai Mộ, cùng nhiều con đường mòn ngoằn ngoèo lượn khúc, ẩn khuất uốn quanh sườn đồi có cỏ nâu vàng mịn óng như nhung?!
Mười ơi! Anh yêu buổi chiều Đà Lạt trời mây vần vũ. Anh thích lang thang theo cánh gió lạc giữa phố phường. Anh yêu những cơn mưa phùn thật nhỏ vướng theo gót chân, trên con đường khuya vắng độc hành. Có lúc một mình anh dừng lại giữa lòng thế kỷ, lần mò túi áo kiếm điếu thuốc lá và gài trên môi, anh ngửa mặt lên trời đêm đầy ánh sao, anh thổi ngụm khói tròn như chữ O, làn khói dần tản mạn trong không gian. Anh vuốt mái tóc phiêu bồng, lại lặng lẽ thả gót giày trên phố hoang vắng. Mang theo hoài bão, mộng ước thời mới lớn. Và một bóng hình em bé nhỏ thân yêu canh cánh bên lòng.
Với biến cố lịch sử, qua bi hài kịch trong cuộc đời đã dự kiến. Tất cả... và tất cả… Anh cố tìm nguồn an ủi từ người em nhỏ ở phương xa. Nhưng sao anh không đủ can đảm viết thư. Dù trong thư anh chỉ viết vỏn vẹn có ba chữ: "Anh yêu em". Hoặc "Anh nhớ Em". Vì rằng... Mười tiết kiệm ngôn ngữ, keo kiệt bút từ ghê gớm. Khiến anh phải dè dặt. Nhưng rồi... em lại hé mở cho người nhận thư, một khung trời suy tư, mơ mộng, dạt dào cảm xúc. Với hoài vọng và hy vọng. Em có biết cho anh chăng? Hay có thế thôi nào!?.
Vâng! Em chỉ có thế thôi. Em không thể hồi đáp lòng khao khát, mòn mõi nhớ nhung nầy hơn qua ba tiếng: "Mười ghét Nam”, hoặc “Nam dễ ghét". Nếu em nói "phản nghĩa" ba tiếng trên, thì qúy giá biết bao! Em nhỉ!
Cay đắng với niềm xót xa muộn màng, anh vẫn thì thầm bên tai Mười ba dấu: chấm chấm chấm ... (tùy em muốn nghĩ gì ở ba dấu chấm chấm chấm nầy thì...) Mười ơi! (Em hổng thèm dạ nữa nghen, em cứ dạ hoài mệt lắm ha). Hôm nào nghỉ lễ, anh và hai bạn tên Ngọc Thạch và Tấn Trung, sẽ lên Đà Lạt quan sát tình hình vài ngày; trước khi anh dự định chọn lên học tại Viện Đại Học Đà Lạt nầy.
Lúc ấy em có chịu cùng anh đi dạo phố phường? Em có vui vẻ chuyện trò với anh? Em có nhớ nhung trong nỗi nhớ nhung tràn ngập cõi lòng anh? Em có vui cho anh cùng vui? Có cười cho anh tận hưởng dung nhan mùa xuân tươi mát? Nơi thiên nhiên cao nguyên Lâm Viên đặc biệt ưu ái đến các kiều nữ có đôi má hồng của xứ hoa đào, em có yêu, một tình yêu hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng mầu lá non không?! Hở em?
Anh mong Mười là gió: hầu thổi về đời anh bao dự định sông hồ của người trai trước ngưỡng đời phiêu bạt. Anh mong em là mây: chở anh bay đến bến sông Ngân Hà ấp ủ nhiều ước mơ và hy vọng. Anh sẽ làm con thuyền yêu vững bền, để đưa nhau ra tận đại dương mênh mông. Nơi ấy có nắng chói, biển cả, bầu trời. Lục địa ở phương xa. Có bến bờ tự do, hạnh phúc vĩnh cữu một đời. Chỉ có Anh và Em - Mười chịu không?
À, em nhớ viết thư đều nhe. Mười không viết thư, (nói nhỏ bên tai em nghe thôi, lỡ các cháu nghe được cười anh, thì anh mắc cỡ, xấu hổ chết được, em à!)… Anh sẽ lên Đà Lạt và khóc nhè ra cho em coi! Em phải dỗ anh mệt nghỉ à nha.
Anh kính lời thăm gia đình chị Khánh, chị Lê, chị Hạnh, Thùy, các cháu. Riêng Mười của anh vui vẻ, mạnh khỏe, trẻ đẹp, vững tiến trên con đường đại học.
Thương nhớ chào em.
Phương Nam.


_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
07-31-2009, 04:25 PM
:rose:
Hoa Mắc Cỡ



Sau ngày mừng Chu Niên trường. Để tưởng thưởng công lao khó nhọc, khích lệ con em có tinh thần trách nhiệm. Biết đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, kỷ luật nhà trường tốt, hăm hở tham gia mọi sinh hoạt cộng đồng. Thầy cho học sinh nghỉ học một tuần. Ăn tiền hốt bạc ở chỗ đó đó! Học sinh còn muốn gì hơn!
Như đàn ong vở tổ, sung sướng làm sao khi tan hàng. Mệt. Nắng. Khát nước. Mỏi chân. Đói cồn cào. Đủ thứ chuyện khiến cô nhỏ muốn khùng. Ra ngoài garage trường, Mười lấy xe đạp về nhà. Nàng thay bộ áo quần bám đầy mồ hôi, bụi bặm. Cô nhỏ mặc cái áo rộng thùng thình, Mười rửa sơ mặt mũi tay chân, rồi xuống bếp lấy xôi thập cẩm ra ăn. Nàng ăn vội vàng như người chết đói lâu ngày. Phát nghẹn.
Bỗng, tiếng chông reo trên phòng khách, nàng bưng dĩa xôi vừa đi vừa ăn, lên phòng khách mở cửa. Nào ngờ... Nam. Phải! Chính chàng đứng chống một tay lên hông, nhìn vu vơ ra ngoài vườn hoa. Nhỏ mừng quá, vội quýnh quáng chạy xuống bếp cất dĩa xôi, nhỏ uống mấy ngụm nước lọc, trở lên phòng khách, định mở cửa. Nhìn áo quần luộm thuộm, thấy kỳ, nhỏ len lén thụt vào phòng thay áo quần tươm tất. Nhỏ soi gương chải tóc trước chiếc tủ đứng, rồi xuống bếp với cái khăn mặt. Đi về say nắng một phần, phần nữa vì vui mừng, mặt nàng đỏ như người uống rượu say.
Chuông reo lần nữa. Chị bếp lên mở cửa, và bưng nước lên mời chàng. Cô nhỏ nhút nhát, e thẹn đi vào phòng khách, mỉm cười chào chàng, rón rén ngồi nép bên sofa. Chàng cười tươi:
- Anh và hai bạn thân là Thạch, Trung, lên Đà Lạt tối hôm qua. Vì sao hở em?
- Nào... ai biết.
- Ghét ghê.
- Em có người thương rồi.
- Biết từ khuya mà.
Hai người nhìn nhau, cười thích thú. Chàng đi về phía tủ trà, lấy giỏ xách da. Quà tặng anh chị Khánh là hộp trà ướp sen, nho, táo. Các cháu hộp đồ chơi chạy pin, mấy thứ nầy, các cu cậu khoái chí ghê à nha. Thùy đôi dép da, cô nhỏ áo nhung màu vàng nhạt, đựng trong hộp kiếng. Kèm hai quyển sách: "Luyện trí nhớ" của Nguyễn Hiến Lê" và "Tình Bằng Hữu" của Tứ Hải. Chị Hạnh chục cuộn len màu trắng, cho chị chuẩn bị đan áo lạnh em bé. Nàng đứng bên anh ta, mỉm cười nói:
- Em cám ơn anh. Anh chu đáo quá!
Khi soạn quà, chàng nhìn nàng mỉm cười nói nhỏ:
- Anh mong từng ngày, sớm lên Đà Lạt. Em biết không?
Nàng ngẩng nhìn đôi mắt màu hạt dẽ, xúc cảm bồi hồi run rẩy, trái tim đập mạnh, co thắt nhảy nhót không đều nhịp trong lồng ngực. Tháng ngày chưa biết anh ta, trái tim nàng đã đập những nhịp đều đặn, thảnh thơi, hồn nhiên, thật an hòa trên cánh đồng tuổi trẻ yên vui. Đến nay thì... trái tim cô nhỏ trổi cơn bão khô, gió gào sóng tuôn, sóng cuốn con thuyền “bé nhỏ” ra khỏi lục địa, giạt trôi trên đại dương bao la. Ở đó “có anh có em”, có cánh đồng đầy hương hoa ngào ngạt thơm, có bông hồng kiêu hãnh đầy gai nhọn. Tình yêu nầy, có phải là hạt kim cương qúy giá, lóng lánh khi còn ở xa, hay chỉ là giọt sương long lanh đọng trên cành cây ngọn cỏ. Lúc ánh mặt trời chiếu lung linh qua kẽ lá? Làm sao nhỏ có thể biết?
Sau một giờ trò chuyện, cô nhỏ tiễn chàng ra về, nàng đứng dưới gốc thông già, nhìn theo anh ta dần khuất với khách bộ hành qua lại. Im lặng nhìn nhau không nói, nhưng ánh mắt trìu mến, nụ cười ấm áp ngọt ngào như nói muôn lời, như trao nhau nghìn ý.
Chị Khánh đã nói chuyện với chàng khoảng nửa giờ, nên chị mời chàng đi picnic ở thác Cam-Ly với mấy dì cháu. Chị hiếu khách, vui vẻ, nhã nhặn, đàng hoàng, nhưng khó tính "dàn trời mây", mà không ai ngờ nỗi.
Đúng giờ hẹn, chàng đến nhà. Cùng đi picnic có chị Hạnh, cô nhỏ, Thùy, Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, Trình, Phượng, và hai cháu Loan, Hùng con chị Lê.
Thác Cam-Ly vào một ngày cuối tháng mười êm êm. Mặt trời bơi lên khoảng trời xanh mênh mông, tươi thắm, mát rượi, dìu dịu, an hòa, bình thản đến hững hờ. Lớp sương mù bắt đầu ẻo lả vật vờ, bay lơ lững, rồi tan dần dần. Lộ ra vài ba con đường mòn từ từ bốc hơi, khô từng mảng một. Trên đường, vài người Thượng gùi măng đi chợ sớm. Mấy chú ngựa còn bú mẹ, lông màu xám đậm. Có con lông màu trắng chạng bốn chân yếu ớt, run rẩy, gầy gầy, đầu gối rất to. Con ngựa con cúi xuống uống nước suối. Con mẹ sợ con té xuống suối, nó hí vang kêu tìm, làm huyên náo một góc rừng yên tĩnh.
Chàng và mấy cháu trai, đi tìm cây lá rừng, dựng tạm lều. Trên địa điểm thơ mộng, nhìn xuống lượn suối nhỏ chảy róc rách dưới chân đồi, cạnh tảng đá nâu vàng, nghiêng mình qua bên kia sườn núi. Mây bàng bạc trôi giữa bầu trời êm mát như nhung. Gió thổi nhè nhẹ qua khu đồi thông, tạo thành bản trường ca núi ngàn, hùng vĩ muôn điệu. Cảnh vật chìm đắm dưới bầu trời xanh lơ. Mây trắng lững lờ lang thang trôi, nước trong vắt lặng lờ chảy. Vạn vật chìm đắm trong cảnh êm đềm nên thơ, bao la và thanh bình.
Trên ngọn đồi thông rợp bóng nằm về hướng Đông Bắc, là lăng Quận Công Long Mỹ Pierre Nguyễn Hữu Hào, nhà đại điền chủ người Gò Công, ông ta làm chủ nhiều đồn điền cao su, trà, ở một số Tỉnh, Đà Lạt, và một số đất vùng Cao Nguyên Trung Phần. Ông Nguyễn Hữu Hào là thân sinh của Nam Phương hoàng hậu. Ông Lê Phát Đạt Philippe Huyện Sĩ giàu có bậc nhất thời bấy giờ, là ông ngoại hoàng hậu.
Đã bao lần cô nhỏ đến thác Cam Ly, đứng cheo leo trên mô đá trơn trợt, dõi mắt nhìn từng giải mây mềm, như giải lụa vắt dài qua sườn núi. Nghe tiếng thông reo triền miên bất tận giữa non ngàn. Nhỏ đứng hàng giờ nhìn trời nhìn đất, với đám bạn nghịch ngợm như "qủy xứ", cô nhỏ nào thấy cảnh đẹp đâu!
Chàng dẫn các cháu đi lên suối Cam Ly Thượng. Chúng leo núi, nhảy nhót trên mô đá rong rêu trơn ướt, không sợ ngã. Chúng leo trèo trên nhánh cây già cỗi, nằm lăn trên thảm cỏ bồng bềnh, êm ái như nhung. Mấy cháu xắn quần lên tận gối. Đứa bắt ốc, bắt cá, đứa hái sim. Qủa sim tím no tròn mọng chín, trông thật dễ thương, cắn vào ngọt lịm, thơm ngon lạ lùng. Nhưng ăn nhiều sim bị khé cả cổ, đôi môi tím ngắt như nhuộm chàm. Vài đứa đi hái trái mác mác, là loại trái cây dây leo đặc biệt. Có lẽ nó chỉ mọc ở vùng rừng núi. Trái tròn, lớn hơn quả chanh một tí, khi chín, vỏ trái màu xanh. Có trái vỏ màu tím đỏ đậm, ruột nhiều hột mọng nước, chín vàng như nhau. Chị em nàng mua mác mác, cắt đôi, múc hột bỏ vào ly có ít đường, đá, khuấy đều lên ăn... ngon hết sẩy!
Tuy là bữa ăn ngoài trời, thế mà chị Hạnh chuẩn bị chu đáo: Nào bánh hỏi thịt quay, xôi gà, bánh mì thịt nguội, chuối, quít, nước đá chanh đường, đựng trong bình nhôm to. Chàng đem hai két coca, một thỏi chewing gum. Người lớn ăn uống nói chuyện phiếm. Các cháu bày đủ trò chơi, ca hát líu lo. Buổi du ngoạn ngoài trời rất vui vẻ, hồn nhiên, thoải mái. Mấy cháu chạy lên trăm bậc cấp cao, tham quan lăng. Chàng ngồi bên cạnh nàng, hai người tựa lưng vào thân cây thông non đầy bóng mát, anh ta thong thả kể cho nàng nghe:
- Có một lần, anh mơ thấy mình ngủ từ ngày nầy sang ngày khác, trên đỉnh thông cao. Tuy ngủ, anh nhìn thấy em đi học về ngang. Anh cố mở mắt ra, muốn gào to lên, gọi tên em. Muộn mất rồi! Em ôm cặp đi quá nhanh. Đôi mắt em buồn, nhìn anh hờ hững xa lạ. Như ta chưa từng quen biết nhau. Tà áo nữ sinh trắng toát vờn bay trong gió. Tóc em dài vướng trên mặt anh. Thoang thoảng mùi thơm hoa đồng cỏ nội dịu dàng, mộc mạc đơn sơ. Anh nhẹ nhàng vuốt mái tóc em, và biết rằng em sắp sữa ra đi khỏi giấc mộng, mà anh hằng muốn duy trì. Tim anh bừng lên ngọn lửa nồng nhiệt, đã từng ấp ủ không dám nói ra. Anh cố gắng mỉm cười, để khỏi thổn thức trong giấc mơ. Những lời chưa nói được là "Anh nhớ em, tim anh say đắm vì em". Nhưng, em vụt tan biến vào ráng chiều đỏ thắm, không hề ngoảnh lại.
Nàng cầm cụm lá thông khô mượt mà, lòng tràn ngập niềm vui, băn khoăn xao xuyến bồi hồi. Khi nghe chàng nói, trái tim nhỏ đập mạnh trong lồng ngực. Như một đột biến quá đỗi là nhanh. Nàng không biết làm gì hơn, cúi đầu đan lá thông khô rụng trên thảm cỏ mềm, thành con rít li ti. Cuộc tình nào vừa chớm nở cũng có nét diễm kiều, ngọt ngào say đắm, ngất ngây dễ thương và lãng mạn. Nhỏ ngập ngừng:
- Giấc mộng đẹp, có điều buồn, anh nhỉ?
- Nhỏ ơi! Em buồn vì đời không phải là giấc mộng. Nhưng em ơi! Giấc mộng cũng không phải là đời.
- Anh nói phải.
Qua giọng nói nhỏ nhẹ, nhìn đôi má ửng hồng như màu hoa đào in trên má nhỏ, chàng nhìn thấy vẽ bẽn lẽn tươi nguyên từ người con gái miền Cao Nguyên Lâm Viên luôn e thẹn, nhỏ sợ lỡ lời, sợ làm buồn lòng anh ta. Chàng âu yếm mỉm cười, nhìn nhỏ đan con rít khô từng lọn, rồi sắp lại thành chữ …
Ba giờ chiều, chị Hạnh gọi các cháu rời trại. Cả nhóm lên xe taxi ra về. Chị Hạnh, Thuỳ, xuống xe vào chợ. Chàng, nàng, các cháu lên Sân Cù trước, ở đó chơi. Mấy cậu bé mặc quần ngắn, ôm banh chạy lên khoảng đất bằng, đá thỏa thích. Nhỏ, và chàng ngồi dưới chòm thông giữ đồ đạc. Anh ta nhìn nàng tủm tỉm cười hoài. Cô gái ngượng quá bặm môi, nói:
- Nhỏ chứ ai, mà anh nhìn kỹ quá vậy?
Từ từ lấy trong ví da ra một tấm ảnh, anh ta úp bề phải lên lòng bàn tay, không cho nàng thấy, tay kia chỉ vào tấm ảnh, chàng nghiêng đầu nhìn nhỏ cười:
- Nhờ em nói lại với anh bạn trong tấm ảnh nầy. Là anh nhớ người đó, yêu người đó. Đừng quá vô tình, làm khổ anh nữa nhé!
Nói xong, cử chỉ thư thái nhẹ nhàng cũ, anh ta nghiêng đầu nhìn nàng, đá lông nheo mấy cái, từ từ lật tấm ảnh lên. Trời ơi! Tấm ảnh mà cô nhỏ đã chụp giã làm con trai hồi xưa, trông cao bồi du côn hết chỗ nói: Áo ca rô sọc lớn bỏ trong thùng, quần tây đen bó sát mông, nịt to bản. Bên hông đeo lưỡi lê, giày ống, đầu đội nón rộng vành, miệng ngậm điếu thuốc lá. Tay cầm khẩu súng săn hai nòng của ba, trông “cao bồi leo cây”, qủy quái không chịu được. Chàng đã “dzớt” tấm ảnh trong album. Ngượng quá! nhỏ chụp lại. Nhưng nhanh hơn, anh ta né tránh và cất vào túi áo, tay chận lên ngực giữ lại. Nàng năn nỉ:
- Trả tấm ảnh đó, cho em đi.
Chàng lắc đầu, trên môi giữ nụ cười trêu ghẹo. Nhỏ van lơn:
- Trả lại cho em đi! Kỳ quá!
Đứng dậy, vin tay vào cành thông với điếu thuốc thơm gài trên môi. Chàng nhìn nàng say đắm và trêu đùa không nói. Nhỏ giận hờn, đôi mắt trẻ thơ ướt lưng tròng, răng cắn làn môi, đầu cúi gầm, bứt cọng cỏ cú dai, làm đỏ cả bàn tay. Nàng không thèm nói nữa. Thật lâu, anh ta đến ngồi gần bên nhỏ, tiếng nói như pha mật ngọt tình yêu:
- Cho anh xin lỗi. em nhé!
Cằm cô nhỏ tựa lên hai đầu gối, ngón chân cái xủi xuống đất, cạy lõm một ô đất mềm, mái tóc dài chấm trên mấy ngón chân, che khuất hầu hết khuôn mặt hờn dỗi. Anh ta muốn vuốt lọn tóc buông lơi, quàng tay qua vai, ôm nhỏ vào lòng dỗ dành, nói lời xin lỗi, mà chàng không dám. Sợ nhỏ giận. Nàng giận thật, thì anh ta không biết phải thế nào đây! Anh ta chỉ nghiêng đầu đụng nhẹ trên tóc nàng, thì thầm nói câu:
- Giận anh đó à? Mới đùa tí ti, mà nhỏ "nhè ra" rồi. Anh xin lỗi lần nữa nhe... Cái mặt anh sao thấy ghét quá. Nhỏ ha! Trả lại tấm ảnh nè. Coi kià, hổng thèm cầm hả? O xịt anh rồi à? Nghỉ chơi mí anh thật hả?
Nhìn anh ta châm điếu thuốc khác gài lên môi, nhỏ từ tốn ngắm nhìn:
- Anh hút thuốc vàng hết ngón tay rồi kìa, hút nhiều không lợi đâu.
Chàng nhìn nhỏ trách móc, thì nghe nàng nói:
- Đôi mắt chi lạ! Ưng móc làm sao!
Chàng dụi điếu thuốc vào gốc cây thông. Hai tay che mắt. Qua kẽ hở mười ngón tay mắt chàng sáng long lanh, anh ta nhìn nhỏ trêu ghẹo, đá lông nheo mấy cái. Nàng cười to, giơ một ngón tay lên:
- Anh bịt mắt, ăn gian thấy mồ đi. Em móc thật à.
- Nếu móc mắt anh, móc một mắt thôi nhe.
- Vì sao?
- Anh gửi nhờ em một mắt. Còn một mắt, cho anh vay ...
Nàng lắc đầu nhìn anh ta cười tươi. Chàng rủ nhỏ đến lùm cây cỏ dại. Bông hoa vàng nho nhỏ không tên, không hương sắc hé nở. Chúng nép mình chúm chím, sau cành lá mềm mại khép hờ, trông ẻo lả nên duyên. Cạnh đấy là lùm cây mắc cỡ màu tim tím đầy gai, có hai hàng lá kép li ti, mặt trên màu xanh, mặt dưới màu tím thẫm. Chúng quá đỗi thẹn thùng, khép chặt hàng mi, mỗi khi có người vô tình dụng phải. Dưới cành lá đầy gai nhọn, điểm bông hoa tím hồng rưng rưng, to, tròn đều, êm như hạt bi bằng nhung. Bông hoa mắc cỡ nhẹ nhàng, thảnh thơi rung rinh theo làn gió thoảng. Chàng cẩn thận ngắt cành hoa mong manh. Cánh lá đồng loạt rủ nhau khép mắt lại rất nhanh. Dù thế tay chàng bị mấy gai nhọn đâm vào. Đưa hoa lên môi hôn, rồi cài trên mái tóc nhỏ. Anh ta cười:
- Em dễ thương như loài hoa nầy.
- Em sẽ ép cánh hoa anh thương, rồi trao về anh.
- Kỷ niệm dù nhẹ nhàng, đơn sơ, nhỏ bé đến đâu. Cũng được chúng mình nâng niu, gữi gìn và trân trọng.
- Nhỏ đồng ý với anh.
Hai người về chỗ cũ khi chị Hạnh, Thùy đến. Hai người ăn chung một ngăn cào mên mì quảng, họ vừa ăn vừa cười khúc khích. Chị Hạnh nhìn hai cô cậu yêu nhau đằm thắm, lòng bồi hồi tưởng nhớ đến chồng xiết bao! Ăn uống xong, chị em thu dọn đồ đạc chuẩn bị ra về. Chàng đề nghị nho nhỏ bên tai nàng:
- Sáng mai, em đi dạo với anh nhe?
- Em chưa bao giờ đi dạo như vậy.
- Có thể đi một mình, em ngại ngùng và giận hờn, vì anh thích trêu ghẹo em. Khổ nỗi, anh thích thấy em nhõng nhẽo, hờn giận như hôm nay. Anh biết em "ghét cay ghét đắng" anh. Dù vậy, anh muốn nghe nhỏ phản nghĩa chữ "ghét" đó vô cùng.
Khuôn mặt trắng trẻo đỏ bừng, biểu lộ cảm xúc nội tâm chân thành. Vẫn đôi mắt màu hạt dẻ cô nhỏ ngời sáng, đôi môi phớt hồng, thường chúm chím nụ cười khả ái. Dễ thương đến nỗi ai cũng muốn nhìn nhỏ. Khiến anh ta càng yêu thích.
Buổi chiều xuống đậm trên sườn đồi, sương mù quyện từng đám trên mặt nước, làn sóng lăn tăn vẽ trên mặt hồ Xuân Hương, mấy vòng tròn lan rộng ra dần dần, rồi chìm trong bóng nước. Vài chiếc lá vàng lững lờ bay lượn và đáp nhẹ trên con thuyền độc mộc, neo ở đầu cầu gỗ. Mây qùy gối bên kia hồ, tạo thành bức tranh hoàng hôn diễm lệ. Mờ nhạt phía xa là dãy núi Lâm Viên tím đục, pha sắc mây màu sáng bạc, màu da cam lẫn trong màu ngà. Nhiều cánh én lạng xuống nước rồi vút bay lên cao, muôn tiếng kêu chiêm chiếp gọi đàn về tổ.
Mấy chuyến xe đò vội vã tải hàng vào chợ, khách bộ hành rảo bước. Trước khi lặn, mặt trời le lói từ các áng mây xám bất chợt lóe hồng lên, dọi sáng lữ khách nhàn du thả bước trên phố thị. Năm sáu cặp nhân tình dìu nhau đi thật chậm; hình như họ không nhìn thấy cảnh bon chen phố phường rộn rã, người qua kẻ lại, náo nhiệt ồn ào. Họ không biết thời gian trải bóng qua song cửa đã lên đèn.

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
08-14-2009, 05:54 AM
:rose:





Du khách thơ thẩn thả gót phiêu bồng trong lòng đô thị tĩnh mịch, phố đêm càng về khuya dường như càng lắng đọng bất tận, yên ắng lạ lùng. Cảnh vật trở nên thơ mộng giữa khí lạnh sắt nhọn, đã quấn quýt ăn sâu vào lòng người. Đà Lạt càng dễ yêu. Thi vị. Duyên dáng. Thơ mộng và quyến rũ xiết bao khi mùa xuân bừng dậy nơi nơi!
Nàng thương cuộc đời rộng mở ở tương lai. Thương mái trường xinh xinh xưa có thầy cô, bạn bè quen thuộc thân yêu. Thương lối ngỏ đi về mỗi buổi học tan. Thương thành phố thơ mộng, có hàng hoa anh đào chen cánh những hàng cây xá lị tô điểm vòm trời Cao Nguyên thêm mơ mòng, quyến rũ. Thương biết mấy hồ Xuân Hương xanh biếc, phẳng lặng như phiên gương loáng bạc in bóng sân Cù. Dưới bầu trời trong sáng ban mai, có ngàn nụ hoa anh đào chúm chím mời gọi áng mây bàng bạc pha hồng thắm lững lờ trôi.
Thương mỗi chiều gió mùa Đông Bắc lồng lộng vút trên đỉnh núi cao, có sấm sét ở góc trời lúc choạng vạng, gió uốn cong cành cây mimosa nghiêng ngã thấy mà thương. Thân cây đau đớn rên rĩ vặn mình kêu rắc rắc như muốn gãy. Chùm hoa ướt sủng nước, rên rĩ quật lui quật tới lia lịa. Hòa với tiếng sấm chớp gầm thét dữ dội, gió hú từng hồi kinh dị trên sườn đồi. Gió lọt qua khe cửa rít lên vút vút nghe đầy ớn lạnh, buồn bã đơn điệu vô cùng.
Quê hương Đà Lạt của nàng có hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa Hè là đầu mùa mưa, trời tháng Hạ vần vũ mây xám, từng cuộn mây bay ngang đầu. Mưa đêm nầy qua ngày tháng khác trên núi đồi cao ngất, ngút ngàn. Vậy mà nàng yêu tháng ngày mưa dầm không biết mệt; muôn triệu hạt mưa nặng trĩu to tròn rơi bồm bộp trên mái tôn. Thỉnh thoảng… lâu thật lâu có kèm theo mưa đá hột to hột nhỏ. Dì cháu nàng thích thú nhặt mưa đá bỏ vào ly, trong khi những nhà làm vườn thấy mưa đá, là họ lo buồn rầu rĩ; vì nó hủy hoại hoa màu tan nát, hư hỏng rất nhiều. Thành phố luôn mờ mờ, nhạt nhòa, ẩn hiện sau làn sương ẻo lả, mỏng manh.
Những cơn mưa lăn tăn li ti vào độ cuối Thu đang chuyển hạt thành nhỏ li ti như bụi phấn, nhẹ tênh, âm thầm lả lơi đậu trên mái tóc lữ hành. Nước ban mai ở các khe đá, suối, hồ, khe, chưa chảy kịp, nước buổi chiều đã dâng lên cao; chảy xối xã về cuối nguồn:
Nào thác Cam Ly, thác Datanla, thác Prenn, thác Liên Khương, thác Gougah, thác Pongour. Nào hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Lãng Ông, hồ Chi Lăng. Suối Vàng, suối Bạc, suối Cát Tiên. Rừng Ái Ân. Đồi Thông Hai Mộ. Thung lũng Tình Yêu, vân vân... Ah! Nào là chùa Sư Nữ, chùa Linh Sơn, chùa Tàu… Và nhà thờ Domain de Marie. Nhà dòng Couvent des Oisaux. Nào gác chuông nhà thờ cao ngất in hình con gà (báo thức trên chóp đỉnh. Dù vậy con gà không bao giờ chịu đánh thức khi mọi người đang bình yên trong giấc ngủ. Nó không biết gáy dù mỗi bình minh hay hoàng hôn, hoặc trong canh khuya mặc lòng). Khi mỗi sáng, trưa, chiều, tối, tiếng chuông luôn ngân nga giữa núi đồi, báo hiệu hừng đông hay hoàng hôn thinh lặng. Trời cuối đông dật dờ cơn say bão còn luyến tiếc len lén mang khí lạnh bay về lấp ló ve vuốt bên thềm năm mới; như trêu nghẹo nàng Xuân. Lạnh! Lạnh kinh khủng! Cái lạnh buốt giá, tê cóng nhức nhối, như muốn bại liệt cơ thể, như điếng cả hồn lẫn xác và ăn sâu vào lòng người. Hai hàm răng tự động run rẩy, va vào nhau lộp cộp. Toàn thân run lập cập, thở không đều nhịp. Mặc dù thế, có làn hơi thoảng lạnh từ cổ họng mọi người bay ra như trêu đùa, chọc ghẹo bạn.
Mùa xuân năm ấy hoa anh đào tươi nắng rộ nở trên ngàn cây, gió lả lơi đùa với nội cỏ, và nàng thật hồn nhiên vui vẻ lạ thường cùng bạn: Phú, Du, Hạ, Lễ, Tài, họ ở Sài Gòn lên Đà Lạt ăn Tết. Các bạn trai chưa đến Đà Lạt lần nào, ai cũng ngạc nhiên và vui thích, cười ha hả khi thấy mình thở ra thành hơi khói. Đêm đêm ở nhà của ba má nàng, mấy bạn pha cà phê, ăn bánh ngọt, cắn hạt dưa, ăn bánh chưng, bánh téc, uống nước trà thật vui vẻ, thi vị sao đâu. Họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng khách, đến tận khuya.
Có ngày không biết làm gì hơn, là họ bày trò thi nhau nhìn vào mắt. Hể ai chớp mắt nhấp nháy mắt trước, hay cười, là bị phạt uống một ly đá lạnh. Eo ơi! Ở xứ nầy giữa đêm khuya, mà uống đá lạnh, thì lạnh hết biết. Lạnh nổi da gà! Trò chơi gì trẻ con lạ! Chơi đỗ cá ngựa, cờ duyên khóc, duyên cười, quẹt lọ nồi. Vui thật vui. Mấy bạn cùng dì cháu nàng dạo phố đêm. Họ mua thuốc lá, kẹo, bánh, chewing gum, bắp nướng, đi tà tà nói chuyện tếu, đi bộ giáp một vòng bờ hồ Xuân Hương dài ngót sáu cây số. Có khi họ lại vòng lên trường Lyscé Yersin ngắm trăng lá lúa ẩn mình trong đài mây. Đường về khuya lạnh lẽo càng thêm hoang vắng, cảnh vật càng huyền ảo, nhưng đẹp lạ lùng. Sương mù phủ kín thành phố đầy hoa anh đào nở rộ. Thỉnh thoảng lớp mây bàng bạc bay nhanh, lộ ra khoảng trời đêm đầy sao nhấp nhánh, vầng trăng khuyết như con thuyền nhấp nhô sóng nước bồng bềnh trôi đi trôi về. Dăm bảy vì sao sáng hơn, to hơn, vì sao lóng lánh e thẹn quỳ gối bên nhau bẽn lẽn trò chuyện trên bến Ngân Hà.
Nàng, Thùy, các cháu làm hướng dẫn viên du lịch, qua bao thắng cảnh duyên thơ hữu tình, qua bao núi rừng suối hồ mộng mơ. Tình thân hữu lan dần. Nàng nhớ một lần cả nhóm bao taxi, đi picnic nguyên ngày. Tám giờ sáng, xe dừng ở thác Datanla. Họ lần mò đi từng bậc cấp ngoằn ngoèo trơn như mỡ để xuống chân thác, mặt trời chưa thức giấc dưới những vòm cây âm u còn ngái ngủ. Nước từ trên khe đá cao ngất, chảy ầm ầm, dội xuống lòng thung lũng, vỡ ra muôn triệu bụi phấn trắng xóa, quyện với từng mảng sương mờ đục phủ kín bầu trời ban mai nhờ nhờ màu sữa.
Thác Datanla thâm u cheo leo hiểm trở là thế, mà họ quyết leo qua bên kia chân thác. Từ từ leo lên ngọn thác thứ nhì, đứng chênh vênh bên hốc đá chốc lát, rồi tìm cách leo lên đỉnh thác thứ nhất, ở tít mù trên cao, cao ngất. Mặt úp sát vào vách đá, lưng quay ra phía vực sâu, hai tay bám chặt bờ cây, bụi cỏ. Không ai dám ngoái cổ nhìn ra phía ngoài, hoặc nhìn xuống vực thẳm. Một trời giông bão như quay cuồng tít dưới chân ta.
Qua muôn ngàn cây đại thụ, gỗ tạp, gỗ lá rộng, lá kim quý như: cẩm lai, sao, thông hai lá, thông ba lá, chen cánh với mộc lan, tre, nứa, lồ ồ, le, dẻ, lùm cây um tùm gai góc, bờ bụi lóc lở rong rêu ẩm ướt. Cổ thụ cằn cỗi già nua không biết tháng năm, chi chít sợi dây rễ dài lòng thòng, to hơn cườm tay. Loại dây dẽo, dai, chắc chắn, quấn quýt trên cành cao, chạy dài xuống lòng thung lũng mờ mờ, sâu thẵm. Họ tìm dây bám chặt vào đó, mà di chuyển. Tiếc rằng họ chưa đủ kinh nghiệm sống, chưa dám đu dây rừng y như Nữ Chúa rừng xanh.
Leo lên hết chóp đỉnh, thác Datanla khúc khuỷu cuối lòng khe đá, biến thành đầu ngọn thác thứ nhất. Phía bên nầy khe đá, những ụ đất sét, có đá cao lanh, đá quý, quặng boxit, than nâu, ở gần vùng Đạ Đờn, Đạ Tẻh, Đạ Hoai. Hai bờ suối dần dần nở rộng ra; dẫn đến cánh đồng cỏ non xanh mướt trải dài, nhìn mút tầm mắt, thảm cỏ ướt đẫm sương mai lóng lánh. Nhiều giọt sương mọng tròn, long lanh giọt thủy tinh dưới ánh mặt trời yếu ớt ló dạng từ bên kia, đỉnh núi nhọn hoắt muốn chọc thủng từng áng sương bay ngang đầu. Sương từ ngọn lá non trên cao, rơi lốp đốp xuống cành lá mềm mại dưới thấp. Tàng cây cổ thụ mọc chen cánh gần khe suối, ấy là sát rừng hoa qùy chen lấn loài hoa mắc cỡ màu tím lá xanh đầy gai nhọn, thế mà hoa vẫn e thẹn khép chặt hàng mi khi có người vô tình đụng đến.
Hòa tìm cách leo lên cành, hái nhiều loại lan qúy, mỗi loài hoa có một sắc đặc biệt riêng. Mấy chú sóc đuôi xòe ra, như chiếc chổi lông mềm mại, leo trèo trên cây quả chín đỏ. Bầy khỉ lí lắc nhi nhô, chuyền chỗ nầy chỗ nọ nhanh nhẹn, gọn gàng, nhẹ nhàng, chúng kêu chí chóe. Hình như chúng phản đối sự có mặt của con người, không mời mà đến trong giang sơn cẫm tú, đầy bình yên của chúng.
Chim hót líu lo, đủ mọi giọng điệu trầm bổng véo von. Lẫn tiếng nhịp nhàng của bầy chim gỏ kiến, đang đập mõ dài cứng ngắt vào thân cây xù xì, hòa cùng tiếng thác đỗ từ nơi xa xa vọng lại. Thỉnh thoảng tiếng vượn hú kêu đàn. Cú nấc cụt từng tiếng. Dơi thấy động rừng bay ra kêu "xít...xì". Bầy chồn lủi nhanh vào bụi rậm. Thỏ rừng tung tăng nhảy nhót thảnh thơi trên cánh đồng cỏ non. Tất cả âm thanh và hình ảnh sống động ấy, tạo thành bản rừng ca thiên nhiên muôn điệu bất hủ.
Lễ đưa máy ảnh bấm liên tục, những hoạt cảnh tươi nguyên núi rừng hoang dã hồn nhiên, đầy tình tự quê hương hữu ái, mà anh ta hằng yêu thích. Phía trên đỉnh thác khá lạnh. Nhưng không lạnh bằng lòng thác lúc nãy. Du ngẩn ngơ... tìm chỗ đặt mấy giỏ thức ăn xuống. Các bạn ngồi trên tấm ni lông, mà họ cẩn thận mang theo. Họ nói chuyện cười đùa huyên thuyên, họ chỉ chỏ Lễ chụp ảnh.
Bỗng Phú khựng lại, im bặt, khiến các bạn ngẩng nhìn. Có những dấu chân loài thú khổng lồ quần nhau, cạnh khúc xương ống, một đầu lâu (có lẽ của khỉ), cách chỗ các bạn ngồi không xa.
Thế là, ý định nằm lăn ra bãi cỏ non mềm, chợt tiêu tan ngay. Đi núi, họ không mang theo bất cứ một dụng cụ đề phòng nào, nhỡ mà có bị rắn rết cắn bất tử, thì thật nguy to. Bây giờ cả nhóm mới thấy Hoà đề nghị leo lên núi, là điều dại dột, bất lợi quá. Họ vội xếp đồ đạc vào ba lô, giỏ xách, để vát trở xuống chân thác. Lòng chẳng hẹn lòng, nhưng ai ai cũng nơm nớp lo sợ sự bất an quanh quẩn đâu đây. Nỗi lo sợ ớn lạnh cùng khắp. Khí trời ban mai đã lạnh lẽo, càng thêm buốt giá kinh khủng. Kinh khủng!
Mất hai giờ, họ lần mò trở xuống chân thác. Leo lên đã khó, tụt xuống càng khó gấp bội. Bạn cẩn thận lần mò, nhích đi từng bước một. Tay bám vào gờ đá, thân cây hoặc dây leo, gốc rễ, bò thụt lùi, từng tất đất khó khăn. Nhìn xuống vực thẳm, thấy tối tăm mặt mũi, hoa cả mắt, sợ mất hồn mất vía. Cuối cùng, cả nhóm trở về được dưới chân thác, mặt mày chân tay xây xát, mệt mỏi rã rời, quần áo xốc xếch, lấm lem. Tuy vậy, mấy anh thanh niên tính không khỏi reo lên, vì họ đã tận hưởng giờ phút vui thú nhất, qua danh lam thắng cảnh tuyệt vời. Thể hiện tính kiên cường, bất khuất gian nan, thỏa trí tò mò, dù họ quá mệt mỏi và lòng kinh sợ.
Hôm đó, khi nhảy qua mấy hòn đá trơn, suýt tí nữa nàng bị nguy hiểm tính mạng, nếu Phú không nhanh tay kéo nàng ngã dúi vào lòng anh. Mất thăng bằng, cả hai người ngã lăn trên dòng suối ấm dưới chân thác. Hương hoa núi rừng mộc mạc, kèm với sự sợ hãi chợt đến, chợt đau lúc tay chân bị đập vào đá, khiến nàng quên nỗi bẽn lẽn thẹn thùng. Áo quần ướt sũng nước. Hai người nắm chặt tay nhau, từ từ lội vào bờ, và lóp ngóp bò lên ngồi trên tảng đá, “anh chị” hong khô người dưới ánh nắng.
Các bạn lò dò đi các nơi chụp ảnh. Chỉ còn hai người, nàng cảm thấy ngượng ngùng, e thẹn, vì áo quần dính chặt vào da. Không ai nói với ai lời nào. Phú, và nàng cùng nhìn theo các bạn. Thế nhưng, thoáng chốc quần áo khô nhanh. Các bạn đi Prenn, Liên Khương, Bồng Lai. Thác Gougah có tên gọi “Nam Phương đệ nhất thác”, cách thành phố Đà Lạt khoảng 45km. Thác nằm ở khu vực xã Tân Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Từ quốc lộ 20 đi theo con đường mòn rậm rạp và âm u, ta rẽ vào phía trái thì tới nơi. Thác Gougah xa quốc lộ khoảng 7km. Thác Hang Cọp thuộc địa bàn thôn Túy Sơn, xã Xuân Thọ, cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 15km về phía đông bắc (qua Trại Mát).
Đặc điểm: Xung quanh thác có rừng thông đặc chủng và rừng hỗn giao khá xanh tốt thích hợp cho các chuyến du lịch dã ngoại. Sau đó chúng tôi đi Pongour. Chiều về đi đi suối Cát Tiên, hồ Than Thở. Vallée D 'Amoure. Suối Vàng. Suối Bạc. Cam Ly và về phố.
Những lần du ngoạn ngoài thiên nhiên, làm cho cuộc sống của nàng có phần dễ chịu, thoải mái hồn nhiên tươi vui hơn. Nàng nhớ thật nhiều về tình bạn nồng thắm buổi ban sơ, và những ngày luyến lưu xa xưa đầy thân ái, đã ghi lại trong tâm tư nàng tình bạn chân thành hữu ái đậm sâu và bất diệt.
_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
08-25-2009, 08:34 PM
:rose:
Bạn Hữu



Chờ Mười ở tiệm Vĩnh Chấn, Nguyệt vui vẻ nói:
- Anh em mình muốn nhờ Mười, Noel này về Cầu Đất có chút chuyện... Khổ quá, chẳng là thế nầy nè... anh Minh tao ảnh, ảnh nhờ... tao nói với mày là... là...
- Mi muốn cái gì, cứ nói toạt móng heo ra đi. Ấp a ấp úng, vòng vo tam quốc chí. Nghe phát mệt.
- Hì hì! Tụi nầy nhờ mày đóng vai... "tình hờ" của anh Minh, ừ! chỉ "giả vờ thôi mờ. Tất cả bọn mình sẽ đi qua nhà vợ tương lai của ảnh, cho họ hàng nhà chị ấy đừng tưởng bở, đừng làm bộ, làm cao. Anh em nhà tao chịu hết nỗi rồi.
- Thôi đi má! Đùa dai kiểu nầy, hại tim lắm. Tui sợ ăn dao phay, hay bị tạt ác xít, mà tui chả được "chấm mút" gì.
- Không sợ tao méc "ôn xã" sao?
- Khi không bắt tao làm chuyện "quân tử tàu". Mệt.
- Vì hạnh phúc của ảnh mà.
- Tao thương họ hén. Nếu tao có bề gì, thì làm gì nhau nà?
- Bảo đảm có anh em bạn bè đi quanh mày mà.
- Để xem sao.
* * *

Thế là, Minh và hai cô em gái đến nhà xin phép chị Khánh, cho Mười về Cầu Đất "ăn giỗ bà cố". Chiếc xe khách chở mười sáu người. Minh năm nay khoảng hai chín tuổi, anh ta có những người bạn đã vào đời, người đi dạy học, người đi lính, người sinh viên: Biên, Thuật, Cư, Sĩ, Tòng, Phán, Hội. Thuyết, Tâm, An. Cọng với bảy cô gái nhỏ ưa nghịch ngợm. Nên chuyện vui nổ dòn như bắp rang trong chiếc xe đò.
Do có bàn tính trước, nên bạn hữu xuống xe dưới đầu dốc. Cầu Đất có độc nhất một "con đường Cái Quan". Quốc lộ chính nối liền thành phố Đà Lạt với Đơn Dương, Krông Pha, Ba Ngòi, Cam Ranh, và Liên tỉnh miền Đông.
Xem ra phố nhỏ nhưng không kém phần quan trọng! Phố chợ nằm trên quốc lộ chính, đi lên đi xuống vài lần, đã rõ mặt nhau. Cô vợ tương lai ở giữa phố phía tay phải. Nhà Minh an tọa trên dốc trái, nhích lên lưng đồi cao. Đứng ngoài sân, Minh có thể nhìn thấy nhà "bà xã tương lai Min" hoa khôi Cầu Đất.
Chỉ cần một giờ thôi, thì từ đầu dưới lên xóm trên đều biết tin giáo sư Minh, cùng bạn bè đông đủ về làng. Ở thôn xóm cần lao nầy, người dân đa số đầu tắt mặt tối với ruộng vườn, nương rẫy. Một “giáo sư” tà tà về quê, liền được thiên hạ ngưỡng phục, y như Quan Trạng về Làng vậy. Nhất là anh ta "kề vai bá cổ" con nhỏ thị thành "mặt hoa da phấn", nói ra thì mắc cỡ, xấu hỗ chết đi. Mười có đẹp đẽ chi, chẳng qua nàng ưa lấy le và “ham dui” thôi. Bọn Nguyệt chọn nàng vì Mười "lì". Điếc, thì lấy gì sợ súng mà lo!) Mười dám cả gan "vai ôm cánh ấp, đồng sàng dị mộng" hai người nũng nịu đi giữa lòng quốc lộ, nói chuyện "tìn...iêu", mà ríu ra ríu rít mắt liếc liếc lườm lườm, đưa tình đắm say.
Run thấy mồ, nhưng Mười làm ra vẻ yêu đương mặn nồng, ỏng à ỏng ẹo, nhoi nhoi cái đít vịt. Tay trái Mười vờ quàng ra sau lưng túm đuôi áo veste Minh cho khỏi ngã dúi về phiá trước. Tay phải nàng bèn nựng cằm Minh, "tát yêu tát quái" trước đám rước.
Minh vờ cúi sát bên mái đầu Mười, anh ta xổ một tràng tiếng Thượng, tiếng Miên, Lào, Miến Điện, Ấn Độ, chi mô. Không ai hiểu ất giáp gì, mà cả nhóm lườm lườm nguýt nguýt và cười reo. Họ quậy phá "dễ xợ"! Đã đóng kịch, ta phải đóng cho trọn vở tuồng mà. Thú thật Mười níu rịt vạt áo của Minh, nàng hết dám đi ngang qua nhà “chị ấy” lần thứ nhì, Nàng thấy những cái nhìn nẩy lửa, ném vào cặp tình hờ trên phố.
Khuôn mặt họ nhà gái quê xệ đanh lại, bên luống rau, ở góc đường, cuối ngõ, tiếng kêu gọi nhau ơi ới, xầm xì trò chuyện, thì họ ù té chạy đi báo tin với “họ nhà vợ” anh Minh. Y như báo tin bão khẩn cấp! Thì Mười sợ bị ăn dao phay, bị tạt ác xít quá chừng. Đám bạn gái, trai, hộ tống phía sau hai người, họ không khỏi rùng mình ớn lạnh, le lưỡi trợn mắt, nổi da gà, dựng đứng lông mày lên, vì khiếp đảm. Thôi nhé! Một lần "dại thì vái tới già". Ham "dui" có ngày lãnh thẹo, chết nghe con. Không có cái dại nào bằng cái dại nầy thật. Eo ơi! Cái lạnh bất chợt ập xuống, vuốt sống lưng Mười, như có ai lấy kim sắt to tướng, đâm vào đốt xương sống, chọc tủy ra, làm lưng buốt cóng đến rợn tóc gáy.
Dĩ nhiên, người ta phải bảo vệ “quyền tư hữu danh nhân Thôn Xóm” chứ. Minh sinh ra, lớn khôn, thành nhân, thành tài, từ nơi chôn rau cắt rốn nầy mà.
Gia đình Nguyệt mời bạn về nhà thiếu hẳn cách tổ chức. Đã hơn một giờ mà bếp lạnh tro tàn. Bà Ngoại của Minh đau nằm một chỗ. Cha mẹ họ mất sớm, Minh là thanh niên mà phải quáng xuyến mọi việc trong gia đình, thì làm sao đàng hoàng tươm tất, bằng có bàn tay phụ nữ chu toàn. Hai cô em gái của Minh đi học ở thành phố, họ còn non nớt. Mỗi tháng họ về quê thăm ngoại vài lần. Minh dạy học ở Đà Lạt và Cầu Đất, chàng hết chạy lên, lại lóc xóc chạy xuống, vừa chăm sóc ngoại già, em dại, một chốn đôi quê, như gà trống nuôi con, trong cảnh vườn trống nhà đơn. Ngoại già ở dưới quê lụm cụm, nên trăm sự Minh phải nhờ lối xóm đỡ đần sớm hôm, trông coi ngoại khi tắt lửa tối đèn.
* * *

Như sực tỉnh cơn mơ, Minh đưa tiền cho cô em Thủy đi chợ mua: trứng vịt, thịt bò, thịt heo, rau quả về nấu cơm canh ăn tạm. Giờ nầy còn lác đác vài hàng rau thịt sơ sài, ruồi bu tám lớp, thấy ghê!Kịp lúc ấy người bên nhà gái mời Minh qua nói chuyện. Minh xanh mặt nhe!
Cơm nước giao cho bọn học trò nầy lôi thôi quá! Đi chợ nấu ăn cái gì, mãi đến hơn ba giờ chiều chưa có cơm ăn. Nguyệt vụng về lười nhác, giao Thủy cặm cụi lò mò xào nấu. Bếp núc tối om, chật chội, khói tỏa mù mịt, mắt mũi cay xè. Chẳng ra làm sao cả! Mấy cô gái túm tụm với nhau, mỗi người một tay. Cuối cùng cơm canh cũng dọn lên bàn. Ăn cơm dở dang, thì Minh về, mặt mày anh ta tươi rói, vì kế hoạch đã thành đạt: Anh sẽ cưới vợ sớm hơn dự tính.
Cười nói huyên thuyên. Bỗng Minh im bặt, khi thấy mấy cô gái ngồi xù ra. Anh hỏi Nguyệt, Thủy. Vỡ lẽ là các cô nấu nồi cơm nhỏ xíu, nên họ đói meo. Minh cười, phân bua:
- Vì vậy, anh cần phải cưới người vợ đảm đang gấp. Tiện thể, xin cám ơn các cô em, các bạn tôi. Nhờ có bữa cơm đói meo nầy, mà chúng tôi có dịp làm lành mí nhau, chúng tôi sẽ làm đám cưới. Xin mời qúy vị ân nhân đến tham dự nhe.
Tòng khoát tay phản đối:
- Gác việc đó goa một bên. Hổng phải anh đi đã đời, rồi dìa đây ba goa chích chòe. Phải bồi goàn thiệt hại dề dật chất, tinh thần anh em chớ. Nội cái tội: Hôm qua, goa nói goa goa, mà sao goa hổng goa ăn cum dí tui cà?
Nhao nhao chọc phá nhau, họ cười đùa, mỗi người một câu:
- Coi ảnh xoa xoa hai tay, ngon ơ dậy. Làm gì có chiện đi không dề rồi. Dễ ợt dậy! Phải khao bọn nầy bữa nhậu, cho quắc cần câu chớ.
- En (anh) đi náng (nướng) cá cho bợn (bọn) tui dậu (nhậu) lơi rơi (lai rai) chớ.
Thế là các anh cười ha hả đi mua rượu, và mồi về, họ uống cho đã một bữa. Các cô thì chui vào phòng nằm chèo queo đợi nồi cơm sau chín tới. Họ ra ngồi chò hỏ dưới nhà bếp, ăn cơm với su su xào tôm khô ngon ơi là ngon.
Mười không ân hận khi làm chuyện "ruồi bu" mà người khác có hạnh phúc, tưởng nên lắm. Mười nghĩ, có lẽ do tính "lí lắc, lóc chóc, tành hanh, xí xọn, cao hứng", chứ ta chẳng xinh đẹp quyến rũ, đào hoa đào hiếc gì. Nàng được hai anh Biên và Sĩ theo tán kỹ quá. Nàng không thích họ, vì mới gặp chưa bao lâu, họ tán vội tán vàng. Như kiểu chụp giựt món hàng sold không bằng. Rồi... giống người chuyên làm áp phe, anh nầy tán không được, bỏ đi. Anh kia đến. Xí!
Mười tiếc không có Thùy, tính nó hồn nhiên thẳng thắng. Thấy vậy, chắc là nó quậy phá cho mà biết. Dẫu chưa vướng mấy bụi trần, Mười có cái nhìn chân thật, tâm hồn thẳng thắng riêng. Vì phép lịch sự nàng phải xã giao vui vẻ xí, (tuy lòng băn khoăn). Chớ trách họ đã vào đời, từng trãi qua kinh nghiệm sống, chết, và chiến đấu trên chíến trường. Họ yêu cuồng sống vội giữa phong ba cuộc đời. Có nói đăm ba chuyện tào lao chi đế, vẫn là thường.
Năm giờ chiều, trừ Minh ở lại thảo luận chương trình tổ chức hôn lễ sắp đến. Tất cả bạn bè, em cháu, đều lên xe trở về Đà Lạt. Ngồi phía trước, cạnh bác tài xế, Mười nhìn lên bầu trời đầy mây xám giăng giăng. Mười cảm thấy buồn buồn, nhớ nhớ trong lòng. Nàng tì tay lên cửa xe, nhìn vu vơ xuống núi đồi trùng điệp.
Thung lũng nầy có những con đường đất đỏ vòng vòng lên vòng xuống, quanh năm chìm trong biển sương mù, lớp sương mù đọng suốt con đèo uốn lượn quanh co nhấp nhô thấp cao. Dãy đồi lồng lộng chập chùng, cao lớn tiếp tiếp lạ thường. Nhiều đám hoa qùy chen lấn lau sậy lô xô. Bao bụi sim mọc lô nhô chạy giật lùi sau những khúc ngoặt. Đồi thông cao to nhọn hoắt.
Dân cư đa số làm vườn, làm rẫy, trồng từng đồi su su, rau cải, bắp sú, cà rốt, khoai tây, hoa, trái cây đủ loại dưới thung lũng hoặc lưng chừng các triền đồi, Họ cần cù nhẫn nại phá đồi làm nương rẫy, từ tháng nầy qua năm khác. Họ tưới biết bao giọt mồ hôi, trên luống đất hoang rừng, thành ruộng rau xanh tốt màu mỡ phì nhiêu. Những mái nhà tôn cũ, mới, nhấp nhô lẩn khuất, ẩn hiện dưới vòm cây ăn quả, tỏa làn khói quấn qúit, bịn rịn ấm áp, gợi thèm nhớ bữa cơm chiều.
Mấy bác nông thôn cần lao sớm tối quảy gánh trên vai, bước chân vững chãi đi lên đồi hoặc xuống dốc, nhịp nhàng uyển chuyển theo đôi thúng gióng đong đưa. Con chó vàng loăng quăng chạy theo mừng chủ trở về, sủa gâu gâu vài tiếng, nó vặn hết cả người theo cái đuôi ngoắt lia ngoắt lịa. Bỗng chốc nó nhảy chồm lên người chủ, khiến bác nông thôn phải gỡ nón lá ra đập, đuổi nó đi.
Sát lề đường, cạnh trường Tiểu học Đa Lộc, nơi bác tài ngừng xe, để châm thêm nước, vài thanh niên mặc áo quần lao động, đầu đội nón vải đà, mang gùi thưa đựng đầy lá trà tươi, tay họ cầm gậy trúc, miệng huýt sáo bản nhạc vui tươi. Họ cùng đi với ba em bé nhảy bước chân chim cạnh bốn thiếu nữ. Các cô trạc tuổi mười tám đôi mươi, có làn da trắng mịn, hai má thắm hồng, mắt ngời sáng, đẹp như hai em bé bầu bĩnh kia. Họ mang găng tay cao su, nón lá móc vào khuỷu tay. Họ mặc áo rộng thùng thình, quần đen bỏ trong đôi giày ống cao lấm lem đất đỏ, lưng đeo gùi đầy lá trà xanh nặng trĩu vai.
Các cô cười khúc khích, hồn nhiên vô tư không bối rối. Họ cười khi thấy cậu thanh niên cỡi xe đạp chạy quá trớn, từ trên triền đồi xuống đường, giăng hai chân ra. Thân hình cậu ta xiêu vẹo qua một bên, cậu ta cố ghì chặt tay lái cho xe khỏi ngã, khi thả dốc. Họ đi thảnh thơi không chút nhọc nhằn, hình như không biết mỏi mệt, vất vả, dù đôi quai gùi thô cứng siết chặt vào vai.

_ * _


Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
09-11-2009, 09:57 PM
:rose:
Dòng Sông Tráng Lớp Men Tình




Bác tài chạy thẳng về đường Cường Để, Duy Tân, Minh Mạng, Phan Đình Phùng, Hai Bà Trưng. Nhà Chung sẽ là trạm sau cùng. Xe ngừng ở Duy Tân.
Mười bỗng giật mình run rẩy, như con chim nhỏ bị tên, khi thấy Nam và các cháu, đứng chọn sách, mua đèn Noel. Anh ấy xuất hiện bất ngờ, khiến Mười sững sờ quá sức, không thốt nên lời, để nói bác tài cho nàng xuống xe, chạy đến bên họ. Nàng ngẩn ngơ nhìn. Trái tim bình an đột ngột nhảy tưng tưng, cơ mô không hề biết mỏi mệt, đập thình thịch trong lồng ngực. Nàng mệt nhoài như muốn đứt hơi.
Trái tim ơi! Hãy nghỉ mệt một vài giây mừng rỡ đi nhe! Cho tôi bớt bồn chồn xao xuyến, đến tận cùng tế bào run rẩy. Giữa buổi hoàng hôn chớm buông thả bức màn sương mỏng tanh xuống thành phố thấp thoáng hoa đèn, chàng đến bất thần, như mang theo làn gió xuân nồng say ấm áp, làm xôn xao tâm hồn. Nàng trào dâng mối xúc động choáng ngợp mãnh liệt.
Đào, Yến, xuống xe ở dốc Minh Mạng. Mấy chàng trai ngồi sau lưng Mười, bỗng chồm người ra, huýt gío cười đùa, chỉ chỏ, xuýt xoa lung tung. Trong ngôi nhà bên phố, có người con gái rất xinh đẹp. Khiến nàng ngẩng nhìn đăm đăm, và mến thích ngưỡng mộ. Nàng không thể ngờ cuộc sống, tình yêu, hòai bão, tương lai hạnh phúc của mình, sẽ chạm trán gay gắt kinh khủng, đớn đau đột ngột, tóe lên thành suối nước mắt li ti, chảy hoài không cạn khô. Cả cô gái kia cũng không thể ngờ: Đó là hai dòng giông bão:
*Nguyễn Phước Quyên Hà & *Trần Ngô Thương Mười.
Do quá nể lời mời chị em Nguyệt, nên Mười đến Nguyệt chơi. Vào nhà bạn nàng ngạc nhiên thấy Biên đã có mặt, anh chạy xe lambretta về trước. À, thì ra, hai cô nể trọng anh thúc bá của nó, nài nỉ nàng về nhà. Đã lâu, vài lần đến nhà Nguyệt, tình cờ gặp Biên, Mười chào hỏi xã giao. Chẳng có gì bận tâm. Thậm chí hồi sáng gặp nhau ở Cầu Đất, nàng không nhớ Biên. Mười tự trách "Mình kém cõi xã giao, tệ mạt trí nhớ thế, không biết".
Hai cô kia làm cơm, nhưng khóa cửa bếp, không cho Mười xuống phụ. Họ thật vụng về, khiến Mười cảm thấy ngượng và mất tự nhiên, tự dưng nàng cần cảnh giác, đề phòng cả mọi người. Nói chuyện với Biên chả vui vẻ, chả biết nói gì, không có chuyện gì nói! Mình đã kém cỏi, gặp phải... trường hợp càng kém cỏi tệ. Không tế nhị chút nào, trách sao Mười khó chịu quá!
Biên mến thích nàng. Điều đó thuộc lẽ tự nhiên qua cái nhìn Mười vô tình bắt gặp khi ngẩng nhìn Biên. Cái nhìn khác hẳn bạn trai cùng lớp, cái nhìn giống hệt Phú, chứa đựng niềm cảm mến, âu yếm dịu vợi! nàng hãnh diện về chàng, được anh ưu ái thương yêu. Hãnh diện về chính mình, nàng càng được đẩy xa hơn khi Mười biết chắc chắn có vài ba chàng trai thực sự mến mình. Đã yêu và được hồi đáp, Mười biết “cái nhìn” Biên trìu mến dường nào, lúc mà Biên đột ngột đề nghị Mười cho anh ta nắm bàn tay nàng, để xem bói. Dẫu bị từ chối, Biên vẫn vui vẻ bám riết ý định làm thầy bói... dở hơi kìa! Không cho.
Nói chuyện tào lao, tào khào, chẳng có đề tài gì hấp dẫn. Khi Nguyệt mở cửa lớn, dọn cơm lên bàn. Bàn nầy dùng tiếp khách, vừa học, cũng là nơi ăn cơm. Mười vụt đứng lên nhất định đi về. Nguyệt thấy mặt Mười xù ra, biết bạn không bằng lòng, cô gái cười giả lả. Tiễn Mười ra tận ngõ, nói:
- Tao biết mày không bằng lòng. Đừng giận tao. Thông cảm tao ở thế kẹt. Nghe! Nếu tao không "nhiệt tình tạo cơ hội" cho ảnh gặp mày, theo yêu cầu, thì ảnh trách tao sao không hưởng ứng. Dù tao giải thích cái gì, ảnh cũng không tin.
- Thông cảm mày kiểu nầy, có ngày chết tao à.
- Tao biết mày có thừa bản lãnh. Của César, ta đã trả về cho César rồi mà.
- Chưa chắc à, bạn ơi!
- Anh Biên là người tư cách, là lính chiến chỉ có vài ngày phép, không có thì giờ đi theo đuôi ai, tán hươu tán vượn dài dòng. Dù vậy, tao tin tưởng tình cảm của ảnh, đối với mày đặc biệt, và chân thật. Hiểu không?
- Hiểu... quá đi chứ.
Nguyệt đẩy bạn ra khỏi cổng, cười tít mắt:
- Hiểu rồi, thì đừng giận bọn tao. Chúc Noel vui vẻ.
- Hổng dám đâu.
Trong nhà vui như mở hội, chị Khánh, chị Hạnh, bà bếp chiên xào nấu nướng. Các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn, lát nữa đi lễ về là ăn réveillon. Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng, hoan hỉ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười các cháu vang khắp nơi. Trong phòng khách, Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, loay hoay trang hồng cây thông đã chặt bên đất Thánh Tây. Chúng hì hà hì hục lôi xuống đồi, kéo lên dốc, vát qua thung lũng, khe suối, đem về nhà. Cây thông cao quá, đọt đụng trần cong hẳn lại, phải cưa một đoạn dài. Chúng móc đầy dây kim tuyến. Ngôi sao. Quả cầu đủ mầu sắc. Thiệp Noel. Thiên thần. Ông già Noel. Những gói quà nhỏ xíu, gói bánh kẹo, đồ chơi do Nam chọn mua.
Ăn cơm tối xong, Mười và Thùy quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất, Mười ủi áo quần cho gia đình để chuẩn bị đi lễ. Thùy vừa lau bụi trên các kệ sách, nàng nói:
- Hồi chiều, anh, Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà, mời chị em mình, mười giờ rưỡi lên Couvent xem lễ, chứ ở Nhà Thờ Lớn đông lắm! Rồi về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
- Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
- Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp vậy? Họ chào hỏi nhau, dzui dzẻ cả làng.
Thấy Nam ngoài phố lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui, vờ như chưa biết gì. Các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên không nói chàng đã lên Đà Lạt. Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, bồi hồi, quắt quay với nỗi mong chờ.
Nghe em vừa nói, lòng nàng nao nao, băn khoăn. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay. Mọi thứ dẹp sang một bên. Khi tình yêu đến có khác gì cây khô, gặp mưa thuận gió hòa, trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, nàng nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
- Chị cũng đi lễ, với các anh kia chứ?
- Đi sao được!
- Đến nhà Phú, khoảng mười giờ, chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
- Đủ rồi. Không chuẩn bị gặp người yêu sao?
Thùy cười hì hì. Mặc sẵn quần áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quàng chiếc manto đen, từ khi có "bồ", vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Mười, quần áo tuy "lèng xèng" giản dị, nhưng tươm tất. Nàng nghĩ:
- “Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí. Xuềnh xoàng quá, coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà!” .
Mười đi lên, đi xuống, con dốc mờ tối, năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt.
Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố, hàng cây tối mờ, bụi qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu, nở hết cánh, trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau trường kỹ thuật Lasan, bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dưới, khe mương nước chảy một bên đường. Thỉnh thoảng vài hòn đất, đá, lăn trên khe cao rơi xuống. Một tiếng "bủm" khô khan. Nghe to và lạnh lùng.
Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, hình như có tiếng ai nói gì, trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy! Văng vẳng đâu đây, tiếng lao xao cười nói ồn ào, thoáng chốc đến nhanh. Tốp nam nữ tấp nập ra phố đêm. Đi dự lễ. Coi vậy nàng nhác gan ghê!
Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ, cài cánh hoa mong manh, ẻo lả, trên cành trơ trụi lá. Đồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Đệ rộng mênh mông. Có gì để nàng phải đăm đăm nhìn về hướng đó, lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?
Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc; Nam bước xuống, anh ta bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt mầu nâu non, ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, kẻ sọc nâu mờ nhỏ xíu, áo pardessuis màu kem vắt trên vai, như khách lữ hành ngày xưa mới gặp. Chàng mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste.
Mười cười rạng rỡ, rảo bước về phía anh ta. Dưới cột đèn đường khi Nam nhìn thấy Mười, anh ta âu yếm trao nàng nụ cười tươi thắm, rồi nắm tay Mười đi xuống dốc. Nàng líu lo:
- Sao anh không viết thư, báo tin trước. Em đi đón?
Nam im lặng đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, và một cái hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng, cột nơ hồng. (quà cho gia đình các anh chị, các cháu, tì Nam đã đem đến hồi chiều).
- Anh lên đây hồi nào vậy. Nam?
Chàng siết chặt tay nàng, khẽ thở dài, anh ta không nói:
Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, anh ta cười cười siết chặt tay Mười im lặng. Dừng lại dưới ánh đèn. Nàng giựt tay ra khỏi tay anh ta, ngẩng lên, hỏi:
- Giận em à, hở anh?
- Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
- À, em đi xuống Cầu Đất với mấy nhỏ bạn, làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng, anh à.
- Biết có "họ", thì anh hổng thèm lên Đà Lạt dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình đâu. Mười có vài chàng trồng cây si, cây mơ. Thì… nhớ gì đến anh, mà mừng, vui. Các bạn ấy đã chờ em suốt buổi chiều đó.
- Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
- Chưa chắc à.
Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
- Anh thấy Nghi “là bà con xa" của em đã đến đây.
- . . .
- Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ… họ là bạn của chị Hạnh?
- Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.
Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu; bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Anh ta không nỡ trêu chọc nàng, sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ buông tay nhau, khi đứng trên thềm.
Chàng, Mười, cùng các cháu đi lễ tại trường Tabert. Gió cuối đông lồng lộng, thổi về làn hơi buốt giá tê người. Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay mũ len, đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca. Khác hẳn ngày đầu đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa, chuyện trò ríu rít, đi lại ngược xuôi, chen lấn nhau trên đại lộ; Không chiếc xe nào qua lọt giữa rừng người đông như kiến.
Một đêm hội lịch sử Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12, là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc rất mùa xuân. Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say. Sau mùa thu héo úa, rồi mùa đông buốt giá gần tàn. Lòng cô em xôn xao, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương, ngọt ngào mãi không rời qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan. Dưới hai vòm cây giao nhánh, các vì sao ẩn hiện. Sương mù cuộn thành lọn bông gòn trắng, xốp, bồng bềnh rơi trên thung lũng ẩm ướt. Cành cây kẽ lá đọng hạt sương lóng lánh. Vầng trăng khuyết không muốn lặn dừng lại lấp ló trong từng bè mây hối hả bay bay.
Bầu trời ướt đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới, rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa đông. Trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Na và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân đón chào ngày Chúa giáng trần.
Dưới hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng, như chiếc thuyền con trôi giữa các tầng mây. Noel năm 1960 - là một lễ Giáng Sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp, thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả. Tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học.
Các cháu vào hội trường, xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Hai anh chị ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng, chàng lấy trong túi áo veste ra hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng l8k, mặt chữ NM. Anh ta đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, và âu yếm nói:
- Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau.
- Dạ phải.
Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười, chàng nói:
- Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nhe.
- Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
- Ơ kìa! Ai khen em mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
- À há. Chi mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
- Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.
Nam vỗ vỗ trên vai Mười, nói lời dịu ngọt. Anh nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai chàng. Hơi thở Nam ấm nồng, phả nhẹ vào mái tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát, mà ấm áp. Ngón tay thư sinh trắng trẻo mềm mại, truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu.
Nam biết, nếu cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể nàng không phản đối; Anh ta đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, đang nở hết cánh trong đôi trái tim chân thật.
Tiếng chuông báo hiệu nửa đêm, ngân dài giữa vùng núi đồi trùng điệp chập chùng. Biển sương mù trắng xóa. Hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Đồng gìn giữ.
Nam về nhà chị Khánh ăn mừng lễ, không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, chàng từ giã Mười để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu. Chàng sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên… dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy, vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người.
Một mình Nam đi trên lòng phố vắng, hồi lâu còn nghe rõ tiếng gót giày chàng cô đơn, thong thả gõ đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương mù sáng loáng, giống như Nam đang đi trên dòng sông vừa tráng thêm lớp men tình. Sương rơi lốp đốp trên cành lá, hạt sương mọng tròn, long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu trên đầu ngọn lá rung rinh. Đường về khuya hiu hắt hoang vu, đơn điệu lạ thường. Cái khuya buốt lạnh, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Cái khuya thăm thẳm, sắc bén, ăn sâu vào lòng du khách. Cái khuya lạnh lùng vây bọc. Nhưng ngàn đời vẫn không thể mất đi vẻ thơ mộng, hữu tình và tràn lan quyến rũ...

* * *

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
10-01-2009, 03:34 AM
:rose:
Hiến Chương Tình Yêu




Dãy trường sơn hùng vĩ duỗi mình dưới cuộn mây trắng xóa đang vương tơ trời mong manh, rồi quấn thành từng dãi lụa mây giăng mắc trên đỉnh thông cao, xanh ngắt, ngút ngàn rũ rượi đứng thẳng. Có loài hoa lan qúy giá mọc từng chùm, than tầm gửi giao mình trên cành cây cổ thụ thân xù xì, già nua không biết nỗi tháng năm. Hương hoa thoang thoảng ngây ngây mùi thơm dễ chịu phảng phất bay bay cùng khắp núi đồi. Đôi chim chích chòe nhảy nhót hồi lâu thấm mệt, khép cánh dấu mỏ, đậu bên nhánh cây bằng lăng hoa tím, gần bụi hoa qùy nở xòe hoa vàng rực góc đồi. Bên những đài hoa mắc cỡ e lệ, thẹn thùng khép chặt hàng mi bối rối. Cạnh lùm cây không tên có tán lá bóng mượt. Chim cúi nhìn xuống đôi trẻ ngồi dưới gốc cây.
Nàng ngồi nghiêng gối đầu lên gốc cây ngo già, thân tựa trên rể cây thông, dọc bờ sườn dốc thoai thoải đầy lá khô. Chàng đọc lại tập thư đã viết và mỉm cười nàng thấy chàng thật có duyên. Một tay cầm chùm hoa mắc cỡ, chàng khẽ khàng cài bên mái tóc nàng, một tay chàng vuốt nhẹ lên đôi má nàng phớt hồng. Chàng vén lọn tóc nàng khá dài ra sau lưng.
Cuối cùng, không gian rủ thời gian ngừng trôi, bầu trời im ắng, lắng nghe lời chàng trai ân cần bên tai nàng. Chàng mỉm cười, lòng gợn lên tình yêu thương say đắm, nồng nhiệt hơn qua lời thì thầm trao yêu:
- Đố em biết, nốt ruồi bên má em, trời sinh ra để làm gì?
Ngạc nhiên kinh khủng, nàng mở to đôi mắt nhìn người yêu. Nàng nào biết nốt ruồi mà Trời sinh ra, để làm gì đâu? Đột nhiên nghe chàng hỏi, nàng biết trả lời sao. Nàng nhắm mắt, như lẫn trốn ánh mắt nồng nàn, đắm đuối kia. Nàng nũng nịu lắc đầu cười nhẹ không đáp. Mãi lâu, chàng cúi xuống thật gần, khe khẽ lời trao yêu nho nhỏ, (hầu như chàng sợ đôi chim non nghe thấy, thì... cả hai ngượng ngùng hết biết):
- Em không biết, thì… Anh nói em nghe. Nhe?
Nàng gật đầu nín khe. Chàng nhẹ nhàng vuốt tóc nàng:
- Để anh hôn em. Chứ để làm gì!
Nàng muốn ngoảnh mặt đi… Nhưng khó chối từ trước chàng trai duyên dáng, quyến rũ như thế. Và tuổi đời, trình độ, kiến thức, nét hào hoa văn nhã lịch lãm ở đời, cuộc sống ấy, đều hơn hẳn nàng. Một người con trai đã cho nàng tình yêu lãng mạn, nhưng không kém say đắm, tin yêu chân thật.
Anh ấy đủ bản lãnh để lôi cuốn, quyến rũ “em” tài tình. Sự quyến rũ ngọt ngào, nồng thắm, dịu êm đắm say, chân thành, đã xuất hiện trước cánh hoa mắc cỡ nhẹ nhàng, đang e lệ run run khép hờ rèm mi. Chàng hôn nhẹ lên mái tóc cài đóa hoa tim tím. Chàng hôn lên trán, nơi má có nốt ruồi duyên, hôn lên mắt nàng. Ngượng quá! “Cô nàng” kéo mái tóc dài qua một bên, che khuôn mặt, và chụp chiếc áo trùm kín lên đầu.
Chàng ôm nàng vào lòng, và từ từ gỡ chiếc áo lạnh ra. Chàng nhìn nàng trân trối, em ấy còn vẹn tuyền nét ngây thơ nguyên thủy của tuổi thanh xuân ngọc ngà. Đôi má em ấy nóng bừng, đỏ như người uống rượu quá say, khiến chàng cảm thấy hai vành tai, và mặt mình cũng nóng bừng theo. Chàng ôm khuôn mặt người yêu, lòng đầy xúc cảm, như dòng nước lũ tình yêu ào tới, cuốn trôi mọi ý niệm về không gian lẫn thời gian.
Nhẹ nhàng êm ái, chàng vén nhóm tóc dài vuốt ra sau gáy. Bây giờ càng hôn môi nàng, hôn đôi môi nàng mím chặt, chàng hôn thật nhẹ, êm ả nâng niu dịu dàng và trang trọng, cho hai hàng mi vụng dại ấy run run. Nàng khẽ nghiêng người ngoảnh mặt đi, hai bàn tay xinh xinh bưng lấy mặt, và nụ cười ngượng ngùng vô song hé nở, lộ ra hàm răng nhỉ trắng đều như hạt bắp làm thắm thiết làn môi. Môi hôn chàng đọng mãi trên môi nàng, cho không gian e thẹn ngập ngừng, rủ thời gian rón rén e ấp len lén trôi đi, trôi đi thật nhanh. Gió thổi lá khô xào xạc, rung bụi phấn thông vàng bay bay.
Hai con chim chích chòe càng bẽn lẽn, chúng im lặng nằm yên trên tổ không chút cử động, chim tròn xoe đôi mắt, cúi nhìn đôi trẻ, rồi chúng lại nheo mắt nhìn nhau và khe khẽ quệt cái mỏ dài lên gáy bạn tình. Chúng ngẩn ngơ nhìn họ mãi, chim hân hoan lắng nghe đôi bạn trân trọng trao nhau hiến-chương tình-yêu. Mảnh trời bé nhỏ qua kẽ lá trong vắt trên bầu trời, bỗng như ghen hờn với mối tình thơ dại, chiều tà đã sa sầm mây tím, bao phủ núi đồi. Trời chiều tối lại rất nhanh. Gió gào thét trên đỉnh cây, cuốn theo cơn mưa phùn thật nhẹ, thật nhỏ vướng theo gót chân, mà đôi trẻ nào có hay biết gì. Tình thắm thiết đã nở tiếng đàn trên mỗi phím loan.
Ôi! Chàng yêu nàng bằng tất cả núi rừng trùng điệp từ Bắc chí Nam. Và chàng thì thầm:
- Anh yêu Em hơn cả ao hồ sông biển từ phương Đông qua phương Tây. Anh yêu em trải dài từ Bắc cực xuống Nam cực. Từ kinh tuyến thứ nhất đến vĩ tuyến cuối cùng. Từ Aỉ Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Anh yêu Em bằng tinh tú trên bầu trời đêm. Yêu em mãi mãi như hai vì sao khuya đang qùy gối bên nhau, sao lấp lánh trò chuyện trên bến Ngân Hà suốt canh thâu. Yêu em nhiều... như cát vàng vùng sa mạc Sahara. Như nước đại dương mênh mông. Như hàng tỷ tỷ người, đã, đang, sẽ yêu nhau trên trái đất, từ ngàn kiếp trước. Như triệu ngày sống và triệu ngàn ngày sẽ đến. Cầu xin cho đôi ta sống đến ngàn năm. “Mình” nhỉ!
Anh yêu em bằng không gian và thời gian hiện hữu trên trái đất. Bằng tóc của em và tóc của anh cộng lại, lũy thừa, lũy thừa lên. Em chịu không? Không có em, anh sẽ chết. Cuộc đời anh rồi sẽ một sớm một chiều tàn phai, vô ý nghĩa. Mắt anh sẽ mờ nhòa, trũng sâu. Tóc anh sớm bạc màu. Em ơi! Đêm sẽ lạnh lùng hoang vắng. Ngày buồn tênh, dài lê thê những bước chân quạnh quẽ, trên nẻo đường cô độc. Đời chỉ là chuỗi ngày héo hắt, muộn phiền dai dẳng. Biết không em?!
Đôi môi em in đậm dấu ấn hiến chương tình yêu, đã nở hoa tinh tuyền ngát hương thề! Đó là một tình yêu đơn sơ, trong sáng, hồn nhiên, hoang dại, êm đềm như cây cỏ núi rừng mộc mạc của xứ hoa Đào. Em ơi!

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
10-13-2009, 02:56 PM
Cánh Hồng Nhung :rose: Giữa Anh & Em




Mặt trời đan trong mây, bơi trong sương, hòa trong sương, ngâm mình trong sương, hé nụ cười chúm chím trong sương. Và, họ hồn nhiên vui ca như chim hót, trong sáng như giọt sương rung rinh, long lanh mọng thắm trên cành lá gieo mùa.
Ngày lại ngày qua nhanh! qua nhanh! Nam và Mười quấn quít bên nhau như hình với bóng, như mười ngón tay khắng khít đan kín cuộc tình thơ dại. Họ dìu nhau đi giữa xứ lạnh mộng mơ, đi dưới phố thấp lên núi cao. Từ thị thành Đà Lạt hoa đèn mộng mơ, đến tận vùng gió núi mây ngàn. Từ đỉnh thác cao ngất chân mây cuối ghềnh, bên dòng suối bạc lẩn khuất, nhờ mặt trời rụng xuống đáy suối, mà thêm ấm áp. Tiếng cá quẫy đuôi nghe rõ mồn một.
Không nơi nào là không có dấu chân tình yêu dẫm lên từng bước, từng bước kỷ niệm ngọt ngào.
Họ yêu nhau đằm thắm, như hương hoa cây đồng cỏ nội mộc mạc, như núi rừng sạch mát mỗi buổi nắng lên nơi chốn rừng thông già trùng điệp. Tình yêu của họ cũng êm ái nhẹ nhàng, như áng mây nghiêng nghiêng bay. Họ đến bên nhau mang theo làn gió mới, không kém phần trang trọng làm nồng thắm xúc động xôn xao cõi lòng nhau.
Một buổi sáng chủ nhật kia, các trường trong Thị xã Đà Lạt của Tỉnh, Quận, Hạt đã tập trung lên Lữ Quán Thanh Niên. Trời trở lạnh kinh khủng, cho nên mọi người ai nấy đều co ro, cúm rúm xuýt xoa run rẩy. Họ thở ra từng làn khói, mặt mày ai nấy đều xám xịt, xanh lét như màu lá vẽ trên khung lụa ướt. Nước sương dính từng chùm tóc rối trên trán mọi người, mấy đầu ngón tay ngón chân bị teo tóp. Họ đứng chịu trận, dưới bầu trời tối mờ, ướt đẫm sương khuya. Đom đóm nhấp nháy bay chập chờn, thành một chuỗi sao.
Lữ quán Thanh niên rất rộng lớn, an toạ trên ngọn đồi cao, dưới đồi là đường Hàm Nghi, nhìn xuống thấp là phố Phan Đình Phùng chạy dài dọc từ ngã ba Duy Tân, đến Ấp số Bốn. Đối diện với đỉnh đồi là khu Domain de Marie. Ngã ba chùa Linh Sơn uy nghi, nhìn về góc nghĩa địa có “thành phố buồn” nơi an nghỉ của bao người “chán sống” quyết ra đi, không thèm ngoảnh lại thế trần.
Chùa Linh Sơn gần trường trung học Bồ Đề. Đi lên khỏi ngọn đồi cao, là trường nữ trung học Bùi Thị Xuân. Đứng sau lưng trường nhìn qua là viện Đại Học Đà Lạt, xa thật xa. Lữ quán đầy đủ tiện nghi, dành cho đoàn thể, công, cán, chính, sinh viên học sinh và giới cần lao. Câu Lạc Bộ tại lữ quán có bán cơm bình dân, giá rẽ. Hội trường rộng mênh mông, đầy đủ phòng ốc cho mọi giới thuê mướn ở trọ.
Học sinh đứng như thế khoảng ba giờ liền, có hàng ngũ chỉnh tề, dần dần không ai bảo ai, mọi người ngồi bẹp xuống bãi cỏ trước sân lữ quán. Mặc sương giá thấm ướt đủng quần, người duỗi thẳng chân, người thì co tay giật cẳng, vặn mình kêu răn rắc, người gục đầu lên gối, ôm bộ giò mỏi mệt cứng đơ.
Ông hiệu trưởng cẩn thận chấp hành thông tư của Phó Tỉnh-trưởng Nội An, bắt học sinh đến chầu từ năm giờ sáng. Thầy tưởng mấy ông bà bự sẽ đến dự, lúc sáu giờ ấy chắc! Giờ nầy qúy vị đó, còn "úm" trong nệm ấm chăn êm, sức mấy mà đi làm cái chuyện khờ me! Học sinh không dám cải lệnh thầy, chiều hôm qua dưới sân cờ, thầy tuyên bố, sẽ bị trừ mười điểm trong học bạ, nếu em nào đi trễ hoặc vắng mặt, dù bất cứ lý do gì. Các em “học xinh” sợ một phép, không chấp hành nghiêm chỉnh sao được.
Chín giờ rưỡi, loa phóng thanh ngừng phát nhạc hòa tấu, xướng ngôn viên vặn lớn haut parleur, thông báo mọi người chờ đón quan khách.
Có thiệp mời đến lữ quán, nên Nam ngồi trên khán đài, chàng nói chuyện với anh Tuấn. Đám học sinh đau khổ ngồi bệt dưới đất, coi thật bệ rạc, dĩ nhiên họ tức lộn ruột lộn gan. Vì, nụ cười của một thanh niên trẻ trung nhất trong phái đoàn. Sau ngôi sao sáng chói của qúy đệ nhất phu nhân, thì, “chàng” là thí điểm, là bình phông, là cái rốn vũ trụ, để các cô cậu nhìn vào.
Một số ít bạn trai gái của Mười có biết “nàng” là người yêu của “chàng”, nên họ cố ý châm chọc, phê bình trắng trợn, khiến bọn con trai cay cú rủa sã Nam. Họ muốn cho Mười mất mặt mà. Nàng rất bực bội khó chịu, nhưng nhớ lời ba dặn nàng:
- "Thấy người hung ác, con chỉ ngả mũ cúi chào, "kính nhi viễn chi" mỉm cười, mà lẹ bước đi xa. Nghe".
Nên Mười lặng im. Không biết họ ganh tức chàng cái nỗi gì? Nhóm học sinh chỉ chỏ Nam, cay cú và không ngại nói huỵch toẹt ra giữa đám đông, mà không hề ngượng miệng:
- Thằng nào mặt còn hôi sữa, ngồi chễm chệ đó, bắt tụi mình chào đón hắn vậy?
- Nó chả ra cái thớ gì, mà bố láo.
- Phì phèo hút thuốc, coi cà chớn, dễ giận thấy mẹ à.
- Tao muốn lên dộng một cái, cho nó lọt xuống đài ghê.
- Lát nữa, mày nhừ đòn với chúng tao, nghe con!
Còn nhiều từ, Mười nghe chẳng hay ho chút nào. Buổi lễ kết thúc lúc một giờ. Nàng cảm thấy khó chịu, buồn bực trong lòng, tức tức muốn điên, Mười lầm lũi ra về.
* * *

Xế chiều chàng đến nhà anh chị của Mười, để dạy thêm cho Thùy, Mười môn Toán, Lý, Hoá. Học xong, cất sách tập vào cặp, Nam đã kể lại chuyện bọn học sinh ban sáng là: Trương Anh, Điều, Thiên, Tuấn Anh, Khôi, Lang, Bích, đã chận đường gây sự, đòi khiêu chiến với Nam. Chàng thật sự ngạc nhiên, vì Nam không hề quen biết bọn họ, mà "nghinh há". Vã lại, nghinh làm gì, với hạng người bặm trợn, du côn du kề, cô hồn hết biết. Nam có nghe Mười kể sơ sơ về bọn họ ở trong lớp chúng ưa quậy tưng trời đất. Nam có biết về trình độ thấu hiểu, học thức của họ chỉ vừa đến đấy, đến đấy thôi. Nhưng về việc yêu đương, côn đồ, ma lanh, thì họ tiến nhanh rất xa. Mặt trơ trán bóng, tính tình chúng lông bông, buông thả tình cảm trong những hộp đêm rẻ tiền,họ dang díu lăng nhăng với gái ăn sương, rồi hèn hạ trắng trợn, đi rêu rao trong lớp và cười ha hả; giống tên ma cô ở đầu đường xó chợ, lại hoan hỉ tự hào ta là kẻ bay bướm dày dạn, sành sỏi nhất.
Dẫu sao thì…, là con trai lêu lổng chuyên đi cua gái, thì cừ khôi, chứ sao người đời ưa gọi chúng là “mặt chai mày đá” hì? Họ thành công vì đã làm cho các cô sợ hãi và tức cành hông, với kiểu phun khói thuốc lá phù phù vào mặt người đối diện. Họ bắt chước nhau, cà nghinh cà bật, đi kênh kênh vai nhún lên nhún xuống, thân nhô lên hụp xuống cho khác đời. Họ tự xưng là “cha, là bác”, và thích nghe “đàn em” kêu mình là “đại ca”. Nam nghĩ, đó là đứa trẻ miệng còn hôi sữa tự kiêu, khinh bạc. Mỉa mai thay cái thứ ngu như bò tót, mà cứ nghĩ mình là đại ca, cha là bác thiên hạ.
Ở đâu trong lớp nầy lại tập họp cái bọn du thủ du thực, mặt mày chẳng sáng sủa, chả đôn hậu, chẳng đẹp hơn ai. Bọn “ngưu đầu mã diện, đá cá lăn dưa” như vậy đó, như vậy đó, vậy đó… mà cứ tưởng bở ta đây là "yên hùng mã tấu", ưa nổi đám nổi đình, càng làm ô danh học sinh. Nam dại gì dây mà dưa vào chứ.
* * *

Ở gần nhà chị Ba, Tuấn Anh là bạn học cùng lớp với Mười, hắn tới nhà chị Ba và mách lẽo với chị, hắn không tiếc lời chỉ trích, nhạo cười Nam là tên hèn nhát, mà bày đặt kênh đời! Chuyện không ra gì ấy đến tai các chị. Thế là hai chị lên án chàng dữ dội, nào là:
- Nam ở trong băng quậy, chuyên môn đi đánh lộn, giành gái giếc, đàng điếm…
Hai bà chị của Mười không chịu tìm hiểu nguyên nhân dữ kiện, chỉ nhìn sự kiện xảy ra trước mắt, rồi vội vàng kết luận. Thật buồn thay! Mấy hôm nay, Mười buồn bã vô cùng, chán trường, chán lớp, nhất là chán đám bạn bè cư xử thiếu tế nhị, và ganh ghét ra mặt. Họ cố ý ngồi trước mặt Mười, dùng lời lẽ thô tục để bêu rếu Nam, cốt cho mình mất mặt giữa đám đông. Rõ ràng họ muốn gây hấn cả với nàng nữa (mà Mười lầm tưởng họ là mấy bạn thân quen, tử tế). Nhớ khi trước chưa xảy ra chuyện, sao mà dễ chịu thế! Bây giờ, họ đã tự lột mặt nạ ra lúc nào, khiến Mười kinh sợ họ hết biết, không dám chạm mặt! Thầy Đệ văn võ song toàn, còn khiếp sợ họ, muốn rút lui không dạy lớp nầy, huống gì ai.
Mười cúp cua hai giờ toán, đi lang thang suốt đường Hoàng Diệu, Duy Tân, lên Phạm Phú Thứ, Huỳnh Thúc Kháng, Pasteur. Đi trên đường, Nam đọc chuyện Bonjour Tristesse, của Francoise Sagan. Bà nầy theo chủ thuyết hiện sinh. Mười không mấy thích chủ thuyết ấy tí nào. Không vì nguồn cội, không vì tha nhân, không vì người yêu qúy, mà chỉ vì chính mình. Thì thật quá ích kỷ.
Ngồi trên hàng rào xi măng, bên khu biệt thự vắng. Mở tập ra, Nam hỏi:
- Chiều nay, em cúp cua hả?
- Mười "dạ" lí nhí trong cổ. Anh ta lắc đầu, nói tiếp:
- Ôi trời! Cái gì đây. Em?
Mười giật mình, nhìn vào hướng chỉ tay, không dám cười, nàng cúi đầu nói nhỏ:
- Hai con… oóc toọt.
- Vì sao vậy?
- Lâu lắm rồi, em lỡ dại, quậy phá trong lớp. Không thuộc bài nữa. Nên... bị...
- Nếu em không hiểu bài nầy, thì sẽ không hiểu bài khác. Em hiểu không? À, hiểu rồi... làm ơn cho anh mượn cây thước kẻ.
Mười sợ Nam, chứ “em” không sợ cây thước kẻ đâu. Hai mái đầu xanh chụm lại dưới hàng cây giao nhánh bên đường, học bài một hồi lâu. Khi thấy Mười thực hiểu bài, Nam cười khen:
- Em của anh thông minh, nhưng phải cái tội… em "lì và lười" kinh khủng.
Hờn mát, Mười ôm cặp bỏ đi. Nam gọi:
- Đứng lại! Một tiếng... Hai tiếng... Ba tiếng… Đứng lại! Không đứng lại thì anh... đi theo em luôn.
Chàng đi ngược lại cổng sắt, mở cửa vào ngôi biệt thự kế cạnh, Mười chưng hửng, đứng ở ngoài. Không hiểu Nam tán hay ho thế nào, mà người gác dan cắt cho chàng năm cành nhung hồng tuyệt đẹp.
Nam đến bên Mười, đầu nghiêng nghiêng, miệng cười chúm chím, Nam đặt hoa giữa làn môi hai người, họ ríu ra ríu rít cùng hôn lên đóa hoa thơm ngát. Qua kẽ hở đều giữa những phiến lá răng cưa xanh xanh, Mười e e thẹn thẹn, liếc liếc, hít hít, hôn hôn. Hơi thở Nam ấm nồng, ngây ngây, len len từ bờ môi nầy, chuyền sang vành vôi kia; quyện với hương hoa hồng thơm ngát, khiến Mười ngây ngây, ngất ngất... nhột nhạt đến dại khờ.
Các bè mây xô xô đẫy đẫy, gặp gỡ nhau trên bầu trời vàng tím buổi hoàng hôn lảo đảo. Chiều lụi tàn dần dần trong ánh sáng mờ mờ, đục đục. Gió nhè nhẹ phe phẫy hàng bông giấy đong đong, đưa đưa. Chim chóc hót líu lo, ríu rít chuyền cành, chen nhau vào tổ ấm. Chàng quàng tay qua vai nàng, dìu nhau đi về lối nhà, và chia tay ở đầu con dốc đứng cong cong, uốn lên uốn xuống, khi phố núi đã lên đèn.
* * *

Cắm mấy cánh nhung hồng vào lọ sứ, nàng đem đặt trên phòng khách. Thay áo quần xong, Mười ngồi vào bàn ăn, thì chị Khánh cho biết:
- Chị đã đến trường học hồi chiều.
Nàng bủn rủn cả tay chân, thân hình hầu như lảo đảo, muốn rụng rời. Chị giận dữ la mắng, tra hỏi Mười đủ thứ chuyện. Dù nàng có nói thế nào, chị Khánh vẫn không tin việc Mười cúp cua, là do tự ý nàng thấy chán trường, chán bạn bè trong lớp. Chứ không hề do Nam xúi giục. Chị Khánh quả quyết chính là do Nam xúi giục, mà Mười mới trốn học đi lêu lỗng, phá phách trong lớp. Chị có trăm lý do để buộc tội Nam dụ dỗ em của chị.
Mười không có cách gì thuyết phục, hay gây dựng niềm tin trong lòng chị, chị đùng đùng nổi giận. Chị phẫn nộ thực sự, sự phẫn nộ bùng nổ, như lửa cháy; làm tiêu tan căn nhà tình yêu lý tưởng đơn sơ của Nam Mười chỉ trong nháy mắt.
Mười có lỗi trong việc nghỉ học, nên không dám dùng ngày giờ ngắn ngủi còn lại, đi gặp chàng, hầu chia sẻ, và, xóa đi nỗi đớn đau trong lòng. Mười thấy lòng vỡ tan từng mãnh vụn, không dám nghĩ tới ngày mai sẽ ra sao, khi chị Khánh buộc Mười bốn điều:
- Đi nói lời tuyệt giao với chàng.
- Nghỉ học.
- Chị trả Mười về Huế.
- Chị đã đánh điện tín gọi má vào rước Mười về quê. Chị nói:
- Nếu thằng Nam thực sự yêu thương mày, thì trong vòng mấy ngày, khi ba má tới Đà Lạt, là thằng Nam liệu mà làm đám hỏi. Nghe. Còn bây giờ, tao cấm cửa.
Trời! Đi hỏi vợ, chứ có phải chỉ là một món hàng trao đổi, tầm thường, không cần chuẩn bị gì cả sao ta? Mười ứa nước mắt, khóc thầm trong lòng. Mình không có quyền hạn về mọi quyết định cho chính bản thân. Nàng không trách chị quá khắt khe, độc đoán, hay nghi ngờ lòng chị mến thương em. Mười kinh ngạc là chuyện đâu đến nỗi nào to tát đến thế. Ví dù em bỏ học vài giờ, chị có thể nghiêm cấm, em sẽ không tái phạm. Chị cần răn đe em, đây là lần đầu tiên, cũng có thể là lần cuối cùng. Sau đó, nếu chị thấy em tính nào vẫn tật ấy, em không sữa đổi, thì chị quyết chí ra tay, vẫn chưa muộn kia mà!
Vấn đề chính không phải ở chỗ đó, nhân chuyện Mười bỏ học hai giờ, chuyện yêu thương Nam, thì chị muốn trả Mười về cho ba má “coi chừng nó”, để khỏi có trách-nhiệm-vụ, lo cái bổn-phận-sự là nuôi em. Khỏi mang tiếng với gia đình chồng là nuôi "báo cô". Sự thật, ba má vẫn gửi ngân phiếu vào, cho Mười đóng tiền ăn học. Làm chị, thì chị Khánh phải biết lúc nào chị nên cứng rắn, lúc nào chị nên ôn hòa, ngọt ngào thân thiết; thì em phải cúi đầu kính phục và ngưỡng trọng chị. Cách xử sự của chị quá gay gắt, khiến lòng Mười càng đau đớn, tái tê hơn.
Phần Nam, anh ta không thể tự biện hộ điều gì cả, khi chị Khánh không muốn tiếp Nam. Thấy chàng, chị im lặng mặt chị lạnh như tiền, chị đùng đùng đóng cửa cái “rầm”, rồi hầm hầm bỏ đi.

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
10-27-2009, 02:18 PM
:rose:
Ước Mong Tình Bất Diệt




Khúc xạ ánh sáng mặt trời chiếu xuyên qua lớp khí quyển ướt ẩm, khô, lạnh, tạo thành bảy tia quan phổ đỏ, vàng, lam, chàm, lục, cam, tím. Mưa phản chiếu tia nắng ở góc nhọn 42 độ, tạo thành chiếc cầu vồng rất rõ, ánh đẹp, vẻ thành cảnh chiều buông tuyệt diệu, mờ ảo trong làn sương mù lơi lả. Trước khi lặn, mặt trời lóe lên giây lát, rồi ngã sang màu lam xám, màu tím đậm và màu ven đêm. Phút chốc cảnh vật bỗng chìm dần và lặng như tờ. Tiếng gió vẫn reo vô tư ngàn đời âu yếm trò chuyện với thông xanh mãi xanh reo vi vu.
Phú cùng các bạn ở trọ trong một ngôi nhà nép bên sườn đồi đầy hoa qùy mọc tự do, hoa dã quỳ nở vàng rực suốt con đường. Đám mây mọng nước kéo lê thê sau lưng ngôi trường Đa Nghĩa. Hàng cây trước trường trút hết lá, không dấu nỗi lớp vỏ sần sùi trong dáng chiều chợt phai. Mất hết rồi bộ cánh rừng xanh tươi trẻ đẹp ngày xuân khoe sắc lá.
Ngoài sân có bốn cây mimosa hoa nở đầy cành, từng chùm bông óng ánh vàng tươi, thoảng mùi hăng hắc đặc biệt. Mười yêu hoa mimosa, nên không thấy khó chịu. Từng chùm bông vàng tròn tròn đều đặn, mịn màng, êm như nhung, hoa mimosa đong đưa dưới cánh lá nhung lam, xám mốc phớt bạc, hình lá bầu dục, trông đẹp mắt.
Mười thích hái chùm hoa mimosa, pensée, violette, forget me not, cocorico, ép vào trang sách học trò để gửi về bạn ở phương xa. Mấy loài hoa kia dễ ép, cánh lá mềm mại, mong manh. Duy chỉ có hoa mimosa và hoa mắc cỡ là khó ép, hoa có chùm nụ chưa nở nên cứng như cành lá nó cưu mang, làm cộm lên dưới quyển tự điển dày. Do hoa khó tính khó nết vậy, nên nàng thích nâng hoa trên tay như nâng trứng, hứng như hứng hoa.
Ngôi nhà nầy có hòn non bộ xây ở góc trái hiên ngoài, mặt nước ao tù phủ từng mảng bèo li ti khẽ lay động. Cá bảy màu bơi lui bơi tới uốn lượn trong hồ dần tối lại. Từng đàn kiến đen nho nhỏ, tấp nập tha trứng trắng phóng chạy như điên, kiến leo lên góc cột cao, chui qua trần nhà đen nghịt. Mười nghĩ thầm: “Móng dài trời lụt, móng cụt trời mưa”. Kiến dời tổ lên chỗ cao, lát nữa đây, đám mây sẽ vỡ tan, thành cơn mưa lớn nhỏ, nhiều ít chi đây.
Nguyệt, Mười, Nhi, Thương, Vân, Hồng, Viên, Đào, rủ nhau đến dự sinh nhật Phú. Phòng khách vừa đủ rộng, cửa ra vào, cửa sổ kính, màn voan hồng mỏng che ráng chiều. Ngọn đèn vàng mờ đục, chao lụa móc trên tường, toát lên vẻ ấm áp, nên thơ, thanh bình trong căn biệt thự nho nhỏ xinh xinh.
Các bạn ăn bánh ngọt, uống trà Tàu, cắn hạt dưa, họ ngồi nhìn Nhi mở màn khiêu vũ với Phú, qua bản “Đêm tàn bến Ngự” của Dương Thiệu Tước do Viên ca. Nhi có nét đẹp kiêu sa, áo dài vàng màu hoàng anh, tóc dài buông thả trên thân hình cân đối, đường nét hài hòa, khuôn mặt xinh xinh khiến ai cũng muốn nhìn. Viên đẹp dịu dàng như hoa đồng cỏ nội Đế Đô, duyên dáng liếm ướt làn môi, giọng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng Viên hay cười tít mắt.
Mặc dù có ưu điểm thế, thân nhau như thế, hai cô ấy vẫn khác tính nhau, một cô mê nhảy đầm, một cô nhút nhát ngượng ngập kiểu bồ câu. Nếu chưa biết chuyện riêng tư về họ, suy nghĩ của họ, thì Mười không thể nào tin được, đó là hai cô ý hợp tâm đầu. Phải chăng sự tương đắt đó, bao gồm cả sự tương thân tương ái, người này cần người kia, cần cái mà mình không có, để bổ xung cho bạn, cái mà mình vượt trội. Hai cô gái Huế ấy đã "nhặt được bạn qúy", nên thấu hiểu và thông cảm nhau lạ.
Mấy bạn trai đến mời Mười nhảy, nàng đều từ chối. Bởi lẽ nàng thấy kỳ cục quá sá. Nói ra, thì có thể các bạn cho mình nhà quê, không sành điệu. Thời buổi nầy nhảy đầm là chuyện bình thường, thuộc lẽ tự nhiên khi giao tế lịch lãm ở đời. Nhưng Mười thuộc loại "nhà quê" thật sự, không văn minh tiến bộ nỗi. Lạ hoắc lạ huơ đâu không biết, đến mời nhau, ôm nhau, giậc lui giậc tới, va chạm thân thể tới tấp, điệu nhảy cuồng quay nóng bỏng, vòng tay siết chặt thân thể. Ngượng chết người! Gì chứ mấy pha mê ly hấp dẫn đó, mãi mãi không nằm trong "chương mục văn nghệ tính" của Mười. Ai chê cười "quê một cục", em xin chịu, xin giơ hai tay lên đầu hàng vô điều kiện. Mười ra ngoài hàng hiên, ngồi trên bờ tường thấp, xây chung quanh ngôi biệt thự, để các bạn tự do thoải mái và tự nhiên đôi chút.
Yến mến Phú nhiều, nếu không muốn nói là có cảm tình đặc biệt. Trong cái nền chung của các bạn trai thân quen, Phú nổi bật, như ánh chớp nguồn trên nền trời xám đục, nếu Phú có đáp tình, là lẽ tất nhiên. Điều đó tốt chứ. Yến dễ thương mà!
Khoảng giờ sau, Phú ra lan can đứng bên Mười tần ngần nhìn lên cành hoa mimosa mập mờ trong bóng tối, ngọn thuốc mãi miết cháy trên môi. Mỗi người chìm vào suy tư riêng. Tiếng cười reo vô tư, tiếng đàn ca lùi hẳn về phía sau, nhường chỗ cho nỗi buồn nhẹ nhàng, tinh tế len lõi vào hồn, thành nỗi nhớ nhung choáng ngợp lòng nàng. Mãi lâu, Phú buông tiếng thở dài. Mười quay nhìn nét mặt đăm chiêu như dò hỏi. Phú rít dài hơi thuốc cuối cùng, dụi tắt, vứt đi, nói:
- Sao Mười nỡ đùa dai vậy? Vừa phải thôi.
- Đùa gì cơ!
- Anh rất khổ tâm.
Lần đầu tiên Phú xưng "anh", thay vì vẫn gọi tên nhau. Ngạc nhiên, Mười ngẩn người giây lát, rồi dè dặt hỏi:
- Về việc gì chứ?
- Còn giả vờ nữa.
- Không đâu.
- Sao Mười gán ghép người... anh không thích vậy?
Mười lặng thinh cúi đầu. À phải! Các bạn đang trêu đùa trong nhà. Họ trêu chọc Yến và anh ta đó.
- Mười nghĩ gì về... Phú vậy?
Câu hỏi quá bất ngờ, khiến nàng lúng túng xí:
- Nghĩ gì? Ơ... Phú... như bạn thân thương khác. Có lẽ hiểu Mười. Chịu nghe Mười nói. Cùng... muốn học hỏi, trau dồi kiến thức... cho nhau.
- Vậy ha! Còn gì nữa không! Mười?
Ngập ngừng giây lát, quay hẳn về phiá Phú, Mười nói:
- Phú đẹp trai, Yến là kiều nữ, không phải ai Yến cũng có cảm tình đâu, Phú. Cho phép Mười nói về Yến như vậy... Nếu ở vào địa vị Phú, Mười sẽ chịu Yến gấp.
- Không đùa chứ?
hai cô Đào, Vân, ra cửa, họ nghe lõm bõm, nên hỏi:
- Ê Mười, không nói đùa, thì nói chuyện thật gì vậy?
- À... mình khen Yến... đó mà.
Được thể, mấy cô gái kêu to lên, chọc phá Yến:
- Yến ơi! Phú khen mày nè. Gớm! Nó vờ không nghe, lờ đi, mới dễ ghét chứ.
- Phú nhìn Mười, đôi mắt ánh lên tia trách móc, hờn giận, không có gì tả nỗi. Mười sợ mấy con nhỏ làm Phú buồn, vì anh ấy không biết chúng nó là "bát cô nớ" thần sầu đất lở, trẻ không tha, già không thương, Phú chấp nhất họ làm gì chứ.
Mười vội giả lả sang chuyện khác. Phú vào nhà, chàng đến bên tủ lấy chai rượu ra, giơ lên trước mặt, cười:
- Uống tí rượu bỏ quên đời, dông tuốt lên chùa, quét lá đa cho xong.
Mấy anh chịu chơi hết cở thợ rèn rồi! Mỗi anh làm một chung nhỏ xíu, bằng ngón chân cái, cho ra vẻ ta đây "trai tráng mới nhớn", là dân chơi cầu ba cẳng, lỡ qua sông phải lụy đò, dù có say mút mùa lệ thủy, vẫn OK. Các cô thì "em chã, em chê, em chịu thôi".
Ngày rồi có lúc tối đêm lại. Cuộc vui dù nhộn nhịp, hân hoan thích thú đến đâu, có lúc tàn và chia tay. Giờ chỉ còn những cuộn mây xám giăng giăng, những hạt mưa tròn giọt thánh thót rơi rơi, từ đài hoa mimosa rớt xuống nền gạch lạnh, như muôn giọt thuỷ tinh tròn tròn, lăn lăn ly ti. Trên con đường thấp thoáng mưa phùn rơi, các bạn tiễn đưa nhau, hai ba người đi chung từng nhóm nhỏ.
Lễ xỏ tay trong túi quần, đi bên Hồng, Mười. Đắn đo giây lát, Lễ mở lời:
- Hôm nay sinh nhật của Phú, mà... nó buồn lắm.
- Vui chứ! Sao lại buồn?
- Dễ thương xinh đẹp như Mười, sao Lễ thấy Mười "ác dễ sợ".
Hồng, (có người yêu, là cháu chú Cửu Hiền, chú là em họ ba Mười; Vì thế mình bà con tùm lum tà la, bắn mấy phát cà nông, có lẽ mới tới đầu dây mối rễ) nghe Lễ nói thế, vội đỡ lời bạn:
- Làm như Mười ăn thịt, ăn cá, ai không bằng.
- Nếu là cá, thịt, cho người ta ăn, có lẽ đỡ đau khổ.
- Chi lạ rứa?
- Không lạ chi. Mười! Phú yêu Mười lắm đó.
- Điều nầy khiến Mười không vui. Giữa Phú, Mười, thường viết thư. Lễ biết phải không? Giá như ngày ấy, Phú ngỏ lời có lẽ Mười không yêu ai khác. Sở dĩ nói vậy, vì Mười không dấu bạn điều gì. Mười đã gặp đối tượng, và Mười yêu anh ấy...
Ba người lầm lũi đi qua lối Cẩm Đô. Hồng chia tay bạn, rẽ về phiá Ngọc Hiệp. Còn lại hai người, Lễ xỏ hai tay vào túi áo blousson, anh ta đá hòn cuội trắng cho nó lăn từng đoạn trên đường. Khá lâu, Lễ nói:
- Chưa nghe Mười nói về "anh ấy" bao giờ.
- Không có dịp gặp nhau, Mười chưa giới thiệu thôi.
- Dù sao, Lễ... không muốn Phú biết điều nầy, Phú sẽ thất vọng lắm, và ảnh hưởng không tốt về việc nó thi cử sắp đến nữa.
- Cảm ơn Lễ. Mười... mến Phú như Lễ vậy. Chúng mình có với nhau nhiều kỷ niệm trong sáng, hồn nhiên, ngọt ngào vô cùng, một tình bạn dễ chịu, và dịu êm.
Tình bạn muôn thuở còn đẹp mãi như xưa, khi họ biết về mình không nhỉ ? Thương Mười tha thiết mong tình bằng hữu bất diệt, sống mãi trong mỗi chúng ta. Mười không muốn mất các bạn, cũng như không bao giờ Mười mất Nam.

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
11-07-2009, 11:01 PM
:rose:
Cơn Quặn Thắt Đầu Đời



Rồi việc gì sẽ đến, đã đến dưới buổi hoàng hôn lảo đảo! Má nàng từ Huế vào Đà Lạt trên chuyến xe tốc hành đêm mười lăm tháng Chạp áp Tết cổ truyền.
Mới vài năm xa mẹ hiền, mà nay má già lắm! Ở chốn quê nhà lam lũ, một nắng hai sương, má vất vả trăm chiều, lặn lội sớm hôm tần tảo, để kiếm tiền nuôi Mười ăn học. Mười vô cùng ân hận, một sự hối lỗi khẩn thiết, rất chân thành, phát xuất tự đáy lòng. Mười biết má buồn lắm! Khiến lòng nàng càng tái tê, càng dày vò! Má ơi! Hãy nhìn con, nói lời tha thứ, cho con chạy đến ngã vào lòng mẹ hiền, như con hoang đàng trong thánh kinh, được vòng tay cha nhân ái rộng mở đón mừng. Con muốn được như vậy. Má ơi!
Mười nghỉ học, nàng cảm thấy như ngồi trên ổ kiến lửa, ngu si thọc tay vào tổ ong quậy phá, khiến chúng đốt sưng vù. Càng hơn nữa Mười như tên tội phạm đứng trên giàn hỏa thiêu, bồn chồn sợ hãi tột đỉnh, nàng giống như tên tử tội thấy người khác thọc ngọn dáo nhọn sắt cạnh vào tim mình.
Phòng ăn treo bức ảnh đại gia đình họ tộc, từ ông bà cố trở xuống hàng con, cháu, chắt. Dường như từ những khung ảnh lạnh lẽo, nhiều người ngồi trên đó, luôn dõi mắt nhìn đàn con, cháu, chắt, nhắc nhở họ thường xuyên nhớ phong tục tập quán cổ truyền, đạo lý gia phong tổ tiên dòng dõi Nhà Trần, Nhà Ngô. Bữa cơm thịnh soạn họp mặt ở nhà chị Khánh có đầy đủ con, cháu, để mừng mẹ từ xa đến.
Ăn uống xong xuôi, Thùy bưng chè đậu xanh đánh lên, ăn tráng miệng, thì chị Khánh mở đầu buổi họp gia phong, hạch hỏi tình yêu của Nam Mười, rồi nói:
- Má liệu đem nó về. Không khéo nó có bầu rồi. Con thấy nó giã lá thuốc ngãi cứu, uống mấy ngày nay đó.
Như có ai vừa tạt gáo dầu sôi bỏng. Đớn đau kinh khủng, khiến Mười lịm đi, để chống đối lời lăng nhục đó, Mười bèn trợn trừng mắt lườm nguýt chị, mặt bừng bừng đỏ, nàng nhún nhẹ đôi vai, và trề môi ra. Mặt chị Khánh đỏ như trái gấc, chị quắt đôi mắt sáng, sắc như dao cau, hướng về phía em, chị "hừ" một tiếng lớn, nghe thật ớn lạnh.
Có ai trong đời mà không trải qua năm, bảy lần hỗn láo với người lớn không nhỉ? Mười phải bảo vệ tình yêu và danh dự. Cho dù nàng biết cử chỉ đó là “mất dạy” cách mấy đi chăng nữa. Bởi chưng, chưa bao giờ Nam có lời nói kém nhã nhặn, chớ nói chi đến cử chỉ thất thố, suồng sã với Mười. Chưa bao giờ!
Nam và Mười yêu nhau, mối tình hồn nhiên nên thơ rất trong sáng, chưa một lần quá trớn, lăng loàn. Vả lại chuyện vợ chồng có gì mà gấp rút, khi tuổi đời hai ta còn quá trẻ dại? Điều đó, giữa Nam và Mười, là sự thật trong sáng trăm phần trăm. Mười tôn trọng sự thật. Toà án lương tâm không bao giờ cắn rứt mình, mà toà án trong gia tộc nầy, sẽ khiến Mười khắt ghi nỗi hận, và anh chị ai vu oan cho Mười, sẽ ân hận mãi về buổi họp hôm nay.
Chị Khánh đánh giá con người và tình yêu sai lầm rồi. Không có gì sỉ nhục bằng nghĩ xấu cho một mối tình đẹp đến thế! Phải chăng, đa số anh chị thường mang định kiến không tốt về tình yêu? Tại sao họ nghĩ nông cạn đến độ, cứ yêu nhau là phải làm đến cái chuyện tầm bậy tầm bạ ấy? Mười thương Nam quá! Nơi chân trời xa xôi, chàng rất mực giữ mối thiện cảm, duy trì lòng mến mộ các anh chị. Nam có ngờ đâu, họ nhìn anh ở một góc cạnh xấu nhất. Họ đang đóng đinh mối tình dẫy chết của chúng mình. Đó anh!
Chị Lê trợn mắt lên, chị xỉ vào mặt Mười, la:
- Mi ghê gớm thiệt. Để tao coi mi có lá gan bê lớn? Hắn dạy mi rứa đó hả?
Thấy tình trạng căng thẳng quá, Mười sợ, nên từ từ len lén đứng dậy, nàng thu dọn chén bát trên bàn, mặt Mười cúi gầm xuống và im lặng. Chị Khánh lại la, khi Mười định bưng chồng chén xuống bếp:
- Cuốn gói theo hắn đi? Cút xéo ngay. Cho ăn học uổng quá!
Liếc nhìn hai chị, rồi nhìn má, Mười trả lời:
- Con không muốn ở đây, sợ phiền anh chị thêm.
Chị Khánh trợn mắt, đứng lên, tay chống ngang hông:
- Đi ra khỏi nhà ngay.
- Em chờ má đi luôn.
Cả nhà nghĩ Mười có ý chế nhạo, trêu tức, hỗn hào, thách thức họ. Duy chỉ có anh Tư, vốn dĩ là người trầm tĩnh, thâm thúy, tế nhị nhất. Anh lịch sự, ôn tồn nói:
- Việc gì phải đi đâu. Muốn nên người, dì cần ở đây, ăn học tử tế. Chịu tất cả quy luật trong gia đình nầy.
- Em đã quyết định rồi.
- Tùy ý dì. Thế cậu ấy còn ở đây không?
- Ai cơ?
Chị Khánh quát tháo:
- Thằng Nam chớ ai. Nói nó lập tức đem mày đi đi.
- Em không có ý định đó. Tụi em thương yêu nhau đứng đắn, đàng hoàng, không tầm thường, không tầm bậy, tầm bạ, như chị nghĩ. Sao chị cứ vu oan cho em?
- Chuyện rành rành như ban ngày, còn chối leo lẻo nữa há. Nè, trả treo nè... Trả treo nè...
Liền với câu mắng nhiếc ồn ào, chị Khánh xấn tới bên Mười, chị thắng tay cho mấy cái tát nẩy lửa vào giữa mặt, khiến Mười chảy máu mũi. Chồng chén bát kiểu trên tay Mười rơi loảng xoảng xuống nền gạch, vỡ nát.
Mười bưng mặt đầy máu chạy vào phòng, nàng nằm vật lên giường, nghiến chặt hàm răng chịu đựng đau đớn, tay chân bủn rủn, rụng rời. Như nọc rắn cắn vào thân, trong tích tắt, nọc đủ làm bầm tím, rồi tái méc, xanh lướt đi, không vì máu mũi chảy trên nền áo trắng thư sinh. Máu chảy từ trong trái tim Mười đau đớn, quặn xiết đầu đời, dội ngược lên lứa tuổi ô mai, mận dòn khế ngọt.
Lỡ chân còn gượng được, chứ lỡ lời đến bật máu ra, thì thôi. Còn chi nói nữa! Lời chị nói như ngọn giáo lạnh lùng, thọc qua lồng ngực nóng rang, khiến Mười quay quắt, đau hơn những cái tát. Máu mũi chảy ra, lằn tay đỏ bầm in trên má nóng rần rần, chạy khắp thân thể, làm tê bại chân tay. Rồi máu cũng có lúc khô, ngừng chảy, không còn thấy tì vết. Thời gian sẽ xóa hết mọi dấu vết bầm tím sưng húp.
Nhưng tuyệt nhiên lời nói của các chị dẫu có lâu ngày, vẫn hằn vết sự sỉ nhục. Thì, không có cách gì tẩy xóa, kỳ cọ, không cách gì lấp đầy, tan biến được. Không bao giờ!
Mười nhớ có một lần còn rất nhỏ, hồi ấy Mười lên khoảng bảy tám tuổi, hôm đó chị Khánh đi chợ về nhà trễ, ở nhà người bếp bị đau, bà ta chưa nấu cơm. Chị Khánh sai Mười đi nhóm bếp nấu cơm. Loay hoay mãi, Mười không thế nào gài đỏ bếp lửa. Chị Khánh càng la to, thì Mười càng sợ run, tay chân quýnh quáng Mười không thể nhóm bếp được.
Chị Khánh tức lắm, chị giật đôi đũa sắt mà Mười đang gắp than, chị đánh mạnh lên đầu em mấy cái. Máu chảy thấm ướt cổ. Mười đau quắt quay, đau điếng, nên Mười khóc lớn. Chị bồi thêm mấy cái tát tai vào má cô em nữa. Mười run sợ, vụt đứng dậy chạy ra khỏi bếp. Con bé núp trong xó vườn mà thút thít khóc. Mười lấy tay bụm đầu mãi, đến khi máu ngừng chảy qua kẽ tay, máu đã khô bết lại với tóc.
Không hiểu tại sao hồi xưa chị Khánh hay nói:
- "Tụi bây mà học hành cục cứt gì. Hồi nhỏ, cha mẹ không cho tao đi ăn học ngày nào, vậy mà tao biết viết, biết đọc làu làu như ai. Ngày nay, tụi bây được cha mẹ cho đến trường, mà học hành chẳng ra cái quái gì".
Như Nam đã nói, đôi lúc Mười "lì" quá! Không chịu ra nói rõ phải trái, về việc quen chàng, việc học hành của mình. Lì lợm như vậy thì thôi đi. Vả lại, Mười nói gì cũng bằng thừa. Ai tin mình, khi lỗi Mười trốn học hai giờ, còn sờ sờ trong học bạ! Mặc kệ. Mười không muốn ở lại đây, thở than, xin xỏ, năn nỉ, rồi anh chị em tiếp tục phạm sai lầm, nghi kỵ, xem thường phẩm giá con người, chị đánh đập em như con chó, oán trách giận dữ, hành hạ đối xử với nhau như kẻ thù. Tình cảm gia đình, anh, chị, em, đã có vết rạn bên ngoài khung ảnh đại gia tộc đang treo trên tường, trong phòng ăn rồi.
Tất cả anh, chị, em, không ai có thể xóa tan sự đau đớn, tủi nhục, nỗi muộn phiền quắt quay, ấn tượng không tốt đẹp, về tình máu mủ ruột thịt, sự thất học và có học, xua tan sự cứng rắn ra khỏi lòng Mười. Họ không bao giờ hiểu cô em nghĩ gì về họ? Họ không hiểu lý do. Và, Mười không tầm thường như thế. Mười sẽ giữ nguyên nhân sâu xa thầm kín nầy cho đến chết. Phải! Làm sao họ hiểu nỗi em?
Mười đi từ giã bạn vội vàng. Cô chủ tiệm Mỹ Dung sửng sốt, đầy xúc động, băn khoăn, cầm tay nàng nói lời chia tay, ngấn nước mắt trào ra bốn khóe mi. Cậu Kỳ ngạc nhiên không kém, cậu thẳng thắng trách mấy bà chị họ sao độc đoán và hủ lậu, không chừa cho em một con đường thoát.
Tài, Phú, Ngữ đã về Sài Gòn. Chỉ còn Vinh và Lễ ở lại căn nhà thơ mộng bên sườn dốc Hai Bà Trưng, nhìn lên đồi hoa qùy. Lễ nói:
- Mười à! Phú rất buồn, thất vọng về điều gì đó.
Vinh nhìn Mười giây lát, ngập ngừng nói:
- Có lẽ, bọn nầy sẽ không ở Đà Lạt nữa.
Mười giật mình, vụt hỏi bạn:
- Vì chuyện của tôi, anh chị muốn xù nhau sao!?
- Không phải. Tôi về Sài Gòn làm việc, và kết thúc sự học.
- Có vậy chứ, không thì tôi buồn gấp ngàn lần.
Nam viết một bức thư dài mười trang giấy, tiễn đưa Mười trên đoạn đường thiên lý định mệnh, xa mù xa. Mười dõi mắt nhìn từng chùm hoa anh đào đan trên cành, ngắm từng bụi cỏ bờ cây, như muốn ghi dấu tình yêu mến vào đáy lòng. Đà Lạt thân yêu ơi! Mình thật sự xa rời nơi chôn nhau cắt rốn rồi. Thương biết mấy ngày thơ ấu, Mười chạy lon ton theo ba, đi câu cá trên Cam Ly Hạ, đôi má hồng hồng bầu bĩnh, men theo bờ suối bắt ốc, hái hoa, đuổi bắt chuồn chuồn, bươm bướm. Mình ưa nằm lăn trong cánh rừng lá rộng, lá kim, cạnh bờ tre, nứa, lồ ô, bên cỏ bồng, đôi mắt nai tơ, nhìn lên trời xanh, băn khoăn hỏi:
- Ba ơi! Mây với sương, có giống nhau không?
- Không. Mây là mây, mà sương là sương.
- Mây có chở mình về Huế không?
- Hỏi cái chi mà tào lao, lác lác rứa hè! Huế có cầu Trường Tiền, sông Hương núi Ngự, lăng tẩm đẹp lắm. Vài năm nữa, ba cho cả nhà về Huế, ở đó luôn.
- Mà ở đó, có đẹp như ở Đà Lạt không? Ba!
- Đẹp lắm!
- Xa Đà Lạt, con nhớ lắm.
Thế mới biết, từ trong huyết quản, từ trong tư tưởng, từ trong tiềm thức, từ buổi thiếu thời, Mười đã có tình hoài hương, tình yêu thiên nhiên, quyến luyến chốn xưa biết ngần nào. Chính câu nói ngây thơ, trò chuyện lẩm cẩm, nên đi đâu, ba ưa dắt con gái út theo, nói chuyện, nghe đỡ buồn.
Chị Lê mua vé xe hãng Phi Lực, cho mẹ con Mười về Huế vào giữa ngày hai mươi tháng chạp. Chợ búa vào mấy ngày cận Tết, đông đúc người qua kẻ lại, chật như nêm, ồn ào náo nhiệt, rộn rịp khác thường. Bến xe phức tạp đủ mọi người bán mua mời chào, chen lấn. Xe cộ dập dìu bon chen, cố tranh nhau một đoạn ngắn để khỏi trễ giờ, xe đưa má con Mười trở về một thời xuân trẻ quê xưa, xuôi Trung cập rập vào ngày cuối năm. Thật buồn da diết!

_ * _
Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
11-16-2009, 10:56 PM
:rose:
Bên Đồi Hoang Vu



Con đường mòn gập ghềnh dưới ánh nắng nhạt phai buổi chiều. Cánh đồng khô tiếp nối dãy núi đồi trùng điệp, nhìn mút tầm mắt đến tận dãy trường sơn. Trước mặt tiền nhà là trăm ngàn núi rừng cằn cỗi trùng điệp khác. Nhà dựa lưng bên sườn núi, là hàng xương sườn bao bọc bởi dãy núi bạt ngàn. Hai mẹ con, tay xách tay mang, quà bánh đủ thứ, đi về dưới ngôi nhà tranh, ba gian hai chái thấp lè tè, khiêm nhường dựa lưng vào giữa hai ngọn đồi trọc.
Ba má ở gì chỗ đèo heo hút gió, khổ cực quá không biết! Mỗi buổi sáng Mười cầm chổi quét nhà, quét sân. Nền sân rộng in đều đều từng hàng chổi tre. Sân bóng láng không một cọng rác cọng rơm, chạy dài thẳng tắp. Bên luống vồng cao, đất vãi phân tro tơi mịn, lú nhú vườn cải xanh um, đơm hoa vàng loáng thoáng.
Phía ngoài khuôn viên đất nhà, vỏ phong hóa trên bazan, phù sa ven sông thấp, có trầm tích biển, toàn sỏi đá, đá ong đủ cỡ, đất khô nứt nẻ sần sùi. Không phải khu đất phì nhiêu phù sa mầu mỡ, mà là những hòn đất, ném nhau bể đầu, cuốc lên mẻ lưỡi, gảy cán.
Chao ôi! Thế nhưng, trời không phụ lòng ba đôn hậu, kiên cường, cần mẫn, dù với đặc thù tự nhiên, thời tiết rất khắt nghiệt vào mùa khô, rất khổ sở trong mùa mưa. Mười công nhận ba là người cần cù nhẫn nại, trung kiên với đất đai ruộng vườn vô song. Suốt ngày ba chăm bón từng li từng tí, cho cây non mọc lên xanh tốt, giữa cảnh hoang vu uá tàn. Đất cằn khô sau mấy mùa vun xới, nay đãi ngộ người lam lũ, phần nữa ba có kinh nghiệm trồng tỉa, biết lượng tính năm thuận tháng hòa.
Tháng 5 có lúa chiêm, tháng 10 có lúa mùa. Ba tận dụng đất đai trồng thêm khoai, sắn, đậu, bắp, nên bận rộn suốt năm. Trải qua mấy năm đầu lầm than khổ cực, nay ba đã gặt hái kết quả mỹ mãn không ngờ. Nông thôn hò câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẽo dai một hột, đắng cay muôn phần”. Rõ thật vô vàn xúc tích, ý nhị.
Ba má đã già, làm sao cầm vững cái cày cây cuốc, mà gối không chồn chân không mỏi, vun xới từng luống cày, vồng đất, đổi chén cơm chan hoà bụi đỏ, mồ hôi nước mắt. Bao âu lo phiền muộn, lam lũ nhọc nhằn, đắng cay khổ cực, mỗi ngày một chất chồng lên cao, với nỗi buồn đã chín, dưới dấu chân hằn sâu trên mỗi bước đường gian khó.
Giếng nước cách xa nhà hơn một cây số, Mười gánh nước về, mệt hụt hơi, quảy đôi quai thùng lên vai, Mười càu nhàu suốt, than thở một mình! Nàng sợ gánh nước, nhưng không gánh, thì ai gánh cho? Không lẽ bắt má gánh? Ngày còn nhỏ tí xíu, Mười thích quảy quang gánh lên vai, đôi thùng chấm sát đất, Mười thích thú kéo lê thùng nước mà. Quay lui quay tới, công việc nhà không tên, chẳng lúc nào ngơi tay.
Không ai chia sẻ bớt một phần gánh nặng với mình. Không ai giải quyết tình trạng nan giải. Bởi, mỗi người đều có muôn vàn khốn khó, cay cực, đau buồn, cay đắng riêng. Nơi chốn chó ăn đá gà ăn muối, toàn ruồi muỗi, kiến lửa, rắn, rết, bò cạp núi, to tướng, lỡ dại đạp trúng, nó cắn, nó mỗ, cho một cái, thì khó toàn mạng, có khi bay về âm phủ sớm.
Dẫu sao, nghe mấy chú bác lực điền khen Mười xinh đẹp, có ngũ thường: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, có tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh, và sẽ tiến đến tam tòng: Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử; Hai lỗ mũi Mười khoan khoái nở to. Ít ra mình còn chút sinh khí ở nhà quê... đáng tự hào. Bái phục. Bái phục.
Ở đây, gia đình Mười sống biệt lập, với thế giới loài người văn minh. Đứng trên chót đỉnh ngọn đồi trọc sau lưng nhà, nàng nhìn nhà láng giềng trong làn sương xa tít tắp, đất, trời, gần cây cỏ thiên nhiên hơn.
Ba cây tùng chênh lệch nhau về tuổi tác, tầm vóc, thật đáng buồn. Một cây non èo uột mới lớn, giữa đồng khô cỏ cháy. Một cây đã chết nửa thân. Một cây sần sùi già nua, xơ xác, không đếm nỗi tháng năm. Những rễ cái cằn cỗi, khô lông lốc, tróc vỏ, nhô mình lên khỏi mặt đất, thân xù xì, bị bóc từng mảng da khô đét. Xưa kia cây đại trượng phu nầy, hiên ngang oai vệ, đứng trên đỉnh đồi lồng lộng, mặc gió thét mưa gào, nắng táp sương sa. Nay cây tùng bị những vết dao, chém thô vụng, cành cụt chìa chỏi lổn ngổn, lởm chởm, vô duyên nhô ra. Nham nhở quá chừng. Ba Mười ra sức nuôi dưỡng, bón phân, tưới nước cho “cha con cây tùng”, may ra chúng có hồi sức chăng!
Má nói:
- Ôn điên hay răn, xách chi từng thùng nước, từ dưới leo lên đỉnh đồi, tưới cây tùng, cho khổ cực, mệt rứa!
Ba ngửa mặt lên trời, cười lớn:
- Phải! Điên hết. Chỉ có cây tùng, chứng nhân thời đại, là chưa điên mà thôi.
Trên đỉnh đồi nầy, không khí mát rượi êm êm, trong trong như ngọc thạch. Mười giơ tay ra đón ngàn mây bay qua kẽ cành, về mở hội phương Tây. Nàng ngắm trăng rừng lạnh lẽo, vươn mình lên khỏi dãy trường sơn âm u trước mặt. Đồi núi ngút ngàn, trùng điệp rừng sim hoa tím buốt giá.
Vĩa hè nườm nượp đón sương, cuồn cuộn bay, ô cửa kính đọng sương mù, thành từng giọt mọng nước, trắng xóa, nhỏ tong tong xuống nền đất hoen màu, tạo thành những lỗ con con, hình chóp cụt. Bầu trời ướt sũng hơi sương, đọng trên cành lá ướt át, dưới ánh mặt trời mệt mỏi, dậy muộn vừa dâng.
Nàng thích ngồi dưới sườn đồi sim, nhìn mây thành giăng mắc, sương chiều phủ kín thung lũng. Xem cá lội nước ngược, xem chim bay biết hướng gió. Mười có thể đoán, tàn lửa cuối bìa rừng giạt về hướng nào, để lo phòng cháy. Đôi khi nhìn rồng trắng lấy nước, Mười biết trời sẽ mưa, thấy rồng đen xuất hiện, thì trời nắng. Mây thành ắt có loạn. Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay có bão. Chuồn chuồn bay thấp là mưa, bay cao sẽ nắng, bay vừa là giông.
Ở nhà quê Mười cần biết tiết hạ chí, con nước dâng ban ngày. Tiết đông chí con nước dâng ban đêm, Mười lo phụ giúp cha mẹ già, quáng xuyến từ trong ra ngoài, trước khi thiên tai đến. Nhớ năm trước, ở nhà chị Khánh, một việc gì dù cỏn con, Mười làm vẫn dở ẹc. Nay đã khác.
Ba má còn hai đứa con độc thân, bàn tay thư sinh, quen cầm bút chưa quen cầm cày, anh Thuyền đỡ đần ba mấy công việc nhẹ nhàng, anh thiếu kinh nghiệm mùa màng đồng áng, là điều thất sách. Má làm đủ việc trong nhà, ngoài vườn, ngoài ngõ. Mười phụ má cơm nước, đầu tắt mặt tối, mệt vã mồ hôi hột.
Khu rừng trên chỏm đồi xa tít ghê rợn xiết bao, đám cháy, tỏa khói mịt mù, đỏ rực ngày đêm. Dân làng tụm năm tụm ba, góc nầy góc nọ, họ chỉ chỏ đụn khói đen sì, như cây nấm khổng lồ. Nào ai biết chiến trận xảy ra ở đâu. Có lẽ ngày mai tim con người ngừng đập, máu huyết không luân lưu trong cơ thể. Bầu trời là biển lửa. Tình trạng ra sao!
Bầu trời vàng cam vang gầm tiếng trái phá. Không có dấu hiệu nào khác, ngoài đôi lúc hiếm hoi, năm ba quân nhân cương nghị, vội vàng, lặng lẽ âm thầm, mệt nhọc, đi tắt ngang qua đồng ruộng khô, quần áo lấm lem bẩn thỉu, thương tật cùng khắp. Ngoài đường cái, đoàn xe GMC, đỗ quân lên ngã Ba Lòng.
Chiến cuộc kề bên nách. Mười sợ quá. Ngày đêm thấp thỏm âu lo, mỏi mòn run sợ. Vài ba lần cháy rừng, khói lửa ngút trời, kèm theo nhiều tiếng nổ lụp bụp, thật ghê hồn, tàn cây mục, cỏ tranh phựt cháy rất nhanh, hằng triệu cuộn lửa nhấp nháy, tỏa bay theo gió xoáy, cuốn thốc bụi tro mù, trong tro có chất mặn làm Mười hoa cả mắt, nóng rát, ngứa ngáy khắp người. Thật kinh khủng!
Dân làng thức thâu canh quần quật dập tắt lửa, bằng những dụng cụ thô sơ, nhưng với sức cần lao bền bĩ, họ chịu đựng, kiên cường, nên mọi việc đã yên. Mấy ngày sau, tro đóng thành từng tảng mịn, khi dẫm chân bước lên con đường mòn cũ. Hai bàn chân Mười nóng như phải bỏng, bụi tro bốc lên, theo từng bước giày, phụt lên cao quá đầu gối, hắt lên mặt, mũi, dính đầy tro.
Lúc thấy ngôi nhà thờ lú ra trên đầu dốc, cây cầu Mỹ Chánh đen đen, càng gần càng lớn. Mười mừng rỡ đi trên đường nhựa bóng láng, đỡ cảm thấy sợ, hơn băng rừng lội suối vắng lặng. Đứng trên sân nhà thờ, nhìn về hướng Huế xa bao đồi sim.
Chợ búa một tuần hai lần đi, mua đủ thứ cần dùng, cho người làm nông vai u thịt bắp vạm vỡ ăn. Ngoài ba bữa cơm chính, má lo thêm hai bữa phụ, ăn dặm củ khoai củ sắn, uống ly nước chè xanh nóng, trước khi người nông dân tiếp tục công việc nặng nhọc.
Chợ làng quê, thân quen từng hàng thịt hàng cá. Họ vui vẻ mời chào mỗi khi má con Mười ghé mua. Họ thật thà đôn hậu, chất phác bán buôn. Không để muối tắm trong sương. Không nhúng rau vào trong nước. Không cột cục sắt vào bàn cân, cho nặng kí, thiệt người mua, lợi người bán.
Đi chợ có chú lực điền đi theo, gánh thức ăn về. Chợ Mỹ Chánh xa tám cây số núi đồi. Đường đi vắng vẻ điù hiu. Nhiều chỗ cỏ tranh cao lút ngực, Mười lấy tay vạch tranh giạt ra hai phía, tìm lối đi. Tuy sợ rắn rết, bọ cạp, nhưng biết làm sao? Cánh tay, mặt, mũi, bị cỏ tranh tươi, sắc như dao cau, cắt nát đôi cánh tay, cào xướt rát bỏng, đau xót là thường.
Mỹ Chánh nằm trên quốc lộ 1, nối liền Huế và Quảng Trị, có quốc lộ 9 đi Lào, qua cửa khẩu Lao Bảo, toàn núi đồi trùng điệp, âm u, qua khu Khe Sanh, Đa Krông, sát biên giới là hai tỉnh Salavan, Savankhet, (mà tự thuở thanh bình, hồi còn bé, có mấy lần, ba đã dẫn Mười qua đó, để ba trị bệnh nan y cho Vương Quốc bạn) nối trục đường bộ xuyên Á.
Sông Thu Rơi quanh co huyền nhiệm lững lờ, xuôi về Phá Tam Giang lồng lộng gió. Mười vội vàng kéo thân áo lạnh che kín ngực, cho khỏi gió lùa, cúi cong người bước nhanh, đôi chân luống cuống, bước đi khó khăn, gió xoáy tít giật vạt áo dài bay phần phật, dưới mặt trời hạ chí, nung rát đôi má cháy nắng, đầy chịu đựng, dưới nắng vàng tươi và hàng phượng đua nở.
Thỉnh thoảng có chiếc xe đò, xe GMC vút qua, nghe một tiếng vù, khiến nàng giật thót mình, tâm trí trở về hiện tại. Cứ ngỡ mình ở tít tọt trong rừng, Hoài đi thênh thang giữa lòng quốc lộ, có ngày tan xác. Chứ chẳng chơi.


_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
11-24-2009, 01:04 AM
:rose:
Hòa Ái Tạ Ơn
(Kỷ niệm mùa Lễ Tạ Ơn).



Vào tháng ngày gần cuối đời, có lẽ ba má Mười ngao ngán cảnh đời ô trọc, nhân tình thế thái lừa lọc, dối trá. Nay ba má chọn nơi Mỹ Chánh nầy làm quê hương thứ hai chăng? Không đi tu ở đâu tốt bằng: tu ở nơi chốn rừng sim bạt ngàn nầy thật!
Nơi cái xứ mà bầu trời hầu như rực lửa, chẳng bao giờ dịu mát lớp da đất. Mùa hè gió phương Nam thổi từng cơn nóng khô hừng hực, xoáy theo nhiều con trốt, bốc hốt tất cả mọi thứ gì có trong tầm cuốn, tàn phá, cướp giật nhà cửa ít nhiều. Đó là phần cuối con đường đi tìm sự sống. Bên người già nua run rẩy trên luống đất thiếu mầu mỡ, thiếu tin tưởng. Đó là kết quả một đời lao lực, cần mẫn của mẹ cha, đã nhỏ từng hàng nước mắt chan mồ hôi hột, trên luống đất khô cằn. Ba má vẫn không sờn lòng cấy lại nắm mạ đầu tiên. Với hy vọng bừng lên sóng mắt bờ môi. Không có máy cày, thì con người làm thay trâu bò, vươn vai ưỡn ngực ra kéo, cổ cày vai bừa.
Trước tiên, Mười tạ ơn Thượng Đế cho con người có sức lực bền bỉ, dẻo dai, can đảm phi thường như ba má. Ngài ban cho sự sống ở môi trường nào, mức độ nào, gia đình Mười vẫn sống kiên cường, trong sạch và danh dự, cố vươn lên với đời. Khi ba má rơi vào hoàn cảnh cay đắng, Mười không hiểu ba má có hối tiếc, vì quyết định (có thể sai lầm), lúc họ trở về trên bờ quê nghèo xưa cũ không?
Con đường nào cũng có ánh sáng và bóng tối, có vinh hoa và cơ hàn, điều kiên định dứt khoát duy nhất là: Ba má đi trên con đường đó, có khả năng phán quyết sự vật trong bóng tối cơ hàn. Hầu vượt ra ngoài ánh sáng sung mãn không? Hay, đôi khi ở ngoài ánh sáng, còn bị thất bại! Mười chẳng thấy ba má thở than, mà có phần cam chịu qua nhân cách sống vị tha, ba má coi trọng hạnh phúc, tình thương, phúc lợi người khác, hơn sống cho mình. Ba đúng là vị lương y như từ mẫu.
Vẫn hay, ba má không muốn thổ lộ nỗi niềm, xin người khác nhỏ giọt chút lòng trắc ẩn? Mười ví ba má giống như Khuất Nguyên, thời Chiến Quốc lưu loạn liên miên. Cổ nhân là người trí thức hữu ngã, hữu nghì, tài trí, đức hạnh, bậc trượng phu ngay thẳng, gặp Sở Hoài Vương bất tài, nghe lời xu nịnh, nên Khuất Nguyên bị lưu đày, rồi chết thảm. Hoàn cảnh cổ nhân ngày xưa, và ông thầy thuốc sắp đến tuổi "cổ lai hi" nầy, không khác chi mấy. Có khác chăng là ở chỗ biết vận nước đến thời kỳ tha hóa, ba tự giam mình trong góc núi, lánh xa bể đời luân lạc, mong phục hồi mảnh đất trống, khô cằn sỏi đá, đã bị đời vùi dập tơi tả, chính phủ chưa cần trưng dụng, lịch sử bỏ quên. Quên Đất Nước, quên con người.
Nhưng, có hai người không quên ba; Một người là em của ba: chú Trần văn Lý, người làng Cây Đa, Phủ Hải Lăng, chú đã đứng ra lập Hội Đồng Chấp Chánh tại Trung Kỳ. Chú làm Thủ Hiến Trung Việt năm 1948. Người thứ hai là ông Trần Văn Hữu, người lập ra Quân Đội Quốc Gia, là một chính khách lỗi lạc. Công dân quý trọng ông, đồng tiền thời đó có giá trị cao, tương xứng với mức cần lao. Đồng bào được đãi ngộ xứng đáng. Hai ông đã mời ba tham chính. Ấy vậy mà ba chỉ mỉm cười hoà nhã cám ơn, ái ngại lắc đầu. Xin không.
* * *

Không niềm vui nào khác ngoài việc trong nhà Mười thích nghe radio thường xuyên. Gia đình bây giờ gồm có bốn người, (ba má, anh Thuyền, Mười) rất biết ơn người đã chế tạ ra chiếc radio. Người đã nghĩ ra việc thiết lập đài phát thanh. Qua làn sóng điện, chúng ta có thể nghe nhiều chương trình vui vẻ & hữu ích.
Dù xa xôi muôn trùng cách trở tận góc núi đầu ghềnh. Dù tay chân bận rộn vô vàn, bên tai mình vẫn nghe được bao nhiêu chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Nghe giọng ca ấm áp tình người. Mười xin cảm ơn các nhạc sĩ: đã phổ lời thơ ý nhạc vào lòng đời. Cám ơn giọng ca tuyệt hảo: đã thở vào không gian lẫn thời gian, như: Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Ngọc, Tôn Thất Niệm, Mai Hương, Lệ Thu, Thanh Thúy, Bạch Yến, vân vân… và giọng ngâm thơ dạt dào âm điệu trữ tình Hồ Điệp.
Nhất là gia đình Mười cần thùng thư cũ kỹ nhỏ xíu, nhưng rất quan trọng đối với gia đình Mười. Không có thùng thư, không có truyền thông báo chí, thì gia đình nầy không thể liên lạc với ai. Không hề biết tin tức xảy ra trong nước, qua tờ nhật báo mà ba đặt mua mỗi ngày. Mười cám ơn: Sở Bưu-điện, những người phát thư. Những nhà in ấn báo chí. Những văn, thi, hoạ sĩ nhiệt tình trải lòng mình ra viết nhiều truyện hay khắp đó đây.
Ngày xưa ba má cho Mười tung tăng đến trường, vui vẻ vô tư hồn nhiên, như cánh bướm đầu xuân gặp nắng mới, Mười không biết lo đói khát, nhọc nhằn, vất vả, âu sầu. Vật chất không làm Mười lo toan phiền muộn. Còn bây giờ? Vấn đề quan trọng là làm sao có tiền mua thức ăn, cho tám người lực điền dùng. Lo tiền trả công nhật cho họ vào chiều thứ bảy? Lo thu gom đống củi khô vào chất bên chái hiên nhà, để ngoài sân cơn mưa rào bất chợt, bị ướt, làm sao nấu thổi?
Mười rất biết ơn người nông dân đã ra sức làm lụng vất vả, nhọc nhằn. Để người chủ và nhà nông cùng chia sẻ cơm ăn áo mặc. Tìm đâu có gạo, mắm, lương khô mà dự trữ mùa đông? Khi cơn mưa phùn gió bấc, cơn rét rừng lạnh xé ruột da, nếu không có người dệt cửi, không có thợ may thì không có áo ấm che thân!
Sung sướng thay! Khi mình không phải chạy lo từng ngày. Nếu vườn nhà ai gần hơn, có lẽ anh Thuyền, và sẽ có Mười theo anh, hái trộm rau cải, cây trái làm món ăn. Thật thế! Vấn đề giáo dục, trí dục, đức dục, đạo đức ở học đường, qua sách vở, từ chương. Nay trở thành khôi hài đen trước nỗi cùng khổ. Thì, giờ giáo huấn công dân, "Tủ Sách Học Làm Người", là con số không rỗng tuếch. Sách vở, bút viết, giấy trắng mực tím mực xanh, mà làm gì, nếu mình đang "đói rã ruột".
Khi sự đói khát, đẩy con người đến cao độ, nàng tưởng tượng, thèm miếng ăn kinh khủng. Mười mơ mình giàu sang, ăn toàn cao lương mỹ vị. Chỉ cần nghĩ đến thôi, nước miếng đã ứa ra đầy miệng, là Mười cảm thấy khát khao, cố tìm mọi cách, để có món ăn. Dù là món ăn đạm bạc nhất. Thế nhưng, Mười vẫn tri ân những ngôi trường cũ, và nhất là trường đời đã dạy nàng học hỏi nhiều điều thú vị qua những năm tháng lớn khôn.
Anh Thuyền bẫy hụt con chim hoàng anh rất đẹp, anh sợ nếu nắm chặt, nó sẽ chết. Nên anh nắm nhẹ quá, nó mỗ vào tay, vùng ra thoát thân. Hai anh em đứng dưới cây tùng cụt cành, tiếc ngẩn người nhìn theo con chim hoảng hốt bay vút về chân núi. Trên tay anh vương lại vài lông ống, có tí máu hồng tươi.
Mười đem chiếc lông chim vào nhà, cắm trong lọ sứ nhỏ trên bàn học, vẩn vơ buồn suốt mấy ngày. Thời gian trôi qua, giữa bến bờ yên lặng kéo dài, cánh lông không còn tươi màu vàng sáng, sắc nét như xưa. Gợi lên lòng Mười buồn phiền nhiều hơn.
Ít lâu sau, Mười lấp ló nơi song cửa nhìn hai con sáo làm tổ, dưới nhánh chạc ba cây vú sữa, cạnh góc hiên nhà. Anh Thuyền không dám bẫy bắt chim nữa. Cạnh cây dừa, chim ác là là thân đen nhánh, có khoan trắng ở ức, nó không biết làm tổ, nên rình tổ trống, vào đẻ trứng nhờ. Mười lắng nghe anh chị chim líu lo trò chuyện, nhẹ nhàng thánh thót. Nàng đoán nghĩ hôm nay chúng vui hoặc buồn. Nàng cười vu vơ, dõi mắt nhìn công việc xây tổ diễn tiến đến đâu.
Một hôm, Mười ngồi nhặt rau bên hiên nhà, thì nghe tiếng chiêm chiếp, ríu rít non nớt trên tổ. Mười đứng dậy nhìn lên. Hai cái đầu nho nhỏ lơ thơ vài sợi lông, mỏ vàng mở lớn, chim ngóng cổ dài đưa qua đưa lại, run run, chờ mẹ mớm mồi. Sau đó ít lâu, nàng thấy bố mẹ làm huấn luyện viên, cho bầy con nhỏ chuyền cành, bay từng đoạn ngắn.
Khi mọc đủ lông cánh, chim bay đi xây dựng tổ ấm riêng. Thỉnh thoảng quyến luyến quay lại chốn xưa, xôn xao, ríu rít ân tình. Lạ thay, lúc trưởng thành quay trở về chốn cũ. Chim rủ thêm nhiều bạn bè thân thuộc, nội ngoại hai bên, hội hè đình đám ríu ra ríu rít suốt tháng. Chúng cất cao tiếng hót thâm tình lảnh lót bay xa, hân hoan hòa ái, không hề biết mỏi mệt.
Chúng tri ân nơi chúng đã chào đời. Cây vú sữa càng đông vui. Má vãi gạo, lúa, ra sân cho chim ăn. Chim có đàn cất tiếng hót thật hay. Như thể chim biết tạ ơn người ưu ái đãi ngộ.
Nhìn đàn chìm chao cánh lên trời cao trong tiếng phi cơ gầm rú, Mười lại trang trọng nghĩ đến những người Lính Việt Nam Cộng Hòa, và tri ân họ: Anh pilot lả lướt vút cánh vào vùng đạn mũi tên. Anh Lính Dù bay bướm lơ lửng trong không trung. Anh Hải Quân hào hoa trên những giang thuyền dập dồn sóng vỗ. Anh lính Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến. Thiết Giáp. Cảnh Sát. Địa Phương Quân, vân vân… Họ băng rừng vượt núi, lội đầm lầy, hầu giữ gìn non sông Việt Nam gấm vóc không hổ danh là Hòn Ngọc Viễn Đông. Lính đem an cư bình yên đến từng ngỏ nhà.
Tháng ngày dần qua, dần qua trong niềm tiếc nhớ không cùng về dĩ vãng đậm mầu, đã một thời đượm nét phong phú hân hoan. Một mình Mười trở về len lỏi trên con đường mòn vắng khuất, nàng lặng lẽ nghe tiếng lá khô lao xao trở mình… Tiếng vạc kêu đàn lẻ loi. Tiếng còi tàu buồn bã rúc trong sương chiều phủ sớm.
Con tàu đã đi xa khuất, còn để lại một dải khói trắng đục cuồn cuộn, kéo dài lướt thướt đến tận chân mây, trôi trôi trên phiến trời mùa Xuân xanh xanh bàng bạc. Nhìn con tàu kéo theo dải lụa xám đục, khiến lòng Mười buồn bã vô hạn, trong lúc tiếng bước chân Mười quạnh hiu, cô lẽ dẫm trên sỏi đá lạo xạo. Mùa Hè gió Lào thổi qua dãy trường sơn, nóng muốn lột da. Tiếng lá tranh xào xạc lùa trong gió mùa Thu rì rào. Mùa Đông gió Bắc thổi về, lạnh run cầm cập, cảnh vật thảm sầu, cây cối tàn tạ bật gốc, ngả nghiêng. Phiền úa. Chao đảo.
Tất cả... Mười nghe rõ, như tiếng lòng vang vọng. Buồn thiu. Còn đâu nữa những ngày yên vui bên mái trường xưa. Nơi có chuỗi cười hồn nhiên, giòn tan vỡ toang cổ họng! Còn đâu tháng ngày tung tăng dạo bước, cùng bạn bè qua bao thác mộng hồ mơ! Đâu còn ngày cũ vai kề vai, tay trong tay, mắt nhìn mắt, môi tìm môi. Hai người chụm đầu bên nhau, ngắm nhìn mặt trời êm ả, gửi muôn tia nắng vàng rạo rực thương tặng trái đất!?
Còn đâu suối gần đồi xa, cánh đồng cỏ nâu vàng, êm mịn như nhung, lấp ló ngàn tia nắng lung linh đuổi nhau trên lá cỏ. Mặt trời âu yếm nhảy nhót trên hai mái đầu xanh chụm lại. Ta đọc cho nhau nghe bức thư tình thắm thiết. Tìm đâu thấy con đường đất đỏ, ngoằn ngoèo uốn lượn thấp cao, xẻ sườn đồi ra làm đôi. Đâu đêm đông buốt giá xứ lạnh Lâm Viên Đà Thành.
Dưới bầu trời đầy sương mù, có đôi bạn nhìn lên chòm cây tìm đếm các vì sao e lệ qùy gối bên nhau, nép mình bên đài mây. Mình cùng ngắm nhìn đời sống phù dung trần thế. Còn đâu buổi trưa Hạ rạo rực tình thư. Ngày Thu xôn xao nỗi nhớ. Chiều mùa Đông ấm áp mật ngọt tình hồng cạnh lò sưởi!
Ôi! Quá khứ xa xôi, tưởng đã tàn phai theo tháng năm, nào ngờ đang bừng dậy theo bước thấp bước cao, trôi về trong đời sống khổ hạnh, lắm ưu phiền. Cái tình nho nhỏ chia xa, Mười tưởng chừng có ít sợi tóc đã rụng. Thật ra, đây là một cái đầu đầy tóc rụng! Thực tế khổ đau. Thực tế buồn lắm! Và; Kỷ niệm chẳng thể phôi pha.
Mười đóng khung cuộc đời mình nơi khu rừng già hoang vắng. Không ai biết mặt biết tên. Giản dị âm thầm, chất phác nghèo nàn. Như cô thôn nữ đồng nội được số phận an bài. Cuộc đời nàng sẽ bình thản, không khùng câu mồi bằng miếng bả phù vinh, hầu đạt đỉnh chung trong hoàn cảnh quá ư khắc nghiệt sao!?
Tuy nhiên, rảnh rang đôi chút, Mười mở lại xấp thư cũ, nhìn ảnh chụp chung với bạn ở Đà Lạt, nàng xót xa tự hỏi: "Ơ! Có một thời xa xôi nào, mình sung sướng vô tư, vui vẻ hồn nhiên đến thế sao? Một Thương-Mười tươi thắm giữa vườn hoa học trò, có người yêu hào hoa phong nhã. Và mình đã sống nơi chốn phồn vinh ấy sao? Thật đúng là nàng đã sống những ngày qua. Chứ không là mơ?"
Chính tháng ngày sống gian khổ sau nầy nơi chốn nhà quê, vào vùng chiến tranh, đã cho Mười biết bao đấu tranh với từng cơn bão lòng. Ngắm ảnh bạn cất trong album, bên góc va ly, rồi nhìn mặt mình từ phiên gương nhỏ phai mờ, chiếu rọi lại. Mười thấy nhói buốt từng cơn đau trong tim. Ước gì đằng sau tấm gương rạn nứt nhiều miếng kia, họ đang chứng kiến Mười có cuộc sống thế nầy. Bạn sẽ cười vui, chìa tay ra đón tôi. Hay tôi chỉ thấy phản ảnh phiên gương lạnh lùng!?
Lòng Mười chợt nao nao, xót xa, nhớ nhung, ưu phiền man mác, ấy mà… nàng vẫn nhớ ơn ân tình đó bất tận. Một áo lạnh nhung mầu vàng mơ, kỷ niệm ngày ấy, do chàng ân cần trao tặng. Chiếc áo sao gợi biết bao nỗi buồn phiền, không vui thích. Tại sao? Có phải nay Mười chỉ còn một chiếc áo mong manh, nói lên phận nghèo, sự tàn phai theo tháng ngày đong đưa nỗi nhớ thương, mến tiếc trên nhánh thời gian? Lắm lúc, Mười nằm vắt tay lên trán, nhìn mái tranh thủng lỗ, đem ánh mặt trời xuyên qua, nhảy nhót trên nền đất nện mốc meo. Nàng nghe tiếng kèo cột rít khô khan, vặn mình răn rắc. Mỗi lần gió mưa chuyển mùa, thì bấy nhiêu dự tính tốt đẹp của cô gái phơi phới nét xuân-thì, chợt tiêu tan theo mây khói.
Cổ nhân đã nói: "Thứ nhất vợ dại trong nhà. Thứ hai nhà dột. Thứ ba nợ đòi". Gia đình nầy hội đủ ba yếu tố đáng buồn chăng? Dẫu sao sống trong vùng lửa đạn liên miên, Mười vẫn xin cảm ơn mái nhà tranh đơn sơ: nơi đã từng là chốn dịu êm cho gia đình Mười an vui trong cơ hàn thanh bạch.
Vậy mà nơi chốn đơn hèn ấy từng ấp ủ đầy tình yêu thương mẹ cha ngọt ngào, đã cho chúng con mật ngọt tình yêu gia đình đằm thắm. Cho con biết quyến luyến tình thân thiết với tha nhân, có tình quê nồng nàn. Và hòa ái tạ ơn bếp lửa sưởi ấm mình trong ngày đông giá rét. Ánh lửa hồng nhảy lung linh tự miền quê chân chất, đã lồng vào tình người Việt Nam thấm đẫm trong ta...

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
12-10-2009, 07:08 AM
Lời Vĩnh Biệt




Thương Mười cố dập tắt mặc cảm, hoài nghi muộn phiền, ray rứt xót xa, bình tâm ngồi viết thư gửi Nam. Muốn viết thư dài, thật dài - Mong chàng hiểu rõ: Cuộc sống của Mười từ nay đầy gian nan cay đắng, muộn phiền, nghèo hèn bên túp lều tranh. Buồn là thế. Nhưng, một ngọn lửa quắt quay nhóm bừng lên, ngọn lửa nội tâm ray rứt băn khoăn, bâng khuâng, lóe sáng từ khoé mắt. Ôi! Đó là ngọn lửa gì?
Biết nói gì bây giờ? Nói gì đây, khi ta một nơi người một nẽo. Khi hai thái cực còn ngăn cách. Nam, một Nam giữa Sài Gòn xa hoa, được bạn bè mến thương, quý trọng. Người ta quý trọng anh, một phần dựa trên tư cách, lịch lãm quần áo, thanh lịch, ăn nói nhã nhặn tế nhị, vui vẻ bặt thiệp. Phần khác dựa trên thanh thế ba má giàu sang, có tiếng tăm trong giới thượng lưu.
Còn Mười, bây giờ là cô gái quê nghèo hèn. Sống giữa núi rừng hoang dại, suốt ngày lam lũ, nhọc nhằn, mệt mỏi. Cay đắng với niềm đắng cay, đã trở thành sự thực. Mấy thằng học trò cũ có lần nói Mười là con bé lọ lem, đèo bồng yêu hoàng tử. Quả thật, chính lúc nầy mới là rất đúng. Không nên!
Không gian, thời gian, lẫn biên giới vô hình, như vô tình xô đẩy hai người, về hai ngã. Dù tình yêu hai ta cố gắng đan chặt vào nhau, dưới vòm trời đầy sao quê hương. Kỷ niệm vây chặt lấy Mười, như loài kênh kênh bao vây xác chết. Nàng cười, tự mỉa mai, chua xót, chế nhạo mình. "Một người đẹp" ngồi nghỉ mệt, bên hai thùng nước đầy, dưới gốc cây xoan.
Công việc chất chồng lên đầu, lên cổ. Thân thể nhễ nhại mồ hôi, đôi má rám nắng, tay chân chai, khô cứng. Một nữ kỵ sĩ không giữ lại gì, ngoài làn da nâu tươi. Nụ cười rụt rè, méo mó. Đôi mắt ánh lên tia vui mừng tàn nhẫn khi trút gánh nặng đè vai. Đầu óc Mười là một môi trường đặc biệt, các ý nghĩ xuyên qua đó, trở thành nghẹn ngào, chua xót, đắng cay. Làm rung khẽ cánh buồm yêu thương, mê đắm trong lòng.
Vô tình tự trong tiềm thức, câu nói Nam vang khe khẽ:
- "Thương Mười! Kỷ vật dù bé nhỏ, nó có giá trị về tương lai, hạnh phúc một đời anh. Hãy cảm ơn Chúa, đã cho chúng ta gặp nhau, anh yêu em kinh khủng..."
Nếu anh biết rằng: Mười không có gì, ngoài gian khổ, nghèo hèn, cô đơn và xấu xí. Liệu anh còn trồng cây si, trước cửa nhà tranh rách nát không? Đau khổ cùng cay đắng nào, đã làm Mười khẽ nhếch mép mỉm cười chua cay, cặp lông mày nhíu lại, gần nhau đến thế!
Bóng dáng yêu kiều hoa mộng cũ, mất đi những nghi thức sống, xóa sạch đường ra hiện tại. Không lùi bước. Thì, Mười tập can đảm tiến lên, qua bao chông gai khốn khó. Đừng tiếc nuối nhìn về dĩ vãng nữa. Phải hãnh diện, vì cảnh khốn cùng nầy, gia đình mình sống, dứt khoát sạch trong, cương trực, danh dự và cầu tiến.
Có thể vượt thắng mọi gian nan khốn khó, với công việc hằng ngày... Tất cả rồi quen đi, qua đi. Nhưng... Mười không dễ dàng quên, chuyện tình đẹp và thắm thiết. Nàng đớn đau tự hỏi:
- "Làm sao mình có thể quên Nam vô cớ đến thế? Khi cả hai không có lỗi gì. Không làm buồn lòng nhau. Còn yêu nhau, nghĩ về nhau, bằng tình cảm dịu êm, thân ái nhất".
Mười lại băn khoăn nhủ lòng:
- "Thôi! Phải can đảm đoạn tuyệt với Nam, vì hoàn cảnh rất phức tạp và tế nhị nầy. Bây giờ còn yêu nhau, xin cho nhớ nhung thật bé. Mai sau ly tan, chia cách rồi. Có đau lòng vẫn thoảng, có buồn vẫn nhẹ. Cố gắng chấm dứt đi".
Nàng che dấu buồn phiền, không tỏ lộ điều đau đớn. Khiến ba má lo buồn, lại mắng chửi Mười thì điếc con ráy hơn. Bởi, khi nàng không còn suy nghĩ, bằng đầu óc, mà bằng miếng cơm manh áo. Nhất là ba má đã quá mỏi mệt, già nua, đau khổ ưu phiền. Thì mọi vấn đề giải quyết cuộc sống, dễ đốt giai đoạn lắm.
Nam không hay biết gì, sao anh ta có thể biết thêm về Mười hơn chứ. Nên Nam ung dung, ngây thơ, vô tình, hỏi thăm nàng về sức khỏe, việc học, niềm an vui buổi xuân thì? Nam viết đều đều, mười ngày một lá thư. Lời trao yêu như ngọn sóng vô hình, xuyên xoáy qua trái tim nàng.
Nam hỏi..."Sao Mười lười, chẳng chịu viết thư!? Nơi quê xưa, hẳn là em vui nhiều? Có còn là Biển Nhớ của anh không? Có bạn bè cũ mới, tri kỹ hội ngộ bên nhau. Em còn nhớ, hay đã quên người anh, ở phương trời xa thẳm rồi? hở Mười? Em ơi. Có điều gì băn khoăn, lo lắng. Cho anh biết đi. Anh mong thư em vô cùng. Hay là...Mười đã thay đổi? Hãy cho anh biết...
Nhận thư Nam, Mười lo sợ toát mồ hôi, vội cất dấu thật kỹ, núp núp, lén lén, lút lút, đem ra bờ ao, góc giếng. Mười ngồi hụp xuống bên bụi lau, khuất tầm mắt ba má, vội vội vàng vàng, run run, mở thư ra đọc. Đọc đến đâu, Mười khóc đến đó, hai hàng nước mắt tự động lăn dài trên má.
Mười tháng trời ròng rã trôi qua, Mười viết cho anh ta bốn lá thư, báo tin dời đổi địa chỉ, thăm hỏi hời hợt. Chẳng bù cho lúc ở Đà Lạt, cứ bảy ngày Mười viết một lần thư. Trách sao Nam chả nói là “Mười đã đổi thay”!
Mười không thể chịu đựng đau đớn thêm, khi thể xác mỏi mệt, lẫn tâm hồn u uẩn, đắm mình trong dòng sông đau thương. Mười đã quyết định. Mặc những lá thư đầy ắp ân tình. Không nhất định phải đau đớn, nhớ thương thêm. Phải đến lúc quên, không gợi lại niềm cay đắng, đã trở thành giọt nước mắt nhỏ trên mỗi lời thư trao yêu.
Tuổi mười bảy non nớt trên đôi vai còng xuống, nhiều công việc nặng nhọc hằng ngày. Tim Mười mềm, nhưng thân xác và đầu óc khô cứng. Hàng lệ nhớ thương ưu phiền nầy, không quật ngã ý chí cương quyết, của người em nhỏ. Mười hạ bút viết lá thư đoạn tuyệt:

Mỹ Chánh ngày 15 Tháng 11 năm l9…

Anh Nam,
Liên tiếp mười tháng nay, em rất vui mừng, khi nhận tất cả là: 29 lá thư anh gửi, qua các địa chỉ, em tạm dừng chân: Hội An, Đà Nẵng, Mỹ Chánh. Trước tiên, cho em kính lời thăm hỏi đại gia đình anh, được an mạnh, hạnh phúc. Em mừng.
Hoàng! Em rất mừng, rất vui, đã buồn, đã nghẹn, đã khóc, khi đọc thư an. Em cảm thấy mình sống lại, trên lời thư ân cần, nồng nàn, khéo mô tả ấy. Anh siêng viết thư quá nhỉ! Ngày trước em cũng thế. Bây giờ nghĩ lại thấy không tiện, sợ anh bảo em giàu tình cảm chăng! Hẳn nhiên, Anh và Em vẫn đồng ý với thiên hạ là: Đôi khi người ta không muốn giữ trong tay, một kho tàng, địa vị, hay một danh vọng, hoài bão; mà chỉ muốn lưu lại hình ảnh một kỷ niệm khi dáng chiều chợt phai, trên con đường đầy bóng thông, cùng nhạc thông reo muôn thuở. Và, anh từng nói với em là: Kỷ niệm dù bé nhỏ đến đâu, chúng ta vẫn yêu mến, trân trọng, nâng niu, giữ gìn.
Thế nhưng bây giờ, em xin lỗi anh nhiều. Vì, thú thật, lòng em đã lạnh, lạnh hơn đống tro tàn anh à. Mỗi lần nhận thư anh, tình cảm được dịp cháy bùng lên; Cháy bùng lên như khô rơm chốc lát, để rồi trở lại hoang tàn.
Thư nầy viết cho anh, trước hết không phải là lời tâm sự, cùng bạn tri âm, mà là câu xin lỗi, với anh thân thương. Em thành thật xin lỗi, vì em mà anh băn khoăn lo lắng, ray rứt muộn phiền, chờ tin người em nhỏ. Nếu anh hiểu rõ hiện tại em sống ra sao. Vui thú thế nào. Sung sướng trên ngọn đồi hoa sim tím nầy, với ai. Hẳn anh không mỏi mắt chờ tin đâu. Em xin lỗi không dám nói lên sự thật đau lòng. Nếu biết, anh sẽ đau lòng hơn. Thôi đành thế! Rồi sau nầy anh sẽ hiểu rõ.
Quả đất dù tròn, đường đời lắm chông gai, hiểm trở. Em hy vọng sẽ gặp lại người xưa, vào tháng năm cuối đời. Biết đâu, đất Thần Kinh sẽ là nơi an nghỉ, của cánh chim giang hồ, đã mỏi cánh. Còn bây giờ...Nam! Em van anh. Hãy quên em đi. Mong anh đừng tìm gặp Mười làm gì. Vô ích. Một lần nưã, tha thiết mong Nam hãy quên. Quên em như quên một chiếc lá cuối mùa. Một giọt sương cuối phố. Tình yêu giữa Anh và Em, xin chấm dứt nơi đây.
Chúc anh như ý và hạnh phúc. Khi anh nhận thư nầy, em đã ...
Chào vĩnh biệt.
Thương Mười.


Nửa tháng sau, kể từ khi gửi thư đi. Một hôm ôm củi về chất sau hiên nhà, người đưa thư đến hỏi tên Mười, yêu cầu ký vào sổ lưu xong, ông trao nàng bức điện tín, từ Sài Gòn đến "Kính thăm toàn gia đình, chúc bình yên. Xin vui lòng cho cháu biết, Thương Mười có mạnh khỏe, an vui không? Mong tin lắm. Nam"
Non tháng sau, người đưa thư lại đến, lúc Mười giặt quần áo bên bờ giếng. Bức điện thứ hai ghi: "Vui lòng cho cháu biết, Mười có an vui không? Hạnh phúc không? Riêng nhắn Mười dù ở cảnh ngộ nào, Nam vẫn yêu Thương Mười. Chúc em vạn sự như ý."
Tận cùng niềm nuối tiếc, Mười đọc đi đọc lại dòng chữ, trên bức điện nhiều lần. Nó không là dòng chữ, bình thường nho nhỏ. Mà con chữ nhảy múa qua màn lệ mỏng, rưng rưng, lung linh. Tình yêu mang dấu ấn, nay trở thành dấu lặng, dấu sắc / dấu huyền \ to tướng, sắt lạnh nhọn hoắt, đâm suốt trái tim Mười, đau đớn kinh khủng! Nước mắt đã tuôn trào.
Nàng quyết định cho mối tình nên thơ, chết đi đột ngột, oan ức tội nghiệp. Mười không muốn dùng dằng, càng thêm đau khổ. Dù Nam không hiểu lý do tại sao chia tay nhau? Nàng nhờ anh Thuyền đi đánh một bức điện thượng khẩn, hồi âm tàn nhẫn:
- "Hãy quên Thương Mười đi. Không việc gì đến anh. Mười mong sẽ sống yên ổn. Xin đừng quấy rầy. Chào vĩnh biệt "

Anh Thuyền kinh ngạc, hết nhìn em, lại nhìn hàng chữ xiêu vẹo tự tay em mình viết. Mặc dù, lúc bình thường chữ viết của Mười rất đẹp. Anh mặc quần áo ra đi, lẩm bẩm:
- Con nhỏ nầy... điên đến nơi rồi.
Ba tuần sau, Mười nhận hai lá thư Nam. Hai phong thư viền sọc xanh đỏ, có đóng dấu ngày đi, dấu ngày đến. Thoáng nhìn, Mười hình dung người đã đặt bút viết dòng chữ đẹp nầy. Bàn tay dễ thương kia, đã bóp nát trái tim em, hại nó đập bao nhịp cuồng quay, yêu thương đắm đuối, đau đớn đến hụt hơi, từng tháng ngày qua. Và, anh bị Mười bóp nát lại, nhiều hay ít. Vì dù sao Nam đã buồn phiền. Nếu Mười không cự tuyệt, thì hai lá thư nầy sẽ quyến rũ, hấp dẫn xiết bao.
Nàng cương quyết chối từ. Tự trong thâm tâm, tình yêu phản kháng lại hành động, hàng nước mắt lăn tăn chảy dài trên má. Lúc hai lá thư niêm kín, không được mở ra, mà đốt vào lò lửa. Nhìn từng tờ thư phừng cháy, lụi tàn trong bếp lò. Giống như Mười đốt tàn tuổi thanh xuân, trên từng đống công việc, nặng nhọc chất chồng hằng ngày, mút chỉ cà na.
Mười ngồi bất động trong bếp, mắt lướt nhìn vô định qua bên kia sườn đồi. Triệu lá tranh cao, mảnh dẻ ngả mình nằm bẹp bên nhau, theo chiều gió xô. Bầu trời hạ thấp xuống theo mây thành, cuộn từng lọn trên đồi. Cảnh vật hoang vắng, càng ảm đạm. Buồn da diết bởi tiếng gà, vịt, ngỗng, ngan, chó, mèo, heo, trâu, bò, kêu la inh ỏi, ở góc chuồng nhà xa khuất.
Nhiều điều đã mất, cùng nỗi ân hận, và niềm luyến tiếc đọng mãi trong trí. Chẳng phai mờ. Thâm tâm Mười hằng ao ước, trông chờ, hy vọng, sẽ trúng tấm vé số độc đắc, mình sẽ xây mộng vinh quang trên toàn điện gia đình, và riêng mình. Hoặc hy vọng hão huyền có cánh buồm thần tiên, đưa đến biến cố hạnh phúc bất ngờ, đổi thay lý thú, mang gia đình Mười ra khỏi chốn nầy. Nàng liên hệ cánh buồm, với nhân vật tưởng tượng, trong cổ tích, đầy văn nhã và cười như... điên.
Ba đan rổ rá trên bộ ván gụ, ba hút nửa ngọn thuốc vấn, còn nửa ngọn dụi tắt, rồi dán lên tường gỗ. Những đuôi thuốc quên hút tiếp, xếp hàng dọc, dính hoài không rớt. Má gỡ đuôi vất đi. Nghe tiếng Mười cười một mình trong bếp lò, ba quay nhìn con gái, qua vành trên chiếc mục kính trắng bể mất một tròng, đôi mắt đẹp lão dưới hàng mi dài, dày và cong. Mái tóc bạc phơ trước tuổi, phơi cái trán quá cao, rộng. Khuôn mặt sạm nắng gió khuya chiều vất vã, nhọc nhằn, gầy ốm ít nhiều. Khiến mũi dọc dừa cao hơn, bộ ria mép bạc lốm đốm, che bớt đôi môi rộng, dày, tấm lưng dài hơi khom khom. Ba tằn hắng lấy giọng, rồi nói:
- Tối rồi, con không nấu cơm nước chi răn. Ngồi đó cười một mình. Qủy thiệt chớ. Ôn ưng nện một trận ghê.
Ba muốn các con nên người, làm bộ nói vậy, cho Mười sợ, đi làm việc. Cách đây năm mười năm, các con quấy rầy, hư thân, lười biếng, ba đánh các con. Bây giờ tuổi tác cao, ba trầm tĩnh, nhược điểm tăng, trở thành cố tật. Ba vị tha, bác ái, yêu thương càng nhiều. Ba dễ dãi không khó khăn, trái lại vui vẻ như hiền phụ. Thuở xưa, các con sợ ba lắm, vì các con "hư thân quá chừng".
Ba như bóng cây tùng cha, trên lưng núi trọc sau nhà, cho tùng các con tựa vào. Dù các con lớn nhanh, như nước ròng chảy mau về biển cả. Ba chỉ "hù, dọa" thôi. Anh em Mười đủ sợ danh ông thầy thuốc, nổi tiếng thanh liêm, tận tụy, cần mẫn với nghề mà.

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
12-16-2009, 05:09 AM
:icon_guitarist:

Dòng Thác Tráng Lớp Men Tình




Bác tài chạy thẳng về đường Cường Để, Duy Tân, Minh Mạng, Phan Đình Phùng, Hai Bà Trưng. Nhà Chung sẽ là trạm sau cùng. Xe ngừng ở Duy Tân.
Mười bỗng giật mình run rẩy, như con chim nhỏ bị tên, khi thấy Nam và các cháu, đứng chọn sách, mua đèn Noel. Anh ấy xuất hiện bất ngờ, khiến Mười sững sờ quá sức, không thốt nên lời, để nói bác tài cho nàng xuống xe chạy đến bên họ. Nàng ngẩn ngơ nhìn. Trái tim bình an đột ngột nhảy tưng tưng, cơ mô không hề biết mỏi mệt, đập thình thịch trong lồng ngực. Nàng mệt nhoài như muốn đứt hơi. Trái tim ơi! Hãy nghỉ mệt một vài giây mừng rỡ đi nhe! Cho tôi bớt bồn chồn xao xuyến, đến tận cùng tế bào run rẩy.
Giữa buổi hoàng hôn chớm buông thả bức màn sương mỏng tanh xuống thành phố thấp thoáng hoa đèn, chàng đến bất thần, như mang theo làn gió xuân nồng say ấm áp, làm xôn xao tâm hồn. Nàng trào dâng mối xúc động choáng ngợp mãnh liệt.
Đào, Yến, xuống xe ở dốc Minh Mạng. Mấy chàng trai ngồi sau lưng Mười, bỗng chồm người ra, huýt gío cười đùa, chỉ chỏ, xuýt xoa lung tung. Trong ngôi nhà bên phố, có người con gái rất xinh đẹp. Khiến nàng ngẩng nhìn đăm đăm, và mến thích ngưỡng mộ. Nàng không thể ngờ cuộc sống, tình yêu, hòai bão, tương lai hạnh phúc của mình, sẽ chạm trán gay gắt kinh khủng, đớn đau đột ngột, tóe lên thành suối nước mắt li ti, chảy hoài không cạn khô. Cả cô gái kia cũng không thể ngờ: Đó là hai dòng giông bão:
*Nguyễn Phước Quyên Hà & *Trần Ngô Thương Mười.
Do quá nể lời mời chị em Nguyệt, nên Mười đến Nguyệt chơi. Vào nhà bạn nàng ngạc nhiên thấy Biên đã có mặt, anh chạy xe lambretta về trước. À, thì ra, hai cô nể trọng anh thúc bá của nó, nên nài nỉ nàng về nhà. Đã lâu, vài lần đến nhà Nguyệt, tình cờ gặp Biên, Mười chào hỏi xã giao. Chẳng có gì bận tâm, thậm chí hồi sáng gặp nhau ở Cầu Đất, nàng không nhớ Biên. Mười tự trách "Mình kém cõi xã giao, tệ mạt trí nhớ thế, không biết".
Hai cô kia làm cơm, nhưng khóa cửa bếp, không cho Mười xuống phụ. Họ thật vụng về, khiến Mười cảm thấy ngượng và mất tự nhiên, tự dưng nàng cần cảnh giác, đề phòng cả mọi người. Nói chuyện với Biên chả vui vẻ, chả biết nói gì, không có chuyện gì nói! Mình đã kém cỏi, gặp phải... trường hợp càng kém cỏi tệ. Không tế nhị chút nào, trách sao Mười khó chịu quá!
Biên mến thích nàng. Điều đó thuộc lẽ tự nhiên qua cái nhìn Mười vô tình bắt gặp khi ngẩng nhìn Biên. Cái nhìn khác hẳn bạn trai cùng lớp, cái nhìn giống hệt Phú, chứa đựng niềm cảm mến, âu yếm dịu vợi! nàng hãnh diện về chàng, được anh ưu ái thương yêu. Hãnh diện về chính mình, nàng càng được đẩy xa hơn khi Mười biết chắc chắn có vài ba chàng trai thực sự mến mình.
Đã yêu và được hồi đáp, Mười biết “cái nhìn” Biên trìu mến dường nào, lúc mà Biên đột ngột đề nghị Mười cho anh ta nắm bàn tay nàng, để xem bói. Dẫu bị từ chối, Biên vẫn vui vẻ bám riết ý định làm thầy bói... dở hơi kìa! Không cho. Nói chuyện tào lao, tào khào, chẳng có đề tài gì hấp dẫn.
Khi Nguyệt mở cửa lớn, dọn cơm lên bàn. Bàn nầy dùng tiếp khách, vừa học, cũng là nơi ăn cơm. Mười vụt đứng lên nhất định đi về. Nguyệt thấy mặt Mười xù ra, biết bạn không bằng lòng, cô gái cười giả lả. Tiễn Mười ra tận ngõ, nói:
- Tao biết mày không bằng lòng. Đừng giận tao. Thông cảm tao ở thế kẹt. Nghe! Nếu tao không "nhiệt tình tạo cơ hội" cho ảnh gặp mày, theo yêu cầu, thì ảnh trách tao sao không hưởng ứng. Dù tao giải thích cái gì, ảnh cũng không tin.
- Thông cảm mày kiểu nầy, có ngày chết tao à.
- Tao biết mày có thừa bản lãnh. Của César, ta đã trả về cho César rồi mà.
- Chưa chắc à, bạn ơi!
- Anh Biên là người tư cách, là lính chiến chỉ có vài ngày phép, không có thì giờ đi theo đuôi ai, tán hươu tán vượn dài dòng. Dù vậy, tao tin tưởng tình cảm của ảnh, đối với mày đặc biệt, và chân thật. Hiểu không?
- Hiểu... quá đi chứ.
Nguyệt đẩy bạn ra khỏi cổng, cười tít mắt:
- Hiểu rồi, thì đừng giận bọn tao. Chúc Noel vui vẻ.
- Hổng dám đâu.
Trong nhà vui như mở hội, chị Khánh, chị Hạnh, bà bếp chiên xào nấu nướng. Các món ăn thơm phức. Họ chuẩn bị sẵn, lát nữa đi lễ về là ăn réveillon. Nhạc giáng sinh trỗi lên tưng bừng, hoan hỉ trong căn nhà ấm áp. Tiếng cười các cháu vang khắp nơi. Trong phòng khách, Bảo, Quốc, Toàn, Thịnh, loay hoay trang hồng cây thông đã chặt bên đất Thánh Tây. Chúng hì hà hì hục lôi xuống đồi, kéo lên dốc, vát qua thung lũng, khe suối, đem về nhà. Cây thông cao quá, đọt đụng trần cong hẳn lại, phải cưa một đoạn dài. Chúng móc đầy dây kim tuyến. Ngôi sao. Quả cầu đủ mầu sắc. Thiệp Noel. Thiên thần. Ông già Noel. Những gói quà nhỏ xíu, gói bánh kẹo, đồ chơi do Nam chọn mua.
Ăn cơm tối xong, Mười và Thùy quét dọn, lau chùi nhà cửa sạch sẽ tươm tất, Mười ủi áo quần cho gia đình để chuẩn bị đi lễ. Thùy vừa lau bụi trên các kệ sách, nàng nói:
- Hồi chiều, anh, Phú, Lễ, Tài, Vinh, đến nhà, mời chị em mình, mười giờ rưỡi lên Couvent xem lễ, chứ ở Nhà Thờ Lớn đông lắm! Rồi về nhà họ ăn réveillon, mở party... Em chưa kịp nói gì, thì anh Nam đến.
Ngạc nhiên, Mười ngừng ủi áo, ngẩng nhìn em, hỏi:
- Anh Nam gặp Phú? Họ nói chuyện vui vẻ há?
- Coi chừng cháy áo. Chị "táp pi" em tới tấp vậy? Họ chào hỏi nhau, dzui dzẻ cả làng.
Thấy Nam ngoài phố lòng Mười đã rộn ràng, xao xuyến mừng rỡ. Về nhà Mười dấu kín niềm vui, vờ như chưa biết gì. Các cháu muốn Mười có chút bất ngờ thú vị, nên không nói chàng đã lên Đà Lạt.
Tâm trạng Mười lúc này thật kỳ, vừa mừng vừa lo, bồi hồi, quắt quay với nỗi mong chờ. Nghe em vừa nói, lòng nàng nao nao, băn khoăn. Lãng mạn không? Nhắc đến Nam, Mười quên hết mọi sự, tươi vui nét mặt ngay. Mọi thứ dẹp sang một bên. Khi tình yêu đến có khác gì cây khô, gặp mưa thuận gió hòa, trở nên xanh tốt. Muốn sớm gặp người yêu, nàng nôn nao, vui mừng, thấp thỏm, không yên ổn ấy mà.
- Chị cũng đi lễ, với các anh kia chứ?
- Đi sao được!
- Đến nhà Phú, khoảng mười giờ, chị về đi lễ với anh Nam. Không có chị, chẳng vui.
- Đủ rồi. Không chuẩn bị gặp người yêu sao?
Thùy cười hì hì. Mặc sẵn quần áo dài mới màu xanh nhạt, điểm cánh hoa vàng nhỏ rải rác trên tà, quàng chiếc manto đen, từ khi có "bồ", vấn đề ăn mặc trở nên cần thiết với Mười, quần áo tuy "lèng xèng" giản dị, nhưng tươm tất. Nàng nghĩ:
- “Dù sao nên "giữ kẽ" một tí, diện một tí. Xuềnh xoàng quá, coi cũng mất mặt bầu cua. "Quen sợ dạ, lạ sợ áo quần" mà!” .
* * *

Mười đi lên, đi xuống, con dốc mờ tối, năm bảy lần, chờ đón, ngóng trông Nam kinh khủng. Ruột nóng như lửa đốt. Dưới ánh đèn vàng vọt đầu phố, hàng cây tối mờ, bụi qùy cánh lá xòe to nham nhám, thấp thoáng nhiều bông hoa màu nghệ, nhụy nâu, nở hết cánh, trông vui mắt, chúng nép mình dưới chân vách đá. Các mái nhà dưới thấp, trên cao, chênh vênh bên sườn đồi thoai thoải, chạy dài xuống thung lũng âm u, ánh đèn mờ nhạt chiếu ra, tạo thành nhiều đóm sáng bất động, lớp sương mù dày bao bọc cả vòm trời. Cuối sân sau trường kỹ thuật Lasan, bờ khe nhỏ ăn xuống phiá dưới, khe mương nước chảy một bên đường. Thỉnh thoảng vài hòn đất, đá, lăn trên khe cao rơi xuống. Một tiếng "bủm" khô khan. Nghe to và lạnh lùng.
Mười dừng lại, nhìn về phía đó đăm đăm, hình như có tiếng ai nói gì, trong bóng tối, nơi ánh đèn đường không dọi tới. Ai nói gì vậy! Văng vẳng đâu đây, tiếng lao xao cười nói ồn ào, thoáng chốc đến nhanh. Tốp nam nữ tấp nập ra phố đêm. Đi dự lễ. Coi vậy nàng nhác gan ghê! Có cái gì khiến Mười nhìn ra đầu đại lộ Yersin? Năm ba cây anh đào hoa nở rộ, cài cánh hoa mong manh, ẻo lả, trên cành trơ trụi lá. Đồi thông rì rào trò chuyện dưới thung lũng, khu đất nhà ông Nguyễn Đệ rộng mênh mông. Có gì để nàng phải đăm đăm nhìn về hướng đó, lòng thấp thỏm bồn chồn âu lo quá đỗi?
Chiếc taxi ngừng lại ở đầu dốc; Nam bước xuống, anh ta mặc bộ veston mùa đông màu đen, cà vạt mầu nâu non, ôm kín cổ áo sơ mi vàng nhạt, kẻ sọc nâu mờ nhỏ xíu, áo pardessuis màu kem vắt trên vai, như khách lữ hành ngày xưa mới gặp, mang đôi giày da thời trang cùng màu với bộ veste.
Mười cười rạng rỡ, rảo bước về phía Nam. Dưới cột đèn đường khi Nam nhìn thấy Mười, anh âu yếm trao nàng nụ cười tươi thắm, rồi nắm tay Mười đi xuống dốc. Nàng líu lo:
- Sao anh không viết thư, báo tin trước. Em đi đón?
Nam im lặng đưa Mười quyển album, hộp bánh, quyển "Trau Dồi Ý Chí" của Claude Maillard, và một cái hộp nho nhỏ bao giấy kính vàng, cột nơ hồng. (quà cho gia đình các anh chị, các cháu, tì Nam đã đem đến hồi chiều).
- Anh lên đây hồi nào vậy. Nam?
Chàng siết chặt tay nàng, khẽ thở dài, anh ta không nói: Mặc cho Mười ríu rít hỏi chuyện, anh chỉ cười cười siết chặt tay Mười im lặng. Dừng lại dưới ánh đèn. Nàng giựt tay ra khỏi tay anh ta, ngẩng lên, hỏi:
- Giận em à, hở anh?
- Mười đi đâu, từ sáng sớm đến tối mịt vậy em?
- À, em đi xuống Cầu Đất với mấy nhỏ bạn, làm chuyện tào lao, ngu ngốc. Anh lên đây, em rất mừng, anh à.
- Biết có "họ", thì anh hổng thèm lên Đà Lạt dự lễ Noel đầu tiên của chúng mình đâu. Mười có vài chàng trồng cây si, cây mơ. Thì… nhớ gì đến anh, mà mừng, vui hé. Các bạn ấy đã chờ em suốt buổi chiều đó.
- Tự họ qúy mến cả nhà. Chẳng riêng ai. Không vì ai, anh ơi!
- Chưa chắc à. Hai người tiếp tục đi xuống con dốc nhà:
- Anh thấy Nghi “là bà con xa xa" của em đã đến đây.
- . . .
- Ủa! không bà con sao? Vậy không lẽ… họ là bạn của chị Hạnh?
- Mỉa mai gì ác thế? Em yêu anh nhiều mà.
Cảm động trước câu nói bất ngờ, Nam nhận tình em yêu; bằng cách chàng tìm bàn tay Mười trong bóng tối, ánh mắt tha thiết nồng nàn hơn. Anh ta không nỡ trêu chọc nàng, sợ Mười hờn dỗi, thì mất vui. Họ buông tay nhau khi đứng trên thềm. Chàng, Mười, cùng các cháu đi lễ đêm Noel tại trường Tabert. Gió cuối đông lồng lộng thổi về làn hơi buốt giá tê người.
Trên các nẻo đường lớn trong thành phố, người đi kẻ lại đông vô số kể. Họ khoác bộ cánh rực rỡ, áo lạnh khăn quàng, găng tay mũ len, đủ mọi màu sắc. Phố phường tưng bừng rộn rã hoan ca. Khác hẳn ngày đầu đông ở xứ lạnh. Người người vui vẻ cười đùa, chuyện trò ríu rít, đi lại ngược xuôi, chen lấn nhau trên đại lộ; Không chiếc xe nào qua lọt giữa rừng người đông như kiến.
Một đêm hội lịch sử Chúa Giáng Sinh 24 tháng 12, là đêm lạnh lẽo buốt giá hạnh phúc rất mùa xuân. Mười chợt bừng tỉnh giấc ngủ nồng say. Sau mùa thu héo úa, rồi mùa đông buốt giá gần tàn. Lòng cô em xôn xao, dấy động từng thoáng nhớ đắm say, vấn vương, ngọt ngào mãi không rời qua tiếng tơ lòng dìu dịu rung ngân trên mỗi phím loan.
Dưới hai vòm cây giao nhánh, các vì sao ẩn hiện. Sương mù cuộn thành lọn bông gòn trắng, xốp, bồng bềnh rơi trên thung lũng ẩm ướt. Cành cây kẽ lá đọng hạt sương lóng lánh. Vầng trăng khuyết không muốn lặn dừng lại lấp ló trong từng bè mây hối hả bay bay. Bầu trời ướt đẫm sương đêm. Thỉnh thoảng gió thổi qua mát rượi, đủ làm cho da người con gái xứ lạnh càng thêm thắm hồng. Họ đi trong lòng phố giá băng buốt lạnh, mang trong lòng niềm hân hoan yêu đời, vui vẻ hạnh phúc, bình an, tuyệt vời nhất. Noel khai sinh tuổi xuân hồng phới phới, rót mật vàng từ thinh không xuống lòng phố nở hoa mùa đông.
Trên đỉnh đồi mù mịt sương muối và trong cánh đồng thương yêu của Nam và Mười. Một Noel tuyệt vời ngọt ngào ngây ngất, đầy hương vị tình yêu miền núi. Từng hồi chuông dài ngân nga giữa đỉnh đồi, qua các sườn dốc, các khe thung tiếng chuông mừng vui réo gọi, hoan hỉ reo vang cùng thế nhân đón chào ngày Chúa giáng trần.
Dưới hai vì sao sáng nhất thân ái quỳ gối bên nhau trò chuyện trên bến Ngân Hà. Vành trăng khuyết lơ lửng, như chiếc thuyền con trôi giữa các tầng mây. Noel là một lễ Giáng Sinh tuyệt diệu, hạnh phúc nhất của đời cô gái mười sáu tuổi chớm lớn. Và, có lẽ là một Noel tươi đẹp, thú vị nhất của một chàng trai mười chín tuổi. Lòng Nam và Mười xôn xao dấy động, họ vui không thể tả. Tay trong tay tình nồng trong mắt biếc trao đưa, đôi mái đầu xanh chụm lại, cùng dạo bước bên nhau quanh khu trường học.
Các cháu vào hội trường xem học sinh trường trình diễn văn nghệ. Triển lãm tranh ảnh. Bích báo. Tuần san. Máng cỏ. Hai anh chị ngồi ngoài băng ghế đá, cạnh vườn hoa trước nhà thờ Dòng, chàng lấy trong túi áo veste ra hộp sơn mài nhỏ, có sợi dây chuyền vàng l8k, mặt chữ NM. Anh đeo sợi dây chuyền vào cổ Mười, và âu yếm nói:
- Kỷ niệm dù bé nhỏ, vẫn có giá trị về hạnh phúc một đời. Ta cảm ơn Chúa cho chúng mình gặp nhau, yêu nhau.
- Dạ phải.
Vuốt lọn tóc buông dài trên bờ vai Mười, chàng nói:
- Mái tóc em dài, anh rất thích, đừng cắt ngắn nhe.
- Anh khen quá, em bể lỗ mũi, chết à.
- Ơ kìa! Ai khen em mà bể mũi. Mắc cỡ chưa!
- À há. Chi mà dị dạng rứa hè. Anh là khách lữ hành, dù đất lành chim vẫn chưa đậu. Rồi chốn phồn hoa đô hội cũ sẽ gọi anh quay về thôi. Có gì mà không bể mũi em chứ.
- Phượng hoàng đã gãy cánh trên đôi vai nầy rồi.
Nam vỗ vỗ trên vai Mười, nói lời dịu ngọt. Anh nâng niu lọn tóc dài xõa bên má và đưa lên môi hôn. Mười cắn nhẹ làn môi, đầu nghiêng hẳn lên vai chàng. Hơi thở Nam ấm nồng, phả nhẹ vào mái tóc Mười như làn hơi sương nhút nhát, mà ấm áp. Ngón tay thư sinh trắng trẻo mềm mại, truyền qua làn tóc mỏng xõa trên vai Mười cảm giác đằm thắm, lâng lâng ngọt ngào dễ chịu.
Nam biết, nếu anh cúi xuống đặt lên môi Mười nụ hôn đầu tiên, có thể nàng không phản đối; Nam đắm mình trong hạnh phúc bất tận, ngây ngất niềm vui dạt dào. Nam nâng niu, trân trọng mối tình nên thơ, và hồn nhiên đang nở hết cánh trong đôi trái tim chân thật.
Tiếng chuông báo hiệu nửa đêm, ngân dài giữa vùng núi đồi trùng điệp chập chùng. Biển sương mù trắng xóa. Hai người dìu nhau vào giáo đường xem lễ. Nam dâng cuộc đời, tình yêu nầy và tương lai cho Chúa Hài Đồng gìn giữ.
Nam về nhà chị Khánh ăn mừng lễ, không khí gia đình ấm cúng, thân mật. Ba giờ khuya, chàng từ giã Mười để về nhà Tuấn ở cuối đường Hoàng Diệu. Chàng sẽ không bao giờ quên kỷ niệm vàng son một thuở yêu nhau, không thể nào quên… dù mai đây thời gian trôi chảy mãi, đời mỗi người trong hai chúng ta sẽ xa cách, phai mờ đi. Cuối cùng tình yêu nầy, vẫn sống mãi trong tiềm thức, trong tư tưởng mỗi người.
Một mình Nam đi trên lòng phố vắng, hồi lâu còn nghe rõ tiếng gót giày chàng cô đơn, thong thả gõ đều đặn trên mặt nhựa đẫm sương mù sáng loáng, giống như Nam đang đi trên dòng thác vừa tráng thêm lớp men tình. Sương rơi lốp đốp trên cành lá, hạt sương mọng tròn, long lanh như ngấn lệ đọng, sương đậu trên đầu ngọn lá rung rinh.
Đường về khuya hiu hắt hoang vu, đơn điệu lạ thường. Cái khuya buốt lạnh, giá băng, im ngắt đến ghê rợn. Cái khuya thăm thẳm, sắc bén, ăn sâu vào lòng du khách. Cái khuya lạnh lùng vây bọc. Nhưng ngàn đời vẫn không thể mất đi vẻ thơ mộng, hữu tình và tràn lan quyến rũ...

* * *

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
12-29-2009, 06:09 AM
:icon_coupledance:
Hiến Chương Tình Yêu



Dãy trường sơn hùng vĩ duỗi mình dưới cuộn mây trắng xóa đang vương tơ trời mong manh, rồi quấn thành từng dãi lụa mây giăng mắc trên đỉnh thông cao, xanh ngắt, ngút ngàn rũ rượi đứng thẳng. Có loài hoa lan qúy giá mọc từng chùm, than tầm gửi giao mình trên cành cây cổ thụ thân xù xì, già nua không biết nỗi tháng năm. Hương hoa thoang thoảng ngây ngây mùi thơm dễ chịu phảng phất bay bay cùng khắp núi đồi. Đôi chim chích chòe nhảy nhót hồi lâu thấm mệt, khép cánh dấu mỏ, đậu bên nhánh cây bằng lăng hoa tím, gần bụi hoa qùy nở xòe hoa vàng rực góc đồi. Bên những đài hoa mắc cỡ e lệ, thẹn thùng khép chặt hàng mi bối rối. Cạnh lùm cây không tên có tán lá bóng mượt. Chim cúi nhìn xuống đôi trẻ ngồi dưới gốc cây.
Nàng ngồi nghiêng gối đầu lên gốc cây ngo già, thân tựa trên rể cây thông, dọc bờ sườn dốc thoai thoải đầy lá khô. Chàng đọc lại tập thư đã viết và mỉm cười nàng thấy chàng thật có duyên. Một tay cầm chùm hoa mắc cỡ, chàng khẽ khàng cài bên mái tóc nàng, một tay chàng vuốt nhẹ lên đôi má nàng phớt hồng. Chàng vén lọn tóc nàng khá dài ra sau lưng.
Cuối cùng, không gian rủ thời gian ngừng trôi, bầu trời im ắng, lắng nghe lời chàng trai ân cần bên tai nàng. Chàng mỉm cười, lòng gợn lên tình yêu thương say đắm, nồng nhiệt hơn qua lời thì thầm trao yêu:
- Đố em biết, nốt ruồi bên má em, trời sinh ra để làm gì?
Ngạc nhiên kinh khủng, nàng mở to đôi mắt nhìn người yêu. Nàng nào biết nốt ruồi mà Trời sinh ra, để làm gì đâu? Đột nhiên nghe chàng hỏi, nàng biết trả lời sao. Nàng nhắm mắt, như lẫn trốn ánh mắt nồng nàn, đắm đuối kia. Nàng nũng nịu lắc đầu cười nhẹ không đáp. Mãi lâu, chàng cúi xuống thật gần, khe khẽ lời trao yêu nho nhỏ, (hầu như chàng sợ đôi chim non nghe thấy, thì... cả hai ngượng ngùng hết biết):
- Em không biết, thì… Anh nói em nghe. Nhe?
Nàng gật đầu nín khe. Chàng nhẹ nhàng vuốt tóc nàng:
- Để anh hôn em. Chứ để làm gì!
Nàng muốn ngoảnh mặt đi… Nhưng khó chối từ trước chàng trai duyên dáng, quyến rũ như thế. Và tuổi đời, trình độ, kiến thức, nét hào hoa văn nhã lịch lãm ở đời, cuộc sống ấy, đều hơn hẳn nàng. Một người con trai đã cho nàng tình yêu lãng mạn, nhưng không kém say đắm, tin yêu chân thật.
Anh ấy đủ bản lãnh để lôi cuốn, quyến rũ “em” tài tình. Sự quyến rũ ngọt ngào, nồng thắm, dịu êm đắm say, chân thành, đã xuất hiện trước cánh hoa mắc cỡ nhẹ nhàng, đang e lệ run run khép hờ rèm mi. Chàng hôn nhẹ lên mái tóc cài đóa hoa tim tím. Chàng hôn lên trán, nơi má có nốt ruồi duyên, hôn lên mắt nàng. Ngượng quá! “Cô nàng” kéo mái tóc dài qua một bên, che khuôn mặt, và chụp chiếc áo trùm kín lên đầu.
Chàng ôm nàng vào lòng, và từ từ gỡ chiếc áo lạnh ra. Chàng nhìn nàng trân trối, em ấy còn vẹn tuyền nét ngây thơ nguyên thủy của tuổi thanh xuân ngọc ngà. Đôi má em ấy nóng bừng, đỏ như người uống rượu quá say, khiến chàng cảm thấy hai vành tai, và mặt mình cũng nóng bừng theo. Chàng ôm khuôn mặt người yêu, lòng đầy xúc cảm, như dòng nước lũ tình yêu ào tới, cuốn trôi mọi ý niệm về không gian lẫn thời gian.
Nhẹ nhàng êm ái, chàng vén nhóm tóc dài vuốt ra sau gáy. Bây giờ càng hôn môi nàng, hôn đôi môi nàng mím chặt, chàng hôn thật nhẹ, êm ả nâng niu dịu dàng và trang trọng, cho hai hàng mi vụng dại ấy run run. Nàng khẽ nghiêng người ngoảnh mặt đi, hai bàn tay xinh xinh bưng lấy mặt, và nụ cười ngượng ngùng vô song hé nở, lộ ra hàm răng nhỉ trắng đều như hạt bắp làm thắm thiết làn môi. Môi hôn chàng đọng mãi trên môi nàng, cho không gian e thẹn ngập ngừng, rủ thời gian rón rén e ấp len lén trôi đi, trôi đi thật nhanh. Gió thổi lá khô xào xạc, rung bụi phấn thông vàng bay bay.
Hai con chim chích chòe càng bẽn lẽn, chúng im lặng nằm yên trên tổ không chút cử động, chim tròn xoe đôi mắt, cúi nhìn đôi trẻ, rồi chúng lại nheo mắt nhìn nhau và khe khẽ quệt cái mỏ dài lên gáy bạn tình. Chúng ngẩn ngơ nhìn họ mãi, chim hân hoan lắng nghe đôi bạn trân trọng trao nhau hiến-chương tình-yêu. Mảnh trời bé nhỏ qua kẽ lá trong vắt trên bầu trời, bỗng như ghen hờn với mối tình thơ dại, chiều tà đã sa sầm mây tím, bao phủ núi đồi. Trời chiều tối lại rất nhanh. Gió gào thét trên đỉnh cây, cuốn theo cơn mưa phùn thật nhẹ, thật nhỏ vướng theo gót chân, mà đôi trẻ nào có hay biết gì. Tình thắm thiết đã nở tiếng đàn trên mỗi phím loan.
Ôi! Chàng yêu nàng bằng tất cả núi rừng trùng điệp từ Bắc chí Nam. Và chàng thì thầm:
- Anh yêu Em hơn cả ao hồ sông biển từ phương Đông qua phương Tây. Anh yêu em trải dài từ Bắc cực xuống Nam cực. Từ kinh tuyến thứ nhất đến vĩ tuyến cuối cùng. Từ Aỉ Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Anh yêu Em bằng tinh tú trên bầu trời đêm. Yêu em mãi mãi như hai vì sao khuya đang qùy gối bên nhau, sao lấp lánh trò chuyện trên bến Ngân Hà suốt canh thâu. Yêu em nhiều... như cát vàng vùng sa mạc Sahara. Như nước đại dương mênh mông. Như hàng tỷ tỷ người, đã, đang, sẽ yêu nhau trên trái đất, từ ngàn kiếp trước. Như triệu ngày sống và triệu ngàn ngày sẽ đến. Cầu xin cho đôi ta sống đến ngàn năm. “Mình” nhỉ!
Anh yêu em bằng không gian và thời gian hiện hữu trên trái đất. Bằng tóc của em và tóc của anh cộng lại, lũy thừa, lũy thừa lên. Em chịu không? Không có em, anh sẽ chết. Cuộc đời anh rồi sẽ một sớm một chiều tàn phai, vô ý nghĩa. Mắt anh sẽ mờ nhòa, trũng sâu. Tóc anh sớm bạc màu. Em ơi! Đêm sẽ lạnh lùng hoang vắng. Ngày buồn tênh, dài lê thê những bước chân quạnh quẽ, trên nẻo đường cô độc. Đời chỉ là chuỗi ngày héo hắt, muộn phiền dai dẳng. Biết không em?!
Đôi môi em in đậm dấu ấn hiến chương tình yêu, đã nở hoa tinh tuyền ngát hương thề! Đó là một tình yêu đơn sơ, trong sáng, hồn nhiên, hoang dại, êm đềm như cây cỏ núi rừng mộc mạc của xứ hoa Đào. Em ơi!

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
01-12-2010, 10:49 PM
Ái Ưu Du chân thành cám ơn anh luctuan.
Kính chúc anh & gia đình luôn có niềm vui ngọt ngào & hạnh phúc trong năm mới nhe.

AUD

Tinh Hoai Huong
01-12-2010, 11:23 PM
:icon_hateyou:

Ái Dà Dá Da… Vợ Ui Vợ !

(Chuyện có thật 100%)



Buổi kia, gia đình Năm Tony đi “coi mắt” vợ là: cô Bạc Phùng.
Hôm ấy, ba má, mấy chị, em, Bà Ba Hồng, Tony Năm, cùng nhau leo lên xe hơi nhà, đi đến vùng Phú Thọ. Tony chỉ thấy thoang thoáng hai cô gái ỏn ẻn ra bưng trà, vô bưng nước để mời khách. Cô nào cô nấy cũng xinh xinh, đẹp đẹp, nho nhỏ nhí nha nhí nhảnh.
Bà Hồng nháy mắt nhìn chàng, cười cười. Từ đó, cả nhà xúm lại “thuyết giải” Tony về bổn phận, và “nghĩa vụ gia tộc” của cậu con trai trưởng là: cần phải nhanh chóng “lấy vợ báo hiếu”, để cha mẹ có tí cháu nội bế bồng hun hít.
Tony uể oải gật đầu. Vì thế ai ai cũng vui vẻ mách nước với Năm:
Lấy vợ nên lấy vợ non.
Tóc thề mườn mượt xỏa eo thon.
Mắt sáng, môi hồng, da tươi thắm.
Đỡ tiền mua sắm những phấn son.
. . .
Lấy vợ xin anh lấy vợ già.
Ra đường “ẻm” biết chuyện gần xa
Lỡ anh đi lạc thì em nhắc.
Cũng tốt cho anh đó thôi mà.
Và chu đáo hơn, ba má anh chị em của chàng còn khuyên Tony Năm nên kiêng:
Lấy vợ nên kiêng lấy vợ hô.
Hàm răng lởm chởm nói bô bô.
Rủi khi “bà” giận ôm chồng cắn.
Đổ máu phu quân chạy thấy mồ.
Lấy vợ không nên lấy vợ ù.
Đêm nằm ôm vợ tưởng ôm lu.
Rủi khi mà nó đè lên bụng.
Bẹp xác ông chồng khóc hu hu.
* * *

Thế là, cứ cách vài ngày, Tony lại đến nhà cô ta để “tìm hiểu nhau”. Hôm trước cả nhà chàng đến coi mắt Phùng, thì cô ta lại đi vắng. Bây giờ, ngồi ở trong phòng khách, chàng nói với Phùng chuyện “trên trời dưới đất” cũng có phần lạt lẽo, hai người cố gắng nói tào lao cho vui thôi, rồi Tony đi về.
Tony và Phùng chưa có một lần đi chơi riêng ra ngoài. Ngoại trừ có một lần duy nhất, Phùng hẹn chàng ở đầu đường, để chở Phùng đi xem bói, (vì nàng không muốn cho người nhà, và người yêu của nàng biết, dù sao thì người yêu của nàng còn là anh học trò lớp đệ Nhị, con nhà khá… nghèo). Phùng muốn coi bói thử có nên lấy anh chồng con nhà giàu xụ nầy không, và số phận của nàng và “anh nầy” ra sao?
Tony dặn dò:
- Em đứng chờ anh ở cột xe bus, gần ngỏ vô nhà em nhe.
Thì cô ta lại tưởng là chàng hẹn Phùng đợi đâu đâu, đi xa lắm. Nên hai người lạc nhau cả ba giờ, làm gì có phone mô mà gọi? Gặp nhau rồi, Tony lái xe hơi chở Phùng đi xem bói xong. Hai người đi về ngay.
Vì, Ông thầy bói thấy chàng Tony “tốt tướng”, con nhà giàu xụ, đi xe hơi láng cón, ông thầy nhìn Phùng một lúc, cười cười nói:
- Cuộc hôn nhân nầy rất đẹp đôi. Xứng đáng mà! Yên trí lớn sẽ sống với nhau suốt đời. Chả cần phải “khách sáo” mời mọc nhau đi ăn uống, chuyện trò thân mật hỉ? Anh muốn sao, trời cũng chìu anh à:
Lấy vợ xin anh lấy vợ lùn.
Áo quần em mặc, vải hay thun.
Người cao một bộ, em hai bộ.
Tiết kiệm cho anh gấp bội phần.
Rồi ông thầy bói lại nói thêm là anh chị sẽ rất hạnh phúc đó:
Lấy vợ xin anh lấy vợ cao.
Chúng mình đùm bọc lẫn cho nhau.
Cây trái anh thèm, em tay với.
Đỡ mất công anh bắc thang trèo.
Cha mẹ hai bên đã gặp nhau, bàn thảo kỹ càng, coi xôm tụ về việc hôn nhân. Ngày chủ nhật, tức là một tháng sau khi quen sơ giao, thì làm đám hỏi, tổ chức tại nhà ba má của nàng. Đầu tháng sau, đám cưới Năm+Phùng vô cùng long trọng ở nhà thờ. Buổi tối, chiêu đãi thân nhân, họ hàng, khách khứa tấp nập, đông đúc và trọng thể, tại nhà hàng Quốc Tế.
* * *

Suốt cuộc hành trình đi tìm kiếm hạnh phúc lứa đôi, Tony chỉ như là con “rô bô”. Như kẻ mất hồn. Như Thiên Lôi, ai sai đâu tôi đánh đó vậy. Chàng kết thúc một giai đoạn cũ với những mối tình lăng nhăng. Không ai hiểu tôi hết. Họ tưởng tất cả quá khứ đầy sóng gió của chàng, đã chìm vào quên lãng. Chỉ có Năm Tony, và may ra, duy nhất chỉ còn cái “mùi của hoài hương xưa duy nhất của Mi Mi”, mới hiểu rõ Năm Tony tôi đớn đau như thế nào mà thôi.
Cuộc hôn nhân nầy như một “trò đùa của định mệnh trớ trêu”. Vì quả thực, hai người vừa ăn ở với nhau, đã "phát sinh ra" đủ thứ chuyện rối rắm đầy mâu thuẫn. Mỗi người có một cá tính dị biệt. Rất khắc khẩu. Hầu như mọi vấn đề đều khác biệt lạ lùng. Tony ngậm ngùi dấu kín nỗi đau trong lòng:
Chiều chiều bìm bịp kêu chiều.
Lấy vợ thì cũng lấy liều mà thôi.
Ban ngày làm việc tả tơi.
Ban đêm hầu vợ, phận tôi đêm trường.
Nằm chung thì bảo... chật giường.
Nằm riêng lại bảo... tơ vương con nào.
Lãng mạn thì bảo... tào lao.
Đứng đắn lại bảo... người sao hững hờ.
Nếu “tôi” thích A, thì “người ta” lại thích Z. “Anh” thích màu xanh, “Em” lại thích màu đỏ. Giống như một chiếc xe hơi mới toanh, khổ nỗi lại có hai cái "vô-lăng” hai hộp số, hai cái thắng. Thì, “tôi” định rẽ về bên phải. “Người kia” lại muốn lái về bên trái. “Tôi” muốn nhấn ga, thì “bả” muốn đạp thắng. Tréo cẳng ngổng. Mà con đường đời thì không phẳng phiu, êm ái trơn tru gì. Nó quanh co, gập ghềnh, lởm chởm, gồ ghề, uốn lên uốn xuống khúc khuỷu quanh co ghê lắm. Chả có lần Phùng đã “nhắn nhe” ngâm nga ra rả:
May ra vợ có... nương tay.
Ta mới sống trọn kiếp này dài lâu.
Làm chồng phải nhớ lấy câu:
"Nhất vợ nhì trời", đừng ẩu... phanh thây.
Ngay từ buổi đầu tiên trong ngày “honeymoon say đắm” kia, Tony lái xe hơi ra nghỉ ở Vũng tàu. Dọc đường đi, có một cặp khác vui vẻ trẻ trung, cũng lái xe hơi chạy gần gần bên xe hơi của họ. Khi thì xe Tony qua mặt xe của cậu ta. Khi cậu ta qua mặt xe chàng. Cả hai người nam cùng vẫy vẫy tay cười cười vui vẻ. Nhưng Tony thấy mặt Phùng xù ra như lông nhím. Tony nghĩ thầm:
- “Không vui rồi”. Chắc có lẽ… bởi nàng:
Lấy vợ xin anh lấy vợ ghen.
Vì anh, em gác cửa cài then.
Vì anh, em mới làm như thế.
Nên đành phải thức trắng đêm đen.
Tony cho xe chạy chậm lại, giả lả với Phùng vài câu chuyện vui, để khỏi mích lòng vợ. Ấy thế mà, Phùng im thin thít, bĩu môi, lạnh lùng quay mặt đi ra vẻ khinh bỉ. Tony cảm thấy xấu hổ với cặp kia, lại tức vợ cành hông, nhưng cố nhịn nhục vợ.
Vào lấy phòng trong Hotel xong, Tony soạn áo quần móc vào tủ. Má của chàng chu đáo lắm. Đã mua sắm cho con dâu đầy đủ, tỉ mỉ mọi thứ quần áo, đồ dùng sang trọng. Không thiếu món gì.
Trong khi chờ đợi vợ đi tắm, Tony nằm đọc báo ngoài balcon. Tắm xong, Phùng đi ra chỗ chồng nằm. Từ trên lầu tư cao chót vót nhìn xuống sân. Bỗng Phùng chỉ tay xuống đất, gọi giật chồng lại, hét to:
- Coi hai cái đứa mất dạy kia kìa. Chúng nó bám riết theo ta. Cố ý chọc quê tụi mình đó.
- Không phải đâu em. Chỉ là sự tình cờ, trùng hợp ngẫu nhiên thôi.
- Xì. Tình cờ gì! Mình dời đi chỗ khác. Đi anh.
- Sao lại vậy?
- Anh không đi hả. Nếu anh thích, cứ ở đây với chúng nó.
- Em kỳ ghê à nha.
- Ừa. Em như vậy đó.
Thế rồi…
Suốt ngày oán trách với chồng.
Lúc xưa thì vậy, giờ không còn gì...
Cái hôm mà nàng vu quy.
Ta biết ta sẽ bị ... đì lai rai.
Khổ thân cho kiếp con trai.
Một lần lấy vợ bằng hai lần... mù.
Lưng thì mỗi ngày mỗi gù.
Cày ba bốn jobs để... bù nàng tiêu.
Thế là…, Tony đành phải thu xếp đồ đạc. Dời đi hotel khác. Trả phòng, chàng phải nói dối với bà chủ là: Có “điện tín”, cần về Sài Gòn gấp. Dĩ nhiên là mất toi tiền phòng vô lý. Dời đến hotel xa thật xa bờ biển. Khi xuống garage lấy xe hơi, hai người lại “đụng độ” với cặp vợ chồng trẻ lúc chiều. Họ vồn vã hỏi thăm “anh chị”, rất lịch sự:
- Chào anh chị. Sao anh chị không ở hotel nầy, cho vui nhỉ?
Tony bắt tay ông chồng, vội trả lời:
- À... Chả là vì, có bà con ở đằng kia, đã lỡ hẹn phòng cho chúng tôi rồi. Cám ơn anh chị. Chúc anh chị những ngày nghỉ vui vẻ nhe.
Phùng lườm nguýt họ một cái rất dài, cô xù mặt quay đi. Lên xe, trước khi đóng cánh cửa xe hơi “cái rầm”, Phùng thò đầu ra cố ý đốp vào mặt họ:
- Cái thứ đó. Nói chuyện làm gì!
Hai vợ chồng trẻ sửng sốt, đứng ngây ra nhìn Vi. Họ nghe rõ mà.
Lấy vợ xin anh lấy vợ hô.
Lỡ sau mà có gặp côn đồ.
Em cười, chúng tưởng Chung Vô Diệm.
Hồn xiêu phách lạc cõi hư vô.
… Bắt đầu “một mái gia đình hạnh phúc” như thế đó. Nói chung, trong tuần lễ “trăng mật”, chả vui vẻ gì! Cải nhau suốt bốn năm lần. “Chàng” rủ “nàng” đi tắm, thì nàng kêu mệt, bỏ đi nằm ngủ. Khi “anh” mời “em” đi ăn, thì em chỉ thích coi ca nhạc, chồm lên cười hô hố. Hai người đi tắm nửa chừng, nàng nói “không vui”, lại hầm hầm bỏ về phòng ngủ vùi.
Lấy vợ xin lấy vợ ngáy to.
Lỡ bề ăn trộm nó hăm ho.
Đêm khuya thanh tịnh em ngay ngáy.
Trộm tưởng thiên lôi chạy cao giò.
* * *

Từ đó, cuộc sống lứa đôi thật nhàm chán. Đến với nhau chỉ là bổn phận. Vì, thật ra cả hai không hề yêu nhau. Đây chỉ là một cuộc “gạ đổi”. Có nhẽ nào như chuyện ngẫu nhiên của “đôi đũa lệch, mốc, chọi mâm son”? Hai đứa không có thì giờ ngồi lại với nhau “tìm hiểu” kỹ càng trước khi bước vào hôn nhân. Chỉ như sự… “bắt đầu ngồi đó”, để “anh chị” làm tròn bổn phận của đứa con chí hiếu.
Tuy nhiên, Tony hy vọng (vẫn còn hy vọng chứ) khi sinh ra đứa con, Tony mong nó sẽ là cái gạch nối tình yêu hữu hiệu, giữa hai người sẽ tốt đẹp hơn.
Thế rồi... Có một đứa con. Hai đứa con. Ba đứa con. Tony cũng chả thấy cái – gạch nối – nào cả!!! Thật là:
- "Tóc quăn chải lược đồi mồi.
Chải đứng chải ngồi, quăn vẫn hoàn quăn".
Làm bổn phận người cha, chàng lo toan chu đáo. Đầy đủ, rất mực yêu thương các con. Làm bổn phận người mẹ, Phùng vẫn chăm sóc con toàn vẹn. Với sự hỗ trợ đắc lực của ông bà nội. Nhất là trong nhà có ba người vú em chu đáo lo riêng cho ba đứa con của họ. Ấy vậy, chàng vẫn hậm hực than rằng:
- "Lạnh lùng thay! Láng giềng ơi! Láng giềng lạnh ít, sao tôi lạnh nhiều".
Vợ, từ thiếu nữ hiền lành.
Đến khi xuất giá trở thành... "quan gia".
Vợ là con của người ta.
Và ta quen vợ chẳng qua vì tình.
Có quan thì phải có binh.
Nên ta làm... lính hầu tình "quan gia"
Con ta do vợ sanh ra.
Nên ta với vợ... chẳng bà con chi.
Và càng ngày thì cá tính Phùng càng bộc lộ cơn bực bội, nóng nảy tam bành lục tặc quá vô lý. Cái lối “ăn trả nói treo” ngang tàng, hỗn xượt, với tất cả người khác trong gia đình. Nhất là "bố lếu bố láo" với ba má Tony. Phùng cóc cần ai và coi họ “như pha”. Tạo ra sự mâu thuẫn trầm trọng giữa mẹ chồng nàng dâu. Giữa chị em dâu, em chồng. Mặc dù, chàng biết rõ: Là ba má mình rất yêu thương con dâu; và chịu ép mình hạ giọng để nhịn nhục Phùng.
Điều nầy, khiến Tony càng xấu hổ, ngượng ngùng vô ngần, với chị, em, và mấy người làm bồi bếp đông đúc ở trong nhà. Ôi thôi! Ngày nào cũng như ngày nấy: "Nội-chiến tưng-bừng" à. Không khí trong gia đình ba má xưa, khi chưa có “dâu về”, không phải chàng tự hào, chứ quả thật là một đại gia đình có tôn ti trật tự, lễ phép và gia phong đâu ra đó, anh chị em trên thuận dưới hoà. Tương kính lẫn nhau như tân. Êm êm ấm ấm, hạnh hạnh phúc phúc thật sự. Đúng nguyên nghĩa hạnh phúc của nó.
Đến nay, khi đã “rước nàng dzìa Dinh”, mỗi ngày đi làm về, Tony đều phải “dàn xếp” những chuyện chả ra gì. Bên nào cũng trách:
- Sao anh sợ bả. Không dám nói vậy?
- Anh đừng “đội vợ” lên đầu.
- Con vợ chẳng có giáo dục, hổn láo hết biết.
Ngày trước nàng dạ nàng thưa...
Nói năng dịu ngọt cho vừa lòng anh.
Anh tưởng hoa ở trên cành.
Bao giờ cũng đẹp, tươi xanh bốn mùa.
Lời nói không mất tiền mua.
Nên anh... ngọt lại cho vừa lòng nhau.
Bây giờ chẳng hiểu vì đâu.
Nàng mang chứng bệnh cứng đầu lặng câm.
Chịu không thấu nỗi, nên ba của Tony đã cho họ một số tiền lớn, kèm theo số tiền vợ chồng dành dụm bấy lâu. Ba muốn họ dọn ra ngoài ở riêng, cho yên ổn. Vâng! Chính ông ba của chàng rứt ruột ra quyết định như thế. Tony biết là ba má rất thương con, cháu. Nhưng đành phải rời xa. Tony lo đi thuê nhà ở tạm bên đường Duy Tân.
Ra riêng rồi, tha hồ cho Phùng càng “tung hoành”. Những mâu thuẫn vợ chồng càng hiện hình rõ nét, trầm trọng hơn. Mặc dù chàng cố nghiến răng chịu đựng.
Còn mặt thì cứ hầm hầm.
Nàng trợn một cái, ta... bầm mấy hôm.
Việc nhà chẳng chịu trông nom.
Shopping một bận, ba hôm mới về.
Nhưng trong lòng quá đau buồn, chàng đi làm về, vừa mệt mỏi cởi đôi giày ra, là có chuyện không vui. Tony muốn ngồi lại đùa giỡn với các con tí chút, cũng không yên. Phùng cứ “lải nhải cằn nhằn" đủ điều bên tai chồng. Phùng dằn mặt chồng đánh đập con túi bụi, cốt ý chửi xiên chửi xéo "cái đồ hư đốn giống thằng cha như đúc".
Tội đức lang quân nằm kế cạnh.
Mất ngủ lâu ngày chắc phát ho.
Tony rất thương con, chịu không nỗi cái cảnh con bị hành hạ vô lý.
Một là chàng ôn tồn can thiệp. Nhưng, càng vuốt ve, xoa dịu Phùng bao nhiêu; thì cô nàng lại càng có cái cớ, làm hung, làm dữ bấy nhiêu. Hai là chàng mặc áo quần, bỏ nhà đi ra ngoài phố. Tony bắt đầu chán. Chán không thể tưởng! Ra đường hoài, chàng không biết đi đâu; làm gì cho hết giờ? Tony lại chui vào mấy quán Bar, để gặp vài ba cô lôi kéo, hun hít, tán hưu tán vượn, cho quên buồn. Đợi đến lúc tối mịt, tối mò, nửa đêm, nửa hôm khuya khoắt, Năm Tony bò về nhà; chàng vẫn nghe ra rả bên tai tiếng Phùng chửi rủa con cái, quăng thúng đụng nia, hay la mắng người vú léo nhéo.
Phùng chửi xéo, chửi xiên chồng, cùng kèm theo tiếng đập phá đồ đạc. Trong nhà nầy tương tự như một "hoả ngục ở trần gian" rồi. Biết “chui” vào đâu mà “trốn” đây hử?
Lấy vợ nên kiêng lấy vợ ghen.
Áo quần khi xé rách teng beng.
Rủi hôm cao hứng chồng về trễ.
Bể chén, bể ly, bể cái đèn.

Vợ là quả ớt chín cây.
Đỏ tươi ngoài vỏ rất cay trong lòng.
Vợ là một đoá hoa hồng.
Vợ là "sư tử Hà Đông" trong nhà.
* * *

Mong quý vị “tuyệt thế cao chiêu” nếu ai có diệu kế chi, xin vui lòng bỏ chút thì giờ, mách bảo nho nhỏ, để cho “Năm Tony tôi” xin thỉnh giáo, là: …tôi phải có cách nào hay để “trừng trị cái bà nội tướng”, cho bà ta xép re lép vế xí. Hay là:
Lúc nghĩ tới chuyện ... có con.
Nàng hứ một cái, chẳng còn thiết tha.
Ra đường thấy vợ người ta.
Về nhà thấy vợ... tu cha cho rồi...
Nhưng lỡ ăn kiếp, ở đời.
Cắn răng chịu đựng, chờ thời đổi thay.
Biết đâu sẽ có một ngày.
Ta có cơ hội giải bày vợ hay.
May ra vợ có... nương tay.
Ta mới sống trọn kiếp này dài lâu.
Làm chồng phải nhớ lấy câu:
"Nhất vợ nhì trời", đừng ẩu... phanh thây. (*)
Hay là qúy vị: cao thủ, cao kiến, cao lâm, cao niên, niên trưởng, niên …khóa, niên giám, thái giám, thái sư, thái thượng hoàng… chi chi đó… khi nào đi qua Miên xin nhớ nhắc dùm tôi mua cao hổ cốt và ăn đường thốt nốt… (Xin quý vị tha lỗi cho “tôi điên thật” ăn nói ba xàm ba láp tầm bậy tầm bạ, chỉ vì “ con mụ vợ” ni rùi!). Tôi ước mong qúy vị siêng… ghé viếng thăm người khùng khùng điên điên như Tony tôi, xin vui lòng nhỏ giọt nước mắt xót xa… khích lệ khuyên nhũ Tony tôi nên làm gì… làm gì… (với “con vợ”) bây giờ??? Hay là cho tôi “cùi vì vợ” cho bỏ ghét cái tật ngu?) Hỡi Trời!
Và… và… và… Còn một điều nầy nữa… mặc dù Tony tôi đã ghi nhớ những độc chiêu là: những câu Thơ rất quý giá trên; tôi không còn trí óc để nhớ hết các tác giả thần tượng siêu sao kia; (*) những câu thơ đã ghi trong nầy, về VỢ rất trứ danh. Ai là tác giả… ai là ai… mà quá tuyệt vời đến thế không biết. Bội phục! Vậy, nhân đây “Năm Tony tôi” mong quý thi sĩ bỏ lỗi cho tôi về vụ “chôm chĩa” sưu tầm Thơ của quý vị nhá.
Và, Năm Tony mạn phép chêm những câu thơ nầy vào “gia phả nhà họ Cú” của Năm Tony; đồng thời xin hết lòng cảm ơn quý thi sĩ và xin tạt dạ ghi ơn.

_ * * * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
02-07-2010, 12:40 PM
:rose:




- Tháng 4 năm 1949 có một hội-nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ thuộc địa, (do Pháp cai trị ở nước Việt Nam).
- Tháng 5 năm 1950 quốc hội Pháp thông qua dự luật: Cho phép hình thành một đội quân Việt Nam. Thế nên bước khởi đầu có một số trường quân đội ra đời. Trong đó có Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Huế đã chính thức thành lập năm 1948.
- Sau ngày 20-07-1954 khi hiệp định đình chiến ký kết tại Genève, Thụy Sĩ; thì Trường Sĩ Quan Việt Nam ở Huế đã được chuyển dời lên Đà Lạt. Và, sát nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp.
- Ngôi trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp ấy, nay đương nhiên phải trao trả lại cho Việt Nam. Đất và Trường rộng mênh mông tọa lạc giữa giáp vùng khu ấp Chi Lăng và khu Thái Phiên. Đầu tiên ngôi trường nầy lấy tên là: Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt. Sau nầy trường chính thức đổi tên trường lại là: Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt.
Muốn gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, thanh niên phải có:
- Học lực tú tài.
- Có sức khỏe tốt, tráng kiện (hầu theo học chương trình huấn luyện của trường Võ Bị Đà Lạt).
- Ban đầu thì sinh viên thụ huấn hai năm. (Sau nầy trường Võ Bị Đà Lạt đã tăng thời gian cho sinh viên Sĩ Quan thụ huấn lên bốn năm học).
Bao gồm các bộ môn học như: Văn Học. Quân Sự. Thể Chất.
Gần cổng trường là doanh trại sinh viên, khu Văn Học, khu Bộ Chỉ Huy... Cổng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam còn có tên là cổng "Nam Quan", nơi nầy luôn náo nhiệt trong những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày hội, ngày lễ. Tại Cổng Nam Quan trở nên vui vẻ náo nhiệt như ngày hội lớn, hân hoan tưng bừng với bao tà áo dài tha thướt e ấp tung bay trong gió lộng.
Thỉnh thoảng ở phòng trực trong trường gọi tên sinh viên Sĩ Quan, được phát ra từ loa phóng thanh vang vang lên, thì sinh viên Sĩ Quan nào có tên, hớn hở vui vẻ rảo bước ra Cổng Nam Quan: Đấy là nơi "gặp gỡ của tình thương".
Khu doanh trại Sinh Viên ở gồm: bốn dãy ba-ti-măng có ba tầng lầu. Mỗi ba-ti-măng có hai đại đội sinh viên Sĩ Quan cư trú. Hai bên nầy là sân cỏ của Trung Ðoàn. Gần dưới thung lũng là khu vườn luôn luôn đầy hoa và cây cối xanh tươi, do sinh viên chung góp công sức làm nên, tạo thành một khu vui tươi trông thật ngoạn mục.
Chương trình sinh viên Sĩ Quan học gắt gao, rất nặng, ấn định có quy củ rõ ràng. Mỗi ngày, sau giờ học đầy căng thẳng trí óc; và sau bữa cơm chiều, là sinh viên có hai giờ: > từ 6 giờ tối đến > 8 giờ tối, thì sinh viên Sĩ Quan tự do đi những nơi giải trí tùy thích như:
- Bên trái là Hội Quán Sinh Viên có nhiều sofa và bàn ghế tươm tất, để cho mọi người ngồi với nhau thoải mái hàn huyên tâm sự; nghe nhạc sống do ban văn nghệ sinh viên Sĩ Quan đảm nhận, hay tập dượt văn nghệ.
- Hoặc giả sinh viên Sĩ Quan vào Thư Viện đọc sách. Hay sinh viên đi Câu Lạc Bộ ăn uống. Nhóm sinh viên khác đến Hội Quán thụt bi-da, uống cà-phê. Có người đi tới sân sau để chơi bóng rổ, bóng chuyền bóng tròn, bóng bàn, vân vân…
Sau đó là giờ tự học. Tiếng kèn 10 giờ đêm là giờ báo đi ngủ. Một số sinh viên khác lo chuẩn bị đi gác. Trường có tám đại đội sẽ luân phiên nhau để đi gác mỗi đêm.
Khi các sinh viên Sĩ Quan đi chinh phục đỉnh Lâm Viên về trường; là ngày lễ gắn Alpha cho tân khóa sinh. Các Sinh Viên Cán Bộ đến tại phòng của tân khóa sinh để trao: mũ cát kết, đai lưng màu đỏ, thắt lưng đại lễ, đôi găng tay trắng. “Tân sinh viên Sĩ Quan” sẽ đọc lời hứa:
- Tôn trọng lá cờ của Trung Ðoàn sinh viên Sĩ Quan. Bảo vệ danh dự cuả Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam: "Tổ Quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm";
thì khoá sinh ấy mới được chấp nhận đúng là sinh viên Sĩ Quan của Trường Võ Bị Đà Lạt.
* * *

Hôm nay là ngày tất niên. Tôi cùng Vân, Lan, Tâm, bao chiếc taxi chạy thẳng vào ngoài cổng Nam Quan của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt - Việt Nam, thăm bạn thân. Đúng lúc đó, tôi gặp Oanh cùng Biên. Hồng cặp tay Đáo. Thúy Mai và Tiến Tấn ở Phạn Xá, (còn gọi là nhà ăn). Chúng tôi hân hoan khôn xiết, nói cười tíu tít biết bao chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Chưa dứt câu nầy, bạn đã hỏi câu kia dồn dập. Oanh chỉ vào bạn trai của cô:
- Oanh đã hứa hôn với Biên rồi.
- Hồng sắp làm đám cưới với Đáo.
- Cả Oanh và Thuận nữa. Ôi thật là vui quá vui.
Oanh mở miệng:
- Nầy, Ngân Thụy thì sao?
Tôi cười buồn:
- Oanh có bao giờ ghé qua ngỏ nhà thăm tui đâu, mà biết hỉ!
- Xin lỗi nha. Tại Biên hết đó.
- Thì phải mà. Có bồ, hổng đi đâu là đúng. Thụy chúc các anh chị sớm thành đạt trong tất cả ý nguyện. Nghe.
Họ cười tươi cám ơn tôi với hạnh phúc hân hoan ùa về. Tôi đến điểm hẹn hò với Cảnh. Chàng nở nụ cười hồng rõ tươi, hớn hở đón tôi nồng nhiệt lắm. Trên khuôn mặt, qua ánh mắt Cảnh hiện rõ sự mãn nguyện, khi chàng giới thiệu tôi với bạn cùng khóa. Cảnh hãnh diện vì có bạn gái xinh tươi, hồn nhiên mộc mạc, duyên dáng không thua những bông hồng biết nói khác trong đêm hội tưng bừng nầy.
Cảnh nhẹ nhàng nắm bàn tay tôi nóng hổi, tôi run run như con chim gãy cánh. Nửa ngập ngừng chịu siết tay chàng, nửa tôi toan muốn rút tay về. Đây là cái nắm tay thân tình đầu tiên, từ khi chúng tôi quen biết nhau. Cảnh tinh ý nhìn thấy sự vô cớ dằng co và trầm mặc nơi tôi, chàng cố tìm hiểu nguyên nhân vì sao có sự thay đổi kia.
Nhưng, tôi sẽ không kể cho Cảnh nghe, (kể cả những người thân yêu ruột thịt), về nỗi buồn đau vô hạn. Dù tôi rất muốn ngỏ lời tâm sự với ai đó, hầu vơi đi nỗi niềm dày vò, cay đắng ấy đang bóp thắt trái tim tôi. Sung sướng xiết bao, nếu tôi có thể viết lên trời tất cả suy tư của mình, mà có người khác đọc và thông cảm nhỉ!
Còn ít ra trong giai đoạn ngắn ngủi nầy, Cảnh là người xứng đáng nắm bàn tay tôi đang run rẩy (vì giá rét?!). Chàng có hiểu phần nào về tâm tư, nguyện vọng, tình yêu của tôi? Chàng có thể lấp được khoảng trống ráo hoảnh trong tâm hồn rét mướt, mà tôi hằng ngất ngây mong đợi cùng "ai đó" xe mộng tương phùng chăng?
Dọc hai bên đường dẫn lối vào chính điện, những sinh viên Sĩ Quan ứng chiến đứng gác rải rác dưới những chòm cây thông cao ngất và tối đen. Họ đội mũ lưỡi trai, mặc áo jacket, quần treillis xanh lá cây sậm, áo quần hồ ủi thẳng nếp, giày đinh cao cổ ôm hai ống quần thon gọn.
Trên sân, những sinh viên Sĩ Quan thân hình thẳng tắp, mặc quân phục dạ hội mùa đông, nổi bậc găn tay trắng nõn, gù vai màu đỏ, dây biểu chương màu vàng nghệ, súng dài bồng lên tay, đôi khi tạo ra âm thanh do sắt thép khua vào nhau, nghe rập ràng và chuẩn xác. Súng lại được vài phen kêu lên đều đặn, rập khuôn lúc bắt chào, khi nào có những qúy khách đi vào khu đại lễ.
Đến giờ khai mạc đại hội, thì buổi lễ long trọng được diễn ra tuần tự từng nghi thức bắt đầu và thủ tục cuối đã xong. Trước mặt các khán đài đang trình diễn các phân binh chủng: Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến. Biệt Động Quân. Thiết Giáp. Pháo Binh, diễn hành các xe hoa, vân vân… Những hàng ghế ở khu khán đài B kêu răn rắc, suýt gãy dưới sức nặng của khách ngồi xem mê mãi. Giàn quân nhạc sống vang lên rộn ràng làm huyên náo góc trời u tịch và giá rét.
Tiếng hợp xướng, tiếng đơn ca, đồng ca, làm cho người đứng tuổi nghĩ nhiều về mình, đồng thời hồi tưởng lại quá khứ oanh liệt vàng son một thuở. Làm cho người vào độ tuổi tráng niên tạm lãng quên phiền nhọc, bực bội, lo toan, để ôn tồn thoải mái, vui vẻ hoà đồng với đám thanh niên trẻ trung tuấn tú, phong lưu hào hoa trong ngày hội lớn.
Một số sĩ quan lão luyện tay bắt mặt mừng chào hỏi nhau, họ ung dung đi rải rác từng điểm hội, tuổi tác họ khác nhau. Đa số đàn ông có khuôn mặt đượm phong trần, sương khuya gió chiều khiến mái tóc lấm tấm muối tiêu và thân thể càng rắn rỏi. Họ mặc quân phục đại lễ mùa đông trông càng khác nhau, lịch lãm oai hùng, phong độ theo mỗi dáng kiểu của từng binh chủng riêng. Có những bộ râu quai hàm, râu mép, kính trắng đạo mạo, tô điểm cho vầng trán cao, khuôn mặt thêm phần trí thức và trang trọng. Miệng nhiều ông ngậm thuốc lá thơm, xì gà, hay ống điếu.
Đó là những cấp lãnh đạo, những cấp chỉ huy, có đôi mắt sắc sảo tinh tường, họ giàu kinh nghiệm, bản lĩnh để hướng dẫn thuộc quyền. Kiễu dáng họ ung dung thư thả pha chút cao ngạo, đôi khi vướng một chút bình dị, để hoà đồng vào cuộc vui chung. Họ cũng biệt lập về kinh nghiệm chiến trường, và cách điều binh khiển tướng khi xung trận.
Bên cạnh họ là những người thân, các mệnh phụ phu nhân, cùng phụ huynh của sinh viên Sĩ Quan. Nhìn chung quan khách chưng diện cao sang, thanh lịch qua nhiều kiểu cách hợp thời khác nhau.
Thỉnh thoảng vọt lên trời những ngọn pháo bông đủ màu sắc rực rỡ, đủ hình thể khác nhau. Trông rất đẹp khi có mục biểu diễn nhảy dù tiếp theo. Bao cánh dù hoa bung nở, đủ màu bay lơ lửng trên không trung, lủng lẳng nhiều anh chàng Nhảy Dù bay bướm, trông quá tuyệt vời trên cao tít lưng trời bàng bạc hơi sương, và gió rét căm căm cùng tiếng thông reo rì rào vi vu thoảng lại.
Không Quân Việt Nam Cộng Hòa biểu diễn những đường bay quá điệu nghệ với dáng vẽ oai dũng riêng: Bay solo, bay ba, bay năm… bay vòng cung, bay vút lên và bay lộn ngược đầu… Ôi! Đủ thứ đường bay oai dũng mà lả lướt, kèm những làn khói đủ màu vẽ những hình ảnh lạ mắt, kéo dài sau đuôi tàu bay, rồi tỏa rộng trong bầu trời lấp lánh ánh sao. Trông thật vô cùng hứng khởi, duyên dáng và ngoạn mục hết biết.
Mọi người ngẩng đầu nhìn lên trời cao, mắt họ mở lớn, miệng xuýt xoa trầm trồ, vui vẻ khen ngợi. Bỗng một tiếng nổ giòn tan xé màn đêm, nghe như tiếng súng cối bắn đi đâu đó. Hay như tiếng lọ thủy tinh gián mạnh xuống nền gạch. Khiến tôi giật nẫy người, nép sát vào lòng Cảnh. Chàng nhìn quanh cũng thảng thốt giây lát, vòng tay Cảnh vội ôm qua thân thể tôi lúc nào, không nhớ.
Mọi người đứng lên đồng loạt vỗ tay và la to:
- Ố!
- Ấy dá dà…
- Tuyệt vời quá!
Họ cười vang, có nhiều tiếng hét to:
- Giao thừa.
- Tiễn biệt năm cũ, chào mừng năm mới.
- Chúc mừng năm mới.
- Mừng xuân đến.
- Tết Nguyên Đán đến rồi.
- Happy new year.
Giờ phút linh thiêng nầy thật trang nghiêm, trân trọng. Họ nhìn lên bầu trời sáng rực pháo bông đủ mọi màu sắc và hình dáng. Ồ! Thì ra bây giờ đúng là giờ giao thừa: Súng lớn bắn đi để đón chào dáng xuân hồng thắm ngự trên vạn vật. Chỉ có rứa, mà cũng khiến tôi giật mình mất hồn mất vía, run rẩy!
Mươi phút sau bắt đầu thủ tục khai hội dạ tiệc trong những đại sãnh sang trọng. Những thức ăn bốc khói nóng sốt thơm ngon. Chuyện trò râm rang khắp nơi. Đêm dạ vũ tưng bừng và long trọng đã khai mạc. Họ khoản đãi mọi người đến dự tiệc tất niên "tống cựu nghinh tân". Vui vẻ náo nhiệt tưng bừng biết chừng nào.
Chúng tôi dìu nhau đi trong đêm giao thừa rộn ràng những tiếng pháo nổ rền vang khắp mọi nơi. Người người hứng khởi đón chào năm mới vui ơi là vui quá chừng chừng. Lòng tôi vui thích, say say theo cung đàn yêu thương, ngất ngây với nổi ngọt ngào lâng lâng từ đâu ập đến. Một giao thừa tuyệt vời nhất đời mình.
Chúng tôi dìu nhau đi thật chậm giữa khuya muôn trùng, bên tai tôi tiếng pháo rộn rã nghinh xuân tưng bừng. Lòng tôi cảm thấy bình yên vui vẻ kỳ lạ, khi bước chân hai người líu ríu đặt lên từng bậc cấp để vào nhà. Trước thềm năm mới, Cảnh êm đềm trao tặng tôi nụ hôn phớt nhẹ trên mái tóc nồng ấm hương xuân đầu năm.
Tôi cảm thấy hạnh phúc len lén nhè nhẹ và lâng lâng đến trong chân tơ kẽ tóc và trong đời sống riêng mình. Tình cảm ấy tuy nhẹ nhàng đơn sơ, mà trĩu nặng ân tình trìu mến, vẫy gọi nhau thiết tha biết mấy. Niềm vui thật ngọt ngào và trong sáng, cùng sự liên đới kỳ diệu của Trời giao hoà tuyệt vời với Đất gợi tình. Giữa muôn hoa ngát hương, cỏ cây hoa lá đâm chồi nẩy lộc giữa thiên nhiên cẩm tú.
Đà Lạt thoáng mát thi vị nên thơ, tuyệt diệu ươm mộng xuân tình từ trên đỉnh Lâm Viên, êm đềm rót xuống lòng thế nhân niềm vui chất ngất xiết bao!

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
02-17-2010, 05:06 PM
:icon_guitarist:

Con Thuyền Hoa Xuân

(Mùa xuân về, xin cung-hiến độc giả thân mến chuyện Tết vui có thật.
Một cảm tình trân qúy, đã xảy ra trong đời tôi.
Kính gửi món quà đầu xuân đến HQPD rất thân mến...)
Ái Ưu Du
***





Nền trời phơn phớt xanh lơ, điểm những lọn mây vàng xám, ươm hồng, lơ lững trôi về nơi vô định. Xa xa xuất hiện đàn chim én, bay qua kẽ mây trôi từ phương Bắc về. Tiết trời giá lạnh, run rẩy, đang yên ắng lạ thường. Bỗng nhiên, tiếng đàn, tiếng trống, vọng ra từ căn nhà xinh xinh bên sườn dốc do ban nhạc đánh rất hay, ngón đàn điêu luyện, chơi vơi trong bầu trời đẫm sương mù, vươn lên đỉnh thông rồi lặng lẽ tan đi trong ráng chiều dần dần phai nắng.
Vào giờ phân giới giữa ánh rạng rỡ của ngày đầu năm, và bóng tối xuân về, thốt nhiên Anh Thư cảm thấy ngập tràn niềm vui, như cỡi trên con thuyền hoa hạnh phúc bất tận:
Bấy lâu em còn nghi còn ngại
Bữa nay em kêu đại bằng “mình”
Phụ mẫu hay được, không lẽ đánh mình giết em! (cd)
Do bởi... í a ... là cái ông Tơ bà Nguyệt mà ra cả, cũng tại... từ hồi xửa hồi xưa kia cà: Thuở đó chàng Vi Cố ngọan cảnh đêm trăng, thì gặp ông Nguyệt Lão râu tóc bạc phơ đang mân mê mớ chỉ hồng, mà ngồi trước tòa cổ miếu trầm ngâm suy tư. Chàng Vi Cố khẩn khỏan hỏi thăm ông Lão Nguyệt người vợ sau nầy là ai. Thì được biết vợ của chàng sau nầy là một cô bé bán rau nghèo khổ. Quả thật đúng y bon thật như vậy: Rằng thì là ...cũng do từ đấy mà ra, nên Anh Thư đã dám bạo gan bạo phổi:
Ai về bà Điểm Hóc Môn
Hỏi thăm người ấy có còn hay không?
Để tôi kiếm sợi chỉ hồng.
Nhờ ông Tơ bà Nguyệt kết vợ chồng đôi ta. (cd)
Giờ đây chúng mình mới “có chuyện” vui... cũng phải thôi:
Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng
Tơ tằm đã vấn thì vương
Đã trót dang díu thì thương nhau cùng. (cd)
Họ đã quyết chí hẹn thề với nhau:
Anh đừng thấy “đăng” mà phụ “đó”
Đừng chê em nghèo khó mà vội phụ phàng
Anh coi đồng tiền sớm mai còn chiều mất
Chớ nhân nghĩa bạn vàng vững chắc thiên kim (cd)
Thế nên ngày mai chính thức hai Họ làm đám cưới cho Anh Thư và Bửu Bảo mà!

* * *

Anh Thư là con gái đầu lòng, ba me cô tuy gốc gác miền Trung, nhưng họ rời quê hương khá lâu, gia đình lên Đà Lạt làm việc với Pháp, nên mọi việc từ trong ra ngoài, họ lo cho con gái chu tất, toàn vẹn theo lối phương Tây.
Bảo, con trưởng nam dòng họ vương tôn, giàu có và thanh lịch. Gia đình đôi bên, có đủ yếu tố xây dựng gia thất cho con, để dòng họ thêm hoan hỉ nở mày, nở mặt.
Ngoài kia, họ nhà gái đang huyên náo lạ thường, đàn ca, nhạc sống, vui vẻ hết biết. Suốt đêm Anh Thư không dám nằm ngủ, cô sợ xẹp mái tóc đánh rối bới cao, sẽ bù xù, mất thẩm mỹ đi. Mấy phù dâu xúm lại trang điểm cho nàng, vì nước da của Anh Thư ngăm ngăm đen, ai ai cũng nói nàng có làn da như vậy thì có duyên. Nhưng nàng bực tức khi có bạn đã chế nhạo:
“Chưa đi chưa biết Bà Đen,
Đi rồi mới thấy đen hơn bà nhà,
Bà nhà tuy có hơi già.
Nhưng mà vẫn... trắng hơn là Bà Đen”!
Nàng càng bực mình vì đôi giày cao gót, cô chọn nhầm, da giày cứng, dày như da voi, cô vừa mang đi lui đi tới mấy vòng, thì gót giày tàn nhẫn “xơi tái” mấy miếng da chân, rát bỏng, đau điếng. Mỗi lần cử động, nó đau lên thấu tim, dù Anh Thư se sẽ lê tấm thân phì lũ, đi nhè nhẹ, cà nhắc, cà nhót.
Chín giờ sáng! Nhà trai đã có mặt trước sân hồng. Hai gánh đi đầu là cặp ngỗng trắng nhốt trong lồng mây, nó luôn hoác mỏ, khàn khàn, kêu khọt khẹt kêu réo. Tiếp theo là con heo mọi mập ú, ụt ịt quay lui quay tới trong cái cũi sơn đỏ, cột nơ hồng. Gánh thứ ba là vò rượu cẩm chôn bách nhật xủi tăm. Tiếp theo là tám khay mâm quả, phủ nhiễu đỏ, viền tua vàng, do những chàng trai mặc áo xanh đỏ, đội nón lá mười vành, khệ nệ trang-trọng bưng.
Hai bên có những người đồng cổ phục, cầm cán lọng dài màu vàng che nắng. Chàng rể mặc áo dài thụng màu xanh biển, chữ Phước, đầu chít khăn đóng, quần dạ trắng, mang giày thô đen. Còn cho chú tiểu-đồng-hầu xách theo bộ đồ “tuxedo” nữa. Chàng rể đi trước giữa hàng thân quyến cùng quý ông bà, mệnh phụ phu nhân, bạn bè, bà con gia tộc đi sau lưng.
Hai người bên họ nhà trai bưng khay trầu rượu vào trước sân hồng, ra mắt quan viên hai họ, xin họ nhà gái cho nhập gia tùy tục. Thế là đại diện họ nhà gái đứng trên thềm hoa, vui vẻ nhận lời. Mọi người hoan hỉ trang trọng lục tục kéo nhau vào phòng nghinh tân. Ông mai bà mối nói năng lưu loát, nên vui vẻ cả làng. Các mâm sính lễ đặt trên chiếc bàn dài, cặp ngỗng và “chú hợi” để dưới sân, gần cửa chính. Ui! Ngày xưa muốn cưới hỏi, phải có đủ 6 lễ vật:
Lễ thái nạp. (đính ước giữa trai gái).
Lễ vấn danh: (hỏi tên tuổi cô gái).
Lễ nạp cát: (nhà trai trả lời bằng lòng).
Lễ nạp lệ: (ăn hỏi).
Lễ thinh ký: (lễ xin cưới).
Lễ than nghinh: (Lễ cưới).
Bi chừ thì giản dị thuận tiện đi nhiều chớ. Nghi thức diễn tiến tốt đẹp, đến lúc Anh Thư hồi hộp, rụt rè, được bà me vén bức màn nhung, dìu con ra phòng nghinh-tân. Trong lòng nàng lo sợ ngổn ngang trăm mối, giờ phút chót nàng vẫn lo sợ nhà chồng chê “mình ú na ú nần”, nên nàng đã rỉ tai:
“Lấy vợ xin anh lấy vợ ù.
Tay em đầy đặn, tối em ru.
Kê đầu anh ngủ êm hơn gối.
Mộng đẹp, hiên ngoài gió vi vu”.
Bỗng chốc có vài mệnh phụ đài các, chụm đầu xì xào, chỉ chỏ bộ cánh “xê-rê” trắng trắng, có tấm voan mỏng che mặt, đuôi áo dài lê thê sau gót cô dâu, găng tay trắng dài lên tới cánh, cô dâu đội vương miện lóng lánh kiễu nữ hoàng Anh. Có người bên nhà trai nói trổng:
- Y như con ma da chết trôi. Thấy gớm ghiết ớn lạnh hè. Thiệt là:
Nhà gái tái mặt, vội cười xuề xòa:
- Đồ trắng, tượng trưng cho sự trinh bạch mà.
- Ngày cưới xin, ăn nói chi bậy bạ quá!
- Ui xà! “Ở có nhân, mười phân chẳng khốn. Ở có đức, mặc sức mà ăn”.
- Miệng mồm ăn mắm ăn muối.
- “Chỉ đâu mà buộc ngang trời. Tay đâu mà bịt miệng người thế gian”.
Họ đã xầm xì to nhỏ:
- Để rồi chị em dòm coi nghe: Cái thứ nớ rồi không trước thì sau sẽ giống như:
Ba bà đi chợ với nhau:
Một bà đi trước kể chuyện nàng dâu.
Một bà đi sau tu tu lên khóc:
- Nhà bà có phước lầy được dâu hiền.
Nhà tôi vô duyên lấy phải dâu dại.
Việc làm thì trái chỉ tưởng miếng ăn.
Hễ bảo quét sân đánh chết ba gà.
Bảo đi quét nhà đánh chết ba chó.
Có mâm giỗ họ miếng ra miếng vào.
Rửa bát cầu ao liếm dĩa quèn quẹt. (cd)
* * *

Hai họ lời qua tiếng lại thật khổ hết biết! Khổ nhất là ông Tơ bà Nguyệt, hết ông Tơ cứ lo chạy qua bên nầy, thì bà Nguyệt lại chạy lăn xăn về bên kia, năn nỉ ỉ ôi. Hai họ mích lòng nhau, thấy sợ, trong khi pháo nổ rền trời.
Tôi đi phù dâu sợ cháy áo quần, nên vén váy áo ngồi thụp xuống nền nhà, bưng hai tai. Khi nghe nhiều tiếng kêu rú thất thanh vang lên, tôi đứng phắt dậy, ngơ ngác nhìn quanh:
Hai con ngỗng nghe pháo nổ đì đùng, chúng hoảng sợ, tống cửa lồng, một con bay lên bàn, đạp đỗ bình hoa, lễ vật, ly tách, bánh rượu, trái cây. Khi người đàn ông túm bắt được, vặn ngược cổ nó lui sau lưng, thì trên bàn không còn gì ráo. Con ngỗng kia nhướng cổ, quạt cánh rượt theo mấy khuê nữ đài các, khiến mọi người xô đẩy, đạp lên nhau mà né chạy. Con heo mọi ụt ịt càng hoảng sợ, nó hất chiếc cũi ngã ngửa ra, hét tướng lên, kêu eng éc, rồi nó cạp nắp đậy, nó sổng cũi, vừa chạy vừa ị ra từng cục lung tung.
Hầu hết mọi người sửng sốt, ngây người, chết trân, ngơ ngác nhìn trước cảnh tượng khá bất ngờ. Nhưng người đau khổ nhất là Anh Thư. Cô đứng chịu trận hơn một giờ, do những thủ tục nhập-gia rườm rà, nên đôi chân Anh Thư càng lúc càng sưng húp, vì những vết thương cọ xát vào đôi giày mới, mạch máu giật tưng tưng từng cơn. Cô mệt đừ, mồ hôi vã ra như tắm, mặt mày tróc dần phấn son, trông cô lem luốc, da cô trổ đồi mồi như con mèo vá. Tự dưng bụng đói cồn cào, cô hoa mắt, chóng mặt, và lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Hai cô phù dâu hoảng hốt, luống cuống vội vàng nâng Anh Thư dậy, Trầm Mây và tôi đều gầy ốm, so với “Thư tán phẩm”, chúng tôi vẫn cố sức làm tròn nghĩa vụ phù dâu. Mỗi người kéo một cánh tay của Anh Thư, quặc vào cổ mình, kẹp cô ở giữa, chúng tôi ra sức kéo lôi Anh Thư xềnh xệch đi vào “the-phòng”. Các bạn gái không ngớt xoa dầu cho Anh Thư, cạo gió, giật tóc mai.
Dần dà thì Anh Thư cũng hồi tỉnh lại. Thật uổng công mái tóc “búp Ănglê” mà Anh Thư sợ hư, cô đã ngủ ngồi suốt đêm, giờ đây bù xù như tổ quạ.
Anh Thư vội bảo Hoa ra phòng khách lấy hộ hộp quần áo sính hôn vào, vì giờ đi lễ sắp đến. Các bạn gái, mỗi người một tay, xúm lại lo chải chuốt, trang điểm cho Anh Thư. Ba me của cô muốn Anh Thư diện bộ cánh thời trang “xê rê” lộng lẫy nhất. Mặc! Về nhà chồng, cô cần lấy lòng bên họ nhà chồng đã may áo quần cho cô dâu chứ. “Thuyền theo lái, gái theo chồng. Chồng đi hang rắn, hang rồng, vợ cũng phải theo” mà!
Lễ vật nhà trai sang trọng lắm. Nào là vòng xuyến, dây chuyền, bông tai, nhẫn, toàn nhận kim cương, còn kiềng chạm, dây chuyền trên năm lượng vàng y 24k. (không kể quà bà con chú bác). Anh Thư đội khăn đóng vành dây đỏ mạ vàng, cao chín tầng quá rộng nên nó sụp xuống mắt, thỉnh thoảng Anh Thư phải lấy tay đẩy cái khăn “hoàng hậu” lên.
Vì mạ của chàng không ngờ bây giờ cô dâu có ốm hơn ngày mạ đi lên Đà Lạt làm đám hỏi cô. Anh Thư lo chuyện cưới hỏi, nên ngày nay cô đã sút mất mươi cân! Áo quần mạ may từ ba bốn tháng trước, rộng thùng thình! Cô mặc áo dài nhung đỏ, may tà Bắc, quần sa tanh trắng “rô-đê” dưới gấu, khoát ngự uyển bên ngoài. Chuyện áo quần rộng không thành vấn đề, cô chỉ buồn buồn khi đội khăn đóng và mang đôi hài đỏ.
Hồi ấy, Bảo viết số đo chân của Anh Thư, chàng gửi về cho mạ, để mạ chàng đi đặt đôi hài cườm thêu hai con rồng vàng uốn khúc, mạ thích tự ý diện cho con dâu mà! Mạ nói:
- Viết cái chi mà lem dem ri hè? Viết không rõ ràng nơi, con số 40 hay 46 hỉ? À... con dâu mình có da, có thịt, phúc hậu rứa, ta cứ đặt cho con số 46 hỉ! Số lớn số nhỏ chi, cũng bằng từng nớ tiền. Chi bằng, mình cứ đóng số lớn xí, thì rẻ, cho tiệm giày hắn lỗ luôn.
Thành thử đôi hài rộng rinh, ẻo qua, ẻo lại, khó khăn lắm khi Anh Thư cất bước đi. Tuy được một điều, là đôi hài không cứa được mấy vết thương rát bỏng dưới gót chân kia.
Mọi xáo trộn rồi cũng dần qua. Thay vì cho đám rước đi bộ trên đoạn đường ngắn, để thiên hạ tha hồ ngắm nhìn đoàn người hộ tống cô dâu che tán vàng, tán tía như cha mạ chú rể dự tính; Mạ chồng sợ cô dâu lăng đùng ra lần nữa, thì nguy to. Nên cha mạ, họ nhà trai đồng ý gấp với họ nhà gái, là cùng nhau leo lên những chiếc xe hoa, nối đuôi chạy dài dài đến giáo đường.
Dưới những chòm thông xanh reo vi vu, giáo đường Chính Tòa màu gạch viền trắng uy nghi, sừng sững, tọa lạc trên vùng đất phóng khoáng, tháp chuông cao vút, có hình con gà vươn lên trời xanh mênh mông.
Đi trên mặt bằng, thì Anh Thư còn có thể kéo lê “đôi hia một dặm” lết theo bàn chân, cô cố dí sát mấy ngón chân vào đầu mũi hia, và cô dồn toàn lực bấm mười đầu ngón chân giữ lại. Nhưng, khi cô muốn giở đôi chân để bước lên những bậc cấp cao, thì “lực bất tòng tâm”, mười đầu ngón chân Anh Thư mỏi mệt, ương ngạnh xuội lơ, nó không tuân phục theo ý cô. Thế là chiếc hài rời chân, rơi lông lốc xuống cuối những bậc cấp.
Trầm Mây vội vàng xắn quần áo đẹp, chạy xuống để nhặt “hia” lên. Xỏ được chiếc nầy, thì chiếc khác lăn đi. Anh Thư cúi đầu xuống nhìn mà xỏ chân vào hia, báo hại chiếc khăn đóng rộng vành, đã che sụp xuống tận mũi. Không thấy đường, cô dâu đạp phải vạt áo dài lết bết trên bậc cấp. Áo dài Anh Thư đứt hàng khuy nút bóp để lòi vú mớm ra. Cô dâu vội vàng quơ tay kéo ngự uyển đậy lại.
Trong lúc mắc cỡ muốn độn thổ, tôi lúng túng lo cho bạn, đã hụt chân trên bậc cấp. Thế là tôi ôm bạn té lăn xuống, đủ hai vòng. Chu choa ơi! Bộ giò cô dâu bị trặc mất toi rồi! Hai phù dâu lại một phen nữa, mệt toát mồ hôi hột, cùng xốc nách Anh Thư, chúng tôi quàng cánh tay của Anh Thư, vắt qua cổ mình, hô to một hai ba để lôi Anh Thư lên bậc cấp, cho chắc ăn. Mặt mày cô dâu, chú rể đỏ bừng, như con gà lôi, chuyển sang tái méc. Mà người tiếp nhận tái méc nhanh nhất, là mạ chồng!
Hai họ đứng chết trân, thừ người như tê liệt, họ kinh ngạc há hốc miệng. Bỗng chốc, mọi người đồng loạt cất tiếng cười ngất. Họ quên lửng “bộ đồ vía” gây ra nông nỗi tệ hại kia, là do họ cất công đi mua sắm. Lúc nầy, hai cô phù dâu quá mệt, không còn hơi sức đâu mà cười. Cười cái gì? mà buồn cười nhỉ!
Vào an tọa trong nhà thờ, nhưng ai ai cũng lo ra, nên thỉnh thoảng nhiều tiếng cười khúc khích, lao xao nổi lên đây đó. Khiến cha chủ tế người Pháp, đứng trên bục giảng ngạc nhiên, ngài ung dung nhìn mọi người, từ tốn mở lời:
- Hôm nay, "dứng" trước quý ông bà, anh chị em, và cô "dau" chú rể, tôi xin "cào" chúc anh chị trăm năm "hạn phút", răng "lông" tóc bạc suốt đời. Hãy nhìn xem: Trên bàn thờ, có hoa mai, hoa lan, “hoa hệ và hoa cứt”...
Nhiều tiếng cười đồng loạt bung vỡ, vang dậy khắp đó đây. Ngài ngạc nhiên, sững sốt nhìn xuống khắp lượt trong nhà thờ. Rất vô tư, ngài dõng dạc tiếp:
- Anh chị em "cưới" cái gì vậy? Có muốn "cưới nhau", thìxin hãy ra ngoài sân mà cưới. Ở trong nhà thờ nầy, thì chỉ làm "lễ cười". Mà "Lễ cười", thì có gì mà "cưới" chứ?!
Ụi! Trời đất quỷ thần thiên địa tổ tông ông bà cô bác ơi! Cả nhà thờ ai ai cũng ôm bụng bò lăn bò càng cười vang. Cười thật to. Cười ngất. Cười ra nước mắt. Chịu không thấu. Cái điệu nầy chắc mọi người bị bễ bụng mà chết quá!
Rất may, có một vị trung niên bước lên bục giảng, ông chúm chím cười cười duyên ơi là duyên. Ông ta dùng tiếng Pháp để xin lỗi cha. Ông giải thích về việc ngài phát âm hơi lệch lạc, nên từ ngữ bị sai sót chi chi đó.
Á, thì ra...! Khi hiểu nguyên nghĩa, ngài không ngớt xin lỗi, và đã cười vui vẻ thoải mái quá chừng chừng! Phải hơn mươi phút sau thì thánh lễ mới bắt đầu trong sự “lo ra”.
Sau giờ lễ, hai hàng xe hơi dài chạy lên sát cửa nhà thờ chính tòa, chứ xe không đậu ở giữa sân, dưới những bậc tam cấp như hồi nãy. Tất cả mọi người mệt đừ, vì kiệt sức hay vì cười ngất? Chả biết nữa. Hai họ nhà gái, nhà trai, quên chuyện giận hờn xoi tì xoi tướng nhau, họ đã thân mật xiết bao, ôn nhu hoà ái vui vẻ cả làng.
Thượng khách ngồi vào bàn, nhâm nhi sơn hào hải vị: Nấm đông cô, tóc tiên, mực khô, bát trân, bào ngư, vi cá, yến xào, đùi heo, tôm hùm, do đầu bếp số một, bên Thượng Hải đảm nhận. Họ nâng ly chúc tụng nhau vui vẻ, nét mặt cường diệu, hân hoan. Bác phó nhòm Châu, thừa thắng xông lên, tha hồ chụp ảnh... lia chia!
Đã bốn mươi năm rồi đó, Trầm Mây và Anh Thư nhỉ! Mặc dù chúng ta ít có cơ may gặp lại nhau; Nhưng, mỗi lần mở tập album ra, trong lòng Hương tôi dậy lên ngọn sóng dạt dào tình luyến nhớ, hoài mong, ngây ngất nỗi khát khao tìm về thời niên thiếu xa mờ xa, đã vụt bay cao trong tầm tay với, khi tuổi đời đã nhuộm vàng hanh mái tóc phong sương, trên dòng đời phai nắng...

_ * _


Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
03-05-2010, 05:12 PM
:icon_guitarist:



Trong phòng làm việc Tâm Lý Chiến có anh Mạc A Kíu là người hiền lương chân thật, đến mức thật thà ngây ngô, mà rất dễ thương, chịu không nỗi. A Kíu thích uống nước đá thật lạnh, nhai nước đá cục rốp rốp. Trong lúc Kíu ăn cơm nóng sốt vừa thổi phù phù vừa húp rột rột rột. Kíu lại vừa uống ừng ực nước đá lạnh ngắt. “Răng của ảnh” chịu không thấu bỗng dưng ấm ức dỗi hờn, đau đớn sưng vếu lên một cái, nó xìu xìu ễn ễn lạnh lùng bỏ chàng mà đi.
A Kíu tức mình quá chừng khi thấy bộ dạng mình coi vếu váo xấu xí, nên chàng hăng hái đi bọc một chiếc răng vàng, để trám vô ở lỗ trống. Thế là hai hàm răng cũ thấy cái răng… “dzàng giàu có, đẹp gziai” kia, so với mình sao mà xa lạ quá, chúng càng bực bội dỗi hờn thêm, bèn rù rì to nhỏ... từ từ rủ nhau xa lánh “anh răng dzàng”, mà a dua... hè nhau tiến lên a chu, khiến răng của A Kíu rụng đi gần hết cả hàm dưới. Răng hở thì môi lạnh, môi buồn, môi chán, môi đau... càng nhức bưng tới óc; nên mỗi lần ăn cơm ăn cháo gì, A Kíu cố cho hàm răng trên thấn ái đi gặp hàm niếu dưới, ngỏ hầu thăm hỏi xã giao nhau tí chút. Nhưng chúng nó đã thất lạc trong cuộc đời “răng với riết” mất toi rùi. Một chiếc răng vàng cô đơn độc mã không hiểu tiếng nói của nhau, thì còn răng mô mà dám cười! Hỉ!?
Hàm răng mệt, cái mồm mệt, chàng không thể nhai thức ăn; cơ thể mệt, bộ óc chàng cũng dần dà mệt lã theo. Thiệt là phiền toái đa! Cả hàm răng tất nhiên là có nhiều hơn hai “cái bờ môi”, nên “cái bè đảng răng” nó rủ nhau biểu tình, biểu tọt, cùng xông pha... lang thang đi tìm trẻ lạc mất răng. Hàm răng của chàng bây giờ thì cái sún, cái bọc vàng, cái lổn chổn. Coi thật dị hợm, khó coi, khó chịu quá chừng chừng à. A Kíu không nhớ gì hơn ngoài việc lo lắng cho "cái bộ gió" của mình. Vì “cái răng cái tóc, là gốc con người” mà! Vì... và vì... Kíu còn phải lo “canh tân o bế” hầu dợt le cho “răng với riết” ; để:
Rượu nào là rượu chẳng nồng.
Trai nào chẳng khoái: Lan, Hồng, Cúc, Mai... (cd)
* * *

Một hôm, được trưởng đoàn phân công, A Kíu là âm thoại viên cùng bạn công tác tại xóm Nghĩa Hành. Bạn Bé, và Châu đi nhanh quá. Còn A Kíu có phần bệ vệ, vì cái bụng lỡ mang thùng nước lèo khá lớn, (so với chiều cao). A Kíu ì à ì ạch leo lên dốc. Chàng che tay nhìn ngang nhìn dọc không thấy hai bạn đâu. Mất hồn mất vía, chàng ngồi phịch xuống trên gò mối, nghỉ mệt. Đã lo sợ lạc đường, tự dưng cái bụng phệ của A Kíu sôi ọc ọc... ục ục, như muốn biểu tình, phản đối giờ cơm đến trễ.
A Kíu lom khom đứng lên, bỗng máy PRC-25 phát tín hiệu. A Kíu lại ngồi vật ra, duỗi hai chân chụp lấy máy, mở tầng số liên lạc. Nghe xong, “anh ta ca”:
- Cái lày ngộ xin “lại ý dui loòng” chỉ cho. À, ló lại tẩy chay ngộ, bạn ló li lâu mắc dồi, bỏ em lứng dứi gót cay phựng. Bạn ló hỗng biéc liều a. Em hỏn biéc chỗ lào, lễ li dề à. Lần lầu tiên mới dề qua lay. Hỏn béc dớ cái đừng đi dề a.
Thọ, Đan, và Nhã phì cười. Nhã trêu chọc:
- Đi mau mau mới kịp bạn. Phải biết "giác ngộ" cho tiêu bụng mỡ chứ.
- Ngộ béc dát ngộ mờ. Có gì ngộ ngộ, thì ngộ dát dề cho a.
Có trời biết làm cách nào A Kíu trở về an toàn, khi lưng đeo máy truyền tin, vai đeo ba lô cá nhân, vai kia vát thêm lưỡi cày, chả biết chàng nhặt ở đâu. A Kíu nói:
- Nó “giác ngộ” quá, thì “ngộ dát” dề a.
Thọ vừa tức, vừa vui cười hóm hỉnh kêu trên loa phóng thanh:
- Có ai mất lưỡi cày, xin cho biết. Phòng mang trả lại ngay.
Một lần khác trong phòng đang ăn cơm, thì Chỉ-Huy-trưởng gọi máy dã chiến xuống, bắt anh em nộp bảng: "Dự trù Kế Hoạch A. Tối cần".
A Kíu quên chưa cúp máy, anh ta láu táu báo trình với Đan:
- Xin báo với “thựng” cấp là tối cần, “bạng” dự trù kế hạch A, chớ sáng thì “hỏn” cần.
Ngờ đâu Chỉ-huy-trưởng đã nghe được. Trời ơi! Hậu quả ăn với nói lầm lẫn và hiểu sai nghiã. A Kíu bị “an nghỉ” năm ngày trong chuồng cọp. A Kíu “được” muỗi đốt thỏa thích. Chàng nằm co rúm chèo queo vỗ bụng đau bình bịch, để chờ Phòng Nhì điều tra.
Toàn Phòng 5 đều gửi “thỉnh nguyện thư” lên Chỉ-huy-trưởng, họ bảo đảm hạnh kiểm, hành vi của A Kíu. Sau khi A Kíu làm mọi thủ tục tường trình, chàng được tha khỏi chuồng cọp. Từ đó, chàng câm như hến, không dám thèo lẻo bép xép cái miệng ăn mắm, ăn muối nữa. A Kíu tình nguyện “xuống cấp” để làm hoả đầu quân ở trong Sư-đoàn, cho chắc cú. A Kíu nấu ăn thì ngon tuyệt, y như Tàu Hồng Kông vậy. A Kíu ưa vỗ vỗ vào cái bụng phệ mà cười ha ha ha:
- Giàu chủ kho. No nhà bếp rồi thì… chóng chết là vì quản voi he!
***

A Kíu kể chuyện tình của anh ta với cô bồ ruột ở Chợ Lớn, vui và cũng buồn hết biết, chuyện như sau:
A Kíu đã “phải lòng” một cô trông kha khá ở gần nhà. Chàng đã:
Năm canh ngớ ngẩn buồn rầu.
Nhớ người nhân nghĩa gan sầu ruột đau. (cd)
Sau khi A Kíu đã vào nha sĩ bọc thêm những chiếc răng vàng oai vệ đáng bậc “răng nhi”, thế là chàng lân la đi la cà làm quen nàng Đào. Ai ngờ “ẻm” cũng “chịu đèn” mình quá sá cỡ thợ rèn! Thiệt là mừng húm!
Nắm tay em tròn như ống chỉ.
Lòng dạ anh đây phỉ chí muốn kết duyên.
Ngày nay hỏi thiệt bạn hiền: “thương không”.
Anh ăn ở có lòng, em phải gắng công.
Một trăm năm em cũng để phòng không, đợi chờ... (cd)
Thế là nhân một ngày "mùa thu lá bay", để kỷ niệm ngày đầu tiên “Anh và Em” yêu nhau say đắm, hai anh chị vui vẻ hẹn hò nhau đi ăn ở nhà hàng Arc Enciel. A Kíu bảo nàng:
Ai đi đợi với tôi cùng.
Tôi còn dỡ mối tơ hồng chưa xe.
Có nghe nín lặng mà nghe.
Những lời em nói như xe vào lòng. (cd)
- Em ui, em là Ba Chệt, thì em cứ hiên ngang, can đảm vui vẻ nhận mình là Ba Chệt. Sợ gì ai mà ba má giữ rịt em ru rú ở trong nhà he? Hay em sợ mắc cỡ sẽ ló cái đuôi sam ra ha!? Em hãy mặc áo Thượng Hải, hở ngực, hở nách, xẻ hai bên đùi, lên sát bắp vế, thì coi em càng khêu gợi chớ sao! Cho anh sung sướng dẫn em đi dợt le. Anh muốn tụi mình nên đi cà nhỏng, cà nhãnh, cà rịch cà tàng chút xí. Mình lên mặt làm dáng, làm dóc, làm le, làm tàng nha. Em cứ giựt nổi, chơi trội đi khoe với đời. Em không nổi như cái rốn của vũ trụ. Thì đời mình mất vui, kém hạnh phúc đi. Nha.
A Kíu vui vẻ "phỉnh" nhẹ nàng thôi, chứ nếu chàng gallant trắng trợn, thì còn ra cái thể thống gì bậc mày râu! “Ẻm” nghe chàng miệng lưỡi ngọt xớt như mía lùi, thì ai mà không mê tít thò lò chớ́. Thế là nàng trẻ người non dạ, õng ẹo đi qua đi lại trước gương soi mà ngắm nghía, và toe toét cười. Đúng là coi mình cũng ngon lành ra phết, như miếng thịt mỡ treo trước mõm mèo. Ngu sao mình không chờ thời cơ, thiếu giống gì mấy chàng trai trẻ, sẽ nườm nượp liếc mắt đưa tình he!
Nàng lóc chóc hí hửng thích thú mặc xiêm y, thân hình chưa phì lũ lắm, chàng trông nàng ngon lành, coi cũng đẹp hết sẫy í chớ. A Kíu thì mặc bộ áo quần vía veston hồ ủi thẳng nếp li láng cón, đầu chàng chải brillantine bóng mướt, con ruồi đậu trên tóc cũng phải té trợt cà. Kíu mang đôi giày đen nhọn mũi hoắt cao. "Anh Em ta” leo lên taxi (“cho... tới luôn bác tài”). Hai người xuống xe, cầm tay nhau dung dăng dung dẽ, cười cười liếc liếc, lí lí lắc lắc… họ ung dung tà tà đi dạo coi “thái mái” lắm. Thì cái bóp đầm của nàng lủng la lủng lẳng đung đưa có đựng vài đồng bạc lẽ, bỗng bị "bàn tay anh tài” cướp giựt mất, lẹ như chớp.
Bị bất ngờ, nên nàng trợt chân té, chiếc giày cao gót, văng lông lốc tuốt dưới chân thang lầu. Đau quá là đau, nàng nghiến răng trèo trẹo. Nàng ngồi chò hỏ nơi bậc thang, mặt tái xanh không còn chút máu. Mồ hôi hột rịn vã ra ở hai bên thái dương, "ẻm" bủn rủn tay chân, thầm nghĩ:
- "Chắc là ma nó xô cho mình bong gân, lọi giò đây. Chứ cái thằng ma-cô cướp cạn, nó ốm nhom ốm nhách như đồ xì ke, đuổi ruồi còn không bay. Nó làm gì mà xô mình lọi giò được ha?".
Vô tình nàng "để quên sự đời em ra". Thây kệ mặc khách tao nhân, đi lên, đi xuống cầu thang, họ cứ quay lại nhìn, cười hi hí, và ngó sững "chỗ nớ" đã đời.
Chàng thanh niên non đời lóc chóc đã nén giận, A Kíu cắn môi chạy xuống chân cầu thang lượm giúp nàng chiếc giày. A Kíu đứng xớ rớ dưới chân thang, chàng vô tình chờ mặc khách tao nhân chen lấn đi lại đông đúc nhìn lên.
Bỗng A Kíu thấy em oăặ… oằn người, và “chỗ nớ” coi tổn hổn, rõ mồn một. A Kíu giật mình xấu hổ, mặt anh chàng đỏ tía, tai nóng rần rần, hai bên thái dương chàng giật tưng tưng, trái tim co xiết túi bụi. Mắc cỡ muốn độn thổ, A Kíu cầm chiếc giày cao gót sút đế, chàng vụt nhảy lên một lần hai ba bậc cấp. A Kíu ném chiếc giày vào bụng nàng, kêu cái "biịcch"… Chàng trợn mắt nghiến răng trèo trẹo, cằn nhằn:
- Đứng lên mau! Con gái, con nai gì không có ý tứ, lại mặc cái "xì níp" nhỏ xí, rách háng trơ trẽn quá. Có thấy thiên hạ đang dòm ngó em không? Hứ! Lại còn ngồi thộn ra… xí xọn, nhí nha nhí nhảnh ghê ta.
Nàng tức giận lên cực điểm, đến tím mặt, bầm gan. Đã không dỗ dành khi người ta đau điếng, thì thôi. Chàng còn lên mặt la mắng tui cái nỗi gì, giữa chỗ ba quân hử? Nàng nghiến răng trèo trẹo, liền xổ một tràng tiếng "Háng" văng cả nước bọt khiếm nhã ra:
- Ai biểu, tại nị nói: nị thít ngộ đi “phe” với đời mờ. Ngộ không bét. Ba trợn á. Ay da dà! Cái đồ dóc tổ a... Tô chè a.
Tự ái dồn dập mà! Tuy nhiên, thấy nàng xù ra như lông nhím, Kíu cũng biết điều, chàng nâng cánh tay nàng lên, liền hạ mình hạ giọng, năn nỉ ỉ ôi.
Nàng được trớn, càng lên mặt vênh váo, lì lợm, làm le, làm dóc, làm tới, làm tàng không thèm hòa. Nàng xù bộ mặt rất ư dễ ghét ra, chàng trông nàng thiệt ngứa mắt quá chừng chừng! Xách chiếc giày sút đế lủng lẳng, nàng vung cùi chỏ hất mạnh tay “người iêu”. Nàng cà niễng cà giật cà thọt một chân cao chân thấp, nàng nhoi nhoi cái đít vịt đi điệu “bì bộp, xô-lô-rốc” chấm phẩy. “Ẻm” leo lên taxi... cho tới luôn bác tài. Bác ta rồ máy chạy cái vù. Giữa đám thị dân đang kinh ngạc nhìn theo.
Thế là Kíu nổi máu anh hùng lên, bỏ đi một nước, giang hồ biệt tích. A Kíu leo lên xe “đi quân dịch là thương nòi giống”:
Năm xưa em bảo đợi chờ.
Năm nay em lại hững hờ với anh (cd)
Thời gian trôi qua, chàng đã nguôi ngoai nỗi “sầu đời”, đã vui vẻ hát điệu… tẩu mã rất linh hoạt của dân ca Huế.
Bây giờ tình nghĩa làm sao.
Cho chuông chẳng bén bồ lao chẳng bền?! (cd)
Thôi! Hãy thả tình trôi theo giòng thời gian... Chả còn gì cho “Anh và Em”. Thật chả còn gì cho mối tình mà chàng nghĩ từ nay đúng là: Thứ cà tửng, cà tàng, cà khịa, cà ná, cà chớn, cà pháo, cà chua... Khi nàng ù té chạy làng, lê bước chân què leo lên con đò, ca bài “Sang Ngang” của Đỗ Lễ, cho mối tình xưa đi đứt theo đuôi con nòng nọc, mất toi.
Năm nay em phải lấy chồng.
Không vui thì cũng bằng lòng mẹ cha. (cd)
A Kíu dứt khoát mọi điều khẳng định là phải quên. Như đinh đóng cột vào vách. Như ngôi nhà quay mặt về núi. Muôn đời không thèm đối diện với biển cả.
* * *

Nghe tin Lính Phòng 5 được về hậu cứ sớm hơn dự định, A Kíu nổi tiếng là trùm sò, chuyên môn cho anh em "ăn mắm mút dòi". Nay chàng là người hào phóng, trước tiên A Kíu vát cái bụng phệ, đi quăng mùng mền quần áo cá nhân. A Kíu cần cho ba lô cá nhân nhẹ bớt ký mà. Rồi chàng lấy ly, tô, chén, son, chảo, nồi… ở trong thùng của đoàn dân vận ra, chàng đập bể hết. Trả thù tình và trả thù đời! A Kíu xán cho bằng thích hai bàn tay mập ú. Các anh khác cũng bắt chước làm theo, họ lôi tô chén trong ba lô cá nhân ra, xán bôm bốp xuống nền gạch. Nghe “đã” thiệt ta!
Đùng một cái Trưởng-phòng đi họp về báo tin Phòng 5 phải ở lại thêm bốn ngày. A Kíu ngồi thộn ra nhăn nhúm, méo mặt như cái nồi son. Lấy cái gì xào nấu cho anh em ăn đây hở Trời! Thật chán mớ đời. Mấy ngày đó, anh em chịu trận giữa cơn rét rừng luồn vào tủy sống. Các anh chẳng dám mở miệng kêu than nửa lời.
Ngày ngày A Kíu xin phép Trưởng-phòng 5 cho ra nấu ăn nhờ ở nhà dân, chàng đi bắt ốc mò cua, bẻ măng, rau núi, hái rau sam, rau dền, rau đắng mọc hoang, luộc cho anh em ăn tạm đỡ lòng, với thịt hộp xin của đồng đội bạn. Thật may vừa có lệnh trên ban hành cho anh em Phòng 5 leo lên xe về nhà. Mấy anh mừng húm.
Tất cả câu chuyện về bạn bè thân thiết, cùng hoàn cảnh, không gian và thời gian, thoáng hiện ra trong tư tưởng Đan, dưới ánh sáng màu thiên thanh kỳ diệu. Đan mỉm cười về vài mẫu chuyện vui vui, tương tự như thế; hầu quên đi nỗi nhọc nhằn trong đời lính chiến phong sương. Tạm quên bao khổ đau cuộc sống đùn lên trong đời Đan và tất cả quân nhân khác.

(*) ca = ca dao

_ * _
Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
03-10-2010, 01:19 AM
:41:
*




Đà Lạt. Thành phố mệnh danh là quê hương tình ái, nơi trai tài gái sắc lý tưởng hẹn hò. Thành phố thơ mộng không kém phần thi vị, lãng mạn cho bao cặp tình đắm đuối yêu nhau. Họ thích che chung một cái dù, dìu nhau đi thật chậm trên những con đường vòng vắng ngắt quanh co uốn khúc, cao thấp nhấp nhô như những lượn sóng. Đà Lạt muôn thuở trầm lắng nghe tiếng thơ trữ tình thì thầm thở khúc nhạc du dương trong suối mộng hồ mơ. Bên thác nước đỗ muôn trùng diệu vợi xa xăm. Bao gốc thông tuy già vẫn xanh ngắt ngút ngàn bốn mùa nhã nhạc vi vu, nhiều cành lá xôn xao gọi mời. Nơi có những luống hoa muôn màu rực rỡ. Nhiều hoa dại và bụi sim rừng tim tím, cùng bầy sơn ca lả lướt, tự do hoà ái uyển chuyển tấu khúc nghê thường. Đà Lạt tĩnh mịch quyến rũ và đầy vinh sang, xe nhà bóng loáng lả lướt lượn trên lưng đèo, nhiều ngôi biệt thự xinh xinh, thấp thoáng ẩn hiện dưới đồi thông giao nhánh reo vui trong gió rì rào.
Thành phố ấy chìm trong giếng mắt u hoài, vẫy gọi tôi muốn quay về cùng với giấc mộng quan hoài. Nơi mẹ từng à ơi ru con từ chiếc nôi đời hồng hoang trinh nguyên, đong đưa muôn sợi nhớ, nghìn luyến thương gợn sóng lăn tăn dồn dập canh cánh bên lòng, dập dìu ríu rít níu con tìm về chốn cũ. Nơi ấp ủ một đời thúc giục đôi chân hải hồ tôi dừng bước bên thềm hoang sơ. Mà, tất cả những tiếng nhạc du dương từ tình yêu năm xưa, giờ chỉ rớt lại cái quá khứ còn nóng bỏng, đến nghẹn ngào, ngậm ngùi chua xót.
***
Ngày thứ Bảy, từ 26-10-1963 đến thứ Hai, người dân các thị thành và ở Thủ Đô trong nước hân hoan vui mừng, tưng bừng nô nức khánh thành Trung Tâm Nguyên Tử Lực Cuộc Đà Lạt. Rất đông đủ quan khách hiện diện. Đặc biệt nhất là có Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ông Bửu Hội. Đại Sứ Henry Cabot Lodge và các hàng Tổng Bộ Trưởng về Đà Lạt khai hội.
Ấy thế mà chỉ cùng giao thời nầy, tình hình chính trị sục sôi kỳ lạ. Nhiều vụ xuống đường rầm rộ đó đây. Những người cầm đầu cuộc cách mạng, kêu gọi nhau vùng dậy đứng lên đập tan cuộc sống cũ. Họ dũng cảm muốn dành lại tự do no ấm cho con người thôi!
Khoảng mùa mưa, thượng tọa Thích Quãng Đức lên giàn tự thiêu giữa ngã tư Phan Đình Phùng và Lê văn Duyệt, đòi hỏi tự do tôn giáo. Thật tuyệt vời! Rồi, bao nhiêu bàn thờ tiên sinh ông bà, cha mẹ, do con cháu rầm rộ dọn ra ngoài đường. Cùng sinh viên học sinh và một số dân cư xuống đường biểu tình, đòi tự do tín ngưỡng. Tự do báo chí. Tự do ngôn luận. Tự do đi lại suốt. Họ làm một cuộc cách mạng như Littré nói:
- “Cách mạng là gạch nối giữa trật tự cũ tan rã, và trật tự mới được dựng lên bằng những vết máu, thay vết son”.
Cuộc cách mạng đảo chánh “gia đình trị” đưa quan niệm tự do hạnh phúc đi sâu vào lòng người dân. Chính nghĩa vong yểu như xứ sở thân yêu từng mang dấu tích hùng sử ca, đã bị lên án gắt gao và bị tiêu diệt, diễn ra ác liệt tại thủ đô Sài Gòn, đã bị xoá nhoà dấu vết cũ dưới rừng cờ hoa phất phới tung bay trong nền trời xanh bao la, để chào mừng ngày đại thắng. Trước cửa ngỏ cuộc chiến mới, người ta say sưa hoan ca men chiến thắng túy lúy với nhau. Họ háo hức kể cho nhau nhiều tin thổi phồng rất giựt gân. Đồn đại những tin huyễn hoặc thất thiệt. Dù chỉ hàng tít nhỏ chạy trên nhật báo, cũng khiến người dân giật nẫy mình, hoang mang, kích động tính, hay hăng say nổi máu anh hùng lên. Người ta nức lòng mong chờ từng giây phút hoà bình tự do đến, nơi mà các vị tiền bối cha ông chúng ta đã dày công dựng xây, đã làm, vẫn được thực thi. Dẫu rằng ảnh hưởng sâu sắc ít nhiều đến cư dân thị thành, cùng tất cả dân quê trên toàn lãnh thổ Việt Nam thăng trầm qua bao thế kỷ. Đúng là Ý Trời!
Nền Đệ Nhất Cộng Hoà sụp đỗ hoàn toàn rồi đó! Giấc mộng cũ, chế độ cũ cùng chiến tranh tàn khốc đã từng "theo đóm ăn tàn" mang bạn bè, người thân chú bác, anh em, ra đi biền biệt, gieo đau thương tang tóc khổ sầu cho hàng ngàn gia đình vừa cáo chung. Tôi chua xót nghĩ thầm: Dù các ông có đi đêm với ai thành công. Đi với Tàu. Với Tây. Với Mỹ hay với Ta. Thì có lẽ đất nước nầy cũng thất bại. Vì hàng rào Ấp Chiến Lược (Strategic Hamlets) đắc sách kiên cố thừa nước đục thả câu, bị nhổ phăng đi, nay bị sụp. Không thể sàng lọc trắng đen ra môn ra khoai - Thì tiêu tùng cả đời nhà họ “Mạt” ấy chứ chả chơi! Thiện tai!
“Ông” đắc thắng nào (lên thay thế “ông” chiến bại), cũng vỗ ngực tự hào ta là nhất. Rồi căn cứ vào điều luật cũ, tái lập điều chỉnh nên dự luật mới. Có khi sáng tạo, thêm bớt, sửa đổi, vá víu lại cho hợp tình hợp lý với thời cuộc. Như người cỡi con lừa, tay cầm cây roi, bó cỏ khô, với củ cà rốt móc lủng lẳng ở trước càng xe. Họ quay lưng về phía trước, một tay túm lấy đuôi lừa. Họ ung dung thích nhìn lại nơi đã toàn thắng mỹ mãn vừa đi qua. Chả cần chung vai đấu cật, góp sức an hoà, đoàn kết vạch định tương lai cam go, cùng nhìn về một hướng phải đưa dân tộc đến. Nếu họ chịu khó nhìn về dĩ vãng để cùng nhau hướng tới tương lai xây dựng một quốc gia hùng mạnh, thì quá tốt. Họ sẽ cai trị muôn dân như Đường Minh Hoàng vương quốc đời Tần. Hay sẽ như Thiers lãnh tụ Cộng Hoà Pháp, đàn áp đẫm máu Công Xã Paris? Nào ai biết được ngày mai sẽ ra sao? Còn con lừa già thì cứ gồnh mình lên, ra sức cố lôi chiếc xe thổ mộ cọc cạch, nó cứ mở to đôi mắt bò lết tới trước, hy vọng “tợp” được bó cỏ hay củ cà rốt, ăn đỡ lòng.
Tôi rất ghét và thù chuyện chiến tranh hay “chính chị chính em”, xin cúi đầu an phận làm phó thường dân nam bộ thấp hèn. Tôi cũng không bao giờ dám mơ tưởng mình sẽ là một người đẹp nổi tiếng viết văn, làm thơ. Càng không bao giờ tôi dám tự hào mình sẽ cầm cây bút chiến để viết văn nghị luận hùng biện hay ho, chữ đẹp tốt, văn thơ giỏi mà làm chi!? (mặc dù chữ viết cuả tôi khá đẹp). Tôi chỉ muốn thực tế ghi lại những điều quá thật, càng không vì thù giận ai, không chỉ trích, không bon chen, lừa dối ai. Chỉ vì cuộc sống ấy, có phần gián tiếp ảnh hưởng sâu sắc đến số phận riêng mình, vì những sự kiện quá thật, khiến tôi đau lòng khổ sở không ít.
Phạm trù cách mạng riêng đối với tôi, nào có ích gì! Phe chế độ cũ sụm bà chè. Hay phe cách mạng mới có “phừng phưng” đứng lên - Có quật khởi, trường tồn. Có tiêu vong; thật chả là gì! Khi đa số dân chúng vẫn chạy ăn từng bữa một. Mồ hôi và nước mắt chan hoà trên bát cơm, biết bao khuôn mặt hãi hùng âu lo thời cuộc. -Chiến tranh, chết chóc, đau khổ và cơm áo- Những thứ nầy cứ quyện chặt vào nhau, lấy đâu ra có thì giờ nghĩ đến việc hó hé chống đối ai kia chớ!
Chiếc cầu vồng bảy sắc sinh động nối mạch tình quyến luyến giữa con người và con người, mà tôi thân thiết gọi là “lòng nhân ái đùm bọc chí tình yêu thương nhau xiết đỗi” – đã nhạt phai trong tôi ít nhiều. Không còn đậm đà như những năm tôi sống trong vùng khói lửa chiến tranh liên miên từ Mộ Đức. Minh Long. A Sao. A Lưới. Sa Huỳnh. Tà Biên, nữa rồi. Do đã từng chứng kiến cảnh chiến tranh đau thương vô vàn để lại trong đời. Cảnh người dân chất phác nghèo khó và người lính vô tội vì quê hương và dân tộc, họ phải thảm thiết chết bờ chết bụi, vùi nông một nấm mộ vội vã bên đường. Cảnh con người ốm đau bệnh tật lê lết không thang thuốc, cố kéo lết cuộc đời thấp hèn, đớn nghèo luôn bám riết sau lũy tre xanh quê hương. Tôi đã biết thế nào là lễ độ, khi mặt trời ở phương đông vẫn hào phóng tỏa những vầng hào quang tuôn chảy xuống vạn vật. Lóng lánh trên những tàng cây xanh um bóng mát lung linh, tạo thành những dòng sáng rực rỡ trường tồn miên viễn.
Chiếc cầu vồng bảy sắc sinh động nối mạch tình quyến luyến giữa con người và con người, mà tôi thân thiết gọi là “lòng nhân ái đùm bọc chí tình yêu thương nhau xiết đỗi” – đã nhạt phai trong tôi ít nhiều. Không còn đậm đà như những năm tôi sống trong vùng sôi bỏng chiến tranh từ: Mộ Đức. Minh Long. A Sao. A Lưới. Sa Huỳnh. Tà Biên, nữa rồi. Trái lại, trong tôi bùng lên cuộc tình buồn, còn kèm theo nỗi hận căm cuộc chiến đấu mưu cầu cho tự do! Dù rằng đối với tôi, tự do vẫn tuyệt vời thoải mái hơn tù tội, gò bó. Hoà bình vẫn sung sướng trân quý hơn chiến tranh. Chiến tranh đem lại giết hại, thù hận huynh đệ tương tàn phi lý điên cuồng, tàn ác và thẳng tay chém giết lẫn nhau. Vết xe cũ đã lăn và đang lăn trên con đường gian khó. Khiến lòng ta thêm đau đớn xót xa hơn.
***
Tự do! Hai tiếng nầy vang lên nghe dạt dào thân thương, truyền cảm, trìu mến, quyến rũ, ngọt ngào, thú vị, hay hay, lý tưởng, hoài bão, dấn thân tha thiết mời gọi thế nào ấy! Vai trò “Cách mạng, đảo chánh” hay đỉnh đạt hơn “Dành lại quyền tự do thống trị” không hàm hậu ý chế nhạo ai, nghĩa là làm sao nâng cao đời sống con người cùng khổ lên cao, có cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong cho nhau thoát ra cảnh chiến tranh huynh đệ tương tàn, vì chiến tranh luôn đè nặng lên lương dân vô tội. Tự do rất trân quý và đầy kính trọng.
Chuyện tình đời và hai chữ tự do ấy đã quá xưa, cũ rích như trái đất rồi. Tôi và có thể hầu như mọi người thân thương đều bao dung và độ lượng khi định nghĩa tổng quát về danh ngữ hay tính ngữ “Tự Do”: Đó là phạm trù triết học, biểu hiện một quy luật nhịp nhàng, có tự do trong trật tự ôn nhu tiết độ vững bền của một quốc gia. Sự phát sinh tự do qua ý chí của con người và xã hội, nhân quần. Tôn trọng các quyền phát huy tự do căn bản (nghĩa là không quá độc tài, bị cấm đoán, cưỡng ép, hay bị ràng buộc khắt khe bởi: những quy chế hiến pháp, lập pháp, luật pháp, tư pháp, hành pháp gắt gao; nói chung chung). Tự do -nhưng trong căn bản trật tự, đạo đức ôn nhu, hành xử chính xác và hợp lý-.
Thế thôi.

_ * _


Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
03-17-2010, 11:30 PM
:small_heart_3::small_heart_3:




Tôi cố gắng giằng co, quyết giành lại chiếc áo gấm cũ với định mệnh. Dù thời gian trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run, tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.
Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo uốn lên uốn xuống, gãy khúc quanh co ven đồi thông ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, mà cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, ghé ghé đầu thẹn thùng, e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt vào má mà lêu lêu Luật, để trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.
Giờ nầy Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị đi tập trung trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng giữa chợ đời muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn với những tủi hổ vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu. Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét nầy lại, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do chàng viết dày cui. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió, chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian. Ấy vậy mà tôi vẫn nâng niu giữ gìn tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Tôi mãi trân trọng ấp ủ tình luyến nhớ, thương mong tận đến bây giờ. Tôi hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời đang xáo trộn, chao đảo. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực, run rẩy dâng tràn!?
Nay tôi đang mặc chiếc áo ấy của chàng mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, tôi không cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách phủ bụi vàng, ít khi được mở ra xem. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua từ quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi.
Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Nay tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường vượt qua mọi chông gai thử thách. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
***
Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, tôi được anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In, (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối khốn cùng của vùng kinh tế mới khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng, rắn, rết vô số. Chúng chuyên bu bám vào người để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà chết toi.
Tôi lặng người rất lâu không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động tuôn chảy từng dòng, dội ngược vào tim mình. Hình như tôi đang nghẹt thở, chết dần chết mòn. Tôi không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò ân hận đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng có chiếc xe hơi riêng mang hiệu Peugeot 404. Hay tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, qùy xuống bên mép giường cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối. Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ mẹ lâm chung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.
Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, sụt sùi, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:
***
Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại, (tức ông bà cố ngoại của con tôi) ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát. Thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế.
Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo ở đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược. Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt, trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà!
Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút rồi quên ngay. Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn cũ ra tiền mới sau 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường.
Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen, nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, thân hình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần, mà trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
- Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra kinh khủng nè.
Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi, âm thầm mẹ về bên kia cuộc sống mới.
Bà chị dâu của tôi kể lại rằng:
- Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng, để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa xa xôi; anh chạy đi vay tiền để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường rất lâu, không động đậy nhúc nhích. Chị Ngọ thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm. Nhà anh chị quá nghèo, đi kinh tế mới họ chỉ có mấy nhúm quần áo, vài bao bố son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri.
Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
Chị e dè hỏi thăm:
- Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
- Mệ ơi! Con nấu cháo, cho mệ ăn nghen.
Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
- Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
- Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con đi ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu cháo. Mệ ráng chờ. Con nấu mau lắm.
- Thôi con. Để dành gạo nấu …cho thằng Cu Nâu …có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
- Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.
Thế rồi, mẹ tôi ư hữ lại lừ đừ quay mặt vào trong vách. Non giờ sau mẹ từ từ nhắm mắt, và dần dần thiếp vào giấc ngủ nghìn thu muộn phiền. Mẹ đã đói khát năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành ăn chén cháo trắng với muối hột. Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ. Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm. Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà mẹ, hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
- Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.
Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề.
Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Doãn tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn mặc nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non, điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Mà xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm của ba đã trao tặng mẹ. Họ đặt xâu tràng hạt vào bàn tay mẹ lạnh giá, và để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ ra bên ngoài mẹ.
Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím, cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ thơm mùi nhựa mới hèn mọn. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả, ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng ngày hôm ấy, không đi rẫy, họ nhịn đói nhịn khát, cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, trên núi đơn điệu, bơ vơ. Mẹ tôi nằm xuống, và vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, với cây thánh giá gỗ, tấm bia mộ gỗ đơn sơ, ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn:
Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t.
Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lủi thủi trở lại lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống ngáp ngáp mang mẹ đi qua. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ. Thời gian lật đật qua đi, tôi luôn tất bật bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, thay thế một chân bàn què.
Bà Nga hàng xóm là người thân cận của tôi bây giờ đã nói:
- Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy mẹ cô chưa kịp về ăn xí, thì bầy ruồi ốm đói đã trúng mánh, bu tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Cô làm gì có ghế, cho mẹ ngồi chơi xơi nước. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm, ngồi ăn giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!
Bà Nga líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái chẳng ngại mất lòng. Tôi nghe mãi mới hiểu được thâm ý bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù. Giọt khóc bầy con lù đù vất vưỡng long đong ở ngoài tù. Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than cơ cực. Khổ đến nỗi tôi không tiền không bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về cùng hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tình nghĩa thiêng liêng mong manh hơn khói sương, nối liền giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa.
* * *
Người đàn bà còn quá trẻ, bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ xót xa khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Nén sự trầm uất dưới chiều sâu tâm hồn, đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Khi gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng, đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.
Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, nay mẹ con chúng tôi sẽ dắt díu nhau lọt tọt líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn, không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời, còn mấp máy và thút thít, như nghiền nát hiện tại đang rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng. Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.
Trời xanh không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây giăng mắc khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt chơi khăm chúng tôi trắng tay – và đểu giả lật ngửa quân bài ra – Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

_ * _

Ái Ưu Du

Tinh Hoai Huong
04-04-2010, 11:41 PM
Nhân đọc bài CHỒNG - VỢ và BỒ NHÍ của anh loibangTQLC rất hay, thậm chí lý.
AUD xin góp một câu chuyện:

:CungBia1: :CungBia1: :icon_hateyou:

Lá Mơ Khuyên Bồ Không Ăn “Phở”




Một hôm vào ngày nắng tươi, ở Mỹ về thăm quê hương, nàng đã mời “hắn”, mời Vươn, và Vượng. (Thế Vươn là bạn cuả Ngọc Vượng), cả bốn người: gồm có ba ông và một bà - cùng đi ăn thịt cá sấu ở một nhà hàng thơ mộng, tại vùng quê Bình Thới.
Ban đầu mọi người vừa ăn, vừa rỉ rả chuyện trò vui vui.
Sau khi ba người đàn ông nầy, mỗi người đã uống năm lon bia hộp ngoại, vỏ lon để ngổn ngang dưới chân bàn. {(Có lẽ do tu quá nhiều bia nên ngà ngà say, hay do hai ông kia có ý nói muốn cho nàng biết rõ về câu chuyện của “Antony Hoàng Năm to-bị" và con “Phở xí Kiêm”, cũng nên) ; (!?)}:
Ông Vươn tóc đen khơi chuyện:
- Ông "Năm to bị" thiệt sung sướng quá! Hôm nay tui ăn chưa no lo chưa tới. Tui ăn cơm mới nói chuyện cũ… đây bạn. Ông đúng là đào hoa do đào mỏ to:
Sáng đèo cơm đi ăn phở.
Trưa hăm hở rước phở đi ăn cơm.
Chiều cơm về nhà cơm.
Phở về nhà phở.
Tối nằm với cơm nghe thơm thơm mùi phở. (1)
Vượng dằn mạnh lon bia cái cộp trên bàn, lắng nghe bạn Vươn nói với hắn:
- Hẳn là “cụ mi” biết con Kiêm, là tình nhân của ông Vượng nhà ta từ chín năm nay rồi ha?
- Khà khà! Biết chứ. Tôi đã đọc ở đâu đó: “Vợ” là cơm nguội của ta. Mình ăn hoài thấy ngấy lên tận cổ... Nhưng mà phở tái là của cha láng giềng. Tôi ăn phở tái... hì hì tất nhiên tôi ăn bánh trả tiền, có hao tốn tiền bạc thiệt, mà đôi khi run sợ phải mang bệnh Aid. Tuy vậy tôi vẫn thèm… ăn phở ...mới chít.
Bây giờ hai ông kia không nói chuyện tiếu lâm nữa, mà bắt đầu nhập đề:
- Hẳn là ông Hoàng biết chắc con Kiêm là ca va, có bốn đời chồng không chính thức, có hai dòng con riêng. Nay con ghẹ ấy vẫn có đèo thêm một số tình hờ. Ông biết rõ nó đục khoét của Vượng không biết bao nhiêu là của chìm của nổi, kể sao cho hết? Và, ông còn công nhận ông là bạn già U-70 cuả Vượng ha?
- Dĩ nhiên... Chả thế mà tôi đã từng đọc một bài thơ tiếu lâm “Tức” của AUD nói về con Kiêm đó à: Nghe nè:
Anh đi vắng, thâu đêm em thức.
Cỡi áo vì em đang bức rức...
Chỗ ấy...bi giờ vẫn nóng nực.
Nhìn xuống nhìn lên càng thêm tức.
* Nhìn lên nhìn xuống đà quá tức.
Nhìn qua nhìn lại không có thực!
Anh ẵm mụ nào vô xó... "xực" ?
Sao bằng em... múi mít thơm phức! (2)
Vươn đứng dậy một tay chống ngang hông, ông ta lừ mắt nhìn soi mói vào mặt hắn:
- Nay ông đang cặp bồ với con Kiêm hử?
- Nghe anh Vượng không còn bao con Kiêm, họ xù độ rồi mà? Thì tôi cũng muốn ăn phở vui chơi qua ngày thôi... Tui với nó cũng như “Kẻ trộm mới đi ăn đêm… Chớ... Ai người tử tế ra đường giữa đêm”!? Ừ, tôi nào có hạnh phúc như anh: “Có phước lấy được vợ già. Sạch cửa sạch nhà lại ngọt cơm canh”. Khổ thân tôi! Riêng tôi thì đã hơn hai mươi lăm năm nay: “Đói cơm lạt áo kém hem. No cơm ấm áo lại tìm nọ kia”... Nhất là lúc tôi nhìn thấy phở, thì nước miếng nước mồm tuôn ứa ra bên mép: “Có làm thì mới có ăn. Ngồi không ai dễ đem phần đến cho”. Tất nhiên là tôi phải làm tới… là là... tôi phải tán hưu tán vượn con ghẹ, thì con mồi phở mới chịu đèn, chớp mắt lia lịa và nhoi nhoi cái đít vịt ra... Ha ha ha...
Hắn cười rất đễu:
- Tôi dùng hết thủ thuật để lân la cố làm quen, hầu nhữ cho được “con mồi Phở”: Tôi tủm tỉm cừi cừi… nói nói, tôi cố ý lê la tới gù gạ con ghẹ, nói thiệt với mấy ông nghen, nó xấu xí bỏ mẹ à..., nhưng nó xấn tới, thì tội gì mình không vồ: Có phải xóm em đang… “hôm nay có đám giỗ gần. Trong bụng bần thần em chẳng muốn nấu cơm”, cho anh ăn không vậy? Cưng ui!
- Thế là chỉ mươi phút sau chúng tôi dễ dàng xáp lại với nhau cái rột! “Được đà cứ tiến, được miếng cứ ăn”… Chỉ có vậy!
Vượng vuốt ngược nhóm tóc bạc ra sau gáy, ông ta lừ mắt:
- Thì có lần chạm mặt nhau, tui đã hỏi ông: “Hỏi anh, anh nói học trò, sao mà tui thấy cỡi bò hôm qua”?! Hừ! Tui thật lấy làm tiếc khi ông đã làm một chuyện…, mà tôi thấy một người luôn tự hào là trí thức, có tư cách như ông, đều không ai dám làm. Ông là bạn cuả tui, mà ông thừa biết tui coi con Kiêm là “cơm áo gạo tiền” như người vợ chính thức (vì vợ tui đã chết). Chớ có phải là giống loại “cơm hàng cháo chợ” chi đâu! Mà ông vẫn lao đầu vào để giật con vợ của bạn. Là sao? Hử!?
Vượng ngừng một lát. Còn Vươn nhìn trừng trừng vào mặt hắn:
- Nhất là, ông không làm gì ra tiền, ông ăn bám “cơm thừa canh cặn”, ông bòn rút vào đứa con của ông. Rồi… Ông bu bám người đàn bà ở hải ngoại. Ông dùng tiền của mồ hôi nước mắt người khác mà ăn chơi. Ông đục khoét tiền của những người khác. Ông không có liêm sĩ và làm những chuyện ác ôn, táng tận lương tâm, láo lường gạt gẫm bạn bè là: “ông bị đau cổ họng có thể ung thư, để bạn Không-Quân hải ngoại thương cảm quyên góp tiền gửi về cho ông. Ông đem số tiền ấy để đi ăn “phở triền miên” chơi bời, hầu thoả mãn dục vọng, và tự ái của thằng đàn ông sa đoạ bị vợ bỏ. Nói thật với ông nhe: Tôi nhục nhã khi quen biết ông. Ông không xứng đáng làm bạn với chúng tôi nữa đâu. Bây giờ tôi mới biết rõ cái bản chất của ông. Hèn quá mà!
Vươn trợn mắt theo cơn say túy lúy, anh ta đứng nghiêng qua một bên, xỉ xỉ ngón tay thẳng vào mặt hắn:
- Chỉ có loài thú cơm niêu nước lọ mới trơ cái trán bóng mặt dày mày dạn ra. Con chó mà nó có nghiã, ông biết nó cũng không làm cái chuyện đi lấy bậy. Đừng nói ông là con người có học thức cao, mà lén đi húp xái nước lèo phở của bạn. Vì ông Vượng thân cuả tôi đây, hôm nay tôi đến đây, là lần đầu tiên tôi gặp ông, và cũng là lần cuối cùng nha.
Nạn nhân Ngọc Vượng nhìn nàng gật gật gù gù, lắc lắc mái tóc bạc phơ, như muốn trút bỏ cơn say, hay ông ta muốn nhắn nhe chi đây, hoặc sợ ác chiến xảy ra? Tuy nhiên nàng thầm nghĩ:
- Rất có thể anh Vượng khó nói, không thể giải oan nỗi sầu đắng giữa “Bạn” “Cơm” và “Phở”! Nay anh ta muốn nhờ ông bạn của mình mạnh miệng nói thay cho chăng?! Vươn, người đàn ông miền Nam có giọng nói sang sảng, và nói như tát vào mặt thằng chả, thì thẳng thừng đốp vào mặt mo của hắn. Giờ đây hai anh bạn già ấy trông thật hả hê khoan khoái ngoài mặt và hẳn là đang mở cờ reo vui ở trong lòng.
Vượng tóc bạc chiã năm ngón tay vào đầu, xới xới, cào cào hất hất ngược mái tóc trắng phau lui sau gáy. Nhưng giọng Bắc của anh Vượng nhà ta thì khôn ngoan từ tốn, ảnh nhẹ nhàng can ngăn bạn thân:
- Thôi ông ơi!
“vợ là địch.
Bồ bịch mới là ta.
Khi chiến sự xảy ra.
Ta buộc về với địch.
Nằm trong lòng địch.
Rục rịch ta nhớ ta”. (1) Ông xĩn rồi. Mình đến đây mục đích thăm chị Út, vui gặp chị Út cho biết xí... Thôi. Để tôi đưa ông đi về gấp nà...
Vươn hất tay bạn ra, cự nự:
- Tôi phải nói cho thằng chả sáng mắt ra. Thật là ngu, có người yêu qúy chăm lo và thủy chung với hắn như vậy, mà hắn còn đi tơ tưởng khèo móc bú dù với con vợ của người khác. Xấu hổ: Nghe nè ... “Hoàng to bị” :
Bồ là cô gái qua đường
Vợ mới trân quí nhớ thương vô vàn.
Bồ thì nũng nịu than van
Vợ lo nhà cửa lầm than vô cùng.
Bồ hay mơ mộng mông lung
Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
Bồ luôn đòi hỏi đủ điều
Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.
Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm
Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
Bồ nào nghĩ đến tương lai
Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau.
Bồ thì chưng diện muôn màu
Vợ chỉ quanh quẩn trước sau trong ngoài.
Bồ luôn đòi hỏi, ăn xài
Vợ thì vun xén một hai ba đồng... (1)
* * *
Hai ông bạn già đứng dậy, nháy mắt chào nàng rồi ung dung tự tại bá vai vít cổ đi ra bãi giữ xe. Anh tóc bạc chở anh tóc hoa râm đi, với tràng cười ha ha ha… lướt thướt lùa trong gió rớt lại sau tấm lưng hắn. "Thằng chả" hai tay bưng lấy mặt, cúi gục đầu, hắn bị bất ngờ kinh khủng, dường như hắn đã nhận gáo nước sôi tạt vô mặt. Đau điếng. Mặt mày hắn thộn ra, sượng sùng, tái nhợt rồi bừng bừng đỏ au lên, hàm răng hắn nghiến trèo trẹo.
Nàng cũng khá choáng váng, bất ngờ hốt hoảng tột độ, đờ đẫn cả người. Nàng ngượng nghịu ngồi chết trân không kịp phản ứng. Tình bạn già và tình yêu mà nàng tưởng nhầm là: siêu sao thần tượng, lý tưởng cao vời, nay đã lố bịch sụp đỗ, rơi tỏm xuống vũng bùn. Buồn lòng và cay đắng nghẹn ngào, đau xót nhất là: từ bây giờ nàng mới bừng tỉnh lắng tai nghe lời họ nói. Mắt nàng mở ra thấy sự thật phũ phàng qua những điều sống sượng quá trơ trẽn. Nàng nhận chân được giá trị sự mỉa mai và đau xót khôn lường: “Thằng chả” chỉ là một kẻ hèn mọn, là tên lường gạt lố bịch, quá thô bỉ và tầm thường mà thôi. Thì ra... Từ ngày xưa đến nay nàng chỉ: “Tri nhân tri diện, bất tri tâm. Hoạ hổ hoạ bì, nan hoạ cốt” (thấy người thấy mặt, không thấy lòng. Vẽ hổ vẽ da, không thể vẽ xương). Càng về lâu về dài thì nàng mới biết: thằng chả ích kỷ vô cùng, hắn muốn thoải mãn bản thân hắn thôi, mà quên đi đạo đức tất yếu của con người biết tự trọng. Lòng tự trọng không ngăn nỗi tính già khú mà còn háo thắng, và tội lừa phỉnh ùa về. Hắn yêu bản thân riêng mình đến độ hèn hạ mất thể diện và ô danh. Tính nào tật nấy. Ngựa cũ quen đường xưa. Đồng thời hắn là kẻ chuyên lợi dụng người khác, sự lạm dụng trắng trợn đầy bất nhân, thất đức: Thời xuân trẻ trai tráng cho đến bây giờ, không khác gì nhau: > Hắn từng đi ngủ với nhiều hạng người: Từ bà chủ chứa gái lấy guốc sắt đập trên đầu hắn đã lõa máu tươi, (chỉ vì hắn từng ngủ với bà ta, mà còn ngủ với con ghẹ trẻ trong động, nên bà ta ghen thôi!!!). Hắn tiến tới con bé ăn sương bị mù loà trước năm 2005, tối tối con nhỏ đứng chờ bên hẽm Hai Bà Trưng, để đón khách đưa lon xin tiền. Hắn dám khoe với nàng và bạn bù khú điều ghê tởm đó, mà không hề đỏ mặt; như là một sự hào hoa bay bướm lả lướt của con đĩ đực!
Từ hồi xa lắc, cũ rích thuở mười tám hai mươi hắn đã dan díu với con mụ già khú Tư Rậm ở gần nhà, mụ ta hơn tuổi hắn tới một con giáp, có chồng và sáu con, con gái của mụ nhỏ hơn hắn ba tuổi. Rồi; từ “bà Phở” bên sát hông nhà, hắn dám cả gan tò te với bà xồn xồn nầy đã có chồng con. Nói nào ngay dù có chồng “gái một con trông mòn con mắt” mà. Hắn thèm quá... ngồi ở góc cửa nhà mình, dòm lom lom qua nhà mụ kia, hắn canh me rình rập khi chồng “bà phở” đi vắng, hắn liền đảo qua lượn lại rủ rê “bà Phở” qua nhà. Con mụ ấy làm bộ ôm túm quần áo qua nhà hắn để ủi nhờ. Hắn liền đè mụ ra trên gác xép và lấy mụ. Có ngờ đâu con gái của hắn ở trong phòng vô tình nhìn thấy hành vi cha, kể từ đó các con ra mặt phản đối và khinh bỉ hắn biết chừng nào! Nhiều lần sau hắn nháy nhó hẹn mụ xồn xồn đi nơi khác, thì chuyện tồi tệ bị đổ bể, khi hắn chở “mụ Phở” ấy về gần ngay ngỏ nhà, thì đôi gian phu dâm phụ bị chồng “mụ Phở” rình rập, và bắt gặp quả tang. Chồng của “mụ Phở” dzợt hắn một tăng te tua. Thằng chồng cầm con dao nhíp, đòi lụi hắn. Hắn đã quỳ xuống giữa lề đường góc Hiền Vương và Hai Bà Trưng, (trước bao nhiêu kẻ qua người lại, kể cả con gái út của hắn cũng thấy, và kể cho nàng nghe), mặt hắn bầm dập sưng u hắn lạy lục chồng của “mụ phở” lia lịa, như tế sao. Hắn khẩn cầu, van lơn xin “ông” tha mạng. Ông chồng bị mọc sừng mà còn chút tình người, đã tha chết cho hắn. Ông chồng của mụ phở sợ thằng hàng xóm xấu nết quá, ổng lo bán nhà gấp, thu dọn đi mất biệt!
- Cả bà Nga nghèo khổ buôn mồ hôi bán nước mắt, tay bưng thúng xôi vò ngồi bệt ở vỉa hè ở đầu ngỏ. Ngày ngày hắn ghé xe đạp qua góc đường, lấy vài ba vắt xôi. Bà ta thương yêu hắn, luôn dúi cho gói xôi, kèm cho hắn chút tiền com cóp nhặt nhạnh trong thời kỳ mới hoàn tất cuộc cách mạng 75. - Đến bà Lan là bạn nhậu bù khú với nhóm của hắn, bà ta tu rượu như uống nước lạnh, thời gian đó hắn say bí tỉ, nhậu nhẹt ly bì, không biết trời trăng chi. Bọn họ ăn nhậu say sưa, khèo móc nằm la liệt ôm nhau làm tình chung chạ, không phân biệt “ông bà” như cá mè một lứa. Rồi hắn bu theo bà Dung chết chồng có con. Bà Dâu làm trong công ty dệt. Từ cô sinh viên gia giáo đến cô gái con nhà lành. Kể cả con Nguyệt xấu xí tuổi xấp xỉ bằng con gái hắn. Con Kiêm mặt ngựa thô thiển, cũng xấu xí ốm nhom ốm nhách, giơ ra cặp “trường túc bất chi lao” khẳng khiu, giọng nói lơ lớ, đanh đá và hung dữ bặm trợn hết biết. Chúng chả giống con giáp nào! (như hắn đã tả chân về những đàn bà đó, khi hắn xỉn xỉn cho bạn hay cả nhà nghe) ; lớn, bé, già, trẻ, thằng chả cũng bòn mút liếm láp hết, không tha.
Hắn đã dùng lời lẽ ngon ngọt đúng “một tông y khuôn đúc” đem ra sao chép, để phỉnh lừa họ. Chỉ vì hắn muốn dùng những người đàn bà kia, để thoả mãn tự ái là: hắn vẫn còn hào hoa phong độ, có sức chinh phục mê hoặc quý đàn bà nhẹ dạ, vì cái vỏ bên ngoài trau chuốt khá đĩ trai, hắn lại ưa dùng nước hoa sực nức mùi thơm (như dạ lý hương) để xịt quanh người của hắn. Nhất là để hắn trả thù đàn bà. Hắn muốn che đậy niềm đau đớn đã bị người con gái (xưa kia ở xứ lạnh mà hắn rất yêu, thế mà “cô nàng”… lại bỏ rơi hắn). Hắn hận! Do hắn cũng bị vợ ly dị, vì sự sa đọa trác táng chính hắn. Hắn đã lường gạt tiền của bạn bè, và của người yêu phương xa. Sau đó hắn mua nhiều vé số cặp. Hắn đã trúng 6 tỷ bạc, Và vẫn do… hắn muốn ăn cho khoái khẩu, nên hắn bị “phở xí Kiêm” (hắn dùng chữ “xí” có hai nghĩa: xấu xí & xí phần) mụ nầy lừa hắn một vố đau hơn bò đá; hắn sang tên lại cho con mụ Kiêm đứng tên một cái nhà, để có hiện kim hiện vật làm bảo chứng! hắn đưa tiền cho mụ ta đứng tên tài khoản riêng là 80 triệu đồng tiền VN, và hắn đinh ninh rằng mụ ta sẽ làm giấy tờ đi Mỹ du lịch với hắn. Nào ngờ mụ ta có chủ ý hẳn hoi, nên khi vô phỏng vấn, mụ Kiêm ú a ú ớ làm bộ ngu ngơ giả nai, nên mụ bị Mỹ từ chối. Trúng kế mụ Kiêm rùi! Thế là hắn đành đi du lịch mình ên. Ở nhà mụ Kiêm tom góp tiền còm, vì mụ Kiêm biết hắn lại vi vút với con đàn bà khác. Mụ Kiêm chả thèm ghen tuông gì, mụ ta chỉ cần bắt tại trận. Thế là mụ Kiêm tống cổ hắn ra khỏi chính cái nhà mà hắn đã sang tên cho mụ!!! Mụ Kiêm không yêu mến hắn, bấy lâu nay mụ ta sống với hắn chỉ vì tiền. Nhân dịp nầy mụ “Phở xí Kiêm” dọn sạch đồ đạc, mụ cho hắn ra rìa! Ồ! đúng hắn là thằng ma cô thì gặp con Phở Tú Bà ma cạo! Hắn hận vô cùng. Thế là… sau đó có rất nhiều chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra… “Phở Tả Pín Lù nhà hắn” đã bốc hơi thúi thum thủm ra thành phân, thúi hoắt mất rồi! Than ôi!
Quý anh thân kính ơi! Nếu chung thủy & chân thành thương yêu “cơm” xin hãy sớm lìa xa “Phở”. Chớ có dại dây dưa mà hại thân già! Mình khổ! Lá Mơ Khuyên Bồ Không Ăn Phở :
Bồ tôi chỉ thích ăn quà…
Về nhà lén vợ qua phà ăn thêm.
Phở bò gân tái sụn mềm…
Ăn cơm quá ớn Bồ thèm phở… rơi!
* Phải chăng duyên phận do Trời?
Bồ tôi có đủ… đầy vơi các nàng!
Nước hoài chàng chớ mơ màng.
Ngày đêm nút chát với nàng vi vu…
* Mặc dù con vợ lù đù!
Khui ra Bồ đã nhảy dù bao phen…
Xấu chàng hổ thiếp phận hèn.
Tên anh sẽ phải lem nhem danh đời!
* Khôn ngoan chàng hãy nên rời.
Từ nơi “phở tái”… “cơm” thời xa anh!
Lôi thôi lốc thốc sao đành.
Tối ngày chàng ngủ gốc chanh hận đời.
* Chẳng ai màn tới Phở dai…
Chàng ra nông nổi tiếng hoài thị phi.
Thử coi chàng bỏ lần ni.
“Cơm” không có mút nói gì “Phở” thiu!
* Chẳng qua em chỉ vì yêu.
Khuyên chàng khuya tối sớm chiều bên em.
Vòng tay ấm áp xiết thêm.
Trải giường mơ lá mình êm chàng nằm… (2)
***

(1) Thơ sưu tầm lượm lặt trên Net, không phải của tác giả.
(2) Thơ tiếu lâm AUD
( “ ... “) Tục ngữ & ca dao...

_ * _

Ái Ưu Du