PDA

View Full Version : Sài Gòn Chuyện Đời Của Phố - Phạm Công Luận



saomai
06-03-2016, 05:47 AM
Đừng để Sài Gòn thành "The Lost City"!
09/03/2015
Khắp nơi trên thế giới, khi nhận ra những thành phố xưa đẹp đang mất đi, người ta đã và đang cố gắng làm những điều gì đấy để có thể hồi tưởng và khôi phục lại.

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/2014/saigonamthuc.thanhnien.com.vn/pictures201503/tan_nhan/saigon_02.jpg?width=500
Những kiến trúc mới hiện đại nhưng thô kệch xóa đi không gian xưa đẹp khu trung tâm - Ảnh: P.T

Sài Gòn cuối mùa mưa - vẫn những cơn mưa chiều nũng nịu, lúc dài lúc ngắn. Thế nhưng, mưa những ngày tháng Tám, tháng Chín năm nay có khác. Thấy mưa cứ thêm buồn bởi vì trung tâm Sài Gòn, giao lộ Nguyễn Huệ - Lê Lợi đang ngổn ngang những hàng rào, lô cốt “đại công trường” - có gì vui? Nhìn xem, hàng cây xanh tram tuổi trước cửa Nhà hát lớn: cưa trụi! Cái bùng binh - đài phun nước và hang liễu đã quen thuộc hơn 50 năm - bị bứng mất! Tòa nhà Thương xá Tax đóng cửa, hấp hối trước tin một tòa nhà 40 tầng nào đấy sẽ thế chỗ... Chỉ vài năm nữa, thậm chí vài tháng nữa thôi, những kiến trúc xưa đẹp, những cảnh quan tiêu biểu còn sót lại ở khu trung tâm thành phố sẽ tan biến đi đâu đấy. Cho dầu, cuộc sống bao giờ cũng phải phát triển nhưng cái giá cho sự thay đổi ký ức trăm năm của một thành phố nếu cứ phải như thế thì buồn lắm chứ, đau lắm chứ, ức lắm chứ!

Chính trong những ngày mưa buồn như vậy, khi được Phạm Công Luận trao cho bản thảo tập Hai Sài Gòn - Chuyện đời của phố, tôi càng đọc càng thấy rưng rưng. Hóa ra, Luận đã và đang âm thầm góp nhặt những mảnh vỡ của một Sài Gòn lấp lánh đa dạng cho trước nhất - thế hệ 50 tuổi của chúng tôi. Cảm ơn Luận, từ hồi đọc tập Một và bây giờ tập Hai, tôi gọi anh là “ông già 6x, “ông Sơn Nam 6x” đang cho chúng tôi xem lại cuốn phim ký ức Sài Gòn từ thuở thơ ấu của mình. Có lẽ những bạn “ngũ thập” và các bậc cao niên hơn nữa, khi đọc những chuyện đời do Luận chắp bút, sẽ nhận ra nhiều kỷ niệm tưởng chừng đã mất, song hóa ra vẫn còn đâu đấy thanh thoát. Với tôi, Luận đưa tôi trở lại “vương quốc” chợ Bến Thành, giản dị mà kỳ diệu từ những hình phù điêu ở bốn cửa chợ, cho đến những phận người nổi trôi theo các sạp hàng. Từ chợ Bến Thành, anh dẫn chúng ta đến Lăng Ông, Bà Chiểu, từ con phố Lê Công Kiều nhỏ xíu đến cả dinh Độc Lập khổng lồ… Và rồi, thật bất ngờ, Luận cho tôi gặp lại Ban nhạc Tuổi Xanh ngày nào trên “Truyền hình băng tần số 9”. Ô hay, tôi gặp lại nỗi hồi hộp vào tuổi 12-13, khi bỗng dưng thấy một cô bé ca sĩ xinh xắn như thiên thần của Ban Tuổi Xanh từ tivi bước ra, hát “trong veo”, trong một buổi văn nghệ Tất niên ở sở Mẹ tôi làm. Đây nữa, Luận giới thiệu tôi gặp những nghệ sĩ nổi tiếng, giờ đây “hồn muôn năm cũ”: Thanh Nga, Kiều Hạnh,Trịnh Công Sơn, Trần Văn Trạch… Có những người ít khi ta nghe thấy nhưng họ lại là những người đã góp phần làm ra và lưu lại ký ức Sài Gòn: nhà nhiếp ảnh Đinh Tiến Mậu, đạo diễn Kha Thùy Châu, họa sĩ Duy Liêm…


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/2014/saigonamthuc.thanhnien.com.vn/pictures201503/tan_nhan/saigon_04.jpg?width=500
Nhà hát lớn Sài Gòn được khôi phục nét xưa, một ví dụ chung sống hài hòa
giữa hiện đại và cổ xưa - Ảnh: P.T

Luận không chỉ ghi lại cái ký ức chúng ta từng có mà còn giúp chúng ta khám phá thêm, tuyển chọn thêm những điều hay, tinh hoa của Sài Gòn xưa. Nhà Luận ở Phú Nhuận nhưng anh “thơ thẩn” khá nhiều ngóc ngách Sài Gòn. Luận làm báo nhưng cũng là người sưu tầm lịch sử, chịu khó làm quen đủ người tứ xứ. Anh tìm hỏi từ trí thức, nghệ sĩ đến doanh nhân, thợ thuyền và giới bình dân. Anh ghi lại câu chuyện nghe được, biết được từ gia đình, thân hữu và người dưng trước lạ sau quen. Không những thế, anh còn sục sạo các thư viện và những tủ sách, album ảnh gia đình. Luận có nhiều “hàng độc” để viết lắm: những căn nhà cổ, những bức tranh giấy và tranh kiếng Lục Tỉnh Nam Kỳ, những tấm ảnh “minh tinh, tài tử”, những tờ nhạc, tập báo, quyển sách xưa hiếm. Anh “moi móc” từ những vựa ve chai ngoài đường và trên mạng cho đến những sưu tập cá nhân ở Việt Nam và hải ngoại, để đưa ra những tư liệu không chỉ bằng chữ viết, chữ in mà còn là hình ảnh, lời kể, bức tranh, bức tượng, cuộn phim sống động. Tất cả những nhân chứng, vật chứng ấy, thấm đậm - cái nôn nao đi tìm sự thật và vẻ đẹp của ngày xưa và người xưa. Thấm đậm - cái cách anh yêu Sài Gòn không ồn ào mà lại sâu lắng... Và rồi, trên cái vốn thông tin và tư liệu giàu có đấy, để viết được thành sách, Luận có được một sự quan sát tỉ mỉ và tìm kiếm nhẫn nại. Luận có được một thần thái, một cách viết nhẹ nhàng, không cần điệu nghệ, không cần khoa trương mà vẫn cháy bỏng tình yêu đất và người.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/2014/saigonamthuc.thanhnien.com.vn/pictures201503/tan_nhan/saigon_05.jpg?width=500
Có cần làm mất một Sài Gòn French town của thế kỷ 20 khi bước qua thế kỷ 21
như khung cảnh phác họa này?

Tôi đọc và “khen” anh, và rồi, thật mắc cỡ, có lúc tôi “ghen” với anh. Tôi tự trách mình sao không viết thành sách, sao không kể bằng ảnh bằng phim những câu chuyện Sài Gòn, những con người Sài Gòn mà tôi đã biết từ lúc mê viết, mê sử đến giờ. Ôi, hóa ra, sách của “ông già 6x” đã và đang đốt lên dữ dội hơn nữa, trong tôi và có lẽ nhiều người yêu Sài Gòn, không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi lo lắng, sự thôi thúc phải ghi chép lại, phải giữ gìn được những điều hay đẹp về cuộc sống và con người của một thành phố lạ kỳ nhất Việt Nam này. Chợt nhớ, thỉnh thoảng, đi Đông đi Tây, tôi vẫn thấy có những quyển sách, những bức tranh, những cuộc triển lãm mang tên “The Lost City”. Khắp nơi trên thế giới, khi nhận ra những thành phố xưa đẹp đang mất đi, người ta đã và đang cố gắng làm những điều gì đấy để có thể hồi tưởng và khôi phục lại. Sài Gòn của chúng ta bước qua thế kỷ 21 với những biến đổi kinh tế vùn vụt, phải chăng cũng đang nhanh chóng trở thành “The Lost City”? Không, không thể như vậy! Những quyển sách về Sài Gòn xưa đẹp như Phạm Công Luận đang làm, những quán cà phê mang hình ảnh Sài Gòn ký ức đang mọc lên nhiều hơn. Và nữa, những bộ phim, sách ảnh khác tương tự đang xuất hiện nhiều hơn, đang giúp chúng ta tin rằng: Chắc chắn những ông già 6x và các thế hệ già hơn và ngay cả những người trẻ 8x, 9x đều không muốn Sài Gòn trở thành “The Lost City”! Chúng ta phải viết tiếp, làm tiếp nhiều điều để mai này, không than khóc không buồn thảm khi cứ phải “đập cổ kính ra tìm lấy bóng”, phải không “ông Sơn Nam 6x” của tôi?

Chiều mưa 9/10/2014
Phúc Tiến

saomai
06-03-2016, 05:54 AM
Sài Gòn chuyện đời của phố: Hoài vọng Tân Định - Đa Kao

Từ Phú Nhuận đi qua cầu Kiệu, khu Tân Định như mở ra một thế giới khác của Sài Gòn.


http://static.thanhnien.com.vn/Uploaded/congthang/2016_02_16/baotang_LWYW.jpg?w=665&encoder=wic&subsampling=444

Con đường Trần Quang Khải bắt đầu không gian đó, với cây cao bóng cả sang trọng như ấp ủ một thời Sài Gòn xưa cũ đầu thế kỷ.

Ông anh cả của tôi học trường Văn Lang ở đường Trần Quý Khoách vẫn nhắc tới Giáo sư - nhà thơ Vũ Hoàng Chương ròm tom, đi dạy học trên chiếc xích lô đạp, đầu những năm 1960. Nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng dạy ở trường này. Lớp có hơn 90 học sinh, ngồi chen chúc như cá mòi hộp.

Ông Dương Hữu Đạt hồi nhỏ sống trên con đường Albert Premier, nay là Đinh Tiên Hoàng, đoạn Q.1. Ông cho rằng người Sài Gòn thời đó sống chân chất, hiền lành hơn, mâu thuẫn giữa người Việt và Pháp cũng không gay gắt. Những người dân nghèo từ lục tỉnh lên sống lang thang trên đường phố khu Đa Kao, đánh giày hay bán sách dạo in bằng tiếng Pháp cho những bà đầm, anh lính hay viên công chức người Pháp. Họ kiếm sống từng bữa, ăn cơm hàng cháo chợ tằn tiện và không tham lam. Nhiều lần ông thấy những người lính Tây say rượu nằm lăn ra trên đường ngủ, bỏ mặc xe đạp bên lề đường. Mấy người đánh giày hay bán sách dạo dựng xe của họ lên, đạp mấy vòng phố xá chơi cho biết rồi đem đặt trở lại chỗ cũ. Những người đạp xích lô đầu những năm 1950 hay đậu xe bên lề đường này chờ khách. Họ thích uống cà phê bít tất, đổ ra dĩa cho mau nguội, uống nhanh để còn lo chạy mối. Trong khi chờ khách, họ nằm khểnh đọc báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, mải mê đọc truyện của các ông Thiếu Lăng Quân, Phi Long… Ông Đạt nghe mấy bà đầm Pháp kháo nhau rằng thật đáng ngạc nhiên khi dân lao động nghèo trên phố Sài Gòn rất thích đọc báo và có khi đọc sách nữa, điều không thấy có ở tầng lớp dân nghèo kiếm sống lề đường bên Pháp.

Khoảng thời gian đầu thập niên 1950, khu Đa Kao xôn xao vì một vụ tự tử thương tâm. Người chết là một bà xẩm - tên thường gọi phụ nữ người Hoa. Bà thuộc nhóm phụ nữ Hoa giúp việc nhà rất được người Pháp tin cậy, trả lương cao, cho phép đánh đòn con nít Tây. Bù lại, họ trung thành với chủ, sạch sẽ, nấu ăn ngon, dạy dỗ và thương yêu đám con nít. Người phụ nữ bất hạnh trong câu chuyện này không có gì sai sót trong mắt ông chủ giàu có người Pháp, chủ hãng xe Rồng Xanh (Dragon Vert). Tuy nhiên, một ngày kia ông phát hiện bị mất một số tiền lớn và bà xẩm bị nghi ngờ. Không biện minh được, bà xẩm thắt cổ tự tử để chứng minh sự trong sạch.

Người dân ở đây sống lâu với người Pháp nên hiểu họ khá rõ. Với tâm trạng tha hương, những anh lính hay giới công chức Pháp thích hưởng thụ xả láng cuộc sống vui chơi ở thuộc địa, nhiều người chìm đắm trong men rượu hòng quên đi nỗi nhớ quê hương và những nỗi căng thẳng khác. Đồng lương của họ được xài phung phí, chỉ sau vài ngày lãnh lương là gần cạn. Thỉnh thoảng lại có những trận đánh nhau giữa phu xích lô, thợ đánh giày với những người Pháp say rượu trước mấy cái nhà hàng khúc đường trước rạp hát Casino.
Sau khi tin tức về trận Điện Biên Phủ lan về Sài Gòn, người Pháp khu Đa Kao buồn và thu mình lại.

Có dạo tôi thường ghé nhà một anh chuyên rửa ảnh đen trắng thủ công trên con đường này. Trong lúc chờ đợi in ảnh, tôi đi bộ quanh khu Tân Định, hỏi dò vài người sống quanh đó về một quán cà phê mở sau 1975 của đôi vợ chồng nghệ sĩ Từ Dung - Từ Công Phụng mang tên “Từ Dung”, có chiếc piano trắng nhưng không ai biết quán đã từng đặt ở đâu. Tôi đi ngó đồ bán “xôn” trên lề đường, đi tràn sang phía bên khu xóm Vạn Chài và dọc đường thơ thẩn, tôi phát hiện có quá nhiều cái đình chỉ trong một khoảnh đất không lớn. Đình Nam Chơn, rồi đình Phú Hòa từng là nơi có quán cà phê của nghệ sĩ nổi tiếng Bảy Nhiêu, thân phụ của các nghệ sĩ Kim Cúc, Kim Lan. Đình Sơn Trà trên đường Nguyễn Phi Khanh. Trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là đình Tân An. Đình Nghĩa Hòa cũng trên đường Trần Quang Khải.

Sau này đọc sách mới biết xóm Vạn Chài ở vùng Đa Kao này là xóm của những người dân chài từ miền Nam Trung bộ di dân vào. Khi đã ổn định, họ lập ra tới bảy ngôi đình để tiếp tục thờ Thành hoàng của làng đánh cá ở quê cũ, mà họ gọi là vạn.

Bác Hai, chủ tiệm rửa ảnh kể tôi nghe về những hàng quán ngon lành mà giới công chức cao cấp thời trước 1975 thích ghé như nhà hàng Casino Đa Kao, có món độc đáo nhất là món tôm hùm đút lò. Nhà hàng cơm Tây La Cigale (Con ve sầu) trên đường Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) có món tôm cua ốc.
Ở đô thị Sài Gòn cũ, khu Đa Kao - Tân Định có thể nói tập trung nhiều tinh hoa của thành phố này nhất. Đó là vùng đất tụ hội những người tài hoa, cá tính, sành điệu... thể hiện nhiều nhất lối sống Sài Gòn cũ.


Phạm Công Luận
(trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)
Tủ Sách Tuổi Hoa

saomai
06-03-2016, 06:07 AM
Cô gái Sài Gòn đầu tiên mặc áo dài tân thời

Cách đây 80 năm, báo Ngày Nay đã có bài phỏng vấn và đăng hình ảnh một thiếu nữ mà tác giả khẳng định là cô gái Sài Gòn đầu tiên mặc áo dài theo lối mới.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/minhnguyet/2016_02_14/hongvan1_hgxw.jpg?width=500&encoder=wic&subsampling=444
Bìa báo Ngày Nay có bài viết về cô gái Sài Gòn đầu tiên mặc áo dài tân thời - Ảnh: T.L

Giữa thập niên 1930 tại Hà Nội, báo Ngày Nay, cơ quan ngôn luận chính thức của nhóm Tự Lực Văn Đoàn ra đời sau khi báo Phong Hóa bị đóng cửa. Báo lấy việc giải phóng cá nhân làm trung tâm điểm của sáng tác, tôn trọng tự do cá nhân, “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”. Ngay số đầu tiên ra ngày 30.1.1935, báo đã có bài cổ súy việc cải cách quần áo phụ nữ của họa sĩ Cát Tường, trong đó có bộ áo tân thời, tiền thân của chiếc áo dài hiện đại ngày nay. Ở trang 9 của số báo đầu tiên này là hình cô Nguyễn Thị Hậu, người đầu tiên mặc áo lối mới ở Hà Nội.
Sau đó, trên báo Ngày Nay số 5 ra ngày 10.3.1935, tác giả Chiêu Anh Kế đã có một bài phỏng vấn về thiếu nữ đầu tiên ở Gia Định mà ông khẳng định là người đầu tiên mặc áo dài tân thời.“Cô Hồng Vân là người thiếu nữ đầu tiên trong Nam mặc quần áo lối mới kiểu Le Mur (Le Mur nghĩa là bức tường - Tên gọi bộ áo của họa sĩ Cát Tường - TN). Trong một đêm chợ phiên ở Sài Gòn, người ta đã được trông thấy cô uyển chuyển trong bộ y phục màu hường, tà áo thướt tha và mềm mại”.
Tác giả đến nhà riêng phỏng vấn cô Hồng Vân về việc này. Cô Hồng Vân đã trả lời rất tự tin: “... Cách nay hai năm, ai nào được trông thấy một chiếc áo “hở ngực” hay một chiếc quần “rộng ống”. Mà nếu may mắn có một thiếu nữ ăn mặc như thế, người ta đã vội cho cô ấy là gái chơi bời, lẳng lơ và trắc nết”.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/minhnguyet/2016_02_14/hongvan_wkzc.jpg?width=500&encoder=wic&subsampling=444
Cô Hồng Vân trên báo Ngày Nay

Nói về cảm giác ban đầu khi mặc loại áo tân thời thể hiện rõ đường nét cơ thể thiếu nữ trong bối cảnh lúc đó, cô bảo: “Lúc đầu cũng xốn xang thực, nhưng cái gì cũng vậy, hễ nó quen đi thì thôi... một cái áo cổ bẻ, khác màu với vạt, cổ tay xếp nếp mà bắt “jour” mà lẫn vào mấy trăm cái áo lối cũ thường dùng thì ai không ngó, không trầm trồ này kia... Giả một chị em e lệ, có tính nhút nhát thì phải toát cả mồ hôi”. Cô cho biết dầu có đẹp mấy nhưng ban đầu cũng có người khen kẻ chê: “Người khen, cố nhiên là đám thanh niên biết yêu chuộng mỹ thuật, thích cải cách. Còn người chê... tất là mấy bà già khó tính”. Mang ra một bộ quần áo khác bằng lụa mỏng màu da trời nhạt, cô chỉ một đường rách và cho biết trong đêm chợ phiên của “Hội Bài trừ bệnh lao”, một “bà già” 45 tuổi theo cô không rời và rạch một đường thẳng băng bằng dao nhọn từ trên xuống dưới. Tuy gặp chuyện không vui như vậy, cô khẳng định không nản chí mà cho rằng: “Thấy cái hay, cái phải, chị em chúng tôi cứ mạnh bạo mà không quản ngại gì cả. Tôi chắc một ngày kia, chị em bạn gái mỗi người sẽ có một kiểu áo đẹp đẽ, một mẫu riêng hợp với da người... lúc bấy giờ các cô sẽ trẻ thêm, đẹp thêm một ít nữa”.

Qua bản lưu của báo Ngày Nay cách nay 80 năm, chúng ta thấy lại những suy nghĩ cởi mở của cô gái Sài Gòn - Gia Định trong trào lưu cách tân ở đất nước Việt đang thời phong kiến lạc hậu và thuộc địa.

Áo dài sài gòn cải tiến
Đến năm 1938 - 1939, kiểu áo dài thông dụng của miền Nam có tà áo cao tới khoảng đầu gối, cổ áo mỏng và nhỏ, gài kín lại và tay áo ráp phía trên cùi chỏ. Đến đầu thập niên 1950 tới năm 1954, giới nữ trẻ phục sức cởi mở hơn, tuy chiếc áo dài không thay đổi nhiều. Vải may áo đã mỏng hơn dịu hơn và đã có nhiều người thích may bó sát người chứ không rộng nữa. Họ bỏ khuy vải trên vạt con (vạt hò) để dùng khuy nút bóp. Họ may áo kiểu tay liền và bỏ kiểu tay ráp phùng ở vai đã có lúc thịnh hành ở miền Nam cuối thập niên 1940. Vải dùng để may thường là sa tanh trắng hay đen.

Cùng với áo tay liền, phụ nữ trẻ bỏ loại áo ngực dày để dùng loại gọn nhỏ kiểu phương Tây có tác dụng nâng ngực hơn. Đến năm 1954 - 1958, một số phụ nữ sang trọng diện áo dài đôi, như bộ áo cưới, gồm áo dày ở bên trong và lớp áo the mỏng có hoa, đắt tiền bên ngoài.

Đến năm 1958, áo dài ở miền Nam cải cách lớn như ai cũng biết, đó là kiểu áo dài của bà Trần Lệ Xuân với kiểu áo không cổ áo, hở cổ và vai, vạt hò được đắp lên tới bờ vai phải. Trong dịp lễ, bà choàng thêm bên ngoài một khăn choàng mỏng và thật dài. Chiếc áo này giúp phụ nữ giảm bớt bức bối ở vai và cổ, thể hiện được nét tròn đầy của hai bờ vai. Sau đó, áo dài tiếp tục được thay đổi: Kiểu hở cổ thì cải tiến ở cổ áo như cổ hở một phần vai hay nguyên vai, cổ hở một phần ngực hay phía trên lồng ngực và từ vai xuống trọn ức, dành cho các cô ngực nở. Còn có các cải tiến khác về cổ như cổ trái tim, cổ tròn không bâu.


Phạm Công Luận
(trích 'Sài Gòn, chuyện đời của phố' tập 3)

saomai
06-03-2016, 06:12 AM
Sài Gòn chuyện đời của phố: Về Bà Chiểu, rảo Hàng Bàng


Cô Tám nhắn tin trên Facebook hỏi tôi có biết cái hẻm nhà cô hồi đó gọi là hẻm “Ba cây Sao” không? Đó là cái hẻm trên đường Nơ Trang Long, xưa là đường Nguyễn Văn Học.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_02/toa-bo-gia-dinh-xua_nmzx.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Tòa Bố Gia Định xưa, nay là trụ sở UBND Q.Bình Thạnh - Ảnh: T.L

Hẻm gần ngã tư Bình Hòa, không xa cái nhà gỗ trên đường Rừng Sác nay là đường Nguyễn Thiện Thuật của ông Vương Hồng Sển. Cũng không xa cái nhà xưa trên cầu Băng Ky, mà mùa hè năm trước tôi viếng thăm và đưa vào cuốn Sài Gòn, chuyện đời của phố phần 1. Đằng trước hẻm nhà cô Tám có trồng ba cây sao cao vút. Bây giờ nó chỉ còn cái tên cũ không mấy ai biết, chỉ biết đó là cái hẻm 104 mà thôi.

Một tin nhắn nhỏ khiến tôi nghĩ ngợi về vùng Bà Chiểu và thấy rằng mình luôn có cảm giác dễ chịu khi đến nơi đó. Đất Bà Chiểu, giống như Lái Thiêu hay Trảng Bàng, đều là những vùng dân cư luôn khiến người mang tình hoài cổ có cảm xúc khi lai vãng. Ở nơi đó, xen giữa những nhà phố, thỉnh thoảng lại ló ra một căn nhà ngói rêu phong, một cây cổ thụ um tùm lá, một góc miếu thờ nhỏ hay mái đình to và ở đó dân cư thường hiền hòa, bình dị.

Đi về Bà Chiểu như đi về một quá khứ không xa lắm. Trường Vẽ Gia Định nay đã không còn mặt tiền xưa với những cái cột toscan và vòm cửa arcade rất đẹp, điều này khiến tôi luôn tự hỏi tại sao những người quản lý ngôi trường hay ở cấp cao hơn không tìm cách giữ lại một vẻ đẹp kiến trúc cổ điển và mang giá trị văn hóa, lịch sử và mỹ thuật rõ nét như vậy? Đi ngang nhà ông Vương Hồng Sển, nhìn vào sân sau thấy cây xoài thanh ca cuối sân đã chết nhưng vẫn cố đứng vững chịu đựng lũ dây leo quấn quanh chằng chịt. Kệ thờ ở dưới cái mái nhỏ trong sân giữa có di ảnh của ông và bà Năm Sa Đéc nhìn ra cái hòn non bộ buồn thiu, vài cây chậu nhỏ tiêu sơ và cái nhà lớn cửa đóng im ỉm.

Bà ngoại tôi, tiểu thư của một gia đình hết thời vùng Khánh Hội đầu thế kỷ 20 kể với má tôi rằng khi còn trẻ, bà thường có việc đi qua khu Bà Chiểu từ Gò Vấp trên xe thổ mộ theo đường làng số 15, bây giờ là đường Lê Quang Định. Xe đi qua xóm Gà, thường thấy hàng cây sao dài um tùm trong những buổi sáng sương sớm hay buổi chiều tối. Lúc đó là những năm 1925, 1926 khi bà vừa sinh má tôi... Xe thổ mộ lóc cóc đi ngang Tòa Bố Gia Định (nay là Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh, góc Phan Đăng Lưu - Đinh Tiên Hoàng) vào ban ngày, khách đi đường thưa thớt và ban đêm tối âm u vì đèn đường cách nhau rất xa, đầy tiếng ếch nhái ễnh ương kêu inh ỏi.

Tới Tòa Bố, xe quẹo cua vào đường Hàng Bàng ngay góc Lăng Ông. Đường Hàng Bàng là đoạn đường mang tên Đinh Tiên Hoàng từ đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh ngày nay cho tới Cầu Bông. Thời đó, hai bên đường là bưng bàng, dùng để đan đệm, không phải loại bàng lá to thân cứng, nên con đường này được gọi tên như vậy. Khu Bà Chiểu khi đó còn có đường Hàng Gòn, Hàng Dừa, Hàng Sanh... đặt tên tùy theo cây trồng hai bên. Đường Hàng Gòn nay là Hồ Xuân Hương. Đường Hàng Sanh bây giờ là đường Bạch Đằng, xưa rất vắng vẻ có trồng nhiều cây sanh có rễ phụ giống như cây đa, cây si... Vài người già ở Bà Chiểu luôn cảm thấy bực mình khi chữ Hàng Sanh bị viết sai thành Hàng Xanh như lâu nay.

Cô ma Ba Trâm
Khi gả con gái út vào một gia đình ở ngã năm Bình Hòa, hiểu biết của bà ngoại tôi về vùng Bà Chiểu càng đầy lên qua những câu chuyện với ông bà sui là dân cố cựu ở đây. Lúc đó, khoảng đầu thập niên 1950 đã có đông người lao động nghèo về ở nơi đây nhưng khoảng thập niên 1920 thì còn thưa vắng. Từ Cầu Bông về xóm Đình gần đó người ta còn làm ruộng, thậm chí còn thấy hai bên đường Hàng Bàng ruộng lúa tươi tốt chín vàng khi đến mùa gặt. Thú vui của dân xóm Đình gần đó là đi câu ếch và bắt cá lia thia, bắt còng.
Tuy nhiên, đám trẻ đi bắt cá lia thia ở quanh quẩn đường Hàng Bàng trong ngày nghỉ học thường không dám nán lại lâu vì sợ đến giờ Ngọ là giờ... ma đi. Giờ khắc đó, mấy người thả trâu cũng đã về ăn cơm chứ không còn ai ngoài ruộng. Ai cũng sợ cô Ba Trâm... nhát ma.

Về cô Ba Trâm, ông bà sui của ngoại tôi kể rằng: Cô còn trẻ, con nhà khá giả. Cô treo cổ tự tử sau khi bị bà mẹ ghẻ tàn độc hành hạ và ép gả chồng không theo ý mình. Nơi cô Ba Trâm tự tử là gốc cây trâm gần Trường Vẽ Gia Định (Đại học Mỹ thuật TP.HCM ngày nay). Nơi đó cây cối sầm uất, nhà cửa thưa thớt nên thân xác cô khi được phát giác đã không còn nguyên vẹn do bị thú ăn. Vì chết oan, lại chết thảm nên người dân tin là hồn cô không đầu thai được mà còn vất vưởng trên dương gian. Họ đồn về đêm cô thường hiện về trong dáng vẻ một cô gái bận áo trắng đứng đón xe song mã ở Hàng Xanh đòi đi dạo một vòng rồi về Gia Định. Xe nào đưa cô đi thì gặp may, từ chối thì gặp xui rủi và giở trò ong bướm sẽ bị vật chết. Bây giờ người ta cho rằng xóm Đình chính là đoạn đường Nguyễn Duy hiện nay, một con đường nhỏ còn tồn tại một số nhà kiểu xưa.

Câu chuyện này rộ lên từ cuối thập niên 1910 và mai một dần, hầu như dân cư ở đó không mấy ai biết. Đến đầu thập niên 1950, không thấy ai còn nhắc đến chuyện cô Ba Trâm nữa.
Lúc đó đường Hàng Bàng đã trở thành đường Lê Văn Duyệt (nay là đường Đinh Tiên Hoàng) và nhà cửa đã đông đúc hơn.


Phạm Công Luận

saomai
06-03-2016, 06:25 AM
Sài Gòn chuyện đời của phố: Siêu thị đầu tiên ở VN

Siêu thị Nguyễn Du, khu siêu thị đầu tiên ở Sài Gòn và có thể nói là toàn cõi VN mở cửa năm 1967, mang đến cho nhiều gia đình công tư chức ở Sài Gòn những tiện lợi trong chuyện mua sắm mà trước đó không hề có.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/congthang/2015_02_26/kieuchinh_bayi.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Diễn viên điện ảnh Kiều Chinh đến mua hàng tại siêu thị Nguyễn Du trước 1975 - Ảnh: Tư liệu

Một dịp sát tết, tôi được đến siêu thị với anh trai, thấy nó giống một cửa hàng cực lớn, máy lạnh mát rượi và đầy những thứ lạ lẫm. Khách mua hàng toàn những người lớn ăn bận lịch sự, nam với áo chemise bỏ vào quần, những người lính và nhiều phụ nữ bận áo dài. Do xe đẩy không có nhiều như bây giờ, khách mua hàng toát mồ hôi sắp hàng tính tiền, tay lủ khủ hàng hóa trong những cái túi lưới.

Siêu thị Nguyễn Du được thiết lập ở góc đường Nguyễn Du và Chu Mạnh Trinh, Sài Gòn (hai con đường này nay thuộc quận 1, tên đường không thay đổi cho đến nay) do Tổng cuộc Tiếp tế thành lập. Theo một số tài liệu, năm 1966, ông Trần Đỗ Cung, đứng đầu cơ quan trên được giao nhiệm vụ quân bình thị trường. Ngoài việc cấp bách như giải quyết những việc cần thiết cho đời sống người dân như nhập xe gắn máy, điều hòa việc phân phối thịt heo, gạo, ông dự tính thiết lập tại VN các trung tâm bán lẻ để phục vụ đại chúng, nhất là những người có đồng lương ổn định.

Đầu tháng 2.1967, một phái đoàn do ông Cung cử ra đã đến thăm chợ Mỹ (Commissary) ở đường Hùng Vương, Chợ Lớn để quan sát hoạt động cùng cách tổ chức của cơ sở này. Sau đó một tuần, ông Trần Đỗ Cung cùng một chuyên viên tài chính lên đường đi Philippines theo lời mời của Tập đoàn siêu thị Makati ở thủ đô Manila để nghiên cứu về quản lý, kiểm soát, tổ chức và sản xuất thực phẩm. Họ còn tiếp tục đến Hồng Kông, Singapore để tham quan các siêu thị. Sau đó, tổ chức đào tạo về cách vận hành siêu thị cho nhân viên và tổ chức một khu chợ tết vào tháng 1.1967, vừa để phục vụ việc mua sắm tết vừa tổ chức buôn bán theo hình thức mới để huấn luyện nhân viên của mình.
Theo hồi ký của ông Trần Đỗ Cung xuất bản tại Mỹ năm 2011, một kiến trúc sư người Đức tên Meier đã được thuê vẽ họa đồ xây cất siêu thị, phối hợp với Công ty NCR về trang bị, thiết bị bên trong. Ngày 16.10.1967, siêu thị đầu tiên ở VN chính thức ra đời, mở đầu một kỷ nguyên mới cho ngành bán lẻ. Từ cửa vào, khách đi tay không vô siêu thị bằng một cửa quay, tự lấy một giỏ xách hay xe đẩy và đi lựa chọn hàng đã ghi sẵn giá trên kệ. Chọn xong, họ tính tiền ở các quầy thu ngân có máy tính tự động. Siêu thị này có 6 quầy thu ngân ở cửa ra, trong đó có một “quầy hỏa tốc” dành cho những người mua ít hàng. Còn có một lối ra cho người không mua hàng. Cách thức không khác gì siêu thị ngày nay, nhưng khi nó được áp dụng cách nay gần 50 năm thì là một sự ngạc nhiên và kỳ thú đối với khách mua hàng Sài Gòn. Trong hồi ký, tác giả tả không khí lúc đó: “Siêu thị đã hoàn tất trên đường Nguyễn Du, có bãi đậu xe rộng rãi. Ngày khai trương cả đoàn xe Honda, Mobylette và Vespa rầm rập kéo đến chở vợ con hí hửng bước vào ngôi chợ tối tân mới mở cửa, phục dịch khách mua hàng một cách niềm nở và lịch sự”.

Sau khi khai trương hơn một tháng, siêu thị Nguyễn Du tổ chức một sự kiện đánh dấu sự thành công của mình. Khi người khách thứ 100.000 đến đây và đặt tay vào cửa quay, loa phóng thanh phát to: “Hoan nghênh công dân siêu thị thứ 100.000, là anh Lê Văn Sâm...”. Anh được choàng băng kỷ niệm và được ông quản đốc trao tặng giải thưởng trị giá 10.000 đồng.

Siêu thị Nguyễn Du nằm trên diện tích 30.000 m2, ở một khu phố còn vắng vẻ không phù hợp cho việc buôn bán lắm nhưng khi siêu thị được lập ra, số khách hàng lui tới được đánh giá là “ngoài mức tưởng tượng”. Trung bình mỗi ngày có khoảng 2.500 người đến mua sắm và doanh thu mỗi ngày tối đa là 1,5 triệu đồng thời đó.
Trước khi siêu thị được thành lập, trong giới doanh thương Sài Gòn, tuy rất nhanh nhạy với cái mới đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là việc làm “không tưởng”. Tuy nhiên, Tổng cuộc Tiếp tế với ý định sẽ thiết lập các chuỗi dây chuyền siêu thị tư nhân đã không chùn bước. Sau khi siêu thị này hình thành ít lâu, họ nhận được nhiều thư tán thưởng và nhiều tư nhân tấp nập gửi đơn đến đề nghị cộng tác thiết lập siêu thị tư nhân dưới hình thức này hay hình thức khác. Đến tháng 12, đã có hai siêu thị tư nhân cỡ nhỏ là An Đông và Đoàn Thị Điểm mở ra. Cái thứ ba ở Biên Hòa được trang bị để mở vào Tết Mậu Thân năm 1968
.
Siêu thị này và những siêu thị nhỏ khác ở Sài Gòn và các vùng lân cận hoạt động đến 1975 thì chấm dứt. Sau đó là khoảng thời gian vắng bóng siêu thị cho đến gần 20 năm sau mới xuất hiện trở lại (khoảng 1993). Đến nay nhiều người vẫn cho rằng, siêu thị ở VN bắt đầu quá muộn mà không biết nó đã hình thành từ gần nửa thế kỷ nay và đã được tổ chức hoạt động rất tốt không khác gì các siêu thị bây giờ.


Những hình ảnh tư liệu về siêu thị Nguyễn Du - siêu thị đầu tiên ở Việt Nam

Đi trước cả Bangkok
Sau khi siêu thị Nguyễn Du được thành lập không lâu, ông Cung được SMI (Viện Siêu thị - Super Marketing Institute) mời qua Bangkok (Thái Lan) gặp các nhà buôn Thái để trình bày kinh nghiệm khi hình thành siêu thị đầu tiên này. Như vậy, dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, Sài Gòn đã đi trước Bangkok, một thành phố lớn sống trong hòa bình về việc buôn bán lẻ qua hệ thống siêu thị.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieu-thi-1_yenl.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthi2_pzvy.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthi4_jjtu.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthi5_xzlt.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthi7_epev.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthinguyendu_imcd.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/sieuthisgtruoc1975_bqjo.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Những hình ảnh tư liệu về siêu thị Nguyễn Du - siêu thị đầu tiên ở Việt Nam

(Trích từ Sài Gòn - Chuyện đời của phố phần 2 )

saomai
06-07-2016, 07:39 AM
http://static.thanhnien.com.vn/Uploaded/trandong/2016_02_15/departo-6_EVDM.jpg?w=665&encoder=wic&subsampling=444
Saigon Departo là dãy nhà phía bên trái, góc ngã tư Tự Do - Thái Lập Thành (nay là Đồng Khởi- Đông Du) - Ảnh: T.L

Trên báo xuân Chính Luận năm 1969, bài phóng sự của H.Thủy Ba bộ mặt của Tết Sài Gòn có nêu: “Đi đến đường Tự Do mà không ghé Saigon Departo thật là một thiếu sót. Trong dịp tết đến, Saigon Departo được huy động toàn lực để... vét túi khách hàng giàu sang”.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_15/departo-5_fmph.jpg?width=489&encoder=wic&subsampling=444
Khu bán đồ gốm sứ, sơn mài và quạt điện - Ảnh: T.L

Tác giả viết tiếp: “Dân nghèo mà vô đây thì đúng là cảnh chim chích lạc vào rừng. Các món nữ trang, mỹ phẩm đến các đồ tiểu thủ công nghệ chẳng hạn như đèn trang hoàng, giá cũng phải ba bốn chục ngàn một món. Dân nghèo sức mấy mà sờ vào đó... Ít người tay xách nách mang vì có xe hơi bên cạnh, mua gì là họ gọi tài xế tống ngay lên đó chở về nhà...”.
Nhiều người, nhất là giới phụ nữ, cố gắng đến Saigon Departo để xem ít nhất một lần cho biết, nhân tiện ghé cửa hàng thực phẩm Pháp gần đó mua bơ Bretel hay cá mòi Sumaco, nước tương Maggi ăn với bánh mì cho bữa điểm tâm.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_15/departo-3_twtn.jpg?width=489&encoder=wic&subsampling=444

Sự hiện diện của loại hình trung tâm bách hóa tổng hợp ở VN có bề dày không lâu và do người Pháp lập nên. Nổi tiếng nhất miền Bắc là Gô đa (tiếng Pháp là Godard) sang trọng bậc nhất thời Pháp thuộc, nay là Tràng Tiền Plaza. Còn ở miền Nam, đó là thương xá Tax. Tòa nhà bách hóa tổng hợp này có lịch sử lâu đời, được bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ 19, lúc đầu mang tên Les Grands Magazins Charner (GMC).

Năm 1967, song song với việc thành lập siêu thị đầu tiên ở miền Nam và có lẽ là của cả nước, một trung tâm bách hóa tổng hợp đã được mở ra ở Sài Gòn, cạnh tranh thu hút khách với thương xá Tax. Điều cần lưu ý là trung tâm buôn bán này được vận hành khá bài bản, hiện đại không khác mấy hoạt động của các trung tâm bách hóa tổng hợp hiện nay. Đó là Trung tâm bách hóa Saigon Departo, thiết lập tại đường Tự Do, quận Nhứt (nay là đường Đồng Khởi), trực thuộc Sài Gòn đại bách hóa thương xã.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_15/departo-2_gqrp.jpg?width=489&encoder=wic&subsampling=444
Khu bán đồ chơi và búp bê - Ảnh: T.L

Departo là cái tên do người Nhật đặt ra, tương tự như Department store của Mỹ, Anh nhưng quy mô nhỏ hơn. Saigon Departo mượn cái tên này nói lên tính chất và quy mô của trung tâm. Như tất cả các trung tâm bách hóa, người dân đến đây có thể mua đủ loại vật dụng cho gia đình, đồ dùng hằng ngày, trong bếp, văn phòng, vải vóc quần áo, đồ dùng đi du lịch... mà không phải đi đâu xa.

Sau khi xuất hiện không lâu, cái tên Departo ở Sài Gòn đã mang ý nghĩa sành điệu. Không chỉ vì có bán nhiều đồ cao cấp, có cách bài trí hàng hóa tiện lợi và đẹp mắt, phong cách phục vụ mới mẻ như một làn gió mới thổi vào đời sống của người Sài Gòn thập niên 1960.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_15/departo-4_mvxw.jpg?width=489&encoder=wic&subsampling=444

Việc đào tạo nhân viên ở đây tiến hành khá bài bản trong điều kiện đang có chiến tranh là điều ít ai ngờ tới. Trước ngày 16.7.1967 là ngày chính thức mở cửa, ban giám đốc trung tâm này dành thời gian hơn nửa năm đi nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các sản phẩm có thể kinh doanh. Họ lập một đoàn sang Nhật Bản, Hồng Kông và vài quốc gia châu Âu để học hỏi kinh nghiệm. Sau đó, việc tuyển chọn nhân viên được tiến hành. Hơn 60 thiếu nữ bán hàng được tuyển dụng từ cuối năm 1966, có trình độ học thức khá, nói được tiếng Anh, Pháp và trình độ trung học. Họ được ông Trần Thiện Ân, người của Bộ Kinh tế chính quyền Sài Gòn, đào tạo trực tiếp. Ông Ân từng tốt nghiệp chuyên ngành Department store tại Mỹ, từng thực tập tại trung tâm bách hóa R.H.Macy tại New York 4 năm nên nhiều kinh nghiệm và bài bản. Ông huấn luyện nhân viên từ lý thuyết đến thực hành về cách giao dịch và cử chỉ niềm nở với khách, cách bán hàng, gói hàng, giới thiệu hàng.
Tuy chỉ có hai tầng, trệt và lầu chiếm 1.500 m2, trung tâm có đủ các khu vực bán hàng: khu vật dụng trong nhà, khu mỹ phẩm và đồ mỹ nghệ, thực phẩm công nghiệp như đồ hộp. Lầu hai bán vải vóc, quần áo trẻ em may sẵn, máy thu thanh, máy vô tuyến truyền hình, đồ điện. Tầng này có khu giải trí cho trẻ em và khu vực giải khát có máy phát phim ca nhạc sử dụng đồng jeton bỏ vào lỗ để chọn phim. Hàng hóa ở đây 70% là hàng nước ngoài và 30% hàng trong nước. Với cơ cấu hàng hóa đó, khách mua hàng là giới khá giả ở Sài Gòn và người nước ngoài. Các dịp lễ tết, cửa hàng rất đông khách


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_15/departo-1_ejsh.jpg?width=489&encoder=wic&subsampling=444
Khu bán đồ gia dụng và khu giải trí cho thiếu nhi - Ảnh: T.L

Cùng với siêu thị Nguyễn Du và thương xá Tax, Saigon Departo tạo nên bộ mặt thương nghiệp hiện đại của Sài Gòn cách nay gần nửa thế kỷ, sớm thúc đẩy nền thương nghiệp mang tính cạnh tranh của người Sài Gòn và giúp dân chúng quen với mô hình buôn bán hiện đại, tiện dụng của thế giới trong điều kiện chiến tranh không dễ gì ra nước ngoài đi du lịch tìm hiểu cuộc sống quốc tế.

Phạm Công Luận
(trích 'Sài Gòn chuyện đời của phố', tập 3)

saomai
06-07-2016, 07:51 AM
Sài Gòn chuyện đời của phố: Một thời bảnh trai

Người ta hay nói về tính cách đàn ông Sài Gòn với đầy đủ tính tốt, tật xấu chứ không mấy ai nói về diện mạo của đàn ông thành phố này.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_01/tran-quang_klxb.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Nghệ sĩ Trần Quang (thứ hai từ trái qua) cùng các bạn bè nghệ sĩ Sài Gòn

Kể từ thời Pháp thuộc, khi Sài Gòn thuộc về Cochinchine là xứ thuộc địa, người Sài Gòn, nhất là giới làm việc cho Tây nhanh chóng thay bộ áo dài khăn đóng để bận âu phục cho phù hợp với công việc. Rồi xuất hiện lớp thợ cắt tóc theo đúng kiểu Tây cho giới quan chức, lính thuộc địa Pháp và cho cả giới quan chức Việt cũng như người làm ăn kinh doanh. Thanh niên Sài Gòn bắt đầu cắt tóc ngắn trong khi miền Trung và Bắc vẫn phổ biến tóc dài búi tó và ít ra cho đến giữa thập niên 1920 vẫn còn ảnh hưởng Khổng giáo từ cách ăn mặc, nói năng. Đầu thập niên 1920, khá đông công chức Sài Gòn lương tháng 6 đồng hoặc 4 đồng “đã đua nhau diện âu phục: áo “bành tô” cổ đứng, một hàng nút lớn bằng xà cừ kết ở giữa, đội mũ trắng, mang dép da. Các bậc “ông” - như commis, thì mang giày tây do từ bên Tây gửi sang bán với giá đắt, thường thường là loại giày bottin da đen, cao cổ” (theo Nguyễn Vỹ - Tuấn chàng trai nước Việt tập 1, tác giả tự xuất bản 1969).

Thập niên 1950, nhìn chung đàn ông Sài Gòn biết chú ý đến hình thức vẫn cố giữ nét lịch lãm ảnh hưởng của giới quan chức Pháp ở thuộc địa với tóc chải để lộ vầng trán cao. Hình ảnh giới nghệ sĩ phản ánh điều đó, trong chân dung lưu lại của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ca sĩ Duy Khánh, hai nghệ sĩ Hoài Trung và Hoài Bắc Phạm Đình Chương với gương mặt sáng trưng, thông tuệ như giáo sư đại học


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_01/trangphuc_vopp.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Trang phục phổ biến thập niên 1950 - 1960

Từ thập niên 1960 cho đến 1975, phim Tây, Mỹ trở nên phổ biến. “Đẹp trai như Alain Delon!” là câu thành ngữ mới để đánh giá trai đẹp. Và sau này khi Nguyễn Chánh Tín lần đầu xuất hiện trong phim Đời chưa trang điểm với vai Tuấn, một chàng đẹp trai con nhà giàu thì dân gian sửa lại là “Đẹp trai như Nguyễn Chánh Tín”. Khi Trần Quang diễn xuất với bộ ria mép, người Sài Gòn không thể không liên tưởng tới Clark Gable hay sẽ nghĩ đến Charles Bronson khi xem diễn viên Tâm Phan đóng phim.
Thời trước 1975, đang có chiến tranh, cũng là thời sản xuất mạnh, hàng hóa nhiều, đàn ông có giá không còn là thầy ký, thầy thông sáng cắp ô đi tối cắp về nữa mà là thầy Hai làm sở Mỹ bận áo montagut sáng lấp lánh, lái Vespa vào cuối tuần hoặc ông thầu khoán cười lóe răng vàng...

Những vẻ đẹp thời thượng

Xem lại tập ảnh cũ sưu tầm được, diện mạo của các nam nghệ sĩ Sài Gòn xưa khá đa dạng. Họ xuất xứ từ khắp các vùng miền nên mỗi người mỗi vẻ: mạnh mẽ, rắn rỏi, đôn hậu, sáng trong hay bí ẩn, đểu giả hay chân thật... Họ có nét chung là thích chải tóc theo kiểu thời thượng, kiểu tango, chải tóc vuốt lên rồi vẹt ngang cho bồng cao. Một số nam nghệ sĩ chải đầu tém phía sau gáy, ai không có tóc ép tự nhiên thì dùng gel ép cho thật kỹ. Có nghệ sĩ dù mỗi ngày ăn quán ngủ đình, ở nhà trọ, ăn cơm hội nhưng vẫn sáng rực trên sân khấu với vẻ hào hoa uy dũng

Khi còn nhỏ, tôi thích vẻ đẹp trai tươi tắn của ban Tam ca Sao Băng. Tươi sáng nhất vẫn là gương mặt của ca sĩ Thanh Phong. Anh là người gốc Hoa, trắng trẻo, biết ăn diện, tóc chải bảy ba. Nụ cười của anh được nhà văn Hồ Trường An gọi là “cười cầu tài” khiến cái nhìn của anh thân thiện và cuốn hút.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_01/hungcuong_akvk.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Nghệ sĩ Hùng Cường

Hùng Cường là ngôi sao nam sáng nhất trên sân khấu cải lương và ca nhạc miền Nam. Anh có chiều cao lý tưởng thời đó. Nhớ hồi nhỏ trong một chương trình ti vi, tôi thấy anh trả lời phỏng vấn rất dõng dạc: “Tôi, Hùng Cường, tên thật là Trần Kim Cường, cao một mét bảy, nặng bảy chục ký!”. Đã vậy, anh còn tập thể hình nên giữ dáng rất tốt. Tuy có lúc anh ăn diện hơi lố, theo như Hồ Trường An: “Vào thập niên 1960, anh diện theo lứa choai choai đợt sóng mới với áo da, tóc chải gie trước trán”. Theo nhà văn này, vốn là ký giả kịch trường trước 1975, Hùng Cường thích đeo dây chuyền vàng to, mề đay lớn, cườm tay đeo lắc vàng, ngón tay áp út đeo nhẫn nạm kim cương. Anh là vẻ đẹp phổ thông cuốn hút của đa số người miền Nam.

Một ngôi sao ca nhạc nổi bật ở Sài Gòn là Chế Linh, rất được giới bình dân yêu thích với giọng ca da diết rên rỉ. Nhìn ảnh hồi trẻ, ta thấy anh khá bảnh trai với mái tóc dày, đôi môi tươi và đôi mắt đẹp của dân tộc Chăm luôn linh hoạt. Anh thường diện những bộ complet màu tối cho hợp với nước da mình.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_01/che-linh_fovi.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Ca sĩ Chế Linh

Nhiều người cho là đẹp trai lâu nay trong giới nghệ sĩ vẫn là Trần Quang, Hùng Cường hay Nguyễn Chánh Tín. Họ có vẻ đẹp hiện đại, gần với phương Tây hơn không chỉ vì vóc dáng cao ráo mà còn ở nét diễn xuất, thể hiện qua cái nheo mắt, chau mày, cái nhìn nghiêng, đảo mắt... Bên cạnh đó là những nét đẹp lạ, chân phương hơn của những nghệ sĩ như Bảo Ân, Thanh Tú, Tâm Phan, La Thoại Tân.

Bao nhiêu năm đã qua từ khi những nghệ sĩ nói trên cất giọng, diễn xuất trên sân khấu, màn ảnh. Hầu hết họ đã ra đi hoặc đã già yếu. Còn lại thứ ánh sáng đã cũ, trong những tấm ảnh lưu giữ được. Ánh sáng từ nửa thế kỷ trước, khó phai mờ, những vẻ đẹp nam tính mà họ đại diện, của một thời ở thành phố này.

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_03_01/quangcao_ewwh.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Quảng cáo nhà may trên báo xuân xưa


Phạm Công Luận

saomai
07-03-2016, 07:56 AM
Sài Gòn – chuyện đời của phố Quán cơm, phòng trà Anh Vũ


ĐÔI LỜI GIỚI THIỆU: “Sài Gòn: Chuyện Đời Của Phố” là bộ sách gồm 3 cuốn của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam kết hợp với NXB Hội Nhà Văn ấn hành. Bộ sách được độc giả trong nước đón nhận nồng nhiệt. Do bởi một lẽ: Qua những trang sách, Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn được tái hiện hết sức sinh động. Một độc giả ghi nhận trên trang Facebook: “Phong cách điềm đạm, nhẹ nhàng cẩn trọng, mới mẻ” là những cảm nhận chung của rất nhiều độc giả khi đọc “Sài Gòn- chuyện đời của phố” của Nhà báo – tác giả Phạm Công Luận. Bằng những tư liệu quý, sinh động, cách thể hiện mềm mại, có tính hệ thống, nhà báo – tác giả Phạm Công Luận đã từng bước vẽ nên một bức tranh “nhiệm màu” về Sài Gòn – “Hòn ngọc Viễn Đông”, mảnh đất phồn hoa một thời.

Đó chính là “nỗi nhớ và niềm đau” về Sài Gòn của người nơi xa đến. Sài Gòn được ví như “người mẹ hiền bồ tát”. Sài Gòn luôn rộng mở đón nhận, cưu mang, chở che hết thảy những người con tìm về với Sài Gòn để chọn làm quê hương thứ hai sinh sống và lập nghiệp. Những khu người Hoa, người Quảng, người Chăm… vẫn còn đấy, như minh chứng cho Sài Gòn bao dung.

…Nhưng có lẽ, cảm động hơn cả là những câu chuyện ấm lòng giữa Sài Gòn – mảnh đất tình người. Qua từng trang sách, vài câu chuyện vụn vặt về phận nghèo mưu sinh như “chú Chệc bán đậu phụng rang”, “cánh xe ôm uống cà phê vợt đọc nhật trình”, “cư dân xóm Đa Kao”… tuy nghèo nhưng họ vẫn an nhiên, phong lưu, giữ được nguồn gốc, bản sắc văn hóa của riêng mình. Hoặc khi, người giàu sụ cũng có phong thái giản dị đến bất ngờ để tác giả phải thốt lên rằng “Người trong này họ như thế”.

Sau đây xin giới thiệu đến quý vị một bài trong Sài Gòn-Chuyện Đời Của Phố. Bài về quán cơm và phòng trà Anh Vũ nơi bản thân từng lui tới khi còn là sinh viên.

NGUYỄN & BẠN HỮU



Quán Anh Vũ là cái tên ban đầu của quán văn nghệ, quán cơm nghệ sĩ và sinh viên Anh Vũ, thành lập từ sáng kiến của ông Võ Đức Diên, một kiến trúc sư và cũng là một nghệ sĩ.


http://wp.baotreonline.com/wp-content/uploads/2016/03/BAOTREONLINE_TINTUC_Tin-anh_1_344754.jpg

Quán Anh Vũ – ẢNH: TƯ LIỆU

Người bạn của tôi, sống ở khu vực gần cầu Trương Minh Giảng, xưa gọi là khu xóm Vẹc (do từ cái tên cũ Eyriaud Des Vergnes thời Pháp thuộc của đường Lê Văn Sỹ, Q.3 hiện nay), kể chuyện chị mình, nay cũng đã hơn 70 tuổi:

Năm 20 tuổi và đang là sinh viên, khoảng đầu thập niên 1960, chị náo nức khi đọc báo và biết có cuộc thi tuyển lựa diễn viên đóng xi nê ma ở quán Anh Vũ, đường Bùi Viện. Vốn là cô gái gốc Bắc khá xinh xắn ở khu di cư Bùi Phát, chị đánh liều đi dự tuyển, không xin phép gia đình (vì có xin cũng không được phép).

Cuộc dự tuyển do Hãng Liên Phim tổ chức, quảng cáo là một cuộc tuyển lựa vô cùng vĩ đại. Mướt mồ hôi dự tuyển, tự diễn vài cảnh nho nhỏ, chen vai thích cánh với hàng trăm người, cuối cùng chị ra về, mong có vai diễn trong phim Đò dọc và Tình bạn gì đó nghe nói sắp quay.

Về nhà đợi mãi, nghĩ đi nghĩ lại rằng nếu mình trúng tuyển đi đóng phim thì bố mẹ sẽ nói sao! Cuối cùng, không hề thấy ai gọi và cũng không có bộ phim nào có tên như vậy ra đời. Chị thẫn thờ tiếc một cơ hội không biết có hay không, rồi lại mừng vì nếu nó đến thì phải ăn nói làm sao với “ông bô bà bô”. Nhưng nhờ vậy, chị biết đến một quán cơm từ thiện rẻ và ngon dành cho sinh viên, và biết thưởng thức ca nhạc ở phòng trà, một thú giải trí rất mới, thanh lịch, dù có hơi tốn kém so với túi tiền sinh viên.

Trước kia vào khoảng năm 1945, ông Võ Đức Diên lập ra một ban kịch lấy tên là Anh Vũ và tái lập năm 1955, sau đó ông lấy tên này để tiếp tục thực hiện ước vọng của mình là vừa làm việc xã hội vừa tiếp tục theo đuổi hoạt động văn nghệ. Quán Anh Vũ là nơi gặp gỡ giới nghệ sĩ sáng tác và biểu diễn, là nơi thí điểm để các tài năng mới thể hiện mình khi chưa có tên tuổi.

Thời điểm cuối thập niên 1950, chỉ các vũ trường mới có trình diễn ca nhạc nhưng chủ yếu để khách khiêu vũ, nên khi quán Anh Vũ hình thành phòng trà giải khát và thưởng thức âm nhạc đã tạo một sinh khí mới trong sinh hoạt nghệ thuật của Sài Gòn. Anh Vũ là phòng trà có bề ngang chừng 10 m, sâu khoảng 30 m, chứa được 300 đến 400 chỗ ngồi và một ban nhạc, nằm phía sau rạp Nguyễn Văn Hảo, số 43 Bùi Viện, một con đường nhỏ sát trung tâm Sài Gòn. Quán được mở ra trước Tết Canh Tý 1960, được xem là một quán thanh lịch và có phòng trà lớn nhất Sài Gòn lúc đó. Trong khuôn viên quán có một sân khấu nhỏ phía bên phải, còn quán ăn nằm phía bên trái.

Ban ngày, nơi đây là quán cơm. Mỗi bữa cơm chỉ có hai mức giá 5 đồng và 10 đồng, được xem là rẻ vì tính giá bằng phân nửa giá bán thông thường. Quán mở đến 7 giờ tối, lúc nào cũng đông nghẹt khách.

Buổi tối, phòng trà mở cửa. Ban đầu, ông Võ Đức Diên mời được nhạc sĩ Phạm Duy về giới thiệu chương trình, còn nhạc sĩ Lê Thương phụ trách sân khấu ca vũ kịch. Ngoài ra còn có Ban Vũ Phong Lan của hai vũ sư nổi tiếng Lưu Bình và Lưu Hồng. Số ca sĩ thường trực ở quán là 12 người. Lớp ca sĩ tiên phong của phòng trà này có danh ca Duy Khánh, Việt Ấn và các nữ ca sĩ Nhật Thiên Lan, Lệ Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu. Ca khúc Hận Đồ Bàn với tiếng hát trầm ấm của Việt Ấn đã làm say mê người nghe. Quán còn được sự góp mặt thường xuyên của các ca sĩ như Bạch Yến, Mai Hương, Duy Trác, Cao Thái…

Không ít ca sĩ đã từ ca hát ở phòng trà và vũ trường mà rực sáng và Anh Vũ là một cái nôi nghệ thuật của Sài Gòn. Theo nhà báo Đoàn Thạch Hãn, tại phòng trà này, nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Ánh 9, lần đầu tiên đệm dương cầm cho ca sĩ Thanh Thúy biểu diễn rất thành công tác phẩm đầu tay Ướt mi của Trịnh Công Sơn. Có người cho rằng bài Phố buồn được nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác chính trong giai đoạn này. Năm 1962, Khánh Ly bắt đầu sự nghiệp ca hát tại phòng trà Anh Vũ lúc mới 18 tuổi và chưa nổi tiếng.

Phòng trà và quán cơm Anh Vũ thời gian đầu trở thành địa chỉ sum họp của giới nghệ sĩ, nhà báo, nhà văn Sài Gòn thời đó. Có lúc Anh Vũ cũng tổ chức các hoạt động khác như là nơi tuyển chọn diễn viên như câu chuyện kể trên.

Đến cuối năm 1962, do tình hình an ninh, chính phủ lúc đó ban hành giới nghiêm, không cho phép các vũ trường hoạt động nên quán Anh Vũ đóng cửa. Trước đó, từ một phòng trà thanh lịch, quán đã dần biến thành một vũ trường bình dân, mất đi hào quang thuở ban đầu và giới ca sĩ chuyên nghiệp không đến hát nữa nên khách vắng thưa dần. Quán cơm Anh Vũ và phòng trà Anh Vũ chỉ còn trong tâm tưởng lớp người sống ở Sài Gòn một thời đã xa, những người lớp tuổi bảy mươi và tám mươi. Họ hoài niệm nó, như trong một đoạn thơ không rõ tác giả: “Sài Gòn ta gởi cho em/Quán cơm Anh Vũ, phố đèn Tự Do/Nhớ em! Ôi, thuở học trò/Này đường Nguyễn Trãi, con đò Thủ Thiêm…”.

Phạm Công Luận – trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3
\

saomai
07-03-2016, 08:18 AM
Sài gòn chuyện đời của phố: Tiệm cho thuê sách, dấu ấn một thời


http://static.thanhnien.com.vn/Uploaded/trandong/2016_02_22/sachchothue-nb_NRQN.jpg?w=665&encoder=wic&subsampling=444
Sách cho thuê có sức cuốn hút rất lớn với dân Sài Gòn ghiền đọc sách - Ảnh: P.C.L

Ở Sài Gòn, không biết chắc khi nào có các tiệm sách, nhà sách cho thuê nhưng chắc chắn là trước 1954 đã có loại hình này rồi

Các tiệm cho thuê sách tồn tại song song với các nhà bán sách, đáp ứng rất tốt nhu cầu của người mê đọc sách nhưng ngân quỹ eo hẹp. Theo ước tính trên báo Thời Nay ra ngày 7.9.1974, đến thời điểm đó đã có khoảng 2 đến 4 ngàn tiệm cho thuê sách riêng ở Sài Gòn.

Trong một bài viết cũ thời blog còn phổ biến, một bác kể rằng trước phong trào di cư (tức năm 1954), việc cho thuê mướn sách đọc chỉ xuất hiện trước các cổng trường. Thuê bữa nay, ngày mai trả, giá chỉ vài cắc. Đến năm 1954, trên đường Nguyễn Kim có mở một tiệm cho thuê sách là dịch vụ chưa từng có ở vùng này. Tiệm cho thuê sách hiệu Thái Bình, do một phụ nữ người bắc trạc ngoài 40 làm chủ. Muốn thuê sách phải đặt tiền thế chân, khoảng 10 đồng một cuốn, tiền mướn 5 cắc.

Một tiệm cho thuê sách được cho là lâu đời có từ giữa thập niên 1950 tại Sài Gòn là tiệm Đức Hưng ở đường Trần Quang Khải, quận Nhứt. Tiệm này đáng nhớ vì có sáng kiến cắt các kỳ truyện kiếm hiệp của Kim Dung, Cổ Long, Từ Khánh Phụng đăng phơi-ơ-tông trên báo, đóng thành từng tập để cho thuê khi các truyện này chưa xuất bản thành sách, nên độc giả rất thích... Lúc đó, chỉ có khoảng 10 tiệm cho thuê sách ở cả Sài Gòn.

Tuy nhiên, tiệm cho thuê sách lớn nhất Sài Gòn có lẽ là tiệm Cảnh Hưng, ở đầu đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), có tới năm tầng lầu chứa sách. Chủ tiệm sách là ông Huỳnh Công Đáng, một người Việt gốc Hoa rất am hiểu về sách. Đến năm 1971, số sách ông cho thuê đã lên tới 20 ngàn cuốn, đủ các thể loại.

Ở Phú Nhuận trước đây có hai tiệm sách trên đường Nguyễn Minh Chiếu (Nguyễn Trọng Tuyển ngày nay) ngay khu chợ Lò Đúc. Tiệm Tân Dân cũ kỹ từ các dãy tủ kệ đến diện mạo từng cuốn sách giấy đen ngòm vì mồ hôi tay bao độc giả thấm qua sau bao lần đọc. Chủ tiệm là một phụ nữ lớn tuổi không lập gia đình gốc miền Bắc, luôn nở nụ cười có nét móm duyên như Đức Mẹ. Tiệm Toàn Hiệp có chủ nhân là hai vợ chồng già là dân có học cùng ba người con, ai cũng hiểu biết về sách. Anh Hai của tôi khoảng năm 1961 đang học Trường Sư phạm, mỗi buổi chiều đều phải ra sạp báo gần trường học Chánh Tâm cũ của người Tàu góc đường Trương Tấn Bửu - Nguyễn Minh Chiếu (Trần Huy Liệu - Nguyễn Trọng Tuyển) để mua báo có đăng phơi-ơ-tông truyện chưởng Kim Dung cho ba tôi. Sau đó anh vọt xe ra mướn sách ở hai tiệm trên. Rõ là nếu không thuê sách để đọc thì cả nhà tôi không thể xem được nhiều sách như vậy. Sách về mỗi ngày, từ các cuốn trong bộ Z.28 của Người Thứ Tám, truyện chưởng Kim Dung cho hai ông anh. Tiểu thuyết của Bà Tùng Long, Nghiêm Lệ Quân, Bà Lan Phương cho má tôi đọc khi ngồi sạp ở chợ. Tiểu thuyết Quỳnh Dao như Xóm vắng, Bên bờ quạnh hiu, Hải Âu phi xứ, Dòng sông ly biệt cho bà chị đang học Luật. Phần tôi thì đọc truyện tranh Lucky Luke, Xì trum, Lữ Hân Phi Lục và truyện trong tủ sách Hoa Đỏ, Hoa Xanh... Với tốc độ đọc như vậy thì mua sách là điều nan giải. Chỉ có đi thuê như mọi người.

Sau này, khi biết nhà ai có tủ sách lớn từ trước 1975, tôi biết họ thuộc gia đình trung lưu trở lên mới kham nổi. Sài Gòn tuy được nơi khác xem là thành phố mải mê “làm ăn”, “ăn chơi” thâu đêm suốt sáng nhưng nhu cầu đọc sách báo thì ai cũng biết là rất lớn và đặc biệt là giới bình dân thích xem sách xem báo không thua ai.
Loại sách nào được ưa thích nhất ?

Đó là truyện chưởng Kim Dung. Các bộ truyện của ông không có tác giả nào của VN so nổi về số lượng độc giả hâm mộ. Theo tác giả An Phong tường thuật trên báo Thời Nay, riêng bộ bảy tập tiểu thuyết kiếm hiệp Cô gái Đồ Long (sau này dịch tên chính xác là Ỷ thiên đồ long ký) của Kim Dung, tiệm Cảnh Hưng đã mua tới 100 bộ để cho thuê. Riêng các truyện khác như Tiếu ngạo giang hồ, Lục mạch thần kiếm, mỗi tựa mua trên 10 bộ. Xếp sau truyện chưởng là loạt tiểu thuyết gián điệp Z.28 của Người Thứ Tám. Xếp sau sách gián điệp, có lẽ khó phân loại cho chính xác. Tuy nhiên, căn cứ vào số lần mướn nhiều thì nhà văn Việt được đọc nhiều nhất là Duyên Anh, rồi đến sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Tuy nhiên, có khi hạnh phúc của người này là nỗi đau của người kia. Giới nhà văn cho là mình đang bị xâm hại quyền lợi. Một nhà văn gọi đích danh nghề cho thuê sách, hay cho mướn sách tùy theo người gọi là “hút máu văn sĩ”. Một nhà văn khác in thẳng lên trang sách đầu tiên của mình, cuốn Giờ ra chơi, hàng chữ “cấm cho thuê”.
Đến năm 1971, ước tính tiệm Cảnh Hưng thu được mỗi tháng khoảng 150 ngàn đồng thời ấy, một số tiền lớn. Các tiệm cho thuê sách tồn tại đến năm 1975 thì chấm dứt. Lúc đó, ngành làm ăn này đã phát triển tới hồi thịnh nhất. Đến chiến dịch thu gom văn hóa phẩm chế độ cũ khoảng tháng 6.1975, các nhà bán lẻ sách và tiệm cho thuê sách của tư nhân ngưng hoạt động, sách bị thu gom.

Trên báo Tiền Phong ra ngày 24.6.1975, tác giả Kim Nguyên cho biết tiệm Cảnh Hưng đã nộp cho đội công tác sinh viên, học sinh Trường Trí Đức 36 ngàn cuốn sách các loại. Hai tiệm sách ở chợ Lò Đúc gần nhà tôi cũng bị dẹp. Lúc đó, người dân mới biết tiệm Tân Dân lâu nay chính là cơ sở hoạt động bí mật của chế độ mới.
Khoảng đầu thập niên 1990, loại hình kinh doanh cho thuê sách hoạt động trở lại và tồn tại cho đến ngày nay nhưng không còn trở lại thời hoàng kim như trước kia nữa.

Phạm Công Luận
(trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3

saomai
07-14-2016, 06:27 AM
ĐƯỜNG MANG NẮNG GIÓ BỐN PHƯƠNG


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/12694941_10205150757603376_2595041482776808728_o.j pg
Họa sĩ Bé Ký những ngày đi bán tranh dạo trên đường Tự Do thập niên 1960. Ảnh: Mạnh Đan


Đường Tự Do, ngày xưa gọi là Catinat và ngày nay có tên là Đồng Khởi. Không mấy ai biết người Hoa trong Chợ Lớn xưa kia gọi đường này là đường Phiên Y, vì ở đây có nhiều cửa hiệu quần áo của người phương Tây từ cuối thế kỷ 19 (Phiên: cách người Hoa gọi người phương Tây. Y: quần áo). Con đường này, từ khi còn mang tên Catinat cũng chính là nơi cạnh tranh mãnh liệt trong thương trường của người Pháp, người Hoa và người Việt, nhất là người gốc miền Bắc.

Lần giở cuốn sách xưa “Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam kỳ” (nhà xuất bản Thụy Ký 1924) của nhà báo lão luyện Đào Trinh Nhất, người đọc thấy rằng cho đến thập niên 1920 dân Sài Gòn xưa vẫn quen dùng hàng Tàu và của châu Âu nhập qua. Nhưng lúc đó người miền Bắc đã tìm mọi cách đem hàng thủ công nghệ xứ Bắc vào Nam và đường Catinat chính là chọn lựa số một, là nơi họ muốn bày bán hàng hóa xứ mình. Ông cho biết trước kia người Nam không thèm ngó tới the lượt của Bắc kỳ, nhưng từ khi có phong trào tẩy chay hàng người Khách trú (Hoa) sản xuất thì người trong Nam đã ưa dùng đồ Bắc. Ví dụ một cửa hàng the lượt tầm thường nhất ngoài Bắc cũng có thể bán vào Nam 3, 4 vạn bạc, và các nhà sản xuất khác khi hỏi họ sản xuất để bán cho ai thì 9 trên 10 nhà đều bảo bán vào Nam. Đó là chưa kể đồ đắt tiền như khảm xà cừ, đồ gụ...thường bán cho Tây ở ngoài Bắc nhưng vào Nam đều rất chạy do người Nam có “đức xài tiền”, hàng quý mấy nếu đã thích cũng dám mua. Chính vì vậy, các mặt hàng từ các nguồn khác đã bị cạnh tranh và ảnh hưởng doanh thu. Trước kia dân Sài Gòn dùng vải mùi xám của Hoa kiều dệt tại chỗ, nhưng khi người Bắc vào mang theo vải ta và hàng tơ lụa thì họ dùng luôn. Hoặc trước kia người Nam dùng ghế mây gọi là ghế Tô-nê (chaise Thonet) thì sau đó dùng ghế Bắc. Trước kia dùng giày cườm thì sau đó dùng giày Hạ. Do đó mới có lần ông thấy trên đường Catinat đem bày một dãy ghế mây, có treo mấy cái chữ “Fabrication locale” (đồ chế tạo trong xứ) nhìn kỹ thì thấy cái thì mây thô, cái thì khuôn méo, rõ là của người Bắc chế ra, sao mà bày ra mà viết chữ như vậy, có ý chiêu hàng hay bêu xấu...

Tuy nhiên, tác giả lo cho người Bắc khi vào Sài Gòn làm ăn: “họ vào trong ấy thì sinh ra ăn chơi quá, thường chiều mát ở Sài Gòn ta thấy bọn người lũ năm lũ ba, ăn mặc rất mực xa hoa, xe cao su phóng khắp mọi chỗ, hỏi ra thì mới biết đấy là mấy ông thợ người Bắc...” Hoặc có khi cạnh tranh lẫn nhau. Ông kể chuyện ở phố Catinat, có nhiều cửa hàng bán mũ của người Bắc, trong đó có ông A. và ông B. cạnh tranh nhau một cách con nít thái quá. Khi có loại dạ lợp mũ bên Tây mới qua vài trăm mét, giá cao, ông B. ít vốn nên mua dăm mét trong khi ông A. giàu có mua hết sạch để ông B. không còn mà mua, không thể làm ra loại mũ cùng loại dạ ấy nữa. Đó là điều không tốt khi công nghệ của người Bắc mới nhóm lên ở Sài Gòn. Chưa kể là những chuyện cạnh tranh khác với nhau như giành thợ giỏi trong khi đó thực sự cửa hàng của người Bắc chưa nhiều. Và điều ông phàn nàn là tại sao chỉ thích thuê mướn ở phố Catinat giá tới 100 đồng, có khi lên tới 200 đồng và có khi tranh nhau, cuối cùng đẩy giá lên cao. Ông khẳng định: “Nào có nghĩ đâu rằng: hàng Bắc muốn cho ai nấy đều biết đều chuộng, chẳng cần gì lấy phố Catinat làm chỗ chiêu hàng mới được, mà chỉ nên chiêu hàng ở chỗ buôn bán thật thà, hàng hóa tốt và rẻ mà thôi, thì trong thành phố Sài Gòn, không thiếu gì chỗ cũng tốt và rẻ tiền hơn: như những phố Charner (Nguyễn Huệ), Pellerin (Pasteur), Espanel (Lê Thánh Tôn) và Amiral Courbet ( Nguyễn An Ninh).v.v…”.

Câu chuyện dông dài trên được trích dẫn để thấy phần nào sinh hoạt buôn bán của người Việt, nhất là từ miền Bắc đưa hàng vào bán mà con đường Catinat đã chứng kiến dưới những tàng cây của mình. Tuy nhiên, đó là câu chuyện thập niên 1920. Từ thập niên 1940 trở về sau, người Việt đã đứng chân nhiều cửa hàng ở phố Catinat, trước khi người Pháp rút về nước năm 1954. Có rất nhiều tiệm may âu phục, đầm, tiệm bán vải, tiệm chụp ảnh trên con đường này và trên các nhánh đường gần đó như d’ Ormay (Nguyễn Văn Thinh, nay là Mạc Thị Bưởi), Amiral Dupré (Thái Lập Thành, nay là Đông Du)... hầu hết của người gốc Bắc. Người gốc Hoa vẫn chiếm nhiều vị trí cửa hàng tạp hóa trên đường d' Ormay.

Anh Tấn Thành, một thầy giáo sống từ nhỏ trên con đường Amiral Dupré, nay là Đông Du kể: “ Khi tôi sinh ra năm 1962, đường Catinat đã đổi tên thành đường Tự Do. Đó là một con đường có thể là lộng lẫy nhất Sài Gòn dù không lớn như đường Thống Nhất (nay là Lê Duẩn), hay Nguyễn Huệ. Nhưng ở đó có những cửa hiệu đẹp nhất, dùng kính bóng loáng, ốp đá sang trọng...Suốt những năm tuổi nhỏ và bước vào tuổi thanh niên, tôi gắn bó với con đường này bằng những kỷ niệm rất riêng tư. Đó là những buổi đi bơi ở Hồ tắm Tự Do phía gần bến Bạch Đằng, gần quán cơm nổi tiếng Bà Cả Đọi, đối diện Khách sạn Grand góc đường Tự Do - Ngô Đức Kế bây giờ. Cái hồ đó dài tới 25 mét, rộng 10 mét, lát gạch men trắng, sâu tới 3 mét và nay đã không còn. Từ đường Tự Do, có một con hẻm kế bên cửa hàng bán đồ mỹ nghệ của hãng Thành Lễ đi xuyên qua đường Nguyễn Huệ. Trong hẻm có một rạp hát nhỏ gọi là rạp Catinat,có bán bún thịt nướng, hột vịt lộn và nơi lui tới của mấy bà chị đang tuổi nữ sinh. Còn đám trẻ như anh em tôi thì thích ra trung tâm thương mại Sài Gòn Departo, góc Tự Do và Thái Lập Thành. Đây là tiệm bách hóa có thể nói là đẹp nhứt Sài Gòn hồi đó, bán hàng mỹ nghệ Việt Nam, hàng nhập cảng từ Nhật. Đồ đạc trong đó có nhiều nhiều thứ hấp dẫn lắm, nhưng cuốn hút với đám con nít nhất là trong đó có một tủ bán kẹo tự động. Bỏ đồng xu vào là có thể mua kẹo, đồ chơi. Kế bên Sài gòn Departo là một tiệm Cafeteria, loại hình cà phê tự phục vụ còn rất lạ lẫm lúc đó nhưng đầy hứng thú với các anh chị của tôi. Ở đó có một cái máy nghe nhạc tự động, muốn nghe cũng nhét vào đồng xu, máy sẽ chớp đèn nhấp nháy để báo hiệu chọn bản nhạc. Kế bên là mấy cái tiệm bán vải của người Bắc là Tô Châu, Hàng Phong và Tân Cương. Kế bên là photo Long Biên, tiệm ảnh rất nổi tiếng thường quảng cáo trên báo. Công viên Chi Lăng bọn trẻ gọi là “Vườn bông cao” thường xuyên ra đó đá banh. Ở đó năm 1972 có tổ chức ca nhạc nhân ngày “Quốc Khánh”, tức là ngày lật đổ ông Diệm, có ca sĩ Elvis Phương đến hát. Họa sĩ Bé Ký lang thang trên con đường này bán tranh khi tôi còn nhỏ, có nhiều lần bị cảnh sát đuổi khi bày tranh trên vỉa hè Thái Lập Thành, bên cạnh nhà hàng Tự Do và đã nhiều lần gia đình tôi chứa giúp tranh của cô, thậm chí còn mua cho cô hai bức nữa.”


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/12697378_10205150798604401_6951010578023512878_o.j pg
Cửa hàng mỹ nghệ Thành Lễ trên đường Tự Do. Ảnh: Phùng Trực.

Bây giờ khi viết về đường Tự Do ngày xưa, người ta nhắc nhiều về hai quán Givral hay Brodard này cùng với quán La Pagode, góc đường Lê Thánh Tôn – Tự Do, những cái quán nay đã biến mất. Tuy nhiên đối với dân Sài Gòn khu vực này, những cái quán đó dành cho khách vãng lai, dân sống ở đó không mấy khi vào đó ngồi. Chị Dung, con dâu của nhà may nổi tiếng Phúc Lợi ở đường Pasteur, chị đầu của anh Thành kể rằng chị và các bạn cùng lứa chưa từng vào những cái quán đó dù là đã trưởng thành, lập gia đình từ giữa thập niên 1960. Giá cả ở đó không hề rẻ. Anh Thành kể: Tiệm Brodard là dành cho dân nghệ sĩ, cho giới trẻ nhà khá giả, nhưng cũng có chỗ dành cho con nít. Phía ngoài, chủ tiệm để một tủ kem bán loại kem Ba màu rất ngon hương vị châu Âu, có kem vanilla, chocolate gói trong giấy. Giá loại kem này khá mắc và chú bé Thành phải để dành tiền quà vặt nhiều ngày mới đủ tiền mua một gói kem 100 đồng, lúc đó tiền 500 đồng màu xanh hình ông Trần Hưng Đạo là tiền mệnh giá lớn nhất. Nếu không thì ăn kem ở tiệm Givral cũng bán ở cái tủ bày phía ngoài, dạng kem cornet có cái bánh hình chóp nhọn, hoặc có loại bánh hình hai cái nắp hộp tròn, kem được gắp vào và úp lại. Đó là những loại kem với nguyên liệu cao cấp ngoại nhập rất ngon, và không thể quên cảm giác đi dọc vỉa hè thưởng thức hương vị bánh xốp thơm và kem lạnh béo.

Cuộc sống đường Catinat đậm dấu ấn người Hoa kiều, nhất là đường Nguyễn Văn Thinh (Mạc Thị Bưởi). Thỉnh thoảng trên đường thấy một ông Tàu đội nón cời-lối, xách một thùng sắt tây có sợi dây móc trên vai, bán bò bía ngọt mà lũ nhỏ mê tít. Ở đường này có một bà Xẩm bán giấm hay ăn gian, thường pha nước vào giấm. Khi chiết ra cho khách, phần nước nặng sẽ xuống trước, phần giấm nhẹ nổi lên nên xuống sau.. Mẹ Thành luôn dặn khi đi mua nhớ nhắc bà Xẩm lắc cái hũ trước khi rót để phần giấm có nhiều hơn. Giữa đường Nguyễn Văn Thinh có tiệm nước nổi tiếng cũng của người Hoa tên là Nam Quang (nay là trụ sở Ngân hàng Agribank). Dân quanh vùng thích đến đó uống cà phê, ăn hủ tíu bò viên và ai cần thì mua thuốc bắc ở tiệm Tồn Tâm Tế gần đó. Cà phê ở tiệm Nam Quang bán cho khách được đổ vô dĩa. Do quen giao dịch với Tây, ba của Thành đòi chủ tiệm rót ra ly thủy tinh để uống còn chú bé Thành ăn bánh hạnh nhân. Trong tiệm còn đặt một xe bán bò viên của người Tàu, bánh croissant nhưng nhân bên trong có hột gà. Xe mì góc Nguyễn Văn Thinh - Hai Bà Trưng có những hình vẽ tranh kiếng tích tuồng Tam quốc, Thủy Hử có từ nửa thế kỷ trước cho đến giờ vẫn tồn tại. Có lần, Thành thấy vị giáo sư âm nhạc người Việt nổi tiếng thế giới đến ăn, có mang theo một chai đựng mù tạc vàng để dùng với mì, có lẽ ông nhớ kiểu ăn mì hồi xưa. Đường Tôn Thất Thiệp vẫn còn tiệm hủ tíu Thanh Xuân hẹp té với bề ngang hai mét, bảng hiệu cũ kỹ vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nửa thế kỷ. Đường Nguyễn Văn Thinh còn có tiệm Peacock (con công) bán đồ “lâm vố” (rabiot) ăn rất ngon, không phải đồ ăn thừa của khách đã dọn ra, mà là thức ăn nấu trong bếp nhưng tiệm vắng khách nên còn dư, bán rẻ trong ngày, bỏ hộp đàng hoàng. Món ngon trong số đó có bò lúc lắc và một loại cơm chiên giống cơm chiên Dương Châu nhưng vị bơ.


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/12711056_10205150756483348_7352971950574306033_o.j pg
Góc đường Tự Do - Nguyễn Văn Thinh (Đồng Khởi - Mạc Thị Bưởi) năm 1962. Ảnh: Jeff Kaufman

Mùa hè năm nay, tôi và anh Thành đi lại con đường Tự Do, đổi tên thành đường Đồng Khởi gần bốn mươi năm nay. Con đường vẫn là con đường sang trọng, đẹp gợi cảm như bao lâu nay, vẫn là con đường xứng đáng được ca ngợi như trong một cuốn sách năm xưa:“…với những tầng nhà cao chót vót của một thành phố tân tiến, những của hàng mỹ thuật, những lớp người trẻ tuổi tấp nập đi lại, con đường chan chứa cái tưng bừng và náo nhiệt của một dân tộc tiến bộ…” (Lịch tài liệu 1959 Kỷ Hợi). Niềm tự hào xa xưa ấy vẫn tồn tại cho đến giờ. Người đi cùng miên man kể: “Có những buổi đi dạy qua con đường này vào buổi chiều, tôi nhớ lại những buổi chiều năm 1972 khi tôi lên mười. Khi sắp đến giờ cơm, tôi nắm tay bà vú nuôi tên là bà Ba Bàng, một người phụ nữ nhà quê xứ Bắc theo mẹ tôi vào Nam hồi còn trẻ. Bà không có gia đình, chăm sóc chín anh chị em tôi với một tình thương giản dị, chân chất. Những buổi chiều đó, bà dẫn tôi ra depot nước đá (hiện nay vẫn còn) của một bà người Tàu tên là bà Nhì trên góc đường Phan Văn Đạt – Nguyễn Văn Thinh để mua nước đá, đổi vài chai nước ngọt và bia cho bố tôi nhâm nhi. Lần nào cũng vậy, sau khi lấy đủ nước đá, bia và nước, bà lẳng lặng lấy ly rượu trắng nhỏ do bà Nhì rót sẵn đưa lên miệng uống một hơi, xong lau miệng và ra về. Tôi lủi thủi đi theo bà, luôn thắc mắc vì sao bà thích uống thứ nước cay sè ấy. Bà dặn tôi giấu chuyện này với cả nhà tôi, vẫn cứ uống chút rượu mỗi ngày cho đến ngày già yếu, xin vào chùa tu và mất. Sau này lớn lên, tôi lờ mờ hiểu rằng đó là niềm vui riêng tư và có thể là duy nhất của bà, giữa chốn phồn hoa đô hội mà bà đang sống. Cả hai hoàn toàn không ăn nhập với nhau. Bà luôn nhớ xứ Bắc của bà và luôn thờ ơ với khung cảnh náo nhiệt sang trọng chung quanh”.

Hình như phía sau vẻ đẹp của một con đường phồn hoa luôn có một nỗi buồn, của một mảnh đời không vui. Tôi nhớ giọng hát cũ của nhạc sĩ Trần Văn Trạch: “ Trời khuya vui bước trên đường Catinat / Người đi còn năm ba khách không nhà / Ngàn mây sao chiếu trên trời đầy mơ / Hàng cây lặng im nghe gió dưới trăng mờ. Còn kia vài ba búp bê đang nhìn / Ngồi im và vương mắt trông ra mơ hồ / Tình duyên say đắm trên lầu đèn che / Tỉnh mê còn ai đang đứng bên lề…”. Con đường này tôi cũng đi qua nhiều lần, duy một lần hồi nhỏ theo ông anh vào Brodard, và lang thang không biết bao lần đi ăn uống, mua sách, xem tranh từ khi bắt đầu đi làm, khi tiệm Givral và Brodard chưa đóng cửa. Nhưng tôi cảm thấy con đường này chưa bao giờ thuộc về ai. Con đường huyền thoại này đã dan díu với bao tâm hồn tha hương từ bốn phương trời, hơn một trăm năm nay rồi.

Phạm Công Luận

Tuổi Trẻ xuân Bính Thân 2016
(trích Sài Gòn, chuyện đời của phố tập III)

saomai
07-14-2016, 06:33 AM
LANG THANG TRÊN THÀNH PHỐ XƯA


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/12265743_991971404178812_1097717234756525382_o.jpg

Ngôi nhà ở Lái Thiêu của Lý Thân lúc nào cũng đông khách. Từ sáng tới tối, khách ngủ lại hoặc ghé ăn cơm rồi đi. Có những người ăn dầm nằm dề hàng tháng trời rồi có lúc một buổi sáng thức dậy, không còn thấy họ ở đó nữa. Người trong xóm gọi cha của Thân, ông Hai Vững, là ông Mạnh Thường Quân, lấy tích trong truyện Tàu. Ai cũng kính nể ông vì tính hào sảng, và sống kiểu hào sảng như vậy thì tốn kém lắm. Cho dù ai cũng biết thân phụ của ông Hai Vững là bang trưởng Triều Châu ở Lái Thiêu rất khá giả và có uy tín trong dân chúng ở vùng đất nhiều cây trái này.

Lý Thân không để tâm nhiều đến chuyện đó, chỉ biết rằng mình có rất nhiều ông chú tuy không ruột thịt nhưng ông nào cũng thương chú bé nhỏ nhắn con chủ nhà. Từ đó, Thân có nhiều chuyến đi chơi với mấy chú, mà mãi nhiều năm sau này vẫn không quên được. Nhiều nhất vẫn là những chuyến đi về Sài Gòn.

Đó là câu chuyện trước năm 1954.

Những năm đó, Lý Thân không nhớ đã lang thang bao lần trên cái thành phố phồn hoa này. Người ta nói “Sài Gòn hoa lệ” - hoa cho người giàu và nước mắt cho người nghèo. Dù sao, Thân cùng mấy chú chỉ là khách nhàn cư vãng lai nên chẳng bận tâm làm chi mấy chuyện đó cho mất vui. Đến Sài Gòn, anh thanh niên mới lớn thấy choáng ngợp ngay với cảnh nhà đông xe nhộn nhịp, sau đó dần quen và thấy thích cuộc sống ở đây. Sài Gòn lúc đó còn thông thoáng lắm so với bây giờ, nhưng đã quá vui với chú bé nhà quê. Xe cộ chạy qua lại như mắc cửi. Xe do người phu đội nón lá chân đất kéo chạy thình thịch giữa trời trưa nắng. Xe ngựa kéo, bò kéo đi lóc cóc ngoài đường phố trung tâm gần chợ Bến Thành, bên cạnh chiếc xe hơi bóng loáng của mấy ông Tây. Có xe ngựa chỉ chuyên chở hàng, không có mui bên cạnh xe ngựa chở khách thanh mảnh, dáng đẹp có mui kín mít. Có cả xe kéo tay chở hàng với thùng xe rất to, vừa có càng phía trước để kéo vừa có chỗ để mấy người phía sau đẩy đi, loại xe tải bằng sức người của mấy ông người Tàu đội nón cời lối rộng vành chóp nhọn. Có những chiếc xe đẩy nước ngọt đóng chai đi qua đi lại bán cho khách. Hai bức tượng cô đầm trước Nhà hát Tây nhìn cao ráo thanh mảnh hơn hai bức tượng phục chế hiện nay. Đàn ông lịch sự bận bộ đồ bà ba trắng lụa lèo, đầu đội mũ phớt và chân mang guốc, rất ít thấy người bận áo dài khăn đóng trừ ở chỗ có đám tang. Phụ nữ thời đó nhiều người bận áo dài đen. Nhiều người thích trùm khăn trên đầu, cả nam lẫn nữ khi trời nóng nhất là ở ngoài chợ. Hầu như không thấy mặc quần ngắn, trừ các ông Tây với quần sọt lửng. Lý Thân thích nhìn những biển quảng cáo ngoài trời ai vẽ to đùng mà sắc nét, không bị méo mó: quảng cáo La-de Larue và giày của hãng Bata là nhiều. Ở bến Bình Đông, người ta chở dừa, chuối và sản vật miệt Lục tỉnh lên Sài Gòn bán không khác gì bây giờ. Sông đã có bờ kè bằng xi măng dốc thoai thoải xuống.


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/12249853_991971420845477_5545486616517217707_n.jpg ?oh=320ddeace3986a99083c3865cb215a60&oe=58249F2B

Nhà hàng Givral từ năm 1946 Tây trở qua đã mở cửa trở lại. Năm 1950, ông chủ Givral cho bày bàn để khách ngồi ngoài hàng hiên, mở rộng không gian cho nhà hàng vốn chỉ để được dăm bàn ăn. Một ông chú dắt Thân đến đây, nhưng chỉ dám đãi thằng cháu món yaourt là thứ rẻ nhất. Yaourt lúc đó có vị hơi lạt, chủ quán để sẵn một hũ đường, ai thích ăn ngọt thì thêm. Có lúc ngoài vỉa hè hết chỗ thì ông chú làm gan đẩy cửa bước vào trong. Ghế ngồi trong quán Givral lúc đó cũng là ghế gỗ bình thường, không có nệm như sau này, không có máy hát cho khách nghe. Đa số khách là lính Tây, vài ông bận complet trắng.

Uống nước xong cả nhóm lại đi chơi tiếp. Trong nhóm của Thân có một chú rất diện, thắt cravate mặc complet nhìn như một ông chủ hãng. Ông chú này thích la cà ngó nghiêng chỗ này chỗ kia, thích vào hiệu sách Portail (tiệm sách Xuân Thu sau này), nhưng khi có ông Tây nào đến đứng gần là chú bỏ đi ngay. Thân có lần hỏi thì chú trả lời: “Đứng gần, nó hỏi tiếng Tây mà không biết trả lời thì mắc cỡ sao mậy!”.

Vào nhà sách Portail xem sách cho vui thôi chứ sách mắc lắm, không mua nổi. Thân ngạc nhiên khi thấy ở tiệm người ta bày bán nhiều ấm trà không có nắp, hỏi ra thì đó không phải ấm trà mà là... bình vôi ăn trầu. Cho đến giờ, ông già Lý Thân của sáu mươi năm sau vẫn tủm tỉm cười nhớ cái bình vôi rất bình dân được bán trong một nhà sách của Tây sang trọng như vậy. Nhưng vào Portail cũng khá thú vị khi xem những bức ký họa vẽ tranh về Nam kỳ của ông Henry Meige, họa sĩ người Pháp. Ông vẽ những hình ảnh rất gần gũi đời thường, như cảnh một góc khách sạn Continental gần đó, người đánh giày trên đường phố Sài Gòn...

Đi dạo chợ Sài Gòn thì có thể nhận ra những tiệm của người Bắc đóng giày trên đường Lê Thánh Tôn và tiệm vàng Nguyễn Thế Tài ở mặt Lê Thánh Tôn phía sau chợ. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài nổi tiếng có cuộc thi thơ rất hấp dẫn mà Thân nhớ mấy câu thơ đã đọc trong báo Mới của ông Phạm Văn Tươi. Thơ kể rằng có bà nhà giàu kia có cô con gái, bà muốn gả chồng cho con nhưng con gái kén chọn lắm. Ai ngờ anh chàng người hầu trong nhà khôn ngoan, sắm tặng cô nữ trang nhà Nguyễn Thế Tài. Thế là cô ưng thuận trước sự ngỡ ngàng của bà mẹ, “là vì vàng đúng tuổi mười. Lòng cô cảm nghĩa ơn người biết bao. Tình yêu cô bỗng thấm vào”. Mỗi bài thơ đăng trên báo Mới ca ngợi nữ trang bằng vàng của nhà Nguyễn Thế Tài sẽ được trả 50 đồng. Chiêu quảng cáo này hấp dẫn dân thích văn chương lắm và nhờ vậy vàng Nguyễn Thế Tài luôn đông khách.

Lúc đó, có nhiều người Ấn sống khu đó. Người Ấn gốc Bombay chuyên cho vay lấy lãi và bán vải, còn những người Hạch chuyên thức đêm làm gác cửa, gác tiệm buôn. Nhóm người Hạch có làn da ngăm đen giống người Ấn, có gốc Hồi giáo và làm nghề gác cửa thì rất cần mẫn. Mấy ông chú kể là họ chỉ giỏi nghề gác cửa, chuyển sang nghề khác thì dở ẹt nên có câu “Dở như Hạch”. Sau này, Thân biết Hạch có nghĩa là Hadj, đứng đầu tên của họ, nghĩa là “hành hương” trong tiếng Á Rập, nhắc đến mơ ước một đời là hành hương đi thánh địa Mecca. Và ai có chữ Hadj đứng trước tên nghĩa là đã đến Mecca rồi.


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/11958073_991971527512133_6766858678197426567_o.jpg

Dân Ấn góp cho ẩm thực Sài Gòn xưa mấy món ăn mà Thân không quên. Đi xuống mé Đa Kao, phía Cầu Bông gần rạp Văn Hoa Đa Kao sau này có một tiệm bán cơm cà ri của người Ấn rất ngon. Ngay một góc quán, một ông Ấn khác thuê một góc bán cà phê, bán cà ri, cơm nị, bánh cay, bánh rế. Bánh cay không phải là loại bánh bằng bột mì vắt trong nắm tay, chiên trong chảo mỡ thành một loại bánh dài, nhỏ nhắn và cay như sau này. Bánh cay đây là loại bánh hơi giống bánh xèo đỗ dày hơn, to cỡ cái bánh patéchaud, bằng bột mì, có nhân thịt, củ hành, ớt, đậu xanh... chiên lên có vị cay và hơi chua, rất ngon nếu ăn với cà ri gà, cà ri dê. Ông chỉ bán từ trưa đến chiều, rất đông khách. Còn cơm nị thì cơm có trộn dầu, bơ, sữa, ai không thích béo thì khó ăn vì ngậy. Còn nếu không thích thì đi ăn bánh cuốn có trứng vịt chiên cuộn bên trong rất ngon và béo.

Năm nay đã hơn tám mươi tuổi, chàng trai Lý Thân ngày nào vẫn sống ở quê nhà Lái Thiêu, thỉnh thoảng đi Sài Gòn thăm con trai lớn sắp về hưu sống ven thành phố. Ông đi đâu cũng gặp kỷ niệm. Nhớ có lần đi xe điện gần ga Arras tức đường Cống Quỳnh ngày nay, ông nhảy tàu suýt té chết. Tiệm Givral ông từng ăn yaourt nay đã không còn. Saigon Departo, nơi ông mê mẩn mấy bộ tách trà Nhật hiệu Arita cũng không còn. Xe điện không còn. Hiệu sách Portail không còn. Tiệm vàng Nguyễn Thế Tài không còn. Nhớ có lần ông nhờ đứa cháu làm nghề báo vô Chợ Lớn tìm mua cho ông cái nón cời lối đan bằng tre, chóp nhọn vành rộng của người gốc Hoa mang qua, nhưng nó đi mấy ngày không tìm ra. May mà có thể thấy cái xe kéo tay trong bảo tàng bến Nhà Rồng. Ông nghĩ chắc chỉ có mỗi mình và vài ông bạn già ở miệt Lái Thiêu lẩn thẩn khi nhớ về Sài Gòn qua những hình ảnh đó. Chứ người ở Sài Gòn bây giờ có khi chỉ thích xây nhà cao có kính bóng loáng bán thật nhiều hàng, cho thuê nhiều tầng mà thôi.

Phạm Công Luận

Ảnh: T.L internet.

saomai
07-27-2016, 07:28 AM
·

QUÀ VẶT

“Hồi nhỏ ăn cái gì cũng ngon”. Câu nói thường nghe của nhiều người dù cao lương mỹ vị năm châu bốn bể họ ăn được nhiều. Câu nói đó là chân thành, không phải làm dáng. Nhưng khi những món ăn hồi nhỏ bày ra trước mắt, chắc hầu hết sẽ nếm thử rồi lắc đầu. Điều đó chẳng khác nào gặp lại người một thời ta từng yêu tha thiết, nhưng rồi lại hối tiếc“biết vậy không gặp thì hơn!”.

Như vậy, những món yêu thích hồi còn nhỏ ta ăn không chỉ bằng lưỡi, bằng miệng mà bằng cả tâm hồn, cảm xúc và tất nhiên bằng cả nhu cầu của một cơ thể đang lớn. Cái bánh nào ngon bằng bánh mẹ cho ta khi mới đi chợ về, được gói trong lớp giấy điều mỏng thấm loang vết dầu từ vỏ bánh. Chén cơm nào ngon bằng chén cơm ấm nóng trong một chiều mưa, sau một trận đá banh ngoài bãi cỏ gần nhà. Lúc ấy cơm ăn với cá, thịt, trứng chiên hay ba khía đều ngon. Ôi, những cảm giác ẩm thực tuyệt vời nay không còn nữa. Bây giờ, những câu hỏi lẩn quẩn trong đầu khi ngồi trước bàn ăn thường là: nó có quá béo không? Có mặn quá không? Có nhiều đường quá không? Liệu có làm nặng dạ dày không?... Rồi sau khi tự trả lời xong các câu hỏi, ta bắt đầu ăn bằng thái độ chậc lưỡi làm liều hay tự tin vì đã tự thẩm định hàm lượng của chúng. Mệt quá nhỉ?

Nhớ hồi nhỏ, trong xóm tôi có một gia đình gồm ông bà cụ già người Bắc. Hai ông bà đều mập mạp, sống kín đáo và khó tính. Phục vụ ông bà là một chị lớn tuổi không chồng tên là Vinh, có lẽ là cháu họ. Chị Vinh tính vui vẻ, hay cười hay nói. Dù rất ngán ông bà cụ, chúng tôi vẫn thích chơi với chị Vinh và thường dòm ngó cây khế chua nhà ấy. Thật ra, khế chua thì khó ăn, có nhặt được mang về thì chỉ có mấy bà chị khoái thôi chứ đám con trai chẳng mê. Nhưng Ô mai khế (lũ con nít xóm tôi biết cái từ Ô mai là qua chị Vinh) thì ngon tuyệt. Món này chị làm khá đơn giản, không tốn kém. Khế chua xắt ngang ra từng lát mỏng hình sao, chị sắp đầy mặt một cái mâm nhôm xong rắc muối bột lên rồi đem phơi trên mái bếp. Dưới cái nắng Sài Gòn vàng rộm, chỉ cần qua vài lần phơi cũng đủ để những lát khế sẫm màu lại thành nâu, sau đó khô cong. Đến lúc giở mâm, chị ra đứng trước nhà, ngó hai đầu xóm xem có đứa nào đứng gần đó bèn ngoắc lại. Chúng tôi chạy ù đến xem chị bóc ra từng mảng khế dính nhau, chia mỗi đứa một bụm tay xong còn bao nhiêu chị cất vào keo. Bọn tôi bụm tay ù về nhà, chưa kịp ăn mà nước bọt đã ứa chân răng. Ô mai khế thơm mùi nắng, khô cong và chua chua, mặn mòi nhưng nhai sừn sựt trong miệng lại cảm giác có vị ngọt. Đến giờ, cảm giác ấy vẫn còn đọng lại, và tôi chưa thấy lại món Ô mai khế đơn giản ấy lần nào nữa.

Những năm tuổi 16, 17, cả nước khó khăn, bọn con trai tuổi ăn tuổi lớn như tôi lại ham đá banh nên lúc nào cũng thèm ăn. Khác với trẻ miền quê, ở Sài Gòn trẻ nít hay được phát tiền ăn. Thế là trưa nào tôi cũng rinh về một nải chuối bom. Thứ chuối này lạ, hồi nhỏ tôi không hề thấy mà chỉ biết có chuối già màu xanh ăn rất thơm, chuối sứ ngọt lịm nấu chè hay làm chuối nướng thì ngon, hoặc chuối cau vàng màu hoa cúc, ngọt, nhỏ trái và có mùi thơm đặc trưng. Chuối bom nghe đâu trồng nhiều ở miệt Long Khánh, trong các hố bom nên tên gọi như vậy, ăn ngọt nhưng không thơm, rẻ rề. Bây giờ chúng lại biến mất và những thứ chuối tôi thấy hồi nhỏ thì xuất hiện lại, đâu cũng có. Mỗi ngày tôi quất một nải chuối, chơi đá banh chán chê rồi ăn thêm kẹo đậu phộng, bánh tráng nướng, những món của con nhà nghèo, xong quất cả năm chén cơm với mắm ruốc xào thịt mà thấy sướng lạ. Ăn vậy mà vẫn còm nhom và cao nhòng.

Lâu quá cũng không thấy những củ ấu đen. Những củ ấu trông tựa như bộ râu mép của một ông Tây sành điệu trong cuốn phim nào đó. Vợ tôi người miền Trung nên không mấy khi ăn để nhấm nháp cái nhân màu trắng của nó. Còn tôi, khi đưa lên miệng cắn, mùi củ ấu của tuổi thơ hiện về, cái mùi ngai ngái của loại củ sinh ra dưới bùn, dưới nước, nhân bùi và mát, không quá cứng và ngọt. Ăn củ ấu lại nhớ củ năn, cũng có vỏ đen, nhân trắng. Củ năn gọt ra bày trên dĩa, ăn giòn, ngọt và có mùi thơm riêng, hơi giống củ sắn (củ đậu) nhưng cứng hơn, vị sắc hơn. Ăn củ ấu cũng nhớ đến những hột mít, hột sầu riêng. Những hột mà ngày nhỏ, con nít nhà nghèo thường để dành đưa cho chị, cho mẹ luộc thành món ăn chơi rất thích. Thật thân thương khi nhớ lại đứa em gái nhỏ tròn quay của tôi. Mỗi buổi chiều ăn cơm xong mẹ cho một chén hột mít luộc, để nguội. Nó mang ra một góc tường khuất, say sưa bóc từng hột, say mê ăn đến hết sạch cả chén. Còn tôi mê ăn hột sầu riêng luộc vì thơm hơn, bùi và ít bột nên ít khô hơn.

Những năm sau này, cả nhà tôi không ai thèm ăn hột mít, hột sầu riêng. Ăn xong trái, hột gom lại đem đổ. Lúc nào nhìn chúng bị bỏ vào thùng rác, tôi cũng thấy tiêng tiếc dù biết có giữ lại luộc mình cũng chẳng ăn được bao nhiêu. Thỉnh thoảng lại thấy những món ăn tuổi nhỏ của mình xuất hiện và phổ biến ở một vùng đất nào đó. Ở Quảng Châu, tôi thấy lại những cái kẹo hồ lô gồm trái cây bọc đường ghim vào một que tre mà tôi từng mê tít từ chiếc xe đạp của một ông già Tàu thường vào xóm. Ở Thượng Hải là khoai lang nướng thơm lừng. Ở Osaka là món kẹo bông gòn đựng trong những cái bao lớn và cả xi rô đá được phát trong một hội chợ đông vui nữa.

Khi nào cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống bon chen này, muốn trở lại cái thời con nít ngây ngô và trong trẻo, tôi lại đến trước một cổng trường tiểu học và… đứng ngó. Ở đó luôn có một chú bảo vệ (từng là nỗi ám ảnh của tôi suốt những năm tháng tuổi thơ), một cái trống to đùng báo giờ ra chơi, vào lớp và chắc chắn có cả một đội ngũ bán hàng rong trước cổng trường. Lại là những trái cóc gọt vỏ ngâm nước tỉa hình cái bông, miếng xoài tượng xanh quệt mắm ruốc, cái bao kẹo bông gòn, miếng me tẩm đuờng, khoai mì luộc có dừa nạo và muối đậu… Nếu có con, mình sẽ không cho chúng mua nhưng khi mình ra về, chúng sẽ chen nhau, thò tiền qua cánh cổng sắt, mua và nhâm nhi để cảm thấy sung sướng y như mình thuở nhỏ.

Dù sao đó cũng là một phần làm nên tuổi thơ của chúng ta, những món quà vặt…

Trích trong cuốn NHỮNG LỐI VỀ ẤU THƠ (Phạm Công Luận - Đặng Nguyễn Đông Vy)

Ảnh: Nguyễn Đình


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/t31.0-8/12045450_965757936800159_7894206421251417150_o.jpg

saomai
07-27-2016, 07:34 AM
KIẾM SỐNG Ở SÀI GÒN TRƯỚC 1945

Năm 1941, một thanh niên gần tuổi đôi mươi ở làng Hướng Phương, huyện Quảng Trạch, Quảng Bình vừa thi đậu Sơ học yếu lược xong. Lúc đó, trong làng của anh, một số người nhắc đến Sài gòn, thành phố phương nam xa xôi, là nơi dễ làm ăn, dễ kiếm tiền và hấp dẫn với nhiều thú vui. Anh quyết định lên đường khám phá Sài Gòn. Trong suốt hai năm ở lại thành phố này dưới thời Pháp thuộc, anh va chạm với đủ người tốt kẻ xấu, học được những bài học về giá trị của công sức lao động, giá trị của sự trung thực...
Dưới đây là một đoạn hồi ký của người thanh niên năm xưa. Đọc lại phần hồi ký này, ta có thể hình dung phần nào cuộc sống, sinh họat, không khí làm ăn cần mẫn của vùng đất Sài Gòn bảy mươi năm trước. Trong đó, luôn có phần cho người nhập cư nào có ý chí vươn lên, thay đổi cuộc sống.

"…Xin cha mẹ đi Sài Gòn. Trước là làm ăn kiếm tiền giúp cha mẹ, sau là để biết Sài Gòn, nghe các người đi về nói là đẹp lắm. Tôi đi Sài Gòn bằng hỏa xa lên ở ga Minh Lễ, đi với anh Nghị là em Dì Bài. Lúc này, anh đã có vợ là người làng Đơn Sa ở tại Sài Gòn.

Vào Sài gòn, tôi chẳng quan tâm đến cái đẹp, cái lạ và cũng chẳng quan tâm đến mọi sự lôi cuốn ở đô thị phồn vinh. Chỉ chắm kiếm việc làm để tiền gửi về giúp cha mẹ. Bà con vào đây trước gặp tôi, như bác Đại, anh chị Đạo và Lẹ, chú Đính, anh Cu Trinh (Anh Cu: Khẩu ngữ của người Quảng Bình dùng kèm sau một số danh từ chỉ người để gọi thân mật người nông dân có con trai đầu lòng còn bé ) và nhiều người khác biểu tôi chơi cho đã đạ sẽ đi làm sau, nhưng tôi hằng ngày đi lang thang hết đường phố này đến đường phố khác xem ngoài cổng nhà ai có treo giấy mướn người như tôi là vào xin. Đi qua dòng tu kín phía sau nhà Bưu điện Sài Gòn có treo giấy cần một đứa vào làm cỡ tuổi tôi, vào đây xin và được việc. Lại biết trong này có Cu Cư người làng mình nữa.

Công việc của tôi như sau: Sáng 4 giờ ra giúp xà ích cho xe ra, cặp ngựa vào và lên xe ngồi với một bà phước người Pháp, mập, nói sọi tiếng Việt, ra chợ Bến Thành xách giỏ cho bà phước ấy đi các hàng trong chợ mua thực phẩm. Đầy giỏ, tôi đưa ra xe và lúc đó đã mua xong lại lên xe trở về nhà như cũ. Ngoài việc đi chợ buổi mai, cả ngày nhổ cỏ ở các bồn hoa và ngoèo xoài trong vườn tu viện. Lương tháng 10 đồng Đông Dương.

Tôi làm được độ nửa năm vẫn lương 10 đồng. Một buổi sáng tôi ngủ quên ra trễ không kịp giúp thắng xe ngựa, bị bà phước ấy cự, tôi cự lại…và thấy việc xách giỏ cho bà phước đi chợ chẳng thú gì cho tuổi bước vào thanh niên đầy hứa hẹn này. Tôi xin thôi việc.

Lại đi lang thang kiếm việc. Đến một nhà máy cà-rem, có dán giấy cần người. Tôi vào xin và được việc. Làm phụ người thợ chính làm cà-rem cây. Tại đây đã có ba thanh niên làng mình làm trước: anh em anh Nghi con bà Châu ở gần nhà dì Bài, anh Cương (Hường). Làm được ít lâu, hình như lương tháng 15 đồng Đ.D. Sau đó không lâu, ông chủ ở Đa Kao đưa giấy lại, biểu các thanh niên trong hãng thi một bài chánh tả ngắn chữ Việt. Bốn năm thanh niên chỉ có tôi và anh Cương biết viết. Tôi, anh Cương viết bài dự thi. Qua ngày sau có xe đến và cho biết là tôi đậu, lên xe về Đa Kao làm việc khác. Ông chủ này là là chủ tiệm cà-rem và chỗ tôi đến là nhà hàng ăn, tức là gia đình ông chủ ở nhà sau. Ông người Việt nhưng nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ, có hai vợ là chị em ruột, bà nào cũng có con bồng cả. Tuy là chị em ruột nhưng ghen nhau quá cỡ. Tôi được ông chủ và hai bà chủ mến lắm vì thấy tôi khôi ngô và chất phác. Giao cho tôi hai việc rõ ràng:

Sáng độ hai giờ ra phía trước đợi hai xích lô mối, khi hai xe này đến thì vào báo tin cho ông chủ. Ông chủ lên xích lô trước, tôi lên xích lô sau, qua nhà máy nước đá Khánh Hội. Đến đây, ông chủ đứng đợi còn tôi đến nhà người gác máy lấy chìa khóa mở cửa vào. Ông chủ ngồi bàn xem sổ sách và xem báo. Tôi ngồi một bàn nhỏ ghi chép vào sổ các xe ngựa đến nhận nước đá của hãng. Xong việc, trời vừa sáng, tôi và ông chủ lại lên xích lô về nhà hàng ăn. Về đây ăn sáng xong là tôi phụ người bồi chính mở cửa hàng và dọn các bàn ăn. Cả ngày khách Việt, Pháp vào ăn rất đông. Nhà hàng này ở đối diện rạp ciné Đakao. Tôi phụ với anh bồi chính sẹc-via cho khách suốt ngày. Lúc khách để lại tiền lẻ cho bồi gọi là Puốc-boa (pourboi), tôi phải giao cho bồi chính hưởng, tôi không được gì. Có một bữa vắng bồi chính, tôi tự sẹc-via, khách cho tôi được một ít đồng, nó hỏi lấy hết. Tôi đưa nhưng vẫn bất mãn cự lại. Tuy tôi là bồi phụ nhưng công tôi làm !.

Có một buổi sáng, trong lúc tôi ngồi biên chép tại hãng nước đá Khánh Hội, thì anh bếp hàng ăn nơi tôi ở đến nói gì với ông chủ và biểu tôi về theo. Khi về đến nhà, nó biểu tôi mở rương ra để khám, có sự chứng kiến của hai bà chủ và các người trong nhà. Tôi mở rương cho khám, chẳng có gì khác ngoài áo quần và ít tiền lẻ của tôi. Tôi hỏi tại sao khám rương tôi, tên đầu bếp nói là đêm ấy nó mất áo quần và tiền bạc, nghi cho tôi lấy. Sự thể đã rành rành là đêm ấy tôi nghỉ tại nhà hàng với mọi người trong nhà, lúc ra khỏi nhà thì hai tay không đi với ông chủ nên mọi người trong nhà không nghi cho tôi nữa. Ông và hai bà chủ an ủi tôi ở lại nhưng thấy anh bồi chính và anh bếp đa nghi không đúng chỗ thì có ngày tính nóng trực của tôi sẽ có chuyện nên xin thôi về nhà của anh chị Đạo đang ở làm bồi bếp cho ông Cò Duboi tại bót lính kín trước nhà thờ Đức Bà.

Tôi nghỉ đươc một ngày, lại đi lang thang trong thành phố. Gặp nhà một ông lai Tây xin làm và ông đưa tôi lên làm bồi phụ tại nhà hàng ăn ở Thủ Dầu Một. Tôi ăn ở nhà hàng, ngủ tại nhà sau của ông chủ gần đó với anh bếp cũng thanh niên lớn tuổi hơn tôi. Ngoài việc giúp bồi chính, chiều chiều sau khi đóng cửa nhà hàng tôi về nhà ông chủ phải ủi áo quần cho bà chủ. Bà chủ chưa có con nhưng quần lót có những cái vàng vàng nghe khét lẹt lúc bàn ủi đẩy qua. Được ít lâu, tôi chán mùi áo quần lót của bà chủ quá nên xin thôi việc. Ông chủ thấy tôi thanh niện sáng sủa và tận tuỵ, không đành lòng để tôi đi nên đưa tôi lên toà thánh Tây Ninh làm bồi cho nhà hàng ăn của trại lính đóng tại Toà thánh bỏ thầu. Pháp có , Khố đỏ đến ăn ở đó. Tôi làm được ít lâu, chán ở chung với lính nên xin thôi về Sài Gòn về ở nhà anh chị Đạo như trước.

Tôi lại đi lang thang kiếm việc. Đến nhà hàng ăn Khánh Hội, gặp hai anh em người Pháp chưa vợ là chủ nhà hàng (nó nói giỏi tiếng Việt), nhà hàng thiếu hai chỗ bồi. Tôi về rủ chú Đính về cùng làm. Cả ngày ở lại nhà hàng, đêm về nhà anh chị Đạo ngủ.

Có một đêm đi qua rạp hát lớn tại đường Tự Do – Nguyễn Huệ, chú Đính rủ tôi vào xem. Hết giờ bán vé nên hai chú cháu chui đại vào xem cho được vì gánh hát mới nghe nói hay lắm. Không biết đường nên chui vào lô riêng trên gác của viên Toàn quyền Đông Dương đang xem hát. Họ nghi là hai tên thích khách nên bọn lính kín và cảnh sát gác bảo vệ cho Toàn quyền bắt hai chú cháu tống vào Khám lớn mấy ngày. Sau khi xét hỏi lăn tay chụp hình, truy mãi chỉ thấy là hai thanh niên vô sự xem hát vào cóp lạc chỗ mới tha. Chú Đính không biết có bị không, còn bị tôi bị mấy loi đau nhớ đời đến nay vẫn còn nhớ cảm giác đau. Lúc được bảo lãnh ra hai chú cháu làm nhà hàng Khánh Hội ít lâu nũa. Thấy đêm phải đi về khuya thấy bất tiện quá nên xin thôi.

Về nghỉ nhà anh chị Đạo vài ngày, tôi lại đi lang thang tìm việc, thấy giấy dán tìm người và xin vào làm được. Tôi làm bồi cho vợ chồng anh Tây trên đường Tự Do, khu nhà bảy tầng. Anh Tây này nói sọi tiếng Việt, còn vợ chưa biết. Đôi này chưa có con. Ngày làm đêm lại về ngủ nhà anh chị Đạo gần đó. Lương tháng 40 đồng Đ.D. Lúc đó 40 đồng đối với với số người đi làm thuê là hạng cao đấy. Nơi làm ban đầu là 10 đồng, thôi chỗ cũ đi làm chỗ mới, cứ mỗi nơi lên một cấp cho đến 40 đồng. Chủ có hứa hẹn là tăng nữa nhưng vừa lúc đó nhận được điện tín của nhà, báo là em Duệ đau nặng, phải về gấp. Tôi xin thôi việc để về nhà. Vợ chồng ông Tây tiếc lắm. Cho là tôi khôi ngô thật thà chất phát nên họ nói đi nói lại: về rồi vào làm, nó sẽ đợi tôi không kiếm người mới. Họ thích tôi là người không gian manh, qua thử thách của họ: những ngày đầu tiên tôi vào làm, họ như vô ý để bạc chỗ này chỗ khác hoặc rơi giữa nhà. Tôi không biết việc họ làm, vẫn để bạc chỗ cũ và bạc dưới nhà tôi xếp lên đủ hẳn hòi. Sau đó ít lâu, nghe chị bếp nói là ông chủ khen sự thật thà của tôi lắm và giao chìa khoá phòng cho tôi những lúc vợ chồng làm việc. Ở nhà tôi mặc sức tắm giặt cho đến lúc gần giờ thì mở cửa cho ông vào, còn mình làm bổn phận bồi.

Tôi đi xe lửa về nhà. Đêm hôm không có ai về làng để về theo. Tôi phải đi đò dọc, họ chở tôi về cửa sông Gianh…
Tôi ở Sài gòn độ hai năm, khoảng 1941 – 1943. Làm ăn tiêu rồi còn dư gửi về nhà độ 200 đồng đến 300 đồng. Lúc tôi đi Sài gòn, cha làm cái nhà ngói, còn hai mái ngói Tây ấy là do tiền tôi gửi về, lúc ấy 100 đồng Đông Dương là quý lắm !"

Theo hồi ký của ông Đặng Ngọc Lịnh để lại cho con cháu họ Đặng tại Hoa Kỳ và Việt Nam trước khi mất.

Trích trong cuốn Sài gòn chuỵện đời của phố tập 2 - Phạm Công Luận


https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/12003408_959743140734972_4659819984171856497_n.jpg ?oh=d16cd6c7866c37dafb562af2f31c1631&oe=582D95B1
Ông Đặng Ngọc Lịnh thời trai trẻ. Tư liệu của gia đình.

https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/12009745_959743147401638_6185646565537034630_n.jpg ?oh=236f8eb7d3250d62a4093a0992121c92&oe=5828A941
Cảnh chợ Sài Gòn trước 1945. Ảnh internet.

https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/12006092_959743157401637_7174758232614438497_n.jpg ?oh=af52dd3c4bc93451db75eaf6e1023fc1&oe=5818741A
Bên hông nhà thờ Đức Bà trước 1945. Ảnh internet.

saomai
08-17-2016, 07:50 AM
Cư xá của những nghệ sĩ danh tiếng

Cư xá Chu Mạnh Trinh từng là nơi cư ngụ của những gia đình nghệ sĩ nổi tiếng nhất Sài Gòn: Năm Châu, Phạm Duy, Dương Thiệu Tước, Thẩm Thúy Hằng, Mộc Lan, Lê Mộng Hoàng...

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_26/sai-gon-xua-d_clbr.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Nghệ sĩ Kim Cúc cùng các con ở trước nhà năm 1966

Cư xá Chu Mạnh Trinh trước kia có tên là cư xá Ngân hàng Đông Dương, nằm trong hẻm số 215 Chi Lăng, ấp Đông Nhất, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định, ngoại vi Sài Gòn. Đây là một con hẻm có quy hoạch cho khu cư xá, gồm một hẻm trục lớn và các hẻm nhỏ tỏa nhánh thẳng góc hai bên, đánh số 215 A, B, C, D, E, F cho tới G. Khoảng năm 1962 hay 1963, Trường Chu Mạnh Trinh được lập ở phía đầu hẻm nên dân quanh vùng gọi là cư xá Chu Mạnh Trinh.
Năm 1957, gia đình nghệ sĩ Năm Châu mua căn nhà ở đây khi sinh cậu con trai thứ sáu tên Long. Lúc đó, đạo diễn Hồng Dung, con gái của ông, vừa lên hai tuổi. Lớn lên một chút, chị Dung còn nhớ xung quanh là các vila song lập hình chữ L chỉ có tầng trệt không có tầng lầu, cùng kiểu giống nhau, ngang khoảng 8 m, không sâu lắm, khoảng 12, 13 m. Trước kia, cư xá này dành cho các công chức Pháp của ngân hàng. Sau 1954, người Pháp dần rút về nước và người Việt trung lưu, công chức tìm đến mua để ở.


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/5chau1_qlyo.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Nghệ sĩ Năm Châu trước ngôi nhà của mình
Gia đình nghệ sĩ Năm Châu có lẽ là gia đình nghệ sĩ đầu tiên đến ở, còn nhận giấy chủ quyền bằng tiếng Pháp. Dần dà có nhiều gia đình trong giới nghệ sĩ tìm đến. Trong số đó, gia đình nhạc sĩ và danh ca Dương Thiệu Tước, Minh Trang ở cùng với con gái là danh ca Quỳnh Giao ngay tại nhà ông Năm Châu trong hẻm D. Hẻm C đối diện là nhà nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng. Hẻm E có nhà nhạc sĩ Phạm Duy ở ngay đầu hẻm cùng với danh ca Thái Hằng, Thái Thanh, Duy Quang, Thái Hiền... bên trong là nhà của nghệ sĩ cải lương Kim Thoa. Hẻm F đối diện có nhà của đôi vợ chồng nhà báo - nhà văn Hồng Tiêu và Bà Tùng Long. Sau này, qua từng thời kỳ có lúc cư xá là nơi tá túc của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn, nữ danh ca Mộc Lan, danh ca Anh Ngọc, nhạc sĩ Lê Dinh, đạo diễn Lê Mộng Hoàng...
Những năm đầu thập niên 1960 là những năm tháng rất vui với bầy trẻ hẻm D cư xá Chu Mạnh Trinh. Các con nhà đôi nghệ sĩ danh tiếng Năm Châu - Kim Cúc vốn là con nhà nòi nên dẫn dắt trẻ nít hẻm D trong các trò vui, chủ yếu là diễn tuồng. Lúc đó cả xóm từ người lớn đến trẻ nít đều mê sân khấu, đều hâm mộ các vở diễn của nghệ sĩ Năm Châu dàn dựng và diễn. Xóm thành lập một gánh hát trẻ con, do chị em nhà Hồng Dung đứng đầu. Sân khấu là bộ ván ngựa của nhà bà Hai Mùi nhà gần bên. Cứ mỗi buổi chiều, lũ trẻ được người lớn lùa đi học bài sau khi ăn cơm chiều. Sau đó mới đến thời gian dành cho “sân khấu” cho tới 9 giờ tối mới tan. Đến thời kỳ điện ảnh Ấn Độ phổ biến sang Sài Gòn sau đó một chút, lũ trẻ cũng nhanh chóng chuyển sang múa Ấn Độ trên sân khấu của mình. Ngày tết là lúc bận rộn với nghệ sĩ vì lịch diễn kín mít, nhưng sau tết một chút là có thể rảnh rỗi tiếp khách ăn tết muộn. Các nghệ sĩ Duy Lân, Năm Nở là bạn thân thiết với ông Năm Châu thường đến chơi nhà. Thời gian đó, hai nghệ sĩ Út Bạch Lan, Thành Được còn là vợ chồng rất thương các con của ông bà Năm Châu - Kim Cúc. Hai nghệ sĩ này không có con nên cứ đến dịp Noel, Tết Nguyên đán là đi chiếc xe mui trần chở đầy đồ chơi đến để làm quà cho lũ trẻ.

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2015_02_27/5chau2_tlph.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Con hẻm trước nhà nghệ sĩ Năm Châu

Căn nhà của nghệ sĩ Năm Châu đến nay vẫn còn ở cư xá Chu Mạnh Trinh sau gần 60 năm ấp ủ một gia đình an vui. Con hẻm chính đã có tên mới là đường Đoàn Thị Điểm thuộc quận Phú Nhuận. Các biệt thự xây từ thời kỳ đầu trong cư xá đã thay đổi thành nhà đúc, lầu cao. Các nghệ sĩ của Sài Gòn một thuở, những bóng sắc huyền thoại, những danh ca một thời, những nhà văn nhà báo của nửa thế kỷ trước từng sống ở đây hầu như không còn ai ở lại cư xá này, trừ căn nhà 215D/16 năm xưa của nghệ sĩ Năm Châu, nay đã ngăn thành hai căn cho gia đình hai người con và đổi địa chỉ mới. Nhà không xây lại, vẫn còn mái ngói cũ lấp ló trên cao. Buổi sáng mùa hè có tiếng dương cầm vẳng ra từ phần nhà bên phải.
Chị Hồng Dung pha ly cà phê tiếp khách. Mùi hương gợi nhớ những buổi sáng xa xưa, cuối thập niên 1960 khi ba chị còn khỏe, thức dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để pha cho mình một tách cà phê xong rồi lần lượt pha thêm mười tách nữa cho các con uống trước khi đi làm hay đi học và xem đó là niềm vui. Những âm thanh, mùi hương cũ của một thời vẫn còn đâu đây, như khi sân khấu cải lương Sài Gòn và danh tiếng nghệ sĩ lão thành Năm Châu đang là thời kỳ vàng son nhất.
Nơi có sự chia sẻ, đồng cảm
Tác giả Phạm Công Luận cho biết: “Vật đổi sao dời, người ta tụ lại rồi tản đi là chuyện bình thường. Tôi chỉ luôn tự hỏi điều gì đã khiến nhiều nghệ sĩ danh tiếng của Sài Gòn một thời lại tụ về cư xá này. Có lẽ là do môi trường sống yên tĩnh, tách biệt của cư xá cũng như nhu cầu về sự chia sẻ, đồng cảm, bao bọc nhau của giới nghệ sĩ Sài Gòn xưa. Nếu không có thay đổi về thời cuộc, có lẽ không ít người vẫn còn sống ở đó lâu dài...”.
Xuyên Vân
(ghi)

(Trích từ Sài Gòn - Chuyện đời của phố phần 2 )
Phạm Công Luận
Ảnh do gia đình nghệ sĩ Năm Châu cung cấp

saomai
08-17-2016, 07:58 AM
Bản đồ án dở dang chợ Bến Thành

Năm 1971, do cảm thấy Sài Gòn đang trên đà phát triển nhưng Bến Thành - ngôi chợ lớn nhất ở trung tâm thành phố vẫn trong tình trạng của mấy chục năm về trước, chính quyền thời đó muốn có sự thay đổi lớn. Để bắt đầu, họ mở một cuộc thi mang tên “Đồ án chợ Sài Gòn trong tương lai”.

Cuộc thi có giải nhất bằng hiện kim là 1,5 triệu đồng. Đây là một cuộc thi được giới chuyên môn đánh giá là khó, người dự thi đương nhiên thuộc giới kiến trúc, phải bỏ rất nhiều công sức, thời gian để thiết kế đồ án chi tiết, mô hình để gửi về dự thi. Tác phẩm phải hội đủ điều kiện về kỹ thuật chuyên môn, thẩm mỹ, tiện ích xứng đáng với ngôi chợ lớn nhất và quan trọng nhất miền Nam này. Người dự thi có 3 tháng (từ 27.10.1970 đến 24.1.1971) để nghiên cứu thực hiện các bình đồ, họa đồ và cả mô hình nổi về ngôi chợ. Trong thông báo về cuộc thi, chỉ quy định khái quát về những điểm căn bản: phải có tầng hầm, tầng trệt và 3 tầng lầu, mỗi tầng có chức năng riêng phù hợp. Chợ mới phải có hệ thống thang máy, xử lý vệ sinh... Tất cả trên diện tích 12.000 m2, chiếm toàn bộ vị trí ngôi chợ cũ từ Công trường Diên Hồng đến đường Lê Thánh Tôn.

Do tính chất phức tạp và quy mô của bài dự thi, chỉ có 8 đồ án gửi đến ban tổ chức khi cuối hạn. Ban tổ chức cảm thấy bất ngờ và bối rối khi cả 8 bài dự thi đều rất công phu, hiện đại và có thể nói là “vĩ đại” như lời kiến trúc sư (KTS) Bùi Ngọc Hồ nói với báo chí. Điều này đặt trên vai ban giám khảo trách nhiệm lớn. Trong ban giám khảo, có các KTS uy tín như KTS Vũ Tòng - đoàn trưởng KTS đoàn, KTS Phạm Văn Thăng là Khoa trưởng thuộc Đại học Kiến trúc Sài Gòn, cùng giới chức Tòa Đô chánh Sài Gòn lúc đó. Sau một ngày xem xét chấm giải, cuối cùng đồ án của KTS Huỳnh Kim Mảng đoạt giải nhất. Do có khoảng cách với đồ án này, các đồ án còn lại không có giải nhì. Giải ba trao cho đồ án của hai tác giả là Nguyễn Huy và Trần Phong Lưu, trị giá 400.000 đồng. Ba giải khuyến khích đồng hạng trị giá 200.000 đồng cho các KTS Nguyễn Kỳ, Đào Trọng Cương và Nguyễn Hữu Sơn. KTS Huỳnh Kim Mảng vốn đã thực hiện nhiều công trình quan trọng trước đó như cùng tham gia lập đồ án xây dựng Trường Lasan Tabert (nay là Trường Trần Đại Nghĩa), rạp hát Victory Lê Ngọc, Trung tâm văn hóa Pháp.

Ông sinh năm 1920 tại Long Xuyên, từng theo học Đại học Kiến trúc Hà Nội từ 1941, tiếp tục học Đại học Kiến trúc Đà Lạt từ năm 1945 và đến 1949 sang Pháp học tại Trường cao đẳng Kiến trúc Paris. Ở đây, ngoài bộ môn kiến trúc, ông còn học thêm thiết kế đô thị tại Đại học Kiến thiết thiết kế đô thị. Ông tốt nghiệp năm 1955 và về Sài Gòn làm việc. Nói về bản thiết kế của mình, KTS Huỳnh Kim Mảng cho biết phải dùng tới 20 họa viên trong 3 tuần lễ để vẽ họa đồ, bình đồ, thực hiện mô hình nổi...

Cảm thấy chợ Sài Gòn vừa cũ kỹ và chật hẹp, ông đã tận dụng toàn thể diện tích hiện hữu của chợ gồm ngôi chợ chính phía trước và khu chợ bán trái cây phía sau. Theo đồ án, chợ sẽ xây thành nhiều tầng. Tầng hầm làm bãi đậu xe 150 chiếc. Tầng trệt cao hơn mặt đất 1 m, chung quanh bán thịt các loại, hoa quả, và vào trung tâm là khu bán cá giữa nơi thoáng đãng, có ánh sáng rọi từ trên xuống. Tầng 1 bán chạp phô, bách hóa các loại. Tầng 2 bán quần áo, vải vóc, làm văn phòng ngân hàng tư nhân. Tầng 3 là nơi vui chơi của trẻ em. Tầng thượng có nhà hàng, quán giải khát, rạp chiếu bóng, rạp cải lương. Phía trước chợ còn có một ngôi tháp cao 50 m, phần trên tháp sẽ là một nhà hàng. Chợ có hệ thống thang máy, thang nâng hàng, hệ thống xử lý rác. Hàng hóa đưa vô chợ hoặc lên lầu đều có lối riêng, không dùng chung lối đi với khách. Điểm nổi bật là càng lên cao, diện tích các tầng càng nới rộng ra, được xem là lối kiến trúc táo bạo, thẩm mỹ và đáp ứng nhu cầu buôn bán của chợ lúc đó.

Sở Thiết kế thuộc Tòa Đô chánh Sài Gòn lúc đó dự tính kinh phí xây chợ mới sẽ tốn khoảng 1,5 tỉ đồng, và có thể khởi xây năm 1972. Tuy nhiên, dự án này đã không bao giờ được thực hiện. Lý do được báo chí sau này thuật lại là lúc đó dân chúng không đồng tình, muốn giữ lại ngôi chợ cũ vốn gần gũi, quen thuộc từ hơn nửa thế kỷ trước. Và hơn nữa ngân sách thành phố lúc đó không đủ để thực hiện. KTS Huỳnh Kim Mảng sau 1975 trở thành cố vấn Hội KTS TP.HCM từ năm 1981 đến 1987. Sau này, ông ra nước ngoài sinh sống và mất tại Brussels (Bỉ) năm 2007, hưởng thọ 87 tuổi. P.C.L


http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/hoangnam/2015_02_24/cho-bt_ptlz.jpg?w=500&encoder=wic&subsampling=444
Mô hình chợ Bến Thành của KTS Huỳnh Kim Mảng - Ảnh: T.L

Cuộc thi có giải nhất bằng hiện kim là 1,5 triệu đồng. Đây là một cuộc thi được giới chuyên môn đánh giá là khó, người dự thi đương nhiên thuộc giới kiến trúc, phải bỏ rất nhiều công sức, thời gian để thiết kế đồ án chi tiết, mô hình để gửi về dự thi. Tác phẩm phải hội đủ điều kiện về kỹ thuật chuyên môn, thẩm mỹ, tiện ích xứng đáng với ngôi chợ lớn nhất và quan trọng nhất miền Nam này. Người dự thi có 3 tháng (từ 27.10.1970 đến 24.1.1971) để nghiên cứu thực hiện các bình đồ, họa đồ và cả mô hình nổi về ngôi chợ. Trong thông báo về cuộc thi, chỉ quy định khái quát về những điểm căn bản: phải có tầng hầm, tầng trệt và 3 tầng lầu, mỗi tầng có chức năng riêng phù hợp. Chợ mới phải có hệ thống thang máy, xử lý vệ sinh... Tất cả trên diện tích 12.000 m2, chiếm toàn bộ vị trí ngôi chợ cũ từ Công trường Diên Hồng đến đường Lê Thánh Tôn.

ĐIỀU MAY MẮN CHO SÀI GÒN
“Chúng ta nhận diện một nơi chốn thân quen bằng những hình ảnh thân quen. Với một căn nhà, đó có thể là một góc nhà có chiếc ghế quen thuộc. Với một con hẻm, có thể từ một cái ghế đá cũ kỹ vẫn ngồi. Đối với một thành phố, đó là một ngôi chợ lâu năm. Chợ Bến Thành không xây lại năm 1972 chắc chắn là điều may mắn cho thành phố này. Chúng ta nhận dạng một phần lịch sử của Sài Gòn xưa qua ngôi chợ lớn nhất Nam kỳ này, nơi lui tới buôn bán của muôn vạn người qua các thế hệ. Người sinh ra và lớn lên ở thành phố này, đang sống ở đây hay đã định cư xa xứ (có rất nhiều người như vậy) sẽ tìm thấy một phần đời của mình ở đó mà nếu mất đi, ngoài sự nuối tiếc còn là sự xóa sạch một địa chỉ văn hóa - xã hội sống động”.

XUYÊN VÂN (ghi)

Do tính chất phức tạp và quy mô của bài dự thi, chỉ có 8 đồ án gửi đến ban tổ chức khi cuối hạn. Ban tổ chức cảm thấy bất ngờ và bối rối khi cả 8 bài dự thi đều rất công phu, hiện đại và có thể nói là “vĩ đại” như lời kiến trúc sư (KTS) Bùi Ngọc Hồ nói với báo chí. Điều này đặt trên vai ban giám khảo trách nhiệm lớn. Trong ban giám khảo, có các KTS uy tín như KTS Vũ Tòng - đoàn trưởng KTS đoàn, KTS Phạm Văn Thăng là Khoa trưởng thuộc Đại học Kiến trúc Sài Gòn, cùng giới chức Tòa Đô chánh Sài Gòn lúc đó.

Sau một ngày xem xét chấm giải, cuối cùng đồ án của KTS Huỳnh Kim Mảng đoạt giải nhất. Do có khoảng cách với đồ án này, các đồ án còn lại không có giải nhì. Giải ba trao cho đồ án của hai tác giả là Nguyễn Huy và Trần Phong Lưu, trị giá 400.000 đồng. Ba giải khuyến khích đồng hạng trị giá 200.000 đồng cho các KTS Nguyễn Kỳ, Đào Trọng Cương và Nguyễn Hữu Sơn.

KTS Huỳnh Kim Mảng vốn đã thực hiện nhiều công trình quan trọng trước đó như cùng tham gia lập đồ án xây dựng Trường Lasan Tabert (nay là Trường Trần Đại Nghĩa), rạp hát Victory Lê Ngọc, Trung tâm văn hóa Pháp. Ông sinh năm 1920 tại Long Xuyên, từng theo học Đại học Kiến trúc Hà Nội từ 1941, tiếp tục học Đại học Kiến trúc Đà Lạt từ năm 1945 và đến 1949 sang Pháp học tại Trường cao đẳng Kiến trúc Paris. Ở đây, ngoài bộ môn kiến trúc, ông còn học thêm thiết kế đô thị tại Đại học Kiến thiết thiết kế đô thị. Ông tốt nghiệp năm 1955 và về Sài Gòn làm việc.

Nói về bản thiết kế của mình, KTS Huỳnh Kim Mảng cho biết phải dùng tới 20 họa viên trong 3 tuần lễ để vẽ họa đồ, bình đồ, thực hiện mô hình nổi... Cảm thấy chợ Sài Gòn vừa cũ kỹ và chật hẹp, ông đã tận dụng toàn thể diện tích hiện hữu của chợ gồm ngôi chợ chính phía trước và khu chợ bán trái cây phía sau. Theo đồ án, chợ sẽ xây thành nhiều tầng. Tầng hầm làm bãi đậu xe 150 chiếc. Tầng trệt cao hơn mặt đất 1 m, chung quanh bán thịt các loại, hoa quả, và vào trung tâm là khu bán cá giữa nơi thoáng đãng, có ánh sáng rọi từ trên xuống. Tầng 1 bán chạp phô, bách hóa các loại. Tầng 2 bán quần áo, vải vóc, làm văn phòng ngân hàng tư nhân. Tầng 3 là nơi vui chơi của trẻ em. Tầng thượng có nhà hàng, quán giải khát, rạp chiếu bóng, rạp cải lương. Phía trước chợ còn có một ngôi tháp cao 50 m, phần trên tháp sẽ là một nhà hàng. Chợ có hệ thống thang máy, thang nâng hàng, hệ thống xử lý rác. Hàng hóa đưa vô chợ hoặc lên lầu đều có lối riêng, không dùng chung lối đi với khách. Điểm nổi bật là càng lên cao, diện tích các tầng càng nới rộng ra, được xem là lối kiến trúc táo bạo, thẩm mỹ và đáp ứng nhu cầu buôn bán của chợ lúc đó.

Sở Thiết kế thuộc Tòa Đô chánh Sài Gòn lúc đó dự tính kinh phí xây chợ mới sẽ tốn khoảng 1,5 tỉ đồng, và có thể khởi xây năm 1972. Tuy nhiên, dự án này đã không bao giờ được thực hiện. Lý do được báo chí sau này thuật lại là lúc đó dân chúng không đồng tình, muốn giữ lại ngôi chợ cũ vốn gần gũi, quen thuộc từ hơn nửa thế kỷ trước. Và hơn nữa ngân sách thành phố lúc đó không đủ để thực hiện.
KTS Huỳnh Kim Mảng sau 1975 trở thành cố vấn Hội KTS TP.HCM từ năm 1981 đến 1987. Sau này, ông ra nước ngoài sinh sống và mất tại Brussels (Bỉ) năm 2007, hưởng thọ 87 tuổi.

(Trích từ Sài Gòn - Chuyện đời của phố phần 2 do NXB Văn hóa- Văn nghệ TP.HCM và Phương Nam Book ấn hành).

saomai
09-21-2016, 08:07 AM
Nhà hàng Việt cao cấp đầu tiên

Nha Du Lịch thuộc chính phủ miền Nam thời trước đã lập ra một nhà hàng sang trọng có cái tên giản dị là Hàng cơm Việt Nam, khánh thành vào ngày 9.10.1957.


http://static.thanhnien.com.vn/Uploaded/minhnguyet/2016_02_20/nhahang_YQIT.jpg?w=665&encoder=wic&subsampling=444
Bên trong Hàng Cơm Việt Nam

Một nhà hàng sang trọng chuyên về món ăn Việt là điều bình thường hiện nay. Ở đó, khách nước ngoài, người sành điệu có thể thưởng thức phong cách ẩm thực thuần Việt, từ thức ăn đến đồ uống, cảm nhận vẻ khác biệt, độc đáo trong cách ăn uống của một dân tộc, thấy được những dấu ấn của khí hậu, hệ thực vật, nền nông nghiệp trong bữa cơm hằng ngày của người Việt.

Nhiều quốc gia có chiến lược quảng bá nền ẩm thực độc đáo như Pháp, Ý, Nhật Bản, Thái Lan, Ấn Độ... Ẩm thực truyền thống chính là nét văn hóa riêng đáng tự hào, tạo sự thông cảm giữa các dân tộc và tạo sự thu hút trong công nghiệp du lịch.

Trở lại cuộc sống của Sài Gòn những năm cuối thập niên 1950. Sau khi người Pháp rút về, cuộc sống tự chủ đã xuất hiện thay cho chế độ thuộc địa. Trong ngành ẩm thực, hệ thống nhà hàng hạng sang nấu ăn theo kiểu Pháp sót lại sau 1954 vẫn chiếm lĩnh khu vực trung tâm Sài Gòn, khu Tân Định - Đa Kao. Trong Chợ Lớn, nơi buôn bán sầm uất, có các nhà hàng theo phong cách ẩm thực Tàu, nhất là Quảng Đông, Triều Châu. Nấu ăn theo kiểu Việt hầu hết là ở các quán bình dân, rất đa dạng món ăn từ cơm tấm giò chả, nem chua chả rán, gà xé phay, mắm nêm, mắm Huế. Đồng bào di cư từ miền Bắc, người miền Trung di dân vào Nam góp thêm nhiều món ăn hấp dẫn vào thực đơn món Việt ở Sài Gòn. Tuy nhiên, có thể nói lúc đó ở thành phố này chưa có một nơi tương xứng để đón du khách với món thuần Việt, đủ tiện nghi, có phong cách phục vụ bưng dọn như các nhà hàng Âu - Mỹ. Kế hoạch phát triển du lịch miền Nam lúc đó đã chuyển động, các khiếm khuyết bắt đầu lộ dần và vấn đề này đã được đặt ra.

Và nhà hàng sang trọng Hàng cơm Việt Nam ra đời vì mục đích đó. Người quản lý là ông Bửu Hoàng, một người thuộc hoàng tộc triều đình Huế, nơi có phong cách ẩm thực Việt đáng tự hào. Chủ trương của nhà hàng cũng giản dị như cái tên nhà hàng: “giới thiệu du khách những món ăn thuần túy của VN”. Nhà hàng đặt tại số 40 Nguyễn Huệ, Q.1 (phải chăng hiện nay là nhà sách Fahasa cùng địa chỉ?).

Việc trang trí nhà hàng được chú trọng để tạo đẳng cấp. Màu đỏ là tông chính xuất hiện trên các khung cửa sổ, trần nhà. Phòng lắp máy điều hòa, ghế ngồi bằng da, rải rác là các chậu hoa vạn niên trang trí tạo vẻ tươi mát. Về thức ăn, ba đầu bếp tập trung chế biến các món Trung và Nam bộ trong thời gian đầu và ông Bửu Hoàng có ý định tiếp tục tìm một đầu bếp món Bắc thật giỏi để hoàn thiện thực đơn Việt của nhà hàng. Tuy chưa hoàn hảo theo ý muốn, thực đơn của nhà hàng thật phong phú với hơn 50 món khác nhau. Từ nem chua Huế, chả lụa, chả chiên, chả quế, bì, nem cuốn, bánh hỏi chả giò, gỏi gà, tôm sứa, chạo tôm, tôm nướng Rạch Miễu, lươn, ếch, canh chua, miến gà…
Thực khách đến gọi món, đầu bếp làm ngay. Các món ở đây được đánh giá cao như: gỏi gà Huế có nước dùng nấu với dứa và hoa chuối xắt nhỏ, cao lầu gần với món vằn thắn của Tàu, tôm nướng Rạch Miễu dùng tôm to bóc vỏ, bao một lớp lá mỡ trắng rồi mới nướng, món canh chua nấu với cá chẽm, măng, me, cọng bạc hà được nhiều du khách ưa thích thay cho món súp. Món “giò quốc tế” là món cá nấu như kiểu thịt đông, bỏ vào máy ướp lạnh, cắt thành khúc tròn như mặt đồng hồ trên dĩa, tô điểm thêm hai lá hành thành cây kim đồng hồ...

Không chỉ chú trọng đến món ăn thuần Việt, Hàng cơm Việt Nam còn đưa vào thực đơn thức uống cũng thuần Việt nốt, đó là rượu... ba xi đế, rượu đậu nành, rượu đào, Tôn Thọ tửu sản xuất trong nước bên cạnh rượu Tây.

Bên cạnh đó, trang phục của nhân viên phục vụ được trang bị đúng đẳng cấp nhà hàng hạng sang: nhân viên tiếp khách (lúc đó gọi là chiêu đãi viên) bận đồng phục trang trọng, cổ thắt nơ. Đầu bếp có trang phục riêng, đội mũ chuyên dùng.

Thời điểm đó có một hội nghị quốc tế phát triển kinh tế và xã hội khu vực châu Á tổ chức tại Sài Gòn. Các vị khách quốc tế, đại diện 21 quốc gia dự hội nghị đã trở thành những khách ngoại quốc đầu tiên thưởng thức món ăn Việt trong thực đơn cao cấp này tại nhà hàng Hàng cơm Việt Nam.
Tự hào và tìm cách khẳng định giá trị của ẩm thực Việt bằng cách tạo lập nhà hàng này là một cố gắng rất đáng trân trọng của những người có trách nhiệm, gần 60 năm trước ở Sài Gòn.

Phạm Công Luận
(trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)

Xe ôm Sài Gòn

Xe ôm ở Sài Gòn có từ khi nào? Lục tìm qua sách báo, trước 1954 hầu như không thấy nhắc đến chiếc xe ôm. Lúc đó, các phương tiện công cộng chở người trong thành phố là xe kéo, xích lô và taxi.

Xe gắn máy lưu hành nhưng không dùng làm dịch vụ chở người.

Năm 1969, một nhà văn đoạt giải nhất phóng sự ở Sài Gòn là ông Lê Hương với cuốn sách Chợ trời biên giới Việt Nam - Cao Miên. Khi viết về chợ trời Gò Dầu Hạ ở Tây Ninh, ông cho biết ngoài xe lam và mô tô lôi chở đông người mỗi chuyến thì năm 1967: “xuất hiện bốn loại xe mới: Honda ôm, Suzuki ôm, Mobilette ôm, Yamaha ôm”. Ông đánh giá: “Thật là một nghề chóng phát tài hơn hẳn các anh em chở Mỹ ở Sài Gòn”.

Như vậy, phải chăng xe ôm ở Sài Gòn bắt nguồn từ dịch vụ chở người sau sự kiện người Mỹ đến miền Nam năm 1965?
Từ câu chuyện kể dưới đây của một dược sĩ gốc gác ở Q.4 cho tác giả cuốn sách này bổ sung cho nhận định trên. Năm 1965, khi người Mỹ bắt đầu tham chiến ở VN thì xuất hiện một lớp người làm việc trong các công sở của người Mỹ. Họ làm nhân viên đánh máy hay sửa chữa bảo trì xe cộ, lái xe. Đồng lương của họ khá khẩm, giúp sống thoải mái và dễ dàng mua xe máy.

Chiến cuộc lúc lên lúc xuống, công sở Mỹ có lúc mở ra và có chỗ đóng cửa tùy theo nhiệm vụ. Phút huy hoàng nào cũng có lúc trở thành điêu tàn và những người quen lãnh lương bằng đô la ở Sài Gòn bắt đầu lo lắng.

http://static.thanhnien.com.vn/uploaded/trandong/2016_02_17/xe-om-d_idml.jpg?width=500&encoder=wic&subsampling=444
Xe Lambretta được quảng cáo trên báo Sài Gòn Mới xuân Giáp Ngọ năm 1954 - Ảnh: T.L

Tại một cơ quan của người Mỹ ở trung tâm Sài Gòn có một ông nhân viên tên là X. tuổi vào lứa 50, con đông nheo nhóc. Ông mua được một chiếc xe Lambretta dùng để đến sở làm mỗi ngày. Xe Lambretta hai thì, khỏe, yên thon dài nên ngồi rất thoải mái, thích hợp với vóc dáng cao ráo của ông.

Đùng một cái, sở làm của ông thu hẹp số nhân viên và ông X. phải nghỉ làm. Sau một thời gian chới với vì “bể nồi cơm”, ông trấn tĩnh lại rồi ráo riết nghĩ đến việc kiếm sống nuôi con. Trong thời gian nghe ngóng, ông X. vẫn thỉnh thoảng lui tới thăm chỗ làm cũ, gặp bạn bè người Mỹ đã cùng làm ở đó.

Một buổi chiều, ông X. được anh nhân viên Mỹ hỏi thăm về một snack-bar trên khu Kho 18 thuộc Q.4, gần cầu Tân Thuận. Hôm đó là cuối tuần và anh Mỹ này định nhờ ông cho quá giang xe đến đó để giải trí. Ông X. vui vẻ nhận lời.

Trên xe, anh chàng người Mỹ cho biết cảm thấy thoải mái cho đôi chân khi được chở trên chiếc xe có thân dài này hơn là ngồi trên những chiếc xe máy yên nhỏ của người Pháp hay Đức chế tạo đang có ở Sài Gòn. Khi dừng xe, ông X. giơ tay từ biệt thì anh chàng Mỹ rút túi tặng ông một ít tiền và ngỏ ý vào cuối tuần nhờ ông chở đi vòng vòng Sài Gòn chơi. Ông X. nhận lời và từ đó, ý thức rằng có thể kiếm tiền bằng những lần chở người ở yên sau, ông tìm cách tăng lượng khách. Ông chở thêm những người Mỹ khác và nhận ra rằng tiền kiếm được còn nhiều hơn trước kia đi làm nữa.

Lúc đó, khu Kho 18 có hai snack-bar là Rạng Đông và Thúy Phương. Thấy ông X. làm ăn được, mấy ông từng làm sở Mỹ đang thất nghiệp bắt chước theo và thấy có ăn. Họ mua toàn là xe Lambretta vì xe khác người Mỹ lắc đầu. Từ đó hình thành đội ngũ xe ôm đầu tiên ở Sài Gòn đậu dài dài ở hai bar rượu này, đi cùng một loại xe và chủ yếu phục vụ cho các nhân viên dân sự Mỹ. Họ không chỉ đi uống rượu mà bằng xe ôm, có thể vô các khu hẻm nhỏ tìm người quen, tìm bạn gái, tìm bạch phiến. Còn người dân Sài Gòn bình thường không ai quan tâm đến loại xe này. Ai không có xe máy thì đi taxi, xe buýt hay xích lô máy, xích lô đạp, xe Lambro...

Căn cứ vào câu chuyện trên, có thể coi xe ôm có từ giai đoạn đầu khi người Mỹ mới vào miền Nam VN. Nhưng có thể nó trở nên phổ biến hơn sau khi nhập cảng xe Nhật, năm 1967. Một tác giả ở hải ngoại là Lưu Nhơn Nghĩa trong bài Lải nhải đời tôi 1959 - 1969 có viết: “Dân công chức lương thấp nghĩ cách kiếm sống, dùng xe mình đưa khách kiếm thêm... Lần đầu tiên, nhóm xe taxi, xích lô máy, xích lô đạp xô xát với nhóm xe ôm vì quyền lợi.

Lúc đó tương đối còn sống được, sau này đời sống chật vật, cả đến quân nhân, cảnh sát ngạch thấp, công an chìm cũng chạy xe ôm. Rõ ràng là chỉ có xe Nhựt, yên liền rộng, thấp, vừa tầm người Á châu, chỗ gác chân thoải mái mới sử dụng được trong việc kiếm ăn này. Xe Nhựt lại hết sức bền bỉ, ít hao xăng, chạy suốt từ Sài Gòn ra Vũng Tàu không nằm đường. Xe Pháp như Mobilette, Sachs (thật ra xe này của Đức - TG), Puch chạy không nổi, yên xe nhỏ, chông chênh”. Ông còn kể thêm: “Hình như giới xe ôm cũng có luật riêng giúp đỡ lẫn nhau khi có trường hợp bị khách giựt xe. Khi đưa khách trả tiền đến vùng đáng sợ, anh xe ôm đưa tay ra một hai dấu hiệu gì đó cho đồng nghiệp, một hay hai người sẽ chạy theo kín đáo bảo vệ nhau, tiền chia chác sau đó”.

Sau năm 1973, người Mỹ rút hẳn về nước, kinh tế miền Nam đi xuống, giới chạy xe ôm lại một phen gặp khó khăn. Sau 1975, nhất là khi kinh tế khá dần lên sau đổi mới, nhiên liệu xăng nhớt thoải mái hơn thì xe ôm hồi sinh. Lúc này người Việt thích đi xe ôm nhờ tính tiện lợi có thể len lỏi vô các hang cùng ngõ hẻm, chợ nhỏ của Sài Gòn - Gia Định. Xe ôm lúc đó tiếp tục dùng các loại xe như Honda Dame, Suzuki nam, Yamaha...

Câu chuyện lịch sử xe ôm này do ông X. kể lại cho anh dược sĩ hồi sau 1975, trong lúc trà dư tửu hậu. Khi xưa, nhà anh dược sĩ ở khu Kho 18, Q.4 và có chứng kiến nhóm xe ôm kỳ lạ thuở ban đầu, toàn là những người đi Lambretta, đúng như lời kể của ông X.

Phạm Công Luận
(trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3

saomai
07-31-2019, 08:07 AM
HƯƠNG VỊ NGÃ BA ÔNG TẠ - GÓC QUÊ HƯƠNG


https://scontent-lax3-2.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/67273865_10213507682201268_415683839898157056_n.jp g?_nc_cat=103&_nc_oc=AQluLakROrrJa9PJNX60YesYUYammiNObHg2nztbR8I Q5Xv3Lsj-DnYxVd-DbcycgKovEXUSj0TWozHOerCCqQXM&_nc_ht=scontent-lax3-2.xx&oh=646e66eb247ed6c4676a34a46f8ee784&oe=5DD8B6C3
Góc chợ bán lá dong ngả ba Ông Tạ dịp Tết.

Ảnh:T.L


https://scontent-lax3-2.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/67556096_10213507682481275_7871946682949173248_n.j pg?_nc_cat=108&_nc_oc=AQmCsWBRzl4lccSwjJQa0u79ORXZ3wG8m9FakOXjsd-38LHx4qS1bf0DJ516_dfM_SepOODrCjd3rQ2ztrnL-GSp&_nc_ht=scontent-lax3-2.xx&oh=a939db01c324797be799f7ade5f6ec3f&oe=5DA70340
Nhà thuốc Trần Thái Đường, còn gọi là nhà thuốc Ông Tạ.

Ảnh: Nguyễn Đình
Từ năm 1954, khu ngã ba Ông Tạ đang vắng vẻ thay đổi hẳn vì cộng đồng người Bắc di cư vào hình thành khu dân cư đông đúc. Nhà thờ, chợ búa, tiệm quán, trường học nhanh chóng xuất hiện. Người dân Ông Tạ mang vào Nam phong cách ẩm thực quê hương miền Bắc và tiếp tục giữ gìn, phát triển nhờ có thực khách đồng hương. Họ mở quán xá ngoài mặt phố, trong chợ, trên vỉa hè. Một số nhà trong hẻm biến thành nơi chế biến thực phẩm cung cấp cho các chợ và quán ăn, từ lò mổ heo, làm giò chả, làm bún, quay thịt heo... Rau củ chợ Ông Tạ luôn tươi mới vì được đưa từ vùng Bà Quẹo, Hóc Môn xuống bằng xe ngựa vào mỗi sáng sớm. Chợ Ông Tạ và khu phố chung quanh trở thành nơi giới thiệu và thưởng thức món ngon vật lạ, cũng là nơi bình phẩm, đánh giá thực phẩm từ các bà nội trợ sành ăn.

Nói về hàng ăn, trước hết, phải nhắc đến món giò chả, đặc sản khu này. Trong đó, có nhà làm giò chả của ông Trùm Bệ, nằm giữa rạp Đại Lợi và ngõ vào cổng nhà thờ Tân Chí Linh.

Ông Trùm Bệ có một người con trai và hai cô con gái. Hai cô gái ở hai nhà riêng, đều làm giò chả để hằng ngày đem bán ở chợ Vườn Chuối và chợ Hòa Hưng. Giò chả của hai cô từ một gốc mà ra nhưng mỗi người có một hương vị riêng, đều ngon nổi tiếng ở hai khu chợ họ bỏ mối. Ông Trùm Bệ ở với con trai nhưng hàng ngày đến nhà cô gái nhỏ là cô Nghĩa để phụ làm giò. Ông giúp cô gói những cái giò lụa hay nướng những khuôn chả quế. Đôi khi ông cũng gói những cái bánh giò trong lá chuối rồi hấp nóng, ăn thơm và giòn. Giò chả của cô có tiếng là ngon vì chọn thịt heo và thịt bò tươi rất kỹ, được bỏ mối đến nhà hàng ngày từ lò mổ heo bò gần chợ ông Tạ. Công-xi heo này rất coi trọng khách hàng quen từ chợ và các nhà chế biến giò gần đó. Mỗi ngày họ giao hàng trăm cân thịt loại ngon nhất tớI nhà cô, thịt heo cho giò lụa, chả chiên, chả quế, giò gân và thịt bò cho giò bò, giò gân. Vì chế biến bằng thịt tươi, giò chả của hai cô thơm, ăn rất giòn. Khi chế biến, thịt được thái mỏng cho vào máy điện xay cho nhuyễn. Thêm nước mắm nhỉ nguyên chất từ Phú Quốc và tiêu, hành, bột nổi, gia vị cho đậm đà. Sau khi xay xong, những khối giò sống lại được cho vào cối đá giã cho thịt nhuyễn đều. Với vài khách quen, ông Trùm Bệ thường kể rằng ngày xưa ở miền Bắc chưa có máy xay thịt nên thịt heo phải thái mỏng xong cho vào cối giã cho nhuyễn rồi mới trộn chung với gia vị. Vào Sài Gòn, lúc đầu ông vẫn giữ cách làm xưa, cho vào cối giã. Mãi đến khi có máy xay thịt thì đỡ công giã, sản xuất được nhiều giò hơn hẳn. Tuy nhiên, cối đá vẫn được dùng để giã giò sống cho thịt quyện chắc vào nhau. Giò lụa được gói trong lá chuối tùy theo trọng lượng, nửa ký, một ký hoặc hai ký tùy khách hàng đặt hoặc để bán cho các bà đi chợ. Hai cô cũng bán những cân giò sống cho các bà làm bún mọc hoặc cho các bà đi chợ mua về làm mọc nấu canh.

Kha, anh bạn tôi ở Mỹ hồi xưa sống cùng gia đình trên đường Thoại Ngọc Hầu, đoạn gần cầu, có kỷ niệm về ông Trùm Bệ này. Kha nhớ nhiều lần mẹ sai đến nhà cô Nghĩa mua vài ký mọc sống để về nhà làm bún mọc, nhồi gà tần hoặc nấu món vịt tiềm đãi khách, hoặc làm mọc nấu canh bí, canh rau ngót. Lúc khác, bà sai sang mua vài ký giò bò sống để làm bò viên ăn mì hay phở, chả chiên để ăn bánh cuốn. Dịp Tết thì mua vài kí chả quế, mấy cây giò lụa để ăn dần mấy ngày Tết. Những lần như vậy, Kha được xem cô Nghĩa xay giò và ông Trùm Bệ gói giò.Ông xúc thịt cho vào lá chuối đặt lên cân đúng trọng lượng rồi cuộn tròn cái giò lại, lấy dây lạt bằng tre gói từng vòng xong xếp vào trong cái vạc lớn để luộc cho đầy một mẻ. Khi làm chả chiên, ông cũng xúc từng nửa cân thịt đặt trên miếng lá chuối rồi thả vào trong vạc dầu sôi sùng sục khoảng chừng mười phút thì chín. Những miếng chả chiên vàng ươm khi chín thì nổi lên trong vạc dầu. Ông vớt ra cho vào cái sọt đan bằng tre và đậy nắp lại để giữ nóng cho tới khi mang ra chợ bán.

Khi làm chả quế, ông xúc những miếng thịt heo xay có trộn quế đắp lên cái khuôn hình ống dài khoảng chừng sáu tấc, đường kính khoảng chừng hai tấc. Ông đắp thịt cho dầy khoảng chừng ba phân. Sau đó ông đặt cái khuôn chả quế lên quay bên trên bếp lửa than hồng. Làm món này lắm công phu, vì phải quay chậm rãi cho đều chừng hơn một tiếng đồng hồ đến khi chả chín vàng ươm chung quanh. Nếu làm không đúng cách, chả quế có chỗ sẽ bị cháy hoặc có chỗ không chín. Chả quế làm đúng cách khi ăn sẽ cảm thấy trên bề mặt dòn tan như thịt heo quay, nhưng bên trong mềm và dẻo lại thơm mùi quế. Chỉ có những dịp lễ hội đặc biệt hoặc có đám xá, nhất là đám cưới thì người ta mới đặt mua cả cây chả quế về cắt ra từng miếng hình con thoi xếp vào đĩa trông như những ngôi sao rất hấp dẫn. Nhiều lần đến mua giò chả, Kha thấy ông Bệ làm những cái bánh giò gói trong lá chuối cột thành từng xâu cho vô trong cái nồi to để hấp. Khi đi về, ông thường dúi vào tay Kha một hai cái bánh giò hay một cái giò lụa nho nhỏ mà ông vét cối vét chày cho vào lá chuối gói để làm quà cho mấy đứa cháu.

Mỗi sáng, ông Trùm Bệ đi bộ đến nhà Kha chơi và để uống nước chè xanh. Có lúc ông mang qua cái giò con con cho thằng em của Kha. Mỗi lần đưa cho nó, ông cắn nhẹ tay thằng bé một cái. Miệng ông nhai trầu nên dấu răng ông cắn có vết vôi đỏ lòm, thằng bé tưởng là máu thật. Sau này hai cô con gái của ông sang Mỹ sống nhưng một cô cháu ngoại của ông ở lại Sài Gòn tiếp tục làm giò chả thay mẹ. Giò chả của cô này cũng bán chạy, thậm chí đắt hàng hơn.

Những tiệm thuốc Bắc có nhiều ở khu Ông Tạ, của người Việt và người Hoa. Đối với con nít khu này, thuốc Bắc không có gì để ham nhưng trong tiệm cũng có vài thứ để nhấm nháp.

Bên kia cầu ông Tạ, phía chợ Phạm Văn Hai có nhà thuốc bắc Nhơn Tâm Tế tồn tại khá lâu. Chủ tiệm Nhơn Tâm Tế là người Hoa, biết nói tiếng Việt lơ lớ, hiền và tử tế. Tiệm thuốc của chú cũng có cái để ăn, là có bán cam thảo, táo tàu, ô mai. Kha kể có lần đi mua cam thảo, thấy một thằng bé mang một xâu chuỗi vỏ quít khô vô tiệm chú và đổi lấy ô mai. Kha hỏi nếu có vỏ quít khô có thể đổi được lấy ô mai hay cam thảo ăn không. Chú ấy nói: “Nếu có, cứ mang đến tiệm đổi lấy cam thảo, ô mai, táo tàu hay quế, cũng được!”. Biết vậy, ăn quýt xong, Kha giữ lại vỏ, đi xin vỏ quýt của người khác nữa mang về xâu vào dây thép, cột lại một vòng rồi phơi nắng trên mái tôn, xong đem đổi lấy ô mai, xí muội hay cam thảo về ăn... Lớn lên một chút, mới biết vỏ quýt là trần bì cũng là một vị thuốc Bắc.

Một tiệm thuốc Bắc khác cũng có liên quan đến hàng ăn là tiệm Vạn Hòa Xuân, gần ngõ Cổng Bom. Bà chủ tiệm cũng là người Hoa, do không ai biết tên thật nên chỉ gọi là bà Tàu. Trước cửa tiệm, bà đặt một xe bán nước mía do mấy cô con gái đảm nhiệm. Mỗi tối, mấy cô này thay nhau ra bán nước mía. Lúc đó, nam thanh nữ tú sau khi coi chiếu bóng, cải lương hoặc kịch ở rạp Đại Lợi xong là tà tà đi dạo đường Thoại Ngọc Hầu ra ngã ba ông Tạ. Mỏi chân, họ ghé hàng quán ăn. Mấy cô con chủ tiệm thuốc còn có quầy bán khô mực, khô thiều nướng. Mía được róc vỏ sẵn để một bên, khi có khách gọi nước mía, mấy cây mía được chụm lại đẩy qua máy xay ra nước, kẹp thêm trái tắc cho thơm. Nước mía được xay ra màu vàng bơ tươi thêm vài cục đá lạnh uống vào mát cả ruột. Bên cạnh xe nước mía là một cái bếp than hồng để nướng khô mực, khô thiều. Những con mực khô hoặc cá thiều khô được treo trên sợi dây thép ngay cái bàn bên cạnh. Ai muốn ăn con nào, lựa con đó rồi đưa cho chị bán hàng nướng. Nướng xong đưa vô máy cán cho dẹp, dài ra rồi chấm với nước tương ớt.

Nếu nói về món chè bánh lọt đậu xanh đậu đỏ, thì có lẽ nhà bà Tầu là người đầu tiên đã mở tiệm bán món chè ở khu này. Bà để trên xe những hũ đậu xanh đậu đỏ bằng thủy tinh, hũ nước dừa bánh lọt thêm đá bào từ cái máy xay để cho vào ly chè. Về sau, mấy cô con gái còn chế thêm mấy món chè đậu ván, chè cốm xanh, chè sương sa, sâm bổ lượng và nhiều loại chè khác nữa.

Ngày đó khu ông Tạ về chiều là sầm uất nhất. Những người khác thấy quán chè nhà bà Tầu đông khách, đua nhau mở những quán chè trên vỉa hè vào buổi chiều. Đối diện nhà bà Tầu, nhà ông Thạnh và nhà cô Chín, cô Mì cũng có xe bán nước mía và bán chè đậu xanh đậu đỏ. Đầu ngõ Tứ Hải cũng có những quán chè, bên kia cầu ông Tạ cũng vậy. Quán bên kia cầu của mấy chị em có dung nhan khá xinh khiến trai trẻ dọc đường Thoại Ngọc Hầu tấp vô ăn chè hoài để tán tỉnh dù chả tới đâu. Nhớ lại, chè không ngon gì mấy, nhưng luôn luôn đông, là điều dễ hiểu.

Bốn mươi năm trước, trong ngõ ấp Hàng Dầu có gia đình bác Nhâm bán khoai luộc và bắp luộc rất ngon, ngay trước cổng ấp Hàng Dầu. Mấy chị em nhà này ngày nào cũng nấu khoai, luộc bắp đem bán ở đầu ngõ. Khoai mì được bóc vỏ, ngâm trong nước cho hết chất nhựa chảy ra, sau đó được cắt thành từng khúc và luộc cho chín. Có hai loại khoai mì bở, và dẻo. Khoai mì bở có nhiều chất bột ngon hơn khoai mì dẻo. Trong khi đợi luộc khoai chín, hai chị ngồi bào cùi dừa, xong ép lấy nước cốt để sang một bên. Khi khoai mì được luộc chín, gắp từng miếng khoai ra, nhúng vào nước cốt dừa béo. Sau đó xếp khoai vào một cái nồi khác rồi rắc lên những sợi dừa bào trắng tinh. Cái nồi này không dùng nấu than củi nên bên ngoài bóng loáng sạch sẽ. Xong xếp vào quang gánh, đưa ra đầu ngõ bán. Nghĩ lại, củ khoai mì rẻ tiền mà nhiều công dụng, có thể luộc ăn hoặc bào ra làm đủ thứ bánh, từ bánh cay, bánh khoai mì bọc nhân dừa hoặc nhân đậu xanh.

Nhà bác Nhâm cũng luộc bắp ngô bán, ngon nhất là bắp nếp. Những trái bắp hạt no tròn, luộc lên hơi nước dâng lên thơm phức. Nhà bác còn bán thêm bắp nướng than, rất hấp dẫn khi quẹt thêm chút mỡ hành để nhâm nhi sau bữa cơm chiều. Có cả khoai lang luộc nóng, loại khoai lang mật Đà Lạt hay khoai lang tím còn gọi là khoai lang Dương Ngọc. Củ khoai tím luộc lên màu tím bên trong, nhưng đến khi cắn một miếng, thì bên ngoài chỗ cắn đổi màu dần thành màu ngọc bích.

Trong xóm Ấp Hàng Dầu có nhà ông bà Cừ làm bún tươi bán hàng ngày. Nhà nào cuối tuần muốn đổi món, làm nồi bún mọc, bún riêu hay ăn bún chả giò, bún thịt nướng thì sai con nít vào nhà bà Cừ mua bún tươi. Khách đến, bà lấy vắt bún cho vào lá chuối để khách mang về nhà vì bún không bị dính vào lá chuối. Buổi trưa, người nhà bà Cừ giã gạo bằng cái cối đá và chày gỗ to. Cối đá bà xây gắn vào nền nhà, chày thì phải dùng chân mới đủ sức để giã gạo.

Bà Cừ mua gạo ngon, ngâm qua đêm trong những chậu sành lớn, sau đó để róc nước và cho vào cối đem giã thành những cục bột. Xong, cho bột vào những chậu sành ngâm qua ngày hôm sau. Từ chậu bột đó, bà xúc bột cho vào cái túi vải. Phía dưới túi vải có đặt một cái khung sắt tròn có những hàng lỗ đinh nhỏ để cho những sợi bột lọt xuống. Khi bột được cho đầy túi, bà ngồi vắt những sợi bún vào cái nồi nước to sôi sùng sục. Chừng dăm ba phút sau, bún được luộc chín. Bà lấy cái muôi xúc bún ra, vẩy cho khô nước và đặt lên cái sạp làm bằng tre để bún khô dần. Khoảng xế chiều, bún được mang đi bỏ mối ở ngoài chợ hay cho những bà bán bún mọc, bún riêu, vân vân... Vì làm bằng gạo ngon, làm tươi mỗi ngày nên bún của bà Cừ bao giờ cũng thơm tho, không bị chua như bún người khác bán. Đã vậy, bà có bí quyết riêng nên bún rất tơi, không dính vào nhau.

Đi từ ngã ba, qua bên kia cầu ông Tạ còn có tiệm bán cháo lòng tiết canh heo rất ngon của ông Nho. Qua cầu, đi bộ chừng năm phút thì tới. Một tô cháo ông bán có để giá bên dưới, cháo lòng và tiết bên trên xong mấy miếng dồi và tìm, gan heo, ông thái mỏng đặt bên trên và rắc thêm hành ngò, rất là hấp dẫn. Thời đó, không ai ngại món tiết canh như bây giờ và không thấy ai bị bệnh vì món này. Những đĩa tiết canh heo ông đánh lên cho đông lại rất ngon, trên lát mấy miếng gan heo thái mỏng, ăn với rau húng quế. Nước nấu cháo lòng của ông Nho là nước thịt heo quay, không biết là mua hay xin ở nhà ông Nhạ mà người ta bảo là anh em ruột của ông, trong ngõ ấp Hàng Dầu. Ngày nào nhà ông Nhạ cũng làm heo quay bỏ mối hoặc bán ở chợ ông Tạ. Khi quay thịt, ông xâu một thanh sắt qua con heo từ đầu xuống đuôi rồi máng trên hai cây. Bên dưới là một lò bếp than củi, giữa bếp lò và thanh ngang xiên con heo có đặt một nồi nước thật to. Ông quay thịt heo bằng hơi nước chứ không trực tiếp bằng than lửa nên khi thịt heo chín dần, nước mỡ từ thân heo chảy xuống cái nồi phía dưới. Khi quay xong mấy con heo thì nồi nước “lèo” phía dưới toàn là nước cốt từ thịt heo chảy xuống. Heo chín xong, da vàng ươm, giòn rụm còn thịt bên trong trắng tinh đậm đà, mềm và béo. Thịt heo đã ngon. Cháo lòng nấu từ nước cốt nhà ông Nhạ càng ngon. Nhà nào trong khu này muốn ăn cháo lòng cho đã thì đến nhà ông Nhạ mua nước thịt heo quay. Ai quen thì ông chỉ cho, không bán.Xong, ra tiệm ông Nho mua tiết, lòng heo, dồi, gan, tim, dầu cháo quẩy, giá về cho vào cháo ăn.

Kha kể rằng ở bên Mỹ, người lớn tuổi khi nhắc đến Sài Gòn là nhớ nhà hàng Kim Sơn, Thanh Thế, Bát Đạt… còn mình là con nít thời đó nên chỉ nhớ mấy cái quán bán nước mía, xe phở vỉa hè và cái quầy bán bánh kẹo trong mấy nhà gần chợ. Vậy mà khi nhắc lại trong một buổi họp mặt toàn những người U.60, ai cũng tranh nhau kể chuyện ăn vặt thời con nít. Giữa những giọng nói râm ran, Kha cảm thấy như đang đi lại khu phố chợ tuổi nhỏ đông đúc, đoạn từ ngã ba Ông Tạ về phía rạp Đại Lơi, đi ngang qua các quán xá vỉa hè đầy màu sắc, âm thanh, mùi hương, vị ngon ngọt của các món ăn trong một buổi tối nay đã xa thật xa.

Phạm Công Luận
(Trích cuốn “Sài Gòn - chuyện đời của phố” tập 5)

saomai
07-31-2019, 08:12 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1564560721-SGChuyen doicuapho1.JPG
Bây giờ còn đọng lại mỗi cái tên "Hẻm Ông Tiên" số 96 Phan Đình Phùng, Phú Nhuận, gần bên nhà thuốc lớn lẫy lừng danh tiếng cả Đông Dương một thời. (bài tư liệu nên khá dài)

AI CÒN NHỚ NHÀ THUỐC ÔNG TIÊN ?

Đầu thế kỷ 20, ở Phú Nhuận có một hiệu thuốc nổi tiếng là nhà thuốc mang tên Ông Tiên.

Thời đó, Tây y do người Pháp đưa qua chưa phổ biến rộng khắp vì chi phí cao, thường dành cho người Pháp và một số người Việt tầng lớp trên. Đa số dân chúng dùng thuốc đông y. Nhà thuốc Ông Tiên, với đầu óc nhạy bén của những người quản lý rất chú trọng đến việc quảng cáo tên tuổi và sản phẩm đã chiếm vị trí lớn về thuốc chữa bệnh bằng đông y trong xã hội Việt Nam lúc đó. Họ đăng báo quảng cáo thuốc rất nhiều từ Nam ra Bắc, từ báo Công Luận trong Nam đến Hà Thành Ngọ Báo ngoài Bắc. Họ tham gia hội chợ để mở gian hàng giới thiệu sản phẩm. Để thu hút người đến xem, họ thuê người đến diễn hoạt cảnh hài hước, diễn xiếc tại gian hàng. Thuốc ở hội chợ bán rẻ hơn ở ngoài tiệm. Nhà thuốc còn tặng sách để quảng cáo cao đơn hoàn tán, kèm thêm bài vè để chơi “lô tô”.

Ngoài Sài gòn – Gia Định, nhà thuốc Ông Tiên mở ra các chi nhánh khắp nơi, từ Hà Nội, Huế, Phnompenh, Hải Phòng, Bắc Giang, Nam Định, Đáp Cầu, Bắc Ninh, Yên Bái, Cần Thơ, Bạc Liêu, Châu Đốc... và có tới 850 đại lý trên khắp mọi miền đất nước, con số không nhỏ !

Năm 1936, báo Công Luận số Xuân quảng cáo Nhà thuốc Ông Tiên ghi rõ địa chỉ là số 82 đến 92 đường Paul Blanchy nối dài (Rue Paul Blanchy prolongée) ở Phú Nhuận, nay là đường Phan Đình Phùng, số điện thoại là 1079, có tòa án và chánh phủ Pháp chứng nhận. Hình nhà thuốc chiếm hết bề ngang trang báo là một dãy nhà dài, gồm tất cả sáu gian. Nếu tính trung bình một gian rộng ba mét thì mặt tiền nhà thuốc đã 18 mét, rất bề thế. Tiệm chia thành nhiều bộ phận (gọi là “sở”), bao gồm các sở: gởi thuốc, bút toán, thơ tín, phòng khách, bào chế và khám bệnh. Thầy thợ và nhân công trên 400 người. Các sở đều có người kiểm soát kỹ lưỡng do hai ông “học sĩ y khoa” là Tống Văn Viết và ông Nguyễn Ngọc Châu làm giám chế và ông Nguyễn Hoàng Hoanh chủ trương. Tết năm đó, nhà thuốc có lời mừng Xuân Phước Lộc Thọ đến người đọc và thông báo: “Hiệu thuốc Ông Tiên mới sáng lập không trên mười năm mà đã được đồng bào khắp ba kỳ, Lèo (Lào) và Kim Biên (tên gọi khác của thủ đô Phnompenh, Campuchia) rất chú ý, tín dụng và tiêu thụ một cách mau chóng đến như sở gởi thuốc của chúng tôi hằng 50 người mà công việc làm không muốn xuể. Nói phải, cũng nhờ đồng bào ai cũng đều biết thuốc hiệu Ông Tiên là hay nhứt và hiệu nghiệm ở cõi Á Đông này do hai ông Tống Văn Viết và ông Nguyễn Ngọc Châu là hai nhà học sĩ y khoa chuyên môn lão luyện bào chế đủ loại thuốc: cao đơn hoàn tán trị đủ các chứng bệnh rất hiệu nghiệm, nhất là sưu độc bá ứng hoàn và điều kinh bạch đái là hai món thuốc vô song thần diệu. Có quyền chứng nhận của chánh phủ Pháp và được Đức Đại Nam Hoàng đế ân tứ cấp bằng tài năng”.

Không chỉ mở các đại lý rộng khắp, nhà thuốc Ông Tiên có xe quảng cáo chạy đến các làng xóm và bán thuốc. Một chiếc xe chạy vào khu xóm An Nhơn nay thuộc Gò Vấp được mô tả như sau trong cuốn hồi ký “Làng cũ người xưa” của tác giả Tiền Vĩnh Lạc: “Đó là một chiếc xe hơi kiểu chở đồ, bít bùng, mở cửa phía sau, hai bên hông có sơn “Nhà thuốc Ông Tiên” và hình nhãn hiệu ông Tiên cầm phất trần. Trên mui xe có gắn một cái loa lớn. Đàng sau xe có để một cái bàn, trên đó bày đầy hộp thuốc đủ thứ”. Tác giả thuật là xe chưa đến đã phát từ xa các bài vọng cổ thịnh hành thuở đó, các bài có lời như “Văng vẳng tiếng chuông chùa / Theo giọng công phu của đoàn sư vãi ớ ơ” và “Ngày mai này anh sẽ ra đi / Đem thân dãi dầu với những ngày âm thầm nắng mưa gian khổ ớ ơ / Cho nên một lần cuối cùng nầy, anh trở lại đầy để đổ cạn lệ sầu...”. Bài vọng cổ để gây chú ý trước, sau đó người bán sẽ giới thiệu các loại thuốc hiệu ông Tiên, trong đó không thể thiếu thuốc “Giải phong sát độc hoàn” với câu sau: “Bà con hằng ngày ăn uống, chất độc tích tụ trong máu sinh ra các chứng bịnh ngoài da, nhứt là bịnh ngứa. Nhiều người ngứa nổi có dề, hoặc mụt ngứa đỏ, gãi tới đâu ngứa tới đó, xức thuốc gì cũng không hết. Chỉ có cách uống thuốc “Giải phong sát độc hoàn” của nhà thuốc ông Tiên mới hết. thuốc này uống vô xổ độc, lọc máu công hiệu như thần! Uống ba ngày thì thấy hiệu quả, uống hết một chai thì hết ngứa. Uống thêm một chai nữa thì dứt nọc, bảo đảm một trăm phần trăm”. Dù lời giới thiệu không có gì mới vì giống như đăng trong báo, nhưng bà con ở lại còn để nghe anh hát hay có khi kêu lô tô: “Tề thiên đại thánh / đánh với Hồng Hài / đại chiến cả ngày / bất phân thắng bại / là con số Bảy !”, “Huỳnh Sào khởi nghĩa / tại Bạch Sơn Đầu / hòa thượng rụng đầu / thương người lòng tốt / con Bốn mươi mốt !”. Hết lô tô lại đến ca vọng cổ cho đến khi vãn người đến xem, xe mới chạy đi bán nơi khác.

Khoảng thời gian khủng hoảng kinh tế, từ 1929 đến gần cuối thập niên 1930, nhà thuốc Ông Tiên tổ chức một đoàn ra tới tận Hà Nội để quảng bá thuốc. Hà Thành Ngọ Báo, số 2409 ra ngày 22 Tháng Chín 1935 đánh giá “Đối với năm kinh tế quẫn bách này mà nhà thuốc Ông Tiên ở Phú Nhuận, Sài Gòn dám tổ chức một đoàn quảng cáo rất lớn lao mà từ xưa đến nay chưa từng có để phô trương các thuốc hiệu “Ông Tiên” đã được trăm nghìn người dùng đều khen tặng. Cuộc hành trình này rất tốn kém trên một vạn đồng bạc, nào xe ô tô, nào máy truyền thanh và trăm ngàn lộ phí khác”. Trên tấm hình đăng kèm trrong đó có đám đông người vây quanh một chiếc ô tô, báo viết: “Chúng ta hãy coi hình trên đây, đồng bào mình hết sức hoan nghênh trong lúc cổ động ở trước nhà Tổng đại lý Nguyễn Văn Đức 11 Hàng Hòm, vây bọc cả xe ô tô không còn trông thấy đông là thế nào.” Tờ báo rất lịch sự viết: “Vậy chúng ta xin cầu chúc cho đoàn quảng cáo Ông Tiên đi đường được bình yên và được kết quả mỹ mãn, như vậy là dám hy sinh với nghề nghiệp một cách mới mẻ”.

Hai tháng sau sự kiện đó, tháng 11 năm 1935, nhà thuốc này mở thêm chi nhánh tại Hà Nội số 68 phố Hàng Giấy, khu Đồng Xuân. Dịp này, nhà thuốc thông báo các đại lý ở Hà Nội sẽ bán một và tặng thêm một sản phẩm của nhà thuốc.

Khi một doanh nghiệp làm ăn được thì không chỉ nhận được lời khen tặng mà còn có cả lời gièm pha. Khi nhà thuốc đăng lời khen của một độc giả từ Marseille bên Pháp khen là thuốc dùng có công hiệu, nhà thuốc bị tố là bịa ra bức thư đó vì cho là thuốc ông Tiên không thể có bên Pháp. Nhà thuốc phải đăng trên báo Tân Văn (số 25 ra ngày 19 Tháng Một 1935) hình biên nhận của Bưu điện khi gửi thuốc đi Pháp và tờ thanh toán của bên Pháp để chứng minh sự minh bạch của mình.

Hơn tám mươi năm trước, nhà thuốc Ông Tiên tại Phú Nhuận, ngoại ô Sài Gòn đã tỏ rõ sự năng động trong làm ăn, phát triển và quảng bá thương hiệu có thể nói là bắt kịp thời đại. Đó là tấm gương đáng tự hào của một doanh nghiệp sản xuất thuốc chữa bệnh đất Sài Gòn - Gia Định trong thời Pháp thuộc.

* * *
Trên báo Sài Gòn, Số 14133, 10 Tháng Mười Một 1938 có bài viết “Dắt độc-giả ở xa. Đi viếng nhà thuốc "Ông-tiên" năm 1938 cho biết chuyện thiệt hư như thế nào?” tường thuật cuộc viếng thăm nhà thuốc này năm 1938. Xin trích một số đoạn để hình dung việc sản xuất của nhà thuốc Đông y lừng tiếng một thời này.

“Qua khỏi Cầu Kiệu, gần chợ Xã Tài (rue Paul Blanchy prolonggée, Saigon) thấy một tấm bảng to tướng đề Nhà thuốc Ông Tiên nằm dài trên sáu căn nhà rộng lớn, đồ sộ nghiêm trang, khiến cho chúng tôi bắt phải nói thầm trong bụng rằng cuộc thương mãi của người An nam mình ngày nay khuynh trương dược lớn lao tới bực này ư? Vừa vô cửa, thì có người ân cần tiếp rước rất tử tế, lập tức chúng tôi cho biết rằng muốn đi kiếm thăm ông chủ, người ấy mời ngồi đợi một chút, chúng tôi thấy kẻ đến coi mạch, người đến mua thuốc, ra vào không ngớt”.

Ký giả được ông Hoanh “là một đấng thanh niên trẻ tuổi. Tây học rất rộng mà Nho học cũng khá đứng quản lý cai quản nhà thuốc ấy” dẫn đi một vòng giới thiệu cơ sở này “...đây là chỗ bán lẻ và phòng tiếp khách, ông Hoanh vừa nói vừa chỉ. Chúng tôi thấy cách sắp đặt tủ chưng bày các thứ thuốc không khác nào một hiệu thuốc tây lớn ở đây vậy. Nơi đó có salon, đèn điện, quạt máy, cân máy, thiết tưởng ở Đông Dương này chưa có một hiệu thuốc Annam nào mà đặng hoàn toàn như vậy. Kế qua phòng bút toán (comptabilité) rất rộng rãi, do một người Annam dân Tây đứng chủ trương với 6,7 thầy thơ ký đánh máy phụ giúp, lo xem xét việc sổ sách mấy trăm nàh đại lý và chi cuộc các nơi. Chúng tôi thấy việc làm không ngớt tay, kế qua phòng thư ký do một du học sanh ở Pháp về, chủ trương với rất nhiều thơ ký đang phụ giúp coi những thơ từ đi loại ở các nơi rất bặt thiệp.

Hết phòng thơ ký đến phòng quảng cáo. Phòng này chiếm luôn một căn nhà do một người chuyên môn tốt nghiệp trường Mỹ thuật chủ trương và rất nhiều anh em thầy thợ phụ giúp để lo về các thứ quảng cáo như trong hát bóng, hát bộ, hát cải lương, in sách, báo chí cả ba kỳ và một équip thợ mộc, thợ thiếc, thợ vẽ để lo làm bản cặm đường, tàu thủy, bảng hiệu lớn nhỏ cho các đại lý khắp Đông dương.

Sang qua căn nhà khác là nơi trữ thuốc, để chứa những thuốc đã làm rồi, đâu đó có ngăn nắp thứ tự do một người gardien Bengali và một thầy thông Annam cai quản. Tiếp theo kho trữ thuốc đến sở gởi thuốc đi các nơi. Chỗ này nhơn công thầy thợ làm rất đông lớp lo đóng thùng lớp lo sắp thuốc vô thùng, lớp lo dán nhãn, dưới quyền chỉ huy của hai người thầy thông Annam. Sau khi niêm phong kỹ lưỡng, kiểm điểm rất kỹ càng mới cho đem ra xe hơi chở xuống bến tàu, xe lửa hay là đến nhà thơ. Việc làm rất cẩn thận, không khi nào bể, lạc hay là mất”.

“Quanh co lẫn lộn một hồi trong nhà thuốc, đến một căn phòng hết sức rộng lớn. Đây là phòng bào chế, ông Hoanh nói. Vừa dứt lời, chúng tôi ngó chung quanh, căn phòng ấy bắt chúng tôi phải tưởng tượng mà nói rằng: đây là y viện hay là phòng bào chế nào của người Âu Mỹ, chớ không dè nghề bào chế thuốc Annam mà ông Hoanh đã canh cải dùng đủ khí cụ máy móc theo khoa học tối tân như vậy. Trong đó có một cái lò riêng để dùng hấp, đốt. lùi, nướng, sao, dầm, tẩm, chưng, nấu các phẩm được lấy nguyên chất rất tinh khiết. đâu đó có sắp đặt rất thứ tự lớp lang, có bàn máy riêng tán thuốc ra bột và làm ra viên, thuốc trước khi để vô ve thủy tinh đều đem vào lò hấp khử vi trùng, bởi thế các thứ thuốc để bao lâu cũng không hư mốc.

Hết phòng bào chế, ông Hoanh dẫn chúng tôi sang qua kho trữ thuốc sống phòng thí nghiệm, chỗ phơi thuốc, đều dùng máy móc riêng theo điệu nhà nghề. Đoạn snag qua chỗ nhơn công dán nhãn, vô bao, hộp các thứ thuốc. Nơi đây hai căn nhà rộng lớn, chia ra làm hai équipes: một équipe lo làm các thứ thuốc, một équipe lo làm dầu Măng và dầu cù là. Nơi đây nhơn công và thầy thợ làm rất đông đảo, cách sắp đặt đúng theo vệ sinh.

Sự sửa đổi canh tân bày bổ của hiệu ông Tiên hiện giờ theo chỗ quan sát của chúng tôi, không dám so sánh với các Y viện lớn ở các nước Âu Mỹ, chớ ở Á đông mình chẳng những là phươg diện nào chúng tôi dám tự tin là hòan toàn”.

Ông Hoanh biết rõ những dư luận tỵ hiềm quanh sự phát triển vững mạnh của nhà thuốc ông Tiên. Ông trả lời cho câu hỏi: “… có một số đông người cho rằng thuốc của ông bán chạy là nhớ quảng cáo hay”.

Không cần nghĩ ngợi, ông Hoanh vui vẻ cho chúng tôi biết: “đó là sự sai lầm của họ không thông thạo trong nghề thương mãi, thấy chúng tôi cổ động làm quảng cáo nhiều mà nói thế, chớ một món hàng tốt, một món thuốc hay cần phải làm quảng cáo cho hung, phải cổ động cho giỏi, người ta mới biết mà dùng, nhưng trái lại món hàng không tốt, món thuốc không hay, dầu cho làm quảng cáo vang trời động đất đi nữa cũng không ăn nhập vào đâu, lỡ người dùng lầm một lần rồi thì sau nầy món hàng hay thuốc ấy dầu có đem cho không đi nửa, củng chẳng ma nào dám thừa nhận. Ông nên nhớ rằng bất cứ là trong thương mại nào sự làm quảng cáo cho món hàng của mình cố nhiên phải có, song bên trong nội dung của món hàng ấy phải tốt đẹp bền chắc mới mong cửa tiệm đứng vững phát đạt được cái lâu dài. Cái gương trước mắt là có nhiều hiệu thuốc mới mọc lên sớm mai quảng cáo tưng bừng chiều lại đã lặn mất há chẵng gì lẽ nói trên sao?

Còn nhà thuốc của chúng tôi cho rằng bán chạy nhờ quảng cáo thì nó cũng đã chết lâu rồi, có đâu phát đạt kinh dinh đồ sộ đến ngày hôm nay há chẳng phải nhờ thuốc hay mà bán chạy sao?”.

* * *

Nhà thuốc ông Tiên tồn tại đến khi nào? Phải chăng chiến cuộc lan tàn khắp đất nước từ 1945, nhất là ở Nam bộ đã khiến nhà thuốc ngưng hoat động?

Phạm Công Luận
(bài đã đăng một phần trên báo Thanh Niên với bút danh Đăng Thuyên)

saomai
07-31-2019, 08:17 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1564561008-saigonchuyendoicuapho2.JPG
Tạp Chí Mỹ Thuật


QUÊ HƯƠNG DIỄM ẢO CỦA LOAN DE FONTBRUNE
(Một bài viết tuyệt hay của NNC Phạm Công Luận về chị Loan de Fontbrune, một trong những nhà sưu tập hiện đang sở hữu những tác phẩm thuộc hàng cực phẩm của hội họa Việt Nam. Không những thế chị còn là một Nhà nghiên cứu Mỹ thuật vô cùng xuất sắc. Bài viết được in trên TCMT số tháng 5&6. Trân trọng kính mời bạn đọc gần xa đặt báo)

Một buổi chiều tháng 3 năm 1994, có một thiếu phụ đến gõ cửa căn nhà gỗ của ông Vương Hồng Sển trên đường Nguyễn Thiện Thuật quận Bình Thạnh. Ngôi nhà gỗ lúc ấy còn rất đẹp, được chăm sóc kỹ lưỡng. Khi cô đến, ông Sển ra tiếp cô ở trong vườn phía trước nhà. Cô nhắc về ông bà nội mình là ông Chưởng khế Đoàn Bá Lộc và bà Sáu Nhân, vốn là người quen cũ của ông ở Sa Đéc. Ông hỏi thăm về ông Chưởng khế, về số sách quý của ông ấy khi sang Pháp năm 1979 có mang theo được không. Ông cho cô xem một số đồ cổ trước khi cô ra về.

Cuộc gặp chóng vánh đó được ông Sển ghi lại trong cuốn “Tạp bút năm 1994” xuất bản đầu năm 2014: “…khách này ra về để lại một bức danh thiếp, tôi tiễn khách ra về rồi ăn năn không kịp vì vị khách này, danh thiếp đề:…

Tôi viết đến đây và chực viết tên họ của thiếu nữ tân khách của tôi ra đây, nhưng chợt nghĩ lại và không viết, vì thiếu nữ trên danh thiếp là mạng phụ của một dòng tộc (dòng đơ “de Fontbr…) thiếu nữ này là nhân viên “đặc cách” (Chargée de mission) của viện trứ danh Musée Guimet ở Paris của Pháp, – cho hay năm 1963, tôi đã từng qua học tập tại viện này về khoa đồ cổ từ tháng sáu… và tôi nói hối hận vì không được tiếp xúc lâu với thiếu nữ này để học mới thêm chút ít về chuyên môn khảo cứu…”

Hơn hai mươi năm đã trôi qua, chị Loan de Fontbrune vẫn nhớ cuộc gặp đó. Ghé thăm cụ Sển, không chỉ để tìm hiểu về thú chơi cổ ngoạn của cụ mà chị vốn được đào tạo chuyên môn. Đó là chút thời gian trở về quá khứ, khi còn là nữ sinh trường Tây Marie-Curie, đã chớm thích hội họa và cổ ngoạn, từng tìm đến tận nhà họa sĩ Tú Duyên, nhà họa sĩ người Việt gốc Hoa nổi tiếng Đới Ngoạn Quân để mua tranh. Khi gặp cụ Sển, chị như sống lại với ông bà nội những ký ức thời Pháp thuộc, khi bà nội còn quen biết bà Dương Thị Tuyết vợ trước cụ Sển, chơi thân với bà Marguerite Duras và bà Năm Sa Đéc, người vợ sống cho đến cuối đời với cụ Sển.

Con đường trở thành một chuyên gia nghiên cứu và sưu tầm nghệ thuật có cỡ tại Paris, kinh đô nghệ thuật của cả thế giới của chị Loan là một chặng đường dài, chưa hề bị xao lãng và được dẫn dắt từ ngọn lửa đam mê không thể tắt. Ba mất sớm (gia đình gốc Huế), chị sống cùng với mẹ (ông cố ngoại của chị làm quan dưới đời vua Thành Thái) và người cha kế là một bác sĩ phẫu thuật ở Chợ Lớn. Chị ảnh hưởng ông nội tính ham đọc sách, có thể đọc từ sáng đến tối; đến lúc tuổi già còn học thuộc làu các cuốn tự điển, học tiếng Anh… nói vui là học cho kiếp sau… Ham đọc, chị khám phá trong sách thế giới của nghệ thuật, mỗi ngày thêm đậm. Chị học tiếng Pháp từ mẫu giáo ở trường Fraternité (trường Bác Ái) Chợ Lớn và trường Marie-Curie. Từ năm 1975 đến 1977 học và thi bằng correspondance với Centre National de Télé-Enseignement, CNTE, section Littérature (Văn chương). Chị đậu tú tài Pháp năm 1977, sau đó dạy tiếng Pháp hai năm ở trường mình đã tốt nghiệp. Thời gian rảnh, chị học đàn piano, học vẽ, học võ Aikido đến đai đen. Yêu nghệ thuật từ nhỏ, chị đọc, ghi lại và nhớ tên các danh họa Trung Hoa thời xưa.

Năm 1979, vì ông nội có quốc tịch Pháp nên cả nhà sang Pháp sinh sống. Ra đi khi mới hai mươi tuổi, trong hành trang mang theo, chị quý nhất là ba bức tranh lụa của họa sĩ Tú Duyên và bốn bức tranh nhỏ xíu chạm ngà của họa sĩ Đới Ngoạn Quân. Đến Pháp, chị qua bảy năm Đại học ở Viện Ngôn ngữ và Văn minh phương Đông (Institut National des Langues et Civilisations Orientales), gọi tắt là Langues’ O, nổi tiếng dạy về các sinh ngữ và văn hoá của Á châu. Môi trường này thích hợp vì chị thích và có khiếu về ngoại ngữ, ở trường cũ đã học tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha và Đức. Chị tốt nghiệp và lấy bằng cấp về tiếng Việt, tiếng Hoa và tiếng Nhật.

Trong thời gian học ở đây, năm 22 tuổi, một người bạn gái rủ chị ghi tên cuộc thi Hoa hậu Á châu do người Hoa ở Paris tổ chức lần đầu ở quận V, salle Maubert-Mutualité, giải nhất là một vé khứ hồi đi Hong Kong. Chị ghi tên, được vào vòng chung kết trong số vài trăm người đẹp Á châu hải ngoại dự thi và cuối cùng đã được chọn làm Hoa hậu. Chị toại nguyện giấc mơ đi du lịch ở Trung Hoa khi học tiếng Hoa khi xưa. Trong thời gian học, chị còn được học bổng đi Đài Loan (cả nước Pháp chỉ chọn hai người giỏi nhất của hai trường nổi tiếng nhất ở Paris).

Học ngôn ngữ xong, chị tiếp tục giấc mơ đến với nghệ thuật của mình: học về mỹ thuật Châu Á tại Ecole du Louvre, Institut d’Art et d’Archéologie, Đại học Sorbonne,… Chị lấy bằng cấp về Anh ngữ (Oxford) và bằng cấp cuả Institut d’Etudes Supérieures des Arts (IESA).Vừa học, chị đọc sách bằng tiếng Hoa, Nhật…, tự tìm tòi, sưu tầm và nghiên cứu thêm về mỹ thuật Việt Nam vì lúc đó ở Pháp rất ít và gần như không có người chuyên môn về văn hóa Việt. Chị tìm hiểu và học cách phân biệt đồ Việt Nam với đồ xưa của các xứ châu Á khác (Tàu, Nhật, Hàn, Thái, Khmer…) và dần đi sâu vào ngành này.

Chị được ông Albert Le Bonheur, Conservateur en chef của bảo tàng Guimet (Musée National des Arts Asiatiques), chuyên về lĩnh vực Khmer và Champa, và cũng là thầy của chị, nhận làm việc dưới quyền của ông, với chức danh là nhân viên “đặc cách” (Chargée de mission) của bảo tàng, khu vực Đông Nam Á (département Asie du Sud-Est). Chị được phép mở các tủ kính trưng bày để lau chùi, chạm vào các hiện vât quý giá, xem xét và nghiên cứu các hiện vật trong kho. Nhờ công việc này, chị phát hiện nhiều tượng gỗ sơn son thếp vàng, bàn thờ, chuông và khánh đồng của Việt Nam rất đẹp nhưng không ai ở bảo tàng rõ xuất xứ. Từ đó, một số bức tượng được đem ra khỏi kho để trùng tu, trưng bày (và được trưng bày trong triển lãm được khai mạc tháng 7/2014: “Rồng bay – Nghệ thuật Cung đình Việt Nam”). Sau đó, các bảo tàng khác của nước Pháp (Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Paris-Museum d’Histoire Naturelle de Paris, Bảo tàng quốc gia về gốm sứ Sèvres-Musée National de la Céramique de Sèvres, Bảo tàng Limoges-Musée de Limoges,…) cũng mời chị vào kho để giám định các hiện vật và chị đã tìm được nhiều món gốm Việt ở các bảo tàng này, ví dụ bộ đồ trà Bát Tràng mà phái đoàn đi sứ của cụ Phan Thanh Giản đã tặng cho bảo tàng Sèvres mà chị đã từng nghe kể về chuyện này trước đó. Trong kho cuả bảo tàng Guimet, có nhiều món Bleus de Hué do cụ Vương Hồng Sển tặng lúc qua Pháp…

Trong thời gian năm năm làm việc ở bảo tàng, chị viết nhiều bài về đồ sứ ký kiểu cung đình Huế (bài nghiên cứu đầu tiên về đề tài này ở Pháp), các lăng tẩm triều Nguyễn; thuyết trình về văn hoá Việt,… Chị giúp Bảo tàng Hoàng gia Bỉ tổ chức cuộc triển lãm đầu tiên ở nước ngoài về mỹ thuật Việt Nam. Dự án này phải mất mười năm mới thành hiện thực và để đưa cả trăm hiện vật quý đi triển lãm, Quốc hội Việt Nam phải ra Luật Di sản văn hóa và nhờ đó, sau này mới có những cuộc triển lãm kế tiếp trên thế giới và việc sưu tầm đồ cổ Việt Nam được chính thức thừa nhận. Và nhờ làm việc ở bảo tàng Guimet, chị có dịp đến nhà các tư nhân để xem các hiện vật của Việt Nam mà họ muốn tặng cho bảo tàng, phần lớn do ông bà, cha mẹ khi xưa sống ở Việt Nam để lại.

Khi bảo tàng Guimet đóng cửa để sửa chữa, chị trở về sống ở Việt Nam trong bảy năm mới trở về Paris. Chị cũng tham gia khai quật các lò gốm xưa ở Bình Định (Gò Hời) với Bảo tàng hoàng gia Bỉ (tài trợ) và Viện khảo cổ Hà Nội, bảo tàng Bình Định. Chị cũng sưu tầm thêm tranh của các hoạ sĩ miền Nam (trường Mỹ Thuật Sài Gòn, trường vẽ Gia Định, trường Mỹ nghệ Biên Hoà,…).

***
Niềm say mê nghệ thuật từ nhỏ cùng với ngành học chuyên môn khiến chị nghĩ đến việc sưu tầm nghệ thuật rất sớm. Lúc đầu là từ những món đồ cổ bắt gặp ở Pháp. Mỗi khi tình cờ thấy đồ Việt Nam, một cái khay trầu, cái dĩa đồ sứ men lam Huế, chị như được gặp một người đồng hương hay bạn cũ. Nhiều vật đối với chị như có linh hồn, có lịch sử, có chuyện để kể. Và khi có hiện vật trong tay, chị muốn tìm hiểu và nghiên cứu sâu, qua những hiện vật đã tìm được hay tình cờ biết thêm được nhiều điều thú vị, nhiều hiện vật còn giữ nhiều bí ẩn, câu hỏi chưa trả lời…

Sống ở Paris, được thấy tranh đẹp của các họa sĩ nổi tiếng đem ra bán, rất mê nhưng đang là sinh viên nên không có tiền mua và chị tiếc mãi đến giờ. Sau này khi lập gia đình, chồng của chị là chủ galerie Cahiers d’Art nổi tiếng, là người chuyên nghiệp trong lĩnh vực sách và mỹ thuật hiện đại (Picasso, Matisse,…) và có tiếng tăm đã giúp chị sưu tầm tranh Việt Nam mà cách nay hơn 25 năm ít ai quan tâm. Đam mê mạnh mẽ nên có nhiều khi chị lén mua tranh và đồ cổ mà chồng không biết, hoặc nói giá thấp hơn để ông đỡ xót vì lâu nay chị chỉ mua mà không bán ra. Ở Pháp có nhiều tranh của các họa sĩ khóa mỹ thuật Đông Dương mà người Pháp mua vào những năm 1930 ở Việt Nam hay trong các triển lãm thời đó ở Paris. Đó là một thời kỳ phát triển hội họa vàng son nhất của mỹ thuật hiện đại Việt Nam mà chưa từng trở lại. Chị bắt đầu mua tranh Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ,… dễ tìm mua vì các tác giả này lúc đó còn đang sống ở Pháp và có thể mua qua các buổi đấu giá tranh. Rồi có khi “của tìm người”, nhờ bạn bè biết chị thích sưu tầm tranh nên giới thiệu người bán hay mang tranh đến bán. Bao nhiêu năm qua, chị bỏ rất nhiều công sức theo dõi tất cả các cuộc đấu giá ở Pháp và các nước khác, đến các phòng tranh xem triển lãm và mua tranh, đi rảo các chợ trời bán đồ xưa hay mua thẳng từ họa sĩ hoặc gia đình của họ…Về sau, biết dễ bị thách giá vì ham mua, chị đấu giá không ra mặt nữa mà chỉ qua điện thoại vì khi thấy chị có mặt là mọi người biết ngay là có tranh hay đồ quý chị muốn mua.

Qua thời gian, bộ sưu tập của chị, riêng về tranh thì cũng khoảng vài trăm bức, có gần như đầy đủ các họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam và Pháp thời đó. Trong đó cũng có những bức tranh đẹp của họa sĩ ít tiếng tăm hơn mà chị mua để nghiên cứu. Chị có việc để làm nhưng chưa thể làm đối với bộ sưu tập của mình như kiểm kê, chụp hình, nhận định, đánh giá, nghiên cứu, viết sách và triển lãm để giới thiệu, chia sẻ với mọi người. Ngoài tranh, trong đó có các chủ đề khác sưu tập như tài liệu, hình ảnh, bưu thiếp, sách vở xưa, đồ gốm, đồ gỗ, đổ cẩn xà cừ, đồ đồng, đồ thêu, cổ vật thời nhà Nguyễn, tượng, bàn ghế, vật dụng của dân tộc ít người…

Vài bức tranh quý hiếm nhất mà chị có, gắn với những kỷ niệm đẹp khi đi mua tranh. Đa số đều có tiểu sử và nguồn gốc rõ ràng mà dưới con mắt chuyên môn, chị đã nghiên cứu, tìm đọc tài liệu và thư từ của ông Giám Đốc đầu tiên trường Mỹ thuật Đông Dương, Victor Tardieu và các catalogues triển lãm xưa ở Pháp. Trong đó có những bức như “Jeunes femmes prenant le thé” của Vũ Cao Đàm; “Deux jeunes filles” của Mai Trung Thứ; “Les Cannas” của Nguyễn Tường Lân, là một bức lụa rất hiếm của hoạ sĩ nổi tiếng này. Trong số tranh chị mua, có những kỷ niệm chị còn lưu lại trong trí nhớ:

Một hôm, chồng chị được một bạn đồng nghiệp rủ đến nhà một bà cụ ở Paris cần bán sách để chia gia tài cho con cháu. Bước vào nhà, ông thấy treo bức tranh lụa trên tường nên hỏi thăm. Bà cụ nói bức này bà được ông chồng mua tặng lúc vợ chồng mới cưới và đã được in trong tạp chí l’ Illustration, số No#l 1932. Bà nói bức này vẫn treo trên tường từ đó đến nay và đồng ý bán cho “cô vợ việt Nam” sưu tầm tranh Việt của khách. Chị rất vui mừng khi nhận bức tranh từ tay của bà vì nó vô cùng quý giá, đó chính là bức “Lên đồng” của họa sĩ tài danh về tranh lụa Nguyễn Phan Chánh. Bà cụ, tên là Pierre Massé viết giấy chứng nhận để lại bức tranh cho chị, nêu cái tên mà chị thuộc lòng từ lâu qua chú thích trong tờ tạp chí “Les sorcières, sưu tập P. Massé”. Chị thật không ngờ có ngày mình tìm lại được và sở hữu bức tranh ngỡ đã thất lạc từ lâu. Chị nghĩ đúng hơn, bức tranh đã tìm ra chị..!

Bức “La classe familiale” của họa sĩ Phạm (Quang) Hậu là một bức tranh lụa hiếm hoi của tác giả này vì ông chuyên vẽ sơn mài. Bức này chị có được hoàn toàn do may mắn. Số là chị có một cô bạn làm y tá, người Pháp. Khi phải đến nhà một bà cụ để chăm sóc, cô bạn phát hiện bức tranh nằm trên tường, rất đẹp. Hỏi ra, bà cụ cho biết khi dọn về căn hộ này cách nay vài chục năm, bà đã thấy nó nằm trên tường do người chủ cũ bỏ lại khi giao nhà. Qua sự giới thiệu của cô bạn y tá, chị đã rất sung sướng mua được bức này.

Về bức “Les brodeuses” của Tô Ngọc Vân, trước khi có được bức này chị đến phòng đấu giá Paris và lần đầu thấy hai bức tranh lụa quý hiếm của họa sĩ Tô Ngọc Vân, nổi tiếng về sơn dầu, được bán bởi con trai của bác sĩ nổi tiếng Pierre Huard (đã viết quyển Connaissance du Viet Nam). Rất tiếc hai bức tranh đẹp và quý hiếm này được chị đẩy gía rất cao nhưng không mua được, cuối cùng dùng số tiền dự tính chuyển sang mua bức tranh lụa “La cueillette des simples” tuyệt đẹp của họa sĩ Lê Phổ. Vài năm sau, chồng của chị đến một galerie nổi tiếng ở Paris đã mua tặng chị bức tranh lụa “Les brodeuses”, là một trong hai bức đã bị vuột mất trước kia. Anh tặng chị bức này để mừng sinh nhật vợ. Chị vô cùng cảm động khi nhận món quà quý giá này sau bao năm thương nhớ và luyến tiếc.

Cách đây nhiều năm, chị suýt mua được tranh của họa sĩ Lương Xuân Nhị, họa sĩ rất nổi tiếng từ trường Mỹ thuật Đông Dương. Lúc đó, một tỉnh nhỏ ở Pháp có đấu giá một bức tranh lụa đẹp của ông. Chị đấu giá qua điện thoại khi đang đi trên xe hơi cùng với chồng đến gặp một người bạn. Đang đấu giá, xe đi ngang qua một vùng không phủ sóng, điện thoại bị ngưng nên bức tranh đã được bán với giá rẻ. Mãi sau này, chị mới mua được bức tranh “L’Hiver” của Họa sĩ Lương Xuân Nhị.

Về bức “La couturière” của họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh. Bức lụa này có lẽ là bức tranh duy nhất và rất quý hiếm của họa sĩ này. Khi mua cùng với một bức tranh của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh, chị không biết họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh là ai. Người bán hai bức tranh đó lúc đó cũng không biết tác giả của hai bức tranh là ai. Sau này, xác định được họa sĩ Nguyễn Văn Thịnh tốt nghiệp thủ khoa Khóa IV trường Cao Đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1928-1933).

Bức sơn mài lớn thật đẹp “La rencontre” của họa sĩ Nguyễn Tiến Chung mà chị có là bức tranh đã được tặng cho bà Mộng Điệp, thứ phi của Vua Bảo Đại trong khoảng thời gian đầu thập niên 1950 khi bà ở Buôn Ma Thuột giữ “hoàng triều cương thổ”. Lúc bà còn sống, chị thường đến nhà bà ở Paris thăm viếng và trò chuyện với bà cả ngày. Bà rất thương chị, thường kể chuyện xưa trong cung, về mẹ vua Bảo Đại, Nam Phương hoàng hậu, về ấn kiếm,…, và cho xem hình ảnh xưa. Bà đã để lại cho chị bức tranh này và nhiều đố sứ ký kiểu cung đình Huế khác của vua Bảo Đại…

Nhờ sưu tầm được nhiều tranh của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương, chị được giới nghệ thuật Paris biết đến và trân trọng sự hiểu biết về lĩnh vực này. Các nhà đấu giá, chuyên môn thường nhờ chị thẩm định giúp tranh Việt, thật, giả. Lợi thế của chị là nhờ có được số lớn tranh gốc để nghiên cứu, so sánh cũng như nhiều năm kinh nghiệm, quen nhìn tranh. Đến năm 2012, bảo tàng Cernuschi (bảo tàng của thành phố Paris) có ý định tổ chức triển lãm về Việt Nam cho năm chéo Pháp -Việt, chị đề nghị tổ chức triển lãm tranh Việt Nam và các thầy trò của Trường Mỹ thuật Đông Dương do người Pháp lập ra. Triển lãm này rất thành công, khoảng 15.000 người từ các nước trên thế giới đã đến xem, trong số đó có gia đình và học trò của các hoạ sĩ Việt Nam và Pháp như Nam Sơn, Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh, Jules Galand, Robert và Mariette Balick,… đến xem và viết thư khen ngợi, cho biết thêm thông tin về các họa sĩ Pháp trong triển lãm khiến chị rất cảm động. Catalogues in mấy ngàn cuốn đã bán hết và được in lại thêm mấy ngàn cuốn nữa cũng đã bán hết. Chị là “Commissaire invité” của triển lãm này.

Cũng trong năm chéo Pháp-Việt 2013/2014, Viện Hàn Lâm Hải Ngoại Pháp (ASOM) mời chị làm “Commissaire” cho triển lãm họ tổ chức ở Hà Nội (Viện Lưu Trữ Quốc Gia số 1), TP HCM (Bảo tàng Mỹ Thuật, Viện Văn Hoá IDECAF) về đề tài “Bốn Thế Kỷ Giao Lưu Pháp-Việt”. Sau đó, ở Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia Paris (CARAN), tổ chức triển lãm đề tài đặc biệt là “Các Nhà Nhiếp ảnh Pháp đầu tiên ở Việt Nam”. Chị đóng vai trò chính trong triển lãm này, hoàn toàn được tự do lựa chọn các hình ảnh xưa và chi phí không giới hạn, mời những nhà nghiên cứu để viết bài trong catalogue, sắp đặt triển lãm… Triển lãm thành công được dư luận khen ngợi, chờ đợi ra catalogue đang được thực hiện và các tỉnh phía Nam nước Pháp cũng đề nghị mang xuống đó trưng bày. Cuối tháng 6, chị Loan được bầu với số phiếu cao nhất để nhận chức danh “Correspondant” của Viện Hàn Lâm Hải Ngoại Pháp (5e section – Enseignement, Littérature, archéologie, et Beaux-arts). Trong số những người nổi tiếng có tên trong Viện Hàn Lâm, là: Alexandre Yersin, các vua Khải Định, Bảo Đại, hoàng thân Bửu Lộc; Phạm Quỳnh, Phạm Duy Khiêm, Nguyễn Tiến Lãng,…

Đối với chị Loan de Fontbrune, nghệ thuật giúp chị nhận dạng và đánh thức tình yêu quê hương nằm sẵn trong tiềm thức. Quê hương ban đầu là Sài Gòn, nơi sinh ra và lớn lên, với những tiếng rao hàng, kiosques Nguyễn Huệ dịp Tết về, bữa ăn sáng ở cà phê Givral, tiếng ca cải lương văng vẳng trên radio, hương vị mì Tàu Chợ Lớn,… Đến khi bước vào thế giới nghệ thuật, quê hương mang tầm vóc lớn hơn, quê hương của những phụ nữ Việt nâu sồng, quê nghèo trong tranh của Nguyễn Phan Chánh, của Hà Nội hào hoa thanh lịch và nét mơ màng trên mặt thiếu nữ Hà Thành một thời trên tranh Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Mai Trung Thứ. Quê hương thấm vào từng chút một lại từ nơi rất xa, nên khi trở về Paris sau bảy năm về Việt Nam làm việc nghiên cứu từ 1989 chị cảm thấy mình lại làm một cuộc ly hương nữa. Khi sống ở Pháp, mùa đông lạnh khiến chị nhớ nắng ấm của Sài Gòn, ra đường nhớ những người buôn bán ở vỉa hè mời gọi mua nước, mua báo, nhớ các bài hát. Cũng như tất cả những người Việt ở hải ngoại, chị nhớ thương về Sài Gòn xưa và tiếc những kiến trúc, cảnh quan đẹp đã không giữ được.

Nên những bức tranh, cổ vật Việt Nam đang bù đắp những trống trải trong lòng khi nhớ về nơi sinh ra và lớn lên. Quê hương trong tranh luôn rất đẹp, nên chị Loan de Fontbrune luôn nhìn thấy một quê hương đầy diễm ảo và thơ mộng. Đó là hạnh phúc của chị, bên cạnh niềm hạnh phúc rất lớn là được sống trong môi trường nghệ thuật đỉnh cao ở một kinh đô nghệ thuật của thế giới, có lẽ là quá viên mãn đối với một đời người.

Phạm Công Luận
(Trích sách Sài Gòn chuyện đời của phố tập 2)

saomai
04-25-2020, 09:56 PM
Sài Gòn - chuyện đời của phố
Phạm Công Luận

https://scontent-lax3-1.xx.fbcdn.net/v/t1.0-9/87757865_10214980793708135_6634467189363572736_o.j pg?_nc_cat=109&_nc_sid=8024bb&_nc_ohc=iDiJK85JgCoAX-dHMEu&_nc_ht=scontent-lax3-1.xx&oh=fae96514e021018c6959a75b13a0a48d&oe=5EC84AAE
LỜI CA DỌC ĐƯỜNG ĐỜI

Bây giờ còn ai nhớ những lời ca này:
“Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió, hồn như đám mây trắng lửng lơ, giang hồ không bờ không bến, đẹp như kiếp Bô-hê-miên”.

Hay:
“Bánh xe quay nhanh nhanh, chiếc thân xe lung linh, chìm trong làn cát trắng, xe nhịp nhàng quay bánh lướt hình xe mờ khuất trong không gian...”.

Đó là những câu hát mà tôi thường nghêu ngao lúc bảy hay tám tuổi, trong căn nhà nhỏ ở Phú Nhuận những buổi sáng mùa hè hơn bốn mươi năm trước.

Ai cũng có những bài hát, lời ca, giai điệu đi dọc cuộc đời mình. Chúng nằm trong kho ký ức, chỉ đợi một cú chạm nhẹ tình cờ là hồi sinh. Nhớ về dăm bài hát cũ đôi khi đánh thức cả những khoảnh khắc đẹp đẽ nhất mà đời ta có lúc trải qua.

Mười tuổi, học lớp bốn, tôi mê chương trình Tuổi Xanh của bà Kiều Hạnh, chương trình “Thế giới của trẻ em” của ông Lê Văn Khoa và mơ có lúc được dự chương trình để cùng hát hay chơi trò chơi tập thể. Anh tôi có lần bảo: “Tao thấy ông Lê Văn Khoa ở trong Tòa Cơ Đốc Phục Lâm ngay ngã tư Phú Nhuận, muốn lên chương trình “Thế giới của trẻ em” không, tao dắt đến đó xin!”. Nghe thế, tôi rụt cổ lại ngay vì không tin mình có thể được vinh hạnh như vậy và cũng không tin ông anh làm được điều đó. Dù sao, tôi vẫn thích được dạy ca hát. Một buổi sáng, cô giáo báo tin là sáng chủ nhật ai thích học hát thì lên trường sẽ có các anh “Xây dựng nông thôn” đến dạy. Tôi mừng quá, về không dám xin ai (có xin cũng không được phép), lẳng lặng đi ngủ sớm và sáng chủ nhật dậy sớm chuồn ra khỏi nhà, đi bộ lên trường. Ở đó, đã có sẵn một nhóm thanh niên bận áo đen cầm sẵn hai cây đàn. Không nhiều đứa học trò đến lắm, nhưng các anh vui vẻ dạy các bài hát. Tôi không nhớ nhiều, đại khái: “Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau…”, rồi “Anh em ta, cùng mẹ cha, nhớ chuyện cũ, trong tích xưa, khi thế gian, còn mù mờ…”, “Chiêng trống cồng mừng anh lên rẫy xuống đồi xuống nương đi cày…”. Mỗi đứa được phát một xấp giấy vài trang in ronéo lời bài hát. Đến khi về nhà, mới tá hoả khi biết cả nhà và vài người hàng xóm táo tác đi tìm tôi khắp xóm và vòng quanh ba con đường Nguyễn Minh Chiếu, Võ Tánh và Trương Tấn Bửu suốt buổi sáng. Tôi bị đòn một trận nên thân nhưng bụng lại vui vì giấu được “bửu bối” là xấp lời ca.

Lúc đó là lúc ca khúc boléro rất thịnh hành. Bấy giờ người ta hát nhiều các ca khúc của Trúc Phương như Tàu đêm năm cũ, Ai cho tôi tình yêu, Bóng nhỏ đường chiều... hay của Lam Phương như Biết đến bao giờ, Xót xa... Vài người lính trong xóm, khi về phép thường thích ngồi ngoài khoảng sân rộng trong hẻm để uống bia, gảy đàn Tây ban cầm và hát boléro. Lời ca những bài đó thường u uẩn, giai điệu đằm buồn, không gần với gout nhạc nhà tôi. Anh chị tôi chỉ mê ca khúc của Phạm Duy, không phải là bài Tình ca hay Con đường cái quan, mà là các ca khúc trẻ trung. Lúc đó nhạc sĩ Phạm Duy tóc đã bạc trắng mà sao viết toàn những ca khúc rất trẻ trung như Em hiền như Ma soeur, Cô Bắc kỳ nho nhỏ, Còn chút gì để nhớ, Hai năm tình lận đận... Anh tôi kiếm một cuốn sổ rất đẹp, trang trọng chép từng bài và vẽ bức tranh minh họa bên cạnh, toàn là những gương mặt thiếu nữ tóc dài... rồi mấy anh em thay nhau ôm cuốn sổ mà hát hò. Các anh chị tôi không thích nhạc Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng... những tác giả mà bạn bè người miền Trung ở trường đại học của các anh chị rất thích.

Lớn lên một chút, vào lớp sáu, tôi có kênh âm nhạc riêng của mình, cũng có một cuốn sổ chép mấy bài như Đồng xanh, Trong nắng trong gió, Hè 72, Những mùa nắng đẹp, Tiễn em nơi phi trường, Búp bê không tình yêu, Xin em gõ ba tiếng, Hôm nay không sữa... đó là những năm tâm hồn bắt đầu nhạy cảm, biết buồn vui. Tôi như tìm được một thế giới âm nhạc riêng có thể giải tỏa những nhộn nhạo trong tâm hồn đứa con nít mới lớn. Tôi nhớ lúc mình ngồi trện vỉa hè đợi thằng bạn cùng đi học mà hát thầm trong miệng: “Thu đang êm đềm trôi qua. Lũ em bé đang cắt lúa. Đống gỗ kia khô, em đã mang vô. Anh mặc binh phục oai nghiêm, với bạn hữu ra chiến tuyến. Chiến tuyến xa xăm...”. Hay: “Hè sang lá cây xanh màu. Hè sang vang tiếng ve sầu. Hè sang phượng tươi thắm màu, ru say hồn thi nhân…”. Cái duyên dáng rất Hà Nội xưa của Phạm Duy, Vũ Xuân Hùng khi họ đặt những lời ca vào nhạc ngoại quốc khiến tôi cảm thấy gần với văn hóa miền Bắc hơn sau giai đoạn xem sách của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và tiếp tục mê đọc truyện Duyên Anh, Nhật Tiến, Mai Thảo...

Lúc ấy lòng cũng đã biết buồn khi nghe hát về những cuộc chia ly. Đã vậy, ca sĩ Thanh Lan khi hát thì mắt luôn ướt, long lanh như sắp khóc khiến thằng tôi cũng rưng rưng theo. Tuy vậy, những ca khúc buồn đó không đủ chiếm hết thế giới cảm xúc của tôi. Tôi vẫn gào theo mấy bài theo điệu twist: “Có nhớ đêm nào, về chung với nhau nơi này. Tìm đến hòa khúc sum vầy. Tình xuân ngất ngây ta cùng say...” Hay theo điệu jazz nhừa nhựa nhưng hấp dẫn của bài Điệu ru nước mắt: “Gió... mưa gào thiết tha. Hình bóng xưa vừa thoáng qua. Ngoài hiên mưa rơi rơi ướt, sầu lắng trong tâm hồn...”. Tôi cứ rên rỉ riết cho đến khi ông anh cả nghe được, la cho một trận vì tội làm con nít mà hát nhạc người lớn. Từ đó tôi quay trở lại hát mấy bài tủ: “Đoàn người tưng bừng về trong cơn gió...”.

Đầu năm 1974, khi chiến tranh ngày càng căng thẳng, có tin vài người anh trong xóm chết ở chiến trường. Họ không còn về lại xóm cũ để hát mấy bài boléro nữa. Vài bữa trưa ăn cơm xong, chuẩn bị đi học, tôi nghe văng vẳng giọng ca sĩ Hoàng Oanh hát những bài Tám điệp khúc, Nhớ nhau hoài, Những đốm mắt hoả châu... Những lời ca làm xốn xang tâm hồn đứa con nít mười ba tuổi. Tôi bắt đầu thích nhạc boléro, chậm rãi như giải bày, như tâm sự giữa hai người trong một đêm giã biệt, nhìn sâu vào thân phận mình, được chiến tranh và sự chia cắt giúp lớn lên, thành một thứ “vọng cổ tân thời” như nhà văn Sơn Nam đúc kết. Nếu được như vậy, sức sống của boléro là điều không cần giải thích khi còn vẹn nguyên trong tâm tưởng người miền Nam đến nay, chưa kể sự lan tỏa của nó đã xa hơn dần về phía Bắc.

Tôi luôn tự hỏi vì sao những bài hát được nghe khi còn niên thiếu luôn có những âm thanh và dư vị ngọt ngào hơn bất cứ điều gì nghe được khi đã trưởng thành? Phải chăng khi ấy chỉ có âm nhạc thuần chất phát ra từ cái radio và máy dĩa, máy cassette, không có hình ảnh kèm theo (trừ những chương trình ca nhạc vài chục phút trên ti vi sau này) là nguồn cung cấp lớn nhất cho trí não đang mở ra của tuổi trẻ. Các nhà tâm lý cho rằng, cho dù một ca khúc có giai điệu và tiết tấu không quá xuất sắc, nó vẫn có sức mạnh kết nối với hệ thần kinh của chúng ta và kết nối đó không mất đi khi đã trưởng thành. Và cho dù thị hiếu của chúng ta có thể phát triển như thế nào đi chăng nữa, bộ não của chúng ta vẫn có thể bị kẹt lại trong những bài hát mà chúng ta bị ám ảnh khi nghe lời hát trong cái radio hay máy hát cũ kỹ phát ra thứ âm thanh xoàng xĩnh kém xa bây giờ.

Nghĩ về điều đó, tôi nhớ lại bài Dạ khúc, lời Việt của bài Serenade của Franz Schubert do anh bạn thời trung học vừa hát vừa gõ ngón tay trên mặt bàn gỗ để tập đánh piano. Anh ngạc nhiên khi tôi kể là tôi biết ca khúc lừng lẫy đó từ những câu hát ngập ngừng của anh: “Chiều nay hát cho xanh câu yêu đời. Cho người thôi khóc thương ai, cho niềm yêu đến bên tôi! Chiều nay lỡ ghé môi trên mi sầu, ru người qua chốn thương đau, cho làn nước mắt... chìm sâụ....”. Lời ca và giai điệu đó rơi xuống hồn tôi năm mười sáu tuổi đầy lo lắng giữa lúc cuộc sống khó khăn nhưng vẫn đầy mộng tưởng, dù không hiểu hết nhưng làm lòng tôi chùng xuống. Vài người bạn của tôi trong một lần bàn về âm nhạc trên mail group lớp cũ thời trung học, vẫn cho là mình nhớ bài hát này, điệu nhạc kia có thể vì nó rơi vào cái năm quan trọng nhất đời mình. Có thể là từ làn môi người yêu đầu tiên, được nghe trong nụ hôn đầu tiên đầy run rẩy nhưng say đắm, trong vũ hội đầu tiên ở trường trung học khi đã ra nước ngoài. Chúng luôn lung linh trong trí nhớ bất trị chỉ thích nhớ những gì đẹp đẽ.

Sau này, tôi nhận ra mình không bao giờ yêu được một ca khúc theo cách mình đã yêu khi còn trẻ. Phải chăng vì cách đánh giá của chúng ta đã trưởng thành hơn? Tôi thích một ý hay: âm nhạc chính là một lỗ hổng thần kinh mang đến cho chúng ta cái nhìn thoáng qua, vào những năm khi bộ não của chúng ta biết nhảy lên với niềm vui trong âm nhạc. Những năm đó có thể đã trôi qua, nhưng mỗi lần chúng ta nghe những bài hát đã từng yêu thích, niềm vui mà chúng từng mang lại đã tăng lên thêm một lần nữa.

PHẠM CÔNG LUẬN
(trích NHỮNG BỨC TRANH PHÙ THẾ)