PDA

View Full Version : Cô Bé "Quan Hai"



Longhai
02-10-2016, 10:16 AM
Cô Bé “Quan Hai"


Vi Vô


(Tâm sự... của Ny...)

Năm ấy tôi mới 16 tuổi học lớp Đệ nhị trường Trung học Gia Long... tôi chưa biết yêu, nhưng được yêu. Chàng là người đàn ông với nét còn thư sinh, với đôi mắt biếc cười tình, với sống mũi thẳng tắp! Tôi gọi chàng là cha, vì chàng là... Linh mục.

Cha T. mới được thuyên chuyển về Saigon và dạy học. Cha giúp ca đoàn, mà tôi cũng mới gia nhập vào ca đoàn lúc đó, vì thế tôi thường gặp cha mỗi chiều thứ Sáu tập hát. Thế là tôi quen cha từ đó. Cha T. đàn dương cầm rất hay. Cha tập cho tôi đọc những nốt nhạc theo phong cách Gregorian. Những nốt nhạc ấy ban đầu đối với tôi còn xa lạ vì khác với nốt thường, những bài hát Latin làm tôi lọng cọng. Sau một thời gian luyện tập những bài hát Latin như Requiem, tôi đã thuộc lòng như bản tình ca. Những lúc ấy tôi say sưa nhìn cha đàn, những ngón tay dài trên phím ngà làm tôi xao xuyến. Thỉnh thoảng cha bắt tôi đứng gần bên để lật từng trang khi cha đàn, lúc ấy tay chân tôi lúng túng. Sau khi tan giờ tập hát, mọi người lần lượt ra về, cha bảo tôi ở lại tập hát những khúc solo, tôi hát cha đàn, những nốt nhạc sâu thanh thoát và trầm. Tôi thích cha đàn dương cầm, những nhạc khúc của Chopin, Mozart, những nhạc khúc của Andrew L Weber huyền bí; rồi những nhạc khúc của Beethoven để tôi lao đao trong vùng sâu âm thanh, và hồn tôi lang thang trong thinh không. Những lúc ấy tôi có cảm nghĩ, cha không có vẻ gì là tu sĩ cả, cha là một nghệ sĩ thì đúng hơn!

Vì tôi bị kém về Toán, ba mẹ tôi phải gởi tôi học thêm toán chung trường với em trai tôi để kịp với chúng bạn, do đó tôi gặp cha thường, vì cha dạy lớp của em trai tôi. Một hôm em tôi đưa một tấm giấy nhỏ…Tôi đọc thầm mảnh giấy cha gửi: “Đến thư viện gặp cha gấp!”. Câu viết ngắn ngủi như một cái lệnh, đầu óc tôi đầy những dấu hỏi??? Tôi cầm mảnh giấy của cha, đến thư viện. Không thấy cha, tôi nghĩ cha đang giải tội ở nhà thờ. Tôi đi đến phòng cha kiếm cha. Tôi ngó quanh phòng, những sách vở chồng chất trên bàn đầy bụi. Tôi loay hoay quỳ xuống dọn dẹp cho ngăn nắp, chợt thấy Nhật ký của cha đang viết dở. Sự tò mò thúc đẩy, tôi muốn đọc hết những gì cha viết. Tôi dán mắt vào trang cuối cùng không bỏ sót: “Những lần em đứng sau lưng tôi, hơi thở ngọt ngào của em khiến tôi run cả người, tôi yêu em mất rồi cô bé 16... Chúa ơi! Con yếu đuối quá! Xin Chúa tha tội cho con, con đang yếu lòng…” Tôi run cả tay chân, tim tôi đập mạnh, tôi bỏ chạy... Tôi thấy cha đi tới... Tôi cúi đầu đi thật nhanh, vừa đi vừa nói trong hơi thở “Thưa Ny phải về kẻo mạ trông!” Kể từ hôm đó, lúc nào gặp cha tôi cũng thấy tâm hồn xao động, mặt tôi đỏ hồng, tim tôi đập mạnh... Có phải tôi biết yêu rồi không?!!!

Thời gian trôi qua, chuyện tình dù thầm kín đến đâu, cũng không dấu được con mắt người đời. Sự giao du thân mật giữa cô bé 16 với Linh mục đã trở thành cái gai trước mắt mọi người, họ xầm xì mỗi khi thấy tôi! Rồi một buổi chiều đi học về, tôi thấy ba người đàn bà trong họ đạo đang ngồi nói chuyện với ba mẹ tôi. Tôi linh cảm có chuyện gì xảy ra rất nghiêm trọng. Ho nói chuyện thật nhỏ, nhưng tôi nghe xì xào tên tôi …

Khi ba người đàn bà ấy về, ba tôi lấy dây nịt đánh tôi và mắng tôi thậm tệ “Thiếu gì đàn ông, con trai mà mày “đi nhí nhảnh" với cha, với cụ?? Dẹp hát, dẹp hò đi!’’ Mẹ tôi bình tĩnh hơn, mếu máo, trọ trẹ bằng giọng Huế: “Con có một bầy em gái, làm chi ốt dột rứa con ? Cả nhà thờ chửi mạ, sống nhục ri, làm sao mà chường mặt với họ đạo, xóm giềng hả con?”. Tôi òa khóc: “Tại cha thương con, con chỉ kính phục cha thôi mạ à, mạ làm như con mang bầu với ông ấy!". Mẹ tôi quát: "Nói như rứa là quá quắt rồi, còn chờ chi nữa, còn đòi mang bầu với cha à?? Với tuổi đời từng trải, mẹ khuyên tôi: “Từ chỗ kính phục cho đến tình yêu không xa mấy đâu. Con nên chấm dứt ca đoàn, và không nên tiếp xúc với cha ngay từ bây giờ, cha đây là người của Chúa, xuống hỏa ngục cả đám con ạ!". Từ ngày bị trận đòn của ba tôi, tôi không được đi tập hát ở ca đoàn nữa.

Những chiều tan học, ba tôi đi đón, làm tôi mất cả tự do, ngay cả những lúc đi nhà thờ. Có lần đi lễ ở nhà thờ cha T. xong, khi tan lễ ra về, một bà cụ đến trước mặt tôi, chỉ vào mặt, giọng sắc bén như dao, nói như chém vào mặt tôi: Quỉ Satan! Quyến rũ cha cụ mà còn đi rước lễ à??. Từ đó mẹ tôi bắt tôi đi lễ ở nhà thờ khác!

Tết Mậu Thân 1968, CS chiếm Huế, mạ tôi khóc hết nước mắt vì mất hai em trai. Tôi thấu hiểu hơn về chiến tranh VN và CS. Thỉnh thoảng,khi tôi đi nhà thờ, có dịp ngang phòng cha T, tôi không còn nghe tiếng đàn của cha vọng ra nữa. Một nỗi buồn vu vơ xâm chiếm hồn tôi, và tôi tự hỏi: Bây giờ cha ở đâu?

Khi thi đậu Tú Tài, tôi gia nhập vào Quân đội... Ba tôi cản kịch liệt vì ông quan niệm Quân đội chỉ dành cho đàn ông, nhưng rồi tôi cũng khăn gói ra đi... Khi tôi ra trường khóa Sĩ quan Xã hội, tôi tình nguyện và chọn Quân khu 1, Ba má tôi rất lo lắng về tánh mạng của tôi, vì chiến cuộc lúc ấy sôi động, nhất là Quảng Trị.

Nhờ đứa em trai còn liên lạc với cha T, tôi được biết cha đã vào Quân đội và là Tuyên Úy đang ở Ban Mê Thuột. Có lần tôi đi công tác vùng ấy. Tôi xin ông Chỉ huy trưởng cho tôi đến thăm cha T.

Xe Jeep đưa tôi lên một nơi đầy bụi, ngập đất đỏ. Tôi hình dung khi gặp nhau, liệu cha có còn nhân ra tôi không, cô bé 16 ngày xưa ?? Tôi tưởng tượng màu áo olive được thay vào chiếc áo chùng thâm của cha. Rồi tôi tự hỏi, không biết cha có cầm súng như những người lính khác hay không ?

Trên đường, những người đàn bà thiểu số đi chân không, đầu đội những cái thúng to. Nương rẫy bị bỏ hoang, nhà cửa thưa thớt dần và sự chết như rình rập đâu đây. Tôi mệt mỏi nhắm mắt, nhưng những ổ gà to làm tôi giật mình, mở mắt.

Chiếc xe bỗng dừng lại, anh tài xế nói: ”Trung úy ơi mình phải đi đường khác, vì đường nầy họ đang rà mìn". Tôi không trả lời nhưng gật đầu. Tôi nghĩ về cái chết của Phương, anh là một Đại úy Y sĩ của Trung đoàn, người mà cũng một lần nói tiếng yêu tôi, trong một chuyến công tác đã cán phải mìn của VC. Tôi thở dài và tự hỏi : Biết đến bao giờ thì đất nước này không còn chiến tranh, cái chết không còn rình rập? Đường xá quê hương tôi được phẳng lì, không còn những ổ gà và bị những quả mìn gài bẫy?? Xe ngừng lại ở cổng một trại lính. Người lính gác cổng giơ tay chào tôi. Anh tài xế trình giấy tờ cần thiết. Những người lính ở đây rất ngạc nhiên khi thấy tôi đến vùng nầy, một vùng đất bị lãng quên bởi những người thị thành, một vùng đất đạn lạc, tên bay.

Xe Jeep chạy dọc theo hàng rào kẽm gai, đất khô cằn sỏi đá. Nhìn quanh chỉ thấy những giao thông hào, những ụ súng im lìm, thủ thế, những họng súng đợi chờ... và ở đây... chỉ có đàn ông, những người lính chiến với những khuôn mặt sạm nắng.

Xe ngừng lại trước một căn nhà có cây thánh giá trước cửa và hàng chữ “CHA TUYÊN ÚY TMT.” Cha đi ra, khựng người khi trông thấy tôi, hai tay cha buông thõng. Tôi nghẹn ngào gọi “Cha!“. Cha T. nhìn tôi từ đầu đến chân: “Chúa ơi! Ny đây mà, sao lớn quá! Trung úy rồi cơ? Cha phải gọi Ny là gì đây? Thôi thì... “Cô bé quan Hai nhé“... Tôi cười như nắc nẻ và rất thích cái tên mới ấy. Buổi trưa đó cha dâng thánh lễ cho những người lính Công Giáo. Bàn thánh rất đơn sơ, chỉ có hai cây nến và một cây thánh giá trần trụi, không hoa, không có tiếng đàn trầm của cha ngày nào. Tôi nhìn lên bàn thánh. Cha vẫn bình thản như xưa, vẫn còn giọng kinh đều đặn và tiếng hát trầm ấm. Thánh lễ hoàn tất. Những người lính lặng lẽ trở về vị trí của họ. Cha đề nghị dắt tôi đi thăm làng của người Thượng. Làng của người Thượng rộng mênh mông, chung quanh là hàng rào kẽm gai, những bụi tre già, khô cằn sỏi đá. Những căn nhà của người thiểu số rất đơn giản, đều lợp bằng cỏ tranh. Những đứa trẻ mình trần trùng trục, chay theo chúng tôi, một vài đứa bám vào áo cha. Những người Thượng già nua khi thấy cha thì chắp tay cúi đầu lễ phép. Những người đàn bà mặc váy, đi chân không, nhìn tôi với con mắt ngạc nhiên. Cha chỉ cho tôi phòng y tế, trường học nhỏ mà thày giáo là những anh lính tình nguyện. Bấy giờ tôi mới nhìn cha thật kỹ. Cha cũng mặc đồ lính với hai bông mai đen trên cổ áo. Tóc của cha cắt ngắn gọn, cha cũng đen, cũng khắc khổ như những người lính khác.

Tôi được cha đãi cơm lính. Cha khoe “ở đây có ông Hạ sĩ nấu ăn rất ngon. Cha gọi máy mời các ông Sĩ quan đến đây ăn cơm luôn, họ sẽ vui khi gặp Ny lắm!". Khi cha qua phòng bên để gọi điện thoai, một ông Thiếu úy cười bảo tôi: “Trung úy thấy cha ra sao? Cha sống bí mật lắm, Trung úy biết tại sao cha tình nguyện lên đây không?" Hai chữ tình nguyện làm tôi giật mình và đó cũng là câu trả lời về sự ra đi của cha. Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao “Sao Thiếu úy biết cha tình nguyện. nghe nói cha đang dạy học..." Bữa cơm qua mau ... Các ông Sĩ quan đã biến mất, họ trở về vị trí của họ.

Mới bốn giờ chiều, mà chung quanh căn cứ đều yên lặng, chỉ nghe những tiếng súng đại bác từ xa vọng về. Tôi phải trở về trước khi trời tối để tránh nguy hiểm. Trước khi lên xe, tôi cố gắng gợi chuyện với cha, tôi hỏi “Ny nghe ông Thiếu uý bảo là cha tình nguyện lên đây? Cha có giận Ny không vậy? Cha trả lời: “Cha không bao giờ giận Ny được, vả lại chỗ nầy cần người như cha. Ny thấy không, những người lính trẻ này đã hi sinh đời sống riêng của họ, ít nhất cha cũng chia sẻ một chút gì với họ“. Cha hỏi tôi về gia đình. Cha thú thật rằng, cha vẫn theo dõi cuộc sống của tôi. Cha nói về tình yêu và trách nhiệm. Cha tâm sự: “Cha là một người đàn ông, không phải là thánh. Người ta muốn Linh mục như cha là thánh giữa cuộc đời, nhưng cha là con người như mọi người, cũng có phút yếu lòng, cha cũng biết yêu. Nhưng cuộc đời của cha đã gắn liền với Chúa, vì cha đã khấn trọn đời là cha thuộc về Chúa. Ny hiểu không?? Tôi gật đầu không nói. Tôi ra xe, cha hôn nhẹ lên tóc tôi, ghé tai tôi nói khẽ: “Cô bé mặc quân phục trông oai lắm, cô bé lên đây làm cha và các binh sĩ rất phấn khởi“. Rồi cha đặt tay lên đầu tôi, làm phép lành cho tôi như một sự che chở, như một yêu thương ngậm ngùi. Cha dặn dò với ông tài xế: “Nầy đừng cho cô lái nhá!“ ... rồi xoay lại tôi dặn dò: “Ny đi đường bình an nghe, cha hằng cầu nguyện cho Ny nhiều hạnh phúc“.

Xe Jeep chở tôi từ từ khỏi cổng, cuốn theo những bụi đỏ. Cha đứng lại giữa vùng bụi đỏ mù trời. Tôi ngoảnh đầu ra sau, giơ tay vẫy chào. Bóng cha mờ dần, nhỏ dần… Lòng tôi ngậm ngùi như mất mát môt cái gì …

Trên đường về Bộ Chỉ Huy, tôi nhớ lại những gì cha T. nói và nghĩ vể những vị Linh mục. Tôi cũng nghĩ về tình yêu của cha đối với tôi, lời khấn hứa của cha trong ngày chịu chức Linh mục, lời khấn hứa như một dấu ấn ăn sâu vào linh hồn, vào cuộc đời cha. Chức vụ Linh mục đã gắn chặt vào cha mãi mãi.

Năm 1975. Chiến trận càng nóng bỏng. Miền Trung đã mất. Rồi một buối sáng, tôi và chồng tôi lặng lẽ ra đi, nghĩ rằng về Cần Thơ cố thủ. Nhưng khi đến Cần Thơ pháo kích tràn lan phi trường Cần Thơ, chồng tôi và 14 Phi hành đoàn trực thăng đành ra biển. Chúng tôi và 14 Phi hành đoàn do chồng tôi chỉ huy, xuống Hạm đội và đến Guam an toàn.

Khi định cư trên đất Mỹ, tôi cũng như người Việt ở Mỹ, cũng vất vả làm việc hai jobs. Những bức thư của quê nhà bay qua tới tấp, luôn luôn cần sự giúp đỡ.

Đến năm 1987, một lá thư của em gái tôi từ VN gởi sang, kèm theo là hình của tôi chụp lúc 16 tuổi. Trong thư, em tôi báo cho tôi biết là cha T. đã qua đời vì bệnh viêm gan. Kết quả của tám năm tù cải tạo.

Trước đó một tháng cha T. đến thăm gia đình ba mẹ tôi. Cha bây giờ khác hẳn, rất tiều tụy, cả nhà không nhận ra. Cha hỏi thăm tin tức về tôi, ba mạ tôi khoe và lấy hình chụp khi tôi nhận lãnh BA degree ở Penn State University. Cha lấy làm cảm động và hãnh diện

Khi cha về, cha trao lại cho ba mẹ tôi bức ảnh của tôi lúc 16 tuổi mà tôi đã tặng cho cha vào Giáng Sinh năm nào. Nhìn hình cũ ngày xưa, cô bé nhe răng cười với đôi mắt tô chì bị lem vì lần đầu tiên vụng về, thế mà cha đã giữ hình ấy bao nhiêu năm. Tôi ép hình mình vào ngực, như tìm thấy mùi hương từ trong bàn tay của cha thoang thoảng đâu đây. Tôi nhắm mắt lại rồi chớp mắt, hình như có hai dòng lệ âm thầm chảy trên má tôi.... Bây giờ tôi đã có đầy đủ, nhà cửa, sự nghiệp... Tôi đã sanh cho chồng tôi toàn con trai. Chúng nó đã thành công, đó là sự mơ ước của tôi. Nhưng có một sự mơ ước thầm kín nhất của tôi không bao giờ đạt được... Là một trong các con tôi thành Linh mục như cha T. !

Tưởng nhớ cha Tuyên úy TMT.



Vi Vô & Josef MT...

Lời chú thích của Sue Phan : Đây là chuyện tình đẹp đã xảy ra gần nửa thế kỷ... hoàn cảnh và thời gian có thể không thích hợp hiện tại, người đăng chỉ muốn tôn vinh những Linh mục trẻ đã hi sinh một đời cho Chúa và chiến tranh...

Nguyen Huu Thien
02-14-2016, 02:00 AM
Tu sĩ, trước hết là một con người với thất tình lục dục, bởi nếu không có, họ đã là thánh nhân. Các vị ấy cao quý hơn chúng ta là ở chỗ đã hy sinh "tình", kềm chế "dục" để trung thành với lý tưởng phụng sự Chúa, Phật, và tha nhân. Trường hợp có vị nào không chống cưỡng lại được, chúng ta cũng nên thông cảm hơn là chê trách (trừ những kẻ đội lốt thầy tu để suốt đời bịp bợm và làm bậy - serial sex offender!)
NHT