PDA

View Full Version : Hệ thống Y Tế Hoa Kỳ .



loibangTQLC
06-08-2009, 01:45 AM
Hệ thống y tế Hoa Kỳ


Ban Biên Tập Khối Y Học, ConsumerReports (Nov. 2007)/Lan Hương phỏng dịch

http://www.accessmylibrary.com/coms2/summary_0286-33790644_ITM



(Treatment traps to avoid. Insured? You're money in the bank to the health care system) / Những phương pháp trị liệu nào cần tránh. Nếu bạn có bảo hiểm sức khoẻ thì bạn đúng là mỏ vàng của hệ thống y tế Mỹ Quốc đó.




Sức khoẻ của ông Ron Spurgeon yếu đi khi ông ta bị đau vai vì làm việc trong vườn đằng sau nhà. Vì vậy ông ta phải đi khám bệnh ở trung tâm y khoa "Redding" tại miền bắc California. Nơi đây một bác sĩ chuyên viên về tim nói rằng ông ta bị bệnh tim trầm trọng có thể chết người. Bốn ngày sau, ông ta phải trải qua cuộc giải phẫu "triple bypass" (3-đường vòng tim mạch)..




Sau đó ông ta, với thân thể cường tráng của người đàn ông 56 tuổi, bị hạn chế không được vác nặng và phải nghỉ công việc trong một xưởng làm gỗ.



Năm 2003, 2 năm sau ngày giải phẫu, ông Spurgeon biết được rằng TENET HEALTHCARE, chủ nhân của bệnh viện này, đã phải bỏ ra một số tiền 54 triệu Mỹ Kim để điều đình trả lại cho chính phủ Liên Bang về lỗi đã tính tiền Medicare của chính phủ Liên Bang cho những cuộc giải phẫu không cần thiết về bệnh tim.




Năm sau, ông Spurgeon và 344 bệnh nhân khác cùng nhau kiện bệnh viện này và 8 y sĩ giải phẫu cũng như chuyên viên tim mạch về lỗi làm những phương pháp trị bệnh không cần thiết để kiếm tiền. Kết quả là Tenet Helcare và các bác sĩ liên hệ đã phải bồi thường cho các nạn nhân $442 triệu Mỹ Kim.




Ông Spurgeon tuyên bố: "Tôi chẳng làm sao cả, nhưng mấy ông này sử dụng cơ thể tôi để làm tiền. Tôi đã mất hết tin tưởng vào giới bác sĩ rồi."



Trường hợp của ông Spurgeon là một ví dụ điển hình tại sao hệ thống y tế Hoa Kỳ càng ngày càng quá đắt đỏ hơn hết mọi nơi trên thế giới. Chính là vì hệ thống y tế Mỹ Quốc tìm mọi cách chẩn đoán để trị bệnh không cần thiết, theo hệ thống "tặng tiền thưởng cho các y sĩ".



Như chúng tôi (CR) đã báo cáo hồi tháng 9/2007, khả năng của các hãng bảo hiểm để giảm bớt các chi phí về y tế đã chựng lại từ năm 2000. Hiện nay mỗi năm nước Mỹ đã sài đến 2,000 tỷ USD cho vấn đề y tế, một số tiền khổng lồ lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.





Bây giờ hệ thống y tế này có những vụ chia chác tiền thưởng như kiểu ăn tiền "hoa hồng/commission" như sau:



* Bác sĩ và bệnh viện hưởng tiền bằng cách càng làm nhiều thử nghiệm và có khi cả những thử nghiệm nguy hiểm và cách trị liệu đắt tiền



* Bệnh nhân cư trú ở những vùng có quá nhiều chuyên viên và bệnh viện sẽ phải qua những thủ tục rườm rà và đem ra thử nghiệm nhiều khi làm họ bệnh hoạn hơn lên nữa.



* Những công ty bào chế thuốc tây mỗi năm trả đến hàng tỷ Mỹ Kim cho việc quảng cáo thuốc mới mặc dù biết rõ là những thứ thuốc này không tốt hơn những thuốc cũ đang có tại thị trường vừa rẻ và hiệu nghiệm hơn.



* Vụ phân chia tiền thưởng này làm nản lòng những vụ trị bệnh hữu hiệu và ít tốn kém cũng như cứu được sinh mạng nhiều hơn.




Khi điều tra hệ thống y tế tại các tiểu bang Connecticut, Iowa, và Texas những người được phỏng vân thăm dò đều cho tin tưởng rằng là hệ thống y tế chỉ đem lợi nhuận nhiều cho các y sĩ, bệnh viện, các công ty bảo hiểm và các viện bào chế dược phẩm mà không đem lại lợi ích thiết thực cho bệnh nhân. Người tiêu thụ cảm thấy bị lợi dụng và lừa gạt bởi hệ thống y tế hiện hành.




Làm nhiều hơn đòi hỏi nhiều hơn



Khi nói đến vần đề y tế thì không phải cứ làm nhiều thì sức khoẻ sẽ tốt hơn. Nhưng bệnh nhân muốn được săn sóc kỹ càng hơn. Phải công nhận nền y khoa Mỹ Quốc đã chiến thắng nhiều căn bệnh hiểm nghèo trong quá khứ, nhưng đồng thời cũng khuyến khích sự lạm dụng những phương thế trị liệu quá tốn kém. Hệ thống y tế trả tiền hậu hĩnh cho y sĩ, bệnh viện theo kiểu căn bản "lệ phí theo dịch vụ" (fee-for-service) . Bác sĩ càng kê đơn làm nhiều dịch vụ như: thử nghiệm máu, giải phẫu, MRI hay CT scan bao nhiêu thì càng được nhiều tiền thưởng.




Những nhà chuyên môn ước lượng là số tiền 2,000 tỷ MK hàng năm chỉ nên dùng tới 1/2 hay 1/3 thôi, phần còn lại toàn là lạm dụng lãng phí.



Một ví dụ là trường hợp ung thư ngực của phụ nữ trước đây đã dùng thủ thuật cấy tủy xương ( bone marrow transplantation ). Mặc dù các nhà chuyên môn và bảo hiểm đều cảnh cáo là vụ cấy tuỷ xương này nếu chưa được thử nghiệm kỹ càng thì chưa chắc đã đem lại hiệu quả tốt, nhưng có cả chục bệnh viện đã bắt đầu chương trình này để thu về một lợi nhuận là 3.4 tỷ Mỹ Kim vào thập niên 90' cho 42,000 phụ nữ.




Tuy nhiên đến tháng 4 năm 2000 thì Y khoa Nhật Báo của Tiểu Bang New England đã báo cáo là "cách sử dụng cấy xuơng tuỷ" đã không kéo dài sự sống cho bệnh nhân ung thư ngực mà còn làm bệnh nhân đau đớn hơn vì những dị ứng /phản ứng phụ của phương pháp này.




Và bây giờ phương pháp "cây xuơng tuỷ" để giúp bệnh nhân bị ung thư ngực đã bị loại bỏ, tuy nhiên vẫn còn biết bao nhiêu phương pháp trị bệnh mắc tiền và vô hiệu quả khác vẫn được áp dụng cho nhiều chứng bệnh khác.



Khảo cứu của Trung Tâm Y khoa Darmouth còn cho biết là số tiền y tế MEDICARE đã phải trả căn cứ vào kết quả những phương thế trị liệu, số giường trong bệnh viện, y sĩ và chuyên viên thay vì thực sự giúp đỡ cho bệnh nhân ở vùng đó. Như ở Miami, một vùng có rất nhiều y sĩ và bệnh viện , thì Medicare phải trả cho mỗi bệnh nhân là $11,422 trong năm 2003, trong khi đó số tiền giảm xuống còn $5,438 cho vùng Minneapolis. Khảo cứu cũng cho biết là vùng mà MEDICARE trả nhiều tiền thì thực sự bệnh nhân được chữa bệnh tồi tệ hơn những vùng mà Medicare trả ít tiền hơn.



Bác sĩ Elliottt S. Fushere của viện khảo cứu Darmouth nói là: "bệnh viện là nơi nguy hiểm" cho bệnh nhân vì họ có thể bị nhiễm trùng trầm trọng. Có nhiều chuyên viên cũng có thể là yếu tố rủi to vì thiếu sự liên lạc thông tin giữa các bác sĩ và chuyên viên.



* 34% các bác sĩ gia đình khi được phỏng vấn đều nói là bệnh nhân của họ phần đông đều đòi hỏi được thử nghiệm nhiều cách, mong mỏi được an toàn nhiều hơn. Bác sĩ David Blumenthal giám đốc Viện Nghiên Cứu tại Massachusetts nói: "chúng ta có một nền văn hoá cuồng nhiệt tin tưởng vào các phương pháp trị liệu với kỹ thuật mới mẻ nhất, và đó là một thực tế trong đời sống người dân tại Hoa Kỳ."



** Bác sĩ Paul DeLeeuw, 62 tuổi cư dân tại Fort Myers, một hôm muốn làm một cuộc thử nghiệm tổng quát của cơ thể dùng CT scan - là một thử nghiệm được đề xướng và khuyến khích trên toàn quốc, để có thể biết trước được những cảnh báo về bệnh ung thư, bệnh tim, và những bệnh khác. Ông ta bỏ tiền túi để làm thử nghiệm.



Kết quả thử nghiệm biết những tin tức không tốt là : những hình ảnh trên màn hình thấy có triệu chứng bất thường về tim mạch, phổi và gan. Ông ta tưởng là sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Kế tiếp là nhiều thử nghiệm liên tục và chuyển đến các chuyên viên làm ông tốn thêm cả mấy chục ngàn đôla nữa, vì một số thử nghiệm không được bảo hiểm bao trả. Kết quả sau các thử nghiệm liên tục là không có bệnh gì cả.



* 60% các y sĩ trong cuộc thăm dò của chúng tôi đều nói là thông thường họ phải chuyển bệnh nhân đi thử nghiệm nhiều khi biết rằng vô ích nhưng vẫn phải làm để tự bảo vệ nếu bị kiện tụng về sơ xuất trong khi hành nghề.






Bạn phải làm gì đây?




Nên giao cho bác sĩ gia đình lo các vụ thử nghiệm và yêu cầu họ cho biết là nên thử nghiệm gì để co kết quả tốt. Và khi thử nghiệm xong nếu có kết quả xấu thì hậu quả ra sao?



Thuốc mới, trả nhiều tiền hơn




Muốn được cơ quan FDA (Food and Drug Administration) công nhận một loại thuốc mới thì các nhà bào chế chỉ cần chứng minh nó có hiệu quả hơn một viên thuốc đường (sugar pill), không cần phải tốt hơn những thứ thuốc đã có ngoài thị trường. Vì vậy mà 75% các loại thuốc được FDA công nhận và cho bán trên thị trường trong năm 2005 giống hệt những thuốc đang có, chỉ có khác tên, khác mầu, khách hình dạng và giá đắt tiền hơn mà thôi.




Các viện bào chế phải thuyết phục được các y sĩ và bệnh nhân là viên thuốc "mầu hồng" của họ tốt hơn viên thuốc "mầu xanh" đang bầy bán ngoài thị trường. Ví dụ như viên thuốc METFORMIN (Glucophage, Generic) trị bệnh tiểu đường cấp 2, có chức năng kiểm soát được số lượng đường trong máu tốt ngang hàng với thuốc mới AVANDIA (rosiglitizone) và ACTOS (pioglitizone) . Hai viên thuốc này đắt gấp 4 lần viên thuốc cũ Metformin. Tuy nhiên quảng cáo 2 viên thuốc mới Avandia và Actos này với các bác sĩ và bệnh nhân, đã giúp nhà bào chế kiếm được 21% thị trường và đem lợi lợi nhuận khổng lồ vì giá 2 viên thuốc brand-name [1] này rất đắt đỏ.




[1] Mỗi thứ thuốc được FDA công nhận, sẽ trở thành Brand-Name trong thời hạn 17 năm. Nhà sản xuất độc quyền sản xuất viên thuốc đó và bán ra với giá cả tuỳ thích. Sau 17 năm thì hết là chủ quyền của viên thuốc và bất cứ viện bào chế nào cũng có thể tạo ra viên thuốc giống hệt với tên khác thường gọi là GENERIC, giá cả có thể chỉ bằng 1/4 hay 1/5 giá viên thuốc brand-name kia.




Kết quả cho thấy là tại sao các viện bào chế dược phẩm chịu bỏ ra 29.9 tỷ Mỹ Kim mỗi năm để quảng cáo thuốc mới. Họ quảng cáo trên báo chí và truyền hình rất nhiều và những quảng cáo đó thường hay bỏ quên không nhắc đến những tác động tai hại của viên thuốc đồng thời cố tình thổi phồng hiệu quả quá đáng của viên thuốc và còn chỉ trích những thuốc của các nhà bào chế đối thủ đang cạnh tranh nữa.




Một cách quảng cáo hưu hiệu nữa là họ tặng những viên thuốc mẫu (samples) cho các văn phòng bác sĩ đáng giá 18.4 tỷ Mỹ Kim riêng trong năm 2005, để các y sĩ bác sĩ biếu không cho các bệnh nhân để dùng thử, trong khi các thuốc tương tự thuộc hàng "generic" đã có ngoài thị trường. Tặng không cho bệnh nhân vài viên thuốc nhưng để "câu" họ về sau sẽ đòi hỏi bác sĩ kê đơn cho họ mua những thuốc đó. Các nhà bào chế còn tặng quà cho các văn phòng bác sĩ và những y tá làm việc ở đó nữa. Chỉ trong tiểu bang nhỏ xíu là Vermont mà số tiền tặng phẩm đã lên đến 2.2 triệu MK trong năm 2006.



Ví dụ như "FDA" công nhận viên thuốc A cho một bệnh nào đó. Tuy nhiên, về sau các y sĩ được quyền dùng thuốc A đó để trị bất cứ bệnh gì mà họ thấy cần thiết. Vì vậy mà các dược phòng có thể bán được nhiều thuốc A theo kiểu gọi là "off-labels" (khác nhãn hiệu). Dịch vụ này có thể đem lại cả tỷ đôla mỗi năm.




Tiểu bang Pennsylvania đã kiện viện bào chế AstraZeneca, Eli Lilly và Janssen Pharmaceutica về tội đã khuyến khích các y sĩ kê đơn thuốc tâm thần SEROQUEL, ZYPREXA và RISPERDAL theo kiểu "off-labels" cho người già và con nít. Theo đơn kiện thì các bị cáo bị tố giác là đã trả tiền cho các y sĩ để khuyến khích bệnh nhân dùng thuốc và trả tiền cho các bác sĩ khác dự thính các hội nghị y khoa và mượn tên của các bác sĩ danh tiếng hầu nhờ người viết bài khen tặng thuốc của họ, cũng như trả tiền cho các khảo cứu viên khen các thuốc tâm thầm kia nhằm giấu diếm các dị ứng cùng phản ứng phụ. Chiến dịch tuyên truyền thuốc tâm thần này đã đem lại hơn 50% lợi nhuận trên toàn cầu trong năm 2005. Hiện vụ kiện vẫn chua có phán quyết của tòa án.




Các bạn phải làm gì?




Bệnh nhân hiểu biết hiện đang đòi hỏi loại thuốc thông thường (generic) để tiết kiệm. 60% các toa thuốc đã dùng thuốc "generic". Hơn 50% các bác sĩ được thăm dò cho biết là bệnh nhân của họ đều đòi hỏi thuốc "generic". Nếu mọi người đều muốn dùng loại thuốc thông thường thì mỗi năm sẽ tiết kiệm được hơn 8 tỷ MK.




Nếu bạn được bác sĩ kê toa thuốc mới, thì phải hỏi lại bác sĩ là thuốc mới có chắc chắn tốt hơn thuốc cũ không và những phản ứng phụ như thế nào?



Phải thay đổi cách nghĩ và nếp sống căn bản




Chi phí y tế tại Hoa Kỳ càng ngày càng cao vì hệ thống đòi hỏi những thử nghiệm trị liệu mắc tiền sau khi bệnh đột phát. Bác Sĩ George Isham, Giám đốc Heath Partners, một tổ chức vô vị lợi HMO tại Minnesota nói: "Chúng ta không có một hệ thống y tế để giáo dục dân chúng biết sống làm sao cho lành mạnh hơn". Bs. Isham đứng đầu viện Y khoa chuyên viên ý thức giáo dục người dân sao để tránh các bệnh béo phì, tiểu đường, suyễn, cao áp xuất và nhắc nhở cha mẹ cho trẻ em đi chích ngừa đúng thời hạn. Đây là một chương trình khó thực hiện vì đi ngược lại hệ thống y tế Mỹ Quốc.



Các sinh viên y khoa hiện nay người nào cũng nợ chính phủ đến vài trăm ngàn đôla nên khi tốt nhgiệp không muốn làm "bác sĩ gia đình" mà chỉ muốn học thêm thành bác sĩ chuyên ngành (specialist) để lãnh lương nhiều hơn. Nghiên cứu của Darmouth nêu trên đã chứng tỏ là vùng nào có quá nhiều chuyên viên thì vấn đề bảo vệ sức khoẻ cho người dân càng kém đi.



Tại những quốc gia khác, người dân thường đi khám bác sĩ riêng tư mà gia đình đã quen biết từ nhiều năm. Nhưng vị y sĩ này rất tận tâm chữa trị vì đã quen biết bệnh nhân từ lâu, chỉ trường hợp khó khăn lắm mới cho nhập viện.




Với hệ thống y tế Mỹ Quốc chỉ chăm chú vào việc trả tiền thật nhiều cho các bác sĩ và chuyên viên nên coi thường việc ngăn ngừa bệnh tật. Năm 2004 bệnh nhân Mỹ trả khoảng 29 tỷ MK cho khoảng 4.4 triệu người nhập viện.



Thiếu bằng chứng cụ thể




Người dân tiêu thụ Hoa Kỳ đang bị những quảng cáo làm họ siêu lòng tin tưởng vào hệ thống y tế, họ vẫn tưởng rằng những phương pháp chữa trị mà các bác sĩ khuyến cáo họ như ông Ron Spurgeon bị - giải phẫu 3 vòng đường tim mạch - là cần thiết và hiệu quả, đúng ra là các phương pháp chữa trị nhiều khi sai lầm.




Bs. Lee Newcomer, phó Giám Đốc của khoa "ung thư" tại United Healthcare nói : "80% những gì chúng tôi làm trong lãnh vực y khoa đều không có bằng chứng cụ thể".



Nhiều quốc gia tân tiến khác đều có một cơ quan trung ương kiểm soát và tìm hiểu ra những phương pháp chữa trị và kỹ thuật mới và theo đó mà đề ra các chính sách về y tế tổng quát cho cả nước, như bên Anh Quốc có Viện nghiên cứu về Y Học và trị liệu y khoa được toàn hảo.



Mặc dù có những hãng bảo hiểm và những cơ quan bất vụ lợi khác nhẩy vào định giá và can thiệp cho bệnh nhân nhưng số tiền mà nhà nước và bệnh nhân phải trả vẫn bị áp lực của những viện bào chế, bệnh viện, y sĩ và chuyên viên.




Nhiều nhà chuyên môn về y tế đang đề nghị một viện khảo cứu quốc gia chỉ lo riêng về vấn đề y tế quần chúng, mà chúng tôi - Consumer Reports, một tổ chức bất vụ lợi - đã đề nghị từ lâu.