saomai
08-10-2015, 07:21 AM
Vóc dáng nhạc sĩ:
Thạch Chương - Cung Tiến
| Nguyễn Mạnh Trinh
1.
Có người hỏi thơ và nhạc có gì liên quan với nhau không? Hình như trong sự gợi ý, thơ và nhạc có tác dụng hỗ tương với nhau, nhạc tháp cánh cho hồn thơ và thơ làm nồng nàn hơn cho ý nhạc. Một người đã học âm nhạc từ nhỏ, đã làm thơ, đã dịch thơ và yêu thơ, đã có những lời nhạc đầy chất thơ lại có lúc liên tục phổ nhạc những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng và đã tạo thành những sáng tác độc đáo đầy chất sáng tạo. Ông lấy cảm hứng từ các thi sĩ khác dù những ca từ của những bản nhạc đầu tay đẫm chất thơ. Người ấy là nhạc sĩ Cung Tiến tác giả của những Hương Xưa, Thu Vàng, Hoài Cảm, những bản nhạc sáng tác từ thuở còn học trò nhưng lại có đời sống âm nhạc trường cửu.
Mặc dù Cung Tiến là một tên tuổi lớn của âm nhạc Việt Nam, nhưng ông cũng là một tác giả có nhiều đóng góp vào hai mươi năm văn học miền Nam và văn học ở hải ngoại với bút danh Thạch Chương.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/CungTien2_1439191623.jpg
Quả thực, ông là một vóc dáng nghệ sĩ đa diện. Là dịch giả, người viết truyện ngắn, người phê bình văn học giới thiệu các trào lưu văn học thế giới, với tên tuổi là Thạch Chương. Là người viết ca khúc, soạn hòa âm, viết nhạc giao hưởng với tên tuổi Cung Tiến. Ông cũng là một nhà phân tích và nghiên cứu kinh tế, đã du học ở Úc, rồi sau du học và tốt nghiệp tại trường đại học danh tiếng Cambridge ở Anh. Ông cũng còn là một người hoạt động rất tích cực của phong trào tranh đấu cho nhân quyền International Federation of Human Rights. Trong thập niên 1980. Ông đã gửi tên tuổi những văn nghê sĩ Việt Nam bị cầm tù bởi chính quyền Hà Nội đến các tổ chức, các phong trào quốc tế để thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc trả tự do cho những người làm văn học nghệ thuật của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Bắt đầu với tên tuổi Thạch Chương, ông là một dịch giả và là người đã chuyển dịch sang Việt ngữ hai danh phẩm văn chương quốc tế là “Một ngày trong đời Ivan Denisovitch” của Alexander Solzhenitsyn và “Hồi Ký viết dưới hầm" của Fyodor Dostoyevsky.
Dostoyevsky là một trong những đại gia của tiểu thuyết Nga trong thế kỷ 19, đã mang những triết lý từ cảm xúc trong những tác phẩm mổ xẻ và phân tích làm nổ bùng ra những luận đề sâu sắc về tâm lý, chính trị, tôn giáo và xã hội. ”Hồi ký viết dưới hầm” là một tác phẩm viết về chủ đề của con người phải chịu đựng những thống khổ nội tâm, của những nỗi u uẩn của kiếp nhân sinh. Tác phẩm này là một bắt đầu của sự nghiệp văn học lừng lẫy của Dostoyevsky và cũng là cao điểm của văn chương Nga và coi như một tác phẩm “classical" của nhân loại.
Còn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, người đã bị tống xuất khỏi Nga đi lưu vong vì chống đối lại chính sách của Stalin. Với “Một ngày trong đời Ivan Denissovitch” tác phẩm lột trần chế độ toàn trị ở Nga xô Viết dưới thời độc tài Stalin với tất cả những kỹ thuật và chính sách nhằm hạ thấp giá trị con người xuống hàng súc vật…
Tác giả Thạch Chương hay nhạc sĩ Cung Tiến đã có chủ đích chính trị khi chuyển ngữ tác phẩm của Solzhenisyn. Một người đã bị trục xuất khỏi đất nước của mình vì ý hướng tự do dân chủ trong văn chương đã được giới thiệu trong thời điểm ấy như một trào lưu nhân loại. Tác phẩm của Solzhenitsyn là một tác phẩm làm kinh hoàng người đọc nhất được in ở Liên Xô. Nó còn làm ảnh hưởng đến tình hình chính trị của Liên Xô nữa. Ông vạch trần một xã hội mới của một thế giới mới mà trong một phần tư thế kỷ, Stalin đã tạo ra một hệ thống trại tập trung khổng lồ. Mà tất cả người dân Nga đã phải chịu ảnh hưởng dù trực tiếp hay gián tiếp.
Với thi ca, ông là người đọc và đã giới thiệu nhiều thi sĩ nổi tiếng của thế giới. Ông cũng thường dịch thơ và đăng rải rác trên các tạp chí văn học. Thí dụ tôi đã đọc bài dịch thơ từ Federico Garcia Lorca, bài ”Bài ca khóc Ignacio Sanchez Mejias“ có những câu thơ gợi nhiều liên tưởng và cảm xúc. Federico Garcia Lorca được tôn xưng là một nghệ sĩ vĩ đại của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20 sống trong thời kỳ của tướng Franco. Còn Ignacio Sanchex Mejias là một bạn thân của ông ; là một người đấu bò nổi danh của xứ Andalusian. Bài thơ gồm bốn đoạn và trong đó có những câu được dịch bởi Thạch Chương, đoạn III Thể xác còn đây:
“Phiến Đá là một vầng trăng nơi những giấc mơ hiền than thở
Không một dòng nước uốn quanh và những cây tùng bách giá băng.
Phiến đá là một cánh vai trần để chở đi thời gian.
Với những cây nước mắt, những dải băng và những tinh cầu.
Tôi đã thấy những trận mưa xám chạy dài theo những đợt sóng
Giơ cao lên những cánh tay ngọt ngào lỗ chỗ
Để không cho phiến đá duỗi dài với được.
Phiến đá chặt tay chân ra thành từng mãnh mà không thèm hút máu.
Bởi phiến đá đi lượm những hạt giống của sợi mây…
… Tôi muốn họ chỉ cho tôi những con đường nào ra thoát
cho vị tướng soái mà tay chân thần chết đã trói buộc
Tôi muốn họ chỉ cho tôi những giọt lệ nào như một dòng sông
Có những sợi mây hiền lành và những bến bờ sâu thẳm
Để ẵm đi thể xác của Ignacio và để chàng chìm xuống
Không còn nghe bên tai những hơi thở trùng điệp của con bò rừng
Để xác chàng chìm sâu vào đấu trường tròn của vầng trăng...”
Ở một mặt khác, Thạch Chương, người viết truyện ngắn có những khám phá mới về bút pháp, về những ý tưởng là kết quả của những suy tư của một người luôn đi tìm kiếm. Truyện ngắn của ông có vóc dáng về những nhân vật được phác họa khá lạ lùng, của một không gian thời gian nào lửng lơ giữa cảm giác và đời sống thực. Cảnh vật, dường như có chất biểu tượng và con người như có gắn liền để tạo thành một tổng hợp văn chương rất riêng. Thí dụ như truyện ngắn “Tinh cầu” trong Tuyển Truyện Sáng Tạo. Một truyện ngắn mà theo tôi có chiều sâu của một suy tư khác lạ với đời thường…
Với bút hiệu Thạch Chương trên các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề, trước năm 1975 và Đặng Hoàng trên các tạp chí văn học hải ngoại sau 1975 có những bài khảo luận công phu. Ông đã viết về nhà nhân chủng học nổi danh người Pháp Claude Levi - Strauss cha đẻ ra Cơ cấu Luận (Structuralisme), về nữ tiểu thuyết gia người Anh Virginia Woft tác giả của những tiểu thuyết như “The Waves” hay “Between the Acts” và đã tự tử trên dòng sông và không tìm được thi thể…
Ông cũng đã viết để giới thiệu Albert Camus trong Sáng Tạo bộ mới xuất bản vào tháng 9 năm 1960. Đến nay, khi đọc lại vẫn còn thấy nhiều điểm thích thú. Một nhà văn hiện sinh vừa qua đời và đúng thời điểm ấy, Thạch Chương giới thiệu:
”Giữa hoàn cảnh xã hội lạc loài của nước Pháp hậu chiến, giữa khí hậu trí thức bi quan mà phái hiện sinh ngự trị, giữa những tiếng để dọa phá hủy của trường siêu thực, và trong viễn ảnh một mùa đông tăm tối của Đệ Tam Quốc tế: Albert Camus, một hình bóng trơ trọi hiện lên như một tia nắng ấm hy vọng của Âu Châu. Tôi vừa nói: một hình bóng trơ trọi - bởi Camus không đại diện cho một hàng ngũ nào, không Cộng sản, và cũng không hẳn là người Pháp: một kẻ lưu vong với một triều đình đã mất.
Sau cái chết đầy “phi lý” cách đây mấy tháng, Camus đã để lại đằng sau mình hai tập triết luận, mấy tập truyện, một tập đoản văn, dăm vở kịch, một ít tạp luận và một số dịch bản, phóng tác, thời sự: tất cả dựng lên như lời Pierre Simon, một mốc đường cho một chủ nghĩa nhân đạo thực chứng (humanisme positif)...”
Nhà văn Cung Tiến có viết về kinh tế học, ngành học mà ông đã đi du học từ Úc và Anh. Ông là người giới thiệu Club De Rome gồm một số đông các khoa học gia thuộc đủ mọi ngành trên thế giới họp ở thành phố La Mã nêu ra những vấn đề cấp thiết của con người trên hành tinh trái đất mỗi ngày một chật hẹp. Ông đã dịch cuốn sách : “The limits of Growth” thành "Giới hạn phát triển”, là tiếng kêu cảnh báo loài người trước những hiểm họa sắp tới. Trong cuốn sách này, những mục tiêu cũng như cơ cấu của một nền kinh tế toàn cầu của cuối thập niên 60 được phác họa. Vào những năm của thập niên 70, Cung Tiến còn dịch một tác phẩm khác tiếp theo của Club De Rome, cuốn “The turning Point of Mankind” – Chỗ rẽ của nhân loại. Đây là những ý kiến có ảnh hưởng nhiều đến cộng đồng thế giới. Bản dịch của Cung Tiến được đăng trên tập san Quốc Phòng, coi như một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về chiến lược áp dụng cho quốc gia Việt Nam.
Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến trong vai trò của một chuyên viên kinh tế có tham chính và là một thành viên của nội các đệ nhị Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông là thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc Kế Hoạch cho ông Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Sau năm 1975 ông là chuyên viên kinh tế của nghiên cứu và phân tích của Department of Economic Security của tiểu bang Minnesota. Hiện ông đã về hưu.
Cung Tiến là người yêu thơ và sống với thơ. Trong vai trò của một người nhận định văn học ông có viết nhiều về thơ và những nhận định của ông thường là những khám phá mới bắt nguồn từ những cảm nghĩ chân thành nhưng sâu sắc.
Tôi chỉ đọc được một vài bài. Thí dụ như bài viết ”Sự chán chường trong phê bình văn nghệ” đăng trên Sáng Tạo bộ mới số 1. Từ những nhận định của nhiều người kẻ chê người khen về thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn đi tìm một khuôn mẫu phê bình và nhận định vượt qua được những thiên kiến chủ quan.
Cung Tiến viết ”Và cuối cùng, câu hỏi quan trọng hơn cả là đâu là tiêu chuẩn của những tiêu chuẩn đó (và ta sẽ hỏi đến mãi vô cực)!
Đó là những câu hỏi cực kỳ quan trọng... Chỉ khi nào trả lời được, ta mới có quyền đặt bút phê phán giá trị. Cho nên tất cả những công trình đặt định giá trị của mọi nhà phê bình xưa nay Đông Tây, đều theo ý tôi, là những công việc vô lợi, đẫm màu chủ quan, hay là có một thứ khách quan hư ngụy, vô nghĩa. Chúng không cho lòng tin về sự đẹp của ta một lý do vững chắc nào, Chúng giống như những loại mệnh đề tuyên truyền của tôn giáo, những thứ mệnh đề ngầm ấn những quan niệm tiên thiên, siêu việt toàn phi lý (irrationnel). Đau khổ hơn là nếu những từ ngữ đánh giá (termé evaluateurs) đó có thể chỉ là những tiếng hiệu triệu đẫm xúc cảm thì có thực chúng ta đã muôn đời tự lừa dối chúng ta mỗi khi dùng chúng (Mà giây phút nào không đúng).Thế nào là gía trị? Thế nào là chân, là thiện, là mỹ? Đâu là một vài lý do cho lòng tin, một lòng tin nho nhỏ của ta? Câu hỏi ném lên không trung, chỉ sóng gió thầm thì trả lời. Đó là nỗi chán chướng trong việc phê bình văn nghệ hôm nay.”
Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ở ngoài đời thường có nhiều giai thoại lý thú về ông. Tôi chỉ nghe người này kể người khác nói. Nhưng có một người bạn thân của ông, nhà văn Phan Lạc Phúc đã kể lại trong Tuyển Tập Tạp Ghi đã viết lại một giai thoại khá vui vui về nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến. Ông Phan Lạc Phúc kể:
“Ngày thường gặp Cung Tiến, anh trang nhã thận trọng pha một chút lạnh lùng kiều Ang Lê Cambridge. Nhưng trong những lúc phùng trường tác hí, nhất là khi đã nhậu dăm ba consommation rồi là Cung Tiến phừng phừng bất cần đời. Chúng tôi có thói quen ăn nhậu rồi vào khoảng 10 giớ, 11 giờ đêm là kéo đến Đêm Mầu Hồng. Chủ quán Phạm Đình Chương đã dành sẵn một chỗ ngồi riêng giá biểu riêng cho bạn hữu như đã thành lệ khi Cái Bang đến là Phạm Đình Chương hay Thái Thanh chuyển hướng đề tài. Bữa ấy “cổ kim hòa điệu“ diễn ra hơi dài. Cung Tiến khật khưỡng bước ra sân khấu-gạt người đánh piano ra một bên rồi ngồi xuống dạo Senerade. Cổ kim hòa điệu với nhạc Schubert thì không thể nào “đi” với nhau được nó ngang phè phè. Một khán giả mặc quân phục dù, mũ đỏ chợt bước lên. Anh tiến lại chỗ Cung Tiến đánh đàn và nắm lấy tay. Cung Tiến không nhìn lên, hất tay ra, vẫn tiếp tục dạo đàn và nói ”đi chỗ khác chơi”. Chủ quán Phạm Đình Chương biết là có chuyện vội đứng ra xin lỗi.nhưng không kịp nữa rồi. Một vài tiếng nổ xé tai của chai la de vỡ nổi lên. Một vài người bạn dù cùng đi đã nắm cổ chai la de vỡ kéo lên sân khấu, tất cả khán phòng im bặt - một sự im bặt bất thần và rùng rợn - chỉ còn một mình Cung Tiến vẫn mê mải đánh đàn. Vũ Khắc khoan vội bước ra. Dù đã nhậu sương sương nhưng Vũ Khắc Khoan vẫn còn đủ tỉnh táo để nắm lấy vai người sĩ quan dù mũ đỏ mà nói khẽ ”Anh học trò tôi có phải?” người sĩ quan dù đang hầm hầm sắc giận vội vàng nhìn lại rồi đổi giọng ”Thưa thầy...” Người sĩ quan ấy là môn sinh của họ Vũ, không biết ở Chu văn An hay ở Văn Khoa. Họ Vũ khoác vai người sĩ quan dù và nói ”Thôi… anh em cả” Người đánh đàn say không nhận được việc gì đã xảy ra sau lưng anh. Nếu không có Vũ Khắc Khoan đêm ấy... sự việc sẽ không biết còn diễn biến thế nào...”
Câu chuyện kể của nhà văn Phan Lạc Phúc thật là lý thú. Ở vai trò người bạn thân ông có nhận xét nào sâu sắc về vóc dáng của nhạc sĩ Cung Tiến:
“Có hai con người trong một Cung Tiến. Một con người duy lý, muốn đi đến cùng lý luận, một con người khác duy cảm - muốn thỏa mãn ngay những đòi hỏi của mình... Con người nào ưu thắng trong Cung Tiến? Tôi vẫn nghĩ là con người duy lý. Cung Tiến chỉ “bốc đồng” khi uống rượu say. Bình thường, như đã nói ở trên Cung Tiến trang nhã và thận trọng. Ở trong địa hạt Cung Tiến yêu thích nhất: âm nhạc Cung Tiến cũng rất là duy lý. Những bài hát đầu tay như Thu vàng, Hương Xưa, Nguyệt Cầm, Hoài Cảm... dù được yêu thích đến thế nào chăng nữa, đối với Cung Tiến, vẫn chỉ là bài tập - một giai đoạn cần phải vượt qua…”
Phong cách sống của một nghệ sĩ như Cung Tiến là như vậy. Hình như có một bài thơ của một người bạn viết về Cung Tiến với sự chia sẻ lớn lao. Tình cờ tôi có đọc một bài thơ của tác giả Phạm Nguyên Vũ. Ông là bạn thân với Cung Tiến, đi du học ở Úc thuộc thế hệ đầu tiên và có đăng thơ trên tạp chí Sáng Tạo bộ cũ. Thơ của ông có nét hồn nhiên của tuổi trẻ, có nét khai phá của những bước chân bước đến đầu tiên nhưng ít có chất làm dáng trí thức mà lại có sự chân thực của người hăm hở đi tìm kiếm nét mới lạ cho thi ca của mình. Bài thơ của ông viết tặng bạn là “Và Cung Tiến“:
“Nhạc của hồn ta phải không
Hay của những đêm
xa gia đình nhớ điên cuồng
mỗi một bóng cây là
tiếng thì thầm bạn hữu
nhạc của hồn ta hay nơi đây
của đêm sao đầy mắt
đầy linh hồn
ôi đêm tỉnh dậy nghe
trong khuya yên lặng nên
giọng lời nghe từng tiếng
em nào có biết đâu
mỗi giòng nhạc của anh hay của bạn anh
đều nói những ngày mai chưa đến
em nào tin sự êm đềm
và đau khổ ngày qua
như chẳng tin đời ta
có hai kẻ đọa đầy
bằng lên tiếng thay cho người khác.”
Với Cung Tiến, trong đời thường và trong âm nhạc, thấp thoáng những tình bằng hữu, những tâm giao tri kỷ tri âm. Từ lúc thiếu thời, ông làm nhạc để tặng bằng hữu, để bạn bè cùng một nòi nghệ sĩ ”ngứa cổ hót chơi”. Chính những bản nhạc như Hoài Cảm, Hương Xưa, Thu Vàng để tặng bạn hữu, những Đỗ Tuấn, Duy Trác,... để những giọng ca tài tử trong giới sinh viên học sinh này truyền đi những cung bậc âm thanh chuyên chở theo những tâm cảm bồng bềnh lãng mạn. Rồi ở tuổi lớn hơn, ông đã phổ nhạc từ thơ của những thi sĩ mà ông kính trọng và thương mến và trong đó có tất cả bạn hữu của ông. Như với Thanh Tâm Tuyền, ông phổ nhạc từ thơ của bạn và từ cung bậc âm thanh đã diễn tả được những thông điệp văn chương mà thơ Thanh Tâm Tuyền chất chứa.
Cũng như, với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mặc dù là thầy dạy Việt văn ở Chu Văn An nhưng ông vẫn coi Cung Tiến là bạn vong niên tri kỷ hơn là đối xử như tình thầy trò. Và nhạc sĩ Cung Tiến, trong sự kính trọng cũng coi nhà thơ khoáng đạt này như một người hiểu biết được tâm cảm của mình. Phổ bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương từ thơ Thôi Hiệu, nhạc sĩ đã mang lại từ những âm điệu những chuyên chở của một thế thời đảo điên, bạn bè tản lạc. Dịch Đường Thi, một bài thơ nổi tiếng mà ngàn đời xưng tụng, từ tâm cảm của một người cảm xúc giữa cảnh tang thương của đất nước, thi sĩ họ Vũ đã tạo thành một bài thơ mà có người cho rằng còn tuyệt vời hơn nguyên tác nữa. Rất nhiều người đã dịch và cũng có những bản dịch hay được truyền tụng thí dụ như của Trần Trọng Kim, Tản Đà, Ngô tất Tố, Trần Trọng San,... nhưng, trong cái cảm xúc của thời thế, của những cuộc bể dâu thay đổi thì thơ dịch của Vũ Hoàng Chương làm người đọc cảm động nhất, và người đọc cảm động nhất là Cung tiến đã mang thơ để từ đó tạo những nhịp cầu làm người nghe, người đọc hay từ nhạc sĩ đến thi sĩ cùng hòa đồng với nhau những nỗi niềm của một thời đại đặc biệt của dân tộc của đất nước.
Có nhà văn đã phát biểu rằng ca khúc của Cung Tiến đều là những bản dịch từ thơ sang nhạc. Mỗi một người có nhận định riêng và theo cảm quan cá nhân nhất là thơ và nhạc hình như có rất nhiều liên quan với nhau đến nỗi có khi trở thành một.
Chính nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã có nhận xét ấy. Ông còn nói đó là rượu cất từ trái nho chứ không phải là rượu ngang. Nhạc sĩ Cung Tiến là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt ngoài viết nhạc ông còn là một dịch giả văn chương và là một chuyên gia kinh tế nhưng ông yêu thơ. Lời ca của ông có một vẻ gì đó như được chiết ra từ thơ, thơ của những người ông đã đọc, thơ của trời đất và của chính tâm hồn ông.
Tôi nghĩ điều đó hiển nhiên và nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã có một nhận xét chính xác về nhạc sĩ nhà văn Cung Tiến.
...Xem tiếp phần 2
Nguyễn Mạnh Trinh
Thạch Chương - Cung Tiến
| Nguyễn Mạnh Trinh
1.
Có người hỏi thơ và nhạc có gì liên quan với nhau không? Hình như trong sự gợi ý, thơ và nhạc có tác dụng hỗ tương với nhau, nhạc tháp cánh cho hồn thơ và thơ làm nồng nàn hơn cho ý nhạc. Một người đã học âm nhạc từ nhỏ, đã làm thơ, đã dịch thơ và yêu thơ, đã có những lời nhạc đầy chất thơ lại có lúc liên tục phổ nhạc những bài thơ của các thi sĩ nổi tiếng và đã tạo thành những sáng tác độc đáo đầy chất sáng tạo. Ông lấy cảm hứng từ các thi sĩ khác dù những ca từ của những bản nhạc đầu tay đẫm chất thơ. Người ấy là nhạc sĩ Cung Tiến tác giả của những Hương Xưa, Thu Vàng, Hoài Cảm, những bản nhạc sáng tác từ thuở còn học trò nhưng lại có đời sống âm nhạc trường cửu.
Mặc dù Cung Tiến là một tên tuổi lớn của âm nhạc Việt Nam, nhưng ông cũng là một tác giả có nhiều đóng góp vào hai mươi năm văn học miền Nam và văn học ở hải ngoại với bút danh Thạch Chương.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/CungTien2_1439191623.jpg
Quả thực, ông là một vóc dáng nghệ sĩ đa diện. Là dịch giả, người viết truyện ngắn, người phê bình văn học giới thiệu các trào lưu văn học thế giới, với tên tuổi là Thạch Chương. Là người viết ca khúc, soạn hòa âm, viết nhạc giao hưởng với tên tuổi Cung Tiến. Ông cũng là một nhà phân tích và nghiên cứu kinh tế, đã du học ở Úc, rồi sau du học và tốt nghiệp tại trường đại học danh tiếng Cambridge ở Anh. Ông cũng còn là một người hoạt động rất tích cực của phong trào tranh đấu cho nhân quyền International Federation of Human Rights. Trong thập niên 1980. Ông đã gửi tên tuổi những văn nghê sĩ Việt Nam bị cầm tù bởi chính quyền Hà Nội đến các tổ chức, các phong trào quốc tế để thúc đẩy nhà cầm quyền Việt Nam phải thực hiện đúng những cam kết trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc trả tự do cho những người làm văn học nghệ thuật của chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Bắt đầu với tên tuổi Thạch Chương, ông là một dịch giả và là người đã chuyển dịch sang Việt ngữ hai danh phẩm văn chương quốc tế là “Một ngày trong đời Ivan Denisovitch” của Alexander Solzhenitsyn và “Hồi Ký viết dưới hầm" của Fyodor Dostoyevsky.
Dostoyevsky là một trong những đại gia của tiểu thuyết Nga trong thế kỷ 19, đã mang những triết lý từ cảm xúc trong những tác phẩm mổ xẻ và phân tích làm nổ bùng ra những luận đề sâu sắc về tâm lý, chính trị, tôn giáo và xã hội. ”Hồi ký viết dưới hầm” là một tác phẩm viết về chủ đề của con người phải chịu đựng những thống khổ nội tâm, của những nỗi u uẩn của kiếp nhân sinh. Tác phẩm này là một bắt đầu của sự nghiệp văn học lừng lẫy của Dostoyevsky và cũng là cao điểm của văn chương Nga và coi như một tác phẩm “classical" của nhân loại.
Còn Alexander Solzhenitsyn, giải Nobel văn chương năm 1970, người đã bị tống xuất khỏi Nga đi lưu vong vì chống đối lại chính sách của Stalin. Với “Một ngày trong đời Ivan Denissovitch” tác phẩm lột trần chế độ toàn trị ở Nga xô Viết dưới thời độc tài Stalin với tất cả những kỹ thuật và chính sách nhằm hạ thấp giá trị con người xuống hàng súc vật…
Tác giả Thạch Chương hay nhạc sĩ Cung Tiến đã có chủ đích chính trị khi chuyển ngữ tác phẩm của Solzhenisyn. Một người đã bị trục xuất khỏi đất nước của mình vì ý hướng tự do dân chủ trong văn chương đã được giới thiệu trong thời điểm ấy như một trào lưu nhân loại. Tác phẩm của Solzhenitsyn là một tác phẩm làm kinh hoàng người đọc nhất được in ở Liên Xô. Nó còn làm ảnh hưởng đến tình hình chính trị của Liên Xô nữa. Ông vạch trần một xã hội mới của một thế giới mới mà trong một phần tư thế kỷ, Stalin đã tạo ra một hệ thống trại tập trung khổng lồ. Mà tất cả người dân Nga đã phải chịu ảnh hưởng dù trực tiếp hay gián tiếp.
Với thi ca, ông là người đọc và đã giới thiệu nhiều thi sĩ nổi tiếng của thế giới. Ông cũng thường dịch thơ và đăng rải rác trên các tạp chí văn học. Thí dụ tôi đã đọc bài dịch thơ từ Federico Garcia Lorca, bài ”Bài ca khóc Ignacio Sanchez Mejias“ có những câu thơ gợi nhiều liên tưởng và cảm xúc. Federico Garcia Lorca được tôn xưng là một nghệ sĩ vĩ đại của Tây Ban Nha trong thế kỷ 20 sống trong thời kỳ của tướng Franco. Còn Ignacio Sanchex Mejias là một bạn thân của ông ; là một người đấu bò nổi danh của xứ Andalusian. Bài thơ gồm bốn đoạn và trong đó có những câu được dịch bởi Thạch Chương, đoạn III Thể xác còn đây:
“Phiến Đá là một vầng trăng nơi những giấc mơ hiền than thở
Không một dòng nước uốn quanh và những cây tùng bách giá băng.
Phiến đá là một cánh vai trần để chở đi thời gian.
Với những cây nước mắt, những dải băng và những tinh cầu.
Tôi đã thấy những trận mưa xám chạy dài theo những đợt sóng
Giơ cao lên những cánh tay ngọt ngào lỗ chỗ
Để không cho phiến đá duỗi dài với được.
Phiến đá chặt tay chân ra thành từng mãnh mà không thèm hút máu.
Bởi phiến đá đi lượm những hạt giống của sợi mây…
… Tôi muốn họ chỉ cho tôi những con đường nào ra thoát
cho vị tướng soái mà tay chân thần chết đã trói buộc
Tôi muốn họ chỉ cho tôi những giọt lệ nào như một dòng sông
Có những sợi mây hiền lành và những bến bờ sâu thẳm
Để ẵm đi thể xác của Ignacio và để chàng chìm xuống
Không còn nghe bên tai những hơi thở trùng điệp của con bò rừng
Để xác chàng chìm sâu vào đấu trường tròn của vầng trăng...”
Ở một mặt khác, Thạch Chương, người viết truyện ngắn có những khám phá mới về bút pháp, về những ý tưởng là kết quả của những suy tư của một người luôn đi tìm kiếm. Truyện ngắn của ông có vóc dáng về những nhân vật được phác họa khá lạ lùng, của một không gian thời gian nào lửng lơ giữa cảm giác và đời sống thực. Cảnh vật, dường như có chất biểu tượng và con người như có gắn liền để tạo thành một tổng hợp văn chương rất riêng. Thí dụ như truyện ngắn “Tinh cầu” trong Tuyển Truyện Sáng Tạo. Một truyện ngắn mà theo tôi có chiều sâu của một suy tư khác lạ với đời thường…
Với bút hiệu Thạch Chương trên các tạp chí văn học như Sáng Tạo, Nghệ Thuật, Văn, Vấn Đề, trước năm 1975 và Đặng Hoàng trên các tạp chí văn học hải ngoại sau 1975 có những bài khảo luận công phu. Ông đã viết về nhà nhân chủng học nổi danh người Pháp Claude Levi - Strauss cha đẻ ra Cơ cấu Luận (Structuralisme), về nữ tiểu thuyết gia người Anh Virginia Woft tác giả của những tiểu thuyết như “The Waves” hay “Between the Acts” và đã tự tử trên dòng sông và không tìm được thi thể…
Ông cũng đã viết để giới thiệu Albert Camus trong Sáng Tạo bộ mới xuất bản vào tháng 9 năm 1960. Đến nay, khi đọc lại vẫn còn thấy nhiều điểm thích thú. Một nhà văn hiện sinh vừa qua đời và đúng thời điểm ấy, Thạch Chương giới thiệu:
”Giữa hoàn cảnh xã hội lạc loài của nước Pháp hậu chiến, giữa khí hậu trí thức bi quan mà phái hiện sinh ngự trị, giữa những tiếng để dọa phá hủy của trường siêu thực, và trong viễn ảnh một mùa đông tăm tối của Đệ Tam Quốc tế: Albert Camus, một hình bóng trơ trọi hiện lên như một tia nắng ấm hy vọng của Âu Châu. Tôi vừa nói: một hình bóng trơ trọi - bởi Camus không đại diện cho một hàng ngũ nào, không Cộng sản, và cũng không hẳn là người Pháp: một kẻ lưu vong với một triều đình đã mất.
Sau cái chết đầy “phi lý” cách đây mấy tháng, Camus đã để lại đằng sau mình hai tập triết luận, mấy tập truyện, một tập đoản văn, dăm vở kịch, một ít tạp luận và một số dịch bản, phóng tác, thời sự: tất cả dựng lên như lời Pierre Simon, một mốc đường cho một chủ nghĩa nhân đạo thực chứng (humanisme positif)...”
Nhà văn Cung Tiến có viết về kinh tế học, ngành học mà ông đã đi du học từ Úc và Anh. Ông là người giới thiệu Club De Rome gồm một số đông các khoa học gia thuộc đủ mọi ngành trên thế giới họp ở thành phố La Mã nêu ra những vấn đề cấp thiết của con người trên hành tinh trái đất mỗi ngày một chật hẹp. Ông đã dịch cuốn sách : “The limits of Growth” thành "Giới hạn phát triển”, là tiếng kêu cảnh báo loài người trước những hiểm họa sắp tới. Trong cuốn sách này, những mục tiêu cũng như cơ cấu của một nền kinh tế toàn cầu của cuối thập niên 60 được phác họa. Vào những năm của thập niên 70, Cung Tiến còn dịch một tác phẩm khác tiếp theo của Club De Rome, cuốn “The turning Point of Mankind” – Chỗ rẽ của nhân loại. Đây là những ý kiến có ảnh hưởng nhiều đến cộng đồng thế giới. Bản dịch của Cung Tiến được đăng trên tập san Quốc Phòng, coi như một tài liệu cần thiết để nghiên cứu về chiến lược áp dụng cho quốc gia Việt Nam.
Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến trong vai trò của một chuyên viên kinh tế có tham chính và là một thành viên của nội các đệ nhị Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975. Ông là thứ trưởng kiêm Tổng Giám đốc Kế Hoạch cho ông Tổng trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Sau năm 1975 ông là chuyên viên kinh tế của nghiên cứu và phân tích của Department of Economic Security của tiểu bang Minnesota. Hiện ông đã về hưu.
Cung Tiến là người yêu thơ và sống với thơ. Trong vai trò của một người nhận định văn học ông có viết nhiều về thơ và những nhận định của ông thường là những khám phá mới bắt nguồn từ những cảm nghĩ chân thành nhưng sâu sắc.
Tôi chỉ đọc được một vài bài. Thí dụ như bài viết ”Sự chán chường trong phê bình văn nghệ” đăng trên Sáng Tạo bộ mới số 1. Từ những nhận định của nhiều người kẻ chê người khen về thơ Thanh Tâm Tuyền, ông muốn đi tìm một khuôn mẫu phê bình và nhận định vượt qua được những thiên kiến chủ quan.
Cung Tiến viết ”Và cuối cùng, câu hỏi quan trọng hơn cả là đâu là tiêu chuẩn của những tiêu chuẩn đó (và ta sẽ hỏi đến mãi vô cực)!
Đó là những câu hỏi cực kỳ quan trọng... Chỉ khi nào trả lời được, ta mới có quyền đặt bút phê phán giá trị. Cho nên tất cả những công trình đặt định giá trị của mọi nhà phê bình xưa nay Đông Tây, đều theo ý tôi, là những công việc vô lợi, đẫm màu chủ quan, hay là có một thứ khách quan hư ngụy, vô nghĩa. Chúng không cho lòng tin về sự đẹp của ta một lý do vững chắc nào, Chúng giống như những loại mệnh đề tuyên truyền của tôn giáo, những thứ mệnh đề ngầm ấn những quan niệm tiên thiên, siêu việt toàn phi lý (irrationnel). Đau khổ hơn là nếu những từ ngữ đánh giá (termé evaluateurs) đó có thể chỉ là những tiếng hiệu triệu đẫm xúc cảm thì có thực chúng ta đã muôn đời tự lừa dối chúng ta mỗi khi dùng chúng (Mà giây phút nào không đúng).Thế nào là gía trị? Thế nào là chân, là thiện, là mỹ? Đâu là một vài lý do cho lòng tin, một lòng tin nho nhỏ của ta? Câu hỏi ném lên không trung, chỉ sóng gió thầm thì trả lời. Đó là nỗi chán chướng trong việc phê bình văn nghệ hôm nay.”
Nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến ở ngoài đời thường có nhiều giai thoại lý thú về ông. Tôi chỉ nghe người này kể người khác nói. Nhưng có một người bạn thân của ông, nhà văn Phan Lạc Phúc đã kể lại trong Tuyển Tập Tạp Ghi đã viết lại một giai thoại khá vui vui về nhà văn nhạc sĩ Cung Tiến. Ông Phan Lạc Phúc kể:
“Ngày thường gặp Cung Tiến, anh trang nhã thận trọng pha một chút lạnh lùng kiều Ang Lê Cambridge. Nhưng trong những lúc phùng trường tác hí, nhất là khi đã nhậu dăm ba consommation rồi là Cung Tiến phừng phừng bất cần đời. Chúng tôi có thói quen ăn nhậu rồi vào khoảng 10 giớ, 11 giờ đêm là kéo đến Đêm Mầu Hồng. Chủ quán Phạm Đình Chương đã dành sẵn một chỗ ngồi riêng giá biểu riêng cho bạn hữu như đã thành lệ khi Cái Bang đến là Phạm Đình Chương hay Thái Thanh chuyển hướng đề tài. Bữa ấy “cổ kim hòa điệu“ diễn ra hơi dài. Cung Tiến khật khưỡng bước ra sân khấu-gạt người đánh piano ra một bên rồi ngồi xuống dạo Senerade. Cổ kim hòa điệu với nhạc Schubert thì không thể nào “đi” với nhau được nó ngang phè phè. Một khán giả mặc quân phục dù, mũ đỏ chợt bước lên. Anh tiến lại chỗ Cung Tiến đánh đàn và nắm lấy tay. Cung Tiến không nhìn lên, hất tay ra, vẫn tiếp tục dạo đàn và nói ”đi chỗ khác chơi”. Chủ quán Phạm Đình Chương biết là có chuyện vội đứng ra xin lỗi.nhưng không kịp nữa rồi. Một vài tiếng nổ xé tai của chai la de vỡ nổi lên. Một vài người bạn dù cùng đi đã nắm cổ chai la de vỡ kéo lên sân khấu, tất cả khán phòng im bặt - một sự im bặt bất thần và rùng rợn - chỉ còn một mình Cung Tiến vẫn mê mải đánh đàn. Vũ Khắc khoan vội bước ra. Dù đã nhậu sương sương nhưng Vũ Khắc Khoan vẫn còn đủ tỉnh táo để nắm lấy vai người sĩ quan dù mũ đỏ mà nói khẽ ”Anh học trò tôi có phải?” người sĩ quan dù đang hầm hầm sắc giận vội vàng nhìn lại rồi đổi giọng ”Thưa thầy...” Người sĩ quan ấy là môn sinh của họ Vũ, không biết ở Chu văn An hay ở Văn Khoa. Họ Vũ khoác vai người sĩ quan dù và nói ”Thôi… anh em cả” Người đánh đàn say không nhận được việc gì đã xảy ra sau lưng anh. Nếu không có Vũ Khắc Khoan đêm ấy... sự việc sẽ không biết còn diễn biến thế nào...”
Câu chuyện kể của nhà văn Phan Lạc Phúc thật là lý thú. Ở vai trò người bạn thân ông có nhận xét nào sâu sắc về vóc dáng của nhạc sĩ Cung Tiến:
“Có hai con người trong một Cung Tiến. Một con người duy lý, muốn đi đến cùng lý luận, một con người khác duy cảm - muốn thỏa mãn ngay những đòi hỏi của mình... Con người nào ưu thắng trong Cung Tiến? Tôi vẫn nghĩ là con người duy lý. Cung Tiến chỉ “bốc đồng” khi uống rượu say. Bình thường, như đã nói ở trên Cung Tiến trang nhã và thận trọng. Ở trong địa hạt Cung Tiến yêu thích nhất: âm nhạc Cung Tiến cũng rất là duy lý. Những bài hát đầu tay như Thu vàng, Hương Xưa, Nguyệt Cầm, Hoài Cảm... dù được yêu thích đến thế nào chăng nữa, đối với Cung Tiến, vẫn chỉ là bài tập - một giai đoạn cần phải vượt qua…”
Phong cách sống của một nghệ sĩ như Cung Tiến là như vậy. Hình như có một bài thơ của một người bạn viết về Cung Tiến với sự chia sẻ lớn lao. Tình cờ tôi có đọc một bài thơ của tác giả Phạm Nguyên Vũ. Ông là bạn thân với Cung Tiến, đi du học ở Úc thuộc thế hệ đầu tiên và có đăng thơ trên tạp chí Sáng Tạo bộ cũ. Thơ của ông có nét hồn nhiên của tuổi trẻ, có nét khai phá của những bước chân bước đến đầu tiên nhưng ít có chất làm dáng trí thức mà lại có sự chân thực của người hăm hở đi tìm kiếm nét mới lạ cho thi ca của mình. Bài thơ của ông viết tặng bạn là “Và Cung Tiến“:
“Nhạc của hồn ta phải không
Hay của những đêm
xa gia đình nhớ điên cuồng
mỗi một bóng cây là
tiếng thì thầm bạn hữu
nhạc của hồn ta hay nơi đây
của đêm sao đầy mắt
đầy linh hồn
ôi đêm tỉnh dậy nghe
trong khuya yên lặng nên
giọng lời nghe từng tiếng
em nào có biết đâu
mỗi giòng nhạc của anh hay của bạn anh
đều nói những ngày mai chưa đến
em nào tin sự êm đềm
và đau khổ ngày qua
như chẳng tin đời ta
có hai kẻ đọa đầy
bằng lên tiếng thay cho người khác.”
Với Cung Tiến, trong đời thường và trong âm nhạc, thấp thoáng những tình bằng hữu, những tâm giao tri kỷ tri âm. Từ lúc thiếu thời, ông làm nhạc để tặng bằng hữu, để bạn bè cùng một nòi nghệ sĩ ”ngứa cổ hót chơi”. Chính những bản nhạc như Hoài Cảm, Hương Xưa, Thu Vàng để tặng bạn hữu, những Đỗ Tuấn, Duy Trác,... để những giọng ca tài tử trong giới sinh viên học sinh này truyền đi những cung bậc âm thanh chuyên chở theo những tâm cảm bồng bềnh lãng mạn. Rồi ở tuổi lớn hơn, ông đã phổ nhạc từ thơ của những thi sĩ mà ông kính trọng và thương mến và trong đó có tất cả bạn hữu của ông. Như với Thanh Tâm Tuyền, ông phổ nhạc từ thơ của bạn và từ cung bậc âm thanh đã diễn tả được những thông điệp văn chương mà thơ Thanh Tâm Tuyền chất chứa.
Cũng như, với thi sĩ Vũ Hoàng Chương, mặc dù là thầy dạy Việt văn ở Chu Văn An nhưng ông vẫn coi Cung Tiến là bạn vong niên tri kỷ hơn là đối xử như tình thầy trò. Và nhạc sĩ Cung Tiến, trong sự kính trọng cũng coi nhà thơ khoáng đạt này như một người hiểu biết được tâm cảm của mình. Phổ bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương từ thơ Thôi Hiệu, nhạc sĩ đã mang lại từ những âm điệu những chuyên chở của một thế thời đảo điên, bạn bè tản lạc. Dịch Đường Thi, một bài thơ nổi tiếng mà ngàn đời xưng tụng, từ tâm cảm của một người cảm xúc giữa cảnh tang thương của đất nước, thi sĩ họ Vũ đã tạo thành một bài thơ mà có người cho rằng còn tuyệt vời hơn nguyên tác nữa. Rất nhiều người đã dịch và cũng có những bản dịch hay được truyền tụng thí dụ như của Trần Trọng Kim, Tản Đà, Ngô tất Tố, Trần Trọng San,... nhưng, trong cái cảm xúc của thời thế, của những cuộc bể dâu thay đổi thì thơ dịch của Vũ Hoàng Chương làm người đọc cảm động nhất, và người đọc cảm động nhất là Cung tiến đã mang thơ để từ đó tạo những nhịp cầu làm người nghe, người đọc hay từ nhạc sĩ đến thi sĩ cùng hòa đồng với nhau những nỗi niềm của một thời đại đặc biệt của dân tộc của đất nước.
Có nhà văn đã phát biểu rằng ca khúc của Cung Tiến đều là những bản dịch từ thơ sang nhạc. Mỗi một người có nhận định riêng và theo cảm quan cá nhân nhất là thơ và nhạc hình như có rất nhiều liên quan với nhau đến nỗi có khi trở thành một.
Chính nhà văn nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã có nhận xét ấy. Ông còn nói đó là rượu cất từ trái nho chứ không phải là rượu ngang. Nhạc sĩ Cung Tiến là người có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt ngoài viết nhạc ông còn là một dịch giả văn chương và là một chuyên gia kinh tế nhưng ông yêu thơ. Lời ca của ông có một vẻ gì đó như được chiết ra từ thơ, thơ của những người ông đã đọc, thơ của trời đất và của chính tâm hồn ông.
Tôi nghĩ điều đó hiển nhiên và nhà văn Nguyễn Đình Toàn đã có một nhận xét chính xác về nhạc sĩ nhà văn Cung Tiến.
...Xem tiếp phần 2
Nguyễn Mạnh Trinh