PDA

View Full Version : Hành quân Biệt kích Rapid fire



Longhai
08-06-2015, 09:31 PM
Hành quân Biệt kích Rapid fire

David C. Spencer


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/LLDB_1438967614.jpg

Lời nói đầu : Hai toán biệt kích bị hỏa lực địch đàn áp nhưng chỉ cứu được một toán. Một quyết định khó khăn phải làm.

Minh Thạnh là làng nhỏ bao bọc trong một khu rừng sao su bát ngát, từng hàng, từng hàng cây cao su bao quanh. Gần đó có một trại Lực Lượng Đặc Biệt do một toán A trấn đóng, được xây dựng dưới những rặng cây cao. Về hướng Bắc và hướng Đông căn cứ là những cánh rừng cao su mênh mông. Về hướng Tây và hướng Nam, có những khoảng đất trống trải với cỏ tranh và những bụi cây rộng lớn.

Khu đồng trống, cỏ tranh rất dễ bị lầm lẫn. Trông có vẻ phẳng nhưng có chỗ cỏ tranh chỉ cao hơn đầu gối, chỗ khác lại cao hơn đầu người. Những bụi cây lớn, thực ra là những khoảnh vườn trồng cây và bụi rậm.

Những cánh đồng như thế có thể che dấu một đạo quân. Trong mùa Hè và mùa Thu năm 1967, có tin đồn và tin tình báo cho biết Trung đoàn 271 VC đang hiện diện trong khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Giữa tháng Mười, 1967, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 28, Sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ mở cuộc hành quân tảo thanh, và họ xác nhận nguồn tin tình báo là đúng (sự hiện diện của Trung đoàn 271 VC). Tiếp theo các đơn vị Hoa Kỳ mở hành quân truy kích đám quân VC ra khỏi vùng trách nhiệm. Rồi thì một trận đánh lớn xẩy ra, có thể đơn vị Hoa Kỳ bị rơi vào ổ phục kích, các Đại đội tác chiến cùng với ban chỉ huy Tiểu đoàn 2, Đại đội chỉ huy Công vụ bị tổn thất nặng.

Trong số những Quân nhân tử trận có Trung tá Terry de la Mesa Allen, ông ta là con trai của vị Tư lệnh Sư đoàn 1 BB Hoa Kỳ trong trận Thế chiến thứ hai (The Big Red 1), và Thiếu tá Donald W. Helleder, tốt nghiệp trường Võ bị West Point, đã được chọn trong đội tuyển Football Quốc gia (to con), và nhiều thanh niên trẻ Hoa Kỳ.

Tiếng vang của trận đánh vẫn còn chấn động, mặc dầu Trung đoàn 271 VC đã rút về nơi ẩn náu. Những toán Viễn thám của LLĐB và Sư đoàn 1 BB/HK lùng kiếm Trung đoàn địch không ra. Dường như chúng biến mất trong không gian.

Một nhiệm vụ thám sát đặc biệt được giao phó cho B-36 LLĐB, qua một loạt hành quân Rapid Fire bắt đầu từ tháng tám năm 1967 với Rapid Fire I (1) kéo dài đến Rapid Fire IX (9) trong tháng Năm 1968.

Từ lúc ban đầu hành quân Rapid Fire, toán biệt kích chúng tôi thuộc B-36 LLĐB gồm có : tôi, Binh nhất Patrick Wesson, Binh nhất William “Billy” Miller, và ba người lính đánh thuê người Miên, Đại Minh, Song (“Big Cowboy”), và “Old Man”. Trong tháng Mười, chúng tôi được lệnh thám sát khu vực Minh Thạnh trong hành quân Rapid Fire II. Hai toán biệt kích sẽ xâm nhập cùng lúc, toán chúng tôi được thả xuống gần ngôi làng. Toán biệt kích của Trung sĩ Wallace “Walt” Handwerk và toán của tôi, sẽ vào vùng địch để kiểm chứng sự “đánh hơi”. Việc này do phi cơ lấy trong không khí để tìm hóa chất methane thải ra từ những nguồn hữu cơ: người, vật, thảo mộc, dù sống hay đã chết. Mặc dầu với sự tiến triển của khoa học, vẫn cần có người ở dưới đất, vào vùng kiểm chứng.

Nhận được lệnh hành quân, chúng tôi kiểm soát lại ba lô, dụng cụ đem theo trước khi lên đường xâm nhập vào khu vực xung quanh làng Minh Thạnh. Chúng tôi cẩn thận xem lại những dụng cụ quan trọng như điạ bàn, bản đồ, gương cấp cứu để chỉ điểm cho máy bay.

Tất cả đơn vị tham dự hành quân, trong đó có toán biệt kích chúng tôi, được phi cơ vận tải C-123 đưa đến trại LLĐB Minh Thạnh vào sáng hôm sau. Trong lúc các dân sự chiến đấu cùng với các cố vấn Mũ Xanh của họ lo thiết lập căn cứ hành quân, dựng lều, căng hàng rào kẽm gai, đào công sự phòng thủ, hầm vệ sinh, v.v... hai toán biệt kích A-361, A-362 lên đường thám sát.

Toán A-361 dưới quyền toán trưởng Pat “Hulk” Martin khám phá ra một binh trạm của VC và bị địch truy kích. Toán biệt kích chạy đến một hố bom làm chỗ chống cự với địch cho đến khi trực thăng võ trang cùng với trực thăng cấp cứu đến, dùng dây cấp cứu McGuire câu về căn cứ. Toán A-362 của Damien Kowaleski xâm nhập mà không bị địch phát giác. Toán biệt kích tìm thấy một binh trạm cỡ lớn của địch có nhiều đường mòn ra vào. Nhiều đường mòn nằm gần nhau, không thể nằm lại để dò thám, nên trưởng toán Kowaleski xin trực thăng đến đem về.

Toán biệt kích của tôi cũng thuộc A-362, biệt danh “Alice”, lên đường xâm nhập lúc 1 giờ chiều ngày hôm sau. Cấp chỉ huy đã kẻ một lằn ranh giới, toán của tôi có nhiệm vụ thám sát khu vực từ lằn ranh lên hướng bắc, toán biệt kích A-361 của Handwerk sẽ dò thám về hướng Nam.

Tôi ra lệnh cho toán viên di chuyển chậm, cẩn thận, dự trù sẽ vào đến khu vực “đánh hơi” ngày hôm sau để lục soát, kiểm chứng. Sau khi xuống bãi đáp an toàn và báo cho trực thăng dấu hiệu “OK” để họ bay về, chúng tôi di chuyển chừng năm phút đã gặp một đường mòn. Con đường mòn lớn hơn ba bộ (feet), cỏ vẫn chưa chết hẳn, chứng tỏ nhiều người mới di chuyển trên đường vào khoảng vài giờ đồng hồ. Tôi liên lạc với máy bay thám thính đang bao vùng để xin xác nhận chính xác điểm đứng.

Điạ thế khu vực rất khó do thám, Cỏ tranh không đủ rậm để che chở toán biệt kích và cũng khó quan sát, chỉ khi nào đối tượng đã đến thật gần mới trông rõ, lúc đó đã quá muộn. Chúng tôi di chuyển ra nơi khác, được khoảng chừng năm mươi thước lại gặp một đường mòn khác cũng rộng rãi, vừa có người đi qua như con đường trước. Chúng tôi tạm dừng, không phải để dò thám mà để canh chừng có địch quân theo dõi. Rồi một đường mòn khác... đường khác. Chúng tôi tìm thấy tất cả bẩy con đường mòn trong khu vực thám sát.

Cuối cùng, toán biệt kích đến một khu rừng rập lúc trời sắp tối. Chúng tôi tìm chỗ nghỉ qua đêm, gần con đường mòn để dò thám. Tôi lấy cần antena tự chế để liên lạc với đài tiếp vận trên núi Bà Đen, chợt hai tên VC xuất hiện trên con đường mòn đi ngang qua chỗ toán biệt kích đang ẩn nấp. Họ không đi song song để nói chuyện, tên đi trước thấp hơn, mặc quần short, áo mầu sậm, đội trên đầu cái nón đã tả tơi không còn hình dáng, vai đeo khẩu súng AK-47. Tên đi sau cao hơn, mặc quần short mầu sậm, áo xám, cầm khẩu Mauser 98K.

Hai tên VC đi từ hướng Tây nam lên, họ đi đứng tự nhiên trong “giang sơn” của họ. Tên đi sau bỗng dừng lại nhìn về phiá bụi cây toán biệt kích đang núp. Chúng tôi có thể bắn gục hết cả hai, nhưng nhiệm vụ của toán biệt kích là dò thám, tránh đụng độ. Tôi báo lên máy bay quan sát Smokey.

- Chúng tôi bị hai tên VC trông thấy.

- Anh có chắc chắn không ?

- Hai bên chạm trán nhau gần lắm, tôi có thể nhổ nước miếng trúng nó...

- Vậy thì các anh nên rút

Chiếc máy bay quan sát cho chúng tôi tọa độ một bãi đáp gần đó, đúng lúc tôi nghe có nhiều tiếng người nói lớn cách chỗ trú ẩn khoảng năm mươi thước, rồi tiếng bình bịch, sau này tôi mới nhận định ra tiếng địch quân bỏ ba lô xuống đất để giao tranh.

- Nhiều tiếng người nói cách chỗ tôi chừng năm mươi thước về hướng Bắc.

- Chạy, đừng bước chậm chạp.

Tôi đeo ba lô lên vai, chỉ tay về hướng tây nam nơi có bãi đáp, rồi nói với toán viên.

- Nhanh lên.

Tôi dẫn đầu, mọi người chạy theo sau. Và có tiếng địch quân đuổi theo phiá sau. Tôi ra lệnh cho mọi người tiếp tục chạy, còn tôi đứng lại gài quả mìn Claymore, rôi chạy theo sau. Trong khi đang kéo sợi dây điện để bấm quả mìn, người lính Miên tên Đại Minh vẫn còn đứng chờ tôi, quạt một băng đạn vào một bụi cây.

Tôi vội vàng xách quả mìn chạy theo Đại Minh. Ra gần đến khoảng đất trống trải, tôi thấy toán biệt kích đang bố trí sau hàng cây sát bãi đáp trực thăng. “Old Man” la lên một câu tiếng Miên, đồng thời nổ súng bắn về phiá đằng sau tôi và Đại Minh. Trông thấy gần đó có một ụ đất nhô lên cao, tôi la lớn cho mọi người biết rồi cùng Đại Minh chạy nhanh lại, nhẩy ra đằng sau, đúng lúc súng của địch nổ vang dội khu rừng.

Billy Miller cùng với “Old Man” bắn hàng loạt về hướng Đông bãi đáp, Pat Wesson và “Big Cowboy” thủ phiá Bắc. Quan sát về hướng Tây, thấy có bóng dáng người, tôi quạt khẩu M-16 cho đến khi hết đạn, rồi cho một băng đạn mới vào. Tôi gọi máy bay quan sát Smokey.

- Chúng tôi đã ra đến bãi đáp. Gọi trực thăng võ trang (gunships) và chiếc “slick” để bốc bọn tôi.

- Tôi thấy các bạn tác xạ vũ khí.

- Chúng tôi bị bắn, nên trả đũa.

- Có bị tổn thất gì không ?

- Không.

- Tôi sẽ gọi trực thăng võ trang đến.

- Bạn có cần khói mầu không ? (để đánh dấu mục tiêu)

- Không.

Tôi nghe tiếng máy bay thám thính bay đi rồi “phụp”, một quả đạn khói mầu trắng nổ trên đầu những rặng cây. Tôi nghe tiếng chiếc máy bay quan sát điều động hai chiếc trực thăng Cobra oanh kích mục tiêu.

- Roger. Đánh dọc theo hàng cây từ Đông sang Tây bằng đại liên thôi. Quân bạn ở sát hàng cây ngay mô đất trong khoảng đất trống.

Hai chiếc Cobras bay xà xuống bắn đại liên, chúng tôi ở dưới nghe điếc tai và ngửi thấy mùi khét của thuốc súng. Chiếc máy bay quan sát, trấn an báo cho biết.

- Chiếc “slick” đang trên đường đến đón các bạn.

Chúng tôi nghe tiếng trực thăng đang bay đến, mọi người đều thở ra nhẹ nhõm, mỉm cưới. Chợt có tiếng súng của địch bắn lên ngay trước mũi chiếc trực thăng chở quân. Viên phi công vội vàng đổi hướng 90 độ bay ra khỏi khu vực nguy hiểm. Pat, Đại Minh và tôi lập tức bắn vào những bụi cây nghi ngờ địch đang nấp bắn lên trực thăng.

Qua máy truyền tin, tôi được biết anh chàng phi công trực thăng “lạnh cẳng” than phiền với máy bay quan sát rằng, bãi đáp không được an ninh, và nhỏ hẹp có một cây cao ở giữa. Tôi cho là đúng phần nào, tôi nhìn thấy cây cao đó nhưng vẫn dư sức đáp. Lúc đó địch quân bắn vào ụ đất nơi đám biệt kích đang nấp. Tôi gọi máy bay thám thính.

- Smokey, Smokey. Đây Alice gọi.

- Nói đi Alice.

- Có chuyện gì với chiếc “Slick”?

- Anh ta “lạnh cẳng” vì bị bắn từ dưới đất. Tôi sẽ cho gunships làm bụi tung lên dọc theo hàng cây rồi bảo chiếc “Slick” quay trở lại.

Chuyện này sẽ không bao giờ có. Anh chàng phi công chết nhát tìm đủ cớ để tránh né không xuống bãi đáp. Mặt trời từ từ khuất bóng, chúng tôi biết rằng nguy hiểm sẽ đến vì cấp cứu ban đêm khó khăn hơn nhiều.

Trong khi đó toán biệt kích của Handwerk cũng lâm vào tình trạng nguy kịch. Anh ta đã báo cáo có dấu hiệu hoạt động của địch bên hông lộ trình di chuyển của toán, rồi ở đằng trước. Handwerk yêu cầu cho toán triệt xuất. Sau đó toán biệt kích Handwerk di chuyển đến một bãi đất trống chờ trực thăng đến “bốc”.

Phải có những quyết định nhanh chóng. Địch quân gia tăng áp lực xung quanh bãi đáp của chúng tôi. Trực thăng võ trang Cobra đã phải đánh mấy tours để làm giảm áp lực của địch. Nếu không có mấy chiếc này, địch sẽ tràn ngập vị trí của toán biệt kích dễ dàng.

Lúc đó tôi nghe được giọng nói của viên phi công trên chiếc máy bay thám thính nói với trưởng toán biệt kích Handwerk. Mà sau này nghĩ lại chưa chắc tôi dám quyết định. Anh ta cho Handwerk biết tình trạng của toán tôi. Trưởng toán biệt kích Handwerk bình tĩnh trả lời.

- Tôi không cần cấp cứu. Cứ lo cho toán kia. Chúng tôi tự lo liệu lấy, lẩn tránh địch quân. OK ? Chúc may mắn.

- Tôi hiểu.

Tôi đưa cho Pat cái đèn pin chiếu lên trời để cho máy bay nhận rõ vị trí toán biệt kích. Trong khi máy bay thám thính bao vùng tiếp tục điều động các phi tuần trực thăng võ trang Cobra lên đánh giải vây cứu toán biệt kích, đại úy Swain, quyền chỉ huy B-36 LLĐB cũng ngồi trên một chiếc trực thăng khác bay lên. Ông ta hỏi viên phi công lái máy bay thám thính tình trạng của toán biệt kích.

- Cũng như một trận Little Bighorn nhỏ (trận này lữ đoàn 7 Kỵ Binh Hoa Kỳ bị người Da Đỏ tiêu diệt).

- Xin nói lại cho rõ. (Đại úy Swain)

- Bọn VC đang bao vây bãi đáp cũng như người Da Đỏ bao vây Tướng Custer.

Đại úy Swain nhanh chóng liên lạc với thiếu tá Hatfield, chỉ huy Đại đội trực thăng (Lục quân Hoa Kỳ có đơn vị trực thăng) cơ hữu.

- Big Daddy. Đây là Marauder (biệt danh của Đại úy Swain, tên một đơn vị BĐQ/HK trong trận Đệ nhị thế chiến)

- Đây là Big Daddy.

- Ông phải ra lệnh cho phi công trực thăng của ông “vào”, chúng tôi không còn thời gian.

- Không được. Tôi sẽ không để cho phi công của tôi vào.

- Nếu vậy tôi sẽ đưa chiếc C&C (trực thăng chỉ huy, ông ta đang bay) này “vào”.

Đại úy LLĐB Swain, nói là làm... không nói “lung tung”. Thiếu tá Hatfield vội lên tiếng.

- Không được. Làm chuyện gì cũng phải đúng thủ tục.

- Tôi không thể để mất binh sĩ của tôi.

Viên phi công “gà chết” chắc cũng nghe được lời đối thoại trên hệ thống truyền tin. Anh ta yêu cầu toán biệt kích di chuyển đến một bãi đáp khác. Tôi nói Pat tiếp tục chiếu đèn pin lên trời để các phi cơ nhận ra vị trí quân bạn. Trong toán biệt kích Pat (Patrick) Wesson là người lúc nào cũng vui vẻ lạc quan, tin cậy được. Miller có vẻ lo sợ, lên tiếng hỏi “Tôi sẽ chết ở đây ?” Nghĩ đến toán của Handwerk, tôi băn khoăn không biết số phận của họ ra sao. Tôi trấn an anh ta.

- Anh sẽ thoát. Tất cả chúng ta sẽ được cứu.

Mấy người biệt kích Miên, không hiểu, nhưng thấy nét mặt vui của Miller, họ cũng lên tinh thần. Đại Minh nói với tôi “Trực Thăng”. Trong khi đó, hai Trung sĩ LLĐB “chứng tỏ” tình chiến hữu, lo lắng cho toán biệt kích ở dưới. Trên chiếc trực thăng chỉ huy (C&C), Trung sĩ Paul Grillo, y tá nhưng rất can đảm, gốc rễ từ bờ biển miền Đông Ý Đại Lợi, rút khẩu Colt-45 ra chỉa vào đầu viên phi công. (Vào bốc toán biệt kích ! Nếu không chúng ta cùng chết !).

Trong trung tâm hành quân, Trung sĩ nhất Ernie Snyder tập họp một đơn vị đi tiếp cứu, trang bị đại liên M-60, M-79 và M-16, sẵn sàng lên đường. Đúng lúc đó, trên máy truyền tin Thiếu tá Hatfield nhượng bộ, ông ta nói với Đại úy LLĐB Swain.

- Thôi được, để đích thân tôi vào.

- Cám ơn và chúc may mắn. (Đại úy Swain)

Thiếu tá Hatfield gọi toán biệt kích.

- Tôi đang ở hướng Nam của bạn. Tôi trông thấy đèn của bạn. Tôi tắt-mở đèn bay, bạn nhìn thấy cho biết.

Tiếng trực thăng nghe rõ dần rồi dèn dưói bụng trực thăng tỏa ánh sáng làm lóe mắt mọi người, cả VC. Chúng tôi nhanh nhẹn leo lên trực thăng. Tôi la lớn cho nhân viên phi hành.

- Dọt lẹ !

- Mọi người lên hết chưa ?

- Đủ cả rồi. Dọt lẹ đi !

Hôm sau chúng tôi được tin mừng, toán biệt kích của Handwerk cũng được bốc về an toàn.



Theo tài liệu : David C. Spencer “Rapid Fire Recon...”, Vietnam Magazine, June 1997, pages : 46-52.

Dallas, TX. March 20, 2010.
David C. Spencer
Vũ đình Hiếu (chuyển ngữ)

Longhai
08-20-2015, 09:38 PM
Hành Quân Rapid Fire I


vđh (chuyển ngữ)


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/b36 copy_1440145139.png

Chương trình Rapid Fire do B-36 Lực Lượng Đặc Biệt đề xướng, bắt đầu với hành quân Rapid Fire I, kể từ ngày 5 tháng Chín năm 1967. Chúng tôi đã cho xâm nhập vào vùng hành quân dò thám, bắt tù binh bằng các toán Biệt kích sáu người, Trung đội xung kích Hatchet hai mươi người. Thành phần tham dự hành quân gồm các toán A LLĐB, A-361 và A-362 và các toán Viễn thám thuộc Sư đoàn 1/HK, Sư đoàn 9/HK, Sư đoàn 25/HK, Trung đoàn 11 Kỵ Binh/HK, Lữ đoàn nhẹ 199/HK và lính đánh thuê người Miên, làm việc cho LLĐB/HK.

Mặc dầu đến từ nhiều đơn vị khác nhau, nhưng tất cả đều là các đơn vị Lục Quân Hoa Kỳ nên sự chỉ huy thống nhất, dưới quyền Quân Đoàn II/HK. Quân đoàn này hoạt động trong vùng trách nhiệm của Quân Đoàn III/VNCH.

Một trong những đơn vị Bộ binh Hoa Kỳ, sư đoàn 25 gửi một yêu cầu đến B-36 LLĐB cho một toán Biệt kích vào do thám khu vực “I-99”. Khu vực này có địa thế cao hơn sông Saigon, và mới đây VC đã pháo kích hỏa tiễn 140 ly vào căn cứ của Sư đoàn 25 BB/HK ở Tây Ninh. Vị Sĩ quan trưởng phòng 2 Sư đoàn tin rằng, địch đã đặt dàn phóng trong khu vực đó. Do đó họ yêu cầu cho một toán Biệt kích vào tìm kiếm dấu vết của địch.

Đây là một cuộc hành quân cấp bách, đôi khi không có một lý do vững chắc. Nhiệm vụ này được trao phó cho Trung sĩ Dallas Pridemore, và anh ta chọn những Quân nhân có kinh nghiệm để lập toán Biệt kích. Pridemore mời tôi vào Trung tâm hành quân họp hôm 14 tháng Chín. Như thường lệ, nơi này lúc nào bận rộn người ra vào như tổ ong. Pridemore nói “Tôi cần một toán phó cho một cuộc thám sát, và tôi nghe nói anh là người có khả năng”.

Tôi cũng không buồn hỏi lại ai nói cho anh ta biết về tôi, anh ta muốn làm tôi dễ chịu. Trước đó tôi đã làm Toán phó cho một Trung đội Hatchet dưới quyền chỉ huy của Frank Polk và có lần giao tranh ác liệt với VC khi chúng phản công chống lại trận phục kích của Trung đội Hatchet. Một lần khác chúng tôi bị hỏa lực địch đàn áp khi tấn công một căn cứ của chúng. Nhưng sau đó Trung sĩ Frank Polk bị thương còn tôi muốn tìm một chỗ “im lặng” hơn nên xin vào những toán thám kích.

Trung sĩ Pridemore tiếp tục nói “Toán Biệt kích gồm có : Wesson, Miller, và hai Biệt kích người Miên, một người tên Song, người kia tên là... “Old Man”. Tôi đã biết họ khi cùng phục vụ trong Trung đội Hatchet, Wesson là một người lính trẻ, nhiều kinh nghiệm đời, mới mười chín mà cứ như đàn ông ba mươi tuổi. Miller còn nhỏ hơn Wesson một tuổi, dễ thương vẫn còn vị thành niên. Hai Biệt kích Miên là những người chiến đấu giỏi và rất trung thành. Tôi trả lời Pridemore.

- Đồng ý.

- Tốt. Bây giờ phụ tôi chấm mấy tọa độ pháo binh (hỏa tập tiên liệu).

Nói xong, Pridemore với tay lấy tấm bản đồ. Tọa độ pháo binh, là những mục tiêu chúng tôi chấm sẵn để bắn pháo binh. Nhờ vậy sự yểm trợ sẽ nhanh chóng mà không cần phải điều chỉnh tác xạ. Sau khi nghiên cứu bản đồ hành quân, chúng tôi chọn những chỗ như giao điểm của hai con đường mòn, nơi giòng suối uốn cong thành hình vòng tròn và giao điểm hai trục trên bản đồ.

- Mình gặp nhau tại bãi đáp trực thăng lúc hai giờ chiều để bay thám sát.

Pridemore nói rồi bước ra khỏi Trung tâm hành quân. Đối với anh ta làm việc nhanh, gọn, chuyện tâm sự để khi sau khi hành quân về sẽ tính.

Chuyến bay thám sát bao vùng Chiến khu D là việc thường xuyên, nhưng lần này khu vực “làm việc” của chúng tôi quá rậm rạp, rừng cây bao phủ âm u, chỉ có một bãi đáp nhỏ cho trực thăng. Điều này nguy hiểm, bọn VC có thể đặt người quan sát canh chừng bãi đáp khi toán Biệt kích xâm nhập, và cho người theo dõi từng bước.

Khi trở về, đi ngang qua Hội quán trông thấy Wesson và Miller đang uống bia.

- Đừng vui quá độ, mình sẽ lên đường lúc rạng đông.

- Chúng tôi biết điều đó. Bọn tôi tình nguyện vì biết trong toán Biệt kích có anh.

Tôi chỉ dặn dò sơ sơ Wesson, rồi đi tìm Trung sĩ nhất Pridemore bàn thêm về chuyến xâm nhập sắp tới. Khu vực chúng tôi sắp thám sát, người Việt Nam gọi là “Khu Duc”. Sư đoàn 25 BB/HK đã cho các toán Viễn thám vào nhiều lần nhưng chẳng tìm được dấu vết gì của địch. Do đó họ mới cần đến chúng tôi.

Sau khi hai chúng tôi đã đi sâu vào chi tiết các hoạt động trong vùng địch. Tôi trở về sửa soạn ba lô, dụng cụ của mình sau đó kiểm soát ba lô, hành trang đem theo của hai Biệt kích người Miên. Tôi cảm thấy thoải mái khi đã kiểm soát xong cho ba người, đi tìm “hai ông Tướng” Wesson và Miller. Cả hai Quân nhân Mũ Xanh Hoa Kỳ đang ngồi ăn trong nhà ăn của Không Quân. Khi ăn xong bữa tối, chúng tôi về đến dẫy nhà của họ, kiểm soát hành trang, ba lô của hai người và khuyến cáo phải sẵn sàng để lên đường sớm buổi sáng mai.

Trời hơi lạnh trong buổi sáng sớm nơi bãi đáp trực thăng. Pridemore cho chúng tôi thử lại hành trang bằng cách, đeo ba lô nhẩy lên, nhẩy xuống. Anh ta không muốn nghe tiếng động, và kiểm soát lại điạ bàn, bản đồ, vũ khí, đạn dược mang theo lần cuối. Sau đó cất mũ rộng vành (nón bo, quân Biệt kích không đội nón sắt. Họ trang bị nhe, di chuyển nhanh và không được gây tiếng động) vào trong túi, lên trực thăng, bay lên hướng Bắc.

Viên phi công ra dấu hiệu báo cho Trung sĩ nhất Pridemore biết đã gần đến bãi đáp. Từ trên không nhìn xuống, bãi đáp hiện ra rất rõ. Làn sương sớm che phủ đã bị ánh mặt trời làm tan đi. Người xạ thủ khẩu đại liên M-60 gắn trên trực thăng, hồi hộp mở to mắt ra nhìn xuống quan sát, ngón tay sẵn sàng bóp cò súng. Những Quân nhân Biệt kích không một người nào đùa giỡn.

Chiếc trực thăng đáp nhanh xuống bãi cỏ tranh, không có cây cao, toán Biệt kích nhẩy ra chạy nhanh vào bìa rừng ẩn núp. Chiếc trực thăng bay lên thật nhanh cũng như khi đáp xuống, để lại toán Biệt kích “cô đơn” trong vùng địch kiểm soát.

Chúng tôi quan sát, nghe ngóng xung quanh khu rừng cho đến khi cảm thấy an toàn mới bắt đầu di chuyển. Cuối cùng, Pridemore báo về Trung tâm hành quân cho biết toán Biệt kích đã xuống bãi đáp an toàn, không chạm địch. Một người lính Miên biệt danh “Big Cowboy” cùng với Miller đi đầu. Tiếp theo là trưởng toán Pridemore, người lính Miên “Old Man” mang máy truyền tin, Wesson cùng với tôi đi sau làm hậu vệ. Toán Biệt kích lặng lẽ di chuyển, vừa đi vừa quan sát, nghe ngóng, để ý những dấu hiệu của địch.

Đi được khoảng bẩy mươi thước, “Big Cowboy”, “Old Man” hai người lính Miên ra hiệu nằm xuống. Chúng tôi dừng lại trong thế thủ, nghe ngóng động tĩnh. Hai người lính Miên làm cho mọi người có cảm giác, khu vực có mặt địch quân.

Chỉ vài giây sau, hai người đàn ông xuất hiện nơi hướng bãi đáp trực thăng, di chuyển theo hình chữ Z qua lại đằng sau lộ trình toán Biệt kích vừa đi qua. Họ chỉ còn cách chúng tôi khoảng năm mươi thước, di chuyển nhanh chóng, gần như đã có mục đích gì đó. Toán Biệt kích năm im, theo dõi cho đến khi cả hai biến mất.

Toán Biệt kích từ từ đứng dậy, rồi tiếp tục di chuyển, người biệt kích Miên “Old Man” quay lại nói khẽ với tôi “VC”. Chúng tôi đi thêm khoảng hai tiếng đồng hồ, lúc đó “Old Man” ra dấu cho mọi người biết toán Biệt kích vẫn còn bị theo dõi bởi một tên địch. Tôi thích thú, làm sao anh ta biết, nhưng có linh cảm địch quân lẩn vẩn quanh đây. Chúng tôi tạm dừng chân, bàn gấp tìm cách đối phó. Mọi người đồng ý, để tôi ở lại xem thử tên địch có đi theo toán Biệt kích và sẽ “đụng” nhằm tôi không.

Tôi nằm lại trong một bụi cây bên cạnh lộ trình di chuyển của toán Biệt kích và chờ đợi. Mươi lăm phút sau vẫn không thấy bóng dáng tên VC, tôi bỏ chừng cuộc “phục kích” đi theo toán Biệt kích. Cả nhóm mừng rỡ khi trông thấy tôi.

Người Miên “Old Man” vẫn cho rằng, tên VC có nhiệm vụ canh chừng bãi đáp vẫn còn đó và tôi tin anh ta. Mặc dầu tôi chưa trông thấy tên VC, nhưng chắc anh ta đã cảnh giác, dừng lại ở đâu đó. Chúng tôi tạm nghỉ một chút và cũng để tên VC tìm đến kiếm ăn.

Chúng tôi tiếp tục di chuyển, qua lại những khu vực không có những con đường mòn cắt ngang, mà rất thường thấy trong chiến khu D. Khu vực chúng tôi có nhiệm vụ thám sát không có dấu hiệu hoạt động nào của địch, mặc dầu vẫn biết rằng, không phải chỉ có toán Biệt kích đang hiện diện trong khu vực.

Đến giữa trưa, toán Biệt kích di chuyển đến một dòng suối lớn, rộng khoảng năm mươi bộ (feet), có bờ đất cao hai bên. Ngay hai bên bờ có những bụi tre rậm rạp, có cành rũ xuống suối. Theo lệnh hành quân, chúng tôi phải lục soát một khu vực với góc độ 130, và ngọn suối nằm trên trục di chuyển của toán Biệt kích, phải băng qua. Toán bố trí bên này bờ suối làm thành phần an ninh cho Miller và “Big Cowboy” băng qua bên kia bờ suối.

Trưởng toán Pridemore cùng với “Old Man” đi tiếp theo, tôi canh chừng phía sau, còn Wesson để ý hai bên bờ suối. Sau khi bốn người đã qua được bên kia bờ suối an toàn, Pridemore ra thủ hiệu cho tôi cùng với Wesson băng qua. Tôi quay lại nhìn Wesson, anh ta gật đầu ra dấu cho tôi qua trước.

Tôi từ từ bước xuống dòng suối, nước lạnh như có đá, vừa bước vừa phải tránh những cành tre đã rơi xuống, ngầm dưới mặt nước. Quay lại, tôi trông thấy Wesson cũng vừa bước xuống suối và dường như đang luống cuống, chân bị mắc kẹt giữa đám thân tre. Tôi quay lại đưa tay cho anh ta nắm rồi kéo về hướng mình.

Cả toán gom lại bên kia bờ suối, Trưởng toán Pridemore ra lệnh cho Wesson đi bên phải lộ trình di chuyển, nơi giòng suối uốn quanh và biến mất khỏi tầm mắt. “Big Cowboy” vẫn đi đầu, Miller thủ bên trái. Trong khi đợi Pridemore báo cáo về Trung tâm hành quân, tôi vẫn để ý phía đuôi, bờ suối bên kia, nơi chúng tôi vừa từ đó băng qua suối. “Old Man” cũng đứng nhìn về phía sau như tôi.

Sau khi báo cáo, liên lạc xong, Pridemore ra dấu hiệu cho mọi người bố trí ăn trưa. Tôi lôi phần ăn khô đặc biệt cho các toán Biệt kích ra, đổ nước vào. Trong khi chờ cho đồ ăn nở ra, tôi vẫn để ý quan sát bờ suối bên kia. Người lính Biệt kích Miên “Old Man” ra dấu hiệu cho tôi ngồi lui vào sau một thân cây.

Cả toán Biệt kích bận rộn ăn bữa trưa, tôi chỉ ăn một miếng bánh kem. Mọi người vừa ăn vừa phải quan sát, canh gác, ngoại trừ “Old Man” vẫn dán mắt vào phiá bên kia dòng suối. Một người có kinh nghiệm chiến trường, thường có giác quan bén nhậy, linh tính rất tốt.

Khi mọi người sắp ăn xong, chợt mắt “Old Man” mở to ra, anh ta nhẩy qua gốc cây tôi đang ngồi, chửi thề bằng tiếng Miên, bắn ra một loạt súng. Cùng lúc đạn từ phía bên kia bờ suối bay qua trúng vào thân cây nghe lốp bốp. Tôi chụp khẩu M-16, lúc đó mới biết, khóa an toàn bị kẹt, phải dùng một băng đạn khác gõ vào chốt an toàn.

Pridemore cùng với “Big Cowboy” bắt đầu bắn xuống bờ suối nơi mấy bụi tre. Anh ta gọi lớn “Old Man” đem máy truyền tin đến chỗ anh ta. “Old Man” nhanh nhẹn đem máy truyền tin lại, đưa ống nói cho Pridemore. cả hai nằm dài trên mặt đất. Miller cùng với “Big Cowboy” vẫn tiếp tục bắn vào mấy bụi tre, Wesson cũng nhả đạn qua phiá bên kia suối.

Mấy viên đạn trúng vào thân cây tôi đang nấp. Tôi lăn mình qua gốc cây bên cạnh, quan sát xạ trường, “Old Man” cũng bắn trả đũa về hướng lộ trình chúng tôi vừa đi qua. Nhìn qua bên kia bờ suối, tôi trông thấy mấy bóng người đang chạy về hướng Tây dọc theo giòng suối.

Trưởng toán Biệt kích Pridemore vỗ vào lưng tôi, nói :

- Mình sẽ được trực thăng tới “bốc” bằng dây cấp cứu Maguire (vì khu vực rậm rạp, đang chạm địch, không thể di chuyển đến bãi trực thăng được). Anh đi trước.

- Để cho Wesson và Miller đi trước. Tôi trả lời.

Pridemore lắc đầu, ra lệnh :

- Không. Anh và Wesson đi trước.

Tôi gật đầu đồng ý. Khi nghe tiếng trực thăng trên đầu, Pride more la lên :

- Ném quả khói mầu.

Viên phi công cấp cứu bay trên đầu nhận ra làn khói mầu vàng, bay lại thả dây Maguire xuống. Tôi la lớn gọi “Wesson”. Anh ta ngưng bắn, chạy lại ngồi vào sợi dây. Tôi chạy lại, ngồi vào sợi dây bên kia, trong khi bốn người còn lại bắn cầm chân không cho địch tiến lên.

Bất ngờ, sợi dây vướng vào một cành cây, trong khi đó địch quân bắn lên chiếc trực thăng làm cho chuyên viên “câu người” Wal handwerk trên trực thăng phải chặt dây để cho chiếc trực thăng bay đi. Hai đứa tôi rơi xuống đất. Hú vía, tôi la lớn.

- Chuyện gì vậy ?

- Mình phải di chuyển đến bãi đáp.

Trưởng toán Biệt kích Pridemore trả lời, chỉ tay về hướng Tây nam, rồi ra lệnh cho tôi lên đi đầu, dẫn đường cho toán di chuyển đến một bãi đáp trực thăng khác. Tôi mở nắp địa bàn, định hướng, rồi đi xuống suối nơi dòng suối uốn khúc quanh, rẽ qua một hướng khác.

Khi bước xuống dòng suối, Wesson đứng ngay bên bờ, Pridemore, “Old Man” theo sau, và Miller cùng với “Big Cowboy” đi sau làm hậu vệ. Bỗng nhiên có một lực gì đẩy mạnh tôi về phiá bờ. Nước bắn lên tung toé, khi tôi ngã chìm xuống nước. Gượng dậy để đi tiếp qua bên kia, lúc đó tôi mới trông thấy lửa loé ra từ những đầu mũi súng. Theo bản năng tôi bóp cò khẩu M-16 bắn trả lại.

Trên bờ, Wesson và Pridemore xả súng bắn vào bụi tre lớn phía bên kia bờ, rồi tôi nghe tiếng thân người rơi xuống dòng suối. Tôi vẫn tiếp tục lội bì bõm qua phía bên kia, rồi bám cây leo lên bờ dốc đứng, có bụi tre lớn che chở. Trước mặt là một khoảng tranh lớn, trực thăng có thể đáp. Phần còn lại của toán Biệt kích lội qua sau và cũng đang leo lên.

Chúng tôi quăng quả khói mầu vàng nơi khoảng đất trống làm dấu cho trực thăng, rồi chạy ra khi trực thăng đến bốc. Địch quân không dám tấn công vì có thêm hai chiếc trực thăng võ trang Cobra đang bay vòng vòng trên bãi đáp.

Trở về đến căn cứ, phần thuyết trình của toán biệt kích rất ngắn, vì chúng tôi không tìm ra vị trí đặt hỏa tiễn pháo kích của địch. Tôi nhìn xuống chân, người y tá Miên đang lau chùi vết thương, lấy một miếng kim loại ra. Sau chuyến đi đó tôi được nghỉ gần tám tháng, miếng kim loại tôi vẫn giữ làm kỷ niệm.

Theo tài liệu : David C. Spencer, “Rapid Fire I”, Behind The Line Magazine, 1996, Page : 32-36.


Dallas, TX.
vđh (chuyển ngữ)