PDA

View Full Version : Ký ức làng Cùa



KiwiTeTua
07-29-2015, 12:47 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/langcua_1437525498.jpg


Ký ức làng Cùa
Đặng Văn Sinh

Chương 1

Vào một đêm mùa Hè năm Mậu Ngọ, có ngôi sao băng từ dải Ngân Hà rơi xuống phía đông nam làng Cùa, kéo thành một vệt sáng chói, cong như lưỡi kiếm, kèm theo tiếng nổ rùng rùng như sấm động. Sáng ra dân làng vô cùng kinh ngạc khi thấy dải đất trồng dâu đồng Bìm Bịp bị khối thiên thạch khoét thành một cái đầm lớn, nước đục ngầu, vẫn còn sôi sùng sục....Cái đầm ấy giờ gọi là đầm Ma.

1. Gần trưa ngày mười tư tháng Bảy, Chánh Tổng Khúc Đàm đang xử một vụ tranh chấp đất đai ở làng Bối Khê thì hay tin bà Ba bị đắm đò sông Lăng, sắp đến rằm xá tội vong nhân, già nửa đàn bà con gái làng Cùa kéo nhau sang chợ Lành mua hoa quả, vàng hương, tiền giấy, voi giấy, ngựa giấy và cả chó giấy về cúng cháo thí.

Sông Lăng ngày thường rộng chưa đầy trăm thước, nước trong vắt, có thể nhìn rõ những con cá đồng tiền lượn lờ giữa đám rong đuôi chồn vảy lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Những chú cá măng kìm mõm dài ngoẵng, lỗ mũi phình ra như mũi lợn rừng, lao vun vút tựa tên bắn rượt theo đám đòng đong. Lũ “thảo dân” này có cái đầu quá khổ vì phải vác đôi mắt thô lố, gồ lên, đỏ đòng đọc chẳng khác gì ngọn đèn báo hiệu lâu ngày không được lau chùi trước cửa các tiệm cô đầu. Thỉnh thoảng vào những hôm đẹp trời, dòng nước trong vắt như mắt mèo, sau một cơn mưa bóng mây, bỗng như có phép thần, chuyển sang vàng sẫm rồi đỏ hồng như màu cà chua chín. Khối màu sắc lạ mắt này không ổn định mà cứ chuyển động uốn éo tựa như dải san hô với hàng tỷ xúc tu mềm mại đang đưa đẩy theo nhịp thở của biển. Đám du ngư ấy là loài cá trầm ba sọc từ cửa sông ngược về thượng nguồn, tìm loại rêu ký sinh bên vách đá vôi trên ngọn thác cao nhất của dãy Nham Biền. Cá trầm ba sọc nhỏ bằng bàn tay, toàn thân vàng óng như quả mướp vừa chín hoặc hồng nhạt tựa trái doi rừng, dưới bụng có ba vệt đen mảnh như sợi chỉ, đem tẩm rượu rồi hấp cách thuỷ thì không có một món cao lương mỹ vị nào sánh kịp. Từ lâu lắm, người dân làng Cùa truyền lại cho nhau, chỉ vào những năm loạn lạc hoặc thiên tai mất mùa cá trầm ba sọc mới kéo nhau ngược sông Lăng tìm rêu đá. Đã mấy chục năm rồi, bắt đầu từ cuối tháng Ba, người ta lại được chứng kiến canh tượng trên.

Bây giờ sông Lăng đang mùa lũ. Nước lên ngập lút cả rẻo cồn bên phía làng Nội. Mặt sông mở ra gấp ba bốn lần. Từ trên cao nhìn xuống, con đò ngang giống hệt chiếc lá tre mỏng manh, đơn côi bập bềnh giữa dòng nước chảy xiết. Đó là chiếc thuyền gỗ rạn nứt, bạc phếch, và đầy bất trắc, là vật sở hữu của ông Tình - một lão già chống thuyền thuộc loại siêu đẳng nhưng nát rượu - đã ba mươi năm nay. Không ai biết rõ bệnh tật con thuyền bằng chính ông chủ của nó, nhưng mỗi khi lão Tình đến trình Hội đồng sắc mục xin tiền sửa chữa thì Lý Lượng lại bảo:

- Con đò ấy đóng bằng gỗ thành ngạnh còn tốt chán. Lão chờ ít lâu nữa đến vụ thuế làng sẽ lo.

Lý trưởng hứa ba năm liền nhưng sau vụ thuế chẳng thấy động tĩnh gì. Những chỗ rạn nứt, nước ngấm vào, lão phải trộn vôi cát với mật mía trét tạm. Vậy là con đò vẫn lầm lũi sang ngang. Mỗi chuyến chở được mười hai người kể cả lái thuyền. Dân làng Cùa thích chợ Lành hơn là chợ Cháy dù rằng đi chợ Lành phải qua sông Lăng. Chợ Cháy chính là chợ Huyện, vừa xa nửa ngày đường vừa bị thu thuế cả người bán lẫn người mua. Viên khán thị là cháu tri huyện Cáp Văn Tòng, người làng Vũ La nổi tiếng tham ăn. Thành thử mấy năm qua, bà con các làng ven sông Lăng bảo nhau dạt sang chợ Lành buôn bán, tuy cách sông nhưng chỉ mất một thôi đường. Vậy là cái cửa khẩu sông Lăng ngày càng trở nên sầm uất, nhất là vào dịp tết hoặc hội làng, đình đám.

Hôm ấy, mặt trời lên chừng hai con sào, lái Tình đã đưa được ba chuyến sang sông. Mặc dù dòng nước chảy cuồn cuộn, thỉnh thoảng một luồng gió ngược thốc mạnh chồm tới tưởng có thể nuốt chửng toàn bộ con thuyền cùng đám hành khách mặt vàng như nghệ, nhưng lão vẫn bình tĩnh, môi hơi mím lại, trán lấm tấm mồ hôi, thong thả đưa con đò già nua ra khỏi vùng nguy hiểm. Xong chuyến cuối cùng, lão cắm thuyền, vào túp lều cạnh đê, lôi ra quả bầu khô, mở nút lá chuối làm một tợp. Thứ rượu làng Đọi cất bằng gạo nếp con, men Trại, uống vào ruột gan cứ lâng lâng như đang bay trên mây. Lão cắn một miếng chuối xanh chấm muối ớt rồi ngẩng lên nhìn trời. Vòm trời cao vút, xanh đến nhức mắt. Từ đâu đó vọng lại tiếng ì ầm. Lão vừa nhắm rượu vừa càu nhàu:

- Mả mẹ nó! Mưa gì mà lắm thế.

Vừa dứt câu chửi, một tiếng sét long trời sạt ngay trước mái lều. Căn lều bốc cháy ngùn ngụt. Lão đang chếnh choáng chỉ kịp vơ vội nậm rượu vọt ra. Lửa lém cả vào mông đít, khói bốc khét lẹt. Lão vội nhảy ùm xuống sông, quả bầu khô tuột khỏi tay nổi lềnh phềnh giữa đám rều rác. Phù sa mát lạnh làm lão Tình tỉnh rượu và sực nhớ ra nhiệm vụ phải đón các bà đi chợ về. Lão nhanh nhẹn lẩn vào bụi duối bên miếu Đức Ông, cởi chiếc quần đùi và chiếc áo cánh nâu mốc thếch vắt cho ráo nước, lấy dây gai buộc túm chỗ bị thủng, mặc vào rồi chèo thuyền sang bên kia sông. Lúc ấy gió đang đổi chiều. Những cụm mây màu cánh vạc hình thù kỳ dị không giống bất cứ thứ ma quỷ nào trong tưởng tượng của con người, thốc ngược từ ngã ba Môi lên, trong giây lát nở tung toé, giống hệt loài bạch tuộc gặp kẻ thù phun ra thứ hoả mù, làm bầu trời tối sẫm, lạnh lẽo. Con đò rời bến chừng nửa khắc thì trời đổ mưa. trận mưa rào kèm theo những viên đá bằng hạt ngô rất hiếm thấy vào dịp tháng bảy, rơi lộp độp vào nón lá, áo tơi, thúng mủng của các bà đi chợ về. Đá gõ xuống sạp thuyền, be thuyền rào rào. Những viên đá trong suốt, lạnh buốt, tan trong chớp mắt qua lần áo mỏng làm các bà các cô run rẩy, co người lại, ngồi sát nhau tìm hơi ấm.

Bà Ba mua một gánh hàng mã. Hàng cồng kềnh. Tấm vải buồm che không xuể, bị nước mưa tuốt sạch lớp giấy hồng điều, trang kim, còn trơ lại bộ xương tre dính nhoe nhét hồ và phẩm màu. Nhìn đống hoa man, chỉ vì trận mưa quái ác, bỗng chốc trở thành đồ phế thải, bà Ba nghiến răng nghiến lợi, lầm rầm trong miệng rồi quẳng tất cả xuống nước tiến cống thần Thuồng Luồng. Những bộ xương voi, ngựa, chó… lặn hụp một lúc giữa dòng phù sa đỏ như máu rồi biến mất dưới lớp sóng cuồn cuộn gầm réo ùng ục. Lão lái gò lưng chèo ngược nước cố ghếch mũi thuyền để nó khỏi bị hút về phía vực xoáy. Mưa sầm sập như trút nước. Mặt sông mỗi lúc lại rộng thêm. Mặt nước và bầu trời phút chốc như hoà vào nhau, tạo thành một khối xám xịt, bùng nhùng. Gió và sóng lưỡi búa vặn đò kêu răng rắc. những âm thanh chết người ấy lúc rồ lên như kéo bễ, lúc lại khò khè như hơi thở của lão già sắp lìa đời bởi căn bệnh suyễn kinh niên. Mười một khuôn mặt trắng bệch cùng với mười một cặp mắt thất thần đang trong trạng thái tột cùng của nỗi kinh hoàng. Lão Tình gồng người uốn cong mái chèo, chân choãi ra cố giữ thăng bằng nhưng con thuyền quá già nua chẳng những không hề nhích thêm một bước mà còn đang có xu hướng trôi dần về phía vực xoáy. Bỗng “rắc” mái chèo gỗ nhãn bị gẫy, con đò lập tức nhấc bổng lên và chỉ trong chớp mắt, nó đã mất hút sau khi đã xoay đủ một vòng quanh cái phễu nước không đáy, sôi sùng sục như vạc dầu khổng lồ của Diêm Vương. Lái Tình vốn là tay giỏi bơi lội. Lão quẫy đạp một cách ngoan cường, đầu chúi xuống, mông chổng lên trời để hở cả mảng quần cháy buộc túm bằng dây gai nhưng đã bị tuột ra trong lúc nhào lộn giữa sóng dữ. Nhưng, nói như câu châm ngôn trong sách của ông đồ Khúc Kiệt, “Nhân giả, bất khả kình thiên dã ”, bản mệnh của lão lái đò đã được đến giờ Tỵ ngày mười bốn tháng bảy. Lão không bị Hà Bá cuốn xuống vực nhưng lại chết vì thiếu chất men trợ sức. Mấy hôm sau, người ta tìm thấy lão tấp lên mép cồn Vành. Người lão lép kẹp, chiếc quần lá toạ bở bùng bục nhũng nhẵng bám ngang sườn như là không muốn rời khổ chủ, khuôn mặt sạm nắng gió vẫn thanh thản như đang ngủ chẳng có gì giống một kẻ chết trôi.

Trong số mười một nạn nhân, chỉ có bà Ba, lúc rơi vào vực xoáy là hai tay vẫn bám chặt vào gióng ngang cuối mũi thuyền. Hành động này có lẽ do bản năng sinh tồn khơi dậy trong tiềm thức hơn là kinh nghiệm tích luỹ được của một cô gái hai mươi tuổi. Sau khi đã nhấn chìm hết lần lượt đám hành khách xấu số, con thuyền bị sức nước đẩy trồi lên cách miệng vực xoáy chừng dăm chục thước, phần lái vỡ toác, phần mũi vặn vỏ đỗ, nửa nổi nửa chìm trông giống như cái vây lưng của cá nhà táng.

Vào lúc ấy, có một người đàn ông quăng chài ở cồn Vành nhìn thấy con thuyền gặp nạn. Anh ta vội quẳng đồ nghề, bất chấp dòng nước chảy xiết, nhoài ra, và chỉ bằng mấy sải tay đã bám được vào be thuyền. Phải mất khá lâu người đàn ông mới gỡ được hai bàn tay cô gái ra khỏi gióng ngang, đặt đầu nạn nhân lên vai rồi nương theo dòng nước tấp vào bờ. Người đàn bà hầu như đã chết. Mái tóc bết lại, nhờn nhờn một lớp phù sa đặc quánh. Chiếc váy lĩnh chẳng biết tuột ra từ lúc nào,trên tấm thân tím tái chỉ còn trơ lại manh áo dài bằng lụa điều nhưng đã bị nước dứt hết phần vạt, ngang đến thắt lưng. Vốn đã quen với những tai nạn sông nước như thế này, người đàn ông bình tĩnh cởi chiếc quần lửng mặc cho người thiếu phụ, tháo ruột tượng sồi vẫn quấn ngang lưng làm khố rồi xốc ngược cô ta chạy trên mặt ruộng đầy những thân ngô mà do mùa lũ đến sớm dân làng Nội chưa kịp thu hoạch. Chừng già một khắc, khi bà Ba nôn ra hết thứ nước hung hung đỏ như gạch cua thì anh quăng chài đặt cô ta nằm ngửa lên gò đất cao, trèo lên bụng, hít một hơi thật dài rồi kề cái mồm đầy râu vào miệng nạn nhân mà thổi. Hơi thở nóng bỏng, nồng nàn đầy truyền cảm và sự đụng chạm xác thịt dần dần có tác dụng. Đến lần thứ chín hay mười gì đó thì cặp môi xinh đẹp nhưng hơi đầy của người đàn bà bắt đầu động đậy…

Khi dân làng Nội hay tin đò ngang của lão Tình bị đắm, kéo ra cồn Vành thì bà Ba đã được anh thuyền chài cứu sống. Mãi đến gần tối, cơn mưa tạm ngớt, một chiếc thuyền đinh bên tả ngạn mới dám vượt sông sang đón bà Chánh về.

Ngày hôm sau, tức là rằm tháng bảy, chánh tổng Khúc Đàm cùng mười gia đình có người nhà ngộ nạn ra bờ sông Lăng làm lễ cầu hồn. Riêng ông Chánh còn có một lễ tạ ơn thần Thuồng Luồng đã không bắt vợ mình xuống thuỷ cung làm nữ tỳ.

2. Cơ ngơi của chánh Đàm thuộc loại bề thế nhất làng Cùa nhưng không phải gia sản của ông cha để lại mà do mới phất lên từ khi lão đi lính về. Nghe đâu hồi ở chiến trường Tây Âu, chánh Đàm đóng đến lon đội, có huân công, được thưởng Anh dũng bội tinh nên khi giải ngũ về nước được chính phủ Pháp trợ cấp một khoản niên bổng. Số tiền này đủ để lão sống an nhàn đến cuối đời, nếu thời cuộc không thay đổi.

Bố chánh Đàm vốn là một trùm cướp khét tiếng vùng Ba Tổng. ông ta thường đóng giả dân đò dọc xuôi ngược khắp vùng hạ du sông Lăng, ban ngày lên các chợ tìm mối hàng nhưng thực ra là thu thập tin tức về cánh nhà giàu rồi mấy đêm sau kéo đồng đảng đến khảo của. Toán cướp trang bị toàn súng mút với mã tấu. Bọn có máu mặt ven sông sợ khiếp vía, ngay cả những lúc vắng mặt cũng gọi họ bằng "các quan”. Nổi tiếng nhất là trận cướp nhà lý Sáng làng Bối Khê vào tháng chạp năm Nhâm Thìn. Năm ấy rét đến mức cá rô chết cóng nổi lên mắc vào rễ bèo tây. Nước ao trong vắt nhưng lạnh thấu xương. Trời xanh thẫm không một gợn mây. Hôm ấy nhằm ngày hai mươi. Cả làng Bối Khê đang hối hả chuẩn bị cho tết ông Táo lên trời. Buổi trưa có một thầy bói áo the, khăn xếp, mắt mang cặp kính đen tròn như hai chiếc trôn bát, tay xách tráp, được một thằng bé tóc trái đào chừng tám chín tuổi dẫn vào nhà lý trưởng. Lý Sáng vốn ghét các loại thầy bịp bợm, lại đang giấc ngủ trưa nên càu nhàu:

- Nhà ta ăn nên làm ra, chẳng có vận hạn gì, mời thầy sang nhà ông Chánh hội xem sao. Hình như bên ấy có chuyện…

Chánh Hội Bường với Lý Sáng vốn có hiềm khích từ lâu. Đẩy lão thầy bói nửa mùa này sang quấy rối giấc ngủ trưa để hắn nổi khùng lên tí chút cũng là một cách trả thù. Chánh Bường vừa nóng tính vừa hách dịch, chưa biết chừng lão mù dở còn được ăn vài hèo mây cũng nên. Tuy nhiên, tay thầy bói kiêm thầy tướng vẫn lừng khừng trước cửa, giọng lạnh như tiền:

- Nhà ông Lý không tin chuyện bói toán nhưng phải nghĩ đến sự yên ổn của toàn gia. Hiện ngôi mộ ngũ đại của dòng họ Tào ở đồng Mả Gạch bị sạt một góc về phía Tây Nam…

- Cái gì?- Lý Sáng đang ngáp ngủ tỉnh như sáo- Sao nhà thầy biết rõ chuyện ngôi mộ?

Lão thầy bói hếch cặp mắt giả thong manh qua đôi tròng kính đen bóng như mực Tàu, giọng thủng thẳng:

- Từ xưa đến nay, liệt tổ liệt tông thường để lại phúc cho con cháu. Nơi yên nghỉ của các vị ấy mà bị động chạm thì hậu quả không biết đâu mà lường. Đừng nên nghĩ mình giàu có mà quên chuyện mai sau. Thầy trò tôi xin chào ông Lý. Ta đi con!

Lý Sáng bị chạm nọc vội huơ tay:

- ấy khoan đã, xin mời vào nhà. Vừa rồi tôi lỡ lời mong thầy bỏ quá cho.

Ong thầy bói ở nhà lý trưởng hai ngày không lúc nào rời cặp kính kể cả lúc đi ngủ. Bàn về tướng số cũng như thuật phong thuỷ lão tỏ ra đặc biệt am tường, miệng trơn như cháo chảy, chỉ rõ từng thời điểm gia chủ gặp điềm lành điềm gở, khiến lý Sáng đã từng mấy năm học hành về trò bịp bợp này bái phục tôn là “tiên sinh” và biếu hẳn hai chục đồng Đông Dương làm lộ phí.

Lão “tiên sinh” vừa đi hôm trước thì hôm sau nhà lý trưởng bị một toán cướp mặc toàn đồ đen, đeo mặt nạ xông vào nhà lúc đầu giờ Sửu. Đàn chó vằn vện hơn chục con dữ như hùm beo hoàn toàn im hơi lặng tiếng, mắt lờ đờ, mõm nhểu đầy nhớt dãi bất lực nhìn các vị khách không mời, lần lượt vượt tường không hề gây ra một tiếng động. Tên cầm đầu tỏ ra khá thông thạo đường đi lối lại trong nhà. Hắn kề dao vào cổ lý Sáng quát khẽ:

- Mang hết đồ vàng bạc ra đây thì được tha mạng!

Lý trưởng giọng run cầm cập, giọng lí nhí:

- Trăm lạy các quan thương tình. Tiếng là làm việc làng nhưng chúng tôi thanh bạch, nhà lại đông miệng ăn, không có của để giành.

Tên trùm cướp ấn lưỡi dao vào yết hầu lý Sáng cười nhạt. Tiếng cười rất quen, hình như ông ta đã nghe được ở đâu đó:

Mỗi vụ thuế đinh, thuế điền, ông kiếm được bao nhiêu nhét vào chiếc tráp sơn mài để trong khám thờ phật Quan Âm, hãy mang ra đây nộp các quan, nếu không muốn toàn bộ dinh cơ bị hoả thiêu.

Lý Sáng lạnh sống lưng, mắt lấm lét nhìn quanh. Ông ta chợt nhớ ra giọng nói của lão thầy tướng hôm nào.

Các thành viên trong gia đình họ Tào đều bị trói, nhét giẻ vào mồm. Bọn cướp lăm lăm súng trong tay canh chừng. Những tên khác sục sạo khắp nhà trên nhà dưới khoắng sạch các thứ đồ quý giá kể cả nồi đồng mâm thau, lư hương rồi lôi cả chủ nhà theo làm con tin. Mãi đến gần sáng ông Lý mới lần được về nhà sau mấy giờ bị toán cướp bịt mắt trói gô lại như trói lợn vứt ở bãi tha ma đồng Chó Đá. Mất của nhưng lý Sáng không dám kêu mà chỉ lẳng lặng lên huyện trình quan. Quan phụ mẫu là lão già hủ nho, gàn dở, suốt ngày mải chơi mạt chược, nhìn thấy viên xã trưởng mặt xanh như chàm đổ báo việc mất cướp, nhếch mép bảo:

- Có của thì phải giữ. Thời buổi này trộm cướp như rươi, hở một tí là chúng khoắng sạch ngay. Đầu tháng trước, nhà phó tổng Yên Cư bị cướp giữa ban ngày. Bọn chúng có cả một chiếc ô tô hòm thầy biết không?

Lý Sáng tức như bò đá, nhìn bộ mặt xương xương với chòm râu dê của viên tri huyện chỉ muốn đấm cho lão một quả. Dân vùng Ba Tổng kháo nhau, tên trùm băng cướp ấy có tài xuất quỷ nhập thần, bất cứ phi vụ nào cũng làm trót lọt. Lão chính là Khúc Tuệ, bố đẻ ra chánh Đàm. Làm nghề đạo tặc nhưng Khúc Tuệ không giàu. Cướp được bao nhiêu, sau khi chia chác cho bọn đàn em, phần còn lại lão ném vào những cuộc đỏ đen. Khúc Tuệ chơi bạc thâu đêm suốt sáng, uống rượu như nước lã, và khi say sẵn sàng hạ gục đối phương ngay giưa chiếu bạc. Cuối năm Kỷ mão, trong một cuộc ẩu đả tranh giành địa phận làm ăn với toán cướp vùng Nam Mẫu, Khúc Tuệ bị cai Thìn vốn là lính khố xanh xuyên cho một mũi mác búp đa vào mạng sườn. Bọn đàn em khiêng ông ta về đến nhà thì tắt thở để lại bà vợ goá cùng với hai đứa con trai, lớn là Khúc Đàm, nhỏ là Khúc Kiệt. Hai thằng con trai khinh bố ra mặt vì cái nghề bất hảo. Nhìn cái xác rách mướp nằm co quắp giữa sân, mắt Khúc Đàm ráo hoảnh, không hề có chút thương xót. Thằng em mặt lạnh như tiền, thỉnh thoảng lại cười gằn. Trong đám tang, hôm ấy có một người đàn ông còn khá trẻ, để ria mép, tóc bới củ hành, mặc đồ cháo lòng, bưng mâm lễ phúng rất hậu. Đó không phải là khách quen, chẳng riêng gì gia chủ mà ngay cả bọn đàn em của Khúc Tuệ đến hộ tang cũng trố mắt ra nhìn. Lúc sắp về, anh ta cố ý nấn ná đến bên Khúc Đàm nói nhỏ:

- Thừa lệnh quan lớn… đến viếng ông nhà và chia buồn cùng gia quyến, nhưng cậu đừng cho ai biết chuyện này.

Khúc Đàm nhếch mép cười nhạt:

- Tôi hiểu.

3. Bà chánh Ba tên thật là Mạc Thị Lánh, về làm vợ chánh Đàm từ năm Tân Hợi. Thị Lánh vừa trẻ đẹp nhưng là cái đẹp theo kiểu chợ búa mang màu sắc thớ lợ của một gia đình có truyền thống mấy đời làm nghề lái trâu. Công bằng mà nói, lái trâu không xấu nhưng cái xấu nằm ở cung cách làm ăn cụ thể của ông bố hám tiền thông qua hàng loạt trò lừa đảo ngoạn mục. Bất cứ con trâu nào vào tay lái Lự cũng lập tức trở thành của quý. Lão uốn ba tấc lưỡi dùng đủ các mĩ từ phù phép cho món hàng rồi ra một cái giá cắt cổ thăm dò. Nếu gặp đối phương là tay sành sỏi trong thương trường thì lão xuống giọng bớt tí chút làm ra vẻ mình biết điều. Gặp phải ông nhà quê thuộc loại trọc phú, lại có máu bốc đồng, nói một tấc đến giời thì xem như hôm ấy thần tài gõ cửa. Lão tâng bốc ông bạn vàng có “con mắt tinh đời” rồi cuỗm sạch hầu bao của khách sau khi làm thủ tục ngoắc tay trao thừng một cách trịnh trọng. “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”, thiên hạ từ cổ chí kim thiếu gì những kẻ lừa đảo thuộc hàng thượng thặng. Lừa người lắm thế nào cũng có lúc bị người lừa lại. Hôm ấy đúng phiên chợ Sài. Chợ Sài từ xưa vẫn nổi tiếng là chợ trâu bò của phủ Đông Giàng. Lái Lự đang mặc cả mua con trâu đực chừng hai tuổi thì có người khách râu rậm phong thái rất chững chạc, cứ đi lại bên cạnh, dáng vẻ băn khoăn. Lão ngẫm nghĩ một thoáng rồi chủ động làm quen:

- Ông khách không chọn được hàng vừa ý à?

Người râu rậm nheo mắt lắc đầu:

- Chả giấu gì ông, tôi tìm mua trâu cho đồn điền Ba gia. Ông chủ dặn, lần này ít nhất phải chọn được mười con khoẻ, kéo cày dai sức để vỡ hoang vùng bãi sông Vệ. Ông chủ là người khó tính mà tôi lại rất ít kinh nghiệm mua bán sợ bị bọn cò mồi chơi khăm, thành ra…

Ngửi thấy mùi tiền, lái Lự bỗng sáng mắt, hơi lấp lửng:

- Cần những mười con cơ à?

- Khai khẩn đồn điền mà lại.- Người khách chép miệng- Thế là còn ít đấy. Chỉ riêng cái trại Cổ Bi cũng ngót nghét bốn trăm mẫu, ông tính xem phải dùng bao nhiêu trâu cho kịp thời vụ?

Lái Lự đảo mắt đánh giá ông khách lạ, phác trong đầu một con tính theo kiểu nhà nghề rồi gật gù ra vẻ am hiểu:

- Phải… Những bốn trăm mẫu, ít ra cũng đến hai chục con. Mà này, trâu trên Bắc thiếu gì, sao phải xuống đây cho diệu vợi?

Ông khách lắc đầu tỏ vẻ thất vọng về vốn kinh nghiệm làm ăn của lái Lự, khoác khăn gói lên vai, thủng thẳng bảo:

- Trâu Bắc không quen thuỷ thổ, chưa bắc ách cày sá nào đã đổ hàng loạt, ông bảo rước về làm gì?

Lái Lự nghĩ đã đến lúc ra đòn quyết định để dồn con mồi vào bẫy, bất ngờ tuyên bố:

- Tôi có thể kiếm cho ông đủ số cần thiết.

Người khách há hốc mồm tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên:

- Từ nãy đến giờ tôi vẫn nghĩ ông là người đi tậu trâu?

- Tôi là lái Lự ở kẻ Bòng… chắc ông có nghe…

- Nửa tháng sau, lái Lự gom được mười tám con trâu đực thuộc loại cực tốt thuê một anh lực điền lùa lên chợ Sài. Người khách khoác tay nải đã chờ sẵn ở một hàng cơm cuối phố. Ông ta đảo đi đảo lại xem kỹ từng con một rồi mới mời thầy trò lái Lự vào mâm rượu đã bày sẵn trong một gian riêng. Sợ chủ hàng còn bán tín bán nghi, ông ta rút trong hầu bao ra xấp tiền mặt đặt trước mặt lái Lự:

- Chừng này tôi đưa trước đặt cọc, còn bữa rượu này là do ông chủ đồn điền khoản đãi. Ông chủ có nhã ý mời ông và anh vào trong ấy thăm cơ ngơi, nhân tiện lùa giúp đàn trâu và nhận nốt phần còn lại. phí tổn dọc đường sẽ do chúng tôi đài thọ.

Bữa rượu kéo dài đến quá trưa. Món lẩu hổ lốn Quảng Đông lạ miệng cùng với rượu nếp cẩm pha mật rắn hổ chúa làm lái Lự mềm môi, say mèm mãi cuối giờ Mùi mới thũng thẵng dẫn đàn trâu về đồn điền.

Đồn điền Ba gia nằm ở thung lũng Tam Cốc cách sông Vệ chừng dăm bảy cây số vốn là của Tây Ba gia chuyên trồng ngô và cỏ ba lá nuôi bò cung cấp sữa cho quân đội Pháp. Được khoảng hơn chục năm ,Tây Ba gia bị sốt rét rụng tóc gần chết, hắn hốt qúa giao lại đồn điền cho người quản lý, về Pháp chữa bệnh. Sau gần ba tháng lênh đênh trên tàu thuỷ, đến Địa trung hải, viên chủ đồn điền chết đột ngột bởi một cơn co thắt động mạch vành. Trong khi ấy ở xứ An Nam, gã quản lý tằng tịu với vợ Ba gia. Cô này là gái làng chơi, xinh đẹp mà lại hát cô đầu có tiếng ở đất Bắc Kỳ nên được gã chủ Tây chuộc ra với cái giá ba mươi lượng vàng. Về danh nghĩa, đồn điền do madame Anne Phi Yến quản lý nhưng thực chất mọi quyền hành đều nằm trong tay ký Tam. Từ khi nhận được tin Ba gia về với Chúa trên hành trình hồi hương, ký Tam bàn với mụ me Tây chuyển một phần nông trại sang trồng lúa. Lương thực lúc này đang là thứ hàng được giá. Nếu thời tiết thuận lợi chẳng mấy chốc sẽ phất to. Toàn bộ câu chuyện về đồn điền Ba gia được người khách kể lại khá tỷ mỉ với thứ ngôn ngữ truyền cảm không chê vào đâu được. Chân bước tuy vẫn còn xiêu vẹo tí chút nhưng trong đầu lái Lự lại vô cùng tỉnh táo. Lão chắc mẩm, với mối làm ăn này, chỉ từ giờ đến cuối năm là có thể tậu được hai chục mẫu ruộng, thứ ruộng nhất đẳng ở đồng Báng Thượng mà bố lão hồi còn sống có nằm mơ cũng không thấy được. Sau khi ngoắc tay thoả thuận giao kèo, lái Lự gom góp toàn bộ vốn liếng của cả một đời bươn chải trên thương trường cùng với số tiền thế chấp sản nghiệp vay của Khúc Đàm bên làng Cùa quyết chí chơi canh bạc lớn. Lão định bụng , xong thương vụ này sẽ tự hồi hưu, đoạn tuyệt với cái nghề mà thiên hạ rất cần nhưng lại hay rỗi hơi đàm tiếu.

Lái Lự không có con trai mà chỉ có một cô gái rượu, năm ấy xuýt soát mười chín, có nhan sắc nhưng tính khí thất thường. Vợ lái Lự liệt nửa người sau khi đi chợ Lành bị cơn gió độc, suốt ngày ở trong buồng, ăn cực khoẻ mà không dậy được, nằm đâu ỉa đái ra đấy. Lão phải khoét cái giát giường đặt bên dưới một thúng tro để đỡ ngày mấy lần vần bà ta dậy làm công việc bài tiết. Mạc Thị lánh sợ bà mẹ bán thân bất toại như quỷ nhập tràng. Hiếm hoi lắm mới có dịp cô ta vào buồng. Thành thử cái sảo tro dưới gầm giường, hai ba ngày mới được mang đi đổ. Có lần lái Lự sang chợ Gành mua trâu gặp nước lũ vỡ đê Quai Xanh, mãi bốn ngày sau mới về. Vừa bước vào nhà, lão đã phải bịt mũi bởi thứ mùi thối khẳn đến lộn mửa từ gian buồng xộc ra. Dưới gầm giường ruồi bay vù vù. Lũ nhặng xanh chao lượn theo một vũ điệu kỳ quái, phát ra thứ âm thanh vo ve ở tần số cao nửa như thoả mãn nửa như những tín hiệu đặc trưng gọi bạn.Trên giường, người đàn bà bị giời đày chỉ còn thoi thóp thở. Bà mẹ bị bỏ đói gần một tuần còn cô con gái xinh đẹp chẳng biết biến đi đằng nào. Mãi trưa hôm sau mới thấy Thị Lánh dẫn xác về . Buổi tối Lái Lự bảo con gái:

- Có khi thầy phải tìm một người về chăm nom mẹ mày.

Cô con gái giẩu mỏ nguýt dài:

- Thầy mà cưới vợ bé là tôi ra đầm Vực ở với thằng chăn vịt.

- Nhưng mày bỏ đi đàn đúm suốt ngày để mẹ ở nhà một mình, hôm qua tao không về kịp thì đã thành ma đói từ lâu rồi. - Lão lái trâu sa sầm mặt càu nhàu.

Thị Lánh mặt câng câng, giọng xanh rờn:

- Ôi dà thầy sợ cái gì. Cứ cho bà ấy liều thạch tín là hết nợ.

- Mày chỉ láo ! Con với cái.

Cô con gái đánh mắt lườm bố:

- Tôi biết thầy nghĩ đến chuyện ấy từ lâu, chỉ có điều chưa dám làm thôi.

Lái Lự định vả cho Thị Lánh một cái nhưng kịp hãm lại. Từ trước đến giờ lão vẫn có vẻ gờm con gái. Về phần mình, Lánh chẳng coi bố ra gì. Dưới mắt cô ta lão chỉ là lão lái trâu bẩn thỉu chuyên lừa thiên hạ bằng những ngón nghề hạ đẳng. Rằng lão tham lam và ăn độc như chó , trước sau cũng chết bất đắc kỳ tử. Điều tệ hại là, trong thâm tâm , lái Lự đặt cả niềm tin, hy vọng vào đứa con gái có phẩm chất lăng loàn chẳng kém gì giặc cái này. Lão chiều chuộng bao nhiêu thì Lánh coi thường nhân cách của ông bố bấy nhiêu . Từ mấy năm nay chưa bao giờ nó nói với lão được lời tử tế.

Những lúc bực tức vì sự hỗn xược của con yêu nữ, không có cách nào giải toả, lái Lự thường trút cơn giận lên người đàn bà bán thân bất toại bằng những câu chửi rủa mang đậm phong cách lái trâu , nghĩa là thô tục, độc địa tai ác. Bà vợ hoàn toàn bất lực mặc cho chồng sỉ vả, phản ứng duy nhất có thể có được là từ từ đảo tròng mắt trái lờ đờ, không sinh khí rồi nở một nụ cười ngớ ngẩn trên khoé miệng đầy nhớt dãi.

Sáng hôm sau, vợ lái Lự lên cơn co giật khi ăn xong cặp bánh dày Thị Lánh mua của con mẹ hàng rong đầu làng. Bà ta quằn quại trong nỗi đau xé ruột gan. Nửa người bị liệt, những mảnh thịt ở mông và lườn mền nhũn, đôi chỗ đã mủn ra, tím như quả bồ quân bốc mùi thum thủm. Phần còn lại trắng nhợt, dày bình bịch, giống hệt như thứ thịt lợn chết toi, ngâm hàn the vừa vớt ra chưa ráo nước. Trước khi tắt thở, đầu người đàn bà bất hạnh ngoẹo sang bên phải, bàn tay duy nhất còn cử động được đôi chút cố nâng lên chỉ về phía bàn thờ nhưng đôi mắt lại long lên sòng sọc, vằn tia máu như mắt của loài chó ăn phải bả độc.

Khi bà vợ lên cơn hấp hối thì lái Lự chạy xuống nhà ngang, đóng cửa lại, vớ chai rượu ngang tu già nửa. Đầu óc lão không còn đủ bình tĩnh để phân tích hành vi của đứa con gái sau tấn bi kịch mà không chóng thì chầy chuyện ấy sẽ xảy ra.

Người đàn bà được rửa mặt, chải tóc, lau chùi qua loa rồi chọn giờ nhập quan. Bà ta lâm bệnh nặng lâu quá rồi nên hàng xóm láng giềng xem việc ra đi là một sự giải thoát khỏi nỗi thống khổ của một kiếp người. Lúc đưa tang, Mạc Thị Lánh khóc mẹ ai oán đến mức những người xung quanh ai cũng động lòng. Cô ta xổ tóc rối bù, lăn ra đường gào thét điên loạn, quần áo bê bết bùn đất trông chẳng khác gì con điên đang lên cơn. Lái Lự mặt khó đăm đăm đi sau quan tài thỉnh thoảng lại lấy tay quệt mắt.

*********

Ba người dẫn đàn trâu rẽ vào con đường mòn nằm giữa một vùng đồi bát úp. Chen giữa những sườn dốc thoai thoải mọc toàn một thứ sậy gióng dài như những gióng trúc, hoa trắng giống hoa sở phất phơ chẳng khác gì lông đuôi gà trống là những bãi ngô non bắt đầu trổ cờ. Không gian vùng bán sơn địa này thật yên tĩnh. Nắng chiều nhạt dần. Một đàn cò trắng giăng hàng chẳng theo một trật tự nào , bay hối hả như đang đuổi theo vầng dương đã khuất dần vào giữa chân mây xốp như bông nõn đang trôi bồng bềnh cuối chân trời . Khi những dẻ sáng cuối cùng như ánh hồi quang quét sáng một vệt mỏng trên dải đồi hoang thì vô vàn những chiếc đuôi gà trống biến từ màu trắng thành màu mỡ gà như có phép lạ. Gió sà xuống thấp hơn và toả một mùi thơm quyến rũ ve vuốt những hàng ngô xanh thẫm tạo thành thứ âm thanh rào rào, lúc gần lúc xa, lúc hư lúc thực nghe như tiếng vuốt nhẹ của bàn tay ca kỹ trên phím đàn tỳ bà ở quãng trầm.

Bãi ngô không một bóng người. đâu đó có tiếng gà gáy rất xa. Con gà báo trời sắp tối có lẽ là một chú gà trống choai. Tiếng của nó lanh lảnh ra vẻ ta đây là một gã đàn ông có quyền gửi thông điệp đến lũ gà mái trong lãnh địa bằng thứ giọng hoàn toàn chưa vỡ, chốc chốc lại đứt quãng như là ngừng lại lấy hơi. Lái Lự nghe thấy tiếng trống choai chợt cất tiếng lẩm bẩm : “ Con gà chết tiệt này chắc là báo điềm gở”. Cùng lúc ấy có khoảng năm sáu lính khố xanh cùng với Nhà đoan, chân quấn xà cặp , súng trường và súng khai hậu lăm lăm trong tay, ra hiệu cho cả bọn dừng lại:

- Các người lùa trâu đi đâu?

Người đại diện đồn điền Ba gia vội vượt lên trước bảo:

- Tôi là Lý Ba, người của đồn điền đi chợ Sài mua trâu.

Tên Cai khố xanh có cặp mắt xếch, đội mũ lie bọc vải kaki trông như nửa quả dưa chụp lên đầu , sừng sộ:

- Có giấy phép của sở Nông lâm Bắc Kỳ không?

Lái Lự giật mình toát mồ hôi hột:

- Thưa ông Cai, chúng tôi có giấy thông hành của Quan phủ Đông Giàng.

- Phủ Đông Giàng có cấp môn bài cho các cho các anh đi buôn trâu không?

Lý Ba nhăn nhó nhìn đám nhân viên Nhà đoan , giọng thiểu não chẳng biết thật hay giả vờ:

- Chúng tôi ở đồn điền Ba Gia thật mà. Chắc các ngài biết ông chủ Tây?

- Nhà nước bảo hộ đã có sắc lệnh cấm buôn bán trâu.- Viên thuế đoan nhìn đàn trâu béo mập con nào da cũng láng bóng như ánh sừng nheo mắt cười một cách khó hiểu- Kẻ nào vi phạm chẳng những bị tịch thu mà còn phải nộp tiền phạt, nếu chống lại người thi hành công vụ là bỏ tù. Đây đếch thèm biết Tây Ba Gia là ai, cứ theo phép nước mà làm . Nào anh em trói mấy tên gian thương này lại, dẫn đàn trâu đi.

Chuyến ấy lái Lự mất sạch cơ nghiệp may mà nửa đêm trốn được ra ngoài. Đến lúc ấy lão mới cay đắng nhận ra mình bị một vố lừa chết người . Câu chuyện Tây Ba gia chẳng qua chỉ là màn kịch . Bọn đạo tặc đã diễn xuất một cách hoàn hảo với những chi tiết tình tiết như thật. Chung quy cũng chỉ tại lão ngu. Thất thểu lê bước về đến bến Cẩm Đàn, lão định nhảy xuống sông để tự trừng phạt mình và cảnh cáo những kẻ hậu sinh hám hơi đồng. Nhưng lái Lự vốn sợ chết. Từ xưa đến nay phương châm của lão là sống nhục còn hơn chết vinh. Chết là hết dù cho người ta có đắp lên mộ cả một đống vàng và tâng bốc bằng ngàn vạn lời hoa mỹ. Sống còn có cơ may thay đổi hoàn cảnh. Tội gì mà chết để thiên hạ chửi cho. Lại nữa, lão còn đứa con gái. Thị Lánh tuy hỗn láo, cãi bố đôm đốp nhưng nó vẫn còn là con lão. Lão mà về chầu trời, nó sẽ bơ vơ nơi trần thế , biết nương tựa vào đâu? Điều lái Lự sợ nhất bây giờ là món tiền vay của Khúc Đàm. Tay này trước là lính tập, đã từng sang Pháp trong những năm Thế Chiến, lại là chánh tổng đương chức xem ra rất khó khất nợ.

Đã quá hạn mười ngày không thấy lái Lự sang trả tiền, chánh Đàm sốt ruột đích thân đi đòi nợ . Đường đất từ làng Cùa đến kẻ Bòng khá xa vì phải vượt sông Lăng. Dịp này đang mùa lũ lão không dám đi đò bến Trại mà phải đến bến Lở rồi vòng lối đầm Vực. Tiếp giáp với đầm Vực về hướng tây nam là khu ruộng trũng chừng vài chục mẫu của phó hội Bảng chuyên nuôi vịt đẻ. Chếch về hướng đông bắc một chút là bãi tha ma rộng hàng trăm mẫu khá bằng phẳng, đây đó còn lô xô những gò đống vô chủ, cái thấp cái cao mọc toàn dứa dại. Nghe nói dải đất hoang này, thời Lê mạt đã từng là nơi giao tranh khốc liệt giữa nghĩa binh Tây Sơn và đạo tán binh cờ xanh của quận công Đinh Tích Nhưỡng . Quận Nhưỡng thua trận bỏ lại vài trăm tử sĩ trên chiến địa. Đêm hôm ấy dân mấy làng thắp đuốc mang cuốc xẻng đào mười tám cái huyệt chôn vội vàng những chiến binh xấu số . Từ đấy cứ đến ngày giỗ trận, cánh kỳ mục lại thay mặt hàng tổng mang hương hoa, giấy tiền ra mộ địa tế các vong hồn. Mấy trăm năm qua đi, vầng dương mọc rồi lại lặn nước sông Lăng khi đầy khi vơi, biết bao vật đổi sao dời nhưng ký ức của người dân Ba Tổng về một vùng đất bí hiểm thì vẫn còn đó.

Chánh Đàm xắn quần , tay cầm hèo mây, bước thấp bước cao qua khu ruộng vàn nhà phó hội Bảng. Sát bờ đầm có chiếc lều canh vịt lợp rạ . Cái mái khum khum của nó có lẽ chỉ nhỉnh hơn chiếc lều vó của của lão Kếu cổ ngẳng một chút . Từ xa Khúc Đàm thoáng thấy bóng người. Lão Chánh nghĩ đó có lẽ là thằng chăn vịt của nhà phó hội . Tự nhiên lão nảy ra một ý định muốn đến tận nơi xem lũ vịt Kỳ Lừa được thiên hạ truyền ngôn như một thứ đặc sản của cha con họ Quách mà bản thân lão chưa bao giờ tin là có thật. Đến bờ đầm chánh Đàm định khoắng chân xuống nước rửa qua loa để xỏ vào đôi dép da trâu có bốn quai vặn xoắn như sợi thừng tre, bỗng lão lặng người khi nhìn rõ trước cửa lều không phải là thằng chăn vịt mà là cô gái mặc áo cánh trắng, váy thâm được vận lên quá đầu gối, để lộ cặp đùi non mơn mởn, đang nhặt những quả trứng rải rác trên mặt ruộng xếp vào chiếc làn tre đựng trấu. Cô gái còn quá trẻ , chỉ khoảng mười chín đôi mươi , sức vóc ngồn ngộn bởi bộ ngực căng phồng và tấm lưng thon uyển chuyển thót lại như eo bọ ngựa cái thời kỳ mang trứng. Cặp vú bánh dầy mẩy và chắc như hai trái lê bị ép một cách tượng trưng sau lớp yếm mỏng cứ nhảy tâng tâng theo mỗi nhịp bước lom khom. Nhìn cặp tuyết lê đồ sộ đầy khêu gợi, Chánh đàm nuốt nước bọt thầm nghĩ: “ Mẹ kiếp, cái ngực kia, cái lưng ong kia mắn đẻ phải biết”. Cô thôn nữ tiếp tục nhặt trứng có vẻ như không thèm để ý đến kẻ đang ngắm trộm “toà thiên nhiên” của mình, miệng he hé cười thầm. Vốn là phường hám gái, Khúc Đàm không thể nhịn được nữa , lão vứt hèo, quẳng đôi dép da trâu, thủng thẳng đến cạnh lều như người đi thăm đồng . Lúc này lão đã nhìn rõ mặt cô gái. Đó thực sự là khuôn mặt đẹp nhưng gợi chút hoang dã bởi đôi chân mày rất rậm chờm xuống cả đôi mắt và sống mũi cao, phần cuối hơi hếch lên đối xứng với cặp môi ướt át, trề ra đầy vẻ khêu gợi . Cô gái không hề ngạc nhiên nhìn Chánh Đàm nửa như muốn cười tình nửa lại muốn ông khách không mời cuốn xéo càng nhanh càng tốt. Chánh Đàm đã có nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật giao tiếp với đàn bà, nhất là loại đàn bà lẳng lơ, nên không dễ gì bỏ qua dịp may bằng một câu ướm hỏi đầy chất phong tình, chẳng tương xứng chút nào với địa vị xã hội của mình:

- Cô em có bán trứng ta mua hết?

Cô gái liếc Chánh Đàm, giọng bỡn cợt:

- Trứng vịt Kỳ Lừa đắt lắm , những hai mươi đồng một chục, ông Chánh Kim Đôi có mang đủ tiền không?

Chánh Đàm giật mình , có vẻ ngượng. “Bỏ mẹ” Con bé biết tên mình. Chuyện này mà biết thiên hạ đồn ầm lên là Chánh Tổng đi tán gái thì còn mặt mũi nào ra đình mà quát tháo sai phái bọn chức dịch hàng tổng. Nghĩ vậy lão làm ra vẻ bề trên hỏi:

- Nói đùa vậy thôi. Ta có chút việc sang làng Bòng lối này. Hỏi khí không phải, cô là con gái ông Phó Hội Bảng?

Cô gái hình như chẳng coi gì cái chức danh chánh tổng ra gì vẫn tiếp tục đối đáp với Khúc Đàm bằng giọng cợt nhả:

- Chắc ông Chánh muốn tìm thêm bà Ba cho vui cửa vui nhà?Chánh Đàm thấy con bé mỏng mày hay hạt, lời ăn tiếng nói nghe vẻ đong đưa trong bụng thích lắm , quên phắt vai kịch đạo mạo đang đóng, thả lời ong bướm:

- Nếu ta cho người sang thưa chuyện với ông Phó Hội em có bằng lòng không?

Cô gái tinh nghịch, nheo mắt nhìn ông khách xấp xỉ tuổi bố mình , giọng chua như giấm:

- Trông ông Chánh còn tráng kiện lắm , nhưng hỏi thật, giả sử nhạc phụ tương lai là một lái trâu ông có chịu cưới con gái lão ta không?

- Vậy ra cô em là con ông lái Lự?

- Ông nhìn kỹ xem kẻo lại nhầm.

- Sao lại chăn vịt ở đây?

Cô gái chỉ tay về phía đầu làng, có một người đang đi ra:

- Tôi nhặt trứng giúp thằng Côi . Nó về nhà lấy chài đánh cá.

- Hôm nay ông Lái có nhà không?

Cô gái nói trống không:

- Đi biệt tăm nửa tháng nay... Mà ông Chánh hỏi làm gì?

Chánh Đàm giấu biệt chuyện lái Lự vay nợ trả lời ậm ừ:

- À, cũng không có gì hệ trọng, đợi khi nào ông ấy về tôi sang cũng được.

Lúc lên bãi tha ma, chánh Đàm quay lại nhìn về phía lều vịt, trong đầu luôn tự hỏi: "Con bé này với thằng chăn vịt nhà phó hội Bảng có quan hệ thế nào nhỉ ? Hay là chúng đã... Đồ đàn bà lăng loàn” Mải ngẫm nghĩ về người đẹp, quên cả đường, chánh Đàm bị gai găng đâm vào bàn chân. Lão giật thót , nhảy lò cò đến gờ ngôi mộ cổ ôm chân nhăn nhó trong lúc đôi dép da trâu vẫn lủng lẳng trên cổ. Chiếc gai nhọn hoắt đã khô, xuyên thấu lớp da dầy , bị gẫy một đoạn rồi nằm cứng trong đó làm Khúc Đàm đau nhói. Đã thế lại không có ghim băng mang sẵn bên mình, thành thử ông chánh Kim Đôi đành phải cà nhắc đến bến đò miệng không ngớt xuýt xoa.

4. Từ ngày mẹ chết, Mạc Thị Lánh ít ở nhà. Lái Lự không bảo được con, phải nhờ người cháu họ bên làng Nội trông nom cửa nhà mỗi khi lão đi vắng. Con gái kẻ Bòng có khi chưa đến tuổi cập kê đã thành gia thất, mười chín đôi mươi đã con bế con bồng, riêng cô gái rượu của ông lái trâu thì không một gia đình tử tế nào dám hỏi , trừ bọn mèo mả gà đồng với ý định bờm xơm, trăng gió. Như trên đã nói, Mạc Thị Lánh đẹp nhưng là vẻ đẹp vượt ra ngoài khuôn khổ nhận thức của làng Bòng vốn dĩ đầy định kiến với những hủ tục lạc hậu. Đàn ông từ thằng trẻ ranh còn cởi truồng tắm sông đến các bậc chức dịch đáng kính tóc đã muối tiêu hễ nghe đến tên Thị Lánh đều nhất loạt bĩu môi khinh bỉ, nhưng chẳng may một mình gặp cô ta thì mắt lại lấm lét, miệng nuốt nước bọt đến đờ đẫn, mất hết cả hồn vía. Căm thù ra mặt là các bà các cô. Họ sợ ả yêu tinh đó làm hư hỏng chồng con , bại hoại gia phong , nhất là đôi mắt lẳng lơ đầy ma lực như có yêu khí quyến rũ các bậc mày râu háo sắc. Đám này thuộc phái chính chuyên, luôn miệng lên giọng răn dạy con cái sống theo quy phạm đạo đức.

Thị Lánh, ngược lại không bao giờ xem các bà các cô chính chuyên ở làng Bòng là hiện thân của công dung ngôn hạnh. Cô ta bảo cánh đàn ông thích của lạ: “Các mẹ ấy còn cái gì rao bán ngoài cặp vú mướp giắt vành váy mốc mà chẳng lên mặt đạo đức giả”. Dạo này Lánh hay ra đầm vực chơi với thằng chăn vịt. Cô nàng có vẻ thích món trứng luộc chấm muối ớt nên thỉnh thoảng xách làn lội ruộng ra mua, dần dần nghiện luôn cả thằng chăn vịt. Mỗi ngày không nhìn thấy hắn là cô ta ăn không ngon ngủ không yên. Côi là đứa không cha mẹ được phó hội Bảng đưa về từ lúc còn bé. Nó kém Lánh hai ba tuổi nhưng cao lớn ra dáng một đấng nam nhi với khuôn ngực trần rám nắng vồng lên cùng đôi bắp tay cuồn cuộn ở tuổi dậy thì. Thấy Lánh hay ra chơi thằng Côi thích lắm nhưng chẳng biết nói gì. Mỗi lúc nhìn cô nàng mặt nó lại đỏ lên, miệng lúng búng chẳng nói được câu nào ra hồn . Thực ra Côi là gã trai khá mơ mộng, sức sống hừng hực, tuy ăn uống kham khổ nhưng được sống tự do giữa thiên nhiên phóng khoáng, hít thở khí trời trong lành nên có vẻ tự bằng lòng với thân phận mình. Giờ được một người con gái để ý đến, thỉnh thoảng liếc mắt đưa tình một cách suồng sã làm con tim gã lịm đi tựa như được uống một liều tiên dược. Có lần, lúc ấy trời đã về chiều, đồng vãn người, Lánh ỡm ờ hỏi:

- Bao giờ Côi lấy vợ?

Tay chăn vịt thật thà bảo:

- Phận đi ở nghèo rớt mồng tơi , chả ai người ta để ý đến.

Lánh lại hỏi:

- Côi thấy tôi thế nào?

Côi ngẫm nghĩ một thoáng rồi bảo:

- Chị đẹp lắm ,đẹp hơn cả tiên.

- Có... thích Lánh không?

Tay chăn vịt không còn vẻ ngô nghê nữa, cũng nửa nạc nửa mỡ:

- Làm vợ chồng ấy à?

- Biết rồi còn hỏi.

- Nhưng tôi không có tiền với lại ông Phó Hội đánh chết.

- Mặc kệ - Thị Lánh ngúng nguẩy ngồi sát vào thằng chăn vịt- Có muốn... thử?

- Thử gì ?- Thằng Côi run run đặt tay lên cặp đùi non mà không hiểu vô tình hay cố ý cô nàng đã kéo váy lên quá mức trước lúc ngồi xuống.

Lánh hất thằng chăn vịt ra : “ Không được động vào đấy...” Nhưng đôi mắt thì lại bùng cháy ngọn lửa đam mê như là hối hả mời gọi. Gã trai chỉ đợi có thế. Nó đột nhiên ôm choàng lấy cô gái, dằn ngửa ra, kéo tuột váy lên cổ, hau háu nhìn vào cái hõm mờ mờ ảo ảo giữa hai đùi. Cô gái vòng tay ôm lấy lưng thằng Côi, ghì chặt thở hổn hển chờ đợi... Nhưng gã vốn dĩ là gã trai mới lớn, chưa từng biết mùi đàn bà, thành thử người cứ run bần bật, tim đập thình thịch như đánh trống. Đợi mãi, đến khi không thể chịu được nữa, Thị Lánh hơi nhổm dậy, lấy tay kéo tuột chiếc quần đùi rách vá chằng vá đụp xuống chân thằng Côi thì mới phát hiện ra nó đã ướt nhoe nhoét như bị nước mỡ dây vào. Quá thất vọng, cô nàng đẩy thằng chăn vịt khỏi bụng, ngồi dậy, kéo váy xuống rồi hậm hực bảo:

- Đồ vô tích sự. Thế mà cũng là đàn ông...

5. Hôm ấy Chánh Đàm đến kẻ Bòng sau khi đã sai người thăm dò biết chắc lái Lự ở nhà. Lần này lão bắt ông Tình chở cả ngựa qua sông cho oai. Vừa đến sân, Khúc Đàm chợt sững sờ trước cảnh hoang tàn như là ngôi nhà vừa bị mất cướp. Toà chính đường trước bày toàn sập gụ, tủ chè, tràng kỷ gỗ trắc, câu đối, hoành phi sơn son bóng loáng, giờ trống hoác trơ ra nền gạch Bát Tràng và những viên tảng chạm hoa văn đỡ hàng cột nặng nề. án thư cũng đã theo chân lão lái trâu ra chợ từ mấy hôm trước. Những thứ gì có thể quy được ra tiền đều lần lượt về nhà chủ mới. Lúc này vật đáng giá nhất chỉ còn lại cái xác nhà và khu vườn nhãn. Lão đã tính trước, nếu chánh Đàm xiết nợ, đành phải gán dinh cơ cho hắn rồi đưa con gái sang làng Nội làm ăn. Bên Nội, lão vẫn còn khoảnh đất rìa làng được ăn thừa tự của ông bác ruột không có con, mới mất cách đây hai năm. Sông có khúc, người có lúc. Kẻ đi buôn lên voi xuống chó là chuyện thường. Thiên hạ thiếu gì những đứa nhẹ dạ cả tin. Rồi chúng mày xem, chưa biết mèo nào cắn mỉu nào. Tự trấn an mình như vậy nhưng vừa nhìn thấy chách Đàm với cái roi ngựa trên tay, lái Lự bỗng tái mặt. Tay này nổi tiếng hách dịch, coi người như rác, không trả hết số nợ cho hắn thì chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Thế nhưng, khi nghe lái Lự trình bày cái sự bị lừa mất sạch cả vốn lẫn lãi bằng bộ mặt đưa đám và thứ ngôn ngữ thớ lợ khá mùi mẫn, Chánh Đàm không trở mặt giận dữ mà lại bình thản bảo:

Trong nhà ông Lái còn có một thứ quý hơn cả vàng bạc.

Lái Lự khịt mũi nghĩ Khúc Đàm xỏ xiên nên chỉ nhếch mép:

- Ông Chánh cứ đùa.

- Tôi không đùa. - Chánh Đàm đảo mắt nhìn tứ phía rồi bất chợt hỏi - Cô nhà đi đâu?

Đến lúc ấy thì lái Lự vỡ chuyện. Lão ngập ngừng hỏi:

- Ông Chánh nói con Lánh nhà tôi?

Chánh Đàm gật đầu:

- Gia sản của ông giờ tiêu tán hết rồi mà số tiền nợ tôi lại khá lớn dẫu có gán cả dinh cơ này cũng chẳng đủ. Nói thật, nhà tôi hiếm người, nếu ông bằng lòng, nay mai tôi sẽ nhờ người mang lễ vật sang hỏi cô nhà làm bà Ba. Về công nợ coi như xí xoá, ông tính sao?

Nghe Chánh Đàm gợi ý, lái Lự mừng quá, xuýt ngất xỉu, nhưng vốn là một lái trâu lọc lõi, đầy mánh khoé, lão dùng kế hoãn binh, chậm rãi uống chén nước để lấy lại thăng bằng sau cú sốc rồi mới thong thả nói:

- Cái này là việc cả một đời người, ông để tôi lựa lời nói với cháu xem sao đã.

Chánh Đàm hạ giọng:

- Từ xưa đến nay việc dựng vợ gả chồng cho con đều phải do bố mẹ xếp đặt, đó chính là gia pháp. Gia pháp không nghiêm sẽ loạn ngay. Phận nữ nhi không thể vượt ra khỏi mấy chữ "Tam tòng tứ đức", cho nên ...

- Mà nếu nói lời không nghe, vẫn còn ngang bướng thì tôi sẽ vụt cho một trận rồi tống cổ ra khỏi nhà. Cái lý ở đời cứ già đòn là non nhẽ.

- Ông chớ làm thế ! - Chánh Đàm xua tay - Cứ lấy lời ngon ngọt mà khuyên bảo có khi lại được việc. Hơn nữa, tôi thấy cô nhà cũng sắc sảo, biết ăn nói lắm.

Lái Lự thoáng nghĩ đến đứa con gái bất trị. Đến nước này thì không thể thương được nữa. Lão càng cưng chiều nó càng hỗn láo. Để ở nhà ngày nào nó gây tai hoạ ngày ấy. Phương thuốc trị bệnh tốt nhất là nhanh chóng gả chồng. Con gái xuất giá tòng phu. Cứ để lão chánh tổng dại gái này trị con giặc cái. Vạn nhất không trị được bị nó xỏ mũi cũng đáng đời hắn. Trước mắt lão được hai cái lợi, vừa không phải trả nợ vừa được làm bố vợ tay chánh tổng Kim Đôi gần bằng tuổi mình, ở đời mấy ai được như thế?

Hai lão đang lần lượt thảo luận từng điều khoản trong bản hợp đồng hôn phối thì Thị Lánh chẳng biết ở đâu về bằng lối cổng hậu. Lái Lự lấm lét nhìn con gái còn chánh Đàm đứng dậy chào. Lánh liếc mắt nhìn họ khúc cười nhạt:

- Chào ông Chánh. Hôm nay chắc ông sang đòi nợ?

- Ấy chết, tôi đâu dám. - Chánh Đàm cười nịnh - Chả là ông nhà cho gọi ...

- Tôi hiểu rồi - Lánh chẳng nể nang gì, nói tưng tửng theo kiểu hàng tôm hàng cá - Ông lái trâu bị mất sạch gia sản, không trả được nên làm văn tự gán con gái cho Chánh Tổng Kim Đôi phải không?

Lái Lự sượng mặt lườm con:

- Đừng có hỗn. Nhà ông Chánh nền nếp lại giàu có nhất vùng, được vào đấy khác gì chuột sa chĩnh gạo. Nếu mày bằng lòng, mấy hôm nữa bà Chánh sẽ mang trầu cau sang ăn hỏi.

Thị Lánh mỉm cười nhìn ông khách vùng Ba Tổng:

- Thế tôi về làm dâu ông Chánh hay làm vợ bé ông Chánh?

Lái Lự quắc mắt:

- Mày đừng có lộng ngôn. Ông Chánh chưa có con trai nên mới phải đi tìm người, chứ con gái nhà tử tế bây giờ thiếu gì.

Lánh cười gắn, còn lão lái trâu ngầm đưa mắt cho Khúc Đàm. Cả hai đều im lặng chờ đợi phản ứng xem ra chẳng có gì là tốt lành từ phía cô gái. Nhưng thật không ngờ, Mạc Thị Lánh lại chấp nhận cuộc hôn nhân mua bán nhanh đến thế:

- Tôi bằng lòng, nhưng với một điều kiện.

- Xin cô cứ nói.

- Tôi phải giữ tay hòm chìa khoá.

- Tưởng gì, chuyện ấy thì được - Chánh Đàm gật đầu.

Ba hôm sau, bà Chánh mà hàng tổng vẫn gọi là bà cả Huê mang trầu cau sang chạm ngõ, hẹn đến đầu tháng Ba thì rước dâu. Trước ngày cưới ít lâu, Thị Lánh lại ra đầm Vực mưa trứng. Lúc ấy đã vàng vàng mặt trời, khu đồng trũng vắng vẻ, cô tịch như một vùng hoang địa. Kể ra, lấy trứng xong, vẫn còn kịp về làng nhưng cô ta lấy cớ sợ ma ở lại qua đêm với tay chăn vịt. Lần này thằng Côi không còn lớ ngớ như buổi ban đầu. Hai đứa trần truồng quấn riết lấy nhau như một đôi rắn lịch kịch suốt một đêm trên chiếc ổ rạ được trải manh chiếu cói mà hắn lấy được ở đình Trụ. Trong cơn hoan lạc, niềm đê mê ngây ngất đến tột đỉnh, Thị Lánh ghì lấy cổ thằng Côi bảo:

- Mấy hôm nữa Lánh lấy chồng phải xa mình rồi.

Thằng chăn vịt thở hổn hển:

- Sau này biết bao giờ gặp lại?

- Thỉnh thoảng tôi đi chợ qua đây?

Sau ngày cưới, Mạc Thị Lãnh thành bà Chánh Ba. Bà Ba trẻ nhất, đanh đá nhất nhưng lại có quyền hành nhất trong nhà họ Khúc. Đêm tân hôn, chánh Đàm trải tấm vải trắng xuống giường. Thị Lánh là cô gái từng trải trong chuyện phòng the nên đã chuẩn bị sẵn những thứ cần thiết. Mới có đầu giờ Hợi, Chánh Đàm đã tắt nến lôi tuột vợ lên giường. Trước khi lão lột váy trườn lên người thì cô ta bí mật bóp cái bong bóng cá đựng tiết vịt hãm muối mà thằng Côi đã đưa cho vào miếng vải.

Chánh Đàm đã có hai vợ. Vợ cả là bà Huê, cưới từ lúc chưa đầy mười sáu, đến giờ vẫn chẳng đẻ đái gì. Trước lúc đăng lính ít lâu lão đón cô Phùng Thị Thoả ở làng Nội, bên kia sông Lăng về làm thứ thất cũng chỉ được một mụn con gái khoèo tay. Lần này họ Khúc rước Mạc Thị Lánh về là mong có kẻ nối dõi tông đường, cứu cho gia tộc khỏi nguy cơ tuyệt tự.

Từ nhỏ, Khúc Đàm đã là gã trai phóng đãng, khác hẳn em ruột là Khúc Kiệt. Hai anh em lớn lên đều cảm thấy con mắt dè bỉu của làng trên xóm dưới về cái quá khứ bất hảo của người cha, nên trong lòng luôn nuôi chí rửa nhục theo cách riêng của mình. Khúc Đàm đăng lính còn Khúc Kiệt ở lại làng tìm thày học chữ Nho. Thừa hưởng khí huyết của người cha, từ nhỏ Khúc Đàm đã nổi tiếng thích phiêu lưu. Hắn còn là gã thanh niên đẹp trai, miệng tán gái dẻo như kẹo mạch nha và đam mê cờ bạc. Năm hai mươi hai tuổi, Khúc Đàm bị động viên sang Pháp. Binh đoàn thuộc địa số 5 của hắn được điều đến đồn trú ở vùng An dát. Dịp ấy vào cuối năm thứ hai của Thế Chiến thứ Nhất, Nhà nước bảo hộ trưng tập hàng ngàn lính Đông Dương bổ sung cho quân số bị hao hụt trên chiến trường Pháp - Đức. Làng Cùa có bốn thanh niên xuất chinh, sau này chỉ mình Khúc Đàm hồi hương. Hai người tử trận, một người bị thương ở lại chính quốc mở quán thịt chó.

Hôm tiễn Khúc Đàm xuống tàu há mồm vượt trùng dương sang Pháp là một ngày đáng nhớ. Mặc cho vợ cả, vợ hai khóc hết nước mắt, vật vã, lăn ra đất van nài, Khúc Đàm vẫn quyết dứt áo ra đi. Vợ hắn có biết đâu nỗi mặc cảm của anh em họ Khúc với dân làng Cùa. Phải gột rửa quá khứ bằng niềm vinh quang của kẻ làm trai cưỡi sóng đạp gió ngao du khắp hoàn cầu, và sau hết, kiếm được tiền rồi lựa thời cơ mua một chân chức sắc để có vị thế trên chiếc chiếu cạp điều giữa đình làng. Vạn nhất, nếu bỏ xác nơi sa trường thì dòng họ nhà hắn vẫn còn Khúc Kiệt. Em hắn là gã hủ nho mọt sách, suốt ngày ê a đọc Tứ thư, Ngũ kinh, không có chí lớn, sẽ thay hắn giữ gìn hương hoả.

Vào những năm Đại chiến thế giới, làng Cùa gần như bị bỏ rơi. Tiếng đại bác gầm bên trời Âu hầu như chẳng có tác động gì đến nếp sống thường nhật khép kín vùng Ba Tổng. Làng vẫn cứ phạt vạ nếu có gái chưa chồng chửa hoang, và khổ chủ, tức gia đình cô gái hư hỏng kia phải biện đủ lễ vật để các vị chức sắc cúng thần trừ tà rồi ngả mâm đánh chén. Ban đêm, trai đinh cắt phiên nhau tuần tra. Nếu chẳng may có trộm vào làng thì phát lệnh bằng mõ cá, tù và sừng trâu hoặc trống ngũ liên. Chỉ trong khoảnh khắc, cả xóm thắp đuốc chạy ra, kẻ giáo mác, người dao chín hoặc tay thước, hô hét rầm trời. Bọn đạo tặc cùng đường có thằng nhảy xuống ao, có thằng đánh liều thượng lên mái đình, cuối cùng vẫn bị lũ chó phát hiện, chịu trói nộp quan.

Làng Cùa rộng nhất tổng Kim Đôi được bảo vệ bằng luỹ tre dày chỉ thông với bên ngoài bằng hai chiếc cổng xây gạch vồ trên có vọng lâu, dưới là những cánh cửa lim nẹp sắt dày mười sáu phân. Có một con ngòi từ đầm Ma xuyên qua làng nhưng không thẳng mà lại cong queo như con rồng uốn khúc. Ông thầy phong thuỷ xứ Đoài đi qua, nhìn thế đất lắc đầu bảo: "Làng này bị con ngòi giống loài rắn nước chẻ làm đôi, phá vỡ huyệt đất quý thành ra nhân tài không phát được. Tiếc thay !".

Những năm ấy, ở đất Bắc Kỳ, đạo Nho đã đến hồi mạt vận, nhưng ở vùng Ba Tổng người dân vẫn còn trọng chữ nghĩa. Khoá Kiệt học giỏi nổi tiếng trong vùng được các phụ huynh làng Bích La bên kia sông đón sang dạy con em mình. Làng Cùa từ lâu khuyết chân giáo thụ, học trò toàn dạt đi thiên hạ kiếm chữ vừa vất vả vừa tốn kém nhưng cánh chức dịch ghét cái nguồn gốc đạo chích của nhà họ Khúc thành thử bảo nhau tẩy chay không mời đồ Kiệt. Trái lại, anh em Khúc Đàm chẳng biết căn cứ vào nguồn tư liệu nào thường tự nhận là hậu duệ của Tiết độ sứ Khúc Thừa Dụ người làng Cúc Bồ đã có công khôi phục quyền tự chủ của đất Giao Châu thời Hậu Đường. Khúc Kiệt dạy học một năm thì được cụ thứ chỉ làng Bích La gả con gái cho. Bà này mắn đẻ, trong vòng chưa đầy một giáp đã sinh Khúc Văn, Khúc Vĩ, Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa. Cái chí học gạo làm quan của thầy đồ Khúc tan biến như bong bóng xà phòng khi hay tin Nhà nước bảo hộ huỷ bỏ vĩnh viễn các kỳ thi Hán học. Nhà nghèo lại đông con, chạy ăn từng bữa khiến Khúc Kiệt rầu lòng sinh bất đắc chí, suốt ngày uống rượu, rượu say lại ôm mặt khóc như trẻ con bị bố mẹ đánh.

6. Nỗi khổ đầu tiền của Khúc Đàm khi vượt biển sang nước Đại Pháp là bệnh say sóng. Chiếc tàu há mồm cao lừng lững, dài sáu bảy chục thước tây là một khối sắt thép đồ sộ với những thứ dây rợ lạ mắt giăng mắc ngang dọc trên các cột cùng lá cờ tam tài bay phần phật trước gió làm cánh lính thuộc địa, lần đầu xuất dương, vô cùng thán phục kỹ nghệ Thái Tây. Khúc Đàm chỉ ngắm trời ngắm nước được chừng vài giờ thì ruột gan bắt đầu lộn tùng phèo khi chiếc hạm thuyền cưỡi lên những con sóng bạc đầu lừng lững như trái núi, thực hiện những cứ nhào lộn, nhồi lắc dữ dội, vượt xa sức tưởng tưởng táo bạo nhất mà con người có thể nghĩ ra được. Từ lúc ấy, Khúc Đàm nằm bẹp dưới khoang tàu, trong căn hầm ẩm ướt, bẩn thỉu, lúc nào cũng tối tăm như cảnh âm cung. Mười bốn lính thuộc địa gồm cả Việt, Miên, Lào chen chúc trong cái hộp sắt chưa đầy chín thước vuông như thế nên nhất cử nhất động của một người đều phát sinh sự đụng chạm mang tính dây chuyền. Hầm nóng như nung. Không khí đặc quánh lại và ô nhiễm nặng chẳng khác gì xà lim biệt giam tử tù. Khẩu phần hàng ngày gồm bánh mỳ đen bở bùng bục, cá trích đóng hộp và thứ xúp thịt cừu loãng mới ngửi đã lộn mửa. Nước ngọt quý như vàng, ngày được một lít, uống còn không đủ nói gì đến tắm giặt.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/1_1438134272.JPG


Tàu qua Bắc Phi, vào biển Đỏ, khẩu phần được tăng thêm chút ít nhưng vẫn không phục hồi được sức khoẻ của phần đông lính mắc bệnh kiết lỵ do thiếu nguồn rau xanh. Hành trình hơn ba tháng, khi con tầu vào cảng Mác xây thì binh đoàn Đông Dương số 5 được một đoàn xe cam nhông đưa ngay lên cao nguyên đông bắc. Nơi đây là vùng đệm tiếp giáp với dải phòng ngự chiến lược của sư đoàn 13 do tướng Pốtchiê làm tư lệnh. Đối diện với hệ thống chiến hào chạy ngoằn ngoèo như hình con trăn khổng lồ uốn khúc giữa dãy đồi mọc toàn cây vân sam là phòng tuyến quân Đức. Bọn này suốt ngày chui rúc dưới hầm, quấn mình trong những chiếc Pa đờ xuy dạ thô nặng trịch ngốn bánh mỳ với mỡ lợn hoặc loại xăng đuých rắn như đá vì lạnh với nhứ rượu vang Pađờ Cale chua loét như cứt mèo mà chúng cướp được ở các nông trại trồng nho.

Cần phải nói thêm, tiểu đội của Khúc Đàm do viên Cai Trần Thái chỉ huy không thuộc quân số chiến đấu mà là lính phục dịch. Công việc hàng ngày là sửa chữa những chỗ chiến hào bị sạt lở, vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc men và nếu cần kiêm luôn cả công việc tải thương. Bấy giờ đang là cuối Thu, mà mùa Thu ở miền Đông Bắc xứ Phú Lãng Sa lạnh thấu xương. Tuyết rơi ban đêm, sáng ra rắn lại như băng. Khúc Đàm cùng Phan Thế Thanh khiêng một hòm đạn đui sết sơn vàng nhạt, nặng trịch, ì ạch leo lên sườn dốc của một quả đồi nằm chếch về phía Tây tuyến phòng thủ của sư đoàn Héc man. Đêm hôm trước, Tướng Pốt chi ê vừa mất một tiểu đoàn. Họ bị rơi vào trận địa phục kích của Đại Tá Héc man, sau đó tiếp tục làm mồi cho hai mươi bảy họng súng cối sáu mươi ly. Bọn Đức trinh sát rất kỹ. Chúng căn các nòng moóc chi ê, khoá đầu khoá đuôi thung lũng Patxcan, bắn như giã giò, chần cho Tiểu đoàn Công Binh 32 của Đại uý Sác lơ tối tăm mặt mũi. Đến gần sáng, chỉ còn không qúa ba chục tay súng mình đầy thương tích thất thểu quay về. Chiến hào quá hẹp, chỉ đủ hai người tránh nhau. Nước mưa lẫn với bùn đất cùng lớp tuyết rơi đêm qua tạo thành thứ hỗn hợp nhão nhoét, bềnh bệch, ngập đến cổ đôi giày xăng đá làm Khúc Đàm có cảm giác như bị kim châm khắp lượt bàn chân. Trên đầu, vòm trời loang lổ những cụm mây xám, mây trắng và mây màu hạt dẻ bập bềnh như những tảng băng trôi. Từ góc khuất của nhánh công sự tạm thời có thể nhìn thấy phần ngọn của một cây sồi đơn độc, tán lá tròn như chiếc dù xanh mà trên cành cao nhất, không hiểu theo lệnh của ai, mấy chàng lính trẻ tiểu đội 3 đã buộc lên đấy lá cờ ba sọc rách tướp đang bay phần phật. Một con chim ưng mỏ trắng, cặp cánh rộng xoè ra, liệng trên vòm trời màu thiếc, đảo đôi mắt tròn quét một lượt khắp khoảng rừng tìm những chú thỏ ngờ nghệch, tựa hồ như chẳng hề biết đến hai đạo quân đang tìm cách tàn sát nhau dưới những con hào ngoằn ngoèo kia.

Khúc Đàm đang ngây người ngắm mảnh trời Âu giữa lúc cả hai bên ngẫu nhiên ngừng tiếng súng thì một viên quan Hai người Pháp từ một ngách hào gọi to:

- Ê ! Mấy anh kia, có phải các anh thuộc tiểu đội phục dịch của Hạ sĩ Trần Thái?

- Bẩm quan lớn, đúng ạ ! - Khúc Đàm vừa lấy tay ra hiệu vừa trả lời bằng thứ tiếng Pháp bồi, các âm tiết đều bị tách ra rời rạc làm tay sĩ quan thông tin chẳng hiểu gì, hỏi lại như quát:

- Phục dịch phải không?

- Đúng!

- Về trung đội ngay ! Có lệnh chiến đấu.

Bây giờ thì không còn phải khiêng đạn và đào chiến hào ở tuyến sau nữa mà là thực sự cầm súng bắn nhau với bọn Phổ. Khúc Đàm bất giác rùng mình. Tiểu đội được phiên chế vào tiểu đoàn cơ động. Tiểu đoàn này toàn lính thuộc địa gồm hai đại đội Ma Rốc, một đại đội Lê Dương Xê nê gan và một đại đội Đông Dương. Hướng hành quân hôm nay không phải là ngọn đồi có cây sồi đơn độc mà chếch về phía Nam, nơi có trang trại trồng nho. Ông chủ nhà đã bị bọn Đức bắn chết sau khi cướp toàn bộ số rượu vang dưới hầm dự trữ từ năm 1896.

Trang trại hồ đào tuyệt đẹp nhất là vào lúc chiều tà khi mặt trời vẫn còn cách đỉnh núi Guy đi ông chừng nửa con sào. Trước chiến tranh, mảnh đất này vốn thanh bình. ánh hoàng hôn nhuộm đỏ mái nhà thờ thánh Giăng với tháp chuông nhọn chạm nổi hình chiếc bánh xe mặt tiền trông ra sông Đia xanh màu lam ngọc. Đàn cừu gặm cỏ dưới chân núi, nhìn từ xa, trắng toát như một khối bông di động. Những chú cừu non vừa chào đời không theo kịp đàn, run rẩy trên đôi chân mảnh khảnh, ngơ ngác nhìn chung quanh thỉnh thoảng lại be be gọi mẹ. Sườn đồi thoai thoải, chếch về phía Nam một chút là những chiếc cối xay gió xếp hàng xoè ra những chiếc cánh quạt dài, mỏng mảnh quay một cách miễn cưỡng mặc dù có lúc gió từ triền sông thổi về rất mạnh. Trên đỉnh chiếc chong chóng cao nhất, hình như đã bị hỏng, một con quạ già trụi sạch lông đầu, cái mỏ rũ xuống, đứng trầm tư nhìn xuống khu vườn nho. Xa hơn chút nữa, chếch về hướng tây bắc là cánh đồng lúa mạch đang chín. Lũ chim dẻ quạt, bồ các và sáo đen chao lượn như mắc cửi. Chúng lao vun vút nhìn ngó tứ phía, thỉnh thoảng lại cụp cánh thả mình rơi xuống mổ đám châu chấu ma đang nhảy tanh tách giữa những nhánh lúa. Vài con dẽ gà tinh khôn rất có kinh nghiệm tìm những đám lúa mới chín. Chúng lủi thật nhanh vào giữa ruộng, đánh đu lên cây nhằn hạt.

Nhưng bây giờ thì khung cảnh êm đềm ấy không còn nữa. Từ lâu nó đã thành bãi chiến trường. Nhìn cảnh tượng một vùng quê nước Pháp, Khúc Đàm chợt nhớ đến mảnh đất làng Cùa vùng Ba Tổng của mình. Hắn đang thả hồn phiêu diêu về xứ sở An Nam với nền văn minh lúa nước và những chiếc cối xay tre đắp đất nhích tùng vòng nặng nề quay từ cả ngàn năm trước thì có lệnh hành quân. Tất cả tiểu đội ba lô lên vai, lưng thắt bao đạn, vai khoác trường mút hoặc rê minh tơn chụp mũ ca sô lên đầu rồi nối nhau bước trong chiến hào. Cuộc chạm súng bắt đầu từ ba giờ chiều khi những quả moóc chi ê tám mươi mốt ly từ phía sau những chiếc cối xay gió bay tới chiến hào tiền duyên. Đấy là moóc chi ê của quân đội Pháp nhưng bị bọn Bốt xơ cướp được từ tuần trước, mở màn cho bản đại hợp xướng máu lửa.

Lính Đông Dương vốn thể trạng thấp bé lọt thỏm trong bộ quân phục rộng thùng thình như là quần áo đi mượn của mấy ông "nhiêu" trong ngày tế đám. Đã thế, lại vì thời tiết khắc nghiệp, nhiệt kế xuống đến mười hai độ âm, nên mọi người còn phải đóng thêm chiếc áo dạ màu cứt ngựa, vừa dài vừa nặng, thành thử mỗi bước đi, hai vạt xoè ra quết bùn đất trông thật thảm hại. Viên ách di đăng chỉ huy trung đội là một người Pháp lai. Hắn nói tiếng Việt rất sõi, thỉnh thoảng còn chửi lính bằng thứ thổ ngữ vùng Kim Sơn Ninh Bình chính hiệu. Trước đó nửa giờ Trần Thái bị trúng mảnh moóc chi ê. Mảnh đạn phạt vào đầu từ trên xuống bóc hẳn một mảng thịt nhầy nhụa máu cùng với nửa vành tai. Chiếc mũ rách toạc nham nhở như bị chó gặm. Trần Thái rú lên một tiếng thảm thiết rồi ngã chúi xuống nằm chắn ngang đoạn hào nông choèn đã bị đạn pháo làm sập vài chỗ.

Đại đội Xê nê gan cao to lừng lững như hộ pháp, da đen bóng, ôm súng lom khom triển khai đội hình dưới đường hào cận tuyến. Phía sau họ chừng ba chục thước, tuyến tán binh thứ hai gồm Tiểu đoàn Đông Dương số 2, số 7 và đại đội Lê Dương triển khai theo đội hình tác chiến yểm hộ cho những chiến binh Phi châu. Đối diện với họ, sau vườn nho là những cứ điểm phòng thủ của bộ binh Đức. Chúng tác chiến theo một trình tự khá bài bản và đặc biệt ít khi lộ diện nếu như chưa phát hiện ra vị trí đối phương. Cuối cùng thì những khẩu cối 81 và 105 ly của trung đoàn Li ông cũng khai hoả. Tiếng đề pa nghe rõ mồn một chứng tỏ những thiên thần hộ mệnh cho bộ binh này ở cách đây không xa. Trận địa phút chốc trở thành một cuộc đấu pháo ngoạn mục với hàng ngàn vạn âm thanh hỗn tạp, đinh tai nhức óc làm rung chuyển bầu trời vốn là nơi tuyệt đối yên tĩnh. Khói bay lơ lửng giữa từng không rồi xộc vào chiến hào. Mùi lưu huỳnh vừa nồng vừa khét làm nhiều người ngạt thở, ho sặc sụa. Mặt trời chiều không thể xuyên nổi lớp khói dày đặc. Không gian bùng nhùng âm u như địa ngục. Khúc Đàm phải lấy chiếc khăn bông bẩn thỉu ấp vào mũi, một tay xách súng dò từng bước lên sườn một quả đồi thấp mọc toàn cây lúp xúp tựa như cây dành dành ở quê nhà. Viên chuẩn uý cầm khẩu rê minh tơn trong tay đứng thẳng người dõng dạc hô:

- Trung đội, bên trái quay ! Về hướng cối xay gió.

Tiếng hô vừa dứt, từ trên cao, hơi chếch về mỏm đồi Chó Sói, những vệt lửa loằng ngoằng kèm theo tiếng nổ đanh, đều, từng loạt một nhằm vào hàng lính Đông Dương.

- Anh em ơi xông lên, quyết tiêu diệt bọn Phổ!

Có tiếng ai đó thét lên bằng tiếng Pháp. Lính Xê nê gan chạy ngược lên đồi Cối Xay Gió chẳng theo một bài bản nào, thành ra khi bị hoả lực đối phương quất trực diện thì chẳng ai bảo ai, quẳng súng chạy như một đàn vịt. Trận tấn công thất bại. Viên chuẩn uý bị đạn xuyên qua bả vai, gẫy xương quai xanh được Khúc Đàm dìu về chiến hào tiền duyên. Nửa giờ sau, một viên thiếu uý rậm râu người vùng A vi nhông, nói tiếng Đức lưu loát được điều về làm trung đội trưởng. Hắn chửi rủa lính thuộc địa không tiếc lời, tất nhiên là bằng thứ ngôn ngữ Avinhông rồi huơ huơ khẩu súng lục to tổ bố trước hàng quân lấm lem như ma vùi.

- Lần này không có lệnh của tôi, kẻ nào quay đầu nhìn lại phía sau là bắn.

Lời răn đe của viên quan một tỏ ra có hiệu lực. Lính thuộc địa sợ khẩu súng của Đuy mông hơn là lửa của bọn Đức. Cuối cùng thì tiểu đoàn thuộc địa cũng chiếm được cao điểm Cối Xay Gió. Bọn Phổ rút đi bỏ lại mấy chục xác chết dưới chiến hào hoặc trên mặt đất. Khúc Đàm bị một viên đạn súng trường khoan vào mông, gẫy xương chậu. Cánh phục dịch khiêng hắn về tuyến sau trên chiếc cáng gỗ bạch dương vừa dài vừa hẹp, thỉnh thoảng lại thúc vào vách hào. Máu chảy ra như xối mặc dù mông hắn đã được tay y tá người Pháp sơ cứu. Hắn nằm sấp trên cáng kêu ồ ồ như lợn bị chọc tiết.

Trạm xá trung đoàn là một toà lâu đài bỏ hoang từ cuối thế kỷ trước nằm trong cánh rừng bạch dương, cách khu Cối Xay Gió, trung tâm của trận đánh vài dặm nhưng tương đối an toàn bởi công trình này khá kiên cố. Tường xây toàn bằng đá tảng dày bốn mươi bảy phân, dưới có tầng hầm, trước dùng chứa rượu và bắp cải muối, có thể sơ tán thương binh nếu bị quân Đức pháo kích. Cuộc phẫu thuật không có thuốc gây tê để lấy những mảnh vỡ trong vết thương do các bác sỹ gần như đã kiệt sức vì mấy chục ca mổ trong ngày làm Khúc Đàm xuýt nữa thì về chầu ông vải. Rất may hắn được cô y tá người Angiêri là Miriam chăm sóc chu đáo nên mới thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Khúc Đàm vốn có thể trạng tốt, lại gan lì chịu đau để cô hộ lý thay băng trong tình cảnh gần như cởi truồng nên tất yếu không tránh khỏi sự đụng chạm vào "của quý" của hắn. Mỗi khi bàn tay xinh đẹp hơi ngăm ngăm của Miriam luồn băng qua háng, dương vật của hắn lại cứng ngắc, ngỏng lên. Lúc đầu cô gái Bắc Phi còn đỏ mặt, đến lần sau, chẳng nể nang gì, Miriam cầm chiếc panh vụt thật mạnh làm gã lính tập kêu rú lên như là đang bị thiến.

Ba tháng sau, khi vết thương đã lành, Khúc Đàm được điều về đại đội phục dịch. Lúc này hắn đã được phong hạ sỹ và ở ngoài chiến hào, thỉnh thoảng lại nhận được thư của Miriam bằng thứ chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Tất nhiên hắn không thể đọc những bức thư kiểu ấy cũng như cô y tá chẳng hiểu gì những ký tự nguệch ngoạc tượng hình mà hắn gửi đáp lại tấm tình cô ta. Công việc phục dịch tuy không phải cầm súng nhưng chết như bỡn nếu rơi vào trận địa pháo của Đức. Mới hôm qua, chính hắn đã phải khiêng xác Lê Văn Ngọ, Thân Quang Đính và áp đu la về cuối đường hào số 4. Chỗ ấy là nơi tập kết những xác chết. Trời băng giá, nhiệt độ quá thấp, những cái xác cứng lại trong chiếc capốt lính màu xám. Nhìn thi hài hai người đồng hương xấu số, bất giác Khúc Đàm thở dài, chảy nước mắt. Trung đội cũ của hắn cứ hao hụt dần. Hắn biết được tin này qua anh chàng Thiệp chân sếu quê ở Ngân Sơn, Bắc Cạn.

Thiệp là người Tày đã có vợ con nhưng do thua bạc, nợ nần nhiều quá phải đăng lính lấy tiền trang trải. Tay này mỗi khi ra trận đều đeo chiếc bùa do một bà đồng người Sán Dìu bán cho hồi còn ở nhà. Chẳng biết có phải được thần phật che chở hay không mà suốt mấy năm chạm nhau với bọn Đức hắn chưa hề mất một sợi tóc. Mối tình của cô gái Angiêri với Khúc Đàm có vẻ như ngày càng sâu nặng. Chẳng bao lâu, cả hai đã nói được với nhau bằng thứ tiếng Pháp lơ lớ chẳng cần chia động từ và hoàn toàn bỏ qua trọng âm. Khúc Đàm đã có chủ ý, nếu trời phật để cho sống sót qua cuộc chiến, hắn sẽ đưa Miriam về làng Cùa, mặc cho chiên hạ đàm tiếu, cưới cô làm bà ba và sinh con đẻ cái nối dõi dòng họ như bất cứ gã đàn ông nào khác. Có điều, ý nguyện của hắn không thành. Cô y tá Bắc Phi bị thương nặng trong một trận ném bom dữ dội của không quân Đức khi chúng phát hiện được bệnh viện dã chiến nằm trong toà lâu đài. Miriam chết vì vết thương ở bụng mất quá nhiều máu. Trung đội của Khúc Đàm được lệnh chôn cất người chết. Trong số mười ba nạn nhân có hai phụ nữ, Miriam và bác sĩ ngoại khoa Bêatơrít.

Chiến tranh thế giới kết thúc, binh đoàn Thuộc Địa cho lính giải ngũ. Khúc Đàm về Mác xây cùng với phần lớn cựu chiến binh Đông Dương chờ ngày xuống tàu về nước. Tại hải càng này, hắn đã đi lại với một gái điếm người Pháp tên là Luy xi và bị lây bệnh giang mai. Chưa đầy một tuần, dương vật của hắn sưng tấy lên, thỉnh thoảng chảy mủ, bốc mùi rất khó chịu. Nhiều khi đau quá, đứng ngồi không yên hắn đã nghĩ đến chuyện ra cầu tàu nhảy xuống biển tự tử. Cái thứ bệnh quái ác ấy theo hắn vượt trùng dương về tận làng Cùa, sau này phải mất khá nhiều thời gian và tiền bạc mới chữa khỏi. Cũng may chuyến viễn chinh mấy năm của hắn được chính phủ Pháp tặng thưởng mề đay "Anh dũng Bội tinh" vì có huân công kèm theo mấy trăm bạc Đông Dương trợ cấp thương tật. Khoản tiền đó làm Khúc Đàm trở thành giàu nhất vùng Ba Tổng.


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/1a_1438134344.jpg

Công việc đầu tiên sau khi hồi hương là Khúc Đàm kén thợ xây một dinh cơ bề thế hơn hẳn toà nhà bát giác kệch cỡm của lão Lý Lượng để phô trương với thiên hạ. Toà nhà chính hai tầng xây theo kiểu Pháp, trần xi măng cốt thép, mái lợp ngói Tây chống nóng, nền lát gạch men hoa. Hai dãy nhà ngang đối nhau qua cái sân rộng lát gạch Bát Tràng được cánh thợ Nam Định dựng hơn một năm mới hoàn công. Hai toà nhà này, trừ mái ngói âm dương còn toàn bộ kiến trúc đều bằng gỗ kể cả sàn và ván thưng bốn chung quanh. Đây là kiểu nhà do chính họ Khúc thiết kế. Hắn đã khéo léo kết hợp hai phong cách kiến trúc Âu A để tạo ra một sản phẩm khá lạ mắt ở làng Cùa. Các ngài chức sắc hễ có dịp ra đình ngồi với nhau là dè bỉu vệ Đàm đài các rởm. Khúc Đàm biết tỏng bọn này ngoài miệng chê bai nhưng trong lòng thì ghen tức, càng tìm cách trêu ngươi.

Được hơn một năm, sau khi làm xong toàn bộ dinh cơ, Khúc Đàm ra tranh chức Lý Trưởng làng Cùa. Bọn hào mục ghét họ Khúc bèn đệ đơn trình Quan phủ tố cáo bố đẻ Khúc Đàm trước đây là trùm cướp, hoành hành khắp vùng Ba Tổng, quấy nhiễu dân lành. Tri phủ Đỗ Khánh vốn là một gã vô học nhưng lại là cháu họ quan Khâm Sai Bắc Kỳ, được sung chức do hối lộ chứ không có thực tài, rất hách dịch. Nhận được đơn, Đỗ Khánh nổi giận, gửi trát đòi Khúc Đàm lên phủ đường để trị thói chơi trèo và dạy cho bài học về tôn ti trật tự. Mãi trưa hôm sau Khúc Đàm mới cưỡi ngựa đến trình diện. Hắn nghênh ngang bước vào công đường, không chắp tay vái mà chỉ khẽ gập đầu chào làm Đỗ Khánh tím mặt.

- Tên kia có phải Khúc Đàm làng Cùa?

Khúc Đàm bấy giờ mới chắp tay hỏi:

- Quan lớn cho gọi chúng tôi lên đây có việc gì ạ?

Viên Tri Phủ cầm phiến đá chặn giấy đập đến chát một cái xuống bàn, dõng dạc bảo:

- Có đơn của hội đồng kỳ mục làng Cùa kiện nhà anh về tội mạo phạm ra tranh chức Lý Trưởng.

Khúc Đàm cười nhạt:

- Bẩm quan lớn, tôi ra tranh cử lL trưởng là căn cứ vào các điều khoản quy định trong văn bản hướng dẫn của văn phòng Thống Sứ Bắc Kỳ và ngài Khâm Sai đại thần thay mặt chính phủ Nam Triều năm Mậu Tý, sao lại gọi là mạo phạm?

Đỗ Khánh đập án quát:

- Anh này lý sự gớm. Anh có biết vì sao người làng đệ đơn tố cáo không? Nói cho mà biết, chính là vì bố anh trước đây làm quân đạo tặc.

Khúc Đàm không hề thay đổi sắc mặt khi nhìn thấy vẻ hí hửng của viên Tri Pphủ. Hắn thong thả rút trong túi ra tấm "Anh Dũng Bội tinh" và tấm bằng tưởng thưởng công lao của Trung sĩ Khúc Đàm trong Đại Chiến Thế Giới đối với nước Đại Pháp, đặt trước mặt viên Thừa phái rồi hất hàm bảo:

- Ông đọc lên cho quan lớn nghe xem những thứ này có đủ tư cách bảo lãnh cho chiếc triện đồng không?

Nhìn thấy những thứ ấy, khuôn mặt Đỗ Khánh trở nên trắng bệch. Viên Thừa phái thì thầm vào tai ông ta mấy câu, ngài Tri Phủ vội đứng lên rời khỏi bàn, bước lại gần Khúc Đàm, hơi cúi đầu, nói nhỏ:

- Chuyện này quả thực bản chức không biết. Ông cứ về chuẩn bị nhận việc, còn cánh Lý Lượng cứ để tôi trị.

Cầm triện đồng trong tay rồi, lý Đàm bắt đầu củng cố vây cánh mà việc đầu tiên là vận động cánh kỳ hào bầu Khúc Kiệt làm Chánh Hội. Khúc Kiệt biết tin bảo các con:

- Ta thà chết đói còn hơn bám đít Tây kiếm bơ thừa sữa cặn.

Khúc Đàm tức lắm mắng em trai là đồ ngu. Ông em vốn tính gàn, xưa nay không chịu luồn cúi ai, nhà nghèo rớt nhưng cậy có tí chữ, coi thiên hạ bằng nửa con mắt.

Bẩy năm sau, tuy chưa đến tuổi bốn mươi mà Khúc Đàm đã giữ triện đồng hàng Tổng, danh tiếng nổi như cồn nhưng vẫn chưa có con trai. Trước khi hắn viễn chinh sang Pháp, bà Hai Thoả đã đẻ được Khúc Thị Hài nhưng mắc chứng khoèo tay bẩm sinh. Nhìn con bé dị dạng, Khúc Đàm ghét lắm, vì thế ghét luôn cả vợ. Chưa có người nối dõi tông đường, chánh Đàm rất sốt ruột. Cũng từ đấy lão nghĩ đến chuyện cưới bà Ba.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
09-11-2015, 09:10 PM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/2_1442005526.jpg

Chương 2

Lê Văn Vận là chàng lực điền khoẻ mạnh, cha mẹ mất sớm, không tấc đất cắm dùi, kiếm ăn bằng nghề thả lưới trên sông Lăng. Về nguồn gốc của Vận không ai rõ. Có tin đồn, cha mẹ Vận cũng là thuyền chài ở mãi vùng Ngã Ba Môi, năm ất Mão người chồng lặn xuống vụng Giải tìm của nửa ngày không lên, bà vợ nóng ruột nhảy xuống cứu cũng mất tích. Dân chài từ lâu có tục thả nồi đồng, mâm đồng, chậu thau đồng xuống những vực nước sâu dọc triền sông Lăng. Cách để của khá độc đáo này có cái lợi là không phải mang theo thuyền, đỡ cồng kềnh và đặc biệt không thể mất trộm. Tuy nhiên cái hại của nó thì không lường được. Vực sông thường là những xoáy nước cuồn cuộn với sức hút ghê gớm, phải là người lặn giỏi, bền sức vào cữ giêng hai mới lấy những thứ đã giấu lên được. Muốn "của" an toàn, hàng năm gia chủ phải sắm lễ vật cúng thần sông vào ngày rằm tháng bảy. Cái vụng nước mà bố mẹ Lê Văn Vận lặn xuống, trước đã có thằng bé chết đuối lúc cưỡi trâu bơi qua sông. Mãi sau này người ta mới biết, nó bị dòng nước hút xuống đáy sông, xoay tròn như cối xay lúa rồi chui tọt vào cái nồi đồng điếu to đại, mắc cứng ở đó không nổi lên được. Thằng bé chết bất đắc kỳ tử nên rất thiêng, cứ mỗi năm đến mùa lũ nó lại bắt một người.

Trở thành kẻ mồ côi, Lê Văn Vận tiếp tục nghề sông nước trên con thuyền nát và mấy tay lưới của cha mẹ để lại. Hôm ấy trời bất chợt đổ mưa. Sông Lăng chỉ là một chi lưu của sông Yên nhưng trên thượng nguồn có lũ nên nước về rất nhanh. Sóng vỗ oàm oạp, cuồn cuộn đuổi nhau. Mặt sông mở rộng ra, chưa đầy nửa giờ đã nhấn chìm những bãi chuối hột và cả những vạt tre chắn sóng dưới làn nước đỏ quạch phù sa. Chẳng hiểu sao, sóng to gió lớn như thế mà lão lái Tình dám cho đò qua sông. Từ trên đê, Vận hồi hộp theo dõi số phận con đò, trong bụng không dám chắc nó có thể bình yên cập bến dù lão ma rượu này là một tay chèo cự phách. Và điều tệ hại đã xảy ra. Trong cuộc vật lộn tuyệt vọng giữa cái sống và cái chết, nếu không phải một gã dân chài quen nghề sông nước như Lê Văn Vận thì bà Ba khó lòng thoát khỏi nanh vuốt của thuỷ thần. Sau trận đắm đò xuýt chết, chánh Đàm cấm Thị Lánh đi chợ xa. Lão cho mời lang Vị, một thầy thuốc nổi tiếng trong vùng đến nhà bắt mạch, bốc thuốc bồi dưỡng sức khoẻ cho bà Ba. Thị Lánh vốn có thuật mê hoặc đàn ông. Trong lúc ái ân, cô ta giở đủ mánh khoé nhà nghề buộc chánh Đàm phải làm theo ý mình. Họ Khúc si mê người đàn bà đến mức gần như quên hẳn trên đời còn có bà Cả, bà Hai. Các bà trước đây sống với nhau như chó với mèo, giờ tự nguyện liên minh thành một khối để đối phó lại với kẻ thù của mình mà bà Cả Huê vẫn gọi là "con hồ ly tinh". Mọi việc thu chi trong nhà giờ thuộc quyền Thị Lánh. Cô ta phớt lờ hai bà chị nhưng lại đối xử khá rộng rãi với tá điền. Những gia đình nghèo quá đôi khi cô ta còn vượt mặt Khúc Đàm tha hẳn địa tô.

Năm ấy, vùng Ba Tổng được mùa. Trai gái làng Cùa, Mạc Điền, Đậu Khê và Bối Khê rủ nhau trảy hội xuân vào ngày mồng sáu tháng giêng. Phần quan trọng nhất là lễ đền Vân Nương đã có các chức sắc hàng tổng mà đứng đầu là chánh Đàm đảm nhiệm. Thanh niên nam nữ rủ nhau ra bãi sông chơi đu, đấu vật, kéo co, bắt vịt và leo cây chuối. Sân chơi là một khu bãi rộng hàng chục mẫu chạy dọc ven đê, vì chưa đến vụ gieo trồng nên cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ chân chim, cỏ mật mọc chen nhau, mịn màng chẳng khác gì một tấm thảm xanh. Đây đó điểm xuyết những đoá cúc dại vàng sẫm hoặc vài bụi tầm xuân xoè những cánh mỏng phơn phớt hồng ngời lên trong ánh ban mai. Chếch về phía nam một chút, nơi tiếp giáp với bãi cỏ và cánh đồng Mả Dứa là đầm Ma. Cạnh đầm Ma có một gò đất chừng hơn trăm mẫu nhô lên như quả đồi thấp, mọc chen chúc đủ các loại cây, chẳng biết do con người trồng hay đã có từ bao đời trước mà rậm rạp, xanh tốt như một khoảnh rừng. Chim chóc, cò vạc từ khắp nơi, vượt sông Lăng kéo nhau về làm tổ, chiều chiều lại vỗ cánh ràn rạt bay đi kiếm mồi. Người làng Cùa coi khu rừng là một thế giới hoang vu, huyền bí, thậm chí còn là nơi cư ngụ của phần lớn ma quỷ trong vùng. Chỉ có lũ trẻ trâu, bọn đánh giậm, dân móc cua, câu ếch chẳng biết sợ là gì. Chúng ngang nhiên vào rừng leo lên cây lác bắt chim, rung tổ để cò con rơi xuống. Có thằng còn dùng ống xuỳ đồng bắn được một con chim mào đỏ, lông sặc sỡ, đuôi dài như đuôi công. Ông Cửu Mẫn, một thầy phù thuỷ chuyên tróc ma quỷ về quẫy nhiễu dân làng bảo đó là loài phượng hoàng. Bố mẹ thằng bé sợ quá, vụt cho nó mấy roi rồi thả con chim ra. Người ta đồn gần đây trong rừng có nhiều sự lạ. Ông Tiên Nhũ là dân thiến lợn rong khắp tổng bảo, một lần vào đấy tìm lá mộc hương bắt gặp người đàn bà trẻ, rất xinh đẹp, tóc trắng như bông, ngồi vắt vẻo trên sợi dây leo giữa hai cây báng cổ thụ lắc lư đưa võng. Nhìn thấy Tiên Nhũ, con ma bật cười sằng sặc làm lão chết khiếp mãi đến chiều mới tỉnh lại. Còn bà Đồng Dự mắt toét chuyên lừa bịp con nhang đệ tử, thì thề sống thề chết đã có lần được "Mẫu" gọi lên rừng trao cho thứ quả nhỏ như quả quýt, ăn vào có thể chữa được bách bệnh. Ra đến cửa rừng chẳng may gặp con rắn mười hai mào phun phè phè thè ra cái lưỡi đỏ lòm, bà ta sợ quá, chạy bán sống, rơi mất quả "thuốc quý".

Cũng như mọi năm, hội làng bao giờ cũng bắt đầu bằng việc rước tượng Vân Nương, một dâm nữ bị thả bè trôi sông đã gây ra tấn thảm kịch cho làng. Chuyện xưa kể lại, ngày ấy làng Đậu có một cô gái xinh đẹp là Thị Vân, con hoang của một mụ hành khất vẫn thường qua lại ăn xin vùng Ba Tổng. Lý trưởng làng Cùa rất ghét phường du thủ du thực hay ăn lười làm, hễ thấy ăn mày đến là đuổi như đuổi tà. Hôm ấy, hai mẹ con Thị Vân tay bị tay gậy, nón mê áo rách vừa vào cổng nhà lý Thìn đã bị cả đàn chó xổ ra bâu xung quanh. Chó nhà lý Thìn toàn loại dỏng tai, cao to và dữ dằn như hổ báo. Chúng nhe nanh nhọn trắng nhởn, thè cái lưỡi đầy gai, làm lớp da mõm co lại, kéo những sợi râu mép vểnh ngược lên trong tư thế bị kích động, cổ họng phát ra thứ âm thanh gừ gừ uy hiếp, sẵn sàng lao vào cắn xé. Trong giây phút hiểm nguy, người mẹ sử dụng cây gậy như một thứ vũ khí tự vệ khá hiệu lực. Chiếc gậy lăm lăm trong tay, bà già thủ thế, thỉnh thoảng lại vụt trúng mõm một con. Nhát vụt của người mẹ hành khất ốm yếu hầu như không mấy tác dụng đối với sức mạnh tổng lực của đàn khuyển béo tốt và tuyệt đối trung thành với chủ. Sau một hồi cầm cự, sức lực của bà lão đuối dần, cuối cùng, con đầu đàn có chiếc bờm vàng cháy như bờm hổ dùng hàm răng cứng như sắt, giật được cây gậy tạo cơ hội cho cả bầy lao vào mẹ con Thị Vân. Người mẹ bị đàn chó xé toạc tấm áo đụp, cắm những chiếc nanh nhọn vào tấm thân gầy còm trơ xương sườn như cách hạ sát con mồi của lũ sư tử đói. Chỉ một thoáng, người đàn bà hành khất chỉ còn là một khối bùng nhùng nhầy nhụa máu. Giữa cơn bấn loạn, con bé sợ quá nhắm mắt thét lên mấy tiếng như tiếng tru của bầy sói hoang vào những đêm trăng giá lạnh. Tiếng thét nghe thê thảm bởi thứ âm sắc hoang dã thậm chí rùng rợn làm lũ chó cụp tai, run lên bần bật, rồi nhất loạt bỏ xác chết, cúp đuôi chạy vào nhà.

Đứa bé gái được một cặp vợ chồng không con nhận nuôi sau này trở thành cô gái đẹp nhất làng. Đến tuổi trăng tròn, cô ta không lấy chồng mà dùng nhan sắc của mình chài hết lượt đàn ông nhất là bọn chức việc có vai vế. Các bà vợ có máu sư tử Hà Đông lồng lộn như con thú bị nhốt trong chuồng bỏ đói lâu ngày. Cánh trai làng vác gậy nện nhau còn gia đình lý trưởng, phó lý, chánh hội, chưởng bạ thường xuyên lục đục, và cứ mỗi lần như thế các bà lại bị đức ông chồng thượng cẳng chân hạ cẳng tay thâm tím mặt mày. Làng Cùa dậy lên làn sóng phẫn nộ đòi lý trưởng phải trừng phạt con dâm nữ bằng cách thả bè trôi sông. Lý trưởng là gã máu dê đã nhiều lần mò đến ngủ qua đêm với cô con gái người hành khất, định giải cứu người tình nhưng không thoát. Thị Vân bị trói vào bè chuối. Tấm biển ghi tội "lẳng lơ, quyến rũ đàn ông làm bại hoại thuần phong mỹ tục" cắm ngay dưới chân. Chiếc bè bập bềnh trên sóng lắc lư giữa dòng nước đục ngầu. Dân làng đổ ra xem như đi hội. Đàn ông lén lau nước mắt. Đàn bà hả hê ra mặt. Vậy là từ nay làng Cùa trừ được một con yêu tinh. Trôi gần đến vụng Giải, chiếc bè tự nhiên dựng ngược rồi bị hút vào xoáy nước. Cũng thời khắc ấy, trời bỗng nhiên tối sầm. Từ đâu đó vọng về những tiếng nổ lụp bụp kéo dài thành chuỗi lúc xa lúc gần, rồi một trận mưa sầm sập trút xuống trắng cả vùng Ba Tổng. Trận mưa tai ác kéo dài ba ngày ba đêm làm vỡ bảy quãng đê nhấn chìm làng Cùa giữa một đại dương mênh mông là nước. Các vị chức sắc là những kẻ đầu tiên làm vật hiến tế cho cơn thịnh nộ của thuỷ thần. Tiếp theo là đàn bà con gái nhất là những kẻ từ lúc mới sinh ra đã nhiễm thói ghen ngược. Trai tráng vốn dai sức, bằng mọi phương tiện có được, họ dìu nhau đến được rừng Hóp nên phần lớn qua khỏi cơn hồng thuỷ. Mấy hôm sau nước rút, bà phó Đễ, một trong bảy phụ nữ sống sót, được thần nhân báo mộng:

- Dân làng Cùa phạm tội lớn, dám hành hình nữ thần bảo hộ hạt Ba Tổng thác sinh làm con gái người hành khất. Muốn thần không giáng hoạ phải lập miếu thờ. Trong miếu tạc một pho tượng phụ nữ khoả thân nằm nghiêng trên khám sơn son thiếp vàng. Hàng năm cứ đến ngày mồng sáu tháng giêng mở hội rước thần chủ ra sông tắm rồi lại khiêng vào miếu. Tám người khiêng kiệu phải là gái chưa chồng nhưng đã mất trinh. Làm được như thế Vân Nương sẽ khiến cho mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu.

Đây là lễ hội đông vui nhất vùng Ba Tổng. Ngoài việc tắm tượng cầu mát, các nam thanh nữ tú còn có nhiều trò du hí. Chơi đu bắt đầu bằng ba cặp nam nữ. Nam áo the, quần chúc bâu, khăn xếp. Nữ áo tứ thân, váy đũi, thắt lưng xanh, tóc bỏ đuôi gà. Những chiếc đu vừa đủ chỗ cho bốn bàn chân đặt sát nhau, được cố định bằng tám cây tre đực già vừa dài vừa thẳng đặt chéo nhau, gốc chôn xuống đất ngọn néo chặt, xuyên gióng ngang. Dây đu cũng bằng tre nhưng là cây tre bánh tẻ vừa dẻo vừa mềm, văng suốt mấy ngày hội vẫn an toàn. Khi đôi bạn đã nhún đu đến tốc độ cần thiết, do quán tính, nó cứ văng đi văng lại theo một hành trình mỗi lúc một cao làm cho người ta có cảm giác lâng lâng như là đang bay lên trời bằng cặp cánh của chính mình. Đu bay, gió vờn những tà áo tứ thân xanh đỏ rực rỡ như cánh cào cào giã gạo. Váy lĩnh của các cô con nhà giầu phồng lên như những chiếc nơm. Mỗi khi dây đu đổi chiều, gió đẩy ngược, gấu váy tốc lên quá đùi phô ra phần da thịt nõn nà rất trần tục mà lại vô cùng bí hiểm.

Bà Ba xuất hiện ở hội từ ngày đầu tiên với tất cả sự háo hức của một cô gái trẻ đa tình. Vào dịp hội hè, chánh Đàm không giữ vợ ở nhà mà có giữ cũng chẳng được. Cô ta sẽ tìm trăm phương ngàn kế để thoát khỏi sự kiềm toả nặng tính gia trưởng của lão già cả ghen. Lúc vào đu, bà Ba được xếp cặp với con trai chánh hội Hạp. Tay này là một gã bạo gan, vừa nhún bàn đu vừa thò tay bóp vú người đẹp. Bà Ba nghiêm mặt bảo:

- Này ! của bụt mất một đền mười, đừng tưởng bở.

Hắn lim dim cặp mắt lươn, hếch cái mũi sần lốm đốm những mụn trứng cá bỡn cợt:
- Trước khi ra hội, đây đã vào chùa thắp hương. Đức phật dạy, oản thiên hạ ngon lắm, lộc trời cho tội gì không nếm thử.
- Thôi đi, đồ nỡm ...

Hắn cười hềnh hệch tiện tay kéo dải thắt lưng nhiễu tím của bà ba. Động tác kéo không phải là cố ý nhưng do phản ứng giới tính, Thị Lánh sợ bị tuột váy vội rút tay giữ thắt lưng. Chỉ một thoáng bất cẩn, cây đu mất thăng bằng làm bà ba chới với tuột tay rơi xuống… Tính mạng bà Ba lúc này là ngàn cân treo sợi tóc. Những người đứng xem chưa biết xử trí ra sao, không ít các bà các cô phải nhắm mắt chờ một kết cục tất yếu, thì bất chợt một chàng thanh niên phi thân như một mũi tên đỡ được Thị Lánh vừa rơi trúng tầm tay. Cả hai cùng ngã, tất nhiên là cú ngã không hề êm ái chút nào nhưng nó đã cứu được tính mạng vợ ba chánh tổng. Bấy giờ mọi người mới xúm lại xem chàng trai liều lĩnh ấy là ai. Thật không thể nào tin được lại chính là gã thuyền chài Lê Văn Vận.

Lần này chánh Đàm sai bà Cả Huê đích thân mang lễ xuống thuyền tạ ơn anh thuyền chài. Thị Lánh tuy còn đau vì tay trật khớp những vẫn đòi đi theo. Trong cuộc diện kiến dưới khoang thuyền chật hẹp nồng nặc mùi cá, bà Ba nhìn thân hình vạm vỡ với những bắp thịt săn nổi cuồn cuộn của Lê Văn Vận bất giác thở dài, thỉnh thoảng lại liếc mắt đưa tình. Anh này từ bé đến lớn chưa bao giờ được ánh mắt đàn bà ve vuốt khiến khuôn mặt ngăm ngăm nóng bừng, tim đập thình thịch còn miệng thì lúng búng không nói lên lời. Khi khớp tay khỏi, bà Ba lấy cớ đi thăm ruộng đồng Quan, ra sông Lăng tìm gặp ân nhân đã hai lần cứu mạng. Hôm ấy, Lê Văn Vận vừa thu lưới định mang cá lên chợ, bà Ba xin mua hết rồi trả số tiền gấp hàng chục lần giá trị thực của nó. Sau phút lúng túng đầu tiên, Lê Văn Vận trở nên bạo dạn bởi cái nhìn đầy ý nghĩa của người đàn bà đẹp. Hắn bảo:

- Chỗ cá hôm nay không đáng là bao, xin biếu bà Ba, lần sau sẽ lấy tiền.

Thị Lánh chợt thoáng một ý trong đầu:
- Anh Vận có muốn làm rể ông Chánh không ?

Chàng ngư phủ giật mình lắc đầu:
- Bà Ba cứ đùa. Tôi là phận đũa mốc đâu dám chòi mâm son.

Bà Ba liếc Vận cười khẽ, chiếc răng khểnh phô ra trắng loá làm gương mặt xinh đẹp có chiếc cằm lẹm ngời lên dưới ánh nắng sớm.
- Anh hãy tin tôi. Ai lại nói đùa một chuyện hệ trọng như thế. Mọi việc cứ để tôi lo. Có điều con bé hơi bị khoèo…

Đêm hôm ấy, lúc đi ngủ, bà Ba bảo chánh Đàm:
- Con Hài nhà mình sắp mười bảy, cũng nên tìm nơi chốn cho nó thành gia thất.

Chánh Đàm từ lâu vẫn ấm ức vì cô con gái tật nguyền nay thấy vợ nói chuyện gả chồng, lão nhấm nhẳng bảo:
- Có mấy đám dạm hỏi nhưng đều chẳng ra gì. Nhà phó hội Lẫm thì môn đăng hộ đối đấy nhưng thằng con lại dở người, thỉnh thoảng lăn quay ra như phải gió. Ngữ ấy chỉ có hầu nó suốt đời, khổ con gái mình. Còn thằng Đẩu nhà lý Cựu mới tý tuổi đầu đã nghiện thuốc phiện, người như hình nhân thế mạng. Của ấy chắc gì sống được đến ba chục tuổi. Vậy mà lão Cựu chẳng biết điều, đòi hồi môn những ba chục đồng, bà nghĩ xem có quá đáng không. Thà để con Hài ở vậy còn hơn.

Thị Lánh nắm được tâm lý chồng. Lão vốn keo kiệt, rất xót ruột khi phải đem gia sản cho người khác, liền bàn:

- Con bé mang tật bẩm sinh như thế ông mà kén chàng rể môn đăng hộ đối thì có mà sạt nghiệp. Tôi nghĩ, ông nên bàn với bà Cả, bà Hai chọn một thằng tá điền nào hiền lành, tử tế gả quách cho nó nên vợ nên chồng là hơn.
- Tôi đã tính đến chuyện ấy nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn thấy không ổn. Mình đường đường là chánh tổng đương chức, làm thế bọn đàn em nó coi thường.
- Ở đời không thể chu toàn mọi nhẽ . - Bà Ba thuyết phục - Trong hai điều ấy chỉ có thể chọn một mà thôi. Hay là ông muốn con bé chết già ở nhà họ Khúc?
-Ý bà thế nào ?
- Còn thế nào nữa. Cưới xong cho nó ở rể, chẳng những không mất con gái mà còn được thêm sức lao động, khác gì người ở.
Chánh Đàm xem ra đã xuôi ướm hỏi vợ:
-Thế ... bà đã nhắm đứa nào chưa ?
- Có thì có rồi nhưng phải hỏi ý kiến bà Cả.

Khúc Đàm gắt:

- Bà Cả, bà Cả, quên con mụ "điếc" ấy đi. Tôi là bố nó lại không gả chồng cho nó được à ?
-Ấy là tôi nói thế để việc nhà trong ấm ngoài êm.
- Cứ tán hươu vượn mãi, nó là đứa nào ?
- Chính cái tay thuyền chài đã cứu tôi mấy lần ấy. Anh ta không cha mẹ, lại khoẻ mạnh, hiền lành, hợp ý ông quá rồi còn gì.
- Để xem xem đã ... Nó là dân hạ bạc sợ không quen việc đồng áng.
- Còn xem gì nữa. - Bà Ba gắt khẽ - Đám ấy được đấy. Còn việc cày bừa, dần dần rồi sẽ quen, lo gì.

Mấy hôm sau chánh Đàm bàn với bà Cả Huê. Nói là bàn nhưng thực chất là việc đã được quyết định từ trước. Bà Cả Huê tím mặt biết thừa đấy là âm mưu của "con yêu tinh" nhưng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Chánh Đàm vốn sẵn máu gia trưởng, lão đã quyết định việc gì thì ngay cả hàng chức sắc trong tổng cũng răm rắp thực hiện không ai dám bàn ra tán vào. Mẹ con bà Hai gần như là người thừa trong gia đình họ Khúc. Bà Hai tuy cũng sắc sảo chẳng kém ai nhưng vì thân phận lẽ mọn, bị chèn ép từ nhiều phía nên lép vế. Việc gả chồng cho Khúc Thị Hài là sự kiện lớn, ấy vậy mà bà ta chỉ được Khúc Đàm thông báo như một mệnh lệnh. Bà Ba được chồng giao trách nhiệm làm tín sứ thăm dò phản ứng của anh thuyền chài, bước xuống bãi ngô, nách cắp thúng, tay vung vẩy như người đi chợ. Sông Lăng mùa này nước lặng. Những vạt sóng lăn tăn đuổi nhau vỗ óc ách vào kè đá. Từ ngã ba Môi, đoàn thuyền đá nối nhau ngược dòng về bến Trung Hà. Mấy hôm nay gió đổi chiều những cánh buồm nâu sẫm hoặc mận chín đã được cuốn lại. Cánh dân phu cởi trần, tì sào vào ngực, đẩy cho con thuyền nhích dần từng bước. Đó là những chàng trai khoẻ mạnh ngực vồng lên như đô vật, vừa chống thuyền vừa hò một điệu dân ca nghe rất lạ tai. Những câu hò hoàn toàn ngẫu hứng, trầm trầm, thoát ra một cách khó nhọc từ những lồng ngực vạm vỡ bị chùm dây chão níu lại.

Bà Ba phải chờ khá lâu vì chàng ngư phủ đi gỡ lưới chưa về. Ngồi trên mom sông lơ đãng ngắm những con thuyền xuôi ngược, tưởng như rất bình thản, nhưng thực ra lòng dạ Thị Lánh đang nghĩ về những chuyện mới xảy ra gần đây. Có phải đấy là mối lương duyên nên anh ta đã hai lần cứu mình ? Liệu "người ta" có bằng lòng làm rể ông Chánh ? Cuộc hôn nhân này có lợi cho ai ? Con thuyền câu vào lạch sông. Lê Văn Vận đã nhìn thấy Thị Lánh từ xa. Anh ta buộc thuyền rồi xách giỏ nhảy lên bờ.

- Bà Ba ra mua cá ?
Thị Lánh liếc mắt tình tứ nhìn anh thuyền chài:
- Chuyện tôi nói hôm trước anh nghĩ kỹ chưa ?

Lê Văn Vận nhìn bà Ba ngập ngừng:

- Tôi sợ ông Chánh lắm. Trai vùng Ba Tổng thiếu gì mà ông ta lại gả con gái cho một gã quăng chài. Hay là có chuyện uẩn khúc ?
- Chắc anh nghe người ta bàn tán nhiều về ông Chánh ?
- Cô hỏi thế là thế nào ? - Vận bắt đầu gọi bà Ba bằng cô.
- Chẳng thế nào cả. - Thị Lánh bất ngờ cầm tay Lê Văn Vận, nhìn thẳng vào mắt anh ta - Đừng nên bỏ qua dịp may tự nhiên đến với mình. Với người dưng, một ngày còn nên nghĩa huống hồ anh đã hai lần cứu tôi.
Câu nói cuối cùng khiến Lê Văn Vận nghe ra.

Ít lâu sau, chàng ngư phủ nhờ bà Hai Cõn, người xóm Chùa mang trầu cau đến nhà chánh Đàm dạm hỏi Khúc Thị Hài. Chánh Đàm nhìn anh con rể tương lai khoẻ mạnh, tướng mạo khác người trong bụng cũng phần nào bớt đi nỗi ngượng ngùng với xóm làng. Lão ra điều kiện cưới xong phải bỏ hẳn nghề sông nước về ở rể. Mẹ con bà Hai mừng như bắt được vàng. Điều này cũng đúng với lẽ tự nhiên. Một cô gái tật nguyền bẩm sinh, dù là con nhà chánh tổng đi chăng nữa cũng chẳng thể treo cao giá. Già kén kẹn hom, ế là cái chắc. Người hậm hực nhất là bà cả Huê. Bà có linh cảm, cuộc hôn nhân này dữ nhiều lành ít, vì từ lâu bà đã nhìn rõ tâm địa Thị Lánh.

Trước ngày cưới ít lâu, hôm ấy chánh Đàm cưỡi ngựa lên huyện từ sớm trình quan về việc tu bổ đê kè, bà Ba xách làn hương hoa và nải chuối ra miếu Vân Nương. Lễ xong Thị Lánh ra mom sông. Lê Văn Vận cắm sào đang nấu nướng trong thuyền. Mom sông lúc này không một bóng người. Không gian tuyệt đối yên tĩnh. Gió từ cồn Vành thổi sang lật lá ngô ràn rạt. Nước lũ từ thượng nguồn bắt đầu về đỏ hồng dưới ánh nắng nhạt. Lánh rón rén bước xuống sạp thuyền làm Vận giật mình:

- Kìa ! Bà Chánh.

Thị Lánh đặt làn vào khoang thuyền bảo:
- Hôm nay anh Vận phải trả công cho tôi ...

Chàng ngư phủ nhìn ánh mắt của người đàn bà, hiểu ngay nhưng vẫn ỡm ờ:

- Tôi nghèo lắm, chỉ có mỗi con thuyền rách.
- Có đấy, chàng Trương Chi ạ - Bà Ba xáp lại gần chàng trai, giọng thì thầm - Chàng phải giúp em, nếu không em sẽ bị đuổi khỏi nhà ông Chánh. Mà đến nước ấy chỉ còn cách nhảy xuống sông.
- Cái gì ? Cô nói gì ? Vận bất ngờ nắm bàn tay Lánh hỏi gấp gáp.
- Em cần một đứa con trai.

Vận lặng lẽ gật đầu rồi lùa tay vào chiếc yếm lụa mân mê hai bầu vú nóng hổi của bà Ba. Người đàn bà ưỡn ngực ép sát vào Lê Văn Vận, đẩy anh ta ngã xuống sạp thuyền rồi trườn lên bụng như một con rắn. Anh thuyền chài ôm ngang vai bà Ba, ghì riết làm cô ta gần như nghẹt thở, không phải bởi đôi cánh tay vạm vỡ của người thanh niên chưa từng trải mùi đời, mà bởi sự đụng chạm xác thịt sau một phản ứng dây chuyền kích thích sự hưng phấn đến tột đỉnh của phần nhạy cảm nhất, vi diệu nhất trong tâm hồn. Tấm váy lụa tuột ra và Lê Văn Vận đã lật người trèo lên bụng cô ta như thế nào cả hai đều không nhớ nữa, chỉ biết khi Thị Lánh cầm chiếc....... đã cứng lên, thẳng đuỗn như thanh sắt nguội của chàng ngư phủ ấn mạnh vào ........ bằng một động tác khá thuần thục thì đất trời dường như tối sầm lại. Mặt sông Lăng bất chợt nổi sóng. Con thuyền chòng chành theo một vũ điệu kỳ quái bởi sự cộng hưởng của cả hai loại dao động, một trong thuyền, một ngoài thuyền. Cơn mây mưa qua đi, con thuyền đã bớt rung lắc, bà Ba mặc lại váy thắt dải lưng bằng nhiễu tam giang, cắp thúng bước lên bờ lẩn vào vườn chuối.

Đám cưới Lê Văn Vận và Khúc Thị Hài được tổ chức theo nghi lễ truyền thống với đầy đủ các nghi thức diệu vợi của của vùng Ba Tổng trừ công đoạn đưa dâu. Chàng ngư phủ không cha mẹ, không họ hàng thân thích nhưng bà Cả Huê đã chọn được một dàn diễn viên đóng thế tuyệt vời để che mắt thiên hạ. Không ít các vị chức sắc trong hạt biết rõ mười mươi Lê Văn Vận là gã thuyền chài gặp vận đỏ mà vẫn bán tín bán nghi, hay là hàng xứ đồn nhảm về thân phận anh ta. Lê văn Vận trong trang phục ngày cưới: áo the, khăn xếp, quần ống sớ còn nguyên nếp gấp bên cạnh cô vợ khoèo tay lần lượt ra mắt quan khách. Khúc thị Hài mắc áo mớ ba, váy lụa Cẩm La, tóc đuôi gà. Cánh tay tật nguyền gập lại một bên nách, bàn tay cứ ngọ nguậy mỗi khi hai vợ chồng tiến lui giữa các mâm rượu.

Phó lý cựu Phạm Kiền là tay thầy cò lắm mưu nhiều kế, thù chánh Đàm đến tận xương tuỷ sau vụ tranh chấp chức lý trưởng cũng được mời, nhìn quang cảnh đám cưới, bĩu môi bảo với thày đồ Sách người xóm Chùa:
- Ông tính xem, sau cái trò cưới xin bịp bợm này lão Chánh còn giở thêm chiêu gì nữa ?

Đồ Sách nghèo kiết xác lại tham ăn chẳng cần để ý đến lời xỏ xiên của ông phó lý Cựu, chỉ chăm chăm vào mấy đĩa thức ăn, miệng nhồm nhoàm nhai, tay gắp lia lịa, thỉnh thoảng lại tợp một ngụm rượu. Cựu Kiền nhìn Đồ Sách cười nhạt:

- Ông có nghe tôi nói không đấy ?
- Có chứ. - Thầy đồ nuốt vội miếng cổ hũ. Miếng thịt thái to quá, lão xuýt bị nghẹn - Mà ông bảo cái gì nhỉ ?

Ông Cửu Biềng, người xóm Đình đã có thời làm phó tổng, từ đầu bữa vẫn chăm chú nghe câu chuyện của phó Cựu, bấm tay lão nói nhỏ:
- Phú quý sinh lễ nghĩa, ông còn lạ gì trò đời. Đừng bàn đến chuyện ấy nữa. ở đây tai vách mạch rừng...
- Tôi đếch sợ. Chúng nó có giỏi ...
- Thôi xin ông. Khi nào rảnh rỗi, mời ông Cựu đến nhà tôi, ta nói chuyện.

Thực khách vừa đánh chén vừa nói chuyện râm ran. Phía cuối rạp, phường bát âm thỉnh thoảng lại tấu nhạc. Đám nhạc công gồm ba ông già và một bà còn trẻ nghe nói mời tận trên tỉnh về. Mở đầu, dàn nhạc tấu bản "Quan trạng vinh quy" theo điệu "Xuân tình". Người phụ nữ trung niên vừa ôm đàn nhấn những phím đầu tiên cả rạp bất chợt dừng đũa, lặng đi. Những âm thanh trầm đục như tãi ra giống tiếng trống trận làm nền cho một đoạn cao trào khởi phát ở một quãng rất cao rồi dừng đột ngột. Cử toạ sừng sờ nghĩ rằng một dây bị đứt. Nhưng không phải. Khoảng lặng vừa đủ độ dừng, một hợp âm ngọt ngào với kỹ thuật nhấn nháy điêu luyện bất chợt rung lên diễn tả tiếng vó ngựa gõ trên đường quan đưa ông trạng tân khoa về cố hương gặp người vợ tao khang bao năm gánh gạo nuôi chồng ăn học. Hết điệu "Xuân tình" người đàn bà cầm phách gõ nhịp cho hai ông già chơi bản "Hành vân" trên cây đàn thùng. Tiếng đàn thùng nghe trầm trầm mà tao nhã, diễn tả được tâm trạng đôi vợ chồng đêm tân hôn với những cung bậc khác nhau, sắc thái khác nhau mà không một thứ ngôn ngữ nào thể hiện nổi. Nhịp "Hành vân" như mây bay trong vũ trụ bao la, như cái thực ẩn trong cái mộng là niềm bâng khuâng kim cổ trong nỗi u hoài trần thế.

Lúc vào khấn gia tiên, chánh Đàm ngồi chễm trệ trên chiếc ghế bằng gỗ trắc chạm trổ rồng phượng cầu kỳ như ngai vàng cuả đương kim hoàng đế. Bà cả Huê, bà hai Thoả và bà ba Lánh "ngự" trên sập gụ. Sau khi thắp hương trước bàn thờ gia tiên, đôi trẻ lần lượt lạy các bậc phụ mẫu đã có công sinh thành, nuôi dưỡng tân nhân nên người. Chàng ngư phủ đến trước mặt bà Ba có vẻ ngượng ngùng, chẳng phải vì bà này còn quá trẻ, chỉ hơn chú rể một hai tuổi, mà anh ta thoáng hình dung lại cuộc "tao ngộ chiến" nhớ đời trong khoang thuyền hôm nào. Trong khi ấy, Thị Lánh khẽ mỉm cười, đưa mắt khuyến khích người tình và thản nhiên nhận lễ. Cuối cùng thì mọi thủ tục phiền toái của đám cưới cũng đã xong. Cô dâu mừng đến chảy nước mắt vì thoát khỏi bộ y phục mớ ba rộng lùng thùng với đủ các thứ dây nhợ lằng nhằng. Cánh tay khoèo lại được tự do. Đêm tân hôn, khi cả hai lên giường, Lê Văn Vận bạo dạn lột váy Khúc Thị Hài để lộ tấm thân trần truồng, mịn màng, ngồn ngộn như pho tượng cẩm thạch với những đường cong đầy ma lực như mời gọi, nhưng rồi gã thuyền chài chỉ khẽ thở dài, để nguyên cả áo quần nằm quay đầu vào vách. Có lẽ hắn đã uống quá nhiều rượu nên mụ mẫm người đi, hoặc có thể qua hàng loạt những nghi lễ phiền phức mà một tân lang bắt buộc phải đóng cho trọn vai kịch, đã hút kiệt sức lực, không còn chút hào hứng nào nghĩ đến tấm hồng nhan đang muốn cùng mình khám phá những bí mật của giây phút thần tiên.

2.

Vợ chồng Lê Văn Vận được Khúc Đàm cắt cho ngôi nhà ba gian giáp bờ ao. Ngôi nhà này trước là chỗ ăn nghỉ của tá điền những lúc thời vụ, mấy năm gần đây lão chuyển họ ra Trại Sen để tiện trông nom khu ruộng màu nên vẫn bỏ không. Hoá ra chàng ngư phủ làm ruộng cũng chẳng kém gì thả lưới bắt cá trên sông. Chưa đầy một vụ, đường cày của hắn đã thẳng tắp, gốc rạ đều lật úp, phơi màu đất vàng suộm dưới ánh mặt trời. Việc đồng áng Vận làm băng băng chẳng kém gì những tá điền kỳ cựu đã từng lĩnh canh nộp tô gần như suốt đời ở nhà chánh tổng. Nhưng việc làm ưa thích nhất của Lê Văn Vận là xay lúa, giã gạo. Cái cối xay to đùng, lão Phó Đạc đóng vốn để cho hai người vậy mà một mình hắn quay có nửa buổi đã hết chín thúng thóc. Giã gạo Vận cũng làm một mình trừ những lúc có cô vợ khoèo tay đứng giúp chút ít cho đỡ mỏi chân. Cần giã bằng gỗ nhãn vừa to vừa nặng, cứ nâng lên hạ xuống theo nhịp chân của gã thuyền chài, mỏ chày nện xuống cối thình thịch, đều đều buồn tẻ. Công việc xay giã phần lớn được làm vào buổi tối. Với ngọn đèn Hoa kỳ ám khói đặt ở cạnh tường, Vận vừa nhún chân vừa đếm. Được chừng bốn năm trăm chày, chẳng cần bốc lên thử, hắn cũng biết hạt gạo đã trắng bong còn cám thì mịn và mát lạnh như bột lọc.

Có lần, bà Ba từ buồng lẻn xuống nhà ngang cùng giã với Vận. Một tay hắn bám giá đỡ, một tay xoa vào cái bụng đã lùm lùm của Thị Lánh khẽ hỏi:
- Mấy tháng rồi nhỉ ?
- Hình như năm tháng.
- Sao nhanh thế ?
- Còn nhanh gì nữa. - Lánh thì thầm - Cái Hài thế nào ?
- Chưa có gì . - Vận vòng cả hai tay ôm ngang bụng bà Ba, áp môi vào gáy cô ta nói nhỏ - Thôi, lên nhà kẻo ông ấy nghi .

Cái bụng của bà Ba mỗi ngày một to ra thì niềm vui của nhà họ Khúc càng lớn. Chánh Đàm dự tính, nếu trời
thương cho được thằng con trai thì lão sẽ làm khao. Sắp đến ngày ở cữ, bà Cả Huê cấm ngặt không để Thị Lánh làm bất cứ việc gì , hàng ngày bắt uống thuốc dưỡng thai của lang Chìa bên kẻ Bòng. Bà Ba ngán thuốc đến tận cổ, lại sợ cái thai to quá không ra được, chết cả mẹ lẫn con thì khốn, bèn ngầm đổ thuốc xuống ao. Lũ cá trắm chờn vờn bên dưới uống vào lớn như thổi. Những hôm thuốc bị hất ra vườn sau, chúng nổi lên hàng đàn, nhô hẳn đầu hỏi mặt nước, bơi theo vòng tròn, miệng hớp hớp không khí.

Đến kỳ sinh nở, bà Ba đau bụng ba ngày mà đứa bé vẫn chưa ra. Chánh Đàm hoảng quá cho đón hai bà đỡ cùng một lúc để phòng bất trắc. Gần sáng, nước ối vỡ nhưng ngôi thai ngược, một chân thò ra trước, mà chỉ nhìn chân thì không biết được là trai hay gái. Bà cả Huê thắp hương lầm rầm khấn trước bàn thờ phật Quan Âm mong ngài phù hộ độ trì cho Thị Lánh mẹ tròn con vuông. Chánh Đàm mặt tái mét cứ chắp tay sau lưng đi đi lại lại trước cửa buồng làm bà Hai bưng nồi nước thang mai hoa từ bếp lên xuýt chạm phải, gắt:
- Ông ngồi yên một chỗ cho chúng tôi nhờ.

Trong này, hai bà đỡ đang cãi nhau vì không bà nào chịu bà nào. Mỗi bà đều có cái lý riêng trong thuật xử lý ngôi thai mà chẳng quan tâm đến sản phụ đang nằm tô hô trên chiếc giường ba xà, mặt bóng nhẫy mồ hôi, hai mắt lờ đờ còn miệng thở như say nắng. Cặp đùi bà Ba lúc này có vẻ mập mạp hơn bình thường. Bàn chân bé xíu, tím ngắt của đứa trẻ thò ra khỏi âm hộ, ngọ nguậy chẳng khác gì cái vòi ở đầu ổ kén sâu khoai làm những sợi lông đen nhánh, loăn xoăn, ướt nhớp nháp phía trên bờ mu cũng lúc lắc theo như là bị gió thổi. Tình trạng nguy kịch ấy kéo dài chừng hai khắc thì Khúc Thị Hài đã sang làng Vạc đón được ông lang Thược. Ông này nổi danh khắp huyện Nam Thành về thủ thuật đỡ những ca đẻ khó và món thuốc gia truyền chữa bệnh sa đì. Việc làm đầu tiên là ông ta tống cổ hai con mẹ bẻm mép ra khỏi buồng, sau đó cho sản phụ uống một gói thuốc bột pha lẫn với mật ong. Ông cấm mọi người, kể cả chánh Đàm lảng vảng gần buồng rồi đóng sập cửa lại. Khi bàn chân thai nhi đã được ấn vào, lang Thược nhẹ nhàng xoa bụng bà Ba, vừa tìm cách xoay thai. Không đầy một khắc, ngôi thai trở lại thuận chiều, đứa bé lọt lòng mẹ khóc váng lên. Tiếng khóc của nó khoẻ đến nỗi mấy nhà hàng xóm bên kia bờ tường xây cao quá đầu cũng nghe tiếng. Chánh Đàm là người nhảy bổ vào đầu tiên. Đến khi nhìn thấy giữa hai đùi nhăn nheo đứa bé là một cái chim xinh xinh thì lão khóc nấc lên quỳ sụp trước mặt bà Ba. Thị Lánh tuy mất khá nhiều sức qua những lần rặn đẻ nhưng vẫn cố mỉm cười với chồng. Sau cơn vượt cạn, người đàn bà như được lột xác. Những gì là trần tục đều để lại phía sau. Trước mặt Khúc Đàm là một người thiếu phụ xinh đẹp, toả ánh hào quang rực rỡ như một tiên nữ giáng trần. Thằng bé vừa dài vừa rộng, mắt sáng, mũi nở trông ra dáng con nhà. Khi con trai đầy cữ, chánh Đàm đặt tên là Khúc Luận, đồng thời làm cỗ khao toàn thể chức sắc làng Cùa và họ hàng nội ngoại. Những dịp mở tiệc lớn như thế này, trong thực đơn đãi khách nhất thiết phải có món thịt ếch. Đây là truyền thống lâu đời của làng Cùa, mâm cao cỗ đầy đến mấy, thiếu đặc sản "gà đồng" cũng vứt.

Thật may, dịp ấy vào cuối tháng ba, bắt đầu có mưa rào. Trận mưa đầu tiên nước đã mấp mé bờ ruộng. Đồng gần đồng xa, lúa đang thì con gái, gặp mưa rào và sấm đầu mùa lớn nhanh như thổi. Mới chập tối, cả làng đã náo nức chuẩn bị cho buổi soi ếch đầu tiên trong năm. Đây là một cuộc tàn sát tập thể trên quy mô lớn tuy chỉ dùng phương tiện thô sơ nhưng tỏ ra rất hiệu nghiệm. Phổ biến nhất là đuốc. Đuốc làm bằng tre hoặc nứa khô chẻ nhỏ, buộc chặt, cháy rất đượm. Nhà giầu hoặc dân làm nghề chuyên nghiệp thì lên chợ Cháy mua đèn hộp sắt hình trụ có nắp gắn kính dầy như một khối chỏm cầu để hội tụ ánh sáng gọi là đèn "ló". Đèn "ló"thắp dầu lạc hoặc mỡ lợn, phía sau có tay cầm, bên trên là bộ phận thông khói gồm nhiều lá tôn mỏng xếp nếp. Cả hai loại phương tiện này đều nhằm cùng một mục đích là làm cho ếch loá mắt không nhảy được, chờ người đến tóm.

Từ canh hai, trời bắt đầu mưa nặng hạt, thỉnh thoảng lại có vài tiếng sấm lạc lõng từ đâu đó vọng về. Khắp cánh đồng đèn đuốc sáng như sao sa. Cha nào con ấy, anh nào em ấy, thậm chí chồng nào vợ ấy, áo tơi nón lá, tay đuốc tay chụp sẵn sàng vào trận. Lê Văn Vận cặp đôi với thằng Đà, cháu bà cả Huê mới từ làng Báng sang chơi. Cái đèn của Vận có mặt kính pha lê trong suốt không một gợn bọt, dày hai đốt ngón tay nên độ chiếu sáng rất xa. Mưa mỗi lúc một lớn. Nhiều bờ ruộng đã ngập. Đứng trên đống Ba Tầng, Vận nhìn khắp lượt các cánh đồng Chùa, đồng Hẻm, đồng Gà, đồng Chó Đá... đâu đâu cũng có ánh lửa chập chờn như đêm hội hoa đăng. Những ngọn đuốc khô nỏ cháy rần rật, tàn bay tứ tung như pháo hoa cà hoa cải theo từng nhịp bước lép nhép trên thảm cỏ lưỡi mèo ram ráp. Những hạt mưa đan chéo nhau đập lộp bộp vào nón lá rồi chảy thành vệt theo sườn áo tơi lấp loáng trong ánh lửa vàng nhạt hoặc đùng đục bởi những quầng khói loãng. Chàng ngư phủ bắt đầu cuộc tảo thanh từ một bờ ruộng trũng mọc dầy cỏ gà lẫn với cỏ chỉ. Đây là khu ruộng nhà chánh Đàm, bờ rộng hơn bốn tấc, đắp cao, thế mà đôi chỗ đã ngập lút, nước chảy rào rào. Một chú ếch cốm lưng nổi gai xanh, nhọn và bóng láng, cặp mắt như bị thôi miên bởi ánh lửa nhấp nhoáng phát ra từ thứ dụng cụ ma quái. Nó ngồi chống hai cẳng chân, mõm hếch lên phô ra trước "sát thủ" cái ức trắng toát như là khoe bộ cánh mới thửa được sau chuyến ngủ đông. Một tay rọi đèn, tay kia nâng chụp, Vận thận trọng nhích dần từng bước về phía con mồi, đến khi gã ếch cốm ngờ nghệch hiểu chuyện gì xảy ra thì đã bị chàng rể nhà họ Khúc dùng hai ngón tay túm chặt eo lưng. Bằng động tác thành thục, thằng Đà xoay lưng chìa chiếc vịt tre ra, và chú ếch cốm nhanh chóng bị tống vào qua lớp hom mềm cùng với lũ bạn xấu số. Đã ngớt mưa. Lúc này ếch nhái đang say. Đây là cơ hội vàng để tranh thủ "lèn" cho đầy giỏ. Phía bên kia, mấy chị em nhà đĩ Nhụt không có chụp. Con Nhinh chị cả, khua cây đuốc nứa dài hơn cả người nó, cháy rần rật để cho lũ em gồm năm đứa con gái, mỗi đứa chỉ nhỉnh hơn nhau cái chỏm, lội chòm chọp thi nhau vồ. Con Nhinh, con Nhính, con Nhỉnh mặc quần đùi, áo cánh nâu, không tơi, không nón, ướt từ đầu đến chân nhưng chẳng biết lạnh là gì. Mỗi khi vồ được một chú ếch, mấy chị em lại hét toáng lên. Con Nhút, con Nhít bé quá cũng đòi đi theo. Hai đứa cởi truồng đầu đội nón gủ bé tí trông như cây nấm. Đi được nửa bờ, con Nhít không theo kịp các chị, trượt chân ngồi xệp xuống, khóc hu hu. Cái Nhính quay lại đỡ em mới biết, nó ngã bị đỉa bám vào bẹn. Con chị tức quá, phát vào mông một cái: "Ai bảo mày cứ theo đi quẩn chân chúng tao ?". Con bé gan lỳ, nhiều lần mẹ đánh không khóc nhưng có tật sợ đỉa. Con Nhính quát:

- Bây giờ mày phải lên gò Dứa kia mà đứng, chốc nữa chị Nhinh quay lại đón.

Con bé lắc đầu quầy quậy:
- Ứ ừ ! Em sợ ma lắm.
- Thì đi . - Con chị lầu bầu - Nhưng lần sau bị đỉa cắn tao không gỡ cho đâu.

Cặp vợ chồng Thường Rỗ từ tối đến giờ đã chộp được lưng lửng vịt. Chị vợ còn trẻ, béo ục ịch, mỗi bước đi thình thịch như voi, thỉnh thoảng lại ngủ gật. Anh chồng bực mình quát:
- Đi khẽ thôi không ếch nó nhảy xuống ruộng hết.

Thường Rỗ là tay chân của chánh Đàm. Tay này nghiện thuốc lào, thỉnh thoảng lại lên sườn đống giở điếu cày ra hút sòng sọc. Thuốc ngấm, có khi hắn lăn quay ra bất tỉnh như người mắc bệnh động kinh, nhưng chỉ ít phút sau lại ngồi dậy xem như chẳng có chuyện gì xảy ra. Thường nổi tiếng là tay chụp ếch lão luyện. Từ trên gò đống đi xuống, vừa tắt qua dải bờ ngăn đôi chân ruộng cấy lúa tám đen với mảnh chiêm trăng đã làm đòng, hắn thoáng thấy một con ếch cụ ngồi chồm chỗm gần ngay lợi nước, điệu bộ hết sức cảnh giác. Toàn thân con ếch gần như vàng sẫm, lốm đốm hoa trắng. Cặp mặt của nó khá linh động cứ đảo đều đều theo mỗi vòng quay của cây đuốc. Thường Rỗ không lạ gì loại ếch đã thành tinh này. Chúng rất có kinh nghiệm trong việc đánh lừa cánh thợ săn. Phải thật bình tĩnh mới tóm được. Hắn khẽ hất chân về phía sau cho vợ lùi lại rồi nâng cần chụp nhích dần từng bước không hề phát ra một tiếng động nhỏ. Cây chụp gần như bất động nhưng ngọn đuốc lại chuyển động liên tục để tạo nguồn sáng ổn định cùng với hàng trăm ngàn tàn lửa vãi tung toé, nhằm mê hoặc thị giác đang rối loạn của con ếch già. Con ếch vẫn ngồi nghe động tĩnh. Một lúc sau nó gại gại chân sau chuẩn bị làm cú nhảy thoát hiểm vì đánh hơi thấy mùi tử thần thì Thường Rỗ đã phóng chụp từ một vị trí bất ngờ, trúng vào cái lưng lốm đốm. Con ếch bùng nhùng trong tấm lưới gai giẫy giụa một cách tuyệt vọng. Có lẽ đó là một vị ếch thủ lĩnh mà từ trước đến nay chưa bao giờ Thường Rỗ bắt được. Khoảng trống canh tư, cái vịt to bự của vợ chồng hắn đã gần đầy. Hắn lại lên gò đống làm mồi thuốc cho tỉnh ngủ. Lần này Thường Rỗ không say nhưng vợ hắn thì đã quá mệt vì giỏ ếch nặng lệch cả sườn, luôn miệng giục về. Hắn bảo:

- Chịu khó tí nữa, tôi kiếm thêm con cạp nong về ngâm rượu.

Vừa nói Thường Rỗ vừa nhảy xuống nong nước, định sang khu đồng Cổ Cò, tự nhiên thấy mắt cá chân đau nhói như chạm phải gai nhọn. Hắn co chân định nhổ vứt đi thì thoáng thấy một vật loằng ngoằng trườn về phía trước. Rắn! hắn vội huơ đuốc cho ngọn lửa bùng lên. Trời ơi ! Một con cạp nia bằng về néo đập lúa, khúc đen khúc trắng đang lẩn vào giữa đám cỏ thài lài. Thường Rỗ lặng người. Rắn đen trắng cắn nếu để chậm, thuốc tiên cũng đành bó tay. Vết thương của hắn phồng lên rất nhanh, chưa đầy nửa khắc, mu bàn chân phải đã sưng húp, buốt như có hàng ngàn vạn mũi kim chích vào. Vợ Thường Rỗ vốn to họng, lại trong lúc thần hồn nát thần tính, khóc toáng lên như bò rống. Tiếng gào của chị ta vang xa đến mức hầu như tất cả dân soi ếch trên đồng đều dỏng tai nghe:

- Ối giời ơi ! Có ai làm ơn làm phúc cứu chồng tôi. Nó bị rắn hổ lửa cắn sắp chết rồi.

Mấy chị em nhà đĩ Nhụt vồ ếch gần đấy, nghe tiếng vợ chồng Thường Rỗ gào, chạy đến trước nhất, đứng trơ mắt nhìn nạn nhân nằm như phục trên bờ cỏ. Tiếp đến là lão Khính cựu mõ làng. Lão này đến bên Thường, định nâng hắn dậy dìu lên sườn đống, nhưng vì sức lão yếu, mà tay này lại to như con trâu trương, đành chịu phép chờ cánh trai tráng. Lúc ấy, Lê Văn Vận và thằng Đà đang ở khu ruộng Chùa, khá xa đống Hủi.

Nghe tiếng kêu la vọng đến Vận bảo thằng bé:
- Ta quay lại phía ấy xem có chuyện gì xảy ra rồi về.

Thằng Đà gật đầu:
- Đầy vịt rồi, nhét thêm nữa sợ chết ngạt không để được đến hôm làm khao.

Khi hai anh em len vào đến nơi thì Thường Rỗ đã gần như phát cuồng. Người hắn nóng hầm hập, hai mắt trợn trừng toàn lòng trắng. Nhìn bộ dạng, Vận biết nếu không cấp cứu kịp thời, nọc độc ngấm vào máu thì trong vòng vài giờ nữa là hắn về chầu trời. Vốn là dân chài giầu kinh nghiệm, lại học được môn chữa rắn độc từ một bà già người Mán, đi ra ngoài, nhất là vào ban đêm, bao giờ Vận cũng mang sẵn thuốc bột đặc trị. Trước hết chàng ngư phủ tháo dây đeo giỏ buộc chặt cổ chân Thường Rỗ rồi cạy mồm hắn đổ thuốc vào. Đợi một lát, thuốc ngấm, Vận và Cả Nhỡ thay nhau cõng về làng. Qua miếu Bà, Hắn vòng ra phía sau vặt một nắm lá, nhai nát vắt nước bắt Thường Rỗ nuốt. Hắn sốt ly bì ba ngày ba đêm. Ngày thứ tư bắt đầu ăn được tí cháo. Vợ Thường Rỗ mừng quá vừa quỳ xuống lạy sống chàng rể cụ chánh vừa khóc rưng rức.

Đám đầy cữ làm năm mươi tám mâm mời gần ba trăm khách. Quan phủ Đông Giàng đánh xe ô tô đít vịt đen bóng về tận cổng làng mừng cậu bé một xấp lụa Hàng Châu. Chủ nhà mời quan phụ mẫu ngồi mâm nhất cùng luật sư Trần Phi và đốc tờ Albert Nguyễn mới du học ở Đại Pháp về. Thực đơn phần lớn được chế biến từ ếch. Lão vệ Sót đã có mấy năm làm bồi cho Tây lai Marty là một chuyên gia thượng thặng về kỹ thuật nấu nướng. Món ếch tẩm bột rán ròn chỉ dùng hai đùi, rán đến đâu ăn đến đấy cho nóng. Vệ Sót đóng trang phục như đầu bếp nhà hàng cao lâu, mũ bồ đài cao lênh khênh, áo trắng, tạp dề trắng, tay cầm đôi đũa dài khoắng vào chão mỡ sôi sùng sục. Khi đùi ếch đã vàng, lão dùng vỉ nhôm vớt ra xếp vào các đĩa. Mùi thơm ngào ngạt kích thích đến tận con tỳ con vị. Nhưng hấp dẫn hơn cả lại là ếch om củ chuối tuy nghe ra có vẻ tầm thường. Thứ này chỉ nên lấy đùi của ếch cốm, xương còn mềm, dùng sống dao dần nhẹ, ướp nắm muối, gia vị để một lúc cho ngấm. Củ chuối tây chọn những cây chưa ra buồng, thái chỉ hoặc mài nhỏ, ngâm nước vài lần, luộc kỹ, vắt sạch rồi mới cho mẻ cùng đùi ếch đã đảo qua mỡ nóng vào, đun sôi chừng nửa giờ là được. Những phần còn lại chỉ cần thêm ít thịt nạc, băm nhỏ, nặn thành viên cho vào chảo mỡ nóng, sau đó vớt ra nấu măng chua hoặc canh cải làm món thang giã rượu thì không gì hiệu nghiệm hơn.

Tri phủ Đỗ Khánh khoái món ếch om củ chuối. Lão ăn như hùm đổ đó. Đến cuối bữa quan phụ mẫu nửa đùa nửa thật bảo Khúc Đàm:
- Dịp tới có khi thầy chánh phải cho bản phủ mượn tay vệ Sót ít lâu để hắn dạy bọn đầu bếp nấu các món đặc sản từ ếch.

Chánh Đàm mặt tươi rói chắp tay cung kính:
- Đã là lệnh của quan lớn chúng tôi đâu dám không tuân theo.

Viên tri phủ xua tay:
- Ấy, đây là việc nhà chứ có phải ở công đường đâu mà nhà thầy đa lễ.

Tiệc được nửa chừng, bà Ba từ nhà xuống bế theo Khúc Luận vào chào quan khách. Thằng bé mặc áo đỏ, mũ nhung đỏ, vòng bạc, xuyến vàng loảng xoảng nơi cổ chân cổ tay, cười toe toét trơ hai hàng lợi đỏ hơn. Bà mẹ mặc áo phin nõn, cổ khoét hơi rộng, yếm hoa hiên, tóc vấn trần, cặp mắt lúng liếng. Nhìn dung nhan Thị Lánh, tri phủ thích lắm, quên cả miếng đùi ếch rán tẩm bột sắp đưa lên cái miệng đầy răng vàng nhờn mỡ, mắt chăm chắm vào khuôn ngực như muốn lột trần người thiếu phụ ra. Viên luật sư Tây học thấy chướng quá, tức mình hích nhẹ vào sườn quan phụ mẫu. Lão chợt tỉnh, vội đứng dậy cúi đầu chào bằng cử chỉ rất nịnh đầm:
- Xin có lời chào bà Chánh.

Thị Lánh liếc xéo Đỗ Khánh, thoáng đánh giá đối tượng rồi nhoẻn miệng cười đáp lễ:
- Quan lớn hạ cố đến ... thật vinh hạnh cho nhà em quá.

Đốc tờ Albert nguyễn thì thầm vào tai viên luật sư bằng tiếng Pháp:
- Liệu lão chánh có giữ được bà ta ?

Luật sư Trần cũng đáp khẽ bằng một câu cách ngôn Pháp mà cả phương Đông và phương Tây đều dùng:
- Hoa thơm mỗi người hưởng một tí.

Lê Văn Vận tiếp loại khách nhà quê ở ngoài rạp, nhìn bà Ba bế con đi đi lại lại, hắn lặng lẽ mỉm cười.
Trong số khách mời chỉ có bố con nhà Khúc Kiệt là không đến. Tuy là em ruột nhưng từ lâu Khúc Kiệt đã coi thường tư cách ông anh nên cấm các con không đứa nào được lai vãng đến nhà chánh Đàm. Ngược lại, chánh Đàm cũng khinh em trai là phường hủ nho, dài lưng tốn vải, chỉ chăm chăm tầm chương trích cú trong mấy quyển sách thánh hiền đã mục nát mà quên rằng vợ con đang đói rách.

Khúc Kiệt đông con, toàn đặt tên đẹp: Văn, Vĩ, Nhân, Nghĩa, Lễ. Lũ con trai giống bố, đứa nào cũng lười, mọi việc đồng áng dồn lên vai bà vợ cùng mấy cô con gái. Khúc Kiệt không biết cày bừa, suốt ngày hết ê a đọc Ngũ kinh lại tha thẩn ngắm mấy chậu cây cảnh hoặc đàm luận với đồ Sách về điển cố vua Vũ mới cưới vợ được lệnh trị thuỷ, ba lần đi qua cổng mà không vào nhà. Trong khi ấy, cơ ngơi của Khúc Đàm lên như diều. Mỗi lần có việc ra ngoài lão cưỡi con ngựa bạch bờm nâu, cổ đeo nhạc đồng kêu loong coong làm ông em càng tức. Được ít lâu, Khúc Kiệt bắt các con đắp tường bịt cổng chính mở lối đi sang phía nhà vệ Toan. Bà vợ thấy chuyện lạ, nghĩ ông chồng đọc sách nhiều hoá rồ liền hỏi:
- Ông điên à ! Mở cổng về phía ấy để ngửi chuồng xí nhà hàng xóm.

Khúc Kiệt gàn cũng chẳng kém gì đồ Sách thủng thẳng bảo:
- Nghe tiếng nhạc ngựa điếc tai không đọc sách được.

Nhà Khúc Kiệt thuộc loại nghèo nhất nhì làng Cùa, so ra có lẽ chỉ hơn dân tá điền vì còn có vài sào ruộng. Quanh năm lão đánh chiếc quần lửng vải bố nhuộm vỏ só dầy như da trâu, vá hàng chục mảnh, có khách mới dám mặc bộ chúc bâu rung rúc may từ mấy năm trước. Ngẫm nghĩ về thân phận mình, có lúc lão ôm mặt khóc hu hu như trẻ con bị đánh đòn. Bà vợ là người hiền lành, chịu thương chịu khó lựa lời an ủi:
- Cái số vợ chồng mình nó thế, ông đừng tự dằn vặt nữa.

Khúc Kiệt nghe vợ nói càng đau lòng, giọng nhoè đi trong nước mắt:
- Mười mấy năm đèn sách, giờ tay trắng vẫn hoàn tay trắng, bà nghĩ làm sao tôi chẳng tủi thân. Người đời nói đúng, "giầu tại phận, trắng tại da".
Cứ suy từ lão chánh Đàm ra thì biết. Một gã du thủ du thực bám đít Tây mà mua được hàm cửu phẩm thế có ngược đời không cơ chứ.
- Bác ấy đối xử với nhà mình đâu đến nỗi bạc tình, chỉ tại ông cố chấp.

Khúc Kiệt quắc mắt lườm vợ:
- Đời tôi từ trước đến nay chưa từng xin xỏ đứa nào một đồng kẽm. Chết thì thôi chứ đây đếch thèm luỵ phường trọc phú.

Một hôm đồ Sách sang chơi mang cho Khúc Kiệt mượn mấy cuốn sách về khoa xem tướng và thuật phong thuỷ. Thực ra từ lâu lão không tin vào các trò dị đoan, hơn nữa ông thân sinh, thời làm nghề đạo chích, đã dùng nó như một phương tiện bịp bợm thiên hạ để thực hiện những hành vi bất lương nên càng tỏ ra dị ứng.

Đồ Sách bảo:
- Ở đời nhìn nhận sự việc cực đoan quá dễ hỏng việc. Đây toàn là sách thánh hiền cả, bác cứ đọc thử rồi sẽ thấy cái lợi của nó.
Khúc Kiệt lắc đầu:
- Cảm ơn bác. Tôi chừng này tuổi rồi, chẳng dại gì để mấy thứ nhảm nhí ấy mê hoặc.
Đồ Sách có vẻ không phật ý, thủng thẳng nói:
- Thời thế giờ đã thay đổi. Thiên hạ khối kẻ lắm tiền, rửng mỡ, muốn hối lộ thánh thần để yên lòng với những thứ của cải bất nghĩa. Mà tôi với bác đang bị cái nghèo đẩy đến chân tường. "Cùng tắc biến, biến tắc thông". Sách nói vậy. Thế thì hãy thử đọc xem.

Hoá ra sách đoán tướng số và thuật phong thuỷ không hẳn chỉ là trò nhảm nhí. Càng đọc Khúc Kiệt càng thấy không thể dứt ra được. Trong một trăm lẻ tám phép dự đoán số phận qua các đặc điểm nhân dạng có đến quá nửa là dựa vào những chi tiết rất mơ hồ, nói kiểu nào cũng được. Nghĩa là người xưa đã giành một khoảng mở đáng kể cho khả năng quan sát, phân tích và phán đoán của các nhà tướng số học. Còn thuật phong thuỷ thì các nhà trước tác bàn khá kỹ ở phần khái luận. Họ phân tích thấu đáo mối tương quan giữa âm dương với ngũ hành cũng như quá trình biến đổi của các quẻ trong bát quái. Từ những việc lớn như xây cung điện, làm đình miếu đến cách đặt áo quan lúc mai táng đều được kiến giải tường tận chứng tỏ một cách nhìn liên thông, hài hoà giữa vũ trụ và nhân sinh, giữa cái trừu tượng và cái cụ thể, rất không nên coi thường.

Sau hơn nửa năm nghiền ngẫm, mọi thứ dường như đã tinh thông, Khúc Kiệt xách ô, cắp tráp ra đi. Bà Thìn thấy chuyện lạ, hỏi:
- Thầy nó đi đâu thế ?
Khúc Kiệt thản nhiên bảo:
- Mấy người bạn trong hội đồng môn đã tìm cho một chỗ ngồi dạy học. Tôi đến đấy xem sao ?
- Ở làng nào ?
- Xa. Đợi lúc về tôi bảo.

Thực ra, làm gì có đồng môn nào mời. Hôm ấy chính là ngày đầu tiên Khúc Kiệt khai nghiệp hành nghề thày tướng. Lão tự nhủ: "Từ nay ta sẽ dấn bước trên con đường thiên lý. Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường, gối đất nằm sương, tắm bụi trần chính là cái nghiệp của nhà phong thuỷ. Chung quy cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, còn việc cứu nhân độ thế đâu cần đến phường hủ nho như lão". Mải ngẫm nghĩ sự đời, chân thập thững đường quan, trời đã ngả bóng lúc nào không hay. Đây là buổi chiều lãng du đầu tiên đối với thầy khoá nghèo kiết xác trên con đường đi tìm lại chính mình. Buổi chiều ấy tuyệt đẹp nếu nhìn từ con mắt thi nhân. Vòm trời trong suốt cao thăm thẳm xanh màu hồ thuỷ, đây đó vài gợn mây trông giống hình vảy cá vừa trắng vừa mỏng phản chiếu một cách yếu ớt ánh nắng đang nhạt dần khi mặt trời xuống gần đỉnh núi Tam Tầng. Trên cao, một con diều hâu với cặp cánh dài, xoè rộng bay là là bao quát toàn bộ dải đồng lúa xanh thẫm. Gió đã chuyển heo may. Lẫn trong gió hình như thoang thoảng mùi hoàng lan từ một ngôi đền nào đó ẩn hiện dưới vòm cây cổ thụ bên đường. Tức cảnh sinh tình, bất giác Khúc Kiệt ngâm hai câu thơ của Vương Bột:

“Lạc hà dữ cô vụ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” [1]

Chập tối, Khúc Kiệt vào làng Vân Hà xin nghỉ trọ. Chủ nhà là một ông già tuổi ngoài sáu mươi tóc bạc trắng mà dáng vóc còn tráng kiện. Gia chủ làm cơm thết đãi khách sau khi được ông thầy tướng mới nhập môn đoán cho vài chi tiết cơ bản về tiền vận. Lời thầy khá mơ hồ chẳng khác gì "Thoán truyện" trong "Kinh Dịch". Đến phần hậu vận thì Khúc Kiệt lên giọng thao thao bất tuyệt phán như thánh sống vì có hơi men bôi trơn cổ họng. Chủ nhà có lẽ cũng biết gã thày tướng bịp bợm nên chỉ im lặng thỉnh thoảng gật đầu ra vẻ khuyến khích. Sáng hôm sau trước khi khách ra đi, ông chủ dặn:
- Tối nay, nếu không tìm được chỗ nào tiện hơn xin hãy về nhà tôi. Cứ hỏi Hàn Hành mấy làng quanh đây ai cũng biết. Tôi có câu chuyện muốn bàn với tiên sinh…

Khúc Kiệt cảm thấy Hàn Hành có điều gì bí ẩn. Trong nhà không có bóng dáng phụ nữ. Giúp việc cho chủ nhân chỉ có hai người đàn ông đứng tuổi mà một trong hai người đó có lẽ câm. Suốt mấy hôm vật vờ trên đường, chẳng có ma dại nào thỉnh, lão lê cặp chân mệt mỏi, định bụng về nghỉ nhờ Hàn Hành vài bữa rồi đi phương khác kiếm ăn. Cũng như buổi gặp ban đầu, chủ nhà lại sửa mâm rượu tiếp đãi rất là nồng hậu. Đêm ấy, khi chỉ còn hai người bên điếu thuốc lào và ấm chè tàu, Hàn Hành bảo:
- Trước đây tôi cũng đã có mấy năm làm nghề thầy tướng.

Khúc Kiệt giật mình. Trong bụng hơi hoảng nghĩ rằng thế nào cũng bị chủ nhà lật tẩy. Hàn Hành nói tiếp:
- Cũng là trò lừa thiên hạ lấy tiền thôi. Nhưng nghề này bạc lắm. Tôi hỏi thật. Mấy hôm vừa rồi có kiếm được chút nào không ?
Khúc Kiệt đứng dậy chắp tay vái chủ nhà:
- Xin tiên sinh đại xá cho, tôi vốn là thày đồ, đạo học giờ đã đến hồi mạt vận, đành phải lang thang kiếm bát ăn.

Hàn Hành kéo Khúc Kiệt ngồi xuống, rót thêm một chén rượu rồi bảo:
- Làm nghề này bây giờ chẳng những khó sống mà lại còn nhếch nhác. Tôi thấy bác là người có ý chí lại đang ở vào thời bĩ, nên gia nhập tổ chức của chúng tôi.
-Bác bảo tổ chức gì ? - Khúc Kiệt tỏ vẻ nghi ngờ - Không phải là đi ăn cướp đấy chứ ?
- Không. - Hàn Hành nhẹ nhàng giải thích - Đây là một tổ chức chính trị có sứ mệnh cứu dân cứu nước, thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than do một số nhà ái quốc sáng lập gọi là đảng Cộng sản.
- Thế thì tôi biết, nhưng nghe nói từ năm canh ngọ đến nay, hầu hết các thủ lĩnh của đảng đã bị người Pháp xử tử hoặc lĩnh án chung thân khổ sai. Phong trào của họ đang tan rã.

Hàn Hành mỉm cười thông cảm:
- Không phải thế. Đành những năm qua có không ít cán bộ nòng cốt hy sinh nhưng đảng vẫn còn nhiều chiến sỹ trung kiên đứng lên lãnh đạo nhân dân đánh đuổi thực dân Pháp ra khỏi đất nước, giành độc lập dân tộc. Đảng này lấy đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản làm phương châm hành động, mục đích cuối cùng là xây dựng một Nhà nước độc lập, công bằng, hạnh phúc, phồn vinh... không có tình trạng người bóc lột người. Tôi có một số sách báo anh em ở trên tỉnh gửi về, bác đọc qua sẽ hiểu phần nào.
- Chắc là phong trào ở đây đang phát triển mạnh ?
- Cơ sở của Đảng thì mới xây dựng được một vài nơi nhưng quần chúng nhân dân nhất là nông dân ở vùng này rất nhiệt tình ủng hộ Cách mạng. Nếu bác bằng lòng thì ở lại đây luôn. Nhà tôi chính là đầu mối liên lạc của Đảng với các địa phương trong tỉnh.

Sau khi làm lễ tuyên thệ gia nhập tổ chức, Khúc Kiệt được phân công cùng làm việc với nhóm Hàn Hành gọi là đội "Nghĩa dũng" chuyên trừng trị những kẻ phản dân hại nước làm tay sai cho Pháp. Sinh hoạt phí của họ được quỹ đảng chu cấp. Quỹ này khá lớn do một số nhà tư sản yêu nước quyên góp để mua vũ khí và các phương tiện hoạt động cách mạng.

Từ ngày gặp Hàn Hành, Khúc Kiệt không về nhà. Lão chẳng thèm nhắn vợ con một lời. Tết năm ấy cũng bặt vô âm tín. Dân làng Cùa nghĩ rằng lão đã chết. Nghề thầy tướng lúc này xem ra rất có tác dụng trong việc liên lạc giữa các cơ sở cách mạng. Những tên địa chủ ác bá, quan lại tàn ác lần lượt bị trừng trị. Nổi tiếng nhất là vụ khử viên tri huyện Nam An, thường gọi là huyện Ký. Huyện Ký người được một mẩu nhưng to ngang, cái cổ bè bè như cổ trâu mộng lúc nào cũng đỏ tía giống hệt da gà chọi. Lão ăn bẩn như chó, nghĩa là thượng vàng hạ cám không chê bất cứ thứ gì, rất rương xứng với hoàn cảnh xuất thân là một gã thầy cò, chuyên xui nguyên giục bị và viết đơn thuê cho những kẻ nhiễu sự thích đưa nhau đáo tụng đình. Hắn ngồi trị nhậm chưa đầy ba năm mà vùng Nam An đã xác xơ, dân tình ta oán, uất khí ngất trời.
Hôm ấy, huyện Ký làm giỗ bố. Thực khách phần lớn là chánh tổng, lý trưởng, phó lý cùng một số nhà giầu trong hạt và các thuộc viên huyện đường. Mọi người sắp sửa vào mâm thì có chiếc ô tô chạy thẳng vào tư dinh. Huyện Ký nhìn chiếc xe hơi bóng loáng biết là khách quý lật đật ra đón. Người tài xế mở cửa. Một thanh niên vận Âu phục thong thả bước xuống, theo sau là ông lão bộc hai tay bưng gói quà bọc giấy trang kim thắt dây lụa đỏ cung kính bẩm:
- Quan huyện Nam Ngạn biết hôm nay là ngày kỵ cụ cố nên sai tôi đưa công tử mang chút hoa quả sang thắp hương, mong quan lớn chiếu cố, nhận cho.

Huyện Ký thoáng nghĩ: "Mình với lão huyện Nam Ngạn từ trước đến nay có đi lại với nhau bao giờ, sao hắn lại biết ngày giỗ ông cụ ? Hẳn phải có ẩn ý gì đây ? à phải. Có thể lão muốn nhắm con Loan cho gã công tử bột này chăng? Thôi được. Cứ biết thế đã". Hắn sai người nhận lễ và bảo:
- Quan nhà thật chu đáo. Mọi việc đã xong, xin mời công tử vào lão lên nhà trên xơi chén rượu nhạt.

Chàng thanh niên cúi đầu từ tạ:
- Thành thật xin lỗi quan lớn, hiện giờ chúng tôi còn có chút việc trình với quan Tuần, xin hẹn dịp khác.

Chiếc ô tô rời huyện đường chừng nửa giờ thì một tiếng nổ long trời làm huyện Ký toi mạng khi hắn cùng mấy tên gia nhân mở gói quà biếu trong từ đường. Trong vụ này, một cựu học sinh trường Bách Nghệ mượn xe gắn biển số giả, đóng vai "công tử bột" con quan huyện Nam Ngạn, còn người lão bộc không ai khác chính là Khúc Kiệt. Màn kịch ngoạn mục gây ra tiếng nổ trong tư dinh huyện Ký làm chấn động cả tỉnh. Viên công sứ Pháp Đờ Guýt xanh thì nghi cho những người Quốc dân đảng chủ mưu nhưng tuần phủ Vũ Nho thì biết chắc đó là Cộng sản. Dân chúng Nam An hoan hỉ ra mặt. Thực hiện trót lọt công việc, Hàn Hành, Khúc Kiệt được thưởng hai trăm đồng Đông Dương. Một lần ngồi uống rượu với nhau Hàn Hành bảo:
- Lôi kéo bọn chánh tổng, lý trưởng chẳng qua chỉ là hình thức mang tính mặt trận. Nhóm chúng ta mới là hạt nhân của tổ chức Cách mạng. Những vụ thanh trừng bọn tay sai tàn ác như huyện Ký vừa rồi phải tuyệt đối bí mật. Hở ra là mất mạng như chơi. Từ nay ta tạm nghỉ ít bữa để tránh sự rình mò của mật thám.
- Phải, tôi cũng muốn giành chút thời gian đọc lại mấy cuốn sách về chủ nghĩa Cộng sản.
- Đúng đấy. Chủ trương của ông Mã khắc tư[2] vĩ đại lắm.

3.

Năm Giáp Tuất, tức là năm rưỡi sau ngày cưới, Khúc Thị Hài đẻ sinh đôi hai thằng con trai. Anh là Lê Văn Khải, em là Lê Văn Nghiên, thằng nào cũng có nước da ngăm ngăm giống bố. Thị Hài nằm ổ, mọi việc đều đến tay Vận. Mỗi khi làm đồng về nhìn thấy cái tay khoèo của vợ Vận lại chép miệng thở dài nghĩ đến đôi tay mát dịu, mềm mại ôm riết cổ mình hôm nào dưới thuyền. Nhiều đêm nằm cạnh vợ mà tâm trạng chàng ngư phủ cứ như để trên mây, trằn trọc mãi không ngủ được. Có lần đã quá canh tư, hắn lẳng lặng tụt khỏi giường, ra ngoài sân ngẩng mặt nhìn trời sao, thỉnh thoảng lại liếc về phía cửa sổ căn buồng ngôi nhà hai tầng nơi bà Ba đang ngon giấc. Cái sân gạch Bát Tràng rộng thênh thang. Đêm thượng huyền mờ mờ sương giăng. Quầng sáng nhợt nhạt của vành trăng lưỡi liềm bị sương pha loãng, làm mọi vật bị nhoè đi, hình dạng trở nên mờ ảo. Đám chậu cảnh sắp hàng trước cửa từ đường thẳng tắp. Trước hiên dãy nhà ngang bên phải vài chùm phong lan đong đưa. Những cánh lan Phi Điệp đen thẫm, ve vẩy như múa. Đầu tường, cây bưởi đào đang độ nở hoa lặng lẽ thả từng cánh trắng muốt xuống mặt sân. Hương bưởi nồng nàn, khêu gợi nỗi đam mê trong tiềm thức giống những lời đường mật của con rắn đã từng xui Êva ăn trái cấm trong vườn Địa Đàng.

Cũng vào thời điểm ấy bà Ba không ngủ. Nằm cạnh con nhưng người đàn bà đa tình này lại nhớ đến Lê Văn Vận theo một kiểu hoàn toàn thực dụng. Thị Lánh đã ngán đến mức hoàn toàn lãnh cảm mỗi khi phải chiều chuộng lão dê già. Chánh Đàm tuy chưa quá bốn mươi nhăm nhưng sức lực hầu như đã cạn kiệt sau những cuộc ăn chơi trác táng hồi còn là lính tẩy. Vậy mà cái nhu cầu đàn bà của lão không hề suy giảm. Có điều, lực bất tòng tâm, khả năng thực tế không đáp ứng được lòng ham muốn. Lão nằm trên bụng bà Ba hàng nửa giờ hoàn toàn bất lực, còn bà vợ trơ như một khúc gỗ, lạnh như đá, không hề có cử chỉ buốt ve, âu yếm. Mỗi lần bị mất mặt như thế, chánh Đàm lại chửi:
- Đúng là dòng giống lái trâu. Đồ nặc nô !

Bà Ba cũng không kém cạnh, giẩu môi cạnh khoé:
- Đã thế sao còn ngủ với con gái phường lái trâu? Ông đã lấy mất tuổi xuân của tôi giờ lại cả thèm chóng chán phải không?

Chánh Đàm bị hạ nhục mà chẳng biết nói thế nào. Xét cho cùng, mọi sự đều tại bản thân. Lão không thể biết và không bao giờ biết, trước khi về làm dâu họ Khúc, bà Ba đã mất trinh. Chính điều ấy làm lão yên tâm về Khúc Luận - đứa con trai mà lão quý như vàng. Tức thì chửi, vì lão là chánh tổng của cai quản một hạt rộng có đến mười ba làng vùng hữu ngạn sông Lăng, nhưng thực tình lão vẫn sợ bà Ba, mà điều sợ hơn cả là bà Ba chứ không phải ai khác đã đẻ cho lão một thằng con trai nối dõi tông đường. Thằng bé càng lớn, bà vợ càng nở ra, trẻ đẹp và hiển nhiên là vô vùng quyến rũ. Khúc Đàm tự an ủi mình theo lý sự của mấy tay trọc phú tiểu nhân đắc chí: "Cho dù ta đã già, sức khoẻ giảm sút thì cô ta vẫn phải giữ trọn đạo làm vợ, không thằng phàm phu tục tử nào được phép nhìn ngắm chứ chưa dám nói thả lời ong bướm cợt nhả". Họ Khúc quản lý vợ như thế nên bà Ba, trừ một tối vào giã gạo chung với Lê Văn Vận còn tuyệt nhiên không có cơ hội gần gũi người tình. Nhớ Lê Văn Vận da diết, mặc dù hai người thường ngày vẫn gặp nhau, nhiều hôm Thị Lánh thẫn thờ như ốm lửng. Cô ta mà ốm thì chẳng những Khúc Đàm mà cả bà Huê, bà Thoả đều lo lắng, chạy ngược chạy xuôi đón thày lang bốc thuốc rồi nấu cháo đem lên tận giường nằm.

Thằng Khúc Luận đầy năm. Dáng vóc nó vậm vạp, hay ăn chóng lớn. Nó chỉ giống bố ở vóc người còn nét mặt giống mẹ. Điều ấy làm cho bà Ba hoàn toàn yên tâm. Thỉnh thoảng Lê Văn Vận cũng bế thằng bé. Nó bập bẹ gọi Vận là "anh Vậng". Bà Ba ý tứ liếc mắt cho người tình khẽ mỉm cười. Cơ hội đến với hai người vào dịp cụ chưởng bạ Khang bố đẻ bà cả Huê qua đời. Cả nhà phải sang phục vụ đám ma, trừ Lê Văn Vận và bà Ba. Bà Ba lấy cớ đau bụng, còn Lê Văn Vận phải đi cày bừa đồng Vạn để kịp gieo mạ chiêm. Đầu canh hai, sau khi lừa thằng Luận ngủ, bà Ba đóng cổng, cài then rồi xuống nhà ngang. Lê Văn Vận đã chờ sẵn. Vừa thấy Thị Lánh, Vận đã bế xốc cô ta đặt lên giường, chẳng nói chẳng rằng, tốc ngược váy lên cổ rồi trườn ngay lên bụng. Bà Ba cấu vào sườn hắn bảo:
- Làm gì mà hùng hục như trâu húc bờ thế ? Vướng lắm, để em cởi váy đã. Lê Văn Vận ghì chặt người tình bằng hai cánh tay hộ pháp, miệng thở như kéo bễ:
- Phải tranh thủ ... Nhỡ lão Chánh về bất chợt.

Thị Lánh ưỡn người, cặp mắt lim dim, rên khe khẽ:
- Đừng làm em nghẹt thở…

Từ lâu Vận hoàn toàn vô cảm với cô vợ tật nguyền, giờ được dịp gần gũi nhân ngãi hắn rạo rực đến mức bệnh hoạn, vần vò cô ta suốt đêm không ngủ, chỉ đến khi thằng Luận đái dầm tỉnh dậy khóc toáng lên hai người mới rời nhau. Lúc ấy đã gần sáng. Bà Hai Thoả đảo về nhà thì Vận đã vác cày, đánh trâu ra đồng. Hắn vừa đi vừa ngủ gật thỉnh thoảng lại vấp một cái. Đồng Vạn là nơi giáp ranh làng Bạch Đa. Ruộng này xa nhưng là loại thượng đẳng, lại gần nước vốn của nhà Cả Sang, ông Sang thua xóc đĩa phải bán tháo cho chánh Đàm lấy tiền trả nợ. Từ đấy lão chánh dùng làm xướng mạ. Lúc này đồng vắng tanh không một bóng người vì còn quá sớm. Vận hạ cày, thả trâu lên gò đống Cao cho nó gặm cỏ rồi nằm co trên bờ ruộng đánh một giấc.

Có thể nói, đây là giấc ngủ ngắn nhưng sâu nhất trong đời chàng ngư phủ. Trong mơ, Vận thấy mình cùng Thị Lánh quắp chặt lấy nhau bay lên bằng cặp cánh mỏng như cánh chuồn chuồn vừa mọc ra từ hai bên nách. Hắn chỉ đóng mỗi chiếc khố sồi còn bà Ba gần như trần truồng, cặp vú trắng như tuyết dài lòng thòng xuống tận đầu gối. Đang bồng bềnh giữa đám mây ngũ sắc nhẹ và xốp như bông, Vận cảm thấy có cái gì vương vướng phía sau kéo hai người trở lại trần gian. Hắn quài tay và bất chợt chạm phải cái đuôi đang dài dần với những đốt xương xù xì mọc dầy lông cứng như lông lợn. Cái đuôi của bà Ba thì nhỏ hơn một chút nhưng dài hơn cứ ngoe nguẩy như đuôi con rắn sọc dưa đến kỳ động cỡn. Những chiếc đuôi phát triển hết cỡ thì cặp cánh biến mất, cặp tình nhân rơi xuống một khe nước. Hai người thay hình đổi dạng đến mức đáng ngờ. Họ biến thành loài bò sát, đầu người, đuôi rắn. Nhìn thấy thân hình quái dị của bà Ba,Vận vô cùng khiếp đảm, thét lên một tiếng như tiếng thét của loài vượn đen khi đứa con vẫn bám vào bụng nó bị rơi xuống vực sâu. Tiếng thét làm Vận toát mồ hôi tỉnh dậy. Hắn uể oải vươn vai, rít mồi thuốc lào, sau đó bắc ách vào cổ trâu, bắt đầu cày.

Giống như con ngựa bất kham xổng chuồng, từ đêm mò xuống giường Lê Văn Vận, trong lòng bà Ba không lúc nào yên, luôn tìm mọi cơ hội gần gũi người tình. Trò xiếc không qua được mắt và cả Huê. Bà này chưa bao giờ xem Thị Lánh là người đàn bà đoan chính. Thỉnh thoảng có dịp là nói gần nói xa với chồng, nhưng chánh Đàm vốn tự cao tự đại không coi thiên hạ ra gì, luôn nghĩ rằng, bà Ba là sở hữu riêng, chẳng thằng lực điền nào ở làng Cùa dám vuốt râu cọp. Hơn nữa, thường ngày lão lại bị cô vợ trẻ mê hoặc bằng những lời đường mật, nên trước sau cũng chỉ nghĩ, lời cảnh báo ấy chẳng qua xuất phát từ lòng ghen tuông tầm thường của người đàn bà đã hết thời xuân sắc. Bà cả Huê là con gái cụ chưởng bạ Khang. Cụ Khang đã từng là ân nhân của Khúc Tuệ, bố đẻ Khúc Đàm hồi còn làm nghề ăn cướp. Không có cụ chưởng bạ thì Khúc Tuệ đã rũ tù sau một đợt quan phủ Đông Giàng cho người về khám xét bắt được tang vật là chiếc đỉnh đồng của nhà bang Thạch ở làng Vẽ. Ông Tuệ cảm nghĩa cử của chưởng bạ Khang xin kết làm thông gia. Vốn là người quân tử trước sau như một, đã nói là làm, vì thế sau này ngay cả khi Khúc Tuệ bị cai Thìn sát hại, cụ Khang vẫn giữ lời hứa cho Khúc Đàm và con gái thành hôn bất chấp sự ngăn cản của gia đình và dòng họ Đặng nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt thành danh. Bà cả Huê trước cũng vào hàng xinh đẹp ở làng Cùa, tuy sắc sảo, riết róng nhưng bụng dạ không hiểm độc. Ăn ở với Khúc Đàm được sáu năm mà chưa có con, buồn lắm, nghĩ tại mình bạc phận làm mất hương hoả nhà họ Khúc, vì vậy bà ta sang làng Nội tìm vợ bé cho chồng. Bà Hai thời trẻ cũng là một cô gái đa tình nhưng kém nhan sắc, con ông khán Đản bên làng Nội. Ông Khán là thầy phù thuỷ nổi tiếng trong tổng về tài tróc ma, trừ yêu quái nhưng cũng không có con trai. Nghe nói cách đây hơn chục năm, những lúc ông đi cúng, bà vợ bé ở nhà túng tấng với gã trương tuần ở xóm Rào. Biết chuyện khán Đản chẳng nói chẳng rằng, chỉ vẽ một đạo bùa, cuộn lại rồi đem chôn ở cổng bên cạnh con chó đá. Mấy hôm sau, đôi gian phu dâm phụ kia tự nhiên phát điên rồi kéo nhau ra sông Lăng trẫm mình. Về nhà Khúc Đàm được gần ba năm thì bà Hai sinh ra Khúc Thị Hài. Do thể trạng yếu, dặt dẹo từ bé, lại bị khoèo tay mãi đến năm mười ba tuổi Khúc Thị Hài mới hết sài đẹn. Bà cả Huê, trước đây vẫn quản lý công việc gia đình. Từ khi Thị Lánh về đoạt quyền tay hòm chìa khoá, đảo lộn gia phong bà phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Chánh Đàm mê bà Ba quá, hơn nữa cô ta dựa vào cái bùa hộ mệnh là đứa con trai nên tha hồ lộng hành, nói sao lão Chánh cũng phải nghe.

Những mánh khoé dù tinh vi đến đâu của cặp tình nhân, cuối cùng vẫn có chỗ sơ hở. Bà cả Huê kiên nhẫn chờ thời cơ, rốt cuộc thời cơ ấy cũng đến. Vụ mùa năm Giáp Tuất, lúa chín rộ, tá điền gặt không xuể, bà Ba huy động cả nhà ra đồng trừ chánh Đàm và thằng con trai. Hôm ấy là buổi gặt ở đồng Quan. Đã có chủ ý từ trước, Thị Lánh lấy cớ phải trông nom người làm, ở lại đồng sau khi bà Cả, bà Hai và hơn chục tá điền gánh lúa về. Lúc này nắng đã dịu. Cánh đồng sực nức hương lúa. Những thửa ruộng mới gặt rạ còn tươi, cọng xanh như lá niễng xếp thành từng đống. Lũ châu chấu ma bay xập xoè từ mô này sang mô khác, thỉnh thoảng lại nghiến răng kèn kẹt. Bọ muỗm béo núc, thân hình thon thon như chiếc thoi dệt, xoè cặp cánh mỏng như lụa, lao vun vút lên trời, liệng một vòng rồi lại sà xuống đậu vào một đám ruộng nào đó. Loài chim cút lẩn nhanh như có phép tàng hình. Chúng thường xuất hiện ở những chân ruộng tám thơm hoặc dự hương chớm đỏ đuôi. Dự hương thấp cây, hạt nhỏ toả mùi thơm nồng nàn trong gió heo may. Trên trời, một con diều hâu cứ lượn đi lượn lại như cố tình khoe cặp cánh dài màu xám bạc. Sự kiên nhẫn của chàng sát thủ này không một loài chim ăn thịt nào bì kịp. Vào lúc bất ngờ nhất, nó cụp cánh, thả mình rơi tự do như một mũi tên quắp con dẽ gà rồi lao vút lên với một tốc độ đáng nể. Lúc này đồng không mông quạnh, chỉ còn Lê Văn Vận và bà Ba là những người cuối cùng xếp lúa vào quang. Hai gánh lúa xếp đầy đến cổ là những tấm bình phong tuyệt vời. Thời gian lúc này là vàng. Chẳng cần màn dạo đầu tán tỉnh vô bổ của những cặp trai gái mới chập chững bước vào trường tình, Lê Văn Vận dằn ngửa bà Ba xuống tấm nệm rạ, tốc ngược váy lên ...

Giữa lúc chàng ngư phủ đang ngây ngất trên bụng người thiếu phụ, thỉnh thoảng lại nhổm dậy, quỳ xuống lớp rạ tươi vuốt ve cặp đùi trắng hồng, mập mạp đầy nhục cảm đang dạng ra một cánh rất vô liêm sỉ thì bà cả Huê bất ngờ xuất hiện như là từ trên trời rơi xuống. Đôi tình nhân hết hồn, vẫn còn trần truồng, vội rời nhau quỳ sụp xuống lạy như tế sao:
- Em trót dại mong chị thể tình tha cho ...
- Con lạy mẹ cả ! Chuyện này mà bố biết thì ông ấy giết chết cả hai…
- Các người to gan thật ! - Bà cả Huê hắng giọng - Thì ra ta đoán không sai. Từ xưa đến nay, loạn luân vẫn là tội tày đình, không thể tha được.

Thị Lánh kéo váy xuống nhanh đến mức bà cả Huê cũng phải thán phục. Chàng rể Vận, mặt tái như gà cắt tiết, xỏ cả hai chân vào một ống quần, lúng túng mãi mới đứng dậy được. Tình thế lúc này chẳng khác gì màn bi hài kịch. Hai nhân vật chính thủ vai hết sức vụng về trong bộ dạng như nhà có đám, đang cố tìm những lời bi thương nhất tác động vào lòng từ bi của người đàn bà từ lâu đã bị Thị Lánh cho ra rìa.
- Chị xưa nay vẫn có lòng nhân hậu, cùng đàn bà với nhau, thương em chút nào em được nhờ chừng ấy.

Bà cả Huê cười nhạt bảo:
- Từ khi về nhà họ Khúc đến nay chưa bào giờ tôi thấy dì khéo mồm thế. Tôi có thể báo việc gian dâm này với ông Chánh ngay chiều nay để làng xử phạt, nhẹ ra cũng thả bè trôi sông, nhưng nghĩ "anh chị" còn trẻ trót lầm lỡ nên hãy tạm gác tội đấy nếu cô Lánh thuận theo những điều kiện sau...
- Xin chị cứ dạy, chỉ cần chị tha tính mạng, trăm điều em cũng xin theo.
- Thứ nhất . - Bà Cả Huê hắng giọng một lúc rồi mới ra tối hậu thư - Ngay từ tối nay, cô phải nói với ông Chánh, bằng cách nào thì tuỳ, trao lại việc quản lý gia đình cho tôi.
Thị Lánh ngây mặt ra nhưng thoáng nghĩ đến cài bè chuối bập bềnh trên sông Lăng đành phải chấp nhận :
- Xin theo ý chị.
- Thứ hai - Bà cả Huê liếc nhìn một thoáng - Mỗi tháng cô phải để ông Chánh sang buồng tôi ba đêm.
- Chuyện ấy thì dễ, chị cứ tin ở em.
- Điều thứ ba là, từ nay "anh chị" phải thôi làm chuyện đốn mạt ấy đi, nếu ngựa quen đường cũ, đừng trách tôi không có lượng bao dung. Bây giờ cho hai người gánh lúa về. Tôi ở lại trông đồng, ngày mai sẽ nói chuyện với anh Vận.

Hoá ra bà Cả cũng không đến nỗi nào. Thị Lánh thầm nghĩ trên đường. Thật hú vía. Xuýt nữa thì khốn nạn. Lê Văn Vận sợ quá toát mồ hôi lạnh. Hắn lầm lũi bước. Bà Ba hỏi gì cũng không nói. May mà đường làng vắng người qua lại, nếu không hẳn là có kẻ nghi ngờ cách nói năng nhấm nhẳng của bà Ba cũng như thái độ lạnh lùng, vô cảm như thằng câm của chàng ngư phủ.

Bà Cả không phải là kẻ sắt đá, vô tình nên luôn nhìn Mạc Thị Lánh và Lê Văn Vận bằng cặp mắt soi mói của loài mèo rình chuột. Vốn là cô gái con nhà tử tế, về nhà chồng từ năm mười bảy, vì không sinh con nên bị Khúc Đàm hắt hủi đến mức, muốn yên thân, phải mang trầu cau sang sông hỏi vợ hai cho chồng. Trước đây bà nghĩ mình phận mỏng trời không thương, đày xuống trần gian chịu phận cô quả, sau này mới biết, sự việc không hoàn toàn như thế, nhất là từ khi chánh Đàm cưới vợ hai. Mới ba mươi tám, lòng bà Cả chưa tắt ngọn lửa xuân tình. Bà phải làm ra vẻ đạo đức, trước hết, bởi chánh Đàm có mới nới cũ từ lâu lạnh nhạt với vợ cả. Thứ nữa, là người cai quản mọi việc trong nhà, bà cần nêu tấm gương đoan chính để giữ gìn gia đạo. Tư gia họ Khúc nội bất xuất, ngoại bất nhập, suốt ngày mấy người đàn bà chỉ quẩn quanh với công việc nhàm chán. Rất nhiều đêm nhất là những đêm đông dài dằng dặc nằm trong chăn đệm mà trái tim bà lạnh giá, lòng thổn thức những hoài niệm vu vơ, những khát vọng đầy hoang tưởng. Bà nghĩ đến số kiếp con người cô đơn, buồn tủi và khốn khổ trong cõi nhân gian. "Giờ thì khác rồi. Mình cũng là một người đàn bà như ai, phải có quyền được hưởng niềm vui làm vợ, làm mẹ thực sự". Bà Cả Huê thoáng nghĩ đến chàng ngư phủ. Ta tha cho lần này là muốn anh phải biết điều. Hãy rời con quỷ cái kia ra. Nó chính là hiện thân của loài hồ ly tinh sẵn sàng nuốt chửng anh lúc đói.

Mấy hôm sau, một đêm tối trời, khoảng canh ba, một bóng đen băng qua sân gạch lên nhà trên, vào buồng bà Cả. Bóng đen vừa lẻn vào, cửa lập tức chốt lại. Bà Cả Huê trên người không một mảnh vải ôm ghì lấy Lê Văn Vận vật ngay ra giường rồi cầm tay hắn đặt lên ngực thì thào:
- Cẩn thận không cái Hài nó biết .
- Nó ngủ say như chết, với lại hôm nay tôi nằm chõng, ngoài hiên, biết làm sao được.
- Nào, nhanh lên ! Sao lúng túng thế ?
- Cứ từ từ, - Vận giỏng tai nghe động tĩnh bên ngoài, giọng nhát gừng nhưng rất
khẽ, - còn từ giờ đến cuối canh tư cơ mà.

Bà Cả vòng hai tay ôm cổ chàng ngư phủ y hệt cái cách bà Ba đã từng làm với hắn. Lần đầu tiên trong đời, bà Cả Huê biết thế nào là một cuộc phiêu lưu trong thế giới mây mưa với một người đàn ông thực sự. ít phút sau, trong trạng thái đê mê của sự đụng chạm xác thịt, bà ta vít đầu Vận rỉ tai:
- Thế nào ? Tôi chiều cậu có bằng cô Lánh không ?
- Thì ra chị ghê gớm hơn là tôi nghĩ . - Vận áp cái đầu tóc rễ tre bù xù vào giữa hai bầu vú mát lạnh vẫn còn rất mẩy của người đàn bà nạ dòng - V
ì sao lúc ngoài đồng chị không làm ầm lên mà lại tha chúng tôi ?
- Không biết vì sao à ? - Bà Cả bấu nhẹ vào sườn chàng ngư phủ làm hắn buồn giật nảy người - Cậu ngốc lắm. Tôi cần một đứa con trai như dì Ba.
- Có nghĩa là... chị đã biết ?
- Vải thưa che làm sao được mắt thánh. - Bà Cả lửng lơ - Nhưng cậu giờ hồn đấy, thỉnh thoảng không lên với tôi thì đừng có trách.
- Thế còn ông Chánh ?
- Cái lão già vô tích sự ấy kể làm gì. Tôi đã có cách miễn là cậu giữ lời hứa.

Đã quá nửa trống canh nhưng bà Cả Huê vẫn chưa chịu cho Vận xuống nhà ngang. Hắn vừa tuột khỏi giường thì bà ta bật khóc. Tiếng khóc thầm bị dồn nén từ non nửa cuộc đời giờ mới thoát ra được nghe thật tội nghiệp.

Về phần mình, chánh Đàm tuy rất đa nghi nhưng tuyệt nhiên không biết màn bi kịch của gia đình họ Khúc đã bắt đầu. Lão suốt ngày lên phủ xuống huyện, ra tổng, có những dịp thường xuyên vắng nhà. Đấy là cơ hội tuyệt vời cho bà Cả, bà Ba và gã chàng rể quý chơi trò mèo mỡ. Họ dùng đủ mọi mưu ma chước quỷ đánh lừa mẹ con bà Hai. Chánh Đàm cưng chiều thằng con trai hết mức, vì vậy vai trò của bà Ba trong gia đình họ Khúc càng trở nên quan trọng. Có lần lão còn cho thằng bé mới hơn hai tuổi cùng cưỡi con ngựa bạch bờm nâu. Hai bố con rong ruổi từ đầu làng đến cuối làng, nhạc ngựa kêu long coong, cu cậu thích lắm cứ túm lấy bờm hét toáng lên. Hai đứa trẻ nhà Lê Văn Vận cũng đầy năm. Chúng không giống nhau lắm nhưng đều phổng người, hay ăn chóng lớn. Bà Hai thật không ngờ, một đứa con gái khoèo tay như Khúc Thị Hài mà có có phúc lấy được thằng chồng khoẻ mạnh, tháo vát được cả nhà quý. Quả thật, trong thâm tâm cũng có lúc bà thoáng nghi ngờ khi bắt gặp cái nhìn khác thường của bà Ba với Lê Văn Vận. Nhưng anh chàng này khôn, những lúc có người khác bên cạnh đều không biểu hiện thái độ gì vượt quá khuôn phép của con cái đối với cha mẹ. Bà Hai chỉ có thể nghĩ, Thị Lánh là cô gái không đoan chính chứ tuyệt nhiên không thể coi chàng rể hư hỏng. Đây là kỷ cương gia pháp. Huống hồ, ông Chánh là người đứng đầu cả tổng, danh tiếng họ Khúc ở huyện này ai mà không biết.

4.

Thời gian ấy, chánh Đàm hay vắng nhà. Thực ra lão chẳng bận lắm với công việc "quốc gia đại sự" mà cái chính là đang vướng phải lưới tình. Nhân tình của họ Khúc là một người đàn bà có cặp mông vĩ đại, to như cái giành ủ thóc giống và đôi mắt ươn ướt nép dưới hàng mi lưa thưa trông giống mắt loài dê núi đang thời kỳ cho con bú. Trên đường công cán, Khúc Đàm gặp cô ta khoác cái bị cói đi chợ về. Lão dẻo mỏ đến mức lôi được cô ta lên ngựa cho ngồi phía trước. Chiếc bị treo lủng lẳng vào móc yên. Đường về làng Buộm không xa nhưng lão cố tình cho ngựa chạy vòng lối kẻ Sung để có thêm thời gian cọ sát cặp mông người đẹp. Cô nàng là vợ một thầy quyền khố xanh. Anh lính này nghe nói đồn trú ở mãi Hà Quảng Cao Bằng. Gái một con, vắng chồng lâu ngày, ngứa ngáy không chịu được. Cô ta đã từng tiếp đón hết lượt các thầy cai, thầy ký, thầy đề trong huyện, nổi tiếng là người đàn bà có thuật mê hoặc lũ mày râu dại gái. ả vợ lính đa tình rút ruột Khúc Đàm không biết bao nhiêu mà kể. Có lần bí quá, lão phải lấy tạm ít tiền thuế để làm dịu bớt con đồng bóng của nhân ngãi.

Bà cả Huê thấy mức thu hàng năm của gia đình mỗi ngày một tăng mà tiền lại mỗi ngày một giảm, đâm nghi chánh Đàm mang đi cho gái liền bàn với bà Ba cử người thân tín theo dõi. Người được giao việc này là hai Doạc, cháu gọi bà Huê bằng cô. Hai Doạc máu rượu, lúc nào cũng nhẵn túi, ngẫm nghĩ: "Thế ông Chánh đang mạnh, dại gì vuốt râu cọp. Chi bằng ta cứ ngầm thăm dò, nếu thấy tổ con chuồn chuồn thì doạ mấy câu kiếm vài đồng uống rượu còn hơn là phục vụ không công cho bà cô". Mấy hôm sau, hắn cải dạng thành thằng bắt rắn với bộ đồ nghề trên vai, hễ thấy chánh Đàm cưỡi ngựa ra khỏi nhà là đi theo. Họ Khúc có thói quen cho ngựa đi bước một, ngồi thẳng đuỗn trên yên, mắt mơ màng, thả tâm hồn ngắm trời ngắm đất. Đấy là lão bắt trước phong thái ung dung tự tại của lãng tử Lý Bạch tiên sinh mỗi khi tìm cảm hứng thi ca. Điều ấy có lẽ chỉ là phỏng đoán, chắc không đúng, vì cả đời có bao giờ họ Khúc đọc nổi một câu thơ Đường, mà cái chính là lão tìm cách kéo dài thời gian, bằng cách cho con tuấn mã dẫn diệu, sao cho khi vào đến xóm Bồng Bồng làng buộm thì trời vừa chạng vạng. Xóm Bồng Bồng gần huyện nhưng là một trại mới lập, xa làng, chỉ lưa thưa mấy chục nóc nhà, trời lại sắp tối, mấy ai để ý đến khách vãng lai. Thế là sau vài lần rình mò, tay thám tử đã biết rõ nơi nghỉ qua đêm của ngài chánh tổng. Chập tối hôm thứ ba, cũng theo quy luật ấy, chánh Đàm vừa vào nhà nhân tình một lúc thì hai Doạc lập tức xuất hiện. Họ Khúc đang lúng túng chưa biết xử trí thế nào, gã bợm rượu đã nhanh nhảu bảo:
- Tôi ở bên kia sông đi bắt rắn, trời lại sắp tối nên vào đây xin chị mồi lửa.

Chánh Đàm đưa mắt ra hiệu nhưng hai Doạc lờ đi coi như không biết. Hắn châm lửa vào bùi nhùi, uống một bát nước vối rồi xách thuổng bước ra.
- Cậu mới học được nghề bắn rắn ban đêm à ?

Hai Doạc cười rất tươi:
- Dạo này túng quá, nhà hết sạch thóc, chẳng còn gì cho các cháu ăn nên phải liều ông ạ.

Hai Doạc vừa bước chân khỏi cổng chánh Đàm cũng theo ra, chộp vai hắn, quát khẽ:
- Bà Cả sai mày... phải không ?
- Dạ thưa ông Chánh, con đi bắt rắn thật mà.
- Rắn cái con khỉ ! - Chánh Đàm văng tục - Mày giờ hồn đấy !
- Bẩm ông, con không dám.
- Từ rày mày mà còn rình mò thì ông róc xương. - Khúc Đàm vừa thò tay vào túi móc mấy tờ bạc ấn vào tay hai Doạc vừa lầu bầu - Cút ra ngoài bãi tha ma mà bắt rắn mòng. Cấm được bép xép, nhớ chưa ?
- Bẩm, con nhớ rồi.

Thế là âm mưu của bà cả Huê và bà ba Lánh thất bại thảm hại. Thằng cháu giời đánh hễ gặp cô lại lẩn như chạch. Hai Doạc là thằng không có lập trường, mạnh ai theo người ấy. Sau này, thời Nhật chiếm đóng, hắn theo lũ giặc làm bồi ngựa cho tên quan hai hirôsi. Một lần Doạc dắt ngựa ra sông tắm, con ngựa thụt chân xuống kè đá bị trẹo khớp. Tên trung uý rút kiếm chém một nhát ngang cổ, đầu hắn rơi xuống một lúc, máu mới từ cổ phọt ra.

Cuối cùng thì sau hai mươi mốt năm lấy chồng bà cả Huê cũng mang thai, tin này như một quả bom làm chấn động làng Cùa, thậm chí cả tổng Kim Đôi, nhưng trong nhà họ Khúc mỗi người tuỳ theo hoàn cảnh của mình tiếp đón nó với thái độ khác nhau. Chánh Đàm tất nhiên là vô cùng phấn khởi. Người đầu tiên lão nghĩ cần phải trả ơn là ông lang Toét làng Suộm. Ông này năm ngoái đã bán cho lão bình rượu ngâm cá ngựa lẫn với ba con tắc kè hoa đầu bạc. Thứ thuốc tráng dương lập tức có ngay tác dụng khiến lúc nào họ Khúc cũng dậm dật như phát cuồng, đến nỗi có đêm chẳng biết vô tình hay hữu ý, lão mò vào giường cô cháu gái bà Cả từ kẻ Suốt sang chơi khiến cô ta kêu toáng lên. Trong thâm tâm, chánh Đàm hy vọng bà Cả sẽ sinh một thằng con trai. Bà ta mà có con trai thì hiển nhiên là Thị Lánh hết làm mình làm mẩy. Lão sẽ trị dần dần rồi đưa vào khuôn phép, không thể để lăng loàn như trước. Trong tương lai, nhà thêm một suất đinh, thế của họ Khúc ngày càng được củng cố, như vậy mỗi khi ra chốn đình trung, lão mới đoàng hoàng ngẩng mặt nhìn thiên hạ. Bà cả Huê thì vừa lo vừa mừng. Lo vì tuổi đã cứng chẳng biết chuyến này vượt cạn có dễ dàng, nên thường xuyên thắp hương trước bàn thờ Quan Âm mong ngài phù hộ cho mẹ tròn con vuông. Thứ nữa liệu đứa bé sinh ra giống ai? Tốt nhất là không nên giống bất kỳ người đàn ông nào trong nhà này trừ Khúc Đàm. Mừng vì nếu một thằng con trai ra đời, Thị Lánh sẽ không còn giữ địa bị độc tôn. Bà sẽ lấy lại thế thượng phong, điều hành toàn bộ hoạt động của gia đình họ Khúc, đến khi lão dê già chầu trời, sẽ tìm cách tống khứ con yêu tinh ấy về với lão lái trâu bên kia sông. Thỉnh thoảng bà cả Huê lại đóng cửa buồng, tuột váy đến ngang hông, vuốt vuốt cái bụng đã hơi căng nổi chằng chịt gân xanh lẫn với những mạch máu li ti rồi nhoẻn miệng cười. Làn da bụng màu vàng nhạt, đôi chỗ xam xám điểm vài vết sần nho nhỏ, thỉnh thoảng khẽ chuyển động nghe như đưa trẻ đang cựa quậy.

Lê Văn Vận vẫn thậm thụt đi lại với Mạc Thị Lánh mặc dù bà Cả đã cấm. Hắn không muốn làm phật lòng bà Huê nhưng cũng khó mà đoạn tuyệt với người tình. ở vào cái thế chạch bỏ giỏ cua, Vận đành phải chấp nhận phương án tình thế, san sẻ tình cảm cho cả hai thậm chí ba người đàn bà để giữ an toàn tính mạng. Những lúc gặp chuyện khó xử Vận lại ra sông Lăng đánh cá. Chiếc thuyền câu cũ, trước khi về làm rể chánh Đàm hắn đã cho tay Quýnh trong vạn chài. Gần đây ông bố vợ thuê đóng một cái mới để hắn kiếm cá tươi, nhất là loại cá chép râu đỏ về nhắm rượu. Một lần hứng lên, họ Khúc còn đem bà Ba cùng thằng con trai xuống thuyền, bắt Lê Văn Vận chèo xuôi dòng xuống đến ngã ba Môi ngắm cảnh. Sông Lăng mùa này nước chảy lờ đờ. Cá chày mắt đỏ, cá chép vàng và cá lăng ngược dòng tìm nơi đẻ trứng, bơi từng đàn như những đám rong đuôi chó phát sáng. Cồn Vành choài ra như một miếng vá hình bán nguyệt nhấp nhô lau lách. Từ trong đám sậy, thỉnh thoảng một con vịt hoang hoặc một cặp le le vút lên vỗ cánh phành phạch, làm lũ cào cào tím, đầu nhọn giật mình bay loạn xạ. Mòng nước thì bất chấp sự đời miễn là no bụng. Chúng rủ nhau vài ba con một, dàn hàng ngang dùng cái mỏ vừa dài vừa nhọn, khoắng xuống mặt ruộng tìm lũ cá lác ngờ nghệch . Bọn cá mương háu ăn lao loạn xạ trên mặt ruộng nước đục ngầu như thoi dệt cửi. Chúng cứ chờn vờn theo một vũ điệu nhố nhăng chẳng theo quy luật nào nên rất khó bắt trừ giăng lưới ba bề bốn bên rồi dùng mõ giậm lùa dần. Trên cao, một con bói cá mỏ dài hơn cả thân người, trông như một đốm sáng xanh biếc biết bay. Thoắt một cái, nó thả mình lao xuống theo chiều thẳng đứng, trong chớp mắt, giữa cái mỏ cứng như gọng kìm đã ngậm chú cá trôi bằng ngón tay lấp lánh như bạc.

Khúc Đàm nhấm nháp từng ngụm rượu cá ngựa ngâm thuốc bắc với cá chép nướng than hoa chấm muối tiêu và mấy lát gừng. Thằng con trai thích thú nhìn những cánh buồm nâu trên các con thuyền chở đá ngược dòng về bến Tràng. Thuyền nào phần mũi cũng cong vút lên sơn màu nâu thẫm, bên dưới vẽ hai con mắt tròn, đồng tử trắng, viền vàng trông như mắt quỷ. Nhìn thấy đôi mắt quái dị, thằng bé chẳng những không sợ mà còn lấy tay vẫy vẫy. Cánh chân sào ném sang thuyền mấy bắp ngô luộc còn nóng. Lão Chánh giơ tay ra hiệu cảm ơn rồi nhặt món quà của những người phu thuyền đưa cho con. Ngắm cảnh trời nước mênh mông tâm trạng thư thái, họ Khúc bảo với bà Ba:
- Cảnh đẹp như thế này chả trách trước đây anh Vận không muốn bỏ nghề hạ bạc.

Lê Văn Vận làm như không nghe thấy, lẳng lặng chèo. Bà Ba khẽ mỉm cười. Thuyền cập bến, trời cũng vừa xế bóng, Bà cả Huê và Khúc Thị Hài đứng trên đê chờ. Nhìn thấy vợ cả, chánh Đàm nhăn mặt:
- Bà đang bụng mang dạ chửa ra đây làm gì, nhỡ xảy chân thì khốn.

Bà Huê mắt long sòng sọc lườm Thị Lánh nhưng giọng lại ngọt nhạt:
- Ông Lái bên nhà sang chơi, thầy nó với dì về ngay đi.

Đợi cho mọi người vào làng, dưới bến chỉ còn lại Lê Văn Vận đang lúi húi cuốn tay lưới, bà cả Huê làm mặt giận:
- Tôi đã cấm chỉ thế mà chứng nào vẫn tật ấy.

Chàng ngư phủ đánh trống lảng:
- Đâu có, bà Cả chỉ hay đa nghi.
- Nửa đêm hôm kia đứa nào lẻn xuống nhà ngang bấu vào người anh rồi kéo nhau ra vườn chuối. Anh tưởng tôi mù chắc ?
- Tôi xin thề ...
- Từ xưa đến nay lời thề mà linh nghiệm thì lũ đàn ông các người tuyệt giống rồi.

Thực tình, Lê Văn Vận dù có muốn, bà Ba cũng không để cho anh ta thoát khỏi cuộc tình vụng trộm mà chính cô ta là người giăng bẫy. Bà Cả đang thời kỳ mang thai, nhìn lũ chúng thậm thụt với nhau, bất chấp lệnh "giới nghiêm" lấy làm ngứa mắt. "Ta đã cảnh cáo nhiều lần, nếu không biết điều thì đừng bảo là thiếu lượng bao dung". Bà Huê nghĩ vậy và lặng lẽ chờ cơ hội.

Về phần mình, sắc sảo đến thế mà Thị Lánh vẫn bị bà cả Huê xỏ mũi. Chuyện tư thông giữa bà cả và Lê Văn Vận cô ta không hề hay biết. Nó được bí mật cho đến khi cái bụng bắt đầu phình ra. Tới lúc này bà Ba mới đặt dấu hỏi: "Chả lẽ món rượu hổ lốn cá ngựa, tắc kè với thuốc bắc lại có tác dụng nhanh đến thế ? Mình không tin. Thế thì sự thật kẻ nào là chủ của cái bào thai quá muộn mằn ấy ?" Cô ta không bao giờ nghĩ đến Lê Văn Vận mà dứt khoát cho rằng, con mẹ cáo già kia đã thậm thụt với một gã trương tuần nào đó rồi lập lờ đánh lận con đen, nhằm giành lại quyền bà chủ nếu may ra đẻ được thằng con trai. Nghĩ đến đấy, nỗi bực dọc dâng lên tận cổ làm cô ta gần như nghẹt thở. Bằng mọi cách, phải tìm ra sự thật, nếu không, cơ ngơi này trước sau cũng rơi vào tay con mụ già.

Chính vào lúc bà Ba đang ngày đêm trù tính kế hoạch cho tương lai thì bà cả Huê cao tay hơn đã nhanh chóng ra đòn trước.
Từ lâu, bà Huê đã bóng gió cho chồng biết những hành vi thiếu đoan chính của Thị Lánh. Tất nhiên chánh Đàm không tin, nhưng đấy là thứ đòn gió, hư hư thực thực nhằm chuẩn bị tinh thần cho lão nếu sau này có chuyện xảy ra. Bà đã tha cho một lần, không thể tha tiếp lần nữa để ả xỏ chân lỗ mũi. Chuyện xảy ra vào một đêm tháng tư, chánh Đàm phải ra đình họp với Hội đồng kỳ mục, chuẩn bị cho lễ rước sắc phong Thành hoàng. Làng Cùa đón gánh chèo của ông trùm Lộng ở kẻ Sui về diễn tích Lưu Bình Dương Lễ. Chiều hôm ấy bà cả Huê đến nhà hai Doạc. Bị tóm bất ngờ, hắn không lẩn được đành nhe răng cười trừ. Bà Huê móc hầu bao đưa cho gã bợm rượu ít tiền rồi ghé tai thì thầm mấy câu. Trước lúc ra về bà nẹt hắn:
- Lần này mà làm hỏng việc nữa thì tao bảo ông Chánh tống mày đi lính.

Hai Doạc nhăn nhở cười lấy lòng:
- Cô yên tâm, nhất định lần này cháu lập công chuộc tội.

Bà Cả dự đoán không sai. Chừng giữa canh ba, khi cả làng đang chăm chú theo dõi tích chèo ở sân đình thì Lê Văn Vận lẻn ra ngoài. Một lúc sau bà Ba cũng tìm cách rời khỏi cuộc vui. Hai Doạc lập tức bám theo họ. Khi hai người vào nhà cài then cổng, gã bắt rắn lập tức quay lại đình vào gặp Khúc Đàm. Ông Chánh ra hiệu cho thằng cháu vợ đợi một lúc rồi cả hai mới trèo tường vào nhà bằng lối vườn chuối. Đàn chó nhận ra mùi của ông chủ, không hề sủa một tiếng, chỉ đến khi chánh Đàm quát to thị oai, đôi gian phu dâm phụ mới hết hồn, lục sục mãi chưa rút được chốt cửa. Một bóng đen nửa trần truồng bất ngờ lao ra húc vào Khúc Đàm rồi nhảy xuống sân. Hai Doạc thuận tay phang một gậy vào bắp chân gã gian tế. Hắn bị đau, ngã xoài xuống nền gạch Bát Tràng nhưng lại đứng dậy ngay. Chánh Đàm lồm cồm bò dậy, sờ nắn mạng sườn một lúc rồi bảo hai Doạc đánh lửa châm nến. Bà Ba đầu tóc bù xù ngồi ủ rủ góc giường. Chánh Đàm mặt hầm hầm quát:
- Đứa nào vừa ở đây ra ?

Thị Lánh sợ lắm, đang tìm kế hoãn binh nên không nói gì, chỉ ti tỉ khóc.
- Câm mồm ! Tao hỏi: Đứa nào vừa ở đây ra ?
- Kìa mình ! Không phải tại em. Em khổ lắm - Thị Lánh khóc nghe thật ai oán.
- Gái đĩ già mồm ! - Chánh Đàm nghiến răng kèn kẹt - Hỏi vậy thôi chứ tao đã biết thừa nó là thằng Vận. Cứ thử xem có chạy được mãi không.

Chánh Đàm lấy dây thừng trói hai tay bà Ba vào cột nhà rồi khoá cửa lại, nhét chùm chìa khoá vào túi sau đó bảo hai Doạc:
- Chuyện này không được nói với ai. Mấy hôm nữa chú sẽ cắt cho ba sào ruộng đồng Đấu. Mày mà bép xép tao trình quan cho đi hiệu lực ở
Tuyên Quang chết mất xác nhớ chưa ?
- Thưa chú, cháu nhớ, nhưng ...
- Lại vòi tiến uống rượu chứ gì ? Đây, cầm lấy.

Sáng hôm sau, Khúc Đàm tự tay trói bà Ba vào cột chuồng trâu rồi dùng roi mây quật ngang lưng. Tiếng roi vun vút nghe thật ghê rợn nhưng người đàn bà vẫn cắn răng chịu không hề kêu một tiếng. Đánh chán, lão quẳng roi lên nhà uống rượu. Tấm lưng thon thả trắng nõn nà của Thị Lánh đầy những vết thâm tím hằn thành vệt chẳng khác gì mụn vá vụng về bằng các loại vải khác nhau. Bà Ba chịu đòn ánh mắt đầy lửa hận thù. Với bản chất phóng túng như con ngựa hoang tung hoành trên thảo nguyên, không thích các loại yên cương, hàm thiếc ràng buộc, cô ta hoàn toàn mất tự do trong một gia đình hào mục với những quy tắc giáo điều nghiệt ngã do Khúc Đàm làm chủ. Hành vi của bà Ba và thằng con rể là một cái tát vào niềm kiêu hãnh của Khúc Đàm vốn vẫn dương dương tự đắc cậy mình là bề trên của cả vùng Ba Tổng. Lão đau đến tận xương tuỷ nhưng là nỗi đau không thế nói ra, bởi nếu thiên hạ biết chuyện này thì không còn mặt mũi nào nhìn cánh chức sắc hàng tổng nhất là phó tổng Lê Bang. Ông ta có gã em vợ làm phán lục lộ trên tỉnh, nhà giầu nhất nhì làng Cùa, luôn nhăm nhe lật đổ lão để giữ triện đồng. Việc này phải xử lý sao cho trong ấm ngoài êm mới giữ được thể diện vốn là yếu tố quan trọng nhất của hàng sắc mục. Việc đầu tiên là chánh Đàm bảo Khúc Thị Hài đem thằng Luận về quê bà Hai chơi mấy ngày cùng với hai đứa con trai sinh đôi. Tiếp sau, lão sai mấy tá điền là tay chân thân tín bí mật thủ tiêu Lê Văn Vận, xong việc sẽ thưởng hậu. Lệ làng Cùa rất khắt khe. Từ xưa đến nay những người đàn bà thất tiết bị bắt quả tang hoặc hoang thai đều bị gọt tóc bôi vôi thả bè trôi sông. Lão không muốn bà Ba chịu hình phạt này nhưng cũng không thể để cô ta cứ nhởn nhơ cắm sừng lên đầu mình. Lão có cách giải quyết vụ bê bối này êm hơn, gọn hơn. Từ chiều hôm qua, nghĩa là sang ngày thứ hai từ khi bà Ba bị trói, họ Khúc đã chuẩn bị một ít thuốc độc loại không có mùi vị do lang Toét bào chế làm bả chó bán cho bọn đào tường khoét ngạch. Chỉ cần pha một liều vào nước cho cô ta uống là xong. Những việc còn lại đối với một chánh tổng đương chức không có gì là khó. Cứ nói bà chánh Ba bị cảm thương hàn chết đột ngột thế là xong. Không một ai trong làng Cùa dám ngờ chánh tổng giết vợ. Còn thằng Vận, sau khi hắn chết sẽ phao tin thủ phạm là tay chân của Cửu Nghi, một tên trùm cướp, nổi tiếng giết người không ghê tay mới dạt từ Thạch Nham về vùng Ba Tổng hoành hành.

Đêm ấy Lê Văn Vận hốt quá, sau khi húc vào sườn làm bố vợ ngã, hắn băng qua sân, nhảy phứa lên tường mặc cho mảnh sành cào vào tay và bụng nhoe nhoét máu chạy tháo thân. Cứ thuận đường, hắn chạy mãi đến khi nghe tiếng sóng vỗ óc ách mới biết đã đến sông Lăng. Hắn xuống bến tìm nơi buộc thuyền, định xuôi dòng xuống ngã ba Môi. Đêm càng khuya sóng vỗ vào kè đá càng mạnh. Gió đông nam chạy dọc triền sông, xô những con sóng gối vào nhau nghe rào rào như là tiếng đập cánh đồng loạt của bầy nhạn nước mỗi khi cất mình bay lên khỏi đầm Ma. Phía bên kia cồn Vành, vài đốm lân tinh chập chờn, lúc ẩn lúc hiện như ma trơi. Những con vạc ăn đêm cần mẫn dùng chân sục sạo, lùa lũ tép gạo dưới khu ruộng trũng cạnh đầm vào cái mỏ vừa nhọn vừa dài như kìm thợ rèn. Lũ bìm bịp lặn ngụp kiếm ăn dưới đầm thỉnh thoảng lại ngoi lên kêu những tiếng rời rạc gọi bạn. Một con mèo hoang đuôi trắng gào lên như hoá rồ bằng thứ âm thanh khàn khàn giống hệt tiếng rên rỉ của người già nghiện thuốc lào lúc hấp hối. Con mèo cứ quẩn quanh bên sườn đê, thỉnh thoảng lại ngước cặp mắt lóng lánh như mắt ma nhìn chàng ngư phủ như là nhìn kẻ thù. Vận ngứa mắt, cúi xuống quờ một hòn đất ném. Con vật cúp cái đuôi trắng như đuôi cáo Bắc cực biến vào đám dứa dại. Từ điếm canh không đèn đóm hình như có tiếng khóc thút thít. Chẳng lẽ lại là ma. Hắn đi vòng từ dưới chân đê lên, dõi mắt quan sát. Không phải ma là một cặp trai gái đang ngồi bên nhau. Gã con trai đang thì thầm tán tỉnh điều gì đó còn cô gái cứ ngúng nguẩy thỉnh thoảng lại hất tay anh chàng ra khỏi ngực. Vận chợt nhớ đến bà Ba. Không được. Bỏ cô ta lúc này là mình có tội. Lão chánh tổng đánh cô ta chết mất. Nhưng không thể về ngay. Phải xem động tĩnh thế nào đã. Bây giờ nơi ẩn mình tốt nhất là rừng Hóp. Cánh rừng này từ xưa tới nay vốn bí hiểm lan truyền toàn những chuyện ma quỷ hiện hình, ít người dám vào trừ bọn đạo tặc. Hắn dự định tá túc ở đấy vài ngày, đến đêm vào làng tìm cách cứu Thị Lánh. Việc vào rừng đối với Vận không khó. Hắn là thổ công vùng này. Trong rừng nhiều chim cò trú ngụ, hắn có thể bắt cò nướng hoặc luộc trứng chim nếu không kiếm được món nào khác.

Hai Doạc là một trong ba gã trai làng được chánh Đàm sai đi giết Lê Văn Vận, xong việc mỗi đứa sẽ được ba mươi đồng. Số tiền ấy chúng nằm mơ cả đời cũng không có được. Hai Doạc chơi thân với Thường Rỗ. Trong lúc chếnh choáng hơi men, hắn đã nửa kín nửa hở cho ông bạn bắt ếch biết tin này. Nghe xong Thường rỗ sợ quá bèn tìm cách báo cho Lê Văn Vận. Vận đã có ơn cứu mạng với hắn nên hắn không thể làm ngơ khi ân nhân mình bị chánh Đàm sát hại. Nhưng biết anh ta trốn ở đâu ? Vốn là dân thuyền chài, thạo nghề sông nước, có khi hắn đã giong thuyền xuống ngã ba Môi, chu du ngoài sông Cái thì có mà giời tìm. Thường Rỗ vội ra sông Lăng thấy con thuyền vẫn neo ở bến, biết chắc là Vận không đi theo đường thuỷ. Tự nhiên hắn nghĩ đến rừng Hóp. Chiều hôm ấy, Thường Rỗ giả làm người đánh chim vác lưới và lồng men theo bờ đầm Ma vào rừng. Hắn vốn là tay gan lỳ không bao giờ tin vào chuyện ma quỷ. Có lần hắn vác chiếu ra ngủ ngoài bãi tha ma ngay cạnh ngôi mả mới của lão trương Khoái bị sét đánh ba đêm liền trong một vụ cá cược ăn tiền mà chẳng thấy các âm hồn hiện hình về bắt. Xong việc, tay Chút thọt phải giữ lời giao kèo trả hắn một đồng hai.

Thường Rỗ treo đồ nghề lên một cành Hóp, tay cầm gậy vừa dò dẫm vừa khua ra phía trước. Hắn đã bị rắn cạp nia cắn một lần gần chết, bây giờ đi đâu cũng mang gậy theo kể cả ra đình làng. Tháng tư trời oi nồng nhưng trong rừng gần như không có ánh nắng. Ngoài những bụi tre hóp mọc chen chúc từ bao đời, cánh rừng còn khá nhiều cây cổ thụ vươn cao xoè tán rợp cả một vùng không gian rộng lớn. Những cây thấp hơn bị dây leo quấn chằng chịt tạo thành những cái vòm lý tưởng là nơi cư ngụ tuyệt vời của lũ cò lửa hoặc vạc sành sau một đêm thức trắng kiếm ăn bên cồn Vành hoặc đầm Ma. Một con sóc đuôi xù lên như chùm bông lau, cặp mắt giống hai hòn bi ve nhỏ xíu láo liêng nhìn cây gậy của Thường Rỗ. Hình như nó không thích có kẻ đột nhập vào lãnh địa của mình nên cứ ngúc ngoắc đầu kêu chin chít như chuột cắn nhau rồi lao vút lên cây kiền kiền có những cành đâm ngang giống hệt cành bứa. Trên chạc ba cây vàng canh, một con đa đa trống có bộ lông sặc sỡ như chim thiên đường cứ vươn cổ hót mãi một điệu "bắt cô trói cột" nghe ai oán như gã thất tình. Thứ giọng rền rĩ ấy lan truyền khắp rừng, ghé xuống cả đầm Ma, làm lũ liếu điếu, chào mào, sáo sậu đang kiếm sâu bọ cũng nghển đầu hoạ theo bằng đủ mọi cung bậc chẳng khác gì một dàn đại hợp xướng. Thường Rỗ vốn thích bẫy chim, nghe bản hoà tấu ầm ĩ của chúng, nhất là thứ giọng kim lĩnh xướng của chú bồ các mỏ dài lông đen tuyền như lông quạ đậu trên cành hóp, người hắn như bị thôi miên, quên mất việc đi tìm Lê Văn Vận. Chính vào lúc ấy, chàng rể họ Khúc xuất hiện sau khi đã nhìn thấy gã bắt ếch từ xa. Vận hỏi:
- Làm sao biết được tôi ở đây ?

Thường Rỗ bảo:
- Tôi ra sông thấy cái thuyền vẫn còn nên đoán là cậu vào rừng. Cô ấy bị ông Chánh trói ở chuồng trâu đã hai ngày nay.
- Liệu Lánh có làm sao không ?
- Vì thể diện, chánh Đàm sẽ không đưa cô ấy ra cho làng xử phạt, nhưng nếu ông ấy cứ để như thế thêm vài ngày thì chết mất.
- Anh bảo tôi phải làm thế nào bây giờ ?
- Chánh Đàm đã sai bọn hai Doạc thủ tiêu cậu. - Thường Rỗ ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo - Tầm này chúng đang ở Ba Kèo. Đêm nay cậu nên về nhà đưa cô ấy ra. Tôi sẽ thăm dò hành tung của ông Chánh. Xong việc phải xuống thuyền đi ngay kẻo cả hai cùng mất mạng.

Đêm hôm ấy không trăng. Trời lất phất mưa. Làng Cùa râm ran tiếng chó. Lũ chó sủa gần như phản ứng dây chuyền theo lệnh của con Đốm già có cái mõm dài như mõm cáo nằm ở thềm sau nhà chánh hội Hạp. Con này trụi sạch lông đuôi, đầu bạc phếch, bốn chân khẳng khiu như que củi nhưng khôn vào bậc nhất. Tuy nhiên, danh tiếng của nó hoàn toàn không phải vì tuổi tác. Nó là một "lão khuyển lạc mao"[3] thậm chí mắt đã hơi mờ khó có thể nhận biết những vật ở xa. Sức mạnh của con Đốm là ở tiếng sủa. Giữa đêm thanh vắng, đánh hơi thấy mùi lạ, nó bất ngờ tru lên giống tiếng sư tử gầm làm chính đồng loại của nó cũng sởn gai ốc. Có lần, một gã trộm vặt, chừng canh tư mò vào định khoắng mấy con gà nhép, vừa nghe con Đốm sủa đã thọt dái lên cổ, chạy quáng quàng bổ xuống ao, bị chủ nhà tóm sống. Muốn vào nhà họ Khúc hướng này phải vòng qua cổng chánh hội Hạp. Con Đốm nằm án ngữ trên cao khó có thể qua mặt nó. Thường Rỗ đã có kinh nghiệm vô hiệu hoá những tên lính gác thuộc loại này, bởi trước đây đã có thời hắn theo cả Đĩnh làm nghề ăn sương. Thường không muốn hạ thủ con chó già nên chỉ lấy miếng thịt tẩm thuốc mê quăng vào chái nhà. Mùi thịt nướng thơm phức khiến chú ta khịt khịt mũi quên mất nhiệm vụ cảnh giới. Chỉ ít phút sau nó nằm phục hai chân trước, miệng sàu bọt. Thuốc đã ngấm.

Lê Văn Vận lên tường, men theo rệ ao, lẻn vào chuồng trâu. Lũ chó đánh hơi chủ vẫy đuôi mừng rối rít. Hắn ném cho chúng mấy miếng thịt để phòng bất trắc rồi mở gióng chuồng trâu tìm bà Ba. Thị Lánh bị trói vòng hai tay vào cột, người mềm nhũn như đã chết. Chàng ngư phủ dùng răng tháo dây thừng rồi ghé lưng xốc người tình chạy ra cổng. Hắn đang loay hoay mở chốt thì bất ngờ Khúc Đàm xuất hiện với ngọn mác lăm lăm trong tay. Lão cười gằn:
- Tao đoán không sai, thế nào rồi mày cũng mò về đây.

Vận biết thế nguy, sợ lắm. Hắn xoay người che cho bà Ba, lợi dụng bóng đêm định luồn qua phía bờ ao. Chánh Đàm quát khẽ:
- Bỏ con đĩ xuống, nếu không cả hai đứa đều chết !

Lê Văn Vận lấm lét nhìn trước nhìn sau tìm lối thoát nhưng lúc này họ Khúc đã cảnh giác đứng chắn ngang cổng. Hai bên gầm ghè nhìn nhau như loài thú dữ rình mồi. Lão Chánh không muốn đánh thức cả nhà vì chuyện nhục nhã này còn tay con rể muốn đưa Thị Lánh khỏi làng càng ít người biết càng tốt. Cuối cùng hắn chủ động bảo:
- Ông Chánh .. . để cho chúng tôi đi.
- Câm mồm ! - Chánh Đàm gằn giọng - Muốn sống mày phải bỏ con Lánh xuống.
- Không bao giờ ! - Vận rít lên - Ông trói người ta thế này chỉ từ giờ đến mai là
chết. Tôi xin ông...
- Gớm nhỉ ! Quân phản chủ. Tao sẽ cho chúng mày được toại nguyện.

Khúc Đàm nói chưa hết câu đã phóng ngọn mác vào ngực Lê Văn Vận. Hắn né mình. Cũng may, trời tối, mũi mác chỉ chạm vào cánh tay làm toạc một mảnh da. Hắn lùi vào gốc cây bưởi đặt bà Ba đang còn ngất xỉu xuống đất rồi quờ tay vớ được đoạn tre làm cán cuốc vung lên đỡ ngọn mác. Lúc này chánh Đàm nổi cơn điên. Lão cầm chắc vũ khí bằng tay phải định kết thúc số phận người đàn bà trước rồi sẽ tính sổ với thằng con rể láo lếu. Mũi mác chưa kịp chạm vào Thị Lánh, Khúc Đàm đã bị cây gậy tre đực choảng một nhát vào đầu. Thân hình cao lớn hơi gù của lão đổ xuống như cây chuối bị phạt ngang gốc. Nhờ Thường Rỗ giúp, Vận đưa được bà Ba ra khỏi nhà chánh tổng. Dàn đồng ca của các loại chó trong làng vẫn vang lên bất tận. Nhưng đấy là những tiếng sủa cầm canh báo sự bình yên đã thành thói quen ru giấc ngủ của dân làng Cùa, chẳng ai nghĩ có chuyện khác thường. Ra đến bờ sông, khi hai người đã dìu bà Ba xuống thuyền, Thường Rỗ bảo:
- Thôi chúc cậu ra đi chân cứng đá mềm.

Vận lưu luyến nắm tay chàng bắt ếch:
- Thật không biết lấy gì cảm ơn anh.

Thường Rỗ giục:
- Có thể ông Chánh đã chết. Chuyện án mạng này lớn đấy. Đừng bao giờ về làng nếu thời thế chưa thay đổi.

Vận buông mái chèo khoát nước. Con thuyền nhỏ bé lẫn vào bóng đêm. bà Ba nằm trong khoang vẫn bất tỉnh. Từ một xóm nào đó ven sông có tiếng gà gáy. Đêm đã chuyển canh. Trời bỗng đổ mưa. Màn đêm tối đen. Thỉnh thoảng một con chim lợn bay ngang sông. Tiếng kêu của nó bao giờ cũng báo điềm chẳng lành nghe rợn người. Trên những bụi chuối hoang ven sông, lũ côn trùng rỉ rả ca mãi một điệp khúc buồn thảm lúc nhặt lúc khoan bằng thứ giọng ngái ngủ. Lũ giang chân dài như cà kheo lội bì bõm ngoài bãi sục cá. Xa hơn một chút lũ cò vạc nháo nhác tranh mồi. Chúng cãi nhau bằng thứ thổ ngữ quen thuộc vùng đồng chiêm trũng, nghe gần giống tiếng đàn tranh bị chùng dây hoặc tiếng khen bè của người Mèo có vài ba ống bị dập. ầm ĩ hơn cả là lũ ếch nhái, ễnh ương, chẳng chuộc. Chúng đều ngắn cổ nhưng to họng. Con nào cũng ngoác cái miệng rộng đến mang tai thi nhau gào lên hợp thành bản đồng ca ộp oạp bất tận. Con thuyền của chàng ngư phủ lầm lũi trôi đi trong màn mưa mỗi lúc một dày.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
10-12-2015, 04:01 AM
Chương 3

1. Sáng ngày thứ hai thuyền đến ngã ba Tam Giang. Vận sợ có người truy đuổi cứ mải miết chèo, không dám ghé bờ. Đêm hôm ấy hắn dạt vào một cánh bãi bẻ trộm ngô non cho bà Ba luộc. Thị Lánh lúc này đã đi lại được nhưng vẫn còn yếu bởi những vết đòn thâm tím khắp người. ánh lửa yếu ớt hắt ra từ khoang thuyền, nhìn từ xa nhập nhoè như ma trơi. Từ đây đến kẻ Lủ chỉ già nửa ngày đường. Về kẻ Lủ rồi sẽ tính chuyện làm ăn. Hắn đem ý định của mình bàn với bà Ba. Cô ta vừa nghe đã giãy nảy:

- Không được đâu. Dân Ba Tổng có nhiều người đi chợ kẻ Lủ. Họ mà bắt gặp thì nguy. Theo tôi, ta nên theo sông Cổ Cháy lên mạn Bắc kiếm kế sinh nhai có khi lại hơn.

Bắt đầu từ hôm ấy, Vận chèo thuyền ngược sông Cổ Cháy. Vừa đi vừa thả lưới kiếm cá. Gần nửa tháng hai người mới lên được trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông nằm trên một mỏm núi cách bến Phù Lao không xa. Từ dưới sông có thể thấy mỏm núi giống cái đầu con chó đá cụt tai mọc toàn giống trám trắng cao ngất nghểu với những cành ngang thẳng đuột đâm tua tủa ra tứ phía. Tầng dưới thấp hơn, chen chúc đủ loại đinh chi, vàng tâm, thị mực bị dây leo quấn chằng chịt vận thành những bó lớn như những cuộn chão khổng lồ. Trên sườn dốc chênh vênh, lũ dê đen râu xồm sừng cong thong thả gặm cỏ. Mấy chú dê non ngứa sừng nghênh đầu húc nhau phớt lờ những tiếng be be như là tín hiệu cảnh báo của mẹ. Một cặp sơn tước màu xám đá nhảy tanh tách trên cành cây hoàng đàn. Chúng song ca một điệp khúc nghe khá lạ tai, thỉnh thoảng lặng di một lúc rồi bất chợt vút lên cao, véo von như tiếng sáo trúc. Từ đâu đó mãi tận dãy Ngân Sơn xa mờ bàng bạc khói sương, đàn cò ruồi như những chấm đen lao về hướng mặt trời. Qua đỉnh Chó Sói chúng hạ dần độ cao, lần lượt bay ngang sông theo hình mũi tên. Cặp cánh của chúng mềm mại, nhịp nhàng vờn trên mặt nước như đôi tay vũ nữ múa điệu "Tản hoa" rồi hạ xuống đồng vàn ngập nước mọc toàn cỏ ba cạnh giống như cây cói trổ hoa vàng, bắt đầu một ngày kiếm ăn. Nhìn những cánh cò chao lượn trên bầu trời tự do, Vận bất giác nghĩ đến cảnh ngộ của mình. Hắn bảo bà Ba:

- Hay là ta cắm thuyền lên cái trại kia kiếm ít gạo nấu cơm ?

Bà Ba gật đầu. Hai người lần theo từng bậc đá thoai thoải, vừa đi vừa nghỉ vì bà Ba còn mệt. Chừng nửa giờ thì gặp ngôi nhà đầu tiên. Chủ nhà là một lão già râu xồm, thọt chân, tập tễnh trên đôi nạng gỗ. Vừa nhìn thấy vị khách không mời thập thò trước cổng, lão đã nâng khẩu súng nòng dài ngoẵng trông như một đoạn ống sắt gỉ chĩa vào hắn đuổi như đuổi tà:

- Cút ngay ! Nhà anh mà tiến thêm bước nữa là ta bắn.
Vận hoảng, lấm lét nhìn chủ nhà xua tay:
- Kìa bác ! Chúng tôi là dân chài muốn lên mua gạo.
- Quân trộm cướp chết tiệt ! - Lão già vẫn án ngữ trước cửa, dựa lưng vào cây cột hiên, mắt long sòng sọc như mắt chó dại, giọng kèn kẹt chẳng khác gì bản lề cửa lâu ngày không tra dầu - Chính chúng mày đã vu cho con tao là Cộng sản rồi ném nó xuống thác Bời Lời. Con ơi là con!
- Thưa bác !
- Đồ mặt dày ! Tao thì ...

Những tiếng cuối cùng chưa thoát ra khỏi cổ họng thì lão già khuỵu xuống chẳng hiểu vì cái chân thọt hay là mới có nửa chiều đã bị thần Lưu Linh nhập vào lục phủ ngũ tạng. Mà cũng có thể do cả hai. Khẩu súng cổ lỗ sĩ lăn lông lốc xuống sườn núi. Lê Văn Vận đỡ lão đứng dậy dìu lên dốc. Bà Ba đi sau cầm khẩu súng chống xuống đất như một cây gậy. Lão già vẫn làu bàu chửi, nhưng lần này đối tượng là một tên quan châu nào đó. Tiếng chửi giống như người điên khóc nghe vừa ai oán vừa buồn cười. Chẳng mấy chốc ba người lên đến cái nơi mà dân hai bên mom sông gọi là trại Bồ Nông. Trại Bồ Nông là nơi cư trú của vài chục gia đình làm nghề khai thác gỗ và cốn bè thuê từ mấy chục năm nay. Cư dân ở đây là người tứ chiếng từ khắp các xứ đông đoài, thậm chí còn có cả bọn tội đồ bị lưu đày hoặc tù cấm cố vượt ngục nên thành phần rất phức tạp. Phần lớn trong số họ là những kẻ có bản lĩnh giỏi quyền thuật, trọng nghĩa khinh tài, giữa đường thấy sự bất bình là ra tay cứu giúp người lương thiện, trừng trị kẻ ác.

Lão già họ Lương, gốc gác tại phủ Thiên Trường, Nam Định, lưu lạc từ nhỏ, đến năm ba mươi hai tuổi thì gia nhập phường Sơn Tràng. Dân sơn tràng, nửa năm trên rừng, ba tháng lênh đênh sông nước, cuộc sống phóng khoáng như chim trời, thích tự do và liều lĩnh vào bậc nhất trong giới giang hồ. Những đêm trăng thượng huyền, cánh phu bè nằm trên sạp nứa ngắm bầu trời sao lung linh lẫn giữa những đám mây hình vẩy cá lang thang. Chúng di chuyển rất chậm, gần như trôi song song cùng chiếc bè gỗ. Mặt sông loang loáng ánh trăng xanh, tươi rói, mơ màng. Trăng lẫn vào sóng nước lăn tăn, bị pha loãng trở thành thứ màu bàng bạc, lạnh lẽo trông giống một lớp bọt xốp nổi lềnh bềnh. Rồi bất chợt từ đâu đó, những ngọn gió đẫm hơi sương vượt qua triền đê mơn man trên mặt nước sóng sánh. Gió nhẹ đến mức chỉ đủ dậy lên những tiếng lao xao nhưng dư âm của nó lại đi rất xa, rất vang. Những khoảnh khắc như thế chiếc bè là một thế giới riêng. Dường như nó không còn hiện diện như một thực thể hữu hình. Nó là ảo ảnh, là ý niệm, là sự hoang tưởng trong cõi hư vô mà tất cả những thứ ta nhìn thấy chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng.

Cánh phu bè - một nửa cư dân trại Bồ Nông- dọc ngang khắp các triền sông cùng với những chiếc bè gỗ vượt qua không biết bao nhiêu ghềnh thác. Có nhưng năm động trời, cứ qua một thác dữ, phường Sơn tràng lại mất một nhân mạng. Những kẻ xấu số phải vài ngày mới tìm thấy. Nghề chống bè là nghề mạt hạng nhất trong các nghề hạ đẳng bị người đời coi rẻ. Cùng cực lắm người ta mới phải làm nhưng đã làm rồi thì không thể bỏ được, phần nhiều đeo đẳng đến lúc thân tàn ma dại như lão Lương Đoàn kia.

Lương Đoàn được ông trùm phường thu nhận sau trận kịch chiến với một gã phu bè ở bến Đoan. Tay này đã từng học trường quyền với thầy họ Nhữ Đặng Xá. Hôm ấy Lương Đoàn bẫy cò ở mấy cánh ruộng ngoài bãi sông. Chiếc bè của ông Cả Tuân đã neo ở đấy từ hai hôm trước đợi con nước ròng. Trần Lượng tắt qua cánh bãi lên chợ Bía mua gạo, gặp mấy con cò dính bẫy, hắn gỡ sợi dây thòng lọng ở chân ra rồi thả cho nó tự do. Lúc ấy, Lương Đoàn đang ẩn trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh mãi cuối rộc nước, nhìn thấy, chẳng nói chẳng rằng, chạy phăm phăm đón đầu tên phá đám, nện luôn. Cuộc ẩu đả xảy ra được một lúc mọi người mới báo cho ông chủ bè. Tuy võ nghệ không đến nỗi nào nhưng Trần Lượng vẫn bị Lương Đoàn dùng mấy đường quyền của lò Vịnh Xuân nện cho một trận nhớ đời. Khi anh em lôi Trần Lượng từ dưới đầm lên, người hắn lấm bê bết, đầu tóc ướt sũng còn mặt mũi thâm tím như quả bồ quân. Thấy đồng bọn bị nạn cánh phu bè ức lắm định xông vào chàng bẫy cò ra đòn hội chợ nhưng ông trùm giơ tay ngăn lại.

- Anh Lượng vô cớ thả cò của người ta bị đánh là đáng lắm. Các người ỷ thế đông định để lại tiếng xấu cho phường hạ bạc à ?
- Thưa ông trùm ! - Trần Lượng vẫn còn ấm ức, nói ,- nhưng mà thằng này nó đánh toàn đòn hiểm.
- Vậy hả ? - Ông trùm gật gật đầu - Quỳ xuống xin lỗi người ta ngay nếu không ta sẽ đưa anh ra khỏi phường.

Sau trận đụng độ ấy, Cả Tuân thu nhận Lương Đoàn. Từ đấy hắn bỏ nghề chim cò, xuống bè theo phường Sơn Tràng. ít lâu sau, ông trùm phường gả con gái cho Lương Đoàn. Chẳng mấy chốc hắn trở thành phụ tá đắc lực cho ông bố vợ vốn là một đại ca khét tiếng của giới giang hồ. Sau khi nhạc phụ qua đời, lương Đoàn nối nghiệp cai quản mấy chục anh em trong phường. Lương Đoàn có một con trai là Lương Doanh. Doanh cũng theo nghề sơn tràng rồi gia nhập một tổ chức bí mật chống Pháp do ông Phan Phi là đảng viên Cộng sản làm thủ lĩnh. Tổ chức này dần dần lan rộng ra nhiều nơi. Họ vận động nông dân chống sưu cao thuế nặng. Thợ thuyền đòi tăng lương, giảm giờ làm thông qua những cuộc biểu tình, bãi công, bãi thị làm cho Nhà nước bảo hộ và chính phủ Nam triều khá đau đầu. Nhóm cách mạng của Lương Doanh hoạt động được hai năm thì bọn chỉ điểm của viên tuần phủ phát hiện. Bị truy đuổi, Lương Doanh rút lực lượng về bến Đoan. Một trung đội Âu Phi dưới sự chỉ huy của viên quan hai người Pháp ngược sông Ba Gia bằng chiếc tàu chiến Đuy mông xanh có cả súng liên thanh mục đích tiêu diệt bằng được những kẻ phiến loạn. Một đêm Lương Doanh cùng mấy thanh niên quần áo rách rưới, đầu tóc bù xù như tổ bồ các, da tái nhợt như người sốt rét rừng mò về trại Bồ Nông. Lương Đoàn từ lâu đã bất đồng ý kiến với con về chủ trương đánh Pháp nên ông ta dứt khoát không cho ở lại.

- Ở đây không có chỗ tuyên truyền Cách mạng. Mày định đem tính mạng của mấy chục gia đình đổi lấy chút hư vinh phải không ? Muốn lên trại Bồ Nông trước hết phải bước qua xác tao.

Lương Doanh thế cùng lực kiệt đành đem các chiến hữu xuống thuyền độc mộc ngược thác Bời Lời định tìm đường về Mai Châu. Chẳng ngờ, lão tuần phủ cho hai cơ lính khố xanh đón lõng ở dốc Mật Sơn. Lương Doanh bị cai cơ Trương Phổng bắt giải về châu lỵ Hoà Bình. Ba hôm sau, tri châu Vi Văn Sầm sai người trói anh ta lại thả xuống thác Bời Lời. Thác Bời Lời cao hơn trăm thước lao thẳng xuống qua những ghềnh đá lởm chởm nhảy chồm chồm như ngựa vía, chẻ dòng nước thành hàng triệu sợi nhỏ li ti lấp loá giống hệt thứ pha lê trắng được phủ lớp sương mù. Cái xác bị biến dạng đến mức, nếu không biết chắc cuộc hành hình thì chẳng một ai có thể nhận ra nạn nhân là con trai ông trùm phường sơn tràng. Lương Doanh chết rồi Lương Đoàn vô cùng ân hận. Ông ta gần như phát điên, bỏ trại Bồ Nông đi mảng ngược sông đến thác Bồi Lời tìm con. Một lần Lương Đoàn sảy chân ngã xuống vực bị gãy xương đùi từ đó lúc nào cũng ngây ngây dại dại như kẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt. Ngày ngày ông ta uống rượu say khướt rồi xách khẩu súng han gỉ đứng chắn lưng chừng dốc, gặp người lạ là giương súng doạ dù rằng đó là thứ hoả khí vô tích sự, thậm chí cái khoá nòng cũng đã mất từ lâu mà không biết.

Trại Bồ Nông ái ngại cho tình cảnh của Lương Đoàn, họ cử một ông già người Khách quê Vân Nam làm trùm trưởng. Trùm trưởng Lục Kiến cũng là một tay cự phách trong làng võ thuật. Trước khi đến trại Bồ Nông, Lục Kiến giống như một hiệp khách giang hồ, không vợ con với ngón độc chiêu là bảy thế võ truyền đời rất hiểm. Đó là một thứ nhu đạo vô cùng lợi hại có nguồn gốc từ Nhật Bản mà tổ phụ của ông ta học được của một khách thương Tân Gia Ba. Biết được hoàn cảnh của Lê Văn Vận, Lục Kiến chấp nhận cho hai người ở lại trại Bồ Nông. Từ đó, chàng ngư phủ gia nhập phường Sơn tràng. Nhìn tướng mạo Lê Văn Vận, Lục Kiến bảo:

- Số anh sau này tất làm nên nhưng yểu mệnh, phải chú ý giữ gìn thì may mới qua được tuổi tứ tuần.

Trại Bồ Nông từ dịp tháng Sáu tháng Bẩy cho đến giáp Tết Nguyên Đán còn lại toàn đàn bà trẻ con. Mùa khô các ngọn nguồn sông suối đều cạn nước, tre gỗ xếp đống không mang ra được, chủ hàng lo thắt ruột nhưng dân chống bè vẫn bình chân như vại. Họ không mất vốn mà chỉ mất công. Một chiếc bè dài hàng trăm thước, toàn gỗ quý, qua hành trình dài dằng dặc lên thác xuống ghềnh không có tay chèo lão luyện, thông thạo luồng lạch thì mất sạch cơ nghiệp là điều không thể tránh khỏi. Có điều phu bè là một tập hợp bát nháo, vô học và cả vô giáo dục, luôn ứng xử với nhau bằng cơ bắp nên những kẻ yếu thường bị lép vế. Vận biết rõ điều ấy nên hắn ra sức khổ luyện các thế nhu đạo mà Lục Kiến thỉnh thoảng dạy cho. Chuyến lên rừng đầu tiên bà Ba đòi đi theo. Ông trùm người Vân Nam bảo:

- Ở đây thỉnh thoảng cũng có tàn pà làm nghề sơn tràng nhưng vất vảt ấy.

Bà Ba thích lắm hỏi:

- Cháu có thể học võ được không ?

Lục Kiến lắc đầu:
- Cái nghề tấm tá không phải là của phụ nữ, từng pao giờ hỏi ngộ việc ấy.

Phường Sơn Tràng khăn gói trên vai bắt đầu chặng hành trình đầy khổ ải. Cuộc lên ngàn của đám người tha hương trong màn mưa ngâu dai dẳng có cái gì bi tráng như là cảnh những chinh phu ngày xưa lên vùng biên ải trấn thủ lưu đồn. Họ vạch lá, cắt rừng, tìm đường mòn. Người đã quen với nghề rừng đi tiên phong dùng dao quắm phạt cành cây. Một lối mòn hiện ra lờ mờ. Những bàn chân trần nối nhau bước lép nhép. Thỉnh thoảng một người trượt chân ngã, áo quần dính bê bết thứ bùn dẻo quánh ngai ngái mùi lá mục. Những con vắt nâu ngóc cổ lên như hàng tiêu binh, thẳng tắp, chỉ cái đầu bé xíu là khẽ ngó ngoáy. Khi bàn chân đầu tiên xuất hiện, dường như có một thứ hiệu lệnh bí mật nào đó, lũ khát máu người này nhất loạt phóng tới cắm cái vòi mềm nhũn vào lớp da đã bợt bạt vì bùn nước của khổ chủ mà hút lấy hút để. Chúng cắn êm không hề gây cảm giác đau đớn cho đến khi no nê, bụng phình bằng ngón tay mới rời ra. Nhưng kinh nhất vẫn là thứ vắt xanh cư ngụ trên cành cây. Lũ này có khả năng uốn mình búng xa vài thước nếu ngửi thấy mồ hôi người. Chúng cắn nhói một cái, rất đau nên bị phát hiện ngay, vết thương lâu cầm máu nếu không có thứ lá pạc nhì giống lá cây móc rừng dán vào. Sang đến ngày thứ hai ,Thị Lánh đã mệt lắm, hai bắp chân mỏi nhừ, bàn chân bị vắt chích, chỗ nào cũng rỉ máu. Máu trộn lẫn với bùn nâu nhão nhoét tạo thành một thứ màu đỏ sẫm giống như nước quết trầu. Một con vắt nâu vẫn còn đói bám lủng lẳng nơi khoeo chân. Bà Ba vừa thò tay dứt được con vật gớm ghiếc ấy ra bỗng rú lên ngã ngồi xệp xuống, một bàn chân gập lại bị trẹo. Lê Văn Vận vội đỡ dậy nhưng cô ta vẫn rên khe khẽ, người giật nảy như là lên cơn động kinh. Thì ra một con vắt chui vào bẹn qua lỗ thủng ống quần. Trong hoàn cảnh dở khóc dở cười này, chàng ngư phủ chẳng biết làm thế nào, đành luồn tay ngược từ phía dưới lên háng người thiếu phụ. Con vắt quái ác bám nhằng nhẵng vào chỗ nhạy cảm nhất trong cơ thể bà Ba. Tất nhiên không thể để tình trạng bi hài này kéo dài, Vận khó khăn lắm mới gỡ được con vật mềm nhũn , dai như đỉa, giải thoát cho người tình. Tiện tay hắn bóp nhẹ giữa bụng con vắt, một tia máu phọt ra, chẳng khác gì thứ tiết gà ốm mà người ta cắt vội.

Sau cú ngã của bà Ba, Lê Văn Vận phải quàng hai tay nải, dìu cô ta thập thững theo anh em trong phường. Một gã rậm râu mặt như khỉ, cặp tai rất to, trông giống loại ốc biển vẫn dùng làm tù và nửa đùa nửa thật:
- Nếu đằng ấy cho mượn một tối tớ sẽ tình nguyện cõng người đẹp đến tận Phiềng Soi.
Thấy Vận im lặng, Quản Thực, một tay đầu trộm đuôi cướp đã từng hành nghề mấy năm ở kẻ Sòng, nhăn nhở cười:
- Bằng lòng đi, có mất gì đâu, cuối cùng cô ấy vẫn là vợ cậu mà lại được lợi.
Lúc ấy Vận từ tốn bảo:
- Tôi gặp đường cùng, may ông trùm cho nhập phường kiếm miếng cơm, nếu các bác không có lượng bao dung chúng tôi đành đi nơi khác vậy.

Nói rồi hắn dìu bà Ba quay lại. Có người báo với Lục Kiến. Ông ta lập tức túm ngực Quản Thực cho hai cái bạt tai, xỉa bàn tay cứng như thép vào sườn tên rậm râu:
- Ngộ cấm các người dở trò trêu ghẹo chị em trong phường à! Piết chưa ?
Rừng ướt sũng nước. Đường mòn vắt qua sườn dốc chênh vênh hẹp đến nỗi chỉ sẩy nửa bàn chân là rơi xuống vực. Ba bề bốn bên là đại ngàn mênh mông cao chót vót. Những cây cổ thụ tán lá rậm rạp chen lấn với các loại lim, lát hoa, sao dầu, gụ ... vốn là thảm thực vật nguyên sinh tầng tầng lớp lớp nối nhau thành hình khối dày đặc, mông lung, bí hiểm. Mưa tháng bảy làm cho rừng nhợt nhạt, nặng nề và buồn chán. Mấy chú chích choè lông dính bết lại lười nhác đậu trên cành cây sao, nhìn thấy đám lữ hành nhếch nhác luồn phía dưới với những bước uể oải, nặng nề liền cất giọng ai oán hót những tiếng buồn thảm như là phần vĩ thanh của một khúc nhạc tang. Thấp hơn một chút là lũ vượn đen ngồi vắt vẻo trên ngọn cây gió xanh. Bọn này đang khốn khổ vì trời ẩm ướt nên hễ có thì giờ rảnh rỗi không phải kiếm ăn là chải lông bắt bọ chét cho nhau. Một con vượn đực có vẻ là đầu đàn đang nhằn quả chuối chín vàng. Quả chuối toàn là hạt làm nó bực mình vừa ăn vừa nhổ phì phì vào lũ vượn cái. Ngay dưới thung lũng là rừng chuối trải dài, xanh đến vô cùng. Chính những cây chuối cao đến vài chục thước ấy, hàng năm đã sinh ra ngàn vạn quả mập mạp, vàng ươm, thơm phức nhưng vô tích sự bởi toàn hạt là hạt, đến mức khỉ vượn còn nhăn mặt mỗi khi nếm thử. Những hạt mưa li ti bị gió đẩy nhẹ, rơi xiên trông chẳng khác gì những sợi tơ mỏng manh như tơ nhện dệt ngang dọc tạo thành tấm màn nước xanh khổng lồ treo lơ lửng giữa bầu trời u ám.

Đêm đầu tiên đoàn lữ hành nghỉ tạm trong một ngôi nhà sàn còn sót lại của bản người Mường. Chủ nhân có lẽ đã làm cuộc thiên di đến vùng đất mới từ lâu nên quang cảnh rất tiêu điều. Sàn nhà bằng tre bương đập dập mục nát, gẫy từng đoạn. Sau một ngày mệt mỏi, ăn xong, mọi người lăn ra ngủ mê mệt. Vận nằm cạnh bà Ba chắn giữa những người khác. Chừng quá nửa đêm, bà Ba vừa chợp mắt được một lúc vì chân vẫn còn đau tự nhiên có cảm giác buồn buồn trên bụng. Cô ta định trở mình quay mặt về phía Vận nhưng không được bởi một thân hình nặng nề đang trườn lên người trong khi chiếc quần đi rừng đã bị kéo xuống tận bẹn lúc nào không biết. Phải khó khăn lắm Thị Lánh mới kêu lên được một tiếng. Cùng lúc Vận tỉnh giấc biết ngay chuyện gì xảy ra. Hắn ngồi dậy dùng thế võ mới học được của Lục Kiến thoi một quả khá mạnh vào hướng mà hắn nghi là gã rậm râu đang giở trò đểu cáng. Cú ra đòn khá lợi hại. Chỉ nghe đến hự một cái, tên ma cô bật khỏi sàn rơi xuống đất kèm theo những tiếng răng rắc của đoạn tre gẫy. Phía bên kia Lục Kiến thức giấc làu bàu:

- Tứa nào mê ngủ ngã xuống gầm sàn à ?

Không có tiếng trả lời. Gần như tức thời ông trùm phường lại ngáy pho pho. Cánh sơn tràng sau một ngày ngược dốc mệt nhọc, ngủ như chết chẳng cần biết chuyện gì đã xảy ra. Gã râu rậm rón rén bò lên cầu thang chen vào nằm cạnh Quản Thực. Từ lúc ấy, Vận cảnh giác lúc nào cũng ôm lưng bà Ba, luồn tay vào ngực giữ chặt hai bầu vú nóng hổi. Nhưng cũng chính vì thế hắn không ngủ được. Hắn thấy hối hận vì đã mang người tình tới một nơi xa lạ hoàn toàn không có gì đảm bảo cho tương lai dù là tương lai gần. Rằng cái lũ người mà hắn đi theo chỉ là một bọn táp nham sống ngoài vòng pháp luật. Chúng sẵn sàng nhảy vào cắn xé nhau có khi chỉ vì những nguyên nhân rất vớ vẩn. Một ý nghĩ thoáng qua: "Hay là cùng với Lánh bỏ quách nơi này quay lại trại Bồ Nông trước khi trời sáng ?". Nhưng rồi chàng ngư phủ lại tự nhủ : "Quay lại thì sống như thế nào, làm gì khi bản thân mang án giết người đang bị quan nha truy nã ? Thôi, chót đâm lao thì phải theo lao. Đành vậy."

Trời vẫn mưa như rây bột. Hành trình của ngày hôm sau còn khổ hơn nhiều. Bởi vì họ còn phải xuyên qua rừng Tủa Chang bạt ngàn là nứa. Những vệt đường mòn lầy lội còn hằn rõ dấu chân thú kiếm ăn đêm. Thỉnh thoảng có tiếng sột soạt từ bụi cây nào đó. Một con gà sặc sỡ, lông đuôi vổng lên như đuôi công bay từ cây vân sam xuống gò đất mọc thứ hoa mẫu đơn dại đỏ tím như mào của nó. Dưới chân gò, mấy con mái tơ lông xám bạc đang cục cục tìm mồi. Trần Phí, một gã trai người Tày có khuôn mặt ốm đói, đi trước dùng dao phát rừng mở đường. Do bất cẩn anh ta bị cật nứa cứa vào tay, sâu đến tận xương, máu toé ra thấm ướt đẫm chiếc khăn bông xơ. Trần Phí đau quá, mặt tái mét, tay phải bóp chặt vết thương rên rỉ. Lê Văn Vận vội vạch lối rẽ cây tìm vào một khe nước. ít phút sau, hắn nhai dập mấy thứ lá hái được với vài hạt muối đắp vào ngón tay anh chàng ốm đói. Vết đứt toang hoác, chạy dài trông lạnh cả gáy. Chừng mấy phút, máu ngừng chảy nhưng Trần Phí thì bắt đầu lên cơn sốt.

Phải đến ngày thứ bẩy, phường Bồ Nông mới đến được ngọn nguồn Phiềng Soi là điểm khai thác gỗ của những người sơn tràng. Đối với phường Bồ Nông, nghề sơn tràng và nghề chống bè không khác nhau là mấy, cho dù từ xưa đến nay thiên hạ vẫn coi đó là hai lĩnh vực hoàn toàn độc lập. Cũng như những chú Khách đồng hương vùng Đại Lý khác, Lục Kiến chưa bao giờ để cho cái đầu hói của mình bị chi phối bởi khái niệm "chuyên môn hoá" của mấy gã Pháp Lan Tây mắt xanh mũi lõ. Đã không ít lần ông trùm phường nhận bao thầu trọn gói từ các chủ hàng có máu mặt, chẳng phải chỉ chặt gỗ cốn bè mà còn làm luôn cả công đoạn vận chuyển về xuôi qua những hành trình vượt thác mà nếu chỉ sơ sẩy chút ít là vỡ bè, chết người.

Rừng Phiềng Soi nằm cạnh con đường mòn chạy song song với suối Đá Đen. ở khoảng giữa con đường và thung lũng Nậm Cắn là bản Tả Pay của người Thái thuộc tổng Bình An. Dải rừng nguyên sinh bắt đầu từ ngã ba suối Đá Đen kéo dài đến chân đèo Váng bạt ngàn là lim xanh hai ba người ôm. Những cây lát hoa cổ thụ vỏ nâu sẫm, xù xì nằm chênh vênh bên sườn dốc. Loại gỗ tứ thiết gần nguồn nước như thế phần lớn đã có chủ.

Phường Sơn Tràng hoặc dân cốn bè trước sau cũng chỉ là những kẻ làm thuê. Người thuê họ ở mãi Kẻ Chợ hoặc các quan lại trong chính phủ Nam triều cậy thế lắm bạc nhiều tiền, đứng trên cả pháp luật, coi thường sinh mạng của đám dân đen. Có những bận, bọn Tây kiểm lâm lên rừng đón lõng ở Bãi Sang, thế là cả thầy lẫn tớ phải cuốn gói, bỏ của chạy lấy người và nếu không nhanh chân còn bị tống vào nhà lao kèm theo khoản phạt vạ không dưới hai trăm đồng Đông Dương.

Dịp ấy, sau khi cánh thợ hạ xong hàng chục cây gỗ lim to như cột tam quan trên dải rừng Mụ Bà, Lục Kiến cho anh em nghỉ một ngày săn bắn. Lão Cầu thọt và bà Ba vừa trông lán vừa nấu cơm. Quản Thực bị sốt rét nằm rên hừ hừ. Phường Sơn Tràng có hai khẩu Mút, ba khẩu Anhđôsinoa và mấy khẩu súng kíp bắn đạn ghém mua được của dân bản. Ngoài ra mỗi người còn được trang bị một ngọn mác hoặc dao quắm để phòng bất trắc. Lần này họ vào thung lũng Pò Mày tìm lợn rừng. Cách đây mấy hôm Trần Phí phát hiện một đàn chừng bẩy tám con, cứ tầm mặt trời gác ngọn Chiềng Băng lại rủ nhau lội qua suối đá Đen, sang phá nương sắn của bản Tả Pay. Rừng Phiềng Soi sau tháng mưa ngâu xanh biếc lộc non, ríu ran tiếng hót của đủ các loại chim. Trên vòm cao như chiếc lọng khổng lồ của cây đinh hương, một con khướu bạc má chỉ bằng nắm tay mà giọng oang oang như tiếng kèn xắc xô phôn được hệ thống tăng âm khuyếch đại. Mấy chú khỉ mặt choắt, lông sẫm, cặp mắt đen láy và linh động như hai hòn bi ve, nhìn thấy người chẳng biết sợ là gì, vẫn mải miết chơi trò đánh đu, thỉnh thoảng lại trêu nhau kêu khèng khẹc. Đi săn mà gặp phải buổi rừng ồn ào như cái chợ thế này thì thợ săn về tay không là cái chắc. Lục Kiến lẩm bẩm rồi cúi xuống nhặt hòn đá ném con khướu lắm mồm. Phía bên này, gã rậm râu có cái tên rất chướng tai là Ngô Nghệ Toánh, thường gọi Toánh xồm và cu Sún, con trai Lâm Quang Tào, chết mất xác trong chuyến vỡ bè ở thác Khôn năm Mão, đang lần theo dấu chân đàn lợn. Vết chân còn mới nhưng ra đến bờ suối lại mất hút. Hắn ngồi bệt xuống tảng đá sát mép nước vừa càu nhàu vừa gỡ những con vắt bám ở bắp chân:

- Lũ lợn chết tiệt, chẳng lẽ chúng có phép tàng hình mà biến sạch không để lại dấu vết.

Cu Sún giục:
- Hay là ta về. Trời cũng sắp tối rồi bác ạ.
- Về là thế nào. - Toánh hậm hực bảo - Bọn này thường kiếm ăn từ lúc nhập nhoạng. Mày bảo các ông ấy chịu khó ở lại, đêm nay thế nào cũng tóm được một con.
- Nhưng cháu đói lắm rồi.
- Từ chiều đến giờ tao cũng đã ăn gì đâu. - Toánh gườm gườm nhìn thằng bé - Cố chịu một lúc nữa nếu không thấy động tĩnh gì thì ta về. Chả biết hôm nay là ngày gì mà xúi quẩy thế.

Lê Văn Vận xách khẩu súng kíp nòng dài dáng vẻ vừa đói vừa uể oải bước đến. Toánh xồm đánh mắt liếc hắn một thoáng rồi hỏi:
- Có thấy gì không ?
- Không. Tôi nghĩ anh Phí nhầm.
- Không thể có chuyện nhầm lẫn ở đây được. - Nghệ Toánh khẳng định - Trần Phí là người Tày rất có kinh nghiệm trong việc phân biệt dấu chân các loại thú rừng.
- Vậy thì cho thằng Sún về trước. Tôi thấy nó có vẻ mệt quá rồi.
- Cũng được nhưng bảo nó rẽ qua chỗ Trần Phí bảo hắn không đón lõng ở khe Bầu mà về đây ngay.

Trời lắc rắc vài hạt mưa. Gió lặng và rừng đột nhiên trở lại yên ắng. Cu Sún vừa quay đi được vài bước thì nó xuất hiện. Đó là một con lợn độc cao lớn đen trùi trũi với hai chiếc nanh dài trắng nhởn thò ra khỏi mồm từ trên sườn dốc lao xuống làm đám cây mỏ vẹt và những cành gai ba tiêu đổ rào rào như bị lở đất. Lập tức ba người tản ra dựa vào các gốc cây hướng nòng súng dõi theo con thú. Chưa bao giờ họ nhìn thấy con lợn to và dữ dằn như thế. Trong bụng anh nào cũng hoảng, nhất là Lê Văn Vận. Dưới ánh trăng non, chốc chốc lại bị những cồn mây xám với đủ mọi hình thù kỳ dị, lười nhác trôi ngang, thành ra đêm thượng tuần đáng lẽ lung linh huyền ảo thì lại tối mò như chốn âm cung. Con thú bước hùng hục, cái mũi khịt khịt đánh hơi rồi lần ra bờ suối. Nó vừa dợm chân định nhảy ào xuống nước thì Nghệ Toánh nổ súng. Con lợn khựng lại mấy giây rồi bất ngờ đổi hướng. Nó quay ngoắt lại phóng về phía gã râu xồm với tốc độ không thể ngờ. Nghệ Toánh vừa kịp thay đạn khẩu súng mút, chạy ngang sang gò mối đã bị cái nanh khủng khiếp của con thú dữ cắm vào mạng sườn. Cú ra đòn của nó mạnh đến nỗi khẩu súng văng xa hàng chục thước. Tuy vô cùng khiếp đảm nhưng đúng vào lúc ấy Lê Văn Vận và thằng Sún cũng kịp thời nổ súng. Hai phát đạn cách nhau chừng một giây. Con lợn bị thương lại càng kích động. Nó rống lên một tiếng rồi lao thẳng vào đám khói khét lẹt mùi diêm sinh mà khẩu súng kíp của Lê Văn Vận vừa nhả đạn. Biết là khó thoát, hắn hốt hoảng nhìn trước nhìn sau, chợt thấy cây dẻ cổ thụ ngay phía bên phải liền đánh đu vào một cành ngang trước mặt rồi leo lên. Thật may cây dẻ có một chạc ba cách mặt đất chừng bốn năm thước. Lê Văn Vận chọn tư thế ngồi thật vững rồi xoay nòng súng về phía con lợn đang gầm gừ chạy vòng phía dưới. Hắn gọi cu Sún:

- Mày dìu bác Toánh về lán ngay đi, tao giữ chân con lợn. Nhớ vòng lối suối. Nhanh lên. Nó mà phát hiện ra thì nguy.

Nói xong, Lê Văn Vận nhằm con lợn bắn phát nữa. Có lẽ viên đạn chệch hướng. Con thú hộc lên một tiếng rồi xáp vào gốc cây dẻ dùng cặp nanh to bằng cổ tay nhọn hoắt moi đất. Tiếng đào rễ cây lục cục nghe gai cả người. Tuy gốc cây rất lớn, con vật khó có thể quật đổ, nhưng với sức mạnh ma quỷ, nó hất đất đá rào rào vẫn làm chàng ngư phủ run bần bật. Hắn thầm nghĩ: "Giờ mà rơi xuống thì khốn nạn". Trong lúc tâm thần bất định chưa kịp bắn phát thứ ba thì chẳng may khẩu súng rơi xuống đất. Con lợn độc khịt khịt mấy tiếng thăm dò rồi điên cuồng dùng hai chân sau dẫm nát thứ vũ khí chết người vừa mới trước đây mấy phút còn khạc lửa vào nó. "Phen này chắc toi mạng thật" . - Vận vừa ôm chặt cành cây vừa nghĩ . Hắn sợ đến mức nhắm tịt hai mắt, không dám nhìn xuống dưới nữa. Trong khi ấy, con mãnh trư vẫn chạy loang loáng quanh gốc cây, vừa thở hồng hộc và cày xới đất đá với tất cả lòng hận thù man dại.

Đến gần sáng con lợn mới bỏ đi mang trên mình mấy vết thương. Dưới gốc cây dẻ thực sự là một bãi chiến trường. Những chiếc rễ cỡ bắp đùi bị moi hết đất trơ ra cùng với lớp vỏ cây bị vạc nham nhở như người ta dùng rìu đẽo. Đất đá bị cái mõm vừa dài vừa cứng của con thú cày lên tụ thành đống như tổ mối, đôi chỗ dính những vệt máu đã ngả màu nâu xỉn. Không còn một thứ thảo mộc nào đứng vững quanh cây dẻ trong vòng hai chục bước chân. Tất cả đã trở thành một khối hỗn độn mang tính huỷ diệt vượt xa khả năng tưởng tượng của con người.

2. Biết cánh sơn tràng đang ở Phiềng Soi, tri châu Vi Văn Sầm cho viên đội khố xanh lên bảo Lục Kiến:

- Quan lớn xây nhà cần một ít ván làm sàn. Cây gỗ đã được đánh dấu ngay cạnh khúc ngoặt suối Đá Đen. Các anh hạ xuống, xẻ thành tấm, xong việc quan sẽ cho bạc trắng và được chặt đủ số lim lát đóng bè về xuôi.

Lục Kiến ngẫm nghĩ thấy công việc bước đầu thuận lợi nhưng cũng phải ra điều kiện rõ ràng với lão thổ quan người Thái trắng vốn nổi tiếng nghiện thuốc phiện và mê gái để sau này ông ta không thể lật mặt:

- Được, nhưng ông về trình quan chuyến này giảm thuế cho chúng tôi.

Viên đội gật đầu và đưa cho ông trùm phường một cái gói giấy đỏ:
- Đây là tiền ứng trước, làm tốt quan sẽ miễn hẳn thuế.

Cây chò chỉ cao khoảng bốn mươi thước, vòng chu vi ba thước tám, nằm trên một mỏm núi nhô hẳn ra suối. Dân trong vùng sợ rừng Phiềng Soi có ma. Ngoại trừ bọn thầy mo, thầy phù thuỷ còn người bản xứ ít ai dám bén mảng. Từ lâu quan tri châu muốn xẻ bằng được cây gỗ quý, bất chấp mọi lời khuyên, đặt trước một trăm đồng bạc cho cánh sơn tràng nhưng phường nào cũng lắc đầu vì cây gỗ ở vào cái thế chênh vênh rất khó hạ, hạ được lại rất khó xẻ, chết người như bỡn. Sau hôm nhận giao kèo, Lục Kiến cho anh em san đất tạo thành mặt bằng khá rộng chung quanh cây chò, tiếp đó cử Quản Thực, Trần Phí và ba tay thợ có kinh nghiệm dùng rìu chặt phía dưới. Lê Văn Vận, cu Sún, Triệu Đán và Nông Viết Nhân chặt phần trên. Nghệ Toánh vẫn còn đau ở mạng sườn được nghỉ phụ bếp cho ông già Cầu. Gỗ chò xanh cứng như sắt, rìu bổ chan chát chỉ bật ra vài mảnh dăm vụn. Cả phường thay nhau phạt đúng bẩy ngày mới hạ được. Cây gỗ đổ kéo theo một chuỗi âm thanh ào ào như tiếng hút gió của chiếc vòi rồng khổng lồ cách xa vài ba dặm vẫn thấy rợn người. Chim chóc hoảng hốt bay tán loạn. Một con bồ các đen thui từ bụi cây mắt rồng vụt lên như bị đồng ốp. Cái mỏ ngắn nhưng to bè bè của nó liên tục phát ra những tiếng quang quác như tiếng gà mái mẹ nhìn thấy lũ con bị diều hâu quắp. Mặt đất rùng rùng chuyển động như đang xẩy ra một cơn địa chấn dữ dội.

Xong công việc chặt cành, Lục Kiến bố trí từng cặp dùng loại cưa dài do tri châu cho người mang lên cắt gỗ thành từng đoạn theo kích thước. Công đoạn này ít ra cũng phải non nửa tháng, đó là chưa kể các thao tác kê kích, nâng bẩy từng súc sau khi cắt rời vào đúng vị trí cố định kể bắc cầu xẻ.

Mọi việc đang trôi chảy, phường Sơn Tràng lại xảy ra chuyện đau lòng. Cu Sún bị hổ vồ. Rừng Phiềng Soi từ lâu không thấy cọp về. Dân bản bảo cách đây vài ba năm ở Khe Tre có một con hổ vằn nhưng đã bị phường săn bản Nậm Cắn bắn hạ lấy xương nộp quan tri châu nấu cao. Tấm da vẫn để ở nhà trưởng bản Hà Văn Tòng. Ông trưởng bản bảo Lục Kiến:

- Nai, hoẵng, lợn rừng không thiếu nhưng hổ báo bị đuổi sang Lũng Vài rồi.

Hôm ấy là ngày rằm, trời mù sương nên trăng không sáng lắm. Mọi người ngồi quanh bếp lửa nướng săn, cu Sún đứng dậy bảo:
- Tôi ra thăm mấy cái bẫy gà.
- Mày đặt ở chỗ nào ?- Quản Thực hỏi. - Hay là thôi, để sáng mai. Trời tối thế này nhỡ rắn rết nó đớp cho một phát thì toi đời.

Thằng bé vớ con dao quắm nhìn Lê Văn Vận và lão Cầu thọt, nhe hàm răng đen xỉn trông rất tức cười:

- Rắn rết đã có con dao này. Lúc chiều tôi gài cạnh suối có khi giờ này bọn chúng dính bẫy rồi.

Thằng Sún đi chừng nửa giờ không thấy về. Lục Kiến đâm lo bảo Trần Phí và Lê Văn Vận:
- Thằng pé nó làm gì ở pờ suối mà lâu thế. Hay là ... mà vùng này làm gì có thú dữ.
Vận cũng bồn chồn không yên vì linh tính báo cho hắn có chuyện chẳng lành:
- Bác để tôi với anh Phí ra xem sao.

Họ hú tìm cả giờ không thấy cu Sún. Lúc ấy cả phường mới nháo lên chia nhau đi tìm tất cả các hướng. Gần sáng Lê Văn Vận nhìn thấy mấy vệt máu trên vạt cỏ mỡ cách lán ở khá xa. Trần Phí là người vùng sơn cước rất có kinh nghiệm về các loại thú rừng, phát hiện được dấu chân cọp xéo nát cả bụi cỏ vòi voi trước khi tha nạn nhân qua khe suối cạn. Mấy người nhìn nhau thở dài. Một lát sau Trần Phí quả quyết bảo Lê Văn Vận:
- Anh về lán gọi thêm người sang bên kia suối tìm cho kỹ. Tôi nghi nó đi hướng này.
- Hay là tôi đi cùng với anh ?
Trần Phí lưỡng lự giây lát rồi gật đầu.
- Tôi thù con cọp này. Từ giờ đến mai dứt khoát phải hạ được nó.

Trần Phí vốn là dân giang hồ đã từng giết lão thầy mo nên không dám về bản Huổi Tắng, chấp nhận cuộc sống lang thang, lúc đầu ở với phường săn bản Tấu, rồi dân sơn tràng Chiềng Khoa, cuối cùng được Lục Kiến nhận vào trại Bồ Nông.

Năm Trần Phí mười chín tuổi phải lòng con gái nhà họ Lục ở bản Háy. Ông Lục Tông máu rượu, thích đi săn, được con mồi là bắt cánh trai bản kiếm củi đốt lửa quay nhắm rượu tại chỗ. Lục Tông rất hay hát nhất là lúc chếch choáng hơi men, lão lè nhè ca những bài học được từ thời đi lính cho quan châu, thỉnh thoảng lại chêm vài câu tiếng Pháp bồi nghe rất buồn cười. Ngoài rượu, Lục Tông còn là tay cờ bạc nổi tiếng khắp vùng Yên Mai, chợ Đuộm. Một năm nọ, lão đem con gái là Lục Nga, mười sáu tuổi, gán nợ cho Hoàng Bí vì thua bạc. Hoàng Bí vừa là thầy mo vừa là một tay gá bạc giầu kinh nghiệm. Người ta bảo nhà thày mo có ma xó. Con ma này, lúc sinh thời cũng thuộc hàng đệ tử của thần đổ bác, bị lừa mất cả cơ nghiệp, liền treo cổ lên cây mộc hương ở chợ Đuộm tự tử. Hoàng Bí đem cái xác vô thừa nhận ấy về làm ma long trọng như lễ an táng bố mình. Cái hồn của tay cờ bạc chuyên nghiệp kia cảm động lắm, thường bí mật phù phép cho gia chủ thắng những canh bạc lớn. Trong nhà, lão thầy mo đã có đến ba bà vợ. Bà Cả già sọm, mặt mũi nhàu nát, suốt ngày ngồi xó buồng, miệng lầm rầm khấn thần rừng. Bà Hai và bà Ba cũng là vật thế chấp của những ông chồng có máu đỏ đen. Hai bà này, mỗi ngày không chửi nhau một trận là ăn không ngon ngủ không yên. Thỉnh thoảng họ lại túm tóc vật nhau, nếu ông chồng không kịp thời can thiệp thì đã xảy ra án mạng. Nghe tin Hoàng Bí sắp cưới cô vợ tư, trẻ đẹp hơn mình, máu sư tử Hà Đông nổi lên đùng đùng, các bà bèn tạm thời liên kết với nhau phá đám. Trần Phí biết chuyện người yêu bị gán nợ, ức lắm, chạy đến bảo Lục Tông:
- Ông không được bán con gái vào chỗ ấy. Lão Hoàng Bí là một con quỷ.

Lão già đang chẻ nan đan cái lồng lợn con "hứ" một tiếng rồi thản nhiên nói:

- Mày mang một đàn trâu trả nợ thầy mo tao cho cưới con Lục Nga.
- Ông là bố mà nhẫn tâm.
- Mày nói cái gì ? - Lục Tông hằm hằm chĩa cặp mắt đỏ ngầu vì rượu men lá vào tận mặt chàng trai giọng sừng sộ - Tao đẻ ra nó. Mẹ nó chết rồi, bây giờ không có rượu uống, tao bán nó đấy, mày làm gì được nào ?

Đêm hôm ấy, Trần Phí chờ mãi không thấy, nghĩ bụng, chắc Lục Nga đã bị bố nhốt trong buồng. Lưỡng lự giây lát, chàng ta liền chui rào mò vào gầm sàn rồi trèo lên buồng người yêu. Trần Phí con đang mon men ở cửa thì bất chợt một tiếng "phập" sắc ngọt đập vào cây cột sau gáy. Anh hoảng hồn vội thả người nhảy ào xuống đống lá cọ dưới sàn rồi co cẳng chạy. Con chó vện vốn đã quen hơi, chẳng biết từ đâu xô ra, trở mặt ngoặp một nhát vào bắp chân xé rách tươm ống quần. Khiếp thật, tại sao Lục Tông lại đoán ra ý định của mình nhỉ ? Chỉ chút xíu nữa thì toi mạng với con dao quắm lưỡi sáng loáng trên tay lão ta.

Biết Trần Phí yêu Lục Nga say đắm nhưng vì nhà nghèo không có tiền cưới, bà Thoóng vợ ba Hoàng Bí bảo:

- Sao chúng mày không đem nhau trốn lên vùng người Phù Lá mà làm ăn ? Con Lục Nga đẹp như tiên giáng trần thế mà để lão thầy mo hôi như cóc chết sờ vào bụng thì phí cả một đời con gái.

Trần Phí biết tâm trạng của các mụ vợ Hoàng Bí. Thừa dịp lão thầy mo đi cúng ở bản Háy anh lẻn đến nhà gặp bà Ba:
- Sắp đến ngày cưới rồi, ông Lục Tông canh giữ con gái suốt ngày đêm. Mấy hôm trước xuýt nữa tôi bị chém.

Ngẫm nghĩ một lúc, bà Thoóng ghé tai Trần Phí nói nhỏ:
- Hôm ấy … cứ làm như thế … ta sẽ giúp.

Ngày Hoàng Bí đón dâu, khách khứa ra vào rất đông. Ngoài những người trong bản vay nợ lãi của lão còn toàn dân cờ bạc chuyên nghiệp quanh vùng. Họ đến đấy uống rượu ăn thịt, hút thuốc phiện và sát phạt nhau từ chiều hôm trước. Hoàng Bí súng sính trong bộ đồ thầy cúng loè loẹt, miệng chào khách nhưng cặp mắt lươn màu chuột khói đảo loang loáng khắp lượt, trong bụng ước tính số bạc trắng sẽ chui vào chiếc hòm bằng gỗ gụ sơn đen để trong buồng. Lục Nga gần như bị áp tải đến nhà trai với khuôn mặt mệt mỏi, đau đớn như vừa có đại tang. Cô được dẫn vào buồng bà Cả, bà Hai rồi bà Ba trình diện để cái ma nhận mặt người nhà. Trong lúc mọi người ăn uống tấp nập, không ai để ý một phụ nữ mặc bộ quần áo chàm , trùm khăn đen từ buồng bà Ba xuống cầu thang rồi lẩn vào vườn mía. Vườn mía cách bìa rừng một tầm tên bắn. Trần Phí đã đợi ở đây từ sáng sớm. Vừa nhìn thấy Lục Nga anh vội bế xốc lên ngựa ra roi cho nó phi nước đại dọc con đường mòn sang bản Cốc Dì. Mất cô dâu, Hoàng Bí lập tức cử bọn tay chân toả ra khắp các hướng truy tìm. Lão đã quá tuổi sáu mươi, răng rụng bốn chiếc, người lép kẹp như con cá mát ướp muối, vậy mà không hiểu lấy đâu ra sức lực nhảy lên con ngựa bạch bờm hung phi như hoá rồ lên dốc Đá Mài. Tuy nhiên Hoàng Bí là kẻ tinh ranh. Lão phán đoán cặp trai gái kia chỉ có thể trốn theo lối bản Cốc Dì, vượt suối Leng Kheng, sau đó ra chợ Phiềng Sa, nếu không đuổi gấp chúng sẽ thoát. Mà chúng thoát thì họ Hoàng nhục như con chó vì lão phải mua Lục Nga bằng cả một đàn trâu. Con ngựa trắng của Hoàng Bí vốn nòi Mường Bi có thể phi một mạch hàng trăm dặm không nghỉ, tốc độ hơn hẳn ngựa Trần Phí. Quả nhiên , chưa đến nửa giờ, lão thày mo đã nhìn thấy bóng con ngựa hồng thấp thoáng khúc quanh sườn núi. Do phải chở hai người, con ngựa chạy khá chậm mặc dù Trần Phí liên tiếp ra roi và thúc chân vào sườn nó.

- Dừng lại … ! Trả vợ cho t...a... o..! - Hoàng Bí rướn người lên bàn đạp đầu chúi về phía trước gào to.

Chỉ có tiếng gió ù ù và vó ngựa khua rầm rập làm mặt đường mòn bốc lên những đám bụi hung hung đỏ như khói đốt nương sau khi cây rừng đã nỏ.
- Thằng Phí ! Trả vợ cho tao …. Chạy nữa là tao bắn...

Khoảng cách giữa hai người mỗi lúc một gần, Trần Phí càng cố thúc mạnh vào sườn con ngựa đang đuối sức. Sắp đến rừng Huổi Trăn, Hoàng Bí chợt giật mình: "Chúng mà vào được cái rừng đầu nguồn kia thì pháp thuật nổi tiếng như thày mo Lầu Phềnh cũng đành bó tay. Thằng Phí, mày cướp vợ tao là cướp cả một đàn trâu mấy chục con, mày phải chết". Lão ghì cương cho ngựa chạy chậm lại rồi nâng khẩu súng kíp lên vai nhằm vào con ngựa hồng kéo cò. Một tiếng nổ đanh kèm theo đám khói trắng đục đầu nòng. Con ngựa đang phi nước đại chợt chồm lên hất đôi trai gái xuống. Lục Nga ngồi phía sau chết ngay vì lưng cô hứng cả một nắm đạn ghém. Đó là thứ đạn săn thú rừng sát thương rất mạnh của lão thày mo. Trần Phí bị thương vào cánh tay trái nhưng anh vẫn bình tĩnh, biết mình đang ở thế nguy liền nằm sấp cạnh con ngựa giả vờ chết. Hoàng Bí rượt tới. Lão xuống ngựa nâng Lục Nga lên. Vào đúng lúc ấy, Trần Phí bật dậy thọc con dao vào cái hõm nơi cổ họng lão già đang phập phồng vì cố sức phi ngựa trên chặng đường dốc.

Thanh toán xong lão thầy mo, Trần Phí trốn vào rừng Huổi Trăn. ít lâu sau anh lang thang đến vùng Chiềng Oi của người Thái Đen, ở đấy gặp phường săn bản Tấu...

Trần Phí và Lê Văn Vận leo lên dốc rồi mỗi người đi về một hướng. Trần Phí men theo một khe suối nhỏ cát trắng óng ánh như thuỷ tinh rồi đến một thung lũng toàn chuối. Anh ngắm nghía một lúc thấy sườn quả đồi tranh trước mặt có những chỗ bị rạp xuống. Bằng con mắt của một thợ săn, Trần Phí phán đoán, con hổ đã chạy về phía này. Vào sâu một đoạn, anh ngửi thấy mùi gây gây đặc trưng của loài chúa sơn lâm rất khó chịu. Quả nhiên không phải tìm lâu. Dưới tán cây xạ hương, một con hổ vằn khá lớn nằm nửa thức nửa ngủ, hai chân trước choãi ra, cái miệng rộng thỉnh thoảng lại ngáp một cái ra vẻ thoả mãn sau bữa chén no nê. Tuy Trần Phí bò ngược hướng gió rất thận trọng nhưng con mãnh thú không hoàn toàn bị động. Nó nhanh hơn tay thợ sơn tràng, vội thu chân lại, cong người nhún mình, cái đuôi ngoe nguẩy trong tư thế chuẩn bị vồ. Con cọp to lớn quá sức tưởng tượng làm Trần Phí run bắn người, lúng túng mãi mới kéo được cò khẩu Anh đô si noa. Đạn không nổ. Con cọp đập đuôi, uốn một đường vòng cung loang loáng giống như tia chớp chồm lên Trần Phí. Chỉ một tầm tay nữa là chàng trai người Tày toi mạng. Anh kẹp súng vào hai đùi lăn một đoạn tránh cú táp của con thú rồi bật dậy chạy tạt ngang vào một gốc cây gần đấy giật khoá nòng, đẩy viên đạn thối. Sau cú vồ hụt, con hổ gầm lên một tiếng dữ dội. Cặp mắt đỏ ngầu của nó chĩa vào Trần Phí như hai mũi dùi nung đỏ khoan vào cân não làm anh đờ ra gần như mất hết phản ứng tự vệ. Chỉ chờ có thế vị chúa sơn lâm hung hăng đập chiếc đuôi dài cứng như sắt xuống đất, nhún hai chân sau lấy đà chuẩn bị ra đòn quyết định. Đúng vào lúc ấy, một tiếng nổ bất ngờ làm Trần Phí thoát khỏi cơn hoảng loạn. Phát súng kíp của Lê Văn Vận nện trúng sườn trái làm con hổ rống lên thảm thiết nhưng nó vẫn liều mạng quay lại lao như hoá rồ vào chỗ có đám khói. Bây giờ Trần Phí đã có đủ thời gian lắp đạn vào khẩu quân dụng của mình. Viên đạn phá vỡ quai hàm và một phần tai phải ông ba mươi. Nó nhảy dựng lên hai chân sau bằng cả chiều dài rồi đổ vật xuống, miệng sùi ra một đống bọt lẫn với máu . Hai người tìm quanh quất một lúc lâu mới thấy những phần còn lại của cu Sún. Trần Phí cởi áo bọc lại mang về chôn trên gò Ma. Đêm ấy bà Ba cứ khóc mãi. Tiếng khóc của người thiếu phụ vừa tức tưởi vừa ai oán lại vừa rờn rợn ở chốn hoang vu giữa đại ngàn như là thứ tín hiệu báo điềm chẳng lành.

3. Sau hai tháng đánh vật với cây chò, phường Sơn Tràng đã xẻ đủ số ván gỗ cho quan tri châu. Vi Văn Sầm giữ lời hứa, ngoài tiền công khá hậu hĩnh, ông ta còn thưởng thêm cho phường một trăm đồng bạc trắng. Bấy giờ mọi người mới tập trung đốn gỗ, chặt bương cốn bè. Cạnh suối Đá Đen còn một cây sao dầu cỡ hai vòng tay. Cây này rất khó hạ vì bị sườn đá án ngữ. Những tay thợ lão luyện phải mất đứt năm ngày mới chặt được, nhưng thật oái oăm, thay vì đổ xuống suối, ngọn cây lại ngả về phía sườn đá. Lê Văn Vận, Quản Thực và Trần Phí dùng chạc leo lên chặt cành. Lục Kiến cứ chắp tay đi đi lại lại nghĩ cách bẩy cây gỗ ra khỏi gờ đá. Buổi chiều khi đã chặt cành xong, ông trùm quyết định dùng dây thừng buộc vào ngọn kéo, phía bên kia cử bốn người hợp sức bẩy bằng xà beng. Cây gỗ nằm chếch về hướng nam, gốc tì trên con lăn trượt đi một cách khó nhọc từng phân một. Bỗng nhiên, trên sườn dốc, nơi đầu cây gỗ tựa vào có hiện tượng chuyển động. Do sự va chạm mạnh lúc cây đổ phá vỡ thế cân bằng, một khối đất đá khá lớn tách ra lăn xuống rào rào. Lúc ấy, Lục Kiến cùng mấy tay thợ đứng dưới bờ suối đang cố sức ghì sợi chão buộc trên ngọn cây, bị hòn đá tảng văng trúng người, hất xuống vực. Anh em thợ hốt hoảng bỏ cây gỗ nhảy theo, đến khi đưa được Lục Kiến lên thì ông trùm phường chỉ còn thoi thóp. Vết thương ở đầu quá nặng. Hòn đá đập nát phần gáy, óc phọt ra dính lầy nhầy một bên tai.

Phường Sơn tràng làm lễ chôn cất ông trùm trên gò Ma, cạnh mộ cu Sún. Trần Phí được anh em cử tạm thời thay Lục Kiến trông coi công việc của phường. Những ngày này lương thực lại sắp hết. Một số người chán cảnh ma thiêng nước độc có ý định bỏ về xuôi. Trần Phí cử Lê Văn Vận và lão Cầu xuống các bản dưới chân núi tìm mua gạo. Vận khoác khẩu súng Anhđôsinoa tay cầm dao phát rừng mở đường. Lão Cầu khoác tay nải vừa đi vừa khậm khoạc ho. Lão vốn nghiện thuốc lào, gần nửa tháng hết đành nhịn sinh chứng ho khan. Đi được nửa dốc Vận chợt thấy nóng ruột. Hắn không yên tâm để bà Ba ở lại một mình giữa đám đàn ông mà phần lớn đều có thành tích bất hảo, nhất là Nghệ Toánh và Quản Thực. Hai gã này hễ có dịp là hau háu nhìn vào ngực người thiếu phụ một cách thèm thuồng chẳng cần giấu giếm. May mà có Lục Kiến, một đầu lĩnh rất giỏi võ nghệ che chở, nên hai người mới tạm thời yên ổn. Giờ ông trùm mất rồi, bọn chúng chẳng còn phải sợ bóng sợ gió, tha hồ thả lỏng thú tính, đến lúc ấy thì có mà trời biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nơi rừng xanh núi đỏ này đầy lam sơn chướng khí , tai
hoạ luôn rình rập, không thể là chốn nương thân. Phải xuống núi quay về thôi. Nếu cùng cực quá thì dắt nhau đi ăn mày còn hơn là gửi xác nơi đây. Nghĩ vậy Vận vảo lão Cầu:

- Bác xuống bản Phóng tìm mua ngô hoặc được gạo càng tốt rồi đợi tôi ở nhà Quàng Văn Hếnh. Tôi có chút việc phải quay về lán, chiều sẽ xuống.

Nói xong chẳng đợi lão Cầu đồng ý hay không, Vận hối hả ngược dốc.

Trong khi ấy Trần Phí chia số anh em còn lại thành từng nhóm vào sâu trong rừng chặt bương kéo xuống suối để kết mặt bè. ở lán chỉ còn bà Ba nấu cơm. Tầm gần trưa, cơm đã nấu xong, bà Ba mang quần áo ra suối tìm một chỗ khuất tranh thủ tắm trước khi cánh đàn ông về. Đó là một nhánh của con suối Đá Đen cách nơi ở chừng hai ba trăm thước, có một chỗ hõm xuống giống như chiếc bồn tắm tự nhiên bằng đá xanh. Nước suối trong vắt, lũ cá mạy tròn như những đồng xu, óng ánh kim nhũ, bơi lượn lờ chẳng khác gì cá cảnh đang du ngoạn trong bể kính. Bà Ba nhìn trước nhìn sau theo thói quen của phái yếu rồi cởi váy áo lội xuống suối thong thả vớt từng vốc nước mát lạnh tưới lên tấm thân thon thả trắng nõn nà . Ra đến bồn nước, cô ta hơi ưỡn người hai bầu vú thây lẩy như hai trái dừa khẽ lắc lư. Cặp đùi mập mạp khép hờ trông rõ vết sẹo phía trên đầu gối do ngọn roi chánh Đàm quật vào. Khi người thiếu phụ ngồi hẳn vào bồn, cặp tuyết lê lúc này ngập hẳn trong làn nước xanh ngọc bích cứ bập bềnh lúc nổi lúc chìm theo nhịp thở. Có điều nét hấp dẫn của người phụ nữ khoả thân này không chỉ rừng lại ở khuôn ngực hoặc cặp đùi đầy khêu gợi mà ở những đường cong nơi eo lưng xuôi xuống hai bên hông. Đó là những đường cong mềm mại hoàn mỹ đến mức bí ẩn. Nó uốn lượn theo những quy luật phức tạp nhưng lại hiện diện dưới dạng thức hoàn toàn đơn giản như là không hề có sự gia công của bàn tay tạo hoá.

Vùng vẫy chán, bà Ba ra khỏi làn nước lắc người, đang định lên bờ thì Nghệ Toánh bất chợt từ một hòn đá bước tới. Phía sau là Quản Thực đang hau háu nhìn vào tấm thân trắng ngồn ngộn của Thị Lánh. Cô ta vội chạy lại chỗ để quần áo nhưng gã râu rậm đã nhanh chân lao ra chắn đường, bế xốc lấy leo lên lèn đá. Hắn đưa mắt cho Quản Thực:

- Đứng đấy canh chừng có đứa nào ra thì báo, chốc nữa đến lượt mày …

Bà Ba vừa giẫy vừa kêu vừa cắn vào tay Nghệ Toánh. Hắn khoá chặt hai tay người thiếu phụ, nhét chiếc khăn hôi hám vào miệng rồi dằn ngửa cô ta xuống khoảng đất hẹp bên cạnh bụi vừng dại. Khi sức chống cự của bà Ba đã yếu đi, gã rậm râu trườn tấm thân hộ pháp lên bụng cô ta, hai cánh tay vòng xuống nách ghì thật chặt rồi mới làm động tác cuối cùng. Đứng cảnh giới cách đấy không xa, Quản Thực nhìn thấy cái mông của Nghệ Toánh cứ nhấp nhổm trên hai đùi bà Ba thì vô cùng sốt ruột. Mồm nuốt nước bọt còn tay hắn thỉnh thoảng lại thò vào trong quần. Cặp mắt lác trắng dã lúc ấy ánh lên những tia man rợ như mắt chó dại. Cơn hoan lạc thú vật đã qua nhưng gã rậm râu vẫn còn trần truồng trên bụng người đàn bà làm Quản Thực không thể chịu nổi. "Hắn quát khẽ Có người".Nghệ Toánh giật nảy mình vơ vội chiếc quần chạy vào rừng. Quản Thực chỉ đợi có thế và chỉ với vài bước nhảy của loài linh dương hắn đã chồm lên người đàn bà. Bà Ba hầu như đã hết sạch khả năng chống cự, người mềm nhũn, mệt nhoài, để mặc cho gã sơn tràng làm cái việc mà thằng bạn hắn trước đã làm. Niềm khoái lạc của Quản Thực sắp được đẩy tới tận cùng thì bất chợt một lưỡi dao sáng loáng cắm phập vào sống lưng bằng tất cả lòng thù hận làm hắn chỉ kêu được "ức ức" mấy tiếng rồi gục xuống ngực người đàn bà, chết ngay. Cũng vào lúc ấy, Nghệ Toánh vòng lối suối đi lên. Gã này biết mình vừa bị Quản Thực lừa định quay lại tiếp tục công việc đang dở dang thì chạm ngay Lê Văn Vận. Nghệ Toánh sững người, nhớm chân định lùi lại chàng ngư phủ đã nâng súng lên vai quát:

- Đứng lại !

Tên râu rậm bắt đầu chạy mỗi lúc một nhanh, hy vọng vào được được lèn đá là thoát. Nhưng khẩu Anhđôsinoa đã nổ. Viên đạn đáng lẽ nhằm vào lưng thì lại chếch lên gáy. Hắn chết mà chưa kịp cài khuy chiếc áo chàm ngắn tay. Chiếc áo này Nghệ Toánh đã lừa đổi của một ông già người La Hủ chỉ bằng mấy điếu thuốc lào.

Hạ xong gã râu rậm, Lê Văn Vận quay lại rút con dao trên người Quản Thực. Vết đâm quá sâu,chạm đến cả bụng bà Ba, hắn phải dùng chân đạp lên lưng gã sơn tràng mới lấy ra được. Máu ở bụng thị Lánh chảy như xối từ vết thương toang toác dưới phần mỏ ác. Vận hoảng quá, đạp cái xác Quản Thực ra một bên, ôm lấy bà Ba mà khóc. Được một lúc hắn chợt nhận ra, người tình vẫn trần truồng liền chạy xuống bờ suối lấy váy áo mặc vào cho cô ta. Hắn xé áo Quản Thực buộc ngang bụng nhưng máu vẫn chảy, chỉ một thoáng là ướt sũng như nhúng nước. Chợt nhớ đến môn thuốc cầm máu lúc còn ở vạn chài, Vận vội luồn vào rừng. Hắn đi được vài bước thì Trần Phí cùng mấy anh em trong phường tìm đến. Nghe tiếng súng họ đoán có chuyện chẳng lành vì không thấy bà Ba ở lán. Một người đi trước phát hiện ba cái xác nằm cạnh suối cách nhau không xa, cả phường hốt hoảng toả đi các hướng tìm thủ phạm. Chiều hôm sau khi thấy một mình lão Cầu lếch thếch gánh hai tay nải gạo ngược dốc về lán phường Sơn Tràng mới biết kẻ gây ra vụ thảm sát chính là Lê Văn Vận. Nhưng lúc này hắn đã cách rừng Phiềng Soi khá xa sau khi ẩn trong hang đá một đêm. Sang đến ngày thứ ba, Lê Văn Vận đói quá. Hắn chẳng còn đủ sức để bắt những con vắt nâu bám lủng lẳng nơi bắp chân nữa. Lại một trận mưa ngàn. Hắn thất thểu bước như kẻ mộng du, chốc chốc lại ngồi bệt xuống bẻ một ngọn măng giang, tước vỏ bỏ vào mồm nhai trệu trạo. Hắn đã bị lạc rừng. Thoát khỏi cuộc truy đuổi của anh em trong phường nhưng chắc gì đã thoát chết một khi chẳng có thứ gì ăn sống người ngoài khẩu Anhđôsinoa mà lúc này hắn dùng để chống như một chiếc gậy. Chỉ còn hai viên đạn. Không có lửa. Nếu gặp may mà hạ được thú rừng thì cũng chỉ có cách là ăn sống. Hắn đã thoát chết bởi con lợn độc tuy phải qua một đêm kinh hoàng ngồi trên chạc cây, nhưng còn bây giờ giữa đại ngàn hoang vu xung quanh biết bao nhiêu hiểm hoạ rình rập. Sợ nhất là hổ báo. Loài mãnh thú này không hề biết sợ. Chúng sẵn sàng tấn công trực diện con mồi nếu đã lâu không kiếm được thứ gì cho vào bụng. Rồi con rắn rết, bọ cạp và nhất là trăn gió. Bọn này thường chạy ào ào trên ngọn cây. Ngửi thấy hơi người là chúng quăng mình cuộn chặt bằng những vòng cứng như gọng kìm thép làm xương cốt gãy răng rắc, thịt mềm nhũn, bấy giờ mới há cái miệng đỏ lòm, ngoác ra đến tận mang tai từ từ nuốt. Vận không thể ngờ nhát dao bổ vào lưng Quản Thực lại mạnh đến thế. Thằng chó đẻ ấy chết là đáng kiếp, nhưng tại sao hắn lại giết cả bà Ba ? Lúc về đến lán, không thấy cô ta Vận đã nghi. Hắn biết chỗ hõm suối hằng ngày vẫn đưa cô ta đi tắm liền lặng lẽ tìm ra. Nhưng đã quá chậm. Lúc ấy Quản Thực đang nằm trên bụng Thị Lánh. Mà cô ta lại nằm trong tư thế như là một sự đồng loã đầy cảm hứng khoái lạc. Chỉ đến khi nhìn thấy khuôn mặt gã rậm râu đầy những vết cào cấu, chàng ngư phủ mới biết, do lòng ghen tuông bột phát, đã nghi oan lòng chung thuỷ của người thiếu phụ. Phát súng hạ gục gã râu rậm là phát súng định mệnh có vẻ như Thượng Đế đã mượn tay hắn trừng phạt cái ác, thực hiện lẽ công bằng.

Đêm hôm ấy Vận trèo lên một chạc cây to, dùng dây rừng quấn vào người rồi dựa vào cành thiu thiu ngủ. Hắn mệt quá thiếp đi chẳng biết trời đất gì nữa. Trời sáng bạch hắn mới thức dậy, thấy người gây gấy sốt liền tụt xuống đất, tìm nước uống. Đầu nhức như búa bổ. Dòng suối ngay gần đấy, nước chảy ràn rạt nhưng Vận có cảm giác nó gầm réo dữ dội bên tai tựa như tiếng rùng rùng của hàng ngàn chiến mã đang tung vó trên thảo nguyên mênh mông. Lê được đến bờ suối, chưa kịp uống ngụm nước, cơn sốt đã làm hắn ngất đi. Trong cơn mê sảng chàng ngư phủ mơ màng nghĩ đến người đàn bà đã cùng mình lưu lạc sau những biến cố bất ngờ của gia đình họ Khúc. Những hồi ức ngọt ngào lẫn với đắng cay lần lượt hiện về. Kỷ niệm đậm nét nhất là hắn cùng bà Ba nhún cây đu cao chót vót, cao đến tận trời. Vòng đu cuối cùng Vận nắm tay Thị Lánh, bước vào khoảng không rồi bay lên giống hệt cánh chim tự do. Tóc bà Ba mềm như lụa nâng lên hạ xuống nhịp nhàng chẳng khác gì tiên nga múa điệu nghê thường. Lên đến tầng thứ ba đột nhiên trời trở gió. Gió mỗi lúc một mạnh. Mà đôi cánh mỏng manh của cặp tình nhân không thể chống lại những trận cuồng phong. Hai người bị đẩy ngược trở lại trần gian với tốc độ rơi tự do làm Vận hoảng hồn. Hắn vội cụp cánh, vòng tay ôm lấy bà Ba rồi nhắm mắt chờ quỷ sứ đến đưa linh hồn hai người về địa phủ. Một cú va đập dữ dội làm chàng ngư phủ choáng váng…

Trước mắt Vận là một gã đàn ông không thể đoán được tuổi tác vì hắn để râu tóc xồm xoàm như người rừng. Mặt hắn gầy choắt, da bủng, mắt vàng giống hệt dân nghiện kinh niên vừa đói cơm vừa đói thuốc. Nhìn thấy bộ dạng ông khách quái dị như vậy, Vận sợ lắm hỏi:
- Ông …là … ?

Người mặt choắt nheo mắt mỉm cười qua bộ râu hung hung như râu ngô điểm vài sợi trắng như cước không trả lời hắn mà bảo:
- Anh bị lên cơn sốt chỉ một chút nữa là đâm đầu xuống suối, may mà tôi đến kịp.
- Vậy là ông đã cứu tôi ?
- Anh làm gì mà lang thang trong rừng ?
- Tôi là thợ sơn tràng.
- Khai thác gỗ ở khu nào ?
- Cách đây xa lắm - Vận không dám nói thật vì sợ quan quân cho lính truy lùng - còn ông là ai mà cứ hỏi tôi như là hỏi cung thế ?
- Hoàn cảnh của anh thế nào cứ nói thật đi. Tôi không phải là mật thám.

Vận thở dài:
- Trước mồ côi cha mẹ, phiêu bạt khắp nơi, giờ còn khốn nạn hơn nữa là không mảnh đất dung thân.
- Vậy thì tạm thời đi với tôi cho có bạn - Người đàn ông mặt choắt bất ngờ đề nghị.
- Nhưng mà đi đâu ? - Vận ngước cặp mắt âu sầu nhìn trời hỏi bâng quơ - Mà tôi đang đói lắm, ông có cái gì ăn được không ?

Người khách lấy trong bọc ra mấy bắp ngô luộc đưa cho Vận. Hắn nhìn ông ta một thoáng rồi vồ lấy bắp ngô gặm lấy gặm để. Đợi chàng ngư phủ ăn xong, ông ta lấy trong túi chiếc ống nhôm nhỏ dài như ngón tay dốc ra hai viên thuốc màu trắng bảo Lê Văn Vận:
- Uống ngay đi. Thuốc sốt rét anh em chuẩn bị cho tôi đấy.
Chiều hôm ấy Vận theo người đàn ông lạ mặt ra khỏi rừng dang. Họ ngủ trong chiếc lều canh ngô của dân bản Cốc. Đêm ấy chàng ngư phủ kể cho ông khách mặt choắt về cuộc đời mình. Nghe xong ông ta cảm động lắm. Sáng ra, lúc sắp lên đường đi tiếp ông khách hỏi:
- Từ hôm qua đến nay anh vẫn chưa biết tôi là ai phải không ?

Vận gật đầu:
- Phải. Tôi trông ông không phải là phường thổ phỉ cũng không phải dân buôn lậu thuốc phiện. Ông ăn nói chững chạc, cử chỉ đàng hoàng, hay là …
- Tôi là tù chính trị vừa vượt ngục Sơn La.
- Thế ra ông là chính trị phạm ?

Ông khách khẽ gật đầu:
- Bây giờ còn dám đi với tôi nữa không ?

Vận ngần ngừ một lúc rồi hỏi lại cái câu mà hắn đã hỏi nhiều lần:
- Nhưng mà đi đâu hả ông ? Tôi cùng đường rồi.
- Cùng đường nhưng không có nghĩa là tuyệt mệnh - Người tù vượt ngục thong thả bảo - ở dưới bản Chiềng Om tôi có một người quen. Ta xuống đấy nghỉ mấy ngày rồi sẽ tính.
- Tôi sợ lắm. Đi theo ông nhỡ dọc đường gặp lính quan châu đi tuần thì chết.

Ông khách mặt choắt nghiêm giọng nhìn thẳng vào Lê Văn Vận :
- Đi hay không là tuỳ anh bởi chính tôi cũng đang bị nhà cầm quyền truy đuổi. Có điều đã sinh ra làm đấng nam nhi trên đời cần phải làm một cái gì có ích đừng quá nghĩ đến những chuyện vụn vặt.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
10-25-2015, 09:37 PM
Chương 4

1.Từ khi chánh Đàm chết, người quản lý cơ nghiệp họ Khúc là bà cả Huê. Khúc Luận được bà ta nuôi dạy như con đẻ. Thậm chí nó còn được cưng chiều hơn cả Khúc Thị Huệ, lúc này đã bốn tuổi, giống thằng anh như đúc mặc dù chúng không cùng một mẹ sinh ra. Tất nhiên là bà ta thâm thù Mạc Thị Lánh. Chính vì cô ta - con đĩ lăng loàn trời đánh thánh vật - mà chồng bà phải chết. Cái chết của Khúc Đàm làm thanh danh gia đình bị hoen ố, là đề tài cho thiên hạ đàm tiếu. Nhưng thằng con do cô ta đẻ ra lại quý như vàng. Nếu không có nó, toàn bộ gia tư điền sản sẽ rơi vào tay kẻ khác mà trước hết là mấy đứa con của Khúc Kiệt. Lão này biệt tăm bảy tám năm, thỉnh thoảng mới mò về mà lại toàn về vào ban đêm. Cánh lý dịch từ lâu đã nghi lão đang làm việc cho một tổ chức bí mật nào đó chống lại nhà cầm quyền nên cách ăn nói khác hẳn thời kỳ còn làm thày đồ gõ đầu trẻ. Nhà họ Khúc sau này phải có một người đàn ông làm chủ, và người đó sẽ là Khúc Luận. Bỏ qua mọi định kiến của phường nhi nữ thường tình, quyết định của bà có ý nghĩa lịch sử đối với truyền thống vốn rất bảo thủ của các bậc phụ huynh làng Cùa. Bà nhồi nhét vào cái đầu trẻ thơ của Khúc Luận lòng hận thù và niềm khinh bỉ đối với người đã sinh ra nó. Mỗi ngày một ít, như mưa dầm thấm lâu, phương thức giáo dục đầy tính vụ lợi của người đàn bà đáo để này đã làm méo mó hình ảnh bà Ba trong tâm trí thằng bé. Đại khái ý niệm thường trực của nó luôn coi mẹ là người đàn bà lẳng lơ đĩ thoả, bỏ nhà theo trai, tội đáng gọt tóc bôi vôi thả bè trôi sông. Còn Lê Văn Vận là tên vong ân bội nghĩa, giết bố vợ cướp vợ bé của ông ta rồi đem nhau đi trốn. Chánh Đàm đã về với tổ tiên, bà cả Huê tô vẽ lão ta thành một thứ thần tượng để nhào nặn Khúc Luận theo quan điểm giáo dục của mình. Đó là lòng hận thù đến tận xương tuỷ và sự khinh miệt nhân cách đối với kẻ đã phá vỡ bức thành đồng gia pháp, đảo lộn cương thường, gây ra màn bi kịch độc nhất vô nhị ở vùng Ba Tổng.

Khúc Luận đến tuổi đi học. Thầy dạy là ông khoá Nhưng người làng Buộm. Khoá Nhưng chưa đến bốn mươi, có máu gió trăng, chữ xấu như gà bới nhưng ăn mặc bảnh choẹ, nói đâu ra đấy làm bà Cả động lòng. Hai người đầu mày cuối mắt xem ra tâm đầu ý hợp lắm nhưng còn ngại mẹ con bà Hai. "Phải tìm cách tống lũ này đi nơi khác". Bà ta nghĩ vậy mà luôn chờ dịp thực hiện âm mưu của mình. Một hôm bà Cả gọi mẹ con bà Hai lên nhà bảo:

- Tôi nghĩ mãi rồi. Mấy năm trước hai đứa con nhà chị Hài còn bé thì không nói làm gì, giờ cả thằng Luận và chúng nó đều lớn, đã hiểu biết đôi chút xem ra khó có thể ở chung được vì vụ án anh Vận giết ông Chánh … Tôi đã hỏi mua được ngôi nhà của trương Đáp ở xóm Trại Cá, dăm hôm nữa, tu sửa xong dì và mẹ con con Hài sẽ chuyển ra đấy.

Biết phận mình lẽ mọn lại không có con trai trước sau cũng bị bà Cả đuổi khỏi nhà, bà Hai chẳng thèm xin xỏ gì, thản nhiên gật đầu:

- Chị nói phải, nhưng mẹ con tôi không ở xóm Trại Cá mà ngay ngày mai sẽ sang sông về làng Nội.
- Cái đó thì tuỳ dì thôi - Bà cả cười nhạt nhìn mái tóc điểm bạc của bà Hai, thủng thẳng bảo - Nhưng sang sông thì phần gia tài của mẹ con gì không được mang theo.


2. Những trận mưa liên miên từ đại ngàn dồn về sông Lăng làm ngập cả cồn Láng cồn Vành. Gió chạy ào áo. Sóng vỗ oàm oạp. Nước phù sa đục ngầu giận dữ lao băng băng như muốn thoát khỏi con đê mỏng manh, chờm vào những cánh đồng chiêm trũng để giải phóng bớt năng lượng. Tháng bảy, lúa đang thì con gái. Khắp lượt các cánh đồng Mả Gạch, Mả Dứa, Đồng Gà xanh mướt một màu. Trên gò đống hoặc ven bờ ruộng, những đứa trẻ đội nón lá, quàng áo tơi chăn trâu. Mưa kéo dài, trâu buộc cuồng chân cà sừng vào gióng chuồng đòi ra. Bọn trẻ thả trâu gặm cỏ rồi vồ châu chấu. Những con chấu cái bụng đầy trứng, toàn thân xanh thẫm màu lá lúa, bị ướt, vỗ cánh một cách khó nhọc. Có con không đủ sức vượt chặng đường khá dài đến gò đống rơi cả xuống nước. Chấu đực nhỏ gầy như đầu đũa, bay ràn rạt hàng đàn. Lũ này có vẻ lười tuy chúng bay rất khoẻ. Các chàng đa tình này thường "ngự " trên lưng các "nàng" tạo thành một cặp chênh lệch như là mẹ cõng con. Thấy động, chấu cái bay lên như tàu "bà già"[1] mang theo cả anh bạn đại lãn không mấy chung thuỷ. Cào cào đầu nhọn đủ loại xanh, đỏ, tím, vàng bay vù vù. Mỗi khi bay chúng chẳng cần phải vỗ cánh lấy đà. Chạm người hoặc bước chân trâu tới gần, chỉ nghe đến "xoẹt" một tiếng, đã thấy chú ta lơ lửng trên trời để rồi vài giây sau lại đỗ xuống một mô đất nào đó cách đấy không xa dù rằng mưa vẫn như trút nước. Lũ cà cộ và châu chấu ma vô cùng tinh khôn.

Chấu ma ngắn người, to xác, khoác bộ y phục sặc sỡ bẩn thỉu, đôi chỗ điểm các vòng đen lấm tấm vàng giống như mắt quỷ. Vùng Ba Tổng không ai ăn châu chấu ma nên chúng tha hồ sinh sôi nảy nở, tự do dọc ngang trên khắp các dải đồng. Nơi cư trú lý tưởng nhất đối với bọn này là những ruộng lạc, ruộng đỗ, ruộng dưa sắp đến kỳ thu hoạch. Chấu ma bay rất cao, có lúc cả đàn vù vù trên đầu như xay lúa. Chúng không sợ trời mưa. Càng mưa càng bay khoẻ. Nhưng những hiệp sĩ nổi tiếng của đồng chiêm thì phải giành cho các chàng cà cộ. Bọn này thực chất thuộc nòi châu chấu nhưng to xác hơn cả chục lần. Những chú trưởng thành thường khoác bộ cánh xanh lá mạ hoặc vàng rơm với cái đầu vuông gồ lên, hai con mắt lồi ra trong suốt như thủy tinh trông rất hiếu chiến. Cà cộ thường kiếm ăn trên các trà ruộng hoang. Ban đêm chúng phát ra thứ âm thanh gọi bạn nghe cành cạch như là tiếng hai thanh tre gõ vào nhau. Khu đồng vàn có những gia đình cà cộ cư trú lâu đời. Lúc tạnh ráo, lũ choai choai tập nhảy tanh tách, con nào cũng mỡ màng bụng nhẵn bóng, đầu thò ra cặp râu dài đen như hai sợi tóc. Trên cao một cặp sáo đen vừa liệng những vòng cuối cùng vừa kêu chíp chíp giống tiếng nhị hen của xếp Đáy - một lão quăng chài nát rượu thường ra bờ ao ngồi "cò cử" mỗi khi chếch choáng hơi men.

Chiều chiều, lũ trẻ dắt trâu về đến cổng làng đứa nào cũng kèm thêm giỏ châu chấu lủng lẳng bên sườn. Chỉ cần nhúng giỏ vào nồi nước sôi rồi đổ ra vặt cánh, đem rang với muối, mỡ thêm nhúm lá chanh thái nhỏ là đã có một món ăn trong bữa cơm đạm bạc của những gia đình nghèo.

Như mọi chiều, đàn trâu thủng thẳng về đến bờ mương, sắp sửa qua cổng làng thì bỗng từ đình Cả vọng về tiếng trống ngũ liên. Quả nhiên chưa đầy một khắc, khắp nơi đã lao xao tiếng người lẫn với tiếng mõ cá dọc theo con đường từ chùa Vĩnh Hưng xuống xóm Trại Cá. "Vỡ đê rồi !". Có ai đó gào lên như là tiếng nấc của bà già đang uống nước bị nghẹn. Liền sau đó là những tiếng ào ào, lúc đầu còn có vẻ mơ hồ sau rõ dần, cuối cùng nổ ùng ục như sấm rền. Chuỗi âm thanh chết người ấy chạy khắp đường làng rẽ vào tận cùng ngõ xóm. Nó đến đâu là mang theo thứ nước đục ngầu, đỏ như máu, mát lạnh phù sa. Nó là tín sứ của thuỷ thần đem thông điệp huỷ diệt đến với vùng Ba Tổng.

Trước khi vỡ, ở đoạn điếm Bài Vân, đê sông Lăng đã sạt vài chục thước. Đoạn này vừa thấp vừa mỏng, khi nước lên đến lưng chừng con chạch, ngấm qua tổ mối đùn vào phía trong hàng loạt mạch sủi thì đám dân phu đông đúc vùng Ba Tổng dưới sự thúc ép của tri huyện Nam Thành Cáp Văn Tòng đành bó tay chịu phép. Không đầy nửa giờ, bảy chục thước đê bị khối nước hung hãn màu gạch cua đẩy bật về phía làng Cùa. Như con ngựa bất kham xổng chuồng, đạo quân của thần thuồng luồng mặc sức tung hoành tấn công vào khắp các hang cùng ngõ hẻm của các làng hữu ngạn sông Lăng. Những chuỗi sấm rền lục bục trên cao cùng với tiếng nước réo ầm ầm từ cái miệng đê lúc này đã toác ra hàng trăm thước thành một bản hợp tấu khổng lồ, rùng rợn chẳng khác gì cơn Đại hồng thuỷ thời tiền sử. Mây đen vẫn vũ trên bầu trời ướt sũng làm đêm xuống rất nhanh tuy lúc ấy mới đầu giờ Dậu. Từ phía nhà Khúc Kiệt có ai đó gào thảm thiết kèm theo là tiếng chuyển động răng rắc giống như tiếng vặn mình của một con trăn khổng lồ sau khi đã nuốt chửng chú dê non. Như vậy là nhà Khúc Kiệt đổ. Tiếng kêu the thé ấy có thể là giọng hoảng hốt của Khúc Thị Nhân. Con bé này xinh đẹp nhất làng nhưng vì có nốt ruồi dưới mắt trái nên khó lấy chồng. Từ lâu Khúc Kiệt đã biệt tăm. Nó tuy là em gái nhưng phải thay hai ông anh lười như hủi quán xuyến công việc gia đình, chăm sóc bà mẹ ốm yếu. Giờ nhà đổ không còn chỗ chui ra chui vào, nó khóc là phải. Lũ lên rất nhanh, chưa đầy hai canh giờ, làng Cùa đã chìm trong biển nước. Đàn bà, trẻ con bị thuỷ thần tống ra khỏi cửa cùng với các loại đồ vật nổi lềnh phềnh. Mấy đứa con vợ chồng Thường Rỗ bám được vào mái nhà. Thằng anh vòng hai tay ôm cột trụ ngồi lên thanh quá giang, còn thằng em bị gióng kèo gẫy đập vào bả vai, đau quá, phải thả tay ra, thế là rơi xuống nước. Thằng anh tuột khỏi quá giang quờ quạng tìm, nhưng vào đúng lúc ấy một trận gió quái ác lật nghiêng cái chóp còn lại của căn nhà bẹp. Nó bị hất xuống một đống bùng nhùng rào gai lẫn với rong rêu rồi mắc cứng ở đó. Thường Rỗ gào đến khản cổ mà chẳng thấy tăm tích hai thằng con. Hắn lặn xuống ba thước nước hy vọng tìm được một trong hai đứa nhưng cô vợ béo phục phịch lại sắp chìm nghỉm vì không biết bơi, đành phải dìu ra ngọn cây xoan dùng thừng buộc tạm vào chạc ba.

Đau nhất là nhà phó hội Đang. Nhà ông này kín cổng cao tường, cho là nước chỉ lên không quá một thước như trận vỡ đê năm Sửu (1925) nên vẫn bình chân như vại sai các con kê kích thóc lúa. Ai ngờ lũ về nhanh quá , ngập sâu hơn ba thước, chân móng ruỗng ra, kéo đổ nhà. Mái ngói âm dương ngấm nước, nặng chịch úp xuống đè chết cả bốn mẹ con, chỉ còn mình ông chồng lúc ấy đang ở ngoài sân định đi tìm thuyền.

Nhà chánh Đàm bấy giờ là nơi tị nạn của bất cứ ai trong làng nếu tìm cách vào được. Đây là ngôi nhà hai tầng được họ Khúc xây dựng kết hợp cả hai phong cách kiến trúc bản địa và kiến trúc biệt thự của Pháp thế kỷ mười chín, có diện tích sử dụng khá rộng. Tầng dưới năm gian, hai đầu hai buồng và gian giữa thông với nhau như các căn hộ truyền thống. Tầng trên cũng năm gian nhưng được bố trí thành những phòng riêng biệt. Hai gian đầu là nơi làm việc và nghỉ ngơi của chánh Đàm khi lão ta còn sống. Trước khi làm nhà, có lẽ họ Khúc đã dự tính đến khả năng vỡ đê nên lão cho xây nền móng rất cao. Chính vì vậy, các nhà trong làng ngập đến mái tranh riêng dinh cơ bà cả Huê chỉ đến lưng chừng tầng dưới. Ba mẹ con bà chủ rút vào căn buồng ngay cạnh cầu thang tầng hai. Mấy gian còn lại giành cho bà con hàng xóm. Không những thế bà ta còn mang gạo trợ cấp cho những người ở nhờ. Sau vụ Lê Văn Vận ngộ sát chánh Đàm, bà cả Huê xấu hổ với làng Cùa, mỗi khi có việc ra đường phải quấn khăn đội nón che mặt. Giờ nhân dịp trời giáng hoạ bà phải tranh thủ làm phúc để lấy lại phần nào vị thế của mình. Đêm hôm ấy căn gác nhà Chánh Đàm chật cứng người.

Gần sáng lại một trận mưa như trút nước. Những lằn chớp loang loáng chạy ngang dọc khắp bầu trời rạch bóng đêm thành từng vệt xanh lét kèm theo cơ man nào là tiếng nổ đinh tai nhức óc tưởng như làng Cùa sắp đến ngày tận thế. Nước rào rào trên mái ngói, chảy xối xả chẳng khác gì đứng trên cao dốc cả thùng xuống. Mọi người còn đang hoảng hồn bởi hàng chuỗi những âm thanh kinh thiên động địa còn dữ dằn hơn cả tiếng gầm đại bác một trăm lẻ năm ly thì có tiếng ộp oạp dưới sân. Trong ánh chớp rõ như ban ngày, một người đàn ông ôm một phụ nữ quần áo ướt sũng, tóc rối bù đang quằn quại như là sắp chết đến nơi. Bà phó lý Dần vội chạy xuống cầu thang dắt người đàn bà lên. Ông chồng mặt tái mét, trên người đánh mỗi chiếc quần cộc bạc phếch thủng lỗ, chỗ giọng mếu máo:
- Các ông các bà ơi, cứu nhà cháu với. Nó sắp đẻ …

Thì ra là vợ trương Thấn. Trương Thấn quanh năm quăng chài ngòi Mác, bắt ếch thành thần. Hắn nghèo rớt mồng tơi, mãi ba mươi tuổi mới lấy được cô Tăng con ông Biểu Ngạch. Cô này trước đã có một đời chồng nhưng anh ta chết sớm vì bị rắn độc cắn trong một lần đi thả rọ cá trê. Cô Tăng đau bụng dữ dội mà đứa bé vẫn chưa chịu ra, anh chồng phải chặt cây chuối dìu vợ đến nhà bà Chánh. Trong số mấy chục người vừa đàn ông vừa đàn bà không ai biết đỡ đẻ. Bà cả Huê đem bộ quần áo sạch cho cô ta rồi bảo nhà Thao con ông vệ Toàn đi đun nước. Cũng may sản phụ mới vỡ ối, cái thai lại thuận chiều nên chỉ già một khắc thằng bé đã lọt lòng mẹ. Bà Phó lý tìm mãi mới được chiếc liềm cắt rốn. Liềm cùn phải cưa đi cưa lại mấy lần mới đứt.

Toàn bộ làng Cùa ngập trong biển nước. Đây đó những hàng tre, những bụi chuối và đám ổi phất phơ dưới làn nước đục ngầu lẫn vô số rác rưởi, giường phản bàn thờ, thúng mủng nổi lềnh phềnh cùng với xác gà chó bắt đầu nặng mùi.

Đến trưa ngày thứ ba thì những kẻ còn sống sót ở làng Cùa thực sự rơi vào một thảm hoạ. Ngay giữa ao đình, một đàn trâu chừng năm sáu con của nhà Phó lý Dần chết từ hai hôm trước giờ trương phềnh chẳng khác gì những con voi cụt vòi bị sóng đẩy giạt vào bờ. Những cặp mắt trắng dã mở thao láo, bất động. Đám lông hung hung đỏ ở trán con trâu đực sứt mũi đã bắt đầu rụng từng mảng. Ngay cạnh nhà Khúc Kiệt, nơi có khoảnh ao rộng vẫn thả bèo cái, phập phều mấy xác lợn. Bụng chúng phình ra như là ăn cám quá no làm cho chiều dài ngắn đi trông giống hệt những chú lợn béo mũm mĩm để trong kiệu được cánh tuần đinh khiêng ra đình tế thần. Chỉ có điều lợn hiến tế thì thơm phức vô cùng hấp dẫn còn loại chết trôi này đang bốc mùi lợm giọng. Kinh nhất là quản Thông chết trong hòm thóc. Cái hòm gian của lão chứa ngót bảy chục thúng . Lúc nước về, quản Thông bắt vợ ngồi lên xà nhà. Lão xúc từng thúng leo lên đưa cho bà ta đổ vào tấm phản quây lá cót. Được độ bảy tám thúng quản Thông bị trượt chân, đổ thang rơi trúng miệng hòm. Lão đang quờ quạng tìm lối ra thì cùng lúc nước phá sập bức tường. Chiếc hòm khổng lồ ngập sâu dưới nước, phải ba bốn ngày sau hàng xóm mới đưa được lão ra cùng với đám thóc lúa đã nảy mầm như là mống mạ sắp sửa đem gieo. Người Quản Thông thối hoắc, trương lên như con bò mộng không nhét vừa bất cứ thứ quan tài nào. Cánh tuần đinh phải tháo cả khuôn cửa bức bàn thửa cho lão một cái hộp tạm thời rồi đặt lên bè chuối đẩy ra đống Ba Quai chôn.

Khi nước rút, các gia đình có người mất tích bắt đầu tìm kiếm xác nạn nhân. Khắp vùng Ba tổng đâu đâu cũng nhuốm màu tang tóc. Thằng Đạt con ông nhiêu Soạn lên chín tuổi mải bắt cào cào để trâu xuống tận đồng Quan. Tìm được trâu thì đã tối mịt, nó đội mưa dò dẫm về được đến cổng Mả Gạch thì bị nước lũ cuốn cả người lẫn trâu ra tận đầm Ma. Ông Soạn tìm hai ngày không thấy. Mấy hôm sau có người phát hiện giữa đám bèo tây cách bờ đầm vài thước có một xác chết mới nổi lên. Người nhà khó mà nhận ra thằng bé nếu ở cổ nó không còn chiếc vòng bạc với mấy quả nhạc chạm hình hoa cúc. Chiếc vòng thít lấy cái cổ chật cứng. Khuôn mặt thằng Đạt biến dạng đến mức quái dị. Từ trong hốc mũi, một con đỉa to bằng ngón tay cái dài loằng ngoằng thò ra rồi lại thụt vào. Hai vành tai nhợt nhạt bị lũ cá mương gặm nham nhở, còn cái miệng há hốc rộng đến khủng khiếp, phơi ra hàm răng đen xỉn nhớp nháp phù sa lẫn với rong rêu. Một con cua bằng ngón tay đang dùng càng gặm dần từng tí một thứ thịt đã mủn bốc mùi hôi thối không thể chịu nổi ở các kẽ răng.

Khúc Luận ngồi trên ban công tầng hai thả dây câu xuống sân. Cái lưỡi câu to sụ của nó mắc một con châu chấu đã vặt cánh. Nước vẫn còn cao hơn mặt sân lát gạch Bát Tràng của nhà họ Khúc già một thước. Mấy chiếc thuyền mủng buộc cạnh cửa chính. Đầu hồi còn chiếc bè đóng bằng cây chuối hột của nhà cả Thuần. Ông Thuần đi tìm vợ đã ba ngày nay mà không thấy, đói quá, chống bè vào sân nhờ bà Chánh bữa cơm. Lúc bà cả Huê bưng mâm ra, chẳng biết nghĩ ngợi thế nào ông ta ôm mặt khóc hu hu làm những người ở nhờ cũng sụt sịt lau nước mắt.

Chốc chốc thằng Luận lại giật được một con lúc thì cá giếc lúc thì cá rô, toàn loại cỡ bàn tay, con nào cũng béo múp. Thằng Tuyền còi con nhà Kim Sẹo cởi truồng chống mủng ra gò Kim Kê đào giun. Chưa đầy nửa giờ nó đã bắt được một gáo dừa. Thằng Luận có vẻ không sát cá bằng thằng Tuyền nhưng toàn nhấc được cá to. Chiều hôm ấy, nó giật được chú chép vàng óng, nặng đến gần một ký, kéo trĩu cần. Bị lôi lên khỏi mặt nước mà mắt nó vẫn đảo loang loáng, vành môi trề ra, còn cặp râu đỏ cong vút khẽ rung rung như là vẫn đang trong giấc mộng êm ái sắp sửa vượt vũ môn hoá rồng.

- Đúng là cá chép sông Lăng - Ông cả Thuần ngắm nghía con cá một thoáng rồi bảo - Có khi nó là con vua Thuỷ Tề, ham chơi quá rồi bị bắt. Theo tôi thì nên thả nó ra. Biết đâu, sau này …
- Thả là thả thế nào. Loại chép này rán giòn nhắm rượu ngon phải biết.
- Mày nói chứ như thành phán ấy - Bà Huê bảo.
- Cháu nói thật đấy. Chốc nữa bà Chánh đem luộc một nửa nấu cháo còn đâu thì rán.

Bà phó lý có màu đồng bóng, trong nhà lập điện thờ, nghe thằng Tuyền còi nói vậy liền bảo:
- Ăn cá lúc này tức là ăn … thịt người chết đấy.

Bà cả Huê nhăn mặt:
- Phỉ phui cái nhà thím này, chỉ nói nhảm.
- Chứ lại không à ? Tôi mà nói sai thì xin đi bằng đầu. Này nhé, vỡ đê nước ngập, người chết, trâu bò lợn gà chết, chôn làm sao kịp. Mà cái giống cá nó bơi khắp nơi, chỗ nào có thức ăn là tìm đến tranh nhau rỉa. Đấy là chưa kể trong làng còn hàng trăm chuồng xí ngập nước nữa … Có vậy nó mới béo múp thế kia. Mọi người thử nghĩ xem tôi nói có đúng không ?
- ờ nhỉ ! - Có ai đó quay ra ban công khạc nhổ.

Bà cả Huê cầm con cá chép bằng cả hai tay lẳng xuống sân.
- Thôi phóng sinh cho mày.
- Kìa mẹ ! - Khúc Luận tiếc đứt ruột vội kêu lên.
- Từ nay ăn cơm với muối rang - Bà bảo con trai - Không câu nữa.

3. Sau trận lũ mười một ngày, nước rút mới thấy quan phủ Đông Giàng cưỡi ngựa về vùng Ba Tổng. Không phải ông ta quan liêu mà cái chính là nước lũ phá hỏng nhiều đoạn đường, ô tô không đi được. Chả lẽ các bậc " dân chi phụ mẫu" lại lội bộ hàng mấy chục cây số từ phủ đường về làng Cùa chỉ để an ủi những xác chết.

Đã nhận được công văn từ trước, cánh chức dịch lếch thếch kéo ra đình bàn nhau xin miễn thuế. Ngôi đình làng, thường gọi là đình Cả, to và đẹp vào bậc nhất hàng tổng, giờ tan hoang , xơ xác đến thảm hại. Bùn đất, rác rưởi phủ dày hàng tấc trên sàn gỗ lim. Một con chó trụi sạch lông, cái miệng ngoác ra toàn răng là răng, chẳng biết của nhà ai, chễm chệ "ngự" trên long án thành hoàng trong hậu cung, thỉnh thoảng lại rên ư ử vì đói. Tám bộ cánh cửa bức bàn bị gẫy, đổ liểng xiểng , trôi giạt khắp ao. Một bộ gọng vó bè với chiếc lều đã tước hết rơm rạ mắc cứng vào cây mẫu đơn ngay trước sân đình. Cái đầu con voi đá bên tả vu vỡ một miếng khá lớn, trông như vừa bị chém.

Các hào mục đón quan bằng đủ thứ y phục vớ được sau trận thuỷ tai. Phó tổng Lê Bang khăn xếp, áo the thâm nhưng chỉ còn một vạt, vạt kia cụt đến thắt lưng. Mấy hôm trước, ông ta ngã trên sàn để thóc xuống, bị sai khớp, giờ, mỗi khi ra ngoài vẫn phải chống gậy. Chánh tổng Cao Lộng đánh chiếc quần soóc nhà binh bằng kaki vàng nhưng lại kiếm được chiếc áo the mới trùm lên. Lão ta đứng yên còn tạm được, nhưng nếu bước đi là cặp giò dài ngoẵng đen nhẻm với đôi đầu gối củ lạc lòi ra chẳng khác gì Táo Quân sắp lên chầu Thiên Đình. Hài hước hơn cả là lý trưởng Ngô Quỳnh. Đầu ông ta quấn khăn xếp to tổ bố như chiếc đai thùng gỗ đựng chượp, quần cháo lòng ống thấp ống cao, khoác chiếc pađờ xuy bằng dạ đen nhà binh mà hàng khuy đồng đã tuột gần hết. ống tay và nhất là hai vạt bị gián nhấm thủng lỗ chỗ. Sở sĩ lý Quỳnh ăn mặc kỳ quái như thế là bởi hòm khoá chuông quần áo nhà ông ta bị nước cuốn cùng với toàn bộ gia sản ngay sau khi vỡ đê. Bà vợ và hai cô con gái còn thảm hại hơn, mất sạch váy áo nên mấy hôm nay không dám ra ngoài. Nhìn đám thuộc hạ ăn mặc nhếch nhác, lố lăng như một lũ hành khất, tri phủ Đỗ Khánh lắc đầu thở dài:
- Bản chức đã sức cho tri huyện Nam Thành bảo các thày hằng năm phải đốc thúc dân phu tu bổ các đoạn đê xung yếu nhất là chỗ điếm Bài Vân, thế mà chỉ kéo bè kéo cánh kiện cáo nhau rồi lại ngả vạ đánh chén để tai họa xảy ra khổ cho dân, chuyện này biết ăn nói thế nào với quan Tuần.

Phó tổng Lê Bang khẽ kéo vạt áo cho kín bụng, khom người khẽ nói:
- Bẩm quan, sức nước năm nay còn lớn hơn cả năm ất Sửu. Trận lũ này thực ra là tại trời, sức người không chống lại được, cúi mong quan lượng tình xét miễn thuế cho vùng Ba Tổng.

Lý Quỳnh nóng quá, cứ ngọ nguậy trong chiếc áo dạ Tây, đưa mắt cho chánh tổng Cao Lộng rồi hắng giọng:
- Vùng Ba Tổng thì làng Cùa thiệt hại nặng nhất. Số người chết là bốn mươi bẩy. Toàn bộ lương thực, hoa màu mất sạch. Chúng con lo rồi đây còn nhiều người chết đói nữa.

Những tiếng cuối cùng của Lý Quỳnh nghèn nghẹn như là ông ta sắp khóc. Viên tri phủ, dù đã nắm được tình hình thiệt hại sau trận lũ, nét mặt vẫn thản nhiên chẳng có vẻ gì là xúc động. Trước khi lên ngựa cùng đám tuỳ tùng về gặp quan huyện Nam Thành Cáp Văn Tòng, ông ta chỉ nói lấp lửng mấy câu:
- Việc này bản phủ sẽ làm công văn trình lên tỉnh đường để quan Tuần xin chỉ thị của người Nhật. Hiện nay quân đội Thiên Hoàng đang đánh nhau với phe đồng minh, rất cần chiến phí nên chưa biết thế nào mà nói trước.

Quả nhiên, mười ngày sau quan huyện Nam Thành có trát sức cho dân vùng Ba Tổng vẫn phải đóng thuế đinh, điền theo hạng ngạch như cũ. Làng Cùa xa tỉnh xa huyện, từ sau vụ lụt đến giờ chẳng biết thiên hạ sự diễn biến ra sao. Bị rơi vào thế cùng quẫn, đằng nào cũng chết, họ bàn nhau kéo lên phủ Đông Giàng gặp nhà chức trách. Cùng lúc ấy Khúc Kiệt về làng. Ông ta về ban đêm mang theo cả một đội quân mặc toàn quần áo đen, súng ống lỉnh kỉnh giống như một toán thổ phỉ. Thủ hạ của Khúc Kiệt giúp ông ta dựng lại ngôi nhà. Họ đông người, làm rất nhanh, sau đó chia thành từng nhóm, đi khắp làng thu dọn rác rưởi, chôn xác súc vật chết, tìm kiếm người mất tích ở đầm Ma hoặc dọc theo các bãi chuối ở triền sông Lăng. Số khác làm một cuộc tổng vệ sinh, cọ rửa đình Cả, lắp lại cánh cửa. Đình Cả là ngôi đình lớn nhất tổng Kim Đôi. Cột lim bằng vòng tay ôm, sàn gỗ gụ dày bốn phân, nhẵn bóng, ghép khít đến mức gần như không nhìn thấy mối nối.

Khúc Kiệt lôi ở đâu về chiếc trống đại to hơn cả cái ang đựng thóc, mặt bưng bằng da con trâu đực thiến, đặt trên giá gỗ ngay cửa đình. Sáng sớm ngày mười chín, mọi người chưa kịp thức dậy đã nghe thấy tiếng rùng rùng như sấm động đúng ba hồi chín tiếng. Cả làng hôm ấy nghỉ việc kéo nhau ra đình. Lý trưởng Ngô Quỳnh tức lắm, sai tuần đinh bắt Khúc Kiệt nhưng rốt cuộc chính ông ta lại bị cánh quân áo đen trói gô giam vào hậu cung. Lê Bang đang khám thuế ở Bối Khê nghe tiếng trống lạ tai tưởng là có cướp vội hấp tấp lên ngựa phi nước kiệu về Cùa. Ông ta vừa đến đầu làng đã bị trói giật cánh khuỷu dẫn vào đình giao cho mấy tay súng canh giữ. Phó lý Dần thấy làng có biến liền ăn mặc giả làm người đánh chài, luồn ra đồng Mả Gạch định lên huyện báo quan. Lão vừa thò đầu ra khỏi bụi tre nhà cả Phê thì một người áo đen lưng thắt đai da đeo hai quả lựu đạn to bằng cái chày giã cua đang đứng đái ở góc vườn nhìn thấy. Hắn ta nâng khẩu Mútxcơ tông lên vai quát:
- Ông kia, đi đâu ?

Phó Lý Dần đã vượt ra khỏi hàng rào, nhớn nhác nhìn quanh, chỉ thấy có một người lên co cẳng chạy.
- Đứng lại ! - Người mặc áo đen kéo khoá nòng rê nhanh mũi súng về phía ông phó lý.

Ông ta có vẻ hiếu kỳ, vừa nhảy lò cò như là con khỉ bị sập cạm gẫy chân, vừa ngoái lại nhìn khẩu súng dài ngoẵng trên vai người áo đen. Tay thủ hạ của Khúc Kiệt chơi trò mèo vờn chuột chỉ muốn doạ cho viên phó lý sợ một mẻ vãi đái ra quần rồi ngoan ngoãn quay trở lại. Ai ngờ ông ta chạy mỗi lúc một xa, sắp sửa ra khỏi tầm đạn: "Lão mà thoát thì đoàn trưởng Khúc xử tử mình mất". Hắn chợt hoảng lên và vội vã kéo cò. Một tiếng nổ chói tai như tiếng pháo đùng. Đằng kia, phó lý Dần khựng lại, hai tay ông ta chới với đưa ra phía trước, loạng choạng một lúc khá lâu mới ngã xuống khoảnh ruộng vẫn còn ngập nước sau trận lũ. Ngoài đình, Khúc Kiệt đã tập trung được hầu hết dân làng Cùa cả đàn ông lẫn đàn bà. Mọi người còn đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì xảy ra thì ông ta bước lên chiếc bục cao kê bằng hai chiếc án thư của nhà chưởng bạ Giang bắt đầu hiểu dụ. Khúc Kiệt lúc này trông oai phong như một viên thủ lĩnh quân sự trước đám dân chúng dốt nát trong bộ y phục đen tuyền. Khẩu súng lục nòng dài thò cả ra ngoài cái hộp to đùng bằng gỗ sơn đen, kéo trễ chiếc đai da xuống ngang hông làm bụng ông ta thót lại như con chão chuộc. Bẩy tám năm đi khỏi làng, Khúc Kiệt đã dày dạn phong sương, không còn dấu vết nhăn nhúm, thiểu não của ông đồ gàn ngày trước. Mỗi tác phong của họ Khúc đều mạch lạc, dứt khoát, từ cử chỉ chém tay đưa mắt đến hất hàm ra lệnh đều chứng tỏ thứ uy lực tối thượng mà những kẻ dưới quyền phải nhất nhất chấp hành. ở nhà, vợ Khúc Kiệt và nhất là mấy đứa con không thể tin được chồng mình, bố mình thay đổi nhanh đến thế. Họ đều biết đấy là ông ta nhưng đồng thời lại không phải là ông ta, bởi một gã "bạch diện thư sinh" ngày xưa chỉ biết nhẫn nhục phó thác số phận cho thần may rủi, ép bụng nhịn đói đọc sách thánh hiền, bỗng chốc đứng sừng sững trước bàn dân thiên hạ tuyên ngôn bằng những lời hết sức táo bạo:

- Thưa bà con, từ khi phát xít Nhật nhảy vào Đông Dương, chúng câu kết với thực dân Pháp, đàn áp, bóc lột nhân dân ta vô cùng tàn bạo. Chắc mọi người còn nhớ chuyện hai tên giặc Lùn xả kiếm chém ông phó Đắc vì trong nhà có khẩu súng "dóp" hồi cuối tháng trước. Gần đây nhất là việc cô Thời con ông hương Ngạch bị hiếp ở chợ Cháy giữa ban ngày. Tội ác của chúng thật trời không dung, đất không tha. Chính vì vậy, Mặt trận Việt Minh khẩn thiết kêu gọi toàn thể đồng bào vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng dân tộc, xây dựng nhà nước độc lập tự do, thực hiện chính sách người cày có ruộng, tiến tới chủ nghĩa Cộng sản làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Trước mắt, chúng ta phải đoàn kết chống lại chủ trương thu mua thóc tạ và nhổ lúa trồng đay của Nhật. Ai cũng biết, vùng Ba Tổng vừa bị trận vỡ đê khủng khiếp. Chỉ qua một đêm mất sạch nhà cửa, tài sản, hoa màu, chết gần trăm mạng người. Giờ đây nhiều nhà đã bỏ làng kéo đi bốn phương khất thực. Các quan lại cai trị chẳng những không cứu đói cho dân mà còn về hùa với giặc đè cổ dân nghèo ra tróc thuế. Tôi xin hỏi, làng Cùa của chúng ta có nộp cho họ không ?
- Không nộp !

Hàng trăm cái miệng gào lên đồng loạt làm rung chuyển cả mái đình. Những tiếng hô đầy phẫn uất dội vào hậu cung làm Lê Bang và Ngô Quỳnh sởn gai ốc. Mấy ông này vốn rất ngu ngơ về chính trị, cứ nhận được trát quan trên là "án khoa nhi hành" chẳng nghĩ gì đến nỗi cơ cực của dân đen, giờ thời thế đã thay đổi, lão thầy đồ họ Khúc kéo quân về, tính mệnh cả bọn chắc là nguy đến nơi rồi. Sân đình Cả lát gạch Bát Tràng rộng thênh thang, phía bên trái có dãy nhà ngang hơn chục gian để cánh nhà bàn phục vụ những ngày vào đám. Đội quân áo Đen của Khúc Kiệt đặt đại bản doanh tại đây mà chẳng cần vào hậu cung “xin phép” lý trưởng Ngô Quỳnh. Lính của Khúc Kiệt toàn người thiên hạ, phần lớn còn trẻ măng, có những gã chưa đến mười bảy, anh nào mặt cũng lạnh tanh, sát khí đằng đằng. Cứ vài hôm lại thấy một toán chừng bảy tám người vượt sông Lăng sang làng Bòng chuyển lương thực về. Kẻ Bòng lắm ruộng nhiều thóc gạo, tha hồ mua. Sau này mới biết, từ ngày vùng Ba Tổng vỡ đê, lái Lự kiêm luôn cả nghề buôn gạo. Những năm dạy học trước đây, Khúc Kiệt có đôi lần qua lại với lão lái trâu, giờ ông ta trở thành nguồn cung cấp nhu yếu phẩm cho đội quân áo Đen. Dạo ấy lúa cũng đã đỏ đuôi nhưng phải nửa tháng nữa mới được gặt. Lái Lự phất lên trông thấy nhờ đầu cơ lương thực nhưng lão cũng biết tự bảo hiểm cho tính mạng, phòng khi bàn cờ thế sự xoay vần, bằng cách bỏ ra bốn tấn chiêm trăng chẩn cấp cho những nhà sắp chết đói vùng Ba Tổng.

Từ hôm phó lý Dần bị bắn chết, các vị chức sắc sợ xanh mắt không anh nào dám ra khỏi cổng. Lê Bang, Ngô Quỳnh được thả về nhưng vẫn bị Khúc Kiệt cử người giám sát. Một đêm lý Quỳnh lẻn sang nhà chánh Đàm gặp bà cả Huê. Bà này đang căm Khúc Kiệt vì ông ta ra lệnh trưng thu toàn bộ số thóc còn lại sau trận lụt chuyển ra đình. Việc làm này hẳn là có liên quan đến mối hiềm khích giữa hai anh em họ Khúc hồi lão Chánh còn đương chức. Bà Huê chẳng nể nang gì, luôn miệng chửi Khúc Kiệt là quân thổ phỉ. Chiều nào bà ta cũng chõ mồm sang nhà em chồng cạnh khoé. Khúc Kiệt thường xuyên vắng mặt vì còn phải cai quản đám tay chân ngoài đình. Vợ lão vốn hiền lành, nghe bà Cả chửi ngoa ngoắt mãi không chịu được bảo Khúc Vĩ:
- Mày mang cái đũa quấy cám lợn sang quật vào mồm mụ ấy ra cho tao.

Cô con gái ,là Khúc Thị Nhân, lúc ấy đã mười bẩy vội can:
- Đừng. Bác ấy xót của không biết kêu ai, chửi bới cũng là lẽ thường. Có trách là trách bố ấy. Làng Cùa còn ối nhà giàu nứt đố đổ vách sao không bắt nộp hết thóc mà lại trưng thu của bác Cả.

Khúc Vĩ lẩm bẩm:
- Chuyến này có khi bố làm chánh tổng.

Khúc Văn cười nhạt mắng em:
- Thời buổi nhiễu nhương trắng đen lẫn lộn, biết thế nào mà mày nói càn.

Cuối cùng thì lý Quỳnh cũng tìm cách báo được cho quan huyện Nam Thành. Tri huyện Nam Thành đã biết tiếng đội quân áo đen vội trình lên phủ Đông Giàng. Viên tri phủ lập tức cử ngay một cơ lính nai nịt như sắp sửa đi trận hành quân về làng Cùa. Đường từ phủ lỵ về làng Cùa xấp xỉ ba chục cây số. Tốp lính Triều đình chân đất, nón chóp đỏ, vác súng mút vừa đi vừa chạy gằn dưới trời nắng gắt, anh nào anh ấy vã mồ hôi hột. Viên đội khố xanh, mặt bèn bẹt có cặp tai vểnh lên như tai chuột, kè kè bên sườn bình rượu bằng nhôm hình quả lê chốc chốc lại mở nắp tu một ngụm. Mặt hắn đỏ gay, mái tóc rễ tre cờm cợp chờm xuống tận gáy trông chẳng khác gì một tay lận rừng đã lâu mới có dịp hạ sơn. Chạy phía sau viên đội là một phó lãnh binh người xứ Nghệ. ông ta theo nghề cung kiếm dễ đến ba chục năm, sức khoẻ đã giảm sút nên tham gia vận động dã chiến kiểu này xem ra không mấy thích hợp. Vai khoác súng, nòng hướng lên trời, lưng đeo bạc đà, quân dụng nặng trĩu, ngài chỉ huy vừa chạy vừa thở hắt ra như sắp hết hơi. Vừa may gặp một cái quán bỏ không cạnh đống Lủi, ông ta hạ lệnh cho lính tạm nghỉ. Nhìn thấy hai bên đường là khu đồng màu của làng Bảo Nham trồng toàn dưa chuột, các thầy quyền chẳng ai bảo ai, nhất loạt lao xuống ruộng, vặt đầy nón ngồi nhai rau ráu.

Khoảng cuối giờ thân, đám quan quân phủ Đông Giàng về đến địa giới làng Cùa. Họ nhanh chóng tản ra theo đội hình chiến đấu rồi bắc loa kêu đối phương ra đầu hàng. Trong này Lê Bang, Ngô Quỳnh trèo lên tầng hai nhà bà cả Huê chuẩn bị trợ chiến theo phương thức "nội công ngoại kích". Đội quân áo Đen, sau một thời gian ở làng Cùa đã nắm chắc địa hình địa vật. Họ lại được phần lớn dân nghèo ủng hộ nên không hề tỏ ra mất bình tĩnh. Mấy tay thám sát vòng ngoài cho biết, bọn lính chỉ có khoảng ba bốn chục tên. Việc làm đầu tiên là giám sát nhà bà cả Huê không cho Lê Bang và Ngô Quỳnh thoát ra ngoài. Sau đó họ cử các tay súng có kinh nghiệm chiến đấu trấn giữ hai cổng làng và những nơi hiểm yếu đề phòng địch đột nhập bất ngờ. Đêm xuống rất nhanh. Sương giăng giăng như khói che mờ ánh trăng hạ tuần hắt xuống sân đình thứ màu bềnh bệch nhạt nhẽo. Từ phía đầm Ma có con cuốc lẻ đàn nào đó kêu một cách nhẫn nại thứ âm thanh đều đều khắc khoải làm đêm vùng chiêm càng hoang dã, bí hiểm. Lũ chim nước, sau cơn Hồng thuỷ, chẳng biết ở đâu kéo về hàng đàn hàng lũ, suốt đêm lần mò ở khu ruộng trũng. Bóng của chúng lúc tụ lại như một đám mây xám, lúc lại toẽ ra thành vô số đốm trắng nhợt, bay là là trên mặt đầm, vỗ cánh phành phạch gọi nhau bằng đủ thứ ngôn ngữ như đang chuẩn bị cho "Dạ Hội Cò Vạc". Trên cây me nhà Thường Rỗ, một con cú rúc lên mấy tiếng nghe rợn người. Con cú có những chiếc lông trắng ở đầu cánh này trước vẫn trú ngụ ở cây gạo gần nhà phó lý Dần. Từ khi ông ta chết, chẳng hiểu sao nó lại chuyển về đây. Nghe tiếng cú, Thường Rỗ sợ quá mở cửa ra sân nhặt một hòn gạch ném lên cành cây. Hắn yên trí vào nhà chắc mẩm con chim đã bay đi nơi khác. Chẳng ngờ tay bắt ếch vừa thiu thiu con quái điểu ấy lại rúc mấy tiếng làm hắn giật bắn như vừa bị bóng đè.

Cuộc chạm súng bắt đầu vào sáng hôm sau khi một đội viên áo Đen của Khúc Kiệt bị bắn vào chân. Anh ta là một trong ba người gác cổng chính. Tên phó Lãnh binh sau mấy lần gọi loa, không thấy trong làng động tĩnh gì liền dàn quân theo hàng chữ nhất. Trước khi vào cuộc, hắn ra lệnh cho bọn thuộc hạ bắn một loạt thị uy. Các đội viên áo Đen lặng lẽ chờ cho đám lính đến đúng cự ly mới bình tĩnh kéo cò. Họ vốn là những tay thiện chiến đã từng chạm chán đủ loại khố xanh, khố đỏ thậm chí cả trùm cướp Lý Ba Mùi ở vùng Hạ Diễn nên không dễ gì khuất phục. Sau loạt đạn đầu tiên, bốn gã tốt đen đã về chầu ông vải. Ba tên khác bị thương nặng. Một thằng đạn sượt vào yết hầu. Viên đội phải cởi chiếc bao vàng giống như ruột tượng quấn quanh cổ hắn đến ba vòng mà máu vẫn phun ra như xối. Phía cổng hậu, Khúc Kiệt cho năm tay súng phục ở cửa nhà quản Thông. Bọn lính quét một loạt đạn trước khi nhảy vào chiếm hai cánh gà làm cứ điểm để phát triển vào làng. Mấy tên vừa lom khom ôm súng nhớn nhác nhìn quanh thì một loạt tiếng nổ hất chúng ngã xuống bờ ao. Một thằng lồm cồm bò dậy, xoay mũi súng định nháy cò lập tức bị cú song phi trời giáng vào bụng, ngã sóng soài. Những tên còn lại sợ quá, quẳng súng xin hàng. Khúc Kiệt cho điệu chúng về đình Cả.

Ông ta hỏi tên lính mặt già cấc có nốt ruồi bằng ngón tay út đậu ngay cạnh lỗ mũi bên phải :
- Tại sao lão tri phủ Đông Giàng biết chúng tao về làng Cùa ?
- Bẩm quan, cái đó tôi không được biết.
- Thế thì ai biết ? Nói mau !
- Bẩm, ông phó Lãnh binh đang còn ở ngoài làng.
- Còn những ai biết nữa ? - Khúc Kiệt nhìn hết lượt mấy tên bị bắt rồi quát - Muốn ăn đạn phải không ?

Tên lính già sợ chết chỉ liều vào cai Huyến đang ôm sườn nhăn nhó vì ngón đòn hiểm của một đội viên áo Đen:
- Có lẽ ông Cai biết.

Một đội viên lôi xềnh xệch cai Huyến đến trước mặt Khúc Kiệt. Tên này còn nhát gan hơn cả thuộc hạ của mình, chưa đợi tra hỏi đã khai vanh vách:
- Bẩm quan lớn, sở dĩ quan phủ biết được là vì ông lý Quỳnh cho người lên huyện Nam Thành mật báo có một toán thổ phỉ về xúi dân làng Cùa nổi loạn.
- Được lắm !- Khúc Kiệt cười nhạt - Các anh giam bọn này vào hậu cung chờ tóm hết lũ sâu mọt ngoài kia rồi ta sẽ hỏi tội chúng.

Kết thúc đợt tấn công thứ ba, đạo quân của Triều đình gần như đã mất hết nhuệ khí. Tay phó Lãnh binh bị một viên đạn xuyên vào mông và bốn chiến binh què cẳng. Lũ này bò lê lết lên sườn đống Mả Hủi để cho đồng bọn băng bó. Một thằng máu ra nhiều quá, mặt xanh như chàm đổ, miệng rên hừ hừ, thỉnh thoảng lại giật nảy lên như người mắc chứng kinh phong cấp.

Lần đầu tiên trong đời dân làng Cùa chứng kiến cảnh chạm súng giữa hai đội quân. Lúc đầu những kẻ hiếu kỳ còn chạy ra xem, sau thấy đạn bay chiu chíu, rồi người bị thương máu thảy nhoe nhoét thì hốt quá, vợ chồng con cái lôi nhau vào nhà, đóng cửa lại. Đến trưa hôm sau tình hình trở nên đặc biệt nguy hiểm , vì những viên đạn bắn vô tội vạ của lũ quan binh đã giết chết gã thợ rèn méo mồm và làm thằng Quyết thọt , đang kéo bễ bị vỡ quai hàm. Họ rủ nhau đến nhà chánh Đàm. ở đây có tường gạch chắn chắn, đạn súng mút khó có thể xuyên thủng được. Những nhà khác đào hầm ngay dưới gầm giường, nghe tiếng sung là bảo nhau chui xuống.

Viên suất đội căn cứ vào tấm sơ đồ lý Quỳnh vẽ tìm cách lọt được vào làng bằng lối cổng hậu. Hắn bị một viên áo Đen phát hiện nhưng bắn trượt. Tên này chạy vòng vo một lúc thì bị lạc đường. Đáng lẽ rẽ tay trái vào nhà bà cả Huê để gặp lý trưởng thì hắn lại quặt phải đến ngay cổng nhà Khúc Kiệt, bị Khúc Văn tống cho một gậy từ phía sau, chỉ nghe đến "hự" một tiếng rồi ngã chúi về phía trước. Khúc Vĩ cướp ngay khẩu súng nòng dài, bẻ quặt hai tay để Khúc Văn trói lại giải ra đình. Ngay lập tức, Khúc Kiệt cho người vào nhà chánh Đàm lôi lý Quỳnh ta hỏi tội. Lý trưởng không phải tay vừa, chối phắt việc cử Trương Hoà lên huyện báo quan. Chỉ đến khi Khúc Kiệt cho giải viên suất đội từ hậu cung ra đối chất lão mới cúi đầu nhận tội.

Đội quân áo Đen thiết lập pháp trường trên một gò đất nổi giữa ao đình. Lý Quỳnh mắt bịt băng đen bị trói vào cây tre đực chôn cao quá đầu. Lão sợ quá, bĩnh cả ra quần làm mấy người lính áo đen phải bịt mũi. Vào lúc năm tay súng đã lên đạn sắp sửa hành quyết thì từ sau đình, một người con gái tóc tai rũ rượi chạy đến bờ ao. Cô ta chẳng thèm vén váy, nhảy ào xuống nước và chỉ một thoáng đã leo lên gò đất đứng chắn trước mặt Ngô Quỳnh. Thì ra là Khúc Thị Nhân. Cô ta gần như gào lên về phía sân đình:
- Không được bắn ông Lý ! Có bắn thì bắn tôi đây này.

Khúc Kiệt không hề dự kiến tình huống này. Ông ta ngớ người ra một lúc rồi mới quát con gái:
- Nhân ! Không việc gì đến mày. Về ngay !

Cô con gái nước mắt ròng ròng, giọng thổn thức:
- Bố mà bắn ông ấy tức là tự tay giết cả nhà. Nhà ta từ trước đến nay không có thù hằn gì với dân làng vì sao bố lại dẫn bọn người áo Đen vác súng ống về làm loạn cả lên ?

Khúc Kiệt nghiến răng kèn kẹt:
- Đồ ngu ! Mày thì biết gì, không về nhà tao cho người trói lại bây giờ.

Khúc Thị Nhân giang hai tay về phía trước, mặt vênh lên:
- Đây, bố lấy súng bắn chết tôi đi !

Lúc ấy dân làng đã kéo ra đứng chật cả bờ ao nhưng tất cả đều im lặng theo dõi cuộc đấu khẩu giữa hai cha con họ Khúc. Khúc Kiệt đang phân vân chưa biết làm thế nào thì ngoài cổng làng tiếng súng lại rộ lên. Ông ta quay lại bảo viên phó chỉ huy:
- Cứ tạm giam hắn vào hậu cung rồi sẽ tính sau, trước mắt phải đối phó với bọn quan binh đã.

Khúc Thị Nhân lội từ dưới ao lên trông cô đẹp mê hồn. Cái nốt ruồi bằng hạt đậu màu hồng đậu dưới mắt trái giống như hạt ngọc trang trí tự nhiên làm gương mặt cô trở lên hấp dẫn đặc biệt. Cô bước đi trong tiếng sột soạt của tấm váy sồi còn ướt sũng nước vẽ thành những vệt vằn vèo trên nền gạch chỉ lát nghiêng. Vợ lý Quỳnh một người đàn bà phốp pháp, cặp mông thây lẩy như mông lợn thiến, quỳ xuống trước mặt cô con gái họ Khúc vái lấy vái để:
- Muôn ngàn lần đội ơn cô. Không có cô, hôm nay ông nhà tôi đã thành ma đói. Cầu trời phật phù hộ cho cô sống lâu trăm tuổi.

Khúc Thị Nhân đỡ bà béo dậy chép miệng bảo:
- Ơn với huệ gì. Tôi phải liều ra đấy vì không muốn họ Khúc gây thù chuốc oán với cả làng.

Đêm hôm ấy, Khúc Kiệt vào hậu cung hỏi viên suất đội:
- Các anh đã chết bao nhiêu lính ?

Tay đội khố xanh lưng vẫn còn đau ê ẩm, nửa nằm nửa ngồi, trả lời miễn cưỡng:
- Trước khi tôi vào làng là bảy, bị thương bốn.
- Còn "ngài" phó Lãnh binh ?
- Bị đạn xuyên vào mông, có lẽ đã được đưa về huyện.
- Các anh chắc đang đợi viện binh ? - Khúc Kiệt châm chọc.

Viên suất đội phát bẳn:
- Viện binh cái con khỉ. Giờ là lúc hỗn quân hỗn quan, lão tri phủ còn đang lo cái mạng của hắn, hơi đâu nghĩ đến chúng tôi.
- Hiện tại ông là chỉ huy cao nhất ở đây. - Khúc Kiệt bảo - Nếu ông đồng ý đầu hàng rút quân về phủ, chúng tôi sẽ thả ông cùng mấy gã bị bắt hôm trước.

Tay suất đội gật đầu :
- Có gì mà chẳng đầu hàng. Tôi phục các ông sát đất đấy, nhưng ông cần phải biết, lúc này người Nhật mạnh hơn người Pháp nhiều. Họ mà kéo về đây làm cỏ làng Cùa thì các ông sẽ thành ma không đầu.

Viên đội trưởng áo Đen cười nhạt :
- Ông doạ chúng tôi đấy à ?

Sáng sớm hôm sau, đám quan binh bại trận thất thểu lê bước trên đường quan về phủ Đông Giàng. Khúc Kiệt trở thành thủ lĩnh cao nhất vùng Ba tổng. Thanh niên các làng hữu ngạn sông Lăng nô nức rủ nhau gia nhập đội quân áo Đen. Họ là lực lượng tự vệ thường trực, sẵn sàng cơ động đến những nơi có biến, nổ súng chiến đấu.

Vụ này vùng Ba Tổng chắc sẽ được mùa. Những cánh bãi sau khi nước rút, trước vẫn bỏ hoang giờ cũng lốm đốm đuôi gà. Lúa ba giăng ở chân ruộng vàn bông dài hạt thưa nhưng chắc quả , đổ rạp xuống, xếp lên nhau vàng óng như lụa tơ tằm. Trên các khoảnh cao sản vùng đồng Quan, Cổ Cò, Mả Me đâu đâu cũng nhấp nhô sóng lúa. Mùi thơm mát của dự hương, mùi nồng nồng của lúa tám đen lẫn với mùi ngai ngái của rạ tươi mới xén lan toả khắp đồng xa đồng gần, thậm chí còn được gió đẩy lên cao lơ lửng giữa bầu trời làm không gian sực nức không khí mùa màng.

Làng Cùa trở lại cuộc sống thanh bình như nó vốn có. Ruộng bà cả Huê thẳng cánh cò bay, lúa chín vàng rực chạy suốt từ chân tre đình Cả đến tận đầm Ma. Tá điền lại chuẩn bị liềm hái, quang gánh chuẩn bị cho một mùa gặt mới. Đầu tháng trước, vì đói nhiều nhà đã bán lúa non lấy tiền đong gạo, giờ rủ nhau đến làm thuê cho bà Chánh.

Khúc Luận đã lớn bổng lên. Ngoài giờ học, cậu ta suốt ngày la cà ở ruộng vừa xem tá điền cắt lúa vừa bắt bọ muỗm và chim cút. So với châu chấu cào cào thì bọ muỗm thuộc loại côn trùng quý phái. Chúng chỉ xuất hiện vào vụ gặt tháng mười như là một thứ tặng vật quý giá của ông trời giành riêng cho lũ trẻ nhà quê. Bọ muỗm khoác bộ cánh xanh lá mạ hoặc vàng rơm, con to cũng chỉ bằng ngón tay út nhưng dáng dấp mềm mại, cặp râu dài linh động và một thân hình thon thon như chiếc thoi dệt vải. Bọ muỗm ban đêm thường đậu trên nhánh lúa chín, nhất là ruộng tám xoan hoặc dự hương uống những giọt móc trời có lẫn hương thơm đồng điền. Ban ngày chúng la cà ở các bờ nước nhấm nháp chút cỏ non rồi quay về tránh nắng trong những thửa ruộng sắp gặt. Mỗi khi tá điền cắt gần hết một khoảnh, cào cào châu chấu và bọ muỗm bị dồn vào góc. Chúng bay loạn xạ như là đàn thiêu thân ban đêm gặp phải ánh đèn. Các bác lực điền vừa xén lúa xoàn xoạt vừa quờ tay vơ những con muỗm béo múp, bụng đầy trứng, lặc lè như những chiếc tàu bay chuồn chuồn sắp sửa hết xăng. Bắt được bao nhiêu, thợ gặt lại đưa cho thằng Luận. Từ sáng đến trưa thế nào cũng được lưng giỏ. Những con tự tay vồ được, thằng bé rủ bọn trẻ cùng xóm đốt lửa nướng ngay tại ruộng. Bọ muỗm nướng chín mỡ chảy ra béo ngậy. Cuối buổi, mặt đứa nào cũng nhem nhuốc, dính đầy tro than. Khúc Luận còn có biệt tài bắt chim cút. Những chú chim cút tròn ung ủng, lông xám, vào vụ gặt béo núc nhưng lủi rất nhanh tuy rằng không biết bay. Thằng bé có khả năng định vị tuyệt vời và óc phán đoán chính xác nơi con chim chui vào trong hàng loạt những mô rạ giống hệt nhau. Nó chỉ việc chắn hai tay hai phía rồi nhích dần vào giữa thế làm tóm được con mồi. Có hôm, Khúc Luận bắt được cả một lồng nhưng nó không phải là đứa ăn độc. Trước khi về nhà, thế nào thằng bé cũng chia cho lũ trẻ trâu mỗi đứa một con. Bọn này thường là đem về nuôi nhưng chỉ ít ngày sau lũ chim đồng đã bị mèo vồ hoặc xổng chuồng lủi mất.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
11-03-2015, 07:21 PM
Chương 5

1. Làng Cùa tạm thời trở lại yên tĩnh. Khúc Kiệt bắt đầu thực hiện một số cải cách mà việc đầu tiên là trưng thu con ngựa bạch của nhà chánh Đàm. Hôm nào cũng vậy, ông ta dậy từ lúc còn mờ đất, nhảy phốc lên con tuấn mã chạy nước kiệu ra bến sông Lăng. Đường làng lúc này còn vắng, thỉnh thoảng mới gặp một bà nhặt phân chó. Những bà này nghe tiếng vó ngựa từ xa đã lẩn vội vào ngõ ngách hoặc bụi rậm. Cách đây mấy hôm, cô Mận thọt con ông trương Thình đã bị mấy hèo mây vào lưng vì tội dám để gánh phân thối hoắc giữa đường chắn lối đi của thủ lĩnh áo Đen. Mấy hôm sau, Khúc Kiệt mời các vị chức sắc trong làng ra đình hiến ruộng cho Cách mạng. Chánh tổng Cao Lộng dù chẳng muốn tí nào cũng phải rứt ruột nộp ra hai mẫu. Lý Quỳnh ngậm đắng nuốt cay mất toi một mẫu tám sào mà không kêu vào đâu được. Người chống đối gay gắt nhất là bà cả Huê. Bà ta lấy thế mẹ goá coi côi chẳng những không chịu nộp ruộng mà còn dứt khoát đòi con ngựa. Khúc Kiệt vốn không phải là người có tính nhẫn nại, nghe và chị dâu gọi mình là quân ăn cướp thì bật dậy như chiếc lò xo bị nén quá lâu, hàm răng ám khói thuốc lào nhe ra, giọng gầm gừ:

- Yêu cầu bà Huê không được xúc phạm đến Cách mạng, nếu còn mồm loa mép giải, chúng tôi buộc phải có biện pháp cứng rắn.
- Cách mạng gì các người. - Bà Huê đỏ mặt tía tai - Một lũ thổ phỉ thì có.
- Này ! Chị đừng có quá đáng. Tội của nhà chị tử hình còn là nhẹ.
- Có giỏi thì cứ bắn đi. Con này không sợ đâu nhé !

Rõ ràng là Khúc Kiệt đang bị khiêu khích. Mặt ông ta tím lại, tay run run sờ vào bao súng lục. Phía bên này chánh tổng Cao Lộng che miệng giấu nụ cười khó hiểu. Giữa lúc Khúc Kiệt đang nghĩ cách trừng phạt bà vợ chánh Đàm để răn đe những kẻ có máu mặt ở làng Cùa đang rắp tâm chống đối thì người thư ký từ ngoài vào đưa một mảnh giấy. Ông ta đọc lướt qua rồi chau mày, ngồi thừ ra một lúc dường như chẳng để ý gì đến các khổ chủ bị triệu đến hiến gia sản. Bọn Cao Lộng thấy thái độ của thủ lĩnh áo Đen như vậy, ngầm đưa mắt cho nhau lặng lẽ rút lui. Các đội viên gác ngoài cửa định giữ lại thì Khúc Kiệt phẩy tay ra hiệu để cho họ đi sau đó chuyển mảnh giấy cho Lại Xuân Kiên vừa đi tuần tra về. Viên đội phó xoay dọc xoay ngang tờ giấy mãi không đánh vần nổi nhưng con chữ nghệch ngoạc bằng mực tím đành trả lại đội trưởng.
- Bác đọc giúp, tôi chịu…

Khúc Kiệt có vẻ như không mấy quan tâm đến vẻ lúng túng của Lại Xuân Kiên mà lên giọng hậm hực:
- Thượng cấp cảnh cáo chúng ta manh động vì thời cơ chưa đến. Họ còn ra lệnh giải tán ngay đội công tác và xử lý kỷ luật tôi. Chú thấy bây giờ ta nên làm thế nào ?
- Không được. - Lại Xuân Kiên lắc đầu - Bác mà giải tán đội áo Đen thì bọn Lê Bang, Cao Lộng, Ngô Quỳnh tha hồ làm mưa làm gió, dân Ba Tổng lại vô cùng khốn khổ.
- Tôi cũng nghĩ thế. - Khúc Kiệt châm tờ giấy vào ngọn nến, đợi cho nó cháy hết rồi mới nói tiếp - Các ông thượng cấp ngồi dưới hầm bí mật cách xa chúng ta hàng trăm dặm biết thế quái nào được phong trào nông dân làng Cùa. Quan binh phủ Đông Giàng mang súng ống kéo nhau về đây bị chúng ta giã cho một trận tơi bời, còn bọn hào lý thì bạt vía kinh hồn, không dám lên mặt hách dịch. Đây chính là thời cơ thuận lợi để ta cướp chính quyền, vậy thì tại sao họ khai trừ tôi ra khỏi tổ chức và bắt chúng ta giải tán lực lượng ?
- Cũng có thể cấp trên phòng xa bọn Nhật kéo về.
- Nhật cũng chẳng sợ. Nếu chúng đem quân về đây ta sẽ rào làng chiến đấu, chú thấy thế nào ?

Lại Xuân Kiên vẫn phục Khúc Kiệt là tay lắm mưu nhiều kế lại đọc chữ Quốc ngữ vanh vách nên tán thành ngay chủ trương của đội trưởng.
- Được quá đi chứ . Bọn giặc Lùn thì cũng là người chứ có phải ba đầu sáu tay đâu mà lo.

Nửa tháng trôi qua, làng Cùa vẫn bình yên vô sự. Khúc Kiệt cho rằng thượng cấp quá lo xa. Bọn Nhật còn mải đánh nhau với Pháp, hơi đâu chúng đem quân về cái làng hẻo lánh bên cạnh sông Lăng này.
Một hôm Hàn Hành đến làng Cùa. Khúc Kiệt tiếp đón ông ta ở đình Cả như một thượng khách. Rượu được một tuần, Khúc Kiệt hỏi:
- Có việc gì mà Bác quá bộ đến đây hay là được cấp trên cử đi công cán ?

Hàn Hành lắc đầu, giọng nhạt nhẽo:
- Tôi đã xin ra khỏi Đảng, bây giờ không còn trong tổ chức nữa.
- Sao thế ? - Khúc Kiệt nghĩ mình nghe lầm - Bác xin ra ?
- Phải, nếu không tự nguyện rút lui, trước sau họ cũng khai trừ. Cách đây ít ngày có một phái viên từ tỉnh về đưa cho tôi một cái giấy. Nội dung trong giấy nói tôi manh động, không chấp hành nghị quyết Trung Ương làm thiệt hại đến phong trào.
- Hôm qua tôi cũng nhận được một cái thông báo như thế - Khúc Kiệt khoát tay ra vẻ bất cần đời - Tưởng chỉ có tôi, hoá ra bác cũng bị.
- Có lẽ đấy là chủ trương chung.
- Điều tôi lo là ở chỗ khác kia. - Hàn Hành hạ giọng thì thầm - Có một vài đảng viên ở bên Nam Ngạn đã bị mất tích. Chắc cấp trên sợ họ bất mãn, phản bội khai ra các đường dây bí mật, cho nên …
- Cho nên bác mới tạm rời làng đi làm nghề thầy tướng chứ gì ?
- Cũng là vạn bất đắc dĩ. - Hàn Hành chép miệng

Khúc Kiệt mừng quá vì có thêm đồng minh, nắm chặt tay ông bạn cùng cảnh ngộ:
- Thế thì bác ở đây với tôi. Lính Triều Đình đến cũng đánh. Nhật cũng đánh. Chúng ta sẽ giải phóng tất cả các làng bên hữu ngạn sông Lăng để xem cuối cùng chủ trương của ai đúng. Nói thật, tôi cũng bị xử lý kỷ luật rồi, nhưng đừng hòng Khoá Kiệt này giải tán đội quân áo Đen. Thời buổi hỗn quân hỗn quan phải có lực lượng vũ trang trong tay mới làm nên chuyện.
Hàn Hành là kẻ thích vũ trang bạo động, nghe chủ trương của Khúc Kiệt, phấn khởi lắm liền bỏ nghề, ở lại làng Cùa.

Sớm hôm sau, trời vẫn còn mờ tối, tiếng mõ cầm canh chưa kịp gióng hết hồi thứ ba, trên con đường thập tự đã vang tiếng vó ngựa rầm rập. ít phút sau đoàn kỵ sĩ rẽ vào làng Cùa. "Bọn Nhật !" có ai đó gào lên, giọng lạc hẳn đi vì sợ. Khúc Kiệt vừa thức dậy vãn còn ngái ngủ, ra lệnh cho các đội viên không được mở cổng. Hàn Hành ra sức thúc trống báo động còn Lại Xuân Kiên tập hợp anh em áo Đen chuẩn bị chiến đấu. Khúc Kiệt cử một đội viên trèo lên nóc đình gọi loa thông báo cho cả làng.
- A lô ! Thưa bà con ! Bọn Nhật đã kéo quân về làng Cùa. Mọi người hãy ở yên trong nhà, cấm ra đường, để lực lượng tự vệ Cách mạng chuẩn bị chiến đấu, tiêu diệt bọn giặc lùn. A lô ! A lô !

Một lúc sau, người gọi loa đi dọc theo đường trục từ đình Cả xuống bến sông, tiếp tục thông báo:
- Cấm mọi người liên hệ với Nhật làm tay sai chỉ điểm cho chúng. Ai cố tình ra khỏi làng sẽ bị xử bắn tại chỗ.

Trong khi ấy, bọn Nhật thông qua sự chỉ dẫn của tên phó Lãnh binh bại trận lần trước đang tìm cách đột nhập vào làng.
Đầu tiên chúng cũng cho người gọi loa:
- A lô ! Dân làng Cùa nghe đây. Quân đội Thiên Hoàng về đây để tróc nã tên trùm Cộng sản là Khúc Kiệt cùng đồng bọn đã xúi giục bà con chống thuế và đánh lại binh sĩ Triều Đình. Yêu cầu không ai được giúp bọn phiến loạn. Kẻ nào trái lệnh sẽ bị chém đầu.

Để phụ hoạ cho tiếng loa của tên thông ngôn là loạt đạn bắn thẳng vào cổng làng. Đạn súng trường Nhật không xuyên thủng được cánh cổng lim nhưng là ngón đòn tâm lý đánh vào cân não làm già trẻ gái trai trong làng nháo cả lên. Ai cũng muốn ra khỏi làng nhưng lập tức bị những đội viên áo Đen chặn lại. Họ như con chạch bỏ giỏ cua, ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, người nào cũng lo ngay ngáy.
Bọn Nhật xuất hiện quá bất ngờ, Khúc Kiệt chưa kịp hạ lệnh bắt giam bọn sắc mục thì lý trưởng Ngô Quỳnh đã vượt rào chạy ra ngoài. Hàn Hành sau khi nghe Lại Xuân Kiên thông báo nội tình làng Cùa liền bàn với Khúc Kiệt:
- Việc lúc này rất gấp, không thể chần chừ. Vì vậy, cần phải cho bắt ngay chánh tổng Cao Lộng, chánh hội Hạp và con mẹ Huê vợ cả chánh Đàm. Để bọn này thoát được là chúng ta tự tay ký vào bản án tử hình.
Vừa lúc ấy, một đội viên áo Đen xách mã tấu thở hổn hển vì vừa chạy từ ngoài cổng làng vào:
- Báo cáo ! Anh em vừa bắt được chánh tổng luồn theo lối chuồng lợn nhà vệ Toan trốn ra ngoài.
Cao Lộng cởi trần trùng trục, người dính toàn phân lợn, đầu tóc vẫn còn vương mấy đám mạng nhện. Lão ta giả làm người vớt bèo, lẩn xuống ao nhà phó lý Huấn, chạy đến nhà vệ Toan thì bị tóm. Khúc Kiệt liếc mắt nhìn Cao Lộng cười gằn:
- Hừ ! lần này thì không thể tha được. Anh em đâu ! Mang ra ngoài miếu Cô Hồn xử bắn.
Cao lộng nghe hai tiếng "xử bắn" hồn vía đã lên mây. Lão quỳ mọp xuống vái lấy vái để:
- Tôi chót dại, mong ông Khoá mở lượng khoan hồng, sau này nguyện làm trâu ngựa đền đáp công ơn trời biển.
Khúc Kiệt nghe lời cầu xin rất là ai oán đã có vẻ mềm lòng, Hàn Hành vội bấm vào tay ông ta khẽ bảo:
- Làm Cách mạng là phải triệt để chuyên chính vô sản, không nên để thứ tình cảm mềm yếu của đàn bà chen vào. Bác mà tha hắn hôm nay, ngày mai hắn sẽ treo cổ tất cả lũ chúng ta lên cây đa đầu đường Thập Tự.
Khúc Kiệt ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Bác nói phải !
Cao Lộng bị trói quặt hai tay ra sau lưng, một đoạn thừng còn vòng qua cổ bắt chéo trước ngực như là quai đeo ba lô. Dải băng đen chẳng biết xé từ chiếc áo của ai bịt cứng hai mắt làm viên chánh tổng bước đi chệnh choạng. Mớ tóc chớm bạc xổ tung ra bay phất phơ trước gió. Bà vợ lão từ đằng sau lập cập chạy lên định quấn lại tóc cho chồng bị một người áo Đen dộng báng súng vào ngực. Bà ta kêu đến "hự" một tiếng nhổ ra một bãi máu tươi.

Lần này cần phải hành quyết thật nhanh trước khi dân làng kéo đến. Để đỡ xảy ra rắc rối, Khúc Kiệt cử mấy đội viên áo đen quản thúc Khúc Thị Nhân không cho ra khỏi nhà. Miếu Cô Hồn nằm trên một bãi hoang, cây cối rậm rạp. Cạnh miếu có cây gạo cổ thụ. Những chùm hoa đỏ rực rỡ như lửa đang thả dần từng cánh mỏng hình lòng thuyền xuống nước. Mặt ao nổi lềnh bềnh toàn một thứ bèo ong màu xám. Thỉnh thoảng một con cá rô tinh nghịch vọt lên đớp lũ chuồn chuồn ớt. Bọn này xoè cặp cánh mỏng như tơ nhện, bay là là mặt bèo, chốc chốc lại đập đuôi xuống nước như là cố tình trêu ngươi. Trên cây cọc rào giữa ao, một con chuồn chúa hoa vàng dáng dấp đầy vẻ quý phái đậu gần như bất động, khoe chiếc đuôi dài óng ánh như được làm bằng giấy trang kim. Chú chuồn này xem ra chẳng mấy quan tâm đến chuyện người ta sắp sửa bắn nhau mà đang trầm tư thiền định mong sớm được chuyển kiếp làm người. Từ lâu lắm, theo các bậc cao niên kể lại thì xung quanh khu vực ao Quan này đầy ma đói ma khát của những kẻ chết đuối. Những cô hồn không nơi nương tựa thường rủ nhau vào làng quấy nhiễu dân lành, bắt trẻ con, dụ dỗ đàn bà con gái. Sau mấy lần mời thầy pháp về yểm bùa làm phép trừ tà không ăn thua, các vị chức sắc bàn nhau quyên tiền xây miếu và trồng cây gạo để những linh hồn vật vờ có chỗ đi về. Hằng năm, vào những ngày sóc vọng, lý trưởng phải mang hương hoa, phẩm vật cúng tế dân làng mới yên ổn làm ăn, mưa thuận gió hoà, mùa màng phong túc. Từ khi vỡ đê, miếu đổ, chỉ còn trơ lại cây gạo với mấy bụi tre gai bị sóng đánh lật nghiêng, trơ gốc khiến cho cảnh vật trở nên xơ xác, tiêu điều.
Chánh tổng Cao Lộng bị trói vào cây gạo bằng mấy vòng thừng. Lúc này chẳng biết bởi nguồn sức mạnh nào, lão ta đã lấy lại được đảm khí, khác hẳn thái độ hèn nhát ban đầu, xem thường cái chết, dõng dạc bảo Lại Xuân Kiên đang chỉ huy bọn áo Đen chuẩn bị thi hành bản án:
- Ta muốn gặp Khóa Kiệt.

Lại Xuân Kiên lắc đầu:
- Ông ấy đang bận chỉ huy anh em đánh nhau với Nhật không hơi đâu nói chuyện với một tên Việt gian như ngươi.
- Ta không thèm xin tha mạng, mà trước khi bị các người giết, muốn khuyên Khoá Kiệt một câu.
- Có việc gì cứ nói, tôi sẽ báo lại cho ông ấy.

Cao Lộng ngẩng cao đầu, bình thản nhấn mạnh từng tiếng như thể lão ta mới là người tuyên án:
- Cái thứ cách mạng hão huyền của những kẻ hủ nho như Khúc Kiệt trước sau cũng tan thành mây khói mà bản thân hắn cũng không tránh được hình phạt treo cổ. Hãy nhớ lấy lời Cao Lộng này.

Lại Xuân Kiên tái mặt, hối hận vì chót để cho tên cáo già nói lời cuối cùng lăng nhục Cách mạng, anh ta lập bập hô:
- Tất cả lên đạn !
Tiếng khoá nòng nghe có vẻ không đều lắm vì năm chiến sỹ áo Đen sử dụng bốn loại súng khác nhau. Có khẩu đã han gỉ kéo mãi mới bật được chốt an toàn.
- Bắn !

Một loạt tiếng nổ lẹt đẹt như pháo. Đạn bay chiu chíu cắm phầm phập vào thân cây gạo sau khi xuyên qua ngực và bụng nạn nhân. Viên chánh tổng chết ngay, đầu gục xuống một cách miễn cưỡng, mái tóc muối tiêu ướt đẫm máu, chảy thành vệt, nhuộm đỏ dưới gốc cây. Từ ngõ nhà trương Hoà, bà vợ bé Cao Lộng tóc tai bù xù vừa gào vừa khóc vừa chửi ba đời Khúc Kiệt là kẻ sát nhân, mấy chiến sĩ áo đen túm áo giữ lại nhưng không ăn thua. Mụ ta lồng lộn như con thú dữ đã trúng thương, cắn vào tay một đội viên rồi xé quần áo nhảy xuống ao Quan.

Phía cổng làng rộ lên một loạt súng. Bọn Nhật bắn đầu khai chiến. Mặt trời lên chừng nửa con sào. Trên cao, một đàn sếu xếp thành hàng mũi tên bay chếch về hướng đông nam. Con đầu đàn có bộ lông trắng như lông thiên nga đang nhịp nhàng vỗ cánh dẫn đường chợt loạng choạng rơi khỏi đội hình theo chiều thẳng đứng. Lúc ấy giờ mới có tiếng súng trường dội về. Một tên Nhật nào đó chơi trò tâm lý bắn chim trời để chứng tỏ tài thiện xạ của lính Thiên Hoàng. Đứng trên tầng hai nhà chánh Đàm, phó hội Hạp xuýt xoa thán phục:
- Các quan Nhật bắn giỏi thế kia bọn lính áo Đen của Khoá Kiệt chỉ có nước về chầu ông vải.

Lúc này bà cả Huê đang bị giam trong hậu cung đình Cả. Ngôi nhà hai tầng kiên cố như một pháo đài lại là nơi tránh đạn của cả làng. Khúc Luận mang cơm cho mẹ Cả, nhìn thấy Khúc Kiệt, mắt nó ánh lên những tia căm thù. Cậu ta vẫn còn là trẻ con chưa hiểu sự đời.

Bên ngoài, những con ngựa chiến của quan binh Phù Tang phi như điên dọc theo các bờ ruộng hướng tây nam, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng uy hiếp tinh thần đối phương. Trung uý Hirôsi, thanh kiếm dài kéo lệt sệt, thỉnh thoảng lại chạm lách cách vào chiếc ủng da bóng lộn, cao quá đầu gối mà người lại thấp, thành ra mỗi bước đi của hắn đều giật cục chẳng khác gì thằng đánh gậy. Hắn quen đi ngựa, và lúc xuất trận, người ngựa gắn thành một khối vững chắc, tha hồ tung hoành trên chiến địa, vung kiếm tàn sát kẻ thù. Đem quân về làng Cùa theo lệnh quan tư Yamađa, Hirôsi gặp phải một địa hình rất khó chơi. Đó là một làng cổ An Nam được vây bọc chung quanh bởi luỹ tre gai dày đặc và một hệ thống ao chuôm liên hoàn hạn chế tối đa tác dụng của kỵ binh. Hắn đã tác chiến ở hầu hết các quốc gia Đông Nam á, đã từng khuất phục người Tân Gia Ba, đè bẹp sự kháng cự của các tín đồ thiên chúa giáo Phi Luật Tân, ruổi ngựa trên thảo nguyên mênh mông của vương quốc Mãn Châu ăn bánh ngô với nước sốt thịt cừu pha rượu hồ đào, và cuối cùng là những cô gái xinh đẹp da vàng xứ Mã Lai thơ mộng. Tất cả những vùng đất đạo quân của Hirôsi đi qua đều đặt được nền thống trị của Thiên Hoàng. Vậy mà đến xứ Bắc Kỳ có vẻ như tình hình không được thuận buồm xuôi gió bởi sự bất lực của chính quyền Nam triều, sự cản trở của bọn Pháp bại trận và lũ dân đen bị chủ nghĩa Cộng sản mê hoặc. Điển hình là cái làng này. Không khó khăn lắm những kỵ binh thiện chiến của Hirôsi đã phá được cổng làng. Cánh cửa vừa đổ sập xuống lập tức một loạt đạn súng trường mútxcơtông hạ gục hai tên võ sĩ đạo. Viên quan hai khoát tay ra hiệu cho tên lính có bộ ria nhọn nhưng đầu trọc lốc mang trung liên đặt trước cổng. Khẩu súng nòng dài, miệng loe nổ liên hồi kỳ trận khạc ra hàng tràng đạn theo hình cánh quạt bay chiu chíu vào làng. Phía cổng hậu, bọn Nhật cũng đã mở được đột phá khẩu. Khẩu trung liên thứ hai do một tên cai gầy nhằng vừa khai hoả được một lúc thì bị Lại Xuân Kiên từ góc bếp nhà Ba Vếnh tương cho một phát súng "dóp" trúng đầu. Hàn Hành rê nòng khẩu súng kíp, ngắm thật kỹ rồi mới xiết cò. Đạn ghém quả là thứ vũ khí lợi hại. Mấy tên lính thập thò ở mép tường rào đều bị dính đòn phải rút ra ngoài không kịp kéo khẩu trung liên. Lại Xuân Kiên mừng quýnh khi tịch thu được khẩu liên thanh cùng mấy băng đạn vàng choé. Các đội viên nhìn khẩu súng với thái độ vô cùng kính trọng nhưng rất tiếc là không ai biết sử dụng. May có Hàn Hành võ vẽ đôi chút vì cách đây ít lâu, ông ta mua được khẩu tiểu liên của Pháp cho Đoàn thể. Mầy mò một lúc rồi Hàn Hành cũng bắn được. Ông ta đặt khẩu súng ở sân nhà Phó Đát. Tại vị trí này có thể khống chế được khu cổng hậu. Thằng nào lớ ngớ thò mặt vào là nổ súng.

Đội kỵ binh của Hirôsi vừa đánh vừa thăm dò đã vào gần giữa làng. Bảy đội viên áo đen thiệt mạng, Khúc Kiệt bị một vết kiếm chém sượt cánh tay trái nhưng chỉ vào phần mềm không nghiêm trọng. Điều tệ hại là họ sắp hết đạn, mà giao đấu tay đôi với bọn lính Thiên Hoàng thì phía ta hoàn toàn bất lợi. Chúng phần lớn là những tay thiện chiến , trình độ kiếm thuật cực kỳ điêu luyện. Dao chín, mã tấu và mác búp đa khó có thể thắng được thứ kiếm Lưu Cầu vừa dài vừa sắc như nước của đạo quân viễn chinh với tinh thần võ sĩ đạo và học thuyết Đại Đông A làm tư tưởng chỉ đạo. Bị đẩy bật khỏi cổng hậu, sau một trận hỗn chiến, Hirôsi tập trung hoả lực vào hướng Đông Bắc. Phía này ít chướng ngại vật, đường làng rộng có thể đưa kỵ binh luồn theo các ngõ hẻm mà Ngô Quỳnh đã chỉ điểm đánh vào sân đình tiêu diệt đại bản doanh của quân áo Đen. Khúc Kiệt ra lệnh cho anh em tiết kiệm đạn, chỉ nổ súng khi địch đã đến gần nhằm kéo dài trận đánh đến đêm. Bọn Nhật chiếm dần từng căn nhà một. Đây đó đã có một vài đám cháy không hiểu lính Thiên Hoàng đốt hay quân của Khúc Kiệt nghi binh.

Phía cổng lớn vọng về tiếng gào khóc rất thảm thiết. Đó là nhà Trương Dật gần giếng làng. Dật có hai con gái, đứa lớn mười bảy, đứa nhỏ mười lăm. Khi bọn Nhật vào đến cổng hắn đang bê nồi cám cho lợn ăn. Tên lính mặt sẹo có cái mũi hếch vẫy tay nói một tràng líu lô như khướu hót tồi chỉ tay ra cổng. Dật chẳng hiểu tên Nhật nói gì, sợ quá quăng nồi cám ù té chạy. Tên thứ hai đảo mắt nhìn quanh rồi nâng súng nhằm Dật bóp cò. Máu từ ngực anh ta trào ra ướt đẫm tấm áo cộc vá chằng vá đụp. Cái Là cái Lượt vội đẩy cửa nhào ra. Nhìn thấy gái, mắt hai thằng Lùn ánh lên những tia man rợ như thú dữ nhìn thấy con mồi. Cả hai thằng đều quăng súng vồ lấy thị Là, thị Lượt, xé toang áo, lột váy trong trạng thái hoàn toàn điên loạn. Trước khi bị hiếp, Thị Lượt cắn vào tay tên mặt sẹo. Vết cắn khá đau làm tên này nổi đoá bạt tai nó mấy cái nổ đom đóm mắt rồi bế xốc đến gian bếp bẩn thỉu ngập ngụa những rơm rác lẫn với đầu mẩu khoai lang. Thị Là khoẻ hơn bị tên Nhật khoá cứng hai tay. Hắn đã tốc ngược váy của nó lên đến ngực,chỉ còn vướng chiếc thắt lưng da quân dụng ngang lưng nên phải thả lỏng một tay. Vào lúc tên Nhật còn đang loay hoay với chiếc khoá đồng, Thị Là quài tay vớ được con dao cau vẫn để trong rổ con mà trong lúc thị Lượt giằng co với tên giặc Lùn bị hất ra ngoài. Nó lén đẩy con dao vào dưới hông xong nhẹ nhàng vuốt lưng thằng kỵ binh như là một cử chỉ âu yếm. Tên võ sĩ đạo vòng tay ôm ngang sườn thị Là, cà hàm sâu chổi sể vào mặt nó chuẩn bị cho hành động đốn mạt. Trong khi tên Nhật sờ soạng vào bẹn thị Là thì nó giả vờ mân mê chiếc dương vật cứng ngắc làm hắn như mê đi. Đúng lúc ấy một nhát dao sắc ngọt lia ngang bằng tất cả lòng căm thù của một thiếu nữ bị sỉ nhục, cứa đứt đôi "của quý" của gã quỷ lùn. Hắn thét lên một tiếng khủng khiếp chẳng khác gì tiếng gầm của loài mãnh thú đột ngột sa bẫy. Tên mặt sẹo đang cơn hoan lạc trên cái cơ thể trần truồng gần như bất động của thị Lượt, nghe tiếng thét kinh hoàng vội bật dậy, lập cập mặc quần rồi chạy ra sân vồ lấy súng. Thằng bạn hắn đang lăn lộn giữa sân ôm lấy cái bẹn nhoe nhoét máu. Hắn điên tiết kéo khoá nòng xả đạn vào hai chị em Thị Là, thị Lượt vẫn còn trong tình trạng loã lồ.

Hirôsi rút đám kỵ binh bên ngoài bổ sung cho hướng tấn công chính. Quân Nhật đã vào được nhà chánh Đàm. Ngô Quỳnh lúc này đã lẻn về nhà làm nội ứng cho quân Nhật thông qua gã phiên dịch người Nam Bộ. Khẩu trung liên của Hàn Hành hết đạn thành vô tác dụng. Ông ta quẳng nó xuống ao sau đó luồn theo đường chùa Hà về đình Cả, nhưng vừa ra khỏi vườn nhãn thì bị một tên Nhật bắn vào chân. Viên đạn xuyên qua đầu gối làm hàn Hành khựng lại rồi ngã. Lý Quỳnh lập tức cho giải ra gốc gạo trình với Hirôsi. Viên quan hai hỏi:
- Các ông có bao nhiêu quân ?

Hàn Hành liếc nhìn tên Nhật cười gằn:
- Nhiều lắm, đếm không hết.

Hirôsi lại hỏi:
- Chắc là quân áo Đen sắp hết đạn phải không ?

Hàn hành quắc mắt:
- Còn đủ đạn chiến đấu với giặc Nhật đến người cuối cùng.
-Nếu ông chịu đầu hàng, hợp tác với quân đội Thiên Hoàng thì tôi sẽ đảm bảo tính mạng - Hirôsi đề nghị.
-Người Cách mạng không bao giờ phản bội đồng chí của mình. Ta thà chết chứ không thèm làm việc đê tiện ấy.
- Vậy thì được. - Tên quan hai hất hàm bảo gã thông ngôn - Hỏi ông ta có dặn gì gia đình trước khi chết không ?
- Ta biết chắc quân đội Nhật sẽ bại trận và đấng Thiên Hoàng đáng kính của nhà ngươi sẽ phải lên đoạn đầu đài.

Nghe đến tiếng cuối cùng tuy gã thông ngôn chưa kịp dịch hết ý, Hirôsi đã rút kiếm bên sườn vung lên, bằng động tác chuẩn xác với kỹ thuật hành hình điêu luyện, trong chớp mắt đầu Hàn Hành đã lìa khỏi cổ. Hirôsi lau kiếm vào chiếc quần đi ngựa, nhét vào bao rồi bảo tên thượng sĩ mang cặp kính dày cộp như đít chai, khoác tiểu liên đứng bên cạnh:
- Về phía cổng phụ truyền lệnh cho thiếu uý Mátsumôtô bao vây chặt đoạn mương nước không cho bọn Cộng sản trốn thoát. Từ giờ đến tối là phải giải quyết xong lũ phiến loạn.

Lúc này đội quân áo Đen đã bị tổn thất khá nặng. Lại Xuân Kiên bị đạn vào cằm vỡ quai hàm. Anh ta nhổ ra mấy chiếc răng gẫy dính máu, loạng choạng được vài bước rồi phủ phục xuống góc bếp nhà chưởng bạ Giang. Những đội viên còn lại rút về hướng đình Cả. Hirôsi cho lính kéo khẩu trung liên vào sân nhà Khúc Đàm xoay nòng bắn sang nhà Khúc Kiệt. Bà vợ ốm yếu của ông ta loạng choạng đứng dậy chạy ra ngoài, bị dính đạn ngã sóng soài xuống nền nhà. Khúc Vĩ hoảng quá nhảy quáng quàng xuống ao, một lúc sau ngoi lên bị tên lính đeo kính cận xả một băng tiểu liên chết ngay tại chỗ. Khúc Văn lúc ấy đang ở ngoài đình. Khúc Thị Nhân, Khúc Thị Nghĩa, Khúc Thị Lễ trong lúc bối rối chẳng biết làm thế nào đành chui xuống gầm giường, nằm nín thở phó mặc số phận cho thần may rủi. Mái nhà lợp rạ bén nửa, bùng lên, trong khoảnh khắc đã thành một đám cháy lớn. Khói đen cuồn cuộn bốc lên, rui mè nổ lốp bốp như pháo đùng ngày tết.

Phía bên kia ao, nhà Cả Phê cũng đang cháy ngùn ngụt. Ngọn lửa bỏng rát, nóng hầm hập, liếm lem lém vào mái bếp, thiêu trụi đống rơm rồi há cái mõm đỏ lòm phun phè phè vào chái nhà Hai Doạc. Đám cháy khủng khiếp lại được những ngọn heo may đầu mùa tiếp sức thành trận địa liên hoàn như con rắn lửa khổng lồ huỷ diệt tất cả những gì nó gặp trên đường. Trời tối hẳn, làng Cùa trở thành biển lửa sáng rực như ban ngày. Khắp nơi đâu đâu cũng dậy lên tiếng la ó, gào thét lẫn với tiếng khóc thảm thiết. Lũ chim sẻ, chào mào, bồ các, thậm chí cả những gia đình quạ vẫn tá túc trên luỹ tre gai, giờ bay tán loạn, kêu quang quác vì mất tổ. Một đàn liếu điếu không chịu nổi đám khói dày đặc, khét lẹt, lao vút lên cao, bay loạn xạ như thể làng Cùa sắp đến ngày tận thế. Một con sẻ đồng lạc đàn, bay qua ao nhà Cả Phê định thoát khỏi làng nhưng lập tức bị rơi xuống đám lửa đang cháy rần rật của ngôi nhà phó lý Dần.

Đội quân áo Đen sau một ngày quần nhau với Nhật còn không quá hai chục người. Khúc Kiệt tập trung anh em lại phổ biến kế hoạch rút lui khỏi làng bằng đường thuỷ. Họ lợi dụng trời tối, trườn xuống ao đình, theo ngòi Mác ra ao Quan rồi vào rừng Hóp. Rừng Hóp kề ngay đầm Ma, địa hình hiểm trở, có thể tạm thời ẩn náu, chờ quân Nhật rút đi.

Gần sáng, khi lý Quỳnh dẫn Hirôsi và hơn chục tên Nhật vào đình Cả thì Khúc Kiệt và những đội viên áo Đen còn lại đã vượt vòng vây thoát ra rừng Hóp để lại khá nhiều xác chết. Cánh cửa hậu cung vừa bật mở, mọi người vội vàng bịt mũi khạc nhổ vì thứ mùi xú uế nồng nặc bay ra từ đống phân và bãi nước tiểu ngang dưới bệ thờ. Bà cả Huê tóc tai rũ rượu như một con điên, cặp mắt long sòng sọc, mồm lảm nhảm chửi ông em chồng bằng thứ giọng thều thào của kẻ sắp chết đói.

Hoả hoạn do quân Nhật gây ra thiêu trụi quá nửa làng Cùa nhưng chính Hirôsi cũng phải trả giá đắt vì sáu lính Thiên Hoàng tử trận và năm tên khác bị bỏng nặng. Sau cuộc hỗn chiến, hắn không còn đủ lực lượng truy đuổi đạo quân của Khúc Kiệt đành phải tạm thời rút về Phú Xuyên. Khắp làng chỗ nào cũng thấy những đụn khói xám đục bốc lên. Đó là những đống rui mè, kèo cột hoặc gióng chuồng trâu còn đang âm ỉ cháy. Năm gian nhà tranh của Khúc Kiệt được anh em áo Đen dựng lại cách đây chưa lâu giờ chỉ còn là đống tro tàn. Khúc Thị Lễ, Khúc Thị Nghĩa gần như bị nướng chín cùng với con chó vằn khi mái nhà bén lửa sập xuống đè gẫy chiếc trường kỷ bằng trúc. Khúc Thị Nhân may mắn thoát được do lách qua khe vách gian buồng nhưng bị lửa bén trụi sạch tóc. Cô ta phải lấy khăn vuông quấn đầu mới dám ra đường. Bà mẹ chết từ chiều hôm trước, người mỏng như tờ giấy, lạnh cứng, mắt trợn trừng trừng, Nhân phải vuốt ba lần mới khép lại. Khúc Vĩ vẫn còn chìm dưới ao. Chỗ bị thương cả bầy đỉa bám vào hút máu. Con nào con ấy no căng. Nhân không còn đủ sức kéo xác anh lên bờ. Cô ta ngồi bệt xuống đất, vuốt tàn than bám vào cái đầu lởm chởm, thở hổn hển. Đôi mắt ráo hoảnh gần như vô cảm. Có lẽ nỗi mất mát quá lớn làm người con gái mới mười bảy tuổi này bị sốc nặng, không thể khóc được.

Lý Quỳnh không thể ngờ mình cúc cung tận tuỵ phục vụ các quan Nhật mà vợ con ông ta lại chết cháy do chính quân đội Thiên Hoàng gây ra. Ngay từ sáng sớm, khi biết tin Hirôsi đem đội kỵ binh về, lý Quỳnh đã cấm vợ con ra ngoài. Đề phòng Khúc Kiệt cho lính áo Đen sát hại người nhà, trước khi tìm cách bắt liên lạc với quân Nhật, ông ta đã nhốt họ vào buồng, khoá lại, sau đó đóng chặt cổng, quấn thêm mấy vòng dây xích cho chắc. Cẩn thận quá hoá ra lại hại chính mình. Lửa từ hướng đông bắc sau khi thiêu huỷ toàn bộ dinh cơ nhà cả Phê, nhanh chóng lém sang chái buồng nhà Ngô Quỳnh. Khói đặc sệt bị áp lực của hoả thần, chảy vào tất cả mọi ngóc ngách như những chiếc vòi bạch tuộc trắng nhợt, đùng đục hoặc vàng nhạt, toả mùi khét lẹt làm bất cứ ai ngửi phải cũng ho sặc sụa. Mấy mẹ con bà Lý không chịu được khói, tìm cách phá cửa buồng, nhưng bộ cánh bằng lim lõi, lắp bản lề ngược, lại khoá ngoài thành ra cứ trơ trơ chẳng suy suyển gì. Tiếng gào của họ bị chìm trong tiếng súng liên thanh cùng với tiếng lửa réo của hàng trăm ngôi nhà đang cháy tạo thành thứ tiếng động hỗn tạp, có lúc ù ù như xay lúa, có lúc lại đùng đoàng như sấm tháng tư. Xét đến cùng, trong cơn khổ nạn này, không một người dân lương thiện nào ở làng Cùa còn đủ tâm trí lo cho tính mạng người khác ngoài bản thân mình. Vợ con lý Quỳnh chết vì khói trước khi sức lửa giải phóng cánh cửa gỗ lim. Họ ngồi bên nhau theo đủ các tư thế. Tất cả các gương mặt nạn nhân đều xám ngoét vì tức thở, cặp mắt mở trừng trừng thảng thốt trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh.

Mấy anh em trương Kiệm xóm Cầu Đá, lúc nhà mới bén lửa còn gọi nhau múc nước giếng Bụt té lên. Sau lửa cháy rát quá không ăn thua đành phải bỏ. Lửa ba bề bốn bên, nóng như lò bát quái. Ngoài đường súng nổ lẹt đẹt lúc thưa lúc nhặt. Đàn bà, trẻ con chạy quáng quàng như kiến bò trong chảo, chỗ nào cũng gặp lửa. Cái giếng đã cạn. Chẳng ai bảo ai đều tranh nhau nhảy xuống, chỉ một loáng đã chật cứng người. Giếng hẹp và sâu hơn hai mét, chung quanh ghép đá ong gần như thẳng đứng, cầu múc nước lại hẹp, đông người xô đẩy chen chúc, ai cũng muốn có chỗ của mình, thành thử một số đứa trẻ bị ngạt thở. Tình trạng lộn xộn đến mức, người khoẻ dẫm lên đầu người yếu, hy vọng kiếm chút không khí trong lành. Trên cao, khói cháy nhà vẫn chảy cuồn cuộn, lúc này tựa như không phải lửa sinh ra mà là từ dưới đất chui lên. Nhưng đụn khói dày đặc nóng bỏng với đủ các hình thù kỳ dị bò vào miệng giếng như một con quái vật có khả năng biến hình, phút chốc mọc ra hàng trăm cánh tay chộp lấy mấy chục nạn nhân đang ngắc ngoải bởi không còn dưỡng khí.

*
Quân Nhật rút đi, Lý trưởng Ngô Quỳnh tập hợp đám trương tuần cùng cánh tá điền bắt đầu tìm kiếm, thu lượm các xác chết, Đã cuối tháng chín nhưng trời vẫn còn nắng gắt. Khắp nơi đâu đâu cũng bốc mùi lợm giọng bởi làng Cùa hầu như đã thành một bãi tha ma. Phó tổng Lê Bang, sau hôm trốn sang Mạc Điền giờ mới dám về, Ông ta điều từ làng Đậu, làng Bối Khê gần sáu chục dân phu sang giúp lý Quỳnh. Luỹ tre dày quanh làng vẫn còn nguyên vẹn nhưng toàn cảnh bên trong thực sự là một bãi chiến trường. Không ai có thể đếm chính xác được thi thể các đội viên áo Đen cũng như dân làng Cùa trừ bọn lính Nhật tử thương đã được tên quan hai ra lệnh mang đi. Bà con chết cháy hoặc bị đạn lạc nhiều vô kể. Những người bị cháy thân hình biến dạng đến mức khó có thể nhận ra. Cánh phu đòn, cứ hai người một, khênh họ ra nghĩa địa trên những chiếc võng đay. Trời bỗng chuyển gió tây nam, mùi xú uế bốc lên nồng nặc. Nhiều người cởi áo làm khăn quấn ngang miệng để đỡ nôn oẹ. Các nạn nhân bị đạn hoặc kiếm Nhật chém phải, qua một ngày một đêm đã trương phềnh, nằm thẳng đuỗn trên võng. Theo nhịp bước người khênh, một thứ nước vàng rất khó ngửi, cứ nhỏ giọt đều đều trên đường từ làng ra bãi tha ma. Sau cơn hoả hoạn, người ta không thể kiếm được áo quan cho những người xấu số. Ngay cả chiếu cói cũng chỉ còn hơn chục chiếc. Những ngôi mộ phần lớn nông choèn được lấp một cách vội vàng, không bát cơm quả trứng và không một nén nhang. Anh em dân phu làm thật nhanh để còn về làng đi chuyến khác.

Đêm hôm ấy làng Cùa hoàn toàn yên ắng thậm chí không có cả tiếng gà gáy nhưng ngoài bãi tha ma thì lại vô cùng nhộn nhịp bởi những tiếng gầm gừ của lũ chó hoang. Vùng Ba Tổng xưa nay nổi tiếng lắm chó hoang. Chúng cư ngụ ở miễu cò Đài Sơn bên Mạc Điền, số khác tụ tập hàng đàn hàng lũ trong rừng Hóp, đánh hơi thấy mùi tử khí liền kéo nhau đến làm cuộc đào bới trên quy mô lớn ở nghĩa địa đồng Chó Đá. Những ngôi mộ mới chôn san sát chẳng theo hàng lối nào nổi lên thành một vùng trắng bệch dưới ánh trăng hạ tuần lãnh lẽo. Những con chó hoang chân dài, mõm nhọn như mõm cầy xạ, không khó khăn gì trong việc lôi xác chết ra khỏi các ngôi mộ chôn cất sơ sài. Một con chó già rụng sạch lông đầu, hai tai dỏng cao như tai thỏ vớ được chiếc cẳng chân của một đứa trẻ văng ra sau cuộc ẩu đả của hai con chó đốm choai choai. Nó cố sức kéo lê miếng mồi ra xa để tránh bị cướp giật rồi nằm xuống bắt đầu gặm. Ngôi mộ chánh tổng Cao Lộng bị cả một bầy vằn vện khai quật bằng cách dùng hai chân trước ra sức bới đất. Chỉ sau vài phút, cái xác đã lộ ra. Chúng chẳng khách sáo gì, nhất loạt lao vào cắn xé bằng những hàm răng trắng nhởn, nhọn hoắt sắc như dao cạo. Một con nhay đứt gân cánh tay, tha được đến chỗ con chó già lập tức bị con lông xám mõm ngắn nhưng rất dữ tợn nhe nanh ra cướp mất. Thế là một cuộc ẩu đả đẫm máu hoàn toàn mang phong cách của loài khuyển bắt đầu. Chúng tạm thời bỏ xác chết, lao vào nhau trong cơn kích động cuồng loạn của những kẻ khát máu. Bãi Chó Đá rộ lên những âm thanh gầm gừ phát ra từ cổ họng của những con chó hoang hiếu chiến, tiếp theo là hàng loạt tiếng sủa chói tai, nghe âm âm như tiếng vọng của lũ chó ngao gầm thét dưới cầu Nại Hà hau háu chờ những tội nhân bị ngã xuống dòng Âm Phủ. Gã chó xám đã rút khỏi cuộc ẩu đả, tha khúc ruột dài lòng thòng moi được từ ngôi mộ chung nhà Trương Dật, chợt nhìn thấy vành trăng khuyết, đỏ như máu, vội bỏ mồi nghếch mõm tru lên mấy tiếng nghe như tiếng loài sói gọi đàn rồi mới tiếp tục thưởng thức món ăn vừa kiếm được.

Lũ quạ đánh hơi người chết rất sớm nhưng chúng chỉ dám chờn vờn bên ngoài vì sợ bọn chó hoang. Nhưng cũng có con đói quá, liều mạng nhảy vào mổ những miếng thịt rơi vãi trên mặt đất sau những trận hỗn chiến của lũ bốn chân. Cũng như bầy chó hoang dưới đất, loài chim chuyên ăn xác chết từ khắp nơi kéo về, bay loạn xạ trên trời, nháo nhác gọi nhau chuẩn bị cho một đêm dạ tiệc. Những con quạ đen thui vô cùng tinh ranh đập cánh loang loáng dưới ánh trăng đã bắt đầu bợt bạt vì trời sắp sáng. Chúng lượn lờ vài đường rồi bất ngờ cụp cánh rơi xuống như mọt viên đạn đại bác, quắp vội được miếng gì đó rồi lại lao vút lên theo hình vòng cung. Con chó xám mõm ngắn vừa nhai khúc lòng vừa gầm gừ xua đuổi đồng bọn, nhưng không ngờ kẻ trộm lại là lũ quạ lắm điều trên cao. Nó vừa nhả mồi sủa mấy tiếng cảnh cáo hai con chó gíe có cái đầu tròn ung ủng như chiếc gáo dừa thì một con quạ khoang to đùng, cái mỏ bè ra như hai gọng kìm sà xuống nẫng gọn phần còn lại của bộ lòng bay lên. Con chó xám tức lắm, tung hai chân trước làm một cú nhảy khá cao, sủa váng lên. Nhưng con quạ đã thoát hiểm, bóng của nó cùng với miếng mồi vẽ thành một vệt loằng ngoằng ngay chỗ con chó ngồi. Lúc này hẳn đã no nê, lũ chó tha những khúc xương ống chân ống tay vứt lung tung khắp nơi trên bãi tha ma, nô giỡn một lúc rồi mới tản mát về sào huyệt. Bây giờ mới thực sự là dạ yến của bọn quạ. Hầu như không còn con nào ngó nghiêng trên trời. Tất cả lũ chúng, cả quạ đen lẫn quạ khoang đều đủ mặt. Chúng nhảy lò cò, túm năm tụm ba háo hức tận hưởng thứ thịt người vung vãi khắp nơi mà lũ chó hoang bỏ lại. Đàn quạ đông đến mức gần như thứ màu đen xỉn bẩn thỉu của chúng phủ kín toàn bộ khu mả mới. Quạ là loài chim vốn lắm điều nhưng lúc này nghĩa địa lại hoàn toàn yên lặng. Nguồn thức ăn khá dồi dào. Trời vẫn còn mờ tối, con người vẫn chưa thể phát hiện ra lũ ăn cắp xác chết. Trăng lạnh và sương đang thấm ướt cỏ cây. Một đêm hiếm hoi ngàn năm có một như thế, việc gì phải bắt chước lũ chó cãi nhau giành mồi.

Khi những tia nắng đầu tiên rọi xuống đồng Chó Đá thì khung cảnh bãi tha ma hiện lên với tất cả sự rùng rợn của nó. Hầu như các ngôi mả đều bị đào bới bằng cùng một thứ công cụ là mõm và chân nhưng cái cách hành hạ xác chết thì lại không hoàn toàn giống nhau. Có xác mất hai tay hoặc một cẳng chân. Một vài xác bị khoét mắt, moi bụng hoặc bóc mất mảng ngực. Người nằm ngang, kẻ nằm dọc theo một thứ trật tự vô cùng hỗn độn. Lúc này vẫn còn hàng trăm con quạ đang mải mê rỉa thịt trên những khúc xương ống hoặc xương sườn đã bị hàm răng chó hoang cắt rời khỏi các xác chết. Chỉ đến khi toán dân phu đầu tiên chuyển tiếp những nạn nhân mới tìm thấy hồi đêm trong những đống đổ nát ra an táng thì chúng mới chịu bay lên. Lũ quạ vùng Ba Tổng thuộc loại lỳ lợm. Chúng lượn vài vòng quan sát thái độ của đám tuần đinh rồi lần lượt đáp xuống cách đấy không xa, chờ họ đi khuất lại tiếp tục bữa điểm tâm.

Nhìn cảnh hỗn loạn nơi nghĩa địa sau một đêm mất cảnh giác, Ngô Quỳnh tức lắm. Ông ta huy động toàn bộ trai tráng ra chôn cất lại những ngôi mộ đã bị chó đào lên và cắt cử đám tuần đinh mang giáo mác gậy gộc và cả súng kíp ra canh đêm, sẵn sàng chiến đấu với chó hoang và quạ. Lũ quạ từ bên kia sông Lăng kéo sang, bị chậm chân không được thưởng thức món thịt người, lúc này bay vù vù trên cao. Chúng kêu "quạ quạ" đinh tai nhức óc, bảo nhau đồng loạt ỉa xuống đám phu đòn đang lấp đất trên các ngôi mộ. Hai Doạc tức mình nổ một phát đạn ghém. Hai con chết tại chỗ. Một con bị thương, loạng choạng cố bay theo đàn như chỉ được một đoạn cũng rơi xuống ruộng lúa.

2. Mẹ con bà Hai dắt díu nhau về làng Nội chưa đầy nửa năm thì cụ khán Đản qua đời. Cụ Khán không có con trai, làm di chúc giao mảnh vườn hơn bốn sào với ngôi nhà tranh ba gian cho bà Thoả, nhưng trưởng họ Phùng là phó lý Tài không nghe, lấy cớ đàn bà xuất giá hưởng lộc nhà chồng rồi nên quyết định giành phần thừa kế cho con trai mình. Được tin, lái Lự từ làng Bòng bổ sang gặp phó lý Tài:
- Sao ông Phó cạn tàu ráo máng thế ? Có chuyện gì thì cái nhà này cũng là hương hoả cụ Khán để lại chứ đâu phải mồ hôi nước mắt của ông.

Phó Tài vốn hách dịch không chịu được cách ăn nói của lão lái trâu hợm của, tức mình quát:
- Đây là việc riêng của họ Phùng việc đếch gì đến ông mà chõ mồm vào .
- Cướp trắng gia sản rồi đuổi mẹ con bà cháu người ta ra khỏi nhà mà bảo là việc riêng, nói như cứt ấy.
- A ! Ông định đến gây sự đấy hả ? Nếu thích thì rước mẹ con nhà nó về mà nuôi. Còn nói lôi thôi nữa tôi sai tuần đinh nó gô cổ, đừng có trách.

Lái Lự mặt vẫn tỉnh bơ, giọng khiêu khích:
- Đấy là ông phó lý Tài nói đấy nhé. Nếu tôi đón mẹ con bà ấy về thật thì sao ?

Ông trưởng họ Phùng càng thách già:
- Rước được những của nợ ấy đi thì họ Phùng mang ơn ông lắm đấy.
- Lời nói suông không tin được. Phải có bằng chứng.

Phó Tài đang muốn tống mẹ con bà Hai ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt nên thuận miệng bảo:
- Tôi viết cho ông một cái văn tự là được chứ gì ?
- Phải - Lái Lự gật đầu mỉa mai -Để đề phòng sau này có kẻ lật lọng.
- Ông đừng có cạnh khoé.
- Là tôi nói thế thôi.
ít phút sau, khi đã cầm "văn tự" trong tay, lái Lự rút trong túi ra tờ giấy xoè trước mặt phó Lý Tài:
- Ông nhìn cho rõ: Đây là văn tự vay tiền của cậu nhà, hẹn trong một tháng sẽ trả, lãi năm phân. Bây giờ đã quá mười ngày, gia hạn mười ngày nữa, nếu không hoàn cả vốn lẫn lãi, bắt buộc tôi phải trình quan.

Phó lý Tài mặt xám lại khi nhìn thấy số tiền ghi trong văn tự.
- Chết thật, nó vay làm gì mà nhiều thế ?
- Chắc là lại trò đỏ đen. - Lái Lự thủng thẳng bảo.
- Mà tại sao nó lại sang tận làng Bòng vay tiền ? - Phó Tài lườm lão lái trâu, giọng hậm hực - Ông cả tin thế thì có chuyến mất cả chì lẫn chài.
- Từ trước đến nay chưa bao giờ tôi cho những kẻ cha căng chú kiết vay tiền nếu không có sự bảo lãnh của các bậc huynh trưởng. Có phải ông với ông phó hội Long là anh em con cô con cậu?
- Phải, thì sao ?
- Chính ông ấy dẫn cậu Mạc đến.
- Thế này thì nó giết tôi rồi. Dù sao tôi cũng là phó lý đương nhiệm.

Lái Lự cười khẩy:
- Đời vốn công bằng chẳng cho ai không cái gì đâu ông ạ.

ra lái Lự và bà hai Thoả chẳng lạ gì nhau mặc dù gần hai chục năm làm như không hề quen biết. Thuở nhỏ, lái Lự được bố mẹ cho sang kẻ Nội vừa học chữ Nho vừa học nghề nặn tò he với ông phó Đễ. Tuy chỉ cách một hàng rào nhưng hai nhà vốn có nhiều hiềm khích từ lâu nên không qua lại chơi bời với nhau. Ông phó Đễ vừa là cậu họ vừa là thầy dạy nghề, máu rượu mà lại nóng tính, lơ mơ là quất ngay nên cậu Lự nhiều khi bị đòn oan. Nặn tò he là cái nghề đòi hỏi sự nhẫn nại và tỉ mỉ, thêm chút khéo tay nữa nên rất không hợp với sở trường của chàng học việc. Một lần Lự làm hỏng mẻ bột do pha phẩm màu sai liều lượng. Phó Đễ chẳng nể nang gì vớ ngay chiếc roi mây vẫn giắt trên mái nhà vụt túi bụi vào lưng thằng cháu. Chàng phó nhỏ vừa khóc vừa lạy van rối rít. Đúng lúc ấy, cô hàng xóm tóc ngắn cũn cỡn, buộc túm lại bằng sợi dây chuối, kín đáo nhìn qua khe rào, nhe chiếc răng khểnh ra tủm tỉm cười. Lự ngượng lắm. Ngay chiều hôm ấy, chàng ta trốn về kẻ Bòng, thề rằng chẳng bao giờ thèm dính đến cái nghề nặn đồ chơi trẻ con nữa. Có điều ông bố không phải là người dễ dàng thay đổi quan điểm bởi những ý nghĩ nhất thời hồ đồ của cậu con trai. Kết quả Lự lại được lĩnh thêm hơn chục hèo mây để rồi sáng hôm sau bị ông trương Thao áp giải sang làng Nội.

Như vậy là trên đời có rất nhiều người phải làm cái nghề mà họ hoàn toàn không muốn, cũng như trong chuyện trăm năm, phải lấy một người mà họ hoàn toàn không yêu. Đeo đẳng cái nghiệp xanh đỏ tím vàng đến năm thứ hai thì Lự được ông chủ cho gánh hàng ra chợ vừa bán vừa nặn các con giống tại chỗ theo yêu cầu của các cô cậu tí nhau. Tháng vài phiên chàng tò he gặp cô láng giềng ra chợ mua voi giấy ngựa giấy hoặc vàng mã về cho ông bố lập đàn làm phép trừ ma. Ông khán Đản làm nghề phù thuỷ. Trong nhà có một điện thờ. Lự chưa bao giờ dám bước chân sang nhà cô Thoả. Cứ vào tuần rằm mồng một là nhà ông Khán hương khói nghi ngút, từ xa đã nghe tiếng chập cheng. Vợ ông Khán là bà Huần sinh được mỗi cô Thoả, bảy năm sau thì chết vì thứ bệnh kỳ lạ. Dịp ấy vào rằm tháng bẩy bà ta đi chợ về, tự nhiên leo tót lên bàn thờ, ngồi chễm chệ trên ngai rồi lảm nhảm bảo:
- Ta là đức Thánh Mẫu ở đền Sòng bị lão khán Đản dùng yêu thuật nhốt vào khám sắt từ ba năm trước, giờ được chúa Liễu Hạnh giải thoát, về hỏi tội cả nhà ngươi đây.

Nói xong bà Khán hộc máu tươi, chảy ròng ròng xuống ngai rồi ngã vật xuống bất tỉnh. Ông Khán sợ quá vội mời lang Tễu đến xem mạch bốc thuốc nhưng mạch của bà Huần lúc trầm lúc phù, lúc nhanh lúc chậm không thể đoán ra bệnh gì đành cắt cho mấy chén an thần rồi cáo lui. Được ba ngày thì bà Khán qua đời. Từ đấy người kẻ Nội có ý kiềng gia đình khán Đản. Mấy năm sau ông Khán tục huyền. Bà vợ kế là dân làng Vẽ vừa hoang toàng vừa lẳng lơ, trẻ hơn chồng gần chục tuổi nên được chiều hết mức. Mọi công việc nhà ông Khán đều giao cho vợ kế trông nom. Bà ta được thể càng lấn lướt chồng, đối xử rất cay nghiệt với con bà cả. Những dịp ông Khán được tín chủ nơi xa mời đi cúng bái, bà ta lập tức đóng bộ biến khỏi nhà, phớt lờ cô con chồng lúc này đã đến tuổi hiểu sự đời. Thì ra bà ta phải lòng tay thợ mộc chuyên đóng quan tài ở phố Nhài. Chuyện ấy cuối cùng cũng đến tai khán Đản. Ông muốn có đứa con trai nên đành phải nhịn nhục. Nhưng sự chịu đựng cũng chỉ có giới hạn. Trò đời già néo đứt dây. Khuyên bảo nhiều lần chứng nào vẫn tật ấy, cuối cùng thầy phù thuỷ phải dùng hạ sách. Vào một đêm tối trời, khán Đản vào điện thắp hương, tung đồng tiền xin âm dương rồi mang đạo bùa ra chôn ở cổng, ngay cạnh con chó đá. Ba hôm sau, vào lúc quá Ngọ, bà vợ kế đến xưởng quan tài túm áo nhân tình dắt đi như dắt trâu. Gã thợ mộc chẳng biết chuyện gì xảy ra nhưng thấy thái độ của người đàn bà như bị ma ám thì sợ quá, định chạy nhưng không dứt ra được. Bàn tay bà ta lúc này như có nhựa dính còn cặp mắt trợn ngược toàn lòng trắng như là mắt của kẻ ăn phải bả độc trong cơn hấp hối. Đến bờ sông thì hai người hầu như đã cùng trong một tâm trạng thật sự phấn khích khi nhìn thấy dòng nước đục ngầu cuồn cuộn chảy. Bà vợ kế ông Khán cười sằng sặc, chỉ tay xuống đám bọt sóng bảo:
- Mình thấy nước sông hôm nay có trong không ?

Gã thợ mộc gật đầu:
- Trong vắt. Bây giờ mà được tắm một cái thì tốt quá.
- Thế thì còn chờ gì nữa. Tôi với mình nhảy xuống bơi đi.
- Nhưng mà tôi không biết bơi. - Tay thợ đóng hòm người chết thoáng chút lo lắng.
- Đừng ngại. - Người đàn bà vẫn nắm chặt ống tay áo nhân ngãi cười sằng sặc - Tôi vốn là con gái vua Thuỷ Tề, tôi sẽ giúp mình. Nào, nhảy đi.

Cả hai gần như đồng thời nhún mình nhảy xuống dòng nước xiết. Đây là bờ bên lở, sóng dữ khoét vào chân đê thành những vệt sâu hoắm. Chỉ trong nháy mắt, cặp tình nhân đã mất hút giữa một vực xoáy cùng với tiếng réo ùng ục như nồi ba mươi luộc bánh chưng đang sôi.

Nhà có hai người đàn bà bất đắc kỳ tử nên việc gả chồng cho con gái của ông khán Đản vô cùng khó khăn. Người kẻ Nội sợ cái vía phù thuỷ nhập vào nhà sẽ táng gia bại sản nên tuy vẫn kính trọng ông Khán như trước nhưng rước cô con gái về làm dâu thì hoàn toàn không thể. Đã thế nhà phó Đễ với ông Khán lại có chuyện bất hoà. Ông Đễ tính nhỏ nhen, có máu tham, thấy cái lợi bằng hạt thóc cũng vơ vào mà chẳng nghĩ đến chuyện ăn ở lâu dài với hàng xóm láng giềng. Chuyện bắt đầu từ cái bờ rào. Ông Khán vốn nghiện chè xanh nên đã trồng một hàng ở phần đất của mình. Chè lên xanh tốt, Phó Đễ cứ thản nhiên hái uống mà chẳng cần nói với hàng xóm một lời. Chẳng những thế ông ta còn dùng cuốc bàn vạc đất dưới hàng rào, thành ra cây chè cứ teo tóp dần, cuối cùng ông Khán phải phá đi thay vào bằng hàng găng. Ông Đễ liền trồng sát hàng găng một dãy xoan. Cái thứ sương soan và chất độc ở rễ tiết ra phá hỏng toàn bộ đất vườn. Nói mãi không được, ông Khán nhờ hai thằng cháu trèo lên phát cành. Thế là ông thợ tò he nhảy sang gây sự. Chuyện bé xé ra to, sau phải đến phó lý Tài đứng ra xử kiện. Phó Đễ mắc tội lấn chiếm đất, trồng soan giữa cõi trái với hương ước, bị làng phạt vạ. Bắt buộc phải nộp phạt nhưng phó Đễ không phục. Ông ta bảo phó lý Tài là cháu họ ông Khán nên cánh chức dịch thiên vị. Từ đấy hai nhà kiềng mặt nhau.

Thời gian qua đi. Lúc Lự nhập môn nặn tò he thì cô Thoả đã đến tuổi trăng tròn. Chỉ sau vài phiên chợ, anh chàng môn sinh của ông phó Đễ đã phải lòng cô hàng xóm. Hai người quyến luyến nhau lắm. Những hôm không có chợ Đình thế nào Lự cũng giả vờ ra hàng rào làm việc gì đó để nhìn cô bạn gái. Thoả biết ý, thường đứng nép vào giữa hai cây chuối góc vườn, hễ thấy bóng anh chàng thì nhô đầu ra. Việc thậm thụt giữa hai người không qua mặt được vợ chồng phó Đễ. Ông ta gọi thằng cháu vào nhà lên giọng cha chú:
- Lão ấy hành nghề phù thuỷ đã chết hai đời vợ, lại không có con trai vì làm nhiều việc tổn âm đức. Tao cấm mày đi lại với con bé ấy.
Lự thấy thái độ của ông cậu có vẻ xuất phát từ sự hiềm khích dai dẳng do lòng đố kỵ và thói tham lam vô lối gây ra nên mới bảo:
- Cháu thấy nhà ông Khán đối xử với xóm làng có đến nỗi nào, sao mà cậu cố chấp thế ?
Ông cậu mặt vẫn hầm hầm, giọng nặng chịch:
- Như vậy là mày vẫn muốn lấy con bé ấy ?
- Là cháu nói thế chứ đã có chuyện gì đâu mà cậu đã nổi xung lên.
- Vậy thì hãy tránh xa nó ra. Con bé ấy chỉ có lấy chồng thiên hạ. Trai làng này không đứa nào dám rước.
- Vì sao hả cậu ?
- Lại còn phải hỏi. - Phó Đễ gắt - Nó nặng căn số vì lão khán Đản là người dương gian nhưng lại làm việc âm phủ.

Nhưng rồi hai người vẫn lén lút gặp nhau ngoài chợ. Một lần phó Đễ bí mật đi theo bắt được liền sang kẻ Bòng báo cho ông anh họ. Ông Thao lập tức lôi con trai về không cho học nghề to he nữa, ít lâu sau bắt lấy vợ. Vợ Lự là con ông Ba Toa người làng Bối Khê. Ông Ba Toa với ông trương Thao cùng là dân buôn trâu, biết nhau quá rõ, thật là môn đăng hộ đối. Trước khi cưới vợ cho Lự, ông Thao bảo:
- Cái nghề buôn trâu hay bị thiên hạ nó chửi. Bố muốn đến đời mày không phải mang tiếng là phường lừa đảo nên mới cho đi học nặn tò he. Nhưng cậu Đễ bảo tay nghề chưa đâu vào đâu đã phải lòng gái, mà con bé ấy lại là dòng giống phù thuỷ. Thôi không kén cá chọn canh nữa, cưới xong theo tao vài chuyến cho nó quen đi.

Lự vốn chẳng ưa gì công việc vỗ mông trâu của ông thân sinh, lắc đầu quầy quậy:
- Con không đi buôn trâu, thà làm nghề đánh giậm còn hơn.
Ông Trương cười nhạt:
- ở đời chẳng có nghề gì cao quý và thấp hèn, mà cao quý hay thấp hèn là ở cung cách làm ăn, anh hiểu chưa ? Nếu là người lương thiện thì chẳng việc gì phải ngại nghề buôn trâu. Làm vua mà bụng dạ tiểu nhân thì cũng chẳng khác gì phường lừa đảo. Chỉ sợ sau này dính vào rồi anh bám dai như đỉa, không muốn đổi nghề nữa.
- Nhưng con thấy nó thế nào ấy ?
- Cưới vợ rồi anh định làm gì nuôi nó ? Hay là vẫn ăn bám bố mẹ ?
- Đấy là bố mẹ bắt cưới đấy chứ ?
- Mày đừng có láo - Ông trương Thao quắc mắt - Vợ chồng là đạo nhân luân, đã làm người thì phải có trách nhiệm với tổ tông. Không nghe tao thì bước khỏi nhà.
Vợ Lự là người đàn bà khoẻ mạnh, hiền lành nhưng trời chỉ cho hai người được mỗi mụn con gái rồi không đẻ nữa. Thị Lánh thuở bé được bố mẹ quý như vàng, càng lớn càng xinh đẹp. Hành nghề vài năm, đến lúc ông trương Thao quy tiên, Lái lự đã có một số vốn kha khá. Quả như ông bố dự đoán, những món lãi đáng kể sau mỗi chuyến làm ăn đã biến chàng trai chất phác kẻ Bòng thành gã buôn trâu giầu thủ đoạn trên thương trường. Trong vòng hơn chục năm, lái Lự thông thạo tất cả mọi đường ngang ngõ dọc ở phủ Đông Giàng. Có lần lão còn lên tận vùng Lạng Giang thăm mối hàng. Mọi việc đồng áng ở nhà đều do bà vợ cáng đáng. Năm Thị Lánh mười sáu, bà mẹ đi chợ Lành về, trúng gió độc sinh cảm hàn rồi bị liệt nửa người, chỉ nằm mà không ngồi dậy được, hai năm sau thì chết. Từ đấy Lái Lự sống độc thân tuy mới xấp xỉ tứ tuần.

Nghề buôn trâu vào những năm tao loạn chẳng kiếm được là bao. Sẵn có vốn trong tay lái Lự chuyển sang buôn gạo và hàng tạp hoá. Tuy đã mấy lần lên voi xuống chó, có bận phát tán gần hết cơ nghiệp nhưng vốn khôn ngoan lọc lõi và giỏi kinh doanh, gần đây lão đã trở thành người có máu mặt nhất ở kẻ Bòng. Tận nơi sâu thẳm nhất trong tâm hồn, nhất là những lúc cô đơn, lái Lự vẫn còn một khoảng giành cho người con gái năm xưa. Từ khi Khúc Đàm chết, con gái trốn khỏi làng Cùa, lái Lự không dám sang sông nhưng vẫn theo dõi số phận mẹ con bà Hai. Những tưởng hai người không bao giờ gặp lại nhau và mối tình cuồng dại năm xưa chỉ còn là một kỷ niệm buồn, chẳng ngờ gần đây mẹ con bà ấy lại kéo nhau về quê ngoại.

Sau hôm giỗ đầu cụ Khán, lái Lự nhào bột nếp, nhuộm phẩm nặn một rổ con giống tò he mang sang làng Nội cho lũ cháu bà Hai. Thằng Khải và thằng Nghiên thích lắm, đòi theo về kẻ Bòng để ông Lái dạy nặn Quan Vân Trường cầm Thanh Long đao cưỡi ngựa Xích Thố và Tôn hành Giả vác gậy như ý đánh Bạch Cốt Tinh. Lái Lự bảo :
- Được rồi, nhưng ông muốn bà và mẹ các cháu về bên ấy luôn thể. ý mẹ con bà thế nào ?
Bà hai đã nghe lái Lự nói đi nói lại chuyện này nhưng vẫn còn dùng dằng chưa quyết :
- Tôi cứ thấy nó thế nào ấy. Thời trẻ chẳng ở được với nhau, giờ hai thứ tóc lại về bên ấy, làng nước người ta bảo già còn theo trai.
- Đấy là lỗi ở tôi. - Lái Lự chợt lặng đi một lúc rồi mới nói tiếp bằng giọng quả quyết -Bây giờ tôi một thân một mình, buồn lắm, mong mẹ con bà cháu sang cho vui cửa vui nhà trước khi nhắm mắt về với tổ tiên.
- Giá ngày ấy ông cứng cáp lên một tí thì bây giờ đâu đến nỗi.
- Chuyện cũ qua rồi, nhắc lại làm gì … Lái Lự thở dài khẽ bảo - Bà không thương tôi sao ?
-Nhưng còn mẹ con nó ?
- Tôi coi chúng như con cháu. - Lái Lự ngước nhìn hai thằng con Khúc Thị Hài đang vặt những quả chuối tò he đưa lên miệng nhấm nháp cho dù chúng đã bảy tám tuổi, mỉm cười bảo - Gì thì gì, tôi với gia đình bên ấy vẫn là chỗ thông gia, có điều con Lánh ăn ở chẳng ra gì, làm mất mặt cả họ.

Bà Hai có vẻ chưa xuôi :
- Ông cứ để tôi tính xem sao đã. Chuyện này còn có chỗ không thuận.
Lái Lự là người có tính kiên nhẫn mà vẫn phải gắt lên trước thái độ lừng chừng của bà Thoả :
- Bà nghĩ xem, từ hồi cụ Khán mất, họ Phùng đối xử với mẹ con bà như thế nào, nhất là tay phó lý Tài. Trước sau rồi chúng nó cũng cướp trắng cơ ngơi này, đuổi mẹ con chị Hài ra khỏi làng một khi bà nằm xuống. Hãy nghe tôi, về kẻ Bòng.
- Nhưng còn ông cụ bà cụ, tôi bỏ đi ai hương khói ?
- Con cái ở đâu bố mẹ ở đấy ! Họ hàng nhà bà toàn một lũ đểu, tham ăn như chó đói. Chúng muốn là muốn mảnh đất này chứ đâu phải có lòng hiếu đễ. Theo tôi, ta nên rước các cụ sang bên ấy. Hằng năm tôi sẽ đưa bà với mẹ con con Hài về tảo mộ.

Đầu tháng Mười, bà Hai và mẹ con Khúc Thị Hài theo lái Lự về kẻ Bòng. Năm ấy trời rét sớm. Gió bắc rít từng cơn quần đảo điên loạn trên những thửa ruộng đã cày ải phơi màu vàng sậm. Đây đó những mô rạ chưa kịp chuyển về làng, bị những trận cuồng phong giận dữ cuốn lên cao, xé tung ra, đẩy giạt về phía cồn Vành tạo thành một khối hỗn độn mù mịt thứ bụi trắng đục như bột phấn. Đi giữa cồn Vành có thể nghe rõ tiếng gió đập vào những tàu lá chuối phành phạch như là tiếng quạt mo của lão vệ Hạch bợm rượu vào một đêm bức bối đã chót quá chén. Những tàu lá chuối cách đấy ít lâu còn xanh mướt như ngọc tuyền thuỷ giờ xác xơ, bầm dập. Chỉ còn có cỏ là xanh, cỏ mần trầu, cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ chân chim vẫn mơn mởn trên đất phù sa. Phải tìm đến khu gò cao, dọc theo cánh bãi trồng ngô mới gặp vài đám cỏ mật. Trẻ trâu chỉ cần một một cụm bỏ vào túi, khi cỏ héo đi chính là lúc hương thơm và mật ngọt toả ra ngào ngạt, vài ngày sau vẫn còn phảng phất vị nồng nàn, quyến rũ của đồng quê. Cồn Vành lúc này vắng bóng hoàn toàn lũ chim nước. Từ cuối tháng chín chúng đã bay về phương Nam tránh rét. Thỉnh thoảng còn lại vài con sáo đen, chèo bẻo hoặc sẻ đồng vốn đã quen với cái lạnh cắt da cắt thịt của những ngày mưa phùn, gió bấc. Lũ sáo đen mỏ ngà cứ tầm trưa khi nắng hửng lên một lúc là chạy lui cui giữa những vồng ngô non mổ cào cào châu chấu. Chèo bẻo thì luôn luôn bám sát đàn trâu, nhảy thoăn thoắt trên lưng trên cổ chúng mà bắt rận. Bọn trẻ đôi khi tết thòng lọng bằng lông đuôi trâu hoặc dùng nhựa dính được vài con.Chèo bẻo bé tí tẹo có cái mỏ ngắn chân mảnh như que tăm nhưng tiếng hót cực kỳ hấp dẫn nhất là lúc bay chấp chới trên cao. Sẻ đồng chẳng biết rét là gì, tụ tập hàng đàn trên những ruộng kê vừa thu hoạch nhặt những hạt rơi vãi. Mỗi khi chúng bay lên, cánh đập ràn rạt ào qua như một đám mây. Thấp thoáng dưới ruộng đỗ, ruộng vừng là lũ chim xanh từ mãi vùng Yên Hưng bay về. Chúng to bằng cỡ chim cu và cũng như chim cu có cái cổ cườm óng ánh tuyệt đẹp nhưng không biết hót. Mỗi khi gọi nhau cổ họng chúng chỉ phát ra những tiếng "tích tích" rồi lại "tà tà" như là hiệu thính viên gõ cần ma níp. Làng Bòng có những thợ săn vô công rồi nghề chuyên dùng lưới bẫy những chú chim xinh đẹp này về băm viên nướng chả nhắm rượu. Nhưng loài chim xanh vô cùng tinh khôn. Chúng ít khi bị mắc lừa bọn sát thủ ngay cả khi có chim mồi. Có thể xem đây là loài chim không bao giờ phản bạn cho dù sắp phải lên "đoạn đầu đài". Chuyện xảy ra với lão Chi méo cách đây ít lâu. Chẳng biết bằng cách nào, hôm ấy Chi méo bẫy được một mẻ tám con. Lão nhắm rượu sáu, còn để lại hai làm chim mồi. Lão tin chắc, không chóng thì chày, thế nào cũng bắt đến con chim xanh cuối cùng một khi trong tay đã có "át chủ bài". Lưới được giăng ra và nguỵ trang bằng những cành móc lá còn xanh khéo đến mức ngay cả con người cũng khó phát hiện được. Đôi chim mồi bị buộc dây vào chân cứ nhảy nhót liên tục như đang mổ thóc ăn. Chừng nửa buổi thì đàn chim xanh khoảng vài chục con từ phía núi Phượng Hoàng bay về. Chúng lượn vài vòng rồi từ từ đáp xuống. Đúng vào lúc ấy con chim mồi gáy lên mấy tiếng "tích tích tà tà". Chẳng hiểu tiếng hót ấy bao hàm tín hiệu gì mà cả bầy chim vừa sắp tiếp đất lại cuống cuồng bay vút lên, chỉ một thoáng đã mất hút vào dãy núi xa mờ. Những lần sau Chi Méo đặt bẫy sự việc cũng diễn ra y hệt như thế. Lão tức lắm, vặn cổ đôi chim rồi vác lưới thất thểu về làng.

Vào lúc chiều tối, tuy rét mướt nhưng thỉnh thoảng vẫn gặp những con cò già lẻ loi kiếm ăn dưới chân rộc còn sót lại sau mùa lũ chưa kịp khô hết nước. Chúng sục mỏ xuống bùn bắt đám tôm rảo, tép gạo hoặc cá đòng đong, Bọn này bị sặc , chạy quáng quàng tìm cách thoát khỏi hai gọng kìm của kẻ thù truyền kiếp. Có con hoảng quá nhảy cả lên bờ. Lão cò già cổ ngẳng trụi sạch lông điềm tĩnh mổ từng con một, cần mẫn, chính xác và tàn nhẫn cho đến khi hoàng hôn đổ xuống thì bay lên cây gạo gần đấy nghỉ qua đêm.

Chiều hôm ấy lái Lự tiếp đãi mẹ con bà Hai bằng món gà luộc chấm muối ớt lá chanh và thứ đặc sản chim xanh băm chả nấu với mướp hương. Buổi tối cả nhà ngồi quây quần quanh bếp lửa ăn ngô rang. Khúc Thị Hài có ngón nghề rang ngô bằng cát sông Lăng, hạt nào cũng nở bung, trắng như hoa huệ. Ngô kẻ Bòng vừa dòn vừa thơm, lão nhai rau ráu, thỉnh thoảng lại bốc cho bà Hai một nắm. Hai thằng cháu ngầm đưa mắt cho nhau tủm tỉm cười. Lái Lự bảo Khúc Thị Hài:
- Mấy hôm nữa phải cho anh em thằng Khải đi học. Bác đã nói với ông giáo Đằng nhận chúng vào lớp đồng ấu.
- Thời buổi này học hành mà làm gì hả ông ? - Bà Hai bàn - Hay là ông mua lấy con trâu cho chúng nó vừa chăn vừa đánh giậm kiếm cá.
Lái lự lắc đầu:
- Học chữ thời nào cũng cần mà có chữ là có tiền. Tôi đã từng tiếp xúc với một ông tham lục lộ, nhà giầu nứt đố đổ vách.
- Nhưng cũng cứ mua lấy con trâu để ngoài giờ học chúng đi chăn.
- Được, với một lái trâu như tôi, việc ấy có gì khó, chỉ sợ hai thằng mải chăn trâu đúc dế chểnh mảng sự học.
Khúc Thị Hài đưa mắt cho con, hai thằng chắp tay thưa:
- Chúng cháu thích học lắm, không mải chơi đâu ông ạ.
- Thế thì được, đợi qua tết, ông sẽ mua một con trâu tơ sừng ấu cho mà cưỡi.

Mấy hôm sau, trời vẫn rét đậm. Nửa đêm gió lạnh quất ràn rạt trên mái nhà như sắp có bão. Lái Lự đang mơ mơ màng màng giữa đống chăn bông to sụ chợt có tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Lão tỉnh giấc nhưng vẫn nằm yên nghe động tĩnh.
Tiếng gõ lần này gấp gáp. Lão chần chừ một lúc rồi mới đứng lên rón rén lại gần cửa hỏi khẽ:
- Ai đấy ?
- Ông Lái cho tôi vào với, ngoài này rét lắm.

Tiếng thì thầm nghe rất quen nhưng lái Lự chịu không thể đoán được ai. Không lẽ lại là cướp. Thế này thì nguy quá. Lão thoáng nghĩ. Mình mới đưa mẹ con bà ấy về đây được ít ngày, chúng mà khoắng sạch thì phen này …
- Làm ơn mở ra ông Lái... - Tiếng người bên ngoài vô cùng khẩn thiết.
"Chắc không phải cướp. - Lái Lự tự trấn an mình - Nhưng phải thử xem đã. Thời buổi này trộm cướp như rươi. Chúng nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lừa gạt dân lành".
- Thưa các quan, nhà này chẳng có gì đâu ạ ! - Lái Lự làm ra vẻ thiểu não - Cách đây ít lâu tôi bị chúng nó lừa mất sạch cơ nghiệp rồi. Mời các ngài sang nhà phó lý Uông. Ông ta vừa bán ao cá mè.
- Ông Lái mở cửa ra. Tôi là Khoá Kiệt đây mà, không phải kẻ cướp đâu ?
- Hả ? Ông là Khóa Kiệt làng Cùa ?
- Tôi đây chứ còn ai.
- Chết thật, sao không nói ngay từ đầu làm tôi hết cả hồn.

Cửa mở, Khoá Kiệt lẻn vào nhanh như một bóng ma rồi đóng sập hai cánh lại. Dưới ánh đèn dầu tù mù, quả thật chủ nhà không thể nhận ra cố nhân trong lốt một gã đàn ông cao lêu nghêu với khuôn mặt hốc hác như đói ăn lâu ngày và chòm râu dê rối tung chẳng khác gì đám rễ bèo tây phơi nắng. Người Khoá Kiệt gần như ướt sũng, chân tay ông ta tê cứng, toàn thân run rẩy nên tiếng nói ngọng nghịu khác hẳn một ông khoá vẫn cao giọng bình những bài văn xuất sắc của đám học trò hồi còn ngồi dạy học ở làng Bòng.
- Bác ở đâu về đây ? Hình như là người ta vẽ hình bác dán ở chợ Cháy.

Tôi vừa kiếm được chiếc thuyền vượt sông Lăng, gần sang đến bên này, gió mạnh quá thành ra bị lật, xuýt chết. Bác còn gì ăn được không ?
- Có lưng nồi cơm nguội với ít rôm rang. Để tôi gọi bà ấy.
- Xin bác đừng để người nhà biết. Nói thật tôi mới từ Ba Tổng sang đây. Nhà chức trách phủ Đông Giàng và cả huyện

Nam Thành đang có lệnh truy nã.
- Nghe nói quân áo Đen của bác mạnh lắm, đánh được cả Nhật phải không ?
- Chuyện dài lắm, lúc nào thư thả tôi kể bác nghe - Khoá Kiệt vừa nhai trệu trạo vừa lấm lét nhìn trước nhìn sau rồi hỏi:
- Chắc bác mới tục huyền ?
- Sao bác biết ?
- Là tôi đoán thế vì bà nhà mất đã gần chục năm nay mà bác vẫn độc thân.

Lái Lự thì thầm:
- Vì một lời hẹn ước ngày xưa, là vì tôi phụ người ta nên bây giờ nói mãi mẹ con bà ấy mới chịu về đây.
- Bà ấy ở làng nào ?
- Bên kẻ Nội. Người ấy ông biết quá còn gì ?
- Thú thật, những năm qua tôi theo đoàn thể hoạt động mãi bên Nam Ngạn mới về Ba Tổng nên không biết.
- Chính là Bà Thoả con cụ khán Đản.
- Là vợ hai chánh Đàm phải không ?
- Thì đã sao ? - Lão lái trâu có vẻ không hài lòng với câu hỏi bất ngờ của ông chỉ
huy đội quân áo Đen. - Ông ta đã chết còn bà cả Huê thì đuổi mẹ con người ta ra khỏi nhà, bác xem còn gì là tình người.
Khúc Kiệt đã ăn xong, chiêu một ngụm nước vối trong chiếc bình tích rồi thong thả bảo:
- Cả nhà chánh Đàm chỉ có mỗi mẹ con bà Hai là người tốt. Làm nghề buôn bán mà có tấm lòng độ lượng như bác không nhiều. Tôi phục đấy.
- Bác quá khen - Lái Lự nhún nhường - Thời buổi loạn lạc chẳng biết sống chết ra sao. Thôi thì mỗi người dựa vào nhau một chút may ra qua được cơn binh lửa. Mà này, còn một chuyện tôi muốn hỏi. Gia đình bác sau trận Nhật kéo quân về làng Cùa có bình yên không ?

Khúc Kiệt lắc đầu, mặt khó đăm đăm:
- Bác biết rồi đấy, giặc Nhật đốt nhà giết người, chưa đầy một ngày một đêm làng Cùa mất hơn bẩy chục nhân mạng. Nhà tôi bẩy người, còn ba mà thằng lớn lại bỏ đi.
- Bây giờ bác định thế nào ? hay là tạm lánh sang bên này ít bữa, đợi tình hình lắng xuống rồi hãy về?

Khúc Kiệt bảo:
- Vẫn còn những cơ sở quần chúng đáng tin cậy ở vùng Ba tổng, nhưng bọn Nhật và lũ tay sai dán hình tôi khắp nơi, treo thưởng cho ai bắt được hoặc chỉ ra nơi ẩn náu nên mới phải vượt sông ban đêm.
- Thế thì cứ ở nhà tôi một thời gian. Làng này hẻo lánh, ít kẻ rình mò, không ngại.

Khúc Kiệt trong lòng vô cùng cảm kích đảm khí của lão lái trâu nhưng dù sao cũng cần phải nhắc ông ta cẩn trọng:
- Chuyện này can hệ đến cái sống cái chết của cả nhà, mong hãy giữ kín cho, sau này Cách mạng sẽ không quên ơn. Tôi cũng chỉ dám nhờ bác vài ngày thôi.
- Tôi sẽ dẫn bác đến trú tạm ở dãy buồng trâu ngoài đầm Vực. Chỗ ấy an toàn lắm.

Khoảng canh ba, Lái Lự lấy cho Khúc Kiệt bộ quần áo nâu, thêm chiếc áo bông chần và chiếc khăn phu la rồi dẫn ông ta ra bờ đầm. Lúc này gió đã bớt gào thét nhưng trời vẫn lạnh hun hút. Đầm Vực chìm trong màn đêm dày đặc. Một chàng dế non có lẽ mới ra ở riêng gáy ke ke. Tiếng gáy yếu ớt lập tức bị lẫn vào tiếng sóng. Những con sóng nhỏ lăn tăn gối lên nhau, bị gió cuốn vào bờ phát ra thứ âm thanh oàm oạp chẳng khác gì đứa trẻ vừa tắm vừa lấy bàn tay vỗ nước nghịch trong chậu. Trên cành cây xương cá, một con gà nước ngủ gật bỗng giật mình, vỗ cánh phành phạch, kêu toáng lên khiến mấy chú bồ chao đậu trong đám dây chạc chìu nháo nhác, làm rối loạn cả đầm nước vốn đang vô cùng yên tĩnh. Thì ra nó ngửi thấy mùi cáo. Con cáo xám có cái đuôi dài như bông lau lặng lẽ luồn dưới đám cây gai lúp xúp, hy vọng kiếm được miếng gì đó cho vào bụng vì đã gần một tuần nay trời rét như cắt, nó phải nhịn đói.

Khoá Kiệt nằm trên chiếc ổ rạ trong dãy chuồng trâu bỏ hoang ngay sát bờ đầm, mệt quá, ngủ thiếp đi. Lúc tỉnh dậy đã quá trưa, xung quanh không một bóng người. Ông ta vươn vai đứng dậy định ra ngoài đi tiểu nhưng chợt nhớ là mình đang lẩn trốn nên đành phải vào góc nhà. Khi quay về ổ Khúc Kiệt mới nhìn thấy bình soạn cơm, cái liễn sành đựng thức ăn và quả bầu khô đựng nước chẳng biết lái Lự mang ra từ lúc nào. Ông ta ăn cơm và bất giác nhớ lại những ngày qua.

Đêm ấy, sau khi rút khỏi đình Cả, đội quân áo Đen chỉ còn lại hơn hai chục người kể cả những anh em bị thương, thoát ra được đầm Ma rồi lần vào rừng Hóp. Dân làng Cùa lúc đầu ủng hộ Khúc Kiệt đấu tranh chống sưu cao thuế nặng. Bà con tỏ ra hoan hỷ khi thấy đội quân áo Đen đánh bại một cơ lính của Triều đình, nhưng đến khi quân Nhật về giết người , đốt nhà, hãm hiếp phụ nữ thì họ lại coi ông ta như kẻ thù. Cánh chức dịch còn sống sót sau trận huyết chiến giữa Khúc Kiệt và bọn giặc Lùn, vừa sợ vừa ghét vị thủ lĩnh áo Đen. Biết thừa ông ta đang lẩn trốn trong rừng Hóp nhưng không một ai dám dẫn tuần đinh lên vây bắt hoặc bẩm báo phủ Đông Giàng. Cái chết của phó lý Dần và chánh tổng Cao Lộng là bài học đắt giá cho những kẻ mất hết lương tri, bán rẻ nhân phẩm của mình, làm hại đồng bào. ở trong rừng đến ngày thứ sáu, mọi người đói vàng mắt vì không tìm được cái ăn ngoài thứ măng hóp vừa đắng vừa chát. Bây giờ không phải mùa chim làm tổ, thỉnh thoảng mới tóm được con giẽ giun, thịt dai ngoách, chỉ ngửi đã lợm giọng. Tình hình lúc này rất căng nhưng không thể ngồi chờ chết. Khúc Kiệt tập trung anh em khai hội. Một hội viên người tổng Bạch Sam bàn:
- Theo tôi ta nên vượt sông Lăng, bên ấy tương đối yên ổn, dễ gây dựng cơ sở.

Quách Thịnh bảo:
- Kẻ Bòng, kẻ Nội không phải địa bàn hoạt động của chúng ta, lớ ngớ là bị bọn chức dịch tóm nộp cho Nhật lấy tiền thưởng. Ai sang thì sang chứ tôi không bao giờ.

Khúc Kiệt bó gối nhìn hết lượt anh em mắt lim dim như là sắp ngủ, nhưng thực ra ông ta đang tính toán phương án có lợi nhất cho những hoạt động tiếp theo :
- Bây giờ tôi đề nghị anh em thế này. mọi người tạm thời về địa phương mình, bí mật vận động bà con chống chủ trương mua thóc tạ và nhổ lúa trồng đay của Nhật. Tôi sẽ tìm cách liên hệ với cấp trên, báo cáo tình hình, vì ta mất liên lạc quá lâu, không nắm được chủ trương chung. Sau khi có chỉ thị mới, tôi sẽ thông báo lại.
Chập tối hôm ấy Khúc Văn bảo bố:
- Con chán cái trò chém giết này lắm rồi, vì bố mà gia đình ta tan nát.
Khúc Kiệt cau mặt:
- Mày nói cái gì?
Khúc Văn ngoảnh mặt lau nước mắt:
- Con đi đây.
- Đứng lại!- Ông bố quát- Ra ngoài ấy là bị chúng nó giết.
Khúc Văn thủng thẳng bước đi có vẻ như chẳng coi lời cảnh báo của Khúc kiệt ra gì. Anh ta vác khẩu súng trường đã hết đạn lên vai dò dẫm ra cửa rừng
Trận mưa bất chợt làm bầu trời bớt đi vẻ u ám để lộ ra khoảng không gian màu lam ngọc được gắn những ngôi sao bé tí xíu như hạt cườm. Một dải mây trắng mỏng giăng ngang đầm Ma, phản chiếu ánh sáng lạnh lẽo của dòng sông Ngân lúc ẩn lúc hiện như những sợi tơ trời. Trước khi sang sông, Khúc Kiệt chợt nảy ra ý nghĩ về nhà. Làng Cùa sau trận hoả hoạn hầu như không còn tiếng chó sủa. Họ Khúc lần mò chẳng khác gì tên kẻ trộm trong đêm. Toàn bộ ngôi nhà đã làm vật hiến tế cho thần lửa. Trước mắt chỉ còn là đống hoang tàn. Không có một biểu hiện nào của sự sống. Đứng lặng hồi lâu trước cảnh tang thương, Khúc Kiệt cầm lòng không đậu, đưa tay lên gạt nước mắt.
- Phải tìm Ngô Quỳnh.- Ông ta lẩm bẩm- Chỉ có hắn mới biết rõ được vợ con mình ai mất ai còn.
Lý Quỳnh đang ngồi uống rượu một mình. Nhìn thấy Khúc Kiệt, ông ta chẳng có vẻ gì là ngạc nhiên, cầm chiếc nậm cụt cổ rót rượu ra chén rồi bảo khách bằng giọng lè nhè:
- Tôi biết ông đến đây làm gì rồi. Nào, làm một tợp cho ấm bụng đã.
- Ông vẫn uống thế này à?- Khúc Kiệt đưa mắt quan sát xung quanh chiếc lều mới dựng có lẽ chỉ nhỉnh hơn gian bếp một chút- Bà ấy với các cháu đâu?
- Chết cháy cả rồi - Lý Quỳnh đã hơi say giọng méo mó - Không uống thì để làm gì.
- Biết thế sao ông lại rước bọn quỷ Lùn về?
- Lão Phủ Đông Giàng thù Việt Minh nên mới báo cho Nhật đem kỵ binh về tiêu diệt quân áo Đen. Chúng tôi là lũ thuộc hạ, ở vào cái thế trên đe dưới búa, theo các ông thì Nhật chém đầu, mà theo Nhật thì kết quả như thế này đây. Làng Cùa đến ngày tận số rồi.
- Vợ con tôi chết hết rồi phải không?
Lý Quỳnh gật đầu:
- Chỉ còn mình cô Nhân, nhưng mấy hôm trước tôi đã nhờ thằng cháu đưa sang lánh tạm bên Đậu Khê.
Khúc Kiệt lạnh lùng bảo:
- Chắc ông không định bắt tôi đấy chứ?
Lý Quỳnh lắc đầu:
- Không.
- Sao thế ?- Khúc Kiệt nói kháy- Cách đây mấy hôm ông vẫn muốn chặt đầu tôi treo lên cây gạo kia mà.
- Chém giết nhau như thế là đủ rồi. Với lại, tôi có dự cảm thời thế sắp thay đổi.
- Bao giờ con Nhân nhà tôi về đây?
- Chưa về ngay được đâu. - Lý Quỳnh định rót thêm cho mình chén nữa nhưng nậm rượu đã cạn. Ông ta loạng choạng đến góc lều xách ra một vò đậy nút lá chuối đặt trước mặt Khúc Kiệt.
- Con bé đang hoảng loạn vì cái chết của cả nhà, đưa về lúc này sợ nó nghĩ quẩn rồi làm liều.
- Thế cũng phải. Thôi thì trăm sự nhờ ông.
- Bây giờ ông đi đâu?- Lý Quỳnh nhìn Khúc Kiệt có vẻ ái ngại.
- Cũng chưa biết.- Khúc Kiệt lưỡng lự một lát rồi bảo- Có lẽ tôi sang bên kia sông.
- Chúc ông chân cứng đá mềm. Chỉ mong sau này ông có kéo quân về thì đừng tàn sát dân làng.
Khúc Kiệt nặng nề đứng dậy bước ra khỏi lều rồi lẫn vào bóng đêm. Có cái gì nhói lên trong lòng ông ta. Như vậy là Lý Quỳnh cũng mất sạch vợ con cùng cơ nghiệp, nhưng hắn vẫn còn mảnh đất dựng túp lều mà ngồi nhấm nháp chén rượu giải sầu. Còn ông ta, từ nay không nhà cửa, không người thân thích. Thằng con trai thì mất lòng tin, công khai chống lại bố, bỏ đi. Khúc Thị Nhân cũng xiêu dạt xứ người, biết bao giờ mới được gặp nó.
Đêm như loãng ra bởi từ đâu đó rất gần có tiếng chim lợn kêu. những con quái điểu này bay loạn xạ trên bầu trời làng Cùa, thả xuống thứ âm thanh chói tai giống hệt tiếng lợn bị chọc tiết. Có con táo tợn bay rất thấp. Chúng sải cặp cánh dài, trắng lốp sà sát xuống những mái nhà còn sót lại sau vụ cháy, kêu choeng choéc như là tín hiệu của quỷ sứ về bắt hồn người chết. Khắp vùng Ba Tổng không ở đâu có mật độ chim lợn, cú mèo và chó hoang dầy đặc như làng Cùa. Đến gần gò Kim Kê, Khúc Kiệt bỗng giật mình bởi những bóng lờ mờ, quanh quẩn bên cây gáo cổ thụ. Đó là đàn chó hoang mới từ rừng Hóp kéo về. Chúng khác hẳn chó nhà bởi hành tung lặng lẽ như bóng ma, gặp người không bao giờ sủa mà tìm cách lẩn vào bụi rậm. Lũ dã cẩu này có những cái nanh nhọn như nanh chó sói và cái đuôi khá dài kéo lê trên mặt đất. Chúng vô cùng điêu luyện trong nghệ thuật trộm gà và cuỗm những thứ có thể ăn được nếu gia chủ sơ ý. Một con chó vàng cụt đuôi to như con bê, hình như là đầu đàn, ẩn vào bụi dong riềng, khẽ gầm gừ khi phát hiện Khúc Kiệt đang bước tới. Cặp mắt nó bắt ánh sao đêm xanh lét. Người và vật lăng lẽ nhìn nhau mấy giây, đến khi Khúc Kiệt vung chiếc gậy tre lên, thì con chó hoang nhún chân lao vọt vào vườn chuối. Bóng của nó vẽ thành một đường vòng cung như là đang làm xiếc nhảy qua vòng lửa. Trên gò cao, cây gáo sừng sững vươn lên với những cành trụi lá như cánh tay của con quái vật khổng lồ đang dò dẫm tìm kẻ thù bằng cách cứ mỗi lúc lại dài thêm ra. Gió lạnh cọ vào những cành khẳng khiu, làm bật ra những tiếng lào thào chẳng khác gì gã chán đời thở dài.

Khúc Kiệt chậm rãi bước lên đê, quay mặt về hướng bắc đón làn gió lạnh. Đằng đông, một quầng sáng mờ mờ báo hiệu buổi bình minh bắt đầu hiện dần lên ở đường chân trời. Dãy Cổ Ngựa lô xô những chóp núi như là răng của loài khủng long thời tiền sử. Mỗi chiếc răng như thế được trang điểm bằng chiếc khăn quấn quanh, xốp và nhẹ như bông. Một con quạ đen thui có cái mỏ khoằm viền vàng, từ cồn Vành vượt sông Lăng bằng đường bay thẳng tắp như kẻ chỉ rồi đậu trên cây gáo, cất mấy tiếng rời rạc. Đã sắp rạng đông. Lúc này qua sông với Khúc Kiệt là hoàn toàn không thể. Ông ta lững thững ra điếm Bài Vân, tắt xuống cánh ruộng trũng bên đầm Ma rồi vào rừng Hóp. Trời sáng dần nhưng là thứ ánh sáng mùa đông. Không nhìn thấy mặt trời. Khắp đó đây chỉ thấy những cồn mây bị gió bắc dồn lại thành đống, xám ngoét, lạnh lẽo. Thỉnh thoảng lắc rắc vài hạt mưa. Mưa đập vào mo nang trên những cây hóp già lộp bộp giống như tiếng mõ cá bị rạn.
Sự lừng khừng không vượt sông ngay của Khúc Kiệt thành ra bất lợi. Ông ta vừa mò vào rừng Hóp được một lúc đã thấy viên phó Lãnh binh dẫn hơn chục lính khố xanh phủ Đồng Giàng cùng ba tên Nhật ra điếm Bài Vân lùng sục dọc triền sông Lăng. Suốt ngày hôm ấy Khúc Kiệt bị đói, nửa đêm đánh liều về làng. Chẳng rõ bằng cách nào lý Quỳnh biết đối thủ của mình trở lại nên đã đợi sẵn ở cổng, đưa cho ông ta mo cơm rồi nói như ra lệnh:

- Quan quân đã mai phục ở bến đò, ông không thể qua sông được nhưng phải đi khỏi làng ngay đêm nay.

Khúc Kiệt cảm động lắm, nhìn Ngô Quỳnh chớp chớp mắt:
- Cảm ơn ông Lý.

Cũng vào đêm ấy, sau khi ra khỏi rừng Hóp, Khúc Văn quẳng khẩu súng đã hết đạn xuống ngòi nước rồi lững thững đi dọc bờ sông Lăng. Dòng sông như bị co hẹp lại bởi những trận gió lạnh tới tấp tràn về. Đêm càng khuya mặt nước càng tối sẫm, không thể phân biệt được đâu là dải bờ có những bụi tre gai chắn sóng đã bị gió cào tướp ra chỉ còn trơ lại cành lởm chởm với những thân ngô đã bẻ bắp, trụi sạch lá, đâm tua tủa lên trời. Dưới sông những con sóng đuổi nhau xô vào bờ ràn rạt. Sóng bạc đầu từ cồn Vành lao như ngựa vía, vượt qua vụng Hà Bá rồi liếm vào bờ hữu ngạn tạo thành những tiếng ùng ục ghê rợn như vạc dầu âm phủ đang sôi.

Khúc Văn xuống gần mép nước. Cát ướt lạnh buốt loang khắp cơ thể. Bất chấp gió rét, hắn lội dọc bờ sông. Có những lúc hắn dẫm lên cỏ. Đó là thứ cỏ chỉ mảnh mai, vừa dòn vừa ngọt nổi tiếng ở vùng đất phù sa sông Lăng. Phía trước thấp thoáng chiếc thuyền nổi bập bềnh trên sóng được neo vào bờ bằng đoạn dây xích dài. trong thuyền không có chủ nhưng vẫn có cả hai mái chèo gác trong khoang. Khúc Văn nhìn chiếc thuyền, ngẫm nghĩ một lúc tiếp tục bước những bước chân vô định. Nhưng một ý nghĩ bất chợt làm hắn quay lại, tháo dây xích nhảy lên thuyền rồi từ từ buông chèo. Con thuyền nhấp nhô gối lên những ngọn sóng lừng lững trườn ra giữa sông. Khác với Lê Văn Vận lúc đưa bà Ba đi trốn, Khúc Văn chèo thuyền về phía ngã ba Môi hầu như không có một bến bờ nào cụ thể. Hắn lênh đênh trên sông trong tâm trạng của kẻ lãng du, muốn phó thác cả phần xác lẫn phần hồn cho Định Mệnh.

Gió đã dịu đi nhưng bầu trời vẫn cuồn cuộn những tảng mây đen nặng nề làm không gian càng về khuya càng u ám. Hiếm hoi lắm mới có được chút ánh sáng lờ mờ của một ngôi sao bất chợt hiện ra giữa kẽ nứt những cồn mây. Từ đâu đó trong những âm thanh hỗn tạp của gió và sóng hình như có tiếng nhị đang rền rĩ một điệu “làn thảm” vô cùng ai oán. Tiếng nhị lúc trầm lúc bổng, lúc khoan lúc nhặt rung lên, cứa vào lòng người nỗi niềm khắc khoải chứng tỏ một kỹ năng bậc thầy trong nghệ thuật cầm ca. Phía dưới hạ lưu, nơi nhánh sông rẽ về bến Tràng, có ánh lửa thuyền chài. ánh lửa yếu ớt cùng tiếng nhị ai oán chập chờn lan toả trên mặt nước đen thẫm càng làm cảnh vật thêm cô tịch. Lầm lũi giữa bóng đêm, con thuyền giống như ảo ảnh lênh đênh trong cõi hoang tưởng. Khúc Văn cảm giác như là cuộc hành trình của mình sắp đến bến cuối cùng. Tấm thân phàm tục đang dần dần thoát được sức nặng ràng buộc trần thế và linh hồn đang phơi phới bay lên.
Vụng nước xoáy tròn hút con thuyền bằng thứ lực hướng tâm đủ mạnh để không một vật thể nào còn nguyên vẹn khi ra khỏi vương quốc của Thuỷ thần. Hơn thế, khi nhìn thấy cái bẫy giết người hiện ra phía trước, Khúc Văn lại bất ngờ ném cặp chèo xuống nước. Trước mắt hắn dường như lấp loáng một đạo hào quang bảy sắc cầu vồng từ vụng nước xoáy vươn lên tận dải Ngân hà. Hắn nhắm mắt để chế ngự nỗi sợ hãi chợt thoảng qua rồi bình thản đến lạnh lùng với chiếc thuyền đi vào cõi vô cùng...

Từ trong chiếc thuyền câu có ánh lửa chập chờn mờ ảo như ánh lân tinh, một bóng đen bất chấp cái lạnh của đêm đông, nhảy ào xuống nước. Chỉ vài sải tay, người đàn ông kéo nhị hồi đêm đã xốc nách lôi được chàng trai họ Khúc lên thuyền. Cũng không lâu lắm, sau khi được người thuyền chài làm thủ thuật cứu chữa, Khúc Văn tỉnh lại. Đó là một ông già xấp xỉ lục tuần nhưng dáng vóc còn tráng kiện lắm, nhất là đôi mắt có cái nhìn đầy vẻ giễu cợt. Lúc đưa cho Khúc Văn chén nước nóng pha mấy lát gừng, ông già nheo mắt như là đọc được tâm trạng hắn:

- Cậu còn lắm nghiệp chướng, chưa thể làm thần dân của Hà Bá được. Số cậu là số thiên di. Cuộc hành trình tuy có nhiều gian nan nhưng sau này sẽ được mở mặt với đời.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
11-13-2015, 01:56 AM
Chương 6

1. Hơn một năm sau, Khúc Thị Nhân mới từ Đậu Khê về làng Cùa. Đậu Khê là quê ngoại Khúc Kiệt. ở đấy ông ta còn một bà chị họ góa chồng. Nhìn thấy cô, Khúc Luận lúc ấy chưa đầy mười ba tuổi nhưng đã thấy xốn xang trong lòng. Những biểu hiện giới tính của cậu ta phát triển quá sớm mà con gái ông chú thì lại đẹp rực rỡ như một bông hoa đồng nội còn hàm tiếu dưới nắng ban mai. Khúc Luận học trường huyện trông đã ra dáng một gã choai choai. Dạo này cậu ta đang được nghỉ Hè, ngày nào cũng sang nhà Nhân giúp cô dọn dẹp.

Việc dựng túp lều đối với Nhân phức tạp hơn cô nghĩ vì không những thiếu vật liệu cần thiết mà bản thân cũng chưa từng làm quen với loại công việc này. Khúc Luận là chàng công tử bắt cào cào châu chấu, nghịch ngợm thành thần, nhưng để trở thành thợ mộc, thợ đấu hoặc lợp nhà thì xem ra còn tốn nhiều thời gian và cơm gạo. Lúc đầu Nhân nghĩ Khúc Luận có lòng tốt, thương cô em họ gặp hoạn nạn, nhưng dần dần thấy cậu ta có những biểu hiện của một kẻ si mê mình thì bảo:
- Từ mai anh phải ở nhà học, cứ lêu lổng là bác Cả đánh đòn.

Khúc Luận cười lấy lòng:
- Bây giờ đang nghỉ hè bài vở có gì đâu.
- Nhưng anh cứ sang bên này làm quẩn chân tôi.
- Nhân đuổi đấy à?
- Không dám.

Vào lúc ấy lý Quỳnh sang. Nhà lý Quỳnh với nhà Khúc Kiệt cách nhau không xa. Từ hồi mất cả vợ lẫn con, ông ta hay uống rượu rồi la cà khắp nơi trong làng. Nhìn thấy Ngô Quỳnh, Khúc Luận tức lắm, cậu ta “hứ” một tiếng rồi về, chẳng thèm chào một lời. Sáng hôm ấy, Nhân tắm sớm, chưa kịp mặc yếm thì Khúc Luận đã sang, đành phải khoác tạm chiếc áo cánh nâu, thành thử mỗi cử động, cặp vú tròn căng như hai trái dừa xiêm đánh đu trước ngực vô cùng khêu gợi. Thoáng nhìn cặp vú trinh nữ, người Ngô Quỳnh phút chốc như nổi gai. Ông ta cảm thấy phía trước như có dải sương mù chắn mất tầm nhìn. Trong cái khối bùng nhùng màu trắng đục như khói ấy hình như có mùi mồ hôi ngai ngái cùng với hương bồ kết nồng nồng từ mái tóc óng như mây chiều và chút sữa hoi hoi thấm qua lần áo mỏng. Ngô Quỳnh hít một hơi dài giấu vẻ lúng túng bởi những liên tưởng hoàn toàn không tương xứng với tư cách của một ông lý trưởng xấp xỉ ngũ tuần, rồi mới ngập ngừng bảo:
- Tôi sang giúp cô làm lại gian nhà.

Nhân giẫy nảy lên:
- ấy chết ! Ông Lý còn bận việc dân việc nước, nhà cháu không dám phiền.
- Có gì đâu mà phiền. - Lý Quỳnh xắn tay áo vào việc rất tự nhiên - Là người làng với nhau, hơn nữa cô bây giờ chẳng còn ai ở nhà, phận gái không nơi nương tựa tôi ái ngại lắm.
- Xin nhận tấm lòng của ông Lý, còn công việc thì cháu cũng làm được mà.
- Cô đừng khách sáo quá. Tôi chỉ có một mình, nhiều lúc buồn lắm, nên thỉnh thoảng cũng muốn giúp bà con trong làng cho khuây khoả.

Hơn hai mươi năm trước, Lý Quỳnh đã có một thời oanh liệt. Thuở nhỏ, gia đình ông ta tuy không thuộc loại khá giả nhưng cũng được bố mẹ cho đi học chữ Nho với ông cả Thuyết là bố đẻ ra đồ Sách bây giờ. Ngô Quỳnh đẹp trai mà lại ngỗ nghịch có tiếng rất hay bị ông trương Phẩm đánh đòn. Ông Phẩm thửa chiếc roi mây to bằng ngón tay giắt mái nhà, lôi thôi là vụt tối tăm mặt mũi. Nhiều lần Quỳnh bị thâm tím cả người, nhất là hai mông đít nhưng chứng nào vẫn tật ấy. Năm mười bốn mười lăm tuổi, cậu ta hay đánh giậm ở ngòi Mác. Đây là con lạch bắt nguồn từ cánh đồng Mả Dứa chảy vòng vèo qua xóm Trại Cá rồi đổ vào đầm Ma, rất nhiều tôm rảo, tép gạo và cá lòng cò. Tôm rảo nhỏ nhưng chắc thịt, nhảy tanh tách, mỗi mẻ quờ được hàng chục con. Thứ này rang khô, cho thêm thìa mỡ và chút đường ăn với cơm rau muống luộc cả tháng không biết chán. Cá lòng cò vào dịp tháng sáu ta, con nào cũng mang trứng, bụng phình ra tròn ung ủng. Chúng kéo hàng đàn hàng lũ, ngược dòng nước lờ lờ, thỉnh thoảng lại nghiêng mình phô ra những lớp vẩy bé tí xíu óng ánh như kim tuyến. Người làng Cùa thường nấu cá lòng cò với khế hoặc lá me ăn kèm rau ghém thái bằng cây chuối non hay rau muống chẻ. Cây me nhà ông Đà xóm Cầu Đá cao chót vót, chẳng biết được trồng từ bao giờ, chuyên cung cấp lá cho cả làng. Dưới gốc có ngôi miếu nhỏ thờ Mộc Thần. Trước khi leo lên vặt lá, ai cũng vào khấn mấy câu để thần phù hộ khỏi ngã.

Lúc ấy đã quá trưa, Ngô Quỳnh giặt giậm, leo lên bờ bắt những con đỉa bám vào chân vứt xuống ruộng. Trời oi nồng như sắp có giông. Khắp nơi đồng không mông quạnh. Hắn quàng mõ giậm vào cán, đặt lên vai rồi thủng thẳng về. Trên gò Mả Dứa hình như vẫn còn người lúi húi cắt cỏ. Khu mả Dứa nổi tiếng lắm rắn. Không biết đứa nào mà gan thế, dám ra đây giữa trưa. Gọi là mả Dứa vì đấy là một khu gò cao hơn mặt ruộng, chung quanh mọc toàn dứa dại đầy gai nhọn, là nơi tá túc của đủ loại từ cầy cáo, chuột, rắn, mèo hoang đến châu chấu ma, cào cào lửa và cà cộ. Dứa mọc chen chúc thành những bụi to tướng, cao lênh khênh, rậm rạp như một khu rừng rất bí hiểm đối với những kẻ giầu trí tưởng tượng. ở giữa vành đai dứa dại ấy là những vạt cỏ chỉ và cỏ xước xanh mướt, cao đến đầu gối.

Nhìn thấy cô gái thấp thoáng giữa bụi dứa dại, Ngô Quỳnh chợt sáng mắt lên. Hắn vốn là gã có máu phong tình, sớm đến tuổi dạy thì, liền quẳng giậm và giỏ cá rồi cúi thấp người bò lên gò, luồn qua những gốc dứa như con mèo rình mồi. Gần đến nơi, Ngô Quỳnh mới biết đó là cô Son con ông Bảy Ngạnh. Son chưa đầy mười bẩy nhưng cặp vú bánh dày nhô lên làm cả khuôn ngực chật căng trong chiếc áo cánh nâu non. Cô nàng lê la dùng liềm lia từng nhát xén cỏ xoàn xoạt, thỉnh thoảng nhổm người vơ thành đống xếp vào quang làm cặp mông vổng lên đong đưa đầy khêu gợi. Gã đánh giậm nhìn cô gái một lúc, nước bọt chảy tứa ra hai bên mép. Hắn chịu không nổi nữa bèn nhào đến ôm cô ta từ phía sau lưng. Cô Son giật mình tưởng là ma, mặt tái xám, không kêu được một tiếng. Ngô Quỳnh chẳng để mất thời gian, dằn ngửa cô nàng ra, luồn tay vào trong váy sờ soạng. Lúc này cô gái đã hiểu ra khi thấy thằng con nhà trương Phẩm đang loay hoay trên bụng mình. Cơn sợ hãi đã qua, phản ứng tự vệ trở lại, trong tay sẵn chiếc liềm, cô ta liền bổ một nhát vào mặt thằng đánh giậm. Ngô Quỳnh nghiêng đầu tránh được cú đòn trực diện, nhưng mũi liềm sắc cắm vào dưới màng tai làm hắn rú lên, trườn khỏi bụng cô cắt cỏ, lấy hai tay bịt vết thương lăn lộn giữa đám cây bạc hà dại. Nhìn thấy vết máu nhoe nhoét trên cổ thằng đánh giậm, cô Son đâm hoảng, bỏ cả quang gánh, cầm chiếc liềm chạy một mạch về nhà, chui vào buồng khóc, bố mẹ hỏi cũng không nói. Thấy con gái có cử chỉ khác thường, ông Bẩy Ngạnh tra hỏi mãi cô Son mới thú thật sự việc trên gò Mả Dứa. Bà mẹ gầm lên:
- Nó đã làm gì mày chưa ?

Cô con gái vẫn tấm tức khóc. Ông bố quát:
- Tao hỏi, nó đã làm gì mày chưa ?
- Đã bảo là chưa. - Cô Son cũng vặc lại - Con đã cho nó nhát liềm vào cổ chẳng biết sống chết ra sao. Con sợ lắm thầy u ạ.
- Giời ạ ! Con mới chả cái - Bà mẹ rên rỉ - Chẳng may xảy ra án mạng thì tù mọt gông.

Ông Ngạnh vớ chai rượu, tu một ngụm, lấy ống tay áo quệt ngang miệng, mắng vợ:
- Cái thằng chó dái ấy chết là đáng đời. Bây giờ tôi phải đến nhà trương Phẩm báo cho lão ra lôi thằng con về. Cái Son ở nhà. Từ nay không được ra Mả Dứa cắt cỏ nữa.

Vết thương ở cổ không nặng lắm nhưng chuyến ấy Ngô Quỳnh bị nện một trận thừa sống thiếu chết. Ngay chiều hôm ấy, ông Phẩm quẳng cho hắn mấy bộ quần áo rồi tống ra khỏi nhà. Về phần mình, chàng đánh giậm cũng thấy như thế là quá nhục không còn mặt mũi nào ở lại làng đành chấp nhận kiếp sống tha hương. Cuộc ra đi của Ngô Quỳnh tuy không có người áp giải nhưng chẳng khác gì cảnh lưu đày. Hắn khoác khăn gói, đầu cúi gằm lùi lũi bước đi trước con mắt dè bỉu của những kẻ hiếu sự thập thò trong cổng. Cứ nghĩ đến những ánh mắt như lưỡi dao lá lúa xuyên thấu vào da thịt, Ngô Quỳnh vừa hổ thẹn vừa căm thù. Các người cứ cười đi rồi đến lúc phải khóc cho mà xem. Ngô quỳnh ta thề sẽ trở về trả mối hận này. Con đĩ Son hãy coi chừng. Mà việc đếch gì phải xấu hổ. Cái khác nhau chỉ là ở chỗ bọn họ sờ mó nhau ban đêm, còn ta công khai việc ấy giữa thanh thiên bạch nhật mà thôi. Nghĩ như vậy Ngô Quỳnh bất giác bật cười. Tiếng cười của hắn vừa ngạo nghễ, vừa giầu sức truyền cảm, lan khắp các ngõ xóm trước khi ra bờ sông Lăng, khiến người làng nghĩ hắn là một thằng điên.

Đêm hôm ấy, Ngô Quỳnh ngủ trong một bãi chuối ven sông cách làng Cùa khá xa. Hắn thu gọn lá khô dồn thành đống rồi chui vào đánh một giấc. Nửa đêm tỉnh dậy vì có tiếng cú rúc ngay bên cạnh, hắn bực mình nhưng không thể nào ngủ lại được. Hắn bắt đầu ân hận bởi hành động ngu xuẩn của ngày hôm trước. Tâm trạng đã trở lại cân bằng. Hắn phải thừa nhận mình đã dại dột làm một việc vô luân, bôi do trát trấu lên mặt bố mẹ. Lúc này Ngô Quỳnh rất muốn, tất cả những chuyện ấy chỉ là một giấc mơ. Nó không có thật và rồi chừng một hai canh giờ nữa hắn lại về làng Cùa, buổi sáng đến trường nghe thày Cả Thuyết giảng Kinh Thi chiều lại vác giậm ra đồng kiếm cá. Cuộc sống thật thanh bình và làng Cùa cổ lỗ, lạc hậu, lắm hủ tục kia đẹp biết nhường nào. Bất giác Ngô Quỳnh sờ tay lên cổ. Vòng vải diềm bâu băng vết thương vẫn còn đó,đau rát, thỉnh thoảng lại cắn nhói một cái, may mà nó chỉ sâu nửa đốt ngón tay, không vào chỗ phạm. Mũi liềm cắt cỏ của con nặc nô ấy bổ lệch một chút vào yết hầu hoặc trúng giữa thái dương, thì hắn đi đời.

Ngày thứ ba, Ngô Quỳnh thất thểu ở ngã ba Môi, vô kế khả thi. Hắn đói, cứ tầm chiều lại ra các bãi ngô mót những bắp kẹ sau vụ thu hoạch hoặc tìm chuối chín dọc cánh bãi sau đê. Hắn để ý thấy có chiếc đò dọc neo ở bến Tuần từ chiều hôm trước. Đó là loại thuyền gỗ nhỏ, buồm cánh dơi, chuyên chở hàng nông sản từ Ba Tổng di kẻ Sung. Chủ thuyền là anh Trác, mới khoảng ba chục tuổi nhưng chẳng khác gì ông già năm mươi bởi cái dáng lòng khòng và mái tóc sớm muối tiêu đầy vẻ phong trần. Cùng đi với anh Trác còn có chị Nhuần và cô con gái tên là Nhuỵ. Vợ Trác là người đàn bà đẫy đà còn xuân sắc nhưng chẳng hiểu vì sao chỉ sinh nở có một lần. Với sức vóc vậm vạp chị ta khênh những sọt dưa hấu hoặc bí đao xuống thuyền băng băng, khác hẳn ông chồng hom hem mỗi bước đi một bước dừng lại thở. Anh Trác bị bệnh suyễn kinh niên, công việc đò dọc là quá sức nhưng chị vợ ham làm giàu chẳng nghĩ gì đến tính mệnh của chồng. Mọi việc giao dịch mua bán đều do chị ta quán xuyến.

Dịp ấy đã qua mùa lũ, sắp đến tiết bạch lộ, cồn Láng phơi màu vàng nhạt giữa ngã ba sông. Đứng trên bến Tuần có thể nhìn rõ những vồng khoai mới trồng trên bãi phù sa giữa những bờ cỏ xanh thẫm. Hoa cứt lợn và hoa vòi voi nở lốm đốm giữa những đám tầm bóp sai trĩu quả. Quả tầm bóp bằng ngón tay cái đang độ chín, thỉnh thoảng gặp cơn heo may đầu mùa khẽ đung đưa như chùm đèn lồng bọc lụa vàng óng. Hoa bồ công anh hăng hắc như mùi lá bạc hà nở rộ trên khắp các bãi hoang. Một cây đa cổ thụ nhưng thấp lè tè đứng chơ vơ trên gò đất hình con voi quỳ cao hơn hẳn mặt cồn. Dưới gốc đa là hai gian quán, cột đá, lợp ngói mũi để vào thời vụ những người làm đồng tránh mưa nắng. Trên cao, vòm trời xanh màu lá non, một con diều đang chao lượn. Con diều khá lớn được neo bằng dây tre, đang thả vào không gian những thanh âm du dương của cặp sáo kép, nghe chẳng khác gì dàn hoà tấu của các nhạc cụ dân tộc. Nằm trên cỏ, gối đầu lên khăn gói, Ngô Quỳnh tuy đói nhưng vẫn mải mê lắng nghe tiếng sáo từ trên trời vọng xuống. Hắn nhìn con diều và ước lượng kích thước của nó, ít nhất cũng phải bằng chiếc thuyền thả lưới bén. Vào đúng lúc ấy, người thiếu phụ, vợ Trác đến bên hỏi :
- Cậu đi đâu mà nằm ườn ra thế này ?

Hắn trả lời nhát gừng:
- Chẳng đi đâu cả.
- Cậu này nói lạ - Chị ta nguýt Ngô Quỳnh, giọng hơi chua - Chắc là bị bố mẹ tống ra khỏi nhà ?
Ngô Quỳnh nhỏm dậy:
- Sao chị biết ?
Người phụ nữ cười nửa miệng:
- Trông bộ dạng cậu thì biết. Hẳn là đang đói phải không ?
- Chị đừng có nói mò. - Ngô Quỳnh bực vì bị người đàn bà bắt thóp - Việc gì đến nhà chị.
- Hỏi thế vì tôi đang cần người làm. Cậu có muốn đi đò dọc không ?
Ngô Quỳnh hỏi cộc lốc:
- Làm gì ?
- Chống sào.
Thái độ anh chàng lập tức thay đổi. Hắn vội hỏi:
- Chị thuê thật à ?
- Tôi không nói chơi. - Người đàn bà bảo - Thuyền đang ở dưới bến kia.

Coi như hôm ấy Ngô Quỳnh gặp may. Có lẽ lúc ra khỏi làng hắn vô tình bước chân phải trước. Mà cái chân phải giống như điềm lành ấy, đã phù trợ vị lý trưởng tương lai làng Cùa suốt những năm lênh đênh sông nước. Ngoài việc chống thuyền, Ngô Quỳnh còn đảm nhận chức năng khuân vác, nghĩa là bốc hàng lên xuống mỗi khi đò cập bến. Tuy mới già mười lăm nhưng sức vóc vạm vỡ, hắn bê những sọt hàng nặng vài yến chạy huỳnh huỵch suốt ngày không thấy mệt. Chị Nhuần thích lắm bảo:
- Cậu làm tốt lắm, cứ ở đây với anh chị, đừng đi đâu nữa.

Nghề đò dọc thích nhất là những lúc sóng êm gió thuận. Giữa trời nước bao la, con thuyền êm giầm, cánh buồn no gió phồng lên phơi màu nâu sẫm dưới ánh trăng vàng. Có khi mặt nước phẳng như tấm gương phản chiếu bầu trời đêm với những ngôi sao xanh, mơ hồ từ chòm Song Tử xa xôi. Những lúc thanh nhàn như thế, Ngô Quỳnh thường cùng cái Nhuỵ con gái anh Trác, ngồi trên sạp thuyền ngắm ông Thần Nông và con vịt rồi khe khẽ cất tiếng hò một điều hò sông nước. Tiếng hò của hai đứa lúc hoà làm một, lúc lại tách ra, âm vang rất xa dường như chạy mãi đến tận ngọn nguồn dòng sông. Hò chán lại lăn ra ngủ. Có lần bất chợt thức dậy, cái Nguỵ thấy bàn tay Ngô Quỳnh đặt lên ngực mình liền hất ra rồi chui vào trong khoang.

Khổ nhất là những khi ngược nước, trái gió. Ngô Quỳnh phải quàng dây thừng vào vai, chân trần, khom lưng, kéo con thuyền nhích dần từng bước men theo triền sông. Dấu chân to bè của hắn in trên lớp phù sa đỏ. Dưới thuyền, anh Trác tì sào vào ngực, chạy từ mũi đến lái, dùng hết sức bình sinh đẩy, có khi cong cả con sào. Giong thuyền ngược nước cực lắm. Nhiều khi thấy chồng mệt chị Nhuần phải làm đỡ. Chị đặt đầu sào vào bộ ngực đồ sộ, đẩy thuyền một cách kiên nhẫn. Ngô Quỳnh cho rằng cặp vú của chị có khả năng đàn hồi. Nó giống miếng đệm lò xo có khả năng co giãn làm người ta không thấy đau. Nhưng không phải thế. Thực ra chị đặt đầu sào vào hõm vai. Buổi tối trước khi đi ngủ, hắn trông thấy chị lấy rượu ngâm củ gấu Tàu bôi khắp bả vai rồi lặng lẽ xoa bóp.

Khoang thuyền chật được chia làm hai ngăn bằng vách thưng. Cái Nhuỵ ngủ với mẹ còn Ngô Quỳnh và anh Trác nằm ngoài. Những đêm mưa phùn gió bấc, anh Trác vào ngủ với chị Nhuần, cái Nhuỵ lại bò ra nằm bên cạnh hắn. Lúc phía trong có tiếng lịch kịch rồi chị Nhuần khẽ rên rỉ như là bị người ta bóp cổ hoặc thở hổn hển như sắp hết hơi, Ngô Quỳnh làm như mê ngủ luồn tay vào cái váy cái Nhuỵ. Nó cũng làm như chẳng biết gì nhưng trống ngực thì đập thon thót. Vừa lúc ấy anh Trác chui ra. Hắn hốt quá, người toát mồ hôi, lặng lẽ nhích dần vào vách thuyền.

Thời gian trôi nhanh, thấm thoắt Ngô Quỳnh đã xấp xỉ mười tám. Nghề sông nước và cuộc sống nay đây mai đó khắp các xứ đông đoài đã biến hắn thành một chàng trai thực thụ. Cái Nhuỵ cũng đã trở thành thiếu nữ . Anh Trác có ý định tác thành cho hai đứa, nhưng rồi một ngày kia chuyện không may xảy ra.

Hôm ấy, con thuyền chở nặng dưa hấu Sài Sơn đang đậu ở bến Tuần định sáng hôm sau nhổ neo về bến Phù Dung thì một cơn bão bất ngờ ập tới. Đó là con bão năm Tỵ mà cho đến giờ mọi người vẫn nhớ. Một trận gió xoáy giật đứt dây neo, đẩy thuyền về phía sông Cổ Cháy. Thực ra bão không mạnh lắm nhưng thỉnh thoảng có một cơn gió giật kinh người. Nước sông lên cao do mưa lớn ở thượng nguồn.

Con thuyền lừ lừ trôi mà không có cách gì hãm lại được. Thấy thế nguy chị Nhuần và cái Nhuỵ định ném dưa xuống sông. Anh Trác vội quát;
- Không được ném ! Ném hết hàng là thuyền bị lật.
- Làm thế nào bây giờ ? - Chị Nhuần cũng gào lên.
- Mẹ mày ra cầm lái để tôi vào bờ giòng dây kéo.
- Không được ! Nguy hiểm lắm - Chị Nhuần xua tay ra hiệu.
- Còn hơn là chết cả nhà - Anh Trác vừa nói vừa liếc về phía Ngô Quỳnh - Cậu lấy cây sào dài thăm dò độ sâu, nếu chạm đất phải cố ghì hướng mũi thuyền vào bờ.

Anh Trác vừa nhảy xuống lập tức bị nước cuốn ra giữa sông, lay hoay mãi chưa tấp được vào bãi nổi. Ngô Quỳnh buông sào nhảy xuống nắm sợi dây chão đã tuột khỏi tay anh Trác, lặn sâu xuống bơi ngầm dưới nước. Con thuyền vẫn lắc lư như người say nhưng tốc độ đã chậm lại vì Ngô Quỳnh kéo được mũi vào vùng nước nông. Hắn ra hiệu cho mẹ con chị Nhuần đưa thuyền vào còn Láng rồi nhào ra tìm anh Trác. Sau nửa giờ lặn ngụp, Ngô Quỳnh mệt nhoài nhưng vẫn không thấy bóng dáng chủ thuyền trong khi nước lũ dồn về, dâng lên mỗi lúc một cao. Cơn bão hoành hành suốt đêm hôm ấy, mãi đến gần sáng mới dịu đi. Một trận mưa trắng trời đổ xuống ngã ba sông. Mãi ba ngày sau mới tìm thấy xác anh Trác. Anh bị nước lũ cuốn xuống tận bến đò Vạn Điền cách bến Tuần nửa ngày đò. Mẹ con chị Nhuần chôn anh ở nghĩa địa vạn chài Cổ Cháy. Nhờ kinh nghiệm của anh, chiếc thuyền không bị lật mà vẫn bán được dưa. Nhiều nhà mất cả người lẫn của vì vội vã quăng hàng xuống sông cho thuyền nhẹ bớt. Chồng chết, chị Nhuần xọp hẳn trông chẳng khác gì người mắc bệnh sài mòn. Gia cảnh như vậy, Ngô Quỳnh ở lại không tiện nên nói với chị chủ xin đi nơi khác. Chị Nhuần bảo:
- Mấy năm qua chúng tôi vẫn coi cậu như người nhà, giờ chẳng may gặp vận rủi chẳng lẽ nhẫn tâm bỏ đi.

Ngô Quỳnh lưỡng lự một lát rồi hỏi:
- Nghe nói chị sắp bán thuyền ?
- Lúc anh ấy mới mất, tôi nghĩ quẩn cũng có ý định như thế, nhưng giờ thì muốn tiếp tục chạy thêm vài năm nữa, mong cậu ở lại.

Ngô Quỳnh trở thành người đàn ông duy nhất trong gia đình. Cô Nhuỵ sau mấy lần được chàng phu thuyền hôn hít vụng trộm, thích lắm, luôn tìm cách ở bên hắn vào lúc thuyền chạy ban đêm. Những cử chỉ ấy không qua được mắt bà mẹ. Chị ta là người lọc lõi, nhìn thấy dáng vóc cao lớn cùng cách làm ăn tháo vát của Ngô Quỳnh, trong lòng toan tính một kế hoạch lâu dài để vĩnh viễn ràng buộc anh ta vào nghề sông nước. ở tuổi ba tư, sức xuân đang còn hừng hực bởi thể chất sung mãn và nỗi thèm khát đàn ông bị dồn nén quá lâu vì ông chồng ốm yếu, chị Nhuần trằn trọc trong khoang thuyền chật hẹp, luôn thả hồn vẩn vơ nghĩ đến những cuộc tình lãng mạn. Chị mơ thấy mình cùng Ngô Quỳnh cưỡi chiếc thuyền câu lên tận ngọn nguồn sông Cổ Cháy, cách ngã ba Môi hàng trăm dặm. ở nơi ấy trên là rừng đại ngàn dưới là dòng suối Tiên trong vắt, nước chảy lững lờ, cá tôm bơi tung tăng hệt cảnh Thiên Thai. Họ sống với nhau những ngày tuyệt đỉnh của hạnh phúc trần gian. Rồi đến một lúc chị sinh được thằng bé đẹp như tiên đồng. Nghĩ đến đấy người chị nóng ran, toàn thân run bắn, miệng ú ớ như bị bóng đè khiến cô con gái nằm bên cạnh hoảng tưởng mẹ phải cảm liền lấy dầu Nhị thiên đường xoa vào thái dương.

Căn bệnh hoang tưởng của chị Nhuần mỗi ngày một nặng thì tình cảm mẹ con đối với Nhụy mỗi ngày hình như một nhẹ đi. Nhìn thấy Ngô Quỳnh và con gái đứng ngồi bên nhau là chị không chịu được. Nỗi bực tức cứ ngấm dần vào cơ thể tựa như lòng hận thù khiến chị luôn nhìn đôi trẻ bằng con mắt cảnh giác. Chính cô con gái chứ không phải ai khác đã lén lút chiếm đoạt, không phải tiền bạc mà là thứ tình cảm mơ hồ nhưng vô cùng quan trọng đối với sinh mệnh của chị. Một lần chị Nhuần bảo Nhuỵ ở lại ở lại kẻ Sung, lấy cớ thu gom hàng để cùng với Ngô Quỳnh chở dưa xuống bến Phù Dung. Ngay đêm đầu tiên thuyền đậu ở bến Lam Điền chờ con nước ròng, chị đã chui ra khoang ngoài ôm lấy Ngô Quỳnh. Hắn biết thừa người đàn bà nạ dòng này muốn gì bởi toàn thân hắn cũng đang rạo rực. Một ý nghĩ thoáng qua, hay là mình cứ chiều chị ta, chẳng những không mất gì mà còn có lợi là khác. Trong khi ấy, người đàn bà đã tuột hết váy áo, trần như nhộng, ôm riết lấy Ngô Quỳnh. Hắn tặc lưỡi thò tay mân mê bầu vú nóng hổi rồi định trườn lên bụng chị ta. Bỗng nhiên, từ trong bóng đêm, có quầng sáng mờ mờ như ánh lân tinh, gương mặt trái soan, cặp má bầu bĩnh và chiếc mũi hếch hiện ta với nụ cười gằn vừa trách móc và khinh bỉ. Ngô Quỳnh chợt tỉnh. Hắn ngồi dậy, trèo lên sạp thuyền mặc cho chị Nhuần khóc tức tưởi vì bẽ bàng.

Suốt chặng đường từ bến Phù Dung về bến Tuần có đến già hai ngày đường chị Nhuần không nói gì với Ngô Quỳnh. Hắn im lặng chèo, thỉnh thoảng lại chống sào chạy dọc từ mũi đến lái thuyền hệt như anh Trác ngày trước. Chị Nhuần cầm lái, mặt khó đăm đăm, mắt lơ đãng nhìn dòng sông.

Chiều hôm thứ ba, Nhuỵ đã đóng xong hàng. Thuyền từ từ vào bến, Ngô Quỳnh thả neo rồi lên bờ buộc dây vào cọc. Nhìn thái độ của hai người, cô gái biết đã có chuyện xảy ra. Anh chàng phu thuyền mặt nặng chình chịch, hùng hục khuân từng sọt bí, miệng như ngậm hột thị, hỏi câu nào trả lời câu ấy. Hàng xếp xong, chị Nhuần thẫn thờ trên bến một lúc rồi mới xuống thuyền bảo Nhuỵ:
- Chuyến này mẹ không đi được vì còn phải lên kẻ Suốt đòi nợ. Con với anh Quỳnh bảo nhau mà làm ăn cho thông đồng bén giọt, ít hôm nữa mẹ về.

Cô Nhuỵ còn ngây thơ tin lời mẹ nên không có biểu hiện gì lưu luyến nhưng Ngô Quỳnh nhìn vào đôi mắt mờ đi của người đàn bà, hắn biết có thể thị Nhuần không bao giờ về bến sông này nữa.

Đúng như Ngô Quỳnh dự đoán, năm hôm sau, khi thuyền cập bến Tuần không thấy chị Nhuần bên những sọt hàng. Hai người về kẻ Sung. Đồ đạc trong nhà vẫn còn nguyên, duy chỉ có chiếc xà tích bạc của bà ngoại để trong hộp gỗ mun khảm trai là chị Nhuần mang đi. Ngay chiều hôm ấy, Nhuỵ giao thuyền cho Ngô Quỳnh trông nom rồi sang bên ngoại tìm mẹ. Chị Nhuần không về làng Ngô Đồng. ở đấy chẳng còn ai ngoài bà dì nghễnh ngãng suốt ngày chỉ lảm nhảm hát mãi một điệu "gà rừng" rè rè giống hệt tiếng chũm chọe mẻ đập vào nhau. Nửa tháng, Nhuỵ về mặt mũi đen sạm, thở dài bảo:
- Không thấy đâu cả. Ngày mai ta bốc hàng cho thuyền ngược bến Tràng, anh Quỳnh thấy thế nào ?
Ngô Quỳnh gật đầu:
- Nhưng phải thuê thêm một chân sào, chỉ tôi với cô thì làm sao nổi.
- Cái đó tuỳ ở anh. Bây giờ anh là chủ thuyền kia mà.
Ngô Quỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi như chợt nhớ ra liền bảo:
- Mấy hôm vừa rồi tôi để ý có thằng bé choai choai vẫn khuân vác hàng cho các bà buôn trầu vỏ xuống thuyền của ông trương Thình, hay là ta bảo nó.
Nhuỵ cau mặt:
- Không được. Thuyền chúng mình phải tìm một người đứng tuổi, thạo nghề sông nước, rước cái đám trẻ ranh ấy về là hỏng việc.
Bị chạm nọc, Ngô Quỳnh chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình cách đây mấy năm liền ướm hỏi:
- Nhuỵ nói gì thế ?
Cô gái nhìn chàng chủ thuyền mới giọng có vẻ không vui:
- Là vì tôi không muốn như mẹ phải khăn gói ra đi …

Hành nghề đò dọc mười năm, vợ chồng Ngô Quỳnh đã có một số vốn kha khá. Hai người bàn nhau bán thuyền cùng với ngôi nhà kẻ Sung mang con về làng Cùa lập nghiệp. Khi ấy ông trương Phẩm đã mất, bà mẹ già còng lưng suốt ngày chống gậy ra gốc đa làng ngóng con trai. Dân làng Cùa có thói cố chấp nhưng lại chóng quên nên vụ bê bối của Ngô Quỳnh cách đây mười bốn năm giờ chỉ còn là ký ức mờ nhạt. Vả lại, cô Son lấy chồng mãi làng Buộm, cách sông cách đò, có khi vài năm mới về thăm bố mẹ một lần, thành thử nỗi hổ thẹn trong lòng hắn cũng nguôi ngoai.

Ngô Quỳnh về làng được bốn năm thì chánh Đàm chết. Lý Lượng cùng phe cánh ông ta thất thế. Cao Lộng, người xóm Cầu Đá lên làm chánh tổng Kim Đôi bảo cử cho Ngô Quỳnh ra làm lý trưởng. Năm ấy ông ta mới ba mươi tuổi. Từ một chủ đò dọc nghiễm nhiên trở thành bà lý nhưng cô Nhuỵ chẳng thích tý nào, vì cảm thấy sống trong làng tù túng, không được thoải mái như lúc lênh đênh trên thuyền ngang dọc khắp mọi bến bờ. Tất nhiên lý Quỳnh không thể chiều theo nguyện vọng dở người của vợ nhưng cũng chẳng bắt chước chánh Đàm lúc sinh thời, thuê thợ đóng một con thuyền neo ở bến sông ngay dưới điếm Bài Vân, thỉnh thoảng lại cho mẹ con cô Nhuỵ du ngoạn xuống tận ngã ba Môi. Giá như Ngô Quỳnh không đưa vợ về làng, yên phận làm ăn với nghề đò dọc thì bây giờ không tan cửa nát nhà. Cái nghiệp làm quan, dù là quan làng đôi khi cũng lợi bất cập hại. Đấy là chưa tính đến cái đoạn chỉ chút xíu nữa thì bị Khúc Kiệt xử bắn nếu không có Khúc Thị Nhân kịp thời ra cứu. "Mình hơn cô ta những hai mươi tuổi lại đã có một đời vợ không biết cô ta có chịu lấy mình ?".Trong tâm trí Ngô Quỳnh luôn vấn vương câu hỏi ấy. Kể ra con gái vùng Ba tổng quá hai mươi không có người hỏi coi như ế. Khúc Thị Nhân đẹp thật nhưng có nốt ruồi dưới mắt. Hồi trước, ông cử Yên Duệ qua thăm Khúc Kiệt nhìn thấy cô ta bảo đó là tướng vất vả, hậu vận còn lắm tai ách. Tin ấy làm đám con trai trong làng ngại không anh nào dám rước. Đến khi bọn Nhật kéo về tàn sát, đốt phá làng Cùa, gia đình Khúc Kiệt chết gần hết, họ lại càng tin vào tài phán đoán của ông Cử. Ngô Quỳnh thích Nhân không phải chỉ vì cô còn trẻ mà cái chính là ông ta thấy cô có những nét hao hao giống với chị Nhuần ngày trước. Cho đến giờ, dù đã hơn ba mươi năm trôi qua, ông ta vẫn thấy mình xử sự như thế là đúng với đạo làm người, không xấu hổ với vợ con khi nhắm mắt xuôi tay xuống suối vàng gặp họ.

Sáng hôm sau, Ngô Quỳnh lại mang cưa đục sang làm giúp Nhân nhưng lúc này cô đã sang cồn Vành xúc cá.

Năm ấy, lũ rút sớm. Mới cuối tháng bẩy, ở những chân ruộng cao cồn Vành, nước chỉ còn chưa đầy gang tay. Vùng trũng có nơi ngập ngang thắt lưng. Phù sa đặc sánh lắng xuống bám vào cỏ thành một lớp dày, mỗi khi khoả chân, thứ bột mịn màng ấy lại loang ra, đỏ tươi chẳng khác gì mai con cà da luộc. Những đám sậy, lác, cỏ gai ngâm nước hàng tháng vẫn xanh tốt. Trên gò đất cao bên làng Mật, đàn trâu đang thong thả gặm cỏ. Một con lội hẳn xuống rộc, bước chân ộp oạp, lia lưỡi liếm những ngọn lúa tái sinh lơ phơ trên mặt nước. Vẫn còn sớm. Mặt trời chưa kịp nhô lên đã bị cả một tảng mây hình thù giống hệt con sứa đè xuống. Đám mây dường như chỉ đứng yên một chỗ nhưng biến hoá vô vùng linh hoạt. Đầu tiên là màu xám đục, chỉ một thoáng đã thành khối bông trắng nõn, có những múi cuộn lại vừa nhẹ vừa xốp. Nhưng rồi khối bông trắng như tuyết ấy lại nhường chỗ cho một cái mạng nhện hình lục giác với những mắt lưới đan rất tinh xảo óng ánh như ngân tuyến. Trời sáng thêm một chút thì mạng nhện bạc mờ dần. Bây giờ là những lớp mây hình vảy cá gắn chặt vào cái màn khổng lồ màu thiên thanh. Đám vảy cá hiện lên với đủ các hình thù và màu sắc rực rỡ, có những lúc bất chợt loé lên như một đạo hào quang. Cuối cùng thì những ảo ảnh ấy cũng biến mất và mặt trời lên.



http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/batca_1447379493.jpg


Nước lũ rút đi, dân mấy làng bên bờ sông Lăng kéo sang cồn Vành bắt cá. Đây là nơi sông tách làm hai nhánh xuống đến tận bến Phù Kiều mới hợp lưu, ôm lấy cánh bãi rộng hàng mấy trăm mẫu, là nơi tụ tập của đủ các loài thuỷ tộc. Cá trôi, cá rói nhởn nhơ bơi giữa đám cỏ xước cọng dài mấy gang tay, bò loằng ngoằng như dây thòng bong. Lũ này thường thích chỗ ruộng vàn kiếm ăn bằng cách sục cho nước đục ngầu lên. Những tay đánh cá chuyên nghiệp rủ nhau xếp giậm thành hàng theo hình vòng cung rồi ra thật xa dùng mõ dồn cá. Gặp bước đường cùng những con tinh khôn chơi trò quăng mình tháo thân còn phần lớn bị sa bẫy, nhảy loạn xạ trong giậm. Dân quăng chài nhiều khi vớ bẫm. Họ đón lõng ở những chỗ nước chảy, độ sâu vừa phải, thỉnh thoảng tóm được chú cá chép dăm cân. Bọn này vô vùng láu cá, trừ hững người có kinh nghiệm sông nước còn thì ít khi bắt được.

Đàn bà con gái dùng rổ sề thậm chí cả rổ rửa rau bắt tôm dạt vào bờ ruộng. Tôm tép mùa này nhiều lắm, mấy chị em cái Nhút cái Nhít xúc một ngày mang về phơi được ba nong. Chính nguồn thủy sản phong phu trời cho như thế nên cồn Vành hằng năm luôn xảy ra tranh chấp quyền sở hữu giữa làng Cùa và làng Mật. Lúc ấy Nhân đang xúc tôm ở chân ruộng trũng giữa bãi cùng với cái Nhút, cái Nhít. Phía làng Mật có tiếng người cãi nhau. Một thằng bé làng Mật cướp con cá măng bằng bắp chân của cái Hậu xóm Trại Cá. Con bé nổi tiếng đanh đá. Nó cào vào mặt thằng kia rồi giẫy đành đạch như phải bỏng. Thằng "chọi" làng Mật cũng là quân lỳ lợm, chẳng những không trả con cá mà còn xông vào túm tóc đối thủ đẩy xuống ruộng. Thế là một cuộc xô xát trên quy mô lớn xảy ra. Dân làng Mật huy động thanh niên trai tráng mang gậy gộc giáo mác ra trợ chiến. Chúng xông vào tịch thu tất cả các phương tiện đánh bắt cá. Dân làng Cùa yếu thế, mạnh ai nấy chạy ra bờ sông. Kẻ chèo thuyền, người ngồi bè chuối, số khác nhảy ào xuống nước bơi, cốt làm sao về bên kia càng nhanh càng tốt. Nhân chạy gần như sau cùng nhưng vẫn khư khư cắp cái rổ và giỏ tôm bên sườn. Một gã trung niên mặt có vết sẹo chạy dài từ dái tai xuống mép phải như bị dao chém, đuổi phía sau. Nghe bước chân bùm bũm, Nhân đâm cuống vấp vào đám cỏ lác bị ngã. Tay mặt sẹo dấn tới đầu tiên giằng lấy giỏ rồi thò tay luồn vào ngực cô gái. Đúng lúc ấy hắn bị cái tát như trời giáng vào giữa vết sẹo. Mặt vẫn còn nổ đom đóm , chưa hết choáng thì hắn lại nhận thêm một cú đệm bằng đầu gối vào bụng dưới, ngã ngửa ra, đầu đâm xuống bùn. Nhân chưa kịp hoàn hồn thì người thanh niên lạ mặt đã một tay xách giỏ, tay kia dắt cô chạy ra bờ sông. Phía sau bọn làng Mật đang ào ào đuổi theo. Bờ sông không còn một con thuyền. Anh ta kéo Nhân chạy gằn dọc theo bãi cát nhưng phía trước lại có một nhóm gồm bốn năm con mẹ nạ dòng, dẫn đầu là một lão già mặt choắt như mặt con cheo cheo cầm gậy hô hoán. Chẳng biết làm thế nào, chàng lạ mặt phải kéo Nhân lội xuống sông. Anh ta hỏi:

- Cô có biết bơi không ?
- Có... - Nhân thở hổn hển - Nhưng tôi ...
- Cứ bình tĩnh. Tôi sẽ đưa qua sông.

Anh ta nói cho Nhân yên lòng rồi đảo mắt nhìn quanh. Hoá ra vẫn còn hàng chục đoạn chuối của dân làng Cùa bỏ lại lúc tranh nhau sang sông bị sóng đánh giạt vào bờ. Anh chàng lạ mặt túm một cây rồi bảo cô gái:
- Bây giờ cô bám chặt vào đây, không được bỏ tay ra. Nhớ chưa ?

Người thanh niên bơi rất giỏi. Anh vừa bơi vừa đẩy cho cây chuối của Nhân đi đúng hướng nhưng cũng phải già nửa giờ hai người mới về được bên hữu ngạn. Khi Nhân lên bờ người thanh niên trao cho cô giỏ tôm và bảo:
- Lần sau đừng có tham, thấy bọn làng Mật gây sự là phải chạy ngay.
- Anh cũng là người làng Mật à ?

Người thanh niên lắc đầu:
- Tôi là người kẻ Bòng.
- Xa thế mà cũng đến bắt cá ?
- à ! đi cho biết thôi.

Mấy hôm sau, lúc Nhân đang nhào đất trát vách thì có một người gánh cưa đục vào xin nước uống. Nhìn người thợ mộc cô ta ngờ ngợ nhưng chưa dám hỏi ngay. Uống nước xong anh ta chưa đi mà cứ ngắm trời ngắm đất rồi hỏi mấy câu về gia cảnh. Nghe giọng nói Nhân nhận ra đó là người đã cứu mình qua sông khi bị gã đàn ông làng Mật đuổi.
- Vậy ra anh làm nghề thợ mộc. Sao hôm ấy anh bảo ở kẻ Bòng ?
- Lúc ấy nói thế để cô yên lòng, thực ra tôi là dân kẻ Suốt chuyên xách cưa đi đục kiếm cơm thiên hạ.
Nhân bảo:
- Dạo này làng Cùa cần thợ mộc. Anh đến đúng lúc đấy.
- Tôi cũng định như thế. - Anh thợ mộc ngắm gian nhà mới dựng xong bộ khung lợp rạ của Nhân liền bảo - Nhưng trước hết phải làm lại cái nhà này cho ra hồn đã.
- ấy chết ! - Nhân giãy nảy - Hàng xóm giúp thế này cũng đã tốt chán. Anh nhìn xem, làng tôi sau trận hoả hoạn, trừ bà cả Huê có nhà ai còn nguyên vẹn đâu. Vả lại tôi không có tiền trả công.
- Nhà như cái lều vịt của lão Côi ở kẻ Bòng thế này chỉ một trận gió là đi tong. Một mình cô xoay sở làm sao được.
- Anh nghe ai nói tôi ở một mình ?

- Còn chưa thành gia thất nữa kia. - Anh thợ mộc cứ như là có ma xó trong túi, nói vanh vách gia cảnh của cô chủ khiến Nhân vô vùng sửng sốt.
- Sao anh biết rõ về tôi như thế ?
-Là vì tôi mới gặp bác nhà … -Nói đến đây người thợ mộc hạ giọng thì thầm - Cô tìm cho một nhà gần đây để tôi ở tạm.
- Tối nay tôi sẽ dẫn anh sang bên ông đồ Sách. - Nhân ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo- Nhà ấy chỉ bị cháy mấy gian bếp.

Đồ Sách lúc đầu ngại không dám cho người lạ ở vì sợ Lý Quỳnh nhưng Nhân lại bảo:
- Anh ấy là thợ mộc bên kẻ Bòng có thẻ thuế thân, bác đừng lo, có chuyện gì cháu sẽ bảo với ông Lý.
Buổi tối đồ Sách mời anh thợ mộc ăn khoai lang luộc. Làng Cùa đang vụ giáp hạt, nhà nào cũng hết thóc nhưng khoai lang cồn Vành thì nhiều vô kể. Có nhà nấu khoai khô với đỗ đen. Khoai chín trộn thêm mấy thìa mật mía, nắm lại bằng quả thanh yên ăn trừ bữa. Anh thợ mộc tên là Lãng, khoảng hăm bẩy hăm tám tuổi, viết chữ Hán rất đẹp. Thơ Đường, loại ngũ ngôn thi, bản in vừa lèm nhèm vừa mất nét, phần lớn là những chữ ít thông dụng, nhiều bậc túc cho còn phải tra từ điển "Khang Hy" hoặc"Từ hải" vậy mà anh ta đọc vanh vách, bình đâu ra đấy khiến đồ Sách rất phục. Chưa đầy năm ngày ngôi nhà hai gian của Khúc Thị Nhân đã xong làm Ngô Quỳnh vô cùng tức tối.

Một hôm, lúc ấy khoảng cuối canh một, Ngô Quỳnh rón rén vào cổng nhà Nhân thấy bên trong có tiếng nói chuyện, ông ta đoán, nhất định là tay thợ mộc đang giở trò chim chuột, liền cầm tay thước bước vào nói to:
- Bây giờ là giờ gì mà anh Lãng còn đến nhà đàn bà con gái tán tỉnh bậy bạ làm hại thuần phong mỹ tục.

Từ trong nhà, một người bước ra hằm hằm nhìn Ngô Quỳnh:
- Ông Lý nói gì mà chướng tai thế ? Ai tán tỉnh bậy bạ ?

Hoá ra không phải anh thợ mộc mà là Khúc Luận. Suốt từ tối đến giờ cậu ta cứ ngồi lỳ, Nhân đuổi khéo mấy lần cũng không về, vừa hay được lý Quỳnh giải cứu cho.
- Này cậu Luận ! - Lý Quỳnh lên giọng cha chú răn đe - Nếu ban đêm còn lảng vảng sang đây, tôi báo cho bà Cả nện cậu một trận ra trò đấy.

Khúc Luận chẳng có vẻ gì là sợ hãi. Mặt cậu ta vênh lên:
- Ông có quyền gì mà cấm tôi ?
- Là vì cậu hay sang đây quấy nhiễu cô Nhân. Cô ấy tuy con ông chú nhưng là người lớn, còn cậu mới chỉ là thằng ranh con, lôi thôi tôi cho tuần đinh trói lại mang ra đình phạt vạ.
- Thách ông đấy ! Khúc Luận chẳng nể nang gì tuổi tác ông lý trưởng, giọng châm chọc - Đừng tưởng tôi không biết tâm địa của ông. Cô Nhân chẳng thèm …

- Thôi đi ! Anh Luận đừng nói càn. - Khúc Thị Nhân vội chạy ra bảo - Ông Lý nói không sai. Suốt ngày anh lêu lổng, tối lại sang bên này nói con cà con kê, thử hỏi tôi còn làm được việc gì ?

Ngô Quỳnh được thể, hất hàm khẽ quát:
- Về ngay ! Từ mai cấm sang đây.

Khúc Luận gườm gườm nhìn viên Lý trưởng, bàn tay phải nắm chặt định quai cho ông ta một quả vào mặt cho bõ ghét nhưng nghĩ sao lại thôi, chỉ cười gằn nói đủ nghe:
- Tiếc là hồi ấy bọn Áo Đen không kịp cho ông viên đạn.

Cảm thấy đây là lúc thuận tiện nhất để tỏ rõ lòng mình, Ngô Quỳnh ngập ngừng một lúc rồi dè dặt hỏi:
- Mấy hôm nữa tốt ngày tôi nhờ người mang cơi trầu sang nhà Nhân …

Nhân thoáng giật mình. Lão lý trưởng lợi dụng cơ hội này để tỏ tình làm cô thật sự bối rối, bởi vì từ trước đến giờ chưa lúc nào Nhân nghĩ đến chuyện về nhà họ Ngô làm vợ một người hơn mình đến hai chục tuổi. Trong lúc lúng túng chưa biết từ chối thế nào để Ngô Quỳnh khỏi sượng mặt thì cô chợt nghĩ ra một kế:
- Cảm ơn ông Lý đã có lòng thương nhưng chuyện trăm năm là hệ trọng, không được sự đồng ý của cha, "cháu" không dám tự quyền.

Lý Quỳnh thấy sự việc có vẻ không xuôi chiều bèn lựa lời thuyết phục:
- Ông ấy đi biền biệt biết đến bao giờ mới về, mà cái xuân xanh thì mỗi tuổi lại mất đi, chả lẽ cô cam chịu ở vậy đến già.
- Làng này thiếu gì con gái nhà tử tế và đẹp người, vừa đẹp nết - Khúc Thị Nhân nhẹ nhàng cất giọng đưa đẩy - "cháu" thuộc loại quá lứa nhỡ thì lại có mụn ruồi đón lệ dưới mắt, thầy tướng đoán hậu vận lắm gian truân, ông Lý chớ nên rước về.
- Bọn thầy tướng, thầy bói chỉ nói dựa. Tôi chẳng sợ cái nốt ruồi ấy mà rất yêu quý cô, muốn làm bạn trăm năm … Mong cô xét đến hoàn cảnh.
- Ấy ông Lý ! duyên phận con người là tự trời sắp đặt, làm sao mà ép lòng mình được, "cháu" xin ông hiểu cho.

Năn nỉ năm lần bẩy lượt, Nhân vẫn một mực từ chối, Ngô Quỳnh không thể kiên nhẫn được nữa, bèn đổi giọng:
- Hay là cô đã bị cái thằng thợ mộc ấy nó chài ?
- Ông Lý đừng ăn nói hàm hồ.
- Bọn trai thiên hạ dẻo mỏ ấy các cô phải coi chừng. Chúng nó đều là phường lừa đảo, không giữ gìn, ễnh bụng ra thì mang tiếng cả làng.

Khúc Thị Nhân vẫn ngọt nhạt:
- Cảm ơn ông Lý đã dạy bảo. Chúng "cháu" là phận gái còn lo bằng mấy ấy chứ.
Chuyện tỏ tình với Nhân không thành, lý Quỳnh dấu biệt nhưng không hiểu sao bà cả Huê vẫn biết. Bà nói bắn tin, nếu ông ta cưới con gái tên Việt Minh làm vợ kế thì chính bà sẽ lên phủ Đông Giàng và huyện Nam Thành cáo quan thu triện đồng lý trưởng. Ngô Quỳnh biết người đàn bà ghê gớm này vẫn căm Khúc Kiệt vì vụ bắt nhốt hậu cung năm trước và đang chờ dịp trả hận.

Chập tối trời nổi giông. Sấm nổ lục bục thành từng chuỗi. Không gian nồng nực như sắp có bão. Đã mấy ngày không thấy Lãng đến. Nhân khắc khoải chờ, lòng dạ bồn chồn. Lúc cô sắp đi ngủ thì có tiếng gõ nhẹ vào tấm liếp. Lãng nhìn trước nhìn sau rồi lách vào nhà ôm choàng lấy Nhân. Cô bị bất ngờ, khẽ đẩy người đàn ông ra rồi với tay gài chốt cửa. Cũng vào lúc ấy, những hạt mưa xiên gõ lộp bộp trên vườn chuối sau nhà. Cơn mưa đêm hè mỗi lúc một nặng hạt, chỉ một loáng đã có tiếng nước chảy ràn rạt ngoài sân lẫn trong thứ âm thanh rền rĩ của gió và sấm. Thỉnh thoảng một tiếng sét sắc lạnh, khét lẹt khiến Nhân giật nảy mình, co rúm người lại, ôm cứng lấy Lãng. Trận mưa làm đêm như giãn ra. ếch nhái, chẳng chuộc và nhất là lũ ễnh ương hoa xanh, ban ngày thường nổi lập lờ giữa những đám bèo ong, giờ ngoác cái miệng rộng đến mang tai, đua nhau trình tấu bằng đủ thứ âm điệu hỗn tạp, lúc ộp oạp, lúc the thé, lúc lại khàn khàn như tiếng vịt đực. Một con mèo hoang đến kỳ động cỡn gào lên bằng thứ giọng đặc biệt khủng khiếp, chẳng khác gì ma quỷ gọi hồn người chết. Ngoài bờ tre, có tiếng chiêm chiếp rất là ai oán của chú chích choè non bị rơi khỏi tổ. Gió đã dịu đi nhưng mưa vẫn còn nặng hạt.

Nhân hỏi chàng thợ mộc:
- Anh là Việt Minh phải không ?

Lãng quàng tay ôm ngang người cô gái, không trả lời mà hỏi lại:
- Sao em biết ?
- Có gì mà không biết. - Nhân bảo - Ngay hôm đầu, thấy anh xách đồ nghề đến làng Cùa em đã ngờ ngợ.
- Hình như em chưa hiểu gì về Việt Minh ? - Lãng thì thầm giải thích - Đó là một tổ chức cách mạng…
- Phải ! - Nhân bỗng dài giọng chì chiết - Vì "tổ chức cách mạng" ấy mà cách đây gần một năm làng Cùa bị thiêu hơn trăm nóc nhà, chết oan bảy tám chục mạng người.

Lãng im lặng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Anh hiểu tâm trạng của em. Sở dĩ có tổn thất lớn như vậy là do một số cán bộ manh động, không chấp hành chỉ thị của thượng cấp. Đảng chủ trương vận động quần chúng đấu tranh, chờ đợi thời cơ thuận lợi để giành chính quyền.

Nhân khẽ "hứ" một tiếng:
- Em chẳng ưa gì cái thứ cách mạng mà lại mang người bà con của mình treo lên cây gạo rồi xả súng bắn. Em bảo này, anh bỏ quách Việt Minh đi, về làng Cùa . Ông lý Quỳnh tuy thế nhưng là người tốt sẽ đứng ra bảo lãnh cho anh được ngụ cư.

Lãng lắc đầu:
- Nói thế thì khác gì em xui anh đầu hàng. Anh là người của Tổ chức phải đặt quyền lợi của Tổ Quốc và dân tộc lên trên quyền lợi bản thân.

Nhân lặng lẽ thở dài:
- Anh nói chẳng khác gì ông bố em. Thôi thì tuỳ anh.

Đến lúc ấy Lãng mới ngập ngừng bảo:
- Cuối tháng này anh phải đi.
- Bao giờ anh về ?
-Chắc cũng không lâu nữa đâu. Tình hình đang có nhiều chuyển biến, Đến lúc ấy chúng ta sẽ nhờ Tổ chức đứng ra làm đám cưới.

Lãng và Nhân không ngờ rằng, đêm hôm ấy dù trời mưa to gío lớn vẫn có một bóng đen lẩn khuất ngoài vườn chuối. Đó chính là Ngô Quỳnh. Biết chắc Lãng là Việt Minh từ bên kia sông Lăng sang, ngay từ chập tối, ông ta đã cho người báo quan huyện Nam Thành. Lập tức, một tốp quan binh nai nịt súng ống như đi trận, đội mưa về làng Cùa. Cai Viện đội chiếc mũ đỏ chót như đít chào mào chỉ huy bốn cảnh binh ập vào nhà đồ Sách. Ông này vẫn còn đang ngủ bị dựng dậy.
- Tay thợ mộc đâu ? - Viên cai hỏi cộc lốc rồi đảo mắt nhìn khắp lượt mấy gian nhà tranh dột nát ẩm mốc như hang chuột.

Đồ Sách mắt nhắm mắt mở, thấy đám lính tráng sát khí đằng đằng, mặt xám ngoét như vừa bị sét đánh trượt, giọng lập cập:
- Bẩm … các quan … anh ta ở … dưới nhà ngang.

Cánh cửa liếp bị gã lính mũi sần như vỏ chanh rám đạp đến "roạt" một cái. Cả bốn khẩu súng đều lên đạn rôm rốp. Viên cai mũ đỏ quét một vệt đèn pin. Cái giường tre trống không.

Cai Viện nhìn trước nhìn sau rồi hất hàm bảo đồ Sách:
- Đi gọi ông lý Quỳnh sang đây.

Linh tính cho Nhân biết có chuyện chẳng lành vội lay Lãng dậy vì có tiếng chó sủa dữ dội từ phía xóm Đình vọng lại.
- Anh chạy ra lối bờ sông ngay đi ! - Nhân cuống quýt giục - Hình như có lính về làng.
- Em cứ bình tĩnh - Lãng áp tai vào cửa nghe ngóng một lúc, vơ chiếc áo cánh khoác lên người - Nếu chúng đến khám nhà thì không được nói anh ở đây.
- Nhớ rồi, thôi anh đi đi.

Lãng lẩn vảo vườn chuối, ngồi xuống một lúc xác định phương hướng sau đó luồn qua cổng nhà trương Ngạnh.
- Có trộm - Ông Ngạnh thoáng thấy bóng người xé rào chạy về phía ao Quan vội la lên - Bớ bà con ! Bắt trộm.

Anh thợ mộc vừa chạy vừa thở, sắp đến chỗ cây sung thì bị cánh tuần đinh xóm Bờ Sông khua giáo mác chặn đường đành phải rẽ ngang vào vườn chuối ông vệ Đà. Cùng lúc toán cảnh binh xách súng rượt tới. Bí quá, Lãng nhảy ùm xuống ao, lặn một hơi, bơi ngầm dưới nước, được một lúc thì chạm cọc lều vó lão Tư Kền. Đã sắp đến đê quai. Chỉ cần cố một đoạn nữa là ra bờ sông Lăng. Phía gốc gạo đuốc cháy rần rật. Tiếng hô hoán mỗi lúc một xa vì cánh tuần đinh ngại nhảy xuống nước mà rồng rắn kéo nhau vòng theo bờ ao. Khả năng thoát hiểm đã nằm trong tầm tay. Trong khi chạy loạng quạng, Lãng vấp phải con chó đá ở cổng nhà Quản Sầm, bị trẹo chân, đau lắm nhưng không dám nghỉ. Sau khi vượt qua con đê, Lãng lao xuống bờ cát định vượt sông, chợt có tiếng quát:
- Đứng lại ! Mày đã bị bắt.

Người thợ mộc giật mình. Sống lưng lạnh toát. Anh không thể ngờ mấy tên cảnh binh chạy theo lối đường trục giữa làng đón lõng ở đây. Ước lượng khoảng cách giữa mình và bọn lính, thấy khó có thể thoát được, Lãng tính nước liều, phó thác tính mạng cho sự may rủi.
- Thôi được, coi như các ông thắng, tôi xin hàng. - Lãng nheo mắt cười nhạt rồi bất ngờ cắm đầu lao xuống sông.

Bọn cảnh binh đã dự kiến đến trường hợp này nên chúng không mất bình tĩnh mà lần lượt kéo cò súng xả đạn vào những chỗ có tăm nước nổi lên. Khi toán tuần binh chạy đến nơi thì mặt sông đã trở lại yên tĩnh. ở gần ghềnh đá chỉ còn thấp thoáng những đám bọt nước sẫm màu bị sóng đẩy cuộn lại chẳng hiểu là phù sa hay máu người thợ mộc.

Ba ngày sau, cánh phu đò dọc vớt được một xác người bị đạn xuyên vào lưng nổi lên ở bến Tuần Châu. Quan huyện Nam Thành cho khám nghiệm tử thi, biết đó chính là tên Việt minh đóng giả thợ mộc đến làng Cùa xúi giục dân cày nổi loạn, liền ra lệnh treo lên cành đa giữa chợ Từ Đường thị uy.

2. Đến tháng thứ Tư thì cái bụng của Nhân không thể giấu được nữa. Những người phát hiện ra sự kiện này trước hết là đám phụ nữ xóm Đình. Bà cả Huê vội chớp thời cơ, Trong âm trí người đàn bà đáo để này đã mường tượng ra hình ảnh cô con gái xinh đẹp của lão em chồng bị gọt tóc bôi vôi trên chiếc bè chuối nổi phập phềnh giữa sông Lăng trước sự chứng kiến của bàn dân thiên hạ.

Về phần mình, trước khi cử trương Tòng đi báo quan, Ngô Quỳnh không ngờ được sự việc lại phức tạp đến thế. Ông ta chỉ muốn gã Việt Minh trai lơ biến khỏi làng Cùa càng sớm càng tốt để hắn khỏi phá hỏng kế hoạch tán tỉnh Khúc Thị Nhân của mình. Chuyến này mà Khúc Kiệt kéo quân về thì không biết chuyện gì xảy ra nếu con gái ông ta bị làng phạt vạ. Viên lý trưởng thầm nghĩ, thời thế sắp thay đổi rồi mà bà vợ goá lão chánh Đàm vẫn thù dai như đỉa. Thật là đồ ngu. Phải tìm cách xử lý ngay, nếu không con mẹ đồng bóng ấy kích động cánh phó lý Kiền, cửu Nghi, binh Tào vốn rất hăng hái trong việc bảo vệ hương ước thì cô ta khó mà thoát khỏi hình phạt.

Chập tối hôm sau, Lý Quỳnh sang nhà Nhân. Cửa vẫn đóng im ỉm. Ông ta sinh nghi liền xách tay thước ra bờ ao Quan. Loanh quanh gốc cây gạo đổ khá lâu, vị lý trưởng đa tình lại vào vườn chuối tìm kiếm. Khu miếu hoang vẫn hoàn toàn im ắng thỉnh thoảng có tiếng cú rúc, chứng tỏ quanh đây vắng người. Một ý nghĩ chợt thoáng qua, Ngô Quỳnh hấp tấp chạy lên đê. Từ xa, một bóng người hiện ra lờ mờ dưới ánh sao đêm, vai quàng khăn gói lững thững đi dọc bờ sông. Trên cao, một con vạc lẻ loi từ rừng Hóp hối hả sải cánh sang bên kia cồn Vành bắt đầu cho buổi kiếm ăn. Mặt sông đen thẫm, thỉnh thoảng mới dậy lên tiếng lao xao lười nhác như tiếng thở dài của kẻ thất tình khi bất chợt có ngọn gió mệt mỏi từ ngã ba Môi trườn về. Người phụ nữ thẫn thờ, một mình đối diện với dòng sông, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn bầu trời sao. Lý Quỳnh lặng lẽ đến bên khẽ gọi:
- Cô Nhân !

Người phụ nữ không quay lại, thản nhiên bước xuống mép nước.
- Cô Nhân ! Đừng làm thế. Đời người ta đâu phải con sâu cái kiến mà bỗng chốc bỏ phí.
-Ông Lý về đi ! - Nhân lạnh lùng bảo.

Ngô Quỳnh bước dấn lên giọng dứt khoát:
- Sau vụ Nhật càn năm trước, tôi đã hứa với ông Khoá chăm sóc cô. Hoàn cảnh lúc này cũng có chỗ khó nói nhưng mà …. ý tôi đã quyết.

Lý Quỳnh chưa nói hết câu thì Nhân đã gieo mình xuống nước. Ông ta hốt hoảng, để nguyên cả quần áo nhảy theo. Đêm cuối tháng không trăng. Mặt sông vẫn mờ mờ phản chiếu những vệt sao lưa thưa viền quanh đám mây bạc hình dạng như con cá sấu vắt ngang cồn cát. Sông chảy không xiết lắm nhưng đoạn này thường có nước quẩn. Ông Lý phải lặn ngụp một lúc khá lâu mới đưa được Khúc Thị Nhân lên bờ.

Sáng hôm sau, lý Quỳnh sang nhà, thấy Nhân đã dậy được liền trách:
- Sao cô dại thế. Đời con gái còn dài, tội gì mà chết.

Nhân cười nhạt:
- Ông cứu tôi làm gì. Chết như thế còn thanh thản hơn là để làng đóng bè trôi sông.
- Cô lầm rồi . - Ngô Quỳnh thong thả bảo . - Tôi thách đứa nào ở vùng Ba Tổng này dám động đến sợi tóc trên đầu cô.

Bà Cả Huê lồng lộn như con thú dữ bị trúng thương khi biết tin lý Quỳnh mang lễ đến ăn hỏi con gái khoá Kiệt. Cánh chức sắc trong làng hậm hực muốn phạt vạ Khúc Thị Nhân nhưng lại sợ uy thế lý Quỳnh đành phải lờ đi cho dù họ biết chắc cái thai kia là của gã thợ mộc trá hình. Về mặt danh dự, tất nhiên Ngô Quỳnh bị bẽ mặt với hàng tổng, những điều ấy không hề cản trở ông ta thi hành phận sự của nhà chức trách đứng đầu làng Cùa. Có lần Chánh Tổng Lê Bang cho gọi lý Quỳnh ra đình Cả nghiêm giọng răn đe:
- Đường đường là Lý trưởng đương chức mà đêm hôm mò vào nhà con gái người ta giở chuyện trăng hoa, thầy có biết phạm tội gì không ?

Ngô Quỳnh vốn lắm lý sự, nghe xong, chắp tay cúi đầu:
- Bẩm ông Chánh, sau sự biến làng Cùa, tôi mất vợ mất con, một thân một mình, lại gánh vác việc làng, vất vả nên phải kiếm một người về lo việc nội trợ.

Chánh Bang nhếch mép cười gằn:
- Không ai cấm nhà thầy cưới vợ nhưng đã là bậc quân tử thì phải hành xử cho đàng hoàng. Thầy thậm thụt với người ta bụng ễnh ra rồi mới tính chuyện cưới hỏi thì còn ra thể thống gì.

Nghe Lê Bang lên giọng răn dạy đạo đức, Ngô Quỳnh ngứa tai vặc lại:
- Ông Chánh toàn xoi mói người khác mà không nghĩ đến bản thân mình. Cả tổng này ai còn lạ gì ông đã có đến ba bà vợ mà mới đây còn bắt con gái nhà trương Dậm ở làng Dọc mới mười sáu tuổi về làm thiếp chỉ vì trước đây nhà Dậm nợ lãi mấy thùng thóc. Nói thật, ông Chánh để cho cô ấy về đi, nếu không Việt Minh họ sẽ hỏi thăm đấy.

Chánh Bang ngồi ngẩn người ra một lúc, đáng lẽ phải nổi cơn thịnh nộ trút giận dữ vào gã thuộc hạ dám ngang nhiên chỉ trích mình thì lại khẽ gật đầu bảo:
- Thầy nói đúng, cuộc cờ đã sắp tàn, có lẽ tôi cũng xin nghỉ chân chánh tổng.

Thật tình, Khúc Thị Nhân chẳng vui vẻ gì với cuộc hôn nhân chênh lệch như cha con này, nhưng vì đã chịu ơn lý Quỳnh vừa cứu mạng vừa cứu danh dự nên đành phải nhắm mắt đưa chân. Cô không thể ngờ được phía sau bộ mặt tưởng như rất thành thực của ông ta lại là một âm mưu đen tối được vạch ra khá tỉ mỉ và thận trọng để chiếm đoạt mình. Lý Quỳnh cũng đủ khôn ngoan để toán cảnh binh ập vào nhà đồ Sách trước. Đây là kế "điệu hổ ly sơn". Biết chắc tay Việt Minh thế nào cũng thoát ra lối bờ sông, phía dưới điếm Bài Vân nên ông ta ngầm bảo cai Viện cho người đón lõng từ trước. Sự việc xảy ra hoàn hảo đến mức, dân làng Cùa không một ai biết Ngô Quỳnh là thủ phạm gây ra cái chết bi thảm của người thợ mộc trừ trương Tòng và bà cả Huê.

Nói cho công bằng, trong thâm tâm Ngô Quỳnh chẳng sung sướng gì nếu sau này buộc phải nuôi con kẻ khác, cho dù anh ta đã sang thế giới bên kia. Vì thế, mỗi khi nhìn thấy cái bụng lùm lùm của Nhân, phải khó khăn lắm ông lý trưởng mới nặn ra được nụ cười. Lựa dịp ông ta dẫn đám dân phu lên hộ đê Trung Hà, bà cả Huê lẻn sang nhà nói cho cô cháu gái biết rõ sự tình. Nhân lắc đầu nhìn bà bác đầy vẻ nghi kỵ:
- Cháu không tin ông Quỳnh lại nhẫn tâm làm việc ấy ?

Bà cả Huê nhổ nước trầu, lấy tay vuốt hai bên mép, thong thả bảo:
- Tin hay không là ở chị. Từ trước đến nay tôi không vu oan giá hoạ cho ai bao giờ. Người cảnh binh có cái bớt bên cằm là cháu gọi tôi bằng dì họ ở Mạc Điền cho biết, chập tối hôm ấy lý Quỳnh sai trương Tòng lên báo huyện.
- Thì ra là như vậy. - Nhân lắc đầu thở dài - Tất cả đều là do ông ta sắp xếp.
- Chị thật là hồ đồ. - Bà Cả trách - Làng này từ trước đến nay lạ gì tư cách lý Quỳnh mà dấn thân vào. Lại còn đứa bé nữa, sau này liệu ông ta có để cho mẹ con chị yên ổn không ?

Giờ thì Nhân đã hiểu ra, Thật là tiền oan nghiệp chướng. Đêm ấy cô trằn trọc mãi không ngủ được, gần sáng, vừa chợp mắt một lúc lại mơ thấy cái xác người thợ mộc treo lủng lẳng trên cành đa. Sợ quá, Nhân thét lên, người toát mồ hôi hột . Xế chiều, Nhân vơ mấy bộ quần áo ấn vào chiếc tay nải, quàng lên vai rồi thập thững ra bờ sông, di dọc triền đê, đến bến Ngàn thì xuống một chiếc đò dọc.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
11-20-2015, 03:07 AM
Chương 7

1. Tháng Tám năm Bốn Nhăm. Bầu trời vùng Ba tổng xanh màu nõn chuối. Nắng nhạt. Một con diều hâu xám, xoè cánh rộng, lượn đi lượn lại trên dải đồng vàn dõi mắt tìm những chú chuột đất ngờ nghệch đang thập thò dưới đám bìm bìm tía. Bầy sáo đen bay rào rào tìm bắt châu chấu cơm ngoài bãi tha ma đồng Chó Đá. Lũ sẻ bạc má gọi nhau lích tích, cứ bay một đoạn lại cụp cánh rơi xuống gần mặt ruộng rồi bất chợt vọt lên như những nghệ sỹ nhào lộn thực thụ.

Đoàn người rùng rùng trên đường quan. Đấy là một đám đông hỗn tạp gồm đủ mọi tầng lớp của mấy làng vùng hữu ngạn sông Lăng kéo nhau lên huyện Nam Thành cướp chính quyền. Cuộc biểu tình có vẻ như hoàn toàn tự phát, không theo bất cứ trật tự nào. Dân nhà quê, kẻ giáo mác, người gậy tre hăm hở gia nhập vào đội quân chân đất mỗi lúc một đông, khí thế xung thiên, sẵn sàng đập tan bất cứ trở lực nào trên đường đi giành quyền độc lập tự do.

Lê Văn Vận thuộc tốp đi đầu. Anh ta xuất hiện trước cổng huyện đường với tư cách là người chỉ huy cao nhất. Tiếng hô "đả đảo" rầm trời. Hàng trăm cố nông, tá điền xô đổ hai cánh cổng sắt ùa vào lỵ sở như nước vỡ bờ. Không có bất cứ sự chống cự nào. Mấy chục lính ở trại Lệ, trại Cơ đã nhanh chân chuồn từ lúc đoàn biểu tình còn ở chợ Cháy. Tri huyện Cáp Văn Tòng bỏ cả ấn tín chạy ra phía chuồng ngựa, đang loay hoay trèo tường thì bị dân đinh làng Yên tóm được. Viên thừa phái sợ quá, quỳ xuống vái như bổ củi xin tha mạng. Lê Văn Vận đóng bộ bà ba nâu, vai mang túi dết, tay vung vẩy khẩu súng lục Nhật nòng to bằng ống điếu, dõng dạc hô:
- Các đồng chí, giải tên tri huyện ra chợ Cháy cho nhân dân xử tội.

Vận vừa dứt lời, mấy tuần đinh làng Cọi lăm lăm cây mác trong tay, đẩy Cáp Văn Tòng ngã sấp xuống, luồn đòn tre vào hai tay hai chân khiêng đi như khiêng lợn. Nơi xử án là một gò đất cao trước đây vẫn dùng làm khán đài mỗi khi có quan Công sứ về hiểu dụ. Viên tri huyện bị trói vào cột. Chiếc áo the thâm rách toạc một đường sát nách rủ lòng thòng. Đám người hiếu kỳ chen lấn nhau. Ai cũng muốn nhìn thật rõ bộ mặt thiết bì với cặp mắt sâu hoắm và bộ râu dê lúc nào cũng vểnh lên như là được vuốt sáp của quan phụ mẫu. Vòng tròn chẳng mấy chốc bị khép lại. Người chen người chật như nêm cối. áp lực phía ngoài càng mạnh thì đám đông càng hỗn độn. Phụ nữ, trẻ em và người già yếu là những nạn nhân đầu tiên. Họ vữa ngã xuống lập tức có hàng ngàn bàn chân dẫm lên, hết lớp này đến lớp khác như những đợt sóng nối tiếp nhau, chồng lên nhau vào lúc biển động. Nhìn thấy đám đông đang dồn ép dữ dội cùng với những tiếng gào thét long trời lở đất, Lê Văn Vận tái mặt. Anh ta vội chĩa súng lên trời nổ liền mấy phát. Tiếng súng làm cho những kẻ đang say máu càng bị kích động. Họ bất chấp những tiếng quát tháo đã khản đặc của người chỉ huy vẫn ào ào lấn tới theo quy luật của dòng nước lũ không một sức mạnh nào cản nổi. Lúc này mà còn nấn ná ở đây là chết bẹp. Vận thoáng nghĩ như vậy thì lập tức bị hút vào đám người chân đất nhanh đến mức giống hệt chiếc lá rụng cuốn theo chiều gió chẳng còn biết số phận Cáp Văn Tòng ra sao nữa.

Giữa biển người mênh mông là một rừng cờ đỏ. Đủ các loại cờ nhưng nhiều nhất vẫn là cờ giấy với ngôi sao vàng năm cánh cắt vội chỉ nhỉnh hơn quyển vở học trò một chút. Thật hú vía. Vừa thoát ra khỏi chợ Cháy , Lê Văn Vận định vòng lại phía sau chợt nhìn thấy Khúc Kiệt cùng một đám dân binh giong viên Đội khố xanh. Tên này mặt xám ngoét, bước lập cập, thỉnh thoảng lại vấp một cái. Khúc Kiệt sững người khi chạm mặt anh cháu rể. Ông ta không thể tin được, một gã giang hồ chuyên nghề sông nước đầy thành tích bất hảo như hắn bỗng chốc trở thành người chỉ huy Việt Minh cao nhất vùng Ba Tổng.

- Chú ở đâu về ? -Lê Văn Vận hỏi.
- ở trại Cổ Bi bên kia sông.
- Đã vào chợ Cháy chưa ?
- Tôi vừa ở trong ấy ra. Họ chen lấn khiếp quá. Tri huyện Cáp Văn Tòng chết rồi. Người hắn nát bét như quả dưa bở.

Nghe xong, Lê Văn Vận lắc đầu, chép miệng:
- Thằng đểu, cách mạng chưa kịp xử tội nó đã chết.

Sáng hôm hai mốt, Uỷ ban Khởi nghĩa họp phiên đầu tiên sau khi giành chính quyền cử Lê Văn Vận làm chủ tịch lâm thời. Anh ta lập tức trưng dụng chiếc xe "đít vịt" của Cáp Văn Tòng làm phương tiện đi lại. Lái xe cũ trốn biệt, tìm mãi không thấy, Vận đành cử Phan Phê trước đây đã võ vẽ chút ít nghề cơ khí, mới theo Việt Minh mấy tháng, tập lái. Phan Phê là tay có máu liều, lao bạt mạng có lần đưa cả xe lẫn người xuống ao làm Vận xuýt chết. Từ đấy ông Chủ tịch đâm ra thù các loại phương tiện có động cơ, chuyển sang cưỡi ngựa.

Khúc Kiệt được bổ nhiệm làm trưởng ban An ninh huyện kiêm chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Đoàn Kết gồm mười hai làng vùng Ba tổng. Trụ sở đóng tại làng Cùa. Ông ta lập tức tổ chức đội quân bán vũ trang chuyên trấn áp những kẻ gây rối trật tự xã hội hoặc âm mưu chống đối cách mạng. Đội quân này được một sỹ quan Nhật đào ngũ tên là Côgô huấn luyện võ thuật và cách bắn súng.

Làng Cùa sau khi Việt Minh giành chính quyền xem ra cũng chưa có thay đổi gì rõ rệt ngoài việc nhà nào cũng treo cờ đỏ sao vàng và thỉnh thoảng lại đổ về sân đình Cả mít tinh hô các khẩu hiệu Cách mạng khản cả giọng. Chủ tịch Khúc ngày nào cũng xuống các làng đăng đàn diễn thuyết về chính sách đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh và vận động các nhà giàu quyên thóc gạo, quần áo , chăn màn ủng hộ người nghèo. Cánh địa chủ phú nông tất nhiên chẳng mặn mà gì với cái chính sách nửa vận động cửa cưỡng bức này nhưng cũng phải bấm bụng nhả ra vài thứ đồ tàng tàng để đỡ bị các đội viên an ninh đến nhà làm khó dễ. Những vật dụng trưng tập được, Khúc Kiệt cho mang về đình Cả để phân phát tận tay bà con cố nông đang nóng lòng chờ đợi hưởng ân huệ của Cách mạng.

Hôm ấy, dân làng Cùa dồn hết ra đình đứng vòng trong vòng ngoài giống hệt những dịp trước đây chen chúc nhau ngoài chợ Rồng đợi nhà chức trách phát chẩn. Khúc Kiệt trong bộ đồ kaki, lưng đeo khẩu súng nặng trịch kéo trễ xuống một bên hông, đứng trên bậc tam cấp dõng dạc thông báo:
- Hôm nay, chính quyền nhân dân xã Đoàn Kết, nhân danh Cách mạng cấp phát quần áo chăn màn cho những gia đình nghèo. Đề nghị bà con trật tự nghe chúng tôi đọc tên, đến ai thì người ấy vào nhận, không được chen lấn nhau. Trước hết xin mời ông mõ Khính:

Có tiếng người phía sau, giọng nhỏ thôi những nghe rất rõ:
- Bà con chớ có dại mà tin giọng lưỡi khoá Kiệt.

Thường Rỗ nghển cái cổ ngẳng ngoái lại nhìn, hoá ra là đồ Sách. Anh ta bảo:
- Bác nên giữ mồm giữ miệng. Họ mà nghe thấy là tù mọt gông.
- Cậu quên cái đận năm Mùi vì đội quân áo Đen mà làng mình chết oan bẩy tám chục mạng rồi à ? - Đồ sách gườm gườm nhìn anh bắt ếch - Cuộc cờ bây giờ mới bắt đầu nhưng tôi đã đoán được kết cục ra sao rồi.
- Bác định làm gì ? - Phó hội Bảng cũng xán đến ghé tai Đồ Sách thì thầm.

Đồ sách thản nhiên bảo:
- Cái "Chính quyền nhân dân" này xem ra chẳng thọ được lâu đâu. Tôi mà nói sai xin làm con chó giữ nhà cho các ông.
- Bác chỉ nói càn . - Thường Rỗ vặn lại - Họ có đảng Cộng sản lãnh đạo lại được khối quần chúng công nông hậu thuẫn, đổ làm sao được.

Đồ Sách cười nửa miệng:
- Các ông nhìn xem. Một chính quyền cách mạng được tuyên truyền với đủ thứ tốt đẹp từ trước đến nay chưa bao giờ thấy mà lại để một gã vô học, chuyên nghề hạ bạc làm chủ tịch và lão khoá Kiệt gàn bát sách giữ chân trưởng ban An ninh thì còn ra thể thống gì nữa. Tôi đồ rằng, chẳng chóng thì chày, bọn họ sẽ tịch thu hết ruộng đất của cánh nhà giàu chia cho lũ khố rách áo ôm cũng nên.
- Nói khẽ chứ ! - Phó hội Bảng bảo - Hình như bác cũng có tên trong danh sách chẩn cấp đấy.
- Tôi tuy nghèo thật nhưng cóc cần cái thứ của phi nghĩa ấy. -Đồ Sách phẩy tay bảo - Hôm nay ăn mồ hôi nước mắt của người ta ngày mai lại phải nhả ra thôi.

Phó Hội Bảng khẽ huých đồ Sách châm chọc:
- Bác chẳng hiểu thế nào là thành quả đấu tranh cách mạng cả. Đấy là lộc trời cho, không lấy là dại.
- Thế thì ông chen vào mà lấy.
- Ông xỏ tôi đấy à ? - Phó hội Bảng vặc lại - Mấy hôm trước bà vợ tôi phải nộp cho chính quyền hai bộ quần áo gụ và một cái mền bông.
- Thảo nào mặt ông vênh như bánh đa nướng.
- Này, ông đừng có cạnh khoé.
- Thôi các ông đừng cãi nhau nữa . -Thường Rỗ kéo cánh tay đồ Sách bảo - Hình như lão Mõ già không nhận quần áo thì phải.
- Lạ nhỉ...

Đúng thật, ngay trước cửa Đình, lão Khính dõng dạc bảo Khúc Kiệt:
- Cảm ơn các ông Cách mạng đã giải thoát cho lão cái nghề đầu chày đít thớt nhưng lão không vợ con, không ruộng vườn nhà cửa, sau này biết lấy gì mà sống ? Còn quần áo lão không dám nhận đâu. Lão kinh cái năm Nhật kéo về tàn sát dân làng Cùa lắm rồi. Nay mai ông Khoá với chính quyền tếch vào rừng, bọn nhà giàu lại kéo đến đòi, mà những thứ này mặc mãi rồi cũng rách lấy gì trả người ta thế là lão mắc nợ, chả dại …

Nghe Mõ khính con cà con kê, Khoá Kiệt tức lắm, chỉ muốn cho lão già dở hơi mấy cái bạt tai nhưng vẫn cố gượng cười để làm yên lòng đám tá điền :
- Cụ ơi, cụ lẩm cẩm rồi. Cách mạng đã thành công. Từ nay chính quyền xóa bỏ vĩnh viễn mọi hình thức bóc lột, mọi công dân được tự do làm ăn, cụ cứ nhận đồ cứu trợ đi, không ai đòi đâu mà sợ.
-Nếu đã thế thì Cách mạng bán ngay cho lão mấy sào ruộng, bây giờ thì lão chịu nhưng sau này nhất định sẽ thanh toán cả gốc lẫn lãi.
- Cụ Khính nghe đây ! - Khoá Kiệt dằn giọng - Uỷ ban hiện thời chưa có ruộng đất nhưng nhất định sau này sẽ có để chia cho dân nghèo. Tôi lấy danh dự hứa với bà con làng Cùa. Nào, cụ nhận đi rồi về cho người khác vào.

Mõ Khính vẫn lắc đầu:
- Lão không dám đâu. Hay là ông Khoá cho lão gia nhập đội An ninh để khỏi phải … cởi truồng đánh giậm.
Lúc này Khúc Kiệt không thể cười được nữa. Ông ta quắc mắt quát khẽ :
- Đứa nào xui cụ đến đây phá đám ? Cụ định đùa với nhà chức trách đấy hả ?

Kết quả là, hôm ấy không một kẻ cùng đinh nào lên nhận đồ cứu trợ xã hội. Chập tối Khúc Kiệt cử các đội viên mang quần áo, chăn mền, yếm, váy đụp và các tã lót trẻ sơ sinh đến quăng vào các nhà bần cố nông. Chó sủa râm ran suốt từ đầu làng đến cuối làng. Sáng hôm sau, người đầu tiên phát hiện ra sự lạ lại chính là ông chủ tịch xã. Khúc Kiệt dậy sớm đi đái, chợt thấy dưới ao đình có những vật nổi lều phều đủ loại đen đỏ nâu sẫm, cháo lòng. Ông ta sinh nghi liền xuống hẳn cầu đá, lấy chân khoắng lên, hoá ra đó chính là thứ hàng chẩn cấp mà tối hôm trước anh em An ninh đã mang cho dân nghèo.

- Thế này thì loạn thật ! - Khúc Kiệt nghiến răng trèo trẹo - Thế nào cũng có bàn tay chánh tổng Lê Bang với con mẹ cả Huê nhúng vào. Được, ta sẽ cho chúng biết thế nào là Cách mạng. Lũ chấy rận ấy mà lại dám vuốt râu hùm à ?

Ngay chiều hôm ấy, Khúc Kiệt cho gọi viên cựu chánh tổng và cánh chức dịch cũ gồm chánh Bang, lý Quỳnh , phó hội Bảng, đồ Sách, và cả Huê ra trình diện. Bà cả Huê từ trước đến nay vốn không coi khoá Kiệt ra gì cất giọng châm chọc:
- Ông chủ tịch cho đòi chúng tôi ra đình chắc là để phát quần áo cũ ?

Khúc Kiệt nghiêm giọng:
- Trước hết, yêu cầu bà cả Huê không được xúc phạm đến chính quyền Cách mạng, nếu không chúng tôi bắt buộc tạm giam vào hậu cung như hồi tháng tám năm Mùi. Còn bây giờ có việc cần nói với các vị đây. Chế độ thực dân phong kiến đã sụp đổ. Chính quyền Nhân dân vừa được thành lập trên khắp đất nước do những đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản, dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Đông Dương. Các người đã từng làm chức sắc cho chế độ cũ, hành vi tội lỗi trong quá khứ đều tạm thời bỏ qua, từ nay phải yên phận làm ăn, không được túm năm tụm ba, bàn tán, kích động bà con nông dân chống phá chính quyền. Ai cố tình vi phạm chúng tôi buộc phải xử lý, lúc ấy đừng có trách.

Bà cả Huê bĩu môi cười nhạt:
- Tức là xử bắn chúng tôi phải không ?

Khúc Kiệt gật đầu:
- Cái đó còn tuỳ thuộc vào mức độ nặng nhẹ của tội trạng. Chẳng hạn việc bà xúi tá điền không nhận quần áo cứu trợ cũng như kích động ông Sách nói năng bừa bãi là đã đủ điều kiện lãnh án tử hình.

Bà cả Huê nhảy thách lên như bị ong châm:
- Nhà ông đừng có gắp lửa bỏ tay người nhá. Bọn tá điền không nhận của bố thí là việc của họ, can hệ gì đến tôi. Đừng có lên mặt dạy đời. Con Nhân nhà ông kia kìa, chửa hoang với lý Quỳnh rồi bỏ làng đi biệt tăm, sao không đưa hắn ra mà tùng xẻo.

Khúc Kiệt bị khiêu khích, không kìm được rút ngay khẩu súng pạc hoọc nòng dài ngoẵng, lên đạn rốp rốp chĩa vào vợ goá chánh Đàm . Một đội viên An ninh nhanh tay giữ lại hướng nòng súng lên trời. Tiếng nổ chói tai . Viên đạn xuyên mái ngói âm dương, mảnh vỡ rơi xuống sàn đình rào rào làm cánh Lê Bang được một phen hoảng hồn.

Khoá Kiệt mặt lạnh như tiền bảo người thư ký:
- Tạm thời đưa bà cả Huê với ông đồ Sách vào hậu cung, nhớ canh giữ cẩn thận, họ mà trốn mất là các anh phải ngồi thay đấy. Các vị đây có thể về nhưng không được ra khỏi làng. Ông Quỳnh ở lại tôi có việc cần hỏi.

Lê Bang ra tới sân rỉ tai phó lý Kiền:
- Chuyến này lý Quỳnh gay rồi ...

Chánh hội Bường cũng thì thầm:
- Bà cả Huê cậy thế chị dâu, quá lăng loàn phen này đi tù là cái chắc.

Trong đình, Khúc Kiệt hỏi Ngô Quỳnh:
- Tôi có nghe chuyện về con Nhân với tay Lãng nhưng không ngờ sự việc lại kết cục như thế. Ông đã thương thì thương cho trót vậy mà lại để nó đi khỏi làng.
N
gô Quỳnh đã hơi yên tâm vì Khúc Kiệt không biết cái việc ông ta cho người đi báo quan vội thanh minh:
- Cô nhà tính tình khác người lắm, khuyên nhủ mấy cũng không chuyển. Vào đúng dịp tôi phải hộ đê bên Trung Hà thì cô ấy bỏ nhà đi.
- Những ai đưa ra hình phạt đóng bè trôi sông ?
- Bà cả Huê và cánh phó Lý Kiền.
- Được, tôi sẽ cho con mẹ địa chủ này biết tay. - Khúc Kiệt giáng mạnh nắm đấm xuống án thư - Về phần ông, từ nay tôi đề nghị đảm nhiệm chức chủ tịch Liên việt xã. Đó là việc tập hợp các tầng lớp xã hội, giúp chính quyền củng cố khối đoàn kết, trấn áp bọn Việt gian phản động chống phá Cách mạng.

Lý Quỳnh ngập ngừng hỏi:
- Vậy tôi có được ra khỏi làng không ?
- Ông đã là cán bộ Việt Minh đi đâu là quyền ông.
- Thế thì tốt quá. Tôi không ngờ ông chủ tịch lại chiếu cố
- Chuyện nhỏ nói làm gì . - Khúc Kiệt phẩy tay - Đầu tháng, ông đến đây nhận con dấu. Giờ ông có thể về. Tôi còn phải làm việc với anh em bên Đậu Khê thành lập đội tự vệ.

Việc bà cả Huê bị giam sáng hôm sau được một viên An ninh báo lên huyện. Chủ tịch Lê Văn Vận vội cưỡi ngựa về làng Cùa. Dân xóm Trại Cá không thể nhận ra anh con rể chánh Đàm sau mười năm lang bạt kỳ hồ. Tuy mới ba chục tuổi nhưng vị chủ tịch huyện Nam Thành đã có tác phong chững chạc của một cán bộ từng trải. Anh ta ngồi thẳng đuỗn trên con ngựa lang cao lớn,dáng dấp y hệt ông nhạc ngày trước mỗi khi xuống các làng công cán hoặc lừa mấy bà vợ đến với ả nhân tình. Quả thật Vận cũng hơi ngại vì cái án giết lão chánh tổng hồi trước, nhưng nỗi sợ hãi lập tức nhường chỗ cho niềm kiêu hãnh của một kẻ đang đắc thế.
- Hãy quên chuyện cũ đi . - Anh ta tự bảo mình - Ta bây giờ đường đường là một ông chủ tịch huyện về địa phương công cán, bên cạnh lại có anh em An ninh bảo vệ, sợ quái gì. Kẻ nắm quyền lực trong tay là kẻ thống trị xã hội. Hơn nữa, cách mạng có nghĩa là phá bỏ cái cũ, xây dựng cái mới theo một trật tự khác hẳn. Lúc này cần phải quyết đoán.
Về đến đình Cả, Lê Văn Vận vừa xuống ngựa, lập tức cho gọi Khúc Kiệt đến quở trách về tội lạm dụng quyền hành bắt người vô cớ rồi ra lệnh thả đồ Sách và bà cả Huê. Chị em Khúc Thị Huệ và Khúc Luận thập thò ở ngoài cổng nhìn vào. Chúng không biết và cũng không tin đấy là "anh rể" mặc dù từ mấy hôm trước dân làng Cùa đã bàn tán khá nhiều sự kiện này. Khúc Luận vừa thấy và bà Cả cắp nón bước ra đã hỏi:
- Ông chủ tịch huyện có phải là anh Vận không mẹ ?

Bà Chánh quắc mắt:
- Câm mồm ! Không được nói xằng. Thằng Vận chết mất xác ở rừng Đà Bắc từ lâu rồi.
- Sao con nghe ông phó lý bảo …
- Về nhà ngay ! Chuyện người lớn chúng mày biết gì mà bép xép.

Chủ tịch huyện về làng làm dân chúng xôn xao. Người ta nô nức rủ nhau ra đình nghe vị đại diện cách mạng nói về Nhà nước dân chủ mới và chủ trương người cày có ruộng của mặt trận Việt Minh. Sân đình lúc này trở lên quá chật với khối quần chúng đông đảo đang chen vai thích cánh nhau, ai cũng muốn nhìn thật rõ mặt người lãnh đạo cao nhất của địa phương. Thường Rỗ, Trịnh Doãng xuýt xảy ra ẩu đả chỉ vì tranh nhau đứng trên chiếc cối đá thủng vẫn dùng đập lúa kê góc sân. Bọn trẻ con nhiều đứa tinh ranh, leo tót lên chạc cây nhãn nhòm vào. Chỉ đàn bà con gái chân yếu tay mềm là thiệt. Họ bị đẩy ra tận phía bờ ao. ở vị trí ấy, chị em chẳng nhìn thấy gì ngoài những cai đầu lô nhô cao thấp với đủ thứ mùi hôi hám rất khó ngửi của đám lực điền bị gió tây nam nóng hầm hập phả tới.

Khúc Luận năm ấy đã vào tuổi mười bốn, người phổng phao, leo trèo rất giỏi. Cậu ta cùng với thằng Đậu, con phó lý Kiền, ngồi vắt vẻo trên cây xoan đào ngay đầu hồi dãy nhà ngang. ở chỗ ấy, chúng bao quát được toàn bộ quang cảnh cuộc mít tinh mà chẳng cần phải chen lấn, chỉ có điều là không thoải mái lắm, do phải bám vào cành cây, chân tay bị tê. Mục đích của Khúc Luận đến đây không phải chỉ nghe ông chủ tịch diễn thuyết mà để xác minh xem, nhân vật quan trọng này có phải là Lê Văn Vận, kẻ đã giết bố mình không. Khúc Luận căm thù anh ta đến tận xương tuỷ, chính vì vậy, đã nhiều lần nói với bà cả Huê, hễ có dịp là phải thanh toán sòng phẳng để vong linh ông Chánh được thanh thản. Năm Quý Mùi Khúc Kiệt đánh nhau với quân Nhật, Khúc Luận lấy được khẩu súng "dóp" cùng bao đạn của một đội viên áo Đen bị tử thương bên cạnh gò Me. Trong cơn hoả hoạn, làng Cùa nháo nhào, ai cũng lo thoát thân, mấy người để ý đến chuyện súng ống. Khẩu súng được cậu ta bôi một lớp mỡ bò, quấn giẻ tẩm dầu luyn, giấu trong căn hầm dưới tầng trệt ngôi nhà gác. "Nếu quả thật hắn là Lê Văn Vận thì mình phải nhanh chóng ra tay" - Khúc Luận thầm nghĩ - "Trước hết cần lau súng cho sạch sẽ, sau đó vào rừng Hóp bắn thử đã. Chỉ sợ lúc hành sự, đạn thối hoặc khoá nòng bị kẹt thì khốn. Hắn sẽ chẳng nể nang gì mà không treo mình lên cành đa xử tử như Khúc Kiệt đã bắn chánh tổng Cao Lộng".

Cậu công tử bột đang hình dung kẻ thù bị luồng đạn xé toang lồng ngực, thì từ chiếc bục cao trên sân đình, ông chủ tịch cất giọng sang sảng:
- Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân. Chúng ta đã giành được độc lập từ tay phát xít Nhật nhưng trước mắt còn gặp nhiều khó khăn . - Vận ngừng lại, đưa mắt lướt qua đám quần chúng đông đảo rồi chém tay vào khoảng không nhấn mạnh - Đó là nạn đói, nạn dịch và nhất là kẻ thù dân tộc đang rình rập, hễ có thời cơ là chúng ngóc đầu dậy, chống phá nhà nước dân chủ cộng hoà. Cụ Hồ dạy, phải nâng cao cảnh giác cách mạng đoàn kết dân tộc, xoá bỏ áp bức bóc lột.
- Hồ chủ tịch vạn tuế ! Cách mạng vạn tuế ! Chính quyền dân chủ cộng hoà vạn tuế!

Một đội viên An ninh bỗng hét to vào chiếc loa sắt tây. Anh ta ngoáy loa một vòng, đẩy những âm thanh nhát gừng ra tứ phía, thế là khối quần chúng lập tức hưởng ứng bằng hàng ngàn tiếng hô dõng dạc với đủ mọi cung bậc đồng loạt dậy lên như sấm tháng ba rùng rùng chuyển động một góc trời :
- Hồ chủ tịch vạn tuế .. uế ! Cách mạng vạn tuế .. uế ! Chính quyền dân chủ cộng hoà vạn tuế … uế … uế!
- Vậy mà ở ngay làng Cùa của bà con ta vẫn còn những kẻ cố tình chống phá Cách mạng. - Vận bỗng khoát tay ra hiệu cho đám dân chúng trật tự rồi lên giọng răn đe - Thời thế đã chuyển đổi. Tây thua. Nhật bại. Giai cấp cần lao Việt Nam đã giành được chính quyền. Đó là thực tế hiển nhiên không ai có thể phủ nhận. Từ giờ phút này, chỉ có những kẻ vô lương tâm, những kẻ luôn nuôi trong lòng mối hận thù giai cấp mới thờ ơ với thành quả vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám . Nhân danh chính quyền Cách mạng, tôi kêu gọi bà con hết sức cảnh giác, hãy đoàn kết thành một khối thống nhất, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu đen tối của bọn phản động.

Người đội viên An ninh lại chõ loa ra tứ phía gào lên:
- Đả đảo bọn phản động tay sai thực dân đế quốc chống phá cách mạng !

Lại hàng ngàn tiếng hô đồng thanh "đả đảo". Ai cũng muốn hét thật to để tỏ rõ uy lực của quần chúng cần lao nên buổi mít tinh lúc này biến thành một cuộc thi gào thét có một không hai ở vùng Ba Tổng, đến nỗi, mãi ba hôm sau bọn Thường Rỗ, Bảy Ngạnh và lũ thanh niên choai choai vẫn còn khản cổ. Luận chợt thấy lạnh sống lưng. Cậu ta không còn đủ sức bám mãi trên chạc cây bởi làn sóng "đả đảo" rùng rùng đập vào cân não, nếu không tụt xuống mau có khi ngã vỡ đầu.

Sau cuộc mít tinh, Lê Văn Vận bảo Khúc Kiệt:
- Chú đừng gây căng thẳng với bà con dân làng. Tình hình chung bây giờ không tốt lắm đâu. Phải cân nhắc thật kỹ trước khi hành động để còn có lực lượng quần chúng làm chỗ dựa sau này.

Khúc Kiệt có vẻ bất bình:
- Thế là tư tưởng hữu khuynh đấy ông chủ tịch ạ ! Theo tôi, bọn Lê Bang, Ngô Quỳnh đồ Sách và cả con mẹ cả Huê nữa là cứ phải xử bắn tuốt để làm gương cho những kẻ đang nuôi ý đồ phản loạn.
- Tôi lạ gì bản chất bọn này. -Vận cười gằn bảo - Nhưng xử lý chúng ngay bây giờ là đám chức dịch vùng Ba Tổng ra mặt chống đối ngay. Chú nên nhớ, bọn Tàu Tưởng lấy danh nghĩa Đồng Minh giải giáp quân Nhật đang làm hậu thuẫn cho các đảng phái phản động hoành hành khắp nơi. Chúng mà nổi lên kích động dân nghèo chống phá chính quyền thì chú toi mạng.
- Anh không nhớ ông Lý Ninh[1] nói cách mạng là phải dùng bạo lực à ?
- Cái đó phải vận dụng vào từng hoàn cảnh cụ thể, không phải lúc nào cũng bắn giết bừa bãi được. Vừa rồi chú nhắc đến bà cả Huê, chiều nay bảo bà ấy ra đây tôi muốn gặp trước khi về huyện.

Khúc Kiệt ngập ngừng:
- Không nên. Con mẹ này là loại đàn bà thù dai. Cái vụ anh ngộ sát lão Chánh bà ta chưa quên đâu.
- Chú yên tâm, tôi đã có cách.
- Lại còn thằng Khúc Luận nữa. Cái thói khệnh khạng, hách dịch thì giống hệt bố. Ranh con chưa ráo máu đầu mà đã dám sang chòng ghẹo con Nhân. Lúc ấy tôi mà ở nhà thì sẽ cho nó viên đạn vào đầu.
- Trẻ con, chấp nó làm gì ?
- Đừng coi thường thằng mất dạy ấy. Bà cả Huê toàn nhồi nhét vào đầu nó tư tưởng phản động. Chưa biết chừng nó xuyên dao găm vào lưng anh lúc nào không hay.

Nghe Khúc Kiệt, Vận thoáng rùng mình, thầm nghĩ, thì ra bà cả Huê ghê gớm hơn anh ta vẫn tưởng. Thôi được, ta sẽ tuỳ cơ ứng biến, nếu cần thì cho giam lại.

Mấy đội viên An ninh thấy bà cả Huê liền dẫn vào trong đình. Bà ta có vẻ không ngạc nhiên khi nhận ra anh con rể trong bộ quần áo gụ cắt theo kiểu thành thị ngồi sau chiến án thư sơn son:
- Xin có lời chào ông chủ tịch huyện. - Vợ Chánh Đàm hơi nghiêng người cất giọng the thé như đang diễn tuồng. - Chúng tôi đến trình diện theo lệnh đòi...

Lê Văn Vận chỉ tay vào chiếc ghế ngựa mới được chuyển từ nhà Bảy Ngạnh trê ra, bảo:
- Bà ngồi xuống đây tôi có việc cần hỏi.

Bà Cả Huê nhìn trước nhìn sau thấy không có ai liền hỏi nhỏ:
- Cậu là cậu Vận thật đấy à?
- Chả nhẽ bà Chánh không nhận ra tôi?
- Trước đây mặt cậu làm gì có vết sẹo dài thế kia?
- à , bị thằng Tây lai đánh trong tù.
- Cậu bỏ làng đi những đâu mà giờ mới về?
- Chuyện dài lắm kể một lúc không hết được .
- Dì lánh đâu?
- Cô ấy bị ngã nước chết trên rừng Phiềng Sa từ năm Hợi.

Bà cả Huê chép miệng :
- Vậy là cũng xong một kiếp người.

Vận lưỡng lự một lát rồi hỏi:
- Con bé… dạo này?
- Cậu hỏi con bé nào?
- Tôi nghe ông Khoá Kiệt bảo năm ấy……Chị đẻ con gái.
- Cái lão thủ lĩnh áo Đen toàn đơm đặt chuyện.
- Tôi hỏi nghiêm chỉnh đấy. Nó là con gái thật à?

Bà cả Huê lắc đầu:
- Mọi chuyện đã qua rồi đừng nhắc lại nữa. Lão khoá Kiệt chẳng tử tế gì đâu. Cậu phải dè chừng hắn. Vì hắn mà làng Cùa bị quân Nhật triệt hạ.
- Làm cách mạng như là trò đánh bạc ấy, nhiều lúc phải chịu tổn thất. - Lê Văn Vận chậm rãi phân tích - Bà thử nghĩ xem, gia đình ông ấy giờ còn những ai? Không có những người dám xả thân như khoá Kiệt thì làm gì có nền độc lập. Nhân đây tôi cũng nói cho bà rõ, thái độ hằn học với Cách mạng là rất không có lợi cho bản thân và gia đình. Sau này nếu xảy ra chuyện gì tôi cũng đành chịu.

Bà Cả cúi đầu ra vẻ ngẫm nghĩ, bất chợt ngẩng lên hỏi:
- Cậu có về thăm nhà một lúc không?
- Bà đuổi mẹ con người ta sang sông rồi còn hỏi tôi làm gì?
- Còn con Huệ ? - Bà Chánh hạ giọng - Cậu cũng phải nhìn qua xem mặt mũi nó thế nào chứ.
- Thôi được. - Vận bảo bà cả Huê - Chị cứ về đi. Ngày mai tôi vào nhà ông Khoá Kiệt rồi nhân tiện rẽ sang, như thế bà con làng Cùa không nói vào đâu được.

Vậy là kế hoạch thay đổi. Vào lúc chập tối, mấy anh em trong đội công tác tập hát cùng các cô thôn nữ xóm Đình. Đám trẻ con vắt mũi chưa sạch vây quanh lẩm nhẩm bài “Cùng nhau đi hồng binh” theo cái giọng kim uốn éo như giọng cung văn của người đội trưởng. Mấy ngọn đuốc cháy đùng đùng, tàn bay như sao sa, thỉnh thoảng lại nổ lép bép toả thứ ánh sáng chập chờn làm bóng người vặn vẹo trên nền gạch Bát Tràng. Vận lững thững thả bộ quanh bờ giếng. Anh ta lưỡng lự một lát rồi bứơc qua đầu đình. Đường đi lối lại làng Cùa Vận thuộc như lòng bàn tay. Từ đây đến nhà chánh Đàm chỉ qua vài ngõ. Kia rồi, đi hết con đường hẻm này là đến bờ rào nhà ông Khoá. Đang bước Vận chợt thấy lạnh toát ở bả vai, tiếp đến là tiếng nổ giống như pháo đùng ngày tết ở phía cây duối nhà Ba Vếnh cách đấy hơn chục bước chân. Phải đến mấy giây ông chủ tịch mới có cảm giác đau. Nó giống như mũi khoan thép, nóng bỏng xoáy vào tận xương làm Vận không thể đứng vững.

Nghe tiếng nổ, mọi người từ các ngõ đổ xô đến. Lê Văn Vận được đưa ngay về đình sơ cứu. Khúc Kiệt cùng đội tự vệ khẩn cấp truy tìm thủ phạm. Lúc ấy mới đầu canh hai. Đêm cuối tháng tối sẫm. Bầu trời u ám không một vì sao. Từ trên cao thỉnh thoảng vọng xuống tiếng sấm lục bục báo hiệu sắp có mưa. Khắp các ngõ ngách làng Cùa, đèn đuốc thắp sáng như hội hoa đăng. Chiêng trống cùng với tiếng loa sắt tây chốc chốc lại rộ lên chẳng khác gì đám rước thần. Lê Bang, phó lý Kiền, chánh hội Bường, đồ Sách và bà cả Huê lại bị điệu ra đình. Toàn bộ thanh niên nam nữ bần cố nông xách giáo mác, gậy tày, tay thước lập thành tổ xung kích toả đi khắp các xóm giúp đội tự vệ giữ gìn trật tự. Đến cuối canh tư thì họ tóm được Khúc Luận đang ngồi thu lu trong thùng trấu nhà ông cả Duệch tận xóm Cầu Đá. Mới bị tay đội trưởng tự vệ quất cho ba roi cậu ta đã ngoan ngoãn nhận tội, khai ra chỗ vứt khẩu súng “dóp”. Thường Rỗ lập tức lội xuống ao nhà ba Vếnh mò tang vật. Lúc ấy trời đã rạng sáng. Cánh lý dịch được thả về còn Khúc Luận bị giải lên huyện.

Viên đạn bắn từ phía sau, xuyên qua phần mềm bả vai phá ra ngoài nên không nguy hiểm đến tính mạng. Người y tá trong khi rửa vết thương bảo Lê Văn Vận :
- Số ông may đấy. Viên đạn chệch xuống dưới một chút vào tim thì không cứu được.
- Tôi phải nằm đây bao lâu?
- Nhanh nhất cũng là một tuần.
- Không được! - Vận giẫy nảy lên - ngày kia tôi có cuộc họp quan trọng trên tỉnh không thể vắng mặt. Bệnh viện cứ cho tôi ít thuốc là được.
- Thưa ông chủ tịch, vết thương đã nhiễm trùng, cần phải tiêm thuốc để chống hoại thư, ông không chấp hành kỷ luật bệnh viện sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
- Anh yên tâm . - Vận thản nhiên bảo - Họp xong tôi sẽ trở lại ngay.

Thực ra Vận không có cuộc họp nào mà anh ta lo cho Khúc Luận. Chậm lại một chút bên công an đưa cậu ta lên tỉnh thì sự việc càng thêm rắc rối. Hành vi ám sát chủ tịch huyện chắc chắn là sẽ bị xử bắn. Vận thầm nghĩ, Lánh chết rồi, trên đời này nó chẳng còn ai thân thiết ngoài bà Cả Huê. Có điều mình và bà ta lúc này đều không thể cho nó biết rõ thân phận. Sau này sẽ hay, còn bây giờ phải tìm cách cứu thằng bé đã. Cũng may, trưởng ban An ninh là Khúc Kiệt.

Tầm nửa chiều Khúc Kiệt có mặt tại nhà thương. Thấy Vận đã ngồi dậy được, ông Khoá có vẻ phấn khởi bảo:
- Ngày mai phải đưa thằng ôn con lên công an tỉnh để người ta nói chuyện với nó.

Vận lắc đầu:
- Thằng bé còn đang tuổi vị thành niên, nhất thời hành động thiếu suy nghĩ, nên tha cho nó. Hơn nữa trước đây tôi cũng có lỗi ...

Khúc Kiệt vỗ vỗ vào khẩu súng ngắn lúc nào cũng kè kè bên sườn, nghiêm giọng:
- Đối với bọn phản động ta phải thẳng tay trừng trị, nương nhẹ với chúng là mất chính quyền như bỡn.

Vụ án này tất có kẻ đứng đằng sau xúi giục chứ một mình thằng nhãi ranh ấy không dám làm. Theo tôi, cứ tóm cổ con mẹ cả Huê tẩn cho một trận là phải khai ra hết.

Vận cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi làm ra vẻ tán thành:
- Có lẽ chú nói đúng. Tình hình bây giờ đang rối ren, phải áp dụng biện pháp mạnh để răn đe bọn phản động.
- Việc này anh cứ để tôi . - Khúc Kiệt gật đầu - Mà cũng không nên giải đối tượng về tỉnh nữa. Ta làm trong phạm vi địa phương cho gọn.
- Đúng lắm . - Vận tán dương ông chú vợ - ở huyện có được một trưởng ban An ninh như đồng chí chúng tôi rất yên tâm. Ngay tối nay đồng chí về làng Cùa ổn định tình hình, trấn an nhân dân địa phương và điều tra xem những kẻ nào đứng đằng sau thằng bé, nhưng phải nhớ, chưa có lệnh của huyện không được tự tiện bắt bà cả Huê.

Khúc Kiệt đang hăm hở chợt ngớ người ra:
- Sao thế ? Tôi nghĩ ta cần tóm ngay con mụ ấy.
- Phải tập hợp đủ chứng cớ đã. Chú cứ bắt lấy được khác gì rút dây động rừng.
- Thôi được, tôi nghe anh.

Đêm hôm ấy Vận lẻn về huyện cùng người thư ký thân tín vào nhà giam trước đây là Trại Lệ của tri huyện Cáp Văn Tòng. Khúc Luận ngồi thu lu một góc, mặt sưng húp, có lẽ trước đấy nó đã bị đánh đau. Nhìn thấy Lê Văn Vận thấp thoáng dưới ánh đèn dầu tù mù, thằng bé vênh mặt cười gằn:
- Chắc ông chủ tịch đến đem tôi đi xử bắn ?

Vận nhìn thằng bé rất lâu. Anh ta không thể ngờ nó lớn nhanh đến thế. Tâm trạng Vận lúc này khó có thể diễn đạt bằng lời. Đó là sự pha trộn giữa tình cảm cha con với nỗi căm hận lão chánh tổng, những trận đòn thừa sống thiếu chết của gã Tây lai trong nhà tù Sơn La cùng với đôi mắt thảng thốt của Mạc Thị Lánh trước lúc về thế giới bên kia. Thằng bé đã bị bà Cả Huê biến thành kẻ thù với chính người từng sinh ra nó mặc dù từ dáng dấp đến cách ăn nói giống mẹ như đúc. Đó là phẩm chất ngang tàng, phóng túng như con ngựa bất kham với thứ ngôn ngữ buông tuồng không chịu tiết chế theo quy tắc ứng xử của xã hội. Lúc này không thể nói cho nó hiểu được. Hơn nữa, nói ra những điều hệ trọng ấy là mất chức ngay, thậm chí có thể còn bị tống giam. Chính quyền mới thành lập, phải đối mặt với đủ loại kẻ thù, thậm chí kẻ thù ẩn náu ngay trong hàng ngũ Cách mạng, sẵn sàng hạ gục anh một khi mất cảnh giác. Loại cũng không kém phần nguy hiểm nữa là bọn cực đoan, quá khích, nhân danh Cách mạng để thanh toán lẫn nhau vì ân oán trong quá khứ. Khúc Kiệt chỉ là một trong những trường hợp điển hình. Phải giải thoát cho thằng bé trước khi khoá Kiệt trở về. Ông ta vốn rất gàn, ít khi chịu nghe lời người khác góp ý. Vụ này để cho trưởng ban An ninh giải quyết, Khúc luận khó thoát khỏi án tử hình. Nghĩ vậy, Lê Văn Vận bảo:
- Cậu có biết tội cố ý giết người bị xử thế nào không ?
- Chết là cùng chứ gì?- Khúc luận tỏ ra chẳng có gì sợ hãi, giọng khiêu khích.
- Cậu đoán đúng đấy. - Vận gật đầu - Nhưng tôi biết, việc rình bắn tôi không phải tại cậu mà là cậu nghe người ta xui dại. Là đấng nam nhi đừng bao giờ làm chuyện khuất tất mà phải hành động danh chính ngôn thuận người ta mới phục. Cậu nấp một chỗ rồi bắn lén như thế là không quân tử.
- Vậy ông cầm cán cuốc đập vào đầu bố tôi có phải quân tử không?

Vận cười khẽ :
- Ông Chánh dùng mác đâm, tôi tự vệ là chính đáng. Việc này mẹ con bà Hai biết rất rõ.
- Hừ ! Bây giờ ông là chủ tịch huyện nói gì mà chả đúng. - Thằng bé nhấm nhẳng nói - Vậy mẹ tôi đâu ?
- Việc ấy sẽ nói với cậu sau. Giờ hãy nghe đây. Tôi sẽ thả cậu ra nhưng không được về làng Cùa. - Vận ngập ngừng một lúc rồi nói -Về đấy là bị khoá Kiệt bắt ngay. Mà cậu biết đấy, một kẻ có âm mưu sát hại cán bộ Cách mạng rơi vào tay trưởng ban An ninh thì số phận như thế nào rồi.

Nói xong Vận ra ngoài ghé tai người thư ký và một đội viên An ninh vẫn đứng canh chừng :
- Các anh đưa cậu ta sang bên kia sông Lăng, hỏi nhà ông lái Lự ở kẻ Bòng rồi về báo cho tôi biết.
Khoá Kiệt biết tin Khúc Luận trốn chạy thì cậu ta đã vượt sông Lăng ở bến Cự Tân. Đội quân An ninh toả ra khắp nơi truy tìm nhưng ba ngày sau vẫn chẳng có tin tức gì. Ông ta bực mình cáu với cả chủ tịch huyện:
- Giá anh đừng bảo tôi về Ba Tổng thì thằng ranh con ấy không biến mất. Tôi đã bảo, thằng này giống địa chủ cường hào, lắm mánh khoé chứ không như anh nghĩ đâu.

Vận giả bộ lúng túng như người mắc lỗi:
- Tôi thật không ngờ thằng này lại ma ranh đến thế. Chú cứ cho anh em tiếp tục truy lùng. Phen này mà tóm được phải đưa ra toà xử công khai trước toàn thể nhân dân.
- Tôi đề nghị phải tống giam và kỷ luật thật nặng mấy tay đội viên canh gác.
Vận xua tay bảo :
- Lỗi ấy là tại tôi, không phải do anh em canh gác. Chả là tầm nửa đêm, vết thương sưng tấy lên đau quá, tôi bị choáng, thế là các cậu ấy xúm vào đưa đi bệnh viện, không ngờ...

Khúc Kiệt vẫn còn hậm hực, giọng bực bội:
- Anh chủ quan quá.

Sang đến làng Bòng, Khúc Luận vẫn không hiểu vì sao Lê Văn Vận tha mình. Hơn nữa, anh ta còn cử người thân tín đang đêm dẫn cậu bí mật sang sông. Còn nhớ, lúc đến bãi chuối xóm chài Cự Tân, nhìn cảnh đồng ruộng xác xơ, ba người vật vờ như những bóng ma dưới bầu trời mông lung, cậu ta bỗng khóc nấc lên bởi nỗi sợ hãi bị thủ tiêu:
- Các ông định mang tôi ra sông dìm chết phải không ?

Người đội viên An ninh có đôi mắt lác trông như mắt thuỷ tinh bực mình gắt:
- Cậu mà hét lên nữa là tôi cho mấy cái bạt tai.

Người thư ký trẻ hơn, có cái mũi vẹo, giọng khê nồng như người nghiện thuốc lào, mỗi khi bực mình anh ta hay văng tục:
- Mẹ kiếp, có câm mồm không thì bảo.

Người lái đò bị dựng dậy bất chợt, ngái ngủ càu nhàu:
- Có việc gì để đến sáng, giờ này đếch sang sông đâu.

Đó là một lão già tầm thước, không nhìn rõ mặt nhưng ước đoán cũng phải ngũ tuần. Lão nằm co ro trên chiếc ổ rơm trong căn lều tùm hum như lều chăn vịt thỉnh thoảng lại khậm khoạc ho. Gió đông nam bất chợt rồ lên. Lá chuối đập phành phạch làm lũ chim đêm bay nháo nhác. Một đàn đom đóm chập chờn lúc gần lúc xa, phát ra thứ ánh sáng lạnh lẽo, xanh lét làm căn lều cứ nhập nhoà như âm cung.
- Dậy ! Ông lão . - người có cái mũi vẹo quát khẽ - Có công văn khẩn.
-Thượng khẩn cũng để đến sáng mai. - Lão lái đò xem ra không phải loại dễ dàng cho người khác sai bảo, ngáp liền mấy cái rồi lại tiếp tục ngáy.
- Có dậy không ? - Vẫn người thư ký mũi vẹo vừa quát vừa lên đạn khẩu tuyn[2] làm
lão lái đò hoảng hồn :
- ấy ! đừng bắn! Tôi sang ngay đây.

Đêm đen thẫm. Trời ong ong. Những ngọn gió hiếm hoi lúc này không còn lang thang trên sông. Mặt nước lặng như tờ, thỉnh thoảng mới có gợn nhẹ không đủ cho sóng lao xao. Con thuyền lần mò trong đêm như một kẻ mù loà phải dùng gậy dò đường nhưng vẫn vào đúng bến chứng tỏ tài nghệ không thể phủ nhận của lão lái Quých. Bên này cũng là một bãi chuối. Dịch vào phía trong một chút là dẫy chuồng trâu bỏ hoang của lái Lự. Người thư ký và anh đội viên An ninh có vẻ khá thông thạo đường đi lối lại. Ba người về phía đầm Vực, khoảng canh tư thì đến làng Bòng. Anh mũi vẹo gõ vào cánh cổng một ngôi nhà giữa xóm . Các loại chó hình như đợi đến đúng lúc ấy mới nhất loạt sủa lên bằng đủ thứ giọng tạo thành dàn hợp xướng khủng khiếp, dai dẳng, đinh tai nhức óc. Lái Lự mắt nhắm mắt mở ra cổng. Lão đã bị nhiều vố mất của, thậm chí xuýt bị toi mạng nên không vội rút then ngay mà khẽ hỏi:
- Ai đấy?

Người thư ký nói chõ vào:
- Ông chủ tịch Nam Thành gửi bác cái thư.
- Chủ tịch nào? – Lái Lự cảnh giác hỏi lại.
- Ông Vận.
- Thư gì mà phải đưa ban đêm? - Lái Lự quát khẽ - Các người đừng có giở trò. Ta mà hô lên một tiếng, anh em tự vệ thôn đến thì có chạy đằng trời.
- Đất nước độc lập rồi làm gì còn trộm cướp mà ông Lái Lự cứ sợ bóng sợ vía. Người đội viên An ninh bảo - Ông Chủ tịch muốn gửi thằng bé con cô Lánh. Mọi việc ông Vận đã nói rõ trong thư. Cậu ta đang chờ ngoài này. Chúng tôi đi đây.

Phải một lúc lâu sau lái Lự mới dám mở cổng. Khúc Luận ngồi ngủ gật, tay vẫn cầm phong thư. Ông lái trâu vội đưa thằng bé vào nhà nhưng trong thâm tâm vẫn không dám chắc nó là cháu ngoại mình, bởi vì mười năm nay, từ khi con gái trốn khỏi làng, lão ngại không muốn đặt chân đến vùng Ba Tổng. Mọi sự liên hệ lái Lự đều thông qua Khúc Kiệt hoặc vài người bà con ở kẻ Bòng. Cũng chính vì thời gian đứt đoạn quá lâu như thế, Khúc Luận gần như chẳng còn nhớ chút nào về ông ngoại. Thường ngày ông ta còn bị bà cả Huê đơm đặt cho đủ điều xấu xa, nhằm nuôi dưỡng lòng căm ghét và thái độ khinh bỉ cho thằng cháu, đến nỗi khi nhìn thấy người đẻ ra mẹ mình, nó vẫn lạnh lùng, dửng dưng như từ trước đến nay chưa hề quen biết.

Đọc thư xong, Lái Lự mới hiểu sự tình. Ông bảo Khúc Luận:
- Cháu đã hiểu lầm anh Vận. Sự việc không đến nỗi ghê gớm như bà Cả vẫn nói. Bây giờ cứ ở đây với ông, mấy hôm nữa sẽ vào Lang Khê.
- Lại phải đi nữa? - Thằng bé hỏi cộc lốc.
- Chỗ này không được an toàn. Ông sợ dân làng có người thóc mách.
- Còn mẹ cả tôi? Họ có xử bắn bà ấy không?
- Cậu cả đừng nói dại.
- Tôi nghe ông Khoá Kiệt bảo thế.
- Ông ấy doạ cháu đấy.
- Vì sao ông Vận lại thả tôi khỏi nhà giam?
- Việt Minh họ không giết trẻ con. - Lái Lự buột miệng bảo.
- Khóa Kiệt cũng là Việt Minh, lại cùng họ nữa vậy mà ông ấy vẫn muốn xử bắn tôi.

Lái Lự gật đầu:
- Kể ra thì ông Khoá cũng hơi cố chấp, nhưng hoàn cảnh gia đình ông ấy như thế nên cũng phải thông cảm.
- Ai bảo ông ta đem quân áo Đen về làng Cùa.
- Thôi, chuyện qua rồi, đừng nhắc lại nữa, sau này cháu sẽ hiểu.


2. Khúc Văn đột nhiên về làng sau mấy năm biệt xứ. Anh ta không ở ngôi nhà tranh của gia đình họ Khúc mới được dựng lại mà đến tá túc trong chùa Từ Vân do sư Tuệ Văn trụ trì.

Chùa Từ Vân giống như một trang trại nằm giữa cánh đồng Vạn, từ xa chỉ thấy thấp thoáng những ngọn tháp rêu phong ẩn hiện giữa những lùm tre. Vì cách biệt hẳn với khu dân cư, lại được luỹ tre dày bao quanh nên quang cảnh ở đây lúc nào cũng thâm u, tĩnh mịch. Lúc hoàng hôn, khi sư thầy vào khoá lễ, chú tiểu leo lên gác tam quan gióng chuông. Tiếng chuông chậm rãi thả vào đồng quê yên tĩnh những âm thanh trầm trầm, buồn tẻ. Những ngày này, Khúc Kiệt đã lên hẳn trên huyện đảm nhiệm chức trưởng Công an kiêm trưởng ban An ninh. Chức chủ tịch uỷ ban xã Đoàn Kết được giao cho Đỗ Kim là người tổng Cao Đôi. Anh này trước vốn là tay chân của trùm cướp Ba Ngạc, bị tri huyện Cáp Văn Tòng tóm được tống vào trại La Tỉnh. Hồi tháng tám, Nhật đầu hàng Đồng minh, Đỗ Kim cùng với một số chính trị phạm phá ngục thoát ra ngoài. Tay này có máu cờ bạc, ban ngày làm việc hàng tổng tối lại rủ cánh đàn em sát phạt nhau đến quá nửa đêm. Sáng ra, mắt anh nào cũng díp lại ngáp lấy ngáp để như con nghiện lúc lên cơn thèm thuốc. Làm chủ tịch mới có nửa tháng, Đỗ Kim đã được kết nạp đảng. Sự kiện này rất có ý nghĩa đối với con đường thăng tiến của các cán bộ Việt Minh mới tham gia phong trào. Việt Minh lãnh đạo nhân dân cướp chính quyền nhưng đảng Cộng sản lại lãnh đạo Việt Minh. Thời Kỳ này, ở vùng Ba Tổng, ai không là người của Tổ chức nếu tham gia hoạt động xã hội thì được gọi là nhân sỹ yêu nước nằm trong Mặt trận Việt Minh nhưng thường chỉ là cơ cấu mang tính hình thức. Các đảng viên Cộng sản mới là những người nắm thực quyền. Từ lâu, Khúc Kiệt có mối quan hệ khá thân thiết với Đỗ Kim. Mỗi lần từ huyện về ông ta lại ra đình Cả hoặc cưỡi ngựa sang Cao Đôi bàn công việc với chủ tịch xã. Thực ra, Khúc Kiệt đề cử Đỗ Kim vào chức chủ tịch không phải anh ta có tài cán gì mà cái chính là để trả ơn một lần cứu mạng. Dịp ấy, ông Khoá bị mật thám theo dõi trong một lần giả làm người đóng cối đến nhà cai Kíu ở Cao Thượng lấy tin tức. Cai Kíu từ lâu đã là cơ sở của Huyện bộ Việt Minh. Cách đấy ít lâu cai Kíu bị Nhật bắt đã khai ra tất cả những gì mà hắn biết. Bọn Nhật đón lõng tóm được hầu hết cán bộ chủ chốt của huyện tống vào xà lim. Thấy ông thợ cối lảng vảng quanh mấy ngõ xóm, bọn cảnh binh và đám trương tuần sinh nghi đuổi theo. Khoá Kiệt quẳng đồ nghề chạy bán sống bán chết. Vòng vèo qua vài ngõ, ông Khoá nhìn thấy một ngôi nhà gạch liền đánh liều lách cổng vào. Hoá ra đấy là một đám xóc đĩa. Các con bạc đều là dân Ba Tổng, quen mặt nhau cả. Nhìn thấy Khúc Kiệt hớt hơ hớt hải, Đỗ Kim hỏi khẽ:
- Ông bị mật thám đuổi phải không?

Khoá Kiệt lấm lét nhìn trước nhìn sau chưa biết trả lời ra sao thì Đỗ Kim bảo tay chủ nhà đồng thời là chủ gá bạc:
- Phiền bác vào nhà lấy cho mượn bộ quần áo với chiếc khăn xếp.

Chủ nhà hiểu ý, kéo Khúc Kiệt vào buồng. Mấy phút sau, ông ta bước ra trong bộ trang phục mới, dáng dấp giống hệt một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Bọn mật thám, cảnh binh ập vào khám xét không thấy kẻ lạ mặt măc quần nái đen áo cánh nâu chít khăn đầu rìu nên bỏ sang nhà khác. Mãi đến trưa hôm sau Khoá Kiệt mới dám ra khỏi làng. Trước khi đi Khoá Kiệt hết lời cảm ơn Đỗ Kim. Anh ta bảo:
- Ông làm việc vì dân vì nước, chúng tôi thật sự kính phục, chỉ mong rằng sau này đất nước độc lập, chính quyền mới để cho dân cờ bạc có chỗ làm ăn.

Nắm được chức chủ tịch rồi, Đỗ Kim dần dần bộc lộ bản chất lưu manh của mình. Việc đầu tiên là anh ta nhờ bà đồng Chắt sang hỏi cô Mùi con gái ông trương Thép. Ông này bị bất ngờ liền tìm cách hoãn binh. Sở dĩ Đỗ Kim phải đi hỏi vợ thiên hạ là vì dân Cao Đôi không muốn gả con gái mình cho một gã chuyên cờ bạc, ăn chơi bạt mạng và nợ nần chồng chất. Sau một tuần, thấy vợ chồng ông trương Thép không tỏ thái độ gì, tay chủ tịch liền sắm hai gánh lễ vật sang làng Cùa. Lần này, trương Thép ra mặt từ chối, Đỗ Kim tức lắm, ra đến cổng, quẳng đồ sính lễ xuống ao, nhổ bọt thề độc:
- Chuyến này mà không lột truồng được con Mùi ra ta quyết không làm giống người.

Ba hôm sau, một tối cô Mùi vừa ra đóng cổng thì bị mấy tên trùm mặt nạ đen, chỉ hở hai con mắt túm lấy, nhét giẻ vào mồm rồi cho vào bao tải vác đi. Chừng canh ba bọn chúng đến Cao Thượng. Khi lũ tay chân đi khỏi, Đỗ Kim lôi cô gái vào buồng lúc này vẫn còn đang ngất xỉu vì sợ.

Ông bà trương Thép ra đình Cả trình báo với thường trực Uỷ ban Trần Quang Đắc và nhờ mấy anh cháu đi tìm kiếm khắp vùng Ba Tổng. Trần Quang Đắc vốn là học sinh trung học, Việt Minh cướp chính quyền, đang học lớp đệ ngũ, trường đóng cửa, bỏ về nhà nằm khàn đọc tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, được nửa tháng, buồn quá, nhận làm chân thư ký xã. Đắc chẳng ưa gì tay chủ tịch cũng như chính quyền mới, vì bọn họ gặp thời chứ thật ra đều là một lũ chân đất mắt toét và vô học . Nghe ông Trương vừa kể vừa sụt sịt vì cái sỵ con gái bỗng nhiên mất tích, Đắc bảo:
- Chưa biết chừng cô nàng đi theo trai rồi làm như thế để đánh lừa ông bà.

Bà vợ mếu máo:
- Từ trước đến nay nó là đứa nết na, biết nghe lời bố mẹ chả lẽ tự nhiên lại bỏ nhà đi.
- Chưa biết đâu mà nói chắc. - Vị uỷ viên thư ký khoát tay- Bây giờ nam nữ bình quyền, các bậc cha mẹ không bắt ne bắt nét con cái như thời đế quốc, phong kiến được đâu. Có thể ngày một ngày hai cô ấy về thôi.

Bà mẹ vẫn tức tưởi khóc:
- Đúng là con tôi bị bọn xấu bắt cóc chứ không phải nó theo trai. Thôi thì trăm sự nhờ chính quyền, mong các ông cứu cháu.
- Cách mạng mới thành công, chính quyền còn phải lo bao nhiêu chuyện quốc kế dân sinh, việc của gia đình ông bà chỉ là việc nhỏ, nhưng thôi được, ông bà cứ về đi, chốc nữa tôi sẽ xuống Cao Đôi báo cáo ông chủ tịch.

Nghe tin con gái ông trương Thép bị bắt cóc, Khúc Văn liền cử một số anh em thân tín bí mật điều tra. Chùa Từ Vân là nơi khá yên tĩnh, ngay cả thời Nhật chiếm đóng chúng cũng không dám vào quấy nhiễu. Chính quyền mới bước đầu tỏ ra tôn trọng tự do tín ngưỡng nên tổ chức “Hội dân cày” của anh ta hoạt động khá thuận lợi. Sau mấy năm lang thang khắp các xứ đông đoài, học được khá nhiều điều, anh ta đã có thời kỳ nghiên cứu chủ nghĩa Mác và xuýt gia nhập đảng Cộng sản. Tuy nhiên, qua mắt thấy tai nghe và nhất là những dịp tiếp xúc với các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng, chàng trai trẻ đã ngộ ra một điều chủ nghĩa Cộng sản chỉ là một thứ ảo tưởng. ở một nước thuần tuý nông nghiệp, đói nghèo và lạc hậu vào bậc nhất thế giới này, không thể có cái gọi là giai cấp vô sản đúng như ông Mã Khắc Tư và ông Lý Ninh định danh trong học thuyết của họ. Muốn đất nước thoát khỏi tình cảnh trì trệ hiên nay, trước hết phải làm cuộc Cách mạng nông dân, phải có một tổ chức thực sự của nông dân. ý tưởng ấy cứ nung nấu trong lòng làm Khúc Văn quyết chí thuyết phục bạn bè thành lập “Trung ương Hội dân cày” để phát động hơn hai chục triệu bần cố nông đứng lên đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời cải thiện bộ mặt xã hội đang ốm yếu cả về thể xác lẫn tinh thần từ hàng trăm năm nay. Trong nhận thức của mình, Khúc Văn luôn xem toàn bộ sự nghiệp Cách mạng mà Việt Minh đã làm chỉ là sự ăn may cho dù trước mắt họ đã giành được chính quyền. Thực chất, lực lượng của đảng Cộng sản lúc ấy rất mỏng, nhưng họ khôn ngoan chớp lấy thời cơ quân đội Nhật Hoàng thua trận trước khi các đảng phái chính trị khác kịp ra tay.

Những thành viên trong “Hội dân cày” cứ một tháng vài lần tập trung về chùa Từ Vân học “nghị quyết” và võ thuật. Không biết Khúc Văn tuyên truyền thế nào mà cả sư thầy trụ trì và mấy chú tiểu đều gia nhập tổ chức này. Trong cuộc họp Ban cán sự, một uỷ viên người tổng Cao Đôi nêu ra hiện tượng đáng chú ý. Nhà chủ tịch xã thời gian gần đây, cứ tầm chiều tối lại xuất hiện những kẻ lại mặt hành tung có vẻ mờ ám.

Khúc Văn nhận định:
- Tay này vốn dĩ là dân xóc đĩa thành thần, có thể hắn lợi dụng cái ghế chủ tịch để mở sòng bạc.
- Liệu bọn này có liên quan đến việc con gái ông trương Thép mất tích?
-Tôn chỉ, mục đích của chúng ta tuy không giống với Việt Minh nhưng đây rõ ràng là hành vi phạm pháp. Tôi nghĩ, cần phải báo ngay cho chủ tịch Lê Văn Vận hoặc trưởng ban An ninh huyện để họ xử lý.

Khúc Văn xua tay:
-Thế là các chiến hữu chưa hiểu gì về ông bố tôi. Ông ấy với Đỗ Kim trước đây đã từng đi lại với nhau...

Hoàng Thị Tịnh, cháu gái Lý trưởng Đậu Khê đã mấy lần bị Đỗ Kim cợt nhả, đưa ra ý kiến:
- Tôi cho rằng, có thể chính Đỗ Kim đã cho người bắt cô Mùi. Các anh cứ thử kết nối các sự kiện lại mà xem. Từ lúc tay Kim sang dạm hỏi đến khi cô ta mất tích là mấy ngày? Tại sao lại có sự trùng hợp ngẫu nhiên như thế?
- Không có lẽ ... - Khúc Văn lẩm bẩm rồi hỏi - Gia cảnh Đỗ Kim hiện nay thế nào?

Phạm Cửu, người tổng An Điền báo cáo:
- Bố mẹ Đỗ Kim đã chết. Mấy năm trước, hắn là một tay cờ bạc khét tiếng, đã từng kết bè đảng với bọn anh chị trên phố Phủ, sau dính vào đảng cướp, bị án bảy năm . Hắn trốn ra được là nhờ cánh chính trị phạm tổ chức vượt ngục . Từ khi làm chủ tịch đến giờ nhà Đỗ Kim luôn kín cổng cao tường, bên ngoài lúc nào cũng có đàn em canh gác.
- Theo tôi, việc này cứ để các ngài Việt Minh giải quyết. - Hoàng Thị Tịnh bảo - Tội gì ta thò tay nhúng vào, chẳng may thất lợi họ lại quy kết là phản Cách mạng.

Khúc Văn lắc đầu bảo:
- Cô Tịnh nói sai rồi. Hội của ta làm việc là vì dân chứ đâu phải vì chính quyền Việt Minh. Nên nhớ rằng, hiện nay họ đang lúng túng trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc. Ta phải tranh thủ cơ hội khẳng định uy tín của mình bằng hành động cụ thể.
- Anh Khúc Văn nói có lý. - Phạm Cửu gật đầu tán thành - Ngay đêm nay tôi cùng một số anh em về Cao Đôi tiếp tục thăm dò, sự việc thế nào sẽ báo cáo Ban cán sự.

Khúc Văn dặn:
- Tôi nhắc lại, việc này phải rất thận trọng, không được hở ra với ai kể cả người thân trong gia đình.

Trưa hôm sau, Phạm Cửu trong vai người quăng chài đến chùa Từ Vân Thông báo một tin quan trọng. Không phải chỉ một cô Mùi mà trong thời gian qua, vùng Ba Tổng có đến ba cô gái bị mất tích. Mấy hôm trước, dân vạn chài nhìn thấy một xác chết nổi lập lờ ở đoạn bến Trại sông Lăng. Sau khi tử thi được vớt lên, phải khó lắm người ta mới nhận ra đấy là Lê Thị Vượng con bà Bẩy Cừ ở Ngân Đôi. Cô gái bị trói hai tay, nhét giẻ vào miệng, trên người không một mảnh vải.
- Hừ ! Bọn này không còn là giống người nữa. - Khúc Văn nghiến răng bảo - Bên công an huyện đã cử người về điều tra chưa?
- Báo cáo ! Ông Khoá có dẫn hai đội viên đến khám nghiệm xác chết qua loa rồi cho chôn cất sau đó kéo nhau sang nhà Đỗ Kim uống rượu đến chiều mới về.

Khúc Văn cười gằn:
- Ông bố “ chuyên chính vô sản” của tôi bị tay trùm xóc đĩa lừa rồi. Thôi được, tối mai anh cùng anh Chương, anh Khả và anh Tuyến đi với tôi.

Đầu canh hai hôm sau, Khúc Văn gặp bốn hội viên ở miếu Cây Si. Người nào cũng giắt súng ngắn hoặc dao găm trong bụng, dáng dấp như những tay cờ bạc chuyên nghiệp, đi tắt lối Mạc Xá sang Cao Đôi. Nhà Đỗ Kim ở cuối xóm, vị trí khá hẻo lánh rất thuận lợi cho cánh đệ tử của thần đổ bác[3] hành nghề. Phía trước là dãy tường cao ngang đầu trên cắm mảnh chai, phía sau tiếp giáp với ao sâu, bờ ao trồng tre gai dày, rậm rạp như một bức luỹ tự nhiên. Lại Văn Chương và Lê Khả lảng vảng quan sát vòng ngoài. Khúc Văn, Phạm Cửu cùng Lương Văn Tuyến thản nhiên đẩy cổng vào, phong cách giống hệt dân đỏ đen. Một bàn tay cứng như sắt bất chợt chộp lấy vai Phạm Cửu quát khẽ:
- Đi đâu?
- Đi “khai hội". - Phạm Cửu nói đúng mật khẩu của đám xóc đĩa - Người anh em quên tớ rồi à?
- Đừng có cợt nhả ! _ Tay gác cổng vốn là thuộc hạ thân tín của Đỗ Kim hỏi dồn _ Còn những người này?
- Anh em nhà Vệ Khoà bên Cao Xá, đều là dân chịu chơi đấy.
-Vậy à? - tên vệ sĩ đảo cặp mắt nhìn Khúc Văn và Lương Văn Tuyến - có đủ “ngân” không ?

Khúc Văn vỗ vỗ vào bụng, nơi giấu khẩu súng ngắn bị phồng cộm lên, nheo mắt cười nhạt:
- Bọn này từ trước nay chưa ăn quỵt của ai bao giờ.
- Vào đi, nhớ cửa bên trái.

Dưới ánh đèn toạ đăng có chiếc thông phong rất dài, sáu bẩy tay cờ bạc đang sát phạt nhau. Đỗ Kim cầm cái, Thấy bọn Phạm Cửu chỉ khẽ gật đầu rồi hất hàm ra ý ngồi sang chiếu bên cạnh chờ. Trong buồng có tiếng động lạch cạch. Khúc Văn áp tai nghe nhưng không thấy gì khả nghi, có lẽ là chuột chạy. Dù sao cũng đã đến lúc phải hành động. Cả ba người nhất loạt rút súng ngắn ra quát:
- Nhân danh chính quyền Cách mạng, chúng tôi bắt các anh vì tội đánh bạc.
- Cái gì? - Đỗ Kim giật nảy người quay ngoắt lại - Các anh là ai mà dám ...?
- Đội An ninh của huyện. - Khúc Văn chĩa nòng khẩu Colt đã lên đạn vào gáy tay chủ tịch - tất cả nằm úp mặt xuống chiếu. Kẻ nào chống lại là ăn đạn.

Phạm Cửu, Lê Tuyến rút cuộn dây gai trói quặt cánh tay từng tên một rồi lột chiếc áo của một tên trong bọn xé ra nhét vào mồm chúng. Phía bên ngoài, Lại Văn Chương, Lê Khả nghe ám hiệu, biết là công việc đã xong liền xuống tay hạ gục tên gác cổng. Phải mất một lúc họ mới phá được chiếc khoá đồng to quá khổ vốn là thứ chỉ dùng để khoá cổng làng. Trong buồng không có gì ngoài chiếc giường gỗ lim cũ và mấy thứ đồ dùng lặt vặt không đáng giá.
- Chẳng lẽ mình đoán nhầm đối tượng? - Khúc Văn thầm nghĩ - Tội cờ bạc cùng lắm chỉ bị cách chức, phạt giam mấy ngày là cùng, vậy phải báo anh em rút ngay trước khi bọn chúng phát hiện ra.

Nghĩ vậy nhưng Khúc Văn vẫn cảm thấy trong gian buồng này có điều gì khác thường. Đó là loại mùi rất đặc trưng của đàn bà. Nó kia. Một chiếc áo cánh gụ được vắt trên con sào nứa. Như chợt nhớ ra, anh ta ghé tai Phạm Cửu thì thầm:
- Cậu tìm dưới gầm giường xem có gì không?

Phạm Cửu chui vào một lúc lại thò đầu ra bảo:
- Hình như bên dưới có hầm.
Chiếc giường lập tức được chuyển sang một bên để lộ ra một nắp hầm kích cỡ khoảng năm mươi phân. Khúc Văn nhìn thấy cây đèn chai treo góc buồng liền châm lửa đưa cho Lương Văn Tuyến :
- Khi nào tôi xuống đến nơi cậu phải thả đèn để soi.
V
ừa chạm đáy hầm anh ta đã đụng phải một vật mềm mềm như da thịt người. Đúng là một phụ nữ. Cô ta chỉ mặc mỗi chiếc váy thâm, nửa trên bị lột trần, mái tóc sõng sượt che gần hết khuôn mặt hốc hác.
- Cô là con gái ông trương Thép phải không?

Nạn nhân ú ớ chắc là sợ quá không nói được nên lời. Khúc Văn hỏi lại:
- Cô là Mùi ở làng Cùa phải không?
- Mùi ... đây, các bác cứu em ...

Đến quá nửa đêm, khi dân trong xóm đã hoàn toàn yên giấc Khúc Văn mới cho anh em ra khỏi Cao Thượng. Phạm Cửu là chàng trai có dáng dấp như võ sĩ đấm bốc, cõng cô Mùi. Khúc Văn đi giữa giong Đỗ Kim. Lương Văn Tuyến và Lại Văn Chương cảnh giới phía sau. Chừng nửa giờ cả bọn đến bãi chuối xóm chài Cự Tân. Khúc Văn kéo Đỗ Kim đến gò đất cao trước vốn là chỗ cắm lều của lão lái Quých, nhưng sau cái đêm bị mấy ông An ninh lôi dậy, gí súng vào tai, bắt phải chở đò sang sông thì hốt quá liền đốt lều, bỏ nghề, chuyển sang đánh giậm kiếm ăn. Đỗ Kim sợ hết hồn nhưng miệng bị tống giẻ nên chỉ ú ớ không nói được. Phạm Cửu lấy ra con dao găm và mảnh giấy đã viết sẵn mấy chữ đưa cho Lê Khả. Khúc Văn kéo ông chủ tịch lại gần ghé tai nói dằn từng tiếng :
- Nhân danh công lý, chúng ta xử tử ngươi vì tội bắt cóc, cưỡng hiếp con gái nhà lành.

Khúc Văn vừa tuyên án xong thì Lê Khả thọc ngay mũi dao nhọn vào yết hầu Đỗ Kim. Trong bóng đêm chỉ nghe thấy tay chủ tịch ặc ặc ở cổ họng như nồi cơm sôi sắp cạn nước, co giật liền mấy cái rồi đờ ra.

Trên trời cao những ngôi sao xanh đang nhấp nháy. Dòng sông vẫn chảy và gió từ trên triền đê vẫn rì rào thổi qua hàng tre chắn sóng.

Nghe tin chủ tịch xã Đoàn Kết bị ám sát, trưởng ban An ninh huyện vội đem người về Cao Thượng truy tìm thủ phạm. Người đầu tiên bị lôi ra đình thẩm vấn là con gái ông trương Thép.
- Cô có nhận mặt được những kẻ đã đột nhập vào nhà Chủ tịch Kim không?
- Trời tối, lại tắt hết đèn đóm nên cháu không nhìn thấy mặt họ.
- Có đúng Đỗ Kim đã cho người bắt cô hay là có kẻ nào xui vu khống nhà chức trách? - Khúc Kiệt gằn giọng răn đe.
- Chính hắn đã bắt cháu hôm mười bẩy tháng một. Hắn và bọn cờ bạc thay nhau hãm hiếp rồi quẳng cháu xuống hầm. Tội của hắn chết là đáng đời. - Mùi chợt khóc nức lên - Cái hầm có nắp đậy vẫn còn ở trong buồng nhà hắn, các ông đến đấy mà khám.
- Khi bọn người lạ mặt giết Đỗ Kim chúng nói những gì?
- Họ bảo nhân danh công lý.
- Quái nhỉ, vậy thì chúng thuộc cánh nào? Việt Quốc hay Việt Cách? - Khúc Kiệt lẩm bẩm .- Chúng làm vố này là muốn bỉ mặt mình đây.

Chiều hôm sau Khúc Kiệt về huyện, Lê Văn Vận đưa cho ông ta mấy lá đơn của dân Cao Xá, Mạc Điền và Đậu Khê yêu cầu tìm ra thủ phạm bắt cóc con gái họ. Khúc Kiệt lo lắm. Chính ông ta đề cử Đỗ Kim vào chức chủ tịch, giờ xảy ra vụ bê bối lớn thế này biết tính làm sao.
- Đây là vụ án nghiêm trọng mà thủ phạm chính lại là một tên lưu manh được chú đứng ra bảo lĩnh. Qua việc này có thể thấy, lực lượng công an của chú không thể đảm bảo được trật tự an ninh xã hội. Nguy hiểm hơn nữa là trên địa bàn huyện ta, ngoài Mặt trận Việt Minh ra còn có những tổ chức phản động khác đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau mà mục đích chính của chúng là quấy rối chính quyền Cách mạng, tranh giành ảnh hưởng với ta. Phải công nhận bọn này là những tay có bản lĩnh làm được những việc mà nhân viên công an của chú bó tay. Tôi yêu cầu phải tiếp tục thẩm vấn bọn cờ bạc ở nhà Đỗ Kim để làm rõ hành vi phạm pháp của hắn trong mấy tháng qua, nếu cần, cứ nện thật mạnh vào.
- Có nên đưa ra xử bắn một thằng để răn đe bọn cờ bạc, trộm cướp và lũ lưu manh trong huyện không?
- Nên quá đi chứ, nhưng không phải một mà là tất cả những tên đã tham gia cưỡng hiếp cô Mùi. Còn nữa, trong vòng một tháng chú phải bắt cho bằng được những kẻ giết Đỗ Kim. Nếu thất bại chú nên tự làm đơn rút khỏi ngành Công an trước khi có quyết định cách chức.

Sau buổi làm việc khá căng thẳng với chủ tịch huyện, Khúc Kiệt quyết định về làng Cùa, phân phát người của mình đi khắp nơi trong huyện nắm tình hình.Và cũng đến lúc ông ta mới biết Khúc Văn đang ở chùa Từ Vân. Các mũi trinh sát đều không có kết quả, riêng nhóm ở làng Cùa cho biết, mấy tháng nay, chùa Từ Vân có một nhóm thanh niên thường xuyên đến tập võ. Thấy sự việc có vẻ khác thường Khúc Kiệt liền cho người đến bắt sư trụ trì về đình Cả. Nhà sư là người hiền lành, mộ đạo, hơi bị nặng tai, nghe câu được câu chăng, trả lời ấm ớ bị đánh một trận thừa sống thiếu chết. Khúc Văn tức lắm, nửa đêm cùng Lại Văn Chương, Lê Khả đột nhập vào đình, nện gẫy xương sườn tay gác cửa, cứu sư Tuệ Văn đưa sang bên kia sông Lăng.

Ngày hôm sau Khúc Kiệt cho các đội viên An ninh bao vây chùa. Khúc Văn bàn với các bạn:
- Chúng ta có đủ đạn để cầm cự đến tối, nếu thấy đứa nào vượt tường vào thì cứ nổ súng, nhớ phải nhắm cho chính xác.

Phạm Cửu băn khoăn:
- Tôi sợ ông Khoá kéo thêm người đến thì nguy mất, hay là chúng ta ra hàng?
- Cậu là thằng nhát gan. - Khúc Văn cười nhạt - Nghe nói quân đội Pháp đã đánh đến Ba Hàng và An Lĩnh. Chính quyền Việt Minh sắp đi đời rồi. Nhân đà này ta phải chiếm lấy vùng Ba Tổng làm căn cứ.

Lương Văn Tuyến ngập ngừng:
- Nếu ông Khoá đích thân xông vào thì có bắn không?

Khúc văn phẩy tay:
- Tôi đã nói rồi, không có bất cứ ngoại lệ nào.

Khúc Văn vừa nói xong thì thoáng thấy hai bóng đen thập thò ngoài bờ rào cạnh cây mít mật liền nổ một phát trường mút. Phía cổng chính, Khúc kiệt chõ miệng loa sắt tây vào chùa cất giọng khàn khàn:
- Anh em đừng nghe luận điệu lừa phỉnh của thằng Khúc Văn, hãy ra đầu hàng, chính quyền Cách mạng sẽ mở lượng khoan hồng.

Tiếng loa ậm oẹ nhắc đi nhắc lại mấy lần nghe rất chối tai. Lê Khả bảo Khúc Văn:
- Bắn cảnh cáo nhé.
- Bắn đi.

Lê Khả vốn là tay thiện xạ. Anh ta kê nòng súng lên chạc cây dâu da nhằm khoá Kiệt nổ một phát. Viên đạn xuyên thủng chiếc loa làm ông trưởng Công an hết hồn. Trong vòng mấy giờ đồng hồ, quân của Khúc Kiệt không đột nhập được vì hoả lực khá mạnh từ trong bắn ra. Vũ khí của đội An ninh toàn súng dóp với mútxcơtông. Có mỗi khẩu tiểu liên Nhật thì lại hóc, sau một hồi tháo ra lắp vào bị gãy kim hoả, Khúc Kiệt cáu tiết chửi:
- Mẹ kiếp, súng với ống chết tiệt. Bây giờ anh nào bắt sống được thằng Khúc Văn ta thưởng hẳn ba mươi đồng.

Quá năm giờ chiều, thế trận vẫn bất phân thắng bại. Tháng mười, gió bấc chạy ào ào. Trời u ám. Thoáng một cái đêm đã ập xuống. Lúc này Khúc Kiệt đã có thêm mấy tự vệ tăng viện cùng với khẩu tiểu liên K50 . Lợi dụng màn đêm, từng nhóm vài ba người một, luồn hàng rào tre, nhảy qua tường tiếp cận mục tiêu. Thấy hoả lực của đối phương thưa thớt dần, ông Trưởng Công an cho rằng cánh phản loạn đã hết đạn liền phá cổng chính xả đạn vào những chỗ nghi có quân bắn tỉa. Đạn lửa bay loằng ngoằng. Lửa bén từ dẫy nhà Tổ sang mái Tam quan bốc lên cao kèm theo những tiếng nổ lốp bốp như pháo đùng. Tàn lửa đỏ rực được những trận gió mùa ràn rạt đẩy ra cánh đồng lúa đang kỳ thu hoạch. Vô vàn là lưỡi lửa với đủ hình thù kỳ dị liếm lem lém vào bất cứ thứ gì nơi nó đi qua. Cả một cánh đồng vàng óng mênh mông những lúa là lúa bỗng chốc biến thành biển lửa. Trong làng, dân chúng nháo nhào xách thùng, chậu, gầu tát nước rầm rập chạy ra đồng nhưng đành bất lực trước đám cháy lan nhanh với tốc độ khủng khiếp. Đồng điền vào ngày đông giá tất cả đều khô nỏ. Không còn một đám ruộng nào còn sót lại khi hoả thần chạy qua. Bà cả Huê xót của, nghiến răng nghiến lợi gọi bố con Khúc Kiệt là quân “trời đánh thánh vật”. Thường Rỗ khóc hu hu còn lý Quỳnh mặt nặng chình chịch bảo phó lý Kiền:

- Còn chữa chạy gì nữa, chuyến này thì cả làng xách bị đi ăn mày.

[1] Lê nin (Phiên âm qua tiếng Trung Quốc)
[2] Một loại súng trường nhỏ của Pháp.
[3] cờ bạc

(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-01-2015, 08:15 PM
Chương 8

1. Tháng Tám năm Đinh Hợi, quân đội Liên hiệp Pháp từ xếch tơ[1] Đông Triều kéo về phố huyện Nam Thành. Trước khi chiếm trụ sở chính quyền Việt Minh, chúng cho bắn hai mươi mốt phát moóc chi ê tám mươi mốt ly lên đỉnh núi Ông Tượng. Từ phía Hải Phòng, một chiếc tàu “Bà già” bay chậm như rùa, vừa kêu phành phạch vừa rải truyền đơn xuống các điểm dân cư hai bên đường quốc lộ. Việt Minh hình như đã biết có những cuộc hành quân như thế này nên từ mấy hôm trước họ rút lực lượng sang bên kia sông. Dân phố huyện mấy năm nay đã chứng kiến vài lần chính quyền thay thầy đổi chủ. Họ nhìn các "đồng chí" Việt Minh khoác ba lô lặng lẽ rút đi cũng như đội quân viễn chinh Pháp lỉnh kỉnh súng ống trở lại bằng con mắt của người nhà quê hoàn toàn dửng dưng. Những kẻ thức giả thì chép miệng dự đoán: “Phen này rồi sẽ loạn to”. Cán bộ Việt Minh dán truyền đơn hiệu triệu “Toàn quốc kháng chiến” khắp nơi. Chùa Vĩnh Hưng trở thành điểm liên lạc của huyện bộ Việt Minh. Lê Văn Vận rút vào hoạt động bí mật, thỉnh thoảng lại vượt sông về làng Cùa nắm tình hình.

Cuối năm ấy, quân đội Pháp chở xi măng, sắt thép từ Hải Phòng lên xây đồn ở Bến Tuần, cách làng Cùa gần hai cây số. Đồn là một hệ thống phòng thủ gồm ba lô cốt nửa nổi nửa chìm, phía ngoài có hàng rào kẽm gai bùng nhùng, chôn mìn cóc, bên trong là ngôi nhà chỉ huy kiên cố được thiết kế như một pháo đài gồm các phòng làm việc, phòng ngủ và tầng hầm. Chiếc ca nô nửa trắng nửa đỏ treo cờ tam tài, trên boong đặt khẩu liên thanh, ngày nào cũng chạy một vòng xuống tận ngã ba Môi rồi lại ngược lên. Thỉnh thoảng hứng chí, bọn lính đứng dạng chân nhằm bắn vào bãi chuối hai bên bờ làm làm lũ liếu điếu, chào mào bay tán loạn.

Việt Minh rút đi, làng Cùa lập tức bị ép vào tề. Ngô Quỳnh lại ra làm lý trưởng. Ông ta thừa biết, làm lý trưởng vùng Tề giáp ranh với Việt Minh chẳng những không xơ múi gì mà có khi còn bị tai bay vạ gió, không bị Việt Hùng[2] cắt cổ thì cũng bị Tây đồn đá đít. Dân làng Cùa thuộc loại mạnh ai theo người ấy, khó bảo, dính vào tí chức sắc có khi lợi bất cập hại.

Lê Bang lúc này cũng đã ra giữ ghế chánh tổng doạ Ngô Quỳnh:
- Ông đã từng làm chủ tịch Liên Việt, ít nhiều cũng dính dáng đến Việt Minh, tôi bảo cử cho vào chân lý trưởng là muốn để lập công chuộc tội.
Ngô Quỳnh cãi lý:
- Làng Cùa thiếu gì thằng có máu mặt làm được lý trưởng mà các ông cứ nhè vào tôi.
Chánh Bang đành phải nói thật:
- Việt Minh bây giờ đang yếu thế phải tạm rút đi nhưng không bao lâu nữa họ lại về làng Cùa cho mà xem. Bọn ấy có chuyên chính vô sản trong tay, lơ mơ là mất đầu. Để thầy làm việc , sau này còn có chỗ ăn nói.
- Thế ra ông Chánh cũng biết sợ Việt Minh? - Lý Quỳnh châm chọc.
- Sợ quá đi chứ. - Chánh Bang cười lớn làm ra vẻ thức thời vì đã biết sợ - Vụ họ khử tay Đỗ Kim còn sờ sờ ra đấy, có là thằng điên mới chọc vào tổ kiến.
- Sao bảo Đỗ Kim là do cánh "Hội dân cày” thanh toán.
- Việt Minh có trăm phương ngàn kế , họ nói một đằng làm một nẻo, biết thế nào mà tin.

Làm lý trưởng, hàng ngày Ngô Quỳnh phải cắt các trai đinh trong làng lên phục dịch công trường xây dựng bốt Tuần. Dân Ba Tổng bị bắt phu rất đông. Nhà nào đến phiên không đi được có thể thuê người làm thay. Cũng thời gian này, Khúc Kiệt từ bên kia sông bí mật về làng Cùa thành lập đội du kích. Ông ta cử người thân tín, ban đêm vào các gia đình cơ sở tuyên truyền chủ trương kháng chiến trường kỳ của Việt Minh và vận động thanh niên gia nhập lực lượng chiến đấu. Khúc Kiệt nói khéo lắm, nhưng người làng Cùa qua mấy phen kinh hoàng, nằm mơ cũng thấy ác mộng nên xem ra có vẻ không mấy mặn mà. Thủ lĩnh áo Đen quyết không nản chí. Ông ta về các tổng Chi Điền , Cao Đôi, Ngân Đôi tuyển mộ được hơn hai chục thanh niên nam nữ, chủ yếu là tá điền, lấy rừng Hóp làm Đại bản doanh với ý đồ có ngày sẽ đánh bốt Tuần.

Lúc này đã là giữa tháng hai. Rừng Hóp líu ríu tiếng chim mỏ nhát trên những cây sau sau non. Lũ sáo đá và yểng mỏ vàng đua nhau đồng ca bằng thứ giọng kim cao vút, thỉnh thoảng lại ngắt nhịp lấy hơi như là bị tắc mũi. Một con sóc bông màu khói, cặp mắt tròn, nhỏ xíu như hạt cườm, giỏng đôi tai mỏng dính, nghe ngóng động tĩnh rồi bất chợt hếch mõm kêu chin chít, giống hệt tiếng chuột đồng bị rắn sọc dưa vồ. Cò xám và giẽ giun thấy động bay vút lên lượn lờ vài vòng rồi lại đậu xuống đám cành kiền kiền ngủ gà ngủ gật. Dưới gốc cây keo đá, một con chó hoang lông vằn vèo như lông báo gấm có cặp tai rất lớn nhìn đám người khoác súng ống bằng cặp mắt đầy vẻ thù nghịch. Nó có vẻ như đã kịp hình dung ra những ngày sống êm đềm trong lãnh địa của mình đã qua. Lũ người ăn mặc bát nháo cùng những thứ đồ lỉnh kỉnh kia sẽ đem tai hoạ đến bất cứ lúc nào.

Khoảng một tuần sau có thêm hai người làng Cùa lần vào rừng. Đó là cô Mùi con ông trương Thép và Bùi Quốc Tầm. Phải nói Khúc Kiệt chọn rừng Hóp làm căn cứ địa là đắc sách. Nó là khu rừng rậm tách hẳn với các điểm dân cư, lại gần với đầm Ma nên rất thuận lợi về mặt chiến lược. Mặt khác, rừng Hóp không quá xa bốt Tuần, đội du kích có thể sử dụng cách đánh chớp nhoáng, sau đó nhanh chóng rút về căn cứ làm cho địch bị bất ngờ, trở tay không kịp. Đây chính là một trong những lợi thế của phép dùng binh. Khúc Kiệt đã có kinh nghiệm qua cuộc đụng độ với quân Triều đình và quân Nhật. Lần này dứt khoát phải chiến thắng. Trong vòng hai tháng, ông ta cho các đội viên vừa luyện tập chiến thuật đánh du kích vừa tập kết lương thực, thực phẩm, vũ khí vào rừng với quyết tâm dạy cho gã Đồn Cáo một bài học.

Làm việc dưới quyền Lê Văn Vận nhưng thực ra Khúc Kiệt không coi Vận ra gì, bởi anh ta chỉ là tay võ biền, vô học, do nước ngập mà "chó nhảy bàn độc" chứ chẳng có chút tài cán gì. Chức chủ tịch huyện đáng lý phải của ông ta mới có điều kiện bộc lộ hết sở trường. Đã làm cái chân trưởng ban An ninh quèn lại luôn bị Vận uốn nắn những lệch lạc về quan điểm lập trường khiến ông ta vô cùng bất mãn. Sau vụ bao vây chùa Từ Vân, thiêu trụi mấy cánh đồng lúa của làng Cùa, Vận buộc phải cách chức Khúc Kiệt chuyển sang phụ trách Nông hội, ông ta bị bẽ mặt, bỏ về Ba Tổng, bí mật thành lập đội du kích để chứng tỏ bản lĩnh.

Trong đội có một cậu bé tên là Dược Còi. Bố mẹ Dược mới chết do trúng đạn moóc chi ê trong trận càn mười ba tháng tám. Cậu ta theo chị là một đội viên người Mạc Điền xin gia nhập du kích để trả thù cho cha mẹ. Khúc Kiệt mừng lắm liền bố trí cậu ta vào tổ trinh sát. Ông ta thầm nghĩ, chỉ có Dược Còi trà trộn vào dân phu ở bốt Tuần chúng mới không nghi ngờ. Dược Còi đã quá tuổi mười ba nhưng người bé loắt choắt chỉ bằng đứa lên mười, đi chăn trâu thuê cho ông hương Kình từ năm lên bảy. Dược có biệt tài làm diều, mỗi khi lùa trâu ra đồng đều mang theo diều sáo. Khi đàn trâu thong dong gặm cỏ trên bãi tha ma hoặc bên gò đống, cậu ta lại rủ bọn choai choai thả diều. Thích nhất là vào những ngày đầu thu. Dịp ấy trời trong veo không một gợn mây. Cỏ gà, cỏ chỉ, cỏ mần trầu vẫn còn xanh mướt như tấm thảm nhung trải dài sườn đê. Sau vụ cày, lũ trâu được xả hơi dài ngày, da con nào cũng đen bóng, cặp sừng cánh ná nghênh nghênh, đôi tai ve vẩy, mồm gặm cỏ soàn soạt. Cứ tầm nửa chiều là có đủ loại diều chao lượn trên không. Bọn lớn tuổi thả diều sáo, bé hơn một chút chơi diều đuôi hoặc diều cốc. Lũ tí nhau vắt mũi chưa sạch thì tạm bằng lòng với loại diều ống, tức là lấy tờ giấy học trò gấp làm ba mảnh theo chiều dọc, dán một cái đuôi ngắn, buộc dây chỉ vào hai mép làm lèo, cầm tay co cẳng chạy. Những con diều chao lượn như mắc cửi, cái thấp, cái cao, cái kêu tu tu, cái vo ve như nhặng xanh vỗ cánh cùng với tiếng nghé hoa gọi mẹ tạo thành một bản hoà tấu với nhiều âm vực khác nhau, làm cánh đồng chiều sôi động hẳn lên.

Buổi sáng hôm ấy, Dược Còi vác con diều sáo cỡ nhỏ đi lẫn vào đám dân phu làng Mạc Điền lên bốt Tuần. Một người quen nhìn thấy nó hỏi:
- Mày lên đây làm gì?
- Thằng bé không chút bối rối nói ngay ra một cái tên mà Khúc Kiệt đã dặn:
- Cháu đi phu thay cho ông Cả Phiên.

Người ấy bĩu môi:
- Trông mày như con nhái, làm được trò trống gì, không khéo còn bị lính đồn nện cho vài hèo vào mông.
Dược không nói gì. Đến gần đồn, nó xuống vệ đê giả vờ đi đái, đợi cho cánh dân phu ra đào đất phía ngoài bãi chuối mới từ từ thả diều. Con diều nhỏ nhưng gắn đến ba cái sáo, thành ra khi đã lên đủ độ cao, dây căng, nó bắt đầu phát ra chuỗi âm thanh giống như tiếng tiêu lồng trong tiếng kèn sừng dê lúc bổng lúc trầm nghe khá lạ tai. Tiếng sáo làm viên đồn trưởng đồn Tuần chú ý. Thoạt đầu, hắn gấp đống giấy má lộn xộn trên bàn lại, ngồi trầm ngâm lắng nghe. Những âm thanh vui nhộn của đồng quê vùng nhiệt đới kích thích trí tò mò làm tay đại uý đứng ngồi không yên. Cuối cùng, hình như bị thứ nhạc cụ thần kỳ gắn trên con diều quyến rũ, hắn rời bàn giấy, leo lên đỉnh lô cốt cao nhất, ngước cặp mắt xanh màu nước biển lên trời. Kia rồi. Một cánh diều. Cánh diều nhỏ nhoi như chiếc lá phong lữ thảo mỏng manh, gần như không chao lượn mà gắn vào một tảng mây xốp sáng lấp lánh giữa vòm trời thu màu ngọc lục. Cặp đồng tử vàng hoe của gã Đồn trưởng giãn ra. Hắn ngẫm nghĩ một lúc khá lâu, vừa nghĩ vừa đốt thuốc cotab. ít lâu sau, hắn gọi tay thông ngôn đóng lon cai:
- Hạ sỹ ra bảo thằng bé chơi diều vào đây.

Viên cai không hiểu ý cấp trên, ngập ngừng chưa định đi, thấy vậy, tên đồn trưởng giục:
- Nhanh lên! Bảo nó mang cả cái diều theo.
Thoạt nghe Dược Còi hoảng. Cậu ta phấp phỏng đoán già đoán non: “ Hay là nó biết mình là du kích? Được, chết thì chết, không bao giờ tao thèm khai”. Nghĩ vậy, Dược vừa đi theo cai Toại vừa giong diều. Đến bên hàng rào thép gai ở bốt tiền tiêu, cậu buộc dây vào cọc rồi đàng hoàng vào đồn Tuần. Đồn Cáo tiếp khách với thái độ niềm nở ngoài sức tưởng tượng của Dược Còi. Cậu cũng không ngờ gã đại uý nói tiếng Việt giỏi đến mức không cần cai Toại thông ngôn. Trước tiên, viên đồn trưởng đưa cho Dược hai hộp sắt tây bánh bích quy, năm hộp sữa "Con chim" và một ổ bánh mỳ. Hắn bảo:
- Bé con, cầm lấy đi. Tao còn nhiều. Từ ngày mai, mày lên đây dạy tao thả diều.

Trong lòng vừa trút được mối nghi ngờ, Dược mừng lắm nhưng vẫn làm bộ nhăn nhó:
- Tôi phải đi phu cho ông hương Kình, thả diều với quan đồn về nhà mẹ con tôi không có tiền đong gạo.
- Ô là là! Lo gì.- Viên đại uý thọc tay vào túi áo ka ki móc ra một nắm tiền Đông Dương ấn vào tay Dược - Thế này đủ chưa? Cầm về mà mua thức ăn.

Dược lặng người trước một số tiền lớn mà cậu ta không bao giờ dám nghĩ tới nên cứ lúng túng mãi chẳng biết phải làm gì. Tên đồn trưởng nghĩ Dược chê ít liền móc thêm một nắm nữa rồi ấn tất cả vào túi áo nâu mốc thếch của thằng bé:
- Cầm lấy đi, rồi về nhà làm cái khác. Cái diều đang bay ngoài kia bán cho tao.

Tối hôm ấy Dược kể hết mọi chuyện với Khúc Kiệt. Ông ta mừng ra mặt, bảo:
- Được, ta phải tương kế tựu kế.

Mấy hôm sau, Dược cùng anh Quất người Đậu Khê làm chiếc diều to gấp đôi. ống sáo đã có sẵn. Phết giấy xong, đợi nửa ngày cho khô mới mang thả thử. Diều bay rất cân, tiếng sáo trầm, vang xa, nghe hấp dẫn không chê vào đâu được. Dược lại trà trộn vào đám dân phu mang diều lên đồn Tuần. Đồn Cáo thích lắm lại thưởng cho cậu mấy hộp bích quy và một bịch to kẹo "xích tông" bạc hà. lúc thả, Đồn Cáo cầm diều đâm, Dược giòng dây. Hắn nóng vội không biết cách đón chiều gió, mấy lần tung lên, diều chỉ nhao được nửa vòng lại cắm đầu xuống đất. Dược nhặt lên, chỉnh lại lèo rồi đâm làm mẫu. Cuối cùng thì viên đại uý cũng học được cách thả diều. Khi con diều đã lên đủ độ cao, bay ổn định, Dược buộc dây vào cọc. Đồn Cáo ngồi bệt xuống cỏ, châm thuốc hút và khoan khoái lắng nghe tiếng nhạc mê ly từ chín tầng mây vọng xuống.

Đồn Cáo về bốt Tuần từ cuối năm ngoái. Hắn vốn là sỹ quan tham mưu thuộc binh đoàn Lê dương thứ ba của quân viễn chinh. “Đồn Cáo” chỉ là biệt danh dân Ba Tổng đặt cho còn tên thật của hắn là Mácxen Đuycroa quê vùng Bơ dăng xông. Cách đây hai năm, Mác xen được điều sang Đông Dương làm việc dưới quyền đại tá pháo binh Béc na đồn trú ở Kiến An. Nhật đảo chính, hắn bị bắt giam ba tháng sau đó được phóng thích liền trốn sang Căm pu chia, đang định tìm cách về nước cùng với đám chiến hữu bại trận thì gặp lúc quân đội Pháp tái chiếm Bắc Kỳ. Mắc xen trở lại con đường binh nghiệp sau chuyến gặp gỡ viên chỉ huy cũ ở Hà Nội lúc này đã là trưởng phòng tác chiến trong Bộ tham Mưu của Tướng Moóc li e. Về bốt Tuần, Mác xen bắt đầu có thói quen là rất thích chén thịt gà nhưng phải là loại gà mái đã đẻ từ một đến hai lứa, da vàng, thịt chắc, béo mỡ được nuôi bằng ngô hạt trồng trên bãi sa bồi ven sông Lăng. Mỗi bữa hắn chỉ ăn hai cái đùi và bộ lườn, phần còn lại nhà bếp cho vào nấu sốt để lính bản xứ ăn với bánh mỳ. Nguồn cung cấp gà chủ yếu là do lý trưởng các làng vùng Ba Tổng bắt dân nộp theo định kỳ rồi cử người mang lên đồn. Trong vòng ba năm Mác xen đã xơi đến hơn hai nghìn con gà, một kỷ lục có thể đưa vào sách Ghi nét. Dân Đậu Khê tức nhưng không làm gì được liền bảo nhau “tiến” một lồng toàn gà mái đã đẻ hàng chục lứa, thịt dai ngoách, ngài đồn trưởng không nhai được liền sai lính nọc lý Vạn ra quất cho hai chục hèo mây.

Mác xen có khổ người trung bình và khuôn mặt khá đẹp trai với chiếc mũi thẳng, cặp mắt xanh và bộ ria nhọn, đen nhánh vểnh lên giống hệt các nhà quý tộc tỉnh lẻ nước Pháp thời vua Lu y mười bốn. Mỗi khi ra đê thả diều hoặc đi ca nô dạo trên sông Lăng, Đồn Cáo đều mặc quần soóc kaki Mỹ, áo cộc tay kẻ ô vuông và đội chiếc mũ trắng rộng vành như mũ du lịch của người vùng Địa Trung Hải. Ca nô chạy rẽ nước trên sông, Đồn Cáo chĩa ống nhòm quan sát hai bên bờ, thỉnh thoảng lại gật gù với Cai Toại.
- Hôm nào chúng ta phải ra thăm cồn Vành.
- Không được đâu, thưa ngài.- Cai Toại lắc đầu - Theo tôi được biết, các đơn vị du kích Việt Minh đã bắt đầu hoạt động. Họ có những xạ thủ bắn tỉa rất giỏi.
- Ông doạ tôi đấy à ? - Đồn Cáo cười nhạt bảo - Lũ nhà quê chân đất ấy chúng làm quái gì có vũ khí hiện đại ngoài mấy khẩu Mútxcơtông từ thế chiến thứ nhất mà quân đội Pháp đã thải ra.
- Đại uý không nên chủ quan.- cai Toại chỉ tay về phía làng Cùa bảo - Dưới luỹ tre làng hiền lành tưởng như rất nên thơ kia luôn ẩn giấu những hiểm hoạ bất chợt chẳng bao giờ dự đoán trước được.
- Hình như từ sau hôm bị bắn trượt ông đã mất hết đảm khí.- Mác xen mỉa mai tay thông ngôn bản xứ- Mục đích quân đội Liên hiệp Pháp trở lại Việt Nam là tiêu diệt chính phủ kháng chiến của ông Hồ Chí Minh chứ không phải để họ tập kích ta bằng vài thứ vũ khí thô sơ. Mấy hôm nữa sẽ có cuộc hành quân vào vùng Ba Tổng, ông chuẩn bị đi cùng tôi để nâng tinh thần lên.
Cai Toại biết đồn Cáo có máu yêng hùng thích lập chiến công để gắn mề đay Anh Dũng Bội Tinh. Mấy trận càn vừa qua tuy có bị tổn thất chút ít nhưng nói chung đã bình định xong vùng Kim Đôi, Ngân Đôi, Chi Điền, thành lập được các đội dân binh, nghĩa dũng, củng cố hệ thống làng tề nên Mác xen được coi như người hùng.

Dần dần, Dược Còi quen hầu hết quan tính đồn Tuần. Cậu có thể ra vào bất cứ lúc nào mà không bị bọn gác xét hỏi. Gã Đồn trưởng bị tiếng sáo diều mê hoặc. Những ngày khô ráo, mỗi buổi chiều, sau khi thả diều, hắn lại trèo lên nóc lô cốt lấy ống nhòm ra ngắm. Trong bộ sưu tập của mình, Đồn Cáo đã có đến năm con diều. Đẹp nhất là chiếc diều cánh cốc dán bằng giấy màu sặc sỡ. Hắn lấy tên con gái là Ê li an đặt cho nó. Diều này bay thấp, không có sáo mà chỉ gắn màng, gặp gió đuôi “cốc” bay phần phật, màng kêu như tiếng ve kim. Mác xen có vẻ như chẳng nghi ngờ gì thằng dân phu bé con. Lợi dụng thời cơ, cậu đã tìm hiểu được nơi đặt súng moóc chi ê, súng máy, hệ thống hầm ngầm và các bãi mìn ở ngoài hàng rào kẽm gai. Thỉnh thoảng bọn lính đi càn về, vứt súng bừa bãi, Dược còn thủ được mấy quả lựu đạn đưa cho Khúc Kiệt. Tuy nhiên có một trở ngại lớn là cậu không biết chữ , nói thì được, nhưng vẽ sơ đồ, đánh dấu các vị trí trọng yếu trong đồn là việc hoàn toàn quá sức. Trường hợp của Dược chỉ là một biệt lệ do thói ham chơi của tên đồn trưởng. Dịp này, bọn lính tuần tra, canh phòng ngày đêm rất cẩn mật, chỉ cần phát hiện một chút khả nghi là chúng bắn không tiếc đạn. Khúc Kiệt suy nghĩ mãi vẫn chưa tìm ra cách giải quyết mặc dù căn cứ vào lời kể của Dược ông ta đã hình dung ra phần nào cách bố trí hoả lực trong đồn. Đồn Tuần là vị trí chiến lược quan trọng. Nếu đánh không thắng chúng sẽ đem tàu chiến ngược sông Lăng từ ngã ba Môi lên hoặc câu đại bác từ xếch tơ Đông Triều về. Thậm chí để giữ vị trí đồn trú, quân đội Pháp sẵn sàng mang máy bay B26 đến ném bom huỷ diệt các làng xung quanh.

Khúc Kiệt còn biết, mấy tháng qua, từ bên kia sông, Lê Văn Vận đã cho mấy tổ trinh sát lần mò đến bốt Tuần nhưng đều thất bại. Gần đây, có ba người dùng bè chuối thả trôi sát đồn, do không nắm rõ địa hình, một vướng mìn gài dưới mặt nước, còn hai anh kia bị ca nô rọi đèn lao ra tóm sống. Họ đều còn trẻ và gan lỳ không chịu khai. Đồn Cáo ra lệnh xử bắn, vứt xác xuống sông. Hôm ấy Dược Còi cũng ở trong đồn thả diều với viên chỉ huy. Hắn vẫn dõi mắt theo con diều sáo một cách thích thú vừa nhai bánh quy rau ráu. Nhóm thứ hai đóng giả là dân phu từ phía kẻ Bòng, nửa đêm vượt sông ở đoạn bến Trại không ngờ bị toán nghĩa dũng làng Cùa bắt được giải về đồn. Mác xen sai tên ách di đằng Trần Cao đem xuống hầm ngầm ngâm nước đến cổ thỉnh thoảng lại ấn đầu xuống chừng nửa phút cho sặc phù sa. Hai anh địa phương quân sợ phải khai. Mác xen lập tức cho giải họ về Cát chi ê Nam Thành cùng với biên bản hỏi cùng trình thiếu tá La mác tin.

Nghĩ mãi, không còn cách nào hơn, cuối cùng Khúc Kiệt giao cho Dược tìm cách lấy tấm bản đồ phòng thủ. Dược biết, bản đồ ấy để trong cặp da, chiếc cặp lại để trong tủ sắt ở phòng đồn Cáo. Vào phòng hắn đối với Dược không khó. Cái khó nhất là làm sao có được chiếc chìa khoá viên đại uý luôn mang trong người. Khúc Kiệt đưa cho Dược cục sáp, bảo cậu ta làm sao in được chìa khoá tủ vào đó ông ta sẽ có cách. Hôm ấy trời nắng gắt. Thả diều xong, đồn Cáo thấy người bứt rứt khó chịu liền vào buồng tắm. Bộ quần áo ka ki dầy cồm cộp cởi ra quăng cuối giường. Dạo này Dược gần như thằng bồi nhỏ, đã mấy lần cùng dán diều với Đồn Cáo nên được hắn tin cậy. Đây quả là dịp may ngàn năm có một. Dược nhanh chóng tìm được chìa khoá và lần lượt ấn từng mặt vào miếng sáp.
Mấy hôm sau, Khoá Kiệt giao cho Dược chiếc chìa khoá đồng mới tinh. Ông ta dặn:
- Thời gian gấp rồi, phải tìm cách lấy ngay tấm bản đồ.

Dược lo lắm. Lấy mẫu chìa khoá đã khó nhưng không nguy hiểm bằng mở tủ lấy bản đồ. Trót lọt thì không sao, còn nếu đang loay hoay mà đồn Cáo bắt được thì cầm chắc cái chết trong tay. Nhưng rồi Dược nghĩ đến bố mẹ, đến đám dân phu ngày đêm nai lưng ra khiêng đất, đắp ụ súng, đào công sự bị roi da bò của tên đội Tảo quất thành từng vệt trên lưng, đến những người dân vô tội vùng Ba Tổng bị chính tên quan ba ra lệnh trói chân tay , nhét vào rọ tre thả xuống sông Lăng chỉ vì họ giấu Việt Minh dưới hầm bí mật . "Phải liều thôi.- Dược nghĩ- Ông Khoá đã quá ngũ tuần mà vẫn lặn lội trong rừng Hóp chỉ huy du kích đánh giặc, mình mới tí tuổi đầu lại sợ chết, thật xấu hổ. Cứ hoàn thành nhiệm vụ đã còn những việc khác tính sau".

Thời gian chờ đợi vô cùng căng thẳng mà dịp may vẫn chưa đến. Cứ mỗi lần từ đồn Tuần về, gặp anh em trong đội du kích mặt Dược Còi lại ỉu xìu. Ba ngày rồi năm ngày, bẩy ngày, thời khắc qua vùn vụt đã tưởng hết hy vọng, vậy mà dịp may lại đến. Đó là vào hôm Dược vác lên đồn con diều to như chiếc thuyền đánh lưới bén. Loại này khi thả phải dùng dây tre bánh tẻ luộc kỹ với nước muối mới chịu được. Tên đồn trưởng thấy khoanh tre quá cồng kềnh, vác đi vác lại khá bất tiện liền bảo cậu về đồn lấy cuộn dây dù vừa nhẹ vừa bền, còn hắn dùng nhựa sung dán lại một vài chỗ bị bong giấy. Dược chạy, tim đập loạn xạ. Mấy thằng lính hỏi, Dược bảo:
- Lấy dây dù trong phòng quan lớn.

Vào đến nơi, Dược nhìn trước nhìn sau rồi rút chìa khoá mở tủ. Chìa khoá giũa khéo, xoay một vòng là được. Chiếc cặp da đây rồi. Quả nhiên ở một ngăn có tấm bản đồ gấp tư còn mới kẹp giữa những giấy tờ khác. Đây là thời điểm quyết định, không thể chần chừ. Dược đã bình tĩnh trở lại. Cậu lấy tấm bản đồ luồn vào chiếc túi trong vạt áo mà chị Mùi đã khâu sẵn cho từ mấy hôm trước rồi nhanh chóng để cặp vào tủ khoá lại như cũ. Xong việc chính cậu mới vơ cuộn dây dù bước ra khỏi phòng tên quan ba. Đồn Cáo đợi lâu, sốt ruột đã văng “mẹc xà lù” nhưng thấy Dược chạy đến hắn lại nhoẻn miệng cười. Phải kiên nhẫn lắm, Dược mới đóng trọn được vai kịch. Suốt buổi thả diều, tấm bản đồ cứ cồm cộm trong bụng, cậu chỉ lo, chẳng may nó tuột ra thì chắc chắn sẽ ăn ngay mấy viên đạn của khẩu môde lúc nào viên đại uý cũng kè kè bên hông. Gần tối, đồn Cáo mới cho Dược về. Trước mặt hắn, cậu thọc hai tay vào túi quần short rộng thùng thình, nghênh ngang bước, khuỷu tay khuỳnh ra, giống hệt một tay anh chị phớt đời. Khi đã cách đồn khá xa, hút bóng gã đại uý cậu mới lao xuống chân đê co cẳng chạy. Gần đến điếm Bài Vân, chợt thấy một gã câu ếch đội nón mê từ bụi tre nhô ra, Dược thoáng giật mình, nhưng khi nhận ra Khúc Kiệt thì mừng vô kể. Hai người lẩn vào vườn chuối thì chạm ngay đội Tảo vừa cùng tốp lính đi tuần từ làng Cùa ra. Thấy bóng người , đội Tảo ra lệnh cho lính quay lại đuổi theo. Khoá Kiệt vội xé rào chạy chạy về phía ao Quan. Tấm bản đồ phòng thủ đồn Tuần vẫn nằm trong túi áo Dược.
- Việt Minh, đứng lại ! - Một gã mặt non choẹt, giọng the thé quát.
Dược cắm đầu cắm cổ chạy ngược lên điếm làng, định lẩn vào đám dứa dại thì tên này nổ súng. Cậu khựng lại, đầu nhao về phía trước. Lúc ấy mặt trời vừa tắt. Trên cao, phía cồn cát sông Lăng lơ lửng một vành trăng khuyết.

Chừng nửa giờ sau, bọn lính tuần khiêng Dược về đến bốt Tuần. Thật ra cuộc rượt đuổi hoàn toàn tình cờ, chỉ cần viên đại uý đứng ra bảo lãnh là cậu vô can nếu như đội Tảo không tìm thấy tấm bản đồ giấu trong túi áo. Đến lúc ấy đồn Cáo mới hiểu mức độ tai hại của trò chơi thả diều. Hắn tự tay đánh Dược bằng loại roi song ngâm nước muối, mỗi nhát vụt người cậu giật nẩy lên, máu toé ra nhưng nhất định không khai ra đội du kích rừng Hóp.

Sang ngày thứ ba, vẫn không khai thác được gì ở Dược, Mác xen lồng lộn như con thú bị thương sai tên quan hai người đảo Coóc cùng một toán lính Âu Phi mang cậu bé xuống bãi sông xử bắn.

2. Những trận mưa tháng Bẩy kéo dài khác thường làm cánh đồng vàn liền với đầm Ma bị úng. Trà lúa sớm đang xanh mơn mởn giờ ngập lút dưới làn nước nhờn nhợt màu cỏ úa. Chỉ những bụi lác hoặc cỏ vòi voi là bất chấp. Nước dâng đến đâu chúng vươn cao đến đấy. Nhiều cây, trong một đêm đã kịp trổ hoa trắng phất phơ trên mặt nước giống hệt những chiếc chong chóng bé tí xíu xoay tròn trong gió. Bên đầm Ma, những bụi dành dành chen nhau cạnh đám mộc hương khẳng khiu hoa vàng sẫm toả thứ mùi hăng hắc rất khó ngửi nhưng lại vô cùng hấp dẫn lũ ong khoái đến hút mật. Bọn này không có tổ cố định mà thường di chuyển một cách tuỳ hứng đến những nơi có nhiều hoa đang nở trong rừng Hóp. Ong khoái bám vào cành cây phèn gai hoặc một đoạn dây chạc chìu lòng thòng hàng ngàn vạn con trông xa gần giống như chiếc chổi tre mầu nâu sẫm. Mỗi khi thấy nguy hiểm, những con đậu phía ngoài lập tức “rùng mình’ kéo theo sự chuyển động bởi một vũ điệu kỳ quái của cả bầy, nhìn vào sởn cả gai ốc. Măng hóp gặp mưa ngâu đâm lên tua tủa. Những con bồ các đang ấp trứng kêu quang quác mỗi khi nhìn thấy các đội viên du kích đào măng ngay dưới tổ của chúng. Một đôi chim sâu ngó nghiêng chuyền cành bằng cặp chân bé xíu như cây tăm màu hồng phấn. Chúng vừa nhảy nhót vừa kêu lích tích có vẻ tự thoả mãn với thời tiết ướt át, chẳng mấy quan tâm đến những kẻ lạ mặt đang chặt cây làm nhà dưới kia. Lũ cò con hoàn toàn không biết sợ, nhìn thấy người cứ ngoác cái mỏ ngà viền lông tơ trắng đòi ăn bằng thứ tiếng khàn khàn ngắt nhịp rất đều, nghe khá tức cười.

Lán của Khúc Kiệt ở ngay dưới một tổ cò. Chiều chiều, cò bố, cò mẹ đi kiếm mồi về, lượn trên vòm cây kêu nháo nhác làm ông ta phát cáu vớ mấy cục đất ném lên. ấy là những lúc ông chỉ huy du kích đang nghiền ngẫm kế hoạch đánh bốt Tuần. Căn cứ vào lời kể của cu Dược thì bốt Tuần là một cứ điểm quân sự với hệ thống phòng thủ chắc chắn. Các lô cốt đều được bố trí hoả lực mạnh với một khẩu đại liên và hai trung liên đầu bạc. Nếu chỉ dựa vào số vũ khí chắp vá thô sơ là mấy khẩu mútxcơtông cà khổ và dăm quả lựu đạn tự tạo cùng với hơn chục mã tấu mà đánh đồn thì chẳng khác gì gãi ghẻ, có khi lại bị phản kích, thất bại là chuyện không phải bàn. Vậy chỉ còn một cách đánh nhỏ, đánh chắc, nghĩa là chờ những hôm đồn Cáo đưa lính đi càn, ta phục sẵn ở những vị trí hiểm yếu rồi tấn công bất ngờ may ra mới thành công. Đây chính là phương thức chiến tranh du kích, thực hiện kháng chiến trường kỳ, làm tiêu hao sinh lực địch mà cấp trên đã phổ biến trong đợt chỉnh huấn vừa qua .

Sau vụ xuýt mất tấm bản đồ, Mác xen lập tức bố trí lại hệ thống phòng thủ. Hắn cho xây thêm hai lô cốt phía trong đê cách bốt chính hơn trăm thước, mỗi lô cốt bố trí một tiểu đội Âu Phi và lính bản xứ làm thế liên hoàn, sẵn sàng chi viện lẫn nhau khi một trong những nơi đó bị tấn công. Phía bờ sông cũng được tăng cường thêm một hàng rào kẽm gai giăng ngầm dưới nước đề phòng du kích đột nhập ban đêm. Công việc xong xuôi, Mác xen bảo viên thiếu uý Chi e ry người vùng Gatxcôn:
- Trong tuần tới, thiếu uý phải thực hiện cuộc hành quân xuống tổng Chi Điền. Tôi vừa nhận được tin Việt

Minh đã cắt cổ lý Lọng treo đầu lên cành đa ngay trên bến Lác. Mục đích của chuyến này là phải bắt cho được những tên Việt Minh nằm hầm bí mật chỉ huy du kích, xử bắn ngay tại chỗ để răn đe.
Chi e ry là người đảo Máctiních. Hắn mới về đồn Tuần, chưa nắm được tình hình vùng Ba Tổng nhưng có Khúc Văn và đội Tảo giúp sức nên trong vòng một tháng qua đã mở ba trận càn thành công. Khúc Văn đóng lon thiếu uý mới được điều về bốt Tuần thay cho Ba danh bị tử thương do vướng mìn du kích. Sau khi thoát khỏi trận hoả hoạn chùa Từ Vân, các hội viên Dân cày tan tác mỗi người một nơi. Phạm Cửu và Lê Khả chạy về Đậu Khê bị Việt Minh phục kích bắn chết. Lại Văn Chương sang Cao Xá được nửa tháng thì theo một người buôn bè ngược sông Thao lên Yên Bái. Khúc Văn và Lương Văn Tuyến vượt đường 283, giả làm thợ đấu sang vùng Vạn Thái lánh nạn. Quân đội Pháp tái chiếm huyện Nam Thành đóng bản doanh ở ngôi nhà hai tầng của Hàn Phúc thì dân buôn bán tản cư khắp nơi lại đổ về chợ Cháy. Hồi còn học lớp đệ Lục, Khúc Văn chơi thân với Vũ Lộc, con trai ông Hàn Phúc là nhân viên phòng Nhì. Vũ Lộc liền vận động anh ta vào quân trường Đà Lạt. Khúc Văn nói tiếng Pháp lưu loát lại là người có quan điểm chống Việt Minh triệt để nên được bố trí học ngành tham mưu. Ra trường anh ta được đưa về xếch tơ Đông Triều làm phụ tá cho quan tư Gơ ra xây.

Hai tiểu đội lính dõng trang bị súng trường mát, lựu đạn, dưới sự chỉ huy của đội Tảo hành quân theo đội hình hàng dọc trên đê sông Lăng. Chi e ry và Khúc Văn đi với toán Âu Phi. Bọn này cũng được trang bị trường mát nhưng thêm một khẩu trung liên đầu bạc. Lộ trình hành quân không gặp trở ngại gì. Trên đê không một bóng người. Bọn lính gốc Phi cao to, da đen sì như trát bồ hóng, thằng nào mặt cũng lầm lầm, vai khoác súng, chân đi ghệt cao cổ, nện gót rầm rập hệt như đang duyệt binh trên quảng trường.

Khúc Văn chỉ tay vào đám cây cối rậm rạp cách đê chừng dăm bảy cây số bảo Chi e ry:
- Ngài có biết khoảng rừng kia không?
Chi e ry lắc đầu:
- Xa quá, chắc là một làng nào đó.

Khúc Văn cười khẩy:
- Ngài nhầm rồi. Đó là rừng Hóp. Hồi người Nhật đem quân về làng Cùa, sau khi thất bại, tàn quân Việt Minh rút ra ẩn náu ở đấy.

Viên quan một người vùng Gát x côn chợt nghĩ ra, gật đầu:
- Cách đây ít lâu, đại uý Mác xen đã nói, có thể quân du kích địa phương sẽ dùng khu rừng ấy làm căn cứ kháng chiến.
- Đại uý dự đoán không sai. - Khúc Văn chĩa ống nhòm vào rừng Hóp ngắm một lúc rồi nói - Vùng Ba Tổng vẫn còn một số cán bộ nòng cốt Việt Minh nằm vùng. Chúng sẵn sàng móc nối với bọn từ bên kia sông Lăng về kích động đám bần cố nông chống lại ta. Mấy làng quanh đây tuy đã vào tề nhưng như thế không có nghĩa là dân chúng chịu khuất phục, cho nên cần phải thẳng tay trừng trị thì mới có thể sớm bình định được.
- Vậy trước mắt phải làm gì để hạn chế hoạt động của Việt Minh?
- Tăng cường hành quân, truy lùng Việt Minh nằm vùng, chặn đứng nguồn cung cấp vũ khí.
- Phải, đó là những biện pháp rất hữu hiệu trong kế hoạch bình định vùng đồng bằng Bắc Bộ của ngài trung tướng Tổng chỉ huy, nhưng có thực hiện được hay không lại là chuyện khác. - Chi e ry xem ra không mấy tin tưởng vào tài cầm quân của tướng Aletxăngđơri - Theo tôi được biết, sau thất bại Đông Khê, nhân dân Pháp bắt đầu mất lòng tin vào giới quân sự.
- Thiếu uý không tin tưởng ở sức mạnh của quân đội Liên hiệp sao?
Chàng trai Gát x côn khẽ cau mày:
- Tin thế nào được khi mà mấy tháng gần đây các cuộc hành quân của chúng ta chỉ bắn moóc chi ê và xả đạn tiểu liên vào đám dân cày, giết phụ nữ và trẻ em, còn kẻ thù đích thực thì cứ thoắt ẩn thoắt hiện như ma. Tôi sợ rằng trận càn hôm nay cũng chỉ tóm được vài tên Việt Minh tưởng tượng.
- Tôi sẵn sàng đánh cuộc năm ăn một với thiếu uý đấy. - Khúc Văn xốc lại khẩu súng ngắn trễ xuống hông nheo mắt nhìn viên sỹ quan Pháp - Tin tình báo cho biết, một trung đội địa phương quân từ Cổ Bi đã đột nhập vào làng Chi Điền. Bọn này sẽ phối thuộc với đội du kích do tên Tùng chỉ huy đang có kế hoạch phá tề, xây dựng làng chiến đấu.
- Tôi không tin.
- Rồi thiếu uý sẽ phải tin.

Trung đội Âu Phi tản ra thành ba hướng theo đội hình chiến đấu. Khúc Văn dẫn đầu toán lính Marốc và tiểu đội dõng kéo thẳng vào đình Thượng. Chi e ry bao vây vòng ngoài, chặn cổng phía tây nam. Đường làng không một bóng người. Từ hôm lý Lọng bị xử tử, cánh chức sắc như gà phải cáo, không ông nào dám đứng ra cầm triện đồng. Phó lý Bài bó mình trong chiếc áo the ngắn cũn cỡn, chiếc quần lá toạ ống thấp ống cao, hấp tấp ra đình. Khúc Văn hỏi:
- Ông có danh sách những nhà có người theo Việt Minh không?
- Dạ .. .
- Dẫn chúng tôi đến !

Phó lý Bài bất chợt lúng túng:
- Bẩm quan lớn, chúng chỉ về ban đêm, giờ này không đứa nào dại mà ở lại trong làng.
- Ông chủ quan lắm. - Khúc Văn mắng - Chúng nằm dưới hầm bí mật, ông hiểu chưa?
Căn nhà đầu tiên bị khám là bà Đôi, một phụ nữ goá chồng, mắt loà, đang lúi húi nấu cám lợn. Khúc Văn thốc mũi giầy vào ngực bà ta, dằn giọng:
- Đêm hôm qua thằng Bằng mới vượt sông Lăng về đây, giờ nó ở đâu?
Bà già ôm ngực ho:
- Bẩm quan, thằng con tôi đi Hải Phòng từ cuối năm Tuất, từ bấy đến nay chẳng có tin tức gì.
- Nói láo ! - Khúc Văn quát - Nếu không chỉ hầm bí mật, ta bắn vỡ sọ.
- Quan lớn thương tình. - Bà già chắp tay vái viên thiếu uý - Nó là thằng con bất hiếu, bất mục, nghe người ta xui dại, tôi không dậy được. Các quan cứ cho người khám nhà, nếu tìm thấy, xử bắn tôi không ân hận gì.
- Lục soát ! - Khúc Văn ra lệnh .

Mấy tay lính Marốc cùng tốp dõng xách thuốn xăm hầm. Khúc Văn ngồi trên chiếc chõng tre, vắt chân chữ ngũ, đốt thuốc, thở phì phèo, chốc chốc lại gõ đế giầy xuống đất đánh nhịp. Khoảng mười phút sau, viên cai người Bắc Phi chạy đến trước mặt Khúc Văn nói bằng tiếng Pháp:
- Bẩm thiếu uý, đã thuốn hết lượt, không thấy hầm bí mật.
- Còn trong bếp, dưới gầm giường ?
- Tất cả đều đã được kiểm tra.
- Thôi được. - Khúc Văn đứng dậy hất hàm về phía bà Đôi - Nện cho con mụ kia một trận.
- Thưa… hình như bà ta hơi điên.
- Gọi ông Đội Tảo chuyển sang nhà cả Nhưỡng.

Nhà Bảy Nhưỡng nằm cạnh ao làng. Đây là khoảnh ao khá rộng thả toàn bèo tây quanh năm xanh tốt. Những tầng bèo lưu cữu hết năm này đến năm khác, chồng chất lên nhau đến mức có chỗ dẫm vào không bị lún. Bố cả Nhưỡng là ông phó Đang có chân trong hội Tư văn. Bà Cả sinh được hai chị em Nhưỡng rồi mắc chứng hậu sản sài mòn qua đời lúc mới hai mươi bảy. Ông Phó tục huyền với một bà người làng Báng. Bà Hai tính nết hiền lành, nhu thuận, cả họ đều quý nhưng chỉ được mỗi mình cu Thạch. Tính Thạch khác người. Được chiều cậu ăn hiếp cả anh chị, lên bảy còn bắt Nhưỡng cõng đi chơi, chân dài ngoằng chấm đất. Ông phó Đang làm nghề chạm khắc gỗ, cũng kiếm ra tiền, chỉ phải dữ đòn. Chị Tí Nhường và cả Nhưỡng sợ một phép. Có chiếc diều đuôi của ai đó đứt dây vướng vào ngọn đa làng, Thạch bắt anh phải lấy cho mình chơi. Cây đa cao to, tán sum sê xoè rộng cả một gò đất hơn hai sào. Con diều đậu đúng vào cành cao nhất. Từ trên chót vót ấy nhìn xuống, Nhưỡng chóng mặt, không dám leo xa hơn nữa. Thấy vậy, Thạch lăn ra đất, đập đầu vào gốc đa khóc. Thương thằng em trai, Nhưỡng nhắm mắt liều. Nào, cố lên, chỉ ra bốn chục phân nữa thôi là được. Nhưỡng run quá. Bất chợt cái đầu hình tam giác của một con rắn xanh ngọ ngoạy ngay phía dưới cùi tay làm mắt cậu hoa lên… Cũng may trong khi rơi, Nhưỡng chạm được vào một cành nhỏ phía trên chạc ba. Cậu nhanh trí tóm lấy rồi đánh đu quặp được vào cành ngang. Xuống đến đất, mặt Nhưỡng tái xám như gà toi vừa bị cắt tiết. Thật hú vía. Đang tức, thấy thằng em cứ nằm giãy đành đạch ăn vạ cậu ta liền phát cho mấy cái vào mông, lôi tuột về nhà. Cu Thạch tuy bé nhưng cũng không vừa, thấy diều chẳng được mà lại bị đánh liền ôm cột nhà, lấy chân đạp anh, sau đó nằm xoài ra đập đầu vào tảng đá kê chân cột. Nghe tiếng khóc, ông Phó từ trong nhà chạy ra quát:
- Thằng Nhưỡng lại đánh em phải không?

Nhìn thấy Cu Thạch đầu nhoe nhoét máu, vừa gào vừa chửi, ông cáu tiết, cầm thước lim quất túi bụi vào đầu vào vai Nhưỡng. Lớn chút nữa, hễ ông Phó đi làm xa là bà Trẻ không bảo được con. Thạch lang thang khắp làng trên xóm dưới trêu ghẹo đám trẻ con khiến cho hôm nào cũng có người gọi cổng. Có lần bà Trẻ cầm dao đuổi. Cậu ta liếc mắt nhìn trước nhìn sau, thoắt cái leo tót lên cây vối bờ ao. Đến ngọn cây Thạch cúi xuống bảo mẹ:
- Bà có giỏi thì lên đây.

Bà mẹ sợ, van lạy mãi ông con vẫn cứ lờ đi, ngồi trên cây ăn quả vối chín đến thâm môi rồi mới chịu xuống. Lần khác, Cu Thạch ném phân trâu vào nhà bà Hú, một bà già dở hơi sống độc thân trong túp lều rách cạnh ngôi miếu cổ. Buổi chiều, bà ta đến trước cổng gọi đích danh ông phó Đang ra chửi. Bà ta chửi có bài bản và cái chính là chửi rất dai, ngữ điệu lên bổng xuống trầm nghe như hát tuồng khiến bà Trẻ tức điên.Tuy nhiên vốn có kinh nghiệm đối phó với những trường hợp này nên bà tỏ ra rất nhũn nhặn:
- Cháu nó đầu bò đầu bướu. Tôi xin bà. Bà cứ về để tôi dạy cháu.
Tất nhiên là lúc đấy Cu Thạch trốn biệt, trưa hôm sau mới về, định vào buồng tìm cơm nguội nhưng nhác thấy mẹ lại lảng ra. Bà Trẻ nói rất ngọt:
- Thạch đã về đấy hả? Vào khênh giúp u thúng thóc để chốc nữa xay rồi đi mà ăn cơm .
Ông con tưởng thật bước vào buồng. Bà Trẻ nhanh tay chốt cửa lại, nghiến răng nghiến lợi bảo:
- Bây giờ thì mày chết với bà !

Miệng nói, tay với cái dùi đục của ông Phó quật vào lưng con trai. Cu Thạch giơ tay đỡ, đảo mắt nhìn quanh. Bỗng thoắt cái, cậu nhảy lên mặt hòm gian, đánh đu lên xà nhà, đạp tung vách đố đan bằng tre rồi phi thân xuống bàn thờ gian giữa làm đổ lỏng chỏng cả bát hương, mâm bồng, bồ đài. Bà mẹ thở dốc, vội rút chốt cửa, xách dùi đục xô ra, nhưng lúc bấy giờ thì cậu quý tử đã cao chạy xa bay rồi.

Làng nghèo, đất chật, người đông, lại thuộc vùng chiêm trũng nên cuộc sống vất vả, lam lũ. Những năm vỡ đê, nước ngập trắng đồng, lúa mất sạch, khi nước rút chỉ còn cánh bãi ven sông là trồng được khoai lang. Cái thứ khoai lang Vân trồng trên đất phù sa tốt vô kể, củ nào củ ấy to mập, da nhẵn bóng, nổi sắc nâu đỏ hoặc tím sẫm, luộc lên bở như bánh phong bột nếp hoa vàng. Nhưng Cu Thạch chỉ thích khoai khô, nhất là loại thái con chì, phơi kỹ để trong chum Thanh chèn lá chuối mật. Lần nào giặt áo cho cậu, bà Trẻ cũng tìm thấy khoai khô trong túi. Vùng Ba Tổng có nghề đơm tôm tép bằng loại đó tre dùng. Sau mỗi vụ heo may, anh em Nhưỡng phơi được mấy nong làm thức ăn quanh năm. Chị tí Nhường lấy chồng, nhà nghèo lại đông con, bà Trẻ thường giấu cho mỗi lần một ít. Biết chuyện, Cu Thạch tuyên bố:
- Phần của u với anh Nhưỡng một chum muốn cho chị Cả bao nhiêu thì tuỳ, nhưng cấm đụng vào chum của tôi.
Ông phó Đang lườm thằng con ngỗ nghịch mắng:
- Mày là thằng ích kỷ.
Cu Thạch mặt lạnh như tiền, phớt lờ cả ông bố, giọng bốp chát:
- Con gái đã lấy chồng hưởng phúc nhà chồng, hễ về đây bòn vét là tôi đập vào
mặt.
Anh em Nhưỡng không học Quốc ngữ mà chỉ học chữ Nho với bố. Ông Phó trước học cụ khoá Thìn. Số ông vất vả chẳng có vai vế gì trong làng nhưng do biết chữ nên bọn lý dịch không dám chèn. Khi đã có thể cầm được đục chạm, ông bố cho hai cậu con trai theo phụ việc. Nhưỡng chịu khó học hỏi, chóng thành nghề. Cu Thạch vừa vụng về vừa mải chơi toàn làm hỏng. Ông Đang ghét lắm, vớ dùi đục choảng. Làm được chẵn năm, một lần ông bố giao cho hai anh em tỉa những chùm hoa cúc trên cánh tủ chè gỗ gụ, Thạch sơ ý đục quá tay làm vỡ một miếng. Nhưỡng tức mình mách bố. Ông Phó sượng mặt với gia chủ, liền lấy cán rìu quật tới tấp vào tay con trai. Trời rét. Bàn tay tím bầm. Đau quá, Thạch cắn răng không nói nửa lời, nhặt chiếc áo cánh nâu vắt vai, lẳng lặng bước ra cổng. Cả Nhưỡng chạy theo gọi, cậu ta nói cộc lốc:
- Tôi không về nhà nữa đâu.

Tưởng Cu Thạch phẫn chí nói thế ai ngờ hắn đi thật. Cuối năm Dần, Ông Phó qua đời. Bà Trẻ cũng mất sau đó mấy tháng vì nhớ thương con. Ngôi nhà gỗ năm gian bị Tây bốt Tuần đốt trong trận càn mười hai tháng chín. Năm Mão cả Nhưỡng đi lính Bảo an. Chị Ngần và ba đứa con phải chen chúc trong túp lều chẳng khác gì lều vó bè.

Một đêm Cu Thạch về. Cùng với cậu ta còn có hai bạn đồng ngũ. Tất cả đều bị ngã nước. Người nào người ấy môi thâm, da tái nhợt, đầu rụng sạch tóc. Thạch gọi chị dâu ra một chỗ bảo :
- Chị nấu cho chúng tôi nồi cháo, kiếm được mấy quả trứng thì tốt. Anh em mới ở rừng về, nhờ chị vài hôm.
Chị Ngần gật đầu:
- Cháo thì có. Trứng cũng có. Nhưng các chú không thể ở đây lâu được. Hôm nào lính tuần cũng vào làng lục soát.
Ăn cháo xong, bà chị dâu lại giục:
- Các chú phải đi ngay trong đêm, đừng chờ trời sáng.
Cu Thạch cười nhạt:
- Chị đuổi, chúng tôi đi nhưng nhờ chị giữ hộ cái này, cuối tháng sẽ có người đến lấy.
Nói rồi Thạch xách chiếc bị cói đã cũ nhưng nặng chịch để vào góc lều. Chị Ngần sinh nghi bèn mở ra xem thử. Xuýt nữa chị ta chết ngất vì cái thứ đựng trong bị toàn là lựu đạn chày, vội chạy đuổi theo vừa nói vừa thở :
- Chị lạy các chú. Các chú ở lại cũng được nhưng phải quăng cái của nợ ấy đi. Nó mà biết thì chết cả nhà.
Đêm ấy chị Ngần cùng đứa con gái lớn bất đắc dĩ phải đào hầm bí mật cho ba người. Họ ăn nghỉ ở nhà chị hơn một tuần. Chị mua được thuốc ký ninh của ông xếp Thụ cho uống, hết sốt rồi mới đi. Khi đi, Thạch thay mặt anh em nói lời cảm ơn:
- Sau này kháng chiến thành công, Chính phủ sẽ có sự đền đáp.
Chị lắc đầu:
- Chả cần ơn với huệ, chỉ mong các chú chân cứng đá mềm .
Năm sau, Cả Nhưỡng bị đạn du kích vào gót, thành khập khiễng, được giải ngũ. Chị Ngần chuyển sang nấu rượu nuôi lợn nái. Năm thì mười hoạ Thạch ghé về. Có rượu uống anh ta thích lắm. Một đêm, Thạch bơi qua sông Lăng, quần áo ướt sũng, run cầm cập. Chị Ngần rót chén rượu đưa cho em chồng:
- Uống cho đỡ rét.
Uống xong, Thạch dặn trước khi chui xuống hầm:
- Mai đi chợ chị "đỏ" đừng nhìn lên cành đa.
Chị Ngần không nói gì . Sớm hôm sau quẩy gánh ra đầu làng nghĩ bụng:“Chắc thằng này lại treo tạc đạn lên cây đa”. Đến nơi, dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ, thấy cái đầu người tóc tai rũ rưỡi, lủng lẳng trên cành đa, các bà hàng rượu chẳng còn hồn vía nào, mạnh ai nấy chạy như bị ma đuổi. Chị ngần vấp ngã vỡ cả hai vò rượu. Về nhà, chị mắng:
- Chú lừa chúng tôi.
Cu Thạch nhe răng cười:
- Đó là đầu lâu Việt gian làm chỉ điểm cho Tây.
Chị bỗng chột dạ hỏi:
- Các chú bắt người ta ở đâu về? Hay là. . .
Giọng Thạch vẫn tỉnh khô:
- Chính là lý Lọng làng ta chứ còn ai nữa.
Chị Ngần tái mặt:
- ối giời ơi ! Chú gây ra tội ác tầy trời rồi .
Từ lâu Thạch đã nổi tiếng là tay gan lỳ, mấy lần xuýt bị Tây bắt. Gần đây, anh ta được cử về Chi Điền tăng cường cho đội du kích. Chủ trương của Thạch là trừ khử Việt gian. Chỉ trong tháng chín đã có hai tên bị cắt cổ làm đồn Cáo tức điên lên.
Khúc Văn vung vẩy khẩu súng ngắn, hất hàm hỏi:
- Anh kia, thằng Thạch đâu?
Nhưỡng thoáng thấy lính tráng đầy sân, hoảng lắm nhưng cố trấn tĩnh để giọng bớt run :
- Thưa quan lớn, thằng mất dậy ấy bỏ nhà đi từ bốn năm nay không thấy về.
- Nhà anh nói láo ! - Khúc Văn nạt nộ - Mấy hôm trước, nó cùng đồng bọn cắt cổ ông lý Lọng treo lên cây đa chợ Đình, chả nhẽ anh lại không biết?
- Dạ tôi cũng có nghe dân làng nói.
- Trói lại ! - Khúc Văn ra lệnh cho mấy tên lính dõng - Nếu không thành thật khai ra thì hãy liệu cái mạng mày.
- ấy quan lớn , - Nhưỡng mếu máo - tôi cũng đã đi lính Bảo an, bị ăn đạn Việt Minh nên chẳng việc gì phải bao che cho chúng.
- Nhưng Cu Thạch là em ruột mày. - Khúc Văn quắc mắt gằn giọng.
- Em ruột mà làm Việt Minh tôi cũng báo quan bắt nếu nhìn thấy nó về làng.
- Được . . .! - Khúc Văn cười nhạt - Mày nhớ đấy.
Khắp vườn chuối, bờ ao, chỗ nào cũng bị những chiếc thuốn dài, nhọn hoắt xuyên xuống thăm dò. Gần bụi mây, giáp với nhà Trương Quả, một tên dõng phát hiện ra hầm vì cây thuốn sắt sụt xuống già nửa. Khúc Văn nắm cổ áo cả Nhưỡng lôi sềnh sệch đến bụi mây, bảo:
- Mày gọi nó ra đi nếu không đừng trách.
- Đã bảo nhà tôi không có hầm bí mật.
Bọn lính lên đạn rôm rốp. Tiếng cuốc, thuổng, xà beng phầm phập. Chừng năm bẩy phút, một khoảng trống bằng bắp chân lộ ra, sâu hun hút. Một gã kêu lên:
- Hầm đây rồi . . .
Hắn chưa nói dứt lời một vật đen loằng nhoằng cất cổ phun phè phè. Thì ra một con hổ mang đang ấp trứng, bất chợt bị phá hang, nó lao vút ra với tốc độ tên bắn mổ trúng tinh mũi cai Lìu. Tên này lập tức ngã bổ chửng, giãy đành đạch. Khúc Văn bị một phen hoảng hồn. Hắn vẩy liền ba phát súng lục. Viên cuối cùng trúng vào cái đầu nhẵn bóng. Con rắn quằn quại một lúc rồi mới chết. Cai Lìu bị nọc độc ngấm vào người, mặt tái nhợt. Khúc Văn quát:
- Hai đứa khiêng ông ta ra đình còn những người khác tiếp tục tìm hầm.

Cả Nhưỡng lấm lét theo dõi bọn chúng. Trận càn bất chợt làm anh ta lo lắm. Cái hầm của Cu Thạch nằm ngay phía ngoài bờ ao, gần gốc cây sung. Nó mà khui ra thì gay. Rất may, hôm nay chị Ngần đã đưa lũ trẻ về kẻ Bầu từ sáng. Mẹ con họ mà ở lại thì chẳng biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Các tay thuốn chọc ngoáy hết lượt không thấy chỗ nào đáng ngờ kéo nhau vào sân giở thuốc lá ra hút. Khúc Văn sắp sửa cho rút quân thì một người mặc quần áo nâu, đội nón lá như phu xe mang kính thầy bói từ ngoài cổng vào ghé tai viên thiếu uý nói thầm mấy tiếng rồi chỉ tay ra gốc cây sung. Khúc Văn lập tức ra lệnh đào. Chỉ vài ba nhát cuốc cửa hầm đã hiện ra. Đó là một khung gỗ hình chữ nhật lèn đất nện, được đậy rất khéo ở một vị trí ít ngờ tới nhất mặc dù nó chỉ cách mép đường chưa đầy nửa thước.
Khúc Văn ra lệnh:
- Lùi lại ! Chuẩn bị lựu đạn.
Nói xong, hắn bắc tay làm loa gọi to:
- Cu Thạch lên đi ! Anh không còn đường thoát đâu.

Phía dưới vẫn im lặng. Đó là những phút giây căng thẳng chết người không chỉ cả Nhưỡng mà chính tim viên thiếu uý cũng đập thình thịch. Hắn muốn bắt sống tên Việt Minh nằm vùng để chứng tỏ năng lực cầm quân của mình đối với gã đồn trưởng mà ngay từ đầu đã tỏ thái độ coi thường thuộc cấp. Không thấy trong hầm có động tĩnh gì, Khúc Văn lại quát to:
- Anh Thạch ra đi! Lấy danh dự của một sỹ quan quân đội Liên hiệp Pháp, tôi sẽ đảm bảo tính mạng cho anh.

Hắn đang lải nhải thì đột nhiên một quả lựu đạn từ dưới hầm quăng lên. Lựu đạn nổ tức thì làm hai lính da đen và một tên dõng chết tại chỗ. Khúc Văn đã nghĩ tới tình huống này nhưng không ngờ tên Việt Minh lại nhanh tay đến thế. Nhìn đám thuộc hạ quằn quại trong vũng máu, hắn nổi máu điên, vảy súng nhằm cả Nhưỡng nổ hai phát. Nghe tiếng lựu đạn, bọn lính của Chi e ry lúc ấy đang ở sân đình cũng xách súng chạy đến. Khúc Văn tự tay ném quả lựu đạn mở vịt xuống hầm. Tiếng nổ bị nén lại nghe lục bục như sấm mùa đông. Khói đặc sệt, cay sè xộc vào mắt mũi làm bọn lính hắt hơi như tất cả đều mắc bệnh cúm. Khúc Văn bảo tên lính da đen người Xê nê gan :
- Chờ hết khói rồi xuống hầm mang tên Việt Minh lên .

Tên da đen loay hoay một lúc lại chui lên với một nửa cái chai vốn là thứ đồ đựng gạo rang của những người nằm hầm bí mật .
- Thưa thiếu uý không thấy xác người.
- Quái lạ. - Khúc Văn lẩm bẩm - Chả lẽ nó lại nát bét ra đến nỗi mắt các anh không nhìn thấy. Hãy đào rộng thêm, rồi xúc đất lên để xem thằng Việt Minh này mồm ngang mũi dọc thế nào.
Miệng hầm lập tức được phá rộng . Gốc sung bật rễ. Đến lúc ấy bọn lính mới phát hiện ra một ngách ăn thông xuống nước.
- Chúng ta bị lừa rồi . - Khúc Văn đưa mắt nhìn ao bèo tây bảo - Đây là loại hầm hai tầng. Tên thạch đã lặn dưới đám bèo kia.
- Nếu vậy chắc là nó chưa dám ngoi lên.

Hàng chục quả lựu đạn được ném xuống những chỗ nghi ngờ. Đạn súng trường bay chiu chíu trên mặt lớp bèo dày đặc. Chừng nửa tiếng đồng hồ, Khúc văn lùa tất cả đám lính dõng xuống ao, dùng câu liêm và đinh ba, dàn hàng ngang càn hết lượt đến gần trưa mà vẫn không thấy bóng dáng tên Việt Minh. Hắn cáu lắm quăng chiếc bật lửa cho tên lính Xê nê gan.
- Đốt nhà !

Ngôi nhà một gian hai chái của vợ chồng cả Nhưỡng bùng cháy. Lửa gặp gió đông nam bốc cao bén sang nhà quản Hạo . ông Hạo hốt hoảng lập cập xách thùng ra ao thì bị trúng đạn của cánh quân Chi e ry đang bắn loạn xạ phía xóm Nội. Đường làng khói bốc mù mịt. Sức nóng của hoả thần làm không khí hầm hập như lò bát quái. Cả xóm Mật trở thành biển lửa. Mấy tên lính Phi Châu chạy ngược chạy xuôi, đen sì như những hung thần. Một thằng có mái tóc xoăn tít, cao lênh khênh nhảy ra hàng rào cúc tần túm được cô con dâu ông trương Phận liền đè xuống đầu bếp, tốc váy lên. Cô Dự sợ chết khiếp nhưng vẫn cố sức chống cự bằng cách cắn vào yết hầu tên lính Lê dương. Hắn khoẻ như voi, chỉ khẽ gạt một cái, đầu người thiếu phụ đã oặt ra. Cô ta chết rồi nhưng gã da đen vẫn hùng hục giày vò tấm thân loã lồ giữa những tiếng nổ đùng đoàng và hơi lửa hầm hập từ mái bếp cháy đang sắp rơi xuống. Phía bên kia ao, hai tên dõng vồ được đứa con gái chừng mười sáu mười bẩy vừa chạy ra từ một ngõ cụt. Một thằng kéo tuột chiếc váy thâm quăng vào đống lửa rồi xốc ngược con bé lên chạy ra phía bờ ao. Chi e ry trông thấy vội quát :
- Đứng lại!

Hai tên lính bản xứ làm ra vẻ không quen nghe tiếng Pháp vẫn cắm cổ chạy. Viên thiếu uý liền rút khẩu colt nhằm thằng đang vác người nổ một phát. Viên đạn trúng bắp chân làm hắn ngã chúi về phía trước. Chi e ry nhảy đến đá vào mạng sườn thằng chạy sau bằng một cú đòn hiểm làm tên này nhăn nhó.
- Cởi quần dài ra!
- Dạ, bẩm thiếu uý…
Chi e ry chĩa khẩu súng lục vào đầu hắn:
- Tao bảo cởi ra.
Tên dõng lập cập làm theo mắt len lén nhìn vào nòng súng.
- Mặc quần của mày cho cô ta !
Tên lính lóng ngóng mãi mới xỏ được ống quần đi trận bằng thứ vải ka ki dày cộp vào chân cô gái lúc này vẫn còn đang ngất xỉu chẳng biết vì sợ hay vừa bị ngã.
- Mang cô bé vào ngôi nhà kia ! - Chi e ry chỉ tay ra lệnh - Xong rồi về sân đình đợi tao. Tối nay xuống hầm giam. Phạt cơm cả hai thằng.
Bốn giờ chiều. Khúc Văn bàn với Chi e ry rút quân sau khi hắn đã ra lệnh đốt gần hết nhà cửa xóm Mật. Nhìn cảnh làng xóm điêu tàn, Chi e ry thở dài:
- Chả nhẽ những cuộc hành quân như thế này lại được gọi là “tiễu trừ Việt Minh”.

Khúc Văn mặt lạnh tanh, cười khinh khỉnh:
- Thiếu uý không nên đa cảm. Chúng ta là những người lính có nghĩa vụ phải phục tùng mệnh lệnh cấp trên.
- Tôi e rằng cuộc chiến này còn lâu mới kết thúc và quân đội Liên hiệp Pháp chẳng thể nào thắng được Việt Minh.


3. Chiếc hầm ở gốc sung có cửa nằm sâu dưới nước. Sau khi tung quả lựu đạn, Thạch tụt xuống lặn một hơi dưới ao bèo tây, chui vào cửa hầm thứ hai phía bờ bên kia, leo lên ngách trên, nằm chờ đến nửa đêm thoát ra ngoài. Anh ta vượt sông Lăng lúc canh tư, vào đến bãi chuối cồn Vành thì gà báo sáng. Người vẫn còn ướt lướt thướt, Thạch cởi quần áo vắt cho ráo nước rồi mở bình toong làm tợp rượu ngang cho ấm bụng. Thạch uống rượu từ hồi còn ở nhà cùng với ông phó Đang đi chụp ếch đêm, lâu dần thành nghiện, đi đâu cũng phải mang theo. Ngày mới đi khỏi làng Cu Thạch lang thang mấy hôm bên cồn Vành . Anh ta kiếm ăn bằng cách bẻ ngô thuê cho dân kẻ Bòng. Xảy nhà ra thất nghiệp, đã có lúc chàng thợ chạm nửa mùa nghĩ đến việc đăng lính Bảo an. Vùng Ba Tổng, mấy năm nay khối anh theo binh nghiệp có tiền gửi về cho vợ con. Vào lúc Thạch sắp sang phủ Đông Giàng thì gặp Lê Văn Vận. Ông chủ tịch trong vai người buôn hàng tấm, áo gụ bốn túi, quần chéo go mầu lông chuột, quảy đôi bồ thũng thẵng bước trên đê. Trước đây Thạch đã gặp Vận vài lần nên nhận ra ngay ông chủ tịch. Anh ta nhìn gánh hàng có vẻ ngạc nhiên, hỏi :
- Dạo này bác bỏ Việt Minh đi buôn chuyến à?
Vận không trả lời mà hỏi:
- Cậu là con trai ông phó Đang bên Chi Điền ?
- Phải.
- Có việc gì mà lang thang sang đây?
- Tôi bỏ nhà đi.

Vận gật đầu:
- Trai thời loạn chẳng nên ru rú trong nhà mà cần phải có chí lớn. Cậu hãy theo tôi.
- Chuyển hàng ra vùng tự do phải không?
- Không, lên rừng.
Hai người xuôi theo bãi dâu ven sông, chiều tối vào kẻ Bòng nghỉ nhờ một nhà dân bên đường. Chủ nhà là người đàn ông trung niên có cặp mắt trố, cái mũi tẹt và hàm răng vổ trông rất bẩn tướng. Thấy khách nói là dân buôn chuyến ông ta nhận cho nghỉ trọ ngay, còn bảo bà vợ nấu cơm mời ăn. Tầm cuối giờ Hợi, phía đầu làng có tiếng mõ cá khua rất gấp. Tiếp theo là trống ngũ liên nện thình thình từ sân đình vọng về. Vận giật mình bấm tay Thạch nói nhỏ:
- Gay rồi, lão chủ nhà phản chúng ta.
Thạch văng tục chửi :
- Đốt mẹ nó nhà đi rồi chuồn.
- ấy chớ ! - Vận thì thào - Hồi chiều tôi đã quan sát kỹ chung quanh. Phía sau vườn có một lối nhỏ thông ra miếu hoang. Ta luồn về đằng ấy may ra còn kịp.

người lén mở cửa mạch, nhẹ nhàng chui vào vườn chuối. Lão mắt trố ngồi rình ở chân đống rơm trước cổng vẫn yên trí hai ông khách đang ngủ mệt. Hồi chiều, nhìn thấy LêVăn Vận lão sinh nghi, hình như có lần gặp gã lái buôn này ở đâu đó. Không. Hắn không phải dân buôn chuyến. Bọn này chắc là Việt Minh trá hình. Phải báo lý Quảng để ông ta làm rõ thực hư. Nghĩ vậy, gã vào bếp thì thầm mấy câu với vợ rồi lẳng lặng ra cổng.

Khi cánh hương dũng xách gậy gộc, giáo mác ập vào nhà thì hai “lái buôn” đã chạy đến giữa đồng. Bọn này đốt đuốc hô hoán tuần đinh đuổi theo. Tàn lửa bay nhấp nhoáng. Tiếng bước chân rầm rập làm Cu Thạch nổi da gà. Cũng may, trời tối đen mà cánh đồng lại rộng, nhiều gò đống , dễ ẩn nấp nên bọn làng Bòng tìm quanh quẩn chừng một canh giờ không thấy gì đành kéo nhau về. Cu Thạch bảo Lê Văn Vận:
- Hôm nay tôi mới biết thế nào là Việt Minh.
- Có sợ không? - Vận hỏi.
- Sợ chứ, nhưng mà có lẽ hoạt động kiểu này cũng thích.
Sau vụ thanh toán lý Lọng, Khúc Văn kéo quân càn vùng Chi Điền, Thạch bị lộ không thể ở lại chỉ huy phong trào, Lê Văn Vận phải rút anh ta về căn cứ Mai Động. Nhìn bốt Tuần án ngữ bên bờ sông như cái gai nhọn chọc vào mắt, Vận không chịu được bảo với Thạch:
- Ta phải vượt sông điều tra bốt Tuần rồi đánh một trận xem sao.
Thạch vốn là tay có máu phiêu lưu, thích mạo hiểm, tán thành ngay :
- Đề nghị các anh cho tôi sang sông trước nắm tình hình.
Vận bảo:
- Trước hết là chú phải về làng Cùa tìm cách gặp ông Khoá Kiệt . ở rừng Hóp đang có một đội du kích nhưng hình như họ chưa muốn hợp tác với ta. Nhiệm vụ của chú là phải thuyết phục để ông Khoá hiểu được chủ trương toàn dân đoàn kết chiến đấu của cụ Hồ Chí Minh rồi mới đến việc điều tra bốt tuần. Chú định đem theo mấy người?
- Chỉ mình tôi là đủ. - Thạch nói ngay - Bên ấy hiện giờ lính đồn Tuần kiểm soát ngặt lắm, đi nhiều không lợi.

Chập tối hôm ấy, Thạch đến cồn Vành. Trời tối như đêm ba mươi tết. Mưa phùn lất phất. Sóng vỗ lóc bóc ngoài bãi sông. Lũ đom đóm trên vạt ngô non bay chập chờn lúc cao lúc thấp, toả thứ ánh sáng lân tinh xanh lét, lạnh lẽo nhưng cũng đủ để nhận ra lối vào vườn chuối. Từ trong bụi sậy, một con gà nước, nghe tiếng động, vỗ cánh phành phạch bay vút lên. Thạch lấy dao găm thận trọng cắt một cây chuối mang ra bờ sông. Anh ta nhằm phía trên điếm Bài Vân bơi sang. Phù sa mát lạnh. Một con chim lạ có sải cánh rất rộng bay là là trên mặt nước. Thạch có cảm giác chỉ cần đưa tay lên là túm được chân nó. Sang đến bên này, anh ta xuôi xuống phía hạ lưu chừng nửa cây số rồi vượt đê. Từ đây đến rừng Hóp còn khá xa. Tầm này, bọn hương dũng và lính Bảo an chắc đã ngủ. Từ ngôi điếm nào đó mãi dưới Chi Điền vọng lại tiếng mõ cầm canh. Những tiếng mõ khô khốc, vô cảm, thậm chí nghe rất chối tai phá tan sự yên tĩnh vốn có của đêm hè vùng đồng chiêm.

Khoảng hơn một giờ sau, Thạch tìm thấy ngôi miếu hoang theo sự chỉ dẫn của Lê Văn Vận. Anh ta leo hẳn lên bệ thờ, vắt chéo khoeo đánh một giấc. Tang tảng sáng, trước khi người dân ra đồng, chàng trinh sát đã kịp trở dậy rẽ xuống đường ra đầm Ma. Vùng này, từ hồi Pháp xây bốt Tuần ít người qua lại.
Đường vào rừng Hóp quanh co, hai bên toàn lau sậy rậm rạp. Xa xa là đầm Ma, rộng mênh mông, mặt nước xanh màu nõn chuối nổi bồng bềnh từng đám bèo ong, chốc chốc lại có một đàn vịt trời lông xám hoặc le le đầu trắng từ bên kia sông đáp xuống. Chúng tha hồ lặn ngụp nô giỡn nhau rồi bay vào rừng Hóp đậu trên ngọn cây ngoã rỉa lông cánh. Mải ngắm lũ chim trời, Thạch không để ý có hai người khoác súng đang theo dõi dưới lùm cây dẻ.
- Đứng lại ! Anh đã bị bắt.
Thạch giật mình liền đưa hai tay lên quá đầu.
- Đừng bắn. Tôi ở bên Mai Động sang.
- Câm mồm ! - Một người có mái tóc húi cua quát.
Người thứ hai lại gần Thạch khám được bức thư anh ta giấu trong ống nhôm đựng thuốc Atxpirin cài ở cạp quần.
Lập tức chàng trinh sát bị bịt mắt bằng một băng vải nâu rồi được dẫn vào rừng. Đường càng lúc càng khó, nhiều chỗ phải lội vì trời mới mưa. Thời gian đi không lâu lắm, áng chừng già một khắc cả bọn đến Đại bản doanh của Khúc Kiệt. Vừa được tháo băng mắt, Cu Thạch đã phát khiếp khi nhìn thấy ông chỉ huy du kích râu tia tua tủa như thằng tướng cướp. Khúc Kiệt hỏi:
- Ai đưa cho anh bức thư này?
- Anh Vận bảo tôi chuyển đến ông và bàn về việc phối hợp với du kích làng Cùa đánh bốt Tuần.
- Tình hình bên ấy thế nào?
- Đã thành lập được mấy trung đội địa phương quân nhưng ngặt nỗi thiếu vũ khí nghiêm trọng.

Khúc Kiệt bảo:
- Các làng quanh đây bị ép vào tề hết rồi. Phần lớn lực lượng nòng cốt phải tạm thời bỏ địa bàn để tránh càn quét. Trong ba tháng qua có tám cán bộ nằm hầm bí mật bị khui. Các anh không nghe tôi mà cứ đánh liều là toi mạng.
- Còn kế hoạch của các ông?
- Gay lắm. Chúng tôi đã điều tra về cách bố trí hoả lực và hệ thống phòng thủ đồn Tuần nhưng ngặt vì vũ khí toàn loại cà khổ, đánh công kiên không lợi. Anh về nói với anh Vận, đầu tháng tới, tôi cần gặp bàn một số việc quan trọng.
- Vậy thì ông viết cho mấy chữ.
- Được, nhưng bây giờ anh chưa nên đi, chiều tối người của tôi sẽ dẫn tới bờ sông.
Chuyến trở về của Thạch không theo hành trình cũ. Anh ta được một du kích đưa xuống tận bến đò Vạn Điền. Sau khi qua sông, Thạch đóng giả lái trâu, vượt qua mấy làng tề rồi mới ngược lên Mai Động. Đọc thư xong, Vận bảo:
- Thực ra tôi cũng có kế hoạch về Ba Tổng từ lâu nhưng điều kiện giao thông lúc ấy chưa thuận lợi nhất là phải vượt qua kẻ Bòng, Trúc Sơn và Mao Xá. Tháng trước, địa phương quân của ta kết hợp với du kích đã hạ được đồn An Sơn, nhưng đó chỉ là những lô cốt lẻ binh lực của chúng tiêu hao không đáng kể. Tuy nhiên nó cũng khai thông được tuyến liên lạc giữa chiến khu và vùng địch hậu. Nhân dịp này, ta phải tranh thủ bàn với ông Khoá phối hợp lực lượng đánh bốt Tuần. Đồn này mà thất thủ thì việc đánh đồn Si, đồn Vàng không khó.
- Kế hoạch của anh đã được ban lãnh đạo thông qua chưa?
Vận cười nhạt:
- Sau trận càn tháng tư ông nào cũng hốt, ban ngày nằm lỳ dưới hầm, đêm mới dám mò ra. Mấy lần tôi bàn đánh đồn Mao Xá các vị đều gàn, bảo rằng thời cơ chưa chín muồi.
- ý anh thế nào?
- Còn thế nào nữa. Tôi là người lãnh đạo cao nhất của huyện, tôi phải có quyền quyết định chứ.
- Vậy thì được nhưng còn một chuyện làm tôi băn khoăn, đó là mối quan hệ giữa ông khoá Kiệt và tay

Khúc Văn mới được điều về đồn Tuần, nghe nói thằng này hung hăng lắm.
Vận gật đầu:
- Hai bố con nhà ấy từ lâu nay đã coi nhau như kẻ thù, thế nào rồi cũng phải có một người bị giết. Tôi vốn là cháu rể ông Khoá. Ông ấy tuy là người cực đoan, vô chính phủ nhưng tinh thần cánh mạng thì tuyệt đối trung thành, không nên nghi ngờ.
- Nhưng tôi vẫn thấy điều gì đó khác thường ở con người này.
- Đừng nên đa cảm chú em ạ. Trong cuộc đọ sức giữa ta và địch sẽ còn nhiều những bất ngờ không lường trước được đâu.

Vào một đêm tháng chín, Lê Văn Vận và Cu Thạch vượt sông Lăng ở phía hạ lưu gần điếm Tổng. Dạo này đồn Cáo cho lính phong toả khắp các bến từ điếm Bài Vân xuống tận ngã ba Môi nên hai người không dám đi ban ngày. Cồn Vành sau mùa lũ mà nước vẫn ngập phần lớn các chân ruộng trũng. Cá từ sông Lăng vào nhiều vô kể nhưng dân trong vùng không dám đánh bắt. Họ sợ Tây càn bất chợt. Cả một vùng bãi rộng mênh mông ngập phù sa ngời lên dưới ánh sao đêm. Đâu đó có tiếng đớp mồi. Chỉ lũ cò vạc là tự do kiếm ăn. Chúng tập hợp thành bày hàng chục con vừa lùa cá tép vào miệng vừa cãi nhau bằng đủ thứ giọng. Thỉnh thoảng, một con giang chân lênh khênh như cà kheo bất chợt hạ cánh, lội bùm bũm làm động nước, lũ cá thiểu ăn đêm hốt hoảng lao như tên bắn vọt lên những rãnh cỏ nông choèn, phơi bụng trắng lấp lánh như ánh bạc.

Lần này, cơ sở An Sơn đã chuẩn bị cho hai người một chiếc thuyền nan. Chèo thuyền là một cô gái, nghe giọng nói áng chừng chỉ khoảng mười tám đôi mươi. Con đò lặng lẽ sang ngang. Đêm thật yên tĩnh. Sóng nhè nhẹ vỗ dưới mạn thuyền. Từ bãi chuối dưới cồn Vành có tiếng cú rúc. Sang được quá nửa sông bỗng nhiên hai ngọn đèn pha cực sáng từ dưới hạ lưu rọi vào thuyền. Nguy rồi, Vận giật mình. Bọn chúng tắt máy thả ca nô trên sông đón lõng từ chập tối mà cơ sở không phát hiện ra .
- Việt Minh đầu hàng đi ! Các anh đã bị bao vây.
Cô gái đảo mái chèo xoay mũi về bên tả ngạn bảo hai người :
- Các anh cứ ngồi yên nếu chúng áp mạn hãy nhảy xuống sông.
- Không được! - Vận khẽ bảo - Thế thì nguy hiểm cho cô.
- Việt Minh đầu hàng đi ! - Vẫn tên lính ban nãy chĩa chiếc loa sắt tây cất giọng lè nhè như còn ngái ngủ - Các anh không còn đường thoát đâu.
Chiếc ca nô rồ máy chạy vòng lên đón đầu con thuyền nổ mấy phát súng thị uy.
- Nhảy xuống ! - Cô gái quát khẽ.

Thạch định nhớm chân rời thuyền thì Khúc Văn đã kịp kéo một băng tiểu liên. Anh ta giật mình chới với trên mặt sông một lúc thì mũi ca nô chồm tới. Trong khi ấy, Lê Văn Vận thấy cô lái đò vẫn loạng choạng chèo liền bơi về phía lái, với tay đẩy mạnh mạn thuyền. Lúc này sóng rất mạnh bởi chiếc ca nô đang chạy vòng quanh. Sợ cô ta chết đuối Vận không dám lặn xuống. Mấy phút sau, cả hai người bị kéo lên boong. Tên lính Bắc Phi thúc cùi tay vào ngực Vận đẩy anh ta vào khoang cho một tên dõng có cặp chân vòng kiềng trói lại bằng sợi dây dù. Cô gái chở đò bị dẫn vào ca bin. Tên chỉ huy cầm đèn pin quét một vòng trên mặt sông rồi ra lệnh:
- Quay về đồn !

Vận tuy bị đánh khá đau nhưng vẫn không dời mắt khỏi tên si quan người Việt. Hắn có những nét rất quen, và anh ta chợt nhớ ra, đó là Khúc Văn. ánh đèn lướt qua Lê Văn Vận. Khúc Văn nhìn thoáng tên Việt Minh nhưng không nói gì. Ca nô chạy một lúc đã về đến bốt Tuần. Lê Văn Vận bị lôi vào căn hầm khá rộng ngay bên dưới phòng làm việc của Đồn Cáo. Khoảng nửa giờ sau, Khúc Văn xuất hiện trong bộ thường phục. Hắn mang cặp kính đen gọng đồi mồi mặc dù lúc ấy đang là nửa đêm. Ngọn đèn măng xông sáng trắng soi rõ khuôn mặt thư sinh vốn khá điển trai bởi chiếc mũi thẳng, cặp môi đỏ và mái tóc bồng bềnh như sóng lượn. Khúc Văn bật lửa châm thuốc hút, không có gì là vội vã hỏi cung. Hắn phì phèo chán rồi đứng lên đi đi lại lại trong căn hầm chật hẹp làm Lê Văn Vận ngứa mắt chỉ muốn đấm vào bộ mặt đẹp mã của hắn một quả cho nó vỡ quai hàm ra nếu hai tay anh ta được tự do. Thái độ nóng nẩy của Vận không qua được mắt Khúc Văn. Đến lúc ấy hắn mới nhẹ nhàng hỏi:
- Có lẽ phải đến hơn chục năm ta mới gặp lại nhau chú Vận nhỉ?
Vận khịt mũi:
- Vẫn còn nhớ tôi kia à?
- Nhớ chứ . - Khúc Văn cười nhạt - Người anh hùng đã từng giết bố vợ, cướp dì ghẻ trốn khỏi làng Cùa rồi theo Cộng sản, xúi giục dân cày nổi loạn làm sao mà quên được. Dạo này “đồng chí” có vẻ già đi đấy.
- Còn anh, thường xuyên được liếm bơ thừa sữa cặn của các ông chủ Tây nên ngày càng béo ra.

Khúc Văn vẫn nhẹ nhàng :
- Chú không nên khiêu khích. Giờ ta nói chuyện với nhau một cách nghiêm chỉnh để xem có cách gì gỡ được vụ này không.
- Cảm ơn. Anh cháu tử tế quá.
- Cái ấy thì còn phải xem thái độ cộng tác của chú với quân đội Liên hiệp như thế nào đã. Trước hết, tôi muốn biết, chú nghĩ thế nào về chủ nghĩa Cộng sản, về chính thể Việt Minh mà đi theo họ?
Vận cười khẩy:
- Anh từng lầm lẫn Cộng sản và Việt Minh. Việt Minh là Mặt trận thống nhất bao gồm tất cả những người yêu nước đứng lên chống quân xâm lược, giành độc lập dân tộc mà thành phần của nó có cả các chính đảng.
- Điều ấy thì ai cũng hiểu. - Khúc Văn xua tay cắt ngang - Nhưng còn điều rất ít người biết là, Việt Minh chỉ là tấm bình phong. Kẻ đứng sau tấm bình phong giật dây, chỉ đạo mọi hoạt động của Việt Minh mới là nhân vật chính trong cuộc chiến này. Đó là các đảng viên Cộng sản.
- Vậy ra anh cũng hiểu thời cuộc đấy nhỉ.
- Cho nên, có thể nói, vận mệnh của mấy chục triệu dân đất Việt sau này phụ thuộc hoàn toàn vào mọi hành vi của những người Cộng sản nếu quân đội Việt Minh thắng trận đúng không?
- Đúng thì sao?
- Một người tự nguyện đi theo Cộng sản như chú nhưng chắc gì đã hiểu bản chất của chủ nghĩa Cộng sản?
- Anh định sát hạch tôi về chủ nghĩa Mác đấy à? Những điều lý luận cao siêu không có thời gian giảng giải ở đây, có thể nói gọn lại, đó là xã hội không còn người bóc lột người, một xã hội dân chủ, công bằng, phồn vinh, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
- Chú tin như thế thật à? - Khúc Văn cười khẩy - Đó chỉ là thứ chủ nghĩa ảo tưởng của mấy nhà triết học duy ý chí nhằm mê hoạc những kẻ dốt nát, ngu muội, những kẻ cuồng tín, nhẹ dạ cả tin và sử dụng họ như những vật thí nghiệm trong các cuộc tàn sát đẫm máu.
Vận lắc đầu:
- Chính anh mới bị cái bả vinh hoa của bọn thực dân, đế quốc mê hoặc nên mới cam tâm làm tay sai cho giặc, bắn giết đồng bào. Anh Văn, hãy về với nhân dân, bây giờ vẫn còn kịp. Tôi sẽ là người đúng ra bảo lãnh .

Khúc Văn búng tàn thuốc, tháo cặp kính đen gài vào khuy áo, lại gần Lê Văn Vận bảo :
- Tín điều Cộng sản của chú không thuyết phục được tôi đâu. Bởi vì, xét đến cùng, chú chỉ là anh thuyền chài vô học, là kẻ tội phạm, bần cùng phải đi theo Cộng sản để sau này được Cách mạng chia phần. Xã hội tương lai của các người chỉ là thứ bánh vẽ, phiêu lưu và hoang tưởng một khi nó dựa trên luận điểm sặc mùi máu là đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản. Nhưng thôi, chuyện tầm phào ấy hãy dừng ở đây. Bây giờ mới đến tiết mục chính. Chú hiện đang ở đâu và qua sông Lăng với mục đích gì?
- Tôi về thăm làng Cùa chẳng nhẽ không được sao?
- Người ngồi cùng thuyền với chú đã trốn thoát là ai?
- Là bạn buôn của tôi.
- Sao không qua sông ban ngày mà phải đi đêm?
- Quân của các anh hôm nào chẳng đi càn. Dân buôn chuyến sợ tai bay vạ gió nên mới phải đi đêm.
- Chú đừng bịp tôi. - Khúc Văn nhếch mép cười - Chú không nói cũng được nhưng sáng mai đồn trưởng sẽ đích thân thẩm vấn, lúc ấy đừng trách tôi không dặn trước.
Nói xong, viên thiếu uý bước ra khỏi hầm. Hai tên lính gác lập tức đóng cánh cửa lim nặng chình chịch. Tiếng bản lề rít lên nghe rợn người.

Trong phòng làm việc đồn Cáo đang hỏi cung cô du kích, đồn Cáo vốn háu gái. Hắn cũng say mê đàn bà như là say mê gà mái Ba Tổng. Nhìn người thôn nữ có khuôn mặt trái soan, cặp má bầu, đôi mắt đầy vẻ bí ẩn, viên đại uý rót cho cô một cốc nước lọc rồi hỏi bằng tiếng Việt:
- Cô tên là gì?
Xoan gườm gườm nhìn tên đồn trưởng, buột miệng nói ra một cái tên chẳng liên quan gì đến mình:
- Nguyễn Thị Gái.
- ở làng nào, tổng nào?
- Xa lắm .
- Đang đêm vượt sông làm gì?
- Đi buôn.
- Hãy trả lời cho nghiêm túc ! - Đồn Cáo bắt đầu cáu – Tên Việt Minh bị bắt giữ chức vụ gì trong chính quyền Việt Minh?
- Ông ấy không phải Việt Minh mà là bạn buôn của tôi.
- Này cô em ! Đừng có đùa với một sỹ quan quân đội Liên hiệp Pháp. - Đồn Cáo hếch cái mũi khoằm, phóng cặp mắt diều hâu vào khuôn ngực đang phập phồng dưới lần áo mỏng của cô du kích – Chúng mày bí mật sang sông là để móc nối với du kích nằm vùng bên Ba Tổng âm mưu đánh đồn Tuần. Chả lẽ bảy tên Việt Minh bị xử bắn ở cầu Vàng trong vòng mấy tháng qua không làm các người sáng mắt ra?
Xoan thoáng rùng mình:
- Dưới mắt các ông, có lẽ tất cả người dân vùng này đều là Việt Minh?
- Phải. - Đồn Cáo gừ gừ trong vổ họng - Đừng nói con cà con kê nữa. Cô nghĩ chúng tôi là trẻ con đấy hả? Hắn là Lê văn Vận. Tháng tám năm bốn nhăm, khi Việt Minh giành được chính quyền hắn làm chủ tịch huyện. Đầu năm bốn bảy, quân đội Liên hiệp trở lại, Vận cùng đám tay chân vượt sông Lăng lên vùng Mai Động. Từ lâu Việt Minh mất đất vì dân chúng đã biết rõ bộ mặt thật của chúng nên gần đây mới bí mật cử người về gây dựng cơ sở.
- Các ông đã biết nhiều thế thì còn hỏi chúng tôi làm gì?
- Thế có nghĩa là cô thừa nhận?
- Không bao giờ. - Xoan lắc đầu bảo - Chúng tôi là dân buôn, vì mang hàng lậu, ban ngày sợ bị bắt nên phải đi đêm.
- Hàng đâu? - Đồn Cáo túm cổ áo cô gái xé toạc một bên vai gầm lên – Nếu không khai thật ra, tao sẽ lột truồng mày vứt xuống lô cốt dưới kia cho bọn lính Bắc Phi nó giải sầu.
- Lúc sang sông, ca nô các ông làm đắm thuyền mất hết cả rồi.
- Nói láo !
Cùng lúc ấy, Khúc Văn bước vào nói bằng tiếng Pháp :
- Đại uý bớt nóng. Việc này không thể vội vàng được. Giờ ngài hãy đi nghỉ. Ngày mai tỉnh táo biết đâu ta phát hiện được cái gì đó.

Đồn Cáo gật đầu:
- Thiếu uý nói phải. Dù sao thì chuyến này chúng ta đã thành công sau bao ngày đêm giăng lưới. Tôi phải đề nghị với Bộ Tổng tham mưu vinh thăng thiếu uý.
Đồn Cáo và Khúc Văn thay phiên nhau thẩm vấn hai tù nhân. Đến lượt viên đại uý hỏi cung Lê Văn Vận. Khác với cấp phó của mình, gã Đồn trưởng thiếu khả năng kiên trì đối phó với loại Việt Minh cứng đầu cứng cổ. Hắn là quân nhân, có nghĩa vụ chấp hành mệnh lệnh cấp trên, không thuyết lý dài dòng vô bổ về các thứ chủ nghĩa bát nháo do những nhà triết học lẩm cẩm nghĩ ra. Hắn cầm chiếc dùi cui sơn hai mầu đen đỏ dứ dứ trước mặt Lê Văn Vận:
- Ông phải biết điều một chút. Cô gái đã khai hết rồi. Bây giờ hỏi ông chẳng qua chỉ là để xác minh lần cuối cho đúng thủ tục. Hãy nói thật đi, ông sang sông bên này bắt liên lạc với những ai?

Vận nghĩ thầm. Nó hỏi thế chứng tỏ cô Xoan vẫn chưa khai. Thằng Khúc Văn tuy biết mình rất rõ nhưng không có bằng chứng gì kết tội được. Tốt nhất là vãn giữ nguyên lời khai ban đầu, còn sự việc sau này thế nào sẽ tuỳ cơ ứng biến.
- Tôi đã nói rồi. Từ cuối năm bốn bảy tôi đã từ bỏ hàng ngũ Việt Minh chuyển sang nghề buôn chuyến.
Đồn Cáo nhe răng gầm gừ:
- Chúng mày nói dối giống hệt nhau. Đồ con lợn!
Hắn vung vẩy chiếc dùi cui bất ngờ quật vào mặt Vận. Cú đánh rất hiểm, máu chảy ngoằn ngoèo dọc theo gò má làm anh ta choáng váng.
- Thế nào? - Đồn Cáo hỏi - Đã nhớ ra chưa?
- Đã bảo chúng tôi không liên quan gì đến Việt Minh. Ông đánh mãi cũng vậy thôi.
Lần này là cú đá trời giáng vào bụng dưới làm Vận thót người lại, gập xuống như cây chuối bị đốn ngang. Trời đất tự nhiên quay tít. Mọi vật trong hầm giam tự nhiên phát ra thứ ánh sáng ngũ sắc. Đồn Cáo xoè tay hộ pháp như cái chổi sể nâng cằm Vận lên, nhìn soi mói vào mắt anh ta giễu cợt:
- Tôi phục bản lĩnh Cộng sản của “đồng chí” nhưng đừng bao giờ ảo tưởng về một nền độc lập của xứ An Nam này tách rời Đại Pháp. Hãy thành thật khai ra sẽ thoát được án tử hình.
Vận nhắm nghiền mắt, tóc bết mồ hôi rủ xuống vầng trán nóng hầm hập nhưng vẫn không chịu mở miệng. Đồn trưởng tiếp tục ra đòn. Hắn nhảy bổ vào ông chủ tịch như một con thú đói mồi. Người Vận nhàu như tàu dưa héo, thỉnh thoảng lại bật ra những tiếng “hự hự”.
Cũng vào thời điểm ấy, Khúc Văn vốn trầm tĩnh đã phải nổi điên bởi sự gan lỳ của cô lái đò. Toàn thân Xoan hầu như chỗ nào cũng có những vệt thâm tím rỉ máu. Hắn bĩu môi khiêu khích:
- Cô trung thành với Việt Minh để rồi có kết cục như ngày hôm nay thật xứng đáng là bậc “liệt nữ” hy sinh cho chủ nghĩa Cộng sản cuồng tín.
- Những kẻ bán nước như các ông làm sao hiểu được niềm tin của nhân dân vào Chủ nghĩa Cộng sản.
- Như vậy, cho đến giờ cô đã tự nhận mình là Việt Minh?
- Thì đã sao? - Người phụ nữ du kích khẽ nhếch cặp môi sưng vếu thều thào.
- Được lắm . - Khúc Văn dằn giọng - Ngày mai cô sẽ bị xử bắn.

Xoan biết mình không tránh khỏi cái chết. Chết lúc này thì trẻ quá. Cô chưa đầy hai mươi, thậm chí chưa có được một mối tình. Nghe nói, những cô gái chết trẻ chưa chồng, linh hồn không được siêu thoát, quanh suốt tháng lang thang đầu bờ, xó bụi, chỉ đến rằm tháng bảy mới được hưởng chút cháo thí cúng chúng sinh. Lòng cô thoáng xót xa. Giá mà đừng vào đội du kích, cứ làm một thôn nữ bình thường như cái Hoa cái Mận rồi lấy chồng, đẻ con thì làm gì đến nỗi như bây giờ. Công bằng mà nói, cả tên đồn trưởng mũi lõ đến gã Khúc Văn đẹp trai không phải lúc nào cũng mất hết nhân tính. Chúng có phần đúng khi nói về hạnh phúc của người đàn bà là những thứ rất cụ thể chứ không phải thứ ảo tưởng xa vời. Mong cho ngày mai chúng xử bắn ngay đi, để thêm vài hôm nữa có khi không chịu được đòn, mình khai ra mất. Cái chết của một nữ du kích như mình có ý nghĩa thế nào với cuộc kháng chiến nhỉ ?
- Cô đã nghĩ kỹ chưa? - Khúc Văn lại đốt điếu thuốc, phả khói mù mịt, hỏi nữ tù nhân bằng giọng chán nản.
- Có gì mà phải nghĩ .- Xuýt nữa thì Xoan phát khóc may mà kìm được bằng cách quát lên - Tôi chấp nhận cái chết.
- Thật phí một đời con gái .
Nói xong viên đồn phó lẳng lặng bước ra khỏi phòng giam. Hắn bảo tên lính gác:
- Mang thức ăn vào cho cô ta.

Sáng Mười Chín tháng Chín, đồn Cáo cử một đội áp tải mạnh đem LêVăn Vận và cô Xoan xuống cầu Vàng xử bắn. Đó là một cây cầu sắt ba nhịp, do người Nhật xây dựng từ năm bốn ba, cách đồn Tuần hai chục cây số về phía thượng lưu sông Lăng. Từ mấy năm nay, theo lệnh của viên quan năm chỉ huy xếch tơ Đông Triều, hễ bắt được Việt Minh đột nhập từ các vùng tề là mang xuống đấy hành hình.

Sở dĩ có cái lệnh kỳ quái này là bởi đầu năm bốn tám, Hăng ri Cátxtơrô còn là tham mưu trưởng trung đoàn bộ binh Lê dương số 7, một lần cùng viên chỉ huy Luy panh đi xe Jeep thị sát mặt trận đường 22, qua cầu bị du kích đánh mìn. Quan tư chỉ huy trung đoàn chết ngay tại chỗ còn ông ta bị trọng thương phải đưa về cấp cứu tại bệnh viện Đồn Thuỷ. Từ đấy Cátxtơrô căm thù Việt Minh đến tận xương tuỷ, ra lệnh cho chỉ huy các đồn binh xử bắn du kích ngay tại chỗ trước đây họ định sát hại mình cho hả giận.

Chiếc ca nô Noóc măng đi cắm cờ tam tài chạy ngược sông Lăng chừng một giờ sắp đến bến Tràng thì gặp chiếc xuồng máy nhãn hiệu Hoa Kỳ từ phía cầu Vàng xuống. Trên xuồng là bác sỹ Pi ra, phụ trách quân y xếch tơ Đông Triều, bạn thân của quan năm Cátxtơrô. Anh ta ra hiệu cho ca nô dừng lại rồi nhảy lên boong. Đồn Cáo ấn lệch chóp mũ chào mào sang một bên, đứng nghiêm theo đúng tác phong nhà binh.
- Xin chào thiếu tá. Ngài có việc gì ạ?
- Nghe nói đại uý sắp đem xử bắn một nữ du kích?
- Không phải một mà là hai tên, thưa ngài !
- Cho tôi xem mặt cô ta.
- Thiếu tá cứ tự nhiên, họ đang ở trong khoang.

Pi ra bước vào khoang giữa nhìn Xoan và Lê Văn Vận một lúc khá lâu. Anh ta cầm tay cô gái như là bắt mạch xem bệnh rồi quay về phía đồn Cáo bảo :
- Hình như cô ta có mang ...
- Thưa thiếu tá, nó là một con Việt Minh nguy hiểm.

Pi ra nhún vai nói bằng tiếng Anh:
- Nói ở đây không tiện, mời đại uý xuống xuồng máy của tôi một lúc.

Hai người vừa nhảy xuống xuồng, viên bác sỹ quân y nói dằn từng tiếng :
- Trong tháng này đại uý đã hành quyết bốn người trong đó có một phụ nữ. Hôm nay thêm hai nữa là sáu. Chẳng lẽ sức mạnh của quân đội Liên hiệp Pháp lại là ở chỗ dùng tiểu liên bắn vào một thiếu phụ đang mang thai bị trói hai tay.

Đồn Cáo cau có :
- Nhưng tôi phải chịu trách nhiệm trước thiếu tá chỉ huy cát chi ê Nam Thành và tình trạng an ninh của vùng hữu ngạn sông Lăng. Chúng ghê gớm lắm. Thiếu tá không hình dung được đâu.

Viên bác sỹ nheo mắt nhìn gã đại uý tham mưu qua cặp kính trắng:
- Ông có thừa nhận đó là một cô gái đẹp không?
- Đẹp. - Đồn Cáo gật đầu - Như một bông dã quỳ vùng nam sông Loa.
- Vậy sao nỡ nâng súng bắn vào một bông hoa, đại uý?

Đồn Cáo có vẻ đã bị thuyết phục, giọng hắn lấp lửng:
-Thưa thiếu tá, hình như ngài bắt đầu phải lòng con bé Việt Minh?
- Không hẳn là như thế. - viên bác sỹ nheo mắt đầy ý nghĩa - Về tên Việt Minh kia, mặc ông xử trí, nhưng còn cô bé, hãy giao cho tôi, cứ nói là đưa về phòng Nhì để tiếp tục lấy cung. Việc sau đó thế nào tôi sẽ chịu trách nhiệm trước ngài chỉ huy xếch tơ. Ông sẽ nhận được một ngân phiếu năm ngàn quan nếu biết cách im lặng.

Khoản tiền quá lớn làm chiếc mũi khoằm của đồn Cáo nở ra, cặp mắt xanh ánh lên vẻ tinh quái.
- Được, nhưng với điều kiện ngài phải mang cô ta đi khỏi nơi đây càng xa càng tốt.
Tay bác sỹ gật đầu ngay:
- Đại uý nói đúng. Đầu tháng tới tôi sẽ nghỉ phép.
Mác xen lên ca nô. Hắn bảo tên đội Lăng gơ lê và bọn lính áp tải:
- Thiếu tá Pi ra yêu cầu mang con Việt Minh về phòng Nhì. Cấm mọi người bép xép. Ai làm lộ chuyện sẽ bị xử bắn vì đây là lệnh của chỉ huy xếch tơ.

Xoan được hai tên lính dìu sang xuồng máy. Pi ra tiêm cho cô một mũi trợ sức rồi nói một tràng tiếng Pháp. Người thông ngôn dịch:
- Quan đốc tờ bảo, phải nói dối cô có chửa để cứu tính mạng.
Ca nô tiếp tục hành trình. Đến cầu Vàng, đồn Cáo ra lệnh ghé vào bờ rồi đưa LêVăn Vận lên trụ số ba. Trên mặt trụ, không hiểu sao, người Nhật để một khoảng trống hình mũi tên rộng chừng hai thước vuông nhô ra phía trước. Đây chính là nơi những người bị coi là Việt Minh không chịu hợp tác với nhà nước Đại Pháp chịu án tử hình. Xác họ rơi xuống chân cầu vài ngày sau mới nổi lên ở một bến nào đó dưới hạ lưu.

Đội Tảo lấy dải băng định bịt mắt Lê Văn Vận. Anh ta lắc đầu bảo:
- Không cần !
Viên đội nhìn đồn Cáo nói một câu tiếng Pháp. Tên đại uý gật đầu:
- Thôi được, cứ để cho anh ta nhìn dòng sông, bầu trời và cảnh vật quê hương lần cuối trước khi xuống địa ngục làm khách của thần Hađét.
Lúc sắp ra lệnh nổ súng, đồn Cáo bảo Vận :
- Nếu ông thay đổi ý định vẫn còn kịp đấy.
Vận nhổ nước bọt trúng mặt hắn rồi chửi tục :
- Đồ chó!
- Bắn ! - Viên đại uý gầm lên.

4. Khúc Kiệt lúc này đã thu thập thêm một số đội viên áo Đen trước đây từng theo ông ta đánh nhau với Nhật. Sau cái chết của Lê Văn Vận, ông đội trưởng du kích bàn với mấy người trong ban tham mưu là Nguyễn Đình Tuy, Quách Thịnh và Nguyễn Thị Mùi lập kế hoạch đánh bốt Tuần dạy cho đồn Cáo một bài học. Mục tiêu trước mắt của họ là phục kích những toán quân trên đường đi càn về. Quách Thịnh có người anh em bên tổng Ngân Đôi hiện đang là lính dõng trong đồn. Anh ta bí mật thông báo, cuối tháng mười đồn Cáo và Khúc Văn sẽ đem hai trung đội hành quân qua làng Cùa, Yên Xá đánh vào Đồng Khê. Khúc Kiệt cho các đội viên mai phục từ đầu canh ba, trên khu ruộng bỏ hoá phía bên phải đường 228 thực hiện phương án đánh độn thổ. Độn thổ tức là ẩn mình trong những chiếc hầm nhỏ vừa đủ một người ngồi, đậy vầng cỏ lên, nguỵ trang làm sao để người ta đi ngay bên cạnh cũng không phát hiện ra, đợi kẻ địch hành quân đến nơi, nhất loạt đội nắp xông lên tiêu diệt gọn. Đây là trà ruộng xa các điểm dân cư, không cày cấy nhiều năm, cỏ xước, cỏ chân chim và cỏ đuôi chồn mọc chen chúc lẫn với những bụi cây xấu hổ đầy gai tạo thành cảnh hoang vắng tự nhiên, khiến cho không một nhà chiến lược nào của quân đội Pháp mảy may nghi ngờ hiểm hoạ Việt Minh đang tiềm ẩn. Đồn Cáo trong bộ binh phục ka ki xám, mũ chào mào dạ tím viền đỏ, súng lục trễ bên sườn, khoác tiểu liên, thỉnh thoảng lại đưa ống nhòm lên nhìn về phía trước. Khúc Văn đi sau tiểu đội lính dõng, đội mũ sắt, tay lăm lăm khẩu tuyn, chân đi đôi bốt da mới toanh nhưng có lẽ hơi rộng thành ra mỗi bước đi lại kêu ken két. Bọn Âu Phi thằng nào cũng đội loại mũ sắt của pháo binh nặng chịch, khoác trường mát hoặc xten, nòng chúc xuống đất, xếp hàng hai, bước đều rất đúng điều lệnh hành quân. Đường 228 gập ghềnh bụi cuốn mù mịt bởi những trận gió bắc khan chốc chốc lại thổi tạt ngang.

Đợi cho tên lính cuối cùng lọt vào trận địa phục kích, từ nơi quan sát, Khúc Kiệt nổ một phát súng vào tốp đi đầu. Quách Thịnh hô to: “ Xung phong!" Rồi ném quả lựu đạn chày về phía đồn Cáo. Nghe súng nổ, tất cả đội viên mai phục đều bật nắp hầm nhảy lên. họ vừa nhằm bắn vào đội hình hành quân của địch vừa thi nhau gào thật to :
- A! a…! a…! X…u…n….g …p….h…o…n….g…!
Lựu đạn chày vốn là thứ vũ khí tự tạo của xưởng Bạch Đằng xịt khói rất nhiều nhưng không mấy khi nổ, tuy thế cũng làm Đồn Cáo phát khiếp. Hắn lập tức lăn tròn một vòng rồi nằm dán xuống đất theo đúng kỹ thuật tác chiến, sau đó nhanh chóng nổ súng vào toán du kích đang lao tới. Khúc Văn tỏ ra bình tĩnh hơn. Hắn chẳng lạ gì thứ vũ khí tạp nham của Việt Minh nên nhanh chóng củng cố đội hình sau khi bọn chúng có vài tên trúng đạn súng trường mút hoặc bị lưỡi mác xuyên vào bụng trong lúc cận chiến. Viên thiếu uý tỳ súng vào gờ đống Mả Hủi nhằm Quách Thịnh nổ một phát. Rất may viên đạn chệch về bên trái, chỉ sướt qua cánh tay. Thịnh cúi thấp đầu rê nòng súng nhằm tên đồn phó xiết cò. Phát súng của nhà thiện xạ xuyên qua bả vai của tên thiếu uý. Hắn giật nảy người rồi hất chiếc mũ sắt ra, tay cào cào trên cỏ. Quách Thịnh đẩy khoá nòng nạp đạn định bồi cho Khúc Văn viên nữa kết thúc cuộc đời chó săn của hắn thì Khúc Kiệt kịp giữ tay lại:
- Anh em mình hết đạn cả rồi, phải rút thôi.

Khúc Kiệt rút đi nhưng đồn Cáo cũng không truy đuổi vì lính của hắn bị thương khá nhiều, đấy là chưa kể ba tên chết ngay trong loạt đánh giáp lá cà đầu tiên của quân độn thổ.

Trận tập kích coi như thắng lợi vì chỉ có mỗi Trần Thâm bị thương vào bắp chân phải cáng về nhưng Khúc Kiệt vẫn không có được niềm phấn khởi như hồi đánh nhau với Nhật là vì ông ta bắt buộc phải chạm súng với thằng con bất hiếu. Cho đến lúc này mối quan hệ giữa hai cha con hầu như không còn gì trừ lòng hận thù. Khúc Văn không thể tha thứ cho ông bố, bởi chính vị thủ lĩnh áo Đen là thủ phạm gây ra cái chết thê thảm của mẹ hắn, các em hắn và hơn bảy chục người dân vô tội làng Cùa. Để thanh toán"Hội dân cày"của Khúc Văn, ông ta dùng thứ chuyên chính tàn bạo núp dưới chiêu bài Cách mạng vô sản, đem lực lượng công an bắn vào chùa Từ Vân và hoả thiêu cả một cánh đồng lúa đang kỳ thu hoạch. Trong hai năm qua, đã mấy lần Khúc Kiệt cho người dán khắp nơi cáo trạng của Việt Minh tuyên án xử tử vắng mặt Khúc Văn. Hành vi quá quắt của ông bố làm viên đồn phó tức điên lên, thề sẽ có dịp bắn nát đầu ông ta dể răn đe những kẻ khố rách áo ôm, mù quáng theo đuôi Cộng sản. Nhưng thực tế lại khác. Cuộc chạm súng hôm nay chắc chắn Khúc Văn sẽ toi mạng nếu lúc ấy Khúc Kiệt không ngăn Quách Thịnh lại. Viên thiếu uý biết rõ việc này , vì lúc bị dính đạn hắn vẫn đủ tỉnh táo nhìn về phía trước. Nguyên nhân gì khiến ông ấy có hành động khác thường như vậy ? Tình cha con hay sự tỉnh ngộ ? Khúc Văn hỏi rồi lại tự trả lời. Trong con người này có thể là cả một khối mâu thuẫn có khi chính ông ta cũng không giải thích được hành vi của mình.

Khúc Văn khuỳnh cánh tay quấn băng trắng, ngồi trầm ngâm trong phòng thì đồn Cáo đẩy cửa bước vào. Nhìn vẻ mặt viên đồn phó, Mác xen hỏi:
- Thiếu uý nghĩ gì về trận đánh hôm nay?
- Tôi thật không ngờ bọn Việt Minh lại táo tợn đến thế.
- Đó chỉ mới là màn dạo đầu của cuộc chiến tranh du kích. - Đồn Cáo cười gằn - Nói thật lòng, tôi bắt đầu thấy sợ những trận địa mai phục đại loại như kiểu “độn thổ”.
- Dù sao cũng phải thừa nhận, bước đầu ta đã thành công khi trừ khử được Lê Văn Vận. - Khúc Văn đưa cho Mác xen tách cà phê tên bồi da đen mới pha còn đang bốc khói - Mấy năm nay hắn nổi tiếng là “hùm xám”Ba Tổng đã cùng đồng bọn hạ sát của ta khá nhiều chức sắc mẫn cán.
- Thiếu uý nói phải. - Đồn Cáo gật đầu - Ví dụ như vụ lý Lọng bị cắt tiết.
- Chính vì thế, muốn thắng được Việt Minh ta nên sử dụng những phương pháp mà họ đã dùng, đó là nắm được dân, mua chuộc bọn lý dịch làm tai mắt, như thế Việt Minh sẽ như cây đứt rễ, mất chỗ dựa phải bỏ đất mà lên rừng.
- Đó là kế hoạch hay nhưng theo tôi, không dễ thực hiện. - Đồn Cáo trầm ngâm gõ nhịp trên bàn - Thiếu uý nên nhớ, bọn Việt Minh đều là người địa phương. Chúng có thể chỉ là anh đánh giậm hoặc mụ bắt ốc đội nón mê, lựu đạn để trong giỏ, thoắt ẩn thoắt hiện như ma, sẵn sàng nằm hầm bí mật cả tháng ăn gạo rang hoặc lặn dưới ao bèo thở bằng ống đu đủ. Sức mạnh của chúng chính là lòng dân, thứ mà nước Pháp có nhiều tiền cũng không mua được.
Khúc Văn lại đốt thêm điếu thuốc, lơ đãng phả khói thành từng vòng từ thấp lên cao như hình chiếc tù và. Hắn thích thú nhìn đám khói cuộn tròn rất có trật tự đang tan dần rồi chép miệng bảo:
- Phải nói dân vùng Ba Tổng này cứng cổ.

Đồn Cáo bảo:
- Theo tôi được biết thì cho đến nay quan hệ giữa thiếu uý với ông thân sinh vẫn chưa được cải thiện chút nào.

Khúc Văn gật đầu:
- Tôi với ông ấy mỗi người ở một chiến tuyến chỉ có thể nói chuyện bằng súng đạn.
- Mở một cuộc hành quân tổng lực đánh vào rừng Hóp lúc này là rất không có lợi. - Đồn Cáo tuy là võ quan nhưng mà lại có đầu óc phân tích như một nhà chính khách - Tôi định cử thiếu uý làm trung gian vận động ông Khoá ra hàng để đỡ tốn xương máu cho cả hai bên.
- Ngài nói đùa. - Khúc Văn giãy nảy lên - Chỉ cần tôi đặt chân đến cửa rừng Hóp là lập tức được lãnh ngay hàng chục viên đạn mútxcơtông vào ngực.

Mác xen bật cười:
- Tôi không yêu cầu thiếu uý vào rừng Hóp mà tìm cách nào đó gửi cho ông Khoá một bức thư.

Khúc văn lắc đầu:
- Cách làm của đại uý chỉ tốn công vô ích thậm chí nguy hiểm đến tính mạng người của ta nữa. Tôi không lạ gì tính khí ông Khoá. Đó là một phần tử Cộng sản cuồng tín luôn lấy bạo lực cách mạng làm phương châm hành động.
- Vậy theo thiếu uý, muốn diệt toán du kích ấy ta phải làm thế nào?
- Dùng kế điệu hổ ly sơn.
- Nghĩa là ta kéo chúng ra khỏi sào huyệt rồi bao vây tiêu diệt?
- Còn hơn thế nữa, ta phải tạo cơ hội cho ông bố tôi đánh đồn Tuần.
- Ông nói đùa.
- Tôi không đùa tí nào. - Khúc Văn nhấn giọng bảo - Trước hết, ta giả vờ điều già nửa số quân ban ngày đến cát chi ê Nam Thành để bọn gián điệp Việt Minh nhìn thấy, ban đêm lại cho số quân này bí mật trở về. Thực hiện vài lần như thế dám chắc Việt Minh sẽ dốc toàn bộ lực lượng đánh đồn. Lúc ấy ta sử dụng ưu thế về hoả lực và một trung đội mai phục dưới chân đê bằng phương thức độn thổ như chúng đã làm chắc chắn sẽ thắng lớn.
Đồn Cáo nghe xong, vỗ vai Khúc Văn bảo:
- Thiếu uý đúng là một sỹ quan có tư duy ở tầm chiến lược. Tôi dám chắc, trong tương lai không xa, anh sẽ đeo lon cấp tướng.
- Đại uý quá khen.
- Không đâu. Phương án tác chiến của thiếu uý hay lắm. Tuần tới ta bắt đầu thực thi kế hoạch.
- Trước khi tiến hành trận đánh tôi xin đại uý một việc.
- Anh cứ nói.
- Dù sao ông Khoá cũng là bố đẻ tôi, nếu có thể ta nên bắt sống. . .

Đồn Cáo gật đầu:
- Tôi sẽ ra lệnh cho các sỹ quan và binh lính lúc tác chiến không được hạ sát ông ta.
- Cảm ơn đại uý.

Đồn Cáo vừa rời khỏi phòng thì lý Quỳnh, phó lý Kiền và bà cả Huê mang một lồng gà mái ghẹ, hai cặp vịt bầu, một gánh gạo nếp hoa vàng và bốn chai mật ong đến thăm Khúc Văn. Từ ngày anh cháu về làm đồn phó đồn Tuần bà cả Huê vô cùng phấn khởi vì làng Cùa đã trở lại vị trí đứng đầu vùng Ba Tổng sau bao nhiêu năm bị lép vế với thiên hạ bởi cái chết bất đắc kỳ tử của chánh Đàm. Nhân việc Khúc Văn bị thương, bà ta khoét sâu mâu thuẫn trong mối quan hệ cha con khoá Kiệt, đồng thời dựa vào thế lực đồn Cáo, xây đựng làng Cùa thành một làng tề điển hình vùng đồng bằng sông Hồng. Thực ra, đến lúc này, điền sản của gia đình họ Khúc không đáng gì so với các địa chủ khác trong hạt, nhưng vốn ác cảm với ông em chồng nên bà Cả không từ bất cứ thủ đoạn nào để phá các tổ chức Việt Minh. Cánh chức dịch trong làng vừa sợ vừa ghét vợ goá chánh Đàm . Bà ta lên đồn như cơm bữa, sẵn sàng sắp xếp lại “nhân sự”trong tổng nếu thấy các thầy lý trưởng, phó lý làm việc kém hiệu quả thông qua đồn Cáo và Khúc Văn. Lý Quỳnh biết rất rõ tâm địa người đàn bà này, nên trong mấy năm qua, ông ta sống như con thò lò hai mặt, một đằng vẫn phải tỏ ra mẫn cán trong công việc phục vụ chính quyền, thường xuyên bẩm báo tình hình trị an trong làng với đồn Cáo nhưng thỉnh thoảng lại bí mật vào rừng Hóp gặp Khúc Kiệt và vận động một số gia đình khá giả tiếp tế lương thực cho đội du kích. Cuộc thăm hỏi Khúc Văn hôm nay tất nhiên là do bà cả Huê khởi xướng, lý Quỳnh không thể từ chối. Nhìn thấy lý Quỳnh và bà cả Huê, Khúc Văn mừng lắm, thầm nghĩ chuyến này thế nào mưu kế cũng thành công, liền mời các vị khách hút thuốc lá Cotab, ăn bánh bích quy và uống bia “Con hổ”. Bà cả Huê thích lắm, bảo:
- Bẩm quan lớn, nghe tin quan lớn đánh nhau với Việt Minh bị trọng thương, dân làng Cùa có một chút quà để bồi bổ sức khoẻ.
Khúc Văn chắp tay từ tạ:
- ấy chết, bác với các ông đây đừng nói thế. Tôi chỉ là bậc con cháu, đâu dám.
- Tuy là con cháu trong nhà nhưng anh làm việc nước. - Bà cả Huê thẽ thọt bảo - Chúng tôi lên đây là để tỏ lòng tri ân vì quân ta đã dũng cảm đánh lui Việt Minh trong trận chúng phục kích vừa qua.
Khúc Văn thoáng liếc lý Quỳnh. Ông này lúc nào trên môi cũng thường trực nụ cười lấy lòng quan trên nhưng không biết tâm địa ra sao. Hắn quyết định thăm dò thái độ ông em rể hờ :
- Tình hình chiến sự bây giờ đối với ta không được thuận lợi lắm. Việt Minh khắp nơi nổi lên như ong vỡ tổ. Thế lực của chúng ngày càng mạnh vì chúng được Nga xô và Trung cộng viện trợ vũ khí. Các bác phải tăng cường đội Nghĩa dũng cùng với tuần đinh canh gác cho tốt, thấy Việt Minh về là phải vây bắt ngay đồng thời nhanh chóng cử người lên đồn báo tin.
Bà cả Huê đưa mắt nhìn lý Quỳnh:
- Các quan đồn bắt được Lê Văn Vận rồi đem xử tử ở cầu Vàng dân Ba Tổng phấn khởi lắm. Chính hắn đã giết chết ông nhà tôi mà anh Văn đã biết. Thật không biết cám ơn ông đồn trưởng thế nào cho hết. Tuy nhiên vẫn còn đám du kích rừng Hóp. Chả lẽ các ngài có vũ khí tối tân trong tay mà chịu nương nhẹ cho ông khoá Kiệt.
Khúc Văn biết thừa bà bác nói khích nên xuống giọng nhún nhường:
- Thực tình chúng tôi cũng đã kêu gọi ông ấy đem vũ khí ra cộng tác với quân đội Liên hiệp cùng chiến đấu chống Việt Minh, nhưng ông ấy chẳng những không chịu hợp tác mà còn dùng chiến thuật đánh độn thổ tập kích quân đội, kết quả là tôi bị trúng đạn vào cánh tay và ba người lính tử thương. Dù sao tôi với ông Khoá cũng là tình cha con, tôi nhờ bác Quỳnh vào rừng Hóp đưa giúp bức thư của ngài đồn trưởng, mong ông ấy nghĩ lại, lấy đại cục làm trọng.
Lý Quỳnh giật nẩy người chối phắt:
- Không được. Khoá Kiệt nóng tính lắm, lơ mơ là ông ta bắn ngay.
Khúc Văn nhếch mép :
- Bác vẫn sợ cái lần xuýt bị ông Khoá bắn ở ao đình chứ gì? Nhưng còn cái Nhân, em gái tôi, nghe nói hai người đã. . .
- Về chuyện cô Nhân không phải như dân làng vẫn nghĩ đâu. Khi nào rảnh rỗi tôi sẽ kể cậu Văn nghe. - Lý Quỳnh lưỡng lự một lát rồi bảo - Thôi được, việc vận động ông Khoá tôi sẽ thử xem sao.
Cũng vào thời điểm ấy, khoảng một trung đội Âu Phi bạc đà nặng trĩu trên lưng, xếp hàng ngoài đê sân dưới sự chỉ huy của thiếu uý Chi e ry có vẻ như sắp hành quân. Bà cả Huê hỏi ngay:
- Chắc đêm qua vùng Cao Xá Việt Minh lại về?
Khúc văn làm ra vẻ bí mật:
- Các bác nhớ giữ kín chuyện này. Bọn gián điệp biết thì không có lợi. Sở dĩ bốt Tuần phải rút bớt quân là do lệnh của quan tư chỉ huy cát chi ê Nam Thành để tăng cường cho các đồn binh phía bắc sông Hàn đang bị Việt Minh uy hiếp.
- Thế thì gay quá. - Bà cả Huê tái mặt - Vậy là các ông bỏ rơi dân Ba Tổng?
Khúc Văn xua tay nói nhỏ:
- Thực ra quân đồn trú vẫn còn giữ lại hơn một tiểu đội để phòng thủ. Hơn nữa các làng hiện giờ đang duy trì lực lượng Nghĩa dũng khá mạnh, vì vậy mong bà con cứ yên tâm.
Việc rút quân khỏi đồn Tuần chỉ sáng hôm sau đã loang ra khắp tổng. Bọn lính hành quân theo đội hình chiến đấu nện gót giày cồm cộp trên đường 228 . Tin này lập tức đến rừng Hóp qua những tay trinh sát nghiệp dư trong lốt dân đánh giậm, chọc lươn hoặc bắt ếch hàng ngày vẫn lảng vảng quanh đồn.
Mấy hôm sau, Khúc văn sai lính đưa cho lý Quỳnh bức thư. Ông ta phân vân mãi rồi mới quyết định vào rừng Hóp. Anh em du kích chẳng lạ gì lý trưởng làng Cùa nên không bịt mắt mà đưa thẳng vào sở chỉ huy trình khoá Kiệt. Ông ta vừa lướt qua mấy dòng đã ném thư xuống đất chửi:
- Mẹ cha thằng đồn Cáo!
- Nó viết gì trong thư thế hả ông? - Quách Thịnh hỏi.
- Chúng dụ hàng, khuyên ta cộng tác với quân đội Pháp.
- ý ông thế nào?
- Đập vỡ mặt tên cướp nước ra chứ cộng tác cái gì. - Khúc Kiệt chợt quay lại phía Ngô Quỳnh - Nghe nói quân của đồn Cáo đang rút đi phải không?
- Tôi có nghe cậu nhà nói thế nhưng chẳng biết thực hay hư.
- Này, ông đừng có giấu tôi. Chính cái hôm ông với con mẹ cả Huê lên thăm thằng Văn ấy là đợt rút quân đầu tiên.
Lý Quỳnh lắc đầu :
- Cũng không loại trừ đây là một thứ mưu kế nhằm kéo các ông ra khỏi rừng Hóp để họ dễ dàng tiêu diệt. Nói thật tôi cũng chẳng thích gì Việt Minh nhưng vì cô Nhân nên xin có lời can.
Khoá Kiệt lẳng lặng gật đầu:
- Cảm ơn. Phiền ông nói với đồn Cáo rằng, khoá Kiệt này thề sẽ bắt sống hai tên giặc ấy mang ra cầu Vàng xử bắn như chúng đã xử bắn Lê Văn Vận.
Lý Quỳnh về rồi, khoá Kiệt liền tập hợp ban tham mưu bàn kế hoạch tấn công đồn Tuần. Theo trinh sát báo cáo, cho đến lúc ấy Đồn Cáo đã hai lần chuyển quân về phía trục đường 22 và 228. Vậy là thời cơ đánh đồn Tuần đã đến. Sau khi nhận định tương quan lực lượng giữa hai bên, Khoá kiệt đưa ra ý kiến là không cần có sự phối hợp của bộ đội địa phương vẫn có thể hạ được bốt Tuần.
Quách Thịnh có vẻ không hào hứng với kế hoạch phiêu lưu của đội trưởng.
- Hệ thống hoả lực đồn Tuần rất mạnh trong khi đó ta chỉ có mười ba khẩu súng, cơ số đạn không đáng là bao, tôi cho rằng, đánh công kiên kiểu này là rất mạo hiểm.
Trần Thâm vốn cùng quan điểm với Khúc Kiệt, từ lâu đã có ý muốn đánh đồn để trả thù cho vợ bị chết do trúng đạn moóc chi ê, đứng dậy tuyên bố:
- Tôi ủng hộ ý kiến của đội trưởng. Ai không tán thành xin cứ ở nhà.
Quách Thịnh vẫn tỏ ra lo ngại:
- Tôi thấy Ngô Quỳnh nói có phần đúng. Rất có thể đồn Cáo dùng kế “điệu hổ ly sơn” nhử chúng ta ra khỏi rừng để bao vây tiêu diệt, vì địa thế ở đây hiểm trở chúng không dám đột nhập. Mong ông Khoá và anh em cân nhắc cho kỹ.
Khúc Kiệt đứng dậy tuyên bố :
- Đa số đã quyết nghị. Cuộc họp đến đây kết thúc. Mọi người về chuẩn bị. Đêm nay đánh đồn.
Qua giờ Ngọ, đội quân của khoá Kiệt ra khỏi rừng Hóp . Mọi người men theo đầm Ma ngược lên khu đồng Chằm sau đó lên đê sông Lăng. Đêm cuối tháng không trăng. Trời lất phất mưa. Cánh trinh sát tiền trạm đến điếm Bài Vân thì dừng lại nghe ngóng động tĩnh. Dưới sông sóng vỗ lóc bóc vào kè đá. Sau gần hai giờ, toàn bộ đội du kích đã đến điểm tập kết. Đó là một gò đống thuộc khu đồng Sộp cách đồn chừng ba trăm thước về phía tây nam. Sau khi chỉnh đốn hàng ngũ, các tiểu đội lặng lẽ vượt đê tiếp cận hàng rào kẽm gai. Trần Thâm ném một quả lựu đạn vào vọng gác lô cốt ngoại vi. Một quầng lửa nhoáng lên cùng với tiếng nổ đanh chính là hiệu lệnh tấn công. Nhưng cũng vào lúc ấy, hoả lực trong đồn bắn ra như vãi đạn. Một quả Moóc chi ê sáu mốt ly từ lô cốt dưới bờ sông câu đúng đội hình du kích làm ba người gục ngay tại trận. Khúc Kiệt men theo sườn lô cốt kề khẩu súng trường vào lỗ châu mai bắn một phát rồi ném tiếp quả lựu đạn chày. Lựu đạn xì khói nhưng không nổ. Quách Thịnh dẫn năm đội viên tung bộc phá, định ào qua hàng rào kẽm gai, nhưng bị ngay quả mìn cóc nhảy vọt lên ngang ngực hất anh ta ngược lại bờ đê, một mảng ngực bị toác ra, nhầy nhụa máu. Hai bên cầm cự chừng nửa giờ thì quân Khúc Kiệt hết đạn .Thấy đánh không lại mà trời sắp sáng ông ta ra lệnh rút lui. Đúng vào lúc ấy, từ phía bên kia bãi dứa, một trung đội Âu Phi chẳng biết phục kích từ bao giờ nhất loạt xả đạn vào đội hình du kích. Phía lô cốt chính, toán lính dõng trang bị trường mát và tiểu liên K50 bấy giờ mới xuất trận. Đội quân của khoá Kiệt ở vào cái thế bị kẹt giữa hai gọng kìm , mạnh ai nấy chạy chẳng còn lòng dạ nào đánh nhau nữa. Khúc Kiệt vừa bắn kiềm chế vừa lui dần về phía đồng Sộp. Bọn Âu Phi sát khí đằng đằng, thằng nào mặt mũi cũng đen sì, tay đặt sẵn vòng cò, chỉ cần nhấn nhẹ là ông đội trưởng du kích đi đời. Một viên cai người Việt lấy tay làm loa gọi to:
- Ông Khoá hàng đi! Quân du kích chạy hết rồi.
- Hàng này! - Khúc Kiệt tức tiết nổ một phát về phía viên cai. Phát đạn trúng quai hàm, giọng hắn bị tắc lại, máu chảy như xối xuống cái cổ ngẳng vì khói thuốc phiện.
Đồn Cáo bất chợt xuất hiện, vẫn bộ kaki xám nhưng lần này hắn đội mũ sắt, tay vung vẩy chiếc ba toong gọi to bằng tiếng việt:
- Lần này ông Khoá mắc mưu bản chức rồi. Lính Bắc Phi của tôi không hề rút đi mà chỉ làm cuộc dã ngoại dạo chơi đến đồn Gang rồi ban đêm lại xuống ca nô về bốt Tuần.
Khúc Kiệt ngiến răng quát:
- Đồ đểu. Tao thà chết chứ không bao giờ đầu hàng lũ chó Tây.
Nói rồi ông ta rút chốt quả lựu đạn giơ lên ngang mặt bảo :
- Thằng nào muốn chết thì đến đây!
Một lính dõng người Cao Xá có gã em họ bị du kích rừng Hóp bắn chết trong trận đánh độn thổ đường 228 lại gần đồn Cáo nói:
- Bẩm ngài để tôi cho lão một phát.
Đồn Cáo ngẫm nghĩ một lúc rồi ngoảnh lại bảo bọn lính:
- Thôi, để cho ông ta đi .

5. Từ khi được cấp xe Jeep tuần nào đồn Cáo cũng về làng Cùa vài lần. Mấy năm nay, tuyến đê được dân phu Ba Tổng bồi trúc, mặt trải đá răm đến tận Cổ Pháp nối với đường 22 ở ngã Tư Gia Hoà. Chiếc xe sơn màu cỏ úa, không mui chạy băng băng, đến điếm Bài Vân bao giờ tay sốp phơ cũng bấm cỏi inh ỏi làm mấy cô váy thâm, quảy quang gánh sang cồn Vành cắt cỏ hốt hoảng chạy vào bụi chuối nhà vệ Đà. Mỗi khi xe đến sân đình, trẻ con, phần lớn cởi truồng, mũi thò lò, bâu lại chỉ trỏ làm Mác xen phải trợn mắt quát nạt. Hắn vào nhà bà cả Huê, có hôm còn ăn cơm ở đấy, tối mới về. Dạo này đội du kích rừng Hóp đã bị vô hiệu hoá sau chuyến tấn công đồn Tuần. Khoá Kiệt cũng bỏ làng ra đi. Vùng tề có vẻ đã yên tĩnh.

Gần đây Mác xen đâm ra say mê Khúc Thị Huệ , cô Hụê năm nay mười chín , xinh xẻo như bà mẹ thời trẻ. Đồn Cáo, một lần mời Khúc Văn uống cô nhắc trên ca nô Noóc măng đi, ướm hỏi:
- Cô em họ xinh đẹp của thiếu uý ở làng Cùa chưa chồng phải không?

Khúc Văn biết tỏng bụng dạ gã Đồn Trưởng liền bảo:
-Không phải em mà là bà chị họ tuy rằng chị ấy kém tôi hơn chục tuổi . Sao, Đại uý bị mũi tên của thần Cu pi đông bắn trúng tim rồi chứ gì ?
-Tôi đã đồn trú nhiều nơi nhưng chưa thấy ở đâu một thiếu nữ phương Đông có vẻ đẹp quyến rũ đến thế. Ông bạn có bằng lòng làm mối cho Mác xen này không?

Khúc Văn cười :
- Thế còn cô Giannét ở gần bến cảng Tu lông của ngài. Theo chỗ tôi biết nước Pháp có điều luật xử rất nặng với những người đàn ông một lúc có hai bà vợ.

Đồn Cáo thở dài , rút rong túi ra bức thư đưa cho Khúc Văn .
- Tôi sang Đông Dương được gần hai năm thì Gian nét gửi thư yêu cầu phải về nếu không cô ấy sẽ đi lấy chồng. Thiếu uý có biết vì sao không?
- Xin Đại uý cứ kể tiếp .

Đồn Cáo cười gằn:
- Hoá ra trong khi tôi phải đương đầu với Việt Minh ở cái xứ nhiệt đới đầy ruồi muỗi này thì Gian nét phải lòng một tay đảng viên cộng sản Pháp làm ở nhà máy in và bị hắn tuyên truyền chủ nghĩa Mác, chống chiến tranh Đông Dương.
- Sau đó sự việc thế nào ?
- Tất nhiên là tôi không thể rời bỏ binh nghiệp. - Mác xen bảo - Mặt khác cũng không thể bắt người đàn bà chờ mình một khi cô ta đã công khai đi với nhân tình, vì thế tôi đã gửi đơn ly hôn về.
- Khúc Văn nâng ly rượu giọng thông cảm:
- Ngài thật xứng đáng là bậc quân tử, tuy nhiên tôi cũng thành thật chia buồn.
- Bây giờ tôi thích một cô gái Việt Nam và muốn cưới nàng làm vợ.
- Sau này ngài mang cô ta về Pháp chứ ?
- Thiếu uý vẫn chưa hiểu Mác xen. Cuộc chiến tranh chó chết này sắp đến hồi kết.- Viên đồn trưởng tợp một ngụm hết cả ly rượu nặng, mặt hắn nóng bừng nhìn Khúc Văn nói chậm rãi - Đừng tưởng đội quân của khoá Kiệt thất bại và vùng này lập tề là quân đội Pháp sẽ bình định được đồng bằng Bắc Bộ. Không nên đánh giá thấp thực lực của Việt Minh. Họ đang tập trung quân đội vào việc đối phó với cứ điểm Điện Biên Phủ. Cái vùng Ba Tổng khỉ ho cò gáy này chỉ là một điểm rất nhỏ nhoi trên bản đồ chiến lược của tướng Giáp. Cho nên tôi định đem cô Huệ về nước sau khi xin giải ngũ trong thời gian tới.
- Đại uý không nói đùa đấy chứ ? - Khúc Văn có vẻ hoang mang hết nhìn Đồn cáo lại nhìn dòng sông đang cuộn chảy. - Chẳng lẽ tình hình lại bi quan đến thế ? Tôi thường xuyên nghe đài. Các bản tin chiến sự đều rất sáng sủa.
- Chúng đều là đồ bịp bợm . - Đồn Cáo đã hơi say văng tục - Mẹ khỉ ! Toàn một bọn bồi bút đưa thông tin giả đánh lừa những kẻ nhẹ dạ cả tin.

Hôm sau Khúc Văn về làng cùa gặp bà cả Huê . Bà Huê thích lắm, lập tức làm một bữa tiệc nhỏ, các món ăn chế biến chủ yếu từ thịt gà mời Mác xen và Khúc Văn. Đồn Cáo cho mang lên xe Jeep hai két bia Con hổ, ba thùng bích quy, hơn chục hộp kẹo Ca ra men và mấy xấp vải thượng hạng làm lễ ra mắt. Lễ ăn hỏi có cả rượu sâm banh khai vị lẫn vang trắng Boóc đô nhắm với đùi gà quay tẩm ngũ vị hương đến quá nửa đêm mới kết thúc. Chiếc xe của Đồn Cáo và Khúc Văn khật khưỡng về gần đồn Tuần thì nghe có tiếng súng nổ rồi một quầng lửa bùng lên ở sườn lô cốt chính.
- Chết cha ! Bọn Việt Minh đánh đồn . - Mác xen giật mình bảo lái xe- Chạy nhanh lên!

Khúc văn ngăn lại :
- Cho xe chạy tiếp là trúng đạn Việt Minh. Quay lại !

Đồn Cáo lập cập hỏi:
- Bỏ đồn à Thiếu uý ?
- Tạm thời bỏ rồi tính sau.
- Người chỉ huy không được bỏ quân đội khi lâm trận. - Đồn Cáo bất ngờ ra lệnh cho sốp phơ tăng tốc về đồn .

Chiếc xe băng qua làn đạn đủ loại. Có những viên đỏ lừ rạch bóng đêm trúng lốp sau nhưng xe vẫn lao ầm ầm như ngựa vía. Quang cảnh đồn Tuần hiện ra trong ánh lửa sáng rực như ban ngày. Lửa cháy bốc lên cao soi rõ cả một hàng kẽm gai bùng nhùng bị bộc phá đẩy ra giữa bãi mìn nằm quằn quại như con trăn khổng lồ trúng thương. Khẩu đại liên trên nóc lô cốt số ba nòng gục xuống, nằm bất động. Trong sân mấy chục lính Bắc Phi và lính dõng quần áo lôi thôi lếch thếch, mặt mũi lem nhem cúi đầu bước ra trước mũi súng của những Việt Minh trẻ măng.

Đồn Cáo còn chưa hết bàng hoàng vì cú đòn bất ngờ của Việt Minh thì một người đội mũ nan bọc vải dù, tay cầm khẩu mô de bước đến chắn trước xe.
- Xin chào đại uý Mác xen. Mời ngài xuống xe.

Người ấy vừa nói xong, lập tức mấy anh lính lôi đồn Cáo và Khúc Văn ra khỏi ghế ngồi, tước súng ngắn rồi lấy dây dù trói quặt hai tay về phía sau. Trong ánh lửa nhập nhoạng, Đồn Cáo nhìn người chỉ huy có khuôn mặt rất quen, liền hỏi:
- Thưa ông chỉ huy, ông là ...

Người đàn ông đứng tuổi nhấc mũ khỏi đầu, vuốt cho mái tóc trở lại ngay ngắn, cười nhạt bảo:
- Ngài đồn trưởng không nhận ra cố nhân à?

Mác xen ngập ngừng một lúc bất chợt kêu lên:
- Ông Lê Văn Vận ... Chẳng nhẽ lại là ...?
- Phải, tôi đây. - Vận nheo mắt bảo - Ông ngạc nhiên lắm phải không?
- Vậy ra ông không chết ?

Vận gật đầu:
- Thật may, trước khi lính của ông nổ súng một giây tôi đã kịp lao xuống chân cầu.
- Làm thế nào ông cởi được dây trói ở tay?
- Chắc ông đồn trưởng không biết tôi vốn là dân chài? - Vận nhìn Đồn Cáo đầy vẻ châm biếm - Rơi xuống nước, tôi dùng răng cắn đứt dây trói rồi lặn một mạch sang bờ bên kia. Chính vì vậy mới có cuộc gặp gỡ thú vị hôm nay.

[1] Xếch tơ ( secteur) : Tiểu quân khu (Tiếng Pháp).
[2] Một tổ chức bí mật của Việt Minh chuyên ám sát những người làm tay sai hoặc chỉ điểm cho Pháp.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-03-2015, 08:00 PM
Chương 9

1. Tết Thanh Minh năm Giáp Ngọ, một anh bộ đội quân phục sỹ quan, mũ lưới, súng ngắn bên sườn, vai mang ba lô vào làng Cùa. Anh ta vừa định bước qua cổng thì có hai du kích xách súng chặn lại hỏi:
- Anh là ai ? Vào làng có việc gì?

Người sỹ quan gườm gườm nhìn tay du kích lé mắt rồi lấy ra tờ giấy đưa cho anh ta :
- Tôi là Khúc Luận, con trai bà cả Huê, hiện đang ở trung đoàn ...

Một trong hai du kích có cái mũi khoằm, súng lăm lăm trong tay, chỉ cần viên sỹ quan hơi động đậy một chút là anh ta sẵn sàng cho ăn đạn. Tay lé mắt xoay ngược tờ giấy đánh máy chụp con dấu đỏ nhìn một lúc rồi đưa cho người mũi khoằm. Anh này cũng không biết chữ đành ngẩng lên nhìn chằm chằm vào anh bộ đội hỏi :
- Tên gì ?
- Đã bảo là Khúc Luận, có ghi trong giấy ấy. Các anh không đọc được à?
- Câm mồm ! - Người mắt lé quát.
- Anh là con ông chánh Đàm ?
- Thì sao?
- Đi theo chúng tôi.

Lúc ấy trời đã nhá nhem. Khúc Luận cảm thấy làng Cùa có chuyện bất thường định tính nước tháo lui nhưng không kịp nữa rồi. Ba du kích còn khá trẻ chẳng biết ở đâu bất chợt hiện ra tước ngay khẩu súng ngắn, quàng dây thừng trói giật cánh khuỷu dẫn về đình Cả. Chỉ ít phút sau anh ta bị tống vào hậu cung, nơi trước đây khoá Kiệt đã từng giam Lê Bang và bà cả Huê. Người mũi khoằm khoá cửa xong bước ra sân bảo đám du kích ngồi ngoài sân:
- Sáng mai phải đưa tên phản động họ Khúc ra cho bà con bần cố nông đấu tranh.
- Hắn về từ bao giờ?
- Lúc chiều.
- Đáng đời cho quân địa chủ bóc lột. Chuyến này thì mẹ con nhà nó khó tránh khỏi tử hình .

Quá nửa đêm, vào lúc Khúc Luận trằn trọc không ngủ được vì muỗi quá nhiều, đang nghĩ kế thoát thân chợt nghe như có tiếng động vào ổ khoá. Cánh cửa khẽ bật ra. Một người tóc tai rối bù, mặt trát nhọ nồi đen sì vào cởi trói cho Khúc Luận rồi nói khẽ :
- Cậu trốn ngay đi, nếu không ngày mai Đội Cải cách xử bắn đấy.
- Anh là ai mà lại cứu tôi?

Người tóc rối thì thầm:
- Tôi là Thường Rỗ, cậu quên rồi à?
- Anh Thường , mẹ tôi. . .
- Bà Cả bị giam trong chuồng trâu nhà phó lý Kiền cùng với đám chánh Bang. Tình hình căng thẳng lắm.

Khúc Luận đã định đi nhưng lại nắm tay Thường Rỗ hỏi :
- Anh làm thế nào có được chìa khoá?

Thường Rỗ bảo:
- Chúng không biết khoá này có hai chìa. Ông lý Quỳnh đưa cho tôi. Thôi đi đi. Chúc cậu chân cứng đá mềm và nhớ từ nay đừng bao giờ về làng Cùa.
- Rất cảm ơn anh nhưng tôi sợ anh bị liên lụy.

Thường Rỗ ấn vào tay Khúc Luận gói cơm nắm, thủng thẳng bảo:
- Tôi là thằng tá điền trên răng dưới dái, Đội Cải cách làm đếch gì được.

Khúc Luận không dám đi cửa chính. Anh ta lẻn vào gian nhà để đòn khênh, trèo tường đình rồi nhảy xuống bụi tre nhà quản Thụ sau đó chạy ra khu đồng Chó Đá. Sáng sớm, anh ta qua sông Lăng ở bến Vạn Điền, thế là thoát nhưng mất toi khẩu súng lục. Đến cồn Vành, Khúc Luận định rẽ sang kẻ Bòng thăm ông ngoại nhưng ngẫm nghĩ một lúc lại thôi. Có lẽ anh ta không muốn nhớ lại quá khứ.

Sau vụ ám sát Lê Văn Vận, Khúc Luận sang làng Bòng, được ông ngoại hết mực cưng chiều, chỉ có hai thằng cháu là Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên là lúc nào cũng nhìn ông cậu xấp xỉ tuổi chúng bằng con mắt nghi ngại. Mùa hè, cả bọn rủ nhau ra cồn Vành bắt cá. Khúc Luận có tài đâm đinh ba còn hai anh em Lê Văn Khải đánh giậm. Một lần chúng cược nhau thi thả diều. Điều kiện đặt ra là diều của ai đẹp nhất, bay cao nhất, đứng yên nhất và sáo kêu hay nhất thì thắng cuộc. Khải và Nghiên mỗi thằng làm một con diều bề ngang to bằng chiếc quạt lúa, dài năm thước ta, dán nhật trình, phất cậy rồi lại táp thêm một lớp giấy bản nổi màu nâu sẫm trông chẳng khác gì lá buồm cánh dơi để nằm ngang. Khải có sáng kiến gắn quả bầu khô vào phía dưới ba chiếc sáo đại mua của ông phó Đá tận kẻ Sung. Diều lên cao, gió thổi qua miệng sáo làm vang lên những chuỗi âm thanh u u lúc gần lúc xa, lúc cao lúc thấp hoà với giọng trầm trầm như tiếng tù và phát ra từ quả bầu nậm tạo thành bản nhạc lạ tai làm cả làng phải ngẩng đầu nghe.

Diều của Khúc Luận gần bằng chiếc chiếu một, hai mũi cong lên trông như sải cánh con chim cắt lúc lượn trên cao đuổi mồi. Thằng bé không phất cậy lên giấy nhật trình mà cất công mấy ngày liền đi chặt nhựa sung mang về bồi giấy dó. Để tăng vẻ đẹp, Khúc Luận còn bắt ông Lái mua giấy trang kim cắt thành hoa lá chim cò dán vào mặt dưới con diều. Riêng về bộ sáo, cậu ta đóng liền năm chiếc, khi diều bay, sáo kết thành bè, từ âm vực thấp đến âm vực cao hoà vào nhau nghe rất du dương. Nhìn chiếc diều đẹp mã, Lê Văn Nghiên bảo với anh:
- Có khi chúng ta thua mất.

Thằng anh động viên em:
- Chưa chắc, muốn biết diều có tốt hay không phải nhìn xem nó bay thế nào đã.

Về dây, cả hai bên đều dùng loại gai bện xoắn do ông Lái mua từ chợ Lành, quấn thành cuộn lớn, dùng bao nhiêu cũng được. Hôm ấy là một buổi chiều tháng tám. Trời trong xanh. Gió heo may rất thuận lợi cho việc thả diều. Anh em Lê Văn Khải thả trước. Con diều vừa rời khỏi tay Nghiên đã vút lên. Sau mấy lần nhao qua nhao lại nó đạt độ cao ổn định, bắt đầu thả xuống cồn Vành tiếng vi vu mơ hồ của thứ âm nhạc từ chín tầng mây. Phía bãi cỏ bên này, Khúc Luận nhờ thằng Cấp đâm diều. Thằng bé đen như cột bồ hóng, suốt ngày cởi trần chăn trâu thuê cho ông phó lý Điện. Nó là khắc tinh của các loài chim trời bằng cây súng cao su bắn đạn đất nung. Dạo ấy Cấp chơi thân với thằng bạn từ bên kia sông Lăng sang, có hôm nó bắn được cả một xâu chim, hai đứa vặt lông, đốt lửa nướng ăn ngay tại bãi chuối giữa cồn. Thực ra thỉnh thoảng Luận và Cấp cũng cãi nhau nhưng chỉ được nửa buổi lại rủ nhau đi đâm cá. Chính gã chăn trâu thuê đã dậy cậu công tử làng Cùa ngón nghề này.

Con diều có vẻ kềnh càng lại khá nặng, thằng Cấp loay hoay mãi mới tung lên được. Nó vọt nhanh theo một đường vòng cung rất rộng sau đó cứ ngúc ngoắc như là con nhang đang lên đồng rồi từ từ rơi xuống một gò đất. Khúc Luận cởi trần, người lấm tấm mồ hôi hì hục sửa dây lèo. Một miệng sáo bị sứt. Cậu ta chậc lưỡi xuýt xoa chẳng khác gì chính mình vừa bị đứt tay. Thằng Cấp mang bát nhựa sang dán lại những chỗ giấy bị bong ra rồi lệnh khệnh vác lên gò đứng de chân chèo đón gió. Cuối cùng chiếc diều cũng bay lên nhưng không hiểu do hai cái cánh mất cân đối hay bộ sáo quá nặng nên thỉnh thoảng nó lại giật một cái như là người thọt đi bộ gặp phải đường lắm ổ gà.
Hai con diều đua nhau chao lượn giữa vòm trời trong xanh không một gợn mây. Vũ điệu của chúng thật nhịp nhàng, lúc sang phải, lúc dạt về bên trái, lúc uốn thành vòng tròn duyên dáng như những nghệ sỹ nhào lộn điêu luyện trên sân khấu xiếc. Tuy nhiên, nhìn bằng mắt thường diều của Khúc Luận lên cao hơn. Cậu ta khoái lắm vênh mặt bảo anh em Lê Văn Khải :
- Thấy chưa, phen này diều của tao chắc thắng.

Thằng Nghiên bĩu môi chê:
- Khung diều của cậu bị lệch cánh thỉnh thoảng lại giật một cái.
- Ai bảo mày thế? - Khúc Luận hỏi vặn.
- Nhìn thì biết việc gì phải hỏi, mà hình như sáo của cậu bị vỡ, nghe tiếng nó cứ rè rè như mèo hen.
- Còn hay hơn nhiều cái quả bầu khô của chúng mày. Tao nói đúng không Cấp?

Thằng Cấp vốn vẫn phục Khúc Luận được đi học cái gì cũng biết nên bênh nó :
- Còn phải nói, năm ống sáo nhất định phải hay hơn tiếng ù ù của quả bầu.
- Được để rồi xem.

Lê Văn Khải khẽ giật dây một cái. Con diều đang bay bỗng vọt lên cao rồi bất ngờ bổ nhào về phía trái lao vào diều Khúc Luận làm nó loạng choạng như con cắt bị gẫy cánh sau cuộc đọ sức với diều hâu, đâm xuống khoảng ruộng trũng phía bên kia bãi ngô non. Cánh diều bị ngập nước phù sa còn phần đuôi chổng ngược lên rách một miếng lớn. Nhìn cảnh tượng ấy, Khúc Luận chẳng nói chẳng rằng xông vào đấm Lê Văn Khải mấy quả liền. Thằng Nghiên thấy anh bị đánh liền túm áo Khúc Luận thét lên:
- Cậu không được đánh anh cháu.

Ông cậu đang tức vì thua cuộc, mất mặt liền tiện tay tát thằng cháu một cái nổ đom đóm mắt. Thế là một cuộc ẩu đả tay ba xẩy ra làm bọn trẻ trâu xúm lại vỗ tay cổ vũ cho cả hai bên:
- Đánh nữa đi! Đấm mạnh vào! - Một thằng chân dài như chân sếu, người gầy nhằng, gào lên.

Thằng Đáp lùn, tròn như hạt mít lấy ống tay áo quệt ngang mũi, khịt một cái rồi nhẩy lên như con choi choi:
- Thằng Khải túm chân! Kìa, nó ra đòn phía sau.

Thằng Cấp đứng ngoài, thấy Khúc Luận tuy khoẻ nhưng một không thể chọi được hai cũng lao vào túm tóc Lê Văn Nghiên, thụi liền mấy quả vào ngực nó. Chiếc áo ka ki của Khúc Luận bị xé toác một vạt. Lê Văn Khải môi sưng vếu, tay bị thằng Cấp khoá chặt nhưng chân vẫn quặp cổ nó. Lúc này Lê Văn Nghiên và Khúc Luận đang bóp cổ nhau. Cả hai đều thở hồng hộc, mắt vằn tia máu. Khúc Luận to xác lại nhiều tuổi hơn nhưng không dai sức bằng Lê Văn Nghiên. Nó cố sức thoát khỏi hai cánh tay thằng cháu nhưng không được liền ghé răng cắn một phát vào bắp tay đối thủ. Lê Văn Nghiên đau quá thét lên một tiếng vội buông cổ Khúc Luận.

Khi ông Lái Lự và bà Hai ra đến nơi thì mọi sự đã kết thúc. Hai anh em Khải Nghiên quần áo tả tơi, mồm miệng sưng vếu đang hối hả cuốn dây. Khúc Luận ngồi phệt xuống bãi cỏ, mặt lầm lầm thỉnh thoảng lại nhổ nước bọt. Lái Lự lại bên Khúc Luận hỏi:
- Làm sao các cháu đánh nhau?

Cậu cả ngẫm nghĩ thế nào bỗng nhiên khóc nấc lên:
- Mẹ ơi!
- Tối rồi, về thôi cháu. - Ông Lái dắt Khúc Luận đứng dậy - Tối nay ta sẽ cho anh em thằng Khải một trận.

Sau chuyện cậu cháu xô xát vì con diều, Khúc Luận nghĩ đến việc trốn về làng Cùa một phần vì tức anh em Lê Văn Khải nhưng cái chính là nhớ cô em họ xinh đẹp. Tuy mới bước nào tuổi mười lăm mà cậu ta đã sớm có nhu cầu khám phá thế giới bí mật của đám đàn bà con gái đang tuổi dậy thì. Cô em con ông chú ruột hơn Luận những bẩy tám tuổi, lại đã từng có mang với một Việt Minh nằm vùng rồi bỏ làng đi biệt tích vậy mà hình bóng cô ta lúc nào cũng luẩn quẩn trong tâm trí. Giá như Nhân không mang họ Khúc thì nhất định cậu bắt mẹ Cả mang trầu cau đến hỏi. Trên đời sao lại có người con gái dịu dàng, xinh đẹp đến thế. Mà cô ta cũng thật nhẹ dạ cả tin, đem tình yêu và sự trong trắng trao cho một gã cha căng chú kiết đến nỗi thành goá bụa. Lại còn Ngô Quỳnh nữa, không biết bằng phép mầu gì mà lão chài được cô ấy? Mình mà có quyền trong tay phải dùng roi mây quất cho gã lý trưởng hai mang ấy mấy nhát vào mông để cảnh cáo về tội dám coi thường con trai Chánh Tổng.

Tháng Ba, đã cuối tiết Xuân. Trời ấm dần nhưng vẫn còn những trận gió mùa Đông Bắc tràn về. Ngô non khẽ rì rào. Những búp dâu mơn mởn xoè ra dưới màn mưa bụi. Thỉnh thoảng trời hửng. Một dẻ nắng vàng óng bất chợt từ chỗ nứt ra giữa những cồn mây xám bập bềnh trôi. Cỏ non mọc miên man như tấm thảm xanh chạy dài đến tận bờ sông. Những gò đất lô xô nở toàn hoa cải dại kết lại thành từng đám vàng sậm như ráng chiều. Hoa cải dại nồng nồng lẫn vị cay cay như mùi gừng nướng lan toả trong buổi sớm mai làm lũ sơn tước đỏm dáng dậy từ lúc tinh mơ bay xập xoè, chao đi chao lại như là đang tắm trong mùi hương quyến rũ của đồng nội.

Vào dịp ấy, người làng Bòng , làng Miễu ven cồn Láng và đầm Vực thường vác lưới đánh chim ngói, chim xanh. Cồn Láng còn trồng các loại đậu. Mùa đậu chín, chim kéo về hàng đàn, rình lúc vắng người đáp xuống mổ hạt ăn. Lũ sẻ đá và chim ngói khôn ranh chỉ rỉa những quả đã tách vỏ. Sau khi đã ních đầy diều chúng còn dồn hạt đầy hai bìu cổ để dành cho lũ con sắp ra ràng đang thi nhau há cái mỏ đỏ hỏn, viền vàng kêu chiêm chiếp vì đói.

Anh em Lê Văn Khải và Khúc Luận cũng bắt chước bọn choai choai trong làng xách đồ nghề đi bẫy liếu điếu. Liếu điếu là giống chim lắm điều. Chúng đậu ở đâu là chỗ ấy inh ỏi như một đám cãi nhau. Bẫy chim vùng kẻ Bòng là một bộ gọng tre hình bán nguyệt mắc lưới gai, đường kính bốn năm thước ta. Khi đặt lưới, người ta đóng cọc nhỏ cố định hai đầu cánh cung để tránh xê dịch, buộc chim mồi, rắc thóc, ngụy trang vài cành lá tươi sau đó vào bụi ngồi chờ. Liếu điếu vốn hiếu động, tuy chân bị buộc vẫn nhảy nhót mổ thóc ăn làm cho đồng loại ở trên trời rủ nhau sà xuống. Đợi cả đàn họp lại đúng vào chỗ rắc thóc thì nhẹ nhàng kéo dây cho bẫy sập. May lắm mới có một vài chú thoát hiểm. Bị bất ngờ , đàn chim nhảy loạn xạ, bùng nhùng trong tấm lưới, than vãn bằng thứ âm thanh vô cùng thảm thiết. Gần trưa đồng bãi đã vãn người. Anh em Khải Nghiên hôm ấy gặp may, được cả một đàn liếu điếu béo múp gần ba chục con trông chẳng khác gì chim cút đồng tháng mười bên vùng Ba Tổng. Trong khi ấy khúc Luận vẫn lủng lẳng chiếc lồng rỗng với cặp chim mồi ủ rũ, vai vác lưới luồn lách giữa đám ruộng dâu mãi cuối bãi. Cậu ta là tay thích chơi trội, trong những cuộc so tài với các bạn cùng lứa thường ít khi chịu kém cạnh. Qua vụ thả diều, Khúc Luận càng ghét hai anh em nhà họ Lê, định bụng hễ có dịp sẽ trổ tài để chúng phải tâm phục khẩu phục. Có một đàn không biết là chim gì, mình đen bụng trắng, cổ khoang đỏ từ bên kia lượn vài vòng rồi hạ xuống cánh bãi. Khúc Luận mừng lắm, hạ lưới, thả chim mồi rồi giòng dây vào ruộng dâu ngồi đợi. Lũ chim lạ có vẻ tinh khôn. Chúng rủ nhau đậu trên cành dâu vừa rỉa lông vừa hoài nghi nhìn con chim mồi khác giống đang nhảy nhót một cách giả tạo giữa đám thóc vàng. Một con hình như là đầu đàn xoè cánh bay lướt qua để kiểm tra hư thực sau đó trở lại cành dâu kêu chíp chíp mấy tiếng liền bằng ngữ điệu rất khẩn cấp. Cả bầy lập tức bay vút lên. Chỉ một loáng chúng đã ở trên lưng chừng trời để lại cho gã thợ săn nửa mùa cái nhìn giận dữ.

Vào đúng lúc ấy, Khúc Luận nhìn thấy chiếc thuyền mủng trên sông Bối sắp chìm. Sông Bối là một nhánh của sông Lăng chảy vòng phía đông tách vùng đất làng Bòng với cồn Láng thành hai khu. Tháng sáu tháng bảy nước lũ ngập bãi, phải đi thuyền, tháng một tháng chạp có thể lội qua được. Cữ này, nước đang lên, thuyền nhỏ bồng bềnh gặp trận gió mạnh rất dễ bị lật.

Khúc Luận quẳng lưới, chạy bổ ra bờ sông nhảy ào xuống nước, sải tay bơi mấy cái thì bắt kịp con thuyền bị nạn. Hoá ra là cô Hót con ông trương Thiện. Nước chỗ này không sâu lắm, nhưng vì vướng gánh cỏ và chiếc quai nón quàng cổ thành ra cứ lúng túng mãi cô không ngoi lên được. Khúc Luận gạt quang cỏ ra khỏi thuyền, tháo quai nón khỏi cằm Hót rồi vòng tay qua nách ôm ngang người dìu nạn nhân vào bờ. Thực ra cô cắt cỏ chỉ bị choáng tí chút nhưng vì tóc tai quần áo ướt sũng trông bộ dạng có vẻ như sắp chết đến nơi. Khúc Luận thọc tay vào miệng ngoáy cổ họng một lúc tức thì cô ta khạc ra một ít nước đục lờ lờ như màu gạch non.

Cô Hót xấp xỉ mười tám , nổi tiếng xóm Chuối vì máu trăng hoa. Năm mười sau tuổi cô ta đã phải lòng một gã đò dọc gần ba mươi. Gã này đẹp mã và dẻo mỏ xuýt nữa lôi được nàng thôn nữ kẻ Bòng lên chiếc thuyền chở củ nâu từ bến Tràng đi chợ Buộm. Ông trương Thiện ra tận bờ sông lôi con gái về đánh cho một trận nhừ tử rồi nhốt vào buồng. Nhưng chứng nào vẫn tật đấy. Cô gái đang tuổi chanh cốm luôn khao khát đàn ông một cách bệnh hoạn, hễ gặp đứa con trai nào đến tuổi dậy thì là liếc mắt đưa tình. Cặp mắt cô ta nhìn đắm đuối, đờ đẫn như kẻ mắc chứng mộng du.

Khạc hết nước, Hót he hé mắt, vừa hay bắt gặp cái nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống mình vội khép nhanh lại, đầu ngật sang một bên như là sắp chết đến nơi. Cậu chàng choai choai cảm thấy tự nhiên người nóng hầm hập , ngập ngừng một lúc rồi lần cởi chiếc áo cánh trên người cô gái. Chiếc yếm lụa mỡ gà bị tuột dây vắt lệch sang bên để lộ bộ ngực đầy đặn với cặp vú bánh dày rất mẩy đang phập phồng theo nhịp thở gấp. Khúc Luận nhìn hau háu vào đôi gò bồng đảo. Lúc ấy có lẽ đã quá trưa, khắp bãi không một bóng người. Cậu ta mím môi lấy hết sức bình sinh bế bổng cô cắt cỏ mang vào giữa ruộng dâu. Mưa bụi vẫn bay lất phất nhưng gió thổi mỗi lúc một mạnh xô đẩy những thân cây mềm lắc lư. Khúc Luận bị ngộp thở trước cặp vú trắng toát đầy khêu gợi. Cuối cùng, không cưỡng được bản năng đàn ông, cậu ta vòng hai tay xuống lưng Hót ghì chặt đến mức cô ta rên hừ hừ:

- Kìa, bỏ người ta ra!

Từ bé đến giờ chưa khi nào Khúc Luận được vuốt ve một cơ thể người con gái trần truồng. Hồi còn ở nhà đã có lần nhìn thấy Nhân vừa tắm xong nhưng chỉ một thoáng cô ta đã khoác được chiếc áo cánh. Theo nhận xét của cậu, Khúc Thị Nhân có vẻ đẹp dịu dàng của một thiếu nữ sinh ra trong một gia đình nề nếp nhưng tính tình cô ta lại ương ngạnh chẳng khác gì ông bố hủ nho. Khúc Luận còn bực mình vì bị Nhân coi là phường “ong non ngứa nọc” nên càng căm ghét hai gã đàn ông được cô ta yêu thương. Nhưng rồi thế sự xoay vần, tay Việt Minh chết trôi sông , Nhân bỏ đi biệt tăm, Lý Quỳnh trơ khấc ra vẫn là anh goá vợ. Đáng đời lão dê già. Lần đầu tiên trong đời ngửi thấy thứ mùi gây gây của đàn bà, gã thiếu niên gần như phát cuồng trước một cơ thể ngồn ngộn những đường cong tuyệt đẹp nhất là vồng ngực nóng hổi với đôi núm vú đỏ như son và cặp mắt đa tình lim dim dưới đôi mày rậm đen nhánh tựa mực tàu. Trong vòng nửa giờ hắn vần vò khắp người cô cắt cỏ với thứ khoái cảm đặc biệt của một kẻ phóng đãng bẩm sinh bất chấp cả thời khắcvà hai chú chim mồi đang mắc kẹt trong tấm lưới gai bùng nhùng mà lúc nhảy xuống sông không kịp ngỡ ra.

Phía đầu bãi, sau khi bẫy thêm được một đàn mười bốn con, anh em Lê Văn Khải trèo lên gò cao, bắc tay làm lao gọi Khúc Luận nhưng không thấy tăm hơi liền kéo hau về. Lúc ấy đã xế trưa. Hai đứa vừa qua sông Bối thì gặp thằng Huyến , con ông trương Thiện. Nó hỏi:
- Chúng mày có thấy chị Hót cắt cỏ bên bãi không ?

Nghiên thoáng nghĩ đến Khúc Luận nhưng lắc đầu bảo :
- Không thấy.

Thằng Huyến lại hỏi:
- Còn chiếc thuyền?

Khải nháy mắt nhìn em rồi nói :
- Tao thấy nó được kéo vào bãi dâu.

Nghe vậy, thằng Huyến sinh nghi, không sang bãi nữa mà chạy bổ về nhà. Một lúc sau trương Thiện cùng hai con trai hộc tốc sang cồn Láng và chẳng khó khăn gì đã túm được hai đứa vẫn còn đang quặp nhau trong ruộng dâu. Trương Thiện nhảy bổ vào Khúc Luận thoi một quả vào quai hàm nó:
- Thằng mất dậy! Thế này thì mày giết tao rồi .

Cả Huyên đạp tiếp một phát vào bụng dưới làm con trai chánh Đàm cúi gập xuống, mặt tái nhợt thở hổn hển. Ông Thiện túm tóc cô Hót tát liền mấy cái nẩy đom đóm mắt.
- Con đĩ rạc ! Về nhà rồi mày biết tay tao.

Khúc Luận bị trói hai tay. Anh em Huyên Huyến tròng dây thừng ngang người hắn lôi xềnh xệch như lão Tạc ba toa kéo lợn từ chuồng ra chọc tiết. Tầm ấy, dân làng vẫn còn ở nhà, nghe tiếng huyên náo kéo nhau ra ngõ xem. Gã mắc chứng phong tình bước chệnh choạng trên đường sống trâu, thỉnh thoảng lại trượt ngã như người say. Ông Thiện ngượng với thiên hạ không dám về làng ngay. Không ai biết anh chàng ngụ cư mắc tội gì. Hai anh em Huyên Huyến mỗi khi được hỏi đều trả lời cụt ngủn:
- Ăn trộm.

Đến nhà, Khúc Luận bị Huyên trói vào cột nhà bếp rồi lấy chiếc tay tre vừa chặt vụt tới tấp vào lưng. Hắn đau quá, oằn người như phải bỏng. Mãi nửa chiều, Trương Thiện mới điệu con gái về đến nơi. Cô ta vênh váo, chẳng có vẻ gì ngượng ngùng chạy ngay xuống bếp cởi trói cho nhân tình.

Ông bố quát:
- Hót, vào buồng !

Cô con gái cười nhạt, giọng tưng tửng :
- Người ta không có lỗi, bố thả cậu ấy ra.
- A ! Con nặc nô ! Mày… mày dám…

Khi lái Lự và bà Hai biết chuyện thì Khúc Luận đã no đòn. Hắn thấy nhục quá, khóc nấc lên như trẻ con bị mắng oan. Lái Lự vào nhà nói ngọt xin bảo lãnh cho cháu ngoại về nhưng ông Thiện không nghe.

Tội thằng này nặng lắm không thể tha được. Chièu nay tôi phải trình với ông Lý để làng xử phạt.
- ấy chết, cháu nó còn nhỏ mong ông nghĩ lại.

Ông Trương phẩy tay :
- Sáng mai mời ông ra đình mà xin với làng.

Đêm vừa xuống thì bầy muỗi vằn bắt đầu đến thăm cậu công tử làng Cùa. Gian bếp nồng nặc mùi bồ hóng lẫn với cứt chuột lưu cữu bốc lên từ khắp các xó xỉnh. Lũ gián chạy rào rào quanh chiếc chạn bát mốc thếch tìm thức ăn. Chúng dạn đến mức dám bò cả lên người, thò cặp râu vừa dài vừa cong vào mũi và tai đánh hơi làm Khúc Luận xuýt lộn mửa. Một con cóc cụ nằm bẹp trong cái hang nông choèn cạnh thùng trấu thỉnh thoảng khẽ nghiến răng. Lão cóc già có vẻ thoả mãn với thời tiết ẩm ướt, nhìn thứ gì cũng nhão nhoét như cháo thiu. Trên xà ngang, tiếng mọt nghiến gỗ đều đều, nhẫn nại đến sốt ruột. Cuối cùng là đôi thạch sùng rửng mỡ đuổi nhau chắt lưỡi rin rít. Trong một không gian chật hẹp đầy những tiếng độn hỗn tạp Khúc Luận cảm thấy đầu như muốn vỡ tung ra. Hắn vừa đói vừa buồn ngủ nhưng không thể ngủ. Quá nửa đêm, mệt quá cậu chàng chợp mắt được một thoáng thì có tiếng động nhẹ bên ngoài. Cánh cửa khẽ hé ra. Một bóng người lẻn vào cắt dây trói rồi ghé tai thì thầm:
- Trốn ngay đi!

Hắn còn đang bàng hoàng chưa biết thực hay hư thì ả Hót lại giúi vào tay một bọc nhỏ:
- Trong này có bộ quần áo và một ít tiền, cậu đi khỏi làng Bòng ít lâu rồi hãy về.

Khúc Luận luồn trong bóng đêm nhanh như một con mèo ăn vụng bị chủ tống ra khỏi cửa dù rằng đường trơn, bùn lép nhép thỉnh thoảng lại trượt ngã. Ra đến bờ sông, hắn cứ dọc con đê bối mà cuốc bộ cho đến sáng tinh mơ. Tiếng gà xao xác gáy. Màn đêm loãng dần ra và trước mắt là một bãi tha ma rộng mênh mông. Tháng ba hoa sim chưa nở nhưng hoa mua đã thấp thoáng tím sẫm trên các lối mòn. Đàn ong đi kiếm ăn sớm lang thang giữa những cánh hoa mò đỏ chót. Thứ hoa này khi mãn khai, mật ứa ra chân đài, toả hương thơm đặc biệt hấp dẫn các loài côn trùng. Lũ bọ ngựa kềnh càng như đàn bà chửa sắp đến tháng đẻ nằm phục trên đám mẫu đơn dại rình chú nhện vàng đang mải miết chăng lưới. Trên cao, chim sẻ đá từ mạn Yên Thái kéo về. Bọn này gần như suốt ngày chập chờn giữa cánh bãi nổi trồng kê, mắt trước mắt sau không thấy người là kéo cả đàn xuống mổ những bông sắp chín.

Thêm nửa ngày nữa, tức là đến quá trưa hôm ấy, Khúc Luận đã rời kẻ Bòng một khoảng cách an toàn mà cánh chức dịch dù có muốn cũng không thể bắt được nữa. Hắn vừa thất thểu lê bước vừa nghĩ đến thân hình trắng trẻo, mập mạp đầy nhục cảm của cô Hót. Phải, giá mà lấy được cô ta thì hay biết mấy. Sau này hắn sẽ đưa cô ta về làng Cùa trình mẹ Cả cưới xin đàng hoàng. Càng nghĩ Khúc Luận càng căm thù anh em Lê Văn Khải. Tuy không nhìn thấy nhưng hắn dám chắc kẻ mách lẻo với bố con ông Thiện chỉ là chúng nó. Hắn thề, nếu sau này gặp lại sẽ làm cho hai thằng cháu phản phúc thân bại danh liệt. Hình như giữa nhà họ Khúc với nhà họ Lê có tiền oan túc trái chi đây. Bố hắn trước đã bị Lê Văn Vận giết chết giờ lại đến lượt hắn bị con trai ông ta chơi xỏ. Không được. Phải trở lại kẻ Bòng cho chúng mỗi thằng một nhát rồi muốn ra sao thì ra. Khúc Luận quay người , nhưng chỉ được một lúc lại giật mình. Cánh lý dịch giờ này chắc đang cho tuần đinh truy đuổi. Quay về tức là tự chui đầu vào thòng lọng. Anh hùng mười năm báo thù chưa muộn. Phải đi đã. Hắn thả lỏng cặp chân gần như sắp long ra khỏi đầu gối cho nó được tự do. Vậy là cặp chân rẽ trái bắt đầu chặng đường thiên lý. Khúc Luận là dân ngụ cư, chỉ thông thuộc vùng Ba Tổng. Từ khi sang kẻ Bòng hắn chưa bao giờ ra khỏi cồn Láng, nhưng kệ nó, đường ở mồm, khắc đi, khắc đến.

Ngoài bộ quần áo và ít tiền, trong bọc còn có mo cơm nắm muối vừng. Ngon quá. Bây giờ hắn mới thấy đói thật sự. Hắn ăn một nửa còn một nửa để giành rồi xuống góc ruộng cạnh đường vốc nước uống. Nước vừa ngọt vừa mát. Hắn thấy người khoẻ ra nhưng lại bắt đầu buồn ngủ. Đây là con đường về tổng Mai Sơn tức là lên rừng. Hắn xách khăn gói, tìm bụi cây kín đáo định bụng làm một giấc rồi sẽ tiếp tục cuộc hành trình. Chợp mắt không biết được bao lâu, Khúc Luận bị dựng dậy bằng một cú đá rất mạnh vào sườn. Hắn bật lên như chiếc lo xo bị nén căng. Trước mặt là mấy kẻ râu ria tua tủa dữ dằn chẳng khác gì tướng cướp. Hắn còn đang ngơ ngác chưa biết sự việc ra sao thì một gã tóc dài búi lại như củ hành, tay dứ dứ khẩu pạc hoọc hỏi:
- Việt Minh hả? Đi đâu?

Khúc Luận hoảng quá, giọng lập cập như người nói lắp:
- Tôi là . . . không phải . . . Việt Minh.
- Vậy mày vào rừng làm gì?
- Tôi . . . về nhà.
- Nhà mày ở đâu?
- ở làng Cùa.
- Nói láo! – Tên mặt dài , cằm nhọn như lưỡi cày quát – Làng Cùa mãi bên kia sông Lăng cách đây mấy ngày đường, mày tưởng chúng tao mù đấy à?

Tên búi tóc củ hành bảo:
- Cứ trói lại giải về trình bang trưởng để ông ấy khu xử.

Trên đường đi, Khúc Luận bị bịt mắt bằng một dải băng đen chẳng biết bọn người lạ kiếm ở đâu. Tên cằm nhọn gài súng vào bao gỗ, rút dao quắm vẫn giắt ngang lưng đi trước mở đường. Hai gã đi sau thỉnh thoảng lại lấy mũi súng thúc vào lưng Khúc Luận. Đường gập ghềnh khó đi có lúc phải lội qua suối ngập ngang bắp chân. Tầm nửa chiều cả bọn mới về đến nơi. Khúc Luận được tháo băng. Quang cảnh đầu tiên hắn nhìn thấy trước khi trời tối là một dãy nhà lợp tranh ẩn dưới tán rừng già. Trên đường đi, Khúc Luận phỏng đoán những kẻ bắt mình là thổ phỉ. Điều ấy càng được khẳng định bởi cách ăn mặc tạp nham và thái độ cục cằn, thô lỗ của chúng đối với những người bị bắt cóc.

Đây chính là sào huyệt của trùm phỉ Lý Quán. Lý Quán là con trai tướng phỉ người Hoa tên Lý Đại. Trước năm Quý Mùi, Lý Quán đã từng đánh nhau với Pháp cướp được nhiều vũ khí của bọn mắt xanh mũi lõ. Chỉ sau hai năm, hắn mở rộng địa bàn hoạt động làm dân chúng các tổng Mai Sơn, Nghĩa Lân và Cổ Đạo vô cùng khốn khổ. Đại bản doanh của Lý Quán trước đóng ở rừng Nghĩa Lân, bên ngoài có mấy trạm gác được bố phòng khá kiên cố. Cuối năm Thân, quân đội Nhật chiếm vùng Lạc Sơn, kỵ binh Phù Tang đánh cho toán phỉ Tàu này một trận tơi bời phải bỏ sào huyệt chạy về Mai Sơn. Sau năm Mậu Tý, một mặt Lý Quán bắt tay với Việt Minh, một mặt vẫn ngấm ngầm xây dựng căn cứ, bổ sung lực lượng, mua sắm thêm vũ khí chờ thời cơ chống lại chính quyền mới. Hắn thường cho quân đón lõng ở nơi hẻo lánh gần cửa rừng bắt đàn bà con gái mang về “sơn trại” rồi phao tin là Việt Minh bắt người tống tiền. Dân trong vùng sợ Lý Quán như cọp. Hắn tìm được một kho vũ khí của Nhật để lại trước khi về nước nên Việt Minh mấy lần bao vây, tập kích đều thất bại.

Khúc Luận bị trói hai tay quặt ra phía sau lưng đưa vào gặp trùm phỉ. Đó là một gã đàn ông trạc tứ tuần, người thấp đậm, da bánh mật, mặt quả dưa, mắt một mí sùm sụp mang nét đặc trưng của người Tàu vùng bắc Quảng Đông. Hắn nhìn lướt qua cậu bé rồi hỏi:
- Mày là người ở đâu?
- Tôi ở làng . . . Cùa bên Ba Tổng.
- Bố mẹ làm gì?
- Bố là chánh Tổng Kim Đôi đã chết, mẹ còn sống.
- Có ủng hộ chính quyền Việt Minh không?
- Tôi thù chúng. Cuối năm ất Dậu xuýt nữa tôi bắn chết lão chủ tịch huyện.

- Tốt lắm ! – Lý Quán cười khùng khục ngoác miệng đến tận mang tai, bảo bọn đàn em – Cho thằng bé này xuống phục vụ nhà bếp.

Khúc Luận theo tên tóc củ hành ra đến cửa Lý Quán bỗng gọi lại hỏi:
- Có biết chữ không?

Khúc Luận ngập ngừng:
- Thưa . . . chữ gì ạ?
- Chữ Quốc ngữ chứ còn gì nữa.
- Dạ có.
- Học đến lớp mấy rồi?
- Thưa . . . mới vào đệ lục ạ.

Lý Quán chợt đổi giọng, mắt long lên sòng sọc :
- Tao đổi ý rồi. Những thằng công tử được học hành như mày phải cho xuống toán lao dịch, đào hào chiến đấu mới xứng đáng, rõ chưa ?

Đội lao dịch chừng hơn chục người có cả phụ nữ và trẻ em dưới sự giám sát của một tên mặt rỗ. Trông thoáng qua cũng biết gã là một hung thần. Tay gã luôn thủ cây roi song bằng ngón tay, ngứa mắt là vụt liền chẳng cần biết phải trái. Công sự là những con hào cắt sườn núi sâu ngập đầu, rộng chừng ba thước ta, chạy thành mấy lớp vòng chung quanh “ đại bản doanh”. Sáng hôm sau, Khúc Luận vừa bị dẫn ra bìa rừng thì nhìn thấy một phụ nữ quần áo rách tả tơi đang khênh gỗ cùng với thằng bé hơn chục tuổi. Hắn sinh nghi. Chả lẽ đó lại là cô ta? Mãi gần trưa, thừa lúc tên mặt rỗ chạy về trại lấy rượu uống cậu cả làng Cùa mới có dịp đến gần người thiếu phụ khẽ gọi :
- Cô Nhân phải không?

Nhân nhận ra ông anh họ nhưng vẫn thản nhiên như chưa từng quen biết.
- Cô Nhân sao lại ở đây? – Khúc Luận hỏi lại.

Đến lúc ấy người phụ nữ mới thủng thẳng bảo:
- Nếu không muốn bị bắn chết thì hãy im lặng, coi như chúng ta không quen biết nhau.

Cậu chàng còn đang ngạc nhiên bởi sự lạ thì Lý Quán từ trên sườn dốc đi xuống đến sát bờ hào hỏi Nhân:
- Tôi đã nói rồi, em cứ ra đây với bọn lao dịch làm gì?

Nhân vẫn cắm cúi xúc đất. Trùm phỉ lại giục:
- Nào thôi về trại đi, tôi có việc cần hỏi.
- Ông hỏi gì thì hỏi đi. – Nhân nói vọng lên.
- Chuyện này quan trọng không thể tuỳ tiện được. – Lý Quán xuống giọng năn nỉ – Tôi đã cho mấy anh em đón ở ngã ba Môi thế nào cũng tìm được vợ chồng hắn.

Lý Quán nói rồi đứng chờ khá lâu, khoảng hút tàn điếu thuốc Nhân mới vứt xẻng trèo lên bờ hào, giọng nhấm nhẳng:
- Về thì về.
- Thế là thế nào? – Khúc Luận như kẻ chết đứng buột miệng hỏi – Chả lẽ cô ta đã thành vợ hắn?

Một ông già đen nhẻm, tóc muối tiêu nhìn anh chàng nhãi ranh bảo :
- Cậu mới đến không biết là phải. Cô ấy là bà Ba quan bang trưởng.
- Bà Ba? – Khúc Luận hỏi lại.
- Nhưng mà bà ấy vẫn chưa cho ông ta động phòng.
- Sao lại có chuyện lạ thế hả bác?
- Nghe đâu cuộc đời cô này cũng phiêu bạt giang hồ lắm. Một lần ông Lý Quán cứu cô ta thoát nạn nhưng vì vẫn chưa nạp đủ sính lễ nên chưa được thành thân.
- Lão ta cướp được bao nhiêu là tiền bạc chả lẽ…

Ông già cười nhạt:
- Không phải tiền bạc mà là cái đầu của vợ chồng tay chủ đò dọc nào đó.

2. Sau khi rời khỏi làng Cùa, cuộc đời Nhân lại sa vào một bi kịch. Hôm ấy, bụng mang dạ chửa, Nhân cắp gói quần áo đi dọc triền đê, mấy lần định nhảy xuống sông Lăng nhưng nghĩ đến đứa con trong bụng lại chần chừ không nỡ. Khoảng nửa chiều có con đò dọc đậu ở bến Tam Giang sắp xuôi Vạn Giã, cô đánh liều bước xuống xin đi nhờ về kẻ Lủ. Nhìn thấy cô gái xinh đẹp ăn mặc nền nã tay chủ đồng ý ngay. Hắn ta trạc ba tư ba nhăm, rậm râu, tóc húi móng lừa, bắp tay bắp chân cuồn cuộn, ngực nở mày rậm, đặc biệt cặp mắt hoang dại như mắt chó sói nhìn ai cũng muốn ăn tươi nuốt sống người ta. Nhưng bà chủ thuyền còn ghê gớm hơn nhiều. Mụ ta có khi phải hơn chồng năm bảy tuổi, nhác trông chẳng khác gì loại Tú Bà chuyên nghề buôn son bán phấn, đã hết thời xuân sắc phải xuống sông chạy đò dọc. Nhìn thấy Nhân, bà ta ghét lắm định tống cổ lên bờ. Ngữ này cho xuống thuyền chỉ hỏng đám chân sào. Chưa biết chừng gã chồng háo sắc nát rượu kia cũng thèm rỏ rãi cũng nên. Nghĩ vậy mụ ta gọi Nhân vào trong khoang hỏi:

- Cô tên là gì?
- Thưa bà, cháu tên là Nhân.
- Quê quán?
- Thưa . . .ở làng . . .Yên Ninh. - Nhân buột miệng nói dối.
- Cô có mang phải không?
- Cháu . . .chót dại.

Bà chủ thuyền gật đầu khẽ “hừ” một tiếng :
- Hiểu rồi. . . Bây giờ phải cho cái thai ra đã.
- ấy chết! thưa bà. . .
- Không muốn thì thôi nhưng ở đây là phải làm việc.
- Xin bà làm phúc cưu mang, việc gì cháu cũng làm.
- Vậy thì được.

Công việc trên đò dọc không thiếu. Ngay chiều hôm ấy Nhân đã phải khênh những sọt dưa hấu lên bờ cùng với một thằng bé da đen nhẻm chừng mười một mười hai tuổi. Chuyến cuối cùng, vừa bước lên ván cầu thì Nhân bị trượt chân rơi xuống bến. Sau khi được cánh chân sào đưa lên thuyền , mọi người mới biết cô bị trụy thai, đẻ non. Máu ra ướt đẫm chiếc váy sồi. Đứa bé chỉ ngọ ngoạy được một lúc rồi tắt thở. Nhìn thấy Nhân nằm thiêm thiếp dưới khoang mụ chủ cau có bảo:
- Để đàn bà đẻ trong thuyền là làm ăn xúi quẩy. Phải đưa cô ta lên bờ thôi.

Tay chồng lắc đầu:
- Đừng, phải tội chết.
- Tội lội xuống sông. – Bà vợ gườm gườm lườm ông chồng trẻ - Đúng là cái đồ háo sắc, nhìn thấy gái cứ quýnh lên, bây giờ lấy cả tiền vốn ra mà nuôi báo cô nó.

Gã chủ thuyền văng tục:
- Mẹ kiếp! Chỉ tại bà bắt người ta khênh nặng mới ra như thế. Những việc ấy là của đàn ông cơ mà, hay là bà muốn chơi xỏ tôi?
- Ông im đi! – Mụ chủ mà dân vạn đò vẫn gọi là Sáo Sậu, cầm tinh cọp, vênh mặt chì chiết - Đang yên đang lành thì rước cái của nợ ấy lên thuyền. Nếu phải lòng nó thì mang nhau đi nơi khác, để ở đây ăn bám là không yên với con này.

- Tưởng gì chuyện ấy thì dễ . . . – Hắn nói rồi chạy huỳnh huỵch vào khoang lôi ra chiếc bị cói nhét mấy bộ quần áo vào rồi gọi mấy gã chân sào - Phiền các anh đưa cô Nhân lên cái quán cạnh gốc bàng trên kia giúp tôi.

Sáo Sậu tưởng chồng dọa, ai ngờ hắn đi thật đâm hoảng :
- Mới nói thế đã tự ái. Thôi thì cứ để cô ta ở lại ít hôm, sau sẽ tính.

Phải nói vậy tức là Sáo Sậu đã chịu xuống thang, nhưng đấy chỉ là giải pháp tình thế nhằm giữ chân ông chồng chứ thực ra trong lòng mụ đang chết cay chết đắng. Con bé mỏng mày hay hạt, mắt sắc như dao cau, không chồng mà chửa hẳn là phường mèo mả gà đồng. Nó khác gì loài hồ ly tinh bất cứ lúc nào cũng có thể gieo tai hoạ cho người khác.

Quá nửa đêm vào lúc mụ chủ thuyền đang mơ mơ màng màng chợt nghe thấy phía mũi khoang có tiếng to nhỏ. Hay là một thằng chân sào nào mò vào. Không phải. Bọn chân sào sau một ngày kéo thuyền mệt nhọc đang ngáy như sấm trong khoang lái. Vậy là chỉ có hắn. Đồ khốn nạn. Con đàn bà vừa mới đẻ non, máu còn dầm dề thế mà đã ngứa ngáy. Mụ rón rén như mèo rình chuột dỏng tai áp sát vách thủng. Trong khoang chồng mụ đang dỗ dành cô gái:
- Chuyện đã lỡ như thế cô đừng trách bà ấy nữa. Ngày mai đi đến bến Lác tôi sẽ cắt thuốc ông lang Tiếm sắc cho mà uống, độ dăm hôm là khỏi.

Tiếng Nhân:
- Tôi cùng đường mới phải bước chân xuống nhờ đò dọc vậy mà bà ấy đối xử tàn tệ quá. Những người nhẫn tâm như vậy sau này tất bị quả báo.
- Thì ra con này ghê gớm thật. – Sáo Sậu nghiến răng ken két - Được rồi mày sẽ biết tay bà.

Sáng hôm sau, mụ chủ thuyền thản nhiên như đêm qua không có chuyện gì xẩy ra, đợi ông chồng lên bờ cắt thuốc, lân la đến chỗ Nhân nằm, giọng ngọt như mía lùi:
- Đàn bà nhiều lúc bực bõ gắt gỏng không đâu, em bỏ quá cho chị. Chốc nữa anh Sỹ về, chị sẽ sắc thuốc, em cố mà uống cho mau lại sức.

Nhân vẫn còn mệt, nghe giọng bà chủ quay quắt, bán tín bán nghi, nhưng đến trưa, khi mụ ta bưng bát thuốc còn nóng hổi đưa tận tay cho mình thì cô cảm động rơi nước mắt.

Một tuần sau, lúc ấy đã khuya, Nhân đang thiu thiu ngủ, chợt thấy tiếng động nhẹ phía sau khoang. Bụng thầm nghĩ, chắc lại là anh ta. Người cô run lên vì sợ. Sao cái số mình nó khổ thế. Bà ta mà phát hiện ra thì biết thanh minh thế nào đây. Đêm ấy trăng suông. Con thuyền chở dằm, xuôi gió, bánh lái kẽo kẹt mỗi khi lão Đô ngủ gật để thuyền chệch hướng. Lá buồm cánh dơi bay lật phật. Hơi sương thấm ướt cả lớp vải bố nhuộm nâu thỉnh thoảng nhăn nhúm vì luồng gió quẩn. Bóng đen lặng lẽ đến gần rồi bất ngờ ấn mạnh cuộn giẻ vào mồm Nhân. Hai cánh tay hộ pháp của người đàn ông ôm cứng lấy cô chui nhanh ra ngoài. Cô chỉ ú ớ được mấy tiếng thì đã bị quẳng xuống sông. Trong lúc giãy giụa, thật may, cuộn giẻ bật ra, Nhân chới với giữa dòng nước, cố sức bơi ngửa để giữa thăng bằng. Hồi còn ở làng Cùa, Nhân đã nhiều lần bơi ra soi cát giữa sông vớt củi, nhưng đấy là ban ngày, còn lúc ấy, giữa đêm hôm khuya khoắt, nhìn đâu cũng thấy mênh mông nước chẳng biết chỗ nào là bờ. Trăng hạ tuần đã lặn nhưng trời vẫn còn lưa thưa mấy đốm sao. Mặt sông loang loáng những con sóng nhún nhảy tạo thành tiếng lóc bóc lúc gần lúc xa giống hệt tiếng súng làm bằng tàu chuối hột của lũ trẻ con. Nước phù sa lạnh toát. Nhân nhắm mắt khua tay bơi trong tình thế tuyệt vọng. Người vừa bị mất máu lại dầm nước như thế này, chỉ cần một cơn chuột rút là cái chết cầm chắc trong tay. Nhưng rồi Nhân chạm phải một vật lừ lừ trôi ngay bên cạnh. Một cây chuối. Vậy là sống rồi. Nhân thầm reo lên. Cô bám chắc, xoay theo chiều cắt ngang dòng nước, hướng về phía bên trái.

Thời gian chậm chạp trôi đi. Nhân kiên trì nhích dần từng đoạn cố sức chống chọi với dòng chảy chẳng hiểu sao mỗi lúc một mạnh.

Sáng sớm, có hai gã đàn ông ăn mặc theo kiểu lái buôn đi trên con thuyền gỗ nhỏ nhìn thấy Nhân nằm gục giữa dải cát cách bờ một đoạn liền chống sào đưa cô lên khoang. Hai người này chính là tay chân của tướng phỉ Lý Quán. Chúng thường giả làm dân đò dọc thám thính các tổng vùng hạ nguồn sông Vệ rồi tổ chức cướp tiền vàng hoặc trưng thu lương thực của bọn nhà giàu cho sơn trại. Nhìn thấy Nhân, Lý Quán mê ngay. Ông ta có hai vợ nhưng đều đã chết. Vợ cả bị mất xác trong trận Nhật ném bom Đồng Quan. Vợ hai bị rắn khô mộc cắn ở rừng Mai Lĩnh, về đến trại thì đã quá chậm, không cứu được. Phận đàn bà, rơi vào hoàn cảnh ấy Nhân không còn cách lựa chọn nào khác, nhưng cô ta đưa ra một yêu cầu là bang trưởng phải bắt cho được mụ chủ thuyền độc ác trên sông Lăng mới chấp nhận gá nghĩa với ông ta. Quân thám thính của Lý Quán lang thang dọc các bến hơn hai tháng thì tìm ra tung tích con đò dọc. Lúc ấy có lẽ vì sợ lộ tung tích nên Sáo Sậu bắt chồng xuôi xuống ngã ba Môi, ngược lên sông Vệ làm ăn ở khu vực bến An Đồng. Hai tên phỉ giả làm lái buôn vải phải trả công vận chuyển khá cao , hứa sẽ thưởng thêm sau khi hoàn thành mới lừa được Sáo Sậu về bến Tam Giang. Chập tối ngày mười bốn, đang trên đường đi Cổ Trai, đến quãng vắng, hai tên phỉ rút súng uy hiếp tay chủ thuyền và cánh chân sào, trói gô lại nhét giẻ vào mồm rồi lôi Sáo Sậu xuống chiếc thuyền đánh cá đậu gần đấy. Mụ ta ngơ ngác không biết chuyện gì xẩy ra thì bị một trong hai “lái buôn” chặt cho một nhát vào gáy.

Nhìn thấy Nhân ở sơn trại, mặt mụ chủ thuyền tái nhợt, quỳ xuống vái lấy vái để xin tha mạng. Cô ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo Lý Quán :
- Hay là tha cho bà ta.

Ông trùm phỉ lắc đầu:
- Đối với loại nặc nô như thế này không thể không trị tội. Mình quên là mụ đã sai thằng chân sào ném xuống sông rồi sao? Phải xử bắn.

Nhân ngập ngừng:
- Làm thế liệu có nhẫn tâm quá không?

Lý Quán cười gằn:
- Không đâu. Tội ác của nó phải xử lăng trì mới đúng.

Nói rồi ông trùm phỉ vẫy tay về phía sau. Hai tên còn khá trẻ tóc tai bờm xờm như người rừng khoác súng xuất hiện lôi Sáo Sậu vào rừng. Chừng nửa khắc, có hai tiếng nổ rất gần làm Nhân giật thót người.

Lễ cưới được cử hành khá cầu kỳ theo nghi thức của người Tàu. Lý Quán trong bộ y phục võ quan Quốc dân đảng, ngực cài bông hoa lụa đỏ bằng cái đĩa sứ Giang Tây nâng chén tươi cười mời quan khách. “Quan khách” ở đây không phải ai khác mà chính là đám lâu la ăn mặc tạp nham, mặt mũi hốc hác, râu tóc lâu ngày không cạo chẳng khác gì đám ăn mày đói khát. Khúc Thị Nhân đầu trùm khăn đỏ, ngồi cạnh bang trưởng im lặng như một pho tượng. Khúc Luận cũng được lôi vào đội quân phục dịch, nghĩa là phụ giúp mấy gã nhà bếp những việc lặt vặt. Nhìn thái độ ngạo mạn của Lý Quán, cậu công tử làng Cùa tức đầy ruột, thầm nghĩ “giờ mà có khẩu súng ông sẽ cho mày một phát rồi muốn ra sao thì ra”. Trong giây lát hắn tưởng tượng ra cảnh tên phỉ bị bắn vỡ đầu, óc phọt ra hoà lẫn với máu thành một đám lầy nhầy vung vãi dưới đất. Hắn rê nòng khẩu tiểu liên Nhật vừa cướp được của tên mặt rỗ, hạ gục toán lâu la rồi kéo Nhân nhảy xuống đường hào. Đầu cô em họ vẫn còn trùm khăn đỏ. Hắn bực mình giật phắt, hoá ra tân nhân của Lý Quán là một con hồ ly trắng toát như tuyết. Hắn hoảng quá, người toát mồ hôi mắt trợn ngược như bị trúng gió. Một tên phỉ lấy cùi tay thúc vào mạng sườn hắn quát khẽ :
- Thằng này điên đấy à?

Bọn phỉ uống rượu theo đúng phong cách của các hảo hán Lương Sơn Bạc, tức là nốc ừng ực từng bát lớn, xong , khà một tiếng rồi mới nhón tay bốc thịt nhai nhồm nhoàm Ngày vui của chủ tướng, ngay cả bọn gác ở các trại ngoại vi cũng được thả lỏng. Chúng tha hồ chạm cốc say tuý luý thậm chí nôn oẹ bừa bãi cũng không bị phạt. Đêm xuống, Lý Quán sai thắp đuốc cắm la liệt khắp “sơn trại”. Những ngọn đuốc cháy rần rật toả ra toả ra thứ ánh sáng hung hung đỏ cùng với đám khói đùng đục cuộn lại bốc lên cao toả mùi khét lẹt cay xộc lên tận óc. Nốc rượu vào, bọn lục lâm phởn chí, vừa múa may quay cuồng vừa cất giọng lè nhè hát. Vào đúng lúc ấy có những bóng đen mặc áo trấn thủ từ dưới đường hào lần lượt chui lên. Họ nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí xung yếu rồi bất nhờ nổ súng vào đám cưới. Bọn thổ phỉ bị ma men lấy hết đảm khí, phần lớn không kịp trở tay, ngã hàng loạt như cây chuối bị phạt ngang. Phía cuối đường hào nhoáng lên một quầng lửa. Vừa ném xong quả lựu đạn Nhật, tên mặt rỗ lại xả một loạt đạn làm một Việt Minh đang chạy khựng lại. Anh ta ngoẹo đầu sang một bên vai trước khi ngã xuống. Khúc Luận định nhảy xuống đường hào, nhưng chợt nhìn thấy khẩu tiểu liên của thằng phỉ cằm lẹm vừa bị trúng đạn Việt Minh, bèn vồ lấy nhằm gã mặt rỗ kéo cò. Tên ác ôn nhảy cẫng lên như bị vấp, khẩu súng rớt khỏi tay. Thấy hắn đã chết, Khúc Luận xô đống cây cột đổ lổng chổng đuổi theo Lý Quán. Sau khi luồn qua một đoạn hào khá dài, hắn nhìn thấp thoáng chiếc ngù vai bằng kim tuyến dưới ánh lửa chập chờn của mấy ngọn đuốc sắp tàn, liền nâng súng kéo hết cả băng đạn rồi lẩn vào một công sự mới đào nông choèn. Bỗng có tiếng quát:
- Đứng im! Bỏ súng xuống!

Khúc Luận giật mình nghĩ là sắp chết đến nơi. Trước mặt hắn là một Việt Minh còn trẻ, đuôi mắt có vết sẹo bằng hạt ngô, tay cầm súng lục hất hàm hỏi:
- Mày vừa bắn ai?
- Bắn Lý Quán.- Khúc Luận lập cập nói – Tôi vừa nhìn thấy vợ chồng nó chạy theo đường hào kia lên rừng.
- Làm phỉ lâu chưa? – Người Việt Minh hỏi lại.
- Tôi bị chúng bắt ở rừng Cổ Bi từ giữa tháng chín.
- Được! – người chỉ huy Việt Minh gật đầu bảo – Cầm lấy khẩu súng kia rồi theo tôi.

Khúc Luận ngớ người ra chưa hiểu ý tay Việt Minh ra sao thì anh ta hỏi:
- Có muốn vào bộ đội không?

Cậu công tử làng Cùa không tin ở tai mình nữa. Hắn là đứa trẻ vị thành niên, vô gia cư lại đã từng gây án, lúc này được gia nhập Việt Minh thì còn gì bằng. Hắn sướng quá nhưng lại chợt nghĩ “ nhỡ anh ta đánh lừa đưa mình vào rừng cho viên đạn vào đầu thì toi đời. Bọn này liệu có thể tin được không?”. Có vẻ như đã nắm được tâm trạng gã thanh niên trông như gà tồ này, anh Việt Minh vỗ vai hắn bảo:
- Nếu không muốn theo kháng chiến thì về nhà với mẹ nhưng phải nộp lại khẩu súng.
- Dạ, thưa các anh, em muốn làm Việt Minh lắm.
- Tốt. – Người chỉ huy gật đầu – Bây giờ theo tôi vào sào huyệt Lý Quán.

Trận đánh chỉ diễn ra trong vòng mười lăm phút. Hai mươi mốt tên phỉ tử thương. Những gã còn lại sáng sớm hôm sau đều bị đưa vào rừng xử bắn. Vợ chồng Lý Quán biến mất, không biết họ trốn ở đâu.
(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-11-2015, 06:55 AM
Chương 10

1. Tháng Bảy năm Năm Tư, làng Cùa bắt đầu Cải cách ruộng đất. Ban chỉ đạo có ba thành viên do một người dong dỏng cao, tóc xoăn, khoảng hăm bảy hăm tám tên là Lạc làm đội trưởng. Đội Lạc xuất thân thành phần cố nông. Bố mẹ quanh năm làm mướn cho lý Đăng. Một năm nước lụt vỡ đê, mất mùa, bà mẹ ra sông Vệ mò tôm chết đuối mất xác. Tháng tư năm Dậu, sau trận đói khủng khiếp, đồng điền bỗng như có phép lạ, lúa tốt bời bời, khắp xóm dưới làng trên chỗ nào cũng thấy mùi no ấm. Dân kẻ La trông ngóng từng ngày, nóng lòng nóng ruột chờ lúa đỏ đuôi là gặt thử làm một bữa cơm mới cho bõ những ngày ăn củ chuối hoặc rễ rau rền lẫn với cháo cám. Lạc còn nhớ, nửa đêm hôm ấy ông Lục ra thửa ruộng lĩnh canh cắt trộm mấy chục lượm mang về nhà vò rồi cho vào cối giã. Thóc tươi, nhiều hạt còn xanh lè nhưng cuối cùng cũng được nấu thành cơm. Đó là nồi cơm trắng toả mùi thơm đặc biệt hấp dẫn làm cả hai bố con đều nuốt nước miếng ừng ực. Cơm vừa bắc ra bất ngờ Lạc bị một cơn đau bụng dữ dội. Người anh ta toát mồ hôi hột, hai thái dương nhức như bị thít bằng một thứ đai sắt cứ mỗi lúc lại xiết chặt thêm. Ông Lục phải giã ngải cứu vắt nước cho uống nửa giờ sau mới đỡ. Khi Lạc ngủ, ông bố đói quá mở vung nồi xúc cơm ăn trước. Thức ăn chỉ có nắm cua với mấy ngọn rau lang luộc nhưng vì đã bốn ngày chưa có gì vào bụng nên ông đánh liền một lúc sáu bảy bát. Ngon quá. Ông định làm thêm bát nữa cho đỡ thèm rồi đi nấu cháo cho Lạc, bỗng nhiên cảm thấy trong bụng như có cái gì vỡ ra kêu đến bục một tiếng. Ông rùng mình, toàn thân ớn lạnh rồi nằm vật xuống không biết gì nữa. Cơn đau làm Lạc kiệt sức, ngủ mê mệt gần tối mới tỉnh dậy thì thấy ông bố nằm co quắp dưới nền nhà, người đã lạnh cứng. Anh ta sợ quá chạy ra cổng hô hoán. Cụ khoá Lềnh ở kề hàng rào sang sớm nhất, nhìn thấy bộ dạng ông hàng xóm, chép miệng bảo:
- Rõ khổ! Bác ấy ăn cơm mới no quá bục dạ dày.

Lạc khóc rống lên. Anh ta thương bố quá. Ông Lục ăn ở hiền lành, lam lũ vất vả suốt một đời giờ chết tức tưởi thế này đây.

Năm Mậu Tý, Tây về đóng đồn núi Voi, ép các làng vùng Cao Tân vào tề. Ngày nào chúng cũng đi càn bắt đàn bà con gái mang về hãm hiếp. Một lần kiếm được quả tạc đạn mỏ vịt do bọn lính Ma rốc đánh rơi ở sườn đê, Lạc chờ đến đêm ném vào sân đồn làm chết ba tên da đen và một viên đội người Pháp bị thương rồi trốn sang Quất Lâm theo Việt Minh.

Được cử vào Đoàn Cải cách dịp này, Lạc vô cùng phấn khởi. Đây chính là cơ hội để trả thù bọn địa chủ cường hào với phương châm “đào tận gốc trốc tận rễ” để thực hiện chủ trương “người cày có ruộng”. Trong cuộc đấu tranh giai cấp này, cốt lõi của nó là phải triệt để chuyên chính vô sản, nghĩa là cần xử bắn mỗi làng ít nhất từ ba đến năm đối tượng, nhằm củng cố niềm tin cho tầng lớp bần cố nông, răn đe bọn địa chủ, cường hào làm giàu trên mồ hôi nước mắt và xương máu của người lao động. Qua mấy cuộc họp, Đội Cải cách đã thành lập tổ cốt cán gồm toàn anh chị em bần cố nông, rất hăng hái phát động phong trào ôn nghèo kể khổ, khơi gợi lòng căm thù của bà con nông dân từ ngàn đời nay vốn quen chịu áp bức bóc lột mà không dám đấu tranh. Một trong những thành phần ấy là Chĩnh Con và ứng Thị Sót, con dâu Chánh Tổng Lê Bang.

Những ngày này làng Cùa sôi động lạ thường. Khắp nơi từ tường đình, mái miếu, cổng làng, cứ chỗ nào hở ra lập tức được kẻ khẩu hiệu bằng nước vôi đặc với đủ kiểu chữ mà phần lớn là nguệch ngoạc và sai chính tả. Đại loại như: “Đả đảo bọn địa chủ cường hào bóc nột bần cố lông”, “tất cả ruộng đất về tay rân cày”, hoặc “Đảo đảo tên chánh tổng Lê Bang”. . . Các cuộc biểu tình diễn ra liên miên dưới sự chỉ huy của hai nữ cốt cán. Đoàn biểu tình lúc đầu chưa đầy ba chục người nhưng chỉ ít phút sau đã trở thành một đám quần chúng đông đảo nối nhau như rồng rắn diễu qua các ngõ ngách trong làng. Qua mỗi ngõ ngách, đoàn lại được bổ sung thêm những thành viên rất hăng hái trong việc hô khẩu hiệu lôi đích danh địa chủ, phú nông đã nằm trong tầm ngắm của Đội Cải cách ra chửi bới, xỉ vả. Bà cả Huê là một trong nhưng nạn nhân đầu tiên.

Ban ngày, những đối tượng này không dám ra khỏi nhà, vạn nhất, có việc cần, phải đợi đến đêm, lần mò đi như thằng ăn trộm, nếu chẳng may bị cánh du kích tuần tra tóm được thì xem như mạng sống chỉ còn tính từng ngày. Chánh Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền, bà cả Huê. . .như kiến trong chảo rang, thỉnh thoảng gặp nhau lại thì thầm to nhỏ chẳng khác gì trước năm Dậu Việt Minh lập hội kín.

Từ ngày Khúc Thị Huệ theo chồng về Pháp, Khúc Luận đi biệt tích, bà cả Huê gọi thằng Lẫm con ông Khúc Thuỵ là em họ Khúc Đàm bên Đậu Khê sang trông nom nhà cửa. Thằng này người gầy nhằng, tai như tai phật, răng đen xỉn vì lúc bé mắc chứng cam tẩu mã nhưng tính thật thà làm đâu ra đấy. Bà bác quý lắm định sau này cho ăn một phần thừa tự, ai ngờ thời thế phút chốc thay đổi

Đoàn biểu tình rẽ vào xóm đình. Trống cà rùng do hai gã con trai nhà Nhiêu Chóp khênh vừa đi vừa nhún nhảy như kép tuồng ra bộ. Thằng Quả chột mắt cầm chiếc dùi to tướng bằng gỗ nhãn được đẽo rất sơ sài, nện một nhịp dạo đầu. Tiếp đó là bảy trống con do tốp thiếu niên đội mũ ca lô xanh, áo trắng, quần short xanh, thắt khăn quàng đỏ, đồng loạt hoà tấu rất ròn rã. Chiếc lệnh to đùng lấy ở đám tế khí trong đình Cả do ông vệ Cốc và bà đồng Mạn nhũng nhẵng khênh, chốc chốc lại bị vụt một nhát cuống chổi. Thứ âm thanh choang choang rất chối tai ấy làm ngay cả lão vệ Cốc vừa đánh cũng phải giật mình. Mấy cô răng đen vốn là con cháu những hộ tá điền xóm Trại không hiểu kiếm được ở đâu bốn cái thanh la, thỉnh thoảng lại gõ vài tiếng leng keng nghe gần giống tiếng chuông của mấy ông đạp xích lô trên phố huyện. Hoà nhịp với bộ gõ kim khí ấy là một hồi kèn đám ma nghe rất lạc lõng nhưng lại vô cùng tỉ tê ai oán khiến cho những bà những cô đa cảm bắt đầu sụt sịt. Lê Thị Chĩnh, nữ cốt cán, người cầm đầu cuộc biểu tình lập tức lao từ trên xuống quát:
- Ai thổi kèn đám ma? Muốn chống lại công cuộc Cải cách ruộng đất hả?

Mọi người nháo nhác bổ đi tìm kẻ phản động. Cuối cùng mấy tay dân quân cũng tóm được thủ phạm. Thì ra hắn là Nguyễn Đình Phán, con trai ông cửu Mẫn chuyên nghề thầy cúng bắt ma, tróc quỷ khắp vùng Ba Tổng. Buổi sáng thấy đám đông diễu qua cổng, hắn sướng quá, xách ngay cây kèn hiếu của lão phó La chạy ra nhập hội rồi phồng má trợn mắt tấu điệuLâm khốc góp vui. Chiếc kèn bị tịch thu tức thì làm tang vật. Hai dân quân áp giải anh chàng phá đám về giam ở hậu cung đình Cả chờ Đội xét xử.

Đoàn người rầm rộ bước trong tiếng chiêng, trống, thanh la, não bạt rầm rĩ chốc chốc lại dừng chân. Người lĩnh xướng đưa chiếc lao sắt tây lên miệng xoay tứ phía dõng dạc hô:
- Đả đảo địa chủ cường hào bóc lột bà con bần cố!
- Đả đảo!
- Đả đảo bọn Việt gian phản động Quốc dân đảng!
- Đả đảo!

Hàng trăm, hàng nghìn cái miệng đồng loạt cất lên, âm lượng mỗi lúc một tăng, cuối cùng trở thành một cuộc thi gào thét làm đám nhà giầu đang tạm thời ẩn náu trong những ngôi nhà ngói khang trang có sân gạch, tường hoa, cây cảnh vô cùng khiếp đảm. Vì đường hẹp nên đoàn biểu tình phải kéo dài ra, đứng trên cao trông ngoằn ngoèo chẳng khác gì con trăn màu nâu đất đang rùng rùng trườn đi trong tư thế hối hả vồ mồi. Sắp đến nhà chánh Đàm, khẩu hiệu lúc này không còn chung chung nữa mà rất cụ thể theo kịch bản của đội Lạc đã được dàn dựng từ trước. Người xướng loa hướng vào ngôi nhà gác hai tầng gân cổ hét lên:
- Đả đảo địa chủ Đặng Thị Huê!
- Đả đảo! Đả đảo!
- Đả đảo vợ cả Việt gian Khúc Đàm!
- Đả đảo!
- Lôi địa chủ Đặng Thị Huê ra cho bần cố nông hỏi tội!
- Lôi ra! Lôi ra!

Trong nhà, bà Cả biết thế nguy, sai anh con nuôi lấy thêm đoạn tre chặn cổng. Nhưng cổng nào chống được sức mạnh tổng hợp của bần cố nông bấy lâu nay bị áp bức bóc lột. Họ xúm nhau, ghé vai đẩy vài lần thì hai cánh cổng lim bật ra. Lập tức, mấy dân quân vốn là tá điền rất thông thạo mọi ngõ ngách trong ngôi nhà này chạy thẳng lên gác trói hai tay bà chủ lôi xuống sân. Chĩnh Con gườm gườm nhìn mụ địa chủ, thấy mặt bà ta lầm lầm thoáng vẻ khinh bỉ liền tát cho một cái cảnh cáo. Cấn Viết Tham, một cố nông chuyên đóng khố đánh giậm ở ngòi Mác tuổi trạc ba tư ba nhăm dúi đầu bà Chánh xuống quát:
- Đi!

Bà cả Huê bị hai dân quân kèm lầm lũi bước theo đoàn biểu tình. Lúc này người từ hai bên đường đổ ra rất đông. Họ chen lấn nhau, ai cũng muốn nhìn tận mặt vợ chánh Đàm bằng cặp mắt hiếu kỳ. Bà Huê mái tóc chớm bạc xổ tung rủ lòng thòng trước ngực, cổ quàng tấm biển gỗ viết mấy chữ bằng sơn đen “Địa chủ ác bá” bị đẩy đi theo nhịp trống chiêng chẳng khác gì một đám rước thần chỉ thiếu cỗ kiệu bát cống và mấy ông bồi tế đội mũ bình thiên mặc áo thụng lam mà thôi. Đám trẻ có lẽ phấn khởi hơn cả. Chúng còn quá bé chưa hiểu sự đời. Có đứa cởi truồng nồng nỗng, mũi thò lò xanh, tay chỉ chỏ còn miệng thì hét tướng lên mỗi khi đám đông diễu qua cổng.

Đến xế trưa khi mọi người bắt đầu đói bụng, không khí đấu tranh đã tạm lắng xuống thì đoàn biểu tình vòng về đến sân đình. Mấy bà già bị phong thấp tê chân ngồi phệt xuống đường xoa bóp chỗ đau. Cánh dân quân giong bà Cả Huê vào ở dãy nhà phụ. Bà con giải tán về ăn cơm, chiều lại tiếp tục diễu hành xuống xóm Bờ Sông.

Đình Cả trở thành đại bản doanh của đội Cải cách. Đội Lạc ăn ở ngay tại đây còn đội Yên, đội Khắc nghỉ trong các gia đình cốt cán. Họ đều là thành phần cố nông có lý lịch trong sạch, tinh thần cảnh giác cao. Dãy nhà phụ vừa hẹp vừa thấp gồm bảy gian bị đổ nát sau trận lũ năm Mùi mới được sửa chữa lại và lắp khoá từ khi làng Cùa phát động Cải cách ruộng đất. Gian ngoài cùng để đòn khênh đám ma, trước vẫn cho lão Mộc điếc ở nhờ, gần đây lão bị tống ra miếu Si, đòn khênh cũng quẳng ra sau đình lấy chỗ giam địa chủ. Gian nhà ẩm ướt mới thoáng ngửi đã nổi da gà. Một tấm phản cong vênh vứt chỏng chơ trên nền đất lổn nhổn mùn giun lẫn với phân dơi. Bị giong làng suốt buổi sáng, chân bà Chánh xuống máu sưng đẫy lên, lại mót tiểu tiện mà cửa thì đã khoá. Chẳng thể chịu được nữa, bà ta đánh liều kéo váy tè ngay ở góc nhà. Mùi nước giải hăng nồng, mấy tiếng đồng hồ mới có dịp xả ra, chạy như tháo cống, xộc lên mũi làm chính chủ nhân của nó cũng phải hắt xì hơi liền mấy cái. Nhưng rồi chỉ một thoáng, cái thứ nước thải rất khó ngửi ấy cũng ngấm dần xuống đất, bà Cả Huê nhẹ cả người, ngả mình xuống tấm phản. Hãy chợp mắt một lúc đã. Mặc kệ sự đời.

Lúc thức dậy bà ta thấy thằng Lẫm thập thò ngoài cổng đình. Nó phải nằn nì hai ông dân quân gần một giờ mới được đưa cơm vào. Người ta chỉ cho phép chuyển liễn cơm còn món cá kho với rau cải xào bị tịch thu. Tay Mực khịt mũi nhón một miếng cá bống om tương đưa lên mồm nếm thử rồi bảo :
- Thay mặt bà con bần cố nông ta tuyên bố “tịch thu” những thứ này của địa chủ Đặng Thị Huê sung vào công quỹ.

Trong nhà giam bà Chánh dùng tay bốc cơm ăn, mắt gườm gườm nhìn hai ông cố nông đang thực hiện đấu tranh giai cấp bằng cách thanh toán rất nhanh mấy đĩa thức ăn. Đêm xuống. Đèn măng xông thắp sáng choang. Hôm ấy có một cuộc họp cốt cán phát động dân nghèo đấu tranh vạch mặt địa chủ phú nông, quy kết thành phần và chuẩn bị chia ruộng đất. Các cố nông nòng cốt của phong trào như Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh Con, ứng Thị Sót, Lương Văn Mực đều đến sớm chứng tỏ tinh thần rất hăng hái. Đội Lạc ngồi chủ toạ. Đội Yên làm thư ký. Vì tất cả các cốt cán đều không biết đọc biết viết nên Đoàn Cải cách của huyện chỉ thị chung là họ phải chú ý nghe, nhập tâm sau đó cứ theo tinh thần ấy mà làm . Đội trưởng có giọng nói khá truyền cảm, mỗi khi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Cải cách ruộng đất anh ta đều dùng cụm từ “Hãy nhớ rằng đây là cuộc đấu tranh giai cấp một mất một còn”.

- Theo chỉ thị của cấp trên, làng Cùa phải quy cho được ít nhất năm địa chủ, bảy cường hào và mười hai phản động. Xin các đồng chí cốt cán lưu ý, đây là chỉ tiêu mà ta không có quyền bàn cãi. Bằng mọi cách phải vận động bà con vạch mặt được tội chúng.

Lại Quang Nghinh, đảng viên, bần nông mới được chỉ định làm chủ tịch xã Đoàn Kết đứng dậy báo cáo tình hình địa phương:
- Nếu tính theo số ruộng đất cho phát canh thu tô hoặc mướn người cày cấy thì làng Cùa chỉ tìm được ba địa chủ còn phần lớn đều thuộc loại trung nông.

Đội Lạc hắng giọng cắt ngang:
- Lập trường của đồng chí còn lơ mơ lắm. Muốn quy kết thiếu gì cách. Với bọn phú nông hoặc trung nông lớp trên cứ động viên bà con tố diện tích lên gấp đôi, gấp ba là thành địa chủ ngay.

Lại Quang Nghinh ngớ ra một lúc rồi mới tiếp tục trình bầy:
- Về bọn phản động thì mọi người đã rõ. Đó là Lê Bang, Ngô Quỳnh, phó lý Kiền. Bọn này từ lâu đã làm tay sai cho Tây chống lại chính quyền nhân dân.

Đội Yên lắc đầu:
- ít quá. Đề nghị các đồng chí phải phát hiện thêm, nếu tìm không ra đối tượng theo Tây thì khoác cho tội theo Quốc dân đảng. Làm thế nào thì làm nhưng trên chỉ đạo, hết đợt một, Toà án đặc biệt phải tuyên được của làng Cùa bốn án tử hình, năm chung thân còn lại là mức hai mươi năm.

Chủ tịch xã tái mặt nhìn đội Lạc:
- Báo cáo các anh, thế thì nhiều quá, tôi e là tìm không ra. . .

Đội Lạc đưa mắt nhìn đội Yên:
- ý đồng chí Yên cũng là quan điểm chỉ đạo của Đoàn Cải cách, đề nghị anh chị em cốt cán bàn kỹ việc này.
Cấn Viết Tham rụt rè nói:
- Nếu cấp trên đã chỉ đạo như thế thì tôi nghĩ bọn Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, đồ Sách và cả thằng Khúc Luận con lão chánh Đàm cũng là phản động.

Đội Lạc tươi cười chạy xuống tận nơi bắt tay Cấn Viết Tham.
- Thế mới là lập trường giai cấp chứ. Đồng chí chủ tịch xã thấy chưa? Từ nay trở đi phải triệt để tôn trọng ý kiến bần cố nông. Bây giờ chúng ta cần thống nhất kế hoạch hành động. Trước mắt phải bắt ngay chánh Bang, Khúc Kiệt và lý Quỳnh giam lại, sau đó cử dân quân lên huyện điệu Lê Văn Vận về cho bà con đấu tranh. Cuối cùng phải để mắt đến bọn hương dũng và lính Bảo an. Đã làm là phải làm triệt để.
Đội Lạc chủ trì cuộc họp khá bài bản, cốt cán Lê Thị Chĩnh phục lắm, nhìn anh ta, mắt lúng liếng:
- Chúng tôi xin chấp hành mọi sự chỉ đạo của đội Cải cách.

Gà gáy lần thứ nhất, một vài người đã bắt đầu ngáp, đội Lạc, đứng dậy tuyên bố:
- Nếu không còn ai ý kiến nữa thì cuộc họp đến đây kết thúc, các đồng chí về nghỉ, riêng đồng chí Chĩnh, đồng chí Sót và đồng chí Tham ở lại hội ý công việc ngày mai.

Lê Thị Chĩnh là con ông mõ Vò ngụ cư làng Cùa từ năm Giáp Tuất. Ông bà Vò mấy đời làm nghề thợ đấu quanh năm trôi nổi ở vùng đồng chiêm trũng khắp các tổng La Thượng, La Hạ, Quán Đồng. Năm nhâm ngọ bà Vò bị sét đánh chết ở đống Lạp để lại hai chị em Chĩnh. Thương cảnh gà trống nuôi con lại vừa gặp lúc lão mõ Tụ quy tiên, làng cho ông Vò thế chân. Làm nghề này cũng kiếm được miếng ăn nhưng bị thiên hạ khinh coi như dân hạng ba, còn thấp kém hơn cả những hộ ngụ cư. Hai chị em Chĩnh lớn lên cũng có chút nhan sắc nhưng trai đinh làng chẳng anh nào để ý đến. Năm Chĩnh Lớn mười chín, nhân một chuyến đi chợ Cháy có gặp một anh chàng người tổng Chi Điền. Đó là một tay chuyên nghề bẫy cò tên là Triền ở làng Phú Đa, hơi méo mồm, phiên chợ nào cũng mang cò bán. Gặp Chĩnh, Triền phải lòng ngay, hai người mày đầu cuối mắt, mới có hai phiên đã chỉ non thề biển nguyện sẽ sống đến lúc đầu bạc răng long. Nửa tháng sau, nhà trai mang trầu sang làng Cùa chạm ngõ mới biết cô dâu tương lai là con ông mõ Vò. Tất nhiên là quan hệ của đôi trai gái chấm dứt, chàng bẫy cò bị ông trưởng họ mắng cho một trận nên thân về thói mê gái xuýt nữa làm bại hoại gia phong. Chĩnh Lớn hận tình quá nửa đêm chạy ra sông Lăng tự tử. Chĩnh Con tức tưởi khóc chị và khóc luôn cho số kiếp hẩm hiu của mình. Cô hận thói đời đen bạc bởi những luật lệ khắt khe của cánh chức dịch Ba Tổng. Cô thương mẹ thương cha và căm thù dân Kim Đôi, chỉ mong một ngày kia có sự đổi đời, sẽ đập váy máu vào mặt những kẻ sinh ra thứ hương ước quái gở, phân chia đẳng cấp tàn nhẫn, chà đạp lên hạnh phúc của mình. Thời cơ đã đến. Đây là dịp may hiếm có, phải triệt để lợi dụng những kẻ như đội Lạc, đội Yên và cả chủ tịch Lại Quang Nghinh nữa để rửa mối hận truyền kiếp của gia đình. Phải thẳng tay trị cho con mụ cả Huê lúc nào cũng vênh váo trưởng giả một bài học đích đáng. Phải kích động bần cố nông phát tán gia tài nhà họ Khúc, cuối cùng đưa mụ ra trường bắn lĩnh vài viên đạn hoặc ít nhất cũng tống đi Lào Cai, Sơn La để mụ ngồi đếm dần những tháng ngày còn lại trong xà lim biệt giam. Khúc Kiệt cũng không thể tha. Lão thầy đồ nửa mùa này hơn chục năm qua chỉ thích đánh nhau. Một tay lão đã gây ra cái chết của không biết bao nhiêu người trong huyện Nam Thành. Hồi trước, mỗi lần ra đình, Khoá Kiệt cậy có chữ, khinh rẻ đám bạch đinh. Đã có lần lão lấy roi mây quất ông Vò chỉ vì mấy miếng đầu gà chẻ không đều làm phần của lão lép hơn so với chánh hội Bường.


2. Toán dân quân hơn chục người dưới sự chỉ huy của xã đội trưởng Bùi Quốc Tầm mang theo bảy khẩu súng trường, năm quả lựu đạn mỏ vịt và một cuộn thừng trâu rời làng Cùa lúc năm giờ chiều. Bọn này phần lớn là dân lực điền, chân bàn cuốc, gai đâm không thủng, chạy bộ chục cây số chẳng bõ bèn gì. Bùi Quốc Tầm con ông Bùi Khắc Nhũ, tiên chỉ làng Đậu Khê. Ông Nhũ làm nghề thiến lợn, quanh năm xách thòng lọng khắp mấy tổng Kim Đôi, Ngân Đôi, Cao Xá, đến ngõ nào cũng cất giọng lanh lảnh bằng một ngữ điệu rất truyền cảm: “Thiến lợn ơ!” Tài thiến lợn của Bùi Khắc Nhũ vùng Ba Tổng không ai bì kịp .Vừa vào đến cửa chuồng, con lợn chưa kịp nhận ra người lạ thì một cẳng đã bị thít thòng lọng lôi ra. Ông thợ chụm ngón tay xoa nhẹ dưới háng, gãi gãi mấy cái như một trò đùa rồi bất ngờ đưa xoẹt một đường dao làm chú ta giãy nảy lên. Chỉ một loáng, hai hạt cà đã được móc ra nằm gọn trong chiếc bát da lươn . Lấy vợ từ lúc mười sáu tuổi, đến năm ba mươi sáu vợ Bùi Khắc Nhũ đẻ liền bảy cô con gái. Trong nhà toàn vịt giời, lúc nào cũng cãi nhau chí choé, mất thớ với cánh đàn ông trong giáp, họ Bùi liền nghĩ đến chuyện đi gửi thiên hạ. Vốn sẵn máu phong tình, bác thiến lợn không khó khăn lắm trong việc thả lời ong bướm tán tỉnh các cô quá lứa nhỡ thì hoặc đàn bà goá nạ dòng. Một trong nhưng đối tượng say Bùi Khắc Nhũ như điếu đổ là bà phó Nhu chồng chết từ ba năm trước có cô con gái câm, đã mười tám trăng tròn mà không có anh trai làng nào đánh tiếng. Ông Nhũ qua lại làng Báng chừng già nửa năm thì bà phó Nhu có mang, ít lâu sau sinh được thằng con trai mặt giống bố như tạc nhưng cặp chân lại vòng kiềng. Bà Nhũ mừng lắm dắt bảy cô con gái mang một làn trứng và cặp gà mái ghẹ sang thăm cậu quý tử và nhận bà Nhu làm chị em. Thằng cu Tầm được hơn hai tuổi thì cô Câm lại có mang. Dân làng Báng tức lắm, họ cử đám tuần đinh rình ở đống Chùa lừa bắt Bùi Khắc Nhũ tống vào bao tải quẳng xuống ngòi . Số bác thiến lợn còn may, bao không buộc túm đầu, ông ta giãy giụa một lúc, uống vài ngụm nước thì tuồn được ra. Sau này Bùi Quốc Tầm lớn lên hay về Bối Khê thăm bố, còn ông Nhũ, cho đến cuối đời tuyệt nhiên không dám trở lại kẻ Báng.

Chuyện đáng nhớ thứ hai của ông ta là là lần thiến lợn cho bà trương Xá ở Mạc Điền. Bà Trương goá chồng từ năm ba mươi hai tuổi, tính đồng bóng, thỉnh thoảng lại đi theo đám cung văn vài ngày, giao nhà cửa cho cô em họ trông hộ. Cô này vốn lẳng lơ, nhìn thấy trai là liếc mắt đưa tình, bác hoạn lợn liếm mép thoáng nghĩ “Mẹ khỉ! Đã thế thì ông cho mày chết”.

Con lợn lang đen khá to, mõm dài, lông cứng như lông nhím này bà Trương mới gây được hơn một năm, định để làm lợn cà nhưng không hiểu sao lại gọi thợ đến thiến. Chính nó, hồi tháng ba đã đớp phó Hạnh một miếng vào mông làm anh ta phải quẳng cả đồ nghề chạy bán sống bán chết. Lần này, nhìn thấy chiếc thòng lọng trong tay Bùi Khắc Nhũ, mắt con vật long sòng sọc ngoác cái mõm lởm chởm những răng là răng hộc lên một tiếng. Chuyện vặt. Ông ta có thừa kinh nghiệm xử lý những chú Trư Bát Giới cứng cổ hơn thế. Để giữ độ an toàn, Bùi Khắc Nhũ đã lừa quấn được dây thừng vào chân sau con lợn, một tay xoa nhẹ vào mông, một tay cầm dao chuẩn bị hạ thủ. Cô em họ bà Trương cúi người giữ hai chân trước, cạp váy trễ xuống để hở một khoảng trắng ngang thắt lưng rất là khêu gợi. Lưỡi dao vừa rạch một đường vào lớp da chừng hai phân thì con lợn bất chợt oằn người hất một cú trời giáng làm cô em ngã bổ chửng. Bùi Khắc Nhũ mất đà, xoay chân định nhảy qua cửa chuồng chẳng dè bị nó đớp trúng đũng quần. Ông ta kêu thét lên như bị chọc tiết. Con lợn được tự do nhảy phốc khỏi chuồng, phóng ra cổng, chạy dọc đường làng kêu hồng hộc.

Chuyến ấy, Bùi Khắc nhũ bị mất một hạt cà phải nhờ ông lang Kỷ chữa gần hai tháng mới lành. Khỏi bệnh ông ta quẳng con dao và thòng lọng xuống sông Lăng, bỏ nghề thiến lợn chuyển sang cúp tóc. Họ Bùi có thói quen khác người, mỗi khi mua được con cá hay xâu thịt, trên đường về nhà, thỉnh thoảng lại đưa lên mũi ngửi. Người hàng xứ thấy hành vi kỳ quặc của ông ta cho là dở hơi, đứng lại nhìn liền bị chửi:
- Tiền của ông ông mua nhìn cái đếch gì mà nhìn.

Đến nhà, việc đầu tiên là ông bắt bà vợ già hoặc cô con gái thứ ba đem xào nấu ngay, cấm được nếm, nếm thử thế nào cũng bị ăn roi. Mâm bát sắp ra, đĩa thức ăn bao giờ cũng để ngay cạnh chai rượu. Bùi Khắc Nhũ nửa nằm nửa ngồi, khuỷu tay trái chống xuống chiếu, tay phải nâng chén rượu nhấp một ngụm, sau đó cầm đũa liên tục gắp thức nhắm bỏ vào miệng. Ông hoạn lợn cứ uống, cứ nhắm cho đến khi nào thích khẩu bà vợ với mấy cô con gái mới được hưởng phần còn lại.

Năm Quý Dậu, Bùi Khắc Nhũ sáu mươi hai, bỏ tiền ra mua chân tiên chỉ. Cánh chức sắc trong Hội đồng kỳ hào ghét ông ta là phường tham ăn lại chơi trèo liền bàn nhau cho gã thiến lợn một vố. ấy là vào dịp ông phó hội Lĩnh làm khao. Cỗ bàn đã xong, cứ năm người một mâm mà đóng, riêng Tiên Nhũ ai cũng có ý tránh, vì vậy lão tuy là chức sắc mà phải bấm bụng ngồi với đám bạch đinh ở mâm dưới. Vừa nâng chén, theo thói quen, Tiên Nhũ đã chống khuỷu tay, ngả người về phía trái, bắt đầu vung đũa "vào trận". Tất nhiên là cánh đàn em nhường ông ta miếng to nhất trong đĩa giả cầy. Món này là sở trường của lão mõ Lạp được nấu rất khéo, ai ăn cũng nghĩ là thịt chó. Miếng thịt vừa to vừa dai nhằng nhằng làm ông tiên chỉ quai mồm ra nhai mãi vẫn không nát, mà nuốt ngay cũng không được, vì như thế sẽ bị nghẹn, mà nghẹn khoản giả cầy giữa đình làng nơi đủ mặt quan viên thì còn ra thể thống gì. Thôi, đã trót thì phải trét vậy. Các món ăn cứ vơi dần trong khi Bùi Khắc Nhũ vẫn phải đánh vật với miếng thịt quỷ quái. Đã thế hình như bên trong còn có dây nhợ lằng nhằng mắc cả vào kẽ răng làm ông ta phải cho ngón tay vào mồm ngoáy đi ngoáy lại mới gỡ được. Đến lúc ấy vị tiên chỉ làng chẳng còn giữ thể diện nữa, nhè ra tay, đưa lên nhìn thì ôi thôi, đó không phải là thịt lợn thông thường mà đích thị là miếng l. . . lợn sề được khâu không biết bao nhiêu là chỉ đen thành một khối lằng nhằng rồi cho lẫn vào nồi giả cầy. Khốn nạn, không biết thằng đểu nào chơi xỏ mình đây. Mấy ông chức việc ngồi mâm trên kín đáo đưa mắt cho nhau, tủm tỉm cười. Sau vố ấy, tiên Nhũ tức mình tuyên bố từ nay không thèm ra đình làng. Lão dựng một căn lều cạnh cổng chùa Vĩnh Khang mở hiệu cắt tóc. Tay lão chỉ quen thiến dái lợn, còn tóc xén nham nhở, hầm hố như thằng đi tù về. Những lúc vắng khách, lão ngồi ngả đầu vào vai ghế, mắt lim dim, miệng ư ử ngâm Kiều:

Lầu xanh quen lối xưa nay
Nghề này thì lấy ông này tiên sư.

Năm Bùi Quốc Tầm mười bốn, mẹ chết, chuyển về làng Đậu ở với bố. Tầm càng lớn chân càng vòng kiềng, đi đứng cứ quềnh quàng như con dế trũi bị vặt hai cẳng sau. Hắn học dốt bị thầy lấy thước lim dần vào mu bàn tay, đau quá bĩnh ra quần thối khẳn ba gian nhà, mấy hôm sau thì bỏ học theo cánh lực điền vào phường gặt thuê. Năm Canh Dần, Tầm đi lính Bảo an , sau được Việt Minh tuyên truyền, liền bỏ hàng ngũ địch về nhập đội du kích làng Đậu. Người tuy lùn nhưng Tầm có tài đánh độn thổ làm bọn Âu Phi và lính dõng đồn Tuần nhiều phen khiếp vía. Có lần, một mình anh ta dám đột nhập vào nhà bang Tuân, đâm chết hắn, đặt bản án tử hình về tội phản dân hại nước lên sập gụ. Lúc thoát ra, chẳng may chân vấp phải sợi dây thép căng ngang hàng rào làm cho con chó lài giật mình sủa dữ dội. Bọn hương dõng xách tay thước cùng giáo mác bủa vây khắp các ngõ ngách. Tầm ngó trước ngó sau, thấy không còn cách nào khác, liền nhảy bừa xuống ao nhà cửu Bình, lặn một hơi, một lúc sau thì chạm bờ, leo lên lẻn vào dãy nhà ngang. Cũng vào lúc ấy, cô Cam, con dâu ông Cửu đang xay lúa, thấy một người ướt từ đầu đến chân bất chợt hiện ra, sợ quá, xuýt nữa thì kêu thét lên. Tầm vội giơ tay ra hiệu rồi nói nhỏ:
- Tôi là du kích vừa mới giết thằng bang Tuân, bị bọn Hương dũng đuổi gấp lắm, chị cho ẩn tạm,sau này Việt Minh không quên ơn.

Cô ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi bảo Tầm chui vào bồ thóc sau đó lấy tấm chiếu rách chùm lên. Ngoài cổng có tiếng hô hoán. Tuần đinh chạy huỳnh huỵch. Bọn Hương dũng khua khoắng một lúc dưới ao bèo không thấy gì liền kéo nhau vào nhà ông Cửu. Chủ nhà cười nhạt bảo:
- Các anh có súng trong tay mà chịu một thằng Việt Minh à?
- Bẩm cụ, chúng con đã lục soát hết lượt, chỉ còn nhà . . .
- Anh muốn nói là nhà ta chứ gì? - Ông Cửu hắng giọng - Thế thì hãy vào tìm cho kỹ đi.
- Bẩm cụ, chúng con không dám.

Sau khi cánh Hương dũng rút ra đầu làng, cửu Bình thong thả xuống nhà ngang làm cô con dâu lúc này đang sàng gạo run bắn. Ông thản nhiên như không, bước đến bồ thóc vỗ vào chiếc chiếu bảo:
- Mời anh ra!
Tầm hết hồn, lúng túng mãi mới trèo xuống được vì đôi chân ngắn. Nhìn thái độ ông chủ nhà, biết là mọi sự đã bình yên, anh ta khoá chốt an toàn khẩu súng ngắn rồi ngập ngừng nói:
- Cảm ơn cụ cứu mạng.
Cô con dâu lúc ấy mới dám hỏi :
- Thầy . . . thầy đã biết?
Ông Cửu chép miệng:
- Biết từ lúc anh ta từ cầu ao chạy vào. . .
- Thưa cụ, giờ tôi xin phép.
Ông Cửu lắc đầu:
- Anh phải ở đây đến tối mới đi được, bây giờ bọn tuần đinh đón lõng khắp nơi, ra khỏi nhà ta là bị bắt ngay.

Hôm sau đồn Cáo cho lính về càn Cao Điền. Chúng thay nhau đóng ở đấy ba ngày, Tầm không cách nào thoát ra được. Ban ngày anh ta xuống tăng sê ngồi, chập tối mới dám lên. Cô con dâu ông Cửu có chồng đi lính Bảo an, đóng mãi Đông Thị, hàng năm không về, ở nhà một mình, vắng đàn ông ngứa ngáy không chịu được, thế là hai người túng tấng với nhau. Từ đấy, thỉnh thoảng anh ta lại về làng Cao, ban đêm lẻn xuống nhà ngang ngủ với cô Cam. Thấy con trai vắng nhà mà con dâu có chửa, ông cửu Bình uất lắm nhờ người cháu họ là du kích dẫn đến gặp Lê Văn Vận. Vận bấy giờ là chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến trực tiếp phụ trách mấy xã phía nam huyện, tuyên bố Bùi Quốc Tầm phạm tội hủ hoá làm mất thanh danh đoàn thể Việt Minh, ra lệnh trói lại, giam vào nhà lao để toà án Cách mạng xét xử. Đêm ấy thừa lúc người lính gác bỏ ra ngoài, anh ta trèo tường trốn được chạy về rừng Hóp xin đầu quân cho Khúc Kiệt. Từ bấy đến nay, Bùi Quốc Tầm vẫn thù Lê Văn Vận, thiếu chút nữa thì anh ta bị xử bắn chỉ vì có quan hệ luyến ái với một cô vợ lính.

Chủ tịch Lê Văn Vận ở trong gian nhà của Uỷ ban hành chính huyện. Anh ta vừa chủ trì cuộc họp liên tịch giữa Mặt trận Liên Việt với Nông hội và Ban Thuế nông nghiệp về đến nơi thì bị toán dân quân ập vào trói nghiến lại. Lúc ấy khoảng mười giờ đêm. Khuôn viên cơ quan vắng tanh không thắp đèn đóm gì, một số người đã buông màn đi ngủ, chẳng một ai biết ông chủ tịch bị xích tay giải đi trên đường 22. Đêm tháng một, gió bắc thổi ràn rạt. Nhưng tàu chuối tây trên bờ ngòi Thía bị tước ra bay lật phật. Một cây đề lẻ loi bên ngôi quán xiêu vẹo, dưới quầng sáng lờ mờ của vài ngôi sao đêm , hiện ra trơ trụi chẳng khác gì bộ xương san hô khổng lồ bị quái vật biển gặm nham nhở. Trên chạc cây, một con chim lạ đen trùi trũi như quạ nhưng cái mỏ lại trắng toát, to bằng con gà gô, cất giọng gừ gừ như giọng chó già nằm sưởi nắng tò mò nhìn đoàn người phía dưới thỉnh thoảng lại hộc lên một tiếng. Lê Văn Vận lúc ấy mới đẩy được cuộn giẻ bẩn thỉu ra khỏi miệng. Anh ta khạc nhổ liền mấy cái rồi hỏi một cách giận dữ:
- Các anh là ai? Sao lại bắt tôi?

Bùi Quốc Tầm khịt mũi bảo:
- Đây là lệnh của Đoàn Cải cách, chúng tôi có nghĩa vụ phải chấp hành.
Vận nóng mắt quát:
- Đoàn Cải cách nào? Vì cớ gì lại đi bắt người lung tung thế này?
- Về làng Cùa sẽ biết. – Tầm cười gằn – Không phải đợi lâu đâu ông chủ tịch huyện ạ.
Vận là người thứ hai bị giam sau bà cả Huê trong dãy nhà giành cho các phạm nhân ở đình Cả. Sáng hôm sau, nhìn thấy Vận mặt mũi bơ phơ, râu ria tua tủa, bà Chánh mát mẻ bảo:
- Ông chủ tịch không ngờ lại có ngày hôm nay phải không?

Vận im lặng nhìn bà cả Huê. Mới có mấy năm mà bà ta già đi nhanh quá. Mái tóc xanh mượt như mây giờ đã lốm đốm bạc. Khuôn mặt tuy vẫn còn đầy đặn nhưng đã thoáng thấy những nếp hằn chạy song song từ đuôi mắt xuống đến vành tai. Tuy nhiên đôi mắt thì vẫn sắc sảo luôn nhìn thấu gan ruột người khác như xưa. Vận hỏi:
- Bà Cả vào đây lâu chưa?
Giọng bà Chánh thản nhiên như không:
- Cảm ơn cậu hỏi thăm . Đội Cải cách mới giam tôi năm ngày.
- Thế còn con Huệ? Nghe nói nó . . .
- Nó đã theo Mác xen về Pháp sau đợt Chính phủ trả tù binh. Anh không phải lo.
- Chết thật ! – Vận khẽ rên rỉ – Nếu đúng là như thế thì việc của chị khó gỡ lắm.
Bà Cả thở dài:
- Đến bản thân cậu còn bị tống giam thì còn mong cứu được ai.

3. Khúc Kiệt vừa sang sông thăm lái Lự về hôm trước thì hôm sau dân quân ập vào nhà trói lôi ra đình cùng với Ngô Quỳnh và phó lý Kiền. Ông ta đã ngót sáu chục, người khô gầy, chòm râu mới nuôi lốm đốm bạc, bước lòng khòng vì mắc chứng đau lưng từ hồi ở rừng Hóp. Vừa nhìn thấy xã đội trưởng Tầm ,

Khúc Kiệt trừng mắt hỏi :
- Ai ra lệnh cho các anh bắt tôi?
Bùi Quốc Tầm thản nhiên bảo :
- Đội Cải cách.
- Lệnh đâu đưa xem?
Tay xã đội giọng khinh khỉnh :
- Đối với bọn tay sai Quốc dân đảng phản dân hại nước như nhà ông, bất cứ bà con bần cố nông nào cũng có quyền đòi trả nợ máu mà không cần các loại giấy tờ, hiểu chưa?
Ông cựu đội trưởng du kích rừng Hóp nóng tiết chửi :
- Đúng là thời buổi “nước ngập chó nhảy bàn độc.”
Bùi Quốc Tầm cau mày , hất hàm:
- Đưa vào nhà giam!

Tuy nhiên dãy nhà giam đã chật nên bọn dân quân đẩy khoá Kiệt vào hậu cung. Sau trận đánh đồn Tuần thất bại, Khúc Kiệt được đồn Cáo tha, Việt Minh bắt đầu nghi ngờ lòng trung thành của ông ta. Tổ chức Đảng và ngành công an từ trước đến nay vốn xem khóa Kiệt như một phần tử vô chính phủ, không chịu phục tùng mệnh lệnh cấp trên thì khẳng định ông ta là kẻ phản bội, thậm chí là người của phòng Nhì được gài vào hàng ngũ Việt Minh để làm nội ứng cho địch. Khúc Kiệt không thể chứng minh sự trong sạch của mình một khi các bằng chứng cứ ngang nhiên chống lại ông ta. Đó là Khúc Văn, đóng lon sỹ quan từng kéo quân càn quét khắp vùng Ba Tổng truy bắt Việt Minh. Sợ rằng sẽ đến lúc Việt Minh cử người đến hỏi tội, Khúc Kiệt giải tán đội du kích, bỏ rừng Hóp về làng Cùa. Làng Cùa vào tề đã lâu, lại gần bốt Tuần và có đội Hương dũng mạnh dù sao cũng tạm được yên ổn. Nhưng rồi tin hàn Kiểm bên Mạc Điền bị xử tử ngay tại nhà lan ra khắp huyện Nam Thành làm ông ta sợ. Sau mấy ngày cân nhắc, Khoá Kiệt thấy không còn cách nào hơn là qua sông sang làng Bòng nương nhờ ông bạn lái Lự. Ông này đã có thời làm chủ tịch Liên Việt, ủng hộ kháng chiến được Việt Minh tín nhiệm. Lái Lự nhờ người cháu họ là nhân viên Sở lục lộ xin cho khóa Kiệt tấm giấy thông hành. Ông ta dùng nó như một thứ bùa hộ mệnh đi qua hầu hết các đồn bốt của quân Pháp vùng tả ngạn sông Lăng.

Vào Lục An, Khóa Kiệt được dẫn đến vùng trại Cóc ở nhờ nhà ông Diệp Quẩy người Sán Dìu làm nghề thầy cúng. Ông cựu đội trưởng du kích theo dân tản cư lận rừng kiếm sống. Dân lận rừng phần lớn rất nghèo từ vùng tạm chiếm lên, chuyên hái các thứ quả cây như trám, bứa, dọc, tai chua, tước vỏ báng hoặc đào củ nâu mang ra chợ Bầu Be bán kiếm tiền đong gạo . Loại lâm sản này rừng trại Cóc, trại Chít, trại Giang vô thiên lủng, nếu đủ sức, tha hồ khuân ra bán buôn cho thương lái từ ngả Tào Khê, Mạn Dương ngược sông lên cũng kiếm được đồng ra đồng vào. Tuy nhiên với cái tuổi năm bảy, lại bị phong thấp, công việc của khoá Kiệt không phải lúc nào cũng thông đồng bén giọt. Hái dọc, hái trám thì phải trèo cây, mà toàn cây cao, tuy nhiều quả đấy nhưng trượt chân hoặc gẫy cành rơi xuống là cầm chắc cái chết. Đó là chưa kể bất chợt bị rắn khô mộc, một loài bò sát chuyên sống trên cây có nọc rất độc cắn, hoặc ông ba mươi đón lõng lúc chập tối ở chân dốc Cáy. Từ trại Cóc ra đến chợ Bầu Be mất nửa ngày đường. Các bác lận rừng gánh hàng oằn vai, vừa leo dốc vừa thở phì phò chốc chốc lại phải nghỉ lấy sức cho chặng tiếp theo. Rừng Lục An lắm lâm thổ sản nhưng cũng đầy lam sơn chướng khí. Khối anh về đến nhà sau nửa năm hành nghề bị ngã nước, đầu trụi sạch tóc, môi thâm sì, mắt trắng dã, thỉnh thoảng lại lên cơn giật đùng đùng như bị ma xó nhập vào.

Cũng may, ở rừng Lục An được hơn một năm thì quân ta thắng trận Điện Biên, khoá Kiệt lại khăn gói quả mướp tìm về quê trong tâm trạng vui buồn lẫn lộn . Vừa đi vừa nghỉ, sang ngày thứ tư, Khúc Kiệt về đến làng Cùa thì được tin Khúc Thị Nhân đã bỏ đi, Khúc Văn bị bắt sau khi bốt Tuần bị hạ.

Đầu tháng sáu, Khúc Kiệt sắm chiếc vó bè, cắm lều ở đoạn ngòi Mác đổ vào đầm Ma ngày ngày kiếm cá, không quan tâm đến những sự kiện đang xảy ra ở làng Cùa nữa. Nhưng Khúc Kiệt nhầm. Đội Lạc và nhất là Bùi Quốc Tầm lúc ấy mới được phân công làm xã đội trưởng, và Lê Thị Chĩnh trong ban cốt cán, đã xem ông ta là phần tử cần phải thanh trừng ngay từ khi xã Đoàn Kết bắt đầu phát động Cải cách đợt một. Trong cuộc họp kín của ban chỉ đạo, Bùi Quốc Tầm đứng khuỳnh chân, một tay tựa vào bàn, tay kia chém lia lịa vào không khí, dõng dạc tuyên bố:
- Khúc Kiệt tự ý thành lập đội quân áo Đen, rước Nhật về làng Cùa tàn sát bảy tám chục người . Trong trận đánh bốt Tuần, hắn làm nội ứng cho đồn Cáo dẫn đến thất bại thảm hại, sau đó còn tự ý giải tán đội du kích gây tổn thất cho kháng chiến. Thằng Khúc Văn thì nghe nói đã trốn vào Nam theo giặc. Tất cả những tội ấy đã đủ điều kiện xử tử.

Lại Quang Nghinh ghét thói tiểu nhân, xu thời của Tầm, không đợi anh ta nói hết, chặn ngay:
- Ông Khoá tuy có một số sai lầm nhưng là người có công với kháng chiến không thể đưa ra đấu tố như bọn địa chủ được.
Tầm liếc Nghinh hỏi:
- Thằng Khúc Văn theo Tây bắn lại đồng bào thì sao?
Nghinh khịt mũi:
- Ai làm người ấy chịu. Cả làng Cùa đều biết từ lâu, hai bố con ông Khoá coi nhau như kẻ thù.
- Anh là chủ tịch mà lại bao che cho bọn phản động à?
Lại Quang Nghinh bật lên như lò xo bị nén, chỉ mặt xã đội trưởng:
- Này, anh có biết năm năm hai thằng nào đã xỏ nhầm giầy Tây xách súng đi càn ở Cao Đôi không?
Tầm tái mặt. Anh ta như quả bóng xì hơi ngồi im thít, lấm lét nhìn mấy ông Đội Cải cách.

Nhưng rồi Lại Quang Nghinh cũng không cứu được Khúc Kiệt. Dưới con mắt của Đội, ông ta là một người phức tạp, một kẻ vô chính phủ bậc nhất ở vùng Ba Tổng. Từ lâu, đội Lạc vẫn giữ thái độ im lặng để cánh cán bộ xã cãi nhau chán rồi mới thong thả hỏi:
Có phải từ những năm bốn mốt, bốn hai, Khúc Kiệt đã thành lập đảng áo Đen?
- Dạ đúng. – Bùi Quốc Tầm trả lời như cái máy.
Lại quang Nghinh vội cải chính:
- Không phải đảng áo Đen mà là đội quân áo Đen.
- Cũng thế cả thôi. – Tầm đế thêm vào - Quân áo Đen sau này bị cả Việt Minh và quân đội Pháp đánh bại nên đã theo đuôi Quốc dân đảng.
- Ra thế. Tôi đã bảo mà. – Cấn Viết Tham có vẻ đắc ý vớ chiếc điếu cày rít một hơi thuốc lào phả khói mù mịt làm Lê Thị Chĩnh bị sặc:
- Cái ông này mang ra ngoài sân mà hút!
-Vậy thì mọi việc đã rõ. - Đội Lạc kết luận- Khúc Kiệt là thành phần Quốc dân đảng nguy hiểm chống phá Cách mạng, cần phải đưa ra đình làng cho bà con nông dân hỏi tội.

Vào lúc Khoá Kiệt đang run cầm cập vì lạnh thì cánh cửa hậu cung mở. Mấy dân quân đẩy một người vào. Cú đẩy khá mạnh làm ông ta ngã sóng xoài, nhìn kĩ hoá ra là lý Quỳnh. Khúc Kiệt tuy vừa đói vừa rét cũng phải bật cười khi nhìn thấy ông con rể bất đắc dĩ.
- Bây giờ ông mới vào đây là hơi muộn đấy.
Ngô Quỳnh chép miệng:
- Chuyến này chắc là tôi với ông toi rồi. Bọn chúng không thương xót ai đâu. Nhà nào có bát ăn bát để một chút là bị lên thành phần.
Khúc Kiệt cười như mếu:
- Ông nói thế chưa đúng. Như tôi đây này, tài sản chẳng có gì ngoài chiếc vó bè mà cũng bị thằng Tầm cho dân quân đến xích tay.
Ngô Quỳnh bảo:
- Tôi chưa nói hết. Lên thành phần vẫn còn là nhẹ. Nặng nhất là bị liệt vào hàng Quốc dân đảng sau đó mới đến tội làm tay sai cho Tây. Ông thuộc loại đối tượng nguy hiểm, cho nên bị tóm cổ trước cánh lý dịch chúng tôi.
Khúc Kiệt thở dài:
- Nhưng mà từ ngày đi hoạt động đến giờ tôi có biết mồm ngang mũi dọc cái thằng Quốc dân đảng nó thế nào đâu.
- Thế thì lạ nhỉ? – Lý Quỳnh liếc nhìn thân hình tiều tuỵ của ông bạn già hạ giọng thì thầm. – Nghe nói Đội Cải cách được lệnh xử bắn theo tỷ lệ dân số. Làng ta ít ra cũng phải sáu, bẩy người.
- Chả lẽ nhà nước Dân chủ Cộng hoà lại không tôn trọng pháp luật?
- Ông lên nhớ, bây giờ “nhất đội nhì giời” , lũ chúng ta chỉ còn biết cúi đầu nhận tội mà thôi.

4. Đội Cải cách mở phiên toà xét xử chánh tổng Lê Bang. Ngay từ sáng sớm đình Cả chật cứng người. Bà con bần cố nông háo hức lắm, ai cũng muốn tận mắt chứng kiến bọn địa chủ cường hào phải cúi đầu nhận tội. Các gia đình trung nông lớp trên, phú nông và mấy hộ làm nghề thủ công hoặc buôn hàng xén còn lừng chừng bị dân quân khoác súng vào tận nhà điệu đi. Những ông bà này lấm lét nhìn nhau không ai dám nói gì nhưng trong bụng đều nghĩ, chống lại Đội họ ngứa mắt quy cho là Quốc dân đảng thì coi như tàn đời.

Làng Cùa những ngày này chia làm hai phe. Phe bần cố nông mặt tươi roi rói, suốt ngày nhảy múa ca hát mừng sự đổi đời. Lúc ấy ca khúc cách mạng còn ít , ngoài bài “ Giải phóng Điện Biên “ của Đỗ Nhuận và “Qua miền Tây Bắc” của Nguyễn Thành, đám thanh niên Ba Tổng rất say sưa hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa. Đây bao la hương sắc hoa êm đềm. Hoa lan sang mùa xuân đất Việt ...” không biết do ai sáng tác. Làng Cùa du nhập rất nhanh điệu múa sạp và bài dân ca Thái “Múa hái rau” được thay lời mới : “Ngoài đồng lúa ngát hương. Tung tăng bướm bay về ...” Cứ chỗ nào có ba người trở lên là rủ nhau tìm sào múa sạp hoặc nhảy xon mì. “Xon mì” là một vũ khúc khá vui nhộn. Dân nhà quê vừa xướng âm vừa nhảy một cách tuỳ hứng chẳng cần đàn sáo lẫn biên đạo múa. Họ nhìn nhau co chân nhảy thách lên như con choi choi, chán thì thôi. Có cô cậu mải nhảy mắt hếch lên đập mũi vào cột nhà, toé máu ra. Khôi hài nhất là bài hát “ Múa hái rau”, vừa được lưu hành trong xóm Cầu Đá vài hôm không biết có thằng phản động nào nhại lời rất xỏ xiên: “Này bà Lý toét ơi! Con tôi lấy con bà. Hai đứa nó nằm với nhau. Quyết tâm tôi gả cho bà , bà về bà chặt buồng cau. Sớm mai lên đường đón dâu”. Múa sạp thì cô Tý Mỡ con gái bà Điều nhảy lỗi nhịp bị hai cây dóc kẹp vào chân ngã dập môi. Cô Lai, cặp mông như mông lợn ỷ, bàn chân to bè bè, mỗi khi dậm xuống đất nghe thình thịch chẳng khác nào chày giã gạo nện xuống cối đá đại.

Lũ trẻ con được phân công làm vệ sinh cổng làng, ngõ xóm, những đứa lớn hơn thì quét vôi để các anh thông tin kẻ khẩu hiệu. Thằng cháu họ gọi chánh tổng Lê Bang bằng bác kẻ một hàng chữ lớn bằng hắc ín ngay trước cổng nhà ông ta: “Đả đảo tên cường hào Lê Bang”. Một số thiếu niên còn được Bùi Quốc Tầm và Lê thị Chĩnh cử đi trinh sát, nghĩa là đến rình các gia đình thuộc diện nghi vấn xem động tĩnh ra sao. Nếu thấy có người lén lút ra vào hoặc kêu ca về chủ trương cải cách ruộng đất thì các cậu này phải về báo ngay để Đội kịp thời xử lý. Phe thứ hai gồm tất cả những người, nếu không là địa chủ cường hào, nguỵ quân nguỵ quyền thì cũng ít nhiều dính dáng đến các tổ chức phản động, đã bị bắt giam hoặc đang quản thúc tại gia, chờ nhân dân xét xử. Họ như cá nằm trên thớt lúc nào cũng giật mình thon thót nếu thấy bóng dân quân trước cổng. Trong các cuộc ôn nghèo kể khổ, “bình nghị” thành phần, xác minh diện tích điền thổ, những đối tương tạm thời còn tại ngoại phải đến nghe nhưng không được phát biểu. Đó thật sự là những tội phạm đã mất hết quyền công dân, gặp bần cố nông đều phải cúi đầu thật thấp chắp tay “Con chào ông (bà) ạ” người được tôn lên hàng ông bà lúc ấy hoặc “ừ” một tiếng thật hách dịch hoặc chẳng thèm nói gì, mặt vênh lên ra vẻ rất là bề trên.

Một tối, nông dân đang “bình nghị” ở nhà chánh Đàm chợt có tiếng chân chạy rình rịch ngoài đường tiếp theo là súng nổ phía ao đình. Đám bần cố nông nhốn nháo xô nhau ra cổng xem có chuyện gì thì Bùi Quốc Tầm bước vào nói dõng dạc:
- Bọn phản động thừa lúc bà con đang họp lẻn vào đốt bếp nhà đồng chí Tham nhằm mục đích gây rối trật tự an ninh, phá hoại công cuộc Cải cách. Tôi đề nghị mọi ngưòi hãy nâng cao cảnh giác Cách mạng, phát hiện hành vi mờ ám của kẻ xấu để chính quyền trừng trị.

Tất nhiên không ai biết đấy là thủ đoạn của Tầm. Anh ta cho bọn tay chân thân tín bí mật nhét bùi nhùi vào mái nhà, lửa bốc lên thì kêu làng chữa cháy rồi tung tin thất thiệt, hướng sự nghi ngờ vào con cái địa chủ cường hào làm tinh thần bọn này hoang mang, nhiều kẻ không có tội mà vẫn ra đầu thú, anh nọ khai ra anh kia, làng Cùa rối beng, lúc ấy Đội Cải cách mới ra đòn quyết định.

Toàn bộ cánh cửa bức bàn được tháo xuống để những người ngoài sân cũng có thể theo dõi phiên toà. Cấn Viết Tham ngồi ghế chánh án. Bùi Quốc Tầm và Lê Thị Chĩnh Con trong vai hội thẩm nhân dân. Đội Lạc giữ chân thư ký. Sở dĩ đội Lạc phải lãnh trách nhiệm nghi chép vì cả hai vị cốt cán đều mù chữ. Xã đội Tầm thì mới thoát nạn i tờ, mỗi khi đọc văn bản phải ê a đánh vần từng chữ một, ngắc ngứ như hóc xương cá. Vành móng ngựa được làm bằng thân cây chuối hột xếp chồng lên nhau như cũi lợn, rồi đóng bốn cái cọc dài xuyên qua đặt trên sàn đình bên trái. Lê Bang bị trói hai tay, bốn dân quân công kênh ông ta lên quẳng vào trong cũi như quẳng con chó ghẻ. Viên chánh tổng vừa nhô đầu lên lập tức hàng trăm cái miệng ngoác ra đến tận mang tai gào lên :
- Đả đảo chánh tổng Lê Bang !
- Đả đảo địa chủ Lê Bang!
- Chém cổ hắn đi!
Ngoài sân, ngay trước dãy “chuồng giam”, Lê Văn Vận, Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Bà cả Huê và các địa chủ cường hào bị trói hai tay, chân mang xích, lưng buộc đoạn dây thừng nối với một chiếc cối đá thủng trôn xếp theo hình vòng cung để họ tận mắt chứng kiến lòng căm thù và sức mạnh quần chúng đấu tranh giai cấp.

Người lên vạch tội Lê Bang đầu tiên là một tá điền. Bố mẹ anh ta là dân ngụ cư, được ông Chánh cưu mang. Năm Ngọ, cả nhà sắp chết đói, bà Chánh cho vay thóc mãi cuối năm sau mới trả hết. Đó là ơn chứ không phải oán. Chuyện ấy mà kể ra thì dân làng chửi cho. Nghĩ mãi tay cố nông này cũng tìm ra được một lý do. Cách đây mấy năm, một lần anh ta đi đánh giậm về, đang nghêu ngao hát trên đường thì bị con ngựa của ông Chánh chạy nước kiệu va phải ngã bổ chửng, mồm vập phải mô đất gãy mất chiếc răng cửa. Phải rồi, đấy chính là tội tày đình của tên địa chủ cường hào hành hung tá điền. Nói đi thôi. Anh ta thầm nghĩ. Mặt đội Lạc đang hằm hằm thế kia hẳn có chuyện rồi.
- Chánh Bang! Mày có biết tao là ai không?
- Thưa... Ông là ông Đưa con cụ Đong ở xóm cầu Đá.
- Mày có biết mày có tội gì không?
- Dạ, tội... phản dân hại nước.
Đưa lắc đầu:
- Là nói tội với nhà tao kia.
Chánh Bang ngẩn người ra:
- Thưa... Chả lẽ lại là chuyện chúng con cho ông bà vay hai thùng thóc cứu đói sau này đòi lại?
- Không phải, chuyện ấy xem như chúng tôi mang ơn ông bà.
Đội Lạc đứng phắt dậy trừng mắt:
- Đồng chí Đưa không được gọi địa chủ là ông bà.
Đưa lấm lét nhìn các vị quan toà miệng lẩm bẩm:
- Người ta bằng tuổi bố mình mà lại xách mé nghe nó thế nào ấy.
Bùi Quốc Tầm hắng giọng bảo tay cố nông:
- Đề nghị anh Đưa nói to lên cho bà con cùng nghe.
- à, nhớ ra rồi... Một lần tao đi đánh giậm về bị con ngựa của mày đá ngã gãy răng.
- Dạ, quả có thế. – Chánh Bang khẽ gật đầu. – Hôm ấy tôi đã mời ông lang Phê đến khám vết thương và tạ gia đình hai đồng, chắc ông còn nhớ?
- Nhớ chứ. - Chẳng hiểu sao anh chàng cốt cán nổi hứng nói liền một mạch làm đội Lạc tức điên lên- Bố tôi lúc ấy cám ơn ông Chánh lắm. Hai đồng bạc đong được khối thóc.
- Đề nghị đồng chí Đưa đi xuống!- Đội Lạc quát – Toàn ăn nói mất lập trường.

Theo đúng như kịch bản, Đưa đấu xong đến lượt ứng thị Sót, con dâu chánh tổng Lê Bang. Sót là con gái thứ ba vợ chồng ông cả Tuất, cô này thuộc loại có chút nhan sắc, nhà tuy nghèo nhưng vẫn có những đám khá giả nhòm ngó. Con trai Lê Bang là Lê Bản say cô tá điền hơn cả thuốc phiện, mới phải lòng nhau chưa đầy hai tháng đã đòi cưới. Ông Chánh thấy cô gái có vẻ thiếu đoan chính, hơn nữa gia thế lại chẳng môn đăng hộ đối nên lắc đầu bảo :
- Đám này không được, cưới con bé ấy về là sau này bại hoại gia phong.
Lê Bản thản nhiên thông báo một tin làm cả nhà sửng sốt :
- Con đã ăn nằm với cô ấy rồi.
- Lại còn thế nữa, mày thật không coi tao ra gì.
- Con lấy vợ chứ có phải thầy lấy đâu mà lo.
- Mày đừng có hỗn!

Cuối cùng giời không chịu đất đất phải chịu giời, Lê Bang bấm bụng làm đám cưới cho ông quý tử. Về nhà chồng, Sót thích nghi với vai trò bà chủ rất nhanh. Cô ta dần dần thâu tóm quyền thu chi trong nhà đẩy mẹ chồng ra rìa làm bà này uất lên thành bệnh nằm liệt một chỗ. Hai năm sau, Lê Bản đi lính Bảo an, Sót ở nhà ngứa nghề tằng tịu với hết đám trương tuần. Điểm hẹn của họ lúc thì ở điếm Bài Vân, lúc trong miếu Si, có khi lại ở ngay nhà bố mẹ đẻ vì lúc ấy ông Cả đã quy tiên, bà Cả mắt loà chẳng nhìn thấy gì. Sau nhiều lần theo dõi, cuối cùng mấy cô em chồng cũng tóm được đôi gian phu dâm phụ khi chúng đang vui vẻ với nhau trong chiếc lều vịt của lão Nhạnh giữa đồng Chó Đá. Chuyến ấy hai đứa bị một trận nhừ tử, Trương Cói phải chịu phạt hai tạ thóc với bảy đồng Đông Dương mới được tha. Lê Bang đau lắm nhưng sợ mang tiếng với hàng tổng nên chỉ mời bà cả Tuất sang nói chuyện rồi bắt mang con gái về. Vậy là Sót được tự do, tha hồ lăng loàn chẳng có ai quản thúc.

Mới nhìn thấy đội Lạc Sót đã đầu mày cuối mắt. Đội Lạc đã có vợ, chị ta thuộc loại khá gái nhưng tính tình riết róng, lại có máu ghen ngược nên bị ông chồng bỏ lửng từ lâu, giờ anh ta nhìn thấy cô nàng óng ả, mắt lúng liếng đưa tình, bất giác tâm trạng xao xuyến. Từ đó hai người ngày nào cũng tìm cớ gặp nhau, không gặp không chịu được. Cái trò trăng gió nó thế, bỏ thì thương vương thì tội. Một khi vướng phải lưới tình trời cũng bé. Tuy nhiên nhờ những cuộc họp cốt cán họ được gặp nhau thường xuyên hơn. Có lần, đêm đã khuya, hội ý xong Lạc còn kéo Sót vào hậu cung. Từ khi hậu cung trở thành nơi giam bọn cường hào thì chỗ hò hẹn của đôi tình nhân cũng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể.

Hôm ấy đội Lạc triệu tập khai hội ở nhà bà Tuất. Anh ta bảo nhà tuy chật nhưng kín đáo, tha hồ bàn bạc không sợ lộ bí mật.

Bà cả Tuất mắc chứng đau mắt đỏ hễ có ánh mặt trời là quáng gà chẳng nhìn thấy gì. Trên trán lúc nào cung phải che mảnh vải thâm. Cuộc họp có nhiều nội dung, đến gần trưa mới xong. Khi mọi người ra về Lạc còn nấn ná ở lại một lúc rồi kéo ngay Sót vào thùng trấu. Đã hơn một tuần không gặp nhau, hai anh chị còn đang say sưa tận hưởng phút lên tiên thì bất chợt Bùi Quốc Tầm xuất hiện. Anh ta làm như vô tình nhòm vào bếp bằng cặp mắt rất gian giảo. Khi thấy đội Lạc vẫn còn nằm trên bụng cô cốt cán, hắn tảng lờ như không biết, vòng ra sân vờ vịt hỏi bà cả Tuất :
- Cô Sót đi đâu hả bà?
Bà cụ không những mù dở mà còn nghễnh ngãng, nghe tay xã đội mãi mới thủng liền bảo :
- Em nó vừa xuống bếp hay sao ấy, bác chờ một tí.
- Nếu cô ấy về, nhờ bà nhắn hộ chiều nay xuống xóm Trại họp với chị em phụ nữ.
Tầm cố tình nói to đánh tiếng cho đôi tình nhân biết rồi xách súng ra cổng. Hai người lúc đó mới hoàn hồn mặc quần áo bước ra khỏi thùng trấu. Đội Lạc nhìn trước nhìn sau không có ai liền lách qua bờ rào sau nhà. Sáng hôm sau đội Lạc sang Đậu Khê gặp Bùi Quốc Tầm. Lựa lúc chỉ có hai người, Lạc bảo:
-Tôi đề nghị bổ sung đồng chí vào cấp uỷ và đảm nhận chức chủ tịch xã Đoàn Kết.
Tầm như mở cờ trong bụng nhưng vẫn làm ra vẻ không hiểu:
-Thế còn ông Nghinh? Chẳng lẽ Đội Cải cách...
- Anh Nghinh sẽ làm bí thư thay ông Quang. Tôi vừa nhận được tin từ bà con bần cố nông, La Văn Quang năm 1949 có quan hệ với tổ chức Việt cách của Phan Trường Thái.

Vậy là cơ hội trả thù cha con Lê Bang đã đến. Phen này thì chúng mày mảnh bát vỡ cũng không có mà ăn. Bằng động tác dứt khoát, Sót ấn mạnh hai ngón tay vào trán Lê Bang bắt ông ta ngẩng lên rồi dõng dạc hỏi:
- Tên địa chủ phản động họ Lê, chắc mày không quên đứa con dâu này chứ?
Ông chánh tổng trả lời như cái máy:
- Thưa bà... không quên,
- Mày có nhớ khi tao bị ép buộc lấy thằng Bản, bố con mày đã hành hạ tao như thế nào không?
Lê Bang từ tốn trả lời :
- Thề trên có trời, dưới có đất, nhà họ Lê chưa bao giờ ngược đãi con dâu. Việc chúng tôi trả bà về bên mẹ đẻ hoàn toàn do bà gây ra.
-Địa chủ Lê Bang câm ngay! - Sót nấc lên, giọng nghẹn ngào - Đến nước này mà mồm mày còn xoen xoét chối tội.
- Thưa bà, tôi chỉ nói đúng sự thật.

Sót túm tóc ông Chánh giật mạnh một cái rồi quay xuống phía bà con oà lên khóc :
- Bà con ơi! Tôi thù bố con nhà nó lắm. Chồng tôi đi lính, ở nhà đêm nào lão Chánh cũng vào gạ gẫm đòi ngủ với tôi. Tôi không cho nó liền trói vào giường, lột quần áo ra hành hạ suốt đêm. Có những lúc tủi nhục quá tôi đã định đâm đầu xuống giếng tự tử nhưng lại nghĩ đến bà mẹ mù loà đành phải nuốt hận mà sống cho qua ngày. ít lâu sau, thằng em chồng là Lê Biên làm thư kí sở Dây thép về nhà lại cưỡng hiếp tôi. Nó cầm lăm lăm con dao nhọn trong tay đẩy cửa vào buồng thở ra toàn mùi rượu. Tôi sợ quá định kêu thì nó đấm vào mặt tôi đến giờ vẫn còn sẹo. Đêm hôm ấy bố con nó nhốt tôi vào căn buồng dãy nhà ngang suốt hai ngày không cho ăn uống gì.

Bên dưới, đám thanh niên bần cố nông quá khích nghe Sót kể tội phẫn nộ quá, đồng thanh hô :
- Đả đảo chánh tổng Lê Bang!
- Đả đảo tên Việt gian bán nước Lê Bang!
Các bà các cô đều sụt sịt, trước còn khẽ sau to dần, cuối cùng cả mấy gian đình đều biến thành một cuộc khóc tập thể rất là thống thiết. Chừng năm bảy phút sau, khi những tiếng nức nở đã vơi đi, Sót kết thúc bản cáo trạng bằng những lời vô cùng đanh thép:
- Tôi đề nghị Toà án nhân dân xử tử hình chánh tổng Lê Bang.
- Tử hình! Tử hình!
- Bắn chết hết lũ địa chủ đi bà con ơi!

Bản án được thi hành ngay buổi sáng hôm sau tại một khu đất hoang mãi cánh đồng Xưa. Từ chiều hôm trước, người ta dựng pháp trường bằng hai cây cột lớn, sau đó buộc một cây tre vắt ngang giống như bộ khung căng màn ảnh chiếu bóng. Lê Bang bị bịt mắt bằng vải đen, cổ tay cổ chân đều buộc dây thừng dài. Bốn dân quân, hai người một bên kéo ông ta lên cao cho tay chân giang ra như là con ếch trong phòng thí nghiệm sinh vật học để thử phản xạ khi cho dòng điện chạy qua. Trên kỳ đài, chánh án Cấn Văn Tham ngồi cùng với chủ tịch Bùi Quốc Tầm, đội Yên và cốt cán Lê Thị Chĩnh. Bảy dân quân vác những khẩu súng trường cà khổ đứng cách xa chừng mười hai, mười ba mét hồi hộp chờ lệnh. Xã đội trưởng mới được đề bạt Lương Văn Mực chỉ huy hành quyết. Người đi xem rất đông, không phải chỉ làng Cùa mà gần như cả tổng Kim Đôi mang cơm nắm muối vừng đến chầu chực từ lúc còn tối đất để được xem xử bắn lão chánh Bang nổi tiếng hách dịnh mà nhiều người mới chỉ biết tên chứ chưa từng giáp mặt. ứng Thị Sót, mặt tươi rói ngồi bên đội Lạc. Anh ta không trực tiếp tham gia vào việc thi hành bản án nhưng lại là nhân vật quyết định số phận của Lê Bang.

Mặt trời lên tầm nửa con sào, Bùi Quốc Tầm vẫy tay ra hiệu cho Cấn Viết Tham .
Vị chánh án mù chữ hơi tái mặt đứng lên đọc bản án đã thuộc lòng từ hôm trước:
- Chánh tổng Lê Bang phản dân hại nước tội ác tày trời, tại phiên xử công khai ngày hai mươi mốt tháng mười, Toà án nhân dân đã tuyên án tử hình, yêu cầu các đồng chí dân quân thi hành nhiệm vụ!
Tiếng đùng đoàng rất không đều. Loạt đạn đầu chỉ có hai viên trúng người ông Chánh còn hầu hết đều đuổi vịt giời chẳng biết do các xạ thủ bắn kém hay họ run tay khi buộc phải chĩa súng vào đồng loại. Máu từ người nạn nhân chảy dọc hai ống quần từ độ cao hai mét sáu nhểu xuống thành giọt đỏ tươi, khi thấm vào lớp đất cát pha sét phía dưới lập tức ngả mầu nâu sẫm như nước quết trầu. Bụng Lê Bang có tiếng réo lục bục như sấm rền. Một luồng uế khí phì ra phía hậu môn khuếch tán khắp bốn phương tám hướng làm tất cả nhưng người trên kỳ đài đều phải đưa tay bịt mũi. Bùi Quốc Tầm lầm rầm chửi bọn dân quân ăn hại rồi nhảy xuống giằng khẩu súng từ tay xã đội trưởng Lương Văn Mực quát to:
- Tất cả lên đạn!

Loạt súng thứ hai có khá hơn. Phát đạn của Tầm trúng ngực viên Chánh tổng phá ra phía sau bằng miệng chén tống làm rách toang chiếc áo cánh nâu. Một mảnh thịt lầy nhầy dính máu bay vèo xuống bãi cỏ chẳng khác gì thứ thịt chuột đồng bị mèo gặm dở. Đầu chánh Bang ngoẹo sang một bên vai. Ông ta chết trong nỗi kinh hoàng tột đỉnh nên khi dải băng được cởi ra, cặp mắt vẫn mở trừng trừng, một dân quân thương tình vuốt mãi vẫn không khép lại được.

Huyệt đã đào sẵn. Theo lệnh của xã đội trưởng, người ta kéo xác Lê Bang quăng xuống rồi lấp đất một cách vội vàng sau đó đặt lên nấm mộ một vầng cỏ.

5.
Bà cả Huê được ra khỏi buồng giam bị dân quân áp giải về nhà trình báo tài sản trước khi đem ra xét xử. Những người thực hiện cuộc khảo của này là xã đội Mực, Lê thị Chĩnh Con và ứng thị Sót. Bà Chánh mặc bộ váy áo mốc thếch chẳng khác gì con mẹ ăn mày, quỳ ở chân đống rơm có hai dân quân kèm hai bên. Cố nông Sót nâng cằm bà ta lên bảo :
- Thị Huê nghe đây! Vàng dấu ở đâu phải thành khẩn khai ra, toà sẽ khoan hồng.
Vợ chánh Đàm lắc đầu:
- Thưa bà cốt cán, nhà này có bao nhiêu tài sản Đội Cải cách đã tịch thu hết, chúng tôi bây giờ cái bát mẻ cũng không có mà ăn lấy đâu ra vàng.
- Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay ! - Sót túm tóc bà cả Huê giật mạnh mấy cái rồi lèm bèm chửi hệt như hàng tôm hàng cá - Quân mặt sứa gan lim , đồ l... sành ghe đá hút máu mủ của bần cố nông giàu nứt đố đổ vách mà bảo không có vàng, nói chó nó cũng không nghe được .

Xã đội Mực hùng hổ chạy lại giáng liền hai bạt tai làm người đàn bà ngót sáu chục tuổi loạng choạng, đổ vật vào đống rơm . Hắn kéo bà ta dậy bắt quỳ như cũ, giọng rít lên :
- Biết điều thì khai ra vàng ở đâu , nếu không đừng trách.
- Đã bảo là không có vàng . Các ông các bà đánh chết cũng chẳng đào đâu ra.
- A! Con khọm này lỳ gớm nhỉ. Cô Sót đâu, lấy chày giò ra đây.
- Hình như mấy chiếc chày đã được chuẩn bị từ trước. Lê Thị Chĩnh và ứng Thị Sót, mỗi cô một bên, tốc váy bà Chánh lên ngang đùi thi nhau dần vào hai đầu gối. Bà ta đau quá kêu ồ ồ như bò rống, được một lúc thì đái ra váy khai nồng nặc làm hai cốt cán phải tạm thời bỏ cuộc.

Chừng nửa giờ, sau khi đã thì thầm hội ý với Lương Văn Mực và Lê Thị Chĩnh, ứng thị Sót thay đổi chiến thuật, đưa bà cả Huê vào nhà, rót cho chén nước rồi nhẹ nhàng trách :
- Bà cứ ngoan cố chỉ thiệt vào thân. Chúng tôi thay mặt Đội Cải cách kiểm kê tài sản, yêu cầu gia đình thành khẩn khai báo, nhất là những đồ vàng bạc, nhà nước chỉ trưng thu một phần còn đâu sẽ trả lại.
Bà cả Huê vẫn im lặng. Sót lại tỉ tê hỏi:
- Thế cái xuyến vàng nạm ngọc bích trước đây cô Huệ vẫn đeo bây giờ để đâu?
- Nó đã mang theo chồng sang Pháp rồi.
- Còn cái vòng cẩm thạch có khắc chữ “Phúc”?
- Tôi bán lấy tiền tậu trâu hồi đầu năm Tỵ.
- Bán cho ai?
- Trên cửa hàng nữ trang Đông Thị ấy, bà lên mà hỏi.
- Sợi dây chuyền vàng bảy đồng cân có mặt đá hình quả tim chắc cũng bán rồi phải không? - Sót dằn giọng.
- Cái dây ấy hồi qua đò Vạn tôi lỡ đánh rơi xuống sông mất.
- Bà không lừa nhà chức trách được đâu.
- Nếu không tin Đội Cải cách cứ cho người đào bới khắp nhà lên mà tìm.
Xã đội Mực giật nảy người chỉ tay vào mụ địa chủ giọng rít lên:
- Trói con mẹ thần đanh đỏ mỏ này đem vào chuồng trâu vụt chết cha nó đi.

Đến lúc này thì bà Chánh không thể chịu được nữa. Thôi thì lành làm gáo vỡ làm muôi, tao sẽ liều với chúng mày một phen rồi muốn ra sao thì ra. Nghĩ vậy, bà đứng dậy tụt váy ra vứt vào mặt tay Mực :
- Bà cho mày “vàng” đấy, mang về bán đi mà ăn dần.
Tấm váy nhuộm thâm lâu ngày không giặt bốc mùi khăn khẳn trùm lên đầu ông xã đội. Anh ta không dự liệu được tình huống này nên hoàn toàn bị động, lúng túng mãi mới thoát ra khỏi tình huống bi hài, miệng vừa khạc nhổ vừa chửi lèm bèm :
- Đ. mẹ con mụ già chết tiệt.
Hai nữ cốt cán nhìn bà Chánh cởi truồng tô hô vừa tức vừa buồn cuời, mắng:
- Rõ là không biết dơ!
- Có mà dơ cái l... bà đây này.-Bà ta vỗ bành bạch vào bẹn rồi hất hàm bảo đám cốt cán:
- L.. tao có bao nhiêu sợi lông thì nhà tao có chừng lạng vàng. Chúng mày có giỏi vào đây mà đếm.
Xã đội Mực vồ lấy súng giương lê, mặt hằm hằm chĩa vào người đàn bà cởi truồng. Vào đúng lúc ấy, đội Lạc không xuất hiện kịp thời thì chắc là mũi lê sáng loáng của ông xã đội đã xuyên thấu âm hộ bà Chánh. Anh ta liếc qua đã hiểu ngay sự việc liền bảo đám tay chân:
- Các đồng chí về đình ngay để Đội Cải cách phổ biến nhiệm vụ mới.
ứng Thị Sót đưa mắt cho nhân tình:
- Nhưng thưa.. anh, con mụ này dám có hành động lăng nhục cốt cán.
- Tôi biết. - Lạc gật đầu chỉ tay vào chiếc váy bảo bà Chánh - Bà mặc vào rồi đi theo chúng tôi.
Cuộc khảo của xem như thất bại. Bà cả Huê lại bị giam vào căn buồng cũ. Người mệt rã rời do bị quỳ quá lâu trong một tư thế, bà ta ngồi lên tấm phản mộc, lưng đựa vào tường thiu thiu ngủ, nhưng vừa chợp mắt được một lúc, quang cảnh náo loạn của cuộc chia quả thực mấy hôm trước lại hiện ra.

Ngôi biệt thự hai tầng với kiểu kiến trúc lai căng cùng dãy nhà ngang do Khúc Đàm vẽ kiểu được gỡ niêm phong. Bùi Quốc Tầm, trưởng ban điều hành trưng thu tài sản địa chủ cường hào xã Đoàn Kết ra lệnh cho dân quân dẫn bà cả Huê trói vào cột chuồng trâu. Đội Cải cách muốn chơi đòn cân não để khổ chủ tận mắt nhìn thấy bần cố nông thực hiện lẽ công bằng, vì sự công bằng vốn là ước vọng ngàn đời của người lao động chân chính. Tất cả bàn thờ, giừơng phản, sập gụ, tủ chè, hòm rương, thóc lúa dược khuân ra thành mấy đống giữa sân. Các bần cố nông đứng vòng trong vòng ngoài, phần lớn mặt nhăn nhúm , vàng vọt vì đói ăn, mắt hau háu nhìn những thứ đồ sơn son thiếp vàng, miệng nuốt nước bọt ừng ực. Bà Cò Toét mặc chiếc váy đụp hàng trăm mảnh lấy bàn tay mân mê chiếc sập gụ đen bóng mát như lụa nõn chép miệng:
- Tôi mà được nằm lên cái sập này một đêm chết cũng sướng.
Lão Khính, cựu mõ làng , già lụ khụ chống gậy lọc cọc vào sân bảo đội Lạc:
- Cả đời tôi chỉ mong được cái ngai thờ để rước các cụ về.

Cánh tá điền xem ra thực tế hơn. Bọn này đều vào ở độ tuổi trên dưới ba mươi, chẳng để ý gì đến sập gụ tủ chè mà đứng túm tụm với nhau bàn tán về ba bốn con trâu đang buộc quanh đống rơm và đám cày bừa, mai cuốc cùng hơn chục chiếc gầu tát nước vứt lổng chổng trước cửa nhà bếp. Ba Khích, một tay nổi tiếng làng Cùa về tài vực nghé vuốt ve con trâu đực sừng cánh ná, lông đen, da bóng như sừng. Hắn hết đứng lại ngồi không dám rời đi chỗ khác, tay khư khư giữ sợi dây thừng vì sợ có người phỗng tay trên. Gã trương Chạm mắt trắng dã như mắt lợn luộc, tay chân lòng khòng, vai so làm cái cổ như cò như kéo dài ra, ngay từ sáng sớm đã muốn dành con trâu mộng về phần mình, thấy Ba Khích giữ rịt sợi dây thừng hắn nóng mắt bảo:
- Bỏ dây thừng ra! Con này tao nhận từ hôm qua rồi.
- Đừng hòng. Anh Lạc đã hứa cho tao.
Làm gì có chuyện ấy. Phân chia “quả thực” phải công bằng chứ.
- Này, hôm trước ở nhà chánh Bang mày đã nhận con nghé tơ sao hôm nay lại còn đòi trâu?
- Con ấy khi cày nó cứ phá ách tao đổi cho nhà Bồng rồi.
- Thế thì mặc xác mày.
Trương Chạm vốn hay gây gổ, trái ý là xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay, thấy Ba Khích có ý giữ bằng được con trâu liền quai cho hắn một quả. Cú đấm không đau lắm nhưng vì tức thằng đầu bò nên Ba Khích kêu toáng lên rồi nhảy bổ đấm đá đối phương túi bụi. Hoá ra trong sân không chỉ có cặp trương Chạm, Ba Khích đấm nhau. Trước đống của giời ơi không phải mồ hôi nước mắt của mình làm ra, lòng tham nổi lên, ai cũng muốn chiếm làm của riêng, thành thử Đội chưa kịp lên danh sách phân phát họ đã xông vào tranh cướp. Sân nhà chánh Đàm bỗng chốc trở thành một cuộc ẩu đả ác liệt. Chiếc bàn thờ sơn son được chạm trổ rất tinh xảo bị hàng chục bàn tay lôi đi kéo lại một lúc thì đổ kềnh, ba chân gãy rời, mặt gỗ long ra, sơn tróc loang lổ. Mấy bà cố nông nạ dòng lao vào nhau quyết đấu để giành cho được bộ cánh tủ chè. Lúc này tủ đã bị vỡ toác làm bốn mảnh nhưng hai cánh gỗ gụ vẫn còn nguyên. Bà Đũn yếu hơn nhưng biết dùng mưu bằng cách bất ngờ cắn vào tay một bà mặt choắt răng vẩu làm bà này kêu thét lên và vác chiến lợi phẩm chạy ra cổng. Trong lúc nhốn nháo, lão Tý Thọt gọi hai thằng con lẻn vào khênh sập gụ. Thị Sót đã nhắm bộ này từ lâu liền ngáng chân làm lão chăn vịt vấp ngã. Cánh sập rơi xuống nền gạch Bát Tràng làm dập bàn chân anh con cả. Hắn đau quá, ngồi xệp xuống ôm chân rên rỉ. Cùng lúc có bốn năm bàn tay đặt vào bộ sập. Đó là cánh ngụ cư xóm Trại Cá. Bọn này từ trước vẫn bị chèn ép giờ có dịp “bình quyền” chẳng ngại ngần gì kéo nhau vào “hôi” của. Sót gan lì, ngồi chồm chỗm trên sập. Bọn ngụ cư chẳng nể nang gì bà cốt cán trong Ban Cải cách, bốn gã bốn góc khênh cô ta đi như một đám rước. ứng thị Sót thấy mình ở thế bất lợi liền nhảy bổ vào gã Tám Cá túm tóc tát liền mấy cái. Bọn này đều vướng tay, nén chịu đau để lôi cho được chiếc sập gụ ra cổng. Nhưng không may một gã hẫng chân, mất đà, sập lại rơi xuống. Cuộc giằng co đã đến lúc vô cùng quyết liệt. Chị em xóm Chùa từ xưa đến nayvẫn ghét Thị Sót là gái lăng loàn, mồm loa mép giải, liền nháy nhau xúm lại giúp cánh ngụ cư bằng cách đè cô ta xuống, kéo tuột chiếc quần láng đang mặc quăng xuống ao làm đồng chí uỷ viên Cải cách mất mặt với bàn dân thiên hạ phải chạy vội vào bếp. Phía trước, một đám chừng hơn chục người trước đây vẫn lĩnh canh ruộng bà cả Huê, đang xúm quanh mấy cũi bát đĩa, vài chiếc nồi đồng và một số lọ hũ bằng gốm sứ hoặc da lươn. Những thứ này giá trị tuy có thấp hơn nhưng sự tranh chấp cũng không kém phần quyết liệt. Đã có mấy bà đập những chiếc nậm rượu men ngọc rồi lấy mảnh vỡ cào vào mặt nhau, máu chảy nhoe nhoét. Bà Tư Bổng, mắt lông quặm, trông gà hoá quốc, thấy hai chiếc âu gốm miệng loe tráng men xanh liền xách về nhà, mấy hôm sau mới hay, đó chính là nhưng cái bô đi tiểu vẫn để duới gầm giường hồi Khúc Đàm còn sống.

Cuộc tranh cướp quả thực đã lên đến đỉnh điểm có nguy cơ đổ máu thì Lê thị Chĩnh lẻn về đình Cả báo cho Bùi Quốc Tầm . Anh ta lập tức cử một đám dân quân khoác súng về nhà chánh Đàm. Tiếng quát của Tầm bị chìm đi trong mớ âm thanh hỗn tạp, nhưng khi ba phát súng trường bắn cấp tập thì tất cả trở lại yên ắng như trước đây chưa từng có chuyện gì xảy ra. Chủ tịch xã nhảy lên chiếc án thư chưa kịp bị đập gãy, dõng dạc ra lệnh:
-Yêu cầu tất cả bà con để đồ đạc xuống!
Bà con nông dân từ xưa đến nay vốn có thái độ kính nể đối với các loại súng đạn. Tiếng nổ lập tức có hiệu quả ngay. Mọi thứ đồ đạc phải vất vả lắm họ mới giành được trong trận hỗn chiến tạm thời rời khỏi tay. Người nọ nhìn người kia thở dài đầy vẻ thất vọng. Hơn chục dân quân dồn đám ngụ cư cùng dân xóm Chùa vào một góc sân rồi thu gom tài sản xếp thành một đống. Sau nửa giờ bàn bạc, Bùi Quốc Tầm gọi Bùi Sĩ Vĩnh đọc danh sách phân chia “quả thực”. Vĩnh là cháu họ xa Bùi Quốc Tầm đang học tiểu học ở Đông Thị thì bỏ đi theo một người bà con làm ăn ở mãi Tiên Yên, hoà bình được nửa tháng mới về. Được giao nhiệm vụ Vĩnh phấn khởi lắm. Anh ta đứng hẳn lên tầng hai, thò đầu ra ban công dõng dạc đọc:
- Bà cố nông ứng Thị Sót một cái sập gụ.
- Chị Bùi Thị Dong một chiếc nồi ba mươi.
Nhà Dong vắn váy quai cồng, ì ạch bê chiếc nồi đồng, giọng như mếu:
- Chúng em đội ơn ông Cải cách.
- Ông trương Chạm một con trâu và bộ răng bừa.
Trương Chạm nhảy cẫng lên:
- Đã bảo mà, thế là từ nay ta có trâu rồi.
- Ông Tí Thọt một chum sành, chục bát chiết yêu và ổ gà mái đang ấp.
- Sao lại chia cho tôi mấy thứ lặt vặt thế này?
- Bà đĩ Nhụt hai gầu tát nước và một cái nạng gẩy rơm.
-Đếch thèm lấy, để ông chủ tịch Tầm mang về cho đủ bộ.
Mọi người lần lượt nhận đồ của mình, đến xế chiều thì nhà chánh Đàm chỉ còn cái xác và sáng hôm sau nó được chia thành bốn phần cho bốn ông bà nông dân.


6. Lê Văn Vận không tin là mình có tội với Cách mạng vì chuyện liên quan đến Quốc dân đảng chỉ là sự bịa đặt của một số người nhẹ dạ cả tin bị những phần tử cơ hội kích động. Anh ta hy vọng sớm muộn sẽ có người can thiệp giải oan cho mình. Nhưng ông chủ tịch đã lầm . Những ngày này ở cơ quan huyện Nam Thành, các cán bộ chủ chốt còn lại lo thon thót, chỉ sợ một đêm nào đó dân quân ập đến, ấn súng vào lưng dẫn đi mà không biết mình phạm tội gì. Lê văn Vận bị bắt chưa đầy một tuần thì ông bí thư cũng chung số phận. Tất cả những cuộc bắt bớ đều diễn ra ban đêm. Bà con hàng phố thấy những bóng đen khoác súng rảo bước trên đường, chẳng ai bảo ai đều đóng chặt cửa. Không khí xóm làng luôn trong tình trạng căng thẳng. Phương châm của những kẻ thức thời là im lặng vì lúc này ngay cả bố con, anh em trong nhà cũng nghi kỵ nhau, đề phòng nhau, sảy chân còn đỡ được chứ sảy miệng là rước vạ vào thân.
Chủ trương của Đội Cải cách là khuyến khích bần cố nông tố cáo các đối tượng của Cách mạng càng nhiều càng tốt. Ông hương Tràng có hai mẫu ruộng đồng Quan và một con trâu, bị tay Mực tố lên bốn mẫu để quy thành phần phú nông. Ông này tính nóng như lửa chỉ mặt tay xã đội chửi là đồ ăn cháo đá bát rồi đòi mang thước ra đồng khảo lại diện tích. Ngay tối hôm ấy ông ta bị hai dân quân tống vào buồng giam thay cho chánh tổng Lê Bang đã bị hành quyết. Buồng giam này giáp với buồng Lê Văn Vận. Ông Hương đánh tiếng hỏi:
- Cả anh cũng bị nhốt vào đây thì dân Ba Tổng còn biết tin ai?

Chang cựu ngư phủ lúc này xem ra đã mất dần nhuệ khí nhưng đối với người trung nông này vẫn phải lên dây cót tinh thần cho ông ta :
- Phải tuyệt đối tin tưởng vào Đảng. Đây chỉ là sai lầm nhất thời thôi.
Hương Tràng cười gằn:
- Làng Cùa rặt những người nếu không phải tay sai thực dân đế quốc thì cũng bị Quốc dân đảng giật dây, anh bảo chúng tôi tin vào đảng nào?

Thực ra trong lòng Vận lúc này không nghĩ đến thứ chủ thuyết xem ra khá mơ hồ mà từ trước đến nay người ta cứ bắt mình phải miễn cưỡng tin theo. Anh ta nghĩ đến cô vợ khoèo tay, nghĩ đến hai thằng con trai, đến Khúc Luận, Khúc Thị Huệ và nhất là Mạc Thị Lánh, người đàn bà khốn khổ đã bỏ xác trên rừng gần hai chục năm nay. Đó chính là quá khứ đè nặng trên vai, là vật cản vô hình ám ảnh mãi trong tâm trí không thể bỗng chốc thoát ra được. Sau chuyến xuống đồng bằng bị mật thám bắt đưa về phòng Nhì, Vận phải lĩnh án bảy năm. Tưởng đã bỏ xác trên Sơn La, may nhờ anh em tổ chức cho vượt ngục, ra ngoài mới bắt mối với cơ sơ ở vùng Cao Tân tiếp tục hoạt động. Thời kỳ đầu năm bốn nhăm Vận đã là huyện uỷ viên phụ trách công tác an ninh, sau khi cướp chính quyền được cử làm chủ tịch huyện Nam Thành. Cuộc đời hoạt động của Vận cũng chẳng mấy suôn sẻ, nhất là cái quá khứ không bình thường từ hồi làm nghề sơn tràng. Có lần đã bị bắt giam vì tự ý bắn chết một kẻ phản bội, nhưng cấp trên đánh giá anh ta là người trung thực, ghét thói xu nịnh và làm được việc. Vậy mà đùng một cái ông chủ tịch huyện bị chính các đồng chí của mình tống ngục thế này đây.

Sáng ngày thứ ba, nghĩa là chỉ ba mươi nhăm giờ sau sau khi bị giải về làng Cùa, Đội Cải cách đã đưa Lê Văn Vận ra xử. Đây là phiên toà đặc biệt có cả phái viên của Đoàn Cải cách huyện Nam Thành về chỉ đạo. Đội Lạc và Bùi Quốc Tầm Đã chuẩn bị sẵn một số nhân chứng để đối chất nếu bị cáo không thừa nhận tội trạng.

Vành móng ngựa lần này không phải là những cây chuối chồng lên nhau như hôm xử Lê Bang mà được ông Bảy Sụ đóng bằng gỗ lim hình bán nguyệt có những gióng to cỡ cổ tay bào nhẵn trông rất nổi. Ngồi ghế chánh án hôm nay là ứng Thị Sót. Cô ta mặc chiếc áo cánh màu be bên ngoài khoác áo bông Tàu, cổ quấn khăn len đỏ, tóc chải xù lên trông chẳng khác gì hình nộm . Bùi Quốc Tầm , Cấn Viết Tham, Lê Thị Chĩnh và đội Lạc chia nhau ngồi hai hàng ghế sau để hỗ trợ bà cốt cán trong lúc thẩm vấn. Vị đại diện đoàn Cải cách ngồi ghế trên cùng. Ông này trạc bốn nhăm, trán hói một mắt có nhài quạt thỉnh thoảng lại nháy một cái.

Sân đình đông nghịt. Bọn trẻ con trèo cả lên cây đa nhòm vào. Mấy chục dân quân, kẻ xách súng, người mang mã tấu canh gác vòng ngoài đề phòng bọn phản động lợi dụng chỗ đông người để ném lựu đạn khủng bố như ở phiên toà xử lý Biên bên Cao Xá vừa rồi. Lê Văn Vận bị trói hai tay . Xã đội Mực cầm dây thừng đi phía sau đẩy ông chủ tịch vào vành móng ngựa. Vận bị tê chân đang sửa tư thế đứng thì bất ngờ dưới sân đình có tiếng hô lớn:
- Đả đảo tên Quốc dân đảng phản động Lê Văn Vận!
Lập tức hàng trăm cái miệng đồng thanh hoà theo:
- Đả đảo! Đả đảo!
- Đả đảo Lê văn Vận!
- Đả đảo! Đả đảo!

Chánh án ứng Thị Sót vốn là gái lộn chồng, đã từng mặt dạn mày dày với phường trăng gió, không biết liêm sỉ là gì sau sự kiện bị lột quần hôm chia “quả thực” đứng lên vẫy tay cho bà con trật tự rồi dõng dạc tuyên bố:
- Hôm nay Đội Cải cách và bà con làng Cùa mở phiên toà xét xử tên Quốc dân đảng đội lốt Việt Minh, chui vào hàng ngũ Cách mạng chống phá chính quyền nhân dân. Tên phản động đó chính là Lê Văn Vận, nguyên chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Toà yêu cầu bần cố nông lên đấu tranh vạch rõ bộ mặt phản dân hại nước của hắn.

Sót vừa dứt lời đã có một người đàn ông tóc muối tiêu, mặt nhẵn bóng, một bên tai rách không biết do ngã hay bị chó cắn đứng phắt dậy :
- Tôi xin đấu tranh.

Anh ta ngồi cách vành móng ngựa không xa nên chỉ ba bước đã tới trước mặt Lê Văn Vận, hấp háy cặp mắt lác hỏi ông chủ tịch:
- Vận mày còn nhớ tao không?
Lê Văn Vận lắc đầu:
- Không nhớ.
Chánh án nhắc:
- Bị cáo không được xách mé, phải nói “thưa ông”.
Vận đánh mắt về phía ứng Thị Sót cười nhạt:
- Tôi chưa bao giờ gặp ngưòi đàn ông này và cũng không có lý do gì gọi hắn bằng ông.
Sót đứng dậy chỉ tay vào mặt Vận:
- Tất cả những kẻ phản cách mạng chống lại Cải cách ruộng đất đều phải gọi bà con bần cố nông bằng “ông”, “bà”, nghe rõ chưa?
- Rất tiếc tôi không phải là kẻ phản Cách mạng.
- Để rồi xem, chẳng phải riêng mình tao mà đã có rất nhiều bà con được Đội... - Nói đến đây Sót vội bỏ lửng khi thoáng thấy ánh mắt giận dữ của đội Lạc.
Xuýt nữa thì lộ tẩy. Để gỡ thế bí, anh ta đứng dậy lên giọng cấp trên nhắc nhở:
- Đề nghị đồng chí chánh án bình tĩnh điều khiển phiên toà.
ứng Thị Sót đã kịp thời lấy lại tư thế chủ toạ, bảo người đàn ông rách tai:
- Nói rõ tội trạng của hắn đi.

Tôi là Trần văn Sệ, nhân viên tiếp phẩm trong cơ quan huyện, tháng bảy năm năm hai, cơ quan tản cư sang Ngân Bình, chính mắt tôi đã nhìn thấy Lê Văn Vận cùng với Hoàng Thịnh và Thái Khắc Toả rủ nhau về Đông Thành khai hội Quốc dân đảng. Cơ sở Quốc dân đảng ở Đông Thành do lão huyện Hựu cầm đầu.
- Này anh kia, - Vận nhếch môi cười nhạt - Tôi ở cơ quan huyện Nam Thành nhiều năm chưa hề thấy một người vừa rách tai vừa chột mắt như anh, đừng có vu oan giá hoạ cho người ta.

Gã cố nông lấm lét nhìn đội Lạc, được ông chủ khuyến khích, anh ta bỗng nhiên cất giọng khê nồng như kép tuồng ra bộ :
- Chính mắt tao đã nhìn thấy mày ngồi uống rượu với huyện Hựu ở nhà hàng Ngũ Lâm...

Lê văn Vận bật cười bảo:
- Tôi không chấp anh nhưng hãy về bảo với những kẻ đã xui anh rằng, chúng rất ngu vì nói dối cũng không biết đường. Năm năm hai chỉ có ban Tài chính và Nông hội tản cư sang Ngân Bình còn cơ quan Huyện uỷ và Uỷ ban hành chính kháng chiến vẫn ở lại Đông Thị bám địa bàn tổ chức đánh giặc. Đồng chí phó chủ tịch, đồng chí trưởng công an và cả ông chủ tịch Liên Việt đều biết rất rõ việc này, đề nghị Toà cho được mời đến làm chứng.

Tay rách tai bắt đầu lúng túng. Hắn gần như quên sạch những gì người ta dặn từ hôm trước bởi trình độ i tờ mới học được dăm bữa, và vốn từ vựng quá ít ỏi không đủ sắp xếp chúng lại với nhau theo trật tự ngữ pháp để tiếp tục vở diễn.

Trên ghế chánh án, ứng Thị Sót lừ mắt giục:
- Nói tiếp đi!
Trần văn Sệ ngập ngừng mãi rồi bỗng nhiên nói một câu ngoài kịch bản làm cả vị phái viên cấp trên, cả đội Lạc và ứng Thị Sót đều choáng váng:
- Tôi... những lời ông Lạc dặn hôm qua... tôi... quên sạch rồi.
Vận lắc đầu tỏ vẻ thương hại:
- Thật khổ cho nhà anh, có tuổi rồi mà còn nghe ngưòi ta xui dại, chưa biết chừng nay mai chính anh cũng bị khép vào tội Quốc dân đảng cũng nên.
- Về chỗ! – Bùi Quốc Tầm đứng sau buộc phải đứng dậy quát khẽ - Đã dặn thế mà
cũng không nói nên hồn.
Chánh án nhìn xuống giọt đình gọi:
- Toà mời chị Khúc Thị Hài.

Vận thoáng giật mình :" Bọn này nham hiểm thật. Chúng định dùng sự việc trong quá khứ để xử tử mình đây. Thôi được, đến đâu thì đến". Khúc Thị Hài mặc áo bông chần vải xanh, váy sồi, mặt đã có những vết nhăn khá rõ trông già hơn cái tuổi ba tám, bước đi loạng choạng như người say. Bà vợ ông chủ tịch khẽ ngẩng đầu nhìn lướt qua các vị quan toà rồi lại gần vành móng ngựa hỏi:
- Chắc anh Vận không quên người đàn bà khoèo tay này chứ?
- Không quên - Vận gật đầu.
- Bao nhiêu năm bỏ mẹ con tôi anh đi những đâu?
- Đi nhiều nơi. - Ông chủ tịch trả lời nhấm nhẳng.
Chánh án nhắc:
- Không được gọi bị cáo bằng anh.
Khúc Thị Hài im lặng một thoáng rồi từ từ ngẩng lên bảo ứng Thị Sót:
- Dù sao người ta cũng là chồng tôi, tôi không thể...
- Nhà chị phải chấp hành quy chế của ủy ban Cải cách. - Sót răn đe - Số phận bà hai
Thoả và hai đứa con trai hoàn toàn phụ thuộc vào việc chị vạch tội Lê Văn Vận.
- Dạ, Tôi biết...
Khúc Thị Hài cắn môi. Qúa khứ tủi nhục bất giác hiện ra. Mẹ con chị ta bị bà cả Huê đuổi ra khỏi nhà sau cái chết của chánh Đàm . Lê Văn Vận dắt bà Ba đi biệt xứ, nếu không được ông lái Lự cưu mang thì mấy mẹ con bà cháu đã chết mục xương từ lâu rồi. Tất cả những nỗi trầm luân ấy đều do một tay anh ta gây ra.
- Thưa quý toà, tôi tuy là con ông chánh Đàm nhưng chẳng khác gì người ở. Chuyện nhân duyên cũng do ông Chánh và bà Cả sắp đặt. Nghĩ rằng anh Vận là người thật thà, khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn, ai ngờ có với nhau hai mặt con tôi mới biết anh ta là kẻ bạc tình bạc nghĩa, chẳng những thông gian với bà ba Lánh mà còn giết chết bố vợ rồi đem nhau đi trốn. Từ đó Vận bỏ mặc vợ con sống vất vưởng trong sự hắt hủi của gia đình, họ hàng. Hành vi của Lê Văn Vận hoàn toàn không xứng đáng với tư cách của một cán bộ Việt Minh, một chủ tịch huyện. Tôi đề nghị toà xử phạt nghiêm khăc để làm gương cho kẻ khác.
Khúc Thị Hài vừa đi xuống thì hội trường lại bị vỡ ra bởi những tiếng hô đến khản cả giọng :
- Đả đảo Lê Văn Vận!
- Tử hình! Tử hình!

Ngọn đòn mà Khúc Thị Hài vừa giáng xuống làm Lê Văn Vận mất tinh thần. Anh ta cúi đầu, thỉnh thoảng khẽ thở dài. Chánh án ứng Thị Sót chưa kịp gọi nhân chứng tiếp theo thì một ông già tóc bạc, khập khiễng lách lên. Đó là một bần nông người Mạc Điền, năm Bính Tuất có cô con gái bị bọn tay chân của Đỗ Kim bắt cóc. Ông ta chỉ mặt Lê Văn Vận bảo :
- Thời thực dân đế quốc phong kiến cai trị ở vùng Ba Tổng chưa bao giờ xẩy ra những chuyện tầy đình như thế. Vậy mà các ông Việt Minh vừa giành được chính quyền đã dung túng cho bọn lưu manh hãm hại dân lành. Thằng Đỗ Kim là dân cờ bạc cả tổng này ai chẳng biết, tại sao các ông cử nó làm chủ tịch xã? Chính vì thế bọn đầu trộm đuôi cướp mới núp dưới bóng nó mở sòng bạc, bắt cóc đàn bà con gái hãm hiếp rồi quẳng xuống sông Lăng. Bà con gửi đơn kiện thì bị huyện dìm đi. Hôm nay tôi đến là để đòi sự công bằng. Ông chủ tịch huyện, hãy trả con gái cho tôi, nếu không tôi phải liều...

Nói đến đây bất ngờ ông già rút trong cạp quần ra con dao nhọn nhảy bổ lên đâm Lê Văn Vận. Cũng may hai dân quân cảnh giác can thiệp kịp thời nếu không hẳn là đã có án mạng. Ngoài cửa đình Lương Văn Mực giơ tay hô to :
- Đả đảo tên Việt gian Lê Văn Vận!
- Đả đảo!
- Kiên quyết bắt tên Quốc dân đảng đền mạng!
- Kiên quyết! Kiên quyết!

Vận thoáng rùng mình khi nhìn thấy một rừng cánh tay giơ lên cùng với âm thanh rùng rùng như gió lốc tưởng có thể đẩy bật tung mái đình lợp ngói âm dương lên chín tầng trời.
- Thưa bà con, cho tôi nói…
- Câm ngay đi! Tội trạng đã rõ ràng còn nói gì nữa.
- Thưa đồng bào! Tôi bị oan, đề nghị Toà cử người về huyện lấy nhân chứng.
Đến lúc ấy, ứng Thị Sót mới đứng dậy liếc nhìn đội Lạc, đội Yên rồi thong thả kết luận:
- Tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận đã rõ không một ai có thể thanh minh cho hắn được, bà con bần cố nông thấy tôi nói có đúng không?
- Đúng lắm. Toà xét xử công minh lắm .
- Xin mời bà con tạm nghỉ để Toà hội ý.

Vì đình Cả là nơi bàn việc của chế độ cũ năm gian thông nhau không có phòng riêng nên các quan toà phải kéo nhau vào hậu cung nghị án. Thực ra bản án đã có sẵn, có thể tuyên ngay, nhưng vị đại diện của Đoàn Cải cách bảo phaỉ làm thế mơí đúng trình tự xét xử, đồng thời cho nhân dân thấy được tính dân chủ,công bằng của nền tư pháp trong chế độ mới.

Bên ngoài một số thiếu niên quá khích, sau khi thì thầm với xã đội Mực, lần lượt chen vào đình, mỗi đứa đều dấu một cái gì đó dưới áo. Đến gần vành móng ngựa, bất chợt một thằng choai choai hô to : “ Đả đảo tên Quốc dân đảng!”, thế là bọn trẻ ranh, đứa thì quệt mực tàu vào mặt, đứa ném cà chua thối vào áo, đứa trát một nắm bùn vào đầu làm ông chủ tịch phút chốc biến dạng chẳng khác gì thứ hình nộm cổ quái. Khúc thị Hài thừa lúc trong đình còn ít người đến bên Lê Văn Vận sụt sịt khóc.
- Anh hiểu cho, tôi vẫn thương anh nhưng bị người ta ép buộc, không đấu anh thì thằng Nghiên, thằng Khải bị bắt.
Vận nhếch mép cười cay đắng :
- Cô mắc lừa chúng nó rồi. Tôi mà chết, hai thằng khó mà ngẩng đầu lên được.
- Làm thế nào bây giờ hở mình?
Vận gắt :
-Thôi về đi! Ngày mai không được cho chúng nó ra pháp trường.
án đã nghị xong. Khi mọi người đã vào đình đông đủ, ứng Thị Sót đứng lên dõng dạc đọc thuộc lòng mấy câu ngắn gọn do đội Lạc soạn thảo:
- Căn cứ vào tội trạng của bị cáo Lê Văn Vận, nhân dânh Uỷ ban Cải cách nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Toà tuyên bố hắn tội tử hình.
Cả hội trường lặng đi mấy giây rồi bất ngờ đồng thanh hô to:
- Đả đảo tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận!
- Đả...đảo...!
Phiên toà vừa kết thúc, đội Lạc gọi Bùi Quốc Tầm và ứng Thị Sót rỉ tai bảo:
- Đồng chí phái viên cấp trên yêu cầu phải thi hành bản án ngay chiều hôm nay.

Lần này nơi thi hành án không phải đồng Xưa mà là đồng Đấu. Dân quân đã đào huyệt và chôn sẵn chiếc cọc bằng một đoạn tre trên miệng hố. Hầu hết bà con đều không về nhà mà rồng rắn kéo nhau xuống pháp trường. Đồng Đấu là khu ruộng bỏ hoang từ nhiều năm nay cách xa làng Cùa năm cây số. Đoàn người mỗi lúc một đông vì cứ qua mỗi làng lại có thêm bần cố nông nhập bọn.

Trời lạnh, những hạt mưa bụi bay lất phất vì gió bắc đã tràn về. Rất nhiều người không có quần áo ấm, mặc phong phanh run lên vì rét. Bọn trẻ chạy nhảy chán, giờ đói bụng, ngồi vạ vật dọc đường, có đứa ngồi chồm chỗm trên lưng mẹ ngủ gà gật. Mấy lá cờ thấm nước ngả màu tím sẫm bay phần phật. Những người cầm cờ cố giữ cán cho thật thẳng, ưỡn ngực hiên ngang bước như trong cuộc diễu binh.

Lê Văn Vận bị trói hai tay vào cột tre, mắt bịt băng đen. Anh ta im lặng, khuôn mặt lạnh như đá không hề biểu hiện thái độ gì. Bẩy dân quân được chỉ định hành hình xách súng đứng về một bên. Xã đội trưởng Mực bố trí chỗ đứng cho từng người rồi lại gần ông chủ tịch bảo:
- Cho phạm nhân nói lời cuối cùng.
Vận lắc đầu:
- Không cần.
- Các đồng chí dân quân chuẩn bị lên đạn!
Tiếng khoá nòng lách cách nghe khô khốc đập vào trí não rợn cả người.
- Bắn!

Một loạt tiếng nổ, Mùi thuốc súng vừa khét vừa hăng hắc làm một số người đang bị lạnh hắt hơi. Vận bị trúng ba viên, một vào cằm vỡ quai hàm, máu từ động mạch chủ phụt ra như chiếc vòi bơm áp lực. Một nửa hàm răng bên trái nhoe nhoét máu bật khỏi mồm nhưng vì vẫn còn dính dây chằng nên cứ lủng lẳng trước ngực chưa chịu rơi xuống. Khuôn mặt Lê Văn Vận lúc này biến dạng một cách khủng khiếp chẳng giống người cũng chẳng giống ma quỷ. Nó là một quái nhân khiến cho bất cứ ai nhìn vào cũng phải rùng mình.

Lần này chủ tịch Bùi Quốc Tầm không bị mất mặt trước vị phái viên cấp trên vì phạm nhân chết ngay từ loạt đạn đầu. Người ta nhanh chóng khám nghiệm tử thi rồi cởi dây trói hất cái xác xuống hố. Lúc ấy đã xế chiều. Pháp trường vừa mới đây có cả ngàn người khí thế hừng hực xông lên tận trời, giờ vắng tanh vắng ngắt, trả lại cái tĩnh mịch muôn thuở của cánh đồng hoang. Đây đó những gò đất lô xô mọc đầy lau lách chẳng biết được đắp từ bao giờ trông chẳng khác gì những con lạc đà với hàng loạt bướu to nhỏ khác nhau, nằm phục hai chân trước chờ ông chủ trèo lên lưng. Hoa bìm bìm vắt trên những cành dâu dại nở tím cả chiều đông. Hoa dành dành xoè cánh trắng điểm chút nhuỵ vàng nhô lên giữa những bụi mẫu đơn đỏ, đứng xa trông như đám hoa mò thường mọc trên bờ đầm Ma. Cánh đồng lạnh lẽo thoang thoảng mùi tử khí nhập nhoà trong buổi hoàng hôn, thỉnh thoảng nghe thấy tiếng gió chạy lao xao, tiếng loài chim lợn bay thấp và tiếng cú rúc đâu đó trong những bụi núc nác. Khúc Thị Hài ngồi một mình bên mộ Lê Văn Vận. Người đàn bà này ngay cả lúc chồng bị tử hình cũng không nhỏ một giọt nước mắt. Chị ta đã hoá đá sau khi biết mình bị lừa. Cái sự bị Đội Cải cách lừa còn đau hơn nhiều so với việc mất người thân, bởi sự lừa đảo những thân phận đã gửi hết niềm tin vào mình nó đê tiện hèn hạ làm người ta kinh tởm, hơn thế nữa đây lại là chuyện lừa đảo có tổ chức. Chị còn nhớ, chiều hôm trước mấy dân quân lạ hoắc khoác súng vào nhà ông Lái. Một người tự xưng là xã đội cho biết, họ phải vượt sông Lăng, đi hàng chục cây số sang đây là để yêu cầu chị làm một việc cho sự nghiệp Cách mạng. Toán dân quân dẫn Khúc Thị Hài ra cồn Láng, chỉ đến khi sang sông chị mới hiểu mình bị áp giải về làng Cùa. Trước khi ra khỏi kẻ Bòng, Lương văn Mực còn dặn ông cựu chủ tịch Liên Việt xã:
- Không được cho thằng Nghiên, thằng Khải biết là mẹ nó đã sang sông, nếu để lộ chuyện ông hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước đội Cải cách.

Bị giải về đình Cả, Khúc Thị Hài được đưa vào gặp Bùi Quốc Tầm và mấy bà cốt cán. Không cần rào trứơc đón sau, đội Lạc, người chỉ huy cao nhất Đội Cải cách xã Đoàn Kết nói ngay:
- Chúng tôi phải cho người sang làng Bòng đón chị về đây vì chị là nhân chứng quan trọng trong vụ án Lê Văn Vận. Anh ấy hiện đang bị tạm giam, ngày trước có mắc một số sai lầm cần phải được làm rõ.
Khúc Thị Hài tái mặt. từ trước đến giờ chị ta chưa được tiếp xúc với các cán bộ chính quyền kiểu này nên run lắm.
-Thưa... tôi phải làm gì?
Đội Lạc nhỏ nhẹ bảo:
- Chị là con gái ông chánh Đàm . Ông ta tuy chết rồi nhưng tội phản dân hại nước cả tổng đều biết, nếu còn sống cũng không thoát khỏi án tử hình. Trong gia đình họ Khúc chỉ có chị là không thuộc thành phần bóc lột lại bị mẹ con bà Cả hắt hủi đuổi ra khỏi nhà, Đội Cải cách yêu cầu chị khai báo thành khẩn những hành vi sai trái của anh Vận khi còn ở nhà. Chị càng nói thật, càng thể hiện lòng căm thù thì càng chứng tỏ mình trong sạch, không liên quan đến bọn Quốc dân đảng chống phá công cuộc Cải cách cuả Chính phủ.

Khúc thị Hài là người thật thà, cả tin nghe ông đội nói bùi tai, ngập ngừng hỏi:
- Nhưng mà nói thế sợ rằng nhà tôi bị tội...
- Chị yên tâm . – Bùi Quốc Tầm kéo xong điếu thuốc lào, phà khói mù mịt nói chêm vào – Anh Vận là chủ tịch huyện được cấp trên bảo vệ không thể bị đối xử như bọn địa chủ cường hào. Chị dám dũng cảm đứng lên tố cáo sai lầm của anh âý trong quá khứ cũng chính là cứu tính mạng và danh dự hai cậu con trai. Sau này, chính quyền sẽ cấp cho gia đình giấy xác nhận thành phần bần cố nông, không liên quan đến địa chủ phản động.

Đội Lạc nói ngọt như mía lùi làm Khúc Thị Hài không thể không tin vào sự nghiệp Cải cách. Sau một đêm suy nghĩ, chị quyết tố cáo Lê Văn Vận với tất cả những tội trạng mà anh ta đã gây ra hồi còn ở làng Cùa mà không biết tự tay mình ký vào bản án tử hình của chồng.

Đêm xuống từ lúc nào Khúc Thị Hài không biết. Màn sương đục lơ lưng giăng ngang trời. Trăng thượng tuần bị nhoè đi bởi phải lặn ngụp giữa những cồn mây. Giữa đồng hoang lờ mờ có vài bóng đen đang chuyển động dần về phía mấy gò đất. Có lẽ là ma. Chị ta quỳ sụp xuống vái lấy vái để:
-Trăm lạy anh Vận sống khôn chết thiêng, tôi bị người ta ép buộc chứ thực tâm không muốn vu oan giá hoạ cho anh...
- Kìa mẹ, sao mẹ lại làm thế? Dù sao ông ấy cũng là bố chúng con.
Thì ra là hai anh em Lê Văn Khải. Khúc Thị Hài như thấy có cái gì vỡ ra trong lòng, bất giác oà khóc, giọng tức tưởi:
- Các con ơi mẹ bị người ta lừa...
Lê Văn Nghiên trách:
- Mẹ sang đây mà không cho chúng con biết. Nếu biết không bao giờ chúng con để mẹ đấu bố.
- Chiều hôm qua, lúc hai đứa đánh lưới trên sông, dân quân làng Cùa sang bắt mẹ về. Họ dặn ông Lái không được nói với các con.
- Quân khốn nạn! - Lê Văn Khải nghiến răng chửi.
Lê Văn Nghiên nói:
- Mãi đến tối không thấy mẹ về, bà đoán có chuyện chẳng lành mới bảo chúng con sang.
Lê Văn Khải lấy trong bọc ra một nắm hương, bật diêm châm lửa, cắm lên vầng cỏ trên mộ bố rồi lầm rầm khấn:
- Bố tha lỗi cho mẹ và phù hộ cho chúng con. Cuộc đời này còn lắm bất công nên bố phải chết oan, nếu có khôn thiêng hãy về vật chết những kẻ giáng hoạ cho nhà ta.

Bó hương gần tàn. Ba mẹ con đang định quay về thì từ phía sau có hai người đàn ông khiêng cỗ quan tài mộc và một người đàn bà áo xô khăn trắng tay cầm bát cơm quả trứng lặng lẽ đến bên như những cô hồn. Cỗ quan tài vừa hạ xuống ngưòi đàn bà liền đến bên mộ Lê Văn Vận lầm rầm khấn. Một trong hai người đàn ông bật lửa thắp hương. Khúc Thị Hài cho rằng họ là thân nhân của những địa chủ bị bắn ngày hôm qua nên lại gần bảo:
- Các người nhầm mộ rồi.
Người đàn bà mặc đồ tang lắc đầu:
- Tôi không nhầm. Đây là mộ ông chủ tịch Lê Văn Vận mới bị bắn chiều nay.
- Các người là ai? - Lê Văn Khải hỏi.
- Hai cậu là Khải và Nghiên phải không?
- Sao bà lại biết chúng tôi?
- Việc ấy sẽ nói sau, điều cần thiết lúc này là phải mai táng tử tế cho ông chủ tịch. Ông ấy tuy có lúc vấp ngã nhưng là người tốt không thể để nằm lạnh lẽo như thế dưới ba thước đất. Tôi đã mua ở phố cỗ ao quan và nhờ hai bác đây chôn cất giúp. Nào, bây giờ hai bác đào huyệt ở sát gò đất kia.

Lê Văn Khải hỏi:
- Sao lại phải đào huyệt khác?
Người đàn bà vừa lấy trong quan tài ra chiếc mai, chiếc cuốc và chiếc xẻng đưa cho từng người rồi hạ giọng thì thầm:
- Để phòng xa. Thời buổi này việc gì người ta cũng có thể làm.

Lê Văn Vận nằm úp sấp, chân tay co quắp, một bên quai hàm bạnh ra, mặt sưng phồng hiện ra dưới ánh nến rất khủng khiếp. Người đàn bà cởi bộ quần áo bẩn thỉu của ông chủ tịch rồi mặc vào bộ bà ba mới màu gụ. Cái xác đã cứng, khó khăn lắm mới nắn được tay chân về đúng vị trí với sự trợ giúp của chai rượu ngang. Vải liệm được chuẩn bị sẵn cùng với quan tài. Đó là một miếng diềm bâu khá dài. Anh em Khải Nghiên tự tay quấn cho bố, đến khi nắp quan tài vừa đóng thì vành trăng non cũng lặn. Càng về khuya trời càng tối. Nến dưới huyệt cũng đã tàn. Mọi người chỉ nhìn thấy nhau như những cái bóng. Lê Văn Nghiên có mang theo chiếc đèn chai nhưng không dám thắp. ánh sáng bất chợt giữa khu đồng hoang chắc sẽ làm đám dân quân làng Báng, làng Quao và Đậu Khê nghi ngờ. Khốn khổ thay cho chàng ngư phủ sông Lăng, sống trên cõi dương gian đã gặp không ít đoạn trường đến lúc chết xuống âm phủ cũng phải chôn cất vụng trộm. Mọi người chụm nhau lại che ánh sáng để Lê Văn Khải bật diêm đốt nhang. Trong đêm đen, tàn hương phát tán nhảy nhót giống hệt lũ ma trơi, thỉnh thoảng một ngon gió lướt qua lại bùng cháy thành quầng lửa nhỏ toả ra đồng hoang thứ mùi lãng đãng của thế giới những hồn ma bóng quỷ.Thắp hương xong, người đàn bà mặc đồ tang bảo hai phu đòn và anh em Lê Văn Khải lấp ngôi mộ cũ đắp vầng cỏ trả lại nguyên dạng ban đầu. Trong làng, gà đã gáy dồn. Có lẽ đã quá canh ba. Bà ta quỳ xuống trước nấm mộ vái ba vái thì thầm điều gì đó rồi cùng hai người đàn ông vác mai cuốc quay đi. Bóng họ lẫn vào đêm tối rất nhanh. Trong khi ấy, Khúc Thị Hài vẫn ngồi lặng lẽ như pho tượng. Từ lúc quan tài hạ huyệt chị ta chẳng hỏi han gì người đàn bà lạ kia nữa. Hai mươi năm chờ đợi bây giờ mất hẳn anh ta, chị hận chồng nhưng lại trách mình nhẹ dạ cả tin, trách ông trời ăn ở bất công. Khi ba mẹ con bắt đầu rời khỏi khu đồng Đấu, Lê Văn Khải hỏi:
- Bà ấy là ai thế hả mẹ?

Khúc Thị Hài ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Có lẽ đấy là dì Ba Lánh, người mà các con phải gọi bằng bà trẻ, nhưng việc này phải giữ kín.
- Thế còn ông Lái?
- Tạm thời đừng nói gì với ông.

Thanh toán được Lê Văn Vận, vị phái viên lập tức viết báo cáo gửi cấp trên. Ông ta vốn là chính trị viên tiểu đoàn, được quân đội cử sang làm Cải cách ruộngđất từ đầu tháng bảy. Tối mồng tám tháng mười một, nghiã là một ngày một đêm sau khi chủ tịch huyện bị hành quyết, đội Lạc họp với ban Cốt cán để sơ kết giai đoạn đầu công tác Cải cách ruộng đất ở làng Cùa. Đây là một làng điển hình của xã Đoàn Kết được chọn làm thí điểm, nếu thành công sẽ nhân ra cả huyện Nam Thành. Dự họp, ngoài vị phái viên còn có đội Lạc, Bùi Quốc Tầm, xã đội Mực, Cấn Viết Tham, bí thư Lại Quang Nghinh, ứngThị Sót, Lê Thị Chĩnh và một vài cán bộ Nông hội. Đây là cuộc họp quan trọng nên không thể để nhiều người biết. Bùi Quốc Tầm đề nghị họp trong đình Cả nhưng đội Lạc quyết định chọn ngôi nhà cũ của ứng Thị Sót để bảo đảm bí mật. Từ khi Sót cùng bà mẹ nghễnh ngãng chuyển sang nhà chánh Bang, chỗ này tạm để cho lão Thốn vốn là dân ngụ cư chuyên nghề đóng cối ở nhờ. Mấy hôm nay lão sang làng Báng làm cho ông trưởng công an xã, ăn nghỉ luôn ở đấy nên căn hộ vẫn bỏ không, cổng dấp mấy cành rào. Hai dân quân dược phân công gác khoác súng đi lại trước sân thỉnh thoảng lại đảo một vòng ra phía sau bụi tre nhòm ngó. Lúc ấy khoảng hơn mười giờ. Trong nhà mọi người đang bàn cãi khá căng thẳng về trường hợp của Khúc Kiệt và Ngô Quỳnh thì bỗng nhiên có vật gì rơi đến bịch một cái từ trái nhà xuống.
- Lựu đạn! Tất cả nằm xuống! - Bùi Quốc Tầm vừa kịp thét lên thì quả lựu đạn mỏ vịt đang xì khói đã phát nổ. Một quấng lửa nhoáng lên như ánh chớp. Không khí bị co giật mạnh đến mức chiếc lọ sành vẫn dùng đựng nước của lão Thốn để trên đầu kệ gỗ bay vèo xuống gầm chõng vỡ làm mấy mảnh. Hai dân quân lúc ấy đang chụm đầu kéo thuốc lào, nghe tiếng nổ vội xách súng chạy vào, mặt cắt không còn hạt máu. Cảnh tượng sau vụ nổ bày ra thật khủng khiếp. Ông Điến chủ tịch Nông hội ngồi ngay dưới chái nhà, hai mắt bị sức ép mạnh lồi ra khỏi tròng lầy nhầy những máu là máu. Vị phái viên của đoàn Cải cách đang đứng nói, tay khua khua vào không khí hứng trọn một trận mưa mảnh gang theo hình nón ngược cắm chi chít từ mông đến bả vai giống như con nhím xù lông chuẩn bị “ bắn” kẻ thù. Xã đội Mực chưa chết ngay. Anh ta ngã chúi đầu xuống đất chân vẫn còn gác lên chiếc chõng tre ngâm cứ run bắn như con ếch lúc bị chặt đầu. Một mảnh gang chém dưới màng tai, máu xối ra làm Mực rống lên ồ ồ như tiêng con bê lạc mẹ. Bùi Quốc Tầm nằm dán bụng xuống đất, vòng hai tay che gáy bị bóc mất mảng lưng, lúc đầu trắng toát sau chuyển sang đỏ sẫm. Anh ta hốt quá, vừa thở phì phì như trâu kéo gỗ vượt dốc vừa rên rỉ:
- Phen này thì tôi chết rồi, ới đội Cải cách ơi!

Chỉ ít phút sau dân làng Cùa đã kịp thời có mặt. Bà con vốn rất nhanh nhạy với các sự kiện kiểu này. Họ chen chúc vòng trong vòng ngoài làm cản trở những người có nhiệm vụ cấp cứu nạn nhân. Trong xóm, ngoài ông lang Toạ chữa thuốc bắc không một ai hiểu gì việc xử lý những người bị thương. Họ khiêng mấy xác chết để sang một bên sau đó chuyển các nạn nhân ra đình.

Vụ nổ bất ngờ làm cả xã Đoàn Kết choáng váng. ở một vài ngõ xóm có tiếng mẹ khóc con, vợ hờ chồng. Đêm như bị xé nát ra bởi tiếng bước chân rầm rập truy bắt hung thủ của toàn thể lực lượng dân quân dưới sự chỉ huy của xã đội phó Cung Văn Luỹ. Đèn đuốc sáng như sao sa rồng rắn chảy vào các ngõ ngách. Tiếng hô hoán lúc gần lúc xa nghe như thiên hạ sắp đại loạn đến nơi. Phía điếm Bài Vân thỉnh thoảng có tiếng súng. Lũ chim đêm tá túc trên những cụm lồng ngộc hoặc tre gai giật mình bay nháo nhác. Chúng đã quen tiếng súng nhưng lại sợ lửa. Những cây đuốc nứa dài thườn thượt cháy rần rật được đám thanh thiếu niên vác đua nhau chạy khắp làng, ra cả ao Quan, ao Lịnh, đồng Gà tìm lũ phản động nhưng đến sáng bạch vẫn không thấy tăm hơi. Nhờ có ông Điến làm vật chắn, đội Lạc chỉ bị mảnh gang nhỏ xẻo mất một miếng da bắp chân, anh ta lập tức cử người về huyện trình báo đồng thời cho bắt ngay những kẻ tình nghi có liên quan đến vụ án. Ngoài Khúc Kiệt, Ngô Quỳnh, Đặng Thị Huê, phó lý Kiền đang bị giam từ trước, lần này Bùi Quốc Tầm ra lệnh xích tay một loạt phú nông, lính dõng, lính Bảo an và cả mấy tay trương tuần có máu mặt. Nhà giam ngoài đình chật cứng, Cung Văn Luỹ nghĩ ra cách tống bọn này vào tầng hầm nhà chánh Đàm tuy rằng ba hôm trước nó đã được chia cho mấy hộ bần cố nông Hai dân quân canh gác cũng bị thẩm vấn. Đội Lạc nghi, rất có thể họ thông lưng với Quốc dân đảng gây ra vụ khủng bố đẫm máu này. Mãi đến chiều hôm sau, Bùi Quốc Tầm mới nhớ đến anh em họ Lê. Đội Lạc lập tức ký lệnh cử Cung Văn Luỹ cùng bốn dân quân sang làng Bòng bắt khẩn cấp Khải và Nghiên.


7. Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên được Lái Lự coi như cháu nội cho ăn học suốt những năm mẹ con bà Hai sang sông.

Năm bốn tám sau khi đỗ bằng tiểu học hai anh em được lên tỉnh học trung học đệ nhất cấp. Khải giỏi hơn được học bổng. Hè năm năm hai, sau khi ra Hải Phòng thi tốt nghiệp, tất cả học sinh nam lớp đệ tứ đều phải đến nhà thương khám sức khoẻ, nếu được sẽ lên Đà Lạt vào quân trường học lớp sĩ quan cấp tốc. Trong lúc làm hồ sơ, phòng Nhì phát hiện ra bố đẻ của Lê Văn Khải và Lê Văn Nghiên là Việt Minh. Hai anh em lập tức bị bắt. Ông lái Lự phải chạy ngược chạy xuôi, lo lót các cửa mất một món tiền khá lớn mới lôi được hai thằng cháu ra khỏi trại giam Tân Xá. Về làng Bòng, một số thanh niên rủ Khải vào chiến khu Đông Triều nhưng anh ta vốn có mặc cảm trong quá khứ với ông bố Việt Minh nên xem ra không hào hứng lắm . Ông Lái bảo:
- Phải học lấy một nghề mà kiếm sống. Ta xem các cháu không hợp với nghiệp binh đao .
- Hay là chúng cháu lại ra tỉnh ? - Lê Văn Nghiên ngập ngừng hỏi.
- Ra tỉnh không bằng vào rừng . - Ông Lái khuyên - Thời buổi nhiễu nhương này ở nơi đô hội dễ hỏng người.

Mấy hôm sau Khải rủ Nghiên vào trại Vân Quan học nghề thợ mộc với ông phó Đằng. Ông Đằng khó tính mà lại dữ đòn, lơ mơ là lấy dùi đục quật ngay. Có những hôm hai anh em thâm tím cả người.Tối nào ông Phó cũng đánh xóc đĩa. Dân xóc đĩa toàn phường buôn bán đủ mánh khoé lừa lọc, có những hôm thua cháy túi ông Đằng phải gán cả cưa đục. Được khoảng nửa năm, nghề chẳng thành mà lại hay bị đòn oan, hai anh em đành bái biệt ông thày cờ bạc xuôi xuống mạn Yên Cư. Đến ngã ba dốc Cây Thị, Nghiên bảo:
- Anh em ta tạm chia ra mỗi người một hướng mà đi, hẹn đến tết gặp nhau tại nhà, vạn nhất có chuyện gì xảy ra sau này còn có người nuôi mẹ.

Khải gật đầu :
- Em nói phải. Thực ra đi tìm việc như thế này chỉ là bất đắc dĩ không hợp với chí hướng của anh.
Hành lý được chia làm đôi. Nghiên đi về phía thượng nguồn sông Vệ còn Khải rẽ sang vùng Sàn Lạng. Trời sắp tối mà đường có vẻ còn xa mới đến được thị trấn Gôi, Khải đang muốn tìm chỗ nghỉ qua đêm thì thấy giữa cánh đồng có mấy lò gạch đang toả khói. Anh ta tìm đến nơi gặp bọn phu lò đang ăn cơm tối. Khi biết được ý định của Khải, một bác rậm râu đã luống tuổi, gầy hõm mắt, chỉ vào ngôi nhà cạnh đầm nước cách đây chừng hai ba trăm thước bảo:
- Cô chủ ở trong ấy vào mà xin, ở đây không có chỗ ngủ đâu.

Bọn thợ gạch nghe xong cười hô hố làm Khải sinh nghi định bỏ đi. Một gã mặt tròn, da xù xì như da cóc, cái mũi chẳng khác gì tẩu thuốc lá nháy mắt với bác rậm râu rồi hỏi:
- Có biết chữ không?
Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Biết chút ít.
- Thế thì vào nhà đi, cô chủ đang cần người quản lý đấy.
Khải làm ra bộ ngây ngô hỏi lại:
- Người ta cần sao các bác không làm lại đẩy tôi vào?
- Là vì trông cậu có dáng thư sinh. - Người rậm râu cười bảo - Chúng tôi toàn loại vai u thịt bắp cứ đến gần là cô chủ nhăn mặt, chun mũi.

Đã vậy thì cứ thử xem “cô chủ” là ai mà bọn thợ lò thích đem ra giễu cợt đến thế. Mà tại sao lại là “cô chủ” chứ không phải bà chủ? Đường cũng không khó đi lắm nhưng vì Khải đã cuốc bộ suốt ngày, đôi chân mỏi rã rời lên phải lê bước khá lâu mới đến khu nhà có ánh đèn. Người ra mở cổng là một bà già bé loắt choắt chẳng khác gì đứa trẻ nhưng chân tay luôn ngọ nguậy không lúc nào yên. Bà ta nhìn một thoáng từ đầu tời chân cùng chiếc tay nải nhuộm vỏ già của ông khách trẻ hỏi :
- Cậu là người ở đâu ta?
- Tôi ở xa được mấy bác lò gạch chỉ vào trọ nhờ.
- Mời cậu vào để tôi báo với cô chủ.

Lại “cô chủ”, Khải thầm nghĩ, sao ở một nơi đồng không mông quạnh như thế này lại có một phụ nữ dở hơi nảy ra ý định kinh doanh lò gạch, cái nghề đáng ra phải của đám mày râu. Chừng mấy phút sau, một cô gái, đúng hơn là một người đẹp chừng hăm mốt hăm hai, tóc bồng rẽ đường ngôi lệch, mặt trái soan, mũi dọc dừa, cặp môi ướt, từ trong đi ra. Cô ta nhìn Khải một thoáng rồi hỏi người ta bằng thứ ngôn ngữ rất là “Liêu trai”:
- Quý khách chắc là từ xa đến đây?
Khải bật cười :
- Dạ thưa chị, tôi là thư sinh nghèo, gặp thời loạn lạc phải bỏ nhà đi kiếm việc làm.
Mắt người phụ nữ chợt sáng lên :
- Anh có biết tính toán không ?
- Thưa...tôi đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
Cô chủ bỗng nhiên thẫn thờ, mắt mơ màng như đang chìm trong giấc mộng đêm hè. Lúc ấy Khải mới để ý trên tay chị ta vẫn còn cầm cuốn “Hồn bướm mơ tiên” của Khái Hưng.

Cũng không khó khăn gì trong việc tìm hiểu cô chủ lò gạch. Chị ta tên là Trâm, tốt nghiệp tiểu học, sau khi đọc hàng loạt tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thì thêm một mỹ tự vào phía trước tên là Kiều Trâm . Kiều Trâm là con vợ bé một ông phán Dây thép. Bà vợ cả có một sạp vải ở chợ Lớn, thỉnh thoảng nổi máu sư tử Hà Đông lại thuê bọn “anh chị” đến đánh ghen. Bà Hai không có con trai, chỉ được mỗi Kiều Trâm, bị lép vế, không ở được phải dắt díu nhau về Đa Hội mở một quầy tạp hoá kiếm sống. Ông Phán tuy sợ vợ cả một phép nhưng vẫn dấm dúi chu cấp cho hai mẹ con. Mấy năm gần đây, Việt Minh nổi lên lập vùng tự do, việc đi lại giữa thành thị và nhà quê rất khó khăn, bà Cảnh nhờ ông anh ruột đứng ra mở lò gạch, thuê nhân công đốt, bán cho dân địa phương. Đang làm ăn phát đạt thì ông em bị cảm mạo lăn đùng ra chết, vậy là hai mẹ con đành phải cáng đáng lấy công việc.

Kiều Trâm được chiều từ bé, suốt ngày con sen dẫn đi chơi, lớn lên lại ham đọc sách nhất là loại tiểu thuyết diễm tình mà nhân vật chính là “chàng” và “nàng” con nhà khá giả ở thành phố có chút học vấn, thích vượt ra khỏi khuôn khổ lễ giáo phong kiến, đòi nam nữ bình quyền và hôn nhân tự do. Nhưng ở vùng quê thâm sơn cùng cốc này, người dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời kiếm đâu ra ý trung nhân như cô vẫn hằng tưởng tượng qua những trang sánh của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo? Ngày tháng qua đi, Kiều Trâm chờ người trong mộng đến mỏi mòn sinh ra tính trầm uất làm bà mẹ phát hoảng phải mời thầy lang đến bốc thuốc. Ông nào bắt mạch xong cũng lắc đầu bảo:
- Bệnh của cô nhà là tâm bệnh, lũ người trần mắt thịt chúng tôi không chữa được.

Ngày nào Kiều Trâm cũng mang “ Tắt lửa lòng “, Lạnh lùng”, “Cô giáo Minh”, “ Đoạn tuyệt” rồi “Hồn bướm mơ tiên” ra đọc. Có hôm đang giữa trang sách cô khóc rưng rức như trẻ con bị đánh oan. Nhìn bề ngoài Kiều Trâm không có vẻ gì là bệnh hoạn, nhưng cứ cầm cuốn tiểu thuyết Tự lực văn đoàn nào đó lên là ánh mắt cô ta trở nên thảng thốt, lúc thì đầy vẻ chán chường lúc lại cháy bỏng một thứ đam mê tưởng như có thể thiêu trụi bất cứ thứ gì bị nó chiếu vào.

Khải đến, bà Cảnh mừng thầm ngỏ ý với anh ta ở lại vài ngày để Kiều Trâm có bạn. Đối với Khải, cuộc chu du trên đường thiên lý là vô định chẳng có gì phải vội. Việc làm đẹp lòng một tiểu thư hơn mình hai ba tuổi bằng cách tán nhăng nhít những đoạn văn sướt mướt trong “Nửa chừng xuân” hoặc “Đời mưa gió" chỉ là chuyện vặt. Cuối cùng Khải cũng nhận lời làm quản lý lò gạch, nghĩa là thay mặt bà chủ xuất gạch chín, đếm gạch mộc, ghi chép số hàng bán ra và quyết toán sổ sách. Công việc quá dễ đối với một chàng tú tài bán phần. Kiều Trâm thích lắm, suốt ngày hát “Đêm đông” rồi “Thu quyến rũ” học được thơì còn ở thành phố. Ngày nào “cô chủ” cũng ra lò gạch kể cả những lúc trời mưa.

Khải thấy cô ta làm vướng công việc của mình nên nói khéo :
- Trâm về đi, ở ngoài này dầm nước mưa sẽ bị cảm lạnh.
- Anh đuổi tôi đấy à?
- ấy chết, ai lại dám thế, là tôi sợ chị bị ốm bà chủ quở trách.
- Em không đồng ý anh gọi em bằng chị đâu, nghe nó khách sáo thế nào ấy.
- à vâng, tôi lỡ lời, chị ..
- Lại "chị" rồi . Trông Trâm già lắm phải không?
- Không, Trâm đẹp lắm, đẹp hơn cả Mai trong “Nửa chừng xuân”.
- Anh thấy Trâm đẹp thật à ?
- Thưa tiểu thư, tôi không dám nói dối .

Trâm cười rất hồn nhiên rồi lại hỏi :
- Anh thấy Tuyết trong “ Đời mưa gió” như thế nào?
- Đáng trách . - Khải cố tình nói khác với ý mình để thử phản ứng của “cô chủ” đối với nhân vật này.
- Anh đúng là đồ không có tim .- Trâm phụng phịu ra vẻ giận dỗi - Đấy thực sự là người con gái đáng thương bị hoàn cảnh đẩy vào con đường lầm lạc. Trâm cho rằng các tác giả khi viết đã tìm được một nguyên mẫu trong đời thực. Thân phận đàn bà khổ quá phải không anh?
- Vâng. Khổ thật.
- Anh sao thế?
- Tôi vẫn bình thường mà.
- Này đầu óc để đâu thế ? Hay là anh vẫn bị mấy trăm viên gạch vỡ ám ảnh.
- Đâu có.
Ờ lò gạch giữa năm thứ hai thì ngày càng phức tạp. Đó là việc Kiều Trâm nhất quyết đòi Lê Văn Khải phải làm rể bà Cảnh. Chuyện này xem ra khá nghiêm trọng nếu chưa nói là nguy hiểm, vì thực chất anh em Khải vâng lời mẹ đi học nghề chứ không phải tìm vợ. Bây giờ đùng một cái mang cô tiểu thư hàng ngày chỉ có mỗi việc đọc tiểu thuyết ái tình về làng Bòng thì con mặt mũi nào nhìn ông lái Lự đã đã cưu mang mấy mẹ con bà cháu từ gần hai chục năm nay. Phải tìm cách chuồn thôi, nếu không mình mắc thêm một món nợ nữa. Nợ tiền còn trả được chứ nợ tình thì muôn đời không thể. Công bằng mà nói, đây là một đám khá giả. Bà mẹ gốc gác kẻ chợ mà làm ăn cơ chỉ, đối xử với người làm công rất có tình. Cô con gái tuy hơn anh ta hai tuổi nhưng vừa xinh đẹp lại vừa có của hồi môn, nhiều chàng trai dẫu nằm như mơ giữa ban ngày cũng chẳng dám tơ tưởng. Đã mấy lần bà chủ bảo :
- Em Trâm nó mến cậu là người thật thà lại có học, cậu thấy thế nào?
Khải tìm kế hoãn binh:
- Nhà cháu gia cảnh bần hàn lại cách sông cách đò, chưa được phép của mẹ cháu chưa dám nghĩ đến chuyện trăm năm.
- Tưởng gì, chuyện ấy không ngại, mấy hôm nữa cậu đưa tôi về quê thăm bà cụ.
- Cứ để thư thư đã bà ạ.- Khải không ngờ bà chủ sốt sắng đến thế nên trong lòng thực sự hoảng sợ. -Từ đây về vùng quê cháu phải đi mấy ngày đường, lại qua bao nhiêu đồn bốt, nguy hiểm lắm, đi lúc này không tiện.

Bà Cảnh vẫn tỏ ra rất kiên quyết:
- Hay là cậu chê nhà tôi không xứng?
Khải vội thanh minh :
- Cháu đâu dám, chỉ sợ trên đường gặp chuyện không may thì biết ăn nói thế nào với cô nhà . Bà đã có lòng thương thì để ít bữa nữa cháu về mời mẹ lên đây thưa chuyện.

Kế ấy xem ra tạm thời có kết quả. Ba tháng sau, lúc ấy đã hết mùa khô chuyển sang mùa mưa, thợ phơ được nghỉ đồng thời cũng đến hạn cuối cùng Lê Văn Khải không thể trì hoãn được nữa. Ngày mai anh ta phải về làng Bòng đón bà Hai lên Đa Hội xem mặt con dâu. Cả nhà đang chuẩn bị hành lý cho Khải thì có hai người đàn ông vận âu phục, mũ phớt, giày bốt tin đánh xi bóng nhoáng đột ngột xuất hiện. Chỉ một nhoáng mọi người đã biết chuyện. Ông phán Dây thép về thăm vợ con mang theo anh bạn vong niên trạc hăm chín, ba mươi làm thầy ký ga từ Hải Phòng sang đang rắp ranh làm khách đông sàng. Nghe được tin này Khải vừa buồn vừa vui. Buồn vì người đẹp sắp lên xe hoa dù sao tâm trạng cũng có chút luyến tiếc, vui vì thoát được cuộc tình chênh lệch mà thực ra anh ta cảm thấy mình vô duyên, kệch cỡm chẳng khác gì chàng Vọi gặp cô Hiền trên bãi biển trong tiểu thuyết “Trống mái”. Tiểu thuyết lãng mạn như thế thì đẹp thật, nhưng cuộc đời thực mà rập khuôn theo kiểu ấy thì chẳng biết rồi chuyện gì sẽ xảy ra.

Sáng hôm sau Lê Văn Khải dậy thật sớm, chẳng từ biệt ai, lặng lẽ xách khăn gói rời Đa Hội, mãi đến nửa buổi mẹ con bà Cảnh mới biết. Tiểu thư Kiều Trâm vội chạy tắt qua cánh bãi để nói lời chia tay nhưng lúc ấy anh ta đã cách khu lò gạch cả chục dặm đường.

Khải về làng Bòng được nửa tháng thì Nghiên cũng bất ngờ xuất hiện. Anh chàng này sau hàng tháng lang bạt, một hôm dạt vào làng gốm Phù Kiều rồi ở lại xin chân phụ việc. Làm được ít lâu, một hôm hỏi về gia cảnh, ông thợ cả biết Nghiên đã học trung học, nói tiếng Pháp làu làu với viên đồn trưởng đồn Châu Cầu liền bảo :
- Cậu có vốn học vấn như thế làm nghề này nó phí đi, hãy nghe tôi, ra thành phố xin vào trường Bách nghệ hoặc Canh nông mà học, sau này giúp ích cho đời.

Nghe ông cụ, Nghiên về nhà. Mấy tháng sau hai anh em đang định khăn gói quả mướp ra Hà Nội thì Hiệp định đình chiến được ký sau khi Việt Minh đánh cho quân đội Pháp một trận tơi bời ở Điện Biên phủ. Hoà bình được lập lại, hy vọng ra Hà Nội học càng mong manh khi vùng Ba Tổng bắt đầu thí điểm Cải cách ruộng đất.

8. Hai anh em vừa đi thả lưới ngoài bãi sông về, thấy mấy người lạ khoác súng bước vào nhà, Khải dã sinh nghi hỏi:
- Các ông tìm ai?
Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ bảo:
- Chúng tôi cần gặp Lê văn Khải và Lê văn Nghiên con trai tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận.
- Có việc gì?
- Đội Cải cách mời các anh sang làng Cùa. Giấy đây, đọc đi.
Khải liếc mắt nhìn những dòng chữ mất lỗi chính tả trên tờ giấy kẻ chấm xanh bên dưới có con dấu đóng bằng mực đen bỗng tái mặt.
- Chúng tôi bị bắt?
- Bà con bần cố nông nghi hai anh có dính líu đến vụ ném lựu đạn vào cuộc họp cốt cán ở làng Cùa, yêu cầu các anh sang bên ấy để làm sáng tỏ vấn đề.
Lê Văn Nghiên trừng mắt:
- Các người có điên không đấy? Suốt mấy ngày qua, anh em tôi vun ngô ở bãi Nổi, làm thế nào lại vượt sông Lăng sang làng Cùa gây án được.
- Cứ về bên ấy sẽ biết.
- Này các ông có kiểu bắt người gì lạ thế?
Cung Văn Luỹ quay lại phía sau hất hàm bảo mấy dân quân:
- Dẫn họ đi!

Mẹ con bà Hai lúc ấy vẫn còn ngoài cồn Láng chỉ có ông Lái đang lúi húi ở vườn chuối. Nghe thâý tiếng người qua lại có vẻ gay gắt, ông đoán chắc đã xảy ra chuyện gì liền chạy bổ về nhà nhưng không kịp.
Sang đến làng Cùa hai anh em họ Lê lập tức bị tống giam. Tối hôm ấy, đội Lạc, xã đội họ Cung, ứng Thị Sót, Lê Thị Chĩnh và mấy ông công an huyện lần lượt hỏi cung Khải và Nghiên. Ông công an mặc quần áo đen, dép cao su, mũ lưới khoảng ba tư ba nhăm, bàn tay có những ngón rất to, hỏi Lê văn Khải có lẽ đã đến lần thứ năm mươi:
- Đêm hôm mồng chín tháng chạp từ bẩy đến mười giờ đêm anh đi đâu?
- Tôi đã nói rồi, lúc ấy cả nhà tôi phải ngồi ở đình làng Bòng để nghe bần cố nông ôn nghèo kẻ khổ.
- Ai có thể làm chứng cho anh?
- Tất cả người xóm Bãi.
- Thế mà đồng chí Sự, đội trưởng Cải cách làng Bòng lại nhìn thấy các anh lảng vảng ở bờ sông Lăng từ chiều.

Khải cười khinh bỉ:
- Vậy ra ông đội Sự có mắt lửa con ngươi vàng của Tôn Hành Giả nhìn thấu ngàn dặm . Từ làng Bòng ra đến bờ sông theo đường chim bay ít nhất cũng bảy cây số. Theo tôi được biết, chiều hôm ấy họ họp ở nhà ông chủ tịch Phạm Công Vằn đến chập tối rồi uống rươụ thịt chó mãi gần tám giờ mới ra đình, vậy thì làm thế nào thấy chúng tôi ngoài bờ sông?
- Chúng mày thích lý mấu hả? - Ông áo đen bất ngờ đổi giọng- Bà con bần cố nông là tai mắt của Đội, chúng mày ở đâu, làm gì bọn ta đều biết, hiểu chưa? Muốn sống thì khai thật ra.
- Ông bảo khai cái gì?
- Không chúng mày thì đứa nào lém lựu đạn vào nhà đồng chí Sót giết chết bốn người làm bị thương năm người tối hôm mồng chín tháng chạp.
-Thế ra các người định ép cung à?
Tay công an mặt lạnh như đá chẳng nói chẳng rằng túm tóc Khải bạt tai liền mấy cái rồi rít qua kẽ răng:
- Chính quyền từ nay ở trong tay bần cố nông, bà con muốn chúng mày chết cũng phải chết, muốn chúng mày sống thì được sống, đừng có đem cái mớ lý sự cùn của bọn đế quốc thực dân nhồi nhét ở trường về đây loè bịp.

Đầu đình bên kia, đội Lạc và Cung Văn Luỹ dùng hết mọi mánh khoé truy bức Lê Văn Nghiên. Anh ta vốn rất bình tĩnh, ông xã đội đánh đến mỏi tay vẫn cứ trơ ra với một câu nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
-Tôi không ném lựu đạn, tôi bị oan.

Đêm hôm ấy hai em thức trắng vì rét. Gần sáng có tiếng nổ ở khu Cầu Đá. Dân quân bị dựng dậy, anh nào cũng mắt nhắm mắt mở càu nhàu vác súng chạy đi. Lại một quả lựu đạn chày ném vào phòng ứng Thị Sót trong ngôi nhà mới được chia. Rất may đêm ấy Sót không ở nhà mà nằm với đội Lạc ở thùng trấu căn hộ cũ. Bà mẹ già nghễnh ngãng bị mảnh gang chém vào đầu phọt óc ra dính nhớp nháp trên chiếc chăn dạ. Một góc chiếc sập gụ vỡ toác, cánh cửa buồng bật bản lề đổ kềnh ra đè lên hũ gạo. Làng Cùa lại một phen nháo nhào. Đèn đuốc, súng ống, gậy gộc được đám thanh niên mẫn cán sử dụng như những phương tiện chuyên chính chà đi xát lại không biết bao nhiêu lần những nơi nghi ngờ bọn Việt gian phản động ẩn náu sau khi gây án. Cánh bần nông thì dùng cần vó, đinh ba, con sào chọc xuống những bờ ao bèo tây. Họ đã có kinh nghiệm lẩn trốn bọn lính bốt Tuần mỗi lúc chúng đi càn, hy vọng tóm được thủ phạm một khi chúng chưa thể ra khỏi làng. Các hầm bí mật hai tầng, hai mề và cả tăng sê đào từ thời chống Pháp đều được khui ra. Dân quân có quyền được xộc vào tất cả các nhà khám xét từ buồng ngủ cho đến thùng trấu, hố xí mà không cần phải có lệnh của chủ tịch xã. Sau một ngày đêm, mọi người mệt phờ anh nào cũng lấm từ đầu đến chân trong khi chiến lợi phẩm thu được chỉ là một mớ vài chiếc quần lót rách hoặc yếm diềm bâu tàng tàng được các cặp tình nhân vứt lại sau những cuộc ân ái vụng trộm mà nguồn gốc của nó bắt nguồn từ những tối nhảy “xon mì” và nắm tay nhau hát “Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa”.

Vụ án trở nên bế tắc. Làng Cùa hoang mang. Đội Cải cách và cán bộ xã Đoàn Kết lúng túng còn huyện Nam Thành ngày nào cũng cử công an về nhưng vẫn không tìm ra kẻ địch giấu mặt. Anh em Lê Văn Khải được tha sau tám ngày bị tạm giam.

Nếu kể cả Lê Văn Vận thì từ khi phát động Cải cách đến thời điểm này, làng Cùa đã có năm án tử hình, chưa đủ chỉ tiêu huyện giao. Những người đang bị giam như ngồi trong chảo lửa, lúc nào cũng lo ngay ngáy, qua một đêm thấp thỏm sáng ra mới biết mình còn sống, đã có hai người tự sát, gần đây nhất là ông phó hội Bảng. Ông Bảng có hơn chục mẫu ruộng, nhà ngói năm gian cửa bức bàn, bên trong treo la liệt hoành phi, câu đối chẳng khác gì điện thờ. Sau khi Đội Cải cách thu toàn bộ gia sản, ông phó hội bị giam cùng dãy với khoá Kiệt, lý Quỳnh, bà cả Huê chờ xét xử, vợ con phải ra đồng Chó Đá, cạnh bãi tha ma, ở trong những chiếc lều tùm hum như lều chăn vịt. Hàng ngày các cô cậu vốn là con cái nhà giầu này chia nhau đi khắp nơi mò cua, bắt ốc, tát vét hoặc cắt cỏ mang nên trên chợ Từ Đường bán. Nhưng bán được cua cá không phải dễ. Dân Ba Tổng lúc ấy tránh con cái địa chủ như tránh hủi. Có hôm cô Tính cô Tình đứng từ trưa đến xế chiều lại mang mấy giỏ cua về nấu canh, cả nhà húp trừ bữa. Ông phó hội mắc chứng táo bón ngày nào cũng phải ăn vài củ khoai lang, giờ bị cấm cố trong nhà giam ẩm thấp, lắm lúc đau bụng, ngồi chồm chỗm hàng hai ba giờ, rặn ra toàn máu mũi lấy nhầy, người xọp hẳn đi trông rất thảm hại. Một tối, thằng cháu nội, không biết làm cách nào qua mắt bọn dân quân gác cổng đình, mang vào cho ông hơn chục củ khoai luộc. Được khoai, ông Bảng mừng lắm đưa ngay cho khoá Kiệt và Ngô Quỳnh mỗi người mấy củ. Khoá Kiệt thường xuyên bị đói vì không có người tiếp tế, thỉnh thoảng mới được anh dân quân xóm Cầu Đá, goị bằng bác họ, giấu cho nắm cơm bằng nửa quả bòng, còn toàn phải ăn nhờ. Khoai ngon lắm. Ngô Quỳnh vừa nhai vừa ao ước :
-Thế này mà đựơc thêm bát nước chè xanh nữa thì nhất trần đời.
Khúc Kiệt bảo:
- Xem ra ông Lý vẫn còn lạc quan.
- Cùng lắm là bị dẫn xuống đồng Đấu lĩnh viên đạn chứ gì? - Lý Quỳnh bị nghẹn, giọng trở nên sin sít - Đối với tôi bây giờ sống chết không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ tiếc hồi đánh Nhật tôi theo ông Khoá thì chưa chắc cả nhà bị chết cháy.
- Nhắc đến chuyện ấy làm gì, bây giờ chúng ta cùng chung cảnh ngộ.

Lệnh của Đội Cải cách, cứ hai ngày người nhà mới được đem cơm nước vào cho phạm nhân một lần, ai cố tình vi phạm sẽ bị cắt tiếp tế một tuần. Họ làm thế để khủng bố cả tinh thần và thể xác người bị giam, làm cho cái đầu phải mềm ra, ý chí dần dần tiêu ma, tự nguyện từ bỏ ý thức hệ bóc lột, tiếp nhận tư tưởng mới, thừa nhận chân lý Cách mạng sau đó vui vẻ bước lên đoạn đầu đài. Chẳng hiểu ông phó hội có biết được ý đồ rất khôn ngoan của Đội Cải cách không mà mấy ngày gần đây xem ra có phần đăm chiêu, nhất là từ khi thằng cháu nội cũng bị tống giam. Thằng bé thấy mấy lần đưa khoai trót lọt, sinh chủ quan. Cách đây mấy đêm, nó lại mang một làn đầy trèo qua tường phía đầu đình đưa vào cho ông. Tất nhiên đây là số khoai mẹ nó rỡ trộm ở ruộng nhà mình rồi cũng lại giấm giúi luộc trộm để cả nhà ăn cầm hơi. Nhưng lần này thằng bé không may. Nó bị hai dân quân bắt sống trong lúc vừa tụt xuống sân đình. Tay dân quân cổ lang ben tên là Phạm ổn trước vẫn cấy rẽ nhà ông Bảng, mặt hằm hằm quất thằng bé túi bụi bằng chiếc roi mây làm cho nó khóc thét lên. Ông phó hội thương cháu, cắn chặt răng, nước mắt trào ra. Được một lúc ổn xách tai thằng bé kéo lê trên nền gạch:
- Vào trong chuồng giam kia, chiều nay ông đội Lạc sẽ nói chuyện với mày, riêng cái tội bới trộm khoai của bà con bần cố nông mang tiếp tế cho địa chủ đã đủ điều kiện tử hình rồi.
Ông Bảng không nhịn được nữa gọi Phạm ổn bảo :
- Này anh kia, có đánh thì đánh tôi đây này, cháu nó còn bé làm gì nên tội mà hành hạ dã man thế.

Tay tá điền lé mắt nhìn ông phó hội giọng khiêu khích :
- Ông không phải chờ lâu đâu, chỉ mấy hôm nữa là được ra đồng Xưa ở chung với chánh Bang thôi.
Nói xong hắn nhấc làn khoai luộc quay quay mấy vòng lấy đà rồi quẳng ra thật xa.
Chiếc làn bay đến "vù" một cái xuống ao đình làm con bói cá khoác bộ lông xanh biếc có
cái mỏ dài, to bè như gọng kìm đang đậu trên đỉnh cọc tre bờ bên kia, giật mình bay vút
lên. Ngô Quỳnh lầm rầm chửi:
- Quân khố rách áo ôm vô liêm sỉ.
Khúc Kiệt thở dài:
- Chúng không vô liêm sỉ đâu mà đang “đấu tranh giai cấp đấy”.

Khoá Kiệt không ngủ được. Ông ta có linh cảm ngày mai sẽ đến lượt mình ra đứng trước vành móng ngựa bằng gỗ lim nhẵn bóng trong đình kia. Ông không phải địa chủ, tài sản cũng chẳng có gì ngoài mấy gian nhà bẹp và năm sào ruộng đồng Quan không người cày cấy sau khi con gái bỏ làng ra đi. Tội của Khúc Kiệt chắc Đội Cải cách chẳng thể nào nhẹ tay, bởi trong vòng mười lăm năm qua, ông đã làm cho vùng Ba Tổng, đặc biệt là làng Cùa mấy lần thành bãi chiến trường. Trong ông, có cả phẩm chất của một kẻ lưu manh chính trị lẫn máu giang hồ lục lâm theo kiểu anh hùng hảo hán thời trung đại. Bản chất của hành động phiêu lưu ấy chính là sự bất đắc chí của loại nhà nho cuối mùa bất tài nhưng lắm tham vọng. Từ lòng đố kỵ đã dẫn đến sự căm thù Khúc Đàm, Khúc Kiệt muốn làm một cái gì đó chứng tỏ bản lĩnh không tầm thường của mình. ý nghĩ bệnh hoạn ấy dẫn ông ta đến hàng hoạt hành động đẫm máu. Kết quả là dân Ba Tổng căm thù ông ta , những hồn ma luôn hiện về đòi mạng và sau hết, Đội Cải cách xem ông ta như một tên phiến loạn cứng đầu, một kẻ bán linh hồn cho Quốc dân đảng, cần phải trừng trị nghiêm khắc.

Về phần gia đình, coi như khoá kiệt không còn gì kể cả hai đứa con thoát chết sau vụ chạm súng với quân Nhật. Khúc Thị Nhân bỏ làng ra đi, không biết lúc này đang phiêu bạt ở phương trời nào, còn sống hay đã chết? Còn Khúc Văn vốn không chấp nhận ông bố vì quan điểm “chuyên chính” mà bắn giết vô tội vạ, đã trốn vào Nam với đám tàn quân sau khi ký hiệp định đình chiến. Phải, bây giờ đã đến lúc đánh giá lại toàn bộ công việc của mình trong những năm qua.

Nghĩ đến đây, bất giác Khúc Kiệt giật mình. Là kẻ có máu sĩ diện, ông ta chỉ thích khoe khoang chiến tích trước thiên hạ chứ không thể cúi đầu trước đám bần cố nông chân đất mắt toét một chữ bẻ đôi không biết. Thà chết còn hơn. Ai cũng như bọn chúng thì lấy đâu ra độc lập hôm nay? Thật là một lũ vô ơn, bạc tình bạc nghĩa.

Đêm đã khuya. Trời lạnh. Trong đời có lẽ chưa bao giờ Khúc Kiệt thấy một đêm tháng chạp huyền ảo như đêm nay. Vành trăng thượng tuần mỏng như chiếc lá non, uốn cong hệt cánh diều vàng chập chờn giữa những cụm mây xốp trắng hình vẩy cá. Sân đình loang loáng ánh trăng. Một con quạ già chẳng biết từ đâu bay ngang qua, kêu lên ba tiếng nghe rất là ai oán. Phạm ổn, vai khoác súng tay xách đèn chai soi vào cửa luồng giam, thấy các phạm nhân mặt mũi phờ phạc nằm co quắp trên phản gỗ, anh ta yên tâm vào đình đánh lửa hút thuốc lào. Sang đầu canh tư Khúc Kiệt ngồi dậy, dựa lưng vào vách một lúc rồi lần vạt áo xé rách đường chỉ khâu lấy ra gói thuốc độc dấu được từ trước hôm bị bắt từ từ bỏ vào miệng.

Sáng ra, Ngô Quỳnh thấy người Khúc Kiệt đã cứng, khoé miệng còn dính mấy giọt máu đen, liền gọi phó hội Bảng, nhưng ông này cũng đã cắn lưỡi chết từ lúc nào không biết. Được tin, Cung Văn Luỹ sợ lắm vội cùng với mấy dân quân vào khênh hai cái xác đặt giữa sân đình. Thằng cháu ông phó hội vừa được thả ra ôm lấy xác ông nội khóc váng lên.

Cái chết bất ngờ của Khúc Kiệt và phó hội Bảng làm đội Lạc phát điên lên. Anh ta ra lệnh cho xã đội trưởng Cung Văn Luỹ giam mấy dân quân gác đêm lại chờ công an điều tra. Như vậy là kế hoạch đấu tố ông cựu trưởng ban An ninh dự kiến vào sáng ngày mai đương nhiên bị huỷ bỏ. Sau hai vụ ném lựu đạn, đây là vụ thứ ba làm Đội Cải cách và Uỷ ban hành chính xã Đoàn kết phải đau đầu. Vết thương ở lưng Bùi Quốc Tầm chưa khỏi, anh ta vẫn phải lằm bẹp ở nhà . Bí thư Lại quang Nghinh thì ấm ớ hội tề, chẳng quyết định được việc gì, mấy ông bà cốt cán chỉ to mồm, thành thử những việc hệ trọng như thế này đội Lạc không dính tay vào không xong. Chiều hôm ấy, sau khi khám nghiệm xong, công an cho phép chôn xác ở đồng Đấu là nghĩa địa dành cho bọn tội phạm nhưng chỉ bó chiếu, không được đóng quan tài. Thân nhân Khoá Kiệt không còn ai, Cung Văn Luỹ xin ý kiến Đội Cải cách rồi cử mấy dân quân khiêng đi. Huyệt đào vội, nông choèn choẹt, lấp đất xong, tay Mạn đánh mnột vầng cỏ úp ngược lên rồi vén quần đái một bãi lên mộ, miệng lầm rầm :
- Đáng đời quân phản động.

Nửa đêm hôm ấy, người đàn bà mặc đồ tang cùng hai gã đàn ông mấy hôm trước lại xuất hiện với cỗ quan tài mộc. Họ nhanh chóng lôi Khúc Kiệt lên mặc cho bộ quần áo gụ rồi đưa vào quan tài, sau đó chuyển sang chiếc huyệt mới đào cạnh mộ Lê Văn Vận. Bó nhang được thắp lên lúc mờ lúc tỏ làm khuôn mặt người đàn bà biến dạng như ma hiện hình. Bà ta lấy trong làn bát cơm quả trứng đặt lên mộ, cúi đầu đầu khấn thì thầm mấy câu rồi cùng hai người đàn ông vác cuốc xẻng quay về.

Cuối tháng chạp, Đội Cải cách chưa kịp xử bà cả Huê và Ngô Quỳnh thì làng Cùa xảy ra hai vụ bê bối. Vụ thứ nhất liên quan đến Cấn Viết Tham còn vụ thứ hai, liên quan đến ứng Thị Sót. Vợ chồng Cấn Viết Tham được chia một nửa ngôi nhà ngói năm gian của chánh tổng Lê Bang. Sau khi Lê Bang bị xử bắn Đội Cải cách cho vợ con ông ta ở tạm dãy nhà ngang ba gian phía bên phải, giáp với bờ ao. Từ ngày Cải cách đến giờ, cô Tẽo, vợ Tham béo phây phây, chẳng làm ăn gì, suốt ngày hết họp đoàn thể phụ nữ, nông hội, bình xét thành phần giai cấp lại rủ nhau ra sân đình tập múa hát. Tẽo là con bà phó Vện. Ông Vện làm thợ rèn mắc bệnh xơ gan cổ trướng, bụng phình ra bằng cái chum rồi chết năm mới ba mươi hai tuổi. Cô con gái rượu của ông phó rèn càng lớn càng xấu, nhà lại nghèo rớt mồng tơi, thành ra đã xấp xỉ ba chục xuân xanh mà không một chàng trai làng Cùa nào thèm để mắt tới . Khiếp nhất là dáng đi , cứ vài ba bước cô ta lại giật một cái như là dẫm phải bọ cạp làm bà mẹ cũng phải phát bẳn chửi :
- Mày đi đứng như thế thì có chó nó lấy.

Cô con gái “hứ” một tiếng, đánh cặp mắt cùi nhãn lườm mẹ rồi gieo cái mông lặc lè như mông lợn ỷ xuống tấm phản đánh rầm một cái. Tẽo có tật thích tán chuyện, gặp đám chị em cùng hội cùng thuyền thì trưa không vội tối không cần mặc cho bà mẹ già ở nhà tha hồ mà chờ. Khi ấy Cấn Viết Tham đã ba nhăm, bố mẹ mất sớm, không tấc đất cắm dùi phải đi ở nhờ nên chẳng dám nghĩ đến chuyện cưới vợ. Chính đội Lạc đứng ra làm mối và tổ chức đám cưới cho cặp uyên ương này sau khi anh ta về làng Cùa được già nửa tháng. Đây là đám cưới đời sống mới đầu tiên ở vùng Ba Tổng mà chú rể tặng hoa cô dâu và dắt tay nhảy “xon mì” làm các ông già bà cả đang móm mém nhai trầu xuýt nữa bị nghẹn. Lấy nhau xong đôi vợ chồng được chia nửa ngôi nhà ngói, bảy sào ruộng đồng Quan và một chân trâu.

Vợ con Lê Bang không còn ruộng, bà Chánh phải đi quét những hạt thóc rơi vãi mang xuống ao đãi sạch rồi đưa ra phơi. Hết vụ gặt họ đi tát thùng, vũng hoặc đánh giậm kiếm cá tép mang ra chợ chiều bán. Một hôm cô Thời đi mót khoai về, đang định nấu cháo thì phát hiện ra số gạo ít ỏi trong chum bị xúc trộm. Cô ta vội rỉ tai mẹ. Bà Chánh hỏi hai đứa cháu vừa đi móc cua về, đứa nào cũng lắc đầu. Lần khác, chính thằng cháu lớn lại hỏi cả nhà xem có ai bắt hai con cá trê to nhất nó thả trong chum để dành bán lấy tiền mua dầu thắp.
- Vậy là nhà này có ma rồi... – Bà mẹ lẩm bẩm.
- Không phải ma đâu. – Cậu Thể, con trai út ông Chánh chuyên đánh lưới bén ở ao Quan ngó ra ngoài một lúc rồi bảo – Mấy hôm trước, con vừa về để thúng cá cạnh bể nước, vừa ra cầu ao rửa chân quay lên đã mất con cá chép già nửa cân.
Bà Chánh hất hàm chỉ lên phía nhà ngói:
- Chẳng lẽ lại là...
Cô Thời chép miệng:
- Còn ai vào đây nữa. Đồ ăn bơ làm biếng.
- Khẽ mồm chứ ! – Bà mẹ xua tay – Chuyện này không được hở ra, Đội Cải cách mà biết sẽ cho mẹ con ta ra đồng Chó Đá đấy.
- Nhưng mà con tức lắm . – Cô con gái vẫn hậm hực- Ky cóp cho cọp nó ăn . Được rồi, con sẽ có cách.
Mấy hôm sau, như thường lệ, cả nhà bà Chánh ra đồng. Cánh cửa chỉ khép hờ. Cô Thời vác gầu sòng với cái cuốc ra đến cổng thì tạt ngay qua bờ rào, lách khe chuồng lợn vào nhà bằng lối cửa mạch, nép phía sau bồ khoai khô ngồi rình. Quả nhiên không đầy một khắc, bà cốt cán đẩy cửa bước vào tự nhiên như là nhà mình. Chị ta nhìn trước nhìn sau thấy xung quanh không có gì đáng nghi liền mở nắp chum xúc luôn mấy bơ gạo mà bà Chánh phải đãi suốt ngày hôm trước mới gằn được hết sạn. Cho gạo vào khăn vuông xong, Tẽo túm lại định bước ra khỏi cửa thì Thời bất ngờ xuất hiện. Bà cốt cán tái mặt, cái miệng rộng há ra chưa nói được câu gì thì Thời đã chặn lại :
- Hôm nay bắt được quả tang, hết đường chối cãi nhớ!

Tẽo lắc đầu ấp úng:
- Cô nói quả tang... cái gì?
- Cái túm gạo chị đang cầm ở tay đấy. Thế mà cũng là cốt cán.
Tẽo biết thế của mình đang rất bất lợi liền đổi giọng:
- Chị trót nhỡ tay cô bỏ qua cho.
Thời còn đang phân vân vì không muốn làm to chuyện thì Tẽo nhanh tay quẳng túm gạo ra sân kêu toáng lên:
- ới bà con ơi! Con gái nhà chánh Bang nó xúc trộm gạo nhà tôi.

Cấn Viết Tham lúc ấy đang họp ở đình nhưng chỉ một lúc sau đã có mặt tại nhà cùng với mấy dân quân đầy đủ súng ống và dây thừng. Người ta không cho Lê Thị Thời thanh minh mà chỉ nghe lời khai báo của thị Tẽo :
-Từ lâu tôi đã biết con Thời có tính gian vặt nhưng mấy lần rình nó đều thoát được. Sáng nay tưởng tôi đi vắng, nó dám lẻn vào buồng xúc gạo rồi lấy ngay chiếc khăn trên lao màn bọc. Cũng may tôi về kịp nếu không nó còn già mồm cãi. Đấy các anh xem, gạo còn đổ tung toé khắp nơi, chối làm sao được.

Tất nhiên không Đội Cải cách nào tin lời con gái địa chủ nhất là loại địa chủ đã bị toà xử tử hình. Chân lý thuộc về bần cố nông, là những ngưòi lúc này có thứ vũ khí rất mạnh trong tay đó là “chuyên chính vô sản”.

Đúng như bà Chánh đã tự đoán, ngay ngày hôm ấy mấy mẹ con bị trục xuất khỏi làng đến cư trú ở đồng Chó Đá. Riêng cô Thời bị dân quân dẫn ra đình Cả. Đội Lạc chỉ thị cho Cung Văn Luỹ:
- Canh giữ cẩn thận kẻo nó trốn mất, ngày mai sẽ có công an về điều tra.

Vụ thứ hai xảy ra sau đó gần một tháng. ấy là cái bụng ứng Thị Sót phình ra. Đây là sự kiện động trời, bởi chồng cô ta là Lê Bản con cả Chánh bang đã chết trong trận Việt Minh đánh đồn Gừa từ năm năm hai. Hiển nhiên người không thể có chửa với ma, mà đấy là kết quả tất yếu sau những buổi hội ý chớp nhoáng hay lâu dài với đội Lạc trong suốt thời gian họ sát cánh bên nhau vì công cuộc "Cải cách ruộng đất". Chẳng mấy chốc “trống cơm” của bà cốt cán lộ rõ đến mức không thể giấu được nữa, thành thử gần đây cô ta không dám xuất hiện trước đám đông mà cứ đóng cửa ru rú ở nhà. Đội Lạc sợ lắm hẹn Sót buổi tối về nhà cũ có chuyện cần bàn. Lúc hai người bước vào sân hoàn toàn không biết có một bóng đen nấp đằng sau vách.
Tiếng đội Lạc:
- Tay Nghinh gọi ra đình bảo thế nào?
Sót:
- Hắn bảo có chửa với ai cứ khai thực ra, chi bộ sẽ giảm nhẹ hình thức kỷ luật.
Đội Lạc:
- ấy đừng, khai ra là mất hết, có khi còn đi tù nữa.
Sót:
- Làm thế nào bây giờ? Cái thai mỗi ngày một to không che mắt được người làng nữa rồi.
Đội Lạc:
- Cứ nói là một đêm đi họp về bị một kẻ bịt mặt cưỡng bức.
Sót:
- Liệu họ có chịu tin không?
Đội Lạc:
- Họ phải tin. Đợi chuyến này anh về cắt đứt với cô ta rồi cưới em một cách đàng hoàng. Em mà hở ra quan hệ của chúng mình là sự nghiệp của anh đi tong.
Sót bất ngờ nổi tam bành:
- Thế lúc nằm trên bụng tôi anh có nghĩ đến sự nghiệp không? Nếu anh có ý định chạy làng thì lành làm gáo vỡ làm muôi, gái này không chịu lép đâu.
Đội Lạc cuống quýt:
- Khẽ chứ em, cứ chịu đựng ít hôm rồi đâu vào đấy cả.

Nhưng sự việc không đơn giản như đội Lạc nghĩ. Mấy hôm sau có người đàn bà bịt khăn mỏ quạ, mặc áo bông Tàu, quần láng đen từ Mạc Điền sang làng Cùa. Chị ta tìm vào sân đình hỏi thăm rồi rẽ lên xóm Cầu Đá. Nhìn thấy Phạm ổn là người được chia chung nhà với ứng Thị Sót, người đàn bà lạ đánh tiếng :
- Bác làm ơn cho em hỏi có phải đây là nhà cô Sót bí thư phụ nữ?
ổn thấy chị ta ăn mặc nền nã, nói năng dễ nghe biết là người tốt liền gật đầu bảo :
- Cô ấy đang ở trong kia.
Người phụ nữ đẩy cửa. Sót thoáng giật mình. Cô ta chưa bao giờ gặp người đàn bà này.
- Chị hỏi ai?
- Cô là cô Sót, cốt cán làng Cùa phải không?
- Nhà chị là ai? Có việc gì?
- Chị ở mãi huyện Nam An, có chút việc, nhân tiện rẽ qua đây nhờ cô.
Cách nói ngọt như mật cùng với thái độ kẻ cả của người đàn bà lạ làm Sót sinh nghi. Chỉ vài ba câu, chị ta đã buộc "đồng chí" bí thư phụ nữ dù không muốn cũng phải nói rõ thân phận của mình. Khi đã nắm được những thông tin cần thiết người đàn bà bỗng nhiên trở mặt:
- Bây giờ thì không giấu cô nữa, tôi chính là vợ anh Lạc.
- Thì ra chị... lừa tôi.
Vợ đội Lạc thay đổi cả cách nói năng, giọng chị ta trở lên đanh quánh:
- Cái thai được mấy tháng rồi “đồng chí cốt cán”?
Sót hiểu tình thế của mình, kiểu này xem ra chị ta đã biết chuyện liền cười nhạt bảo:
- Việc này không liên quan đến chị. Tôi bị kẻ lạ mặt cưỡng hiếp ban đêm.
- Bị cưỡng hiếp ở đâu? – Chị ta mát mẻ hỏi – Trong thùng trấu nhà cô hay hậu cung đình Cả?
- Chị ra khỏi đây ngay, nếu không tôi kêu lên bây giờ.
- Kêu lên đi! – Vợ đội Lạc bất ngờ túm tóc Sót kéo ra cửa vừa tát cảnh cáo mấy cái vào mặt vừa rủa - Đồ quạ tha ma bắt. Hôm nay bà phải cho con đĩ cướp chồng người khác một trận rồi muốn ra sao thì ra.
- ối làng nước ơi! Cứu tôi với!

Sót gào khá to. Dân xóm cầu đá kéo đến rất đông nhưng chỉ để đứng xem.

Từ lâu họ đã ghét cô ta cậy thế đội Lạc hống hách, vu oan giá hoạ cho bao nhiêu người lương thiện khiến nhà tan cửa nát, phải bỏ làng đi tha hương. Bà cả Phê còn rỉ tai mọi người:
-Tiếc là cái hôm lựu đạn nổ con nặc nô ấy không tan xác.

Hai kẻ tình địch lúc này đã ôm cứng lấy nhau lăn xuống sân. Vợ đội Lạc quấn chặt tóc bí thư phụ nữ vào tay lấy hết sức bình sinh giật đi giật lại, còn cô ta vung hai nắm tay cứ nhằm mặt đối thủ mà đấm .Vật nhau một lúc, vợ đội Lạc khoẻ hơn dằn ngửa được ứng Thị Sót ra, ngồi đè lên bụng, hai tay tì lên xương quai xanh nhổ vào mặt “đồng chí cốt cán” :
- Con đàn bà đĩ dài đĩ rạc, mày muốn chết thì tao cho mày chết.
- Đồ thần đanh đỏ mỏ, bà mà dậy được thì mày sống cũng thành tật.
Hai mụ đàn bà vùa võ mồm vừa võ tay trông rất là hài hước khiến bà cả Phê ngứa mắt bảo Phạm ổn :
- Chúng mày cứ trố mắt ra mà nhìn à? Vào lôi hai đứa ra. Cái con bé mông to ngồi trên kia khéo làm con Sót truỵ thai mất.

Tay ổn lảng ra giọng nhát gừng :
- Cứ để cho chúng nện nhau chán đi, không sao đâu bà ạ.
Có người báo khẩn cấp, chỉ ít phút sau đội Lạc, Cung Văn Luỹ, Lê Thị Chĩnh và mấy dân quân đã kịp thời có mặt. Nhìn thấy vợ ngồi chồm chỗm trên bụng nhân tình, Lạc sững người giọng mất hết cả thần khí.
- Sao... sao lại... thế này?
Bà Đội bấy giờ mới từ từ đứng dậy bĩu môi lườm chồng :
- Sao với giăng gì. Tôi phải mất công từ kẻ La sang đây là để cho con đĩ cướp chồng người khác này bài học.
Đội Lạc vừa tức vừa xấu hổ. Tình thế lúc này thật là bi hài, nhưng để vớt vát chút sĩ diện anh ta đành phải quát vợ:
- Cô không được làm càn, hành hung người khác là phạm pháp, tôi hô dân quân trói lại bây giờ.
Chị vợ cũng không phải tay vừa cất giọng châm trọc:
- Vậy tôi hỏi anh, cán bộ Cải cách hủ hoá với nữ cốt cán có mang rồi bàn nhau về quê bỏ vợ thì phạm tội gì?
- Cô đặt điều vu khống ai đấy? - Đội Lạc quắc mắt - Đồng chí Sót bị kẻ xấu rình lúc đi họp về bắt cóc cưỡng bức, chúng tôi đang phối hợp với dân quân truy tìm thủ phạm, đừng có nói càn.
Vợ đội Lạc cười gằn, rút từ trong túi ra tờ giấy đưa cho Lê Thị Chĩnh bảo :
- Đây là một trong những lá thư người làng Cùa gửi cho tôi, nhờ cô đọc to lên để bà con cùng nghe.

Chĩnh con bỗng nhiên tái mặt, cầm bức thư xoay ngang xoay dọc một lúc lại đưa cho thằng Đại con ông đồ Sách. Cậu này đang học tiểu học nhìn qua một lượt rồi cất giọng ê a hệt ông bố giảng “Tam tự kinh”:
- “Kính gửi chị Hoàng Thị Nhâm tức là vợ ông đội Mai Đăng Lạc đang làm Cải cách ruộng đất ở làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành. Tôi xin báo cho chị một việc quan trọng có liên quan đến hạnh phúc gia đình, là ông Đội nhà ta, trong thời gian ở làng Cùa, đã có quan hệ luyến ái với nữ cốt cán ứng Thị Sót...”.
- Thôi, không đọc nữa! –Từ nãy đến giờ Sót vẫn nằm ăn vạ giữa sân, giờ thấy tình thế đã xoay chuyển, chợt nhận ra đội Lạc hoàn toàn là tay Sở Khanh liền ngồi dậy, kéo vạt áo che cái bụng lùm lùm rồi dõng dạc bảo : - Chẳng có thằng đàn ông nào bắt cóc cả chính anh Lạc đã ngủ vời tôi. Đứa con trong bụng này là của anh ta.

Đội Lạc gầm lên:
- Đề nghị đồng chí Sót ăn nói cho nghiêm chỉnh, không được vu khống.
- Anh có giỏi thì làm đơn bỏ vợ ngay đi tôi sẽ rút lại lời tố cáo.
- Cô ép tôi đấy à?
- Thôi, đừng làm ra vẻ đạo đức nữa, anh ngủ với tôi bao nhiêu lần còn nhớ không?
Sau vụ đánh ghen mấy ngày ứng Thị Sót bị khai trừ khỏi đảng, cách chức Bí thư phụ nư và uỷ viên Nông hội. Đội Lạc cũng mất sạch chức tước phải rời Đoàn Cải cách về kẻ La đi cày.

Người về thay đội Lạc tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất làng Cùa là đội Ngọ. Anh này người xứ Nghệ, có chút học vấn, làm việc khá thận trọng, chính vì thế bà cả Huê, lý Quỳnh và một số địa chủ khác không bị tử hình mà chỉ bị mức án mười đến hai mươi năm tù.

Làng Cùa sau cơn biến động dữ dội lại tạm thời yên tĩnh. Bùi Quốc Tầm khỏi vết thương. Từ đó anh ta không bao giờ dám cởi trần vì đám sẹo nhăn nhúm trông rất gớm ghiếc sau lưng. Dạo này Tầm chịu khó đi học “bình dân học vụ” đã đọc được chữ in tuy đôi lúc vẫn phải đánh vần ngắc ngứ. Lê Thị Chĩnh Con đột nhiên biến khỏi làng chẳng biết vì lý do gì mặc dù lúc ấy cô ta đã thay ứng Thị Sót làm bí thư phụ nữ xã Đoàn Kết. Cốt cán Sót đẻ con gái. Đứa bé rất bụ tóc đen và dầy, cặp má phính phính, hai bàn tay ếch lúc nào cũng khua múa như đánh võ. Mấy bà đồng bóng chuyên nhảy nhót ở đền Sòng kháo nhau: “bố mẹ nó nửa đêm vào hậu cung làm chuyện báng bổ thánh thần thế mà được đứa con gái đẹp như Ngọc Nữ, nhưng chớ vội mừng, đời còn dài lắm”.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-17-2015, 09:04 PM
Chương 11

1. Lái Lự hồi bốn sáu đã là uỷ viên Mặt trận Liên Việt, những năm sau này lại ủng hộ gạo cho kháng chiến nhưng cũng không thoát khỏi tầm ngắm của Đội Cải cách xã Nhân ái. Người ta phát động bần cố nông tìm ra vô số tội có thật và không có thật của ông ta trong quá khứ để quy kết bằng được thành phần địa chủ phản động. Nặng nhất là vụ bán gần hai chục con trâu cho đồn điền Ba gia sau đó đến việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân áo Đen của Khúc Kiệt. Ông cựu lái trâu ngồi trong nhà giam chín ngày thì bị mang ra xử. Với từng ấy tội danh, căn cứ vào khung hình phạt rất tuỳ hứng của Toà án Cải cách đang thi hành, dù có bổ sung tình tiết tăng nặng chăng nữa ông cựu uỷ viên Liên Việt cũng chỉ tù chung thân là cùng. Nhưng khốn nỗi là, Uỷ ban Cải cách đã phân bổ chỉ tiêu án tử hình cho các xã. Nhân ái gồm bốn làng bình quân mỗi làng ít nhất phải có ba. Làng Bòng mới xử bắn phó tổng Phạm Công Cảo và Lý trưởng Trần Phê, còn một suất nữa tất nhiên phải là lái Lự.

Sau khi ông lái trâu bị hành quyết ở miễu Đài Sơn, người ta chia cơ ngơi của ông ta cho hai cố nông xóm Bối. Mẹ con bà cháu bà Hai bị tống ra khỏi nhà vì bao nhiêu năm nay họ chỉ là người ở nhờ. Chính quỳên mới không thừa nhận mối quan hệ vợ chồng giữa ông Lái và bà Thoả. Ngôi nhà cũ của cụ Khán bên làng Nội bị Tây đốt năm năm mốt, phần đất còn lại xem như vô chủ đã được Đội Cải cách cấp cho một hộ bần nông. Ngay chiều hôm ấy, cả nhà kéo nhau ra cồn Vành ở tạm trong dãy chuồng trâu cũ của ông Lái. Chuồng trâu chỉ còn lại bốn bức tường đắp bằng đất nện, toàn bộ phần mái đã bị cơn bão năm Tý lột sạch quăng ra giữa sông. Tóm lại đó là một cảnh hoang tàn, đổ nát mà nhìn vào đó người ta có thể thấy được lẽ thịnh suy của thế sự và cái vô nghĩa của những cuộc bắn giết lẫn nhau chỉ vì muốn giành quyền lực về tay mình.

Sông Lăng lừ lừ trôi, nước phù sa đỏ đòng đọc dưới ánh chiều tà. Một con thuyền chở đá nặng nề ngược nứơc. Bầy chèo bẻo phải đến vài chục con bay chập chờn trên mặt sông, có lúc cặp cánh của chúng chạm đến đầu ngọn sóng như là muốn tắm rồi lại lao vút lên chẳng khác gì mũi tên vừa bật khỏi dây cung.

Lê văn Khải và Lê văn Nghiên ngày ngày vào miễu Đài Sơn chặt tre làm nhà. Từ cồn Vành đến miễu vừa đi vừa về mất đúng một ngày. Hai anh em bền bỉ vác tre như kiến tha mồi, khoảng nửa tháng thì công việc hoàn tất. Sau chiến tranh, cồn Vành gần như bị bỏ hoang, lại vô chủ nên mẹ con bà Hai tha hồ chăn nuôi trồng trọt. Cá sông Bối nhiều, anh em Khải Nghiên ngày nào cũng quăng chài, thả lưới kiếm được hàng thúng trôi chép cho mẹ mang đi chợ Lành bán. Nhưng đến mùa lũ thì khổ. Mùa lũ bắt đầu từ tháng bảy ta, phù xa từ ngàn xanh đổ về chỉ một ngày một đêm cồn Vành, cồn Láng thành biển nước mênh mông. Gò me như một ốc đảo, mọi sự đi lại đều bị đình trệ nếu không có thuyền. Khu truồng trâu trở thành nơi tá túc của đủ loại cầy cáo, chuột và rắn. Anh em Khải nghĩ ra cách đặt bẫy xen với lưới vó căng chung quanh hàng rào tre, sáng nào cũng tóm được vài con cho mẹ om riềng.

Ít lâu sau Khải bàn với Nghiên đóng chiếc vó bè và mua năm chục vịt giống về thả. Mùa nước lũ nuôi vịt không cần cho ăn vẫn lớn như thổi vì cồn Láng nhiều tôm cá. Đến tháng hai năm sau, đàn vịt tăng lên ba trăm con. Thương lái từ ngã ba Môi biết tiếng, đánh thuyền ngược sông Lăng về mua trứng. Nhưng rồi chuyện làm ăn của anh em họ Lê không qua được mắt ông chủ tịch xã Nhân ái Hoàng Đình Tằng. Tằng tuổi ba bảy, người làng Hệ, cách kẻ Bòng một cánh đồng, chuyên câu ếch. Chỉ với cái cần trúc, cuộn cước buộc lưỡi câu với giỏ nhái mà trong vòng ba bốn năm anh ta tóm được ở đầm Vực, ao Chài và cồn Vành hơn vạn con ếch. Chiếc lưỡi câu gài hoa mướp trong tay Tằng như có ma thuật. Tay trái giữ cần trúc, tay phải cầm cuộn dây, anh ta điều khiển lúc căng lúc chùng, lúc chỉ khẽ vờn làm như con nhái nhảy chồm chồm, lúc lại lặn một mạch xuống vùng nước không có bèo bằng cách miết dây, khiến cho lũ ếch dù có tinh khôn đến mấy cũng chẳng hề dửng dưng trước thứ màu vàng huyền diệu của cánh hoa mướp và mùi đặc biệt hấp dẫn của chàng nhái sọc. Tằng là sát thủ đáng gờm của họ nhà ếch, nhưng cái nghề ấy không thể nuôi sống được bảy miệng ăn, trong khi năm sào ruộng trũng của ông bố để lại anh ta đã đem gán nợ sau một đêm xóc đĩa thua cháy túi, đành phải đến nói khó với lái Lự vay tiền mua vó bè làm kế sinh nhai. Ông Lự bảo :
- Tao cho vay tiền làm nghề để vợ con khỏi chết đói chứ không phải để đánh bạc. Sau ba tháng phải trả cả gốc lẫn lãi nếu không tao trình lý trưởng cắm đất, mày có đồng ý thì ký vào văn tự.

Lãi cao nhưng ngoài ông ta ra, khắp tổng An Lạc không ai có tiền mà lại nhả ra cho một thằng khố rách áo ôm chuyên nghề đỏ đen như anh ta vay.Tằng rập đầu tạ ơn ông Lái rồi sang chợ Lành mua vó. Tre lồng ngộc thì nhờ mấy thằng bạn vào miễu Đài Sơn chặt. Mấy hôm đầu, anh ta làm ăn tử tế, ngày nào cũng có cá cho vợ bán. Nhưng rồi dần dần lều vó trở thành nơi chứa chấp phường cờ bạc của cả mấy làng trong vùng. Chưa đầy một tuần Tằng nhẵn túi còn đèo thêm khoản nợ mới gần trăm bạc. Ông Lái biết tin cho người đến thu bộ gọng vó về để góc vườn. Sau vụ ấy gã câu ếch bỏ mặc vợ con, ra sông Lăng theo cánh đò dọc. Giữa năm năm tư, hắn về làng, việc đầu tiên là đến nhà lái Lự sừng sộ :
- Ông Lái trả chiếc vó bè để tôi làm ăn.

Lái Lự chỉ tay ra vườn bảo :
- Bộ gọng tôi để ngoài kia anh ra mà vác, vó ở trong buồng tý nữa chị Hài đưa cho, nhưng trước khi mang vó đi phải hoàn lại hai đồng tư đã vay năm Tỵ. Tôi chỉ lấy gốc còn lãi thì coi như biếu anh.

Tằng thần người ra một lúc rồi cười nhạt :
- Đất nước độc lập rồi, bao nhiêu nợ cũ đều xoá hết, ông biết điều thì đốt văn tự đi nếu không nay mai đội Cải cách về làng có mà tù mọt gông.

Anh ta nói không sai. Tháng chín Đội về làng Bòng thật. Hoàng Đình Tằng được cử làm chủ tịch xã. Lái Lự bị bắt giam, chín ngày sau lĩnh án tử hình.

Một hôm Tằng ra Cồn Vành câu ếch nhìn thấy ngôi nhà mới làm của mẹ con bà Hai, tức điên lên. Bọn này dám chiếm cứ cánh bãi chung quanh gò Me làm giàu, đang có âm mưu phục thù giai cấp đây. Phải trị đến cùng để chúng biết thế nào là công bằng xã hội. Các người lại dám giầu hơn bần cố nông à?

Trưa hôm sau, Tằng cử xã đội trưởng Nguyễn Công Phiên dẫn mấy dân quân khoác súng ra cồn Láng với một cái lệnh. Nội nhật trong ba ngày, bà Hai Thoả và các con cháu phải đi khỏi gò Me, trái lệnh sẽ bị tống giam. Lê Văn Khải điếng người nhìn tay xã đội bằng cặp mắt hằn học:
- Chúng tôi đã bị đuổi khỏi làng Bòng, giờ lại bị đuổi nữa các ông bảo đi về đâu?

Nguyễn Công Phiên rút trong túi ra mảnh giấy đưa cho Khải, tay chỉ sang bên kia sông:
- Các người là dân làng Cùa về bên ấy mà ở. Ông chủ tịch đã viết công văn thông báo cho xã Đoàn Kết, cầm sang đưa cho họ.

Bà Hai đang bị ốm cũng phải gượng dậy ra nói ngọt với cánh dân quân :
- Xin các ông thư thư cho dăm hôm để mẹ con nó thu xếp.

Ông xã đội lắc đầu:
- Không được, ở nơi vắng vẻ thế này các người sẽ tìm cách móc nối với bọn biệt kích, gián điệp gây bạo loạn….
Lê Văn Nghiên vừa ở bãi về thấytình hình có vẻ căng liền tìm cách đấu dịu :

- Chúng tôi đi ngay cũng được nhưng khó nhất là đàn vịt với chiếc vó bè, mong các ông thông cảm cho lui lại.
Xã đội Phiên khoát tay :
- Mấy tháng nay mẹ con bà làm ăn trái phép ở cồn Láng nên Uỷ ban xã quyết định sung công đàn vịt và tất cả các phương tiện đánh cá. Không nói lải nhải nữa, yêu cầu công dân Phùng Thị Thoả chấp hành.

Chuyến sang sông này của mẹ con bà Hai thật là bất đắc dĩ. Bốn người không một xu dính túi. Mấy tháng trời vất vả đổ mồ hôi nước mắt mới có được đàn vịt và chiếc vó bè bỗng chốc bị cướp trắng. Bà Hai xót của thở dài :
- Một đời đã gặp mấy lần tao loạn nhưng chưa bao giờ khốn nạn như thế này.

Đó là một chiều tháng Tư nhạt nắng. Bà Hai Thoả, sáu mươi nhăm tuổi, tóc bạc, lưng còng chống gậy dẫn đám con cháu từ bến đò lên điếm Bài Vân.

Khúc Thị Hài quấn khăn tang, cánh tay tật nguyền bỏ thõng, tay kia xách bị cói. Hai anh em họ Lê cúi đầu lầm lũi bước, thỉnh thoảng ngẩng lên, lập tức bắt gặp ánh mắt nghi ngại của người làng Cùa. Đường làng vẫn như hồi họ còn bé, nghĩa là vừa hẹp vừa gồ ghề và đặc biệt bẩn thỉu khi trời mưa. Phân trâu, phân chó rải rác khắp các ngõ xóm, hết lần cũ đến lần mới, gặp mưa lẫn với đất thó tạo thành thứ bùn xam xám, nhão nhoét, hễ nắng lên là bốc mùi thum thủm theo gió tây nam tràn vào các nhà. Làng Cùa trước đây rất nhiều chuối, tốt như rừng, trồng trong vườn hoặc rải rác dọc các ngõ xóm tạo thành một không gian âm u, ẩm ướt là nơi trú ngụ lý tưởng của muỗi. Từ ngày Cải cách, tất cả các bụi chuối đều bị phạt tận gốc, củ đào lên om lươn, thân, thái cho lợn. Thay vào đó là những ụ đất bằng đống rạ, cao như mả thằng ăn mày bên đường quan để trồng khoai lang chống đói theo sáng kiến của một nhà khoa học nông nghiệp nổi tiếng lúc bấy giờ.

Tối hôm ấy mẹ con bà Hai vào ở nhờ ngôi nhà tranh ba gian của Ngô Quỳnh. Từ ngày ông ta đi tù đến giờ nhà vẫn bỏ không. Sáng hôm sau, anh em họ Lê mang tờ giấy của Hoàng Đình Tằng nộp cho Uỷ ban xã Đoàn Kết. Bùi Quốc Tầm đọc đi đọc lại mãi đến khi nhìn thấy con dấu chữ nhật in bằng mực đen đóng đè lên chữ ký như con nòng nọc của chủ tịch xã Nhân ái ở mặt bên kia mới vào :
- Gia đình các anh thuộc đối tượng phài quản lý chặt chẽ. Bên ấy người ta không cho ở là đúng. Trước mắt các người hãy tạm trú ở nhà Ngô Quỳnh, thường trực Uỷ ban họp bàn rồi sẽ thông báo sau nhưng nhớ là, ra khỏi làng phải đến trình công an xã.

Cuối cùng thì Uỷ ban xã Đoàn Kết cũng chấp nhận cho gia đình bà Hai cư trú tại làng Cùa nhưng gần nửa tháng mới có thông báo chính thức. Chỗ ở là một rẻo đất phía tây nam xóm Trại Cá, nơi trước đây bà cả Huê cắt cho mẹ con bà Hai sau khi Khúc Đàm bị giết. Xóm Trại Cá gần ngòi Mác, nằm ngay trên đường ra đồng Chó Đá. Cách đấy không xa là khu ruộng Chùa chỉ cấy một vụ về mùa tháng Tám, rất nhiều tôm cá. Việc đầu tiên là phải dựng nhà. Người làng Cùa dù có một số bà con thông cảm hoàn cảnh nhưng không ai dám giúp đỡ mẹ con bà Thoả trừ Trịnh Doãng. Mọi việc từ mua tre, đắp nền, nhào đất trát vách đến xin rạ hắn đều làm rất tận tình. Mấy anh em xoay trần ra chừng nửa tháng thì ngôi nhà ba gian hai chái hoàn thành.

Dịp ấy cả vùng Ba Tổng đói. Hơn nửa năm trời, hết ngày lại đêm, người ta chỉ giành thời gian cho các cuộc mít tinh, đấu tố địa chủ cường hào, xử án Việt gian phản động, học bài hát và nhảy sạp mà quên mất nhiệm vụ cày cấy trên mảnh ruộng vừa được Đội chia, vì thế đến vụ gặt, đồng điền vẫn xanh ngút ngàn những cỏ là cỏ. Sau bao nhiêu năm tao loạn, đất canh tác bỏ hoang quá nửa bạc màu, cây lúa còi cọc như tăm hương, lúc thu hoạch mười phần không được một. Làng xóm tiêu điều báo hiệu một nạn đói mới đang rình rập có khi còn hơn cả tháng ba năm ất Dậu.

Những thế hệ con trai con gái lớn lên trong cảnh no đủ sau này sẽ không thể hình dung cảnh mặt trời tháng tư năm đói như thế nào. Đó là thứ màu đỏ cà chua hơi sẫm ở giữa, nhàn nhạt chung quanh đang từ từ chìm xuống đường chân trời được nhuộm một thứ màu vàng mỡ gà ảm đạm. Quả cà chua khổng lồ ấy rơi một cách chậm chạp, nặng nề dường như không muốn chịu sự chi phối của quy luật tuần hoàn vũ trụ mà cứ thích vung vãi mãi thứ ánh sáng ghê rợn ấy xuống thế gian với ý thức huỷ diệt. Những chiều như thế, cứ xâm xẩm tối là vợ nhìn vào mắt chồng thở dài, cha nhìn con ai oán. Trẻ đói khát nhìn nhau bằng cặp mắt trống rỗng, vô hồn.

Củ chuối mài nhỏ nấu lẫn với cá lẹp, rau muống bè độn cơm là thứ thức ăn phổ biến của bà con bần cố nông. Đến khi không còn gì có thể ăn được nữa, chủ tịch Bùi Quốc Tầm quyết định cho nhân dân dỡ khoai lang ụ vì từ lúc trồng đến giờ đã được gần năm tháng. Nhà nhà khấp khởi mừng thầm nghĩ rằng sắp được mấy bữa no, ai ngờ sau khi ụ được cuốc ra, bên trong chỉ toàn là rễ. Có những ụ, rễ dài lòng thòng quấn lại như mớ bòng bong, nhìn thấy, ai cũng lắc đầu ngao ngán. xóm Trại Cá có mười bảy hộ thêm bà Hai là mười tám . Nhà xã đội Lương Văn Mực ở bên trái, bà Hai bên phải chỉ cách nhau một bờ rào. Chính Mực là người chỉ huy hành quyết Lê Văn Vận rồi mấy hôm sau chết trong vụ nổ ở nhà ứng Thị Sót. Bây giờ là đầu tháng tư âm lịch, lúa mới đứng cái chưa thể gặt hái. Vợ chồng Mực có ba đứa con gái và một thằng con trai. Đứa nào cũng xanh như tàu lá vì đói. chị vợ goá chưa đến ba mươi mà hom hem như bà già ngũ tuần, quần ống thấp ống cao, suốt ngày lấm láp như vừa đi tát vét về.

Sáng nào mẹ con chị Mực cũng dậy sớm xuống đồng Mạc Điền, Đậu Khê móc cua. Những hôm dậy muộn, chậm chân, bọn xóm Đình, xóm Cầu Đá bắt hết là hôm ấy nhịn phèo. Những ngày này dân các làng đổ ra đồng như trẩy hội. Cua ốc, tôm cá, châu chấu, cào cào, thứ gì ăn sống người là bắt tuốt cho vào chiếc giỏ tre đeo lủng lẳng bên sườn. Thằng Vê con chị Mực vồ được mấy chú muỗm tre, vặt cánh rồi bỏ luôn vào miệng nhai rau ráu vì nhà hết gạo đã lâu, nó đói quá. Chỉ trong một thời gian ngắn các loài thuỷ tộc ở tất cả chín khu đồng làng Cùa gần như đã bị tận thu, lúc này thứ còn có thể kiếm được ra tiền là cỏ cồn Vành tuy rằng giá rẻ như bèo.

Sông Lăng mùa này cạn nước. Dân tứ xứ kéo sang Cồn Vành cắt cỏ nên lão Tam chột, mới được uỷ ban xã Đoàn Kết cắt ra chở phà, cáu vì tăng chuyến mà thù lao thì vẫn thế. Lão chửi rầm nên nhưng chẳng ăn thua gì. Các bà các chị vẫn quảy quang gánh xuống bến nườm nượp. Tam Chột bốn ba tuổi, cháu gọi lái Tình đã chết trong trận lũ cách đây hơn hai mươi năm bằng cậu. Lão không máu rượu như cậu mà nghiện thuốc lá nặng, lúc nào cũng vắt vẻo điếu sâu kèn bên khoé môi. Tam chột có tật hay văng tục. Mỗi khi chửi lão thường đẩy nhanh điếu thuốc từ mép này sang mép bên kia, thành thử âm thanh phát ra nghe cứ bập bềnh như sóng vỗ mạn thuyền. Phương tiện xã giao cho Tam Chột quản lý là chiếc phà gỗ mỗi chuyến chở được vài chục người. Chiếc phà chẳng biết được đóng từ khi nào, bằng loại gỗ gì, nhưng nhìn bề ngoài đáng ra đã phải nghỉ hưu từ lâu bởi vô số những vết rạn nứt cùng đủ loại mảnh ván tạp nham táp vào chẳng khác gì tấm váy đụp của bà đĩ Hoe được ông bí thư huyện uỷ tự tay treo vào phòng truyền thống để cho các thế hệ con cháu biết được tội ác bóc lột dân cày của bọn địa chủ cường hào.

Phụ chèo cho lái Tam là Tư Quýnh. Tay này khoảng hai tám ba mươi, trông khá đẹp mã nhưng bị tật nói ngọng, con gái làng chê. Anh ta tức mình rước một cô bên Mạc Điền về làm vợ. Con gái Mạc Điền trắng trẻo, thắt đáy lưng ong, khéo nịnh chồng chỉ phải tội đi chợ hay ăn quà vụng. Tư Quýnh chèo khoẻ, đẩy phà băng băng, lão Tam thích lắm nhưng thỉnh thoảng vẫn chửi vì cái tật rình đàn bà tắm sông.
- Đồ con lợn, thích thì xuống tận nơi tụt quần nó ra mà sờ việc gì phải nấp trong vườn chuối như chó rình cứt trẻ con.

Tư Quýnh tức lắm quẫy mạnh mái chèo quay ngược mũi phà làm lão Tam chột gồng người cạy mãi không ghé được vào bến. Lão toát mồ hôi hột, miệng bập bập điếu thuốc rê ngoảnh lại chửi:
-Tổ sư thằng ngọng xỏ lá!

Lúc ấy đã trưa. Dân cắt cỏ vẫn còn đông nghịt trên bờ. Chị Mực, cái Vấn, cái Vít đã xuống được phà, chỉ còn cái Vịt chờ hai chị lên đỡ. Gánh cỏ của nó kềnh càng mà phà thì đã đầy nhưng lão Tam vẫn chưa chịu rời bến. Lão hất hàm cho Tư Quýnh nhấc gánh của cái Vịt lên rồi dùng chiếc sào dài cán ngang đẩy mọi ngươì ép sát về đằng lái. Lão quyết định chở thêm mười hai gánh nữa. Con phà lắc lư trừơn đi một cách khó khăn vì ngược nước. Có những lúc mái chèo của Tư Quýnh cong vát đi, tưởng sắp gãy đến nơi. Tay lái của lão Tam cọt kẹt bởi tiếng dây chão nghiến vào gỗ nghe rợn cả người. Phà ra đến giữa sông bỗng nhiên mọi người nghe thấy mấy tiếng rào rào. Chết cha rồi, gãy mái chèo. Nhưng không phải, chính là nước từ đáy phà tràn lên. Chỉ trong khoảnh khắc, do sức đẩy khá mạnh, chiếc phà chở quá nặng bị vỡ làm đôi. Lão Tam và Tư Quýnh mỗi người một bên, tay vẫn nắm mái chèo nhưng mặt xanh như đít nhái, mồm há hốc, đang hốt hoảng chưa biết làm thế nào thì cả hai nửa chiếc phà đều bị lật, hất tất cả đám hành khách đang kinh hồn bạt vía kia xuống nước.

Hầu hết đám đàn bà con gái đều không biết bơi hoặc bơi kém. Họ vùng vẫy một cách tuyệt vọng trước làn nước đục lờ lờ, bám vào bất cứ thứ gì vớ được trong tầm tay, hy vọng khỏi làm mồi cho thần Thuồng Luồng. Hai nửa chiếc phà có đến vài ba chục bàn tay bám vào, người nọ túm áo người kia như một đám rồng rắn. Những mảnh gỗ vá víu ngấm nước cùng với vô số đai sắt, bulông khá nặng, không chịu được phụ tải, từ từ chìm xuống. Trên mặt sông chỉ còn những bàn tay chới với cùng với tiếng la hét tuyệt vọng.

Anh em họ Lê lúc ấy đang gỡ lưới ở lạch Cá Bơn, nghe tiếng người trên bãi ngô kêu gào vội cho thuyền ra bến. Hai người cố sức chèo nhưng cũng phải nửa khắc mới đến được chỗ phà bị nạn. Tất nhiên là lão Tam Chột và Quýnh ngọng không sao. Họ sợ đám đàn bà bám vào nên đã lặn xuống thật sâu, bơi ra xa rồi vào bờ lấy thuyền ra cứu chị em. Nghiên nhảy xuống sông, lập tức có hàng chục bàn tay túm áo xuýt nữa thì chết chìm. Lão lái phà vội nhào theo tiếp sức cùng Nghiên đưa từng người lên thuyền. Bên kia, Lê Văn Khải và Tư Quýnh cũng vớt được bốn năm cô đã uống no nước. Sau gần hai tiếng đòng hồ, mệt bở hơi tai họ đưa được hai mươi bảy nạn nhân vào bờ, bảy người khác bị nước cuốn đi trong đó có cái Vịt. Lê Văn Khải bị vợ Lại Quang Nghinh quàng tay bấu chặt lấy cổ rồi cứ thế chìm xuống vì chân chị ta có đến hai người nữa bám vào. Khải phải nín thở, vặn người nhoài ra mãi mới thoát. Hai bà già kia sặc nước nổi lập lờ được Quýnh ngọng kéo lên thuyền. Gần tối hôm ấy người ta mới tìm được xác cái Vịt. Nhà Mực khóc con rất là thê thảm. Mẹ con chúng không có tiền đóng ván phải quấn chiếu bó lạt mang ra đồng Chó Đá chôn. Hai anh em Khải khênh cái Vịt, Tư Quýnh vác mai cuốc, lão Tam chột cầm bó đuốc dài gần hai thước tây thỉnh thoảng quay một vòng làm lửa loé lên, tàn bay tứ tung. Bốn mẹ con không còn bơ gạo nào. Trong chum chỉ lổng chổng mấy lát khoai khô. Bà Hai thương tình bảo Lê Văn Nghiên mang cho nửa rổ khoai lang. Số khoai ấy, Khúc Thị Hài mua ở chợ Rồng chiều hôm trước sau khi bán mớ cá chày Khải đánh được trên sông Lăng.

Sau mấy tháng ở trong ngôi nhà " quả thực", Phạm ổn và ứng Thị sót bắt đầu gỡ cánh cửa bức bàn gỗ lim mang sang chợ Cháy bán. Đói quá, họ bàn nhau mỗi hộ chỉ ở một gian, còn gian chính đường có thứ gì kiếm ra tiền đều bán. Hôm sau Sót gọi người vào mang đi bộ đồ thờ. Tất cả long án, bồ đài, ống hương, lư đồng, mâm ngũ quả đều lần lượt chất lên chiếc xe ngựa của lão Tuế Sứt mang lên phố huyện cho bà Cát Đại. Bà Cát xấp xỉ bốn mươi, ngực lép nhưng cổ chân to như chân voi vì bị giun chỉ có ông anh ruột làm bộ trưởng ở Hà nội, nửa công khai, nửa bí mật khuân gần hết đồ tế tự ở làng Cùa với cái giá rẻ như cho không. Bà ta mua những thứ linh thiêng này không phải để kinh doanh mà cất vào kho, hy vọng có ngày chủ của nó đến chuộc lại.

Đồ Sách không những không bị xử tù về tội chửi càn mà còn được xếp vào thành phần bần nông vì có anh cháu họ trong Đội Cải cách làng Chi Điền, trước đây ở cùng trung đội với đội Ngọ. Ông ta được chia bốn sào ruộng đồng Gà và bộ long án bằng gỗ vàng tâm sơn son rất đẹp. Chiếc án thờ gỗ gụ chạm khắc khá tinh xảo chiếm già nửa gian nhà, một mình không mang đi được, Đồ Sách phải gọi hai thằng cháu ngoại đến khiêng. Hai đứa cháu mấy hôm nay chỉ được bát cháo khoai khô cầm hơi, chân tay chệnh choạng như của đi mượn. Bỗng "rầm", thằng Tề bị hẫng, cái án thờ chao nghiêng đổ xuống sân gạch vỡ làm mấy mảnh. Ông ta tức mình chửi hai thằng cháu một trận. Chiều hôm ấy, cái án thờ được chẻ ra quẳng vào bếp làm củi. Mấy hôm sau, từ sớm tinh mơ, người ta thấy ông Đồ gánh một gánh, một bên là mấy chiếc bồ đài cùng với mâm ngũ quả, bên kia, chiếc lư đồng mắt cua ra đường 228 lên chợ Cháy. Mẹ con chị Mực sau ngày cái Vịt chết đuối không sang cồn Vành cắt cỏ nữa mà trở lại nghề móc cua. Dân làng Cùa dạo này kéo nhau xuống Đậu Khê, An Bối, Chi Điền kiếm ăn, nhưng những nơi này cũng đang có nguy cơ chết đói. Khắp vùng Ba Tổng, các dải bờ ruộng bị thuổng cuốc đào bới nhoe nhoét. Lúa đang làm đòng vốn dĩ còi cọclại bị hàng trăm hàng ngàn bàn chân dẫm nát chắc mười phần chỉ được một hai.

Buổi trưa, sau khi húp bát canh cua loãng nấu với rau tập tàng, cái Vấn cái Vít rủ nhau sang Đậu Khê tát cá. Trời đang nắng gắt. hai đứa vét được lưng giỏ lòng cò rồi vào gốc gáo ngồi nghỉ. Bất chợt cái Vít nhìn thấy mấy vồng khoai lang liền gạ chị :
- Hay là ta hái ít ngọn khoai về xào với tỏi ăn?
Cái Vấn lưỡng lự:
- Ruộng khoai của ông chủ tịch đấy, nhỡ người ta biết thì chết.
- Ngắt vài ngọn sợ gì, chị không làm để em, nhưng tối về đừng có chọc đũa vào.

Cái Vấn nghĩ đến mùi ngọn khoai xào tỏi đã nuốt nước miếng, nhìn trước nhìn sau thấy đồng đã vắng người liền chạy theo em. Cái Vít vừa hái ngọn vừa bới gốc. Đây rồi. Những tia củ bằng ngón tay đã bắt đầu lộ ra. Nó bẻ gãy mấy đoạn, lấy vạt áo lau rồi đưa lên miệng nhai rau ráu. Cái Vấn thấy em ăn, nó ngần ngừ mãi rồi cũng cúi xuống kéo một chùm rễ lên. Hai đứa mải ăn không để ý vợ chủ tịch Tầm từ phía sau bước đến. Chị ta thuộc loại đàn bà chua ngoa, quay quắt, nhất là từ khi chồng làm chủ tịch, lên mặt, coi bà con dân làng chẳng ra gì. Hai chị em sợ quá bỏ cả giỏ cá với nắm ngọn khoai ù té chạy.

Chiều hôm ấy, hai dân quân đến nhà chị Mực bắt ba mẹ con ra trụ sở Uỷ ban. Họ tống cái Vấn cái Vít vào buồng khoá lại, bắt chị Mực phải mang tiền bồi thường chỗ khoai bị móc mới cho hai đứa về. Chị ta không biết tìm đâu ra tiền đành mang cái hòm khoá chuông được chia hồi Cải cách sang nhà bà Hai :
- Bà làm phúc cho con vay mấy nghìn cứu các cháu.

Bà Hai ngẫm nghĩ một lúc rồi tháo đôi khuyên bạc đưa cho vợ Mực bảo :
- Nhà chị mang sang chợ Cháy mà bán, có lẽ cũng đủ số tiền nộp phạt, còn cái hòm này mang về, tôi không giữ làm gì.
- Con đội ơn bà nhưng nếu thế thì con không dám cầm đôi khuyên.
- Đã bảo cứ cầm về. Nửa tháng nay, nhà này cũng toàn ăn khoai với canh cua, nhưng tao thương hai đứa. Tội chúng quá.

Chập tối thì cái Vấn cái Vít được thả. Hôm sau, vợ Mực ra chợ Rồng đong ba ống gạo, mua nửa cân thịt và mấy cái bánh đa. Thịt thì luộc. Bánh đa bẻ ra nấu với cua, thật là một bữa ăn thịnh soạn làm thằng Vê mắt sáng lên. Cái Vấn hỏi :
- Mẹ lấy đâu ra tiền mà ăn sang thế?
Vợ Mực bảo :
- Bà Hai cho vay đôi khuyên, mẹ bán đi đền cho chúng mày, còn thừa một ít làm mâm cơm cúng bố.
Cái Vít tuy háu ăn nhưng thấy mẹ tự nhiên tiêu hoang khác hẳn với ngày thường cũng sinh nghi :
- Vay rồi sau này lấy gì mà trả?
- Mẹ đã mang cái hòm khoá chuông sang nhưng bà không nhận.
- Cái hòm chỉ đáng mấy bơ gạo, mẹ làm thế bác Hài với các anh ấy khinh cho.
Chị Mực thở dài:
- Biết làm thế nào được hả các con? Nhà mình cùng đường rồi.

Cơm trắng, thức ăn ngon nhưng bốn mẹ con ngồi rất lâu, khác hẳn mọi ngày, bữa ăn mãi đến quá ngọ mới xong. Thằng Vê có lẽ đã no, vừa buông đũa buông bát thì mặt mày tái nhợt, hai cánh mũi phập phồng, mắt trợn ngược, ngã vật xuống ngay bên mâm cơm. Cái Vấn thấy sự lạ, quờ tay nâng em dậy nhưng chính nó cũng đang mất thăng bằng, mắt hoa lên, đầu quay cuồng điên đảo như lúc bé bị đặt lên cối xay lúa. Cái Vít trợn mắt nhìn mẹ, hai tay quờ quạng, cổ họng giật giật mấy cái rồi nôn thốc nôn tháo như ăn phải mùn thớt. Trước mắt chị, những đốm xanh đỏ tím vàng cứ hiện ra rồi lại mất đi, có lúc chúng lồng vào nhau thành khối hỗn độn ngũ sắc, lúc lại tách riêng, phồng ra thành những quả bóng đỏ sẫm bay dần lên cao. Trong tai chị như có tiếng sấm nổ lục bục chẳng khác gì búa tạ gõ vào thái dương làm cặp mắt đờ dại như muốn bật ra khỏi tròng. Ruột gan người mẹ sắp đứt ra từng khúc bởi những cơn đau xé làm toàn thân chị ta co giật ngả nghiêng.

Tầm xế chiều, Khúc Thị Hài đun nước gội đầu, chạy sang nhà Mực xin lá bòng, thấy cửa mở toang liền ngó vào bỗng tay chân rụng rời, bổ về gọi bà Hai.

Bốn mẹ con chị Mực nằm co quắp bên cạnh mâm cơm vẫn còn mấy miếng thịt lợn và bát canh bánh đa ăn dở. Bà Hai đã hiểu chuyện gì xảy ra liền bảo Lê Văn Nghiên chạy sang báo ông Ngật, trưởng xóm kiêm trưởng ban Nông hội. Mãi nửa tiếng sau, xã đội trưởng Cung Văn Luỹ và trưởng công an Cao Khắc Thông, em vợ Bùi Quốc Tầm mới đến khám nghiệm hiện trường. Họ lục tung đồ đạc trong nhà tìm thuốc độc nhưng không thấy mà chỉ thấy lá thư tuyệt mệnh của chị Mực viết bằng thứ chữ ngoằn ngoèo như gà bới sau khi học lớp "bình dân” được hai tháng. “Cái Vấn cái Vít trót dại moi trộm của nhà ông chủ tịch mấy dãi khoai và vặt một bó ngọn về xào. Bốn mẹ con hiện giờ chẳng còn gì ăn. Đời người đằng nào cũng một lần chết. Sống như thế này còn cực hơn cả thời thực dân đế quốc, thà chết sớm cho đỡ khổ, đỡ nhục. Nhà con có tội với bà Hai vì anh Mực đã bắn bác Vận. Sau khi mẹ con con đi, toàn bộ gia tài giao cho cậu Nghiên cậu Khải. Số cơm canh thừa đã trộn thuốc chuột, không ai được ăn, ăn vào là chết đấy. Con chắp tay lạy bà Hai, chị Hài và hai cậu. Nguyễn Thị Vách”.

Cao Khắc Thông đọc thư xong vội nhét vào túi áo bảo trưởng xóm trại Cá:
- Chúng tôi về trình Uỷ ban việc này, bác đi báo cho bà con đến làm thủ tục mai táng.
Ông Ngật bảo:
- Việc tày đình như thế này phải trình lên công an huyện để người ta xử lý chứ.
Cao Khắc Thông cau mặt sừng sộ:
- Ông này hay nhỉ. Tôi là trưởng công an tất nhiên là phải có trách nhiệm, còn mấy cái xác không chôn đi để đến mai nặng mùi, mất vệ sinh ai chịu được.
Trưởng công an mang bức thư đưa cho ông anh rể. Tầm đọc xong còn đang phân vân, thì ông em vợ bảo:
- Việc này có liên quan đến bác, anh em nhà tay Mực mà kiện là gay, theo tôi ta nên đốt đi.
Tầm có vẻ sợ, ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
-Đã lập biên bản chưa?
- Xong rồi
- Những ai ký?
- Tôi đã lừa được lão Ngật trưởng xóm ký và mấy bà xóm Trại Cá điểm chỉ.
- Trong biên bản có nhắc đến việc mấy luống khoai không?
- Không, dại gì mà đưa vào, đây bác xem.
Ông chủ tịch đọc đi đọc lại mấy lần thấy bên dưới có cả chữ ký của xã đội trưởng liền đưa bức thư tuyệt mệnh cho Cao Khắc Thông bảo:
- Đốt đi.


2. Mặc dù đang đói nhưng làng Cùa vẫn phát động phong trào bài trừ văn hoá nô dịch, chống mê tín dị đoan. Toàn thể thanh thiếu niên, kể cả một số con cái địa chủ phú nông đều phải tham gia chiến dịch này. Lê Văn Khải được cử vào đội tiêu huỷ sách cũ, còn Lê Văn Nghiên trong đội phá đình chùa. Bộ phận của Khải do trưởng công an Cao Khắc Thông phụ trách. Anh ta tập hợp mọi người ra đình, đọc thông tri của cấp trên sau đó hướng dẫn trình tự công việc. Trong số hơn ba chục thanh niên, có già nửa mới thoát nạn mù chữ, phần đông đang học các lớp "bình dân " do các ông thầy vừa biết đọc biết viết khoá trước dạy. Cao Khắc Thông cử tổ thông tin quét vôi vào tường đình, tường miếu, đầu hồi nhà rồi kẻ dòng khẩu hiệu bằng thứ chữ in hoa có chân đế cao bằng cả gang tay: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại " hoặc " Kiên quyết tiêu huỷ văn hoá phẩm nô dịch ". Mấy ông cung văn chuyên gảy đàn cho các bà đồng bóng ở đền Sòng cứ nhấp nha nhấp nhổm như bị kiến vàng đốt đít, chỉ sợ công an đến " rước " đi Trại Sung.

Người được Cao Khắc Thông dẫn quân ra thăm viếng đầu tiên là chưởng bạ Giang. Nhà ông Giang có ba kệ sách chữ nho, một hòm khoá chuông vừa sách chữ Pháp và Quốc ngữ của anh Giảng. Sở dĩ ông Giang không bị quy lên địa chủ mà chỉ dừng ở mức phú nông là vì anh Giang lúc ấy đang là cấp chỉ huy quân đội. Anh ta về làng đúng vào dịp Cải cách, áo đại cán bốn túi, súng lục trễ bên hông, mũ gắn sao vàng trông rất oai nhưng vẫn bị Đội Lạc cho dân quân đến bắt. Người nhà ông Giang vội đi Hải Phòng báo cho đơn vị. Ngay chiều hôm sau, vị chỉ huy sư đoàn cùng với bốn chiến sỹ khoác tiểu liên đánh xe com măng ca về làng gặp đội Cải cách, đón Giảng đi.

Ông chưởng bạ học chữ nho với cụ khoá Phùng ở kẻ Sộp. Cụ Khoá đã có lần vác lều chõng đi thi vào đến nhị trường. Vì không có con trai, trước khi mất, cụ Phùng làm di chúc giao lại toàn bộ số sách ky cóp được cả một đời cho người học trò làng Cùa. Trong số thư tịch của cụ Khoá để lại có những bộ rất quý như "Việt sử thông giám cương mục", "Đại Việt sử ký toàn thư ", "Việt điện u linh tập", "Dịch kinh", "Luận ngữ ", "Mạnh tử", "Cựu Đường thư","Tấn thư","Đường thi tam bách thủ" ," Liêu trai chí dị","Tam quốc chí diễnnghĩa"… Hòm sách của anh Giảng có"Les Miserables"( Những người khốn khổ ) của
Victor Hugo, "Les Troismousquetaires"(Ba người lính ngự lâm) của A .Dumas, tuyển tập Voltaire, thơ Lamartine,"Cô giáo Minh", "Hồn bướm mơ tiên","Đò chiều","Tắt lửa lòng","Ai hát giữa rừng khuya"."Phấn thông vàng","Số đỏ"... Nhìn thấy khối lượng sách giá trị như thế sắp bị thiêu huỷ, Khải không đành lòng bảo với Cao Khắc Thông :
- Đây toàn là sách quý, theo tôi không nên đốt ,sau này có lúc cần đến.

Trưởng công an xã, phẩy tay:
- Cậu đừng giở cái giọng tiểu tư sản ấy ra. Đống sách này là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch phản động, vì nó mà bọn địa chủ cường hào như chánh Bang , cả Huê, phó lý Kiền mới thẳng tay bóc lột bần cố nông , dân ta mới mất nước.Phải đốt hết để trừ tận gốc.

Lửa được nhóm lên ngay giữa sân đình. Hàng ngàn cuốn sách đủ chủng loại bị hiến cho Hoả thần, lúc đầu quăn bốn góc sau đó cháy lem lém. Khói đen bay lên từ những cuốn sách chữ Hán có mùi hăng hắc của loại bìa phất cậy, bay vòng vèo rồi tan dần vào không khí. Lựa lúc Cao Khắc Thông vào đình hút thuốc lào, Khải nhanh tay rút một tập "Bách khoa toàn thư", bằng chữ Pháp của nhà xuất bản Galimard nhét vào bụng. May mà không ai trông thấy. Tay xã đội sẵn sàng quy kết anh ta vào tội danh phản động nếu phát hiện ra cuốn sách chứa một phần tri thức mấy nghìn năm của nhân loại bị đánh cắp.

Nhưng đến nhà ông cửu Mẫn thì tình hình không thuận lợi .Ông Mẫn làm nghề thầy cúng cũng có một kệ sách chữ Nho, rất giỏi bói dịch.Vốn là người lo xa, ông cho tất cả sách quý vào chiếc hòm sắt, trét sáp ong kín các khe hở rồi mang giấu trong hầm bí mật. Đoàn của Cao Khắc Thông đến nơi, thấy kệ sách rỗng không, anh ta nghiêm giọng bảo ông thầy cúng :
- Biết điều thì mang sách ra nộp, đừng để chúng tôi phải khám.
Ông Cửu thản nhiên như không :
- Chẳng giấu gì các anh, tôi vốn dát, nghe thấy lệnh phải tiêu huỷ văn hoá nô dịch là bảo các cháu mang xuống bếp đốt sạch.

Đời nào trưởng công an và xã đội trưởng lại tin lời một lão thầy cúng già đã từng hành nghề mê tín dị đoan nổi tiếng khắp vùng Ba tổng. Cung Văn Luỹ cười tinh quái:
- Bác giấu ở đâu thì mang ra đi, chuyện này không thể đùa được.
- Đã bảo là tôi chấp hành lệnh của xã, đốt từ mấy hôm trước rồi.
Cao Khắc Thông gườm gườm nhìn ông thầy cúng bằng cái nhìn chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành :
- Được, ông cố tình chống lại chính sách của Đảng phải không? Các đồng chí đâu lục soát!
Cung Văn Luỹ ra lệnh cho đám dân quân :
- Tìm kỹ ở trong buồng xem, có thể ông ta cất trên gác xép.

Lê Văn Khải làm một cách chiếu lệ. Anh ta biết, một người có vốn nho học uyên thâm như ông Cửu không bao giờ đốt sách. Từ cổ chí kim, làm chuyện này chỉ có Tần Thuỷ hoàng và Nêrông. Bởi vì, đốt sách chính là biểu hiện của sự ngu dốt. Những kẻ đi chinh phục, nếu chỉ dựa vào sức mạnh của họng súng và lưỡi gươm mà thiếu văn hoá hoặc ở tầm văn hoá thấp, cho dù được nguỵ trang bằng đủ thứ chủ thuyết mỹ miều cũngkhông thể thu phục được lòng người. Ông ta dấu ở đâu nhỉ? Nền nhà, nền bếp, góc vườn đều bị cácloại xà beng, cuốc chim, thuốn sắt đào bới thăm dò. Thùng trấu, gác bếp, chuồng trâu, thậm chí cả nhà xí cũng không thoát khỏi con mắt soi mói của ông trưởng công an, thế mà hàng trăm cuốn sách như có phép lạ tàng hình. Nhìn toàn cảnh ngôi nhà lúc này như một bãi chiến trường bởi hàng đống hòm xiểng, vứt lỏng chỏng cùng với đất cát bị đào nham nhở, ông Cửu hất hàm bảo Cao Khắc Thông :
- Phiền các anh sắp xếp lại cho rồi hãy sang nhà khác.
Trưởng công an cau mặt :
- Ông đừng có đùa với nhà chức trách. Bây giờ phải đi với chúng tôi ra Uỷ ban.
- Các anh bắt tôi?
Thông lắc đầu:
- Chúng tôi chỉ tạm giữ đến khi nào ông khai thật số sách kia giấu ở đâu thôi.
Ông Cửu mang theo chiếc tráp sơn then, không phải đựng sách mà để bộ quần áo gụ với chiếc khăn mặt bông nhuộm nâu. Vì căn buồng uỷ ban còn giam hai thằng ăn trộm gà nên Cao Khắc Thông bảo mấy dân quân nhốt tạm ông thầy cúng vào hậu cung đình Cả cho suy nghĩ một đêm rồi sáng mai ra trụ sở làm việc. Đầu canh tư, ông Cửu đau bụng, ruột quặn lên, mót đại tiện nhưng không làm thế nào ra được. Mấy tay dân quân gác ngoài, buổi tối đánh tú lơ khơ đến tận khuya, ngủ mệt, ông Mẫn đập cửa rầm rầm vẫn không thèm dậy. Hậu cung tối mò mà cái thứ đau bụng kiểu này không thể cố nhịn để giành đến mai được, thế là ông thầy cúng bật ra sáng kiến, mở tráp lôi bộ quần áo ra, tương vào đấy rồi đậy nắp, coi như không có chuyện gì xẩy ra. Sáng sớm, cửa đình vừa mở, ông Cửu len lén xách tráp đổ ra góc ruộng rồi xuống ao rửa, lúc quay về gặp tay Đốm, anh ta thấy lạ, hỏi :
- Cái tráp của ông có vàng bạc gì mà lúc nào cũng kè kè bên người?

Ông Cửu chống chế:
- Có gì đâu, đựng bộ quần áo ấy mà.
Trưa hôm ấy, Cao Khắc Thông cùng Thân Văn Đốm áp giải ông Cửu sang công an huỵện vì tội cố tình không nộp sách phản động mê tín dị đoan. Ông trưởng công an mặc áo nâu nhuộm vỏ già cắt theo kiểu thành thị cổ bẻ bốn túi, quần"phăng" xanh, ngồi sau chiếc án thư sơn son ( chắc là tịch thu của một hộ địa chủ nào đó), trước mặt là khẩu súng lục để nguyên trong bao, bên phải đặt lọ mực và chiếc bút parker cùng cuốn sổ tay bìa đỏ. Nhìn bộ dạng nhơn nhơn của ông thầy cúng, trưởng công an ghét lắm hỏi mỉa :
- Ông có biết khẩu hiệu chống văn hoá nô dịch và mê tín dị đoan hiện nay như thế nào không?
Ông Cửu cúi đầu đọc thuộc vanh vách:
- Thưa, nó thế này ạ: " Triệt để bài trừ các loại thầy bói thầy cúng và chó dại".
- Đúng lắm .- Trưởng công an gật đầu - Nhưng ông có biết đã phạm tội gì không?
- Tôi giải nghệ rồi, sách cũng đã đốt thành tro, sao lại bảo là có tội?
- Có đấy. - Trưởng Công an huyện cười nửa miệng - Tội cố tình ẩn lậu văn hoá phẩm nô dịch, phá hoại công cuộc Cải cách ruộng đất của Đảng và Chính phủ.
Ông Cửu cười nhạt:
- Công an xã đã khám xét khắp nơi, đào cả nền nhà, cuốc vườn, moi nhà xí đều không thấy sách, tôi không có tội, tôi chả sợ.

Ngay lập tức ông Cửu bị đưa xuống buồng giam . Hoá ra không phải chỉ mình ông phải câu lưu vì án văn tự. Trong tuần qua hầu hết các thầy cúng, thầy bói, thầy địa lý trong huyện đã bị tóm về đây. Thật là một cuộc hội ngộ " thiên tải nhất thì" ở vùng Ba Tổng.

Ngôi chùa bị phá đầu tiên là chùa Đàn ở Đậu Khê. Toàn bộ kèo cột, rui mè, sau khi rỡ được chuyển về làng Cùa dựng trường học. Mấy cây cột lim khoát tư khoát năm không khênh được, uỷ ban xã phải cho thợ xẻ xuống tận nơi kéo co gần một tháng mới xong. Những ngày ấy học sinh được nghỉ để lao động tập thể. Dưới sự chỉ huy của Cao Khắc Thông và Thân Văn Đốm , đám học trò tí nhau trèo lên nhà Tổ và Tam bảo khiêng tượng phật xếp thành một đống trên bãi cỏ phía sau chùa. Mấy ông hộ pháp kềnh càng bằng đất thì cánh thanh niên lấy búa tạ đập vỡ. Pho tượng A di đà sơn son thếp vàng ngồi trên toà sen bị tròng dây chão vào cổ giật đổ xuống, lập tức hai ông bần nông trung niên người Mạc Điền dùng cưa cắt làm ba đoạn vác về nhà. Tượng tạc bằng gỗ mít mật, bên trong yểm trầm không biết có tự đời nào, thớ vàng sẫm vẫn còn thơm. Loại này được chẻ nhỏ ra nhóm bếp, đượm phải biết. Một số bụt nhỡ và bụt ốc bọn trẻ con cầm chơi, chơi chán chúng ném xuống ao nổi lềnh phềnh giữa đám bèo ong, rau dút và bè muống. Ông khán Thịnh trước Cải cách là người trông nom chùa Đàn, nhìn cảnh tượng phật lặn ngụp dưới ao chép miệng than thở:
- Sao các ngài không về vật cho chúng nó hộc máu ra.

Xế chiều, đống tượng Phật vơi dần. Mấy bà làm đồng qua, tiện tay bê một hai pho về để bàn thờ. Số còn lại Cao Khắc Thông sai bọn học trò châm lửa đốt. Ông phật Di Lặc béo phệ với cái bụng vĩ đại, lửa bén đến cổ vẫn giữ nguyên nụ cười. Ông Xếp Đáy, chuyên nghề quăng chài, rượu ngang tu hàng lít, lúc nào cũng kè kè chiếc bao da bằng nửa cuốn sách làm ví tiền trước bụng nhưng bói chẳng ra một đồng, vừa ở sông Lăng về, liền lội xuống ao vớt một vị La hán cỡ bắp đùi vác lên vai, lúc đặt vào bàn thờ thấy "ngài” cao quá đành phải cưa phần đế cho vừa.

Nhưng thành tích lớn nhất của chủ tịch Bùi Quốc Tầm trong chiến dịch bài trừ mê tín dị đoan phải là việc hoàn toàn phá bỏ ngôi nghè lớn nhất vùng Ba Tổng. Nghè làm từ thời hậu Lê niên hiệu Bảo Thái nguyên niên cách ngày nay hai trăm năm mươi nhăm năm, do một vị nhị giáp tiến sỹ làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lại đứng ra quyên góp và hưng công, mất hơn ba năm mới hoàn thành. Chỉ riêng gỗ lim, từ cột kèo, kẻ, trụ, câu đầu xã phải thuê chín cặp thợ, xẻ thông sáu tháng với xong. Số lượng gỗ thành khi xếp lại đo được ba trăm hai mươi chín khối. Hai phần ba gỗ xẻ dùng đóng bàn ghế học trò và trang bị nội thất uỷ ban, phần còn lại cán bộ xã dấm dúi chia nhau đóng tủ, đóng giường và làm cánh cửa. Mấy bác thợ mộc cũng nhân cơ hội bảo nhau "mượn tạm" vài mảnh đầu thừa đuôi thẹo về nhà làm chạn bát, ghế ngồi ăn cơm. Thừa thắng xốc tới, các vị lãnh đạo đang lên kế hoạch phá tiếp đình Cả, đình Lẻ và chùa Vĩnh Hưng thì bỗng xảy ra sự cố nên công việc phải hoãn lại.

Đầu tiên là ông Xếp Đáy, sau hôm cưa đít bụt, tự nhiên hoá rồ, hai tay cầm hai sợi thừng dài nhẩy vun vút còn thiện nghệ hơn cả các cô bé học trò lớp ba nhẩy dây. Múa may quay cuồng chán, ông ta phi thân lên mái nhà nhẹ nhàng như kiếm khách dùng thuật khinh công, hai mắt trợn trừng, lưỡi cứng lại rồi lăn xuống sân, bất tỉnh nhân sự. Thân Văn Đốm đang đêm nhảy khỏi giường xuống bếp rút con dao bầu bổ ra đường như ngựa vía, miệng lảm nhảm :
-Thằng Đốm dám báng bổ thần thánh, tội của mày không thể tha.

Hắn vừa chạy vừa lấy dao cứa cổ, máu chảy nhoe nhoét, đến chỗ gốc cây gạo đổ thì nhảy xuống ao Quan. Dân làng vớt lên được một lúc thì hộc máu mồm ra chết. Dưới Mạc Điền, hai ông cưa tượng A di đà đang ăn cơm bị trúng gió cấm khẩu. Vợ con tìm thầy chạy chữa, mãi ba hôm sau mới tỉnh nhưng một bị méo mồm, một bán thân bất toại nằm đâu ỉa đái ra đấy. Sợ nhất là Cao Khắc Thông. Chập tối ngày hai mươi bảy, anh ta đang uống rượu với cá rán ở nhà Bùi Quốc Tầm, hai mắt tự nhiên buốt như bị ong vò vẽ châm phải. Vợ trưởng công an không biết đấy là bệnh thiên đầu thống, lấy ốc nhồi giã nhỏ trộn với rau má đắp vào, nửa đêm càng đau dữ dội. Thông kêu như lợn bị thiến, đến gần sáng thì hai con ngươi lòi ra. Các quan chức xã Đoàn Kết từ bí thư, chủ tịch cho đến trưởng các ban ngành, ông bà nào chót đem gỗ về đóng đồ, chẳng ai bảo ai đều lần lượt mang ra xếp vào góc đình Cả. Cánh thợ mộc cũng hốt, nửa đêm bắt vợ con chuyển hết những chạn bát, ghế đẩu, ghế ăn cơm xuống hành lang uỷ ban.
Cung Văn Luỹ và bí thư phụ nữ Lương Thị Nhớn mới lên thay Chĩnh Con phải đến nhờ ông Cửu Mẫn lập đàn cúng giải hạn. Ông Cửu bảo:
-Tôi chả dại. Cúng bái là mê tín dị đoan, ông Tầm biết lại bắt tôi sang huyện.
Xã đội trưởng khẽ nháy mắt với bí thư phụ nữ rồi bảo :
- Ông Tầm mới bị chứng đái rắt ra máu, đang nằm liệt giường. Cụ làm ơn giúp chúng cháu, sau này không dám quên ơn.
Ông Mẫn lại bảo:
- Các loại sách cúng đốt hết rồi mà việc này không có sách không làm được.
Cung Văn Lũy liếc mắt ra chân đống rơm sát gốc cây bưởi làm ông thầy cúng chột dạ:
- Anh tìm cái gì?
Luỹ hắng giọng:
- Chỗ ấy có cái hầm , tháng chín năm năm hai, cháu bị bọn Bảo an đuổi đã chui xuống đấy cùng với anh Khoán.
Ông Cửu phẩy tay:
- Tao lấp từ lâu rồi.
- Cụ giấu cháu làm gì. Hôm bọn Cao Khắc Thông đến lục soát ở đây, cháu bảo chúng nó vào buồng tìm rồi lảng sang bên anh Nhận hút thuốc.
- Thì ra mày. . .
- Cụ giúp nhà cháu đi. Làm ban tối. Cháu sẽ gác ngoài cổng, đảm bảo an toàn.
- Mày không lừa tao đấy chứ?
Cung Văn Luỹ nhăn nhó:
- Sau vụ phá chùa, làng này chết mấy người, có các vàng chúng cháu cũng chẳng dám lừa cụ.


3. Một hôm Lê Văn Khải bảo mẹ:
- Có khi con phải đi tìm việc làm, cứ tình trạng này thì chết đói mất.
Khúc Thị Hài thương con nhưng xem ra cũng không còn cách nào khác đành miễn cưỡng gật đầu :
- Thế cũng được, ở nhà còn có em Nghiên, đến chỗ làm nhớ viết thư về.
Bà Hai lắc đầu:
- Không có giấy thông hành sao đi được hở cháu? Nhà mình bây giờ chẳng khác gì tù giam lỏng, ra khỏi làng không trình báo là bị rầy rà.

Lê Văn Nghiên vốn nóng tính, ngang tai trái mắt không chịu được, thủng thẳng bảo:
- Có xuống Uỷ ban xin giấy họ cũng không cấp đâu. Anh cứ đi trước đến chỗ lò gạch cũ ở Phú Đa ấy xem thế nào, nếu làm ăn được em cũng đi.
Khúc Hài bảo :
- Một đứa đi thôi, còn thằng Nghiên phải ở nhà. Chúng mày không thương bà hay sao?
Bà Hai hiểu rõ tâm tính hai thằng cháu từ bé, xem ra khó mà giữ chân chúng được đành chép miệng bảo:
- Cả hai anh em đi được càng tốt không phải lo cho bà. Tao còn khoẻ chán. Chúng mày mà còn ở làng Cùa thì suốt đời không ngẩng đầu lên được.

Sáng hôm sau hai anh em vác lưới ra sông Lăng. Thuyền xuôi xuống mãi bến Đoan mới sang cồn Vành. Khải khoác khăn gói lên bờ còn Nghiên bắt đầu thả lưới đánh cá . Cồn Vành mùa này toàn cỏ , có nơi cao quá đầu gối xanh tít tắp , rộng mênh mông như một thảo nguyên hoang dã . Hiếm hoi lắm mới nhìn thấy vài vạt ngô thấp lè tè còi cọc chen lẫn giữa những bạt cỏ lác, cỏ ống, cỏ tai voi. Chim ngói, chim xanh, chào mào, liếu điếu từ khắp nơi bay về kiếm ăn. Cánh thợ săn vác lưới đặt bẫy suốt ngày nhưng bắt được chúng không phải dễ.

Hầu hết các làng vùng tả ngạn Khải đi qua đều có một nét giống nhau là lắm cờ, nhiều khẩu hiệu. Thỉnh thoảng lại gặp một đoàn khất thực lầm lũi bước trên đường quan. Họ khoác trên người những bộ quần áo vá chằng vá đụp, vật vờ như những cô hồn, lúc mặt trời gác bóng, rủ nhau vào tá túc trong những gian điếm dột nát, nhịn đói, uống nước lã cầm hơi để đến sáng mai lại tiếp tục cuộc hành trình vô vọng. Sang đến ngày thứ tư, Khải đến Phú Đa. Anh ta tìm được dãy lều trại của những người thợ phơ nhưng không gặp ai. Khu lò gạch đã trở thành hoang phế. Khải vào làng gặp ông Tước, một thợ đốt lò nổi tiếng khắp vùng Cao Thượng. Ông này bị đau dạ dày,đang ôm bụng nhăn nhó, thấy khách đến hỏi bà Cảnh liền ngồi dậy bảo :
- Cậu có phải là cậu Khải?
- Vâng, cháu đây.
- Chuyện thế này, sau khi cậu ít hôm , ông Cảnh mang cô Kiều Trâm về thành phố, nghe đâu đã lấy thầy ký kia. Mấy tháng sau ở đây phát động Cải cách ruộng đất. Bà chủ kinh doanh lô gạch bị quy là thành phần tư sản, lãnh án mười lăm năm. Toàn bộ số gạch còn lại, Đội trưng thu chia cho bần cố nông, tôi cũng được hơn hai trăm viên xếp ngoài vườn kia.

Ông Tước không có con, từ khi vợ chết vì cảm thương hàn vẫn sống độc thân, mời Lê Văn khải ở lại nghỉ qua đêm. Tối hôm ấy, hai bác cháu uống rượu với cua rang lá chanh và bánh đa vừng. Sáng hôm sau, lúc Khải khoác khăn gói lên vai, ông bảo:
- Ra thành phố mà kiếm sống, ngoài ấy nghe nói dễ làm ăn. Mà này, cái cô Kiều Trâm phải lòng cậu ấy thật ấy à?
Khải chỉ cười rồi từ biệt ông thợ đất lò.

Trái với lời khuyên của ông, anh ta không về thành phố mà ngược lên phía bắc. Nơi ấy là rừng núi. Từ nhỏ đến giờ Khải mới chỉ có khái niệm rất mơ hồ về rừng xanh núi đỏ qua những lần chặt tre bương ở miễu Đài Sơn, nhưng trong tiềm thức anh ta luôn nghĩ rằng cuộc đời mình sau này sẽ gắn với rừng. Tiếng gọi của thành phố dù có hấp dẫn bao nhiêu cũng không bằng tiếng gọi của định mệnh. Đường hình như cứ mỗi ngày một dài ra mà rừng mỗi lúc một âm u. Con đường hẹp trải thứ đất sỏi đỏ sẫm chạy chênh chếch dưới chân một quả đồi mọc toàn loại giẻ dầu lủng lẳng từng chùm qủa non nhưng gai đâm tua tủa. Lũ khỉ đỏ đít, lông vàng cháy như vằn hổ, chuyền từ cành này sang cành khác, mắt láo liêng, thỉnh thoảng lại trêu đám khỉ cái bằng những tiếng" choéc choéc" nghe rất là phóng đãng. Mấy chàng vượn đen hầu như chẳng để ý đến những chùm vả chín mọng đang chảy mật mà chỉ mải mê đánh đu như say rượu trên ngọn cây hoàng đằng với hàng loạt cú nhào lộn chóng mặt. Vài ả vượn cái cõng con sau lưng ngồi trên chạc cây báng, nhe răng trắng nhởn cười khèng khẹc cổ vũ cho đám mày râu. Một lão khổng tước cánh đen, ức trắng chẳng biết từ phương nào bay về, đậu ngay trên ngọn cây kiền kiền chênh vênh sườn dốc cất giọng gù gù gần giống tiếng ngỗng trời lạc đàn khi bay về miền nam tránh rét.
Khải ngồi xuống một rễ cây bên đường, mở nắp quả bầu khô, nhấp ngụm nước và lắng nghe tiếng rừng lao xao. Hôm nay đã là ngày thứ ba, anh ta chưa có hạt cơm nào vào bụng ngoài những quả dâu da, vả hoặc bưởi đào kiếm được ở chân đồi. Bầu trời xanh biếc lọt qua kẽ lá. Những tia nắng sớm nhảy nhót trên cành giẻ gai. Mùi hăng hắc của hoa long não thoang thoảng đâu đây .Tất cả đều kích thích trí tưởng tượng làm cho chàng trai họ Lê cảm thấy mình như đang trong trạng thái bồng bềnh, vô thức.

Sợ nhất là trong người không một mảnh giấy tuỳ thân. Con trai một tên phản động Quốc dân đảng như Khải lúc này, dù là người có học và lương thiện đến mấy cũng không ai dám đứng ra đảm bảo tư cách công dân. Đất nước mới độc lập, miền Nam còn đang dưới sự kiểm soát của gia đình họ Ngô, gián điệp, biệt kích như rươi, luôn tìm cách phá hoại thành quả kháng chiến, mọi người đi làm ăn xa bắt buộc phải có giấy thông hành để công an dễ bề quản lý, giám sát.Tất nhiên là Khải không đào đâu ra. Thế là bị bắt. Lần thứ nhất ở Tân Phong. Lúc ấy đã lặn mặt trời. Lang thang ban đêm, theo cái lý của nhà chức trách, chỉ có bọn đầu trộm đuôi cướp hoặc gián điệp thổ phỉ. Khải bị ông xã đội trưởng tống vào gian chuồng trâu được cải tạo thành buồng giam từ ngày Cải cách. Đêm ấy anh ta ngủ khá ngon lành mặc dù mùi nước đái vẫn còn nồng nặc từ nền đất ẩm thấp bốc lên. Sáng ra, xã đội trưởng bàn giao phạm nhân cho trưởng công an. Ông trưởng công an lưng hơi gù, giọng nhát gừng, hỏi:
- Anh cho xem giấy tờ.
Lê Văn Khải bắt buộc phải nói dối:
- Tôi lên Bắc Thoòng làm ăn, qua chợ Sàn bị kẻ cắp lấy mất hành lý.
- Quê quán ở đâu?
- Mai Sơn, Thanh Đa.
- Thành phần gia đình?
- Bần nông.
- Lấy gì làm bằng chứng để tin là anh nói thật?
- Tôi đang đói lắm, mấy ngày nay không được hạt cơm, ông có thể cho tôi xin tạm một bát.
ở vùng này có nhiều sắn, Uỷ ban xã không thể để cho Lê Văn Khải chết đói. Nhưng mà ngày hai bữa cứ phải mang cơm vào chuồng trâu cho một gã vô công rồi nghề làm ông trưởng công an phát cáu:
- Hôm nay tôi bận họp, người nhà còn phải đi làm. Đây có ít gạo với mấy củ sắn anh tự nấu lấy mà ăn.
- Vậy thì tốt quá nhưng ông phải cho tôi mượn cái nồi.
- Tất cả đều ở trong góc nhà, đun khéo không cháy bếp.
- Tôi có chuyện này muốn nói với ông.
- Lại còn chuyện gì nữa? - Ông công an bảo - Thôi được, nói đi, xem ra anh cũng không phải là người xấu.
- Hay là ông cứ cho tôi ... ở tạm đây một thời gian. Trong túi tôi giờ chẳng còn đồng nào mà đường lên Bắc Thoòng còn khá xa.
Ông trưởng công an phì cười :
- Anh nói như trò trẻ con ấy, giữ anh ở đây ngày nào là thêm phức tạp ngày ấy.
- Sao mấy hôm trước ông xã đội bảo dẫn tôi về huyện?
- Cái lão Phưởng chỉ nói lấy được. Từ đây đến huyện, cuốc bộ lằng nhằng những mấy chục cây số, cả đi lẫn về ba ngày đường có mà nằm liệt giường. Tôi đã bảo các bố ấy rồi, dân nhà quê dưới đồng bằng lên mạn ngược tìm việc làm ngày nào chẳng đi hàng đoàn, cơm gạo đâu mà giữ lại.
- Bác nói thế là chủ quan đấy. - Khải làm ra vẻ thành thực bảo - Phải nâng cao tinh thần cảnh giác Cách mạng chứ.
Ông trưởng công an văng tục:
- Cảnh giác cái con khỉ. Thôi anh đi đi.
- Vậy là bác thả...
- Ừ, cầm luôn cả ống gạo với mấy củ sắn dọc đường vào nhà dân nấu nhờ mà ăn.

Chín ngày sau Khải lại bị một trận hết hồn. Lần này thì anh ta mong có người đến bắt mình. Xế chiều hôm ấy, bụng đói lắm rồi, Khải vẫn còn cố vượt qua một sườn núi, vì có sang bên kia mới tìm được nhà trọ. Sườn núi không dốc lắm mà cây cối rậm rạp. Cách đấy không xa có con suối khá rộng, hai bờ mọc toàn dâu da đất với quýt dại rất nhiều quả chín nhưng chua gắt, ăn thử một múi ghê cả răng. Vào lúc mặt trời gác bóng, Khải đã đến đỉnh đèo. Anh ta ngồi nghỉ nhấm nháp quả dâu da chợt thấy mấy con khỉ bạc má trên ngọn cây bứa kêu chí choé có vẻ rất hoảng hốt. Chàng họ Lê ngoái lại phía sau, bỗng dựng tóc gáy. Một con hổ vằn nằm phục cạnh gò đất cách đấy chừng bảy tám mét. Cặp mắt nó như có phép thôi miên làm anh ta bủn rủn cả chân tay. Thời gian như bị đông cứng lại. Sự sợ hãi đã lên đến đỉnh điểm. Lúc này chỉ cần có một động tác bất cẩn là cái chết sẽ đến trong nháy mắt. Khải run bắn nhưng vẫn chằm chằm nhìn vào mắt con mãnh thú. Nó khẽ ve vẩy đuôi, cặp chân sau hơi nhổm lên lấy đà sắp sửa ra đòn thì anh ta ước lượng khoảng cách an toàn, nhao sang bên phải, cắt ngang cú nhẩy của con hổ rồi bám vào một cành gõ trắng leo lên chạc ba. Từ mặt đất lên đến chạc ba có khi phải đến hơn ba mét, vậy mà không biết làm thế nào Lê Văn Khải leo nhanh đến thế. Con cọp vồ hụt, cứ chạy vòng quanh cây gõ gầm thét. Trên đời này, không có gì kinh khủng hơn tiếng hổ gầm, nghe chẳng khác gì tiếng ma quỷ phụ đồng gọi hồn người chết. Xuýt nữa thì Khải tuột tay rơi xuống.

Suốt đêm hôm ấy, Lê văn Khải cứ ôm chặt lấy cành cây không dám chợp mắt. Con mãnh thú tiếc mồi chắc chỉ quanh quẩn đâu đó chờ anh ta ngủ ngật rơi xuống là xé xác. Phải đến gần trưa hôm sau mới có mấy người lên núi. Bọn họ khoác súng quân dụng và súng săn tự tạo. Khải từ trên cây gọi to, thấy họ đến gần mới dám tụt xuống.

Những người mang súng đều ở xã Cao Long. Con hổ xám từ rừng Tân Lập về núi Nứa đã mấy tháng nay. Dân các bản quanh vùng muốn đi chợ Đồng Vài đều vòng sang bản Puộc xa hơn mấy con dao quăng nhưng đỡ phải làm mồi cho chúa sơn lâm. Chính con cọp này, năm năm hai đã đón lõng ở hẻm núi Vòi vồ mất chín người vừa dân công vừa bộ đội. Dân bản Thó bảo nó ăn thịt người nhiều đã thành tinh chẳng biết sợ là gì. Có lần đoàn bộ đội đang hành quân giữa ban ngày, thế mà đến "sạt" một cái, nó vọt ra như ánh chớp, quắp luôn anh cấp dưỡng quàng ba lô gạo sau lưng. Trung đoàn 274 thành lập hẳn một đội đặc nhiệm rình bắn con cọp nhưng nó có tài xuất quỷ nhập thần, luôn biết cách thoát khỏi các loại bẫy và đặc biệt giỏi tránh đạn. Ba chiến sỹ bị nó tát chết, một bị bóc hẳn mảng lưng và một rách tai là kết quả đáng buồn sau hai tháng luồn rừng theo dấu chân con mãnh thú của đội đặc nhiệm. Đầu năm năm ba, con hổ chuyển địa bàn về Lũng Vài hoạt động. Cứ tầm lặn mặt trời, nó lại đến đầu xóm Còng, trèo lên chạc cây sung gầm thét hàng giờ rồi mò vào vác bò , lợn, dê. Tiếng hổ gầm làm dân làng chết lặng, đóng chặt cửa, cắm nứa nhọn, rắc rào gai quanh nhà. Hôm sau, mặt trời lên bằng con sào mới dám ra đồng. Khắp các ngõ ngách chỗ nào cũng có vết chân cọp. Chưa đầy một tháng nó đã vồ mất ba nhân mạng.

Ông Quản Tháp người Châu Khê mới tản cư về xóm Còng mấy tháng có khẩu súng kíp nòng dài trông như gậy cời bếp than rủ anh Khừm người Mán ra rình ở miếu Chùa. Con hổ biết có kẻ muốn hại mình, nó không vào làng gầm thét nữa mà tìm cách vồ ông Tháp. Một tối, ông ta vừa ra đến gốc cây si thì bất chợt con mãnh thú từ trong miếu phi ra. Nó dựng hai chân sau, gầm lên một tiếng như sấm dậy làm ông thợ săn luống cuống đánh rơi cả súng. Cũng may anh Khừm có khẩu trường mát vừa kịp xuất hiện, nhằm con cọp bắn hú họa một phát. Sáng hôm sau mọi người mới biết nó trúng thương vì có vết máu để lại. Từ đấy không thấy con hổ xuất hiện nữa. Mấy tháng sau có anh bộ đội qua xóm Còng cho biết, con hổ xám bờm vàng dính đạn bàn chân trái phía sau, bị thọt nên rất hung dữ. Lúc ấy nó đang luẩn quẩn vùng núi Nứa. Vậy là số Lê Văn Khải còn cao.

Sau trận chết hụt vì hổ, dân quân xã Cao Long đưa Khải về trụ sở. Ông chủ tịch thương tình cấp cho anh ta tờ giấy thông hành tạm thời. Từ đây lên Bắc Thoòng cũng gần. ở đấy anh ta có bà dì họ lưu lạc từ năm Kỷ Tị, nếu còn sống bây giờ cũng đã sáu mốt sáu hai.

Xã BắcThòong nằm ở một vùng bán sơn địa đất rộng người thưa, khắp nơi, chỗ nào cũng thấy trồng chè với sắn. Chè búp ở đây nổi tiếng chẳng kém gì chè Tuyết ở Sa Pa và Suối Giàng Nghĩa Lộ. Cách đây hơn ba mươi năm, bà Hai có em tên là Thấm lấy một nhân viên kiểm lâm, được hơn một năm anh ta đổi lên trạm Bắc Thoòng, cô Thấm theo chồng và từ ngày ấy không về làng. Thực ra chuyến đi này Lê Văn Khải không hy vọng tìm được bà Thấm. Ba mươi năm rồi, biết bao vật đổi sao dời, làm sao tìm được một người anh ta chưa từng biết mặt với một cái địa chỉ rất vu vơ. Tìm người chỉ là thứ yếu, cái chính là anh ta không thể chịu được sự o ép bởi không khí ngột ngạt đầy bất trắc ở làng Cùa. ở lại vùng Ba Tổng, những người như Lê Văn Khải có thể bị tống giam bất cứ lúc nào chỉ cần chót thốt ra một lời không vừa tai các nhà chức trách. Anh em họ Lê, trước mắt Bùi Quốc Tầm như một thứ tôi phạm bị quản thúc tại gia, hoàn toàn mất quyền công dân, lúc nào cũng phải chịu sự giám sát và giáo dục của chính quyền nhân dân.

Gần nửa tháng, Lê Văn Khải đi khắp vùng Bắc Thoòng nhưng không một ai biết vợ chồng ông cựu kiểm lâm. Chỉ còn xóm Cầu Gỗ có hơn chục nóc nhà là anh chưa đến. Trời mưa bụi, đường mới mở toàn đất đá lổn nhổn. Khải đang chật vật lên sườn dốc bỗng người lạnh toát vì một con trăn hoa thò hẳn cái đầu mốc thếch từ lùm cây đằng đằng xuống. Nó há cái miệng đỏ lòm phun phè phè làm anh ta co rúm, lùi dần, lùi dần cho đến khi hẫng chân lăn xuống vực.

Bờ vực vừa dốc vừa sâu, tận cùng là một con suối. Lê Văn Khải chẳng biết mình lăn bao nhiêu vòng, mới đầu còn ý thức được, nhưng sau một vài cú va đập với đá tảng, cành cây và các loại bụi gai thì anh ta thật sự bất tỉnh. Gần trưa, một cô bé gánh củi ngang qua, nhìn thấy chiếc khăn gói vướng vào cành cây, đoán là có người ngã xuống vực liền chạy về gọi ông. Hai ông cháu phải khó khăn lắm mới đưa được Lê Văn Khải lên. Trên người anh ta hầu như chỗ nào cũng có vết xây xát, không đá nhọn đâm thủng thì gai cào rách toạc. Một bàn chân trật khớp sưng tấy lên, còn sống mũi bị dập rát như phải bỏng. Ông già nắn khớp chân xong, xoa rượu mật gấu rồi bảo cô cháu gái rửa sạch các vết thương trên người Khải bằng nước muối sau đó vào rừng lấy lá thuốc giã nhỏ đắp lên. Khi Lê Văn Khải ngồi dậy được, ông già bảo:
- Dốc lên xóm Cầu Gỗ thường ít người qua lại, may mà cái Thảo nhìn thấy khăn gói của anh nếu không thì chẳng ai biết mà tìm.
Cho đến lúc này Khải vẫn còn run bắn khi nghĩ đến con trăn :
- Cháu thấy nó há mồn ra, phun phì phì nên mới bị ngã.
- Vùng này lắm trăn mắt võng, thỉnh thoảng có cả trăn gió nữa. Loại to bằng khúc gỗ là nuốt được cả người đấy. Mà này, anh lên tận xóm Cầu Gỗ làm gì ?
- Cháu tìm bà dì nghe nói hơn ba chục năm trước đã ở vùng này.
- Tên bà ấy là gì ?
- Là bà Thấm, em bà Hai Thoả ở tổng Kim Đôi.
- Bà Hai Thoả với anh là thế nào ?
- Là bà Ngoại.
- Thế thì tôi là Quyển chồng bà Thấm đây.
Khải ngập ngừng:
- Còn …. bà Thấm ?
- Bà ấy cùng với bố mẹ con Thảo đã chết trong trận Tây càn Bắc Thoòng tháng bảy năm năm hai. - Ông Quyển thở dài bảo - Chỉ còn hai ông cháu nên tôi cũng chẳng về quê nữa mà ở đây để tiện chăm sóc phần mộ cho người đã khuất.
- Sao bảo hồi ấy ông làm kiểm lâm cho Pháp cơ mà ?
- Phải, nhưng chuyện dài lắm để tôi kể cho anh nghe . - Ông già ngắm nghía Khải một lúc rồi mới hỏi - Bây giờ anh định thế nào ?
- Cháu cũng chưa biết được nhưng chắc chắn không thể về làng . Họ truy bức ghê lắm vì bố cháu là chủ tịch huyện bị toà án đặc biệt xử tử do có kẻ tố giác liên quan đến Quốc dân đảng.
Ông Quyển gật đầu:
- Vậy thì cứ ở đây, chịu khó làm không chết đói đâu mà lo.
Tối hôm sau ông Quyển lại hỏi:
- ở nhà có được học hành tí nào không ?
- Cháu đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
- ái chà, thế là trình độ cao đấy . - Ông cựu nhân viên kiểm lâm tỏ ý thán phục -Mấy hôm nữa cháu phải dạy em Thảo. Nó có được học mấy buổi i tờ nhưng hễ cứ đi lấy củi là quên sạch.

Ông Quyển là người Mạc Điền, thời trẻ đi mộ phu Nam Kỳ, khi sắp xuống tàu vào Nam, ông ký Thẩm giữ lại xin cho vào đồn điền Phố Hàng. Đây là vùng đất chuyên trồng thứ chè Thái nổi tiếng Bắc Kỳ.Chủ đồn tiên là Tây lai Lô ba Nguyễn, chơi thân với quan chánh Kiểm lâm Hăng ri Bác tê. Một hôm Bác tê đến mừng sinh nhật con gái Lô ba là Marian, thấy người cu ly nói được tiếng Pháp liền ngỏ ý muốn xin chủ đồn điền cho anh ta sang làm kiểm lâm vì Sở lúc này đang cần tuyển nhân viên. Ông Quyển đã đỗ xéc ti phi ca, biết chữ Quốc ngữ và tính toán thành thạo được Bác tê cử về trông coi rừng Bắc Thoòng.

Nghề Kiểm Lâm vất vả, được mấy đồng bạc lương thì suốt ngày phải trèo đèo lội suối tuần tra, chỉ cần lơ là một chút là cánh thương lái thuê thợ sơn tràng lẻn vào rừng chặt gỗ quý đóng bè thả về xuôi kiếm lãi bạc trăm. Nhưng sợ nhất vẫn là bọn quan chức phủ Thống sứ hoặc cánh tổng đốc, tuần phủ địa phương cậy thế cho người khai thác gỗ mà không cần xin phép kiểm lâm. Theo quy chế của ngành, rừng bị phá ít thì trừ lương nhân viên, bị phá nhiều sẽ phải truy tố nếu không tìm được thủ phạm. Cho nên nghề này làm không được lâu, có người chỉ sau vài tháng đã bỏ việc.

Lại nói về ông Quyển. Khoảnh rừng do trạm của ông phụ trách rộng hơn sáu ngàn héc ta phần lớn là rừng đầu nguồn toàn gỗ quý, lại gần suối Nậm Cơi, rất dễ vận chuyển ra sông. Hôm ấy, ông đang tuần tra ở lô số ba thì nghe thấy tiếng cưa xoèn xoẹt, tiếng rìu chặt chan chát phía chân đèo Đá Mài. "Chắc lại bọn sơn tràng chặt trộm do thằng Ba đen cầm đầu". - Ông nghĩ vậy và xách súng chạy đến. Không phải. Chúng là một đám lính khố xanh với bọn sơn tràng chừng hơn chục tên đang ra sức đốn cây lát hoa cỡ hai người ôm. Ông Quyển lên đạn, chĩa nòng súng vào bọn lâm tặc quát :
- Tất cả dừng ngay lại ! Ai cho phép các anh phá rừng ?

Một gã mặc âu phục nhàu nát, đội mũ phớt, tay cầm chiếc roi ngựa, lại gần ông Quyển, giọng hách dịch:
- Anh là ai ?
- Tôi là nhân viên kiểm lâm.

Tay mặc âu phục nheo mắt chỉ roi ngựa vào đám lính khố xanh bảo:
- Họ đều là người nhà quan Tuần tìm vài cây lát về đóng đồ. Anh cứ coi như không biết, sau này cụ Tuần sẽ hậu tạ.

Ông Quyển hỏi:
- Cụ Tuần có giấy phép khai thác không ?
- Chặt mấy cây xin giấy làm gì cho phiền phức. Thôi, bỏ qua đi. Đây, có chút gọi là để thày uống rượu.
- Không được . - Ông Quyển lắc đầu - Tôi nhận tiền lót tay để các người phá rừng là phải vào tù. Cây lát này quan Chánh đã đánh dấu.

Một viên đội khố xanh rút khẩu pạc hoọc khỏi bao gỗ chỉ vào người kiểm lâm quát:
- Tôi hỏi, anh nghe theo lệnh quan Tuần hay lệnh sở Kiểm lâm ?

Ông Quyển vốn thẳng tính không chịu sự luồn cúi, nhìn tên đội cười gằn:
- Cấp trên của tôi là ông Hăngri Bác tê dĩ nhiên là tôi phải nghe theo ông ta.
-Thằng này cứng cổ thật . - Viên đội hất hàm ra hiệu cho đám lính - Anh em trói nó vào gốc cây vàng canh kia.
- Các người dám chống lại sở kiểm lâm ? - Ông Quyển lùi lại, ngón tay đặt vào cò súng.

Gã mặc âu phục nháy mắt với viên đội rồi thong thả bảo:
- ở vùng này không ai được phép vượt mặt quan Tuần. Anh đừng đem cái gã mắt xanh mũi lõ nhãi nhép ấy ra doạ bản chức. Biết điều thì quay về và hãy im mồm.

Ông Quyển định nhấn cò cho gã tham biện dinh Tuần phủ một viên đạn nhưng bọn lính khố xanh đã nhanh hơn, nổ liền mấy phát thị uy. Đạn bay sát sạt bên tai làm viên kiểm lâm sởn gai ốc.
Ba hôm sau ông Quyển xuống núi gặp chánh kiểm lâm Hăng ri Bác tê nộp đơn xin thôi việc:
- Tôi không hoàn thành nhiệm vụ, để người của quan tuần chặt mất cây lát quý, phụ lòng tin của ông, xin được từ chức.

Hăng ri bác tê bảo:
- Có súng trong tay sao anh không bắn vỡ đầu chúng nó ra ?

Ông Quyển nhăn nhó:
- Quả thật lúc ấy không kìm được tôi đã định cho gã tham biện về chầu giời, nhưng bọn lính khố xanh thằng nào cũng có súng.

Ngài Chánh Kiểm Lâm gật đầu bảo:
- Được, tôi sẽ cho lão tuần phủ này biết tay.
- Nhưng quan lớn phải cho tôi nghỉ việc
- Không được - Bác tê phẩy tay - Anh đã làm ở đấy mấy năm, bảo vệ rừng tốt lắm, giờ xin nghỉ, ai chịu lên trên ấy?
- Bẩm quan, ngài là người Pháp không sao, chúng tôi dân bản xứ còn có gia đình. Cứ tình hình thế này, chúng đốt nhà, giết vợ con tôi lúc nào không hay. Đấy là chưa nói bọn Việt Minh đang hoạt động ráo riết khắp nơi.
Cuối cùng thì ngài chánh Kiểm lâm cũng phải chấp nhận. Ông ta vỗ vai người cựu nhân viên của mình dặn:
- Lúc nào muốn quay lại Sở thì cứ bảo tôi một tiếng.

Sau Tết, ông Quyển đưa vợ con về Bắc Thoòng. Năm bốn chín, tuy đã cứng tuổi nhưng ông vẫn gia nhập địa phương quân. Giữa năm năm hai, lúc ấy ông đang chiến đấu ở Đồng Sài thì Tây càn Bắc Thoòng, núi Nứa. Kế hoạch của chúng là bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 48 vừa bí mật hành quân qua đây để sang Lạng Sơn. ít lâu sau ông nhận được tin dữ, cả nhà bị chết vì đạn moóc chi ê câu trúng tăng sê, chỉ còn mỗi đứa cháu lúc ấy chín tuổi theo bạn sang bản Nậm Cốc là sống sót.

Cuối năm năm tư, lúc ấy ông Quyển đã giải ngũ, về dựng lại nhà để chăm nom con Thảo. Đội Cải cách truy ra cái quá khứ làm kiểm lâm cho Tây, bắt ông giam nửa tháng. Đứa cháu gái ngày nào cũng phải mang cơm. Thật may, ông chủ tịch xã lúc bấy giờ là bạn đồng ngũ tìm mọi cách gỡ cho mới thoát tội.
Kể ra được những nỗi trầm luân cuộc đời mình, ông Quyển thấy tâm trạng bớt phần u uất. Ông chép miệng bảo:
- Tôi dại chứ ngày ấy đừng đăng ký mộ phu Nam kỳ thì bà Thấm không mất sớm mà cũng chẳng có cảnh ông cháu lưu lạc đất khách quê người như thế này.

Lê Văn khải an ủi:
- ở đời chẳng biết thế nào mà đoán trước được số phận của mình đâu ông ạ. Như gia đình cháu đây này, hoà bình rồi, chẳng bom rơi đạn lạc gì mà bỗng chốc trở thành mẹ goá con côi. Người ta còn ép mẹ cháu phải lên đấu bố cháu để có thêm tội chứng cho toà án xử tử.
Lúc ấy đêm đã khuya. Rừng Bắc Thoòng thỉnh thoảng lại có tiếng hoẵng tác. Lũ chim ngủ gà ngủ gật trong ánh sáng mờ mở của vành trăng khuyết. Ông Quyển rút trên giàn xuống một tảng nai khô bảo Lê Văn Khải quạt than nướng rồi vào buồng lấy ra bình rượu thuốc ngâm tắc kè.
- Làm chén rượu cho ấm bụng.
- Cháu uống kém lắm.
- Có thịt nai khô ta nhấp nháp tí cho vui. - Ông Quyển bảo - Hồi còn đóng quân ở rừng Tân Mộc ta có nghe được câu chuyện về một con hổ. Chuyện lạ lắm. Chưa biết chừng nó chính là con hổ vồ hụt cháu trên núi Nứa.
- Thật hả ông ?
- Ta cũng không biết nhưng nói chung loài hổ sống rất lâu, càng già càng tinh khôn - Ông già nhắp ngụm rượu, khà một tiếng rồi bắt đầu kể.

Chuyện bắt đầu bằng việc anh chàng Hà Thiết vào rừng đốn gỗ làm nhà. Vợ anh ta là Nông Thị Nhóng, đẹp nhất bản Nà Ngườm. Mấy tháng trước, chánh tổng Bế Hữu Tài đã đem bạc trắng đến nhà Nông Viết Định hỏi Nhóng cho con trai mình là Bế Tòng nhưng việc không thành. Nhóng bảo: "Bố mế tham bạc trắng bán con cho nhà giàu là con nhảy xuống vực Thuồng Luồng". Ông Định sợ, bởi hồi đầu năm chẳng hiểu vì sao, Mã Thị Nhàn, vợ thằng Tòng, nửa đêm chạy ra rừng ăn lá ngón chết. Mấy bản quanh vùng, con gái nhà ai cũng sợ về làm dâu họ Bế. Đám cưới Thiết và Nhóng như cái gai chọc vào mát Bế Hữu Tài. Lão không nói ra nhưng trong lòng luôn ngấm ngầm đợi dịp trả thù.

Từ lâu, Bế Hữu Tài đã làm chức việc cho người Pháp. Thỉnh thoảng lão lại cưỡi ngựa lên đồn Pha Lay ở châu lỵ Bình Xuyên chơi với quan ba mắt xanh muĩ lõ. Viên chánh tổng này còn có biệt tài đánh hơi mùi hổ cốt. Dù ở thung lũng đá xám mờ sương hay trên đỉnh Thiên Phong quanh năm tuyết phủ, nghe tin phường săn nào bắn được hổ là lập tức lão sai tay chân đến lấy bộ xương về nấu cao. Dân Bình xuyên ai cũng thù lão. Bế Tòng giống hệt tính bố, coi thiên hạ như rác. Trong những cuộc chè chén với lũ đàn em, hắn thường huyênh hoang tuyên bố :
- Con Nhóng đáng lẽ là vợ tao, thế nào tao cũng bắt về cho mà xem.

Ngôi nhà sàn của vợ chồng Hà Thiết ở rừng Ken Chải cách hẳn với bản Nà Ngườm ba quả đồi. Từ xưa đến nay dân bản ít người đến khu rừng này vì họ sợ một truyền thuyết về vực Thuồng Luồng. Suối Bạc chảy từ ngọn Cốc Dì, qua rừng Ken Chải khoét xuống thành một vực sâu, nước trong vắt như pha lê. Vào những đêm trăng sáng, thường có cô gái mặt hoa da phấn, tóc đen như mun, từ dưới nước leo lên tảng đá trắng trên bờ, trút bỏ xiêm áo, phô ra giữa đất trời tấm thân ngà ngọc, mê hoặc những chàng trai trẻ đa tình. Trai bản có những kẻ hiếu kỳ, thích ma quỷ đẹp hơn là người trần kém nhan sắc, chẳng biết sợ là gì, lén lút rủ nhau ra bờ suối, hy vọng nhìn thấy mỹ nhân trong cảnh thiên thai. Dần dần bọn này mắc một chứng bệnh kỳ lạ, đó là bệnh quên. Họ quên ông bà, cha mẹ, vợ con, thậm chí quên cả bản thân mình, suốt ngày di lang thang tơ tưởng đến người đẹp dưới thuỷ cung. Nhưng đêm như thế,dòng suối Bạc lung linh dưới ánh trăng ngà. Mặt nước sóng sánh hằng hà sa những đốm sáng như vảy cá chép vàng bắt nắng ban mai. Trong cảnh sắc chập chờn, huyền ảo, thỉnh thoảng một gã si tình lại nhảy xuống vực tìm người trong mộng để rồi không bao giờ trở về cõi dương gian nữa. Chuyện ấy chắc chỉ là huyền thoại nhằm cảnh tỉnh những kẻ lắm đam mê, nhưng con suối Bạc với vực Thuồng Luồng thì vẫn còn đó.

Hà Thiết là chàng trai mang trong mình hai dòng máu. Bố người Kinh mẹ người Tày. Ông Thao lưu lạc đến vùng Bình Xuyên từ nhỏ, làm con nuôi nhà họ Hà, lớn lên được gia chủ cưới cho một cô gái người bản Nậm Coóng. Ông giỏi nghề mộc, đã từng được quan châu đón lên làm nhà nhưng mệnh số bị hãm, không được ở với vợ con lâu dài. Cách đây mấy năm, một lần đi rừng về, lội qua suối Nậm Thoong, ông bị nước lũ cuốn trôi.

Biết Nhóng phải lòng Hà Thiết, ông bố có vẻ không hài lòng, bảo con gái:
- Thằng ấy giỏi trai nhưng tao ngại nó là người Kinh. Bọn người Kinh khôn ngoan mà hay xảo trá. Sống với họ luôn phải cảnh giác, bởi vì trong đầu họ luôn có những cái mà người vùng cao ta không có được.
Nhóng không mấy quan tâm đến người chồng tương lai là Kinh hay Tày mà thề rằng nếu không được làm vợ Hà Thiết sẽ tự tử. Rốt cuộc, Nông Viết Định cũng phải chấp nhận chuyện trăm năm của con gái khi mẹ Hà Thiết mang lễ vật sang dạm hỏi. Năm ấy, mưa muộn, mãi đến cuối tháng tám suối Bạc vẫn còn lũ. Một buổi chiều, Hà Thiết vác củi từ trên nương về, chợt nhìn thấy một vật gì giống con chó vện bị dòng nước đẩy giạt vào ghềnh đá. Anh ta quẳng bó củi lại gần xem, thì ra là một chú hổ con lạc mẹ, gãy chân trước, những đám công lông vằn vèo dính bết vào da thịt nhợt nhạt, hai mắt nhắm nghiền trong tình trạng gần như đã chết. Hà Thiết vác con vật lên vai, chạy một mạch về nhà bảo vợ đổ rượu mật gấu xoa khắp người cho nó. Nhóng sợ hết hồn, giãy nảy:
- Anh mang ra rừng thả hoặc giết nó đi. Ai lại mang cọp về nhà. Em sợ lắm.
Hà Thiết bế con hổ lại gần bếp lửa hơ cho nó khô lông rồi thong thả bảo vợ:
- Nó còn bé, thiếu sự chăm sóc của mẹ, lại gẫy chân, giờ thả về rừng là chết. Anh nghĩ, con vật cũng như con người, mình cứu giúp nó, nó không nỡ hại mình.

Con Hổ yếu lắm, mãi chiều hôm ấy mới liếm được ít cháo trứng gà. Vết thương khá nặng. Những đoạn xương gãy trồi khỏi khuỷu chân đâm ra ngoài khiến nó bị sốt cao, suốt ngày nằm thiêm thiếp, thở khò khè như đứa trẻ mắc chứng hen phế quản. Sau khi đắp thuốc, Hà Thiết phải dùng hai chiếc nẹp tre kẹp vào chân con hổ rồi quấn dây chung quanh cố định khớp xương. Đi làm thì thôi, về đến nhà nhìn thấy con hổ là Nhóng lại càu nhàu. Nhưng rôì thấy chồng hết lòng cứu chữa con vật, chẳng quản ngày đêm lội suối băng rừng kiếm thuốc, cô cũng dần nguôi giận. Mỗi sáng, trước khi lên nương, Nhóng còn giúp chồng nấu cháo pha mật ong đổ từng thìa cho con thú. Được chừng mươi ngày thì Hà Thiết tháo nẹp. Vết thương của loài hổ nói chung, rất lâu khỏi, phải gần một tháng sau nó mới hoàn toàn bình phục.

Là loài mãnh thú, nhưng vì còn bé nên con hổ vẫn chưa kế thừa đầy đủ tập tính di truyền của tổ tiên. Nó hiếu động và thích khẽ gừ gừ như một gã mèo vằn nằm sưởi nắng khi đã được gia chủ cho đánh chén no nê. Phải nói đó là một chú hổ nhí khá hiền lành, thậm chí nó còn sợ hãi nhảy bổ lên bậc cầu thang khi nhìn thấy con chó Lài giống Vân Nam cao lừng lững của Hoàng Đản lúc anh này đến rủ Hà Thiết đi săn lợn rừng. Hà Thiết đặt tên cho nó là Huổi Vằn, Con vật tỏ ra dễ thương và biết nghe lời ông bà chủ. Anh ta không muốn bất cứ ai nhìn thấy Huổi Vằn nên đã tập dần cho nó quen với những tín hiệu quy định. Khi có người đến cổng nghe tiếng huýt sáo của ông chủ là chú ta cúp đuôi chạy ngay vào nhà chứa củi.

Nửa năm sau, Huổi Vằn được chăm sóc chu đáo đã thành một chú hổ choai choai. Cơ thể của nó phải nhiều năm nữa mới đến độ trưởng thành nhưng dáng dấp đã có vẻ oai phong của bậc chúa sơn lâm. Ban ngày, con mãnh thú ngoan ngoãn nằm trong chiếc cũi để ở gian đầu nhà chòi khuất giữa vườn mắc coọc, lim dim ngủ. Ban đêm, Hà Thiết thả nó vào rừng kiếm mồi. Huổi Vằn mải chơi, lang thang trong rừng Cấm hai ba ngày mới về, nhưng cũng có những hôm trời còn tối, chưa rõ mặt người nó đã lẳng lặng tha về một con hoẵng hầu như còn nguyên vẹn cho ông bà chủ.

Một hôm, Hà Thiết thả Huổi Vằn sớm hơn thường lệ rồi bảo Nhóng đem chiếc búa tạ để anh phá cũi. Con Hổ thấy lạ cứ nhìn chủ rồi gừ gừ trong cổ họng. Hà Thiết vỗ vỗ vào lưng Huổi Vằn bảo:
- Mày lớn rồi, không ở đây được nữa mà phải vào rừng Cấm mới khỏi bị bọn phường săn rình bắn. Hôm qua, lúc ở bản Tèo về, tao đã nhìn thấy anh em thằng Bế Tòng phát hiện dấu chân mày.
Con hổ vẫn còn đang ngơ ngác thì Hà Thiết đã huýt gió chỉ tay vào rừng :
- Thôi đi đi ! Thỉnh thoảng về thăm tao.

Huổi Vằn hình như vẫn còn lưu luyến nhưng nhìn thấy ánh mắt ra lệnh của chủ nó mới uể oải bước một cách miễn cưỡng. Anh ta lặng lẽ nhìn theo cho đến khi nó mất hút sau những bụi gai móc mèo um tùm.

Con hổ đi rồi, Hà Thiết đâm ra nhớ, còn Nhóng thì mừng ra mặt. Thỉnh thoảng anh ta ra bờ suối lấy chiếc tù và bằng sừng trâu rúc vài tiếng thử gọi, dù biết ràng lúc này nó ở mãi ngàn xanh. Nhưng rồi mấy hôm sau Huổi Vằn về thật. Con hổ uốn thân hình mềm mại nhảy loang loáng dưới ánh trăng, lúc ẩn lúc hiện giữa những lùm cây kim tước không hề phát ra một tiếng động làm Hà Thiết giật thót mình. Anh ta nhẹ nhàng vuốt cái bờm vàng cháy ram ráp từ đỉnh đầu đến ngang lưng, làm con thú khoái chí khẽ gừ gừ như ngày còn bé. Tuy vậy, Hà thiết không dám giữ con hổ lại lâu. Anh ta rất sợ những nòng súng nạp đạn ghém của cánh thợ săn Nà Ngườm. Họ sẵn sàng bắn vào bất cứ mục tiêu nào, miễn là hạ sát được con mồi.

Vào một đêm tháng Ba, lúc ấy đã khuya lắm, bỗng có tiếng chó sửa dữ dội. Không phải Huổi Vằn. Con hổ về thì lũ chó nhất loạt cúp đuôi, rúm người lại, im thin thít. Chỉ có lợn rừng, hươu nai hoặc giả là người bọn chúng mới ra oai báo cho chủ mẫn cán đến như thế. Hà Thiết bảo Nhóng nằm yên trong buồng rồi với cây súng, nhẹ nhàng lần xuống cầu thang. Anh ta không phải tìm lâu. Theo hướng chó sủa, từ xa Hà Thiết đã thấy một hình người mặc quần áo sẫm màu, bùn đất dính bê bết, nằm cạnh hàng rào ở tư thế hoàn toàn không bình thường. Anh ta chần chừ không dám lại gần, sợ có kẻ nào đó rình rập chung quanh. Mà có thể lắm. Biết đâu đây chẳng là mưu chước của cha con lão Chánh Tổng khi chúng còn ôm mối hận về cô con dâu hụt. Lũ chó vẫn cắn dai dẳng. Cậy chủ ở bên cạnh, cả con Vện và con Mực vừa sủa vừa chạy quanh kẻ lạ mặt đang nằm co quắp vẽ thành một vòng cung mỗi lúc một hẹp dần. Dõi mắt quan sát ba bề bốn bên, thấy không có gì khả nghi, Hà Thiết quả quyết lại gần . Có tiếng rên rỉ khe khẽ, tiếp theo là nhịp thở nặng nhọc, mệt mỏi của người bị thương. Anh ta nạt con Vện cúp tai đang định thò mõm lôi ống tay áo kẻ lạ mặt :
- Vện, ra ngoài kia !

Con chó đã biết tính chủ. Nó lẳng lặng lẩn vào góc vườn nằm xuống đống vỏ cây, xoải hai chân trước, cặp mắt lim dim làm nhiệm vụ cảnh giới trong khi con mực tai dỏng đã bị tống vào gầm sàn đang rên ư ử.

Kẻ lạ mặt là một người đàn ông chừng bốn mươi có mái tóc cứng như rề tre và bộ râu quai nón lởm chởm lâu ngày không cạo giống hệt một tay lục lâm đã từng lão luyện trong nghề chặn đường khách thương hồ đòi tiền mãi lộ. Ông ta bị một phát đạn vào bắp đùi trái. Vết thương toang hoác, phá ra bằng nửa bàn tay, tuy chỉ vào phần mềm nhưng đã bị nhiễm trùng bốc mùi hôi làm nạn nhân bị choáng. Nghe giọng nói, Hà Thiết biết ông ta là người Kinh. Trong lòng đầy nghi hoặc, anh ta nhìn bộ dạng ông khách không mời hỏi bằng tiếng Tày :
- Khách đi chợ bản Then không biết đường lạc vào rừng Cấm à ?
Người đàn ông vểnh hàm râu chổi sể lắc đầu:
- Ta là … Cả Pháo, có dám cho vào nhà không ?
Vậy ra ông khách này là tướng cướp thật. Nghe thiên hạ đồn từ lâu giờ Hà Thiết mới biết mặt. Anh ta thản nhiên bảo ông trùm lục lâm :
- Sợ gì ? ở đây chỉ có mỗi nhà tôi. Các nhà khác trong bản Nà Ngườm đều cách nửa con dao quăng. Để tôi dìu ông lên sàn.
- Anh không sợ chánh tổng Bế Hữu Tài à ?
- Cả bản này thù bố con nó. -Hà Thiết quả quyết bảo - Mà nếu có kẻ xấu bụng báo chánh tổng hoặc quan châu Bình Xuyên cũng chẳng làm gì được. ở đây gần với con đường chạy vào rừng Cấm, vợ tôi sẽ đi hái thuốc chữa vết thương cho ông.
- Ta chỉ dám nhờ gia chủ vài hôm, vết thương dịu bớt là đi ngay.
- Không vội được đâu. - Hà Thiết lắc đầu ái ngại bảo ông khách - Vết thương của ông nặng lắm, chậm một hai ngày nữa là hỏng cái chân.

Sáng sớm, Nhóng lên rừng hái thuốc. Hà Thiết pha nước muối rửa vết thương, sau đó dùng một loại lá cây ở khe Đầu Quạ, trông tựa vẩy ốc, giã nhỏ trộn với mật ong rừng rịt vào. Thứ lá này có hoạt tính cực mạnh vừa có tác dụng sát trùng vừa làm lành những chỗ đã bị hoại thư. Đây là bài thuốc gia truyền của họ Hà từ nhiều đời trước. Nó được giữ bí mật ngay cả với người trong bản.

Khoảng già nửa tuần trăng, vết thương đã lên da non, sức khoẻ của Cả Pháo dần dần hồi phục. Tối hôm ấy, trong lúc nhắm rượu với thịt lợn rừng nướng trên than hồng, ông trùm kể cho vợ chồng Hà Thiết nghe về cuộc đời mình.

Cha Cả Pháo vốn là một nghĩa binh trong quân doanh Đề Thám. Sau mấy chục năm tung hoành làm cho quân đội Pháp và quan lại Nam triều khiếp đảm, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đến giai đoạn thoái trào. Một số thủ lĩnh của nghĩa quân rơi vào tay giặc và bị hành hình rất dã man, trong đó có thân phụ ông là suất đội Trần Tung. Nghe tin dữ, Cả Pháo lúc ấy mới mười lăm tuổi, sợ bị liên luỵ vội bỏ làng dắt mẹ đi lánh nạn. Suốt mấy tháng trời, ngày đi đêm nghỉ, gối đất nằm sương, phải chịu bao nỗi cực nhục đói khát dọc đường, cuối cùng hai mẹ con đến được châu Bình Xuyên. ít lâu sau Cả Pháo xin được chân phụ việc cho phường săn Lũng Phầy kiếm gạo. Phường săn gồm toàn những đối tượng có thành tích bất hảo, hoặc những gã đầu trộm đuôi cướp, sống ngoài vòng pháp luật nhưng trọng nghĩa khí sẵn sàng xả thân vì lẽ công bằng. Dần dần Cả Pháo được ông trùm quý mến và truyền võ nghệ cho. Phường toàn đàn ông, nay đây mai đó, không thể mang mẹ đi theo nên Cả Pháo gửi bà ở bản Noọng Khai trong nhà một người bà con của Bàn Văn Lọi. Tri châu Bình Xuyên sức giấy cho các tổng phải tróc nã bằng được toán lục lâm. Nhưng bọn này có tài xuất quỷ nhập thần, chuyên lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo. Một lần anh em chạm trán với chánh Tài ở dốc Mật. Họ đánh bạt toán lính khố xanh có trang bị súng trường, cướp toàn bộ số tiền thuế rồi biến vào rừng như có phép lạ. Không may, một tên tay chân của lão Chánh nhận được mặt Cả Pháo. Lão cho người dò la tung tích, bất ngờ phát hiện ra bà mẹ ông ở Noọng Khai bèn báo cho tên bang tá đem lính bắt giam vào đề lao. Bà là người phụ nữ có khí tiết, bị quan châu dùng cực hình tra tấn vẫn không chịu khuất phục, đến nửa đêm thì cắn lưỡi tự tử để khỏi luỵ đến con trai. Mẹ chết, Cả Pháo vô cùng đau xót. Ông thề không đội trời chung với lũ quan Tây và bọn phản dân hại nước. Hơn chục năm sau, Cả Pháo trở thành thủ lĩnh của phường Lũng Phầy với những chiến tích từng lưu truyền trong dân bản khắp châu Bình xuyên như một huyền thoại. Hãi nhất là vụ đang đêm anh em đột nhập vào đồn Phay Hán đốt nhà, mang hết vàng bạc cùng với lão bang tá về sào huyệt. Hà Thiết nghe câu chuyện phục lắm bèn hỏi:
- Như vậy là ông đã bị cả bọn Phú Lãng Sa da trắng tóc vàng và lính quan châu rình bắt nhiều lần mà vẫn bình an vô sự, thế còn mấy hôm trước, kẻ nào bắn ông ?
- Ta không nhìn rõ mặt chúng nhưng ở vùng này chắc chỉ có cha con lão Chánh tổng.
- Ông Cả đi lối rừng Cấm rồi lội suối về Ken Chải phải không ?
Cả Pháo gật đầu:
- Cứ tưởng theo lối này thì an toàn ai ngờ lại bị dính đạn. Lúc ấy trời đã chạng vạng, chỉ thoáng thấy một thằng khập khiễng ôm súng chạy khi ta bắn trả.
- Thằng Tòng đấy. Cái chân thọt là do hắn ngã ở vực Thuồng Luồng . - Hà Thiết trầm ngâm một thoáng rồi quả quyết bảo -Tôi nghĩ mãi rồi. Tuy chân chưa khỏi hẳn nhưng ông Cả phải đi thôi, ở đây lâu sợ chúng tìm ra dấu vết.
- Ta cũng cảm thấy cha con lão Chánh không dễ gì bỏ cuộc khi đã bắn bị thương con mồi. Anh nói phải. Ơn cứu mạng của vợ chồng anh kiếp này không báo được thì xin hẹn kiếp sau.
Nói rồi ông ta quỳ sụp xuống vái Hà Thiết ba vái. Hà Thiết vội đỡ Cả Pháo dậy :
- Hà tất ông Cả phải làm thế. Ông là người nghĩa khí, bênh vực dân nghèo, trị tội ác bá, không chỉ chúng tôi mà ngay cả bà con dân bản cũng sẵn lòng cưu mang. Đêm mai tôi sẽ đưa ông tắt rừng Ken Chải sang bản Puốn.
- Phải lắm, Bản Puốn ta có một người anh em là ông Lầu Phềnh.

Mờ sáng hôm sau, Nhóng vừa lùa đàn trâu lên rừng thì cha con chánh Tài cưỡi ngựa dẫn một toán lính khố xanh đến cổng. Mấy con chó chạy xô ra sủa toáng lên. Bế Tòng nổ một phát súng mút thị uy làm lũ chó bị kích động nhảy vọt qua hàng rào thưa lao vào con ngựa bạch của lão chánh tổng. Nó bị bất ngờ, hí lên một tiếng sau đó bổ nước đại hất Bế Hữu Tài xuống bờ ruộng bậc thang. Lão vừa ngượng vừa tức, lồm cồm bò dậy, ra lệnh cho bọn thuộc hạ bao vây ngôi nhà sàn. Hà Thiết thừa biết chuyện gì sẽ xảy ra liền đẩy Cả Pháo vào góc nhà, vớ lấy cây súng kíp, bước ra đầu quản hỏi:
- Có việc gì mà ông Chánh đem lính tráng đến nhà tôi từ sáng sớm ?

Lão Chánh hực lên một tiếng :
- Mày muốn sống thì mang thằng tướng cướp ra nộp quan. Ta biết hắn đã bị thương đang nằm trong nhà.
- Này ông Chánh, đừng quen thói gắp lửa bỏ tay người. ở đây không có ai là tướng cướp. Ông bảo người nhà về đi nếu không đừng trách Hà Thiết này nóng tính.

Chánh tổng cười gằn hất hàm bảo lũ tay chân:
- Vào nhà lôi tên Cả Pháo ra đây. Đứa nào chống lại, bắn.

Hà Thiết chĩa nòng súng vào lão Chánh dằn giọng:
- Ta thách đấy ! Kẻ nào dám bước lên bậc thang là sẽ được về với ông vải.

Hà Thiết vừa nói hết câu thì "đoàng" một viên đạn bay sát ngay cột đầu chái làm vỡ toác chiếc hòm trên gác lửng. Thì ra Bế Tòng, từ lâu vẫn âm ỉ mối hận tình, nay đã có thời cơ, từ ngoài hàng rào nhắm vào anh ta nổ súng. Hà Thiết nép nhanh vào góc khuất, bình tĩnh chờ đợi thằng Tòng ló đầu ra là xiết cò. Con trai lão chánh tổng vừa ngã thì một loạt tiếng súng rộ lên, tất cả đều nhằm vào ngôi nhà sàn. Không kịp nhồi đạn, Hà Thiết lao vào buồng lấy khẩu súng bắn đạn ria ra thì đã thấy Cả Pháo chĩa nòng khẩu trường mút của ông qua khe cửa nhằm vào bọn lính khố xanh. Viên đạn hất một tên ngã ngửa ra, đầu đập xuống tảng đá chắn hàng rào. ở trên rừng, nghe tiếng súng, Nhóng biết là có chuyện chẳng lành. Cô thả trâu rồi ba chân bốn cẳng chạy về. Vừa đến đầu nhà, Nhóng giật mình thấy phía trước có tiếng hô hét. Gay rồi. Chắc bọn chức việc đến bắt ông người Kinh. Phải nhanh chóng chạy về Nà Ngườm báo cho trưởng bản Lục Phát mới được. Nhưng họ chỉ có hai người chẳng may trúng đạn thì nguy.Thử tìm cách lại gần xem sao đã. Nhóng luồn qua những bụi cây lúp xúp bò vào gần sàn, ngẩng lên thấy chồng đang nạp đạn. Hàng rào đã bị đổ. Thằng Tòng mới chỉ bị thương, tay nó run run rê nòng súng trường về phía Hà Thiết. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, cô bỗng nhào ra chắn ngang mũi súng thét lên:
- Không được bắn !

Gần như đồng thời, nòng súng Bế Tòng bốc khói. Nhóng giật nảy người, chới với một lúc rồi ngã.

Thấy vợ trúng đạn, Hà Thiết uất lắm, quẳng khẩu súng đã vỡ toác nòng, rút con dao phát rừng định nhảy xuống quyết sống mái với chúng một phen. Nhưng rồi anh ta lại nghĩ, không thể liều chết được. Nhìn sang gian bên, ông Cả cũng hết đạn đang lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan. Bất chợt một ýnghĩ vụt loé lên … Hà Thiết lật ván sàn, bám cây cột gian giữa tuột xuống gầm nhà, khom người chạy ra bờ suối, hướng về phía rừng Cấm rúc một hồi tù và. Anh ta thổi hai tiếng ngắn lại một tiếng dài. Vừa đúng ba lần như thế thì từ cánh rừng trước mặt bỗng rồ lên như sắp có trận cuồng phong. Rồi một con hổ vằn to lớn xuất hiện. Nó chỉ nhảy vài bước đã vượt qua suối Bạc lao thẳng về ngôi nhà quen thuộc. Đúng là Huổi Vằn. Với dáng vóc oai hùng của vị chúa sơn lâm, chỉ bằng cú táp nhẹ, Huổi Vằn đã làm toạc vai Bế Văn Tòng. Những tên lính khố xanh còn lại chưa kịp định thần vì quá hoảng loạn vội quẳng súng ù té chạy. Nhưng con hổ không thèm đụng đến lũ này mà nó vọt lên rượt theo tên cai áo vàng, chìa cặp móng vuốt sắc như lưỡi dao cào một vệt vào lưng hắn. Lão chánh tổng là tên ranh ma. Biết đối phương hết đạn, hắn định leo lên cầu thang. Lúc này Cả Pháo đang trấn giữ ở trên bằng con dao phát rừng to bản khá lợi hại Hà Thiết chuyển cho. Nhìn thấy lưỡi dao sáng loáng, chánh Tài khựng lại, đi giật lùi, ghếch nòng súng về phía ông trùm. Hắn chưa kịp xiết cò thì Huổi Vằn từ ngoài cổng chồm đến sau khi đã hạ gục tên cai khố xanh. Là tay thợ săn giàu kinh nghiệm, mặc dù vô vùng khiếp đảm, chánh Tài vẫn đủ bình tĩnh tìm cách tháo lui. Nhưng Huổi Vằn có cách trấn áp đối phương bằng một độc chiêu và luôn bất khả chiến bại. Nhìn thấy họng khẩu trường mút nó lập tức dựng đứng hai chân sau, cặp mắt sáng rực như hai đạo hào quang ma quái chiếu vào Bế Hữu Tài rồi gầm lên dữ dội. Tiếng gầm của ông ba mươi khiến hồn phách lão chánh tổng lên mây, ngã vật xuống, miệng sùi bọt. Chỉ đợi có vậy, Huổi vằn chồm tới "con mồi" định kết thúc tấm thảm kịch, nhưng Hà thiết đã quát :
- Thôi đủ rồi, Huổi Vằn về rừng !

Nghe tiếng chủ, con hổ ve vẩy chiếc đuôi dài, chui qua gầm sàn đến bên Hà Thiết. Anh ta vỗ vỗ vào lưng nó rồi chỉ tay về phía trước. Huổi Vằn hiểu ý lững thững ra bờ suối Bạc.

Con hổ đi rồi, Cả Pháo xuống cầu thang đến bên lão chánh tổng vẫn còn đang chết khiếp, kề sát hàm râu quai nón vào mặt hắn, dằn giọng :
- Với tội phản dân hại nước của mày, lẽ ra phải để con hổ xé xác hoặc cho một nhát dao phát rừng, tuy chủ nhà đã tha nhưng cũng không thể để cho mày nguyên vẹn trở về bản rồi sau này vẫn chứng nào tật ấy.

Nói xong, ông Trùm lục lâm rút con dao găm trong người cắt xoẹt một bên tai khiến lão chánh tổng rú lên lấy tay bưng thái dương. Hà Thiết trừng mắt quát :
- Cút !

Buổi chiều, Cả Pháo và Hà Thiết vào rừng Ken Chải đào huyệt chôn cất Nhóng. Anh ta ở bên mộ vợ đến chập tối mới về. Cả Pháo thấy vẻ rầu rĩ của anh bạn trẻ, thương lắm bảo:
- Bỏ quách cái nhà này đi. Chú theo tôi lên núi dẹp nỗi bất công cho người nghèo.

Hà Thiết lẳng lặng gật đầu:
- Cho nó mồi lửa ….
- Phải. ở đời chẳng nên lưu luyến mãi những thứ đã thuộc về quá khứ.

Sáng hôm sau hai người dậy từ cuối canh tư. Họ vừa đi vừa nghỉ vì vết thương của ông Trùm vẫn chưa lành hẳn. Hôm ấy là một ngày âm u. Trên cao những tảng mây xám xịt, nặng nề trôi về khu rừng Cấm.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-22-2015, 09:55 PM
Chương 12

1. Lê Văn Khải đi khỏi làng Cùa được ba hôm thì Trương Đình Tái, quyền trưởng công an đem hai dân quân đến Trại Cá bảo mẹ con bà Hai:
- Anh Nghiên theo chúng tôi ra Uỷ ban.
Khúc Thị Hài chột dạ bảo:
- Nó làm gì mà các ông bắt?
- Có chuyện đấy, đến Uỷ ban khắc rõ.

Bà Hai lắc đầu:
- Chắc lại chuyện thằng Khải.

Nghiên bị dẫn ra trụ sở. Bùi Quốc Tầm đã ngồi chỡ sẵn.
- Thằng Khải đi đâu?

Quả nhiên không ngoài dự đoán. Thấy thái độ hách dịch của chủ tịch xã, nghiên ngứa mắt muốn quại cho hắn một phát vào mặt nhưng bắt buộc phải tỏ thái độ lễ phép một cách giả tạo:
- Thưa ông chủ tịch, nhà tôi không có ruộng mà những bốn miệng ăn nên anh ấy phải đi kiếm việc làm.

Tầm lại hỏi :
- Làm ở đâu ? Lúc đi sao không ra xã trình báo ?
- Anh ấy bảo chỉ đi ít hôm rồi lại về nên chúng tôi chưa kịp báo với ông Tái.

Tầm hắt hơi liền mấy cái, khạc đờm nhổ xuống đất rồi sẵng giọng :
- Những đối tượng như các anh ra khỏi làng nửa ngày cũng phải xin phép. Đấy là quy định của địa phương.Thế mà anh Khải vắng nhà đã ba ngày không lí do .Yêu cầu anh khai thật ra.
-Tôi đã bảo là anh ấy đi tìm việc làm, khi chưa tìm được việc thì không thể nào có nơi cư trú để trình báo với các ông .
- Anh cũng lắm lý luận gớm nhỉ? - Tầm châm chọc - Vậy tôi hỏi anh, tại sao trước khi đi anh Khải không xin phép?

Nghiên cười nửa miệng, nhìn vị chủ tịch cố nông như nhìn một con lừa:
- Anh ấy biết trước, có xin các ông cũng chẳng cho đi. Đói bụng đầu gối phải bò. Chẳng lẽ cứ ngồi nhà chờ chết đói?
-Thế là rõ. - Tầm cười đắc thắng - Vậy thì anh hãy tạm xuống buồng giam dưới kia,đợi đến khi nào thằng Khải về sẽ được ra.

Ngày thứ tám, Trương Đình Tái mang lệnh của chủ tịch Uỷ ban hành chính xã Đoàn Kết đọc cho mẹ con bà Hai nghe :
- " Từ ngày hai mươi bốn tháng ba năm 1956 , vợ hai địa chủ Khúc Đàm là Phùng Thị Thoả, con gái là Khúc Thị Hài, vợ tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận, có nợ máu với bà con bần cố nông , lập tức phải rời xóm Trại Cá ra đồng Chó Đá ở, nếu cố tình trái lệnh sẽ bị tống giam . Chủ tịch Bùi Quốc Tầm đã ký " .

Sáng sớm ngày hai mươi nhăm, mẹ con bà Hai cho tất cả đồ đạc tuỳ thân vào đôi quang thúng . Khúc Thị Hài gánh còn bà mẹ khoác chiếc bị cói thập thững theo sau. Từ xóm Trại Cá đến đồng Chó Đá không xa lắm nhưng phải qua khu ruộng vàn hàng năm chỉ cấy một vụ còn một vụ bỏ hoá vì ngập nước. Khu đất mà xã Đoàn Kết bố trí cho các hộ địa chủ ở cách bãi tha ma chưa đầy ba chục thước. Nơi đây mười lăm năm trước, sau trận huyết chiến giữa quân áo Đen của Khúc Kiệt với lính Nhật của Hi rô si, làng Cùa đã phải chôn liền một lúc hơn bẩy chục người vô tội . Xương thịt của họ đã tan vào lòng đất làm xanh tốt hàng ngàn thế hệ cỏ cây nhưng linh hồn họ chắc gì đã được siêu thoát về nơi tịnh thổ.

Trịnh Doãng, lão Mộc điếc cùng Đoàn Văn Đáp, cháu họ gọi phó lý Kiền bằng bác vào xóm Trại Cá dỡ ngôi nhà cũ dựng lại cho mẹ con bà Hai.

Ba người vừa trèo lên mái lột được mấy hàng rạ đã thấy Trương Đình Tái khoác súng đến sừng sộ :
- Ngôi nhà này Uỷ ban đã trưng dụng không được dỡ . Các anh xuống ngay .

Đoàn Văn Đáp bảo :
- Mẹ con bà Hai giờ không có lấy một cây tre dựng lều , xin các ông làm ơn cho người ta.
- Không nói lôi thôi. - Quyền trưởng công an quát - Các anh cố tình phá nhà là tôi hô quân dân trói lại .

Tối hôm ấy mẹ con bà Hai phải trải rạ nằm trên nền đất ẩm đắp tạm tấm chăn đụp. Phải mất gần ba hôm kiếm vật liệu bọn Trịnh Doãng mới dựng xong căn lều. Nó chỉ rộng hơn chiếc lều vịt của lão Ngạnh vừa đủ kê chiếc chõng và để đôi quang thúng , mỗi khi ra vào đều phải khom người nhưng dù sao cũng còn hơn phải phơi nắng phơi sương giữa trời .

Cũng vào thời gian ấy, Lê Văn Nghiên bị giải lên huyện để công an tiếp tục điều tra về sự mất tích của Lê Văn Khải mà lãnh đạo xã Đoàn Kết nghi là anh ta đã trốn vào Nam theo địch. ở huyện người ta đối xử với Nghiên khác hẳn với Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái đã làm. Họ không tát tai hoặc thích cùi chỏ vào ngực, thậm chí không lên giọng quát tháo nhưng thực sự Nghiên thấy sợ. Đó là nỗi sợ hãi cố hữu bởi anh ta luôn biết thân phận mình chỉ là con sâu cái kiến , đang đối mặt với một thế lực có sức mạnh tập thể vô cùng lớn được duy trì bằng nguồn năng lượng đặc biệt đó là " chuyên chính vô sản " . Họ mở miệng ra là nhân danh Đảng và giai cấp vô sản, có khi chưa cần dùng đến biện pháp cứng rắn những công dân hạng hai như anh ta đã rúm người lại như con chuột nhìn thấy lão mèo già đang lặng lẽ vuốt râu .

Ông công an mặc áo đại cán, tay đeo đồng hồ Nikles có cái cằm nhọn, ria đen nhánh nhưng thưa, thái độ rất nhã nhặn hỏi :
- Anh cứ bình tĩnh kể lại cho chúng tôi nghe từ đầu đến cuối việc anh Khải đi khỏi làng Cùa như thế nào . Nhớ là phải thật tỉ mỉ , chính xác
.
Người thư ký ngồi bên cạnh đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Anh ta ghi rất nhanh khi Lê Văn Nghiên bắt đầu nói . Trong nửa giờ , người cằm nhọn vừa nghe vừa ghi sổ tay. Ông ta viết khá xấu nhất là các chữ " s " ," m " và đặc biệt chữ "k " chẳng khác gì cái chân gà. Nghiên trình bày một cách ngắn gọn, có phương pháp làm ông công an bất giác nheo mắt hỏi :
- Anh có biết chữ không ?
- Thưa ông, có biết chút ít .
- Chắc là học bình dân ?

Nghiên ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu :
- Thưa ông, vâng .

Ông công an khoảng trên ba mươi, trán rộng, mũi nở, mắt sáng trông có dáng của một lãnh đạo quốc gia trừ cái cằm nhọn. Thỉnh thoảng ông ta nhìn Nghiên như kiểu mèo vờn chuột. Cái nhìn tưởng là vô cảm , bất chợt thoảng qua nhưng nếu để ý sẽ thấy những tia sắc lạnh như mũi khoan thép làm ý chí đối phương tê liệt, mất hẳn khả năng phòng thủ cuối cùng phải bộc lộ bản chất . Nghĩ đến đây , Nghiên tự bảo mình : " Ta nguy mất rồi ".
- Anh nghĩ gì thế ? - Người cằm nhọn lại phóng một tia nhìn làm Nghiên cồn cào ruột gan .
- Tôi đang nghĩ giá mà anh Khải viết thư về cho biết đang làm việc ở đâu .

Ông ta gật gù :
- Nếu thế thì còn nói làm gì. Mà này, anh có viết được không ?
- Dạ, cũng võ vẽ đôi chút...
- Vậy hãy viết bản tường trình. - Ông công an đẩy xấp giấy, cây bút sắt cùng lọ mực tím mà người thư ký đã chuẩn bị sẵn về phía anh - Cứ bình tĩnh mà trình bầy. Nhớ dùng chữ nhỏ và đừng để mất nét. Tôi bận họp, chiều ta lại gặp nhau .

Bản tự khai của Nghiên chỉ chừng năm trăm chữ viết gọn trong hai mặt giấy, nét đẹp như cắt làm tay thư ký há hốc mồm không tin ở mắt mình . Nội dung hoàn toàn giống với lời khai, chỉ có điều cốt yếu mà người ta đang muốn biết là Lê Văn Khải đang ở đâu thì Nghiên không viết vào . Chiều hôm ấy,Nghiên ngồi trong trại tạm giam. Ông công an điều tra không đến. Chắc vẫn bận họp . Sáng hôm sau, ông Thẩm, Nghiên nghe thấy người thư ký gọi như vậy, đến rất sớm. Vừa bước vào phòng anh ta đã thấy vị cán bộ điều tra cầm trong tay bản tự khai của mình đọc rất chăm chú hoặc đang làm ra vẻ chăm chú. Thời gian đọc khá lâu gần như ông ta đánh vần từng chữ làm Nghiên sinh nghi, ông ta đang đóng kịch hay cũng mới thoát nạn mù chữ ?
- Anh ngồi đi. - Ông Thẩm đặt tờ giấy xuống mặt bàn rồi khẽ gật đầu - Chữ anh viết đẹp lại đúng mẹo luật nữa .
- Ông quá khen.
- Hình như trước đây anh cũng được học hành tử tế chứ không phải chỉ ở trình độ bình dân học vụ ?

Nghiên thoáng nghĩ, chuyện này không thể giấu, nếu giấu lập tức ông ta sẽ liên hệ ngay đến việc mình lừa dối chính quyền , tội không nhỏ .
- Thưa vâng, tôi đã tốt nghiệp Trung học Đệ nhất Cấp .
- Có thế chứ. Bọn trí thức tiểu tư sản các anh nói chung là thuộc thành phần bóc lột, ăn bám vào bà con bần cố nông. - Ông Thẩm vừa bẻ đốt ngón tay khùng khục vừa phân tích - Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp lớn nhằm xoá bỏ sự áp bức bóc lột , thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng " . Chính sách của nhà nước không nhằm đánh vào thân thể các anh mà để cải tạo tư tưởng cổ hủ lạc hậu trong đầu các anh. Một trong những yêu cầu tối thiểu để giảm nhẹ hình thức xử phạt là phải thành khẩn. Vậy mà từ hôm qua đến giờ anh vẫn cứ loanh quanh không cho nhà chức trách biết hiện giờ anh Khải ở đâu ?
- Ông nói rất có lý. Tôi cũng nóng lòng muốn được ra khỏi đây về nhà giúp đỡ gia đình nhưng ngặt một nỗi từ khi đi khỏi làng đến giờ anh Khải chẳng có tin tức gì .
- Thế này vậy. - Ông Thẩm vẫn rất bình tĩnh bảo, - Tôi để anh suy nghĩ thêm từ giờ đến sáng mai , nếu ngày mai vẫn cố tình không chịu khai ra tên Khải đi đâu, chúng tôi bắt buộc phải đưa anh lên tỉnh .

Ngày hôm sau, ông Thẩm hoàn toàn thất vọng nhưng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh cần thiết của người cán bộ điều tra chính trị. Trước khi Lê Văn Nghiên bị hai công an dẫn đi, ông ta còn dặn :
- Cái chính là phải thành khẩn nói hết những điều mình biết. Pháp luật tuy nghiêm khắc nhưng vẫn có phần giảm nhẹ nếu các đối tượng thực sự hối cải. Anh nhớ lấy.

Thường thì những đối tượng có lý lịch phức tạp như Lê Văn Nghiên mà công an huyện đã chuyển tỉnh thì hiếm khi được về ngay. Anh ta vừa đến ty công an đã được đưa ngay vào trại tạm giam K4. Trong trại, sau Cải cách ruộng đất vẫn còn khoảng hơn trăm người, phần lớn là con em địa chủ cường hào, tay sai Quốc dân đảng đang chờ xử lý .

Cũng vào thời gian ấy mẹ con bà Hai không còn thứ gì có thể ăn sống người đành phải tính đến việc đi xin. Chuyện ăn mày vào những năm giữa thập kỷ năm mươi không có gì lạ. Cái lạ là hầu hết số người lang thang khất thực trên khắp các nẻo đường đều có nguồn gốc địa chủ , cường hào hoặc phú nông đã bị tịch thu điền sản .

Tất cả bọn họ đều mang một đặc điểm chung khi hành nghề là nón mê kéo sụp xuống che mặt , giọng nói lí nhí và không bao giờ dám nói rõ thân phận .Khúc Thị Hài trong bộ váy áo vá chằng vá đụp , vai khoác bị , cánh tay lành dắt bà mẹ lưng còng ngót nghét sáu mươi chẳng khác gì hình ảnh nàng Cúc Hoa dắt mẹ Tống Trân hành khất thời xưa . Bà Hai mệt thỉnh thoảng phải ngồi nghỉ lấy sức.

Lúc ấy hai mẹ con trên đường vào làng Rào . Con đường hẹp lát gạch nghiêng, ở giữa gồ lên như mai rùa . nắng tháng tư trong suốt không đến nỗi gay gắt như trưa tháng sáu nhưng vì là nắng mới nên rất khó chịu với những người đi bộ đường trường . Trời trong xanh , thỉnh thoảng mới có gợn mây trông như hình mạng nhện đan bằng những sợi trắng như bông . Mặt trời lên cao , mạng nhện càng nở phình ra cho đến lúc giống hệt tấm lưới khổng lồ choán nửa bầu trời rồi mờ dần. Một đàn sếu lông xám nhịp nhàng vỗ cánh bay về phía đầm Ma theo hình mũi tên .Con đầu đàn hơi tách ra khỏi đội hình rồi bất ngờ hạ dần độ cao. Chúng bay quanh làng vài vòng kêu lên những tếng rất lạ tai sau đó tiếp tục cuộc hành trình . Qua cổng làng , mẹ con bà Hai rẽ vào một ngôi nhà ngói trông bề ngoài thì gia chủ có vẻ khá giả . Khúc Thị Hài kéo tấm khăn đen che mặt , cố ý để người ta nhìn thấy cánh tay tật nguyền .Con chó vện bằng nắm đấm cắn dai nhanh nhách . Người ra mở cổng là một bà già .
- Bà ơi ! Bà làm ơn cho con xin chút ít . Quê con mất mùa đói lắm .

Bà cụ già lúng búng nhai trầu hỏi :
- Sao dạo này lắm ăn mày thế không biết ? Mẹ con nhà chị ở mạn nào đến ?
- Quê con mãi làng Vạn , Thái Bình cơ . - Khúc Thị Hài nói dối - Cùng đường mới phải ngửa tay đi xin , mong bà mở lòng từ bi , một nắm khi đói bằng một gói khi no .

Bà cụ vào nhà xúc bơ gạo đưa cho Khúc Thị Hài bảo:
- Nhà này cũng sắp hết ăn rồi nhưng nhìn thấy mẹ con nhà chị nhếch nhác quá không đành .

Bà Hai cảm động khẽ nói :
- Đội ơn bà !
Hai người lại thất thểu trên con đường trục giữa làng , từ xa nhìn thấy ngôi nhà gạch năm gian lợp ngói âm dương, Khúc Thị Hài chỉ tay hỏi mẹ:
- Mình cứ liều vào trong ấy xem có được gì không?

Bà Hai bảo :
- Mẹ đoán nhà ấy là nhà cố nông mới được chia chẳng ăn thua gì đâu.
Trước cửa , một người đàn ông mặt dẹt, trán thấp ,cởi trần, những dẻ xương sườn hình nan quạt trồi lên dưới lớp da vàng ệch đang húp xoàn xoạt bát cháo khoai vẫn còn bốc khói, vừa nhìn thấy ăn mày vào sân đã xua như xua tà :
- Không có gì đâu, nhà này cũng phải húp cháo khoai trừ bữa đây .

Khúc Thị Hài nhăn nhó .
- Bác nhón tay làm phúc giúp kẻ cơ nhỡ một chút gọi là .
- Về quê làm lấy mà ăn . - Người đàn ông vẫn xịt xoạt húp thứ nước lõng bõng trong chiếc bát chiết yêu , giọng rồm rộp như bị bỏng lưỡi - Đây mấy đời cố nông mà không thèm ngửa tay xin xỏ ai bao giờ nhé !
- Bác nói thế thì chúng tôi đành chịu .
- Không chịu cũng không được. Nhà này sáng qua đã phải đem ra chợ bán mấy cái ghế quả thực mua được thúng khoai khô, hôm nay mới có cháo húp. Mà thôi, chị chờ một tí, tôi mang cho nắm khoai. Nếu đói quá thì có thể ăn tạm. khoai phơi được nắng, thơm lắm .

Xế chưa mẹ con bà Hai ra nghỉ dưới gốc đa làng giở khoai khô ra nhai. Ăn xong, khát quá , Khúc Thị Hài lội xuống giếng ngắt lá sen múc nước mang lên cho bà Hai uống . Đêm ấy, về đến căn lều của mình bà Hai nằm thiêm thiếp bụng sôi òng ọc .Hôm sau, lúc sắp đi, Khúc Thị Hài bảo mẹ :
- Hôm nay bà mệt cứ ở nhà .

Bà Hai lắc đầu :
- Tôi già thế này ngửa tay xin người ta mới thương, một mình chị sợ rằng khó .
- U cứ lo không đâu. Cái tay khoèo của tôi thế này mà lắm lúc cũng được việc .
- Thời buổi thóc cao gạo kém, ăn xin như rươi, người cụt cả hai chân còn chưa ăn ai huống hồ cái tay khoèo của chị

Hai mẹ con sang vùng Mễ Tây . Dọc đường 228 thỉnh thoảng lại gặp một toán bị gậy, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, áo quần nhếch nhác trông như quỷ nhập tràng. Khúc Thị Hài hỏi một ông mặt choắt, rậm râu, già nhất trong đám, dáng bước lòng khòng :
- Các bác ở đâu ta ?
- Dưới Cổ Trai .
- Sao không vào chợ La ?
- Vào thế đếch nào được .- Ông già buột miệng chửi - Mẹ cha chúng nó chứ ! Lão vừa mon men đến cổng mấy thằng khán thị đầu trâu mặt ngựa đã vác gậy đuổi như đuổi tà. Có tay mặt rỗ còn trẻ bị câm cứ liều xông vào bị nó nện dập ống chân .
- ở nhà có còn ruộng vườn không ?
- Các ông bà nông dân tịch thu hết rồi, giờ chỉ còn trơ hai cái thân già thay nhau đi xin của bố thí đây .

Qua chợ La được một thôi đường, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Hai mẹ con vào ngồi quán đá dưới gốc cây đa cổ thụ tránh nắng. Được một lúc có ba phụ nữ ăn mặc kiểu nửa quê nửa tỉnh đạp xe ngang qua. Người lớn tuổi bảo hai chị bạn :
- Ta vào quán này nghỉ uống chén nước .
Trên chiếc chõng tre nức mây đen sì như dính bồ hóng , ngoài nải chuối tây đã chín vàng chỉ có ấm nước vối, một lọ thuỷ tinh kẹo bột xanh đỏ với chiếc điếu cày ghếch bên cạnh. Người phụ nữ đứng tuổi mặc áo cổ bẻ xanh sĩ lâm, chiết ly, quần láng đen, đội nón bài thơ, vai quàng chiếc túi vải, ngồi xuống ghế bảo bà chủ quán :
- Bà cho ba bát nước vối với đĩa kẹo .
- Các bác về đâu thế ?
- Về tỉnh bà ạ .
- Nước đây mời ba bác. Từ đây về tỉnh đi xe lết chả mấy, cứ thong thả cho mát .

Nhìn thấy hai mẹ con người ăn mày, chị phụ nữ đứng tuổi thoáng giật mình, nhưng rồi chị ta lấy lại bình tĩnh rất nhanh, thái độ thản nhiên như không bảo bà chủ quán :
- Bà mang nải chuối này với hai bát nước đưa cho mẹ con người ăn mày kia, tôi sẽ trả tiền.
Bà Hai mắt kém lại bị quáng nắng không nhận ra người phụ nữ nhưng Khúc Thị Hài đã ngờ ngợ ngay từ khi chị ta bước vào quán. Khi người ấy đến gần hai mẹ con, bỏ khăn ra thì Khúc Thị Hài khẽ kêu lên :
- Dì Ba !

Người phụ nữ đặt tay lên môi ra hiệu nói khẽ rồi hỏi :
- Sao lại đến nông nỗi này ?
- Chúng tôi bị xã đuổi khỏi làng phải ra đồng Chó Đá ở vì thằng Khải bỏ nhà đi tìm việc , thằng Nghiên thì đang nằm trong trại tạm giam .

Chị ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi dặn :
- Nói chuyện ở đây không tiện . Nghe tôi dặn đây. Nếu có gì cần giúp đỡ chị hãy sang thị xã đến nhà số 15 phố Đông Sơn, hỏi bà Dương Thị Xuân .

Trên đường về, bà Hai bảo con gái :
- Cái người mang quan tài về liệm cho chồng mày hôm nó bị bắn đúng là cô ấy.
- Con cứ nghĩ là dì ấy chết rồi.

Bà Hai gật đầu :
- Tao cũng nghĩ thế, mà... sao lại phải thay tên đổi họ nhỉ ?
- Chắc là phần đời sau này của dì ấy có những uẩn khúc .
- Tao chẳng biết được mà chỉ thấy cô ấy khác trước nhiều lắm .
- Có khi "người ta" làm cán bộ bà ạ . Nay mai con phải lên tỉnh một chuyến may ra cứu được thằng Nghiên .

*****

Ông công an điều tra cấp tỉnh xem ra còn có văn hoá và khả năng nhẫn nại hơn nhiều so với người đồng nghiệp dưới huyện. Ông này không thuyết lý dài dòng mà đi ngay vào bản chất của sự việc :
- Thực ra, trong thời gian qua chúng tôi đã có đầy đủ hồ sơ về anh. Việc anh Khải đi khỏi làng không báo cáo chính quyền hẳn là đã có một kế hoạch được sắp đặt từ trước. ở huyện công an, anh có ý định giấu trình độ học vấn nhằm mục đích gì ?

Nghiên im lặng. Ông công an tiếp tục, giọng đều đều vô cảm :
- Các anh được đào tạo rất bài bản trong hệ thống nhà trường thực dân, bị nhồi nhét toàn những tư tưởng phản động và hệ ý thức nô dịch, trong thâm tâm rất bất mãn với chính quyền mới và luôn chờ dịp để chống lại .

Nghiên thấy đã đến lúc phải chứng tỏ thái độ của mình :
- Lập luận của ông không đúng vì nó xuất phát từ nhận định chủ quan, mang tính áp đặt .
- Anh dám …
- Ông cứ bình tĩnh .- Nghiên xua tay cắt lời - Trước hết chúng tôi cùng giai cấp với ông. Bố tôi là đảng viên đảng Lao động, hoạt động Cách mạng nhiều năm và đã bị đế quốc cầm tù. Cách mạng thành công, ông ấy được cử làm chủ tịch huyện, vậy mà hồi Cải cách bị đem ra xử bắn với tội danh rất mơ hồ là " tay sai Quốc dân đảng ". Từ cái chết oan ức của cha tôi, các ông nhân danh bần cố nông, tước hết số tài ít ỏi, đuổi chúng tôi ra khỏi làng, thử hỏi đấy là thứ " đấu tranh giai cấp " gì?
- Anh không được láo ! Nói xấu chính quyền Cách mạng là tù mọt gông.-Ông cán bộ thẩm vấn vứt ngay cái mặt nạ đạo đức giả nhìn xoáy vào Lê Văn Nghiên như muốn ăn tươi nuốt sống anh ta -Biết điều thì khai ra, thằng anh mày trốn ở đâu ?
-Tôi đã nói rồi,tôi không biết .

Cái kiểu khiêu khích của Lê Văn Nghiên rất khó chịu . Đó là thứ châm chọc mang mầu sắc văn hoá hơn hẳn đối phương một bậc làm ông công an phát khùng, không kìm được liền giáng cho anh ta mấy cái bạt tai .Mấy cái tát có nghề làm Nghiên nổ đom đóm mắt , máu cam chảy ra làm rớt xuống ngực áo. Anh ta cười như mếu :
-Thì ra chuyên chính của Nhà nước dân chủ là thế này đây .
- Đúng đấy .- Ông cán bộ điều tra cười nhạt, giọng khinh khỉnh - Nếu không biết điều thì sẽ còn rất lâu mới được nhìn thấy ánh mặt trời anh bạn ạ .

Chiều hôm ấy, ông công an điều tra trả Nghiên về trại K4 với mệnh lệnh :
- Tống vào phòng biệt giam, cắt khẩu phần ăn hai ngày .

Trên đường về, ông cán bộ điều tra vẫn còn hậm hực vì gần một năm làm công việc thẩm vấn tội phạm chưa bao giờ gặp một thằng nhãi ranh miệng còn hơi sữa mà thở ra toàn lý sự như Lê Văn Nghiên .

Hai mẹ con bà Hai lên trại thăm Nghiên nhưng không được gặp. Trên đường về họ phải rẽ vào làng Tảo An xin ăn. Bà Hai sẵn có bệnh tim , bụng đang đói. Trời vừa nắng gắt lại đổ mưa , thế là bị cảm ngã xuống ruộng . Khúc Thị Hài phải khó khăn lắm mới kéo được mẹ lên thì bà đã hôn mê. Giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết làm thế nào, chị ta đành chạy vào làng nhờ người giúp. Ông xã đội trưởng hỏi :
- Mẹ con nhà chị ở đâu ? Làm sao phải đi ăn mày ?
Lúc này không thể nói dối. Chị ta đành kể về thân phận mình. Nghe xong, vị xã đội trưởng chẳng những không thông cảm mà còn thản nhiên bảo:
- Uỷ ban đã có lệnh, thân nhân của của các gia đình địa chủ phản động có nợ máu với nhân dân chết không được để chung ở nghĩa địa khu dân cư . Nếu mẹ chị chết chúng tôi sẽ cử mấy dân quân ra đào huyệt chôn .

Khúc Thị Hài tức tưởi chạy ra đến nơi thì bà Hai đã tắt thở. Chị ta nằm phục bên xác mẹ, người cứ rung lên bần bật. Tiếng khóc bị bị nghẹn lại bởi trong người hầu như đã cạn kiệt sức lực. Có cảm giác như chẳng còn bao lâu nữa chị cũng đi theo mẹ .

Mấy người dân quân bó bà Hai trong chiếc chiếu từ thiện rồi đào huyệt chôn ngay cạnh đường gần một bụi dứa gai . Mấy hôm sau ngôi mộ cứ to đần , thỉnh thoảng lại có người thắp hương. Đó là các bà vùng Ba Tổng đi chợ Cháy mang đất đá đắp vào mong hồn người chết phù hộ cho mua rẻ, bán đắt .

Mẹ chết đường, con vào trại, Khúc Thị Hài bị đột quỵ nằm liệt giường gần nửa tháng mới dậy được. Cũng may trong túi vẫn còn ít tiền dì Ba cho hôm gặp ở quán Năm Gian nếu không thì chết đói. Lê Văn Khải vẫn không có tin tức gì. Chị ta định sang tỉnh một chuyến xem có hy vọng gì không, nhưng hễ cứ đứng dậy là đầu choáng mắt hoa không bước được .

Nhịp sống của cư dân đồng Chó Đá vẫn cứ diễn ra đều đều trong nỗi nơm nớp lo sợ lúc nào đó đến lượt mình vào trại giam. Con cái địa chủ, cường hào, Quốc dân đảng thường bị dân quân làng Cùa đến bắt đi bất cứ lúc nào. Có đứa vừa lang thang xin ăn về, chưa kịp bước chân vào lều đã bị trói giật cánh khuỷu điệu xuống trụ sở Uỷ ban chỉ vì đêm qua nhà ông chủ tịch Nông hội bị chặt mất buồng chuối. Cộng đồng những kẻ ăn mày bất đắc dĩ này cũng chẳng tử tế gì vói nhau mà ngược lại luôn rình rập đề phòng nhau. Kinh nghiệm cho biết, không nên đặt hết niềm tin vào bất cứ người nào dù họ có tốt đến mấy. Phương châm hành xử khôn ngoan là chỉ có thể tin vào chính mình, vì ở đây tai vách mạch rừng. Trong hoạn nạn rất nhiều trường hợp không những không cưu mang nhau mà còn sẵn sàng bán đứng nhau để có được sự thương hại của bần cố nông. Chuyện các bà cô cạnh khoé, xoi mói nhau xảy ra như cơm bữa ở khu lều ổ chuột. Ông phó lý cựu Tưởng Đình Hàm , không phải đi tù nhưng bị tịch biên gia sản là một trong những hộ cư trú sớm nhất đồng Chó Đá. Bà phó lý mắc chứng kinh giật, tay chân lúc nào cũng run bắn, cầm bát cơm không vững . Nhà đông miệng ăn, đói triền miên nhưng ông Hàm nhất quyết không đi ăn xin mà bắt lũ con bắt cua, mò ốc, tát cá bán lấy tiền đong gạo. Những ngày đầu rất khổ. Con cái địa chủ ngồi bán hàng ở chọ Rồng chợ Từ Đường, chợ Đình không ai thèm mua. Bà con bần cố nông sợ ăn tôm cá của họ sẽ bị lây thói áp bức bóc lột, rất nhiều hôm chị em cô Xuyến phải mang về .

Xuyến là con cả ông Hàm , xinh nhất nhà , trước Cải cách đã hứa gả cho con trai đồ Sách là anh Thiệp. Hai người quyến luyến nhau lắm , nhưng đến khi ông phó lý cựu bị qui lên địa chủ, mà đồ Sách chỉ ở mức bần nông thế là ông ta tuyên bố huỷ bỏ hôn ước. Anh Thiệp cưới cô La thành phần cố nông, gia đình cơ bản chỉ phải tội toét mắt.Có một người làng Cùa rất mê Xuyến là Nguỵ Văn Thành . Anh ta đã ngoài ba mươi mà vẫn chưa có con trai trong khi cô vợ lùn tịt đẻ liền một mạch năm ả " vịt giời " . Thành khá đẹp trai , tán gái thành thần nhưng cô vợ sẵn máu Hoạn Thư, nghe phong phanh anh ta léng phéng ở đâu là lồng đến đánh ghen. Tuy nhiên Thành cũng có trăm phương ngàn kế lừa vợ để chim chuột đám chị em quá lứa nhỡ thì, ngứa nghề. Hồi ấy gia đình ông Hàm vẫn ở xóm Đình, một lần gặp Xuyến ngoài ngòi Mác, anh ta hỏi :
- Tình hình bên nhà thế nào ?

Xuyến vốn ghét thói trai lơ của tay trưởng ban thông tin xã, chẳng thèm nhìn anh ta, nói trống không :
- Hỏi làm gì ?

Nguỵ Văn Thành lim dim mắt bảo :
- Có cần đây giúp cho.

Con gái ông phó lý cựu cũng không vừa liền đổi giọng :
- Có hạ được thành phần cho nhà tôi không?

Thành lắc đầu :
- Nói thật nhá, ông cụ đã có tên trong danh sách năm người bị xử bắn đợt này, cô mà đồng ý …tôi có thể nói với ông Lạc miễn tội chết .
- Chỉ phải đi tù phải không ?
- May ra thì thoát đi tù, nếu vận động thêm được bà Sót. Bà này xem ra lập trường cứng rắn lắm.
- Thôi thì trăm sự nhờ anh, tôi chẳng có gì ngoài tấm thân anh muốn làm sao thì làm …
Mấy hôm sau Thành hẹn Xuyến ra chiếc lều vó của ông Khích ở ngòi Mác. Từ nửa tháng nay ông ta nghỉ việc để tham gia biểu tình đấu tranh vạch mặt địa chủ . Vừa gặp Xuyến, anh trưởng ban thông tin đã thông báo :
- Việc nhà cô xong rồi. Tôi đã vận động mấy cốt cán chỉ giữ ở mức địa chủ thường, không có thêm cái đuôi "cường hào " hoặc "Quốc dân đảng " nhưng phải tịch thu tài sản . Chốc nữa về bảo với ông cụ có tiền nong vàng bạc gì thì giấu đi , hai ba hôm nữa là họ đuổi ra đồng Chó Đá .
Xuyến vào trong lều , đầu tiên cô cởi tấm áo cánh gụ, cởi yếm rồi bất ngờ tụt nhanh chiếc váy để lộ ra tấm thân nõn nà làm Nguỵ Văn Thành run bắn người . Trăng đầu tháng chênh chếch rọi vào cửa lều có thể thấy rõ cặp vú mịn màng trắng toát choán cả khuôn ngực đang phập phồng. Cô gái co chân , nhích người nằm dịch vào một bên rồi bảo anh thông tin :
- Nào anh còn đợi gì nữa. Tôi còn trinh đấy .

Thành vẫn đứng trước lều , mặt ngẩng lên nhìn trăng , im lặng. Xuyến lại giục :
- Chả lẽ tôi đem sự trinh tiết đổi lấy mạng sống của thày tôi mà anh còn chưa bằng lòng hay sao ?

Người đàn ông ngồi xuống cửa lều cầm chiếc áo đặt xuống ngực cô gái khẽ bảo :
- Em mặc váy áo vào đi rồi về .
- Sao thế, hay là anh nghĩ lại không giúp gia đình tôi nữa?

Thành lắc đầu :
- Tiếc là không hạ được thành phần nhà em xuống nữa . Tôi biết ông cụ bị oan .
Xuyến ngồi dậy mặc váy áo xong lưỡng lự một lúc rồi bảo :
- Gia đình em chẳng biết lấy gì tạ ơn anh. Bao giờ em phải ra đây nữa ?
- Thôi đừng ra nữa . Giờ em phải về đường tắt qua miếu Si, đừng đi cổng chính, bọn thằng Phong đang canh ở đấy .

Chuyện hai người trong lều vó không giấu được ông cựu phó lý. Xuyến không ngờ đêm ấy, lúc cô ra khỏi nhà ông Hàm đã cử cô em bám theo . Biết nhưng ông bố vẫn âm thầm chịu đựng cho đến khi phải ra đồng Chó Đá . Một hôm cả nhà đi tát cá ở thùng Đấu, ông phó lý cựu mang dây thừng ra cây đa giữa đồng treo cổ tự tử, may mà có Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán đi chao dậm châu chấu phát hiện ra , chậm chút nữa thì không cứu được .

2. Nghiên bị tạm giam đã hơn hai tháng. Thời gian trôi đi, cuối cùng Khúc Thị Hài thấy rõ một điều, nếu cứ chần chừ việc đi gặp dì Ba thì con trai bà ta khó mà được về. Hai chục năm qua, người đàn bà tật nguyền vẫn ôm mối hận bị cướp chồng mà không có cách nào hoá giải được . Nó như căn bệnh trầm kha , ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, cứ mỗi ngày lại làm hình hài một héo hon. Khúc Thị Hài từ lúc sinh ra đã quặt quẹo, bản tính nhu nhược , chỉ muốn an phận , biết mình không phải là đối thủ của Mạc Thị Lánh. Bà Ba là người không chịu sự ràng buộc của khuôn phép , luôn khát khao hướng tới một cái gì đó tốt đẹp hơn hoàn cảnh hiện tại cho dù chỉ là ảo tưởng. Bà Ba dám sống hết mình, sẵn sàng đập phá , nhổ toẹt vào mớ giáo lý phong kiến cổ hủ, vô nhân đạo ràng buộc thân phận người phụ nữ . Đứng trước Mạc Thị Lánh , KhúcThị Hài chỉ là cái bóng mờ nhạt , nhiều khi còn bị thần khí của cô ta làm cho biến dạng nên rất ngại giáp mặt .

Khúc Thị Hài đến nhà 15 Đông Sơn vào buổi chiều. Lúc ấy đã tan tầm . Các công sở hết giờ làm việc. Bà Ba trong bộ quần áo cánh nhuộm nâu non, tóc búi buộc túm bằng chiếc khăn mùi xoa, chạy ra mở cổng. nhìn thấy bà Hài, dì Ba hỏi ngay :
- Sao lâu thế mới đến ? Tôi cứ chờ mãi .

Khúc Thị Hài chớp chớp mắt :
- Mẹ tôi mất rồi .

Bà Lánh hỏi dồn :
-Mất khi nào ?Bệnh gì ?

Khúc Thị Hài lấy ống tay áo quệt nước mắt :
- Bị cảm nắng chết trên đường đi ăn xin .
- Còn thằng Nghiên ?
- Vẫn chưa được thả . Tôi lên gặp dì Ba hôm nay cũng vì việc ấy . Thôi thì trăm sự nhờ dì , mẹ con tôi không bao giờ dám quên .

Bà Ba đứng dậy khép cửa buồng, kéo rèm che phía trong rồi ngồi xuống bên cạnh Khúc Thị Hài bảo :
- Từ nay chị đừng gọi dì Ba hay bà Ba nữa. Tôi bây giờ là Dương Thị Xuân, đang làm Bí thư phụ nữ tỉnh. Nhà tôi là phó chủ tịch. Chiều nay bên Uỷ ban tỉnh có cuộc họp quan trọng nên giờ ông ấy vẫn chưa về .
Khúc Thị Hài thấy nhà vắng vẻ nên hỏi :
- Dì Ba được mấy em ?
- Được hai. Thằng lớn đang đá bóng với lũ trẻ ngoài phố, còn con em về quê thăm bà nội từ đầu tháng chưa ra .
- Mừng cho dì .

Mạc Thị Lánh cau mặt :
- Đã bảo cứ gọi là chị cho thân mật .
- Vâng, thưa chị!

Được rồi, việc thằng Nghiên cứ để tôi lo. Ông nhà tôi phụ trách khối nội chính có ý kiến của ông ấy là bên công an phải thả thôi. Nhưng mà nghe tôi dặn đây, không được nói với bất cứ ai ở vùng Ba Tổng là đã gặp tôi. Đời tôi cũng ba chìm bảy nổi khốn khổ lắm mới có được ngày hôm nay .
- Có phải vì thế mà hồi ông Lái bị xử chị cũng không dám về làng Bòng ?
- Hoàn cảnh lúc ấy bắt buộc phải nhẫn nhục. - Bà bí thư phụ nữ thở dài bảo - Cũng may ông Quảng kịp thời giữ lại, tôi mà về là bị bắt ngay .
- Nửa đêm hôm ấy chị qua sông mang quan tài về chôn cất ông cụ phải không ?
- Nói thực với chị, làm thế là rất mạo hiểm nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, huống hồ đấy lại là người sinh ra mình .

Khúc Thị Hài gật đầu :
- Cảm ơn chị cũng đã lo cho anh Vận tấm áo .

Bà Ba cầm tay Khúc Thị Hài, giọng ngập ngừng :
- Trước đây còn trẻ dại tôi có lỗi với chị và hai cháu nhiều lắm, giờ nghĩ lại thật xấu hổ .

Khúc Thị Hài bảo :
- Chuyện cũ qua rồi, người chết cũng đã yên phận , đừng nhắc lại thêm đau lòng.

*

Khúc Thị Hài không thể ngờ, sau khi cùng Lê Văn Vận trốn khỏi làng Cùa, Mạc Thị Lánh lại xuýt chết vì cú đâm lút cán con dao găm của người tình. Lúc ấy, trong khi Trần Phí dẫn anh em sơn tràng truy tìm Lê Văn Vận thì một toán lính khố xanh của tri châu Vi Văn Sầm đi tìm gỗ đàn hương nhìn thấy ba cái xác nằm bên bờ suối Đá Đen. Hai gã đàn ông đã chết. Người đàn bà bị đâm vào bụng tuy đã được cầm máu nhưng vẫn bất tỉnh . Viên đội người Thái lưỡng lự một lúc rồi bảo ;
- Phải mang cô ta xuống thuyền độc mộc đưa về Chiềng Đôi để thầy mo Lủ chữa thuốc .
- Hình như cô ta bị cưỡng hiếp .
- Chắc là hai tên sơn tràng trần truồng kia. - Viên Đội khịt mũi nhổ nước bọt bảo- không biết kẻ nào đã giết chúng nhỉ ?
- Ai giết cũng mặc xác chúng nó, cứ để đấy cho hổ báo về xé xác .- Một anh lính trẻ khoác khẩu súng săn hai nòng bảo - Cây gỗ tìm được hôm nay chắc quan tri châu hài lòng lắm .
- Đây là cây đàn hương rất hiếm, có người đi rừng cả đời chưa chắc đã tìm thấy. Chuyến này thế nào anh em mình cũng được thưởng bạc trắng .
- Thôi được, việc ấy để tôi trình quan xin cho anh em, giờ ta phải mang cái cô người kinh kia xuống thuyền. Sao mà con gái người xuôi nó đẹp thế, có khi quan lớn nhà mình cũng phải mê .
Thuyền độc mộc chở được ba người. Bà Ba nằm thiêm thiếp, đôi môi khô se, tím ngắt, thỉnh thoảng lại ú ớ ngủ mê. Gần nửa ngày đi thuyền, toán lính khố xanh đưa Mạc Thị Lánh đến bản người Thái Chiềng Đôi. Thầy mo kiêm thầy lang Quàng Văn Lủ xem vết thương xong lắc đầu :
- Nặng lắm , bị mất máu nhiều, không chắc nó đã sống được .

Viên Đội đưa cho ông ta một đồng bạc trắng, ghé tai dặn :
- Đây là ngươì của quan tri châu, ông chữa chạy tử tế sẽ có thưởng, nếu để cô ta chết coi chừng cái mạng .

Thầy mo Quàng Văn Lủ vốn là môn đệ của tri châu Vi Văn Sầm, cứ vài ngày lại cưỡi con ngựa gầy giơ xương về châu lỵ hầu điếu đóm cho quan lớn để được hưởng sái thuốc phiện . Nhìn sắc diện bà Ba, Quàng Văn Lủ biết tình trạng vết thương không đến nỗi nào , chỉ cần chữa thuốc trong vòng một tuần là khỏi , nhưng lão phải nói thế để may ra moi được của viên tri châu mấy đồng thuốc phiện .

Lão thầy cúng nửa mùa này đánh bạn với nàng Tiên nâu từ năm mười sáu tuổi, ngày nào không có thuốc là người phát phiền, chẳng thiết ăn uống gì, bởi vậy, tuy là thầy thuốc nổi tiếng cả mường nhưng hễ được bao nhiêu bạc lão lại nhét hết vào dọc tẩu thành ra quanh năm nghèo đói .

Tri Châu Vi Văn Sầm là tay mê gái có hạng. Tuy đã có ba bà vợ Thái, trẻ nhất mới ba mươi mốt , nhưng khi nghe thầy đội Lò Văn Hếnh kể về cô gái người Kinh trẻ đẹp thì lão ngứa ngáy không chịu được. Bọn lính khố xanh biết ông chủ của mình ưa của ngọt liền xúm nhau vào tán dương :
- Tháng này quan lớn có lộc, coi như "song hỷ lâm môn" .

Lão Tri Châu nhe bộ răng vàng cười hềnh hệch rồi hỏi bọn thuộc hạ :
- Thế nào là "song hỷ lâm môn ?"

Lò Văn Hóng biết chữ Nho, viết một chữ "Hỉ" to tướng vào tờ giấy hồng điều cung kính trình lên Vi Văn Sầm :
- Bẩm quan, cái vui thứ nhất là anh em chúng con đã tìm được cây đàn hương cổ thụ ở đầu nguồn suối Đá Đen. Thứ hai là mang được cô gái người kinh đẹp như tiên sa về bản Chiềng Đôi, nhưng nó bị thương , thầy mo Quàng Văn Lủ đang chữa .

Viên Tri Châu chợt mắt sáng lên :
- Các người làm ta sốt ruột quá, liệu đến hôm nào cái người Kinh ấy nó khỏi bệnh để ta xuống thăm ?

Lò Văn Hóng nháy mắt với đám lính khố xanh:
- Quan lớn cứ bình tĩnh, cô ta khỏi là chúng con đưa lên dinh ngay .

Vi Văn Sầm lừ mắt :
- Bé cái miệng thôi. chúng mày bép xép mấy con mẹ nhà dưới nó biết thì ta cắt lưỡi.

Bọn lính kín đáo đưa mắt cho nhau . Ngài tri châu nổi tiếng hách dịch , hơi nhíu mày là bọn thuộc quan xanh mặt, nhưng người điều khiển lão ta lại là vợ cả, năm ấy đã ngót ngét sáu mươi, gầy đét như con cá mắm . Người trong châu kháo nhau, nhà bà ta truyền đời nuôi ma xó . Cách đây gần hai mươi năm ở bản Nháy xảy ra chuyện lạ . Ông Tòng Quang Phúng, chồng bà Ló, chị ruột bà Lả léng phéng với đứa con gái lão thợ săn người Mán. Khi cô này có mang thì cũng là lúc ông Phúng tự nhiên phát điên nhảy xuống vực Tiêu Diêu tự tử. Mỗi khi nghĩ đến chuyện đó, quan tri châu lại thấy sởn gai ốc, nhưng chính mắt lão chưa bao giờ thực sự nhìn thấy loài ma chuyên gieo rắc tai hoạ cho người khác kia. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, bởi vì mụ vợ già Quàng Thị Lả của lão còn thính mũi hơn cả ma xó .

Mấy hôm sau, dưới danh nghĩa công cán, Vi Văn Sầm cùng gã tham biện và mấy tên lính khố xanh khoác súng cưỡi ngựa xuống núi .Gần trưa cả bọn đến bản Chiềng Đôi. Vi Văn Sầm bước lên chín bậc cầu thang, vừa nhìn thấy Mạc Thị Lánh đã bủn rủn chân tay, hai mắt đờ ra như bị điểm huyệt. Lò Văn Hếnh đưa cho bà Ba bộ váy áo Thái với hàng cúc bướm bằng bạc và chiếc khăn piêu mà Vi Văn Sầm đã cho làm ở nhà cô em gái. Lánh vào buồng đến khi bước ra thì viên tri châu không còn tin ở mắt mình nữa. Một noọng Thái trắng đẹp mê hồn như từ chốn Bồng lai bỗng chốc giáng trần với đầy đủ cả xiêm y lộng lẫy làm căn nhà sàn của thầy mo Quàng Văn Lủ như toả ánh hào quang. Quan tri châu bảo :
- Nàng có bằng lòng theo ta về châu lỵ không ?

Bà Ba cúi đầu e thẹn đúng với điệu bộ của những cô gái chính chuyên sắp về nhà chồng. Thực ra, trong đầu bà Ba đang dự kiến một kế hoạch. Hãy cứ thoát khỏi bản Chiềng Đôi, tạm thời làm vợ bé lão già dại gái này đã, sau đó sẽ tính chuyện về quê. Vi Văn Sầm để Mạc Thị Lánh ở ngôi nhà sàn trong ngõ hẻm cuối châu lỵ gần đường đi Đà Bắc. Mỗi tuần lão đến với bà Ba vài lần nhưng ít khi dám ngủ qua đêm. Mọi cuộc truy hoan đều diễn ra ban ngày trong gian buồng che rèm thổ cẩm và sàn lát bằng tre bương đập dập lên nước nhẵn bóng. Vi Văn Sầm đã quá lục tuần nhưng chuyện phòng the thì không già chút nào. Có sâm nhung hổ cốt trợ lực, lão khoẻ như trâu, vừa leo khỏi cầu thang đã vồ lấy bà Ba đè xuống, tốc ngựơc váy lên bổ hùng hục làm sàn nhà run bần bật . Bà Ba là phụ nữ có thừa kinh nghiệm trong lúc chăn gối, tìm mọi cách chiều chuộng lão tri châu khiến lão chẳng tiếc gì bạc trắng cũng như những lời hứa hẹn. Lão dặn bọn thuộc hạ tuyệt đối giữ bí mật. Đứa nào để lộ ra là mất đầu. Thành thử một thời gian khá dài, viên tri châu dan díu với cô gái người Kinh mà cả ba bà vợ đều không biết .

Vào một đêm tháng chạp mưa dầm gió bấc, bà Ba không ngủ được, chẳng phải vì lạnh mà bởi phải nằm một mình trong ngôi nhà vắng. Hơn tuần nay không thấy Vi Văn Sầm đến . Cô ta sợ mấy mụ sư tử Hà Đông đã ngửi thấy mùi mèo mỡ nên lúc nào cũng nơm nớp đề phòng. Có tiếng động nhẹ dưới gầm sàn . Con chó vện nằm trong cũi sủa dữ dội. Chẳng lẽ lại là trộm ? Lánh thầm nghĩ . Chúng không biết rằng đây là nhà vợ bé quan tri châu hay sao mà dám vuốt râu cọp ? Cô ta nhẹ nhàng trườn khỏi chăn đệm, đánh lửa châm vào chiếc đèn soi rồi cầm khẩu súng lục Vi Văn Sầm đưa cho để phòng bất trắc , rón rén xuống cầu thang . Trong bóng đêm nhập nhoạng bà Ba nhìn thấy một hình người ngồi dựa chân cột như là đang ngủ gật liền chĩa khẩu súng ổ quay vào hắn quát khẽ:
- Ai ?
T
ừ chân cột có tiếng thì thào :
- Nước !

Hắn bị thương. Bà Ba thoáng nghĩ và thận trọng lại gần sờ vào vai kẻ lạ mặt. Người hắn nóng hầm hập. Đúng là đang sốt. Nghĩ vậy cô ta cúi xuống xốc nách dìu hắn lên cầu thang. Bếp lửa được chất thêm củi. Khi ánh sáng bùng lên thì bà Ba bất giác rùng mình với khuôn mặt gớm guốc của gã đàn ông. Đó là một hình nhân thì đúng hơn bởi vì cái đầu hắn trụi sạch tóc, nhẵn thín như quả dưa hấu, thậm chí cặp lông mày cũng biến mất nhưng bộ râu dê thì lại dài một cách đáng ngờ. Nhìn bộ dạng người đàn ông, Lánh thầm đoán, chắc là tù vượt ngục. Sau khi ăn xong bát cháo, khuôn mặt anh ta đã có chút sinh khí. Bà Ba rót cho chén nước nóng, đợi người đàn ông uống xong mới hỏi:
- Bác mới vượt ngục phải không ?
- Vâng, đã ba ngày hôm nay không có gì ăn, cảm ơn cô.
- Ai bảo bác vào nhà tôi ?
- Đói quá đâm liều cô ạ ! - Người đàn ông nói - Với lại từ chập tối, tôi nấp ngoài góc vườn thấy nhà chỉ có mình cô nên mới dám vào.
- Bác liều quá. ở châu lỵ này đầy mật thám nhìn thấy cách ăn mặc với đầu tóc của bác là chúng bắt ngay.
- Hình như cô phải phải là người Thái ?
- Sao bác nghĩ thế ?
- Nghe giọng thì biết, người Thái trên này nói tiếng Kinh không sõi lắm.
- Bác tinh thật. Tên bác là gì ?
- Cứ gọi tôi là Quảng. Cảm ơn cô, giờ tôi phải đi.
- Bác chưa đi được, trời đang mưa.

Quảng ngập ngừng:
- ở đây lâu sợ liên luỵ đến cô.
Bà Ba bảo:
- Chuyện đâu để mai sẽ tính. Đêm nay bác cứ nghỉ ở đây.
- Thế sao được. Tôi là đàn ông…
- Không sao. Tôi cũng có ngủ được đâu. Năm nay rét quá.

Bà Ba giữ người tù ở lại mấy hôm. Rất may những ngày này lão tri châu có công vụ phải xuống các bản Thái vùng Chiềng Om nên anh ta tạm thời được an toàn. Đêm thứ ba, thấy Mạc Thị Lánh chỉ trải một đệm một chăn, người tù có vẻ lúng túng hỏi:
- Sao cô …?
- Hôm nay rét lắm tôi muốn nằm chung.

Người tù không thể từ chối lòng tốt của bà chủ nhưng cũng không có đủ can đảm chạm vào người cô ta. Gần sáng bà Ba vòng tay ghì chặt Trần Quảng vừa khóc vừa kể:
- Vì hoàn cảnh bắt buộc tôi mới phải nấn ná ở đây sống kiểu già nhân ngãi non vợ chồng với lão tri châu, thế nào rồi cũng có lúc bị mấy con mụ người Thái phát hiện ra. Anh có thể cho tôi đi theo được không ?

Trần Quảng ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Được, nhưng bây giờ đang giai đoạn giặc khủng bố mạnh, một số cơ sở Cách mạng bị vỡ, nguy hiểm lắm.

Lánh bảo:
- Chết tôi cũng không sợ, chỉ sợ bị cột chặt ở vùng người Thái này đến già.
- Vậy thì tối nay ta sẽ đi.
- Đi như thế rất nguy hiểm, lính khố xanh hoặc mật thám phát hiện ra thì gay. Tôi có cách này anh xem có được không? - Bà Ba lục trong hòm gỗ sơn then ra mấy tờ giấy đưa cho Quảng - Đây là loại giấy thông hành đặc biệt chỉ cấp riêng cho một số người trong dinh quan châu mà tôi đã lấy trộm trong cái tráp của Vi Văn Sầm. Ta phải sử dụng nó thì mới thoát.

Trần Quảng xem qua một lượt, mừng lắm hỏi:
- Cô cũng biết chữ à ?
- Cũng đọc được chút ít.
- Thế thì tốt lắm. Nếu đi trót lọt, về đến cơ sở tôi sẽ giới thiệu cô vào hoạt động trong ban phụ vận.

Sáng hôm sau, hai người đóng giả làm một cặp vợ chồng người Thái đi chợ Bản Then. Quảng đội mũ nồi che cái đầu trọc, nói tiếng Thái khá sõi vì anh ta hoạt động ở vùng cao mấy năm nên bọn lính dõng không mảy may nghi ngờ. Nhưng đến dốc Ban thì có chuyện. Hai tên mật thám chặn những người lạ mặt trình thẻ căn cước và lục soát đồ đạc. Trong chiếc túi thổ cẩm của bà Ba có khẩu súng ổ quay. Chúng mà phát hiện ra thì chỉ có Vi Văn Sầm mới cứu được. Nhìn thấy Trần Quảng, một trong hai gã lính bảo:
- Cho xem thẻ.

Người tù lừ mắt:
- Chúng mày là ai ?
- Thằng này muốn ăn đạn à ? - Tên mật thám nheo mắt cười gằn - Tao hỏi mày, mày lại hỏi tao, thế là thế nào ?

Bà Ba móc túi lôi ra mảnh giấy bảo:
- Nhìn kỹ xem loại thẻ này cấp cho ai ?

Tên mật thám vừa liếc qua đã vội rập gót chân đưa tay lên vành tai chào.
- Xin lỗi ông bà, chúng tôi làm phận sự không biết các vị là người của quan tri châu.

Trần Quảng cười nhạt:
- Bọn Cộng sản trốn tù nhan nhản thì không bắt được, chỉ giỏi hạch sách người mình.
Hai người vào chợ lẫn trong đám thanh niên Thái Trắng, quẩn quanh mấy dãy hàng tạp hoá, thấy hai tên mật thám đã đi về phía cuối dốc họ mới lẻn vào rừng. Chuyến ấy Trần Quảng và bà Ba xuống núi an toàn. Đến Hạ Lôi, hai người vào một nhà cơ sở mà Quảng đã vận động tham gia tổ chức từ bốn năm trước. Chủ nhà tiếp đón khá niềm nở. Tối hôm ấy Quảng hơi quá chén, Mạc Thị Lánh phải dìu vào ổ rơm trải ở góc nhà. Món rượu ngâm tắc kè mật ong làm anh ta bị kích động như con thú đói mồi, vồ ngay lấy bà Ba. Vào đúng lúc ấy, con chó Đốm đang nằm ở chái bếp khẽ hực lên một tiếng. Linh tính cho biết có chuyện chẳng lành, bà Ba bấm tay Quảng thì thầm:
- Hình như có người rình ở ngoài.
- Đi thôi .

Quảng khe khẽ mở cánh cửa liếp phía sau. Hai người lẻn ra vườn. Trong bóng đêm lờ mờ, Lánh thấy lão chủ nhà ngoắc tay ra hiệu cho hai bóng đen ra ngoài hàng rào. Bà Ba đưa khẩu súng lục cho Quảng. Họ chạy thục mạng lên sườn đồi chẳng kịp xác định phương hướng, ước chừng năm bẩy chục thước thì gặp hàng rào gỗ. Quảng đỡ bà ba trèo qua hàng rào. Phía sau một chớp lửa loé lên. Tiếng nổ làm Mạc Thị Lánh giật nảy người:
- Đứng lại ! Chúng mày chạy không thoát đâu.

Bọn truy đuổi hô hét ầm ĩ, thỉnh thoảng lại nổ một phát súng kíp hoặc trường mút. Quảng đẩy bà Ba đi trước rồi nép vào gốc cây cầm súng bằng cả hai tay nổ một phát về phía sau. Không ngờ viên đạn trúng mục tiêu. Chỉ nghe đến "ối" một tiếng, một trong hai tên cầm súng kíp khựng lại. Hình như đấy là lão chủ nhà. Cuộc tháo chạy đến gần sáng thì hoàn toàn mất phương hướng. Trước mặt, sau lưng, bên phải, bên trái đều là rừng. Trời âm u lạnh lẽo như địa phủ. Lũ vượn bạc má ngồi ôm nhau dưới tán lá tùm hum của một cây sừng trâu, mắt mở thao láo nhìn hai vị khách lạ nhưng chẳng tỏ thái độ gì. Có lẽ chúng đang đói mà thời tiết vừa mưa vừa lạnh nên không đi kiếm ăn được. Chiều hôm ấy họ gặp nhánh đường mòn dẫn đến con suối lớn. Bờ bên kia, những người thợ sơn tràng đang cốn bè.
- Sống rồi. - Quảng khẽ reo lên.
- Anh định theo đám sơn tràng sao ? - Lánh rùng mình khi nghĩ đến mấy thằng đầu trâu mặt ngựa ở phường Bồ Nông.
- Không, mình chỉ xin họ ít gạo nấu cơm ăn rồi tiếp tục về thôi.

Sau gần một tháng luồn rừng, Trần Quảng và Mạc Thị Lánh mới về đến Đan Thành. Tại đây anh ta móc nối với tổ chức cũ, nhận công tác mới và đưa bà ba vào hoạt động ở ban phụ vận với bí danh là Dương Thị Xuân.

Tháng Chín năm Bốn Nhăm, sau khi tham gia cướp chính quyền tỉnh, bà ba được cử làm uỷ viên ban phụ vận, Quảng phụ trách ngành công an. Năm bốn bảy, quân đội Pháp từ Hải Phòng lên đánh chiếm thị xã, Uỷ ban hành chính phải rút về vùng rừng Lạc Lâm để chỉ đạo kháng chiến. Cũng thời kỳ này Quảng bỏ bà vợ hơn mình bốn tuổi ở quê do bố mẹ ép cưới từ năm anh ta mới mười hai, chính thức lấy Mạc Thị Lánh. Bà Ba lúc ấy đã ba tư không ngờ lại có ngày hạnh phúc như thế. Đêm tân hôn, hai người ở trong chiếc lán lợp cỏ tranh, vách ken phên nứa, giữa tiết tiểu hàn buốt thon thót,cô ta gục vào ngực chồng khóc tức tuởi. Đó là những giọt nước mắt hạnh phúc bị đánh mất từ mười mấy năm trước giờ mới tìm lại được. Trong lúc ân ái với Quảng, Lánh lại hình dung ra cuộc mây mưa làm cho đất trời nghiêng ngả trong con thuyền chài trên sông Lăng với Lê Văn Vận. Nhớ tới thằng Côi chăn vịt lần đầu tiên được phá trinh con gái mà không biết cách bị mắng là đồ vô tích sự, nhớ đến lão chánh tổng hách dịch nhưng lực bất tòng tâm … Dù sao tất cả những cái đó chỉ là ký ức của một thời vụng dại. Anh Quảng của bà Ba bây giờ mới là hiện thực. Lánh hết lòng chiều chuộng làm anh ta sướng mê tơi, đêm nào cũng lột trần truồng cô vợ trẻ vầy vò cho đến gần sáng mới ngủ thiếp đi.

Bẩy năm sau, khi đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản thị xã, Quảng được phân công giữ chức phó chủ tịch phụ trách nội chính. Bà ba, tức tức nữ đồng chí Dương Thị Xuân, làm phó bí thư tỉnh hội phụ nữ. Thật may, thời kỳ Cải cách cả hai vợ chồng đều vô sự. Đây là điều đại phúc. Vì chỉ riêng các cơ quan cấp tỉnh trong cuộc đấu tranh giai cấp này đã có hăm chín người bị coi là có dính líu đến các tổ chức đảng phải phản động trong đó năm bị tử hình, số còn lại phải lãnh án tù từ bẩy năm đến chung thân.

Có sự can thiệp của ông phó chủ tịch nhưng cũng phải hơn hai tháng sau Lê Văn Nghiên mới được thả. Ra khỏi trại tạm giam, người anh ta chếnh choáng như bước trên mây vì đói và tinh thần hoảng loạn. Kinh nhất là mỗi khi nhớ lại những khuôn mặt đầy sát khí hoặc lạnh như băng và hoàn toàn vô cảm của các ông cán bộ thẩm vấn. Họ là thứ công cụ vô cùng mẫn cán với chế độ không thể dùng tình cảm tác động được. Những người ấymuốn cho ai sống thì sống và nếu cần, chỉ một cái nhếch môi là tính mạng anh đi tong. Chàng trai họ Lê lếch thếch cuốc bộ về quê trong một buổi chiều nắng hanh rất đẹp. Hai bên đường những trà lúa sớm sắp được gặt. Lúa chín vàng đang uốn câu. Lũ sẻ đồng chấp chới, lúc tản ra, lúc tụ lại thành đàn bay ràn rạt, nghe rõ cả tiếng đập cánh.

3. Một hôm ông Quyển bảo Lê Văn Khải:
- Cháu phải đi học. Trình độ học vấn như thế mà ở mãi xó rừng này nó phí đi.

Khải lắc đầu:
- Cháu mà về Làng Cùa bây giờ là bị bắt ngay làm sao dám mơ tưởng đến chuyện học hành.
- Ta đã có cách - Ông Cựu kiểm lâm bảo - Ta sẽ nhận cháu làm con nuôi và nhờ ông Nông ích Nghiêm chứng nhận vào hồ sơ.
Khải xem ra không mấy tin tưởng vào cách làm đầy mạo hiểm của ông Quyển nhưng hoá ra ở vùng cao này sự việc được giải quyết đơn giản hơn nhiều. Chủ tịch xã Bắc Thoòng bảo ông bạn già:
- Trước hết phải nhập hộ khẩu cho nó vào xã rồi mới làm hồ sơ cử đi học được.

Thế là Khải thành người họ Lưu, tức là họ của ông Quyển. Từ lúc lên Bắc Thoòng đến nay đã gần hai năm, Khải không nhận được tin tức gì về gia đình. Anh ta không biết rằng, vì không có ruộng mà nhà đành dắt nhau đi ăn mày đến nỗi bà Hai chết dọc đường còn Lê Văn Nghiên phải vào trại giam chịu tội thay mình gần một năm, chỉ thiếu chút nữa thì mắc bệnh tâm thần.

Ông Quyển và cái Thảo đưa Lê Văn Khải đến tận núi Nứa. Con cọp thành tinh đã bị phường săn bản Thí bắn hạ cách đấy nửa năm. Lúc con cọp chết người ta mới biết nó chỉ có ba chân. Bàn chân thứ tư trúng đạn bị hoại thư, nó lấy lưỡi liếm mãi cho tới khi khớp xương vỡ rời ra rồi ăn da non. Từ đó ngài chúa sơn lâm đi cà nhắc. Người kết thúc số phận nó là một thợ săn chột mắt. Thứ vũ khí ông ta sử dụng không phải là trường mát hoặc súng kíp nhồi đạn phá, mà là một cánh nỏ lắp tên thuốc độc. Ông già mặc tấm áo da hổ, đội mũ lông báo rình đúng bảy ngày ở một hẻm núi trong rừng Phạ Cốc mới phát hiện được con hùm. Mũi tên găm trúng vào bìu dái, đau quá làm nó gầm lên, lao vun vút qua bụi cây bờ suối bất kể là gai góc. Đây là mũi tên đầu có ngạnh, đuôi có cánh nhưng rất ngắn, được phóng đi từ chiếc nỏ cứng, nên tha hồ cho con thú lồng lộn, vẫn cứ lủng lẳng giữa hai chân sau. Chất độc có hoạt tính mạnh phát huy ngay tác dụng. Chưa đầy nửa giờ con hổ đã nằm phục xuống bờ suối, mắt đờ dại , mồm sàu bọt. Vị chúa rừng đã làm mưa làm gió vùng núi Nứa, sát hại bao nhiêu nhân mạng, là nỗi khiếp đảm của bà con dân bản. Nó chết rồi nhưng rất nhiều người vẫn không dám đi chợ Đồng Vài qua lối này. Có điều chắc chắn đó không phải là con hổ mà ông Quyển đã kể, vì Huổi Vằn có một đốm lông trắng như ngôi sao trên trán.

Năm ngày sau Lê Văn Khải về Hà Nội, nộp đơn thì vào khoa toán trường Đại học sư phạm. Ngày thi chỉ còn gần một tháng. Ông giáo hướng dẫn các thí sinh ôn tập nhìn Khải chẳng có vẻ gì của một thư sinh liền bảo:
- Sao anh không đăng ký vào lớp dự bị hoặc xin vào Trung cấp sư phạm cho đỡ vất vả ?

Khải đứng dậy cúi đầu hỏi:
- Thưa thầy, đề thi ra ở trình độ nào ạ ?
- Phải học xong bậc phổ thông chín năm mới có hy vọng đỗ kỳ này.
- Thưa … em sẽ cố gắng, nếu không được cũng đành chịu.

Đây là khoá tuyển sinh đầu tiên của trường Đại học sư phạm, đề ra không đến nỗi khó lắm, nhưng số thí sinh trúng tuyển thấp không đủ chỉ tiêu vào khoa. Lê Văn Khải đỗ với số điểm khá cao được xếp vào học ngay hệ chính thức. Thời ấy, học đại học, sinh viên tuy được nhà nước bao cấp, nhưng mức sinh hoạt nói chung là thấp, nếu gia đình không gửi thêm tiền thì sống rất chật vật. Khải bắt đầu nghĩ đến chuyện kiếm việc làm để có thêm năng lượng bổ sung vào bữa ăn hàng ngày vốn rất đạm bạc của nhà ăn tập thể. Một buổi sáng chủ nhật, mấy anh em trong ký túc xá rủ nhau ra bến phà Đen đội than từ xà lan dưới sông đổ lên bãi. Phần lớn các nhà giáo tương lai đều "dài lưng tốn vải" không quen lao động thổ mộc, mới nửa ngày đã bỏ cuộc vào trong phố tìm nghề khác. Lê Văn Khải có khá hơn nhưng sau nửa tháng cũng phải từ biệt chân cửu vạn vì đội than vừa bụi bặm vừa đau cổ. Sau một ngày ở bến phà về trông anh ta bẩn thỉu, nhếch nhác chẳng khác gì thợ móc cống ở công ty vệ sinh. Có lần Khải làm quen được với một cô gái điếm trong đêm từ bên phà Đen cuốc bộ về ký túc xá. Cô gái còn khá trẻ, xinh xẻo, mới trốn từ Hoà Bình về sau bốn tháng bị quản thúc trong trại "phục hồi nhân phẩm" cùng hơn hai trăm chị em trong đợt làm lành mạnh môi trường xã hội ở Thủ đô. Đêm đông lá bàng rơi xào xạc trên hè phố. Những ngọn đèn đường thưa thớt treo trên cao tít toả thứ ánh sáng vàng vọt làm bóng người dài ra, đôi khi bị gió bắc đánh tạt ngang khiến mọi vật đều biến dạng thành vô số hình thù quái dị. Thỉnh thoảng một gánh phở đêm dừng lại ở một góc phố. Ông phở già rao "phở ơ … " một cách lười nhác.

Đêm có lẽ đã khuya lắm. Gió chạy dọc hè phố. Gió xát xuống nền gạch nghe như tiếng lưỡi dao miết vào hòn đá ráp. ở một ngôi chùa nào đấy trong hẻm vẫn còn thỉnh chuông. Cô gái mảnh mai mặc bộ quần áo tân thời, dép nhựa cao gót bất chợt từ một ngõ vắng bước ra nắm lấy vạt áo dính bụi than của Khải:
- Anh ơi ! Cho em xin chiếc bánh mi.

Khải sững người. Từ khi ra thành phố đến giờ anh ta chưa bao giờ gặp cảnh này nên cứ lúng ta lúng túng không biết làm thế nào cho phải. Cô gái ghé tai chàng đội than thì thầm :
- Đi với em.
- Đi đâu ? - Khải khẽ hỏi khi ngửi thấy mùi nước hoa rẻ tiền được sức rất đậm trên người cô gái ăn sương.
- Ra vườn hoa, em sẽ chiều anh …

Trong túi Khải có mấy chục ngàn tiền công vừa nhận chiều nay. Anh ta nhìn ánh mắt đầy vẻ cầu khẩn của cô gái biết rằng không thể không đi nhưng thấy mình ăn mặc nhếch nhác quá nên đâm ngượng :
- Quần áo tôi … bẩn lắm, hay là để hôm khác.

Cô gái nhoẻn miệng cười:
- Không hề gì, anh đi với em.

Công viên mùa đông thưa người, nửa đêm lại càng vắng. Thấp thoáng giữa những lùm cây, một vài cặp trai gái ôm nhau. Có đôi ngồi dưới gốc cây du, người đàn ông bế tình nhân trong lòng, hai tay nắn bóp bầu vú, miệng thì thầm chuyện đó. Có mùi hương rất lạ giống như hoa nhài mà lại không phải hoa nhài từ một cụm cỏ ngay chỗ Khải và cô gái ngồi thoang thoảng bay lên. Đó là thứ hoa cánh nhỏ mà dài như hình mũi tên màu trắng đục, nhuỵ tím sẫm. Dưới ánh đèn tuýp xanh nhợt, cảnh vật hiện ra vừa lạnh lẽo vừa hoang sơ, thậm chí cô đơn chẳng khác gì một khu rừng nguyên sinh thời tiền sử. Cô gái điếm có lẽ chưa quá hai mươi vầng trán hơi dô, cặp mắt dài và đôi môi mọng làm cho gương mặt đặc biệt sinh động. Cô ta gỡ cúc bấm ở cổ và nách, cởi áo dài, để lộ khuôn ngực còn rất căng được nịt chặt bằng chiếc xuchiêng trắng . Lê Văn Khải chợt thấy người nóng bừng vội quay mặt đi hỏi bâng quơ :
- Quê em ở đâu ?

Cô gái miễn cưỡng trả lời :
- ở gần sở Máy chai Hải Dương. Nào, anh mở hộ em cái khuy sau lưng.
- Cởi ra làm gì, em không lạnh à ? - Lê Văn Khải khẽ bảo khi nhìn thấy làn da tím tái của cô gái dưới ánh đèn nê ông màu nõn chuối.
- Không. -Cô gái nhẹ nhàng đặt tay lên vai chàng sinh viên - Để cho anh xem … Chiếc khuy bật ra. Cô gái cầm tay Lê Văn Khải đặt lên ngực.

Cặp vú khá mẩy so với khuôn ngực, có vẻ như mỗi lúc một nóng và nở ra khi bàn tay anh ta miết vào. Người Khải run lên bần bật nhưng rồi chẳng hiểu nghĩ sao anh ta lại quàng tấm áo lên người cô gái:
- Em mặc vào đi.

Cô gái thẫn thờ hỏi:
- Anh không muốn ?

Khải lắc đầu:
- Anh thương em. Vì sao phải bỏ nhà ra đây ?

Cô gái điếm sụt sịt khóc:
- Bố em bị toà án Cải Cách xử tử vì gia đình thuộc thành phần tư sản phản động. Nhà cửa bị tịch biên. Mẹ cũng mất sau đó ít hôm vì bệnh tim.
- Anh em không còn ai sao?
- Anh cả đi bộ đội, hoà bình không thấy về, còn anh hai với bố em không hợp nhau, hồi cải cách chính anh ấy lên đấu bố.
- Em ra Hà Nội từ bao giờ ?
- Mới được gần một năm rồi bị công an bắt lên Hoà Bình . -Cô gái nhìn Lê Văn Khải rụt rè hỏi - Anh là công nhân bến phà Đen phải không ?

Khải ngẫm nghĩ một thoáng rồi quyêt định nói thật:
- Tôi đang học Đại học Sư Phạm nhưng tối nào cũng phải đi bốc vác kiếm thêm.

Nói rồi anh ta lấy già nửa số tiền trong túi đặt vào tay cô gái :
- Em cầm lấy đi.

Cô gái điếm giãy nảy:
- Không, em không lấy đâu.

Khải phải làm mặt giận:
- Cầm lấy ! Em đang đói kia mà.

Bỏ nghề cửu vạn, Lê Văn Khải được một anh bạn cùng lớp giới thiệu làm gia sư cho một gia đình ở phố Hàng Vò. Học trò của anh là một thiếu nữ mười bảy tuổi bị liệt hai bàn chân, phải đi nạng, có gương mặt đẹp và cái tên cũng rất đẹp: Phi Điệp. Cô nàng mắc chứng hoang tưởng, học thì ít mà chủ yếu giành thời gian viết thư tình cho đủ loại nhân vật nổi tiếng trong các tiểu thuyết lãng mạn. Ngăn bàn của Phi Điệp có hàng trăm phong bì dày cộp dán cả tem bưu chính hẳn hoi. Đó là những bức thư tỏ tình sướt mướt kèm theo vô số lời trách móc hoặc hứa hẹn bằng thứ ngôn ngữ "Bí mật thành Ba lê" hoạc "Trà hoa nữ" mà đối tượng thường là những chàng Trixtăng, Mariuýt, Đáctanhăng, Văn Quân, Lộc hoặc Điệp … Ông bố Phi Điệp làm Đại sứ tại một nước Đông Âu, trước khi đi nhậm chức ông ta bảo Lê Văn Khải :
- Thày mà dạy em nó đạt trình độ toán lý hoá bậc trung học gia đình sẽ có thưởng.
- Sao hai bác không cho em Điệp đến trường ?

Ông Đại sứ thở dài:
- Nói mãi mà nó không nghe. Thầy biết đấy, nó bị tật bẩm sinh ở bàn chân nên mặc cảm với bạn bè.
- Nhưng còn chuyện này, - Khải nhìn ông cán bộ ngoại giao thăm dò - chắc bác biết Điệp hay viết thư …

Ông Đại sứ lắc đầu tỏ vẻ chán nản:
- Đấy chính là sản phẩm của thứ văn hoá nô dịch còn rơi rớt lại. Tôi mà có quyền tôi sẽ ra lệnh tống tất cả bọn viết lách lăng nhăng làm mê hoặc con gái nhà lành vào trại cải tạo, vĩnh viễn phải treo bút.
-Bác nói có lý. - Lê Văn Khải ngoài miệng tuy tán thành nhưng trong lòng thoáng giật mình - Những quan chức như thế này mà lãnh đạo quốc gia thì nền văn hoá dân tộc sẽ đi đến đâu ?

Sáu tháng trôi qua. Trình độ học vấn của Phi Điệp vẫn dẫm chân tại chỗ, nhưng kỹ năng viết thư tình đặc biệt tiến bộ do có sự trợ giúp của Lê Văn Khải. Không hiểu nghĩ thế nào, cô học trò bàn với thày viết thư cho Ca di mô đô và chàng Vọi. Cô nàng có cả một kho từ vựng phong phú về tình yêu, hễ cứ đặt bút là tự nó trào ra nhiều lúc viết không kịp. Ví dụ, mở đầu bức thư gửi cho thằng Gù, Phi Điệp viết:

"Cadimôđô gù khốn khổ của em ! Tại sao chàng lại dại dột si mê con bé phù thuỷ Exmêranđa để rồi phải treo cổ tự vẫn vì mụ ta ? Giá mà chàng đừng si tình, cứ bền bỉ kéo chuông ở nhà thờ Đức Bà thì biết đâu bây giờ chúng ta có thể gặp nhau. Tuy chàng hình dung cổ quái nhưng em yêu chàng hơn tất cả những người đàn ông điển trai trên đời này gộp lại. Em yêu cái bướu trên lưng chàng, yêu tâm hồn cao quý trong hình hài ma quỷ của chàng. Chàng chết đi làm cho nhân loại mất giống Cadimôđô, không phải chỉ mình em tiếc thương mà tất cả phụ nữ đa cảm còn sống và đã chết trên hành tinh naỳ đều vô cùng đau buồn. Ôi Cadimôđô khốn khổ của em!"

Vào đầu năm thứ hai, Khải vẫn tiếp tục dạy kèm cho Phi Điệp. Giữa lúc thầy trò đang lập kế hoạch sáng tạo bức thư bất hủ gửi cho chàng Đônggioăng nổi tiếng thế kỷ mười tám là Sở Khanh thì sự nghiệp gia sư của anh sinh viên sư phạm đột ngột chấm dứt vì một sự cố ngoài ý muốn.

Sáng hôm ấy, sinh viên trong ký túc xá đang chuẩn bị lên lớp thì dưới sân trường xuất hiện bốn người đàn ông nhà quê. Họ cứ đi đi lại lại dưới chân cầu thang như đang đợi ai đó. Quả nhiên, Lê Văn Khải vừa bước xuống, một người chân vòng kiềng đã chặn lại :
- Anh là Lê Văn Khải ?

Khải sững người. Đứng trước anh ta không phải ai khác mà chính là Bùi Quốc Tầm, Chủ tịch xã Đoàn kết. Trưởng công an Trương Đình Tái hất hàm ra hiệu cho hai dân quân rồi bảo Lê Văn Khải :
- Đi theo chúng tôi !

Biết là sự việc đã bại lộ nhưng Khải vẫn hỏi :
- Tôi phạm tội gì mà các ông bắt ?

Bùi Quốc Tầm trả lời cộc lốc:
- Về nhà khắc rõ.

Khải lắc đầu:
-Các ông bắt người trái phép, tôi phải báo cáo với nhà trường đã.

Trương Đình Tái nhếch môi cười rất đểu:
- Anh không phải lo chuyện ấy. Hôm qua chúng tôi đã làm việc với ban lãnh đạo nhà trường về hành vi khai man lý lịch đi học đại học của anh.

Trưởng công an nói đúng. Lúc này cả hiệu trưởng, hiệu phó lẫn trưởng phòng tổ chức đều đã có mặt dưới sân. Tò mò nhất là đám nữ sinh viên. Họ không biết chuyện gì xảy ra mà có cả mấy ông dân quân khoác súng đến trường đại học. Ông hiệu trưởng vỗ vai Khải thông cảm:
- Việc này hoàn toàn do chính quyền địa phương làm, nhà trường không thể can thiệp, em đừng trách ban giám hiệu.

Về đến làng Cùa Khải mới biết, kẻ tố cáo anh là thằng Loát, con trai bí thư đảng uỷ Lại Quang Nghinh. Thằng này học dốt nhưng vì có ông cậu làm phó ty công an nên được cử đi học lớp dự bị Đại học sư phạm. Một hôm, đến nhà ăn, nó nhìn thấy Lê Văn Khải liền viết thư về cho bố. Nghinh bàn với Bùi Quốc Tầm rồi kéo nhau sang tỉnh gặp phó ty. Nghe Tầm trình bày sự việc ông ta bảo:
- Tội khai man lý lịch là rất nặng, có thể phải đi cải tạo tập trung vài năm. Bây giờ tôi ký cho xã một cái lệnh, các anh đem người lên trường đem nó về đây.

Khải bị giam ở huyện công an. Đoàn Danh Thẩm, cán bộ điều tra, bắt anh ta khai tỉ mỉ từ lúc bỏ làng ra đi đến khi luồn được vào trường đại học bằng hồ sơ giả mạo. Lần này thì Thẩm có chứng cứ rõ ràng, khác hẳn thời kỳ hỏi cung Lê Văn Nghiên nên thái độ rất kẻ cả, thậm chí hách dịch thái quá làm Khải chỉ muốn nhổ vào mặt. Có sự trùng hợp là phòng giam của Khải cũng chính là chỗ giam Nghiên hơn một năm về trước.

Khúc Thị Hài lại phải cắp nón lên nhà 15 phố Đông Sơn. Lần này bà ta được gặp cả Trần Quảng. Nghe bà Hài kể rõ sự tình ông phó chủ tịch hỏi:
- Cuối năm năm sáu, phần lớn các đối tượng bị Đội Cải cách xử lý sai đã được minh oan, riêng trường hợp của đồng chí Lê Văn Vận chưa thấy Uỷ ban huyện báo cáo lên. Ngày mai làm việc với bên công an, kết quả thế nào tôi sẽ thông báo cho chị.

Bà Ba trách chồng:
- Anh Vận không phải cán bộ thường mà là chủ tịch huyện Nam Thành bị bắn oan vậy mà tại sao đến giờ vẫn chưa được phục hồi danh dự ?

Ông Quảng nhíu mày ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Hình như trong thời kỳ hoạt động trước năm bốn nhăm, lý lịch của ông ấy có một vài chỗ không rõ ràng vì thế bên công an kiến nghị tạm dừng để xác minh thêm.

Bà Ba bảo:
- Chờ được vạ thì má sưng. Họ có biết rằng công an ngâm hồ sơ bao lâu thì con người ta ngồi trong trại bấy lâu không ? Anh đã ở trong tù anh lạ gì chuyện đó.

Ông phó chủ tịch thấy vợ nổi nóng liền dàn hoà:
- Thôi được, việc này cứ để tôi lo.

Bà Hài rân rấn nước mắt:
- Trăm sự nhờ ông cứu giúp, mẹ con tôi không dám quên ơn.

Trần Quảng gật đầu:
- Chị cứ yên tâm, trong tuần này cháu sẽ được về.

Ông phó chủ tịch giữ một nửa lời hứa, mười ngày sau Lê Văn Khải ra khỏi trại giam, còn nửa kia tức là việc minh oan cho Lê Văn Vận vẫn còn vướng mắc ở một khâu nào đó nên phải gác lại.
ở nhà được nửa tháng, Lê Văn Khải rủ Lê Văn Nghiên sang Thượng Đáp làm thợ đấu vì mấy mẹ con không có ruộng, lại những ba miệng ăn thường xuyên bị đói. Nghiên bảo:
- Anh thử ra Hà Nội xin học lại xem sao.

Khải lắc đầu:
- Chú nghĩ đơn giản lắm, qua sự việc vừa rồi liệu lão Tầm có chứng nhận vào hồ sơ cho anh em mình bước ra khỏi làng Cùa một cách đàng hoàng không ?
- Có thể là hắn đố kỵ không muốn ai hơn mình.
- Không phải chỉ riêng lão ta mà cả Lại Quang Nghinh, Trương Đình Tái cũng vậy.

Bà Hài nghe hai anh em bàn nhau liền gợi ý:
- Việc đi học của Khải mẹ lại phải lên tỉnh gặp bà Ba một chuyến may ra thì được.

Lần này Lê Văn Khải không tin tưởng lắm vào chuyến đi của mẹ. Anh ta cũng bỏ ý định làm thợ đấu, sắm chiếc thuyền và tay lưới ra sông Lăng đánh cá. Sông Lăng, cồn Vành, ngòi Mác không của riêng ai. Nghề hạ bạc có cái thú riêng của nó là tha hồ ngắm mây trời sông nước, cuộc sống đạm bạc nhưng hoàn toàn tự do, không lệ thuộc vào bất cứ sự ràng buộc nào. Nhưng rồi dự kiến cam chịu làm anh dân chài của Khải không thành. Anh ta chỉ lênh đênh trên sông Lăng được bốn tháng. Chuyện bắt đầu từ lúc bà Hài lên tỉnh gặp bí thư phụ nữ. ít lâu sau ông Quảng cử một phái viên về làng. Anh cán bộ an ninh này đến gặp Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái, trao cho họ những giấy tờ gì đó rồi lên xe đi ngay. Ba hôm sau, Trương Đình Tái đến nhà bảo Lê Văn Khải làm một bản sơ yếu lý lịch. Khải viết khá lâu. Anh ta phải chọn từng chữ để làm sao nó không gây ấn tượng xấu đối với các nhà tổ chức khi đọc đến những đoạn then chốt liên quan đến thành phần gia đình. Về phần họ tên bố và quá trình hoạt động, Khải cắn bút suy nghĩ mãi không biết viết thế nào cho xuôi, cuối cùng vẫn phải hạ bút viết những dòng như sau: "Lê Văn Vận, đảng viên đảng lao động Việt Nam, hoạt động cách mạng từ năm 1935. Năm 1939 bị đế quốc bắt, đi tù Yên Bái. Tháng ba năm 1941 vượt ngục tiếp tục hoạt động ở Cao Tân. Tháng chín năm 1945, chủ tịch Uỷ ban hành chính huyện Nam Thành. Thời kỳ Cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng, bị xử bắn ngày 27 tháng 01 năm 1955.

Xem đến đây Bùi Quốc Tầm cau mày:
- Anh viết sơ yếu lý lịch thế này thì không một trường đại học nào người ta dám nhận dù là đỗ thủ khoa. Trước mắt, nếu muốn đi học phải bỏ ngay cái đoạn "thời kỳ cải cách ruộng đất, nghi ngờ có liên quan đến Quốc dân đảng bị xử bắn …" đi, tạm thời thay bằng "chết tháng 01 năm 1955".
- Sự thật đúng như thế cơ mà ?
- Tôi không phủ nhận nhưng trong lý lịch ghi như thế là chính quyền nhân dân có nợ máu với gia đình ông Vận, cho dù có được minh oan đi nữa thì cũng chẳng ai dám đứng ra đảm bảo là sau này anh em nhà anh không nuôi oán hận.

Khải vẫn còn chần chừ :
- Tôi sợ đến một lúc nào đó lại bị đuổi ra khỏi trường vì khai man lý lịch .

Bùi Quốc Tầm gằn giọng:
- Anh có học mà dốt như bò. Chính quyền xã không làm việc ấy thì bố đứa nào dám thọc mũi vào. Mà tôi cũng nói để anh biết, đây là ý kiến của ông Trần Quảng, phó chủ tịch tỉnh, xã phải chấp hành, nếu không mãi mãi các anh chỉ là những tay gõ thuyền đánh cá trên sông Lăng. Thôi về đi, nhớ bảo bà Hài sáng mai ra đồng nhận ruộng.

Lần này Khải nộp đơn thi vào Đại học Nông Lâm. Thực tình anh ta cũng tiếc ngành sư phạm nhưng không muốn trở lại trường cũ vì đã muộn gần một năm, nhưng cái chính là ngại gặp bạn bè sau vụ bị Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái lên tận ký túc xá bắt về. Đề thi tuyển thuộc loại khó nhưng Lê Văn Khải không ngại, Anh ta làm ba bài gần như trọn vẹn, đỗ thứ năm được xếp vào khoa Thú y là một ngành học khá danh giá thời bấy giờ.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
12-31-2015, 06:57 PM
Chương 13

1. Làng Cùa được huyện Nam Thành chọn làm đơn vị điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Chủ tịch Bùi Quốc Tầm cho cán bộ xã đi hết lượt các gia đình vận động bà con viết đơn. Phần lớn các chủ ruộng đều không thích làm ăn tập thể, nhất là những người từng trải thường tỏ thái độ lừng chừng làm cho trưởng ban vận động Tào Văn Hỗ tức Hỗ Chột lo sốt vó, chỉ sợ không hoàn thành chỉ tiêu chín mươi tám phần trăm đã đăng ký với huyện. Những đối tượng hăng hái nhất trong cuộc ăn chung đổ lộn này chính là các gia đình trước đây vốn là địa chủ cường hào đã bị mất điền sản thời Cải cách, đang sống vật vờ cạnh bãi tha ma đồng Chó Đá. Kẻ chống đối gay gắt nhất là Trịnh Doãng.

Doãng là con ông Cả Duệch. Ông Duệch có ba con trai. Doạng và Doan tính hạnh hiền lương, làm ăn cơ chỉ, duy có Doãng, anh thứ hai là trái tính trái nết. Doãng tuổi ất Hợi, năm lên bảy bị bệnh đậu mùa, toàn thân phủ lớp mụn to bằng hạt đậu nành, mọng nước như phỏng dạ. Những mụn ấy vỡ, nước vàng chảy ra bốc mùi khăn khẳn không chịu được. Người Doãng quắt như con mèo hen, miệng he hé chẳng khác gì cá mắc cạn hớp không khí. Ông lang ích thăm bệnh xong, lắc đầu:
- Tôi chịu. Ông bà sắp chiếu, chẻ lạt đi là vừa.

Ông Duệch thương con không nỡ. Thôi thì còn nước còn tát. Nghĩ vậy, ông bảo Doạng chạy ra xóm Trại Cá gọi bà phó Lễ vào xem có cứu được không, Bà phó Lễ là lang vườn kiêm nghề đỡ đẻ. Thuốc của bà toàn nước thải với bùa chú thêm ít rễ cây đốt thành tro trộn lẫn cho con bệnh uống. Doãng uống thứ nước đục lờ lờ lẫn cả tàn nhang có mùi oi khói như con đồng lên cơn khát. Ông Duệch nhìn con lắc đầu:
- Cơ sự này hỏng rồi.

Bà Phó Lễ mắng:
- Phỉ phui cái mồm nhà ông. Mệnh thằng bé này lớn lắm. Nó là tướng nhà giời bị Ngọc Hoàng đày xuống trần gian để hầu hạ Chúa Bà ở miếu Cô Hồn nên chưa thể "đi" được.

Quả nhiên đến chập tối Trịnh Doãng tỉnh lại. Ông Cả Duệch bắt vợ thổi một nồi xôi dành dành và thịt con gà trống hoa mang ra miếu làm lễ tạ. Doãng khỏi bệnh nhưng mặt hắn rỗ như tổ ong trông rất khó coi. Lớn lên Doãng không thích học mà chỉ khoái ra đồng Chó Đá lùa bắt chim cút và chia phe chơi trò đánh nhau. Có lần hắn bị bọn trẻ con xóm Cầu Đá dìm xuống ngòi Mác gần chết vì đêm hôm trước mò ra đồng Gà bẹp mấy chục chiếc đó tép của chúng. Dạy học ở làng Cùa bấy giờ là ông đồ Sách. Ông này vừa tham ăn vừa dữ đòn. Đứa nào mới nhập môn cũng bị nện ba roi thật đau để nhớ câu "Tiên học lễ hậu học văn". Doãng là đứa ngỗ nghịch lại lười nhất hạng, hễ vào lớp là ngủ gà ngủ vịt mơ màng đến lũ tôm cá ngoài đồng nên hay bị thầy nọc ra sập sai gã trưởng tràng quật roi mây vào mông. Doãng tức lắm, lựa hôm đồ Sách đi vắng, lẻn vào nhà vạch chim đái vào ống bút với nghiên mực. Đồ Sách mắt bị lông quặm, nhìn không rõ, chỉ thấy mùi khai khai liền chấm tay vào nghiên đưa lên ngửi, biết ngay thủ phạm là ai liền đến nhà ông cả Duệch. Ông Cả sượng mặt vì thằng con mấy dạy, trói hai tay Doãng treo lên xà nhà nện mười lăm hèo mây rồi lấy muối xát vào. Những vết lằn ngang dọc rớm máu nổi lên vừa đau vừa xót nhưng Doãng gan lì, trơ như đá, không khóc cũng chẳng van xin. Ông bố chịu phép phải tha. Doãng oằn người, cắn răng nén chịu, cúi đầu chắp tay vái đồ Sách.
- Con cám ơn thày.

Từ đó Doãng bỏ học chuyên đi thả ống lươn.
Năm Giáp Ngọ bà Cả đi chợ sớm bị ma rủi chết đuối ở ngòi Mác. Ba năm sau, ông Duệch cũng qua đời vì chứng kinh giật. Bố vừa nằm xuống, cỏ chưa kịp xanh mộ Doãng đã đòi chia gia tài. Lúc ấy Doạng đã có vợ, ăn riêng nhưng ba anh em vẫn ở chung một nhà. Doạng bàn với Doan cắt cho Doãng phần đất sát đường có ngôi nhà ngang hai gian lợp lá gồi nhưng hắn không nghe. Hắn yêu cầu mọi thứ phải chia ba, anh nào không thích có thể bán cho người khác. Gay nhất là ngôi nhà chính. Doãng tranh gian giữa.Hắn lấy cót thưng lại hai bên rồi ngủ ngay trên sập gụ trước bàn thờ tổ tiên. Chị dâu không chịu được thói ngỗ ngược của ông em chồng, nói mấy câu bị hắn vả cho một cái hộc máu mồm. Ông xóm trưởng kiêm uỷ viên Nông hội sang dàn xếp, Doãng cầm con dao mác vót nan đứng giữa cửa, mặt hằm hằm, cặp môi cá ngão trề ra:
- Kẻ nào muốn mất mạng thì vào đây ?

Có người biết chuyện vội chạy xuống xã báo trưởng công an. Trương Đình Tái đem ba bốn dân quân đến nơi nhưng cũng phải mất gần một giờ mới giải toả được sự căng thẳng và chỉ chút xíu nữa là đổ máu.
Vua cũng thua thằng liều. Cuối cùng anh em Doạng Doan phải chấp nhận phương án chia ba. Chia buổi sáng, chiều Doãng gọi người bán tài sản của mình.

Doạng hốt quá sợ cơ nghiệp mấy đời của cha ông chắt bóp mới được thế này bỗng chốc sang tay người khác liền bàn với Doan vay giật mỗi nơi một ít gom đủ số tiền, tất nhiên là cao hơn so với giá nhà đất hiện thời, đưa cho thằng em đầu bò. Mấy hôm sau, Doãng tìm mua được miếng đất của ông Vệ Tuân ơ xóm Cầu Đá. Ông này thua xóc đĩa phải gán nợ đi ở nhờ. Khu đất rộng hơn hai sào có túp nhà ba gian lợp rạ. Từ đấy anh em Doạng Doãng không thèm nhìn mặt nhau.

Không biết Doãng học thả ống lươn ở đâu vì làng Cùa đến lúc ấy mới chỉ có công nghệ kéo lưới, quăng chài, đánh giậm, móc cua bát ếch và đơm đó. Móc cua là nghề hạ đẳng lại rẻ như bèo, hai xu một giỏ, không bõ những đấng nam nhi bẩn tay. Thả lưới là khó nhất không phải ai cũng kiếm ăn được trên sông Lăng. Đánh giậm, chạy dủi tốn sức, cuối buổi cá tép thường ươn, khó bán. Đặt đó lại phải thức canh đêm, nhãng đi một tí là bọn xóm Trại Cá rình khoắng sạch. Cuối cùng chỉ thả ống lươn là sống được, thậm chí sống phong lưu nếu biết giữ độc quyền không để bí quyết rơi vào tay người khác.

Làm ống lươn không khó. Nguyên liệu chính là một đoạn nứa ngộ đường kính cỡ bắp chân, đầu mặt trổ vài lỗ thông khí, đầu rỗng dùi hai lỗ đối nhau, lắp hom rồi xuyên qua thanh tre bằng ngón tay vót nhọn là thành cái bẫy bắt loài bò sát chuyên lẩn dưới bùn khá hiệu quả. Thứ mồi hấp dẫn nhất là ốc vặn đập dập trộn với giun đất gói lá khoai ngứa, bên ngoài chọc thủng vài chỗ để mùi tanh dẫn dụ khứu giác lươn. Bí mật nghề nghiệp của Doãng là ở công đoạn chọn vị trí cắm ống. Lươn ưa cư trú ở những ao tù nhiều bùn. Làng Cùa thuộc vùng chiêm trũng, mười hộ thì có đến bảy tám vật đất làm nhà, thành ra chỗ nào cũng có ao chuôm thùng vũng, rất thuận lợi cho Doãng hành nghề. Thường thì ban ngày hắn la cà khắp nơi, có khi lẩn vào những chỗ ngóc ngách rậm rạp quan sát bằng con mắt dày dạn kinh nghiệm. Ai không biết tưởng hắn mải chơi, vô tích sự, không chịu làm ăn. Mặc kệ, Doãng không thèm chấp. Chập tối, sau khi đã chuẩn bị đồ nghề đầy đủ, hắn khoác chùm ống lên vai đến những xó xỉnh ban ngày đã nhắm được. Thao tác của Doãng rất gọn, có khi chưa đầy ba phút đã cắm xong một ống. Những hôm tối trời, giáp mặt không nhìn thấy nhau, Doãng cứ bước phăm phăm, khỏi cần đèn đóm. Hắn thoắt ẩn thoắt hiện như ma. Đàn bà con gái rất sợ gặp Trịnh Doãng ban đêm. Hắn là hiện thân của mọi sự rủi ro. Có lần hắn vừa lỉnh kỉnh bê ống lươn đến đầu cầu Đá bắc qua ngòi Mác gặp ngay anh chàng phó bí thư đoàn đang bóp vú cô phân đoàn trưởng xóm Đình. Thấy bộ dạng Doãng, cô Mầm vốn nổi tiếng lẳng lơ tưởng là thằng Trọc hiện hình, hoảng quá rơi tõm xuống nước. Anh phó bí thư cực chẳng đã phải nhảy xuống cứu.

Thả hết ống, Doãng về nhà ngủ. Cuối canh tư, thức dậy trong lúc cả làng còn đang ngon giấc, hắn rảo một vòng quanh các ao, thu hết những chiếc ống đã thả hồi đêm. Trời sáng, Doãng lần lượt tháo hom dốc những con lươn béo múp, vàng ươm ra chiếc rổ sề. Hắn chọn toàn con to thả vào nồi hông, chờ cô Mít đến mang ra chợ Rồng bán. Có hôm Doãng đổ ra được ba con rắn đầu bẹp nhẵn bóng, mình ngắn, màu đen sẫm sống lưng gồ lên trông rất quái dị. Ông Lang Chẫu đến xem một lúc rồi bảo:
- Của này độc hơn cả rắn cạp nia, vô phúc bị nó cắn, sau nửa canh giờ là chỉ có đóng ván.
Doãng sợ chết khiếp, từ đấy không dám thọc tay vào ống như trước nữa.

Sau khi chia gia tài, Doãng được ba sào ruộng đồng Gà. Chân ruộng này thuộc loại tốt nhất làng, năm hai vụ làm chơi ăn thật nhưng phải cái mùa khô thường ít nước. Đến vụ cày cấy, Doãng một mình xoay trần ra làm, không thèm nhờ ai. Giai thoại hay được bà con nhắc đến là có lần hắn tát nước với … cọc. Vùng Ba Tổng có lệ tát nước gầu dai mỗi bên một người thành cặp. Có tàu tát cao, người ta đóng đến ba bốn cặp. Thích nhất là tát nước đêm trăng. Từng đôi, kẻ bên này, người bên kia đong đưa theo nhịp. Từng gầu nước lẫn ánh trăng sóng sánh, chao theo một đường vòng cung rồi bất ngờ bãi tung toé trên mặt ruộng, loang ra một màu trắng bạc. Rất nhiều những đôi nam nữ nên vợ nên chồng từ những đêm trăng tát nước huyền ảo như vậy.

Nhưng với Doãng thì khác. Hắn ghét cay ghét đắng lối vần công và mọi kiểu chung chạ. Năm ấy hạn nặng. Như trên đã nói, đồng Gà thuộc diện cao, nước từ ngòi Mác chảy vào ít, các chủ ruộng phải thương lượng với nhau tát theo giờ. Doãng nhận vào lúc nửa đêm, chắc là vì không muốn thiên hạ biết cung cách làm ăn quái gở của mình. Đợi cho mọi người về hết Doãng mới lấy hai chiếc cọc tre đóng bên kia tàu tát. Sau khi buộc cố định dây thừng vào cọc, hắn thả gầu rồi vung tay chao nước. Khốn nỗi, cọc tre hoàn toàn vô cảm, không có khẳ năng điều khiển linh động như bàn tay người, thành ra, gầu vừa lên nửa chừng đã dốc miệng hết sạch nước. Nhùng nhằng mãi không ăn thua, Doãng tức mình ném cả cọc lẫn gầu xuống ngòi rồi nằm ngửa ngắm sao. Đêm ấy thưa sao. Trời sáng mờ mờ. Gió đông nam phe phẩy khiến Doãng thiu thiu. Chợt có tiếng cười từ xa. Doãng giật mình lập tức bật dậy vớ ngay cán cuốc. Hắn vốn là tay bạo gan nhưng giữa đồng không mông quạnh cũng thấy rờn rợn. Từ lâu, người ta đồn cánh đồng này thường có Mẹ Hét hiện hình thành thiếu nữ tóc trắng trêu những bà đi chợ sớm. Có lẽ mụ ta thật. Doãng nắm chắc cán cuốc từ từ quay lại … Không phải ma mà là một người con gái bằng xương bằng thịt đang đến rất gần. Hắn mê ngủ chăng ? Bởi vì người con gái đó chính là Nhụ. Bố Nhụ là ông Trản, làm nghề quăng chài, nát rượu, một lần uống say quá, vác chài ra đầm Ma ngã xuống nước chết để lại cho vợ ba cô con gái. Con bà Trản cô nào cũng béo phục phịch, hay lam hay làm và mắn đẻ. Cô chị và cô út đã lấy chồng, có con riêng Nhụ ưa nhìn nhất lại chưa cùng ai. Nhìn thấy Nhụ, Doãng sững người. Hắn có tật nói lắp, mãi mới hỏi được một câu hoàn toàn vô nghĩa:
- Cô … cô là … người.. người... hay … ma ?

Cô gái cười, giọng ỡm ờ:
- Là ma đến tát nước hộ người đây. Cái gầu có tội gì mà quẳng nó xuống ngòi. Nào, lội xuống vớt lên đây tát cho.

- Thật chứ ? - Doãng có vẻ không tin lại hỏi một câu rất thừa.
- Ai nói dối làm gì. Mau lên kẻo trời sáng, người ta bắt gặp.

Khỏi phải nói, đêm ấy Doãng cảm động đến mức nào. Hai người mải tát quên hẳn thời gian đến lúc vợ chồng nhà Nguyễn Đình Phán xách gầu ra đòi sòng mới biết nước đã tràn bờ. Mấy hôm sau, lúc làm đồng về, gặp Nhụ ở gốc đa Doãng khẽ chạm vào tay cô ta hỏi:
- Nhụ có bằng lòng về ở với tôi không ?
Cô gái tỏ ra khá bạo dạn:
- Thích thì nhờ người mang trầu cau sang nói với mẹ người ta.

Hắn nhờ bà Cõn làm mối thật. Ba tháng sau thì cưới. Đám cưới của vợ chồng hắn theo lối đời sống mới, chỉ ăn trầu uống nước nhưng già nửa làng Cùa đến dự. Lũ trẻ con đứa nào cũng được một cặp kẹo vừng. Riêng họ Trịnh nhà hắn không thấy ai kể cả anh em Doạng Doan.

Cưới nhau được một năm Nhụ đẻ sinh đôi hai thằng con trai, đưa tổng số cặp sinh đôi ở làng Cùa từ năm Canh Ngọ (1930) đến lúc ấy là ba mươi bẩy. Doãng thích lắm, đặt tên là Dọng, Dõng. Hai thằng giống nhau như hai giọt nước, người ngoài không thể phân biệt được thằng nào là anh, thằng nào là em.

Còn bé mà chúng nghịch hơn cả quỷ sứ. Trong nhà có thứ gì dễ vỡ đều phải treo cao, sểnh một chút là các ông nhóc moi ra, nghịch chán chê rồi đập. Khi đã choai choai, Dọng và Dõng toàn gọi nhau bằng mày tao, không đứa nào chịu đứa nào. Nhiều hôm hai anh em đánh nhau chảy cả máu mồm máu mũi. Có lần hai thằng bảo nhau rút rơm nướng khoai. Lửa cháy to quá bén sang cả nhà bếp. Doãng tức quá, bắt nằm sấp vụt mỗi đứa năm roi quắn mông, nhưng chỉ được mấy ngày lại chứng nào tật ấy.

Dọng và Dõng khá đẹp trai. nói năng lưu loát chứ không ngọng líu ngọng ló như bố. Điều giống bố duy nhất là chúng lười học và thói bán giời không văn tự. Dân làng Cùa vốn ghét thói ba hoa thường bảo nhau "giỏ nhà ai quai nhà ấy"

Cuối năm năm tám, làng Cùa rộ lên phong trào hợp tác hoá. Doãng dứt khoát không viết đơn mặc dù cán bộ xã đã nhiều lần vận động. Hắn lý sự :
- Vào hợp tác xã nông nghiệp là tự nguyện. Chủ trương của Đảng, Chính phủ như vậy. Ai không muốn thì thôi, vì sao các ông cán bộ lại ép bà con ?

Chủ nhiệm Hỗ coi Trịnh Doãng là dân đầu mấu, khó cải tạo tư tưởng liền tuyên bố:
- Những đối tượng chống lại chủ trương hợp tác hoá, ban quản trị sẽ trả ruộng ở đồng Chó Đá.
Đồng chó Đá là địa giới giữa hai xã Đoàn Kết và Phong Trạch, sát ngay bãi tha ma, bỏ hoang đã nhiều năm, đất gan gà cằn cỗi có cấy mà chẳng có gặt. Hồi Cải cách xã đã dồn hơn hai chục hộ địa chủ, cường hào phản động ra ở, nhiều người không chịu được phải bỏ làng đi nơi khác làm ăn, giờ chuyển các hộ cá thể đến đây khác gì bắt đi đày. Doãng nuốt nước bọt đánh ực, nghiến răng, cắm phập lưỡi mác xuống bờ ruộng gầm lên:
- Ruộng này là của cha ông họ Trịnh để lại chứ không phải của vớ được hồi Cải cách nhá. Kẻ nào dám động vào một hòn đất là ăn đòn.

Không hiểu ban quản trị sợ Doãng hay là họ không thèm chấp thằng khùng mà các hộ cá thể khác đã tự nguyện chuyển đến vùng đất mới, riêng mấy sào ruộng của Doãng vẫn ngang nhiên "ngự" tại khu đồng Gà như cái gai trước mắt trêu ngươi các nhà chức trách. Nhưng Doãng sức mấy thi gan được với tập thể. Hợp tác xã chi công điểm đào đắp hệ thống mương máng thuỷ lợi dẫn nước vào đồng. Hắn là dân tự do chẳng thuộc tổ chức đoàn thể nào bị "cấm vận" ngay từ vụ đầu tiên. Chả lẽ cứ nằm đấy chờ nước trời mà trời lại đang đại hạn. Ruộng của vợ chồng hắn đã nứt chân chim, lúa héo đến nơi. Nóng ruột quá, nửa đêm thức dậy Doãng lẻn ra đồng. Hắn đang hì hục tháo nước máng thì cánh cờ đỏ tuần tra tóm được. Nói mãi Doãng không nghe, tay đội trưởng sấn vào giằng cuốc đắp lại bờ bị hắn tống cho một quả vào quai hàm. Phải vất vả lắm họ mới kéo được tay thả ống lươn về trụ sở hợp tác xã. Chuyện ấy Doãng bị giải lên huyện công an làm khách của dám muỗi vằn mấy đêm. Chẳng biết ở cơ quan bảo vệ pháp luật người ta nói với hắn những gì mà sau hôm được thả, dân xóm Trại Cá thấy vợ chồng hắn lên Ban quản trị xin đổi ruộng .

Vợ chồng Doãng xoay trần ra với mấy sào ruộng xấu. Hắn sang cồn Vành cắt cây tầm bóp về làm phân xanh còn Nhụ quẩy đôi quang sảo khắp vùng Ba Tổng nhặt phân trâu bón ruộng. Không có hạt đạm nào mà lúa của hắn tốt bời bời, năng suất gấp mấy lần hợp tác xã. Khổ nhất là hồi chưa mua được trâu, Doãng phải nai lưng kéo cày.Hai vợ chồng hắn, người đi trước kẻ bước sau, nhũng nhẵng mấy ngày mới làm xong đất. ý chí quyết tâm làm giàu của hắn thật đáng nể. Trong có mấy năm, hắn vừa xây được nhà ngói ba gian bằng gạch chín, tậu được con nghé, lại bổ sung dân số cho làng Cùa hai suất đinh làm chủ nhiệm Tào Văn Hỗ tức điên, bèn triệu tập ban quản trị họp khẩn cấp chuyên bàn về lĩnh vực ao, hồ, đầm ngòi. Sau hai ngày tranh luận khá căng thẳng, cuối cùng ban chủ nhiệm cũng ra được nghị quyết tóm tắt như sau: "Các diện tích mặt nước trong làng và ngoài đồng đều thuộc sở hữu tập thể, cấm mọi hình thức đánh bắt cá. Ai vi phạm sẽ bị xử phạt tùy theo mức độ nặng nhẹ". Thông báo trên được gã Tuyển què trong đội Cờ đỏ kẻ chữ sơn lên bảng tin cổng làng và trước trụ sở hợp tác xã. Ngoài ra, mỗi ao chuôm, thùng, vũng còn đượccắm biển gỗ viết sơn đỏ dòng chữ ngắn gọn: "Cấm mọi hình thức đánh bắt cá".

Xã viên kháo nhau, phen này Doãng hết đường làm ăn. Những kẻ ghen ăn tức ở thì nhìn ngôi nhà ngói đỏ của hắn nhếch mép cười nhạt. Thế nhưng, biển cắm hôm trước, sáng hôm sau vợ Doãng vẫn có lươn mang lên chợ Rồng bán. Chủ nhiệm Hỗ cáu lắm, gọi trưởng ban cờ đỏ ra lệnh:
- Đêm nay cậu cho anh em đi kiểm tra một lượt các ao trong làng, nếu gặp tay Doãng, không nói lôi thôi, cứ điệu cổ về đây, tội vạ đâu tôi chịu.

Phải đến tối thứ ba cánh cờ đỏ mới tóm được Doãng trong lúc hắn đang lúi húi gài ống ở cầu ao nhà Thường Rỗ. Chẳng nói chẳng rằng, thằng Cửu và thằng Hiệp quàng ngay dây thừng vào cổ Doãng trói nghiến lại, giong về trụ sở. Hắn vừa chửi vừa la:
- Ới làng nước ơi ! Chúng nó trói người.

Doãng bị vứt nằm queo ở nhà kho suốt một đêm. Bên ngoài có hai dân quân cầm súng đứng gác. Mới bẩy giờ sáng, chủ nhiệm Hỗ, chủ tịch Bùi Quốc Tầm, trưởng công an Trương Đình Tái và đội trưởng cờ đỏ Tiệp Cò đã về tề tựu đông đủ. Anh nào cũng hí hửng ra mặt. Một lúc sau xã đội trưởng Cung Văn Luỹ dẫn Doãng vào trụ sở. Chủ nhiệm Hỗ nghiêm giọng hỏi:
- Anh có biết vì sao bị bắt không ?

Doãng trừng mắt nhìn hết lượt các vị chức sắc sừng sộ:
- Các ông bắt người vô cớ là phạm luật. Tôi sẽ đi kiện.
- Đề nghị anh nói cho nghiêm chỉnh . - Bùi Quốc Tầm cao giọng răn đe - Vậy anh có biết hợp tác xã cấm mọi hình thức đánh bắt cá không ?

- Biết . - Doãng nói cộc lốc
-Tại sao vẫn cố tình vi phạm ?

Doãng nhe răng cười rất đểu:
- Tôi không bắt trộm cá của tập thể mà là bắt lươn. Thưa các ông cán bộ, lươn không nằm trong danh mục cấm.
- Anh .. anh láo .. còn già mồm cãi hả ? - Chủ tịch xã đuối lý, không ngờ bị vố đau như thế nhưng vẫn cố nói liều đề vớt vát sĩ diện - Lươn cũng là …cá, thuộc tài sản hợp tác xã.
- Này các ông ! - Doãng lại hếch cặp môi cá ngão chĩa về phía ban lãnh đạo xã - Các ông ra văn bản cấm mọi hình thức đánh bắt cá mà lại cho người rình trói thằng thả ống lươn, thế có phải là phường lừa đảo không ? Được, tôi sẽ theo vụ này lên tỉnh, tỉnh không giải quyết sẽ vác đơn lên trung ương.

Sau chuyện ấy, chủ tịch Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ có vẻ ngại đụng chạm với Doãng. Thấy chính quyền lờ đi, hắn mặc sức tung hoành, đồng thời nghiên cứu nâng cao kỹ thuật bắt lươn lên hàng công nghệ. Có lần Doãng còn được đích thân Hỗ Chột đặt hàng một trăm ba mươi con. Chuyện có vẻ khó tin nhưng đó hoàn toàn là sự thật. Một thời làng Cùa nổi tiếng khắp hàng tỉnh về làm thuỷ lợi nội đồng, được ông Trần Quảng, lúc ấy đã là chủ tịch tỉnh dẫn một đoàn cán bộ năm mươi tám người về tham quan mô hình làm ăn tiên tiến. Ông chủ tịch vốn thích món lươn om củ chuối, vậy là Doãng được triệu đến. Chế biến các món ăn từ lươn là sở trường của hắn. Người hắn thì nhếch nhác, bẩn thỉu nhưng các thứ đặc sản do hắn nấu ngon không chê được. Trước khi về ông chủ tịch bắt tay khen và đưa cho Doãng tấm danh thiếp, dặn lúc nào lên tỉnh ghé vào nhà chơi. Vì thế hắn trở nên nổi tiếng. Cánh cán bộ xã cũng có ý gờm dù hắn chỉ là anh nông dân cá thể mà đáng lẽ ra mọi người phải hết sức cảnh giác.

Trịnh Doãng gọi bà Khúc Thị Hài bằng cô vì mẹ hắn trước đây làm con nuôi họ Khúc. Năm Cải cách vào lúc mẹ con bà Hài bị xã Nhân ái bên kia sông đuổi về làng Cùa dân xóm Trại Cá tránh như tránh hủi thì Doãng hạ hơn ba chục cây tre ở vườn vác cho anh em Lê Văn Khải làm nhà. Thỉnh thoảng hắn lại xách mấy con lươn cho bà Hài:
- Cô kiếm mấy củ chuối tây mài ra nấu ăn tạm.
Bà Hài chép miệng bảo:
- Anh cứ cho luôn thế này làm cô khó nghĩ quá.
Doãng bảo:
- Ngày nào cháu cũng kiếm được, biếu gia đình mấy con có đáng là bao, cô đừng cả nghĩ.

Hắn biết, nhà bà Hài đang đói, nhiều bữa chỉ ăn rau má luộc chấm muối vì không được chia ruộng, trong khi ấy, đội Lạc và Bùi Quốc Tầm lại cấm con cháu địa chủ, phú nông thả vịt và cất vó bè. Hồi ấy ông cả Duệch còn sống, thấy con trai hay qua lại nhà bà Hài liền mắng:
- Mày cứ thậm thụt với hai thằng ấy, đội Lạc mà biết thì toi đời con ạ.

Doãng cười nhạt:
- Tôi trên răng dưới cát tút, chẳng liên quan gì đến chính quyền, sợ quái gì đứa nào.
- Mày chỉ nói càn không khéo liên luỵ đến cả tao nữa.
- Thầy là đồ hèn. - Doãng nhếch mép bảo - Nhà bà Hài với mình là đâu mà hôm ở ngoài đình thày xui lão Cau đấu bác Vận. Đúng là một phường nói điêu.
Ông Duệch trợn mắt, há mồm, nhưng bị nghẹn mãi mới thốt ra được câu:
- Thằng … mất dạy !

Những năm sau này, ngoài việc thả ống lươn, thỉnh thoảng Doãng còn ra sông Lăng đánh cá với Nghiên. Hai anh chàng xấp xỉ tuổi nhau, một anh mới thoát nạn mù chữ, một anh tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp nhưng thân nhau như anh em. Sau khi Khải đi học đại học Nông nghiệp, mẹ con bà Hài được chia ruộng ở đồng Chó Đá. Doãng hay sang kéo cày cho Lê Văn Nghiên. Cày chìa vôi trượt trên đât rắn, hai gã trai dù là đang độ sung sức cũng phải mất sáu buổi mới xong. Vai Doãng trợt mấy mảnh da, sưng vù, còn Nghiên, hai bàn tay phồng rộp nước vỡ ra, xót hơn xát ớt.

Khác với các gia đình cựu địa chủ trong làng, Nghiên làm đơn ngay đợt đầu khi có chủ trương thành lập hợp tác xã nông nghiệp để chứng tỏ mình là người chấp hành chính sách của Đảng và Chính phủ, nhưng Bùi Quốc Tầm tuyên bố một câu xanh rờn làm anh chưng hửng:
- Chỉ những bà con bần nông có tư tưởng tiến bộ mới đủ điều kiện gia nhập hợp tác xã. Đây là giai cấp nông dân tập thể, sau này sẽ xây dựng nông thôn thành những nông trang lớn xã hội chủ nghĩa theo mô hình tiên tiến của Liên xô và Trung Quốc. Các đối tượng khác trước mắt chưa xét đến. Anh mang đơn về đi.

Doãng biết tin chạy đến bảo:
- Cậu có học mà dốt bỏ mẹ. Hợp tác xã nghe nói thì hay nhưng thực ra là một thứ cha chung không ai khóc, đừng dại mà dính vào, sau này đói rã họng.

Lê Văn Nghiên xua tay:
- Anh toàn nói giọng phản động. Lão Tầm nghe thấy chưa biết chừng lại được mời sang huyện công an mấy ngày.
- Tớ chỉ nói đúng sự thật chứ có nói điêu đâu mà lo. Nếu chúng nó chèn ép quá tớ sẽ sang tỉnh gặp ông Trần Quảng.
- Anh tưởng lũ dân đen như cánh mình gặp các cán bộ đầu tỉnh dễ lắm đấy.

Doãng móc túi chìa cho Nghiên tấm danh thiếp của chủ tịch tỉnh:
- Có cái này đứa nào dám không cho vào.
- Rồi anh xem, chỉ sợ đến lúc ấy lại thất vọng.

2. Bà Hài mong ngày mong đêm nhưng xem ra việc tìm con dâu không dễ, chẳng phải vì Lê Văn Nghiên kén chọn mà cái chính là gái làng không cô nào muốn về nâng khăn sửa túi cho một anh chàng có bố bị xử tử trong Cải cách vì tội hoạt động Quốc dân đảng. Hơn nữa, bản thân Nghiên lại thuộc thành phần trí thức tiểu tư sản, không được kết nạp Đoàn. Trịnh Doãng bảo:
- Tôi định giới thiệu cho cậu cô Chắt ở làng Đậu Khê con ông phó lý Bền, hơi đen một tí nhưng hay làm, tính tình dễ chịu.
- ấy ! bác đừng làm thế. Tôi chưa có ý định lấy vợ
- Cậu cứ chần chừ là hỏng - Doãng chúm môi nhọn lại như môi con chồn hoa thổi phù một cái rồi bảo - Hăm sáu hăm bảy rồi còn gì ?

Lê Văn Nghiên nhìn bộ dạng cổ quái của Doãng bất giác cười. Mấy hôm sau, vào dịp làm cỏ lúa ở đồng Chó Đá, Nghiên hỏi Doãng:
- Nghe nói trước đây bác hay kéo nhị ?

Câu hỏi gãi đúng chỗ ngứa vì Doãng vốn thích món chầu văn, liền phán liến thoắng:
- Chẳng những biết kéo nhị mà tớ còn gảy được đàn bầu. Hồi cuối năm năm ba, chúng tớ lập chiếu chèo, cô Sót vợ tay Lê Bản say như điếu đổ, mặc dù mặt tớ …
- Thế thì tốt rồi. -Nghiên bảo - Giờ đang vụ nông nhàn tôi có ý định lập một đội kèn hiếu.
- Tức là thổi kèn đám ma chứ gì ? - Doãng trợn mắt, há mồm mãi mới hỏi được.
- Phải, từ ngày ông phó Sùng mất, ông Quản Thống đi Đông Ngàn ở với con, vùng Ba Tổng không còn phường kèn nên các đám ma nhạt nhẽo, kém phần ai oán. Ngoài tôi và bác ra ta phải chọn thêm một tay trống nữa.
- Việc ấy khó gì. - Doãng bật ngón tay đến tách môt cái quả nhiên có ngay nhân tài xuất hiện - Thằng

Phán con ông cửu Mẫn, tớ chỉ cần hô một tiếng là xong.
- Như thế mới chỉ được một nửa công việc. - Nghiên lắc đầu làm Doãng ngớ ra - Vấn đề còn lại là phải xin phép chính quyền xã. Việc này tôi lo nhất vì thế nào lão Tầm và lão Hỗ Chột cũng phá.
- Việc đếch gì phải xin phép đứa nào . - Doãng văng tục - Chúng mình toàn dân cá thể, đoàn viên không, đảng viên không, chẳng lẽ nó lại cấm được mình ?
- Về lý thì chưa chắc đã dám cấm công khai nhưng nếu thấy ngứa mắt, nay họ gọi xuống xã "giáo dục" mai tịch thu đồ nghề thì còn làm ăn gì được. - Nghiên bảo Trịnh Doãng - Việc này tôi xuất đầu lộ diện là hỏng, bác phải kiếm lạng chè với gói thuốc xuống nói với ông Tầm.

Doãng giãy nảy:
- Tôi chả dại, cứ nhìn thấy bản mặt nó là muốn đấm vỡ quai hàm. Căm nhất là cái lần nó ra lệnh bọn thằng Cửu trói giam tôi một đêm trong nhà kho.

Nghiên bảo:
- Thù dai làm gì. Cứ nhún mình một tý, lấy được cái giấy có chữ ký với con dấu cho phép hành nghề là phần thắng về ta.
- Nhỡ chúng nó bàn nhau nhất định không ký thì sao ?
- Bác có cái các vi dít của ông Trần Quảng cho kia mà.
- ờ nhỉ, thế mà mình không nhớ ra.

*****

Nhìn thấy Trịnh Doãng với lá đơn chữ viết loằng ngoằng như gà bới trên tay, Bùi Quốc Tầm ghét lắm bảo:
- Các anh chỉ vẽ chuyện để chén xôi thịt của thiên hạ. Kèn trống đám ma là thứ mê tín dị đoan, những thứ hủ tục ấy người ta đang dẹp đi không được lại bới ra. Xã không duyệt đâu, thôi về đi.

Doãng nổi tiếng làng Cùa là dân đầu bò, đuổi hắn không phải là chuyện dễ, hắn đã quyết tâm làm cái gì là làm bằng được. Nghe ông chủ tịch nói xong, Doãng vặn ngay:
- Ông bảo là mê tín dị đoan, vậy tại sao năm ngoái cụ Tiên Nhũ mất, vợ chồng ông sang tận kẻ Bòng đón phường kèn về tế suốt một đêm ?

Tầm nói hớ bị bẽ mặt đành giở bài hoãn binh:
- Thôi được, để tôi họp bàn với tập thể Đảng uỷ và thường trực Uỷ ban xem họ có nhất trí không đã.

Doãng vuốt mớ tóc húi kiểu móng lừa, hếch cái mũi đầy trứng cá đỏ như cà chua chín bảo:
- Nói thật với các ông, lập đội kèn là nguyện vọng của bà con làng Cùa, nếu Đảng uỷ, Uỷ ban và hợp tác xã không duyệt tôi sẽ lên tỉnh gặp ông chủ tịch.

Tầm trố mắt nhìn cái miệng cá ngão của Trịnh Doãng không tin ở tai mình:
- Cái thứ nông dân cá thể mở miệng là chống lại chủ trương chính sách như anh sẽ có lúc người ta tống vào nhà đá, chủ tịch nào thèm gặp.

Doãng thọc tay vào túi áo lấy ra tấm các đặt trước mặt Bùi Quốc Tầm nhìn anh ta bằng nửa con mắt :
- Xem kỹ đi, có phải danh thiếp của ông Trần Quảng không ?

Về danh nghĩa, Trịnh Doãng làm đội trưởng kèn đám ma nhưng thực chất Lê Văn Nghiên là người chỉ huy. Mấy hôm đầu, Lê Văn Nghiên rủ Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán mang đồ nghề ra đình Cả tập. Doãng xấu mã mà đa tài. Hắn thổi kèn điệu Lâm khốc ai oán đến nỗi mấy bà đồng bóng xóm Đình khóc rưng rức nghĩ là làng Cùa vừa mới có người về nơi chín suối. Nguyễn Đình Phán mang một cặp trống cơm và hai trống nhỡ đến hoà tấu bằng những ngón gia truyền khiến Lê Văn Nghiên nổi hứng cò cử chiếc nhị réo rắt làm cho mấy cô gái chưa chồng ngứa ngáy không chịu được, rủ nhau ra đầu đình thập thò.

Kỹ thuật cá nhân nói chung đã khá thành thạo, vấn đề cần làm là phải hoà tấu sao cho các nhạc cụ ăn khớp nhau để khi vào đám khỏi xảy ra tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nghe tiếng kèn đám ma từ đình làng vọng ra chủ nhiệm Hỗ tức lắm. Anh ta đem mấy dân quân khoác súng đến bảo Lê Văn Nghiên:
- Không được thổi kèn ở đây. Yêu cầu các anh mang đi nơi khác

Trịnh Doãng đang phồng mồm thổi chiếc kèn loe, nghe chướng tai vặc lại:
- Xã đã đồng ý cho chúng tôi lập đội kèn hiếu các ông còn hạch sách gì nữa ?

Hỗ sừng sộ:
- Thổi kèn trong làng làm mất an ninh trật tự và phá giấc ngủ của bà con xã viên. Các anh không chấp hành nội quy hợp tác xã tôi sẽ ra lệnh tịch thu đồ nghề.

Doãng nóng mắt định gây sự, Lê Văn Nghiên bấm tay nói nhỏ:
- Thôi về, tối mai ta mang chiếu ra đồng Chó Đá chẳng kẻ nào đuổi được.

Tối hôm sau, ba anh em xách kèn trống ra nghĩa địa thật. Doãng thuộc loại ba trợn trên không sợ giời, dưới không sợ đất. Phán là con thầy cúng, ma quỷ nhác thấy đã phải tránh xa. Nghiên được học hành chút ít, không mê tín dị đoan. Họ ngồi trên gò đống, phía dưới là những âm hồn, giữa đêm hôm khuya khoắt say sưa hoà tấu mấy bản tang khúc quen thuộc trong tâm trạng vô cùng hứng khởi. Đêm thanh vắng, gió đông nam thổi nhẹ, đưa tiếng kèn thổi khúc "Hành vân" về làng lúc gần lúc xa, lúc khoan lúc nhặt nghe vừa du dương vừa ai oán như là một thứ bùa ngải đầy ma lực làm xao xuyến khối cô nàng đa tình.

Lê Văn Nghiên còn kiêm thêm nhiệm vụ soạn điếu văn nếu tang chủ yêu cầu. Điếu văn anh ta viết cho ông Bẩy Hựu ở xóm Cầu Đá chết vì chứng xơ gan cổ trướng lâm ly thống thiết khiến bà con hàng xóm ai cũng thương cảm. Mấy chị trung niên chẳng có họ hàng gì cũng oà khóc như vừa bị chồng đánh oan, còn lũ trẻ con gào rống lên, có thằng khóc dữ quá đái cả ra quần.

Doãng không đặt giá nhất định cho mỗi đám tang nhưng nói chung, các tang chủ đều biết điều trả thù lao không đến nỗi quá bèo bọt. Họ biết tầm quan trọng của phường kèn, vì đã mấy năm nay, giờ mới có được tiếng kèn nhị diễn tấu đúng âm luật ngũ cung, nhất là nghệ thuật đánh trống có một không hai trong vùng Ba Tổng của Nguyễn Đình Phán.

Gánh kèn hiếu lần đầu tiên được người hàng tổng thỉnh đó là ông Tăng Văn Trọng phó chủ tịch xã Thanh Bình. Bà mẹ ông ta bẩy mươi ba tuổi vừa quy tiên. Tang chủ cử người sang đón anh em Trịnh Doãng từ chiều hôm trước để kịp lúc bảy giờ tối phát tang. Lê Văn Nghiên được nhờ soạn điếu văn. Ông Tăng Văn Trọng do tang ma bối rối, chỉ viết nguệch ngoạc ra quyển vở học trò vài nét đại khái về thân thế, sự nghiệp của thân mẫu, còn những chi tiết cụ thể giao cho cô con gái tên là Hảo nói với anh thợ kèn. Hảo mười chín, học hết lớp sáu rồi ở nhà làm hợp tác xã, thuộc loại đẹp gái ở làng Báng. Hai năm nay, có đến gần chục đám khá giả nhờ người mai mối nhưng ông Trọng chưa ưng ai mà có ý chờ Thạc, con trai ông bí thư huyện uỷ đang học lớp trung cấp nông lâm. Thạc mê Hảo đến mức cuồng si, những dịp nghỉ hè, ngày nào cũng đạp xe sang kẻ Báng. Ông Trọng trong ban thường vụ, phụ trách nội chính, có sở trường vận động quần chúng, nói chuyện thời sự hấp dẫn, đám thanh niên rất phục, xem như một mẫu cán bộ tuyên huấn điển hình của thời đại. Những dịp ông đăng đàn giảng nghị quyết đình làng chật cứng nam nữ đoàn viên và các đối tượng cảm tình để nghe về hai nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đến phần quan trọng nhất là "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa" và "Quyền làm chủ tập thể" , ông diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ khúc chiết đầy hào khí cách mạng rồi trích dẫn hàng loạt những câu nói nổi tiếng của các tác giả Mác xít kinh điển không sai một chữ, làm cử toạ phục lăn, nghĩ rằng chẳng mấy chốc ông trở thành nhà lý luận. Thế nhưng ông phó chủ tịch cũng là kẻ cơ hội, trong bụng đầy những toan tính vị kỷ. Tìm cách gả được Hảo cho Thạc tức là đã khai thông con đường lên huyện. Cao hơn thì chưa nói nhưng ít nhất đồng chí bí thư cũng phải xếp ông ta một chân chánh văn phòng hoặc trưởng ban khoa giáo. Phải có những cương vị như thế mới phát triển được tài năng. Làm cái anh phó chủ tịch quèn lại phải dưới trướng một gã vô học, chuyên nghề thiến lợn mà lại khệnh khạng hệt chánh Đàm ngày trước làm sao mà chịu được. Ông ta mà lên huyện thì chỉ trong vòng sáu tháng, cái chức chủ tịch của tay Kiểm đi tong. Cho nên vị phó chủ tịch không nhận lời bất cứ đám nào vùng Ba Tổng. Con Hảo đã có nơi có chốn. Thằng nào động vào tức là mó dái ngựa. Hãy coi chừng đấy các chú trống choai ạ.

Bài điếu văn Lê Văn Nghiên chấp bút hầu như không phải sửa được viết bằng thứ chữ tròn vành rõ nét đẹp như vẽ không giống bất cứ loại chữ "bình dân học vụ" nào với lời lẽ chân thành, tình cảm thống thiết, cô Hảo đọc qua một lần mà cứ ngẩn ngơ cả người. Lựa lúc vắng khách, Hảo giả bộ xuống nhà lấy thêm trầu vỏ hỏi Nghiên :
- Anh học đến lớp mấy mà viết điếu văn hay thế ?

Nghiên thoáng nhìn Hảo, hai luồng mắt giao nhau, như có dòng điện chạy qua làm anh thợ kèn lúng túng:
- à, học "bình dân" ấy mà.

Hảo đong đưa cặp mắt đen láy như cười:
- Anh chỉ nói đùa. Em không tin.

Nghiên nheo mắt thì thầm:
- Cô không tin cũng không sao nhưng đấy là hương hồn cụ bà hiện về phù họ cho tôi viết …

Hảo còn định nấn ná thêm lúc nữa thì ông Trọng bất ngờ xuất hiện lừ mắt bảo con gái:
- Lên nhà, anh Thạc về đấy !

Bản "Lâm khốc" và khúc "Lưu thuỷ" của bộ ba kèn, nhị, trống nghe như dàn hoà tấu của các loại nhạc cụ dân tộc trong một đêm hội chèo. Đã lâu lắm kẻ Báng mới có được buổi tế kèn trang trọng như thế. Dân làng chen nhau vòng trong vòng ngoài như đi xem hội. Ông chủ nhà nở mày nở mặt cứ nghĩ thiên hạ nể mình, phục mình và cả sợ mình nữa nên có nghĩa vụ đến chia buồn cùng tang quyến.

Đưa đám xong, lúc trở về, ba chàng thợ kèn vẫn lững thững bước sau linh xa thỉnh thoảng lại tấu khúc "Đò đưa" tiễn hồn người qúa cố. Bản này vốn được phát triển từ một làn điệu chèo đã lược đi phần lớn những nốt nhấn nháy và đảo nhịp nghe khá bi thương, có chỗ phảng phất như giọng điệu trong bài "Thập ân". Một số người đã rẽ vào các ngõ, nhưng nghe tiếng trống cư chần chừ chưa muốn bước. Cô Hảo mặc áo xô khăn trắng, dây chuối bện thắt lưng, mái tóc dày đen như sừng xoã chấm khoeo, giả bộ đau buồn, thương bà đận đà đi sau cánh thợ kèn, thỉnh thoảng hờ vài tiếng nhưng mắt lại đánh đáo về phía Lê Văn Nghiên. Anh ta cũng chẳng phải vô tình mặc dù vẫn giả tảng không biết gì, ra sức thổi kèn. Trịnh Doãng đúng là một tay thợ kèn đám ma bẩm sinh. Hắn thể hiện kỹ năng nghề nghiệp bằng một phong thái rất nghệ sỹ, nhất là khi bắt đầu đưa tang. Lúc ấy, đầu Doãng hơi cúi, mồm cá ngão ngậm dăm kèn hơi phùng ra, mấy ngón tay nhịp nhàng lúc bịt lúc mở trên hàng lỗ, thỉnh thoảng đảo qua đảo lại hoặc ngoáy một vòng, hệt như anh chàng hề mồi phát loa báo tin quan tân khoa sắp vinh quy bái tổ. Đặc biệt lúc vào việc, Doãng nói đâu ra đấy chẳng khác gì ông chủ đòn đám ma, chỉ mỗi tội mặt hắn hơi khó coi nên ít khi tranh thủ được cảm tình của đám chị em.

*******

Nghiên nhận được thư của Hảo qua một anh bạn ở làng Đậu Khê. Thư hẹn hai người sẽ gặp nhau ở quán Cây Đề đồng Quao, Nghiên đến sớm. Lúc ấy mới khoảng sáu rưỡi nhưng vì vào cuối thu nên trời đã nhập nhoạng. Đàn sẻ đã bắt đầu kéo về đậu trên mái quán tìm chỗ trú đêm. Chúng mổ nhau chí choé, thỉnh thoảng một vài con bay vút lên lượn vài vòng rồi sà xuống. Lũ chích choè vốn lắm điều bay vật vờ trên cao hoàn toàn im lặng, chỉ đến khi lần lượt đậu xuống cành cao nhất của cây đề chúng mới nhả những tiếng”chíp chíp” rời rạc như là quá mệt mỏi sau một ngày lang thang kiếm mồi. Hảo đến muộn một chút hỏi Nghiên:
- Anh đợi em lâu chưa?

Nghiên bảo:
-Tôi cũng mới ra

Hảo hỏi:
- Anh học thổi kèn đám ma ở đâu?

Nghiên lại bảo:
- Cánh mình chơi theo bản nhạc ấy mà.

Hảo tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Các anh còn biết cả âm nhạc?

Nghiên cười:
- Cái gì cũng có thể học được nếu mình chịu khó.

Hảo:
- Anh nói thật đi, anh là ai?

Nghiên:
- Tôi là dân làng Cùa, nông dân cá thể, nhà ở đồng Chó Đá.

Hảo:
- Anh chỉ giỏi bịa, em thấy anh rất bí hiểm. ở nông thôn ít có những người như thế.

Nghiên:
- Hảo nói đúng lắm, khắp vùng Ba Tổng kiếm đâu ra phường kèn đám ma như bọn này. Vì thời nay, thanh niên là phải phấn đấu vào Đoàn, hoạt động xã hội hoặc thoát ly làm người nhà nước mới đúng kiểu.

Hảo cười rất hồn nhiên:
- Anh viết điếu văn hay như thế chắc viết thư phải tình cảm lắm.

Nghiên lại bảo:
- Cũng thường thôi, với lại tôi cũng ít viết thư.

Hảo hỏi:
- Ngày mai anh sang nhà em có được không ?

Nghiên lắc đầu :
- Nhà đang có tang sang không tiện , tôi thấy ông phó chủ tịch nghiêm lắm.

Hảo thở dài :
- Nhưng anh chàng Thạc đang học trung cấp nông lâm thì ngày nào cũng đến ám.

Nghiên nói khẽ:
- Thì đồng ý người ta đi, môn đăng hộ đối thế cơ mà.

Hảo bậm môi:
- Cái anh này nói thế Hảo còn hẹn anh ra đây làm gì .

Nghiên lại trêu:
- Trông anh ta cũng cao ráo đấy chứ, lại có văn hoá nữa, khác hẳn bọn tôi, chưa thoát nạn mù chữ.

Hảo bĩu môi cười nhạt :
- Văn hoá gì, cũng học lớp sáu rồi bỏ như em, may có ông bố là bí thư huyện uỷ xin cho.

Nghiên cầm tay Hảo làm người cô run lên. Lúc sắp chia tay Hảo ngập ngừng hỏi:
- Tối mai lại ra đây được không anh ?

Nghiên gật đầu:
- Anh sẽ ra nhưng ... bố em không bằng lòng cho chúng ta gặp nhau đâu.

*****

Mấy hôm sau, lúc ở đám ông Vệ Tuân chết vì say rượu ngã xuống ao Quan về, Trịnh Doãng hỏi Lê Văn Nghiên :
- Cậu phải lòng cái Hảo bên kẻ Báng rồi phải không?

Nghiên chối phắt:
- Đâu có, anh chỉ đoán mò.

Doãng tủm tỉm cười :
-Tối hôm hai mốt anh chị nào hẹn nhau ra quán Cây Đề đồng Quao?

Nghiên giật mình:
- Hôm ấy anh đi thả ống lươn à?

Doãng chỉ ậm ừ:
- Không đi nhưng tớ biết... Mà này, trông bộ dạng lão Trọng lúc nào cũng vênh váo, tớ chẳng ưa tí nào.
- Chưa chi anh đã có ác cảm với người ta.
- Thằng Doãng này nói không sai đâu . Tớ ngại là ngại cho cuộc tình duyên của các cậu. Cái Hảo là đứa con gái ngoan, nó yêu cậu thật đấy nhưng ông bố thì đếch chơi được. Hắn sẽ phá đám cho mà xem.

Doãng nói tào lao thế mà đúng . Lê Văn Nghiên cùng anh bạn đánh trống Nguyễn Đình Phán vừa bước vào cổng, ông phó chủ tịch xã Thanh Bình đã chơi ngay một vố làm hai người chỉ còn cách độn thổ:
- Các anh là mấy tay thợ kèn làng Cùa phải không?
- Dạ, chúng cháu chào bác ạ.

Ông Trọng laị hỏi:
- Sang đây có việc gì?
Thấy hai gã trai thiên hạ đưa mắt nhìn nhau, ông chủ nhà ra tiếp đòn quyết định :
- Con Hảo nhà này sắp làm dâu ông bí thư huyện uỷ. Tôi đề nghị các anh đừng quấy rầy nó nữa.

Thế là hai anh em quay gót, đi một mạch về làng chẳng biết Hảo có nhà hay không .Tối hôm ấy Nghiên viết mấy dòng thư gửi cô ta : “Hoàn cảnh nhà tôi phức tạp lắm không tương xứng với Hảo. Từ nay chúng ta chấm dứt quan hệ và mong em được hạnh phúc với chàng trung cấp nông lâm.” Nhận được thư, Hảo chẳng giữ ý nữa, sang ngay làng Cùa. Lúc ấy Nghiên đang gõ thuyền đánh lưới bén trên sông Lăng. Nhìn thấy dung mạo Hảo, bà Hài mừng lắm, trong lòng dự đoán, hai đứa chắc đã có tình ý với nhau, liền nhờ người đi gọi con trai rồi kể cho Hảo về gia cảnh. Nghe xong cô xúc động lắm nói với bà mẹ :
- Chuyện bác trai trước là chủ tịch huyện rồi anh Khải đi học đại học Nông lâm anh ấy chẳng nói gì với cháu. Hôm bà cháu mất, anh ấy viết điếu văn làm cả họ phải khóc cháu đã sinh nghi.

Bà Hài chép miệng;
- Hai anh em nó đứa nào cũng tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp ở tỉnh, nhưng vì thành phần gia đình, thằng Khải khó khăn lắm mới được đi học đại học. Thằng Nghiên vì anh mà phải giam gần nửa năm, may có ông Trần Quảng gỡ cho.


Bà Hài nói đến đây thì Nghiên về. Hảo làm mặt giận:
- Anh Nghiên coi thường em quá .

Nghiên tin Hảo yêu mình thật lòng nhưng biết là cô ta không thể nào vượt được quyền ông bố gia trưởng đang lập kế hoạch dùng con gái làm nhịp cầu tiến thân. Cuộc tình này hẳn là chẳng có kết thúc tốt đẹp liền giả tảng nói với mẹ nhưng thực chất là để cho Hảo biết rõ thái độ của mình:
- Đây là cô Hảo bên làng Báng, con ông Trọng, phó chủ tịch xã Thanh Bình.

Bà Hài bảo:
- Tao biết rồi.

Hảo nguýt Nghiên có ý trách:
- Giới thiệu kiểu gì thế?
- Tôi nói chưa hết. Nghiên tiếp tục bằng thứ giọng mà chính mình cũng thấy khó chịu – Chắc cô Hảo sang đây mời đám cưới?

Hảo sa sầm nét mặt:
- Anh ác lắm. Đấy bác xem, anh ấy toàn nói châm chọc.
-Tôi không nói sai đâu. Mấy hôm trước chính ông phó chủ tịch nói như thế khi tôi và anh Phán vừa vào đến cổng.

Hảo bổng giật mình:
- Các anh đến hôm nào, sao em không biết?
- Vừa đến cổng đã bị đuổi ra Hảo biết thế nào được?

Hảo cười gằn:
- Vì thế mà anh viết thư cho tôi đòi chấm dứt quan hệ?
- Biết làm thế nào được, cái chính là tại hoàn cảnh gia đình tôi.
- Làm đấng nam nhi phải chịu nhường người mình yêu thương cho kẻ khác thì hèn lắm. Thôi chào anh. Con chào bác, con về.

Tất nhiên là bà Hài không cần đưa mắt ra hiệu thì Lê Văn Nghiên cũng phải chạy theo. Anh ta đưa Hảo ra tận quán Cây Đề. Tại đây Hảo khóc thút thít, còn Nghiên ra sức vỗ về. Anh ta vốn sợ nước mắt phụ nữ, hễ cứ thấy các cô sụt sịt là người bứt rứt như bị dị ứng khi thời tiết thay đổi. Được một lúc thì sự căng thẳng tạm thời giải toả. Lúc sắp về, Hảo dặn:
- Từ nay nếu có sang phải báo trước để em đón.
- Anh sợ ông phó chủ tịch lắm, lúc nào cũng lừ lừ trông ghê cả người.
- Bây giờ làm thế nào hả anh ? Cứ nhìn thấy thằng Thạc là em đã ghét.
- Em cứ viết thư nói thẳng với anh ta.
- Hắn bám dai như đỉa, trong nhà bố em là nội ứng, anh bảo làm sao thoát được. Em nghĩ chỉ còn một cách.
- Cách gì hả cô bé bướng bỉnh?

Hảo ngập ngừng:
- Chỉ có một cách là... có con trước với chàng thợ kèn.

Nghiên bật cười:
- Em không đùa đấy chứ?

Hảo gật đầu:
- Em nói hoàn toàn nghiêm túc. Có thế chúng ta mới được bên nhau mãi mãi.

Nghiên từ từ kéo Hảo vào ngực, hôn lên tóc cô, thì thầm:
- Chúng mình là những người đàng hoàng, không làm thế được. Ta phải chọn cách khác thôi em ạ.

Mấy lần Hảo đi chơi tối về muộn, ông Trọng sinh nghi liền cử cậu con trai út là thằng Tần bí mật theo dõi. Đến lúc ấy ông ta mới ngã ngửa người ra hai đứa vẫn hò hẹn nhau ở quán Cây Đề. Khác với mọi lần, hôm ấy ông phó chủ tịch im như thóc trong bồ, lặng lẽ nghĩ cách xử lý. Thời gian chờ đợi khá căng thẳng nhưng rồi nó cũng đến khi ông bố thấy cô con gái vào buồng chải tóc mặc bộ quần áo mới. Hảo vừa ra khỏi làng lập tức có mấy bóng đen bám theo. Họ luôn giữ khoảng cách với Hảo chừng hơn trăm thước mà cô ta không hề biết. Từ kẻ Báng sang đồng Quao khá xa. Hảo vừa đi vừa chạy, đến lúc nhập nhoạng thì mất hút làm mấy bóng đen nháo nhác tìm. Lúc ấy khoảng hơn bảy giờ. Nghiên đã chờ khá lâu. Hảo vừa xuất hiện hai người đã ôm cứng lấy nhau. Cô gái khóc tức tưởi:
- Gay rồi anh ơi, rằm tháng này nhà trai đến ăn hỏi, làm thế nào bây giờ ?

Nghiên vuốt tóc Hảo thở gấp như bị choáng:
- Sao nhanh thế?
- Hình như bố em đã biết chuyện chúng mình, mấy hôm nay em thấy thái độ khác lắm.
- Đứng im ! Các người đã bị bắt.

Hảo và Nghiên vừa rời khỏi tay ra thì chiếc đèn pin đã rọi thẳng vào mặt.
- à, ra cô Hảo, mời cô về, ông phó chủ tịch đang đợi ở nhà. Còn anh kia, theo chúng tôi về uỷ ban !

Hai gã lạ mặt chắc là dân quân làng Báng. Tay khoác súng trường lừ lừ nhìn Nghiên rồi bất ngờ quàng ngay dây thừng vào người anh ta. Hảo sấn lại, quát lên:
- Các người làm gì thế? Bỏ anh ấy ra.
- Xin lỗi cô Hảo nhé !

Gã cầm đèn pin giữ chặt tay cô gái bảo :
- Đây là lệnh của ông nhà. Chúng tôi chỉ là người thừa hành.

Nghiên bị trói hai tay vào cột quán. Trước khi đưa Hảo về, tay dân quân khoác súng vỗ vai chàng thợ kèn bảo:
- ở đời không nên chơi trèo anh bạn ạ. Cô Hảo là con dâu ông bí thư, kẻ nào động vào là ngồi nhà đá.

Hảo vừa bước vào nhà ông bố đã túm tóc bạt tai liền mấy cái, giọng rít lên:
- Đồ mất dạy! thế này thì mày bôi tro trát trấu vào mặt tao còn gì.
Cô con gái lấy tay xoa má, lẳng lặng vào buồng làm ông bố càng tức:
- Mày không có mồm à?

Đến lúc này Hảo không chịu được thói gia trưởng quá quắt của ông Trọng nữa, oà lên khóc:
- Thầy sai dân quân rình mò con, trói người ta giữa đồng là phạm pháp. Ngày mai con sẽ ra xã báo với bác Kiểm.

Ông phó chủ tịch như vừa bị cái tát điếng người, rít qua kẽ răng:
- Có giỏi thì mày cứ đi.

Hảo vênh mặt:
- Con đã bảo không lấy tay Thạc, thầy cứ ép sau này đừng trách.

Ông Trọng cười gằn:
- Mày... mày dám...
- Thật đấy.

Hảo thấy bố đờ mặt ra liền tấn công tiếp:
- Lần nào giảng nghị quyết cho thanh niên thầy cũng nói chế độ xã hội chủ nghĩa tôn trọng tình yêu hôn nhân tự do rồi phê phán hệ ý thức phong kiến lạc hậu, vô nhân đạo chà đạp lên nhân phẩm người phụ nữ, thế mà về nhà lại ép duyên con gái, vậy chúng con phải tin vào ai?

Rõ ràng là đang bị dồn vào thế bí nhưng ông phó chủ tịch vốn lắm mưu mẹo, biết rằng cứ đối đầu như vậy sẽ dẫn đến đổ vỡ, bèn thay đổi chiến thuật. Ông ta vốn có sở trường dùng ba tấc lưỡi chuyển bại thành thắng trong lúc nguy cấp. Có lẽ chỉ con cách đánh vào tình cảm may ra con bé cứng đầu này mới chịu nghe.
- Hảo con có thương thầy mẹ không?
- Sao thầy lại hỏi như vậy?
- Là vì thầy mẹ thương mày lên muốn chọn cho mày tấm chồng tử tế, sau này có chỗ dựa suốt đời.
- Con biết ơn thầy mẹ nhưng như thế không có nghĩa là cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đấy.
- Nhà ông bí thư có mỗi cậu Thạc là con trai, lại được học hành tử tế. Mày về bên ấy là bác Sự xếp ngay cho một chân văn phòng, thiên hạ khối kẻ nằm mơ cũng không được đâu con ạ.
- Con lạ gì tư cách anh Thạc, anh ta đã học dốt lại ỷ thế bố là bí thư huyện uỷ khinh người.

Đã dùng mọi lý lẽ thuyế phục mà Hảo vẫn không chuyển biến, ông Trọng phải dùng đến chiêu cuối cùng :
- Được rồi, bây giờ tao hỏi đây, mày có biết gốc gác cái thằng thổi kèn đám ma ấy thế nào không mà định đâm đầu vào?
- Gia đình anh ấy tốt, chăm chỉ làm ăn.
- Mày ăn phải bùa mê thuốc lú rồi con ạ. - Ông phó chủ tịch cười nham hiểm - Bố nó là Quốc dân đảng bị xử bắn hồi Cải cách. Mẹ nó là con gái lão chánh Đàm, phản động khét tiếng vùng Ba Tổng. Anh em nó đều là lũ lưu manh đi tù về.

Hảo nhìn lên thấy vẻ mặt đắc thắng và ánh mắt thoáng chút độc địa của bố liền bảo:
- Trừ thầy ra, cả vùng này ai mà không biết bác Vận là chủ tịch huyện bị Đội Cải cách xử oan. Con cũng xin nói rõ, mấy người thầy sai đi điều tra”báo cáo” không đúng sự thật. Trước Cải cách ruộng đất, hai người con trai bác Vận đã đỗ tú tài bán phần. Hiện nay anh Khải đang học khoa Thú y đại học Nông lâm sắp ra trường. Họ là những người có văn hoá và tư cách chứ không phải “ lũ lưu manh”.

Ông Trọng cười mát:
- Mày hiểu rõ lý lịch nhà người ta quá nhỉ, nhưng quyết định của thầy mẹ vẫn không thay đổi. Rằm này ông bà bí thư sẽ mang lễ sang ăn hỏi, đầu tháng tám tổ chức.
- Thầy... thầy nhẫn tâm lắm.

Ông phó chủ tịch hạ giọng nặng chịch:
- Nước có phép nước, nhà có lệ nhà, cứ thế mà chấp hành, không bàn cãi lôi thôi nữa.

Dịp ấy Thạc cũng học xong trung cấp Nông lâm mang tấm bằng xếp loại trung bình sang khoe với Hảo:
- Anh đã có quyết định về làm việc ở phòng Nông nghiệp huyện. Cưới nhau xong bố sẽ xếp việc cho con dâu làm văn thư, thế là chúng mình mãi mãi bên nhau.

Hảo nhìn bộ dạng anh cán bộ kỹ thuật mới ra lò, giọng lạnh lùng:
- Nhưng anh chưa hỏi xem tôi có đồng ý hay không?
- Em sao thế?
- Chẳng sao cả. Đơn giản là tôi không yêu anh.

Thạc nhăn nhó:
- Nhưng mà tôi yêu em. Hơn nữa hai gia đình đã chuẩn bị, em phá đám còn ra thể thống gì nữa.

Hảo lắc đầu:
- Anh về nói với ông bà bí thư hủy đám ăn hỏi đi. Tôi đã có mang với người ta.

Thạc bị choáng, lặng người một hồi lâu mới ngập ngừng bảo:
- Không... sao, vì anh rất yêu em. Chuyện này chỉ hai ta biết với nhau miễn là em đồng ý làm vợ anh.

Hảo ôm mặt khóc. Thật là phường vô liêm sỉ. Cô đã mạo hiểm đem cả danh tiết của mình đặt lên bàn đàm phán mà hắn ta vẫn trơ lỳ, bám dai hơn đỉa đói. Biết làm thế nào đây?

Những ngày này Hảo bị giam lỏng, nhất cử nhất động đều bị giám sát chặt chẽ, không thoát ra ngoài được. Tối nào Nghiên cũng ra quán Cây Đề để rồi nửa đêm lại về túp lều ở đồng Chó Đá trong tâm trạng bần thần thảng thốt.

Sau lễ ăn hỏi mười tám ngày thì hai bên tiến hành đám cưới. Đó là một đám cưới nửa nạc nửa mỡ. Bà con dân làng đến dự được mời ăn trầu, uống nước, hút thuốc ngoài sân kho hợp tác xã. Họ hàng thân quen và quan khách hàng huyện thì ăn cỗ trong nhà. Việc tổ chức đời sống mới do chi đoàn thanh niên đảm nhiệm. Riêng khoản văn nghệ, bây giờ người ta không nắm tay nhau nhảy “xon mì” như hồi Cải cách nữa mà chuyển sang hát " Câu hò trên bến Hiền Lương” hoặc "Tình trong lá thiếp” nghe rất mùi.

Đến lúc sắp đón dâu, Ông Trọng mới ra lệnh mở cửa buồng. Hảo như người mất hồn, quần áo lôi thôi, tóc rối bù chẳng thèm chải. Mấy cô bạn xúm vào trang điểm gần nửa giờ mới tàm tạm giống cô dâu.

Đêm tân hôn .Lúc ấy đã muộn lắm. Thạc say khướt vì phải chạm cốc với cánh đồng môn lớp trung cấp Nông lâm, đẩy cửa buồng bước vào thở ra toàn mùi rưọu quốc doanh. Anh ta cài chốt rồi nhảy lên gường choàng tay ôm ngang người Hảo. Cô lùi vào trong khẽ bảo:
- Không được động vào người tôi!

Thạc cất giọng lè nhè:
- Cô đã là vợ tôi, tôi có quyền.

Hảo bịt mũi xua tay:
-Tôi sợ mùi rượu .
Thạc quài tay vặn to ngọn đèn, mặt hằm hằm, khác hẳn thái độ khúm núm mấy hôm trước ở nhà ông Trọng.
- Cởi quần áo ra!

Hảo lắc đầu:
- Anh mà động vào người tôi là tôi cắn lưỡi tự tử.
- Mày đã nằm ngửa ra cho thằng thợ kèn nó chơi... còn ngượng cái nỗi gì?
- Anh im đi!

Thạc nổi khùng chửi:
- Không ngờ nhà tao tốn bao nhiêu tiền lại rước về một con đĩ.

Hảo tái mặt cố nén cho giọng bớt gay gắt:
- Hãy nghe cho rõ đây. Trinh tiết một đời con gái của tôi không phải là dành cho hạng người như anh.
- Cứ thử xem...

Thạc dường như đã tỉnh rượu, vồ lấy Hảo xé rách toạc chiếc áo cánh bằng phin nõn. Anh ta vừa thò tay kéo chun quần thì cô lật sấp người đẩy mạnh ra rồi cắm con dao lá lúa vào yết hầu. Con dao nhỏ sắc được Hảo chuẩn bị từ trước, động tác lại quá nhanh làm Thạc trong lúc đang bị kích động không kịp đề phòng, chỉ đến khi máu từ cổ vợ thấm ướt áo gối trắng tinh thêu đôi chim hoà bình anh cán bộ kỹ thuật mới hô hoán lên. Mọi người hoảng hốt chạy vào thì Hảo đã tắt thở.

Vụ án đêm tân hôn làm nhà bí thư Huyện uỷ mất mặt với thiên hạ. Người ta nghi Đoàn Công Thạc giết vợ nên điện cho công an tỉnh về điều tra. Con dao vấy máu còn đó. Thạc không thể thanh minh khi mà chính anh ta rút dao khỏi cổ vợ, dấu vân tay còn để lại sau khi bộ phận hình sự làm xét nghiệm. Trong khi khai với cảnh sát điều tra, anh cán bộ kỹ thuật cung cấp một chi tiết quan trọng, đó là Hảo đang có mang với một người làng Cùa là Lê Văn Nghiên. Tuy nhiên các bác sỹ pháp y lại có kết luận ngược lại. Hảo vẫn là con gái trinh. Vì thế, họ càng có thêm chứng cứ, bởi ghen tuông Thạc đã giết vợ ngay đêm động phòng.

Vụ án ngày càng phức tạp vì công an không tìm thêm được những chứng cứ ngoại phạm nhằm gỡ tội cho con trai ông bí thư. Hơn nữa, ông Tăng Văn Trọng sau khi biết chắc chức chánh văn phòng đã tuột khỏi tầm tay liền phát đơn đề nghị công an tỉnh làm rõ cái chết oan uổng của con gái. Đoàn Công Thạc bị tạm giam tại trại Kim Chân đến tháng ba vẫn chưa xử được. Lê Văn Nghiên nhớ thương Hảo, người lúc nào cũng như bị ma ám, ăn ngủ thất thường.

Bà Hài khuyên con trai:
- Vợ chồng là cái duyên cái số, trời không cho đành chịu con ạ. Có trách là trách cái ông phó chủ tịch xã Thanh

Bình hám địa vị, danh vọng ép duyên con gái đến nỗi cái Hảo thiệt thân. Tao mong toà án sớm đem cái thằng bất nhân ấy ra bắn trước bàn dân thiên hạ .

Nghiên nhìn mẹ nét mặt rầu rầu :
- Con nghĩ tay Thạc chưa chắc đã giết vợ mà có khi Hảo uất ức quá rồi tự sát.
- Mày chỉ nói càn .-Bà hài trách –Con gái hơ hớ ra như thế thì việc gì nó phải chết .

Nghiên bảo :
- Trước hôm cưới ít lâu con có nhận lá thư . Cô ấy nói, nếu không còn cách nào khác thì ngày cưới cũng là ngày từ giã cõi đời .
- Nó viết thế thật à?
- Con vẫn giữ thư của Hảo đây.

Bà Hài gạt đi :
- Chớ có đưa ra rồi làm ơn nên oán . Bây giờ mẹ mới nhớ ra, ông bí thư Đoàn Công Sự, hồi giữa năm năm nhăm chả làm đội Cải cách bên xã Nhân ái là gì . Chính ông ta đã xúi Hoàng Đình Tằng đuổi nhà mình ra khỏi làng Bòng.

Nghiên lại bảo :
- Thời ấy qua rồi, mẹ không nên cố chấp . Con nghĩ ta cứ gửi bức thư này cho nhà chức trách để họ xem xét , cho dù tay Thạc có tội thật con cũng được thanh thản lương tâm.
- Vậy thì tuỳ con.

Hôm sau Nghiên cuốc bộ năm cây số ra bưu điện gửi bức thư của Hảo. Vừa nhận được, công an tỉnh vội đánh chiếc xe ba bánh về làng Cùa. Bà con đồng Chó Đá không biết chuyện gì xảy ra đã lo cho cho bà Hài . Hai cảnh sát hỏi Nghiên về mối quan hệ giữa anh ta và Hảo trước đây, thời gian nhận bức thư và một vài chi tiết khác. Nghiên kể xong họ ghi chép rồi bắt tay anh ta:
- Cảm ơn anh đã giúp chúng tôi làm sáng tỏ vụ án. Chúng tôi sẽ đề nghị chính quyền biểu dương tinh thần trách nhiệm.

Nghiên lắc đầu:
-Tôi chả cần biểu dương mà chỉ cần các cấp có thẩm quyền xem xét tư cách của ông phó chủ tịch Tăng Văn Trọng. Vì ông ta mà Hảo phải chết oan. Có điều trong hệ thống pháp luật của nhà nước ta, cho đến giờ, hình như chưa có điều khoản nào xử phạt những ông bố ép duyên con gái.

Người công an đứng tuổi đeo quân hàm thượng uý gật đầu:
- Anh nói đúng.

Hảo mất được hơn một năm thì đã xảy ra sự kiện vịnh Bắc Bộ. Khắp vùng Ba Tổng thanh niên nô nức lên đường nhập ngũ . Nghiên cũng viết đơn xin tòng quân. Xã đội trưởng Cung Văn Luỹ xem đơn xong bảo:
- Đối tượng nhập ngũ đợt này phải là đoàn viên. Anh thuộc hộ cá thể lại quá tuổi không đủ tiêu chuẩn.
Đầu năm sáu sáu lại có đợt tuyển thanh niên xung phong Trường Sơn. Nghiên nghĩ, thanh niên xung phong chọn tiêu chuẩn thấp hơn bộ đội chắc họ để mình đi. Ai ngờ Bùi Quốc Tầm lúc ấy là bí thư Đảng uỷ, nhìn thấy lá đơn, gõ gõ cán bút xuống bàn nói:
- Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước ở hậu phương cũng quan trọng không kém gì tiền tuyến. Anh cứ về nhà yên tâm lao động sản xuất, khi nào cần chúng tôi gọi.

Mấy lần bị hạ nhục, Nghiên cảm thấy không còn đủ kiên nhẫn chịu đựng, định viết lên đơn lên huyện tố cáo thói lộng hành và tham ô tài sản hợp tác xã của bọn Bùi Quốc Tầm và Hỗ Chột. Bà Hài khuyên:
-Thân phận mình như con sâu cái kiến, họ có cả một bè, bàn tay không che nổi mặt trời đâu con ạ.
- Nhưng mà họ chèn ép mình quá.
-Thôi được, ngày mai sang mượn bác Doãng cái xe đạp đưa mẹ lên tỉnh, lần này lại phải nhờ bà Ba mới xong.

Cũng như Lê Văn Khải đi đại học Nông lâm, lần này Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái nhìn thấy lá thư tay cùng chữ ký của ông Trần Quảng thì không còn lý do trì hoãn nữa, phải hạ bút phê ngay vào đơn và chuẩn bị hồ sơ cho Lê Văn Nghiên gia nhập thanh niên xung phong.

Chuyến ấy vùng Ba Tổng có hơn bảy chục thanh niên nam nữ vào Trường Sơn, riêng làng Cùa có tám người.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
01-06-2016, 05:56 AM
Chương 14

1. Sau khi tốt nghiệp, Lê Văn Khải được phân công về nông trường Phượng Sơn. Nông trường này ở một nơi heo hút suốt ngày chỉ nghe tiếng chim “ bắt cô trói cột’’. Rừng ở đây thoáng đãng hơn vùng Bắc Thoòng, gió cũng nhiều hơn và đặc biệt có những đồng cỏ rộng, khá bằng phẳng để chăn thả gia súc. Thanh niên nông thôn mới gia nhập đội ngũ công nhân vài năm, nhiều người chưa biết chữ nhưng rất hồn nhiên, yêu đời.

Giám đốc Trần Kim Thang là cán bộ miền Nam tập kết từ năm Năm Tư, xem xong giấy tờ hỏi Lê Văn Khải:
- Cậu học ngành Thú Y à?
- Thưa Giám đốc, trong quyết định có ghi rõ đấy ạ.

Ông Thang húng hắng họ nói giọng Quảng Ngãi vùng Ba Tơ rất nặng:
- Ban giám đốc điều đồng chí về phòng kỹ thuật phụ trách khâu chăn nuôi.
Trần Kim Thang có cả một bộ máy giúp việc đa số là dân xứ Quảng, trình độ học vấn phần lớn mới thoát nạn mù chữ, nghề chuyên môn là nuôi lợn, trồng chè, rất đố kỵ với dân trí thức, nhất là loại tốt nghiệp đại học như Khải. Mai Ngộ, trưởng phòng tổ chức hành chính là một người đàn ông da mặt sát xương, tóc chớm bạc, mắt như mắt mèo hoang, xem hồ sơ của Khải do nhà trường gửi về theo đường bưu điện, thấy có những chỗ không khớp nhau liền gọi anh ta đến hỏi:
- Bố anh mất tháng giêng năm năm nhăm phải không?
- Phải, có chuyện gì thế ạ?
- Ông cụ chết bệnh hay là...?

Đến lúc này thì chẳng cần giấu nữa. Khải thầm nghĩ vậy rồi nhìn thẳng vào cặp mắt soi mói của trưởng phòng Tổ chức bảo:
- Bố tôi bị Đội Cải cách bắn oan.
- Sao không ghi vào lý lịch?
- Uỷ ban xã đề nghị không đưa việc ấy vào hồ sơ.
-Tại sao xã lại làm việc tuỳ tiện như vậy?

Lê Văn Khải bực mình vì cái kiểu vặn vẹo vô lý của tay trưởng phòng liền bảo:
- Ông về địa phương mà hỏi, tôi không biết.

Mai Ngộ về xã Đoàn Kết thật. Sau một tuần, ông ta đã có bộ hồ sơ đầy đủ về anh chàng bác sĩ thú y liền báo cáo với Trần Kim Thang trong buổi giao ban đầu tuần:
- Lý lịch của tay Khải này phức tạp lắm. Anh ta được đi học là do bà mẹ có mối quan hệ vơí ông chủ tịch tỉnh. Tôi đề nghị nông trường không lên bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo mà chỉ để anh ta làm chuyên môn thuần tuý.

Trần Kim Thang gật đầu tán thành:
- Đồng chí Ngộ nói đúng. Đây không chỉ đơn giản là sự sắp xếp cán bộ mà nó còn liên quan đến vấn đề giai cấp. Ta mà chủ quan, hữu khuynh là kẻ thù giai cấp ngóc đầu dậy, nguy hiểm lắm.

Trưởng phòng kỹ thuật Hà Hữu Đư, người Bắc, học trung cấp nông nghiệp, tiếp Lê Văn Khải không được mặn mà lắm. Anh ta liếc mắt đánh giá đối phương rồi chỉ chiếc bàn ọp ẹp để cốc chén ở góc phòng nói:
- Đây là chỗ làm việc của đồng chí, có việc gì khó khăn cứ nói với tôi.

Lê Văn Khải nhìn thấy đám cán bộ đang giả vờ bận bịu với đống giấy tờ nhưng mắt người nào cũng gườm gườm có vẻ như chả ưa gì anh nhân viên mới. Anh ta ngẫm nghĩ: “ Tiếp đón nhau kiểu này khó sống lắm đây”.

Khải về nông trường chưa đầy hai tháng, một buổi chiều có ông khách đến tìm tại khu nhà tập thể. Viên bác sĩ thú y chưa hề biết người này, nhưng ông khách, trạc ba tư ba nhăm, đội mũ phớt, mang kính râm lại nắm khá rõ hoàn cảnh của anh ta. Sau mấy câu mang tính xã giao, người đội mũ phớt bảo:
- Đại uý Lương Quang Tính giới thiệu về anh.
- Vậy ra, đồng chí là...
- Tôi được cấp trên giao nhiệm vụ phụ trách mạng lưới đặc tình vùng này. Từ nay hàng tháng anh phải báo cáo những sự việc xảy ra trong phạm vi nông trường vào ngày hai mươi tám. Địa điểm sẽ quy định sau. Nên nhớ việc này chỉ tôi với anh biết.

Đêm hôm ấy là thứ Bảy, nằm một mình, Lê Văn Khải thầm nghĩ: “Thế là họ vẫn không tha mình”. Còn nhớ, hồi mới học năm thứ Nhất, lúc Khải đang từ nhà ăn về, một người đứng tuổi mặc thường phục bất ngờ vỗ vai hỏi:
- Anh là Lê Văn Khải phải không?
- Tôi đây, nhưng anh là ai?

Người đàn ông chìa ra tấm thẻ rồi nói khẽ:
- Theo tôi !

Ông công an mặc thường phục dẫn Khải ra khỏi trường, đi lòng vòng một lúc thì đến bờ sông máng. Trong lòng Khải rất hoang mang, thậm chí còn sợ bị thủ tiêu. Hút gần hết điếu thuốc người công an mới vào vấn đề:
- Chúng tôi bên An Ninh muốn mời anh cộng tác.

Khải thở phào nhưng giọng vẫn còn căng thẳng:
- Tôi thì giúp được các đồng chí việc gì ?
- Có đấy.

Người cán bộ An Ninh nhìn chàng sinh viên Nông nghiệp, cái nhìn mang hàm ý răn đe:
- Trường Đại Học là nơi tập hợp nhiều trí thức có thành phần xuất thân thiếu cơ bản. Một số không ít còn là cán bộ lưu dung, tức là những viên chức cũ trong bộ máy cai trị của thực dân Pháp và tay sai để lại. Phần lớn các đối tượng này đều ngấm ngầm chống lại đường lối sáng suốt của Đảng, phá hoại công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Anh là người được ngành An ninh tin tưởng chọn làm nhân viên đặc tình, hàng tháng phải có trách nhiệm báo cáo những việc xảy ra trong trường từ ông hiệu trưởng đến các anh nuôi, chị nuôi dưới nhà bếp.
- Có nghĩa tôi phải làm công việc do thám họ ?
- Đại loại như thế nhưng cần tuyệt đối bí mật. Người ngoài không ai được biết.

Lê Văn Khải đã hiểu người ta muốn gì ở mình nhưng anh ta vẫn thả lời thăm dò:
- Nếu tôi từ chối thì sao ?

Ông Công an ném mẩu thuốc xuống máng nước cất giọng nặng trịch:
- Tôi nghĩ anh sẽ không từ chối, vì với một sinh viên có lý lịch phức tạp như anh sẽ buộc phải nghỉ học bất cứ lúc nào nếu bên An ninh thấy cần thiết.

Khải gật đầu một cách miễn cưỡng:
- Tôi hiểu...

Từ đấy anh ta bắt buộc phải làm cái việc mà mình không muốn, nghĩa là bí mật theo dõi hành vi của người khác viết thành báo cáo gửi công an dưới mật danh H3. Một lần trong trường xảy ra vụ ngộ độc thức ăn, hơn tám chục sinh viên phải vào bệnh viện. Lê Văn Khải nghe ngóng tình hình, thu thập thông tin rồi viết : “Người ta nghi ngờ ông Trần Đình Quỳ, nhân viên phòng hành chính quản trị có mâu thuẫn với ông Phạm Tất, quản lý nhà ăn sinh viên, nên đã bỏ thuốc độc vào thùng nước uống. Trưa ngày... tháng ... năm... Cũng xin lưu ý, ông Quỳ trước đây có đi lính Bảo an, thành phần gia đình hồi Cải cách là phú nông, bố làm chánh hội....’’. Ông quỳ bị tạm giam để lấy lời khai. Sau đó người ta tìm ra nguyên nhân ngộ độc là do nhà bếp mua phải thứ cá mè ươn, để tám tiếng đồng hồ mới đem nấu, cũng may không có trường hợp nào tử vong. Lần khác, một vị lãnh đạo cao cấp đến nói chuyện ở hội trường lớn. Ông ta đang thao thao bất tuyệt về tính ưu việt của hợp tác xã nông nghiệp và phong trào thi đua “ mỗi người làm việc bằng hai ’’ thì bên dưới chuyền tay nhau băng giấy pơ luya viết mấy câu lục bát :

"Bốn người làm việc bằng hai
Ăn thì bằng tám, nói dai bằng mười"

Mấy ông cán bộ tổ chức vội chia nhau đi thu gom. Hoá ra ngăn bàn nào cũng có. Tất cả đều cùng một kích thước, chữ đánh máy, có cả dấu, rất dễ đọc. Xác định đây là thứ truyền đơn nói xấu chế độ, chống phá chủ trương chính sách của Đảng, công an tiến hành điều tra trên quy mô lớn. Họ bắt một số đối tượng nghi ngờ, kiểm tra toàn bộ máy chữ nhưng không tìm ra được thủ phạm. Riêng thầy Nguyễn Thúc Cơ, tốt nghiệp kỹ sư Canh nông tại Pháp, hiện đang giảng dạy bộ môn chọn giống, thường hay chèn những câu châm biếm của mình vào bài giảng phê phán một số quan điểm giáo điều duy ý chí, làm thiệt hại nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp, là đối tượng nghi can số một, thì lại không bị thẩm tra. Thế là Lê Văn Nghiên làm một bản báo cáo chi tiết gửi ông cán bộ An ninh. Ba hôm sau thầy Nguyễn Thúc Cơ bị bắt. Từ đó nhà khoa học này không bao giờ trở lại trường đại học Nông lâm nữa.

Cầm được tấm bằng tốt nghiệp trong tay, Lê Văn Khải những tưởng mình thoát khỏi trò chơi nguy hiểm, ai ngờ chợ chưa họp kẻ cắp đã đến. Thật là khốn nạn.

Hồi ấy nông trường Phượng Sơn được Bộ giao kế hoạch chăn nuôi cừu Mông Cổ. Thời gian đầu loại gia súc ngoại nhập này phát triển tương đối tốt, số lượng lên đến bảy ngàn con, nhưng hai năm sau, tự nhiên chúng mắc phải chứng bệnh kỳ lạ chết hàng loạt. Trần Kim Thang sợ đàn cừu bị xoá sổ, mất chức giám đốc phải đánh xe lên Hà Nội trình báo. Người phụ trách chăn nuôi của bộ Nông trường bảo:
- ở chỗ anh có một Bác sỹ Thú y cơ mà ?

Trần Kim thang gật đầu chẳng cần suy nghĩ:
- Có đấy, nhưng anh ta cứ đòi mổ thịt hết con này đến con khác để nghiên cứu trong khi ngày nào cũng có vài con chết. Cái mà chúng tôi cần là Bộ cấp ngay cho loại thuốc đặc trị nhằm duy trì số lượng chứ không phải kinh phí để tay bác sĩ non choẹt ấy thường xuyên mổ cừu lấy thịt tươi đánh chén.

Ông Thứ trưởng phụ trách chăn nuôi tuy chẳng có chút chuyên môn nào về cừu Mông Cổ thấy thái độ của giám đốc nông trường Phượng Sơn cũng phải bất bình:
- Muốn cứu đàn cừu khỏi chết hàng loạt thì trước hết phải biết chúng mắc bệnh gì đã, mà tìm bệnh ở gia súc không có cách nào hơn là phải mổ ra xem lục phủ ngũ tạng nó ra sao sau đó mới lên phác đồ điều trị. Anh nghĩ thế là sai rồi.
- Chúng tôi đề nghị Bộ cử chuyên gia về nghiên cứu.

Vị Thứ trưởng chăn nuôi gật đầu:
- Được, nhưng tôi lưu ý, Lê Văn Khải vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong đề tài khoa học này. Kinh phí nghiên cứu sẽ do Bộ cấp.

Chuyên gia được cử về nông trường là Nguyễn Cẩm Tú, học trước Lê Văn Khải một khoá. Hai người mổ đến con cừu thứ tư thì phát hiện ra, trong dạ dày của nó có loại giun xoăn là tác nhân gây ra cái chết hàng loạt. Giai đoạn tiếp là phải tiêm một số kháng sinh rồi tiến hành xét nghiệm gan, dạ dày và một số bộ phận nội tạng xem phản ứng với thuốc ra sao. Lại hàng chục chú cừu bị hạ sát. Trần Kim Thang tiếc đứt ruột.

Một hôm ông ta gặp Khải gợi ý:
- Tớ bị yếu gan, nghe nói loại bệnh này ăn gan cừu có thể khỏi, muốn xin các cậu mỗi ngày một bộ.

Lê Văn Khải bảo:
- Bác thông cảm lấy thịt vậy, gan là bộ phận quan trọng nhất của thí nghiệm. Nó được cắt vụn ra, rửa qua dung dịch rồi đưa vào kính hiển vi soi để tìm trứng hoặc ấu trùng giun.

Trần Kim Thang nghe chưa hết câu đã cau mặt:
- Nghiên với chả cứu. Các cậu định chờ đến lúc đàn cừu vào nồi hết mới công bố kết quả thí nghiệm phải không ?

Hôm sau Giám đốc cho các nhân viên bảo vệ canh trại cừu từ sáng sớm. Lê Văn Khải và Nguyễn Cẩm Tú đến bắt cừu như mọi ngày thì liền bị ngăn lại:
- Nông trường quy định, từ nay bất cứ ai muốn bắt cừu phải có lệnh của giám đốc.

Lê Văn Khải bảo:
- Chúng tôi đang làm thí nghiệm khoa học chữa bệnh cho cừu. Những con bị mổ đã có kinh phí nghiên cứu do Bộ cấp cơ mà.
Tay bảo vệ rậm râu sâu mắt cũng là dân xứ Quảng, giọng trọ trẹ:
- Đây không biết, các người cứ về nông trường mà hỏi.

Hai người đạp xe về cơ quan thì thấy cửa phòng giám đốc khoá, chẳng biết đi đâu. Cẩm Tú bảo:
-Thế này là họ cố tình phá chúng ta rồi.

Khải cười nhạt:
- Chị nói đúng. Có lẽ ta lên dừng công trình này lại nếu không, họ còn tiếp tục gây khó khăn.

Cẩm Tú về Hà Nội được một tuần thì Trần Kim Thang họp ban giám đốc ra nghị quyết thanh lý đàn cừu với lý do không hợp thuỷ thổ, chết hàng loạt, gây thiệt hại cho nhà nước. Khách hàng phần lớn là các công ty thực phẩm và cửa hàng ăn uống, số còn lại phân phối cho anh chị em công nhân theo giá nội bộ.

Cuối năm ấy, nông trường Phượng Sơn lập kế hoạch chăn nuôi lợn. Một quan chức có trách nhiệm của Bộ tỏ ra dè dặt sau vụ Trần Kim Thang thanh lý cừu, đưa ra ý kiến:
-Tay này trình độ lớp ba, chẳng có chút kiến thức nào về quản lý kinh tế, liệu ông ta có quản nổi đàn lợn hay lại giống như hồi nuôi cừu.

Ông Vụ trưởng Tổ chức nhận xét:
- Hồi còn ở nhà, Trần Kim Thang là tá điền chuyên nuôi lợn cho hội đồng Quýnh. Tôi nghĩ ông ta sẽ làm được vì nuôi lợn dễ hơn nuôi cừu, hơn nữa lợn vốn là giống bản địa thích hợp với thổ ngơi.

Vậy là chỉ trong vòng hai năm, đàn lợn lên đến ba ngàn bảy trăm con. Đây là cơ sở chăn nuôi tập thể lớn nhất miền Bắc. Phượng Sơn trở thành lá cờ đầu, là điển hình tiên tiến của ngành nông trường. Khách từ mọi nơi kéo đến tham quan học tập. Trần Kim Thang bỗng nhiên trở thành người hùng.

Nông trường chỉ có một mình Lê Văn Khải là Bác sĩ Thú y nên anh ta khá mất thời gian với đàn lợn. Nhưng chị em chăn nuôi còn vất vả hơn nhiều. Hàng ngày họ phải thái hàng trăm cây chuối, băm một khối lượng bèo bằng đống rạ, nấu hơn hai chục chảo cám mới đủ cung cấp cho mấy nghìn chú Trư Bát Giới lúc nào cũng thi nhau gào thét vì đói. Đề tài “Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” bất chợt nảy sinh khi khải nhìn thấy mấy chú lợn choai đang tranh nhau mớ rau muống. Đây là một dự án khoa học táo bạo, thậm chí mạo hiểm, vì đến lúc ấy các cơ sở chăn nuôi từ quy mô gia đình đến tập thể, đều cho lợn ăn chín theo phương thức truyền thống. Phát hiện của Lê Văn Khải mang tính đột phá làm giảm nhẹ sức lao động của chị em, hạ giá thành sản phẩm, gây chấn động toàn ngành chăn nuôi, đưa nông trường Phượng Sơn lên đỉnh cao vinh quang. Bộ yêu cầu nông trường viết đề tài khoa học. Khải phải mất nửa tháng mới hoàn thành công trình. Anh ta chắc mẩm, từ nay mình sẽ được sống dễ thở hơn, nhưng không ngờ Trần Kim Thang chơi tiếp vố thứ hai. Đó là cuộc hội thảo khoa học ở nông trường Cao Thắng. Bộ đã ra chỉ thị, ai là chủ đề tài sẽ đọc báo cáo nhưng Trần Kim Thang rỉ tai ông thứ trưởng:
- Báo cáo anh, tay Khải không phải đảng viên mà tính kiêu ngạo không coi ai ra gì. Đề tài này của tập thể đảng uỷ và ban giám đốc. Anh ta chỉ là người thừa hành.

Ông Thứ trưởng người Quảng Nam, trước đây cũng là một đại đội Địa phương Quân với Giám đốc nông trường Phượng Sơn, gật đầu:
-Thế thì cậu thay mặt ban giám đốc lên đọc đi, đọc cho rõ ràng khúc chiết vào, vì đây là đề tài cấp bộ sẽ được nhân rộng ra toàn ngành.

Phải nói Trần Kim Thang có chất giọng tốt, đọc khá diễn cảm nên nhanh chóng thu hút được sự chú ý của các cử toạ. Bản báo cáo vừa dứt, tiếng vỗ tay rào rào, ai cũng phải thừa nhận, đó là một phát kiến vĩ đại mặc dù nó vô cùng đơn giản.

Vào phút cuối cùng khi được ban tổ chức thông báo thay đổi người trình bày đề tài khoa học, Lê Văn Khải sững người. Anh ta nghiến chặt hai hàm răng, bàn tay tự nhiên co lại thành nắm đấm, định tống vào cái mặt thiết bì của lão Giám đốc một quả cho bõ tức nhưng rồi lại buông thõng xuống, bỏ hội trường ra ngoài trước con mắt ngạc nhiên của hàng trăm quan khách. Anh ta nhảy qua một mương dẫn nước leo lên đồi. Những vành nón trắng nhấp nhô của những cô gái trẻ giữa một vùng mênh mông, trên là bầu trời màu lam nhạt, dưới là ngút ngát nương chè làm tâm hồn chàng bác sĩ thú y trở lại thư thái. Thiên nhiên hào phóng đầy mây ngàn và gió núi xua đi phần nào nỗi uất ức trong lòng, bất giác Khải buột miệng:
- Mặc xác các người với những báo cáo khoa học nhảm nhí ấy, ta lên trời đây.

Thảo nguyên mênh mông xa típ tắp vẫn là cỏ xanh. Phía sau những đồi chè là dòng suối ngoằn nghoèo uốn khúc, nhìn từ trên cao chẳng khác gì con rồng xanh với rất nhiều chân choãi ra. Cách bờ suối không xa, nơi có những đám mây bạc sà xuống tận sườn núi là một đàn bò đang thong dong gặm cỏ. Nhìn bộ dạng vô tư, thanh thản của chúng Khải bỗng ao ước : “ Gía mà mình được làm kiếp bò, ngày nào cũng được gặm cỏ, uống nước mát, mặc kệ sự đời, chẳng phải nghĩ ngợi gì”.

Về đến nông trường Phượng Sơn, trong cuộc họp giao ban, Trần Kim Thang mặt lạnh như tiền tuyên bố:
-Đồng chí Lê Văn Khải có hành vi vô kỷ luật, bỏ hội thảo đi chơi không báo cáo. Tôi yêu cầu phải làm kiểm điểm.

Khải không nói gì chỉ cười gằn. Nửa tháng sau, một hôm tình cờ ghé vào phòng Giám đốc, Khải thấy tờ chuyên san khoa học kỹ thuật của ngành kẹp dưới mấy cuốn tạp chí “Học tập” liền rút ra xem. Đó là số chuyên san mới nhất có in đề tài “ Thức ăn sống trong chăn nuôi lợn đại trà” của mình nhưng tên tác giả lại là Trần Kim Thang. Hoá ra lão ém đi là vì chuyện này. Anh ta nghĩ một lúc rồi quyết định cầm tờ chuyên san sang phòng họp đặt trước mặt ông Giám đốc:
-Thế này là thế nào ?

Trần Kim Thang giả bộ không biết gì, hỏi lửng lơ:
- Chuyện gì thế đồng chí Khải ?
- Ông đừng đóng kịch nữa.
- Tôi cấm anh không được xúc phạm…
- Vậy tôi hỏi, tội chiếm đoạt công trình khoa học của người khác thì pháp luật xử lý như thế nào ?

Phòng họp có toàn thể các thành viên ban chấp hành đảng uỷ, Trần Kim Thang rất sợ mất mặt . Đang bối rối ông ta chợt nảy ra một diệu kế liền nghiêm giọng bảo:
- Đề nghị đồng chí nói năng cẩn thẩn. Tôi hỏi đồng chí ai lãnh đạo nông trường?
- Ông làm tôi như là trẻ con ấy .
- Tôi hỏi nghiêm túc đấy.
- Tất nhiên là ban giám đốc.
- Đồng chí mới chỉ nói đúng một nửa. - Trần Kim Thang lúc này đã lấy lại được bình tĩnh thong thả phân tích theo phương pháp tam đoạn luận - Đảng uỷ nông trưòng lãnh đạo toàn diện. Ban giám đốc chỉ là những người thừa hành. Mà Đảng lãnh đạo toàn diện thì mọi thành tích đều thuộc về Đảng. Công trình khoa học đồng chí viết là do Đảng chỉ đạo, gợi ý và phân công. Tôi trên cương vị bí thư và giám đốc doanh nghiệp ghi tên vào công trình khoa học càng làm vinh dự cho tập thể chúng ta, trong đó có đồng chí và tập thể anh chị em công nhân. Đồng chí thắc mắc chuyện này là chưa dứt được cái đuôi tiểu tư sản vốn là căn bệnh làm con người chỉ thấy cá nhân mà không thấy sự nghiệp lớn của tập thể.

Trước những lời lẽ hết sức “thuyết phục” của Trần Kim Thang, Lê Văn Khải không thể bắt bẻ được nữa. Anh ta đưa mắt nhìn hết lượt các vị lãnh đạo rồi bất ngờ tuyên bố:
-Phải bây giờ tôi mới hiểu được chân lý Đảng lãnh đạo toàn diện.

2. Người yêu của Lê Văn Khải là Mai Thị Xuân. Cô ta mới lên nông trường hơn một năm, người dong dỏng, dáng xinh xẻo thích ăn diện. Xuân là người chủ động tấn công anh bác sĩ thú y trước. Lúc đầu Khải có phần lạnh nhạt nhưng về sau thấy cô gái chăn nuôi thể hiện tình cảm rất nồng nàn nên cũng xiêu lòng, chỉ có điều trình độ học vấn thấp, hình như mới học hết lớp bốn. Nghĩ đi nghĩ lại Khải tự bảo: “ Đời mình rồi sẽ gắn bó mãi với đàn lợn ở vùng xanh núi đỏ này thôi, vậy thì hãy nghĩ đến một gia đình, vì tuổi cũng không còn ít nữa.”

Mai Thị Xuân tuy là cô gái nông thôn nhưng tỏ ra là có kinh nghiệm trong trường tình. Để chài bằng được anh bác sỹ thú y đẹp trai, cô ta không từ bất cứ thủ đoạn nào. Khải được bố trí ở gian ngoài cùng của dãy nhà tập thể đội chăn nuôi. Tối nào các cô cũng đến chơi và cô nào cũng hi vọng vào một điều gì đó rất mơ hồ.

Hôm ấy trời rét mà đêm đã khuya, Mai thị Xuân về phòng chừng nửa tiếng lại sang. Cô ta nấn ná một lúc rồi khẽ nói:
- Hôm nay em ở đây với anh...

Mặt Khải biến sắc. Anh ta lắc đầu bảo :
- Em về đi. Bọn bảo vệ được lệnh của ông Thang và ông Ngộ luôn để mắt đến chúng ta đấy, chỉ cần tắt đèn là họ ập vào lập biên bản ngay.

Xuân làm mặt giận :
- Anh không yêu em ?

Khải rối rít xua tay:
- Khổ quá. Anh giữ là giữ cho hạnh phúc của chúng mình. Em làm thế này bạn bè nó coi ra gì.

Cô gái chăn nuôi nũng nịu:
- Nhưng em không muốn mất anh. Lúc tối, thấy cái Lý nó nhìn anh như muốn ăn sống nuốt tươi mà em gai hết cả người.

- Thôi nào - Khải nhẹ nhàng bảo - Người ta có mắt người ta nhìn, cấm sao được.
- Nhưng em cấm anh.
- Được rồi anh xin nghe.

Tình yêu của hai người đang độ chín. Khải sắp đưa Xuân về làng Cùa giới thiệu với bà Hài thì cô ta tạm thời được điều về phòng hành chính nông trường . Là đơn vị có phong trào chăn nuôi điển hình, nông trường Phượng Sơn thường xuyên có khách. Khách huyện, khách tỉnh, khách trung ương đủ loại. Có đoàn về tham quan học hỏi kinh nghiệm thực sự, có đoàn ghé qua chỉ để kiếm tạ gạo nếp hoặc vài con lợn giống, chục ký chè, lại có vị chức sắc đầu tỉnh đã chán mứ các món cao lương mỹ vị, bảo lái xe đưa về Phượng Sơn thưởng thức chim quay và ngắm cảnh núi rừng để thư giãn sau những ngày đấu đá căng thẳng.

Lần ấy, nông trường phải đón đoàn cán bộ của uỷ ban kế hoạch. Chủ nhiệm Vũ Kiểm là nhân vật đầy quyền lực, thường xuyên thay mặt uỷ ban hành chính tỉnh duyệt kế hoạch sản xuất hàng năm của các doanh nghiệp. Anh nào muốn nhanh chóng được phân bổ chỉ tiêu kinh phí thì phải tìm cách yết kiến ông ta. Vũ Kiểm có tật ưa của nếp và thích hát chèo. Gái nông trường phần đông nhan sắc giống như Thị Nở, học hành lôm nhôm, những cô mỏng mày hay hạt lại biết tí chút văn nghệ chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay.

Đinh Công Ngoã, Trưởng phòng Hành chính đồng thời là tay chân thân tín của giám đốc xuống các đội chọn mãi mới được vài cô sạch nước cản. Hắn kéo tuốt cả về nông trường làm một cuộc sát hạch cả thanh lẫn sắc. Cuộc kiểm tra khá nghiêm túc do đích thân Trần Kim Thang làm chánh chủ khảo. Các thí sinh lọt vào vòng chung kết phải cởi bỏ quần áo ngoài chỉ mặc đồ lót để xem có bệnh ngoài da không vì rất nhiều cô trông mặt thì bóng bẩy nhưng toàn thân lại mắc chứng ghẻ ruồi hoặc bị phá nước, ngồi đâu cũng gãi xoành xoạch, rất mất lịch sự.

Chủ nhiệm Vũ Kiểm dẫn đoàn tuỳ tùng gồm sáu cán bộ kế hoạch về nông trường Phượng Sơn được đón tiếp như thượng khách. Buổi tối, trước khi bảo Mai Thị Xuân vào phòng riêng hát làn điệu chèo “ Quân tử vu dịch”và “ Đường trường phải chiều” cho ông chủ nhiệm nghe, Đinh Công Ngoã ghé tai thì thầm:
- Giám đốc dặn, hát xong, chủ nhiệm bảo làm gì em cũng phải chiều ông ấy, sau sẽ có thưởng.

Xuân đánh mắt liếc Ngoã nguýt dài :
- Em ngượng lắm.

Ngoã cười toe toét trấn an cô nhân viên mới:
- Này, xem ra ông ấy thích em lắm đấy.

Vũ Kiểm mới trạc tứ tuần, thân hình ngũ đoản, khoẻ như vâm. Sau khi nghe vài bài, ông ta cài chốt cửa, tắt đèn rồi bế Mai Thị Xuân lên giường vần cô ta suốt đêm, đến gần sáng thì mệt phờ, ngủ thiếp đi. Mai thị Xuân lách ra khỏi chăn, mặc quần áo, he hé cửa nhìn trời vẫn còn tối, liền lẳng lặng về phòng mình ở dãy nhà phía sau.

Chuyến ấy, nông trường Phượng Sơn được duyệt kế hoạch bổ sung sớm nhất so với các đơn vị khác trong tỉnh. Trần Kim Thang phấn khởi lắm, xếp lương cho Mai Thị Xuân vào nghạch cán sự hai, năm mươi sáu đồng và cho đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ văn thư ngắn hạn. Hai tháng sau, Xuân về nông trường, mặt mày ủ dột làm Đinh Công Ngoã sinh nghi hỏi:
-Sao em buồn thế ?

Mai Thị Xuân trả lời nhát ngừng :
-Hình như em có chửa rồi . . .

Ngoã giật mình :
-Chết cha ! Có.....với đứa nào ?

Xuân giẩu mỏ rất đanh đá :
-Lại còn phải hỏi, lão Vũ Kiểm chứ còn ai nữa.

Trưởng phòng Hành chính ngập ngừng :
-Anh cứ tưởng . . .

Cô nhân viên khẽ gắt :
-Tưởng cái gì ? Lão ấy làm hùng hục như trâu húc bờ ấy, ai mà chịu được .

Ngoã cắn môi ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi :
-Quan hệ của em với tay Khải bây giờ thế nào ?

Xuân lắc đầu :
-Hết rồi.
-Được để tôi trao đổi với ông Thang, nhưng việc này em phải giữ kín .
-Anh không phải dặn .

Buổi chiều Giám đốc nông trường đánh com măng ca đít vuông xuống đội chăn nuôi, vào gian nhà Lê Văn Khải bắt tay anh ta :
-Vẫn khoẻ chứ đồng chí Khải ?
-Cám ơn bác, tôi khoẻ.

-Này tớ hỏi thật. - Trần Kim Thang bỗng nhiên tỏ ra thân mật rất đáng ngờ - Quan hệ của cậu với cô Xuân đến đâu rồi ?

Lê Văn Khải chưa hiểu mục đích của cuộc viếng thăm bất chợt này nên trả lời lấp lửng :
-Người ta cứ đồn thế chứ thực ra không có gì.
-Chuyện này là chuyện vui đừng dấu Ban giám đốc.- Trần Kim Thang cười rất tươi nói bằng giọng cha chú -Nếu các cháu đồng ý ta sẽ đứng ra làm ông mối rồi tổ chức một đám cưới đời sống mới thật rôm rả ở cơ quan nông trường.

Anh Bác sỹ Thú y không biết được âm mưu của Trần Kim Thang, nhưng qua thái độ quá lộ liễu của ông ta tự nhiên cảm thấy sự vun vén hạnh phúc này có cái gì đó không bình thường bèn lựa lời từ chối :
-Cảm ơn giám đốc nhưng cũng xin nói thực, tôi và cô Xuân trước đây có tìm hiểu nhau , tuy nhiên qua một thời gian thấy tính tình không hợp nên đã chấm dứt mối quan hệ.

Giám đốc thấy kịch bản có nguy cơ đổ bể, ông ta quyết định chơi bài ngửa :
- Nếu Ban Giám đốc đề nghị đồng chí cưới cô Xuân rồi sẽ bổ nhiệm làm phó phòng kỹ thuật đồng chí có chấp hành không ?
Khải thấy cái đuôi chuột đã lòi ra liền cười nhạt :
- Bây giờ Đảng uỷ lại có nghị quyết về hôn nhân và gia đình của công nhân viên chức nông trường nữa cơ đấy .

Trần Kim Thang cười gằn :
- Chúng tôi quan tâm đến anh mới gợi ý như vậy, không đồng ý thì thôi nhưng cấm có thái độ châm chọc.

Nói rồi ông giám đốc hằm hằm bước ra xe, về đến nông trường lập tức gọi Đinh Công Ngoã lên phòng, đóng cửa lại bảo :
- Việc không xong rồi. Ngày mai tôi cấp giấy, cậu đưa cô Xuân sang bệnh viện tỉnh giải quyết cái thai. Tuần sau tôi sẽ làm quyết định điều thằng Khải xuống đội 6 chăn bò.

Lê Văn Khải không ngờ Trần Kim Thang lại dồn mình đến đường cùng nhưng anh ta vẫn phải chấp hành. Trong quyết định ghi : “Tăng cường cán bộ kỹ thuật cho cơ sở sản xuất” nhưng thực chất là đi đày đến một nơi khỉ ho cò gáy cách cơ quan nông trường hai chục cây số có tên là Trại Bông. Chăm sóc đàn bò cày hai mươi tám con là một tổ ba người. Chị Thìn ba bảy tuổi, người đẫy đà, mông to, ngực nở thuộc loại quá lứa nhỡ thì làm tổ trưởng, Lê Văn Khải bác sĩ thú y mới được bổ nhiệm chức tổ phó, ngoài ra còn có cô Sánh người được một mẩu lại thọt chân làm tổ viên. Hàng ngày, chị Thìn và cô Sánh cắt cỏ, Khải lùa bò đi chăn, đội sản xuất nào cần cày thì đếm đầu con giao cho họ, xong vụ, lại nhận về nhốt vào chuồng.

Gần Trại Bông có hồ Thanh Thuỷ rộng hơn trăm mẫu. Chiều chiều sau khi thả bò, Lê Văn Khải lại ra ngồi dưới gốc bạch đàn ngắm mặt nước sóng sánh. Có những hôm đàn bò về chuồng đã lâu, trời nhập nhoạng anh ta anh ta vẫn còn lững thững trong rừng dẻ, chị Thìn phải lên gọi mới về ăn cơm. Chị Thìn đối xử với Khải như em trai làm anh bác sĩ thú y cảm động lắm.

Thấm thoắt, Lê Văn Khải đã ở Trại Bông một năm ba tháng. Dịp ấy cuối tháng chạp, sắp đến Tết Nguyên Đán. Lúc này việc cày bừa đã xong, đàn bò được thả rông, cô Sánh xin nghỉ phép về ăn Tết. Trại bò chỉ còn lại chị Thìn và Lê Văn Khải. Giữa tiết tiểu hàn, trời lạnh lắm. Lũ bò bị nhốt trong chuồng nhai cỏ khô. Dãy nhà tập thể trống tuềnh toàng, gió lùa rét như cắt da. Tối nào hai chị em cũng đốt lửa sưởi đến quá nửa đêm mới ngủ. Một hôm chị Thìn ốm, Khải nấu cháo đậu xanh mang sang đặt trên chiếc bàn nhỏ đầu giường bảo:
- Chị ăn cháo cho nóng.

Chị Thìn ngồi dậy lắc đầu :
- Tôi có ốm đâu mà nấu cháo.

Khải cầm tay chị Thìn bắt mạch, bàn tay người phụ nữ nóng hầm hập, run bắn liền kêu lên:
- Chị không ốm sao tay nóng thế? Để tôi tìm xem còn viên thuốc nào không.

Chị Thìn tóc tai bơ phờ nhìn Khải ngập ngừng:
-Tối mò thế này biết thuốc ở đâu mà tìm, thôi ngồi xuống đây tôi bảo.

Thấy thái độ chị Thìn có cái gì đó khác thường, anh ta định mở cửa bước ra, nhưng nghe giọng thảng thốt của người đàn bà, liền ngồi xuống bên cạnh. Toàn thân Khải lúc này tự nhiên nóng ran. Chị Thìn lại thì thầm :
- Tôi lạnh lắm Khải ngồi vào đây ...

Bàn tay anh Bác sỹ Thú y run run đặt lên đùi chị Thìn. Một cái đùi to đùng chắc nịch và ấm áp hơn bất cứ thứ chăn đệm nào làm anh ta vừa thích vừa sợ . Chị Thìn cầm tay Khải áp lên bộ ngực nóng hổi đã được tháo bỏ hết cái thứ dây rợ. Khải nhắm mắt gục đầu vào tóc chị Thìn, tay mân mê cặp vú, lắng nghe nhịp đập gấp gáp của con tim người đàn bà luống tuổi. Đôi vú thật là mẩy và đàn hồi hơn cả các loại bóng cao su. Nó vừa nóng ấm vừa mát lạnh. Nó có sức mạnh tự thân điều hoà trạng thái tâm lý. Nó gợi lên tứ thơ bất chợt hoặc phác thảo một khuôn hình lập thể đầy chất cổ điển, khác hẳn vú bò, vú lợn, thậm chí cả cặp vú giang hồ của Mai thị Xuân mà không chỉ một lần cô ta đã cầm tay Khải đặt vào.

Chị Thìn thở hổn hển nhưng không phải vì sốt cao. Chị nằm ngửa ra tuột quần xuống chân đỡ Lê văn Khải nằm lên bụng rồi thì thầm:
- Cậu đã biết mùi đàn bà chưa?

Khải gật đầu:
- Biết...

Chị Thìn lại hỏi:
- Ngủ với bao nhiêu cô rồi?

Khải hôn lên má chị, thật thà bảo:
- Ngủ thì chưa.

Chị Thìn vòng tay ôm ngang lưng chàng Bác sĩ Thú y, giọng khiêu khích:
- Đàn ông đã hơn ba chục tuổi mà kém thế.

- Tại tôi không thích thế thôi.

- Thế tôi cậu có thích không?

- Thích.- Lê văn Khải ghì chặt người đàn bà đến mức chị ta phải rên khe khẽ.
- Tôi già rồi, cậu thích chẳng qua là ở xứ khỉ ho cò gáy này chẳng có đứa con gái nào ra hồn.

Khải dụi mớ tóc bù xù vào ngực chị Thìn:
-Tôi thích chị thật mà...

Sáng ra, hai người dậy muộn. Khải ra suối xách nước người vẫn còn lâng lâng. Chị Thìn tươi tỉnh khác hẳn bộ mặt ủ rũ chiều hôm trước. Chị ta hỏi:
- Cậu có ân hận vì chuyện hôm qua không?

Khải thản nhiên bảo:
- Có gì mà phải ân hận, đã bảo tôi thích chị kia mà.
- Liệu thích được mấy hôm ,hay lai cả thèm chóng chán ?
- Chị đừng nghĩ thế.

Chị Thìn sụt sịt khóc :
- Chị thuộc loại xấu gái , quá lứa nhỡ thì, chỉ cầu xin cậu một đứa con, sau này có chỗ dựa chứ không có ý rằng buộc trách nhiệm.

Khải nhìn vẻ mặt đau khổ của người đàn bà, giọng nhoè đi:
- Không tôi yêu chị thật lòng.

- Đừng nói dại - Chị Thìn bỗng oà khóc, người rung lên trong tiếng nấc - Tôi không hứa hẹn gì với cậu, nhưng lúcnào muốn ngủ với tôi thì cứ sang, cửa phòng không cài chốt đâu.

Cuối tháng hai, chị Thìn thèm của chua, biết là có chuyện liền xin nghỉ phép. Lê Văn Khải mượn được chiếc xe đạp đèo chị về nông trường bộ. Lúc sắp đi , hai người ra rừng dẻ trên bờ hồ Thanh thuỷ tìm dâu da đất. Thấy chị Thìn ăn thứ quả dại này một cách ngon lành, Khải sinh nghi bảo
- Chị làm sao thế? Ăn nhiều dâu ra đất không tốt đâu.

Chị Thìn cười ( Khi cười trông chị đẹp hẳn lên ):
- Tôi có mang rồi, cảm ơn cậu.
- Thế thì khoan hãy đi phép, ta bàn việc tổ chức đã.

Chị Thìn rút trong túi ra mấy tờ giấy đưa cho Khải:
- Đây là đơn xin ra Đảng và đơn xin thôi việc. Sau khi tôi về quê hai tháng, nếu không thấy lên thì cậu mang ra nông trường nộp cho ông Trần Kim Thang hoặc ông Mai ngộ.

Khải sững sờ trước quyết định của người tổ trưởng chăn bò. Anh ta cầm tay chị khẽ bảo:
- Chị không nên nghĩ quẩn. Tôi hứa danh dự là sẽ cưới chị đoàng hoàng .

Chị Thìn ghì đầu Khải vào ngực giọng ngậm ngùi :
- Chị biết tấm lòng của cậu nhưng chúng ta không có duyên phận. Cậu đã cho chị đứa con, thế là quý lắm . Chị không muốn làm hỏng sự nghiệp của một trí thức tài hoa.

Khải ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo :
- Vậy để tôi đưa chị về quê.

Người đàn bà lại lắc đầu :
- Còn đàn bò ai trông? Cậu mà cứ gây căng thẳng với bọn Trần KimThang là bọn chúng đuổi việc đấy. Chị khuyên nên nín nhịn một thời gian. Người tốt như cậu sau này tất sẽ được đền bù. Còn điều này phải nhớ, hãy quên chị đi , không những bây giờ mà cả sau này nữa.

Hai người nấn ná ở lại trong rừng đến nửa buổi mới ra đường. Trời vẫn còn rét đậm. Khải gò lưng đạp xe lên sườn dốc . Chị Thìn ngồi sau ôm chặt lấy eo chàng Bác sỹ Thú y. Suốt chặng đường hai người chẳng nói với nhau câu nào. Chị trùm khăn len kín mặt, thỉnh thoảng bật lên tiếng nấc. Thì ra chị vẫn khóc.

Lấy giấy phép xong Khải lại đèo chị Thìn ra bến ô tô thị trấn . Quê chị mãi tận Thanh Hoá. Từ đây về đấy hơn ba trăm cây số. Khải chen vào mua vé. Thật may hôm ấy thưa khách . Chiếc xe chuồng gà long sòng sọc từ từ lăn bánh trên con đường cấp phối đầy bụi đỏ.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
01-09-2016, 10:30 PM
Chương 15

1. Sau khi Nghiên đi thanh niên xung phong , Trịnh Doãng bỏ nghề thổi kèn đám ma chuyên chú vào việc thả ống lươn . Nguyễn Đình Phán đứng ra thành lập lại phường hiếu mà một trong hai tay kèn mới được phát hiện mỗi khi cất lên làm cho thần sầu quỷ khốc là lão Mộc.

Lão Mộc là dân ngụ cư , nguồn gốc không rõ ràng . Hôm ấy là sáng mười tám , các bà đi chợ sớm nhìn thấy một người nằm co quắp trong điếm Bài Vân cạnh chiếc tay nải nhuộm vỏ già bên trong có chiếc kèn đám ma và mấy lưỡi búa vốn là đồ nghề của người đánh gộc tre . Hình như ông chủ những vật tuỳ thân đã chết bởi dáng nằm rất không tự nhiên . Bà quản Thông hộc tốc chạy về làng báo . Được tin , lý Quỳnh vội cử người ra xem hư thực . Ông ta rất sợ phải chôn cất những xác chết vô thừa nhận trong địa hạt của mình .

Người đàn ông chưa chết nhưng nếu không được cứu chữa kịp thời chắc chắn sẽ về chầu ông vải rất nhanh vì lúc này đang sốt cao , người nóng hầm hập như lò lửa . Người ta thương tình cho nạn nhân nằm tạm trên chiếc chõng tre trong gian nhà phụ bên cạnh đình Cả .Tầm trưa thì ông ta tỉnh lại, xưng tên là Mộc không biết là thật hay giả. Phải nói rằng, ông Mộc thuộc loại người hễ trẻ con nhìn thấy là sợ chết khiếp giống như gặp “ Ba bị chín quai “ hiện hình với diện mạo hết sức cổ quái : mái tóc rễ tre cờm cợp đã muối tiêu, đôi mắt xếch dưới cặp chân mày rậm vếch lên và hàm râu quai nón mọc vô tổ chức choán già nửa khuôn mặt dái trâu ngăm ngăm đen. Không thể đoán chính xác được tuổi nhưng căn cứ vào dáng đi và những vết hằn ở đuôi mắt, có thể áng chừng ông ta vào khoảng bốn mươi hoặc trẻ hơn một chút.

Hình như ông Mộc còn bị điếc. Tuy vậy việc giao tiếp bằng ngôn ngữ với ông không phải hoàn toàn vô ích. Ông có khả năng nhìn miệng mà hiểu được ý nghĩa lời người đối thoại. Vậy làng Cùa thêm một công dân, dù rằng ông ta chỉ có một cái tên, hoàn toàn vô gia cư, còn nghề nghiệp tuỳ vào thời vụ, ai thuê gì làm nấy nhưng thiện nghệ nhất là đánh gộc tre. Từ lâu làng Cùa đã nổi tiếng cả huyện về nghề đan giỏ và lờ bắt cá. Nhà nào cũng trồng mấy bụi tre hoá. Đêm đông, gió lạnh từ cồn Vành thổi về làng, thân tre cọ vào nhau kẽo kẹt nghe như ma quỷ nghiến răng, khiến lũ trẻ con yếu bóng vía sởn gai ốc. Những nhà có rặng tre viền quanh bờ ao, vào dịp đầu tháng bẩy, cò lửa cùng với bồ các từ thượng nguồn sông Lăng bay về làm tổ, chẳng may gặp bão, lũ cò con mới ra ràng rớt xuống hoảng hốt gọi mẹ bằng thứ giọng đặc biệt của họ nhà chim rất là ai oán. Nhưng trăng ở đây thì thật tuyệt vời. Đó không phải thứ ánh sáng trần trụi, nguyên thuỷ, nhạt thếch đầy hoang dã mà là cả một trời lụa nõn, mượt như nhung, được lọc qua ngàn vạn mắt lá xanh mơn mởn rưng rưng những hạt móc vô cùng tinh khiết. Xa xa có tiếng chích choè gọi bạn. Một chú dế cơm đang vỡ giọng gáy lanh lảnh cạnh bụi tầm xuân bên ao đình. Màn độc tấu chói tai của nó vừa dứt thì dưới ao những âm thanh hỗn tạp của lũ chẳng chuộc, ếch cốm, nhái xanh với đủ cung bậc đồng loạt rộ lên như là cãi nhau. Trong bụi dành dành, chàng cuốc si tình cất giọng khắc khoải “ cuốc cuốc” Nghe thật não nùng .

Việc đầu tiên của ông Mộc sau khi tai qua nạn khỏi là tra cán vào ba chiếc búa và dọn dẹp gian nhà bẩn thỉu, ẩm thấp bằng tinh thần của một ông chủ thực sự mặc cho lý Quỳnh càu nhàu. Nhà chật như hũ nút. Bộ đòn khênh bằng gỗ lim, đầu chạm hình rồng nặng chình chịch choán già nửa gian, thành ra phần còn lại chưa đầy ba thước ta muốn vào phía trong phải trèo qua chiếc chõng tre ọp ẹp vốn là của lão mõ Cống mới chết vài tháng trước.

Người làng Cùa có thói quen, cứ đến cuối thu là gọi thợ đánh gộc chuẩn bị củi đun cho mùa đông. Có nhà xếp củi thành đống to như đống rạ, tết tha hồ luộc bánh chưng. Ông Mộc đậu lại ở đây quanh năm chả lúc nào hết việc. Không ai biết quá khứ của người đàn ông ngụ cư. Ông ta kín như bưng, thảng hoặc có người hỏi chỉ nheo cặp mắt đùng đục như bị ám khói cười, một nụ cười rất ngờ nghệch, chẳng khác gì người thiểu năng trí tuệ. Thế nhưng ông ta lại có dáng vóc vậm vạp của một lực điền to xương với bàn tay bè bè phủ lớp chai vàng xỉn dày cồm cộp, xù xì giống hệt bàn tay tượng nhà mồ Tây Nguyên được nghệ nhân vạc vài nhát phác thảo bằng rìu. Với ông, đánh gộc tre đã được nâng lên hàng công nghệ độc nhất vô nhị ở ở khắp vùng hữu ngạn sông Lăng. Ai có việc cần thỉnh phải đến đấy từ mấy hôm trước. Sau một hồi vừa nói như quát , vừa lấy tay ra hiệu của gia chủ, ông Mộc nhoẻn miệng cười gật đầu, thế là xong. Sáng sớm ông xách đồ đến gọi cổng từ lúc chủ nhà còn chưa dậy. Ăn lót dạ qua loa vài củ khoai hầm hoặc nắm ngô rang , uống bát nước vối, ông thợ gộc bắt đầu công việc của một ngày làm thuê . Đồ nghề của ông Mộc sáng loáng, cái nào cũng sắc. chém phầm phập . Sau khi dùng búa Thạch Sanh chặt đứt những chùm rễ tua tủa, ông vung cuốc chim bổ từng nhát chắc nịch và chính xác tách rời các gộc tre theo trật tự từ ngoài vào trong, từ dễ đến khó bằng động tác dứt khoát. Nửa buổi nghỉ giải lao, ông " bắn" điếu thuốc lào , nhấp ngụm nước rồi lại hùng hục đào , chặt bổ cho đến lúc cơm trưa. Ông thuộc loại dễ tính, không uống rượu , có gì ăn nấy và ăn rất khoẻ. Nghĩ cũng phải , nghề thổ mộc hao tổn năng lượng, cơm nhà quê chỉ dưa cà mắm muối, sang lắm mới có đĩa cá rán, không ăn nhiều làm sao đủ sức quai búa suốt ngày . Lôi hết gộc tre lên mới chỉ được nửa công việc . Ngày hôm sau, ông Mộc còn phải dùng búa tách chúng ra làm nhiều mảnh xếp thành đống hình cũi lợn. Tối, cơm nước xong, chủ nhà trả tiền hoặc đong vào bao ruột tượng vài ống gạo. Có nhà túng khất đến mùa mới ông trả cũng gật.

Ông Mộc là người thật thà, thích sòng phẳng, không tắt mắt , có làm có hưởng, chẳng muốn luỵ ai. Phải năm mất mùa, làng đói ít người thuê mướn, ông đóng khố ra ngòi Mác đánh giậm kiếm mớ cá lẹp đem về nấu với ngọn khoai lang húp cho qua bữa chứ không xin người ta bố thí. Những hôm trở trời trái gió , ông nằm dài đắp chiếc áo dạ lính ngủ suốt ngày, thỉnh thoảng mới nhoài dậy nhấc điếu cày kéo mồi thuốc . Với ông thuốc lào là máu thịt , là niềm đam mê đến bệnh hoạn, thiếu cơm là chịu được , hết hơi khói là ốm ngay. ở đình làng đôi khi cũng có lộc . ấy là lúc các vị chức sắc ngả mâm đánh chén hoặc là những đám hiếu, tang chủ ra mượn đòn khênh. Cuộc đời của người ngụ cư cứ thế trôi đi cùng với nhịp sống đều đều buồn tẻ của cư dân làng Cùa cho đến ngày Đội Cải cách về làng. Ba hôm sau , ông Mộc được lệnh phải cuốn gói để lấy chỗ làm nhà giam bọn địa chủ , phản động. Ông ta đến nhà Ngô Quỳnh cầu cứu nhưng ông Lý mặt khó đăm đăm , thở dai thườn thượt, ghé tai người đánh gộc thuê nói rành rọt từng tiếng:

- Ông tìm chỗ khác mà ở. Tôi hết thời rồi, chưa biết chừng vài hôm nữa còn bị tống vào đấy cũng nên.

Ông thất thểu bước thấp bước cao, lòng nặng trĩu, cái dáng lực điền đổ bóng xuống đường làng. Không một cán bộ Cải cách nào thèm nghe nguyện vọng có vẻ như rất chính đáng ấy. Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp vĩ đại với nhiều cuộc họp quan trọng thông qua những quyết sách có tầm chiến lược, để người ngoài tổ chức luôn rình rập bên cạnh sẽ lộ bí mật. Hơn nữa ông ta là dân ngụ cư , lai lịch không rõ dàng, rất đáng ngờ. Đội Lạc nêu vấn đề này ra trong hội nghị cốt cán.
- Xét bề ngoài thì ông Mộc thuộc thành phần cố nông, nhưng biết đâu được kẻ địch không gài người của chúng lại trước khi rút vào Nam. Có khi ông ta giả điếc để dễ bề hoạt động chống phá.

Lê Thị Chĩnh, một trong hai cốt cán đắc lực của Đội Cải cách tuyên bố:
-Tôi đề nghị đuổi lão ra khỏi làng Cùa.
- Không làm thế được.- Đội Lạc nghiêm giọng bảo – Phải giữ những thành phần đáng ngờ ấy tại địa phương để có điều kiện quản lý giám sát, nếu cần thì giam lại cùng với bọn phản động. Thả chúng là mất cảnh giác cách mạng.

Cuối cùng thì ông Mộc được ra ở miếu Si. Miếu này trước đây thờ một bà lão bắt cua bị chết đuối ở đầm Ma, đã nhiều năm dân làng chẳng cúng tế gì nhưng không hiểu sao vẫn chưa đổ nát. Ngôi miếu nằm trên gò đất cao hơn mặt ruộng vài thước, dưới tán một cây si già, rễ quấn lòng thòng, thả xuống như những cánh tay đười ươi, người nhát gan nhìn thấy sởn tóc gáy. Chung quanh gò còn có hàng duối cổ thụ, cành lá xoè ra với đủ mọi hình thù, đứng xa trông chẳng khác gì nhưng gã quỷ lùn đang mai phục, chờ đêm xuống bắt khách qua đựờng. Nói tóm lại cảnh vật quanh miếu vô cùng bí hiểm. Từ lâu người làng Cùa không dám vãng lai trừ bọn đạo chích chuyên nghề đào tường khoét ngạch. Bị đẩy đến đường cùng, ông Mộc chẳng còn cách nào khác, thôi thì đành ở với ma vậy. Kể ra ngôi miếu khá rộng, có khi gấp hai ba lần diện tích gian nhà để đòn khênh đám ma. Trước khi nhập cư, ông quét dọn “nhà” thật sạch sẽ, quờ hết mạng nhện, hót phân dơi và chữa lại cánh cửa. Xong việc ông thắp ba lén hương cắm lên bàn thờ, lầm rầm khấn vái, sau đó buộc con chó Mực ra gốc cây si rồi lên chõng đánh một giấc. Đêm ấy ông chẳng chiêm bao thấy thần phật ma quỷ nào về quấy nhiễu mà chỉ có lũ dơi bay phành phạch, hết ra lại vào có vẻ như đang tức giận vì lãnh địa do chúng sở hữu lâu nay bỗng nhiên bị một kẻ lạ mặt chiếm dụng.

Sáng hôm sau, vươn vai đứng dậy, ông khoác chiếc áo nhà binh muôn thuở lên vai, xách đồ nghề xuống chân gò. Ông Nhiêu Chuộc đang chăn bò nhìn thấy vẫy tay nói như quát:
- Ông Mộc đi làm cho nhà ai đấy?

Tất nhiên là người đánh gộc không thèm nghe nhưng qua điệu bộ của ông chăn bò cũng nhoẻn miệng cười.

Ông Mộc tá túc ở ngôi miếu cổ được vài tháng thì có chuyện xảy ra. Đêm tháng sáu nóng quá, lúc dậy đi tiểu chân bỗng vấp phải một bọc tròn tròn ngay trước cửa ra vào, ông giật thót mình miệng lẩm bẩm:
- Lạy các ngài con là kẻ tứ cố vô thân cùng đường phải ở nhờ chỗ thần linh, mong được bề trên che chở.

Khấn rồi nhưng trong lòng vẫn không yên, người đánh gộc khêu to ngọn đèn dầu lạc, lấy hết can đảm he hé cửa miếu nhìn ra, hy vọng “ngài” đã thăng thiên. Nhưng mà cái bọc vẫn nằm đó hình như còn đang cựa quậy. Ông Mộc run lắm, tuy nhiên tính tò mò đã thắng nỗi sợ cố hữu, đánh liều cầm chiếc búa Thạch Sanh ra tận nơi xem nó là thứ ma quỷ gì. Không phải ma quỷ hiện hình mà là một đứa bé mới đẻ được bọc mấy lần tã lót, chắc là vừa ngủ dậy đang gào khóc thảm thiết. Lưỡng lự giây lát rồi ông Mộc cũng mang đứa trẻ vào miếu, tháo chiếc váy thâm bên ngoài vì nó đã “tè” ướt cả mấy lần tã. Một thằng con trai. Ông lắc đầu lẩm bẩm:
- Chắc con đàn bà ôn vật nào hoang thai rôì làm chuyện thất đức đây.

Hôm sau, ông mang ít tiền dành dụm dược được ra mẹt hàng xén bà Đô mua hai hộp sữa “con chim” về pha cho thằng bé. Nó bị mẹ bỏ rơi, đói quá, lúc nào cũng đòi ăn nhưng rất lành, ăn xong là lăn ra ngủ. Hết sữa ông Mộc nấu một nồi cháo loãng, đánh nhuyễn, bỏ thêm đường phèn vậy là cậu ta có thể ăn suốt ngày.

Được chừng hơn tháng, hết sạch gạo, ông thợ gộc nghĩ đến việc phải đi làm, nếu không cả hai bố con sẽ chết đói. Nhưng đi làm lại phải mang thằng bé theo. Nó còn bé quá, từ lúc lọt lòng mẹ đến giờ chưa chắc đã được ba tháng. Đành vậy. Đói bụng đầu gối phải bò. Buổi sáng ông vác đồ nghề, địu thằng bé trước bụng đến nhà bà Cả Phê. Bà Phê có cô con dâu mới ở cữ, hai vợ chồng đòi ra ở riêng phải phá rặng tre lấy đất làm nhà. Nhìn thấy người đàn ông ngụ cư ôm đứa trẻ lầm lũi bứơc trên đường, dân làng Cùa trố mắt tưởng như trời sắp sập. Mấy bà nạ dòng chuyên ngồi lê đôi mách thì thầm hỏi nhau:
- Lão lôi đâu ra thằng bé thế nhỉ?
- Hay là con lão?
- Ai mà biết đựơc tổ con chuồn chuồn.
- Nhưng mà tôi nghi lắm. Chẳng lẽ lão ngủ với... ma?
- Vớ vẩn.- Một con mẹ mặt quắt, da hổ giun, răng cải mả như sắp long ra khỏi cái mồm cái mồm chão chuộc bảo - Có lần tôi nhìn thấy lão đưa cho con điên ở chợ Rồng mấy bắp ngô luộc, không con mụ ấy thì con ai?

Ông Mộc chẳng cần thanh minh và cũng chẳng cần biết thiên hạ đàm tiếu gì về mình bởi cái tai nghễnh ngãng. Thật may cô con dâu bà cả Phê thừa sữa, suốt một tuần ông ta phá hàng tre, ngày nào thằng bé cũng được bú no.

Những ngày ấy làng Cùa vô cùng sôi động. Chuyện lão đánh gộc thuê tự nhiên có một đứa con chẳng phải là điều đáng quan tâm của nhà chức trách. Người ta còn đang bận đấu tố địa chủ, phản động truy tìm tàn dư Quốc dân đảng, chia ruộng đất và phân phát quả thực. Mới được năm sáu tháng, thằng bé đã bò lê bò la, thăm dò tất cả mọi ngóc ngách. Những lúc có việc , không phải đi quá lâu, ông Mộc thường cài cửa để nó một mình trong miếu. Cậu ta lân la bò đến làm quen với con Mực mới đẻ bốn chú cún con mũm mĩm như trong tranh. Mẹ Mực âu yếm liếm mặt thằng bé như liếm lông con mình. Thấy lũ có con bú mẹ nó cũng hoặp miệng vào vú con mực mút lấy mút để. Dần dần thành quen, mỗi khi đói bụng thằng bé lại bò đến gần ổ chó. Có lần ông Mộc nhìn thấy vội kéo cậu ta ra nhưng nó giãy đành đạch, khóc toáng lên, còn con Mực nhe nanh gầm gừ, làm ông thợ gộc chịu phép.

Rõ ràng là cố nông nhưng ông Mộc không được chia ruộng. Người ta lấy cớ ông thuộc đối tượng ngụ cư phi nông nghiệp, lai lịch lại thiếu rõ ràng nên tất nhiên không được hưởng chính sách người cày có ruộng. Lúc thằng bé gần hai tuổi một hôm chủ tịch Bùi Quốc Tầm chợt nhớ ra liền cho người đến miếu gọi ông Mộc ra trụ sở hỏi:
-Tên thằng con bác là gì?
- Là thằng Nhặt.
- Bác phải làm khai sinh cho nó

Ông nghe mãi mới thủng hỏi lại:
- Khai sinh để làm gì?

Vị Chủ tịch vừa lấy tay ra hiệu vừa quát:
- Để đến khi lớn lên nó làm công dân làng Cùa.
- Tôi cũng là công dân tại sao không được nhập hộ tịch?- Ông Mộc trừng mắt hỏi.
- Lý lịch của bác không rõ ràng, xã cho ở nhờ là tốt lắm rồi.
-Thế thì đây đếch cần cái thứ khai sinh của các người nhé.

Nói xong ông bế thằng bé về, mắt gườm gườm nhìn trước nhìn sau như là sợ người ta cướp mất. Ông còn nhớ hồi cuối năm ngoái, dịp ấy đang đánh gốc xoan cho trưởng ban nông hội Quản Văn Ngật. Buổi trưa nhà Ngật làm thịt vịt đãi hai bố con. Thằng bé ăn lưng cơm, rồi cầm đôi chân vịt mút mát nguệch ra má trông rất hề. Vừa lúc ấy Chĩnh Con từ cổng nhà Trịnh Doãng bước sang, mắt trước mắt sau có vẻ gian lắm, hình như trong tay còn dấu vật gì. Nhìn thấy thằng bé gần vại nước, cô ta vẫy tay bảo nhỏ:
- Ra đây cô cho cái này.

Vừa gọi Chĩnh Con vừa chìa ra trước mặt nó cặp bánh dầy gói lá sen. Bánh dầy làng Rồng bằng xôi nếp hoa vàng giã nhuyễn, nhân đậu xanh cồn Vành, từ xa đã thấy thơm lừng. Hai cánh mũi thằng bé phập phồng, ngập ngừng một thoáng, sau đó chạy ra cổng. Chĩnh Con ấn vào tay thằng bé gói bánh rồi đột nhiên ôm chầm lấy hôn hít khắp người làm nó khóc thét lên. Đúng vào thời điểm ấy, không hiểu tình cờ hay có ai mách bảo, ông thợ gộc xuất hiện gườm gườm lườm Chĩnh Con như muốn thiêu cháy cô ta rồi giật phắt thằng Nhặt giọng rít lên:
-Tôi cấm nhà chị động vào thằng bé, rõ chưa?

Thằng Nhặt nép vào vai bố nuôi lấm lét nhìn người đàn bà. Nó đã nín khóc nhưng toàn thân vần còn run. Tuy điếc lác nhưng ông không dễ bị bắt nạt. Từ nay ông cảnh giác với bất cứ ai đến gần thằng bé. Bây giờ nó là máu thịt, là niềm an ủi cảnh cô đơn của một kẻ vô gia cư vào lúc tuổi xế chiều bị chính đồng loại của mình ruồng bỏ. Hai bố con sống yên ổn được mấy tháng lại có chuyện xảy ra. Hình như từ lâu, Chĩnh Con đã để ý đến thằng bé nên thỉnh thoảng lại lảng vảng quanh miếu Si. Có những chiều cô ta ngồi lì dưới gốc cây duối già nhìn vào miếu mãi nhập nhoạng mới về, lâu dần thành quen đến mức nắm được cả quy luật đi lại của ông thợ gộc. Đợi cho ông Mộc quẩy đôi lọ sành xuống đến chân gò, Chĩnh Con lẩn nhanh vào gốc si khẽ khàng rút then cửa lẻn vào miếu. Thằng Nhặt đang ngủ trên chiếc võng gai mắc giữa hai cột miệng nhai tóp tép như là đang ăn một thứ gì trong mơ. Người đàn bà đứng lặng một lúc khá lâu như đang suy tính điều gì hệ trọng lăm. Cuối cùng, cô ta cúi xuống, bàn tay ngập ngừng định vuốt vào má đứa trẻ bất chợt có tiếng quát ngay phía sau:
- Không được động đến thằng bé!

Chĩnh Con giật mình đứng sững như trời trồng, bỗng nhiên quỳ sụp xuống vái người đánh gộc:
- Trăm lạy bác, em muốn...

Ông Mộc chỉ tay ra cửa:
- Cút ra khỏi đây!

Nhìn vào cặp mắt tối sầm của ông thợ gộc, Chĩnh Con sợ lắm nhưng vẫn cố liều đánh vào lòng từ tâm cửa người đàn ông ngụ cư:
- Em xin bác!

Máu hồng bào nổi lên, ông Mộc quẳng đôi quang gánh làm lọ nước đổ lênh láng trên nền miếu, vớ cây búa đại dưới gầm bàn thờ gầm lên:
- Cút!
Chĩnh Con sợ hết hồn, lùi dần, lùi dần, ra đến gốc si thì ù té chạy.

Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp hoàn thành được bẩy năm thì vùng Ba Tổng gần như hết sạch tre, vì thứ cây này được nhập vào thành tài sản xã hội chủ nghĩa, các gia đình muốn sử dụng phải làm đơn xin phép đội sản xuất, nếu là công việc chung của hợp tác xã thì ai cũng có quyền chặt. Ông Mộc đâm ra thất nghiệp , nằm ườn ở nhà, định sang đầu tháng mang thằng Nhặt về bên kia sông Lăng kiếm việc làm. Ông hy vọng, bên ấy người ta chưa công hữu tre. Ngồi buồn uống rượu một mình ( Dạo này thỉnh thoảng ông thợ gộc nhấm nháp chút ít ) ông Mộc nhớ đến chiếc kèn mang theo từ mười ba năm trước vẫn cất trong chiếc túi nhuộm vỏ già treo trên đầu xà, liền bảo cu Nhặt lấy xuống. Nghe tiếng kèn đám ma cả làng nháo lên, ai cũng nghĩ đêm qua có người chết. Nguyễn Đình Phán vội chạy ra miếu Si, nhìn thấy lão ngụ cư đang lắc lư mái tóc bạc phồng mồm đi bài “ Lưu thuỷ” rất say sưa mặc dù chiếc dăm bị thủng thỉnh thoảng lại bật lên những tiếng “khè khè”. Anh ta giật mình nghĩ thầm: “ Lão điếc mà thổi kèn giỏi thật, thế mà từ trước đến nay mình không biết.”

Mấy hôm sau đội kèn hiếu được tái lập dưới sự bảo trợ của ban quản trị hợp tác xã Đoàn Kết do Nguyễn Đình Phán làm đội trưởng. Bố con lão thợ gộc trở thành xã viên thổi kèn hưởng công điểm theo định suất như những bộ phận thợ mộc, thợ nề khác. Thằng Nhặt được thầy Phán dạy đánh trống và kéo nhị. Đội kèn đến xã nào phục vụ, cuối năm xã đó phải chuyển thóc về làng Cùa qua bộ phận kế toán. Riêng khoản xôi thịt nhà đám biếu và các bữa ăn cho thợ kèn thức đêm thì không tính.

2. Cuối cùng thì Trịnh Doãng cũng bảo thằng Dọng viết đơn xin vào hợp tác xã. Hắn vào không phải vì thấy được lợi ích thật sự của phương thức làm ăn tập thể mà cái chính là cả làng Cùa chỉ còn mình hắn thuộc hộ cá nhân, lúc nào cũng bị thiên hạ nhìn như một kẻ phản động bị loại ra khỏi cộng đồng. Hắn biết thừa hợp tác xã là một thứ cha chung trong đó người khôn kẻ dại đều bấu vào với phương châm nói nhiều làm ít và vì thế, ăn cũng ít trừ ban chủ nhiệm, kế toán, thủ quỹ, đội trưởng và thư ký. Bọn này có trăm phương ngàn kế ăn cắp công quỹ, không bao giờ biết đến cái đói cho dù giá trị ngày công có những vụ chưa đầy hai trăm gam thóc.

Thằng Dọng dạo này đã có tiến bộ trong nghề thả ống lươn. Một mình nó cai quản già nửa số ao chuôm làng Cùa. Nó ranh ma hơn Trịnh Doãng, thỉnh thoảng đem biếu chủ nhiệm Hỗ vài con lươn nên loại ngành nghề này tạm thời chưa bị hợp tác xã đưa vào danh mục quản lý. Hôm ấy thằng Dọng xuống Mạc Điền xem phim về muộn, bị Trịnh Doãng chửi cho một trận, gần nửa đêm mới khoác ống lươn đi thả. Nó tắt lối đình Đụn. Đình này đã bị phá hồi Cải cách chỉ còn trơ nền với mấy chục viên tảng vứt lổng chổng cùng bốn tấm bia đá. Lúc sinh thời lão Xếp Đáy bảo đã nhìn thấy con rắn mười hai mào dài gấp ba chiếc đòn càn, nằm cuộn khúc bên bụi dứa dại, riêng cái vẩy của nó cũng bằng đồng xu, lấp lánh như ánh bạc. Dân xóm Cầu Đá sợ lắm không ai dám bén bảng, nhưng bố con Trịnh Doãng thì bất chấp. Có vẻ như ma quỷ cũng phải kiềng dân thả ống lươn. Từ đình Đụn ra kho hợp tác xã chưa đầy năm chục thước. Sân kho làm trên khoảnh đất rộng, phía sau là khu đồng hoang nổi tiếng nhiều cá trê và lươn. Dọng cắm xong một ống, vừa bước lên bờ chợt thấy sân kho có bóng người liền ngồi thụp xuống căng mắt theo dõi. Được một lúc, nó men theo bờ tường bao bò vào xem bọn chúng đang àm gì. Lũ đạo chích không biết có kẻ theo dõi nên cứ lần lượt vào kho vác thóc ra ngoài. Đến lúc ấy thì Trịnh Dọng đã nhận mặt được tay Cấn thủ kho, Tào Văn Khắc, cháu gọi chủ nhiệm Hỗ bằng chú và đặc biệt có cả Bùi Quốc Tiếm, con trai chủ tịch Bùi Quốc Tầm. Thì ra chính cán bộ và nhân viên cờ đỏ hợp tác xã ăn cắp thóc của xã viên. Chả trách dân đói là phải. Dọng nghĩ vậy rồi chạy ra đường kêu lên:
- Ới bà con ơi! Trộm vào phá kho hợp...

Dọng không biết lúc ấy có người bám theo mình. Nó chưa hô được hết câu thì đã bị một vật cứng nện vào gáy. Bọn ăn trộm quẳng vội các bao thóc xuống sân thì thầm bàn bạc. Bùi Quốc Tiếm chạy ra bờ đầm thu đám ống lươn mang đi còn Tào Văn Khắc và mấy tay cờ đỏ nhảy qua tường xúm vào đấm đạp Trịnh Dọng một hồi cho đến khi người nhũn ra mới kéo vào sân kho.

Sáng sớm chủ nhiêm hợp tác xã cho đánh kẻng báo động. Khi toàn thể ban quản trị và các xã viên xóm Cầu Đá kéo đến thì Trịnh Dọng đã chết. Mấy bao thóc vẫn còn vứt bên cạnh, vãi tung toé. Kế toan trưởng Cao Xuân Thọ còn tìm thấy hai bao nữa giấu trong bụi dành dành đầu đình Đụn. Tào Văn Hỗ đứng giữa sân kho tuyên bố:

Thưa bà con, đêm qua Trịnh Dọng đã phá cửa kho lấy trộm thóc hợp tác xã. các đồng chí dân quân canh gác kịp thời phát hiện yêu cầu về trụ sở giải quyết, nhưng Dọng đã dùng hung khí chống lại người thi hành công vụ sau đó chạy về phía đình Đụn. Vì trời tối, không nhìn thấy đường hắn bị vấp ngã, đập gáy vào tảng đá kê chân cột...vậy chúng tôi thông báo để bà con biết.

Hỗ vừa nói xong một người tóc tai bù xù từ bờ đầm rẽ đám đông chạy vào túm ngực anh ta gào lên:
- Không phải. Con tôi đi thả ống lươn chứ không ăn trộm thóc của hợp tác xã. Các người đã giết oan nó.

Tào Văn Hỗ đẩy Trịnh Doãng ra hất hàm cho Tào Văn Kha:
- Bảo anh em dân quân đưa ông ấy về.
- Tao không về !- Trịnh Doãng bị hai dân quân xóc nách kéo ra ngoài nhưng vẫn rướn cái cổ cò về phía Tào Văn Hỗ chửi – Tiên sư cha thằng chột. Chúng mày giết con ông, ông sẽ kiện đến cùng.

Vợ Doãng, cô Nhụ ngày trước giờ mặt mũi hom hem, quần áo tả tơi, vừa hờ con vừa khóc rất thảm thiết:
- Dọng ơi vì sao con bị chết oan hãy về báo mộng cho mẹ.

Mãi đến gần trưa công an huyện mới về. Chủ nhiêm Hỗ cho mổ con lợn sáu chục cân bắt ở trại chăn nuôi tiếp đãi. Cuộc họp có đủ thành phần chủ chốt của Đảng uỷ, Uỷ ban hành chính, ban chủ nhiệm hợp tác xã và các đoàn thể quần chúng. Sau khi thanh toán hơn chục mâm cỗ, trưởng công an Trương Đình Tái đứng lên phát biểu:
-Trịnh Doãng nhiều năm nay là thành phần tiêu cực luôn chống đối chủ trương của Đảng và nhà nước.

Gần đây bố con anh ta mới xin vào hợp tác nhưng vẫn chân trong chân ngoài, nhất là thằng Dọng, lợi dụng nghề thả ống lươn, ban đêm luôn rình mò trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa. Lần này, bị phát hiện hắn dùng dao chống lại lực lượng bảo vệ định tẩu thoát nhưng không may vấp ngã, chấn thương vùng gáy đã tử vong. Hiện trường vẫn được giữ nguyên, đề nghị các đồng chí công an khám nghiệm.

Bí thư Bùi Quốc Tầm bị bệnh đái dắt người gầy tóp như con nhái bén cũng gắng gượng đến họp cung cấp thêm vô số thành tích bất hảo của gia đình họ Trịnh :
- Bố con Trịnh Doãng thường kích động những phần tử bất mãn trong làng nói xấu cán bộ, chê bai hợp tác xã, gây rối trật tự trị an. Có lần bà con xóm Chùa còn nghe thấy hắn đọc mấy câu thơ sau đây rất mất lập trường:

“Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe”.

Đội trưởng Cung Văn Luỹ gật đầu:
-Đồng chí Bí thư nói rất đúng. Bố con Trịnh Doãng đúng là thành phần bất hảo.

Công an huyện sau khi xem xét hiện trường, khám nghiệm tử thi kết hợp với lời khai của các nhân chứng đã tạm thời kết luận: “Trịnh Dọng người làng Cùa sinh năm 1956 vào hồi ba giờ năm phút ngày 17 tháng 6 năm 1969 đã phá cửa kho hợp tác xã lấy trộm thóc bị lực lượng bảo vệ phát hiện liền dùng loại dao mác vót nan chống trả quyết liệt. Qua một hồi giằng co , anh ta chạy về phía đình Đụn bị trượt chân ngã gây chấn thương nặng ở vùng gáy sau đó tử vong”

Các thủ tục hoàn tất, Tào Văn Hỗ gọi gia đình Trịnh Doãng đưa con về rồi cử bốn xã viên lên cửa hàng vật liệu kiến thiết mua cỗ quan tài gỗ tạp để khâm liệm Trịnh Dọng. Tối hôm ấy Nguyễn Đình Phán cùng bố con ông Mộc đến thổi kền thờ. Tiếng kèn thổi điệu “Lâm khốc” của lão thợ gộc vừa ai oán vừa uất hận, người làng Cùa càng nghe càng thấy xót xa. Các bà các cô đến chia buồn lúc đầu còn sụt sịt sau oà lên khóc nức nở. Mỗi lần như thế Trịnh Doãng lại trợn mắt nghiến răng còn bà Nhụ thì nằm mê man bên quan tài con trai, thỉnh thoảng khẽ rên rỉ bằng thứ giọng khản đặc “ới con ơi!”.

Đưa đám xong, Doãng không về làng mà đi tắt đồng Chó Đá lên đường 228. Hắn cứ để nguyên bộ quần áo lấm lem chạy gằn về huyện. Người gác cổng thấy một gã mặt rỗ, quần ống thấp ống cao dáng vẻ ngơ ngác như vừa ở trại tâm thần về liền ngăn lại:
-Anh kia, có việc gì?
-Tôi cần gặp ông Chủ tịch huyện.
Tay bảo vệ hỏi trống không:
-Có việc gì?

Doãng trợn mắt sừng sộ:
-Việc gấp có liên quan đến tính mạng đứa bé mười bốn tuổi.
-Thế thì anh đến nhầm chỗ rồi.- Tay gác cổng cất giọng khinh khỉnh- Những việc như thế phải sang bên công an.

Doãng lắc đầu;
-Tôi đếch tin công an . Bọn họ với ban chủ nhiệm hợp tác xã là một. Con tôi bị chết oan tôi phải kiện lên ông chủ tịch cho chúng nó phải đi tù.

Ngưòi gác cổng chạy vào dãy nhà làm việc, mấy phút sau, một người đàn ông tầm thước mặc bộ quần áo Tô Châu bước ra nhìn Trịnh Doãng một thoáng rồi nói:
- Đồng chí chủ tịch hôm nay bận họp, có việc gì mời bác vào phòng tôi.
- Nhưng mà ông là ai?

Người mặc đồ Tô Châu thong thả bảo:
-Tôi là Đoàn Công Sự , Bí thư huyện uỷ.

Doãng vừa kể vừa khóc, câu nọ vấp vào câu kia. Nghe xong ông bí thư bảo:
Vấn đề này thuộc trách nhiệm của ngành công an. Giờ bác sang bên ấy trình bày với huyện trưởng. Tôi sẽ gọi điện sang yêu cầu họ giải quyết.
Người thả ống lươn vừa ra khỏi cổng ông bí thư liền quay dây nói cho huyện trưởng công an:
- Alô! Anh Thẩm đấy phải không?
- Thưa anh có việc gì ạ?

Bí thư huyện uỷ gắt:
-Cái vụ sáng nay ở làng Cùa các anh làm ăn thế nào mà để tay Trịnh Doãng lên ăn vạ ở cổng huyện, may mà tôi ở nhà chứ không lôi thôi to.
- Báo cáo anh, biên bản xét nghiệm hiện trường cho biết, lúc ba giờ đêm Trịnh Dọng phá cửa kho vác trộm thóc. Anh em dân quân phát hiện bị nó đánh lại rồi chạy trượt chân ngã, chấn thương nặng ở vùng gáy được một lúc thì chết.

Bí thư hạ giọng ra lệnh:
- Phải dẹp yên vụ này đi, nếu cần tạm giam tay Doãng vài ngày. Nó mà kích động một số phần tử tiêu cực kéo lên đây gây rối thì cá nhân anh phải chiụ trách nhiệm trước huyện uỷ đấy.
- Dạ, tôi hiểu, bí thư cứ yên tâm.

Vừa nhìn thấy Trịnh Doãng bước vào phòng, Đoàn Danh Thẩm đã hỏi:
- Anh là Trịnh Doãng ở làng Cùa?

Tay thả ống lươn gật đầu:
- Phải. Hôm nay tôi lên đây để yêu cầu công an huyện trừng trị bí thư xã Đoàn Kết Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ cho tay chân đánh chết con tôi rồi vu oan nó phá cửa kho ăn trộm thóc.

Đoàn Danh Thẩm trừng mắt:
- Công an huyện đã về tận nơi khám xét, lấy lời khai các nhân chứng và xác định được thằng con anh đột nhập vào kho vác trộm thóc, chống lại nhân viên bảo vệ bị trượt chân ngã chấn thương sọ não. Một mình thằng Dọng không thể lấy được từng ấy thóc mà phải có bọn bên ngoài. Chúng tôi đang tiếp tục mở rộng điều tra, có kết quả sẽ thông báo cho xã.
Doãng chĩa cặp môi cá ngão vào huyện trưởng công an :
-Thứ nhất, con tôi khong ăn trộm thóc mà đi thả ống lươn, thứ hai, nó không ngã mà bọn ăn trộm dùng gậy đập vào gáy.
- Anh đừng nói càn. Hiện trường gây án đã được bộ phận nghiệp vụ điều tra, xác minh và lập biên bản tại chỗ. Tôi thông cảm với tâm trạng anh lúc này nhưng chúng ta là công dân phải tôn trọng pháp luật.

Doãng lắc đầu:
-Tôi không tin vào thứ pháp luật của các ông.

Đoàn Danh Thẩm cười nhạt;
- Anh phải tin. Bởi vì pháp luật đại diện cho nền chuyên chính vô sản. Chống lại pháp luật tức là chống lại Đảng và Nhà nước chúng tôi sẵn sàng mời anh vào trại cải tạo cho đến khi nào hết hoài nghi.

Trịnh Doãng đã có ít nhất hai lần nằm trong trại tạm giam hiểu rất rõ thế nào là công dân mất tự do. Hắn tin ông huyện trưởng đã nói là làm. Chuyến này mà bị bắt thì gay.

Trên đường về Doãng chợt nhớ đến ông Trần Quảng. Phải rồi, có lẽ chỉ còn cách ấy. Uỷ ban hành chính tỉnh sơ tán về làng Bầu cách đây hơn chục cây số, gần gấp đôi đường ra huyện, nếu đi liền một mạch thì tờ mờ sáng là đến nơi. Tấm danh thiếp của ông chủ tịch vẫn để dưới đáy hòm lúc nào đi phải mang theo. Qua cánh đồng Chó Đá, Doãng dừng lại bên mộ thằng Dọng. Vẫn còn mấy ngọn hương lập loè. Chắc vợ hắn hoặc anh em thằng Dõng mới ra thắp cho nó. Dọng ơi con chết thật oan ức, phen này bố nhất quyết phải đòi lại công bằng để pháp luật trừng trị những kẻ vừa ăn cướp vừa la làng.

Sắp qua cầu đá như chợt nhớ ra điều gì, Doãng quay lại miếu Si tìm lão đánh gộc sau đó lôi ông ta đến nhà Nguyễn Đình Phán. Ba người nhỏ to bàn bạc. Thằng Nhặt đứng cổng canh chừng. Gần đây Doãng mới phát hiện ra sự lạ ở đôi tai ông Mộc.Khi nói chuyện, nếu quát to, ông ta hoàn toàn điếc đặc, nhưng khẽ thì thầm lại nghe rõ, không cần phải ra hiệu.
- Được, tôi làm nhưng ông phải chuẩn bị cái chiếu thước rưỡi.

Nguyễn đình Phán xem ra còn lưỡng lự :
- Bác liều quá, đêm hôm thế này nhỡ công an tóm được thì gay.

Doãng gắt:
- Chú sợ chết thì ở nhà.
- Thôi, cũng đành vậy tôi thấy đúng là bác gan cóc tía, trên đời không có người thứ hai.

Đầu canh hai, Doãng về nhà lấy lá đơn kiện do thằng Dõng viết từ sáng và tấm danh thiếp của ông Trần Quảng rồi cả bọn mang cuốc xẻng ra bãi tha ma. Trong nửa giờ, ba người đào mộ thằng Dọng, mở nắp quan tài, bọc thi thể vào tấm vải diềm bâu. Lão đánh gộc quấn chiếu, bó lạt tre rất nhanh. Xác chết trương phình đã bốc mùi làm Nguyễn Đình Phán phải bịt mũi, nhổ nước bọt. Ông Mộc ngậm rượu phun phì phì. Doãng dốc cả một lọ nước hoa mậu dịch lên khắp chiếu. Nguyễn Đình Phán đi trước, Trịnh Doãng và lão đánh gộc khênh thằng Dọng bước thấp bước cao tắt đường đồng lên đường quốc lộ. Doãng bước phăng phăng, ông Mộc yếu chân gần như bị tay thả ống lươn lôi đi, thỉnh thoảng lại vấp ngã làm chiếc võng bị kéo lệt sệt trên mặt ruộng.

Nửa đêm về sáng, đường 228 không một bóng người. Vạn vật lặng lẽ chìm trong thứ bóng tối đặc quánh, dính nhớp nháp như nhựa hắc ín. Đã từ lâu, chiến tranh phá hoại hình như chừa vùng này ra. Hãn hữu lắm mới có chiếc máy bay lượn lờ mãi chín tầng mây. Không một tiếng chó sủa. Gà gáy xao xác báo đêm đã chuyển canh. Lúc rẽ vào làng Bầu xuýt nữa bị đám dân quân tuần tra phát hiện, Nguyễn đình Phán phải trổ tài thuyết khách cho họ xem thẻ cử tri cả bọn mới qua được vọng gác. Cũng may trời xui đất khiến thế nào, bệnh viện sơ tán lại ở kẻ Sung, đưa người ốm đi bệnh viện phải qua làng Bầu. Cánh dân quân mắt nhắm mắt mở chỉ kiểm tra giấy tờ chẳng để ý đến bọc chiếu nằm trong võng đang toả ra thứ mùi nặng âm khí.

Khu sơ tán của uỷ ban tỉnh là vườn nhãn cổ thụ chùa Vĩnh Xương. Những dãy nhà tranh lợp giấy dầu thấp lè tè khuất dươí bóng nhãn được nối tiếp với nhau bằng hệ thống hào giao thông ngập đầu người. Sau khi xác định đúng vị trí ngôi nhà của ông chủ tịch, Nguyễn đình Phán ngoắc tay ra hiệu cho Trịnh Doãng và lão thợ gộc chuyển bó chiếu xuống đường hào. Trời mới mưa mấy hôm trước, nước ngập đến mắt cá chân. Họ bấm nhau bước thật khẽ để khỏi phát ra tiếng động. Lúc ấy đã là cuối canh tư nhưng vẫn còn tối mò. Trịnh Doãng vác bó chiếu leo lên đặt dựng đứng giữa khung cửa sổ, gài lá đơn vào khoanh lạt ở chỗ dễ nhìn thấy nhất rồi lại tụt xuống hào cùng hai ông bạn rút ra ngoài.

Kẻng cơ quan báo thức bằng vỏ quả bom năm trăm bảng Anh treo trên cành nhãn, gõ đúng ba hồi chín tiếng nghe rất chối tai. Các cánh cửa lần lượt mở. Mấy vị ở ban tổ chức chính quyền ngại ra hố giải ở mãi cuối vườn, chẳng ông nào bảo ông nào, đều bắc “vòi” đồng loạt câu xuống hào nước. Chủ tịch tỉnh đã ngót ngét sáu mươi, sắp nghỉ hưu nhưng vẫn tập thể dục rất đều. Sau khi chạy một vòng quanh lối mòn trong vườn nhãn, Trần Quảng vào sân chùa Vĩnh Xương tập với đám thanh niên bên văn phòng ty giao thông. Bọn này hay đi chơi khuya, ngủ muộn, nhiều khi ông phải đập cửa mới uể oải dậy . Tập xong về đến cửa, Trần Quảng đã ngửi thấy mùi khăn khẳn rất lợm giọng. Ông cho rằng đó là mùi chuột chết định vòng ra phía sau tìm thì bất chợt nhìn thấy bó chiếu dựng ngay cửa sổ. Là người đã từng nếm mùi tù đày cận kề cái chết không chỉ một lần mà chủ tịch Trần Quảng cũng thấy lạnh sống lưng, mặt xám ngoét, miệng ú ớ không nói được câu nào. ít phút sau mấy công an bảo vệ hạ cái xác xuống khênh ra vườn nhãn. Người ta tìm thấy trong tay ông Chủ tịch lá đơn Trịnh Doãng đọc cho con trai viết:

Kính gửi ông chủ tịch!
Tôi là Trịnh Doãng, phó thường dân làng Cùa, xã Đoàn Kết, huyện Nam Thành, đã có vinh dự được nấu món lươn om củ chuối phục vụ đoàn cán bộ do ông dẫn đầu về thăm xã vì thành tích làm thuỷ lợi nội đồng ngày... tháng... năm.... Dịp ấy, ông còn chiếu cố bắt tay và cho tôi tấm danh thiếp, hẹn có việc gì cần cứ đến gặp ông. Nay tôi làm đơn này gửi lên ông để kêu oan về cái chết mờ ám của thằng Trịnh Dọng con tôi. Nó là thằng bé mới mười bốn tuổi, bản tính thật thà, từ bé đến giờ chưa hề trộm cắp của ai. Đêm ngày 17 tháng 6 lúc nó đang thả ông lươn thì nhìn thấy Tào Văn Khắc, Bùi Quốc Tiếm cùng đồng bọn mở kho ăn trộm thóc hợp tác. Sợ sự việc bại lộ, chúng xúm nhau lại đánh chết thằng Dọng rồi vu oan cho nó phá cửa kho, vác thóc ra ngoài, bị dân quân bắt đã dùng vũ khí chống lại. Công an huyện Nam thành về xã, lập biên bản xong được bí thư Bùi Quốc Tầm và chủ nhiệm Tào Văn Hỗ làm thịt con lợn sáu chục cân thết đãi. Họ kết luận vụ án theo lời khai của các nhân chứng do ông Tầm và ông Hỗ sắp đặt hoàn toàn sai sự thật. Tôi đã trực tiếp lên huyện công an khiếu nại nhưng xuýt nữa bị ông Đoàn Danh Thẩm tống giam. Gia đình tôi giờ cùng đường rồi chẳng biết bày tỏ với ai nỗi oan khuất này, vì vậy đành phải mang xác Trịnh Dọng lên trình với ông, mong ông đèn giời soi xét giải nỗi oan và trùng trị những kẻ tàn ác, bất lương, vô nhân đạo đã giết chết nó.

Kính đơn
Trịnh Doãng đã ký

Lúc ấy bọn Trịnh Doãng đã ra đứng ở cổng Chùa. Hắn đưa tấm danh thiếp cho người gác cổng xin được gặp ông Quảng. Anh ta nhìn hắn đầy vẻ nghi ngại:
- Anh là thế nào với ông chủ tịch?

Doãng ngẫm nghĩ một thoáng rồi nói bừa:
- Là em họ.
- Chưa đến giờ làm việc mời anh ra bên ngoài đợi một lúc.

Cùng lúc ấy, một chiếc xe com măng ca bóp còi inh ỏi chạy từ vườn nhãn ra rồi quặt xuống làng Tào Khê. Đó là xe ông Trần Quảng. Ông Quảng từ lâu mắc chứng suy tim do thời gian tù Sơn la bị tên cai ngục Lơgiê bắt uống một loại độc dược làm co thắt động mạch vành, thỉnh thoảng huyết áp tăng vọt, những lúc làm việc căng thẳng hay bị ngất. Lần này nhìn thấy cái xác bó chiếu nhất là sau khi đọc lá đơn kêu cứu của Trịnh Doãng, ông chủ tịch bị sốc rồi đột quỵ ngay tại chỗ. Anh em cán bộ văn phòng vội đưa đi cấp cứu nhưng không kịp. Trần Quảng qua đời khi xe chỉ còn cách bệnh viện sơ tán không đầy trăm thước.

Ông Chủ tịch mất làm Tỉnh uỷ, uỷ ban hành chính và các ngành chức năng rối lên. Người ta bận tổ chức lễ tang nhưng không quên tay thả ống lươn. Đáng lẽ Trịnh Doãng mang thằng con về ngay còn nhẹ tội, đằng này hắn cứ định xông vào tỉnh đường kêu gào khóc lóc, trong khi cái xác bó chiếu mỗi lúc một nặng mùi làm ông Chánh văn phòng phải cử ngay mấy nhân viên hành chính mang ra chôn ngoài Đống Cao rồi gọi điện báo cho ty công an. Ông Hà Văn Trai, Trưởng ty, đang ngấp nghé chân Phó Chủ tịch phụ trách nội chính vốn rất kính trọng Trần Quảng liền ra lệnh tống Trịnh Doãng vào trại giam với tội danh khủng bố. Thấy tay thả ống lươn bị bắt, Nguyễn Đình Phán vội kéo ông Mộc nhảy xuống hào giao thông chạy bán sống bán chết, khoảng nửa giờ mới ra khỏi làng Bầu. Cả hai mệt đứt hơi, ngồi thở một lúc, khát quá liền vốc nước ruộng uống. Lúc ấy mặt trời đã lên quá con sào. Nguyễn Đình Phán ghé tai lão thợ mộc nói nhỏ:
-Ta về thôi bác, chuyến này thì Trịnh Doãng gay rồi.

Ông Mộc dỏng tai nghe, có vẻ đã hiểu liền bảo:
-Tôi với chú ngu hơn chó, nghe hắn xui dại, suýt nữa vào nhà đá hết lượt.

(còn tiếp)