PDA

View Full Version : Người lính không số quân



vunivercial
05-24-2009, 06:06 PM
:40:NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN

Trần như Xuyên


Tối đó, tôi dẫn Đại đội tới điểm đóng quân đêm, đây là ngày đầu tiên tôi
nắm Đại đội, sáng nay có cuộc bàn giao ở Tiểu đoàn, người Đại đội trưởng tiền
nhiệm,cũng là khóa đàn anh của tôi, có sự vụ lệnh đi học khóa quân chánh.
Ra trường được sáu tháng, từ anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ đã lên
nắm Đai đội, quả là thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn cùng khóa ở các
binh chủng khác như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến..., có lẽ họ vẫn còn đang thực
tập ở Trung đội hay là Trung đội trưởng mà thôi. Tôi nắm Đại đội hơi nhanh không
phải vì mình tài giỏi gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa bạn khác chọn đi
Bộ binh, các đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại đội
xử lý là một Chuẩn úy, gọi là xử lý cũng không đúng vì trong cấp số coi Đại đội thì
tối thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không hiểu sao vào những năm này, sĩ quan
quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt mới ra
trường là các đơn vị nhao nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu đoàn 4/46 thì một
ông đàn anh khóa 16 đang làm Đại đội trưởng xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang,
khóa 16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam vì dính dáng tới vụ Phật Giáo,
ngoài đó ông đã là Tiểu đoàn phó nên vị Tiểu đoàn Trưởng cũng có hơi nể, quay
quắt vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng
như mắm tôm, ông nghiêm khắc với mọi người nhưng rất chí tình trong việc chỉ
bảo cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy mà dầu sao tôi cũng còn quá mới, quân
trường dậy là một chuyện, ra đây đụng với thực tế lại là một chuyện khác.
Cứ như vậy, những lần hành quân, ông cho tôi ở cạnh để học hỏi hoặc cho
xuống trung đội để thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi đã tàm tàm gọi là đủ lông,
đủ cánh bay solo được, ông nói với Tiểu đoàn Trưởng và bàn giao Đại Đội lại cho
tôi, trước đó, ông đã thu xếp người Đại đội phó đi học để tôi coi Đ.Đ được danh
chính ngôn thuận.
Nói về tối đầu tiên tôi dẫn Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường tọa độ đóng quân
đêm cùng các điểm phục kích do Tiểu đoàn chấm, tối đó đang di chuyển trên
đường tôi thấy có một người đàn bà đi lẫn trong toán đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ
Hội, thường vụ đại đội, ông ta đi lính hồi tôi còn học Tiểu học:
- Ai vậy ông Hội, sao có đàn bà lẫn lộn vào đây?
- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với Đại Đội lâu
rồi, hồi còn Trung úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ được vài ngày là nó lại lẻn
xuống sống với chồng nó.
- Tôi thấy không được rồi đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn công thì làm sao,
thằng Nở chỉ lo cho vợ nó thì còn đánh đấm gì được.
- Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ nó rất đắc lực, chị ta biết xử dụng đại liên,
biết tiếp đạn cho chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là nó lại lau chùi cây đại liên
nữa.
- Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao mình báo cáo.
Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:
- Sao cậu không để cho vợ cậu ở nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy, lỡ
có chuyện gì thì sao?
- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ nhỏ, không có nhà, em đã đưa nó
về với má em rồi nhưng má em không ưng nó, cứ kiếm chuyện với nó hoài, cho nó
theo ĐĐ, thấy cũng bất tiện, em biết chứ.
Nở thực hiện lời"em biết chứ", vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở đi chung
trong toán đại liên nữa, tôi hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở đưa vợ ra bến
xe về quê mấy bữa nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ vậy cũng phải, lỡ có
chuyện gì thì làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận với nhau chứ.
Một hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp thư của ĐĐ đưa cho tôi, trước đó
tôi có dặn anh ta là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ của binh sĩ xem biết đâu
có đứa bị móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy có một lá đề tên Nở, khi tôi coi ĐĐ
thì Nở không biết chữ, sẵn dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn ai không biết chữ
gom tất cả lại, đâu cũng được 5,6 người, tôi nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT
mua tập vở về dậy họ học,"ngày mãn khóa", tôi kêu từng người đưa tờ Chiến sĩ
Cộng Hòa cho đọc, ai đọc được, tôi thưởng cho bốn ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ
từ ngày đó.
Có bốn ngày phép, Nở không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn chơi ở
mấy nhà quen trong xã, hết bốn ngày, Nở về lại ĐĐ.
Tôi mở lá thư của Nở ra đọc:
Long Xuyên, ngày....
anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh là lúc ba giờ phia, em chờ má
ngủ mới dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá hà, sao số kiếp cứ đài
đọa tụi mình hoài, nhớ những lúc điêm tối cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ
chồng được gần nhau cũng hơn há anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn
quá, lúc xe chạy, em thấy như mất mác cái gì quí báo, em khóc ước cả mắt, em cố
chìu chuộng má mà má vẫn hổng thương em, thôi để em lên quỳ xinh với ông
thiếu úy để em được đi theo anh, liệu được hôn anh, diết thơ nầy xông, mơi sẽ
gởi cho anh, anh hai nhớ trả lời em nghe.
Em, Ba.
Một tuần lễ sau khi đọc lá thư của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại Đội đi đóng
quân, tôi lại thấy cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với toán đại liên, lẫn vào hàng
quân, không biết anh Hai có trả lời, trả vốn gì không hay nhớ chồng lên đại, tôi
thấy chị ta cố lẩn vào đám đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc có thể biết tôi đã
thấy nhưng làm nước liều, có điều hôm nay không mặc bộ bà ba đen thường lệ
mà là bộ đồ trận rộng thùng thình, đầu còn đội nón sắt, chị ta tính ngụy trang
che mắt tôi, tôi cười thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn nguyên một dây đại
liên quanh người, tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin gì cả, chẳng thà để tôi lờ đi
như không biết còn hơn là hợp thức hóa cho khó xử.
Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh thường có ba Đại đội tác chiến, chia nhau
vùng trách nhiệm họat động, hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ
huy TĐ, đôi khi có cuộc hành quân cấp Tiểu đoàn thường là nhẩy trực thăng và xa
hơn. Ba Đại đội trưởng tác chiến đều cùng khóa 21 Đà Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà
(ĐĐ1), Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi ĐĐ3.
Một tối, Đại đội 1 bị tấn công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ con đường từ Long
Thượng về Cần Giuộc, tôi nằm cách Hà(ĐĐ2) khỏang 500 thước, Tiểu đoàn mất
liên lạc với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng đóng quân ở
đây, chắc chắn là địch tấn công từ ngã rạch tấn công ra, tôi dẫn Đại đội chạy
băng lên vì tình người bạn cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn chặn nơi đầu rạch,
nhưng vì không liên lạc được với Hà, tôi sợ quân ta bắn lầm quân bạn,, tôi chạy
lại cây đại liên, cho chuyển hỏa lực về bên trái, dưới ánh sáng của pháo binh Cần
Giuộc, tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng
bóp cò, nhả từng loạt đạn về hướng địch.
Như tôi đã nói ở trên, dạo đó ở Long An VC chưa nhiều, chắc khoảng hai
chục tên, đợi mình ơ hờ, liều lĩnh tấn công.Cũng tại nơi con rạch này, ít lâu sau,
ĐĐ tôi hành quân lục soát ở đây và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng vì địch tụ ở đâu
về, ém quân trong đám dừa lá dầy đặc như vùng bất khả xâm phạm, chắc chúng
tập trung ở đây, đợi đêm xuông có giao liên dẫn chúng xâm nhập Đức Hòa, Đức
Huệ rồi qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục, chúng buộc phải chống trả.
Đám dừa nước cao ngất che dọc theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào là đồng
trống, suốt vùng Long An này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban đầu làm ta có ba
binh sĩ bị thương và một chết, tôi xin pháo binh và Cobra lên vùng, hồi đó gọi
máy bay ném bom còn là một điều mới mẻ, vũ khí xử dụng là của thời đệ nhị thế
chiến, toàn là Garant, Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây đại liên 30 của
Hạ sĩ Nở cũng có tác dụng. Nở người hơi thấp nhưng rất khỏe, một mình vác cây
đại liên cả với chân ba càng, mỗi lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket là
anh ta chạy nhào lên cho gần mục tiêu, lúc đó địch còn lo núp. Khi đã rất gần
mục tiêu và có gò đất làm điểm tựa chắc chắn, cây đại liên mới phát huy được
hiệu quả của nó, từng loạt đạn bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu lên được,
cộng thêm pháo và trực thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm được mục tiêu lúc gần tối,
địch bỏ lại 6 xác và một số vũ khí. Trận đánh như thế này không đáng kể gì so
với sau này khi SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách nhiêm mới là Tây Ninh,
cuộc hành quân vượt biên năm 1970 cũng như ở Bình Long mùa hè đỏ lửa thì
chiến trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân đoàn.
Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh, Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận
đánh và gắn huy chương, tôi đề nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ nhất nhưng
Tướng Chinh là người rất ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy chương và thăng
cấp, Nở chỉ được cái huy chương đồng, ông bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng
huy chương vàng của các nơi khác(!)
Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ dưỡng quân, tôi xuống tổ đại liên chơi, cả
toán đang ngồi ăn cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê cái huy chương của chồng,
thấy tôi, chị có vẻ ngài ngại gật đầu chào rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá tôi có
quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy một cái huy chương của buổi tối yểm trợ cho Vũ
đình Hà.
Đầu năm 1968, tôi được đề cử theo học khóa Tác chiến trong rừng ở Mã Lai,
tôi còn gắn bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một buổi sáng, đang đứng trước cửa
ĐĐ thì vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại muốn
thối lui nhưng không kịp, chị ta làm gạo bước tới và khi ngang qua tôi, vợ Nở mím
môi lại và dơ tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc nhiên, trong một phản xạ, tôi
chào lại, chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ: sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ
này có một nữ quân nhân ư? Có lẽ chị ta thấy mọi người trong ĐĐ chào tôi nên
khi gặp, chị cũng chào để cho giống như những người kia chăng! Tôi thấy hình
như bụng vợ Nở có hơi to ra. Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ Hội thì ông ta bảo:
có vẻ như vậy Trung úy.
Tôi gọi Nở lên:
- Vợ cậu có bầu phải không?
- Dạ, thưa Trung úy.
- Vậy thì cậu phải đưa cô ta về với bà già đi chứ, bầu bì rồi đi theo
ĐĐ mãi sao được, phải lo sức khỏe cho cô ta.
- Dạ, em cũng tính tháng này lãnh lương xong, Trung úy cho em cái
phép để em đưa nó về gởi bà già.
- Được rồi, lúc nào muốn cứ lên đây.
Hai ngày sau, Đại Đội được lệnh đóng quân đêm và tổ chức một cuộc phục
kich ở sau lưng quán Năm Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự khuấy rối của VC
nơi đây, tối đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ bọn chúng gặp toán phục kích, hai tên
bị bắn hạ, số còn lại nhập qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ toán phục kích nổ
súng trước nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn
công nên sau một hồi, chúng rút lui, hình như có chuyện gì xẩy ra ở cây đại liên vì
tôi thấy nó nổ được một chập thì im bặt, tôi đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng
thủ, không có tổn thất nào, nhưng khi tới cây đại liên, tôi thấy có mấy người lố
nhố, linh tính cho tôi biết có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:
- Gì vậy Nở?
Không có tiếng trả lời, tôi bước vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ đang loay
hoay băng vết thương nơi ngực chị ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:
- Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!
Tôi ngồi xuống, chị ấy bị trúng đạn ở ngực, máu ướt đẫm cả cái áo trận, y tá
Thọ đứng lên:
- Chết rồi Trung úy.
Tiếng thằng Năm trong toán đại liên:
- Súng bị kẹt đạn, thằng Nở kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm
dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống nhưng không kịp Trung úy.
Tôi thấy nghèn nghẹn ở cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái chết nhưng lần
này tôi thật xúc động. Thôi, chị Nở, từ nay chị hết cần phải tránh né tôi nữa rồi,
sao tôi lại không cứng rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng tình cờ đọc được lá thư chị
viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải cứng rắn hơn, nhất định không cho chị đi theo
ĐĐ như vậy.
Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra, ông có biết vợ
chồng Nở, ông cho Sĩ quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một cái xe Dodge
để đưa vợ về quê mai táng. Tôi lấy hết tiền có thể có được, cả tiền quỹ ĐĐ đưa
cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và quan tài vợ đi
ngang qua ĐĐ, tôi đứng nghiêm chào như một lần chị đã chào tôi, chị chết đi mà
cái hòm không có phủ cờ, không được mười hai tháng lương, không cả được lên
cấp chỉ vì chị là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ QUÂN.
Mười ngày sau, Nở trở lại đơn vị, trước ít ngày tôi về SG để chuẩn bị đi học,
Nở đào ngũ, có lẽ Nở không chịu được cái cảnh mỗi tối vác cây đại liên tới chỗ
đóng quân mà không có vợ bên cạnh.

X X X
Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện
này về chị, chỉ là một sự tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc loáng thoáng đâu đó người ta
nói về những gương chiến đấu của Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống
CS xâm lược trước đây, tôi chợt nhớ tới chị, một người không phải là quân, cũng
không hoàn toàn là dân, gọi chị là gì nhỉ, chị lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến đấu
như một người lính thực thụ và đã hi sinh.
Một lý do nữa để tôi viết về chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt Nam đã làm ầm ĩ lên
câu chuyện về Đặng thùy Trâm, một nữ cán binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết
ở chiến trường Quảng Ngãi, cô Trâm này chết ở đây nhưng không ai biết nắm xương
khô vùi chôn nơi đâu, một người lính Mỹ hành quân qua nơi cô chết và nhặt được
cuốn nhật ký của Đặng thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một kỷ niệm chiến tranh
của người lính, anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau, nó mới được đưa ra ánh
sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy Trâm ở Hà Nội.
Nhà nước CSVN chụp được cơ hội này cho xuất bản cuốn nhật ký, dĩ nhiên với
nhiều thêm thắt để khơi động lòng yêu nước của đám thanh niên càng ngày càng rời
xa chủ nghĩa CS. Đặng thùy Trâm là một Bác sĩ, nhưng không hiểu có được học hành
tử tế để thành một Bác sĩ không, tôi đã đọc được một truyện khi ở tù ngoài Bắc là có
một anh công nhân được tặng danh hiệu anh hùng lao động vì đã phục vụ 15 năm
trong phòng bào chế thuốc, và vì phục vụ hăng say và lâu như vậy, anh được thăng
lên làm dược sĩ vì quen với công việc bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới đi học
bổ túc văn hóa vì anh ta viết chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy, tôi không biết Bác
sĩ Thùy Trâm này trình độ có khá hơn y tá Thọ của Đại Đội mình năm xưa không,
hay cũng như mấy bà mụ vườn ở nhà quê.
Thưa chị Nở, cả chị và cô Đặng thùy Trâm này là hai người đàn bà ở hai chiến
tuyến chết trong cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và độ tuổi cũng gần như
nhau, nhưng hai cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau, Thùy Trâm bị bắt buộc và tự
đi tìm cái chết, còn chị, chị bị chết vì người ta ở mãi đâu vô đây tìm để giết chị, chị chỉ
là tự vệ, chị không hận thù ai, không ai dậy chị oán thù, không ai tuyên truyền với
chị về chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ và cũng không nhân danh chủ nghĩa để chém
giết người khác, chị rất đôn hậu, còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ ngoài đó vào đây,
mang trong lòng sự thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi nhét, miền Nam này nào có
cần ai phải giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau này, người miền Nam vẫn khẳng
định rằng họ không cần ai giải phóng cả.
Chị Nở có thấy điều buồn cười này không là trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm viết
là sao quân Mỹ Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị Nở có thích chém giết ai không hay
người ta vào đây tìm giết chị, từ ngoài đó lần mò vào tận trong này để tìm giết người
ta lại còn hô hoán là sao người ta thích chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng trong cuốn
nhật ký, Thùy Trâm than phiền là phấn đấu đã lâu nhưng chưa được kết nạp đảng,
đây cũng là lý do vì sao Thùy Trâm đi B, cố gắng trong công tác để chỉ mong được
đảng kết nạp, chị Nở có biết cô ta mong được kết nạp để làm gì không, thưa là để có
cơ hội được làm lớn, có đảng mới được làm lớn, có làm lớn thì mới có quyền và có
tiền, bây giờ cả cái nước Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau vơ vét tiền bạc của
người dân, chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ dân, chúng đem những người giầu có ra
đấu tố, gọi họ là địa chủ, giờ thì ai đấu tố chúng? Thùy Trâm này nếu mà không chết
và giả như có ô dù, giờ có thể là Bộ trưởng Y tế hay làm Giám đốc một bệnh viện nào
đó thì cũng là những con giòi, con bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt Nam.
Cũng là cái chết nhưng chị chết trong vòng tay người chồng, có mồ yên mả đẹp,
có nhang, có khói, tội cho cha mẹ cô Thùy Trâm, không biết nắm xương khô con giờ
ở chỗ nào, họa chăng là cái bàn thờ với tấm hình cô ấy mà thôi.
Bốn mươi năm đã qua, bây giờ nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ, ông Thiếu úy trẻ
năm xưa giờ là ông cụ già rồi, vẫn khó tính như trước và đang phiêu bạt nơi xứ người,
Thượng sĩ Hội đã mất, Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp lại, chắc đã có vợ khác, xin
được tạ lỗi cùng chị là đã không giữ được đất nước để rơi vào tay quân thù, thật
không xứng đáng với sự hi sinh của chị, chúng tôi làm mất nước không phải vì hèn
kém, không chiến đấu, mất nước vì bị phải mất nước.
Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau ngày chị mất, vũ khí được tối tân hóa,
những cây Garant cổ lỗ sĩ được thay bằng súng M16, còn cây đại liên 30 nặng chình
chịc chị biết đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ hơn, bắn nhanh hơn và không hay
bị kẹt đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ quên những
người đã hi sinh vì mảnh đất miền Nam thân yêu, không bao giờ quên được những
gương chiến đấu dũng cảm của quân và dân trong việc chống lại quân Bắc phương
xâm lược, hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ này như được thắp nén hương trang
trọng cho chị, thưa chị Nở.
Trần như Xuyên

hoangkybactien
05-24-2009, 08:58 PM
***

Một nén hương thành kính xin gởi đến chị, một người dân chân chất của miền Nam VN, đã :

Vì Nước Quên Mình,
Tận Trung Báo Quốc .

Hùng sử VN có thêm được trang mới cũng là do máu đào từ những người con dân như chị viết lên .

Mong cho hương linh của chị được an lạc nơi cõi vĩnh hằng .

Thành kính tri ơn,

***