Trần Hòa
05-27-2015, 08:13 AM
Biển Đông (The South China Sea).
VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Trần Hoà : Sưu tầm trích dẫn (from NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG) (http://nghiencuubiendong.vn/) and Multiple other sources
A - TỔNG QUAN VỀ BIỂN ĐÔNG
Biển Đông trải dài trên khu vực đại dương có diện tích 1.4 triệu dặm vuông, bao gồm hàng trăm các đảo, đá, bãi cạn, bãi san hô nhỏ với tổng diện tích là 6 dặm vuông . Các đảo ở đây không có người dân bản địa sinh sống mà chỉ có một số lượng nhỏ người cư trú do các quốc gia đưa ra để thúc đẩy yêu sách của mình. Biển Đông có trữ lượng tài nguyên biển giàu có, vốn được khai thác từ lâu đời bởi các nước trong khu vực. Trữ lượng dầu và khí vẫn còn chưa được xác định rõ, phần lớn trong số đó thuộc diện khó khai thác nên cho đến nay vẫn chưa được khai thác. Hơn một nửa tổng lượng giao thương hàng hóa trên biển và gần một nửa tàu chở dầu trên toàn thế giới phải đi qua vùng nước Biển Đông.Biển Đông bao bọc bốn nhóm quần đảo chính:
• quần đảo Đông Sa (Pratas) nằm ở phía Đông Bắc,
• quần đảo Hoàng Sa (Paracel) tại phía Bắc,
• quần đảo Trường Sa (Spratly) tại phía Nam
• và bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough Shoal) tại vùng trung Đông.
(Bãi Macclesfield chỉ là một quần thể đá ngầm chìm hoàn toàn dưới mặt nước nằm ở trung tâm Biển Đông.)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/island_1432756746.png
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/ban do BD_1432703901.jpg
Tất cả những quần đảo này đều được Trung Quốc lục địa và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.
Trong khi đó, Việt Nam đòi chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa còn Philippines khẳng định Trường Sa và Hoàng Nham là của mình, Malaysia và Brunei chỉ yêu sách một vài đảo ở Trường Sa.
Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát Hoàng Sa kể từ khi nước này dùng vũ lực xâm lấn quân đội miền Nam Việt Nam đóng tại đảo vào Tháng Một năm 1974. Tuy nhiên, tại Trường Sa, Việt Nam lại là nước kiểm soát nhiều đảo nhất (khoảng 25 đảo tất cả). Trung Quốc và Philippines chiếm đóng khoảng 7 - 8 đảo tại đây, Malaysia chiếm 4 đảo và Đài Loan chiếm 1 đảo.
History - Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
Các sự kiện chính liên quan đến tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Viet Nam :
• 14/9/1958 :Công hàm của Phạm Văn Đồng về tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý.
• 1973:Việt Nam Cộng Hòa sát nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
• 15-20/1/1974:Trung Quốc dùng không quân và hải quân đánh chiếm nhóm phía Tây của quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng. Kể từ đây, Trung Quốc chiếm trọn Hoàng Sa.
• 1974:Tại hội nghị Luật biển lần thứ 3, kỳ 2 tại Caracas, đại biểu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa tố cáo Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực, và khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam
• 14/3/1975:Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã sách trắng về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lên án mạnh mẽ Trung Quốc dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo.
• 11/11/1975:Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
• 1976:Việt Nam công bố bản đồ của nước Việt Nam thống nhất, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
.
• 12/ 5/ 1977:Việt Nam ra Tuyên bố thứ nhất về đường cơ sở để xác lập vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
• 17/2/1979:Bắt đầu chiến tranh biên giới Trung-Việt
• 3/1979:Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt – Trung, trong đó có điểm 9 tố cáo Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào ngày 19 và 20 tháng 1 năm 1974.
• 30/7/1979:Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã công bố sách trắng xuyên tạc một số tài liệu có liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chứng minh rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo này.
• 28/9/1979:Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giới thiệu thêm 19 tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo.
• 14/3/1988: Trung Quốc đã đánh chìm 2 tàu lớn của hải quân Việt Nam, , bắn hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Xubi.
• 12/11/1982: Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Xubi.
• 3/1/1989: Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các đảo và bãi đá đã chiếm được của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
• 28/4/1989: Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số “bãi Vạn An và bãi Nhã thuộc quần đảo Nam Sa” ( cụm KT – KH – DV Vũng Tàu – Côn Đảo của Việt Nam.)
• 1990: Tại Hội nghị Thành Đô, lãnh đạo hai nước Việt-Trung đã quyết định bình thường hoá quan hệ hai nước sau hơn 10 năm biến cố.
• 7/1992: Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC)
• 9/1992:Trung Quốc khoan thăm dò tìm dầu ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ thuộc phía Việt Nam.
• 4/1994:Việt Nam ký hợp đồng với công ty dầu khí Mobil oil của Mỹ thăm dò khai thác dầu khí ở khu vực Thanh Long
• 12/5/1994:Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối Việt Nam cho phép công ty dầu khí Mobil-oil thăm dò khai thác ở khu vực Thanh Long là vùng biển phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc.
• 19/10/1995:Trung Quốc phản đối Việt Nam thăm dò địa chấn trong Vịnh Bắc Bộ.
• 15/12/1995: Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-02 vào Vịnh Bắc Bộ, cách đường trung tuyến 5-6 hải lý về phía Việt nam.
• 10/3/1996: Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-06 hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ, vào sâu trong vùng biển của Việt nam 3 hải lý.
• 12/1997: Việt Nam phản đối tàu khai thác số 8 và hai tàu hộ vệ 615 và 616 của Trung Quốc thăm dò khảo sát dầu khí cách phía Tây bãi Phúc Tần 15 hải lý thuộc khu vực DK-1, bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu hải quân Việt Nam phải áp tải buộc các tàu này ra ngoài.
• 4/11/2002: ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) trong khuôn khổ của cuộc họp cấp cao ASEAN 8 tại Phnompenh (Căm-pu-chia)
• Cuối năm 2007 :Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý 03 quần đảo trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này dẫn đến các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ở Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức phản đối việc làm của Trung quốc thông qua người phát ngôn.
• 7/5/2009: Việt Nam nộp báo cáo đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực phía bắc nộp lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS). Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bò” . Việt nam phản đối công hàm của Trung Quốc
Xem tiếp sử ký tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông từ thế kỷ 19 đến nay (gồm tất cả các nước tranh chấp liên hệ) Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/533-ai-s-ky-tranh-chap-chu-quyen-tai-bien-ong)
Bên cạnh các tranh chấp chủ quyền được trích từ nguồn 'nghiencuubiendong' ở trên, xin post thêm ở đây, đoạn trích của bài viết : Phan Châu Thành (nguồn: Danlambao):
Công nghệ bán nước và cạp đất của CSVN
"Từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc năm 1945 rồi cả nước năm 1975 đến nay, CSVN đã liên tục tìm mọi cách bán lãnh thổ quốc gia Việt Nam ta cho Tàu cộng theo nhiều đợt, nhiều cách (nhiều công nghệ bán nước) khác nhau, tùy điều kiện, tình hình và đối tượng bán. Đó là vào những đợt 1956-1958 -1974 (bán quần đảo Hoàng Sa), 1979 (cắt đất biên giới), 1988 (bán 7 nhóm đảo đá Trường Sa), 2000 (lại bán đất biên giới như Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, Lão Sơn), 2005 (bán 13% lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ), 2005-2010 (bán trên 300,000 ha rùng biên giới, Bauxite Tây nguyên, Vũng Áng và hàng chục Khu công nghệ, hàng trăm “dự án” khác),
Trong tất cả các phi vụ bán nước cho Tàu đó, CSVN đều thực hiện mục tiêu bán nước dần dần, vì chúng phải lừa dối cả dân tộc Việt Nam, qua bốn bước như sau ....
Bước 1 - Lừa bịp nhân dân ...
Bước 2 - Giúp Tàu âm thầm đổi chủ ...
Bước 3 - Âm thầm công nhận Chủ quyền Tàu và bảo vệ lãnh thổ cho Tàu
Bước 4 - Đổi màu ..."
Xem toàn bộ chi tiết @ Sinh nghề tử nghiệp... (http://danlambaovn.blogspot.com/2015/05/cong-nghe-ban-nuoc-va-cap-at-cua-csvn.html)
Quần đảo Trường Sa:
Người Pháp gọi là Archipel des ile Spratley, người Anh, người Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo. Philipines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinan Guto.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và các Cam Ranh 250 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 6o 2’ vĩ B, 111o28’ vĩ B, từ kinh độ 112 o Đ, 115 o Đ1.4) trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến 180.000 km2. Biển tuy động nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng 11km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của tiễn sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Trần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính).
Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính là các đảo, đá, bãi phụ cận. Philipines đã liệt kê mộ danh sách 53 đơn vị gồm hòn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản đồ Qân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia ra làm chín cụm chính kể từ Bắc Xuống Nam.
Danh sách các thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa: Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/4830-danh-sach-cac-thuc-the-dia-ly-thuoc-quan-dao-truong-sa)
Quần đảo Hoàng Sa:
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi khoảng 15.000 km2, giữa kinh tuyến khoảng 111 độ Đông đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý(1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05’ xuống 15o45’ độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
Quần đảo Hoàng Sa năm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi
Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần với đất liền Việt Nam hơn cả: Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An(Cap Batangan:15 vĩ độ B, 108 độ 6’ kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý, cách cù lai Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoang Sa Pattle: 16 độ vĩ B 111 độ 6’ Đ và Ling-Sui hay Leing Soi: 18 độ vĩ B, 110độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa thì còn xa hơn nhiều, tổi thiểu là 235 hải lý.
Đoạn bờ biển Quảng Trị chạy dài xuống đến Quảng Ngãi đối mặt với các đảo Hoàng Sa luôn hứng gió Mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhận các thuyền hư hại bị bão làm hư hại ở vùng biển Hoàng Sa. Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện cho các thuyền ấy về nước nên họ thường bảo nhau tìm cách dạt vào bờ biển của Việt Nam để nhờ cứu giúp. Chính vì vậy Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới, hết sức quan tâm, cùng xáp lập và thực thi chủ quyền của mình.
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên không cao, nhất là đảo Hòn Đá(50 feet), đảo thấp nhất là đảo Tri Tôn(10 feet). Các đảo chính gồm hai nhóm:
- Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
- Nhóm An Vĩnh ở (Amphitrite group) ở Đông Bắc.
Danh sách các thực thể địa lý thuộc quần đảo Hoàng Sa: Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/560-hoang-sa)
Các vùng chồng lấn do tuyên bố của các bên
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/claimed_all_map_1432707673.jpg
Đường Chữ U - Yêu sách tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Umap_1432708123.jpg
Yêu sách của các bên tại Biển Đông.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Umap2_1432708352.jpg
Yêu sách của các bên tại Biển Đông.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/hientrang_1432708537.jpg
B - Địa chiến lược và Tiềm năng kinh tế Biển Đông
Tài liệu trich từ nguồn: NghienCuuBienDong - Trần Bông (gt) ( http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/504-bien-ong-ia-chien-lc-va-tiem-nng)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/claims 2_1432708948.jpg
Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung Hoa theo tên tiếng Anh (The South China Sea) là một biển rìa Tây Thái Bình Dương.
Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, địa danh biển không có ý nghĩa về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận.
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Tiềm năng của Biển Đông
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippin, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối.
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.
Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á.
Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm:
- Tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê,
- Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân;
- Tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe;
- Tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình Dương;
- Tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.
Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản.
Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy, việc Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với nhiều nước.
Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu:
1) Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua.
Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn.
2) Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á.
Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la). Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.
C - NGUYÊN TẮC VÀ LỢI ÍCH CỦA MỸ
Trong tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đối đầu với 5 bên yêu sách chủ quyền khác, bao gồm Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan. Trong số đó, rất nhiều tuyên bố chồng lấn với nhau. Tranh chấp Biển Đông xoay quanh:
Tuyên bố chủ quyền dựa nhiều vào cảm tính đi kèm với chủ nghĩa dân tộc dâng cao trong khu vực
Nguy cơ xảy ra các xung đột bất ngờ có thể leo thang
Những yêu sách đối lập nhau về các nguồn tài nguyên phong phú (có tiềm năng khai thác)
Hiểm họa đối với tự do hàng hải trong các Vùng Đặc quyền Kinh tế
Xung đột về cách diễn giải và khả năng ứng dụng luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển (UNCLOS).
Tranh chấp Biển Đông cũng liên quan đến lợi ích của Mỹ, đặc biệt là về vấn đề tự do hàng hải, luật và quy chuẩn quốc tế, quan hệ với các đối tác và đồng minh quan trọng và việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Mỹ có lợi ích cốt yếu trong việc bảo đảm với các đồng minh và đối tác của mình trong khu vực và rằng Mỹ sẽ duy trì hiện diện mạnh mẽ về an ninh tại đây để ngăn chặn nguy cơ “khoảng trống quyền lực” (power vacuum) xuất hiện khi Trung Quốc trỗi dậy. Điều này đòi hỏi Mỹ tiếp tục tham gia tích cực tại Biển Đông, tiến hành các bước đi khuyến khích cách hành xử có trách nhiệm và ngăn chặn những hành động cưỡng ép từ tất cả các bên. Philippines, một trong số các bên tranh chấp, là đồng minh hiệp ước của Mỹ. Mỹ cần phải tôn trọng hiệp ước an ninh của mình, trong đó bao gồm cả các hòn đảo chính của Philippines cũng như “tàu và máy bay công của nước này.”
Mỹ cần phải đánh giá một cách đúng đắn về vấn đề Biển Đông, định hình một chiến lược nhằm giảm thiểu tối đa khả năng bị cuốn vào đối đầu hay xung đột có thể khiến hàng loạt các vấn đề cốt yếu khác (như chương trình hạt nhân tại Iran và Bắc Triều Tiên; thúc đẩy thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế; chống biến đổi khí hậu hay gìn giữ hòa bình ổn định eo biển Đài Loan và Hoa Đông) trở nên khó giải quyết hơn rất nhiều.
Các quy tắc định hướng chính sách của Mỹ đối với khu vực Biển Đông: Trong cuộc họp ARF vào tháng 7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã đưa ra các nguyên tắc và đã tạo thành nền tảng, mặc dù không phải toàn bộ, cho các lợi ích của Mỹ trong khu vực.
Vậy thì, những nguyên tắc này hé lộ điều gì về những lợi ích cụ thể Mỹ? Những lợi ích nào Mỹ cần phải tập trung bảo vệ?
1) Tự do hàng hải/quân sự: Quyền tự do tại biển cả được UNCLOS ghi nhận là điều tối quan trọng với vai trò toàn cầu của Mỹ với tư cách là người đảm bảo an ninh tại tất cả các vùng biển trên thế giới kể cả những vùng biển xa xôi nhất. Dưới cách diễn giải Luật biển của Bắc Kinh, các hoạt động tình báo hay tàu quân sự quá cảnh qua Vùng Đặc quyền Kinh tế của Trung Quốc đều phải được sự đồng thuận của nước này trước khi thực hiện. Mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ thành công trong việc áp dụng cách diễn giải này với Mỹ, lập trường này có thể mang hậu quả tiềm tàng đối với quân đội Mỹ nếu như các tuyên bố chủ quyền bành trướng nhất tại Biển Đông của Trung Quốc trở thành hiện thực. Hiện giờ, lập trường của Trung Quốc vẫn được xem là quan điểm thiểu số trong cộng đồng quốc tế và Mỹ cần đảm bảo điều này sẽ không thay đổi.
2) Tự do hàng không: Khi Trung Quốc tuyên bố thành lập Vùng Nhận diện Phòng không (ADIZ) tại biển Hoa Đông, các nước khác, bao gồm Mỹ, lập tức lo ngại về việc một vùng tương tự được Trung Quốc đưa ra tại Biển Đông. Nếu như ADIZ của Trung Quốc được lập tại Biển Đông, bao trùm cả các vùng mà các nước yêu sách, khu vực sẽ trở nên bất ổn, căng thẳng sẽ dâng cao và do vậy, khả năng này cần được loại bỏ. Tuy vậy, giả sử như khả năng này có xảy ra thật, chúng ta cũng có thể tin tưởng rằng vùng này sẽ không được thực thi theo hướng làm ảnh hưởng tiêu cực tới các tuyến hàng không, cũng giống như ADIZ tại Hoa Đông cho đến nay vẫn chưa gây ra ảnh hưởng nào trầm trọng tới các tuyến đường bay.
3) Thương mại không bị cản trở: Do tất cả các quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, bao gồm chính Trung Quốc, đều có lợi ích lớn trong việc gìn giữ tự do thương mại trên Biển Đông nên khả năng lợi ích chung này bị đe dọa một sớm một chiều là rất hiếm.
4) Giải quyết tranh chấp hòa bình, tránh các biện pháp cưỡng bức: Điều này nên được coi là mục tiêu cốt yếu của Mỹ tại Biển Đông, cũng như tại các khu vực khác, bởi đây là nguyên tắc nền tảng xây dựng nên trật tự quốc tế và là nguyên tắc thiết yếu để duy trì ổn định khu vực. Trung Quốc là bên tranh chấp với khả năng sử dụng ngoại giao cưỡng bức lớn nhất. Cái Trung Quốc gọi là “trỗi dậy hòa bình” (hay “phát triển hòa bình” như các quan chức nước này thường nhắc đến) là điều mà cả thế giới kỳ vọng, đang được đem ra kiểm chứng ở Biển Đông. Mới đây, Trung Quốc đã triển khai hành động trong vùng xám: Trung Quốc không tấn công các đảo do các nước khác kiểm soát, không sử dụng Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) mà dựa vào lực lượng cảnh sát biển để củng cố yêu sách. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đẩy quân Philippines khỏi Bãi Hoàng Nham – ngư trường truyền thống người dân Philippines. Trung Quốc cũng đã điều một hạm đội cảnh sát biển và tàu cá đến khu vực giàn khoan tại Hoàng Sa để ứng phó với tàu Việt Nam. Những hành động kiểu như vậy càng làm gia tăng nghi ngại đối với các bên yêu sách cũng như các nước khác trong khu vực Đông Á về những hành động gây hấn mà Trung Quốc có thể gây ra trong tương lai.
4) Các tuyên bố chủ quyền phải phù hợp với UNCLOS: Yêu sách các quyền bành trướng nhất tại Biển Đông là Đường chín đoạn – đường khoanh vùng hầu như toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc và Đài Loan đều không thể giải thích ý nghĩa của Đường chín đoạn – liệu nó vạch ra yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền trên toàn bộ vùng biển nằm trong đường này (và nếu quả thực như vậy thì chính xác là các quyền gì?) hay nó chỉ đơn giản biểu thị yêu sách của Trung Quốc đối với các thực thể đất liền nằm trong đó? Mỹ phải để tâm tới vấn đề này bởi tôn trọng luật lệ và quy chuẩn quốc tế là nền tảng quan trọng của hệ thống quan hệ quốc tế. Việc áp đặt những tuyên bố chủ quyền với phạm vi rộng lớn như Đường chín đoạn sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới quyền lợi của nhiều nước khác và gây bất ổn nghiêm trọng. Không chỉ có vậy, các công ty và chủ thể Mỹ có thể sẽ muốn tiến hành thăm dò hay đánh bắt tại những khu vực đáng nhẽ ra là biển quốc tế này.
5) Một tiến trình ngoại giao mang tính hợp tác để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ: Mỹ có lợi ích khi các bên tranh chấp đàm phán để dàn xếp yêu sách của mình, dù tiến trình đó là song phương như mong muốn của Trung Quốc hay đa phương như mong muốn của các nước ASEAN. Tuy nhiên, khả năng đàm phán nghiêm túc các yêu sách lãnh thổ trong tương lai gần là không có. Vì vậy, mối quan tâm hiện nay của Mỹ nằm ở việc ngăn ngừa các bên tranh chấp tranh sử dụng các biện pháp cưỡng chế để làm thay đổi hiện trạng hơn là dồn nguồn lực ngoại giao để các bên ngồi lại đàm phán giải quyết các yêu sách.
6) Đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử (COC): Trong “Tuyên bố Ứng xử của các bên tại Biển Đông” (DOC), được kí kết vào tháng 11/2012 vốn không mang tính ràng buộc, các bên yêu sách trong ASEAN có tuyên bố chủ quyền cùng với Trung Quốc đã nhất trí rằng việc áp dụng Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông sẽ góp phần hơn nữa vào việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực. Dựa trên nền tảng của sự đồng thuận, các bên đã đồng ý sẽ theo đuổi mục tiêu này đến cùng. Do các tranh chấp về chủ quyền của các thực thể đất liền tại Biển Đông khó có thể được giải quyết trong tương lai gần, một Bộ Quy tắc Ứng xử với những quy định rõ ràng về cách khẳng định quyền của các bên sẽ là công cụ thiết yếu cho việc quản lý tranh chấp.
Nhân tố cơ bản cho một chiến lược tren cac NGUYÊN TẮC VÀ LỢI ÍCH CỦA MỸ
Mỹ có thể xây dựng một vai trò tích cực tại Biển Đông dựa trên các nguyên tắc mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton đã vạch ra vào năm 2010, nhưng điều này chỉ xảy ra nếu như chính sách ngoại giao của Mỹ tại Biển Đông là một chính sách toàn diện, rõ ràng, hợp lý và hướng tới tương lai. Vậy đâu là nhân tố cơ bản cho một chiến lược như vậy?
• Chính sách của Mỹ phải được dựa trên các nguyên tắc, chứ không đi theo bất kì bên nào. Washington cần phải làm rõ lập trường của mình về việc không yêu sách của bất kì bên nào. Đây là lập trường hiện tại của Mỹ, và nó cần được giữ vững trong tương lai.
• Những nguyên tắc được vạch rõ bởi cựu Ngoại trưởng Clinton, và nay được tiếp nối bởi Ngoại trưởng Kerry là những nguyên tắc đúng đắn nếu được áp dụng như mô tả dưới đây: Mỹ cần triệu tập không chỉ Trung Quốc mà tất cả các bên có tranh chấp khi các bên này có động thái vi phạm những nguyên tắc trên. Tuy nhiên, các quan chức và người phát ngôn của Mỹ nói chung cũng cần phải “hạ nhiệt” trong các nhận định công khai của mình. Lấy ví dụ, trong các tuyên bố của mình, Mỹ đã nhiều lần lên án hành động của Trung Quốc là “khiêu khích” và “gây hấn” nhưng lại im lặng đối với những động thái làm thay đổi nguyên trạng của các bên khác. Điều này có thể khiến Bắc Kinh càng có lý do để tin rằng Mỹ thiên vị các bên có tranh chấp khác và sử dụng vấn đề này để kiềm chế Bắc Kinh.
• Mỹ cần tập trung tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hai mục tiêu cốt lõi trong chính sách ngoại giao của Mỹ ở Biển Đông, đó là: 1) tuân thủ quy định của UNCLOS trong việc phân định tất cả các quyền trên biển vốn được phát sinh từ các thực thể đất liền có liên quan; và 2) ủng hộ việc đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử giữa các nước ASEAN với Trung Quốc mà trong đó quy định rõ thống nhất các luật lệ, thủ tục và quy tắc, bao gồm cả cam kết giải quyết tranh chấp mà không sử dụng vũ lực.
• Thượng viện Mỹ cần phê chuẩn UNCLOS. Mặc dù hiện nay Mỹ vẫn tôn trọng và tuân thủ những điều khoản của UNCLOS tuy chưa phê chuẩn công ước này, lập trường của Mỹ sẽ có giá trị hơn rất nhiều nếu Mỹ chấm dứt sự tách biệt của mình với cộng đồng quốc tế vốn được hình thành dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Reagan đối với công ước này. Đây từ lâu đã là quan điểm của Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ và các nhân vật chủ chốt trong cộng đồng doanh nhân Mỹ. Do vậy, Thượng viện Mỹ nên chiểu theo quan điểm của họ.
• Để UNCLOS được thực thi một cách hiệu quả, Mỹ và cộng đồng quốc tế cần kêu gọi Bắc Kinh làm rõ lập trường của mình Về đường chín đoạn sao cho phù hợp với các điều khoản liên quan của UNCLOS mà Trung Quốc đã phê chuẩn và kí kết. Tương tự, Mỹ cũng cần gây áp lực để Đài Loan làm rõ lập trường đối với đường chín đoạn. Việc làm rõ ý nghĩa của đường chín đoạn cũng là vấn đề chính mà Philippines đệ trình lên Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) để được phân xử.
• Với bất cứ tranh chấp nào còn tồn tại liên quan tới ranh giới Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ), Mỹ cần khuyến khích các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận toàn diện hoặc từng phần về các vùng đánh bắt cá để cho phép ngư dân của tất cả các bên có tranh chấp đều được quyền đánh bắt tại vùng biển của mình mà không bị can thiệp. Tuy nhiên, phải có giới hạn về mức độ đánh bắt để tránh tình trạng đánh bắt quá nhiều và đe dọa tới sự tồn tại của các sinh vật biển. Mỹ cũng nên ủng hộ nguyên tắc về khai thác chung giữa các bên yêu sách để phát triển nguồn tài nguyên đáy biển của những vùng EEZ tranh chấp.
• Mỹ nên ủng hộ tất cả các diễn đàn đàm phán và các phương thức đàm phán không thể hiện sự ưu ái của Mỹ đối với bất kì diễn đàn hay hình thức đơn lẻ nào, trừ khi có sự đồng thuận của cả khu vực. Những đàm phán song phương, như vừa thực hiện giữa Philippines và Indonesia, là rất hữu ích. Những đàm phán đa phương giữa các bên liên quan trực tiếp chắc chắn sẽ là cần thiết trong tương lai để giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng lấn bao gồm nhiều bên. Tòa trọng tài quốc tế là một công cụ hữu ích và lý tưởng nếu có sự đồng thuận của cả hai bên có tranh chấp và trong mọi trường hợp ít nhất chúng cũng cho thấy được quan điểm của tòa quốc tế.
• Mỹ cần phải hành động để chứng tỏ rằng những động thái mang tính cưỡng bức của một bên có tranh chấp sẽ khiến bên đó phải trả giá. Cách hành xử của Trung Quốc những năm gần đây đã khiến cho một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines tìm cách tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ. Mỹ cần đáp ứng lại những yêu cầu của các bên có yêu sách, trong đó có Việt Nam, để nâng cao khả năng bảo vệ an ninh biển của những bên này. Nga, Hà Lan và Pháp đều đã bán vũ khí cho Việt Nam; do đó Mỹ cũng nên dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí của mình đối với Hà Nội để cho phép hai bên xây dựng các điều khoản về điều khiển và kiểm soát cũng như các trang thiết bị phục vụ công tác hải giám.
• Washington cũng cần tái khẳng định lập trường về tự do hàng hải và hàng không dành cho các tàu quân sự và dân sự và máy bay, kể cả đối với những Vùng Đặc quyền Kinh tế, và cần phải có hành động phù hợp trong trường hợp bị thách thức. Việc Trung Quốc đưa tàu thăm dò vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Mỹ tại Hawaii hồi tháng 7/2014 trong thời gian diễn ra cuộc tập trận RIMPAC 2014 đã cho thấy sự hai mặt của Trung Quốc trong việc diễn giải những hoạt động được phép thực thi trong Vùng Đặc quyền Kinh tế.
• Mỹ cần khuyến khích tất cả các bên có tranh chấp, nếu có thể, “đóng băng” các hoạt động xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo hay thực thể nửa chìm nửa nổi đang có tranh chấp, hoặc nếu không thì chí ít cũng kiềm chế những hoạt động này. Mỹ cũng cần thúc đẩy các bên cùng nhất trí rằng những căn cứ quân sự này phải được sử dụng với mục đích tuần tra chứ không phải là mục đích triển khai sức mạnh.
Những kiến nghị trên được đề ra nhằm tạo nên sự cân bằng giữa các mối lợi ích đối nghịch nhau: để giảm thiểu những căng thẳng có chiều hướng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc và giữa các bên có yêu sách ở Biển Đông; để bảo vệ lợi ích của Mỹ đối với các vấn đề biển mà Mỹ quan tâm; để tạo dựng lòng tin đối với các chủ thể trong khu vực rằng sự hiện diện an ninh của Mỹ là lâu dài; và để tránh gây ảnh hưởng tới uy tín của Mỹ trong những tình huống mà Mỹ khó có thể sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ lập trường của mình. Những đề xuất này cũng có mục đích bảo vệ lợi ích rộng lớn hơn của Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc và giúp Mỹ tránh trở thành nạn nhân trong các vấn đề Mỹ không thể kiểm soát được.
Nếu Trung Quốc thay đổi cách tiếp cận của mình tại Biển Đông sang một hướng quyết tâm gây hấn bằng quân sự và đe dọa nghiêm trọng tới ổn định khu vực, thì Mỹ cần tìm kiếm những phương án khác để ngăn chặn tình hình diễn biến theo chiều hướng đó. Để ngăn cản một diễn tiến như vậy, Mỹ cần đảm bảo rằng chiến lược ngoại giao của mình tập trung vào các vấn đề cốt lõi như tự do hàng hàng hải, sự tôn trọng các quy tắc quốc tế và việc tạo dựng một môi trường mà việc sử dụng vũ lực và các hành vi cưỡng ép là không khả thi. Để làm được điều này, Mỹ nên giảm bớt giọng điệu chỉ trích của mình, cùng hợp tác với tất cả các bên (chứ không chỉ một vài chủ thể) và đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề Biển Đông.
D- Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với Biển Đông là không dựa trên UNCLOS
Nguồn trích dẫn: Nghiên Cứu Biển Đông.
Theo người của Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế của Bộ Ngoại Giao (Trung Quốc), những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc tại Biển Đông được thể bằng đường đứt khúc 9 đoạn trong bản đồ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (còn được gọi là “đường Lười bò” hoặc “đường 9 đoạn”) là không căn cứ theo Công ước Luật biển LHQ UNCLOS 1982. Vị quan chức này lập luận rằng, “như một phản ánh của lịch sử”, yêu sách của Trung Quốc còn ra đời trước UNCLOS, và mặc dù những yêu sách này xung đột với các yêu sách của các quốc gia láng giềng trong khu vực, Trung Quốc sẽ đệ trình yêu sách của họ lên cơ quan giải quyết tranh chấp của UNCLOS. Trong khi cả quan chức của Bộ ngoại giao và một học giả nghiên cứu về Châu á của Trung quốc cố gắng khẳng định chứng cứ lịch sử tồn tại nhằm chứng minh cho yêu sách đường chín đoạn, nhưng không ai trong số họ có thể chỉ ra cho Tham tán chính trị những căn cứ cụ thể.
...Xem tiếp ---
NghienCuuBienDong - Wikileaks ( http://nghiencuubiendong.vn/wikileaks-ve-bien-dong/2496-in-mt-t-s-quan-m-yeu-sach-lch-s-ca-trung-quc-i-vi-bin-ong-la-khong-da-tren-unclos)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/SCS claims_1432712682.jpg
(Đường đứt đoạn màu đỏ thể hiện cho yêu sách "Đường Lưỡi Bò" vô lý của Trung Quốc)
!!! Trong nội dung của bài viết dưới đây của Daniel Schaeffer/tranbong, đã phân tích được rõ quá trình hình thành “đường lưỡi bò” trong các loại bản đồ do Trung Quốc xuất bản là hoang đường, không có cơ sở pháp lý và khoa học, không phù hợp với Công ước quốc tế về luật biển và cũng như chưa thuyết phục được hết người dân Trung Quốc. !!!
oOo
Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò (tranbong)
Sau đây là bài viết nhan đề: “Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò” của tướng Daniel Schaeffer, nguyên Tùy viên quốc phòng Pháp tại Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan, hiện là Tư vấn cao cấp của chuyên mục “Tiêu điểm quốc tế”, tạp chí Diplomatie 36 - tháng 1 và 2/2009.
Vén bức rèm che đường lưỡi bò hoang đường.
Vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay là phải biết cách làm cho những đòi hỏi ẩn chứa phía sau đường lưỡi bò phù hợp với việc nước này tham gia Công ước về luật biển với những đường ranh giới của các khu độc quyền và các thềm lục địa.
Các cuộc hội kiến của các tác giả tại Việt Nam và tại Trung Quốc cho thấy Chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ đề cập một cách chính thức đến đường lưỡi bò như một ranh giới bất khả xâm phạm đối với chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Đây là một trong những nhân tố cơ bản đầu tiên cần nhấn mạnh. Đúng là việc duy trì biểu tượng của đường này trên các bản đồ do Bắc Kinh xuất bản tiếp tục gây ra tình trạng mập mờ về thực chất của những yêu sách của Trung Quốc, một tình trạng kéo dài xuất phát từ thực tế là hầu hết người dân Trung Quốc đều cho rằng đây đơn giản là sự khẳng định đối với “việc đã rồi” và vì thế không việc gì phải bàn đi cãi lại.
Đường lưỡi bò xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một tập bản đồ tư nhân (chứ không phải do nhà nước xuất bản) dưới dạng một đường nét liền được vẽ bằng tay. Cần phải có những nhiên cứu cụ thể hơn để xác định được nguồn gốc chính xác của đường này. Trong thực thế, không tìm thấy bất kỳ một tọa độ nào của những điểm khác để có thể xác định vị trí chính xác của đường lưỡi bò.
Sau khi xuất hiện, đường lưỡi bò tiếp tục thay đổi thành một đường gián đoạn 11 nét, rồi 9 nét bắt đầu từ những năm 1950, tức sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời. Ba giai đoạn như vậy hợp thành một nhân tố quan trọng để làm cơ sở xem xét các cuộc tranh luận về sau. Những tấm bản đồ về Biển Đông và về đường lưỡi bò mà chúng ta có thể tìm thấy đều được phát hành sau năm 1950. Trên những bản đồ này có ghi những chứ cái Trung Quốc được đơn giản hóa (chứ không có các chữ cái Trung Quốc truyền thống mà những người dân tộc chủ nghĩa vẫn còn sử dụng) hoặc những chữ cái Latinh được viết theo cách phát âm (dạng viết được nhà nước Trung Hoa nhân dân chấp nhận, khác với những hệ thống chuyển biên mà Trung Hoa dân quốc đã sử dụng trước đó). Trong những điều kiện như vậy, có thể hiểu rằng một đường ranh giới như vậy không phải là sự thể hiện chính thức ý trí áp đặt chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông. Đúng hơn đó là đường xác định phạm vi lãnh hải mà toàn bộ phía trong của nó là đối tượng của các cuộc thảo luận mà Trung Quốc muốn tiến hành để xác định chủ quyền trước hết là của Trung Quốc, sau đó mới là của các quốc gia khác, đối với những vùng đất nổi và đôi khi cả những vùng đất chìm như trường hợp của bãi Macclesfild. Đó như thể là giới hạn mà Trung Quốc đặt ra đối với “khu vực tranh chấp”.
Nếu phân tích kỹ thì có thể thấy được nhiều chi tiết. Thứ nhất là những đường cơ sở mà Trung Quốc xác định xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Phải nói rằng Trung Quốc diễn giải một cách quá lạm dụng Phần IV của Công ước về luật biển khi gán cho Hoàng Sa quy chế “Quốc gia quần đảo”. Thực tế, Hoàng Sa không thể có quy chế này vì không thỏa mãn các tiêu chuẩn được quy định trong Điều 46 của Công ước về luật biển, theo đó để có quy chế “Nhà nước quần đảo” thì lãnh thỏ đó phải độc lập, chỉ bao gồm các hòn đảo và hoàn toàn không có mối liên hệ với lục địa. Kể cả khi Hoàng Sa thỏa mãn 2 tiêu chuẩn cuối cùng thì nó cũng không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, tiêu chuẩn về sự độc lập, vì đang là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về logic tổng thể, cần áp dụng quy chế của các đảo đối với Hoàng Sa, tùy thuộc vào việc tại đây con người có thể sinh sống hay không như quy định trong Phần VIII của Công ước về luật biển.
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng các đường cơ sở được áp dụng đối với Hoàng Sa không trùng với đường lưỡi bò và ngược lại. Nếu Trung Quốc không muốn mâu thuẫn với chính mình, họ không nên đặt ra những đường cơ sở xung quanh Hoàng Sa. Khi câu hỏi về mâu thuẫn này được đặt ra, người ta chỉ có được những câu trả lời mập mờ thay cho những lời giải thích có tính thuyết phục.
Chi tiết thứ hai đó là việc Trung Quốc đưa ra định nghĩa về lãnh hải của họ trong Luật ngày 25/2/1992. Trong luật này, Biển Đông không được nêu như là “biển lãnh thổ”. Chỉ có các quần đảo – một trong những cấu thành của Biển Đông – được nêu một cách dứt khoát là lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc. Như vậy, các khu đặc quyền kinh tế của Trung Quốc cũng cần được xác định trên cơ sở của luật này.
Chi tiết thứ ba nảy sinh từ những lời phát biểu kỳ quặc của vị đại diện của một trong những viện nghiên cứu mà tác giả đã gặp khi vị này cho ràng đường lưỡi bò không phải do thể chế cộng sản tạo ra mà là sự kế thừa của thể chế dân tộc chủ nghĩa trước đây. Ta có thể hiểu: Việc đường lưỡi bò tồn tại như bây giờ không phải là lỗi của chính quyền Bắc Kinh. Nói một cách nghiêm túc hơn: Dù diễn đạt khó hiểu đi chăng nữa thì vị quan chức này cũng cho thấy rằng điều mà Trung Quốc đòi hỏi trước tiên là các bên tranh chấp phải công nhận rằng hiện đang có tranh chấp tổng thể và quan trọng hơn là họ cong nhận rằng hiện đang tồn tại những khu vực tranh chấp và thực sự đang tồn tại sự tranh chấp đối với những vùng nêu trên. Điều đó có nghĩa là:
- Trung Quốc muốn Việt Nam công nhận rằng không có trnah chấp đối với Hoàng Sa – điều mà Hà Nội không chịu. Điều mà Trung Quốc muốn đạt được ở đây là hai nước chấp nhận thực trạng được áp đặt bằng quân sự giữa hai nước trong những năm 1947-1974 và rằng vấn đề Hoàng Sa từ nay trở đi vĩnh viễn là vấn đề đã quyết với phần thắng thuộc về Trung Quốc. Nếu Việt Nam có những tư liệu đích thực có giá trị pháp lý để chứng minh rằng các vua Annam thực sự đã thực thi chủ quyền của họ trên những hòn đảo này vào thời kỳ tiền thực dân (chủ quyền này sau đó được thực dân Pháp đảm nhiệm) thì lý lẽ của Trung Quốc về chủ quyền đối với những hòn đảo này sẽ yếu hơn nhiều so với những lý lẽ của Việt Nam, kể cả khi Trung Quốc cho rằng chủ quyền của họ được thực thi đối với Biển Đông từ thời triều Song (960 – 1279). Ít nhất đó cũng là điều mà trẻ em Trung Quốc học trong các cuốn sách lịch sử của họ. Vấn đề cung cấp thêm những bằng chứng đáng tin cậy (chứ không phải cứ to mồm kêu loa “đã từ lâu các ngư dân Trung Quốc thường xuyên đến các vùng biển này”) là điểm quan trọng hiện nay và đây đúng ra phải là nhân tố cho phép xác định chủ quyền thực tế đối với Hoàng Sa.
- Trung Quốc lẩn tránh việc thảo luận thực tại của vấn đề chủ quyền đối với bãi Macclesfield, khu vực đang là "vấn đề đặc biệt" như đánh giá của một trong các chuyên gia của Trung Quốc về luật biển. Thực tế, dù không đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào của Công ước về luật biển về mặt thực tại lãnh thổ trong trường hợp như thế này vì Công ước chỉ chế định những bãi nổi hay những mỏm ngầm nhìn thấy được (trong điều 6 của Công ước có định nghĩa các bãi đá ngầm mặc dù định nghĩa này còn chưa rõ ràng), việc khẳng định chủ quyền đối với khu vực này là điều khó đối với mọi quốc gia.
- Trung Quốc có thể sẽ tỏ ra sẵn sàng thảo luận về Trường Sa để phục vụ chiến lược lừa dối để thế giới tưởng rằng Trung Quốc cũng có khả năng nhân nhượng hoặc vì Trung Quốc không có đủ các nhân tố khẳng định chủ quyền chắc chắn đối với quần đảo này. Các diễn giải như vậy càng được củng cố hơn khi Viện Nghiên cứu về Biển Đông đóng tại Haikou, rất có uy tín đối với Chính quyền Trung ương Trung Quốc, có một bộ phận chuyên nghiên cứu về TS, trong khi về các quần đảo khác thì không có bộ phận nghiên cứu chuyên trách.
Điều hoang đường khó dẹp bỏ
Tình hình nêu trên cho thấy rằng vẫn chưa thể loại bỏ đường lưỡi bò khỏi các bản đồ Trung Quốc ngày nay. Thực ra, các chuyên gia về luật biển của Trung Quốc vẫn chưa thành công trong việc thuyết phục người dân Trung Quốc, đặc biệt là dư luận xã hội, về sự cần thiết phải làm cho những đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc phù hợp với các điều khoản của Luật biển để những đòi hòi này trở nên tin cậy. Đại diện cho khuynh hướng "tôn trọng pháp lý" này (hãy tạm gọi như thế) là giáo sư Lihai, người được bổ nhiệm thẩm phán tại Tòa án quốc tế về luật biển tại Hambourg tháng 8/1996, nhưng đã chết vào tháng 10/2000 khi chưa kết thúc nhiệm kỳ. Trường phái này đã được một số quan chức Trung Quốc, cả quân sự và dân sự, ủng hộ, nhưng tất cả các cơ quan nghiên cứu thì không đồng tình. Tuy nhiên, cần thấy rằng trước đó giáo sư Zhao trong một thời gian dài cũng đã cố sức bảo vệ cho giả thiết rằng khu vực được giới hạn bởi đường lưỡi bò hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Ngày nay, khuynh hướng “tôn trọng pháp lý” còn đang phải đối mặt với hai trường phái truyền thống. Trường phái thứ nhất khẳng định rằng Biển Đông là biển lãnh thổ Trung Quốc, với lý lẽ là đường lưỡi bò đã có trước Công ước về luật biển, là di sản của lịch sử. Trường phái thứ hai cho rằng thể chế của Biển Đông là thể chế của một biển lịch sử như nêu trong các sách giáo khoa lịch sử, mặc dù điều này không được kiểm chứng.
Kết luận
Đường lưỡi bò có thể còn tồn tại một thời gian dài nữa mặc dù nó đang trở nên mờ nhạt trong tâm trí của một số người Trung Quốc muốn đất nước mình là một thành viên tin cậy của Công ước về luật biển. Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông thật khó có thể biện minh. Việc từ bỏ hoàn toàn đường lưỡi bò sẽ khắc phục hoàn toàn được tình trạng mập mờ cản trở thực tiễn, làm cho các cuộc đàm phán giữa các nước trong khu vực trở nên khách quan hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cùng khai thác tài nguyên tại một số khu vực ít ỏi không tranh chấp. Cùng một số diễn biến gần đây trong khu vực, điều này có thể sẽ là một triển vọng thực tế đáng khích lệ. Việc Trung Quốc và Nhật Bản ký kết thỏa thuận cùng khai thác mỏ khí Shirabaka (theo cách gọi của Nhật Bản) cho phép hy vọng về một sự tiến triển trong tư duy của Trung Quốc liên quan đến những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh đối với Biển Đông, thậm chí có thể một ngày nào đó Trung Quốc sẽ quyết định bỏ hẳn đường lưỡi bò trong các bản đồ của họ./.
D - TIN THAM KHẢO / PHÂN TÍCH/ BÌNH LUẬN
(tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau.)
>>> 03/08/15 Bình luận / Phan tích: Ký giả 'Nguyễn Xuân Nam' và Luật Sư 'Nguyễn Hoàng Duyên'.
Đối phó với Trung Quốc: Quốc Hội Mỹ đề nghị TT Obama theo chiến lược khác
https://www.youtube.com/watch?t=1030&v=eYI_KUkl1N4
>>>05/22/15: TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG CẬP NHẬT - BUỒN NHIỀU HƠN VUI.
Bình luận: Nguyễn Thùy Trang
Như chúng ta mừng rỡ trong mấy ngày qua khi Hai Hàng Không Mẫu Hạm Uss George Washington & Uss Carl Vinson tiến ra Biển Đông và ai cũng nghĩ là sách lược của Mỹ nhằm phản ứng với Trung Quốc.
Trên thực tế, chúng ta cần nhìn nhận là Chính Quyền Obama rất yếu ớt phản ứng khi Trung Quốc cứng rắn Giàng Chủ Quyền Biển Đông.
Sau khi Bộ Trưởng Ngoại Giao John Kerry sang Trung Quốc kêu gọi biện pháp ứng xử Biển Đông một cách hòa bình nhưng không được phía TQ đáp ứng.
Mỹ không có động thái nào cương quyết hơn nữa sau khi John Kerry rời TQ sang Nam Hàn. Hai chiếc Hàng Không Mẫu Hạm George Washington & Uss Carl Vinson chỉ ở Biển Đông vài ngày trước khi sang Úc để tập trận cùng với quân đội Úc "Talisman Saber 2015" và sẽ trở về cảng San Diego.
Phần lớn 20 chiến Hạm của Mỹ còn lại ở Biển Đông đã rút về các căn cứ ở Nam Hàn, Nhật và Phi. Hiện nay KHÔNG có một chiến hạm nào của Mỹ đi tuần ngoài biển Đông. Điều nầy cho ta thấy là Obama đã ra lệnh rút lui có trật tự.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter là người có quyết tâm trấn giữ biển Đông nhưng không làm gì được hơn khi chính sách Obama có khuynh hướng thân cận với Trung Quốc. Từ lúc Obama lên nắm quyền thì thương mại Mỹ -Trung tăng lên 555 tỷ trong một năm. Hàng hóa Trung Quốc đổ vào Mỹ tăng nhiều hơn gấp đôi.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter đang cố tìm cách khác là hôm nay đã vận động Hải Quân Úc cùng tuần tra chung Biển Đông với Mỹ. Úc trả lời ởm ờ lời mời nầy vì nước Úc cũng là một trong những nước có thương mại hàng đầu với Trung Quốc, Úc không muốn tổn thương quan hệ nầy.
Mỹ hiện bị cầm chân tại Ukraine và Irag. Mỹ đưa một số công cụ quân sự sang các nước Baltic có biên giới với Nga và một số chiến hạm đang bị kẹt chân ở Trung Đông.
Mỹ vừa đưa Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Mỹ, ông Antony Blinken sang thăm Việt Nam để bàn về tình hình Biển Đông một cách cầm chừng.
Một ông tướng về hưu của Trung Quốc đưa ý kiến là nếu máy bay và tàu chiến Mỹ vào khu vực 12 Hải Lý của Trung Quốc thì bắn cảnh cáo và sau đó bắn bỏ...
Tuần sau thì Trung Quốc và Nga sẽ tập trận ở vùng biển Mediterranean để biểu dương lực lượng và nước Mỹ ở thời đại T.T Obama thì.....
Tin tức Biển Đông làm cho chúng ta lúc buồn lúc vui khi tình hình thay đổi như chong chóng. Thùy Trang đã nói nhiều lần là Trung Quốc sẽ lấn chiếm biển Đông trong thời đại của T.T Obama còn tại vị. Hy vọng nhiều sẽ làm cho chúng ta buồn nhiều hơn!
Biết đâu ngày mai trời lại sáng!
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/bdtt_1432531846.jpg
Nguyễn Thùy Trang
(*)...Xem thêm bài bình luận của 'Nguyễn Vĩnh Long Hồ' / TT OBAMA CÔ LẬP BẮC KINH BẰNG CHIÊU: LẤY “NHU THẮNG CƯƠNG (ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ)
Tựa Đề: Lằn ranh đỏ trong quan hệ Mỹ - Trung (http://hoiquanphidung.com/showthread.php?18281-L%E1%BA%B1n-ranh-%C4%91%E1%BB%8F-trong-quan-h%E1%BB%87-M%E1%BB%B9-Trung)
VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Trần Hoà : Sưu tầm trích dẫn (from NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG) (http://nghiencuubiendong.vn/) and Multiple other sources
A - TỔNG QUAN VỀ BIỂN ĐÔNG
Biển Đông trải dài trên khu vực đại dương có diện tích 1.4 triệu dặm vuông, bao gồm hàng trăm các đảo, đá, bãi cạn, bãi san hô nhỏ với tổng diện tích là 6 dặm vuông . Các đảo ở đây không có người dân bản địa sinh sống mà chỉ có một số lượng nhỏ người cư trú do các quốc gia đưa ra để thúc đẩy yêu sách của mình. Biển Đông có trữ lượng tài nguyên biển giàu có, vốn được khai thác từ lâu đời bởi các nước trong khu vực. Trữ lượng dầu và khí vẫn còn chưa được xác định rõ, phần lớn trong số đó thuộc diện khó khai thác nên cho đến nay vẫn chưa được khai thác. Hơn một nửa tổng lượng giao thương hàng hóa trên biển và gần một nửa tàu chở dầu trên toàn thế giới phải đi qua vùng nước Biển Đông.Biển Đông bao bọc bốn nhóm quần đảo chính:
• quần đảo Đông Sa (Pratas) nằm ở phía Đông Bắc,
• quần đảo Hoàng Sa (Paracel) tại phía Bắc,
• quần đảo Trường Sa (Spratly) tại phía Nam
• và bãi cạn Hoàng Nham (Scarborough Shoal) tại vùng trung Đông.
(Bãi Macclesfield chỉ là một quần thể đá ngầm chìm hoàn toàn dưới mặt nước nằm ở trung tâm Biển Đông.)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/island_1432756746.png
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/ban do BD_1432703901.jpg
Tất cả những quần đảo này đều được Trung Quốc lục địa và Đài Loan tuyên bố chủ quyền.
Trong khi đó, Việt Nam đòi chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa còn Philippines khẳng định Trường Sa và Hoàng Nham là của mình, Malaysia và Brunei chỉ yêu sách một vài đảo ở Trường Sa.
Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát Hoàng Sa kể từ khi nước này dùng vũ lực xâm lấn quân đội miền Nam Việt Nam đóng tại đảo vào Tháng Một năm 1974. Tuy nhiên, tại Trường Sa, Việt Nam lại là nước kiểm soát nhiều đảo nhất (khoảng 25 đảo tất cả). Trung Quốc và Philippines chiếm đóng khoảng 7 - 8 đảo tại đây, Malaysia chiếm 4 đảo và Đài Loan chiếm 1 đảo.
History - Tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
Các sự kiện chính liên quan đến tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Viet Nam :
• 14/9/1958 :Công hàm của Phạm Văn Đồng về tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý.
• 1973:Việt Nam Cộng Hòa sát nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
• 15-20/1/1974:Trung Quốc dùng không quân và hải quân đánh chiếm nhóm phía Tây của quần đảo Hoàng Sa do Việt Nam Cộng hòa chiếm đóng. Kể từ đây, Trung Quốc chiếm trọn Hoàng Sa.
• 1974:Tại hội nghị Luật biển lần thứ 3, kỳ 2 tại Caracas, đại biểu của chính phủ Việt Nam Cộng hòa tố cáo Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực, và khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam
• 14/3/1975:Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã sách trắng về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, lên án mạnh mẽ Trung Quốc dùng vũ lực cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tỏ rõ quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo.
• 11/11/1975:Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
• 1976:Việt Nam công bố bản đồ của nước Việt Nam thống nhất, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
.
• 12/ 5/ 1977:Việt Nam ra Tuyên bố thứ nhất về đường cơ sở để xác lập vùng lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
• 17/2/1979:Bắt đầu chiến tranh biên giới Trung-Việt
• 3/1979:Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố Bị vong lục về vấn đề biên giới Việt – Trung, trong đó có điểm 9 tố cáo Trung Quốc đánh chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào ngày 19 và 20 tháng 1 năm 1974.
• 30/7/1979:Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã công bố sách trắng xuyên tạc một số tài liệu có liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa để chứng minh rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo này.
• 28/9/1979:Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giới thiệu thêm 19 tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo.
• 14/3/1988: Trung Quốc đã đánh chìm 2 tàu lớn của hải quân Việt Nam, , bắn hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Xubi.
• 12/11/1982: Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74 người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá Xubi.
• 3/1/1989: Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các đảo và bãi đá đã chiếm được của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.
• 28/4/1989: Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lên án Việt Nam xâm phạm trái phép một số “bãi Vạn An và bãi Nhã thuộc quần đảo Nam Sa” ( cụm KT – KH – DV Vũng Tàu – Côn Đảo của Việt Nam.)
• 1990: Tại Hội nghị Thành Đô, lãnh đạo hai nước Việt-Trung đã quyết định bình thường hoá quan hệ hai nước sau hơn 10 năm biến cố.
• 7/1992: Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN (TAC)
• 9/1992:Trung Quốc khoan thăm dò tìm dầu ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ thuộc phía Việt Nam.
• 4/1994:Việt Nam ký hợp đồng với công ty dầu khí Mobil oil của Mỹ thăm dò khai thác dầu khí ở khu vực Thanh Long
• 12/5/1994:Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối Việt Nam cho phép công ty dầu khí Mobil-oil thăm dò khai thác ở khu vực Thanh Long là vùng biển phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung Quốc.
• 19/10/1995:Trung Quốc phản đối Việt Nam thăm dò địa chấn trong Vịnh Bắc Bộ.
• 15/12/1995: Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-02 vào Vịnh Bắc Bộ, cách đường trung tuyến 5-6 hải lý về phía Việt nam.
• 10/3/1996: Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-06 hoạt động ở Vịnh Bắc Bộ, vào sâu trong vùng biển của Việt nam 3 hải lý.
• 12/1997: Việt Nam phản đối tàu khai thác số 8 và hai tàu hộ vệ 615 và 616 của Trung Quốc thăm dò khảo sát dầu khí cách phía Tây bãi Phúc Tần 15 hải lý thuộc khu vực DK-1, bãi Tư Chính của Việt Nam. Tàu hải quân Việt Nam phải áp tải buộc các tàu này ra ngoài.
• 4/11/2002: ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) trong khuôn khổ của cuộc họp cấp cao ASEAN 8 tại Phnompenh (Căm-pu-chia)
• Cuối năm 2007 :Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản lý 03 quần đảo trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hành động này dẫn đến các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc ở Việt Nam. Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức phản đối việc làm của Trung quốc thông qua người phát ngôn.
• 7/5/2009: Việt Nam nộp báo cáo đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực phía bắc nộp lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS). Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bò” . Việt nam phản đối công hàm của Trung Quốc
Xem tiếp sử ký tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông từ thế kỷ 19 đến nay (gồm tất cả các nước tranh chấp liên hệ) Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/533-ai-s-ky-tranh-chap-chu-quyen-tai-bien-ong)
Bên cạnh các tranh chấp chủ quyền được trích từ nguồn 'nghiencuubiendong' ở trên, xin post thêm ở đây, đoạn trích của bài viết : Phan Châu Thành (nguồn: Danlambao):
Công nghệ bán nước và cạp đất của CSVN
"Từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc năm 1945 rồi cả nước năm 1975 đến nay, CSVN đã liên tục tìm mọi cách bán lãnh thổ quốc gia Việt Nam ta cho Tàu cộng theo nhiều đợt, nhiều cách (nhiều công nghệ bán nước) khác nhau, tùy điều kiện, tình hình và đối tượng bán. Đó là vào những đợt 1956-1958 -1974 (bán quần đảo Hoàng Sa), 1979 (cắt đất biên giới), 1988 (bán 7 nhóm đảo đá Trường Sa), 2000 (lại bán đất biên giới như Ải Nam quan, Thác Bản Giốc, Lão Sơn), 2005 (bán 13% lãnh hải trong Vịnh Bắc Bộ), 2005-2010 (bán trên 300,000 ha rùng biên giới, Bauxite Tây nguyên, Vũng Áng và hàng chục Khu công nghệ, hàng trăm “dự án” khác),
Trong tất cả các phi vụ bán nước cho Tàu đó, CSVN đều thực hiện mục tiêu bán nước dần dần, vì chúng phải lừa dối cả dân tộc Việt Nam, qua bốn bước như sau ....
Bước 1 - Lừa bịp nhân dân ...
Bước 2 - Giúp Tàu âm thầm đổi chủ ...
Bước 3 - Âm thầm công nhận Chủ quyền Tàu và bảo vệ lãnh thổ cho Tàu
Bước 4 - Đổi màu ..."
Xem toàn bộ chi tiết @ Sinh nghề tử nghiệp... (http://danlambaovn.blogspot.com/2015/05/cong-nghe-ban-nuoc-va-cap-at-cua-csvn.html)
Quần đảo Trường Sa:
Người Pháp gọi là Archipel des ile Spratley, người Anh, người Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies. Trung Quốc gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo. Philipines gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinan Guto.
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và các Cam Ranh 250 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý. Quần đảo trải dài từ 6o 2’ vĩ B, 111o28’ vĩ B, từ kinh độ 112 o Đ, 115 o Đ1.4) trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến 180.000 km2. Biển tuy động nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước lại rất ít, chỉ tổng cộng 11km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của tiễn sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá, bãi (1.5) không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Trần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính).
Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị chính là các đảo, đá, bãi phụ cận. Philipines đã liệt kê mộ danh sách 53 đơn vị gồm hòn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm 1979 của Cục Bản đồ Qân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia ra làm chín cụm chính kể từ Bắc Xuống Nam.
Danh sách các thực thể địa lý thuộc quần đảo Trường Sa: Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/4830-danh-sach-cac-thuc-the-dia-ly-thuoc-quan-dao-truong-sa)
Quần đảo Hoàng Sa:
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi khoảng 15.000 km2, giữa kinh tuyến khoảng 111 độ Đông đến 113 độ Đông, khoảng 95 hải lý(1 hải lý = 1,853 km), từ 17o05’ xuống 15o45’ độ vĩ Bắc, khoảng 90 hải lý; xung quanh là độ sâu hơn 1000m, song giữa các đảo có độ sâu thường dưới 100m.
Quần đảo Hoàng Sa năm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và một phần Quảng Ngãi
Về khoảng cách với đất liền, quần đảo Hoàng Sa nằm gần với đất liền Việt Nam hơn cả: Từ đảo Triton đến Mũi Ba Làng An(Cap Batangan:15 vĩ độ B, 108 độ 6’ kinh Đ), tức đất liền lục địa Việt Nam đo được 135 hải lý, cách cù lai Ré chỉ có 123 hải lý, trong khi đó cách đảo gần nhất tới bờ đảo Hải Nam xa tới 140 hải lý (đảo Hoang Sa Pattle: 16 độ vĩ B 111 độ 6’ Đ và Ling-Sui hay Leing Soi: 18 độ vĩ B, 110độ 03 kinh Đ); nếu tính tới đất liền lục địa Trung Hoa thì còn xa hơn nhiều, tổi thiểu là 235 hải lý.
Đoạn bờ biển Quảng Trị chạy dài xuống đến Quảng Ngãi đối mặt với các đảo Hoàng Sa luôn hứng gió Mùa Đông Nam hay Đông Bắc thổi vô, nên thường tiếp nhận các thuyền hư hại bị bão làm hư hại ở vùng biển Hoàng Sa. Các vua chúa Việt Nam hay chu cấp phương tiện cho các thuyền ấy về nước nên họ thường bảo nhau tìm cách dạt vào bờ biển của Việt Nam để nhờ cứu giúp. Chính vì vậy Hoàng Sa từ rất sớm đã được người Việt biết tới, hết sức quan tâm, cùng xáp lập và thực thi chủ quyền của mình.
Trong khoảng 30 đảo, đá, bãi, cồn, hòn trên, hiện có 23 đã được đặt tên, gồm 15 đảo, 3 bãi, 3 đá, 1 cồn, 1 hòn. Các đảo trên không cao, nhất là đảo Hòn Đá(50 feet), đảo thấp nhất là đảo Tri Tôn(10 feet). Các đảo chính gồm hai nhóm:
- Nhóm Lưỡi Liềm (Crescent group) ở Tây Nam.
- Nhóm An Vĩnh ở (Amphitrite group) ở Đông Bắc.
Danh sách các thực thể địa lý thuộc quần đảo Hoàng Sa: Click Nguồn (http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/560-hoang-sa)
Các vùng chồng lấn do tuyên bố của các bên
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/claimed_all_map_1432707673.jpg
Đường Chữ U - Yêu sách tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Umap_1432708123.jpg
Yêu sách của các bên tại Biển Đông.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Umap2_1432708352.jpg
Yêu sách của các bên tại Biển Đông.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/hientrang_1432708537.jpg
B - Địa chiến lược và Tiềm năng kinh tế Biển Đông
Tài liệu trich từ nguồn: NghienCuuBienDong - Trần Bông (gt) ( http://nghiencuubiendong.vn/tong-quan-ve-bien-dong/504-bien-ong-ia-chien-lc-va-tiem-nng)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/claims 2_1432708948.jpg
Biển Đông còn gọi là biển Nam Trung Hoa theo tên tiếng Anh (The South China Sea) là một biển rìa Tây Thái Bình Dương.
Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đông nằm ở phía Nam đại lục Trung Hoa nên có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, địa danh biển không có ý nghĩa về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận.
Vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Ngoài Việt Nam, Biển Đông được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia.
Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này. Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Tiềm năng của Biển Đông
Biển Đông còn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Trong khu vực, có các nước đánh bắt và nuôi trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippin, trong đó Trung Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên toàn thế giới.
Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới. Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí của toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 02 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ mét khối.
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.
Ngoài ra, theo các chuyên gia Nga thì khu vực vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa còn chứa đựng tài nguyên khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.
Tầm quan trọng chiến lược của Biển Đông
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á.
Năm trong số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển Đông gồm:
- Tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê,
- Trung Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân;
- Tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe;
- Tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình Dương;
- Tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đông Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đông, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đông Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông.
Lượng dầu lửa và khí hoá lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp 15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar). Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz).
Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Do đó, vùng biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản.
Biển Đông còn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đông. Vì vậy, việc Biển Đông bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển Đông.
Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông
Các đảo và quần đảo trong Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng đối với nhiều nước.
Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trò chiến lược của Châu Á có hai điểm trọng yếu:
1) Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và Malaysia). Vị trí này vô cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và Bắc Á phải đi qua.
Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda, Blombok và Makascha đóng vai trò dự phòng trong tình huống eo biển Malacca ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này thì hàng hoá giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì quãng đường dài hơn.
2) Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đông, nơi có nhiều tuyến đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá của nhiều nước Châu Á.
Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia 40% và Trung Quốc 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la). Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và không còn đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đông và dùng cho mục đích quân sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.
C - NGUYÊN TẮC VÀ LỢI ÍCH CỦA MỸ
Trong tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đối đầu với 5 bên yêu sách chủ quyền khác, bao gồm Philippines, Việt Nam, Brunei, Malaysia và Đài Loan. Trong số đó, rất nhiều tuyên bố chồng lấn với nhau. Tranh chấp Biển Đông xoay quanh:
Tuyên bố chủ quyền dựa nhiều vào cảm tính đi kèm với chủ nghĩa dân tộc dâng cao trong khu vực
Nguy cơ xảy ra các xung đột bất ngờ có thể leo thang
Những yêu sách đối lập nhau về các nguồn tài nguyên phong phú (có tiềm năng khai thác)
Hiểm họa đối với tự do hàng hải trong các Vùng Đặc quyền Kinh tế
Xung đột về cách diễn giải và khả năng ứng dụng luật quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển (UNCLOS).
Tranh chấp Biển Đông cũng liên quan đến lợi ích của Mỹ, đặc biệt là về vấn đề tự do hàng hải, luật và quy chuẩn quốc tế, quan hệ với các đối tác và đồng minh quan trọng và việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình.
Mỹ có lợi ích cốt yếu trong việc bảo đảm với các đồng minh và đối tác của mình trong khu vực và rằng Mỹ sẽ duy trì hiện diện mạnh mẽ về an ninh tại đây để ngăn chặn nguy cơ “khoảng trống quyền lực” (power vacuum) xuất hiện khi Trung Quốc trỗi dậy. Điều này đòi hỏi Mỹ tiếp tục tham gia tích cực tại Biển Đông, tiến hành các bước đi khuyến khích cách hành xử có trách nhiệm và ngăn chặn những hành động cưỡng ép từ tất cả các bên. Philippines, một trong số các bên tranh chấp, là đồng minh hiệp ước của Mỹ. Mỹ cần phải tôn trọng hiệp ước an ninh của mình, trong đó bao gồm cả các hòn đảo chính của Philippines cũng như “tàu và máy bay công của nước này.”
Mỹ cần phải đánh giá một cách đúng đắn về vấn đề Biển Đông, định hình một chiến lược nhằm giảm thiểu tối đa khả năng bị cuốn vào đối đầu hay xung đột có thể khiến hàng loạt các vấn đề cốt yếu khác (như chương trình hạt nhân tại Iran và Bắc Triều Tiên; thúc đẩy thương mại, đầu tư và phát triển kinh tế; chống biến đổi khí hậu hay gìn giữ hòa bình ổn định eo biển Đài Loan và Hoa Đông) trở nên khó giải quyết hơn rất nhiều.
Các quy tắc định hướng chính sách của Mỹ đối với khu vực Biển Đông: Trong cuộc họp ARF vào tháng 7/2010 tại Hà Nội, Ngoại trưởng Hillary Clinton đã đưa ra các nguyên tắc và đã tạo thành nền tảng, mặc dù không phải toàn bộ, cho các lợi ích của Mỹ trong khu vực.
Vậy thì, những nguyên tắc này hé lộ điều gì về những lợi ích cụ thể Mỹ? Những lợi ích nào Mỹ cần phải tập trung bảo vệ?
1) Tự do hàng hải/quân sự: Quyền tự do tại biển cả được UNCLOS ghi nhận là điều tối quan trọng với vai trò toàn cầu của Mỹ với tư cách là người đảm bảo an ninh tại tất cả các vùng biển trên thế giới kể cả những vùng biển xa xôi nhất. Dưới cách diễn giải Luật biển của Bắc Kinh, các hoạt động tình báo hay tàu quân sự quá cảnh qua Vùng Đặc quyền Kinh tế của Trung Quốc đều phải được sự đồng thuận của nước này trước khi thực hiện. Mặc dù Trung Quốc chưa bao giờ thành công trong việc áp dụng cách diễn giải này với Mỹ, lập trường này có thể mang hậu quả tiềm tàng đối với quân đội Mỹ nếu như các tuyên bố chủ quyền bành trướng nhất tại Biển Đông của Trung Quốc trở thành hiện thực. Hiện giờ, lập trường của Trung Quốc vẫn được xem là quan điểm thiểu số trong cộng đồng quốc tế và Mỹ cần đảm bảo điều này sẽ không thay đổi.
2) Tự do hàng không: Khi Trung Quốc tuyên bố thành lập Vùng Nhận diện Phòng không (ADIZ) tại biển Hoa Đông, các nước khác, bao gồm Mỹ, lập tức lo ngại về việc một vùng tương tự được Trung Quốc đưa ra tại Biển Đông. Nếu như ADIZ của Trung Quốc được lập tại Biển Đông, bao trùm cả các vùng mà các nước yêu sách, khu vực sẽ trở nên bất ổn, căng thẳng sẽ dâng cao và do vậy, khả năng này cần được loại bỏ. Tuy vậy, giả sử như khả năng này có xảy ra thật, chúng ta cũng có thể tin tưởng rằng vùng này sẽ không được thực thi theo hướng làm ảnh hưởng tiêu cực tới các tuyến hàng không, cũng giống như ADIZ tại Hoa Đông cho đến nay vẫn chưa gây ra ảnh hưởng nào trầm trọng tới các tuyến đường bay.
3) Thương mại không bị cản trở: Do tất cả các quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, bao gồm chính Trung Quốc, đều có lợi ích lớn trong việc gìn giữ tự do thương mại trên Biển Đông nên khả năng lợi ích chung này bị đe dọa một sớm một chiều là rất hiếm.
4) Giải quyết tranh chấp hòa bình, tránh các biện pháp cưỡng bức: Điều này nên được coi là mục tiêu cốt yếu của Mỹ tại Biển Đông, cũng như tại các khu vực khác, bởi đây là nguyên tắc nền tảng xây dựng nên trật tự quốc tế và là nguyên tắc thiết yếu để duy trì ổn định khu vực. Trung Quốc là bên tranh chấp với khả năng sử dụng ngoại giao cưỡng bức lớn nhất. Cái Trung Quốc gọi là “trỗi dậy hòa bình” (hay “phát triển hòa bình” như các quan chức nước này thường nhắc đến) là điều mà cả thế giới kỳ vọng, đang được đem ra kiểm chứng ở Biển Đông. Mới đây, Trung Quốc đã triển khai hành động trong vùng xám: Trung Quốc không tấn công các đảo do các nước khác kiểm soát, không sử dụng Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) mà dựa vào lực lượng cảnh sát biển để củng cố yêu sách. Tuy nhiên, Trung Quốc đã đẩy quân Philippines khỏi Bãi Hoàng Nham – ngư trường truyền thống người dân Philippines. Trung Quốc cũng đã điều một hạm đội cảnh sát biển và tàu cá đến khu vực giàn khoan tại Hoàng Sa để ứng phó với tàu Việt Nam. Những hành động kiểu như vậy càng làm gia tăng nghi ngại đối với các bên yêu sách cũng như các nước khác trong khu vực Đông Á về những hành động gây hấn mà Trung Quốc có thể gây ra trong tương lai.
4) Các tuyên bố chủ quyền phải phù hợp với UNCLOS: Yêu sách các quyền bành trướng nhất tại Biển Đông là Đường chín đoạn – đường khoanh vùng hầu như toàn bộ Biển Đông. Trung Quốc và Đài Loan đều không thể giải thích ý nghĩa của Đường chín đoạn – liệu nó vạch ra yêu sách của Trung Quốc đối với các quyền trên toàn bộ vùng biển nằm trong đường này (và nếu quả thực như vậy thì chính xác là các quyền gì?) hay nó chỉ đơn giản biểu thị yêu sách của Trung Quốc đối với các thực thể đất liền nằm trong đó? Mỹ phải để tâm tới vấn đề này bởi tôn trọng luật lệ và quy chuẩn quốc tế là nền tảng quan trọng của hệ thống quan hệ quốc tế. Việc áp đặt những tuyên bố chủ quyền với phạm vi rộng lớn như Đường chín đoạn sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới quyền lợi của nhiều nước khác và gây bất ổn nghiêm trọng. Không chỉ có vậy, các công ty và chủ thể Mỹ có thể sẽ muốn tiến hành thăm dò hay đánh bắt tại những khu vực đáng nhẽ ra là biển quốc tế này.
5) Một tiến trình ngoại giao mang tính hợp tác để giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ: Mỹ có lợi ích khi các bên tranh chấp đàm phán để dàn xếp yêu sách của mình, dù tiến trình đó là song phương như mong muốn của Trung Quốc hay đa phương như mong muốn của các nước ASEAN. Tuy nhiên, khả năng đàm phán nghiêm túc các yêu sách lãnh thổ trong tương lai gần là không có. Vì vậy, mối quan tâm hiện nay của Mỹ nằm ở việc ngăn ngừa các bên tranh chấp tranh sử dụng các biện pháp cưỡng chế để làm thay đổi hiện trạng hơn là dồn nguồn lực ngoại giao để các bên ngồi lại đàm phán giải quyết các yêu sách.
6) Đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử (COC): Trong “Tuyên bố Ứng xử của các bên tại Biển Đông” (DOC), được kí kết vào tháng 11/2012 vốn không mang tính ràng buộc, các bên yêu sách trong ASEAN có tuyên bố chủ quyền cùng với Trung Quốc đã nhất trí rằng việc áp dụng Bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông sẽ góp phần hơn nữa vào việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực. Dựa trên nền tảng của sự đồng thuận, các bên đã đồng ý sẽ theo đuổi mục tiêu này đến cùng. Do các tranh chấp về chủ quyền của các thực thể đất liền tại Biển Đông khó có thể được giải quyết trong tương lai gần, một Bộ Quy tắc Ứng xử với những quy định rõ ràng về cách khẳng định quyền của các bên sẽ là công cụ thiết yếu cho việc quản lý tranh chấp.
Nhân tố cơ bản cho một chiến lược tren cac NGUYÊN TẮC VÀ LỢI ÍCH CỦA MỸ
Mỹ có thể xây dựng một vai trò tích cực tại Biển Đông dựa trên các nguyên tắc mà cựu Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton đã vạch ra vào năm 2010, nhưng điều này chỉ xảy ra nếu như chính sách ngoại giao của Mỹ tại Biển Đông là một chính sách toàn diện, rõ ràng, hợp lý và hướng tới tương lai. Vậy đâu là nhân tố cơ bản cho một chiến lược như vậy?
• Chính sách của Mỹ phải được dựa trên các nguyên tắc, chứ không đi theo bất kì bên nào. Washington cần phải làm rõ lập trường của mình về việc không yêu sách của bất kì bên nào. Đây là lập trường hiện tại của Mỹ, và nó cần được giữ vững trong tương lai.
• Những nguyên tắc được vạch rõ bởi cựu Ngoại trưởng Clinton, và nay được tiếp nối bởi Ngoại trưởng Kerry là những nguyên tắc đúng đắn nếu được áp dụng như mô tả dưới đây: Mỹ cần triệu tập không chỉ Trung Quốc mà tất cả các bên có tranh chấp khi các bên này có động thái vi phạm những nguyên tắc trên. Tuy nhiên, các quan chức và người phát ngôn của Mỹ nói chung cũng cần phải “hạ nhiệt” trong các nhận định công khai của mình. Lấy ví dụ, trong các tuyên bố của mình, Mỹ đã nhiều lần lên án hành động của Trung Quốc là “khiêu khích” và “gây hấn” nhưng lại im lặng đối với những động thái làm thay đổi nguyên trạng của các bên khác. Điều này có thể khiến Bắc Kinh càng có lý do để tin rằng Mỹ thiên vị các bên có tranh chấp khác và sử dụng vấn đề này để kiềm chế Bắc Kinh.
• Mỹ cần tập trung tìm kiếm sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với hai mục tiêu cốt lõi trong chính sách ngoại giao của Mỹ ở Biển Đông, đó là: 1) tuân thủ quy định của UNCLOS trong việc phân định tất cả các quyền trên biển vốn được phát sinh từ các thực thể đất liền có liên quan; và 2) ủng hộ việc đàm phán xây dựng Bộ Quy tắc Ứng xử giữa các nước ASEAN với Trung Quốc mà trong đó quy định rõ thống nhất các luật lệ, thủ tục và quy tắc, bao gồm cả cam kết giải quyết tranh chấp mà không sử dụng vũ lực.
• Thượng viện Mỹ cần phê chuẩn UNCLOS. Mặc dù hiện nay Mỹ vẫn tôn trọng và tuân thủ những điều khoản của UNCLOS tuy chưa phê chuẩn công ước này, lập trường của Mỹ sẽ có giá trị hơn rất nhiều nếu Mỹ chấm dứt sự tách biệt của mình với cộng đồng quốc tế vốn được hình thành dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Reagan đối với công ước này. Đây từ lâu đã là quan điểm của Ngoại trưởng, Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ và các nhân vật chủ chốt trong cộng đồng doanh nhân Mỹ. Do vậy, Thượng viện Mỹ nên chiểu theo quan điểm của họ.
• Để UNCLOS được thực thi một cách hiệu quả, Mỹ và cộng đồng quốc tế cần kêu gọi Bắc Kinh làm rõ lập trường của mình Về đường chín đoạn sao cho phù hợp với các điều khoản liên quan của UNCLOS mà Trung Quốc đã phê chuẩn và kí kết. Tương tự, Mỹ cũng cần gây áp lực để Đài Loan làm rõ lập trường đối với đường chín đoạn. Việc làm rõ ý nghĩa của đường chín đoạn cũng là vấn đề chính mà Philippines đệ trình lên Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) để được phân xử.
• Với bất cứ tranh chấp nào còn tồn tại liên quan tới ranh giới Vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ), Mỹ cần khuyến khích các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận toàn diện hoặc từng phần về các vùng đánh bắt cá để cho phép ngư dân của tất cả các bên có tranh chấp đều được quyền đánh bắt tại vùng biển của mình mà không bị can thiệp. Tuy nhiên, phải có giới hạn về mức độ đánh bắt để tránh tình trạng đánh bắt quá nhiều và đe dọa tới sự tồn tại của các sinh vật biển. Mỹ cũng nên ủng hộ nguyên tắc về khai thác chung giữa các bên yêu sách để phát triển nguồn tài nguyên đáy biển của những vùng EEZ tranh chấp.
• Mỹ nên ủng hộ tất cả các diễn đàn đàm phán và các phương thức đàm phán không thể hiện sự ưu ái của Mỹ đối với bất kì diễn đàn hay hình thức đơn lẻ nào, trừ khi có sự đồng thuận của cả khu vực. Những đàm phán song phương, như vừa thực hiện giữa Philippines và Indonesia, là rất hữu ích. Những đàm phán đa phương giữa các bên liên quan trực tiếp chắc chắn sẽ là cần thiết trong tương lai để giải quyết các tuyên bố chủ quyền chồng lấn bao gồm nhiều bên. Tòa trọng tài quốc tế là một công cụ hữu ích và lý tưởng nếu có sự đồng thuận của cả hai bên có tranh chấp và trong mọi trường hợp ít nhất chúng cũng cho thấy được quan điểm của tòa quốc tế.
• Mỹ cần phải hành động để chứng tỏ rằng những động thái mang tính cưỡng bức của một bên có tranh chấp sẽ khiến bên đó phải trả giá. Cách hành xử của Trung Quốc những năm gần đây đã khiến cho một số nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam và Philippines tìm cách tăng cường hợp tác an ninh với Mỹ. Mỹ cần đáp ứng lại những yêu cầu của các bên có yêu sách, trong đó có Việt Nam, để nâng cao khả năng bảo vệ an ninh biển của những bên này. Nga, Hà Lan và Pháp đều đã bán vũ khí cho Việt Nam; do đó Mỹ cũng nên dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí của mình đối với Hà Nội để cho phép hai bên xây dựng các điều khoản về điều khiển và kiểm soát cũng như các trang thiết bị phục vụ công tác hải giám.
• Washington cũng cần tái khẳng định lập trường về tự do hàng hải và hàng không dành cho các tàu quân sự và dân sự và máy bay, kể cả đối với những Vùng Đặc quyền Kinh tế, và cần phải có hành động phù hợp trong trường hợp bị thách thức. Việc Trung Quốc đưa tàu thăm dò vào Vùng Đặc quyền Kinh tế của Mỹ tại Hawaii hồi tháng 7/2014 trong thời gian diễn ra cuộc tập trận RIMPAC 2014 đã cho thấy sự hai mặt của Trung Quốc trong việc diễn giải những hoạt động được phép thực thi trong Vùng Đặc quyền Kinh tế.
• Mỹ cần khuyến khích tất cả các bên có tranh chấp, nếu có thể, “đóng băng” các hoạt động xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo hay thực thể nửa chìm nửa nổi đang có tranh chấp, hoặc nếu không thì chí ít cũng kiềm chế những hoạt động này. Mỹ cũng cần thúc đẩy các bên cùng nhất trí rằng những căn cứ quân sự này phải được sử dụng với mục đích tuần tra chứ không phải là mục đích triển khai sức mạnh.
Những kiến nghị trên được đề ra nhằm tạo nên sự cân bằng giữa các mối lợi ích đối nghịch nhau: để giảm thiểu những căng thẳng có chiều hướng gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc và giữa các bên có yêu sách ở Biển Đông; để bảo vệ lợi ích của Mỹ đối với các vấn đề biển mà Mỹ quan tâm; để tạo dựng lòng tin đối với các chủ thể trong khu vực rằng sự hiện diện an ninh của Mỹ là lâu dài; và để tránh gây ảnh hưởng tới uy tín của Mỹ trong những tình huống mà Mỹ khó có thể sử dụng biện pháp quân sự để bảo vệ lập trường của mình. Những đề xuất này cũng có mục đích bảo vệ lợi ích rộng lớn hơn của Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc và giúp Mỹ tránh trở thành nạn nhân trong các vấn đề Mỹ không thể kiểm soát được.
Nếu Trung Quốc thay đổi cách tiếp cận của mình tại Biển Đông sang một hướng quyết tâm gây hấn bằng quân sự và đe dọa nghiêm trọng tới ổn định khu vực, thì Mỹ cần tìm kiếm những phương án khác để ngăn chặn tình hình diễn biến theo chiều hướng đó. Để ngăn cản một diễn tiến như vậy, Mỹ cần đảm bảo rằng chiến lược ngoại giao của mình tập trung vào các vấn đề cốt lõi như tự do hàng hàng hải, sự tôn trọng các quy tắc quốc tế và việc tạo dựng một môi trường mà việc sử dụng vũ lực và các hành vi cưỡng ép là không khả thi. Để làm được điều này, Mỹ nên giảm bớt giọng điệu chỉ trích của mình, cùng hợp tác với tất cả các bên (chứ không chỉ một vài chủ thể) và đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề Biển Đông.
D- Yêu sách lịch sử của Trung Quốc đối với Biển Đông là không dựa trên UNCLOS
Nguồn trích dẫn: Nghiên Cứu Biển Đông.
Theo người của Vụ Luật pháp và Điều ước Quốc tế của Bộ Ngoại Giao (Trung Quốc), những yêu sách lãnh thổ của Trung Quốc tại Biển Đông được thể bằng đường đứt khúc 9 đoạn trong bản đồ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (còn được gọi là “đường Lười bò” hoặc “đường 9 đoạn”) là không căn cứ theo Công ước Luật biển LHQ UNCLOS 1982. Vị quan chức này lập luận rằng, “như một phản ánh của lịch sử”, yêu sách của Trung Quốc còn ra đời trước UNCLOS, và mặc dù những yêu sách này xung đột với các yêu sách của các quốc gia láng giềng trong khu vực, Trung Quốc sẽ đệ trình yêu sách của họ lên cơ quan giải quyết tranh chấp của UNCLOS. Trong khi cả quan chức của Bộ ngoại giao và một học giả nghiên cứu về Châu á của Trung quốc cố gắng khẳng định chứng cứ lịch sử tồn tại nhằm chứng minh cho yêu sách đường chín đoạn, nhưng không ai trong số họ có thể chỉ ra cho Tham tán chính trị những căn cứ cụ thể.
...Xem tiếp ---
NghienCuuBienDong - Wikileaks ( http://nghiencuubiendong.vn/wikileaks-ve-bien-dong/2496-in-mt-t-s-quan-m-yeu-sach-lch-s-ca-trung-quc-i-vi-bin-ong-la-khong-da-tren-unclos)
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/SCS claims_1432712682.jpg
(Đường đứt đoạn màu đỏ thể hiện cho yêu sách "Đường Lưỡi Bò" vô lý của Trung Quốc)
!!! Trong nội dung của bài viết dưới đây của Daniel Schaeffer/tranbong, đã phân tích được rõ quá trình hình thành “đường lưỡi bò” trong các loại bản đồ do Trung Quốc xuất bản là hoang đường, không có cơ sở pháp lý và khoa học, không phù hợp với Công ước quốc tế về luật biển và cũng như chưa thuyết phục được hết người dân Trung Quốc. !!!
oOo
Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò (tranbong)
Sau đây là bài viết nhan đề: “Biển Đông: Những điều hoang đường và sự thật của đường lưỡi bò” của tướng Daniel Schaeffer, nguyên Tùy viên quốc phòng Pháp tại Trung Quốc, Việt Nam và Thái Lan, hiện là Tư vấn cao cấp của chuyên mục “Tiêu điểm quốc tế”, tạp chí Diplomatie 36 - tháng 1 và 2/2009.
Vén bức rèm che đường lưỡi bò hoang đường.
Vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc trong bối cảnh hiện nay là phải biết cách làm cho những đòi hỏi ẩn chứa phía sau đường lưỡi bò phù hợp với việc nước này tham gia Công ước về luật biển với những đường ranh giới của các khu độc quyền và các thềm lục địa.
Các cuộc hội kiến của các tác giả tại Việt Nam và tại Trung Quốc cho thấy Chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ đề cập một cách chính thức đến đường lưỡi bò như một ranh giới bất khả xâm phạm đối với chủ quyền của Trung Quốc tại Biển Đông. Đây là một trong những nhân tố cơ bản đầu tiên cần nhấn mạnh. Đúng là việc duy trì biểu tượng của đường này trên các bản đồ do Bắc Kinh xuất bản tiếp tục gây ra tình trạng mập mờ về thực chất của những yêu sách của Trung Quốc, một tình trạng kéo dài xuất phát từ thực tế là hầu hết người dân Trung Quốc đều cho rằng đây đơn giản là sự khẳng định đối với “việc đã rồi” và vì thế không việc gì phải bàn đi cãi lại.
Đường lưỡi bò xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng năm 1947, trong một tập bản đồ tư nhân (chứ không phải do nhà nước xuất bản) dưới dạng một đường nét liền được vẽ bằng tay. Cần phải có những nhiên cứu cụ thể hơn để xác định được nguồn gốc chính xác của đường này. Trong thực thế, không tìm thấy bất kỳ một tọa độ nào của những điểm khác để có thể xác định vị trí chính xác của đường lưỡi bò.
Sau khi xuất hiện, đường lưỡi bò tiếp tục thay đổi thành một đường gián đoạn 11 nét, rồi 9 nét bắt đầu từ những năm 1950, tức sau khi nước CHND Trung Hoa ra đời. Ba giai đoạn như vậy hợp thành một nhân tố quan trọng để làm cơ sở xem xét các cuộc tranh luận về sau. Những tấm bản đồ về Biển Đông và về đường lưỡi bò mà chúng ta có thể tìm thấy đều được phát hành sau năm 1950. Trên những bản đồ này có ghi những chứ cái Trung Quốc được đơn giản hóa (chứ không có các chữ cái Trung Quốc truyền thống mà những người dân tộc chủ nghĩa vẫn còn sử dụng) hoặc những chữ cái Latinh được viết theo cách phát âm (dạng viết được nhà nước Trung Hoa nhân dân chấp nhận, khác với những hệ thống chuyển biên mà Trung Hoa dân quốc đã sử dụng trước đó). Trong những điều kiện như vậy, có thể hiểu rằng một đường ranh giới như vậy không phải là sự thể hiện chính thức ý trí áp đặt chủ quyền của Trung Quốc đối với toàn bộ Biển Đông. Đúng hơn đó là đường xác định phạm vi lãnh hải mà toàn bộ phía trong của nó là đối tượng của các cuộc thảo luận mà Trung Quốc muốn tiến hành để xác định chủ quyền trước hết là của Trung Quốc, sau đó mới là của các quốc gia khác, đối với những vùng đất nổi và đôi khi cả những vùng đất chìm như trường hợp của bãi Macclesfild. Đó như thể là giới hạn mà Trung Quốc đặt ra đối với “khu vực tranh chấp”.
Nếu phân tích kỹ thì có thể thấy được nhiều chi tiết. Thứ nhất là những đường cơ sở mà Trung Quốc xác định xung quanh quần đảo Hoàng Sa. Phải nói rằng Trung Quốc diễn giải một cách quá lạm dụng Phần IV của Công ước về luật biển khi gán cho Hoàng Sa quy chế “Quốc gia quần đảo”. Thực tế, Hoàng Sa không thể có quy chế này vì không thỏa mãn các tiêu chuẩn được quy định trong Điều 46 của Công ước về luật biển, theo đó để có quy chế “Nhà nước quần đảo” thì lãnh thỏ đó phải độc lập, chỉ bao gồm các hòn đảo và hoàn toàn không có mối liên hệ với lục địa. Kể cả khi Hoàng Sa thỏa mãn 2 tiêu chuẩn cuối cùng thì nó cũng không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, tiêu chuẩn về sự độc lập, vì đang là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Về logic tổng thể, cần áp dụng quy chế của các đảo đối với Hoàng Sa, tùy thuộc vào việc tại đây con người có thể sinh sống hay không như quy định trong Phần VIII của Công ước về luật biển.
Ngoài ra, chúng ta thấy rằng các đường cơ sở được áp dụng đối với Hoàng Sa không trùng với đường lưỡi bò và ngược lại. Nếu Trung Quốc không muốn mâu thuẫn với chính mình, họ không nên đặt ra những đường cơ sở xung quanh Hoàng Sa. Khi câu hỏi về mâu thuẫn này được đặt ra, người ta chỉ có được những câu trả lời mập mờ thay cho những lời giải thích có tính thuyết phục.
Chi tiết thứ hai đó là việc Trung Quốc đưa ra định nghĩa về lãnh hải của họ trong Luật ngày 25/2/1992. Trong luật này, Biển Đông không được nêu như là “biển lãnh thổ”. Chỉ có các quần đảo – một trong những cấu thành của Biển Đông – được nêu một cách dứt khoát là lãnh thổ quốc gia của Trung Quốc. Như vậy, các khu đặc quyền kinh tế của Trung Quốc cũng cần được xác định trên cơ sở của luật này.
Chi tiết thứ ba nảy sinh từ những lời phát biểu kỳ quặc của vị đại diện của một trong những viện nghiên cứu mà tác giả đã gặp khi vị này cho ràng đường lưỡi bò không phải do thể chế cộng sản tạo ra mà là sự kế thừa của thể chế dân tộc chủ nghĩa trước đây. Ta có thể hiểu: Việc đường lưỡi bò tồn tại như bây giờ không phải là lỗi của chính quyền Bắc Kinh. Nói một cách nghiêm túc hơn: Dù diễn đạt khó hiểu đi chăng nữa thì vị quan chức này cũng cho thấy rằng điều mà Trung Quốc đòi hỏi trước tiên là các bên tranh chấp phải công nhận rằng hiện đang có tranh chấp tổng thể và quan trọng hơn là họ cong nhận rằng hiện đang tồn tại những khu vực tranh chấp và thực sự đang tồn tại sự tranh chấp đối với những vùng nêu trên. Điều đó có nghĩa là:
- Trung Quốc muốn Việt Nam công nhận rằng không có trnah chấp đối với Hoàng Sa – điều mà Hà Nội không chịu. Điều mà Trung Quốc muốn đạt được ở đây là hai nước chấp nhận thực trạng được áp đặt bằng quân sự giữa hai nước trong những năm 1947-1974 và rằng vấn đề Hoàng Sa từ nay trở đi vĩnh viễn là vấn đề đã quyết với phần thắng thuộc về Trung Quốc. Nếu Việt Nam có những tư liệu đích thực có giá trị pháp lý để chứng minh rằng các vua Annam thực sự đã thực thi chủ quyền của họ trên những hòn đảo này vào thời kỳ tiền thực dân (chủ quyền này sau đó được thực dân Pháp đảm nhiệm) thì lý lẽ của Trung Quốc về chủ quyền đối với những hòn đảo này sẽ yếu hơn nhiều so với những lý lẽ của Việt Nam, kể cả khi Trung Quốc cho rằng chủ quyền của họ được thực thi đối với Biển Đông từ thời triều Song (960 – 1279). Ít nhất đó cũng là điều mà trẻ em Trung Quốc học trong các cuốn sách lịch sử của họ. Vấn đề cung cấp thêm những bằng chứng đáng tin cậy (chứ không phải cứ to mồm kêu loa “đã từ lâu các ngư dân Trung Quốc thường xuyên đến các vùng biển này”) là điểm quan trọng hiện nay và đây đúng ra phải là nhân tố cho phép xác định chủ quyền thực tế đối với Hoàng Sa.
- Trung Quốc lẩn tránh việc thảo luận thực tại của vấn đề chủ quyền đối với bãi Macclesfield, khu vực đang là "vấn đề đặc biệt" như đánh giá của một trong các chuyên gia của Trung Quốc về luật biển. Thực tế, dù không đáp ứng bất kỳ tiêu chuẩn nào của Công ước về luật biển về mặt thực tại lãnh thổ trong trường hợp như thế này vì Công ước chỉ chế định những bãi nổi hay những mỏm ngầm nhìn thấy được (trong điều 6 của Công ước có định nghĩa các bãi đá ngầm mặc dù định nghĩa này còn chưa rõ ràng), việc khẳng định chủ quyền đối với khu vực này là điều khó đối với mọi quốc gia.
- Trung Quốc có thể sẽ tỏ ra sẵn sàng thảo luận về Trường Sa để phục vụ chiến lược lừa dối để thế giới tưởng rằng Trung Quốc cũng có khả năng nhân nhượng hoặc vì Trung Quốc không có đủ các nhân tố khẳng định chủ quyền chắc chắn đối với quần đảo này. Các diễn giải như vậy càng được củng cố hơn khi Viện Nghiên cứu về Biển Đông đóng tại Haikou, rất có uy tín đối với Chính quyền Trung ương Trung Quốc, có một bộ phận chuyên nghiên cứu về TS, trong khi về các quần đảo khác thì không có bộ phận nghiên cứu chuyên trách.
Điều hoang đường khó dẹp bỏ
Tình hình nêu trên cho thấy rằng vẫn chưa thể loại bỏ đường lưỡi bò khỏi các bản đồ Trung Quốc ngày nay. Thực ra, các chuyên gia về luật biển của Trung Quốc vẫn chưa thành công trong việc thuyết phục người dân Trung Quốc, đặc biệt là dư luận xã hội, về sự cần thiết phải làm cho những đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc phù hợp với các điều khoản của Luật biển để những đòi hòi này trở nên tin cậy. Đại diện cho khuynh hướng "tôn trọng pháp lý" này (hãy tạm gọi như thế) là giáo sư Lihai, người được bổ nhiệm thẩm phán tại Tòa án quốc tế về luật biển tại Hambourg tháng 8/1996, nhưng đã chết vào tháng 10/2000 khi chưa kết thúc nhiệm kỳ. Trường phái này đã được một số quan chức Trung Quốc, cả quân sự và dân sự, ủng hộ, nhưng tất cả các cơ quan nghiên cứu thì không đồng tình. Tuy nhiên, cần thấy rằng trước đó giáo sư Zhao trong một thời gian dài cũng đã cố sức bảo vệ cho giả thiết rằng khu vực được giới hạn bởi đường lưỡi bò hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.
Ngày nay, khuynh hướng “tôn trọng pháp lý” còn đang phải đối mặt với hai trường phái truyền thống. Trường phái thứ nhất khẳng định rằng Biển Đông là biển lãnh thổ Trung Quốc, với lý lẽ là đường lưỡi bò đã có trước Công ước về luật biển, là di sản của lịch sử. Trường phái thứ hai cho rằng thể chế của Biển Đông là thể chế của một biển lịch sử như nêu trong các sách giáo khoa lịch sử, mặc dù điều này không được kiểm chứng.
Kết luận
Đường lưỡi bò có thể còn tồn tại một thời gian dài nữa mặc dù nó đang trở nên mờ nhạt trong tâm trí của một số người Trung Quốc muốn đất nước mình là một thành viên tin cậy của Công ước về luật biển. Những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông thật khó có thể biện minh. Việc từ bỏ hoàn toàn đường lưỡi bò sẽ khắc phục hoàn toàn được tình trạng mập mờ cản trở thực tiễn, làm cho các cuộc đàm phán giữa các nước trong khu vực trở nên khách quan hơn và tạo điều kiện thuận lợi cho việc cùng khai thác tài nguyên tại một số khu vực ít ỏi không tranh chấp. Cùng một số diễn biến gần đây trong khu vực, điều này có thể sẽ là một triển vọng thực tế đáng khích lệ. Việc Trung Quốc và Nhật Bản ký kết thỏa thuận cùng khai thác mỏ khí Shirabaka (theo cách gọi của Nhật Bản) cho phép hy vọng về một sự tiến triển trong tư duy của Trung Quốc liên quan đến những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh đối với Biển Đông, thậm chí có thể một ngày nào đó Trung Quốc sẽ quyết định bỏ hẳn đường lưỡi bò trong các bản đồ của họ./.
D - TIN THAM KHẢO / PHÂN TÍCH/ BÌNH LUẬN
(tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau.)
>>> 03/08/15 Bình luận / Phan tích: Ký giả 'Nguyễn Xuân Nam' và Luật Sư 'Nguyễn Hoàng Duyên'.
Đối phó với Trung Quốc: Quốc Hội Mỹ đề nghị TT Obama theo chiến lược khác
https://www.youtube.com/watch?t=1030&v=eYI_KUkl1N4
>>>05/22/15: TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG CẬP NHẬT - BUỒN NHIỀU HƠN VUI.
Bình luận: Nguyễn Thùy Trang
Như chúng ta mừng rỡ trong mấy ngày qua khi Hai Hàng Không Mẫu Hạm Uss George Washington & Uss Carl Vinson tiến ra Biển Đông và ai cũng nghĩ là sách lược của Mỹ nhằm phản ứng với Trung Quốc.
Trên thực tế, chúng ta cần nhìn nhận là Chính Quyền Obama rất yếu ớt phản ứng khi Trung Quốc cứng rắn Giàng Chủ Quyền Biển Đông.
Sau khi Bộ Trưởng Ngoại Giao John Kerry sang Trung Quốc kêu gọi biện pháp ứng xử Biển Đông một cách hòa bình nhưng không được phía TQ đáp ứng.
Mỹ không có động thái nào cương quyết hơn nữa sau khi John Kerry rời TQ sang Nam Hàn. Hai chiếc Hàng Không Mẫu Hạm George Washington & Uss Carl Vinson chỉ ở Biển Đông vài ngày trước khi sang Úc để tập trận cùng với quân đội Úc "Talisman Saber 2015" và sẽ trở về cảng San Diego.
Phần lớn 20 chiến Hạm của Mỹ còn lại ở Biển Đông đã rút về các căn cứ ở Nam Hàn, Nhật và Phi. Hiện nay KHÔNG có một chiến hạm nào của Mỹ đi tuần ngoài biển Đông. Điều nầy cho ta thấy là Obama đã ra lệnh rút lui có trật tự.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter là người có quyết tâm trấn giữ biển Đông nhưng không làm gì được hơn khi chính sách Obama có khuynh hướng thân cận với Trung Quốc. Từ lúc Obama lên nắm quyền thì thương mại Mỹ -Trung tăng lên 555 tỷ trong một năm. Hàng hóa Trung Quốc đổ vào Mỹ tăng nhiều hơn gấp đôi.
Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ash Carter đang cố tìm cách khác là hôm nay đã vận động Hải Quân Úc cùng tuần tra chung Biển Đông với Mỹ. Úc trả lời ởm ờ lời mời nầy vì nước Úc cũng là một trong những nước có thương mại hàng đầu với Trung Quốc, Úc không muốn tổn thương quan hệ nầy.
Mỹ hiện bị cầm chân tại Ukraine và Irag. Mỹ đưa một số công cụ quân sự sang các nước Baltic có biên giới với Nga và một số chiến hạm đang bị kẹt chân ở Trung Đông.
Mỹ vừa đưa Thứ trưởng Thứ nhất Bộ Ngoại giao Mỹ, ông Antony Blinken sang thăm Việt Nam để bàn về tình hình Biển Đông một cách cầm chừng.
Một ông tướng về hưu của Trung Quốc đưa ý kiến là nếu máy bay và tàu chiến Mỹ vào khu vực 12 Hải Lý của Trung Quốc thì bắn cảnh cáo và sau đó bắn bỏ...
Tuần sau thì Trung Quốc và Nga sẽ tập trận ở vùng biển Mediterranean để biểu dương lực lượng và nước Mỹ ở thời đại T.T Obama thì.....
Tin tức Biển Đông làm cho chúng ta lúc buồn lúc vui khi tình hình thay đổi như chong chóng. Thùy Trang đã nói nhiều lần là Trung Quốc sẽ lấn chiếm biển Đông trong thời đại của T.T Obama còn tại vị. Hy vọng nhiều sẽ làm cho chúng ta buồn nhiều hơn!
Biết đâu ngày mai trời lại sáng!
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/bdtt_1432531846.jpg
Nguyễn Thùy Trang
(*)...Xem thêm bài bình luận của 'Nguyễn Vĩnh Long Hồ' / TT OBAMA CÔ LẬP BẮC KINH BẰNG CHIÊU: LẤY “NHU THẮNG CƯƠNG (ĐẠO ĐỨC KINH – LÃO TỬ)
Tựa Đề: Lằn ranh đỏ trong quan hệ Mỹ - Trung (http://hoiquanphidung.com/showthread.php?18281-L%E1%BA%B1n-ranh-%C4%91%E1%BB%8F-trong-quan-h%E1%BB%87-M%E1%BB%B9-Trung)