PDA

View Full Version : Tập truyện ngắn - NHỮNG CHUYỆN CHƯA QUÊN



KiwiTeTua
05-12-2015, 06:37 PM
Tập truyện ngắn - NHỮNG CHUYỆN CHƯA QUÊN
Hồ Phú Bông



Như một nén hương tưởng niệm những người đã chết trong ngục tù nên những nhân vật tù đã chết trong tập truyện đều mang tên thật.

http://hoiquanphidung.com/userupload/img/giettrau_1431456724.jpg


1. Giết Trâu Ở Trại 5

Những ngày đầu ở trại mới nầy thật bận rộn. Một trại tù cũ bị bỏ hoang phế lâu ngày nằm nơi hang hốc hiểm trở, trong khu vực nông trường trà Trần Phú, tỉnh Hoàng Liên Sơn, nay số tù mới từ miền Nam ra, phải dọn dẹp, sửa soạn lại hang ổ. Dù phải trải qua cuộc hành trình dài, căng thẳng và mệt mõi nhưng tù không được nghỉ xả hơi. Công việc gì cũng chẳng giống công việc gì nhưng cứ như con rối. Phải múa. Phải quay. Kinh nghiệm nầy tù đã học được ở các trại trong Nam rồi. Đây là thời gian họ muốn theo dõi phản ứng của tù. Ngày nào cũng có một số tù bị kêu đi làm việc. Đi làm việc hay làm việc với cán bộ là danh từ họ dùng khi kêu một người ra hỏi cung, để điều tra một việc gì, hơn là tìm hiểu thêm lý lịch. Vì đã được tuyển chọn ra đây rồi thì lý lịch họ đã biết rõ từng người cho nên cái còn lại là họ muốn tìm cách đe dọa hoặc mua chuộc những người nầy để làm ăng tên. Một mũi tên bắn cả hai con chim. Một người cứ nhiều lần ra gặp riêng cán bộ thì các bạn tù khác dễ nghi ngờ. Khi bị nghi ngờ thì người đó bị đẩy vào chỗ cô đơn, từ chỗ cô đơn nầy họ gây chút tác động tâm lý nữa thì dễ moi được tin tức sinh hoạt của anh em tù khác.

Một tuần lễ đã trôi qua. Mọi sắp xếp chỗ ăn, ở và làm cỏ coi như tạm xong. Tù được thông báo là sáng mai sẽ được học tập chính trị . Cán bộ ở Trung Đoàn xuống dạy. Mọi người phải mặc sạch sẽ, đem theo tập vở để ghi chép. Cán bộ làm như rất quan trọng, tù cũng làm như nghe rất chăm chỉ nhưng về lán lại bàn tán với nhau về con trâu già do hai người lán 4 dắt về trại tối hôm qua.

Một tụ điểm thuốc lào gần đầu hồi của lán, khá đông người, được hình thành mau chóng. Vì vừa ở trong Nam ra, nên lượng thuốc lào còn khá nhiều. Tù chia nhau từng bi thuốc. Những chiếc điếu cầy ré lên liên tục. Một vài tù hút ếm tất cả khói vào trong buồng phổi, đang tựa ngửa, ngất ngưởng. Có tù khen và có tù bàn góp:
- Tôi mới nhận được quà của gia đình hôm trước, thì hôm sau bị đưa ra đây. Thuốc lào Cái Sắn đó.
- Thuốc ba số 8 nầy đằm hơn nhiều.

Giọng một tù khác ở xa, chợt chen vào:
- Một số 8 đã khẳm rồi em ạ. Lại đòi tới ba.

Tù hiểu người ấy đang nhắc tới cái còng số 8, nhưng ngần ngại, nên không có ai lên tiếng tiếp. Rồi câu chuyện xoay qua con trâu già.

Thế kể:
- Hôm qua lẽ ra về sớm hơn, nhưng con trâu già quá đi không nỗi!
- Ông quản giáo ra lệnh lán 4 cử một tổ làm thịt trâu vào sáng mai.

Cường cho biết như vậy. Hải chen vô:
- Hôm qua tôi đã nghe lán của Toàn Tái phụ trách mổ trâu. Anh chàng nầy còn hăng hái lắm.

Thiện chẫm rãi góp thêm chuyện:
- Tôi biết. Hắn cùng trại với tôi ở trong Nam. Thành phần tiên tiến đó. Đệ tử của nó cũng ra đây. Thầy trò nó lúc nào cũng được biểu dương ở Tiểu Đoàn cả.
- Thế thì vui mừng đi anh em, chúng ta đang sống với những con người tiên tiến, chắc chắn sẽ mau tiến bộ hơn nữa. Chúng ta đã nhờ họ, nên tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc một lèo từ Nam ra Bắc.

Mọi người quay lại nhìn, lại cái anh chàng nầy. Anh chàng thường nhảy xổm vào câu chuyện của người khác bằng những câu nói rất lạ tai và rất tỉnh bơ!

Chuyện thịt trâu rất mới mẻ với cả trại tù nên câu chuyện về con trâu già sắp bị làm thịt được bàn tán nhiều. Bố Thục khá rành về cách ăn thịt trâu. Bố là người miền Bắc, trước kia cũng ở một vùng nào đó ngoài nầy. Bố di cư năm 54 và nay lại hồi hương trong cái thế chẳng đặng đừng. Bố là người già nhất lán 8. Bố Thục bảo ăn thịt trâu phải có rau tía tô hoặc kinh giới và nhiều gia vị mới giảm bớt mùi thịt trâu. Tù chỉ nghe vậy và biết vậy thôi. Đa số tù chưa bao giờ biết ăn thịt trâu.
Anh chàng ở góc nhà lại lên tiếng tiếp:
- Học ăn, học nói… Cách Mạng đang dạy anh em mình học ăn trước! Học làm con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa là phải như vậy đó!

Khoảng hơn 300 tù tụ tập xuống hội trường, vì hội trường nằm cạnh dòng suối dưới chân sườn đồi. Mấy ông cán bộ chỉ huy trại và các quản giáo đều mặc gọn sạch hơn ngày thường. Ông Hoàng, Thượng Úy trại phó, hôm nay tinh tươm hơn hết. Ông đứng trên bục giảng với cặp quân hàm mới, đỏ chói. Dáng dấp khá cao lớn, vững chãi. Ông lặp đi lặp lại nhiều lần về qui định ở lớp học và giờ thảo luận ở lán. Giọng oang oang và cách nói cũng trơn tru hơn những ông khác. Nhưng dù có muốn làm gì chăng nữa, ông cũng không thể nào tạo được sự uy nghiêm mà ông thích có. Hàm răng vẫu và cáu bẩn của ông đã hại ông. Cũng từ hôm nay ông mang biệt danh ông răng vẫu. Ông răng vẫu quán triệt với tù xong, tiếp:
- Tôi đề nghị anh nào quản ca, nên đây cầm càng hát một bài. Các anh phải hát cho thật khí thế, nếu không, thì phải hát nại[1] nhiều nần.

Ông răng vẫu vừa dứt lời thì Toàn Tái đứng lên. Tù có cảm tưởng Toàn Tái sợ có người khác đứng lên nhanh hơn anh ta. Cứ tưởng Toàn Tái bắt giọng nhưng Toàn Tái lại nói:
- Chúng ta vừa nghe cán bộ quán triệt qui định của lớp học. Trong tinh thần hồ hỡi, phấn khởi đó xin anh nào có khả năng văn nghệ, lên đây cầm càng hát một bài.

Nếu không nhìn thấy, mà chỉ nghe giọng nói thì có thể tưởng rằng một ông cán bộ khác vừa phụ họa với ông răng vẫu. Trong đám tù có vài người đề nghị. Tuyển có chút phân vân rồi đứng lên nói:
- Tôi xin phép bắt giọng bài Tiến Về Sài Gòn!

Tuyển vừa dứt lời thì ông răng vẫu cản lại ngay:
- Các anh “nàm thao” mà tiến về Sài Gòn được? Các anh phải hát như có Bác trong ngày vui đại thắng.

Trong đám tù, chắc chắn có người hát như có Bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán, vì hắn đang làm cả nước điên khùng!
Hội trường đang vang tiếng hát thì ông cán bộ cấp Trung Đoàn đến. Ông răng vẫu lại lên giới thiệu. Cũng chẳng khác gì trong Nam, tù chỉ biết là cán bộ cấp Trung Đoàn chứ không bao giờ được nghe giới thiệu tên họ, cấp bậc hay chút tiểu sử thu gọn của thuyết trình viên, nhưng quân hàm của ông là Trung Tá. Cũng cái xắc cốt lòng thòng bên hông, khi lên bục giảng ông Trung Tá lục soạn ra một xấp giấy. Ông bắt đầu bài lên lớp bằng cách nhận xét khi nghe tù hát:
- Đứng bên ngoài, tôi nghe các anh hát rất có khí thế nhưng nếu các anh hát nớn hơn nữa thì mới biểu nộ tinh thần hồ hỡi phấn khởi tham gia học tập chính trị được…

Ngừng một lát ông tiếp:
- Hôm nay tôi sẽ nên nớp với các anh bài chính sách khoan hồng của Cách Mạng nà trước sau như một.

Lại bài ca khí thế hồ hỡi, phấn khởi… đi ở tù! Bài học mà mỗi lần đến trại mới đều phải nghe. Bài học của những danh từ quái đản. Bài học mà họ dùng để giải thích cho cái thông cáo mười ngày tập trung cải tạo của chính phủ cho đến nay đã hơn ba năm trôi qua nhưng vẫn trước sau như một!

Khi tù đang học tập chính trị tại hội trường thì một tổ năm người của lán 4 đang bắt đầu làm thịt con trâu già bên ngoài trại, bên dòng suối, gần nhà bếp bộ chỉ huy. Cứ mỗi lần có học tập chính trị là mỗi lần họ cho làm thịt trâu hoặc thịt heo mà họ gọi là ăn tươi. Khẩu phần ăn hôm đó có chút thay đổi. Hằng ngày thì ăn bo bo, sắn, bắp hột hay khoai lang nhưng có học tập chính trị thì thay vào đó tù được khoảng một chén cơm trắng với chút thịt ăn tươi!

Mới tờ mờ sáng vệ binh đã vào kêu tiểu tổ giết trâu đi làm việc. Ra đến nơi đã thấy mấy ông hậu cần đứng ở đấy. Sau khi nghe ông cán bộ hậu cần lên lớp riêng về quy định khi giết trâu (với họ thì cái gì cũng phải quán triệt và qui định cả!) tiểu tổ giết trâu bắt đầu công việc. Một số lá chuối xanh với dao, thúng đã có sẵn. Trong màn sương mỏng nơi núi rừng, với ánh sáng nhợt nhạt xanh xao của buổi sáng, da con trâu già ốm yếu, trông mốc thếch. Hai mảng hông sâu hoắm như đã thiếu thực phẩm và nước uống cả đêm qua. Sợi dây mũi của con trâu già được buộc vào một gốc cây khá lớn. Con trâu nhìn đám người đầy nghi ngại nhưng phản ứng chậm chạp. Tiểu tổ giết trâu thì ngù ngờ không biết việc, ngoại trừ anh Tỉnh có đôi chút tự tin hơn. Ông hậu cần muốn dắt con trâu đến gần mé nước để tiện việc vệ sinh khi rả thịt. Anh Tỉnh tiến lại phía con trâu tìm cách mở sợi dây mũi thì con trâu bắt đầu phản ứng. Loài vật trước khi bị giết như cũng có được linh tính. Con trâu già không còn đứng yên. Nó lùi lại trong thế thủ. Tuy con trâu không có phản ứng nhanh nhẹn nhưng cho biết nó sẽ dùng tất cả sức lực để tự vệ trước kẻ thù. Đôi sừng to và dài đảo qua đảo lại dù đang bị sợi dây mũi vướng víu khó khăn. Ông hậu cần chỉ anh Tỉnh và lên tiếng:
- Cái anh kia, tìm cách nắm cho được sợi thừng và giật giật cái mũi cho thật đau thì con trâu phải khuất phục thôi.

Anh Tỉnh tiến lại gần hơn và nói như phân trần:
- Tao cũng đâu có muốn…

Con trâu thở khì khì và huơ sừng về phía anh. Anh Tỉnh lùi lại. Ông hậu cần thấy vậy nên chỉ vào Tươi ra lệnh:
- Cái anh nầy, anh vòng ra phía sau con trâu để nó quay đầu nại phản ứng với anh… Đánh nừa nó và anh kia nhớ tranh thủ nắm sợi thừng nhé…

Con trâu bị đánh lừa. Anh Tỉnh thừa dịp nắm được sợi dây đã buộc vào mũi con trâu giựt giựt và cố thu ngắn sợi dây lại để dễ khống chế con vật. Con trâu già đau đớn, đứng yên thở phì phì. Tù còn lại đem thêm dây thừng tìm cách buộc vào hai sừng và cỗ con trâu già. Đám tù cố gắng kéo con trâu về gần mé nước. Con trâu nhất định không xê dịch. Mấy ông bộ đội dùng roi đập lên mình nó. Vết roi hằn lên mông, mũi con trâu máu đã đổ từng giọt nhưng con trâu vẫn bất động. Đôi mắt con trâu đã đỏ ngầu, hai dòng nước mắt lăn dài hai bên má. Cuối cùng ông cán bộ hậu cần thay đổi ý định, ông cho buộc cỗ con trâu già vào gốc cây, tại chỗ. Anh Tỉnh được giao cho một cái búa lớn và ông hậu cần hướng dẫn anh dùng búa đập vào trán con trâu, nơi giao điểm của hai cái sừng. Đứng nhìn con trâu đã bị buộc khá chặt nơi gốc cây, nhất là với đôi mắt đẫm nước mắt, anh biết mình không thể làm được. Anh từ chối với lý do anh sợ và đề nghị nên lấy lá chuối che đôi mắt con trâu lại. Cả nhóm tù đều từ chối cách giết một con trâu với phương pháp ghê rợn như thế nầy nhưng không ai dám thẳng thắn lên tiếng. Một trong số các ông bộ đội dằn lấy cái búa trên tay anh Tỉnh và ra tay. Mấy nhát búa đập thật mạnh lên trán con trâu cái già nhưng con trâu vẫn không quỵ xuống. Đôi mắt trâu lại mở lớn, đầy máu. Ông cán bộ hậu cần cũng ngạc nhiên. Ông bộ đội ra tay tiếp… Tàn lực của con trâu vùng lên. Sợi dây buộc mũi sứt ra. Máu trào ra từ nơi mũi. Con trâu nhảy lồng lên và bị các sợi dây buộc quanh cỗ kìm giữ lại, cả tàng cây rung mạnh. Con trâu cái oằn oại ngạt thở. Máu từ trong miệng trâu phun ra tung tóe. Nhưng con trâu cái già bị buộc chặt vào thân cây vẫn còn đứng đó dù toàn bộ thần kinh đã tê liệt. Không thể lường được phản ứng cuối cùng của con trâu nên ông cán bộ hậu cần chạy nhanh về lấy cây súng AK. Cũng ngay vị trí nơi búa đập, mấy phát đạn vang lên. Óc con trâu vở toang. Thân hình con trâu già đổ xuống nhưng cái đầu và đôi sừng bị dây giữ lại, làm cái mũi hếch lên, đầy bong bóng máu.

Đám tù vô cùng xúc động nhưng các ông cán bộ và vệ binh không lộ vẻ gì đặc biệt.

Công việc kế tiếp của anh Tỉnh là phải cắt một mảng da gần nơi ngực của con trâu rồi dùng một ống nứa dài đâm thẳng vào tim để lấy cho được huyết tươi còn đang nóng hứng vào một cái soon, đây là loại đồ nghề lấy huyết trâu của người thiểu số! Lúc nầy có thêm mấy ông bộ đội chạy đến, ông nào cũng cầm sẳn trên tay một cái chén. Họ múc từng chén huyết trâu đầy bọt, có người pha thêm chút rượu trắng, có người không cần. Họ chia nhau uống rất ngon lành trước sự ngỡ ngàng của đám tù!

Đảng đã mô tả tù là lũ ăn gan người, uống máu người không biết tanh mà chẳng có ai nhìn thấy nhưng các ông cán bộ và bộ đội đang uống huyết tươi, còn nóng, của con trâu cái già là chuyện có thật đang diễn ra trước mắt đám tù!

Khi bụng của con trâu cái già được mổ banh ra, anh Tỉnh nhìn thấy một cái bọc được gọi là cái hà nàm[2], khoảng vài tháng thì ông cán bộ hậu cần mừng lắm. Ông cho người đem ngay về nhà bếp bộ chỉ huy trại.

Toán tù bàng hoàng. Không hiểu con trâu cái già đã chiến đấu với tử thần bằng tất cả sức lực của nó là vì chính bản thân nó hay vì cái bào thai trong bụng? Sự chiến đấu của con trâu cái già là như thế! Còn những người tù?

Toán tù mổ trâu bị hối thúc làm cật lực, vì đã trễ. Hai toán tù từ trại khác cũng đã quang thúng tới chia thịt. Đám tù lớ ngớ nhìn nhau nhưng không ai dám lên tiếng tìm hiểu. Phần thịt ngon dành cho bộ chỉ huy. Phần còn lại chia đều cho cả ba trại. Trại làm thịt trâu được giữ lại bộ lòng và da, đó là thỏa thuận giữa các ông cán bộ hậu cần với nhau.

Dù hoàn toàn im lặng khi gặp nhau cũng như khi phân chia thịt nhưng lúc chia tay tù cũng biết được đó là tù từ trại 2 và trại 6, cùng một liên trại, cũng từ miền Nam mới ra.

Khi nhận phần ăn tối, cả trại đều biết chuyện con trâu cái già. Miếng thịt trâu ngang ngang nơi cỗ họng của tù đói. Miếng thịt trâu lan man trong bóng đêm.

Những đêm đen trên đất Bắc.

[1] phát âm chữ L thành chữ N
[2] bào thai

(còn tiếp)

KiwiTeTua
05-16-2015, 04:25 AM
2. Trại Khe Tối

Áp Tết. Trời se lạnh. Những cơn mưa phùn thoa mỡ trên các lối đi. Tù trợt té lạch bạch. Tù trẻ còn gượng đứng dậy, nhưng tù già phải có người đỡ. Tù dặn dò nhau trước: vác cây vầu như thế nào để khi trợt chân thì quăng nó ra xa dù lăn xuống suối bèn không thì cũng gãy cổ hoặc gãy chân, vì vầu vừa nặng, vừa dài đến bảy tám mét lại cong, nên rất khó giữ thăng bằng. Bùn đất không chỉ trên quần áo. Bùn trên mặt. Trên tóc. Trên khắp người.

Cá lóc tẩm bùn, nướng tên lửa rơm, khi chín lột ra, là một món ăn tuyệt vời của người miền Nam, nhưng tù đói tẩm bùn từ miền Nam ra, lại ăn món điểm tâm: một giờ lao động Xã Hội Chủ Nghĩa sáng Chúa Nhật!

Ông Thiên, trật tự trại, thông báo tối qua, sáng mai, Chúa nhật, toàn trại có một giờ lao động Xã Hội Chủ Nghĩa. Mọi người đều phải tham dự, chỉ trừ những ai được cán bộ y tế cho nghỉ bệnh. Công việc là vô rừng vầu, đã có các đội đốn sẵn chất thành đống, vác một cây vầu ra đường ô tô cách trại khoảng 2 cây số. Vầu là họ nhà tre, giống như tre Mạnh Tông ở miền Nam. To. Dài. Ruột gần như đặc. Vầu càng non càng nặng, vì chứa nhiều nước. Một cây vầu khoảng 25 đến 30 ký. Ông cán bộ quản giáo lên lớp trước:

– Các anh mà cũng được nao động Xã Hội Chủ Nghĩa nà một vinh dự nắm. Vì trước đây nao động Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ dành cho người dân nương thiện để góp phần vào xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội mà thôi.

Như vậy, chính ông quản giáo đã chỉ cho tù biết, tù là loại bất lương và Chủ Nghĩa Xã Hội lại cần đến công sức tù đói và bất lương để xây dựng!

Đây là trại Khe Tối thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Trại nằm sâu trong một thung lũng hẹp. Sườn đồi có độ dốc thật đứng. Từ lộ chính đi vào phải qua một cây cầu khỉ, có suối khá lớn bên dưới. Đi trên đường lớn, nếu không tinh ý thì không nhận ra. Cây cầu thật nhỏ nhưng một trại tù thật lớn bên trong.

Qua cây cầu khỉ là con đường độc đạo, rộng khoảng một mét, chạy viền theo lưng chừng đồi. Một đập nước đắp cao ngăn dòng suối nhỏ nên khu lòng chảo biến thành một hồ nước thật lớn. Triền đồi hai bên hồ còn trơ những thân cây khô mục, cỏ mọc um tùm cao quá đầu người, chứng tỏ đây là một trại tù cũ đã hoang phế, nay lại đón tù mới.

Gần ba trăm người, lũ lượt bị gậy đi vào cổng. Hai lớp hàng rào nứa đã xiêu vẹo.

Trong sách giáo khoa cấp tiểu học, có bài tả về những ổ rơm trong mùa lạnh ở miền Bắc, thì lần đầu tiên, tù từ miền Nam được biết đến thế nào là ổ rơm. Một số lán đã xiêu vẹo, đổ nát, nên tù không đủ chỗ ở. Nghiêm thuộc trong nhóm được chia cho một phần tư hội trường, và ngủ trong ổ rơm. Nền đất hang hốc, ẩm mốc, bốc lên một mùi ngai ngái. Rơm cũng không có đủ cho nên chỉ trải ra một lớp thật mỏng rồi mỗi người đem đồ cá nhân ra trải lên làm chỗ nằm. Đám tù thật mệt mỏi nên chẳng mấy chốc đã thiếp vào giấc ngủ. Nhưng giấc ngủ thì chập chờn vì cơn đói lại hành hạ. Có tù đang lục soạn lại hành trang, moi móc chút sắn “ đánh” được đêm qua ở trại tù cũ. Có tù khật khừng bên điếu thuốc lào. Tiêu vói lấy cây đàn thùng, tự làm, của Nghiêm, so dây, rồi đánh nhịp rời một tình khúc. Nhiều tù đang nằm im, nhiều tù vắt tay lên trán. Tiếng đàn, từng giọt, từng giọt, rơi vào mênh mông.

Tiếng suối róc rách đâu đó, chảy len lỏi qua những riềm lá mục, âm vang giữa hoàng hôn của núi rừng tĩnh mịch. Tù không có án nên không biết ngày về.

Công tác đầu tiên là dựng lại trại. Đội làn nền. Đội vào rừng, đốn dang, chặt gỗ. Đội chặt dang thành từng khúc ngắn, dài độ bốn tấc, rồi đập dập, tách ra thành miếng, đan lại thành từng tấm lớn làm tranh để lợp nhà. Công việc tất bật vì phải hoàn thành để kịp đón năm mới, để khỏi bị ướt lạnh vì những cơn mưa phùn. Chỉ ba tuần nữa là Tết. Ba tuần nầy bên ngoài xã hội rất nhộn nhịp. Vất vả. Nghiêm lại nghĩ về Hoàng. Cô nữ sinh chưa kịp rời mái trường đã bị ném thẳng vào biến cố trọng đại của xã hội, không một xu dính túi, lại đèo bòng hai con còn thơ dại. Hoàng giờ nầy đang làm gì? Đang sửa soạn đón Tết hay vẫn những khoai sắn, nơi kinh tế mới? Con đâu rồi, đứa về nội, đứa về ngoại, hay mẹ con cùng ở với nhau đón Tết? Tết ngày xưa mất rồi. Tết đã trong mịt mờ, ký ức.

Cứ mỗi lần di chuyển là mỗi lần tù nghĩ về gia đình, và mỗi lần xa gia đình hơn.

Dao thì cùn mà cạnh dang rất sắc. Sắc như dao cạo. Chúng cứa một đường ngọt lịm, đến khi biết đau thì đã ăn sâu vào tới tận xương. Tù thiếu máu, nhưng máu tù lại rải rác khắp nơi. Nào muỗi, nào vắt, nào đỉa, nào rệp, nào ruồi vàng, nào con ve. Gặp ruồi vàng hoặc ve chích thì đau buốt tới tim. Máu tù đã thiếu nhưng rẻ. Máu tù đâu phải là máu người!Đảng đã dỏng dạc lên lớp khi còn ở trong Nam: "các anh nà tội đồ của dân tộc, các anh đã từng ăn gan người, uống máu người không biết tanh. Cách Mạng giải phóng các anh sớm, nếu không, các anh đem dâng cả vợ con các anh cho đế quốc Mỹ để đổi nấy bơ thừa, sữa cặn!"

Máu, cái quý nhất của sự sống thân xác, giờ đây là con số không. Con chó còn để giữ nhà hoặc ăn thịt, nhưng tù thì không là gì cả.

Từ ông trại trưởng cho đến các ông quản giáo đều cùng một điệp khúc trong dịp Tết: "thi đua nập công dâng Đảng. Năm mới thắng nợi mới. Tập trung cải tạo tốt, nao động tốt, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy trại để sớm được về đoàn tụ với gia đình". Tù nghe điệp khúc nầy để có được mấy miếng thịt trâu, mấy điếu thuốc, cục thuốc lào, một tí đường. Hồ hỡi. Phấn khởi!

Trên hội trường, ông Đại Úy trại trưởng không bao giờ xưng tên (nên tù đặt tên ông là “chín ngón”, vì một bàn tay của ông cụt mất một ngón) bắt đầu điệp khúc. Sau đó, ông nhìn khắp hội trường như tìm kiếm một điển hình quan trọng. Cuối cùng ông chỉ tay vào Việt, một tù trẻ gầy yếu, mang đôi kính dày cộm. Việt đứng dậy, gỡ mắt kiếng ra, vì nội qui bắt buộc bất cứ tù nào nói chuyện với cán bộ đều phải lấy kiếng xuống, để tỏ ý tôn trọng, nhưng thực ra họ rất dị ứng với những người đeo kiếng. Ông chín ngón hỏi Việt:

– Tôi nghe nhiều người than là đói quá không cải tạo được, anh kia, trả lời tôi là có cải tạo được không?
Có lẽ là do thói quen, sau khi đặt câu hỏi, ông chín ngón đặt tay mặt của ông lên khẩu súng lục ông đang đeo lủng lẳng bên hông.

Việt, sĩ quan tình báo mới ra trường còn hiền lành đến ngây thơ. Khi lấy kiếng xuống, đôi mắt Việt như lồi ra, khuôn mặt thật khù khờ:
– Tôi tên là Nguyễn Hoàng Việt, xin trả lời cán bộ: dạ, thưa được.

Việt ngồi xuống. Ông cười. Nếp nhăn hai bên má ông sâu xuống. Lưỡng quyền nhô lên. Hàm răng vẫu, vàng khói thuốc, lộ rõ. Ông tiếp:
– Anh Việt nói được, còn cả hội trường, ai nói không được, thử đưa tay lên coi nào?

Hội trường im phăng phắc. Tù ngơ ngác nhìn nhau. Yên lặng. Yên lặng là đồng ý! Tù “đồng ý” là cải tạo được. Vì cải tạo là tư tưởng. Tư tưởng đâu có liên quan gì đói hay no. Trong truyện phim Cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn, đã được học tập, chiến sĩ Nam sốt đến 41 độ C nhưng nhờ tư tưởng vững mạnh nên vượt qua cả bệnh để tiếp tục chiến đấu cơ mà! Do vậy, bệnh tật đâu có ảnh hưởng gì đến tư tưởng! Đảng bảo được, thì dĩ nhiên là được. Đảng bảo khắc phục, thì dĩ nhiên là khắc phục. Đảng như không khí, trùm lấp khắp nơi. Đôi mắt của Đảng nhìn thấy tất cả. Xuyên qua bóng đêm. Thấy cả những giấc mơ của tù, kể cả trong việc đi ỉa, đi đái (vì nội quy trại bắt buộc, ban đêm tù ra khỏi chỗ ngủ, đều phải nói to vào bóng đêm: xin phép cán bộ tôi đi đái hay xin phép cán bộ tôi đi ỉa). Trong đêm thanh vắng, tĩnh mịch nơi núi rừng, cứ vang vang tiếng đi ỉa đàng nầy, tiếng đi đái đàng kia. Tiếng ỉa, đái rõ ràng thay vì dùng tiếng khác tế nhị, lịch sự. Loại ngôn ngữ thô lỗ nầy là hình thức giải tỏa những dồn nén, thay cho tiếng chưởi vào tai cán bộ.

Vô tình, Đảng là bóng đêm đầy đe dọa, đang rình mò những việc riêng tư nhất của con người!

Ông chín ngón trại trưởng, đại diện cho Đảng, cho nên ông thấy hết, ông biết hết. Nhân danh Đảng, ông bắt mọi người tuân hành. Rồi ông mở lại điệp khúc khoan hồng nhân đạo, yên tâm cải tạo tốt, đường lối chính sách trước sau như một (dù cái thông cáo tập trung cải tạo hai tuần của chính phủ Cộng Hòa Giải Phóng Miền Nam Việt Nam vẫn còn đó).

Có bao giờ ông Đại Úy trại trưởng chợt hỏi trong đêm: Đảng, Đảng là ai mà giờ nầy chính bản thân ông và đơn vị của ông cứ lận đận trong rừng sâu cả cuộc đời? Đố ai biết! Ông đang sống không vợ con, không nhà cửa. Ăn theo tiêu chuẩn, có chút cơm, nhưng cũng phải độn khoai, sắn dù ông đang có quyền, cái quyền trên ba trăm sinh mạng tù. Thứ quyền nhờ ông đang có khẩu súng bên hông. Còn ngoài ra ông không có được cái gì cả. Không có được đời sống của chính ông. Tù đói canh chừng ông hơn canh chừng một con cọp. Vì con cọp có thể vồ con mồi bất cứ lúc nào. Nhưng con cọp là con cọp, con cọp không thể là con người! Đảng là ông. Ông là con cọp. Con cọp thì làm sao khuất phục được con người? Người tù!
Có thể ông biết nhưng bổn phận ông phải nói, ông cứ nói. Có thể ông không biết, vì ông tin là Đảng hoàn toàn sáng suốt. Ông Tố Hửu đã ca ngợi ba mươi năm đời ta có Đảng, Đảng đã cho ta sáng mắt, sáng lòng! Ông Tố Hửulà Nguyễn Du thứ hai của Việt Nam, các ông bên văn học ở Hà Nội nói vậy, chẳng lẽ họ sai? Nhưng nếu đúng, thì ông rất có công với Đảng! Chính Ủy nhìn ông. Các đồng chí nhìn ông. Ông phải đi tới!

Ba ngày Tết qua đi. Đời tù không mới như mùa xuân đang về. Rừng núi vây quanh vẫn đầy đe dọa và bí hiểm. Khẩu phần ăn ngày một tuột dốc. Sắn tươi không có, khoai bắp không có, đừng nói gì đến cơm! Liên tục là sắn. Sắn xắt lát đã lên màu xanh, loại sắn xắt lát nhưng không có nắng để phơi nên ẩm mốc và bốc mùi. Có lẽ heo cũng không muốn ăn nhưng giờ đây là khẩu phần chính của tù. Tiêu chuẩn được một chén. Lúc nhão. Lúc khô. Lúc đầy thêm một tí. Lúc vơi đi một tí. Muối cũng thiếu và được hòa tan trong nước, vì họ sợ tù tích trữ muối để trốn trại, nên phải dùng muỗng để chia.

Rừng chung quanh không có gì để cải thiện. Những nơi khác còn có rau tàu bay, rau kim thất, nhưng ở đây chúng cũng không mọc lên nổi. Tù quơ quào cây lá hai bên đường khi đi lao động, như đàn bò bị lùa đi, nhưng mồm cứ ngoạm đại một chút lá xanh xanh bên đường. Đội rau xanh, bao nhiêu giống gieo xuống đều không thấy một cây nào mọc lên. Tại đất? Tại nước? Tại giống? Tại khí hậu? Hay tại tù? Tù không biết. Một vùng đất thật khắc nghiệt. Sức khỏe ngày một tồi tệ.


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/tucaitao_1431576545.png

Những bộ xương tù di động. Dật dờ!
– Ngày mai ba đội đi dỡ sắn. Sáu giờ sáng sẽ rời trại!

Chưa bao giờ tin đi lao động lại được tù hoan hỉ đón nhận như vậy. Những người bệnh nhẹ cũng đi. Đường thì chắc hẳn xa vì phải khởi hành sớm, nhưng cũng không cần đắn đo. Đi. Phải đi để kiếm sống. Kiếm chút gì bỏ vào bụng.
Bụng đói đầu gối phải bò!

Buổi tối, nằm suy nghĩ cách “chôm”. Những tù thân nhau đặt cả kế hoạch riêng. Phải chôm như thế nào để thoát được quản giáo. Thoát được vệ binh. Để đem được vô cổng trại! Những cây đòn để khiêng bằng dang loại lớn, được âm thầm đục xuyên các mắc bên trong, chỉ chừa một mắt đầu cùng. Những lát sắn xắt nhỏ, những củ sắn vừa phải, sẽ được lột vỏ, luồn vào, rồi dựng đứng cây đòn lên như không có chuyện gì xảy ra. Những mảnh niềng sắt nhỏ, mảnh thiếc các lon sữa bò, được mài bén và nhọn để sẵn sàng xắt nhỏ các củ sắn trong thời gian nhanh nhất. Đựng vào ống bương. Đựng vào bi đông. Đựng vào bình chứa nước. Đựng vào lon lọ. Đựng vào bất cứ thứ gì có thể đựng được. Chọn bộ quần áo nào dày và rộng, có may sẵn các túi bên trong. Thực sự thì bộ quần áo nào đối với tù bây giờ cũng rộng thùng thình cả, vì thân xác chỉ còn là da và xương. Cái quần được treo lủng lẳng trên hai xương hông nhờ sợi dây lưng buộc nơi bụng. Chưa bao giờ có một âm mưu chôm nào to lớn như vậy, đối với tù. Đó là thành quả của ba năm tù, từ Nam ra Bắc. Đó là kết quả của các lần biểu dương học tập tốt, lao động là quang vinh, mà Đảng muốn đào tạo. Từ những con người trí thức, lương thiện, đã trưởng thành trong nền giáo dục nhân bản, thoáng chốc đã trở thành con người mới: con người Xã Hội Chủ Nghĩa!
Tù mừng rơn, khi giờ giải lao tại hiện trường dỡ sắn được cho kéo dài. Trời lại mưa bụi, sình lầy nhầy nhụa, nên quản giáo và vệ binh trú trong nhà dân. Giờ nghỉ trưa là thời điểm tù tranh thủ cật lực nhất. Như một đàn khỉ rừng tràn về phá nương rẫy! Tha hồ lựa sắn ngon mà ăn. Củ sắn lớn không ngon bằng củ sắn nho nhỏ, dài dài. Dòn và ngọt. Mọi kế hoạch chuẩn bị trong đêm qua đều được thực hiện chu đáo.

Đường về thì nặng và xa nhưng tù khiêng chung với nhau tiếp tục bàn bạc để khi về đến kho giao nộp cho hậu cần không gặp trở ngại, sau đó tập họp vô cổng trại được an toàn. Toan tính, hồi hộp, âu lo, làm đường dài như ngắn lại. Khát nước cũng cắn răng chịu đựng, vì bi đông, ống bương, gô coóng, đều đầy ắp sắn. Quần áo cũng bớt rộng thùng thình, vì sắn lớn, sắn nhỏ, được cài cùng khắp. Trời lại mưa dai dẳng, ướt đẫm, giúp cho việc ngụy trang được dễ dàng hơn. Những trái tim bình tĩnh, chai lỳ trong chiến trận trước kia, giờ đây lại đập vang cả lồng ngực khi khắp vào đến kho hậu cần. Lúc nầy thì những cây đòn khiêng đã được dựng lên đây đó. Nơi thì hàng rào, nơi thì gốc cây. Tù dùng tay khiêng mấy chục ký sắn để cân nhập kho. Lệnh ông quản giáo là chờ tất cả nhập kho xong các đội mới được tập họp vô trại. Cho nên tù nhập kho trước quay ra đứng lớ ngớ, hoặc ngồi chuyện vãn với nhau, trông thật hiền lành. Khi tù cuối cùng cân xong thì ba ông quản giáo xuất hiện cùng một lúc, ra lệnh tập họp, khác với ngày thường khi vừa về đến trại thì các ông quản giáo đã biến mất và giao hai ông vệ binh tập họp, đếm rồi cho vô trại. Tù nhìn nhau hồi hộp, nhưng vẫn hy vọng. Hy vọng luôn luôn là cái đặc biệt nhất của con người trong những éo le gay cấn. Vẫn hy vọng. Hy vọng mấy ông quản giáo lên lớp ngắn, gọn, nhận xét lao động trong ngày, rồi cho vào trại. Nhưng tất cả vệ binh không lơ đễnh như hàng ngày. Vệ binh chia nhau đứng rải rác khắp nơi. Có vệ binh đứng gần một số đòn khiêng đang dựng ở bờ rào. Có vệ binh đứng gần ở những lùm bụi. Bình thường mặt ông quản giáo nào cũng mét mét, tai tái, nhưng hôm nay lạnh lùng hơn. Chì chiết hơn, dõng dạc:

-Các anh nới rộng hàng. Trật tự trại cùng các đội trưởng, lục soát kỹ từng người. Không để sót bất cứ vật dụng gì.

Tù xanh mặt. Đứng yên như phỗng. Ba ông quản giáo trực tiếp xét từng người một. Một ông vệ binh dời một cây đòn sắp ngã, ngạc nhiên vì cây đòn rất nặng. Cây đòn được hạ xuống. Những cây đòn được hạ xuống. Ông vệ binh gom hết lại. Những bi đông, những gô[1], những coóng[2], những ống bương, bình đựng nước chất thành đống. Từng tù một, dang tay, dạng chân như kiểm tra vũ khí. Vài tù đau lòng quá, co cượng, bị những cái tát xiểng liểng. Đám tù bây giờ mới thật sự thê thảm.

Bầy khỉ rừng đã tung hoành nơi rẫy sắn, bây giờ đứng chết dí, vì những chiếc vòng kim cô của Phật Bà Quan Âm[3] ! Những Tôn Ngộ Không ứa máu!

Ông quản giáo mặt mét như chì. Lạnh lùng:
– Tịch thu tất cả! Cho vào trại!

Không tù nào nói với nhau câu nào. Tất cả yên lặng vào cổng. Mỗi tù đau khổ khác nhau. Riêng Nghiêm thì quặn thắt: mất cái bi đông màu ô liu có dòng chữ nổi QLVNCH đã được cấp phát từ ngày đầu vào lính. Ngày 13 tháng 7 năm 1968.

Vào lán Tiêu than:
-Mất cái gô, hết đường ca coóng. Chỉ an ủi còn được cái nầy.

Tiêu kéo trong đáy quần ra một bọc nhỏ chứa củ sắn khá dài, đã lột vỏ trắng phau, được Tiêu đeo tòn teng giữa háng.
Hôm sau, ngoài hiện trường lao động, nghe hai ông vệ binh nói chuyện:
– Kế hoạch cả đấy! Có thế chúng mình mới có sắn ngoài tiêu chuẩn chứ ly.

[1] Lon sữa hộp guigoz bằng nhôm được buộc sợi dây kẻm trên miệng để có thể móc trên một nhánh cây, đứng từ xa có thể đưa vào trong lữa để nấu.
[2] Cái ca bằng nhôm được dùng như cái nồi , để nấu
[3] Truyện Tây Du Ký

(còn tiếp Truyện 3)

KiwiTeTua
05-22-2015, 08:55 PM
3. Mơ miền Nam

"Ai ơi đừng lấy thợ cưa
Trên tàng dưới mạt dái đưa lòng thòng".

Sự khổ cực của người thợ cưa gỗ ngày xưa đã đi vào ca dao, bây giờ đám tù đói đang phải thực hiện. Đội mộc chọn 7 người vào toán cưa xẻ. Là những tù trẻ, thuộc loại to con, sức khỏe còn tương đối khá hơn hết. Nhóm được ăn theo tiêu chuẩn đặc biệt, 18 cân. Việc làm tự giác và có nhiều cơ hội cải thiện. Toán gồm Đương cốm, Dân lùn, Trí, Phước dù, Phương râu, Nghi và Tòng cháy. Đương cốm phụ trách toán.

Ông chín ngón đã lùng sục khắp trong rừng. Nơi nào có cây to, gỗ tốt, ông đều kiểm tra, chọn địa điểm và lên kế hoạch. Kiểm lâm sức mấy mà vào đến đây được. Toán cưa xẻ sẽ làm việc trực tiếp với ông, vì đây là kinh tế của riêng ông, của cấp chỉ huy ông. Hai lưỡi cưa cá mập là linh hồn của ông. Nhờ nó ông sẽ có những miếng gỗ rộng bản, dày mỏng tùy ông muốn. Ông sẽ bắt toán mộc đóng cái tủ, cái bàn, cái ghế. Căn nhà ước mơ cả đời người của ông sẽ có. Xóm giềng sẽ vị nể ông và ít nữa, khi ông về lại gia đình, vợ ông phải nhìn ông thán phục. Vợ ông sẽ hãnh diện vì ông quyền uy, giàu có. Ông không thể là cô bé đội thúng trứng trên đầu, mơ ước những quả trứng sẽ thành đàn gà con, rồi đàn gà con sẽ lớn và bán rồi mua con bò, con bò sẽ cho sữa… cô mừng quá, nhảy lên và thúng trứng rơi xuống đất!


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/caitao_1432328099.png


Để bảo đảm kế hoạch riêng được tốt đẹp, không còn khe hở, ông phải nghĩ đến cách thực hiện kỷ luật nghiêm khắc toàn trại. Tạo bộ mặt trại thật nề nếp, khang trang. Bộ mặt trại thật quan trọng. Ở trên nhìn xuống sẽ thấy ông làm việc rất tốt, rất chuyên chính với kẻ thù, thể hiện tấm lòng của ông với Đảng, với giai cấp. Ông cho thực hiện ngay việc nuôi cá trám cỏ. Cái hồ nước đang có sẵn, chỉ tu sửa lại, be bờ cho bằng phẳng. Xuất ngân quỹ đợt đầu 30,000 cá trám cỏ con được thả xuống. Từ bộ chỉ huy trại nhìn xuống, trông thật đẹp mắt. Ông gật gù.

Nhóm cưa xẻ hàng ngày vác hai lưỡi cưa cá mập vô rừng. Nhóm chia hai toán nhỏ. Mỗi toán ba người. Hai người cưa, một người nghỉ và luân phiên. Cả nhóm bàn kế hoạch cải thiện. Rừng chỉ có cây quế là nhiều, còn không có cây gì khác có thể ăn được, kể cả rau tàu bay, rau má. Các cây khô mục cũng không thấy bóng dáng nấm mèo.

Nghi thử xuống suối, mò cua, bắt ốc. Suối nước rất lạnh và trong vắt. Không thấy bóng dáng một con cá nhỏ nào. Mấy tiếng đồng hồ bì bõm, không kết quả. Nghi trở lên đồi. Cả toán không ai có kinh nghiệm. Vầu, dang rất nhiều nhưng không tìm được một mụn măng. Tòng cháy đem về hai mụn măng nhỏ nhưng khô cứng và đắng, không thể nào ăn được. Đương cốm là dân biệt kích nhảy dù nên tương đối có kinh nghiệm, nhưng không thể rời nhóm lâu vì đề phòng ông chín ngón đến kiểm tra bất ngờ. Cho nên, có chút thì giờ, có củi lửa, có gô coóng, nhưng ngoài thuốc lào, nước sôi, chẳng còn gì khác.

Ở đâu có nước, ở đó có cá, cho nên Đương cốm nhất định dòng suối lớn và sâu đến thắt lưng như vậy thì không thể không có cá. Đích thân đi quan sát một tiếng đồng hồ sau trở lại, Đương cốm báo tin mừng: có cá và cá rất to. Một loại cá tương tự như cá chép, nhưng nhỏ hơn, có vảy màu hồng. Chúng bơi thành đàn năm bảy con. Khi Đương cốm xuống vẫn không thấy tăm hơi một con cá nhỏ nào, do đó Đương cốm nghĩ rằng phải có cá lớn, vì cá nhỏ không dám ở trong khu vực nầy. Đương cốm ẩn mình trong lùm kín, chờ đợi, nửa tiếng sau, bầy cá màu hồng nhởn nhơ xuất hiện. Chúng bơi ngược dòng nước, có đàn mười mấy con. Đương cốm vừa đứng dậy thì đàn cá vụt biến mất. Nhóm cưa xẻ có đề tài bàn thảo, đặt kế hoạch bắt cá. Đầu tiên nghĩ đến việc dùng mùng muỗi ngăn hai đầu lại nhưng dòng suối rộng và sâu không thể nào thực hiện được. Câu thì không có lưỡi câu, dây cước và cũng không chắc loại cá nầy sẽ cắn câu. Cho nên, nhóm cưa xẻ biết để mà biết, để mà ấm ức.

Những miếng ván đầu tiên đã ra đời. Ông chín ngón săm soi kỹ lưỡng nhưng không khen, cũng không chê. Đường cưa không phẳng nhưng nhóm tù đói bước đầu đã đạt được như vậy là tốt rồi. Ông chín ngón như vô tình:
– Tiêu chuẩn cao cả đấy.

Chắc không phải ý ông muốn nói về ván gỗ là tiêu chuẩn cao trong đời sống. Tù hiểu ý, nhưng mặt tù sưng sưng, chì chì, như không còn cảm giác.
Nghi rẽ các lùm cây, đi xuống suối để lấy nước, hôm nay Nghi làm anh nuôi cho toán. Nhớ lời Đương cốm, Nghi đi thật nhẹ nhàng như không gây ra tiếng động, với hy vọng sẽ được nhìn thấy đàn cá màu hồng mà Đương cốm mô tả. Phải thấy để thỏa mãn, để ước mơ, và biết đâu Nghi sẽ nghĩ ra được cách bắt chúng. Nắng đã lên cao nhưng tàng cây che khuất, chỉ cho những bóng nắng chạy nhảy lẻ loi trên lối đi xuống suối. Nghi nghe tiếng nước chảy róc rách vọng về nhưng hình như có thêm tiếng người. Vâng, hai giọng nữ đang trò chuyện. Óc tò mò trẻ thơ bỗng chốc nổi lên, giữa núi rừng hoang dã nầy sao lại có tiếng người? Nữ bộ đội hay dân thiểu số? Nghi ẩn mình vào trong bụi rậm. Mười, mười lăm thước không chừng.
Nghe giọng nói mệt mỏi, có chút âm hưởng đắng cay của tù, ngày nầy qua ngày khác, nghe giọng nói chì chiết của các ông quản giáo, vệ binh, ngày nầy qua ngày khác, nay bất chợt, nghe lại giọng nói của người nữ, thật lạ lùng. Thanh âm sao trong thế? Trẻ thế? Nó như tiếng chim gọi buổi sáng để đánh thức núi rừng. Nó như tiếng chim đánh thức tâm hồn Nghi. Hóa ra anh cũng còn tràn đầy cảm xúc mà tưởng đã chai lỳ. Mà tưởng đã khô cứng. Những nàng tiên trong cổ tích hiện về. Bầy tiên nào đó đang đùa tắm giữa rừng hoang?

Nghi thấy hai cô gái đang dầm mình trong dòng suối. Hai gùi măng đang để trên bờ. Một cô đang tắm và cô kia đang kỳ cọ búp măng trắng nõn. Khi cô bước lên bờ để bỏ búp măng vô gùi, Nghi như đứng tim. Nín thở. Đôi mắt Nghi như hoa lên. Nghi không thể tin ở thực tại. Da thịt những vùng kín trên cơ thể cô gái tuy không trắng như búp măng cô đang cầm, nhưng cũng nõn nà, phân biệt thật rõ ràng với đôi cánh tay, với khuôn mặt và cái cổ rám nắng. Cảm giác đến ồ ạt. Ngột ngạt. Lần đầu tiên Nghi biết lại chính mình. Nghi vẫn còn là một người đàn ông trẻ! Những ray rức, rạo rực, tiềm ẩn như côn trùng âm ỉ dưới lớp cây lá mục, phút chốc lột xác thành những con đom đóm lòe ra, bay bổng trong bóng đêm. Cái ấn tượng ấy một lần Nghi đã gặp. Đã sững sờ. Lần đó Nghi và toán lính nằm phục kích trên một khu vực đầy lá đen, ẩm ướt. Bóng đêm vừa sụp xuống thì hàng trăm con đom đóm phút chốc đã hóa thân và bay lên như cả trời sao di động. Giây phút hóa thân. Giây phút tiềm ẩn. Giây phút bản năng sống thức dậy.

Chờ cho hai cô gái tắm xong, chuẩn bị đi, thì Nghi gây tiếng động. Và tiếp tục đi xuống suối. Nghi như vô tình không biết có họ ở đó. Hai cô gái thấy Nghi cũng có vẻ ngạc nhiên, một cô lên tiếng:
– Anh là cải tạo đấy à?
– Dạ.
– Anh chỉ đi một mình cơ à?
– Dạ không. Còn một nhóm anh em cưa xẻ trên đồi. Tôi xuống đây lấy nước.
– Các anh lao động xa trại nhỉ?
– Dạ.

Tiếng anh thoát ra từ miệng một cô gái đã cho Nghi trở lại đời thường trong giây lát. Cũng là tiếng anh, nhưng thoát ra từ miệng các ông quản giáo, vệ binh, luôn có vẻ là một tiếng đệm, gằn giọng, mang một ý nghĩa khác. Ôi chao, cũng một tiếng gọi nhưng ý nghĩa lại khác nhau. Một đàng của tù ngục. Một đàng của tự do. Nghi muốn hỏi nhưng Nghi thận trọng. Nội quy trại cấm tuyệt đối không được giao tiếp với dân trong vùng mà họ gọi là quan hệ. Cho nên Nghi chỉ trả lời những câu hỏi. Họ hình như là hai chị em. Khuôn mặt giống nhau. Nhân dáng giống nhau. Nhưng có một điều dễ nhận ra là họ không phải là người địa phương, không phải là người thiểu số tại đây. Nét mặt thanh tú. Dáng dấp không quê kệch, cục mịch. Đôi bàn tay cũng không quá cỡ, sần sùi.
– Anh là cải tạo từ miền Nam ra?
– Dạ.
– Chúng em nhỏ hơn anh. Đừng dạ với chúng em như vậy.
– Dạ.

Rồi Nghi tiếp:
– Kỷ luật của trại… Tôi đang nói chuyện với hai cô là vi phạm nội quy.
– Anh đừng lo. Chúng em từ Hà Nội lên kinh tế mới ở đây sáu bảy năm rồi. Gia đình thầy mẹ chúng em là giới tiểu thương, hết tiền hối lộ, nên bị đưa đi. Em là Tố Nga, còn Tố Uyên là em.

Chỉ qua mấy câu đối thoại ngắn ngủi đã cho Nghi an tâm hơn. Tố Nga và Tố Uyên đang có tự do. Loại tự do được chỉ định nơi núi rừng. Chỉ tự do với núi rừng. Họ có khác gì anh không?
– Hai cô ở gần đây không?
– Xa, khoảng năm ki lô mét cơ ạ.
– Hai cô tìm đâu ra nhiều măng quá. Anh em chúng tôi cũng cố tìm nhưng chẳng thể tìm được một búp nào cả.
– Đây là măng vầu. Các anh không biết, vì rất khó tìm thấy. Măng vầu không mọc chung tại bụi như măng dang. Măng vầu thường mọc đơn độc. Chỉ nhú lên khỏi mặt đất vài cen ti mét thì đào lên mới ăn được. Nếu chúng lên cao hơn thì rất đắng.
– Dạ, cô có thể hướng dẫn cách tìm cho tôi được không?

Tố Nga cơi cơi đống vỏ măng vừa lột bên suối. Cô vớ lấy một đỉnh nhọn đã cắt bỏ, đặt lên mặt đất, đỉnh nhọn hướng lên trời:
– Đấy, giống như thế nầy. Nhưng chiều cao cỡ 2 cen ti mét cơ.
– Màu vỏ măng, màu đất, lại giống nhau mà chỉ nhú lên chút xíu, trong lúc mặt đất đầy cây lá mục, quả là khó nhận ra thật. Anh em chúng tôi không biết là khó tìm đến như vậy, mà chỉ nhìn những cây măng đã lên cao cao trên đất.

Tố Uyên xen vào:
– Quen như chúng em thì nhận ra dễ hơn các anh.
Nhìn hai gùi măng đã lột, rửa trắng phau, Nghi nói:
– Tìm được nhiều măng như thế nầy chắc hai cô tốn nhiều thời gian lắm?
– Đi từ rạng sáng đến bây giờ thôi ạ. Mùa măng đã hết nên chỉ có thế, chứ trước đây khoảng hai tháng thì nhiều hơn lắm cơ.
Tố Uyên tiếp:
– Chúng em hái và làm măng khô bán về xuôi. Nhưng lúc nầy hết mùa rồi. Mà thôi, đừng nói về măng nữa! Chúng em thích nghe chuyện miền Nam cơ. Anh kể cho chúng em nghe nhé?

Miền Nam như một huyền thoại đối với người miền Bắc. Miền Nam hấp dẫn. Miền Nam văn minh. Miền Nam có nhạc vàng.

Lúc ở trại 5, nông trường chè Trần Phú, tỉnh Hoàng Liên Sơn, Nghi cũng đã có dịp nói chuyện với hai cô gái hái chè ở đó. Họ cũng đi kinh tế mới đến đấy. Lần đó cả đội đi đốn dang. Nghi và Dũng đốn chung, nhưng cả hai không thể nào đạt chỉ tiêu vì những cây dang khoe thân mình xanh mượt, nằm cạnh ngoài của bụi dang, rất dễ đốn, nhưng ngọn dang đã bị dây rừng quấn chặt, do đó đốn rất dễ, nhưng không thể nào kéo xuống được. Dũng và Nghi đã trầy trụa, mệt nhừ, nhưng cũng không làm ngọn dang rơi xuống đất. Nó cứ nhùng nhằng, đong đưa. Bỏ thì tiếc, nhưng kéo xuống thì không thể. Nghi và Dũng đang ngồi nghỉ xả hơi thì gặp hai cô gái đi vào khu vực đốn dang. Có chút e dè khi mới gặp nhau nhưng trao đổi đôi ba câu chào hỏi, Nghi thấy hai cô rất chân thật và nhiệt tình:

– Trước khi các anh bị đưa ra đây thì địa phương đã phải học tập, đã được nghe họ mô tả các anh như không còn mang tính người. Phải ghê sợ các anh. Khi thấy các anh thì phải tránh cho xa kẻo bị các anh giết chết. Nhưng vì chính sách khoan hồng, nên dù bản tính các anh có như vậy, Đảng không giết mà chỉ giáo dục để các anh trở thành người dân lương thiện. Chỉ đánh người chạy đi, chứ không ai đánh người chạy lại. Do đó ban đầu khi vừa thấy các anh là chúng em tránh xa ngay, nhưng dần dần chúng em nghĩ khác. Các anh từ nét mặt, đến nhân dáng, đều không có nét hung dữ. Các anh không là những con quái vật mà rất hiền lành. Do đó chúng em thường tìm cách tiếp xúc với các anh để được nghe kể chuyện về miền Nam.

Một cô hỏi:
– Các anh có biết nhạc vàng không?

Nghi cười hiền lành:
– Biết chứ. Biết nhiều lắm.
– Anh hát cho chúng em nghe đi cơ.

Biết thì biết rất nhiều, nhưng hát, mà hát trong hoàn cảnh như thế nầy, thì dù có là ca sĩ cũng không thể nào cất giọng được. Nghi nghĩ như vậy nhưng không nói ra.
Cô kia tiếp:
– Hai anh hát cho chúng em nghe, chúng em sẽ đốn hộ dang cho hai anh.

Dù có mệt mỏi thế nào cũng không thể không cười được. Một sự trao đổi rất sòng phẳng. Rất mộc mạc. Nhạc vàng là loại nhạc Đảng muốn tiêu hủy. Đảng muốn tận diệt. Di sản văn hóa miền Nam phải đốt sạch. Đó là văn hóa Mỹ-Ngụy. Nó ghê gớm, độc hại đến như vậy mà sao hai cô gái nông trường nầy đòi đổi lấy mồ hôi của chính mình để được nghe? Phong trào cấm nhạc vàng càng mạnh, thì nhạc vàng với những dòng nhạc mềm mại, những dòng nhạc trữ tình, những dòng nhạc phản ảnh trung thực tình cảm tự nhiên của con người, lại có thêm sức hút.

Cái gì Đảng muốn, quả thật, rất khác với tình tự con người!

Những ngày đầu 30-4-1975, mở radio theo dõi tin tức, thì cứ nghe giọng nói đanh thép, lạnh lùng của xướng ngôn viên, rồi hàng hàng lớp lớp những bản nhạc, ít khi nghe rõ được lời. Giọng ca chạy lên óc. Giọng ca làm nổi cả gai ốc. Giọng ca the thé, cứ dồn đuổi theo nhau, đã làm Nghi bật khóc. Khóc nức nở. Miền Nam mất rồi. Mất thật sự rồi. Những điệu nhạc thường ngày bỗng dưng biến mất. Mất trọn vẹn. Thế giới đang sụp đổ. Phố phường đang qua giai đoạn khác. Giai đoạn xa lạ. Giai đoạn mà khi nói phải nghiến răng. Giai đoạn the thé. Giai đoạn long óc. Khi hát như nghiến răng. Khi nói như nghiến răng. Ù lỗ tai, dội lên tận óc. Nhạc Việt hay nhạc Trung Quốc? Đài Việt Nam hay đài Trung Quốc?
Việt Nam độc lập rồi ư? Đảng bảo độc lập cơ mà!

Miền Nam đang thật xa xôi với hai cô gái nông trường nầy. Miền Nam là ngoại quốc văn minh, từ vật chất tới nhạc vàng. Và, người miền Nam đó, những người miền Nam với án lệnh tập trung. Những con người hiền lành với khổ ải không có ngày về. Các cô hiểu cái án tập trung. Người miền Bắc hiểu cái án tập trung. Cái án cao su. Cái án không có án. Cái án cố trù dập thân phận con người. Những con người không theo Đảng. Nhưng người miền Nam mới bắt đầu biết. Chỉ mới bắt đầu.
Bánh xe của Đảng đang trên đường đi tới.
Lần đó Nghi và Dũng không hát được, nhưng đọc cho hai cô gái nông trường chè Trần Phú lời của hai bản nhạc tình theo nhạc điệu của nó. Hai cô không có bút, không có giấy, nên cố nhớ. Lặp đi, lặp lại. Dù Nghi và Dũng can ngăn nhưng hai cô nhất định trả công bằng hai bó dang đúng chỉ tiêu để Nghi và Dũng vác về trại.

Một phút quên chính mình. Một phút Nghi thấy thương đời sống và tuổi trẻ như Tố Uyên, Tố Nga. Chỉ một phút thôi. Một phút của tự do chợt đến. Một phút quặn thắt. Một phút quên thân phận tù. Một phút xúc động trong tình người.
Tố Uyên lấy ra mấy búp măng trao cho Nghi:

– Anh đem về toán để các anh cải thiện.

Tố Nga đưa cho Nghi một gói lá chuối khá nặng mà màu xanh của lá đã bị hơi nóng làm đổi ra màu nâu sậm:
– Đây là xuất trưa của chúng em, anh mang về tất.

Nghi xúc động trong giọng nói:
– Hai cô giữ lại một ít để đỡ đói trên đường về nhà.

Tố Nga không trả lời và tiếp:
– Nếu anh muốn tìm măng cải thiện thì ngày mai chúng em sẽ trở lại đây, anh đi với chúng em.

Nghi ngần ngừ:
– Tôi muốn lắm nhưng vô cùng nguy hiểm.
– Cảnh giác. Chúng em biết. Lối xóm với nhau còn phải cảnh giác cơ mà! Chúng em quen chuyện bị theo dõi, nên mỗi người phải luôn đóng một vai nào đó để đánh lạc hướng. Công an ở mọi nơi. Công an ở cả núi rừng. Nhưng phải làm thôi anh ạ. Không luồn lách thì không thể nào sống được. Cứ chối bay chối biến, nếu chúng tóm được. Đến khi hết đường chối cãi thì cho chúng khảo của.

Nghi trở lên đồi khá trễ nhưng những chiến lợi phẩm Nghi mang về làm cả toán ngạc nhiên. Nghi kể lại từng diễn tiến nhưng giấu biệt không kể về chuyện Nghi trộm nhìn say sưa hai tiên nữ tắm suối. Đây là câu chuyện Nghi có thể khoe khoang, có thể thêu dệt theo thói thường. Nhưng có chút gì đó, tự nhiên chợt đến, như riêng tư, như thật riêng tư, nên Nghi giữ kín, dù Nghi chưa cảm nhận được một cách trọn vẹn.

Buổi tối, Nghi thấy hơi khó ngủ. Cứ nghĩ đến cái hẹn ngày mai. Dòng suối. Tố Uyên. Tố Nga. Tù. Cùm. Tra tấn. Đói. Vừa hồi hộp sợ sệt, vừa thích thú. Nghi biết đây không phải là chuyện bình thường. Đây là trò đùa với lửa. Đem sinh mạng ra đùa với tử thần. Kỷ luật trại.

Đương cốm và cả toán cưa xẻ cũng bàn kế hoạch trả lời cho suông sẻ, nếu ông chín ngón kiểm tra nhân sự bất chợt. Những mảnh lá chuối gói cơm nếp Tố Nga cho hôm qua, cũng đã cho vào lửa tại chỗ, cẩn thận. Bên dưới làn da mặt sưng sưng, chì chì của tù, đang thoáng có chút sinh khí. Mỗi người đang đóng một vai nào đó, như Tố Nga đã nói.

Buổi sáng rừng núi như còn đang ngái ngủ. Tiếng chim vang vọng thật xa. Trong vắt. Khói sương còn đang lướng vướng trên các ngọn cây cao. Từng cụm. Nắng nhợt nhạt trải trên các lối đi ẩm ướt sương mưa. Toán cưa xẻ lầm lũi trên đường ra hiện trường lao động. Hôm nay khác với thường ngày, cả toán yên lặng, mỗi người theo một suy nghĩ riêng. Có chút căng thẳng.

Nghi xuống suối theo một lối khác. Vào phía sâu hơn, theo Tố Nga chỉ ngày hôm qua. Cây lá cọ quẹt trên lối đi làm áo quần Nghi ướt đẫm. Chỉ có tiếng chim buổi sáng chào đón nắng sớm và tiếng suối róc rách, rì rào. Nghi hồi hộp và có cảm tưởng như là buổi hẹn hò, tình tự. Càng vào sâu, dòng suối rộng hơn và hoang vu hơn. Đến ngả ba, nơi có một dòng suối khác nhập lại, một cụm cây mọc bao quanh một tảng đá khá lớn, chắn lối giữa ngả ba, nước chảy xoáy quanh, nơi Tố Nga hẹn gặp Nghi. Bên kia suối, rừng khá rậm rạp. Có nhiều bụi dang và vầu. Nghi chưa dám ra gần suối vì còn cảnh giác. Bất cứ người nào phát hiện Nghi ở đây cũng có thể bắt Nghi về giao nộp cho trại vì tội trốn trại. Nghi ngồi yên chờ đợi.
Nghe có tiếng động ở phía sau, Nghi quay lại thì thấy Tố Nga đang đi tới. Tố Nga đi một mình. Tố Nga không mặc bộ đồ lam lũ, hái măng hôm qua. Cô mặc một áo sơ mi cũ, màu cháo lòng và quần tây màu xanh đậm. Cô mang một túi vải thay cho cái gùi măng. Nghi ngạc nhiên lên tiếng:

– Cô Tố Nga đi một mình, còn Tố Uyên đâu?
– Tố Uyên đang lo dịch vụ tại Hợp Tác Xã vì sắp có hàng phân phối về.

Nghi tỏ ra phân vân. Tố Nga tiếp:
– Trên đường về hôm qua, Tố Uyên cứ bảo, tù gì như anh mà lành như bụt đấy cơ.

Ngưng một lát, Tố Nga tiếp:
– Tố Nga không hái măng hôm nay nhưng vẫn ra đây để chỉ cho các anh tìm cái cải thiện. Khu vực nầy chúng em thường đi hàng năm. Bên kia suối, có thể còn một ít măng vầu.

Nghi nhìn dòng suối:
– Nước hơi sâu làm sao Tố Nga qua bển được?

Tố Nga nhíu mày:
– Bển?
– Bển là bên kia.
– Lạ nhỉ. Bển. Lần đầu tiên Tố Nga nghe từ bển đấy.

Nghi có chút căng thẳng nhưng Tố Nga thì thật tự nhiên:
– Vào bên trong chút nữa sẽ có một thân cây vắt ngang suối. Chúng mình qua ngả ấy.

Rồi Tố Nga tiếp:
– Khi đánh được nhiều măng thì lúc trở về không thể theo lối nầy nhưng chúng em lột vỏ măng và tắm tại đây. Vừa tắm, vừa kiểm tra cho nhau, có con vắt nào bám trên người không. Ban đầu, chúng em sợ vắt kinh khiếp lắm, bây giờ vẫn sợ, nhưng đỡ hơn và vì kinh tế gia đình cả anh ạ!

Nghi chợt hiểu và nhớ lại hình ảnh Nghi bắt gặp hôm qua. Nghi thấy rạo rực trong lòng. Nghi định hỏi, bộ không sợ người khác nhìn thấy hay sao, nhưng Nghi kịp ngừng lại.
– Chúng mình qua bên kia suối đi anh.

Nghi theo Tố Nga đi dọc theo bờ suối, vừa đến một khúc quanh, thì một thân cây khô mục nằm vắt ngang qua dòng suối, quấn đầy dây lá rừng. Tố Nga lên tiếng:
– Rất trơn trợt, anh cẩn thận đấy.

Tố Nga vịn vào các nhánh cây khô, xoay ngang người, từng bước, bước qua bên kia. Nghi theo Tố Nga không khó. Nghi nhớ đến những cây cầu khỉ ở quê anh. Bên dưới là dòng nước đục ngầu phù sa mang những khóm lục bình trôi vô định. Những chiếc thuyền ba lá là phương tiện di chuyển, chở cây trái từ miệt vườn ra chợ. Nơi nào cũng có trái ngọt, cây lành, quanh năm không bao giờ nghĩ đến đói. Đứa con mộc mạc quê anh đó, bây giờ lại phải đi tìm cái ăn vì sự sống còn.
– Mình qua được “bển” rồi phải không anh?

Tố Nga cứ kéo dài chữ bển ra để trêu Nghi. Nghi cười hiền lành. Anh nhìn trong đôi mắt long lanh, tinh nghịch của Tố Nga như muốn nói: cám ơn em, giữa chúng ta không có sự hận thù mà Đảng mong muốn.
– Chỗ nầy khuất và an toàn. Anh dùng chút cơm Tố Nga mang cho anh đã, rồi mình đi tìm măng.

Tố Nga trao cho Nghi một gói cơm với muối vừng còn nóng. Cầm gói cơm trong tay, Nghi không nói được câu nào, Nghi chỉ nhìn Tố Nga thật yên lặng và sâu thẳm. Sự xúc động của Nghi làm cô bối rối. Cô lẫn tránh cái nhìn đó và giục:
– Ăn đi anh.

Những búp măng vầu được Nghi và Tố Nga đào lên từ lòng đất khá to và nặng. Cả hai đều ướt đẫm mồ hôi nhưng không ai thấy mệt. Họ vừa tìm, vừa đào, vừa nói chuyện nên thời gian trôi rất nhanh. Nhìn nắng đã lên khá cao, Nghi nói:
– Măng đã đủ cho ngày hôm nay và cả ngày mai nữa. Mình trở xuống suối kẻo trưa rồi.

Tố Nga nhìn Nghi như muốn nói sao thời gian trôi nhanh thế. Cô lặng lẽ chuốt một cành cây nhọn, đâm xuyên qua các chóp măng. Nghi luồn một sợi dây rừng qua đó và mang tất cả măng xuống suối.
Nghi theo sát Tố Nga. Bất chợt Nghi nhìn thấy một vết đen thẫm, cồm cộm, gần giữa lưng nơi có sợi dây nịt ngực của Tố Nga. Nghi vội vã:
– Tố Nga, có thể có con vắt ở sau lưng áo!

Nghi bỏ lửng câu nói. Tố Nga dừng lại. Cô bỏ ngay cái túi vải đang mang trên vai xuống đất. Cô cố khuỳnh tay ra phía sau kiểm soát. Cô thảng thốt, cuống quýt:
– Ấy chết, anh giúp hộ em.

Tố Nga ôm chầm lấy Nghi, mặt tái nhợt, úp vào ngực Nghi, sợ hãi giục:
– Nhanh, nhanh lên…

Nghi quăng xách măng xuống, cũng cuống quýt.
– Nhanh, nhanh đi anh.

Nghi luồn tay dưới áo sơ mi của Tố Nga, nhưng Tố Nga còn mặc một áo mỏng khác bên trong, làm Nghi luống cuống. Thấy Tố Nga không có phản ứng nào, nên một tay Nghi cố kéo chiếc áo lót đang bó sát người Tố Nga, tay kia lần ngược lên. Nhưng chiếc áo lót quá chật, lại bằng vải, không có độ dãn. Tố Nga mở các nút áo sơ mi. Nghi kéo dần chiếc áo lót lên cao. Một con vắt mập ú, mềm nhũn, đang bám chặt vào da Tố Nga, dưới chéo vải nối với sợi dây thun của cái áo ngực. Con vắt thật trơn và bám thật chắc. Nó đang say máu nên không thể kéo ra dễ dàng. Tố Nga đưa ngược hai tay ra phía sau lưng lần mở cái móc chiếc áo ngực. Con vắt màu đen xám, tròn trĩnh như một giọt mực lớn trên lưng Tố Nga. Nghi phải vất vã mới kéo được con vắt rớt ra. Một dòng máu đỏ tươi chảy trên tấm lưng trần, trắng mịn. Nghi lấy ngón tay di di nơi vết cắn. Lưng Tố Nga nóng ran. Người Tố Nga nóng ran. Cả người Nghi cũng nóng ran. Cánh tay còn lại của Nghi ghì chặt lấy Tố Nga. Cô mềm nhũn trong tay Nghi. Hơi thở cả hai dồn dập. Vết cắn bị bỏ rơi. Hai tay Nghi xục xạo. Tìm tòi. Nghi qùy xuống, úp mặt mình vào đôi vú trần đang săn cứng.

Tố Nga liên tiếp mất thăng bằng. Mười ngón tay cô bấu chặt vào chân tóc Nghi, rên rĩ:
– Đừng. Đừng anh.

Nghi lần tay xuống bên dưới. Chiếc quần lót cũng bằng vải. Không đàn hồi. Không mềm, mượt, mịn, sờ đến mát cả tay như của các cô ở miền Nam. Tố Nga cào cấu trên tóc, trên cổ, trên lưng Nghi. Hình như có tiếng anh nho nhỏ phát ra từ đôi môi run rẩy của Tố Nga. Nhưng âm thanh bị méo đi. Lạc giọng........

(còn tiếp Truyện 4)
________________________________

KiwiTeTua
05-25-2015, 05:32 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/convang_1431578119.jpg


4. Con Vàng

Con Vàng bị trói gô bốn chân, đặt nằm gần cửa ra vào của bếp bộ chỉ huy trại. Tuần trước chủ nó đã bàn với đồng đội, để “chén” nó. “Chúng mình thiếu chất quá nên phải “chén” nó thôi”.
Mấy lời ngắn ngủi của chủ nó đã quyết định sinh mạng nó. Nhưng con Vàng không hay biết.
Con Vàng vừa nhận được củ sắn khá lớn của chủ quăng xuống, nó ngoạm lấy và chạy ra ngoài nằm gặm. Thường ngày con Vàng cũng nhận được thức ăn của nhiều người quăng xuống, cho nên đến giờ ăn, con Vàng thường quanh quẩn ở nhà bếp của bộ chỉ huy. Chỉ thỉnh thoảng con Vàng mới chạy vô nhà bếp trong trại tù và bếp chuồng heo. Thực phẩm không đủ, nhưng con Vàng cũng không đói lắm. Mỗi người quăng xuống gầm bàn chút thức ăn thừa cũng đủ cho con Vàng qua bữa. Con Vàng đang tuổi lớn nên không mập, cũng không ốm lắm.
Thường ngày con Vàng quấn quít lấy chủ. Nó là niềm vui chung của bộ chỉ huy. Của thủ trưởng. Của quản giáo và vệ binh. Họ thường đùa giỡn với nó cho qua những buổi chiều tẻ nhạt nơi núi rừng. Con Vàng cũng quen với đám tù, khi tù lao động quanh trại. Có những buổi sáng, khi tù đi lao động, trên đường ngang qua khung, con Vàng đứng trên cao nhìn xuống nhưng không bao giờ sủa. Nó đã quen với cái lôi thôi, lết thếch của tù, không nghi ngại. Đôi khi được sự cổ võ của tù, nó còn chạy theo được một quảng đến khi bị vệ binh đuổi, mới chạy trở về.
Con Vàng là chút vui của toàn trại.
Ở đây con người có giai cấp thống trị và bị trị. Giai cấp quản giáo và vệ binh. Giai cấp cai tù và tù. Nhưng với con Vàng thì lại bình đẳng. Nó gần gũi với mọi hạng người. Nó thân mật với cai tù và tù. Nó không biết che dấu hay ngụy trang tình cảm. Nó thực thà với chính nó và với mọi người. Nó khác hẳn với cách con người cư xử với nhau ở đây. Nó ngoắt đuôi mỗi khi lại gần ai. Nó có tiếng kêu sung sướng khi có tù vuốt vuốt lên đầu nó, dù có tù đùa giỡn, hăm he: nhất mực, nhì vàng, tam khoan, tứ vện, về chất lượng thịt của nó. Con vàng không có chủ nghĩa. Không có hận thù giai cấp. Con vàng được tự do. Tự do ở ngoài khung. Tự do vô cổng trại. Tự do đi bất cứ nơi nào nó muốn. Chỉ chút tự do đó thôi mà nhiều tù ngồi nhìn nó, đã mong ước được như nó. Sống với cái tự nhiên như nó.
Thỉnh thoảng ông chín ngón kêu con Vàng theo ông đi kiểm soát toán cưa xẻ. Nó chạy theo ông. Con Vàng bao giờ cũng đến trước ông chín ngón. Vô tình, con Vàng là người đưa tin có ông chín ngón đến kiểm tra.
Mấy ông bộ đội loay hoay trong bếp để chuẩn bị làm thịt con Vàng, đang kháo nhau:
– Đéo mẹ, phải cuốc bộ cả năm ki nô mét mới có chút riềng và dúm rau mùi đấy ạ.
– Có phải vì riềng hay vì chị em nhà nó? Khai thật đi, bố bảo.
– Mày bảo mày hay mày bảo tớ?
– Gay đấy, không có chỗ cho mày đâu. Mấy tên công an xã ngày đêm chầu chực nên chúng cứ vênh mặt nên cơ đấy.
– Gái Hà Nội mà nỵ.
– Có ngày chúng cũng phải sút quần ra thôi.
– Ông đấm buồi vào đấy.
Mấy ông bộ đội bắt đầu huyên náo chuyện về gái thì ông chín ngón bước vào. Ông lên tiếng:
– Các đồng chí tác phong nhé. Đối tượng chung quanh các đồng chí đang nghe cả đấy.
Toán nhà bếp chợt yên lặng. Rồi lại cùng lên tiếng:
– Chào thủ trưởng.
– Chào thủ trưởng.
– Món tiết canh chỉ có thủ trưởng đánh giúp thôi. Thủ trưởng nổi tiếng với món nầy mà nỵ.
– Còn món dồi thì tớ no được.
Ông chín ngón thấy mọi việc chưa sẵn sàng để ông đánh món tiết canh nên ông chín ngón bước lại chỗ con Vàng. Thường ngày, ông đùa giỡn với nó, nhưng bây giờ ông nhìn con Vàng như chưa bao giờ ông biết nó. Ông đạp đạp chiếc dép râu của ông lên lưng nó và nói:
– Phải ba cân rưởi đến bốn cân cơ đấy.
Con Vàng đang chờ chết. Đôi mắt nâu hiền lành hàng ngày, bây giờ kinh hoảng, có màu xanh biếc, trong suốt giống như màu mắt mèo bị phản chiếu ánh đèn xe ban đêm. Cái mũi con Vàng nhăn lên và hai hàm răng trắng nhe ra. Nó thở khì khè, điên dại. Cái chân đạp nhẹ lên lưng con Vàng như nhắc nhở bản năng sinh tồn của nó trước cái chết cận kề. Con vàng cố cắn sợi dây buộc và gắng sức vùng vẫy. Ông chín ngón bước ra cửa, nói vọng lại:
– Lúc nào sẵn sàng thì báo cho tớ biết.
Ông chín ngón vừa bước xuống sân thì bất ngờ con Vàng vùng thoát. Nó tông mạnh vào chân ông, kêu ăng ẳng, rồi lao thẳng về hướng cổng trại tù. Con Vàng chạy theo bản năng hay nhờ tù che chở (?). Ông chín ngón rượt theo và hét lớn:
– Tóm lấy nó. Tóm lấy nó.
Mấy ông bộ đội trong nhà bếp tung ra. Rượt đuổi. Ông vệ binh đang đứng gác trên chòi lao xuống. Con Vàng vừa chạy, vừa kêu ăng ẳng xuyên qua cổng trại, rồi lao về phía chuồng heo. Ông chín ngón hét tiếp:
– Bắn nó. Bắn nó.
Ông vệ binh gác cổng cầm khẩu AK đuổi theo thì con Vàng đã theo ngã chuồng heo băng qua bên kia con suối cạn, qua khỏi hàng rào, cắm đầu chạy miết vô rừng. Ông vệ binh vượt suối, nước tung tóe, đến hàng rào thì tì súng bắn theo. Những phát nổ chát chúa xé rừng, vang dội, rồi phút chốc trở lại im ắng. Con Vàng biến mất.
Tù trong láng đổ ra, vừa sợ hãi, vừa ngạc nhiên. Cứ tưởng có tù nào dám vượt trại ban chiều. Toán bộ đội trách cứ nhau. Một ông quản giáo cầm một khẩu AK khác băng qua bên kia suối, theo dấu vết con Vàng giữa màu nắng úa hoàng hôn.
Con Vàng biến mất. Không để lại một dấu vết.
Mỗi buổi chiều sau khi ăn xong, thường có mấy ông bộ đội cầm súng AK đi bên ngoài hàng rào theo ngả con Vàng đã chạy vô rừng. Con Vàng không còn là con chó nhà. Con Vàng đang là con thú hoang bị săn đuổi.
Trời mới tối nhưng như đã vào khuya. Mặt trăng rừng như chiếc đĩa bạc, đang treo lơ lửng trên trời sao thưa. Đêm nay ít mây, trời không trong lắm. Mây bông lãng đãng từng cụm. Huỳnh và Nghiêm co ro trong mấy lớp áo dày chống lạnh đang chuyện gẫu ở đầu hồi của lán, nơi ngủ của Huỳnh. Những mẩu chuyện không đầu, không đuôi, nhưng là những mẩu chuyện làm quên cơn đói đang dày vò trước khi ngủ.
Huỳnh ngạc nhiên khi tiếng con heo trong chuồng, cạnh bờ suối, ụt ịt hơi lớn, mà không nghe tiếng eng éc kêu đói, như hàng đêm. Đây là phản ứng của con heo sợ con khác giành thức ăn. Có thể chậu thực phẩm chính nó không thể ăn được nhưng lại có con vật khác thèm thuồng.
Huỳnh và Nghiêm bước ra. Ánh trăng xuyên lỗ chỗ qua các song thưa của chuồng heo. Còn xa, nhưng Huỳnh và Nghiêm cũng nhận ra, có bóng dáng một con vật nhỏ, quanh quẩn ở gần đó. Nghiêm kéo tay Huỳnh đứng lại quan sát. Hy vọng là con thỏ rừng hay con chồn nhỏ. Không ai nói với nhau nhưng cả hai cùng ý nghĩ, phải làm sao tìm cách bắt cho được. Con thỏ không còn là con thỏ nhỏ nữa. Con chồn không còn là con chồn nhỏ nữa. Nó là một con thịt khổng lồ trong đôi mắt phờ phạt vì đói.
Con vật phản ứng thật nhanh. Thoáng chốc đã biến mất nơi chuồng heo. Nghiêm và Huỳnh chạy tới nhìn theo. Bên kia suối, con Vàng vừa chui ra khỏi hàng rào, đang cụp đuôi, chạy dưới ánh trăng hoang.
Mấy hôm sau, không biết tin từ đâu, các ông bộ đội đã biết con Vàng về quanh quẩn ở chuồng heo kiếm ăn, nên khi trời vừa sụp tối, hai ông bộ đội đã thông báo ở các đầu lán, cấm không tù nào được ra ngả chuồng heo. Rồi hai ông ngồi núp nơi góc hội trường, cách chuồng heo không xa, chờ đợi. Đó là vị thế tốt nhất để quan sát.
Qua hai đêm yên ắng. Con Vàng không trở lại. Cả trại tù cũng nín thở theo dõi. Đêm thứ ba, theo sau một tiếng súng nổ chát chúa, xé cả không gian yên tĩnh, con Vàng kinh hoảng la ăng ẳng. Khi hai ông bộ đội rượt đến chuồng heo thì con Vàng lại biến mất. Cả trại tù thở phào, nhẹ nhõm. Một cái gì đó, từ sâu thẳm như có sự liên hệ giữa con Vàng và tù. Giữa đói và rừng. Giữa tù và bị săn đuổi. Không có ai lên tiếng nhưng tù cứ đang âm thầm mong con Vàng đừng bao giờ quay lại.
Rừng khắc nghiệt. Rừng đói. Rừng lạnh lùng. Rừng bao la nhưng con Vàng không có một chỗ để dung thân. Gần mười ngày đã trôi qua, con Vàng không thể tìm được chút gì để ăn. Để sống. Thân xác tiều tụy. Bơ phờ. Con Vàng đã mất đi cái nhanh nhẹn thường ngày. Con Vàng không thể chịu đựng cơn đói hành hạ! Chỉ có nơi chuồng heo, con Vàng hy vọng có thể có chút đồ ăn. Con Vàng phải quay trở lại dù biết nơi đây tử thần đang chờ đợi.
Sau lần bắn hụt, ông quản giáo vẫn kiên nhẫn chờ đợi con Vàng. Ông nghĩ ra thêm kế hoạch để bắn hạ nó. Ông lấy một khúc sắn luộc, còn nguyên củ, buộc một sợi dây vào giữa. Đầu sợi dây còn lại ông buộc vào trụ của chuồng heo gần bếp. Nơi đó có ánh trăng soi rõ và là góc độ tốt nhất để ông nhắm bắn. Con Vàng sẽ không ngoạm khúc sắn đi ngay tức khắc được vì còn vướng sợi dây. Nó nhùng nhằng ở đó, thừa đủ thời gian để ông nhắm và bóp cò.
Nghiêm và Huỳnh vẫn ngồi ở đầu lán chuyện gẫu và chờ đợi. Tù khác cũng theo dõi. Cả trại tù yên lặng và chờ đợi. Cái án tử hình sắp được thực hiện.
Con Vàng chui vào hàng rào trại thực êm. Băng qua con suối cạn không một tiếng động. Chỉ có tiếng nước chảy róc rách và tiếng gió xào xạc trên cành cây. Con Vàng đang phân vân, nghe ngóng. Nó nhìn về hướng hội trường, nơi hai đêm trước đã phát ra tiếng nổ. Cái chân trước co lên, lưỡng lự. Con Vàng lại quay ra hàng rào, rồi đứng nhìn vô nơi hội trường. Con Vàng đang chiến đấu với cơn đói, thèm thuồng và nỗi sợ hãi. Một lát sau, con Vàng cắm cổ chạy thẳng một mạch, băng qua suối, vô nơi chuồng heo phía bên kia bếp. Được một lúc, con Vàng chạy vòng qua phía bên nầy, nơi có củ sắn đang buộc vào chân cột nhà. Con Vàng lại co một chân trước nhìn vô hội trường. Thấy yên tĩnh, con Vàng cúi xuống ngoạm củ sắn định tha đi. Củ sắn bị sợi dây kéo lại, rớt xuống đất. Con Vàng lại cuối xuống ngoạm tiếp. Phát súng nổ xé màn đêm. Xé cả không gian.
Ông quản giáo hét lớn:
– Ngã rồi.
Rồi ông cầm súng chạy nhanh tới trước. Ánh đèn pin lóe lên nơi tay ông vệ binh. Ông vệ binh chạy theo.
Lồng ngực con Vàng mở toang hoác. Mắt con Vàng chưa kịp nhắm lại. Con Vàng không kịp kêu tiếng kêu kinh hoàng của nó.
Ông quản giáo:
– Tớ nhắm ở đầu cơ mà!
Sau một lúc quan sát, ông vệ binh nắm chân sau con Vàng, xách ngược lên. Đầu con Vàng lủng lẳng bên dưới. Thân xác nó đã bị xé làm đôi. Hai ông bộ đội xách con Vàng ra hướng cổng trại. Tù ra khỏi lán nhìn theo.
Có hai bóng tù lao nhanh về phía chuồng heo. Nghiêm và Huỳnh. Củ sắn vẫn còn trong sợi dây buộc. Dấu vết răng con Vàng còn đó. Máu tươi của con Vàng bê bết trên màu ngà của củ sắn.
Huỳnh cố che giấu trắc ẩn bên trong, nói gãy gọn với Nghiêm:
– Xuống suối rửa. Tụi mình không dính máu con Vàng. Chỉ ăn thừa của nó thôi.

(còn tiếp Truyện 5)

KiwiTeTua
05-31-2015, 05:25 AM
Như một nén hương tưởng niệm những người đã chết trong ngục tù nên những nhân vật tù đã chết trong tập truyện đều mang tên thật.


5. Cái Chết Của Chiến Sĩ

Cái chết của con Vàng cứ ám ảnh Nghiêm. Nó không có liên quan gì cả. Thế nhưng nó là nỗi ám ảnh không rời. Từ sự kiện kiên trì hàng đêm của ông quản giáo, quyết tâm hạ cho bằng được con Vàng, đến cái ngực con Vàng mở ra toang hoác… bê bết máu. Đó là cái chết của một con vật. Vâng, một con chó. Không phải là một con người. Một con chó đói!
Lúc đó Nghiêm còn ở trại cải tạo Tây Ninh. Dãy trại là khu trại gia binh cũ của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, nằm bên trong căn cứ quân sự Trảng Lớn. Trại có nhiều lớp hàng rào kẽm gai bao bọc và một giao thông hào sâu. Bên kia rào, phía cổng vào, là phi trường trực thăng cũ. Văn phòng phi trường trước kia chỉ còn trơ lại những bức vách quét vôi màu vàng. Ở đó, vâng, ở cái sân nhỏ trước những bức vách quét vôi màu vàng đó, là phiên tòa án nhân dân xét xử Trung úy Pháo Binh Ngô Nghĩa!

Hôm đó Trại 3 đến ngày thảo luận bài học. Đây là một bài học trong loạt mười bài mà có rất nhiều tin đồn là học xong sẽ được cho về. Buổi thảo luận bắt đầu tám giờ tại từng lán. Ông quản giáo thường đến đúng giờ và ngồi ngay cửa ra vào. Hôm đó ông vừa đến thì có lệnh từ trung đoàn xuống, phải cử ngay tất cả lán phó đi tham dự mít-tinh đặc biệt. Lán trưởng ở lại chủ trì thảo luận. Nghiêm rời lán, lòng có chút vui. Thoát được cảnh “ngồi đồng”, phải nghe lải nhải, lặp đi lặp lại thì còn gì vui hơn?

Một số cán bộ súng ngắn và mấy ông vệ binh súng dài áp giải tù tham dự mít tin đặc biệt. Tù lán phó sắp thành hai hàng dài đi về hướng cổng trại. Không tù nào biết đang đi đâu nhưng đều cảm thấy thỏa mái. Khi ra khỏi cổng trại, rẽ về bên phải, nơi hàng ngày tù tháo gỡ các tấm vĩ sắt PSP, sàn phi trường trực thăng, khiêng về làm hội trường, có mấy chục dân thường đã tụ tập sẵn ở đó. Một cái bàn và ba cái ghế chưa có ai ngồi. Một số bộ đội khác đang đứng rải rác. Xa hơn, một cây trụ gỗ được trồng trên một nỗng đất cao mà chiều hôm qua sau giờ cơm tối, tù lảng vảng bên nầy bờ rào thấy mấy ông bộ đội đang hì hục đào nhưng không ai biết là chuyện gì. Dưới đất, nơi cây trụ, đã rải vôi bột trắng xóa. Cách cây trụ không xa, một cái thùng bằng thiếc, có thể là thùng chứa vôi bột còn lại (?)

Cả đám tù khựng lại. Có tù hoa cả mắt. Đám dân cũng yên lặng, không thấy nói năng, chỉ trỏ, như những đám đông thường lệ. Đám tù được đứng bên hông, cách ly với đám dân. Đám dân đứng đối diện với hai cái bàn và ba cái ghế trống.
Từ dân tới tù chưa ai biết cái không khí nầy, dù đây là loại dân chắc đã được tuyển chọn đặc biệt!



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/5_1433049539.jpg


Hơn nửa tiếng đồng hồ sau, ba ông bộ đội với súng AK cầm tay, áp giải một người tù tới. Hai tay người tù bị trói gập sau lưng. Một ông bộ đội nắm giữ và đẩy đi. Người tù mặc bộ đồ đen mới, nếp gấp còn rất rõ. Mái tóc cũng cắt ngắn theo kiểu bộ đội. Người tù ốm và xanh như lá chuối non. Họ vừa lôi người tù nầy từ conex ở trung đoàn ra. Người tù bị giam trong đó bao lâu không ai biết. Đôi mắt người tù chắc đã quen với ánh sáng bên ngoài nhưng vẫn còn nheo lại. Toàn bộ người tù như một thứ cây thiếu sáng. Èo uột. Dài. Và mềm nhũn.

Tù conex là loại tù đặc biệt. Cái conex là một hộp sắt dày, lớn, gần như vuông vức, của quân đội Mỹ dùng để chở vũ khí cho an toàn. Kích thước cỡ 1,8 x 1,8 x 2,4 mét. Ban đêm trong conex lạnh như mùa Đông. Ban ngày như một bàn ủi nóng khổng lồ. Tiêu tiểu tại chỗ. Người nào đã nghĩ ra việc dùng cái conex để giam giữ người khác, quả là một sáng kiến kinh khiếp! Đây là một bước tiến mới của con người trong quá trình đày ải kẻ thù. Một sáng kiến cần phải được ghi vào sử sách!

Ba ông bộ đội áp giải người tù vào giữa sân. Người tù nhìn thoáng qua đám đông. Chắc chắn người tù hiểu chuyện gì đang xảy ra. Rồi người tù nhìn đám tù. Đôi mắt anh không nói lên điều gì. Phẫn nộ hay kinh hãi. Đó là đôi mắt bình thản. Hờ hững. Một đôi mắt đã đạt được mức độ vô vi. Hình như không còn có gì bận tâm trong đôi mắt ấy. Nếu gọi là giải thoát, thì đã được giải thoát. Nếu gọi là bình an thì đã có bình an. Nếu gọi là chịu đựng, thì hình như đã qua khỏi giai đoạn đó rồi.

Tôn giáo nào cũng tìm kiếm sự bình an cho tâm hồn. Sự bình an khi gặp giông bão trong cuộc đời. Đôi mắt người tù đã đạt được điểm ấy.

Bao nhiêu tù đang xúc động. Có tù tê tái, không dám nhìn thẳng vào thực tại. Có tù đang sợ hãi cùng tột. Có tù đang phẫn nộ ngấm ngầm. Nhưng tất cả đều được che giấu ở bên trong. Chỉ có người tù nhân vật chính sáng nay, lại bình thản. Anh đang chết khi đang sống. Và anh đang sống, đang đứng giữa nơi đây. Anh đang sống bình an trong khi sự chết sẽ xảy ra rất gần. Không. Không là gì cả. Không sống. Không chết. Không kinh hoàng. Không sợ hãi. Tất cả đều tự nhiên. Thật tự nhiên. Thật bình thường như không có gì. Thật không có gì. Không có gì có thể kiềm tỏa thân xác nầy, vì thân xác sẽ về với cát bụi. Không có gì có thể kiềm tỏa linh hồn nầy, vì linh hồn sẽ về nơi cõi đời đời.

Quê hương đã mất vào tay bạo tàn thì đời trai dọc ngang như đã kết thúc. Phẫn nộ trước kẻ thù nói lên mình đang uất ức, thua cuộc. Sợ hãi trước kẻ thù nói lên mình hèn nhát. Chỉ có bình thản trước kẻ thù là khí phách tinh anh, coi kẻ thù không là gì cả. Tại sao phải bối rối với kẻ mà mình coi chẳng ra gì? Đấy, là thái độ của anh trước tòa án nhân dân của chế độ mới!

Vào giữa sân, anh ngồi xuống đất. Ba ông bộ đội cầm súng đứng chung quanh.

Một chiếc xe quân đội chạy tới, thả ba ông cán bộ xuống. Cả ba ông đều đội nón cối có gắn ngôi sao vàng giữa trán, đeo xắc cốt và mang dép râu. Không thấy có ông nào đeo cấp bậc trên cổ áo. Toán bộ đội đang đứng rải rác bây giờ tập trung lại sau đám đân.

Ba ông cán bộ mới tới tự động ngồi vào ghế.

Nghiêm đoán ông ngồi giữa là chánh án, hai ông ngồi hai bên sẽ là một Công tố và một Biện hộ.

Ông ngồi giữa lấy giấy tờ ra khỏi xắc cốt. Ông bắt đầu:
– Hôm nay thừa lệnh Đảng và chính phủ, tòa khai mạc phiên xử tù nguy hiểm và âm mưu trốn trại.

Câu mở đầu đã nói lên tính cách mới của chế độ. Ở đây không có lập pháp, hành pháp và tư pháp ngang hàng và độc lập với nhau nữa. Ở đây không nhân danh công lý, luật pháp, mà là thừa lệnh Đảng! Chính phủ hay quân đội mở phiên tòa là thừa lệnh Đảng. Tù nguy hiểm đã được gọi rõ ràng thay cho chữ cải tạo viên như danh xưng hàng ngày.

Ông ngồi bên trái cũng móc từ xắc cốt, cầm xấp giấy ra đọc. Lại có cả lý lịch, gia cảnh của bị cáo nữa. Cũng nhờ đó mà mọi người tham dự được biết thên chút tiểu sử của người tù. Trung úy Pháo binh Ngô Nghĩa, quê ở Quảng Ngãi, có vợ hai con. Tội ác bị cáo buộc thì viết khá dài kể từ binh chủng cũ của anh cho đến hiện tại. Nhưng lòng vòng để qui tội chỉ có: cực kỳ phản động, đã dùng đại bác bắn phá cách mạng, đã không chịu ăn năn hối cải, lại âm mưu trốn trại và đã cắt đường dây điện thoại từ bộ chỉ huy ra cổng trại.

Tội ác ghê gớm cũ và mới mà công tố viên cáo buộc chỉ có như vậy.

Không ai hiểu tại sao phải giới thiệu quê quán và gia cảnh của anh. Phải chăng ý ông công tố muốn nhấn mạnh, anh là người cùng quê hương với ông Phạm Văn Đồng, đương kiêm Thủ Tướng chính phủ ở miền Bắc, mà lại cực kỳ ngoan cố?
Không thấy ông ngồi bên kia nói gì. Chỉ thấy ông cũng để cái xắc cốt trên bàn và mấy tờ giấy. Ông ngồi lơ đễnh nhìn về đám dân, có các bộ đội đang đứng ở phía sau. Ông công tố đọc xong cáo trạng.
Anh vẫn ngồi im. Bình thản.

Ông ngồi giữa hỏi đám đông:
– Nhân dân và các đồng chí có ý kiến gì không?

Tất cả im lặng.
Ông hỏi lần thứ hai.
Cũng im lặng.

Cuối cùng ông thấy được một cánh tay đưa lên. Ông như vồ lấy, sợ cánh tay thụt trở xuống.
– Thưa đồng chí, tôi thấy tội lỗi đã rõ ràng. Xin đề nghị án tử hình.

Người vừa nói là một thanh niên có mái tóc ngắn, kiểu bộ đội nhưng mặc thường phục. Họ là đồng chí với nhau! Có lẽ đám dân đã được tuyển chọn, chưa ai tỏ ra có kinh nghiệm về vụ xử án như thế nầy, nên không khí mới yên lặng sau câu hỏi của ông ngồi giữa.

Ông ngồi giữa nói:
– Đã có đại diện của nhân dân nêu ý kiến. Tôi xin ghi nhận.

Ông lại hỏi tiếp.
Không còn ai phát biểu.

Cuối cùng ông quyết định:
– Các đồng chí phụ trách cho bị can quì xuống nghe tuyên đọc án lệnh.

Mọi đôi mắt đổ dồn về anh. Anh cũng bình thản nhưng nhất định không chịu quì. Ba ông bộ đội kéo anh đứng lên, rồi lại ấn xuống, bắt anh quì. Đôi tay anh bị trói chặt phía sau lưng nhưng anh vẫn phản ứng cương quyết. Và vẫn không thèm lên tiếng. Một ông bộ đội dùng bán súng đánh vào mặt anh. Một dòng máu rĩ ra từ khóe môi. Anh ngã chúi xuống đất trong tư thế chổng mông. Ông ngồi giữa từ tốn:
– Các đồng chí có nhiệm vụ, không được đánh bị cáo giữa phiên tòa.

Không khí căng thẳng. Mọi người nín thở chờ đợi.

Rồi ông ngồi giữa đọc bản án:
– Thay mặt Đảng và chính phủ, tòa tuyên án tử hình. Án phạt phải được thi hành ngay tại chỗ.

Anh được kéo đứng dậy. Một ông bộ đội trùm lên đầu anh một túi vải đen như bộ quần áo anh đang mặc. Anh không có phản ứng. Ông bộ đội dẫn anh từng bước đi về hướng cây trụ.

Hai tay anh vẫn ở vị thế sau lưng, bị trói chặt vào trụ trước, rồi đến hai chân. Đến lúc nầy thì ông ngồi phía bên phải mới rời ghế. Ông không phải là ông biện hộ như Nghiêm nghĩ. Ông đang chỉ huy việc hành quyết!
Một phụ nữ trong đám dân bất ngờ kêu rú lên, rồi bỏ chạy. Mấy người khác cũng hấp tấp chạy theo. Số bộ đội đứng sau lưng đám dân không kịp cản lại. Chỉ có tù lán phó là bất động. Tất cả phải nhìn về phía cây trụ. Không một ai dám quay lại vì các ông vệ binh đang cầm súng đứng ở sau lưng.

Anh vẫn đứng yên. Đầu không nhúc nhích. Ánh nắng buổi sáng đang chiếu vào người anh. Hình ảnh anh nổi bật trên nền trời có mây trắng phía xa.

Ba ông bộ đội lùi lại phía sau. Đứng ngang hàng, chỉa súng nhắm vào anh. Ông chỉ huy hành quyết khoát tay ra lệnh. Đám tù lán phó, nhiều người nhắm mắt lại. Có người cúi xuống, lặng lẽ làm dấu Thánh giá.

Sáu tiếng súng nổ. Nửa người anh bật ngửa ra phía sau, rồi ngã gập lại về phía trước. Đầu gục xuống. Xác anh tụt xuống. Đầu gối hơi co lại. Ông chỉ huy hành quyết đưa tay lên, ra dấu ngưng bắn. Ông đích thân đi lại bên xác anh. Khẩu súng lục ông cầm nơi tay, để vào bên tai trái anh, bóp cò. Phát súng ân huệ! Thời gian xử tử xảy ra khá nhanh và yên lặng. Đây không phải là thời gian cần tiếng nói của con người, là thời gian của tiếng súng! Nhiều tù lán phó ngồi bệch xuống trên cỏ. Xanh mét. Đầu cúi thấp. Không một ai chứng kiến cảnh ghê rợn như thế nầy trong cuộc đời. Nhưng mấy ông cán bộ và bộ đội thật bình thản, như một công việc đã quen!

Một bản án chỉ có giá trị khi công lý đã được thi hành. Bản án của anh Ngô Nghĩa đã được đọc. Đã được thi hành. Nhưng chân lý không ở nơi người nhân danh pháp luật mà lại nằm ở nơi anh. Mọi người đã hiểu rõ thêm bản chất của chế độ mới. Của luật pháp mới. Của tính ưu việt Xã Hội Chủ Nghĩa hơn gấp trăm lần các bài học đang được thảo luận.

Làm Cách mạng là lo trước cái lo của thiên hạ, cho nên chưa mở phiên tòa, đã lo trồng trụ, lo vôi bột. Làm Cách mạng oai thiệt. Giết một con người chỉ cần đôi ba lời nói và mấy dòng chữ viết! Đơn giản chỉ có vậy.

Không có câu trả lời đây là tòa án quân sự của chính phủ Cộng hòa Giải phóng miền Nam Việt Nam hay tòa án nhân dân của chế độ mới! Chỉ biết đó là cái án tử hình, xử ngay tại chỗ.

Cả mấy tuần lễ sau, cho đến ngày Nghiêm chuyển trại, cây trụ gỗ vẫn còn đó. Đứng sừng sững. Họ muốn khoe khoang sức mạnh. Đó là uy quyền của chế độ mới. Đó là lời cảnh cáo hãy liệu hồn đấy!

Nhưng với tù, cây trụ còn đứng chơ vơ trên nỗng đất, lại giống như một dấu chấm than lớn của chế độ mới và cũng là dấu chấm than của miền Nam tự do!

Khoảng mười giờ đêm, tù chuẩn bị đi ngủ, thì một tiếng nổ vang dội làm rung chuyển các dãy nhà đang ở. Tù nhốn nháo ra khỏi lán. Một số chạy về phía hội trường, nơi phát ra tiếng nổ. Nghiêm thấy một đám khói còn đang bốc lên trong ánh đèn đêm lờ mờ. Có tiếng tù từ đó kêu thảng thốt:
– Gọi ngay cứu thương

Có tiếng thảng thốt khác:
– Lựu đạn MK2.

Nghiêm chạy theo đám đông, đang đổ về bên hông của hội trường, cạnh bụi chuối. Bụi chuối tả tơi. Gãy gục. Bức tường vôi vàng, lỗ đỗ dấu vết đất và máu.

Quá đông người vây quanh nên Nghiêm không thể thấy được gì. Từ sau ngày Trung úy Pháo Binh Ngô Nghĩa bị xử tử, không khí toàn trại đầy dao động. Nhiều tin đồn râm ran từ lán nầy qua lán khác. Một số tù có thân nhân theo cách mạng thì cố gắng nuôi giấc mơ sẽ được bảo lãnh về sớm. Một số tù còn sót lại, khi cả gia đình đã di tản, thì lặng lẽ trong tuyệt vọng. Một số thì vẫn ngây thơ, thật thà nghĩ cuộc chiến đã qua rồi nên những bài đang học là căn bản cần thiết để hiểu biết chế độ mới rồi sẽ được cho về. Số nầy tin ở các đài phát thanh của nhà nước, đang ra rả về chính sách khoan hồng nhân đạo. Một số khác, chín chắn hơn, thì bắt đầu chuẩn bị cho mình một đời tù lâu dài, kinh nghiệm từ cuộc cộng sản cướp chính quyền ở Nga, kinh nghiệm từ cuộc cộng sản cướp chính quyền ở Trung quốc.

Các ông quản giáo ở tiểu đoàn đánh hơi được như vậy, nên lệnh mới ban xuống cấm tuyệt đối không được quan hệ với các đội khác. Không bàn tán, đưa tin đồn thất thiệt, nếu bắt được sẽ bị xử lý!

Nghe chữ xử lý mới mẻ nhưng đầy hăm dọa nên đa số tù tự cô lập mình. Tiêu chuẩn ba không được diễn thật hay: không biết, không nghe, không thấy. Những ăng tên cũng bắt đầu phát tín hiệu lập công để mong được cho về sớm.
Tù bước đầu tập cho mình một nếp sống tù thật sự. Ngu ngu, ngơ ngơ. Nín thở nhưng chưa biết bao giờ mới qua được sông sâu! Nhưng thế giới riêng của tù vẫn rầm rì với nhau và tránh càng xa những tù ăng tên càng tốt
.
Tiếng mấy ông bộ đội đang cầm AK chạy đến, la lớn:
– Các anh khẩn trương về nại nán ngay.

Tù nghe lệnh nhưng cũng tụ năm, tụ ba, bàn tán xôn xao rồi mới từ từ tản hàng về lại lán, vì biết các ông bộ đội đang phải tập trung tại nơi phát ra tiếng nổ.

Trung úy Tâm(?) thuộc binh chủng Không Quân(?) tự sát.

Sáng hôm sau, trước khi đi vào thảo luận tiếp bài học, ông quản giáo được lệnh trên, phải dành ra một tiếng đồng hồ để thảo luận về cái chết của Trung úy Tâm đêm qua. Ông mở đầu:

– Hậu quả của chế độ Mỹ Ngụy đang để nại cho đất nước ta có thể thấy ngay trước mắt. Đêm qua, anh Tâm tự sát. Trước khi chết anh Tâm đã để nại hai ná thư. Một ná viết cho cách mạng, bày tỏ sự ăn năn, hối cải nà đã phục vụ cho Ngụy quân, Ngụy quyền, phản nại cách mạng. Ná thứ hai anh viết cho người vợ sắp cưới của anh, nhờ cách mạng chuyển. Thư chị gửi anh, khuyên anh ăn năn, hối cải, để sớm được khoan hồng nhưng trong thư anh gửi chị, anh cho biết, anh đang bị căn bệnh xã hội, mà anh đã giấu chị. Căn bệnh nàm dương vật của anh bị nở noét và cụt mất, nên anh không thể sống để trở về nập gia đình với chị. Đây nà một nạn nhân trực tiếp của văn hóa đồi trụy Mỹ Ngụy. Do đó, tôi muốn các anh thảo nuận sôi nổi về hậu quả nguy hiểm mà đế quốc Mỹ đã để nại cho nhân dân ta.

Cả nhóm thảo luận không ai biết căn bệnh xã hội mà ông quản giáo nói là bệnh gì. Hột xoài, mào gà, lậu, giang mai thì biết, nhưng bệnh lở loét, làm cụt cả dương vật, trong khi Trung úy Tâm đã ở trong tù 6 tháng và hàng ngày vẫn đi lao động bình thường, là một chứng bệnh thật lạ! Trong nhóm, có hai bác sĩ Quân Y, nhưng tù hiểu nhau, nên yên lặng, không đòi hỏi đến kiến thức chuyên môn của hai tù bác sĩ nầy.

Buổi tối, hai tù Bác sĩ Minh, Tường, chuyện gẫu với Nghiêm. Minh nói:
– Cách mạng đã đem đến thật nhiều điều mới lạ. Có lẽ tao phải trở lại trường Đại học Y khoa của cách mạng để học thêm cho biết, căn bệnh xã hội đã làm rụng mất của quí mà bệnh nhân không hề đau đớn, vẫn đi lao động bình thường!

Tường thêm vào:
– Bọn đế quốc đểu thật! Căn bệnh nầy chúng lại không ghi vào sách vở!

Bên Tiểu đoàn một, Trung úy Quân Y Mai Gia Thược, là Dược sĩ đồng hóa, cũng đã tự sát bằng lựu đạn, nhưng không phải loại lựu đạn công phá như MK 2, M 26 nên cái chết đau đớn hơn rất nhiều. Trung úy Thược đã dùng lựu đạn hóa chất lân tinh, nên cả thân người bị cháy bỏng, đã phải nằm trần truồng trong mùng ở trung đoàn suốt mười ngày, không được chăm sóc thuốc men, hôi thối đến lợm giọng rồi mới chết. Trạm xá ở trung đoàn rất nhiều tù bị bệnh nặng đủ loại, không thuốc men, nằm chờ chết. Còn các cô hộ lý thì thích nói chuyện, đùa giỡn với bộ đội thay vì chăm sóc người bệnh.

Chỉ một thời gian ngắn, khu đất gần phi trường trực thăng, đã biến thành một nghĩa địa nhỏ với những nấm mồ hoang. Chỉ vài ngôi mộ có miếng gỗ ghi tên người chết![1]

Vùng đất sống ngày nào, vùng đất đầy sinh động ngày nào, bây giờ là một vùng đất chết. Vùng an nghỉ của những con người chiến bại và ngây thơ!

Đêm đêm, phía vườn cao su, có tiếng chuông trong vắt, ngân dài, và tiếng mõ tụng kinh đều nhịp, của một gia đình nào đó, cứ vọng vào, thêm nỗi tịch liêu
.
Gần sáng thì tiếng xe bò với nhịp chuông loọc coọc, rời rạc, nhắc nhở một ngày nữa đang đến.
Một ngày dài thiên thu.

[1] Nghĩa địa nầy còn nhiều nấm mộ hoang. Kính xin quý độc giả cung cấp thêm tên tuổi những chiến sĩ đã bị chôn tại đây để lần tái bản nghĩa trang nầy được đầy đủ hơn.

KiwiTeTua
06-05-2015, 02:57 AM
6. Phía Sau Lưng

Nghiêm trong nhóm viết biểu ngữ và vẽ trang trí hội trường. Đây là công việc thuộc về mỹ thuật, tương đối nhẹ nhàng và làm việc ở trong nhà. Các ông cán bộ của tiểu đoàn không có việc, thường đến ngồi xem, thưởng thức và thăm hỏi. Tù khác đang đói thuốc, phải đi lượm dế[1] về sao chế hút cho đỡ cơn ghiền nhưng nhóm Nghiêm thì đầy đủ thuốc điếu lẫn thuốc lào. Lại có cả nước trà!

Vừa ngồi vẽ, viết, vừa suy nghĩ. Chính mình viết, vẽ những biểu ngữ cho lớn, cho đẹp, để chửi lấy chính mình!
Yên nắn nót viết xong câu khẩu hiệu không có gì quý bằng độc lập tự do, lấy làm đắc ý lắm! Gật gù, thỏa mãn với nét viết của mình. Yên kéo một hơi thuốc lào thật sâu, nuốt hết cả khói vào trong. Tỏ vẻ ngất ngưởng, khoái lạc lắm. Yên đang đợi một tiếng khen của hai ông cán bộ mới bước vào. Trên nét mặt hai ông cán bộ cũng tỏ vẻ thán phục nghệ thuật viết chữ của Yên lắm. Nhưng một lúc sau, một ông đột ngột phát hiện:

– Không, thế nầy nà thế nào? Anh dám sửa chữ của nãnh tụ đấy à?

Yên ngỡ ngàng. Xanh mặt. Chưa biết bị sai chỗ nào. Chưa biết phải phản ứng ra sao. Ông cán bộ tiếp:
– Không thể nào bằng được. Phải hơn cơ!

Rồi ông nhấn mạnh:
– Không có gì quý hơn độc nập tự do. Đấy nà nời của Hồ chủ tịch kính yêu. Đấy nà chân ný. Anh không thể nào sửa nại nời khác được.

Hơi thuốc lào tan biến mất. Yên toát mồ hôi. Tội sửa lại lời của lãnh tụ là nặng lắm. Vì có bao giờ tù quan tâm là viết hay vẽ cái gì đâu. Chỉ viết là viết. Vẽ là vẽ. Là thợ, thế thôi. Cũng may cho Yên, chữ bằng hoặc chữ hơn câu nói đều cùng nghĩa nên chỉ phải xóa và viết lại chứ nếu không thì chắc chắn phải lãnh hậu quả nặng nề.

Bản chất thực thà trong ngôn ngữ đã thể hiện rõ nét trong đời sống người miền Nam, nhưng cách dùng từ lươn lẹo, là cách dùng bình thường của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc. Cứ xem cái thông cáo về tập trung cải tạo sau ngày 30-4-1975 sẽ rõ ràng thôi. Cũng vì thế, cho nên họ luôn luôn bất an về cách dùng từ của người khác. Họ luôn luôn muốn kiểm soát tư tưởng, ngôn ngữ của người khác và dễ dàng kết án tội xỏ xiên, dù chỉ là vô tình.

Tâm bất chính, nên lòng luôn bất an.

Từ viết khẩu hiệu, vẽ trang trí, dần dần các ông cán bộ bắt đầu áp phe. Các ông thấy vẽ đẹp, viết đẹp, nên móc trong túi ra một tấm hình dúm dó của người thân, rồi nhờ họa lớn ra. Khi ông cán bộ nầy nhờ, luôn dặn dò, đừng cho ông cán bộ khác biết. Đến ông cán bộ khác nhờ, lại dặn đừng cho ông cán bộ kia hay.

Chính các ông cán bộ lại sợ nhau!

Khi một ông đã nhờ được rồi thì thường ít lai vãng. Hình như sợ bị lộ bí mật. Chỉ thỉnh thoảng thoáng qua, hỏi đôi ba câu, như nhắc nhở khéo, cho chút thuốc lào hoặc thuốc điếu, rồi đi ngay. Chưa bao giờ giá cả nghệ thuật lại rẻ đến như vậy. Nhưng ngược lại, nhóm Nghiêm cũng cảm thấy thỏa mãn vì có cơ hội tiếp trợ chất khói cho tù bạn bè hoặc cho tù cùng lán.

Cứ sau mỗi buổi làm ở tiểu đoàn về, thế nào cũng có tù khác đón đợi chất khói. Trông như trông mẹ đi chợ về!
Cộng sản đã đổi đời con người thật nhanh. Nấc thang xã hội, trèo lên, phải vắt cả tim óc và mồ hôi, nhưng tuột xuống, thì chỉ trong nháy mắt. Giông bão làm bật gốc cây cối nhưng rêu cỏ thì lại vươn cao.

Một buổi chiều, trời đang nắng nóng, bỗng dưng mây đen vần vũ. Rồi từng cơn gió mang hơi nước ẩm ướt, lành lạnh tràn về. Cảm giác con người cũng mang mang. Buồn buồn. Nỗi buồn như se lại. Hắt hiu. Rồi cơn mưa ập đến. Nghiêm dời chỗ vẽ ra xa khung cửa, nhưng từng giọt mưa từ mái tôn đổ xuống, là từng giọt buồn, thánh thót rơi trong tâm hồn. Cái cọ chấm sơn không buồn nhúc nhích. Những hơi thuốc được kéo dài. Phổi có ấm nhưng không thể nào ngăn được những tiếng thở dài cứ theo nhau, như lượng trời mưa. Sài Gòn -Tây Ninh, không gian sao vời vợi!

Một ông cán bộ đội mưa bước vào làm Nghiêm trở về thực tại. Ông đứng ở ngưỡng cửa vung vung thân người cho văng bớt nước. Cái xắc cốt da nâu, ướt nước nên đậm hơn, cũng được ông lúc lắc. Ông bước vào bên trong không mạnh dạn, tự nhiên như những ông cán bộ khác đối với tù. Ông nhìn Nghiêm, ý ông muốn hỏi mượn cái điếu cầy. Nghiêm lên tiếng và ra dấu xin mời:

– Dạ.

Lần đầu tiên Nghiêm thấy một cử chỉ văn minh nơi một ông cán bộ. Biết hỏi mượn đồ vật của người khác, mà lại của tù! Điều nầy làm Nghiêm để ý ngay. Men chiến thắng, men anh hùng, men Đảng ta, chưa thấy trong con người nầy. Ông mân mê bi thuốc lào như gửi gắm vào đấy chút suy nghĩ. Ông cời cời cái nõ điếu với chút khoan thai. Cái đóm đang có lửa được ông giấu trong lòng bàn tay, tránh gió thật kín. Ông tiêm tí lửa, bập bập mấy cái, mân mê sửa lại bi thuốc, rồi mới kéo một hơi dài thật sâu làm cái nõ điếu kêu rít lên, rồi đột ngột tắt hẳn. Ông không nuốt khói, chỉ nén giữ giây lát, rồi từ từ thở ra. Khuôn mặt ông hơi ngước lên, được vây phủ bởi làn khói trắng như tiêu diêu vào cõi xa xăm. Cách sử dụng điếu cầy của ông có nét nghệ thuật. Ông mở đầu câu chuyện khi nhìn Nghiêm:

– Buồn nhỉ.
– Dạ, trời chợt mưa, cái lạnh chợt đến nên cảm giác con người cũng dịu vợi đôi chút.
– Anh đã lập gia đình chưa?
– Dạ. Vợ hai con.
– Trông anh còn trẻ hơn tuổi gia đình của anh. Vợ con anh đang ở đâu?
– Dạ, Sài Gòn.
– Tôi vừa ở Sài Gòn lên.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/saigon_1433472844.JPG


Vừa nghe ông cán bộ nói ở SàiGòn lên, lòng Nghiêm như thắt lại. Nơi đó có gia đình và vợ con Nghiêm. Trời Tây Ninh đang mưa, liệu SàiGòn có đang mưa không? Khung cửa sổ trên lầu, nơi mà mỗi lần mưa Nghiêm thường ngồi nhìn qua cây xoài bên nhà hàng xóm. Ngày đó, Hoàng thường đứng ở phía sau, vòng hai tay qua cổ Nghiêm thì thầm. Hoàng có cái gì đó như nhỏ nhoi. Như yếu đuối. Liệu Hoàng có qua nỗi cơn sóng gió nầy không? Nghiêm thở dài. Từ Tây Ninh về lại Sài Gòn phải tốn bao nhiêu thời gian? Thời gian sẽ tính bằng tháng, bằng năm hay sẽ không bao giờ? Nghiêm muốn kéo dài câu chuyện về SàiGòn, nên hỏi ông cán bộ:

– Cán bộ đi công tác ở SàiGòn?
– Vâng.
– SàiGòn, cán bộ thấy như thế nào?
– SàiGòn lớn và văn minh hơn tôi nghĩ trước kia.
– Dạ, theo cán bộ, SàiGòn trước kia và thực tế có khác nhau lắm không?

Ông cán bộ có chút suy nghĩ:
– Một đêm khi tôi cùng đơn vị nằm chờ lệnh tiến công, chúng tôi cứ nhìn vô SàiGòn như là thành phố của ánh sáng. Tôi không tưởng tượng được sự to lớn của nó. Và đặc biệt, tiếng ô tô rầm rập không ngừng. Tôi không nghĩ Hà Nội có thể nhớn hơn, nhưng trong đời tôi, lần đầu tiên tôi thấy được cái ánh sáng to nhớn đó là của SàiGòn.

Nghiêm cố gợi thêm:
– Thưa cán bộ, theo đài thì SàiGòn chỉ có bên ngoài. Phồn vinh giả tạo mà thôi.
– Vâng. Nhận xét của trên là vậy. Nhưng đi giữa SàiGòn tôi thấy SàiGòn có chất sống. Ý tôi muốn nói, nó như có cái gì ấm cúng chứ không khô cứng và lạnh. Hà Nội thì khác hẳn. Hà Nội và con người chịu kham khổ với nhau và lại cắn đắn với nhau.
– Thưa cán bộ, ý cán bộ muốn nói, đi giữa Sài Gòn có vẻ thỏa mái hơn về tinh thần?
– Cũng có thể là vậy.
– Thưa cán bộ, còn mức độ văn minh?
– Sài Gòn có quá nhiều nhà cao tầng hiện đại và tôi không hiểu xe ở đâu mà nhiều lắm thế.

Nghiêm không muốn câu chuyện đi xa hơn nên quay qua đề tài khác:
– Thưa cán bộ chắc đã có gia đình?

Ông chợt yên lặng. Cái yên lặng của ông không có nghĩa là không đồng ý câu hỏi về đời tư của ông, nhưng cái yên lặng trong khoảnh khắc nầy như câu hỏi vô tình đụng vào nơi sâu thẳm và hoang vắng nhất trong tâm hồn ông. Ông nén lại một vết thương. Nén lại một tiếng thở dài.
– Vâng, tôi còn độc thân, nhưng sự độc thân không trọn vẹn.

Nghiêm biết ông sẽ nói tiếp, nên kiên nhẫn chờ đợi.
– Tôi đã có người yêu và chúng tôi cùng trên đường vô Nam nhưng người yêu của tôi đã chết trong trận bom Mỹ oanh kích ở Trường Sơn. Chúng tôi ở hai đơn vị khác nhau, nên mãi mấy tháng sau tôi mới nhận được tin buồn nầy. Chúng tôi đã có những ước mơ thật bình thường của tuổi yêu đương. Nhưng tiếc là những cái bình thường nhất của đời sống, trong chiến tranh, lại là những cái phải mơ ước! Và cái mơ ước trong tình yêu đó của chúng tôi không còn bao giờ đến nữa. Giá bây giờ người yêu tôi còn sống.
– Xin lỗi cán bộ, vô tình tôi đã khêu dậy một vết thương.
– Không sao. Tôi đã hỏi anh về gia đình thì anh cũng đã hỏi lại như vậy. Không có gì, chỉ có khác là hoàn cảnh riêng mà thôi.

Nghiêm thấy có chút bình đẳng và tự nhiên trong cách nói chuyện của ông cán bộ. Từ lúc ông bước vô, cho đến bây giờ, nếu ông cán bộ không mặc đồ bộ đội, không mang dép râu, xắc cốt thì có thể nghĩ ông là một người bạn bình thường khi nói chuyện với nhau. Không có cái khô cứng trong ngôn ngữ, không có cách biệt trong giao thiệp và cái chất tình cảm rất là người, không bị o ép, khuôn đúc như hầu hết các ông khác.

Nghiêm nghĩ nếu ông cán bộ nầy đi nói về chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa xã hội gì đó thì may đâu bài học có chút sinh khí để bàn cãi.

Ông hỏi Nghiêm:
– Vào trại tập trung anh có mang theo hình ảnh của gia đình không?
– Dạ có.
– Hẳn những lúc mưa buồn như thế nầy, nhìn vào đấy, để thấy tha thiết phải không?

Nghiêm trả lời có chút bài học:
– Phải khắc phục thôi, cán bộ.
– Điều đó tốt thôi, nhưng hy vọng anh không tự dối lòng. Tôi đã chia tay với người yêu và tôi đã mất người yêu trong chiến trận. Tôi hiểu sự đau đớn nầy. Mất mát là mất mát. Là vĩnh viễn không còn tìm lại được. Đất nước là đất nước. Đất nước là để con người sinh sống, nhưng khi con người mất đi thì đất nước để làm gì? Dĩ nhiên là cho người khác, cho thế hệ nối tiếp, nhưng trong chỗ riêng tây mình cũng cảm thấy hụt hẫng. Trái tim không còn chút tình cảm riêng tây thì trái tim đó đã chết. Cho nên, nếu nói mình vì mọi người hoàn toàn, tôi thấy câu nói không có nhiều thuyết phục. Chỉ là những đóa hoa kết thêm trên tà áo cưới cô dâu nhưng lòng dạ không phải vậy.

– Thưa cán bộ, cách mạng đang chiến thắng. Đang đạt được những gì mong muốn và cũng phải có cái giá để trả.
– Vâng, tôi hiểu ý anh. Song thời gian mới thật sự là câu trả lời. Người miền Nam di tản nhiều quá! Nếu chỉ là số ít thì có thể họ sai lầm, nhưng không lẽ đông người sai lầm đến như vậy. Trong lúc đài kết án họ là phường đĩ điếm, ma cô. Đó chính là câu hỏi lớn hiện tại. Còn sự phồn vinh của miền Nam tôi nghĩ là thật, chứ không phải giả tạo.

Nghiêm nghe và yên lặng. Không dám có thêm gợi ý gì. Ông cán bộ tiếp:
– Cách mạng bây giờ có thể kể trên các anh hàng trăm thứ tội nhưng chắc gì bên trong các anh chấp nhận. Đôi khi các anh nghĩ có tội chỉ vì các anh là người chiến bại. Cái khó là trong thâm tâm chúng ta, tìm hiểu nhau và có chấp nhận nhau được không.

Thấy ông cán bộ nầy rất cởi mở và thẳng thắn nên Nghiêm muốn nhân dịp nầy tìm hiểu chút tin tức về học tập mà có rất nhiều tin đồn đãi khác nhau:

– Thưa cán bộ, tôi biết học tập để biết đường lối chính sách, rất cần thiết, nhưng thưa cán bộ khoảng bao lâu sẽ hoàn tất?

Ông có chút suy nghĩ trong câu trả lời.
– Tôi cũng không biết. Kế hoạch đều do trên cả!
– Thưa cán bộ, có nhiều tin nói rằng học xong mười bài sẽ được cho về?

Ông cán bộ không trả lời thẳng câu hỏi nầy.
– Theo tôi, cách tốt nhất là chuẩn bị cho chính mình. Không chuẩn bị tốt thì cho dù hoàn cảnh nào cũng khó thể vượt qua.
Qua đối thoại, Nghiêm thấy ông cán bộ khá thành thật trong chỗ riêng tư nhưng lại né tránh chuyện liên quan đến tù. Ông cũng mù mờ về đường lối chính sách của Đảng. Sự tráo trở trong ngôn ngữ không chỉ đánh lừa người dân nhưng cũng đánh lừa ngay trong hàng ngũ cán bộ. Đến giai đoạn nào, thì giải thích theo giai đoạn đó. Mọi việc không đặt trên nền tảng chân thật, nên mọi người phải linh động theo từng diễn biến. Sự linh động giải thích nầy dần dần biến thành thói quen, nói để vừa lòng người nghe chứ không phải nói sự thật. Mọi người đều lừa dối nhau, từ gia đình, cha mẹ, con cái, bè bạn, chỉ vì Bác và Đảng đang đứng ở sau lưng!

Con người ông cán bộ có hai thế giới. Thế giới riêng tư, âm thầm và khép kín, nhưng sôi bỏng. Thế giới công tác, thì nói và làm theo lệnh trên, mù mờ, nhưng không dám đối diện sự thật. Nhưng cái mù mờ, không thật nầy, lại quyết định đời sống từng cá nhân như ông.

Có thể tâm tình của ông, ông không thể san sẻ cùng đồng đội vì có thể bị làm công tác tư tưởng nên có dịp, lại sẵn sàng cho nó thoát ra với người khác, như Nghiêm, người tù mới của chế độ.

Đảng và công việc, như chiếc áo phải khoát vào khi đi ra khỏi cửa, nhưng thế giới riêng tư thì lại mâu thuẫn với những cái gì hàng ngày phải nói hoặc phải làm. Cuộc tranh chiến dai dẳng nội tâm, tạo nên một bộ mặt mới, bộ mặt hư ngụy!
Một xã hội lại được xây dựng bởi những bộ mặt hư ngụy thì tương lai sẽ đi về đâu?

[1]Tàn thuốc điếu

KiwiTeTua
06-08-2015, 11:18 PM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/503_1433805341.jpg


7. Chuyến Tàu

* Tặng các bạn tù đã đặt chân đến An Thới, Phú Quốc, buổi sáng ngày 27 tháng Chạp năm Ất Mão ( 27-1-1976 ) trên Dương Vận Hạm HQ 503 của Hải Quân VNCH bỏ lại .*

Đi làm cỏ ở Trung Đoàn Mẫn đem về một cây ổi con. Gốc nó được bó một nắm đất bằng ngón tay cái. Mẫn xem lá xem nhánh thế nào đó và kết luận đây là ổi xá lị.
– Vài hôm nữa về tôi sẽ trồng nó trước sân nhà!

Hợp có chút mỉa mai:
– Nhà nào?

Mẫn cam phận:
– Thì nhà ở kinh tế mới cũng được.

Tín xen vào:
– Thôi đi cha nội. Đem nó trồng đàng sau hè ở đây đi. Bao giờ có trái thì trèo lên cây hái, mang về nhà làm quà biếu vợ con, mừng ngày sum họp!

Câu nói phang ngang của Tín như một gáo nước lạnh tạt ngay vào mặt. Không phải mặt của riêng Mẫn, mà cả mọi người đang huyên náo về tin đồn. Mẫn là một trong số người tích cực tiếp hơi cho tin đồn lan truyền nhanh hơn. Cứ như là càng rùm beng thì sẽ nhanh chóng biến thành sự thật!

Những chiếc bánh vẽ đôi lúc cũng giúp làm đã cơn thèm trong giây lát!

Chương trình học mười bài mới nửa chừng nhưng Tết thì chỉ còn chưa tới mười ngày nữa. Nội việc tù lán phó đi họp nhưng chưa nghe hậu cần thông báo kế hoạch Tết, cũng là một tin đồn loại sốt dẽo:

– Nếu còn ở lại thì chắc phải có kế hoạch Tết rồi!
– Chương trình học mười bài, nếu học ở đây chưa kịp thì về học tại địa phương. Kế hoạch đồng nhất và mấy ổng nói thì trước sau như một mà!

Mỗi người đều lý luận sao cho hợp với mong muốn của mình. Nếu mọi người được cho về thì hơn cả tháng dài, cả trại đi gỡ PSP ở phi trường trực thăng khiêng về, làm cái hội trường đồ sộ để làm gì? Hình như không ai muốn đặt câu hỏi kiểu nầy!

Sau giờ thảo luận buổi chiều, mọi người đang lu bu lo chuyện cơm nước thì tiếng còi tập họp bất ngờ nổi lên. Từng ông quản giáo đến ngay lán kêu khẩn trương nhanh lên tập họp. Tù nhìn nhau với nhiều thái độ. Mẫn hớn hở, lớn giọng và kéo dài từng tiếng một:
– Tới. . . rồi . . .!

Tín thì bình tĩnh, cũng lớn tiếng, nhưng gãy gọn:
– Tới rồi!

Mẫn tới rồi với cây ổi xá lị sẽ đem về trồng trước sân nhà. Tín thì tới rồi với tư thế sẵn sàng đi đến bất cứ một nơi nào trên con đường vạn dặm. Xám xịt! Tín mang tâm trạng của Thúy Kiều sau khi ra khỏi nhà: cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần tới đâu! Cho dù hiện tại chưa thấy bóng dáng chàng Thúc Sinh mà đang trong vòng tay họ Sở!
Những người bị đọc tên vội vàng quay vô thu dọn đồ cá nhân. Nghiêm trong nhóm ba người bị gọi tên. Bố Tôn phụ giúp

Nghiêm gom góp đồ đạt:
– Bố có nhớ địa chỉ nhà tôi ở Sài Gòn không?
– Cậu cũng còn nhớ địa chỉ nhà tớ ở Thị Nghè chứ ? Còn có ngày về thì liên lạc với nhau.

Đàng kia Tín phụ giúp Mẫn. Khi nghe gọi tên mình trong danh sách toàn an ninh, tình báo, chiến tranh chính trị, Mẫn hụt hẫng. Tái xanh. Mẫn như không còn nhớ cả những đồ đạt cá nhân, vì đối với Mẫn thì đây là chuyện không thể tưởng tượng được. Thư của vợ Mẫn cho biết, cha mẹ vợ Mẫn là người của cách mạng, đã bảo lãnh cho Mẫn rồi, nên Mẫn chỉ chờ đợi được gọi tên cho về. Cây ổi bao giờ sẽ có trái, không ai biết, nhưng trái tình yêu đầu tiên của vợ chồng Mẫn thì hai tháng nữa ra đời! Tuy tính tình khác biệt nhưng Tín và Mẫn lại chơi rất thân. Tiễn Mẫn, Tín mới lộ chút xúc động. Cắn răng, quai hàm bạnh ra. Bắt tay Mẫn khá chặt:

– Nhớ giữ gìn sức khỏe!

Đám tù ra đi lặng lẽ khuân vác đồ đạt. Căng thẳng nên không nói với nhau một lời nào. Di chuyển đến trung đoàn. Đoàn molotova khá dài đã vén bạt phía sau đang chờ sẵn. Mỗi xe có hai ông bộ đội súng đạn sẵn sàng. Hình ảnh nầy đã giết chết suy nghĩ còn sót lại của vài người ngây thơ, vẫn bám víu hy vọng được cho về ăn Tết! Tù ngồi từng cụm với đồ đạt lộn xộn, đợi các ông cán bộ bàn giao cho nhau.

Bóng tối chụp xuống. Mấy chiếc xe nổ máy, mở đèn chiếu vào đám tù để các ông cán bộ tiếp tục làm việc. Khẩu phần lương khô do Trung Quốc cung cấp cho bộ đội miền Bắc, được đem phân phát cho tù. Mỗi người nhận ba ngày ăn. Khẩu phần lương khô của Trung Quốc như một chiếc bánh in phong kín bằng giấy thô, khác hẳn với lương khô của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, có gạo sấy đựng trong bọc plastic trắng trong và thịt hộp.

Với ba ngày lương khô thì tù sẽ bị đưa về đâu? Tù lại suy nghĩ, lại đoán mò!

Có thể lên Cao Nguyên Trung Phần, nhưng lực lượng Fulro còn đó và đang chống họ. Họ không thể thả hổ về rừng?
Đi Bắc chăng? Xe cộ họ đang rất cần để chở tài sản của miền Nam ra Bắc có đâu để chở bọn tù?

Khoảng chín giờ đêm, từng toán khoảng ba mươi người với đồ đạt cá nhân nhồi nhét lên từng chiếc molotova. Tấm vải bạt được trùm xuống. Đời tù lại ngộp thở, tối tăm. Xe dằn, xóc. Quẹo phải, quẹo trái, lầm lũi trong đêm. Thỉnh thoảng có vài ánh đèn lọt được vào bên trong cho tù biết xe đã gần vào một thị trấn nào đó. Tù tìm cách đâm thủng bạt để xem đường. Từng chặng, từng chặng đều có tù âm thầm thông báo nhau. Khi nghe thông báo xe trực chỉ về Sài Gòn thì mọi người đều tỉnh ngủ hẳn. Nôn nao và chờ đợi. Ai cũng muốn nhìn lại được cảnh đường phố Sài Gòn như thèm được nhìn lại khuôn mặt người tình sau mấy tháng dài xa cách. Chỉ cần nhìn thấy bất cứ góc phố hay con đường nào của Sài Gòn cũng được. Sài Gòn, người tình yêu dấu. Sài Gòn, người tình với nỗi khát khao mong đợi. Sài Gòn, người tình trăm năm.

Bây giờ người tù có được cái lỗ trên tấm bạt để thấy tí chút bên ngoài, đang làm thông tín viên, là người hạnh phúc nhất. Sài Gòn về đêm thênh thang ngày xưa, đủ loại ánh đèn với những dòng xe xuôi ngược, không bằng Sài Gòn sắp xuất hiện qua cái lỗ nhỏ như đầu ngón tay trên tấm bạt bây giờ!

Nếu xe chạy về hướng bà Quẹo, xuống ngã tư Bảy Hiền, quẹo trái qua Lăng Cha Cả thì sẽ gần nhà Nghiêm lắm. Nghiêm chỉ nghe thông báo, không thấy gì bên ngoài nhưng cũng mong xe chạy về hướng nhà mình. Nhà Nghiêm nằm sâu trong hẽm nên tấm bạt xe nếu có vén lên, có được ngồi nhìn thỏa mái chung quanh cũng không thể nhìn thấy. Nhưng từng góc phố, từng trụ đèn đường Nghiêm cũng có thể hình dung ra được. Trụ đèn đường xéo cửa nhà Nghiêm bị bể mất một miếng bên góc để lộ một cộng sắt cỡ bằng ngón tay, mấy mươi năm rồi cũng như vậy. Nơi đó, đêm đêm có chiếc xe phở của đôi vợ chồng bán đến khuya. Người chồng dùng hai thanh gỗ gỏ vào nhau như tiếng vang của con chim gỏ kiến về đêm để rao hàng. Âm thanh đó đã trở nên quen thuộc trong cả xóm. Tuổi học trò, những đêm thức học thi, đói bụng nhưng lười xuống tầng dưới mở cửa, Nghiêm có thể ra trước hiên lầu mua, rồi thòng một sợi dây xuống kéo cái xô có đựng tô phở với đầy đủ gia vị lên. Góc bên phải nhà Nghiêm có một bụi biện lý, hoa nở quanh năm, hai màu đỏ trắng, tàng lá sum suê rợp bóng, đủ để bà Tư già với chiếc bàn nhỏ ngồi bán lặt vặt, trái chuối, cái kẹo. Xa hơn là căn nhà lầu ba tầng của ông Hợp, có cái xe Lam ba bánh, mỗi 3 giờ sáng là bắt đầu rời nhà chạy ra bến đón khách. Tiếng máy nổ dòn tan trong khi cả khu phố còn say ngủ, đã đánh thức cả xóm, nhưng không ai phàn nàn. Cái xóm lao động ồn ào náo nhiệt nầy càng ồn ào náo nhiệt hơn sau ngày 30-4-1975. Mọi sinh hoạt đều đảo lộn. Xe phở biến mất. Đôi vợ chồng nầy cùng con cái, nghe đâu đã tháo chạy di tản. Người thì bảo đi thoát, người lại bảo bị chết, không thể nào xác định được. Chỉ biết, trước ngày đi họ còn kịp cho tất cả vật dụng cho vài người thân trong xóm. Chiếc xe phở và những dụng cụ mấy mươi năm cần mẫn, chắc chắn là những mảnh đời gắn liền với nhau, như là một phần của da thịt để lại. Chiếc xe Lam vẫn còn đó. Tiếng nổ dòn dả trong đêm về sáng vẫn còn đó, nhưng tiếng vang của nó không còn đánh thức mọi người mà lại như một nhắc nhở của quá khứ, vì mọi việc rồi sẽ đổi thay. Tiếng hai thanh gỗ gỏ vào nhau của xe phở đã mất, chỉ còn lại tiếng máy xe Lam như một cái gì đơn lẻ, thiếu vắng. Nhưng dưới bóng mát của chùm hoa giấy, với thúng quà vặt, bà Tư già vẫn còn ngồi lại một mình. Mọi người đem ra đường tất cả bàn ghế, tủ giường bày bán khắp nơi. Bán đổ bán tháo! Bán cho trống nhà để trở thành vô sản! Vô sản chuyên chính. Nghiêm vẫn còn nhớ giọng bà Tư già nói với Nghiêm, khi bà chỉ vào tấm ảnh màu của ông Hồ Chí Minh đã được bày bán khắp nơi:

– Bán, bán cho sạch nhà, sạch cửa để rước ông Nội tôi vô ở!

Khi nghe tù thông tín viên cho biết xe không về hướng Bà Quẹo, nhưng ra ngã xa lộ Đại Hàn, thì mọi người trong xe mới trở về thực tại. Một thực tại ê chề mà tù chỉ mới vừa quên đi trong giây lát. Về đâu?
Vẫn có tù chưa chịu chấp nhận sự thật:

– Có chắc xe đang chạy trên xa lộ Đại Hàn không?

Giấc mơ được nhìn một góc phố, một con đường Sài Gòn về đêm không còn nữa. Một giấc mơ quá ngắn. Tù thông tín viên thông báo tiếp. Xe quẹo vào Xa Lộ Biên Hòa. Cầu Sài Gòn. Và sau đó là hai tiếng New Port. Không còn tù nào thắc mắc, nhưng tù thông tín viên cũng quan sát lại thật kỹ, rồi tái xác nhận lần nữa:
– Đúng rồi! Tân Cảng New Port!

Hai tiếng New Port, Tân Cảng được lặp lại như có echo cứ vang vang lùng bùng trong lỗ tai, thốn đến màng nhĩ!
Cả xe tù chết lặng!

Đêm đã vào khuya. Sương xuống lạnh. Cái pha đèn từ con tàu khổng lồ đang há mõm chiếu sáng cả một khu vực rộng lớn. Người và người lố nhố. Tù và tù nhợt nhạt, xanh xao, dưới ánh đèn pha chói chang. Bộ đội dày đặc, súng cầm tay cô lập từng đám tù. Dòng sông đêm trước mặt, nước đen quánh, vẫn cuồn cuộn trôi. Còn đâu những chiều vàng ngồi với người tình trong chiếc lều quán bên xa lộ Biên Hòa, nhìn dòng sông đục ngầu phù sa, kể chuyện về lính, nói chuyện tương lai, những yêu thương đằm thắm, mộng mơ? Còn đâu những hàng dừa nước hai bên bờ sông thơ mộng, in trong màu mắt biếc của người tình, cùng nhau nghe tiếng xành xạch của những chiếc ghe máy, tiếng mái chèo quẫy nước, con thuyền rẻ sóng lướt đi?

Dòng sông trôi ra biển có bao giờ quay lại? Đời tù theo dòng nước sẽ trôi về đâu?

Cả 2000 tù yên lặng. Chỉ có tiếng tu huýt ré lên liên tục. Tù lần lượt bước xuống cầu thang. Chiếc cầu thang không còn mang ý nghĩa của sự nối liền nhưng là sự chia cắt. Chia cắt với đất liền. Chia cắt giữa hiện tại và tương lai. Chia cắt giữa Sài Gòn thân yêu, gia đình, vợ con, với đọa đày trước mắt.

Bộ đội ghìm súng đứng hai bên sẵn sàng bắn vào tù nào dám phản ứng. Mẫn biết, nhưng hoảng loạn trong tuyệt vọng, bất ngờ hét lớn: “Bắn đi. Bắn đi…” rồi lao mình xuống dòng sông đêm.

Súng nổ.

Những tràng AK vang dội. Mọi khẩu súng khác đều hướng vào tù sợ bạo loạn.

Chuyện vừa xảy ra của Mẫn, với chuyện về cây ổi xá lị, rơi lại phía sau lưng. Tù bị đẩy nhanh về phía trước.
Con quái vật khổng lồ đang há mõm thật lớn nuốt vội vàng đám tù! Ngậm miệng, rồi vẫy sóng xa bờ.

Tù chen chúc nhau trong hầm tàu. Hầm tàu là một hộp sắt vuông vức, rộng như một hội trường lớn, vách bằng thép dày, han rĩ màu nâu đỏ. Về phía đuôi tàu, có một hành lang duy nhất với song sắt thưa ở trên cao thông vào buồng lái và boong tàu, nơi đó mấy ông bộ đội đứng ghìm súng nhìn xuống
.
Những cửa liên lạc với hầm tàu bên dưới đều đóng kín. Im ỉm.

Cả 2000 tù cộng với hành trang, chêm chặc như nêm. Thế ngồi co cụm, không đủ chỗ để duỗi chân. Có người ngồi trên sàn, có người ngồi trên túi quần áo, có người đứng để dễ thở hơn, nhưng nằm thì không đủ chỗ. Ngồi xuống sàn thì đầu gối gấp lại chân sẽ bị tê rất nhanh. Ngồi trên túi áo quần có chút thư giãn hơn nhưng cơ thể thì nghiêng ngửa không có điểm tựa. Có người thử tựa lưng vào nhau nhưng cũng không thể chịu đựng lâu. Đứng thì cũng không thể đứng hoài một chỗ không cử động. Cứ thế, hết ngồi lại đứng, hết đứng lại ngồi, tại một chỗ cố định. Người nào có nhu cầu tiêu tiểu thì cả một cực hình. Cái đệ tứ khoái của con người, giờ đây là một tai họa. Phải chen chân vào chỗ người khác ngồi, để lần từng bước, đi về hướng mấy cái buồng xí ở trung tâm hầm tàu. Nơi đó được che sơ sài, tạm bợ bằng vải bạt, chứa một số thùng phuy cắt ngắn, hai miếng gỗ đậy lên mặt có chừa một khe trống ở giữa. Nhiều người phùng mang trợn mắt, không còn ai giữ gìn ngôn ngữ trong tình huống nầy. Loại tử tế nhất là: đừng đạp lên đầu con nghe cha nội!

Khi càng âu lo về nhu cầu tiêu tiểu thì cơ thể hình như bị kích thích ngược lại. Cho nên nhu cầu sẽ nhiều hơn! Cố gắng ngồi yên thì có chút dễ chịu, nhưng đến khi buồn tiểu không thể nín được nữa thì cũng không thể đứng thẳng người lên được, vì bọng đái căng cứng, đau đớn . Ráng cố gắng lần mò đến được buồng xí thì mãi mười, mười lăm phút cũng không thể tiểu ra được, trong lúc cả hàng dài chờ đợi phía sau với đầy đủ điệu bộ, ngôn ngữ thô lỗ nhất!

Khi xuống tàu phải theo hướng dẫn của mấy ông cán bộ, đã chia thành từng ô cho từng đơn vị tù. Những đơn vị tù nào phải chịu vòng quanh khu mấy cái buồng xí thì quả thật là đại họa!

Con tàu đang đi về đâu? Với ba ngày lương khô thì có thể đi về đâu?

Ánh nắng buổi sáng chiếu lọt vài tia lẻ loi vào hầm tàu như những sợi chỉ lân tinh đầy sinh động. Mấy điểm sáng hình bầu dục rơi trên đám tù hay đọng trên vách hầm tàu, thu hút nhiều suy diễn về hướng đi của con tàu. Tù loại hải quân có thể ước tính thời gian tàu còn ở trong sông hay đã ra biển, đi về hướng nào, thời gian bao lâu?

Ra Bắc, Côn Đảo hay Phú Quốc?

Những khuôn mặt hốc hác, bơ thờ. Những đôi mắt của loài thú bị đông lạnh, sâu trũng, thâm quầng. Tuyệt vọng. Đã biết là tù, đi đâu cũng là tù, đến đâu cũng là tù, thế giới của tù thì nơi nào cũng như nhau, bị hăm dọa, đày ải giống nhau, nhưng tù vẫn mong được ra Côn Đảo hoặc Phú Quốc hơn là đi Bắc, dù Côn Đảo đã nổi tiếng trong lịch sử. Cái bén nhạy của tù cho biết dù là Côn Đảo vẫn còn hơn thiên đường ở miền Bắc. Trong lúc nầy, chỉ cần một địa danh nào đó còn liên hệ với miền Nam cũng là điểm bám víu trong bước khốn cùng!

Buổi chiều, khi thấy những giọt nắng bò dần trên vách trái về hướng mũi tàu, tù hy vọng sẽ được ra Côn Đảo hay Phú Quốc.

Cũng buổi chiều, quang cảnh trung tâm của hầm tàu bắt đầu đổi khác. Khu vực quanh các buồng xí dần dần trở nên mất trật tự. Những dòng tù hướng về đó vì nhu cầu khẩn thiết, đều bị cự tuyệt, phản đối. Đám tù quanh các buồng xí la ó, kêu gào. Những tù đã giải quyết xong nhu cầu, trên đường về trở lại, cũng bị la ó, phản đối. Phân người và nước tiểu tràn dần ra, chảy ướt chung quanh. Những đôi bàn chân tù đến đó hoặc trở về đều ướt đẫm. Cứ thế. Cứ thế. Nhầy nhụa từ từ lan dần khắp nơi. Tiếng văng tục, kêu gào, la ó từ trung tâm hầm tàu cũng lan dần, lớn dần ra chung quanh.

Mấy ông bộ đội ở trên cao vẫn ghìm súng nhìn xuống. Họ điếc đặc như những bức tượng! Người lái tàu chỉ có nhiệm vụ lái con tàu. Người cầm súng canh giữ chỉ có nhiệm vụ canh giữ. Không có ai giải quyết chuyện dưới hầm tàu hoặc đã được quyết định từ trên với ông hạm trưởng rồi (?) Tất cả đều im lặng như những con người máy. Tù chưởi rủa: tù nghe. Tù kêu gào, la ó : tù khô hơi tắc tiếng. Những con người máy vẫn đứng ở trên cao với khẩu súng! Đám tù vẫn kêu gào từ địa ngục. Địa ngục không thể cao dần lên. Địa ngục chỉ có chiều sâu. Thăm thẳm. Chiều sâu không bao giờ thấy đáy!

Sức khỏe cạn kiệt. Phải vật lộn với nhầy nhụa hôi thối mấy ngày đêm, đôi bàn tay không thể còn sạch nhưng không có nước để rửa. Chính mình phải sợ hãi đôi bàn tay của mình như của một người xa lạ! Đầu óc tù đã hoảng loạn hoặc đã thành đá, thành băng. Lũ tù là lũ heo đang ở trong chuồng, không phải là loại heo nuôi theo công nghiệp, nhưng là loại heo nuôi để lấy phân ở các chuồng vùng quê! Không cần biết nơi nào sẽ đến. Côn Đảo, Phú Quốc hay thiên đường miền Bắc, nơi nào cũng được. Phải đến. Con tàu phải dừng lại trước khi mọi người đi vào hôn mê.

Số tù di chuyển cùng xe với Nghiêm có chút may mắn hơn là được sắp xếp ở cạnh bên hông tàu, gần phía sau cùng. Độ nhầy nhụa, ướt át ít hơn. Dù vậy, mọi người đều phải ngồi lên túi áo quần và bên dưới đã bắt đầu ngấm nước! Khi không còn sức để gìn giữ, mọi việc đều phải buông trôi.

Không còn sức để lên tiếng, không còn nghe tiếng sóng vỗ bên ngoài, chỉ có tiếng máy tàu nổ đều đều ghê khiếp. Tiếng máy như lớn dần, lớn dần. Có phải tiếng T 54, tiếng M 113 hay là M 48 đang chồm tới, sắp cán qua người… trong hôn mê, hoảng loạn! Lượng nhầy nhụa và nước lại từ từ dâng lên, dâng lên gần đến mắt cá chân. Rồi lại từ từ rút dần xuống chỉ để lại nhớp nháp, nhèm nhẹp. Thì ra chiếc tàu đang chuyển mình! Nghiêng qua, đảo lại. Hai bên hông hầm tàu cứ như triều dâng, lúc đầy lúc vơi.

Lại đến lúc mấy chiếc quạt khổng lồ đang hút gió từ đại dương, thổi vào hầm tàu, bổng im bặt! Không còn dưỡng khí, tù ngạt thở. Không khí như đặc lại. Mọi người đang liệm đi. Một số tù nào đó ở phía đuôi tàu, đang cố gắng kêu gào lần cuối cùng. Họ đang nâng một xác người trần truồng, mềm nhão, lên khỏi đầu, như đang dâng một con vật trong lễ tế thần. Ở hành lang phía trên kia, vẫn những bức tượng cầm súng. Điếc đặc!

Hơi người đọng lại chảy thành dòng trên vách sắt.

Khi ngạt thở con người thường dướn cổ dài ra hoặc chúi mũi vào góc kẹt tìm chút sinh khí. Hình ảnh con người trong các lò hơi ngạt thời Đức Quốc Xã đang bắt đầu.

Trong giây phút tử thần xuất hiện thì cánh cửa sắt khổng lồ trước mũi tàu từ từ mở ra. Một mảnh trời trong xanh cứ lớn dần, lớn dần. Luồng sinh khí tràn vào.

Biển nước trong xanh, trời trong xanh, không khí trong lành. Giây phút cõi thiên đường mở cửa!
Những chiếc quạt lớn để thông gió trong hầm tàu ngưng lại, không phải vì lý do kỹ thuật khi mở cửa con tàu![1]
Chắc ông hạm trưởng đã nhận được lệnh trên, làm tù hoàn toàn kiệt sức, để tránh mọi phản ứng tuyệt vọng của tù khi đổ bộ lên bờ (?)

Tù dắt dìu nhau lội xuống biển. Tầm nước ngang ngực. Hành trang nổi lềnh bềnh trên sóng nước. Là không khí. Là nước. Là gió. Chưa bao giờ, tuyệt đối chưa bao giờ, tù cảm thấy tuyệt vời như vậy! Không một ai có thể hình dung ra được niềm hạnh phúc lớn lao nầy!

Nhìn lại, đây không phải là 2000 tù đang đổ bộ lên đảo! Là một đàn chim biển bị ô nhiểm sinh thái, do một chiếc tàu dầu khổng lồ nào đó bị tai nạn gây ra!

Tù lần lượt về các trại, trong liên trại tù binh cộng Sản trước kia. Đơn vị tù bọn Nghiêm vào trại 11, liên trại 3. Hệ thống nước cũ trong trại đã bị phá hỏng. Mỗi người chỉ được cấp phát một ca nước làm vệ sinh cá nhân. Hành trang ba ngày đêm ướt đẫm không thể nào giặt, đành trải ra phơi. Không đủ chỗ, tù phải phơi cả trên nền cát. Cả trại tù như không phải của con người, là mùi vị, hang ổ của một loài thú ăn thịt sống lâu ngày!

Vào buổi chiều, ba ngày sau, bọn Nghiêm mới được dẫn ra ngoài tắm giặt. Đám tù vác toàn bộ hành trang đi trên con đường mòn, khúc khuỷu hơn hai cây số để ra biển. Vài căn nhà lá lụp xụp bên đường đã đốt hương đèn trên bàn thờ. Một bà mẹ quê đang ngồi làm thịt gà bên lu nước, cạnh bụi chuối. Mấy em bé đã mặc đồ mới, ngơ ngác nhìn tù. Ai đó trong đám tù mới sực nhớ ra, lên tiếng:

– Ba mươi Tết, chuẩn bị đón ông bà.

Một người khác tiếp:

– Không biết người Cộng Sản có ông bà không nhỉ?

[1] Người viết đã phối kiểm với vài vị Sĩ Quan Hải Quân, được biết, không có lý do kỹ thuật nào bắt buộc khi mở cửa tàu phải tắt.

KiwiTeTua
06-13-2015, 09:47 AM
8. Diệu Thủ Thư Sinh
Con gà mái vừa rời ổ, nhảy xuống nền đất mới làm cỏ, kêu cục cục. Cô nàng vừa chạy, vừa dang đội cánh, đập đập như muốn bay. Đấy là động tác làm giản gân cốt của con gà mái đang ấp, cũng vô tình báo tin cho Lân biết, cô nàng đang có một ổ trứng. Lân liếc về phía ông vệ binh, rồi liếc nhanh về phía ổ gà nơi chái nhà. Mọi người đang cắm cúi làm việc. Tù làm cỏ. Tù be bờ, để nước mưa có lối thoát. Tù đang sửa lại các bậc tam cấp đã sụp lở, xói mòn. Đây là bộ chỉ huy của ông chín ngón.

Tù lao động ở đây phải chăm chỉ, vì ngoài đôi mắt của ông vệ binh trực tiếp canh giữ, còn có nhiều đôi mắt khác quan sát. Nhất cử, nhất động, đều có thể bị để ý, theo dõi. Một vài tù đói thuốc, lo tìm dế nhưng Lân không để ý đến chuyện đó vì có một việc lớn hơn làm Lân đang suy nghĩ.

Lân cào cào gom đống cỏ lại, rồi đến gần Nghiêm nói thật nhỏ:

– Có ổ trứng.
– Ở đâu?
– Nơi chái nhà.
– Làm cách nào?
– Đặt kế hoạch đi.

Rồi Lân lãng ra xa, dùng tay tơi đất và gom cỏ thành đống, vừa suy nghĩ. Nghiêm dùng cuốc, cào cào cỏ lại chỗ Lân:

– Có cái túi nào không?
– Có cái hồ lô[1]
– Tao tin cho thằng Diệu thủ Thư sinh[2], mày để hồ lô giữa đống cỏ cho nó.
– Tao canh chừng cuối sân đầu bên nầy, mày bên kia.
– Còn trường hợp chúng ở trong nhà nhìn xuyên qua vách?
– Chỉ trời cứu thôi.
– Phải thực hiện ngay kẻo con gà mái quay trở lại ổ thì rắc rối lớn.

Nghiêm ra phía trước sân, gần bậc tam cấp, nơi Diệu thủ Thư sinh đang làm, thông báo kế hoạch. Diệu thủ Thư sinh thêm ý kiến:

– Mầy tìm cách giữ chân thằng vệ binh ở đây cho đến khi tao đặt túi trứng giữa đống cỏ và sau đó thì mầy xin nó cho phép mang cỏ đi đổ. Thằng Lân sẽ bỏ cỏ vô sọt và kêu tao khiêng với nó là êm.

Diệu Thủ Thư Sinh tiếp:
– Còn chuyện đem vô cổng?
– Tao sẽ cho thằng Huỳnh hay, vì nó nuôi heo, ra vô cổng hằng ngày, ít khi bị chận xét.
Trên đường đi đến gặp ông vệ binh ở cuối sân phía bên kia, Nghiêm bắn tiếng để lấy lòng ông vệ binh:
– Anh em cố gắng làm tốt đi, tôi sẽ xin phép cán bộ cho nghỉ giải lao.

Gặp ông vệ binh, Nghiêm nói:
– Thưa cán bộ, xin cán bộ cho biết cách sửa các bậc tam cấp. Cán bộ quản giáo đã chỉ cho tôi sáng nay rồi nhưng có vài trở ngại cần đến ý kiến của cán bộ ở đây.

Ông vệ binh đi với Nghiêm đến nơi bậc tam cấp thì Diệu thủ Thư sinh đang ôm cỏ đi về phía Lân.

Nghiêm kể một vài khó khăn để làm các bậc tam cấp khỏi sạt lở, như cần cây và cọc để đóng cừ, đắp đất. Cần xẻ hai mương ở hai bên cho nước có lối thoát, rồi Nghiêm xin ông vệ binh cho một người đi chặt cây.

Nhiệm vụ của ông vệ binh là chỉ canh giữ tù, còn việc cắt cử tù đi làm việc khác phải do ông quản giáo, cho nên ông vệ binh chưa thể quyết định được. Nghiêm chỉ chờ có vậy để kéo dài thời gian. Ông vệ binh đang phân vân, chợt nhìn thấy ông chín ngón từ xa đang đi về phía bộ chỉ huy. Ông vệ binh nói với Nghiêm:
– Chờ thủ trưởng đến, tôi sẽ hỏi.

Nghiêm hồi hộp vô cùng, nên liếc nhìn về phía Lân. Lân nhìn lại nhưng không thấy Diệu thủ Thư sinh ở đâu cả, Nghiêm đoán chắc đang ở nơi ổ gà. Như vậy thì tai họa sẽ đến. Ông chín ngón là con cáo già chứ không phải đơn giản.

Ông vệ binh đón hỏi ông chín ngón, khi ông vừa lên được mấy bậc tam cấp. Lên đến trên sân, ông chín ngón đứng nhìn bao quát, rồi ra lệnh:
– Cho người làm sạch cỏ hai bên mương rồi đánh sâu xuống. Cắt người đi về khu nhà bếp khung lựa một số củi tốt và thẳng, đem về đây đóng cọc.

Rồi ông quay lại Nghiêm:
– Anh theo tôi ra phía sau các dãy nhà tôi sẽ chỉ việc cho
.
Bên trong trái tim Nghiêm như muốn văng ra khỏi lồng ngực nhưng bên ngoài Nghiêm vẫn giữ bình tĩnh:
– Dạ.

Ông chín ngón không đi ngay về phía Lân, nơi đống cỏ, ông đi về cuối dãy phía bên kia. Ông vệ binh và Nghiêm theo sau. Ông chín ngón chỉ vẽ công việc. Nghiêm như chăm chú lắng nghe nhưng mắt liếc về hướng Lân. Nghiêm thấy Diệu thủ Thư sinh và Lân đang hợp tác kéo một số dây leo xuống vung vãi, choán cả lối đi phía sau nhà. Nghiêm hiểu ý, Lân muốn làm cản lối đi của ông chín ngón, nhưng ông chín ngón cứ đạp lên đống dây leo đi tới. Ông đứng lại giây lát, rồi đi vào bên trong chái nhà. Nghiêm phụ với Diệu thủ Thư sinh và Lân gom góp, dọn dẹp trong căng thẳng thần kinh. Lân ra dấu nơi đống cỏ. Cả ba lắng tai nghe từng tiếng động nhỏ từ trong chái nhà vọng ra. Nếu ông chín ngón phát hiện thì diễn biến sẽ như thế nào. Cái gì sẽ xảy ra? Có thể ông sẽ tập họp cả toán rồi kêu các vệ binh lục soát. Có thể những trận đòn sẽ xảy ra để tra hỏi, tìm cho ra thủ phạm. Đống cỏ đang lù lù trước mắt bây giờ như một cái gì ghê tởm mà cả ba đều muốn tránh cho xa.

Chợt tiếng con gà mái kêu lên cục cục trong chái nhà làm cả ba kinh hoảng. Tai họa chắc chắn sắp đến. Có thể ông chín ngón đang kiểm tra ổ trứng. Diệu thủ Thư sinh nói thật khẻ:
– Phải có một đứa hy sinh. Tao chịu cho.

Lân nói:
– Để tao.

Nghiêm nói:
– Bình tĩnh. Có thể chịu càng nhiều, càng tốt. Vì một đứa chúng dễ bắt làm vật hy sinh nhưng đông thì chúng khó giải quyết hơn.

Cả ba cùng im bặt khi nghe tiếng ông chín ngón bước trở ra nhưng không dám quay lại. Cả ba đang nghĩ, chắc ông chín ngón đang nhìn phía sau lưng họ và đang đánh giá ai là thủ phạm. Tình trạng căng thẳng như tử tù chờ nghe tuyên án. Nhưng ông chín ngón không nói gì. Ông chỉ đi đến cuối căn nhà, gần nơi đống cỏ, ông đứng nhìn quanh quất, rồi vòng ra phía trước sân. Chỉ chờ có thế. Gánh nặng căng thẳng cả ngàn cân chợt tan biến mất. Lân nói:

– Trời còn thương nên cho con gà mái về lại ổ kịp lúc. Nó ghiền trứng nên nằm ấp ổ không, chứ nếu không thì tai vạ lớn đang xảy ra. Đã mất ăn mà phải chịu đòn vọt, kiềm kẹp.

Giờ giải lao, Nghiêm xuống suối rửa tay, đón gặp Huỳnh đang gánh đôi thúng dọc suối, tìm lá ráy cho heo và dặn:

– Thoát được vô cổng thì bỏ trong nồi cháo heo luộc ngay trong khi cả trại còn đang ở hiện trường lao động. Vụ nầy lớn nên phần mầy thì thanh toán ngay để nếu có đổ bể thì ít ra cũng có thằng đã nuốt được vô bụng. Còn lại, chia nhỏ giấu ngoài bờ, bụi. Tuyệt đối không để ở trong lán.

[1] Túi thu quyền phép của Thái Thượng Lão Quân trong truyện Tây Du Ký.
[2] Nhân vật có biệt tài ăn cắp, trong truyện Anh Hùng Xạ Điêu của Kim Dung.

KiwiTeTua
06-19-2015, 02:23 AM
9. Chẩn

Tháng Ba bà già chết rét. Còn tháng hai thì sao? Ca dao tục ngữ không nói đến nhưng tù trại Khe Tối đã nếm trải.

Từng dãy lán làm bằng dang, nứa, màu nâu xám, xỉn lại, như co ro tê cứng trong cái lạnh tháng Hai. Sờ đâu cũng thấy lạnh. Đụng đâu cũng thấy lạnh. Bao nhiêu áo quần phải mặc hết lên người cũng không đủ ấm. Chỉ một số ít có áo len hoặc áo mặc ấm, còn đa số giống như những cái giá móc áo quần di động. Những cái khăn cũ, áo lót, thì dùng để trùm đầu. Da tím bầm và mốc thếch. Nước mắt, nước mũi chảy thành dòng không ngưng. Hai má tóp lại, răng nhô ra, đôi mắt trũng sâu hoắm. Tối tăm và đờ đẫn. Toàn trại là những hình nộm halloween sống động. Vô cùng sống động! Ban đêm không thể ngủ, nhưng bụng thì đói, cồn cào xay xát. Trong lúc nầy thì “giá cả” một vài bi thuốc lào vô cùng cao. Có người nghiện, phải hy sinh gô coóng, hoặc nhín lại thức ăn để đổi thuốc. Càng đói, con người càng đâm liều với cơn đói. Vìđàng nào cũng đói rồi nên chạy tìm chút lãng quên khác trong hơi thuốc khi ngồi bên đống lửa. Dù lệnh của trại cấm tù đốt lửa, chỉ trừ hai ngọn đèn treo ở hai đầu lán, nhưng không còn cách nào khác để chống lạnh, chống đêm dài, chống đau nhức vì da các kẻ tay, kẻ chân đều bị nứt nẻ, chỉ còn có lửa! Đêm tăm tối, rừng núi thâm u với những âm thanh bí hiểm, năm bảy người ngồi co cụm vây quanh từng đống lửa hồng. Tiếng than nổ tí tách, thỉnh thoảng bắn ra những đóm đỏ cháy vèo như những ánh ma trơi. Quay mặt vào đống lửa thì lưng lạnh, quay lưng vào đống lửa thì mặt lạnh, nên tù phải xoay qua trở lại, nhưng làm cách nào thì đôi cánh tay áo cũng ướt vì phải quẹt nước mũi đang chảy liên tục mà bàn tay không còn khả năng để lau chùi. Mười ngón tay tê cứng không còn cảm giác cứ đưa sát gần lửa cho đến khi cảm thấy nóng, giựt bắn người trở lại, thì đã có mùi khét của thịt cháy và bỏng.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/truyen 2_1434680747.jpg


Toàn trại như một đạo âm binh, đêm đêm xuất hiện giữa rừng hoang với ánh lửa bập bùng, ma quái.

Đói và lạnh. Cái lạnh làm thêm đói và cái đói làm thêm lạnh. Đói lạnh đi liền với nhau, khắn khít với nhau. Đôi uyên ương nầy là nỗi kinh hoàng của tù. Đói lạnh đã làm tê điếng hình hài. Đói lạnh đã làm rã rời trí óc. Đói lạnh đã làm con người mụ mị. Khù khờ. Ngu ngơ. Đôi mắt không còn thần sắc. Mờ và đục. Bước chân xiêu vẹo. Cái lạnh trong văn chương, với mền bông, áo bông. Cái lạnh đẹp. Cái lạnh nên thơ. Cái lạnh để đứng nhìn hoa đào năm trước còn cười gió đông[1] là cái lạnh đài các, cao sang. Nhưng cái lạnh của tù đói, xương xẩu, da nứt nẻ, mốc thếch, áo quần không đủ mặc, là cái lạnh bị hành hạ thời nô lệ thời Trung cổ. Người nô lệ, dù sinh mạng nằm trong tay chủ, nhưng chủ bỏ tiền ra mua về để làm việc thì cũng phải cho cái ăn, cái mặc. Nhưng với tù đói thời đại Xã hội Chủ nghĩa thì khác. Họ không tốn tiền để mua nên không cần cho ăn, không cần cho mặc và phải lao động khổ sai cho đến chết. Còn sống, còn khổ sai. Chết đi thì tù khác lấy chăn chiếu của tù chết quấn lại, khiêng ra bìa rừng ngoài trại, đào huyệt chôn là xong.

Chẩn đói. Chẩn lao động quanh khu nhà bếp của khung. Chẩn vừa làm, vừa theo dõi. Bột mì nhồi nước, đập lại thành bánh và luộc. Những cái bánh luộc có màu trắng đục, đang bốc khói làm Chẩn thèm thuồng. Cứ tưởng tượng nhai được miếng bánh, vừa dai vừa bùi! Chỉ cục bột làm thành bánh, đơn giản như vậy thôi cũng đã thấy ngon tuyệt vời. Còn nước luộc bánh hơi sánh lại, bỏ thêm tí muối vào làm cháo… Chẩn biết nơi nào ông bộ đội anh nuôi cất giữ bánh để sáng mai phát cho các ông cai tù.

Buổi chiều sau xuất sắn ăn tối, Chẩn đi dạo ngoài sân. Chẩn đếm từng cây trụ hàng rào. Ghi dấu trong đầu nơi nào hàng rào có khe hở, có thể chui lọt qua được. Đêm không trăng sao như đêm nay sẽ thuận tiện cho việc chui rào, mò đến khu nhà bếp bộ chỉ huy. Ông chín ngón và bộ chỉ huy biết núi rừng ở đây tù không thể trốn thoát, nên hai lớp hàng rào nứa là ngăn trở khó vượt qua đối với tù thường, nhưng không khó lắm đối với tù quyết tâm trốn trại. Tù cũng biết như vậy. Chẩn có kế hoạch trong đầu và quyết thực hiện một mình. Vào khuya, trời tối đen như mực nhưng Chẩn đã định hướng nên tìm được chỗ bò ra khỏi trại. Men theo hàng rào một đoạn, rồi rẽ xuống con mương và bò vào hàng rào nhà bếp khung. Đêm thật yên. Chỉ có tiếng côn trùng và nhịp tim đập của Chẩn. Hai cánh cửa tre được cái khóa dây loại khóa xe đạp khóa lại. Chẩn kéo cánh cửa ra và nhờ cái nền nhà cao hơn bên ngoài tạo một cái khe hở vừa đủ để Chẩn nằm chui vào. Chẩn mò mẫm thật cẩn thận. Đây rồi cái chảo lớn đựng thức ăn, vì không có tủ. Chẩn phân vân, nên lấy bao nhiêu cái. Lấy nhiều thì chỉ một lần vì bị lộ, không thể tiếp tục lần khác. Đặt kế hoạch lâu dài, Chẩn quyết định chỉ lấy năm cái. Với số lượng ít như vậy thì hy vọng ông bộ đội anh nuôi không phát hiện, vì ít ra khi làm bánh mấy ông anh nuôi cũng phải làm dư ra một số để phòng hờ. Chẩn ôm mớ bánh bò trở vô trại an toàn. Chẩn kín đáo chia cho bọn Nghiêm ba cái, dặn phải tuyệt đối bí mật và ăn tất cả trong đêm, không để lại dấu vết.

Hai đêm sau Chẩn quyết định thực hiện chuyến thứ hai vì sợ mùa trăng non lại đến. Theo lộ trình cũ, Chẩn vào trong nhà bếp khung không khó. Lần nầy không phải là bánh mà là một chảo cơm còn ấm. Phải khó khăn Chẩn mới xới cơm sang cái túi nylon được. Chẩn đậy nắp son lại như cũ và mò trở ra cửa. Hai cánh cửa được đẩy ra và đôi chân Chẩn chui ra trước. Chẩn nằm ngửa, để bọc cơm trên bụng oằn người chui ra. Nửa thân người Chẩn vừa lọt được ra khỏi cửa thì ánh đèn pin chói sáng. Một chiếc dép râu đạp đè mạnh lên bụng Chẩn. Chẩn như ngộp thở. Kinh hoàng. Tiếng một ông bộ đội vang lên:

– Đéo mẹ, chúng không nói thẳng với ông nhưng tớ biết chúng nghi ông ăn vụng bánh. Bây giờ thì đã rõ rồi.

Ông gằn giọng:

– Con tới số rồi con ạ.

Chẩn kẹt giữa cửa, không thể nào tránh được những cú đá, những cú đạp trên nửa thân người phía dưới, chỉ cố xoay người nằm sấp xuống để chống đỡ trận đòn thù. Rồi lịm đi.

Chẩn tỉnh dậy khi thấy mấy ánh đèn pin chiếu thẳng vào mặt. Nhắm mắt lại trong giây lát, Chẩn biết tay chân mình đã bị trói chặt. Hơi đất ướt đập vào mũi. Miệng môi Chẩn đầy bùn đất và có vị mặn của máu. Chẩn không thể cựa quậy. Chẩn biết mình đã kiệt sức nhanh chóng.

– Nó tỉnh rồi, phải hỏi cho ra thôi.

Tiếng một ông bộ đội nào đó thật mơ hồ, dội đến.

Chẩn được kéo ngồi dậy, có thể họ đã dội nước cho Chẩn tỉnh dậy. Tiếng một ông bộ đội khác:

– Ai là đồng bọn ăn trộm với mày?

Quai hàm Chẩn cứng lại. Đầu óc tê dại. Chẩn không thể trả lời. Mấy ông bộ đội đổ về mỗi lúc một đông hơn. Một vòng người đằng đằng sát khí vây quanh Chẩn. Chẩn là con mồi cùng đường, đầy thương tích, đang giãy giụa giữa một bầy chó săn. Những móng vuốt, những răng chỉa nhọn đang diệu võ dương oai, sẵn sàng nuốt sống.

Chẩn lại ngất đi dưới những ngọn đòn thù.

Không biết bao lâu Chẩn mới tỉnh lại. Chẩn ngạc nhiên trước khả năng chịu đựng của cơ thể mình. Cha mẹ sinh ra, nuôi nấng, dưỡng dục, chỉ mong cho cơ thể con khỏe mạnh, nhưng trong lúc nầy tỉnh dậy càng sớm càng chịu thêm những ngọn đòn thù. Phải chi được hôn mê. Hôn mê và chẳng bao giờ tỉnh lại!

Con người khi đối diện với cái chết thường nghĩ tới gia đình. Chẩn cũng thế. Cái đầu tiên, Chẩn nghĩ đến mẹ. Mẹ đã một nắng ba sương, chứ không phải một nắng hai sương như ca dao, tục ngữ, đã mô tả về sự vất vả của một đời người bất hạnh. Mẹ Chẩn cũng như hàng trăm bà mẹ quê, tần tảo, nghèo nàn, tại miền Trung, cố nuôi con khôn lớn. Mẹ đã ra đồng từ tinh mơ, lúc sương sớm chưa kịp bủa vây. Những ruộng lúa, những vườn rau, công việc tất bật mẹ một mình gánh chịu. Bầy con mẹ, những bốn đứa đều còn thơ dại. Chồng bị giết chết trong một đêm hãi hùng năm 1965, khi mấy ổng tràn về! Từ đó mẹ yên lặng. Câm nín. Mẹ nhẫn nhục. Dạy con đèn sách, thiếp làm phụ thân! [2] Sương chiền tản mạn, khói lam chiều cô đơn, u uất, mẹ cũng miệt mài với công việc. Gắng chút nữa. Gắng thêm chút nữa trời đang mát dễ làm! Cứ như thế, mẹ tự nhủ. Và ngày tháng trôi đi. Khi sương đêm buông xuống, mẹ đành ngưng việc để trở về nhà. Lúc đó mẹ lại chăm sóc cho từng đứa con. Cho Chẩn.

Chẩn nhận ra quang cảnh chung quanh đã khác. Ông chín ngón nét mặt lạnh lùng, đang nhìn Chẩn và hai ba ông bộ đội nữa. Họ đang quan sát Chẩn. Ông chín ngón sai mở dây trói chân cho Chẩn và đưa Chẩn đến văn phòng làm việc. Chẩn khập khểnh từng bước.

Ông chín ngón và ông quản giáo Hương ngồi làm việc với mấy tờ giấy để trên bàn và cây đèn dầu có cái thông phong thật lớn. Chẩn được chỉ định ngồi trên ghế để dựa vào vách. Hai ông vệ binh đứng hai bên cửa ra vào.

Ông chín ngón đặt vấn đề:

– Anh thấy đấy, nếu không có sự hiện diện của chúng tôi kịp lúc thì anh đã chết rồi. Anh chết vì tội trạng anh đã rõ nhưng đó không phải là mục đích của cách mạng. Cách mạng bao giờ cũng khoan hồng và tha thứ, tạo điều kiện tốt để các anh làm lại cuộc đời. Bây giờ anh thật thà khai báo vẫn còn kịp. Có những ai trong toán của anh đã âm mưu đầu độc chúng tôi?

Chẩn bất ngờ trước câu hỏi. Chẩn nghĩ, có thể sau mấy lần ngất đi tỉnh lại nên nghe và hiểu không đúng với ý nghĩa câu hỏi của ông chín ngón. Chẩn yên lặng và vẫn gục đầu xuống. Ông chín ngón ôn tồn lặp lại câu hỏi. Thật kiên nhẫn. Lúc nầy Chẩn cố gắng ngẩng đầu lên. Thều thào:

– Tôi đói. Tôi ăn cắp thức ăn. Chỉ có vậy. Tôi hoàn toàn không biết gì về việc đầu độc cả!

Chẩn gục đầu trở xuống.

Ông chín ngón chậm rãi tiếp:

– Tôi biết rõ âm mưu đầu độc chúng tôi của các anh, nhưng các anh chưa kịp thực hiện thì bị phát giác. Cho nên các anh giả vờ đánh lạc hướng bằng cách ăn cắp thực phẩm, chứ chút thực phẩm có đáng gì để trị tội anh?

Rồi ông tiếp:

– Các anh có một âm mưu lớn là đầu độc toàn thể cán bộ, cướp vũ khí và trốn trại. Anh ăn năn, hối cải, nhận tội vẫn còn kịp.

Chẩn biết đây là đòn độc. Ông chín ngón dùng ngón đòn nầy để giết Chẩn và chạy tội cho chính ông. Vì ông đã làm ngơ để bộ đội hành hạ Chẩn đến thân tàn, ma dại. Trung đoàn có đọc bản báo cáo thì chắc chắn khen ông chín ngón đã kiềm hãm được nóng giận, không rút súng bắn vào Chẩn trước tội lỗi tày trời của Chẩn. Ông chín ngón sẽ được khen. Vừa mẫn cán trong công tác, vừa chấp hành chính sách Đảng!

Ông quản giáo Hương đọc biên bản và bảo Chẩn ký vào. Chẩn không ký và lặp lại:

– Tôi chỉ ăn cắp vì đói. Chỉ có thế thôi.

Yên lặng kéo dài. Sau cùng ông chín ngón bảo ông quản giáo Hương viết thêm dòng cuốiđối tượng vẫn ngoan cố không chấp nhận tội trạng dù đã được giải thích rõ ràng về sự khoan hồng của đường lối chính sách! Sau đó ông chín ngón nói lời cuối với Chẩn:

– Anh đừng lợi dụng tính nhân đạo của cách mạng mà ngoan cố. Không phải cách mạng không có biện pháp đâu.

Ông chín ngón đẩy ghế đứng lên. Ông ném một cái nhìn cho ông quản giáo Hương, rồi bước ra ngoài.

Đêm lạnh. Trời tối đen. Ông chín ngón châm điếu thuốc và rít một hơi dài. Ông vẫn nhớ tiếc ổ trứng gà của ông nhưng cơn giận của ông ít ra cũng giảm đi nhiều.

Đêm tăm tối, u uất. Bên trong căn phòng với ánh đèn mờ nhạt, vang lên từng tiếng thình thịch. Liên tiếp. Nhưng không nghe một tiếng người.

Buổi sáng ông quản giáo ra lệnh cho Nghiêm và Lân thu góp đồ cá nhân của Chẩn, đi theo ông đem ra cổng, vì Chẩn thuộc toán Nghiêm.

Nghiêm và Lân làm một cái cáng để khiêng Chẩn lên trung đoàn. Khi bước vào căn phòng, thấy Chẩn như một con vật đã chết, nhưng tay chân vẫn còn bị trói chặt. Nghiêm gọi:

– Chẩn…

– …..

– Chẩn. Nghiêm và Lân đây. Tụi tao sẽ khiêng mầy lên trung đoàn.

Như một đứa con liệt giường chợt nghe tiếng mẹ. Khuôn mặt dị dạng của Chẩn bắt đầu cử động. Mắt trái sưng húp. Tím bầm, không thấy được bên trong. Mắt phải đỏ màu máu. Môi trên sưng cao làm cái miệng bị méo đi. Từng mảng máu khô trên cằm. Trên râu. Vung vải trên áo. Cái quần ướt sũng và bốc mùi.

Nghiêm xin phép ông cán bộ để thay cho Chẩn cái quần khác. Ông cán bộ bỏ ra ngoài. Phải khó khăn và nhẹ tay Lân và Nghiêm mới làm được.

– Mày có nhắn gì lại cho gia đình thì suy nghĩ kỹ đi. Dọc đường đi đến trung đoàn mày cho tụi tao biết. Đây là bổn phận của những đứa còn sống sót trở về.

Dẫu đói lạnh, dẫu ốm đau, nhưng hàng ngày sáng sáng, chiều chiều cũng bị gậy ra vào cổng trại lao động với nhau. Sự thân quen trên từng lối đi về giờ đây sẽ là kỷ niệm. Ba chiếc bánh Chẩn trao cho bọn Nghiêm là sự tiếp máu cho nhau. Nhưng cái giá Chẩn phải trả một mình là mạng sống. Tình chiến hữu. Tình anh em. Tình tù. Bao nhiêu thứ tình xoáy quyện vào nhau, ràng buộc lấy nhau. Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ! Giờ một con đã ngã ngựa, nếu tìm được chút cỏ biết chia sớt cùng ai? Những mẩu chuyện trong ngày tháng tù chung lại hiện về. Chẩn còn độc thân vì bận chuyện hành quân khắp các vùng chiến thuật nên chưa kịp lấy vợ cho mẹ có cháu bồng, dù đó là ước ao của mẹ. Mẹ như cục than hồng luôn luôn làm ấm lòng và thêm nghị lực cho Chẩn trong những lúc khó khăn, cùng khốn.

Nghiêm khiêng phía sau nên nhìn Chẩn đầy xúc động. Mái tóc đen, tuổi chưa tới ba mươi của Chẩn, qua một đêm chịu đựng tra hỏi, hành hạ, không bạc trắng như mái tóc của Ngủ Viên [3] sau một đêm tìm kế thoát thân, nhưng cũng trở thành mái tóc bạc. Bánh xe thời gian chợt quay cuồng vội trong một đêm đen trước tuổi thanh niên của Chẩn.

Đến trung đoàn, khi chia tay Chẩn mới khò khè:

– Đừng kể chuyện này cho mẹ tao, vì sợ mẹ không chịu đựng nổi. Chỉ nói với mẹ là tao luôn luôn nghĩ đến mẹ. Mẹ là điểm tựa của tao trong giờ nguy khốn. Là hơi thở. Là từng nhịp tim của tao.

Chẩn ngưng lại giây lát. Rồi tiếp:

– Vĩnh biệt.

Khuôn mặt chai sạn và lì lợm của Lân chợt run lên:

– ĐM. Giá như tao khóc được!

[1] Đào hoa y cựu tiếu đông phong, thơ Thôi Hiệu, Tản Đà dịch

[2] Chinh phụ ngâm

[3] Ngủ Tử Tư, một nhân vật trong Đông Châu Liệt Quốc

KiwiTeTua
06-25-2015, 05:57 PM
10. Con Vật Thời Tiền Sử
Huỳnh, tuổi chưa đầy bốn mươi, ngồi làm việc trong yên lặng. Tóc anh rụng gần hết. Hai trũng mắt sâu hoắm. Đôi gò má tóp lại làm hàm răng rụng lỗ chỗ nhô ra. Anh ngồi yên trên một khúc gỗ mục. Hai đầu gối gấp lại giống như hai ống dang dập, kẹp lấy thân người. Đôi tay xương xẩu, cục cựa trong hai ống tay áo rộng thùng thình. Hai bàn tay anh ôm lấy con dao cùn, cố bằm cho nhuyễn đống lá ráy đặt trên một khúc cây làm thớt mà anh hái về. Công việc của anh là lo nuôi con heo, tài sản của trại tù. Hàng ngày anh vô ra nhà bếp để tìm chút thực phẩm rơi rớt, nấu với củ và lá ráy để nuôi heo. Cả cái bếp lớn nấu cho ba trăm người, anh cũng không thể nào tìm được chút thức ăn nào rơi rớt. Anh chỉ lọc được chút nước rửa của cái chảo nấu sắn lát có màu giống như màu nước bùn non, bốc mùi đến lợm giọng. Đem chút nước nầy về cái bếp riêng nơi chuồng heo, trộn chung với củ và lá ráy anh đã bằm, nấu lên thành cháo cho con heo. Anh không thể nào tìm được bất cứ một loại rau nào khác chung quanh trạiđể phụ thêm vào. Anh cũng không thể nào tìm được chút gì để cải thiện cho chính anh.

Buổi sáng gánh đôi thúng ra khỏi cổng trại, đi dọc theo bờ suối, thỉnh thoảng anh gặp vài chú nhái bén, nhưng chúng nhanh vô cùng. Chỉ thoáng thấy bóng anh thì anh đã nghe một tiếng “chũm” nho nhỏ là chú nhái bén đã lao mình xuống suối nước rồi. Lâu lâu, Huỳnh mới tóm được một chú cào cào. Nhưng cào cào cũng có hai loại. Một loại màu nâu, hung hung đỏ và một loại màu xanh lá cây. Tù đặt tên cào cào là tôm bay dù thật sự con cào cào cũng không giống gì mấy với con tôm. Bắt được con cào cào, ngắt khúc đít, từ từ nặn kéo bộ đồ lòng ra, rồi đưa lên lửa than. Đến khi đôi cánh mỏng của con cào cào vừa cháy xong thì gần nơi cổ nó có những tăm nước sôi lên là chín. Ngắt cái đầu quăng, bỏ vô miệng nhai. Dòn và thơm. Cào cào không có vị béo hay ngọt của thịt mà có vị tanh tanh, xốp xốp. Đấy là món tôm bay của tù.

Tháng trước, khi còn ở trại cũ, Bảy, người có thành tích ăn tôm bay, bỗng dưng bị dị ứng. Lần đó Bảy bắt được một chú tôm bay màu xanh thật lớn. Bảy cười nói và quảng cáo món tôm bay hết lòng. Vừa quảng cáo, cũng vừa tạo thêm can đảm cho chính mình. Nhiều người ở nương sắn, giờ giải lao hôm đó, đều thấy Bảy nhai rất ngon miệng. Nhưng bất ngờ, chỉ mười, mười lăm phút sau, da Bảy đang sưng sưng chì chì bỗng đỏ au rồi từng hạt mận lớn, cỡ đầu ngón tay út, thi nhau nổi lên khắp người. Đôi mắt đỏ ngầu. Bảy gãi đến muốn rách cả da, rồi ói mữa. Đội trưởng phải báo cáo đặc biệt với quản giáo, xin cho Bảy về vì bệnh bất ngờ, giấu không cho biết sự thật, để Bảy khỏi bị viết kiểm điểm. Tù biết chuyện đó, nhưng không rõ tại con cào cào xanh hay lý do nào khác. Tù bắt đầu sợ sợ con cào cào. Nhưng cơn đói làm mờ cả mắt nên có tù vẫn ao ước món tôm bay! Con cào cào đỏ. Chút protein!

Mủ ráy rất ngứa. Củ ráy lại càng ngứa hơn. Huỳnh cẩn thận từng chút nhưng cũng không thể nào thoát được ngứa. Đó là lý do da tay anh lúc nào cũng sần sùi. Đôi lúc ngứa quá, anh dìm hai cánh tay xuống dòng suối đang chảy sát chuồng heo. Nước suối mùa này rất lạnh, giúp cho đôi cánh tay anh dịu bớt cơn ngứa. Huỳnh rất cần mẫn trong công việc vì đây là công việc tốt nhất trong trại tù. Anh được phép ra vô nhà bếp mà không ai có quyền báo cáo anh. Anh có thể tự mình xin phép cán bộ gác cổng, ra trại để tìm rau cho heo. Anh lại có cái bếp riêng tại chuồng để nấu cháo cho heo. Được làm chủ cái bếp riêng là một quyền lợi vô cùng to lớn vì tất cả những thứ gì quơ quào được bên ngoài, anh có thể lén lút nấu cải thiện và không mấy ai để ý. Nhưng sự cố gắng của Huỳnh cũng không làm thay đổi được hoàn cảnh. Nước lã không thể khuấy nên hồ! Cả người chăn lẫn heo vẫn mỗi ngày một tiều tụy. Heo phải ăn ráy nên miệng sưng vù và lở lói. Giống heo của người miền núi nầy lại có cái mõm dài khuằm, đoạn trong giống cái vòi con voi, đoạn ngoài lại giống cái mõm con cá sấu con, bè ra làm lộ cả hàm răng. Đầu heo to hẳn, gấp đôi cả thân hình, đặc biệt cái trán nó giống hệt như cái trán con voi già, da căng và gồ hẳn lên. Đôi mắt heo nhỏ, ẩn trong hai hốc mắt u tối, sâu hoắm. Hai chân trước con heo như cao hơn chân sau, đang chống đỡ sức nặng của cái đầu và nửa thân hình phía trước. Hai chân sau cong và thấp xuống sau cái bụng lép xẹp. Xương sườn lộ rõ từng cái một, được bọc trong lớp da sần sùi lông, mốc thếch. Con heo bước đi lọm khọm, xiêu vẹo, rất dị dạng. Thoạt nhìn con heo giống như chú voi già được thu nhỏ cả ngàn lần. Chỉ có hai cái tai là khác, vẫn còn đứng và nhọn. Con heo không còn là con heo. Con heo như con vật thời tiền sử nào đó còn sót lại mà loài người chưa phát hiện nên chưa có tên gọi. Cả tiếng kêu của con heo cũng không còn nghe ụt ịt hay eng éc khi đòi ăn. Con heo yếu đến độ không còn sức để kêu tiếng kêu bình thường của nó. Những ngày đầu, tiếng kêu còn nghe eng éc, khàn khàn, rồi mỗi ngày một yếu đi. Những ngày cuối chỉ còn lại tiếng rên. Đêm thanh vắng cả trại đều nghe tiếng rên của con heo rất rõ. Đó là tiếng rên rĩ khàn đục. Đó là thứ tiếng trẻ sơ sinh bị bệnh nặng, khóc đêm. Nghe khằn khặc, đứt quảng, ba hồi im ắng, ba hồi lại nổi lên. Khi tiếng rên của con heo hòa lẫn với tiếng kêu ú ớ trong cơn ác mộng của những tù đói là một hợp âm kỳ quặc như từ mộ địa.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Con Vật_1435254903.jpg


Buổi chiều cuối cùng, Huỳnh cố gắng đỡ con heo đứng dậy, anh đưa đồ ăn sát mõm nó nhưng cái mõm nó không còn kêu hích hích như thường ngày được nữa, nó đang đi vào tình trạng hôn mê. Huỳnh nói một mình:

– Mày đi trước, rồi cũng đến phiên tao thôi.

Thấy tình trạng nguy ngập của con heo, Huỳnh áo cáo lên hậu cần. Cán bộ xuống quan sát rồi báo cáo lên thủ trưởng. Đêm đó chuồng heo bỗng im ắng lạ lùng. Cả trại không còn nghe tiếng rên rĩ của con heo nữa nên tờ mờ sáng vừa thức dậy, Huỳnh vội vàng ra thăm. Con heo đã nằm bất động. Một dòng máu rĩ ra nơi hốc mắt. Hình như là chuột rừng hoặc một con vật nào đó tấn công để lại nhiều dấu răng nhọn và con heo bị mất một con mắt. Bầy kiến đen đặc đang lấp vào hốc mắt trống ấy nhưng con heo vẫn chưa chết, da còn ấm. Tám giờ sáng cán bộ hậu cần lại vô quan sát thêm lần nữa trước khi quyết định, vì đây là tài sản của cả trại tù dành để làm thịt trong các lễ hội. Cuối cùng ông cũng phải ra lệnh làm thịt.

Nếu con heo bị bệnh, bỏ ăn và chết, hẳn không gây xúc động nhiều. Nhưng con heo nầy đang khỏe mạnh đã phải chống chọi dai dẳng với cái đói gần cả hai tháng dài để cuối cùng bị con vật khác tấn công mang đầy thương tích nằm chờ chết, đã làm cả trại bàng hoàng.

Toán nhà bếp vì không thể chia da, thịt, xương của con heo sắp chết cho ba trăm người, nên bằm vụn rồi cho vào chảo nấu canh, chia cho cả trại.

Tù cũng đói bơ phờ, vàng mắt, nhưng có tù không thể ăn chút canh nầy nên gạ gẫm tù khác với giá rẻ, một bi thuốc lào!

Cái quyết định tưởng rất đơn giản đến khôi hài nhưng cũng là một tiếng nói của lương tâm, là thà nhịn ăn để ém chút khói thuốc vào phổi cho ngất ngưỡng, mà nhẹ nhõm hơn trong tâm hồn.

KiwiTeTua
07-04-2015, 07:21 AM
11. Ông Lái Đò Làng Cỗ Phúc

Trời mùa Đông, ngày ngắn đêm dài nên đêm ở rừng xuống khá mau. Tù không có đồng hồ (vì cái gì có thể gọi là tư trang, kể cả cái cắt móng tay, dao cạo râu… đều phải nộp cho trại cất giữ) nên đời tù sống theo tiếng kẻng. Kẻng báo thức. Kẻng lao động. Kẻng trưa. Kẻng chiều. Kẻng tối học tập, phê bình. Kẻng điểm danh trước khi đi ngủ. Khi nghe ba tiếng kẻng sau cùng trong ngày, vô chuồng, thì đêm như đã vào khuya.

Đêm nay, Nghiêm thấy khó ngủ. Cái bụng lép kẹp, cồn cào, xay xát về đêm gây khó ngủ là chuyện bình thường nhưng chiều nay Khoa và Nghiêm đã có tăng cường thêm được một gô măng luộc ở ngoài rừng mà sao vẫn không ngủ được, hay là bị măng hành? Tiểu tổ hái măng không có vệ binh theo giữ nên trại ấn định chỉ tiêu và khu vực để vào đó đi tìm măng bẻ đem về. Sáng nay Khoa đem theo một cái gô, ngụy trang đựng nước uống, nhưng dùng để luộc măng. Nghiêm thì lo chỉ tiêu cho cả hai. Công việc nào cũng khó khăn. Phải lo chỉ tiêu cho cả hai người, không dễ, đã hẵng rồi, nhưng chuyện Khoa tìm cách đốt lửa luộc măng cũng không đơn giản chút nào! Củi vì mưa và sương đêm nên bị ẩm ướt, rất khó nhóm lửa. Phải thổi ù cả tai may đâu lửa mới bén. Khi lửa cháy thì phải lo quạt khói cho tan mỏng ra kẻo bị lộ mục tiêu mà củi càng ướt, khói càng nhiều. Tù thì không có quyền dùng lửa hộp quẹt. Tù nào giấu giữ hộp quẹt là có âm mưu trốn trại! Có vô số lý do để quy kết cho cái tội tày trời nầy. Chiều nay trước khi về trại, Khoa và Nghiêm chia nhau ăn gô măng lạt vì không có muối. Măng luộc không muối, nếu nhai kĩ sẽ bị ngấy đến tận cổ họng, không thể nào nuốt, cho nên chỉ nhai dập dập, lấy lệ, rồi ráng nuốt. Nửa gô măng nầy đêm nay lại hành hạ cái bao tử một cách khác, làm Nghiêm không ngủ được, cứ muốn ói ra. Nghiêm trở dậy, lần ra đầu hồi. Một bóng đen khác đã thu lu ở đó rồi. Nghiêm giật mình, cứ tưởng là cán bộ vô rình! Thì ra là Khoa. Khoa hỏi nhỏ:

– Măng hành?
– Tao nghĩ vậy.
– Có thể bụi măng mọc ngay gò mối hoặc ổ kiến.
– Ai nói với mầy là măng mọc ngay gò mối hay ổ kiến thì bị nhiễm độc?
– Tao đoán.
– Kim Dung cho các cao thủ võ lâm ăn nhiều độc vật nên có công lực thâm hậu mà!
– Vậy thì tao và mầy ráng chịu qua đêm, ngày mai mình sẽ có nội công thâm hậu.
– Mày vẫn còn đùa được, chưa sao!
– Ráng giữ, đừng cho ói. Ói là chén khoai mì buổi tối trào ra luôn.

Đêm lạnh. Tiếng chim lạ bỗng kêu trong đêm. Lẻ loi.Khoa nói:

– Ráng vô ngủ, kẻo ăng tên báo cáo tụi mình bàn chuyện trốn trại.

Khoa và Nghiêm lò mò trở về chỗ ngủ.

Vừa chợp mắt thì Nghiêm giật mình thức giấc. Ánh đèn pin quét những tia sáng vào một số mùng ngủ. Việc nầy khá lạ, rất ít khi xảy ra. Ánh đèn pin soi khá kĩ nơi mùng Hải, bên cạnh Nghiêm, rồi đến một cái mùng khác ở khoảng gần giữa lán. Không một lời nói. Chắc chắn có nhiều tù thức giấc nhưng nhắm mắt giả vờ như say ngủ. Rồi ánh đèn pin mất hút.
Sáng đi lao động ngoài rừng, Khoa nói:

– Đêm qua họ vào kiểm soát thật kĩ mùng thằng Hải và thằng Chân.
– Chắc họ nghi hai đứa trốn trại.
– Hai đứa nó trốn hụt một lần ở trong Nam. Tao ở chung trại.
– Chắc họ đọc hồ sơ nên theo dõi kĩ?
– Cũng có thể là do ăng tên.
– Biết đâu họ nghe tiếng chim rừng kêu giống như báo động vì có người hay thú đi đến gần, lúc mầy và tao còn ở ngoài đầu hồi?

Nghiêm tiếp:
– Cái hộp quẹt của mầy phải giấu cho thật cẩn thận nếu họ phát hiện là bầm mình.
– Tao biết, nên không giấu trong người đâu. May lắm thì dùng thêm được một tháng nữa là cùng. Khô dầu là phải quăng thôi.
– Lúc đó gạ đổi cho dân địa phương. Zippo mà!
– Mày có lý. Để xem sao.
– Nhưng cũng thật nguy hiểm vì cán bộ trại hầu hết là người địa phương, vừa rành thổ nhưỡng, vừa có gia đình, dòng họ, anh em. Họ tự động quản lý tù vòng bên ngoài, vì tù sổng, cán bộ trại là thân nhân của họ sẽ bị khiển trách!

Buổi tối, tập trung điểm danh sớm hơn thường lệ. Ông cán bộ quản giáo phụ trách lán, dạy dỗ tù kĩ hơn:
– Đảng cho các anh ra đây nà để học hỏi nếp sống văn minh, nành mạnh. Đêm qua tôi và một một số các đồng chí nán khác vào kiểm tra đột xuất thì thấy một số các anh chưa chấp hành tốt đường nối chính sách. Cụ thể nán ta có anh Nguyễn Văn Hải, ngủ gì mà anh để tồng ngồng ra như vậy! Cái đẹp của người Việt ta nà kín đáo, không như văn hóa đồi trụy Mỹ-Ngụy đầu độc ở miền Nam.

Bây giờ thì cả lán mới biết Hải ở truồng ngủ nhưng không ai dám cười! Vấn đề nầy không biết ai là người có văn hóa, văn minh? Người ngủ hay người rọi đèn pin vô mùng?

Tản hàng, Hải tâm sự riêng:
– Tao biết, họ kín đáo kiểm tra quần áo, chỗ ngủ của tao nhiều lần để canh chừng việc trốn trại, nên lần nầy vừa thấy ánh đèn pin bên ngoài, ráng chịu lạnh một chút, tao tuột quần xuống bày nguyên con, nhắm mắt nằm im cho họ ngắm thỏa thích! Chỉ tiếc là không có cán bộ gái!

***

Không có bản đồ nên không biết làng Cỗ Phúc nằm ở nơi nào trong khu vực nông trường trà Trần Phú, huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn, chỉ biết là làng Cỗ Phúc cách nơi trại tù số 5 khoảng ba tiếng đồng hồ đi bộ. Làng nằm bên kia một dòng sông lớn (có thể là sông Hồng hoặc một nhánh của sông Hồng) nước chảy xiết về xuôi. Trời mùa đông. Lạnh. Gió heo may. Đám tù rách rưới, bị gậy như đám hành khất Cái Bang trong truyện võ hiệp của Kim Dung! Có khác chăng là Cái Bang của Kim Dung thì võ nghệ cùng mình và tự chọn một lối sống không bị ràng buộc trước những thế lực thống trị, còn đám tù cải tạo là một loại động-vật-mới của chế độ mà họ không dám minh bạch cho thế giới biết một tên gọi rõ ràng!

Như vừa trải qua những trận chưởng kinh thiên động địa trong hắc bạch giang hồ, đám tù Cái Bang tơi tả, thoát ra đến bìa rừng, thì bắt gặp một phong cảnh thật êm đềm, hoang vắng. Một dòng sông lớn trước mặt! Đường dẫn đến bến sông bên dưới ngoằn ngoèo như ruột dê với lau lách đìu hiu. Bầu trời mùa đông thật ảm đạm. Một chiếc thuyền nhỏ từ phía bên kia sông nhấp nhô, đang băng qua lượn sóng về phía bên nầy. Con thuyền nhỏ tròng trành như chiếc lá đang trôi giữa dòng, thật mong manh. Ông lái đò ngồi chèo với một cây dầm nhỏ, khuấy nước, rồi kẹp theo mạn thuyền giữ tay lái, khác hẳn với hình ảnh thật đẹp của cô lái đò đứng đàng sau ghe, lấy chân điều khiển bánh lái, hai tay giữ hai mái chèo hai bên, nhún nhảy, nhịp nhàng cho con thuyền rẽ sóng ở miền Nam. Phải chờ khá lâu đám tù Cái Bang mới từ từ nhận ra được chiếc nón lá cời, bộ đồ nâu bạc phết và khuôn mặt cháy nắng, teo tóp nhăn nheo như hột xí muội của ông lái đò. Hình ảnh ông lái đò trong một bài thơ nổi tiếng được nhiều người ngâm tao đàn ngày xưa đang ở ngay trước mặt. Ông lái đò trong bài thơ có cái bi tráng tiễn người đi chiến chinh. Ông lái đò trước mặt thì đưa khách qua lại sang sông, ở một vùng quê hoang dã, quạnh vắng.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/onglaido_1436010720.jpg


Thuyền nan nhỏ, mỗi chuyến đò ngang chỉ có thể chở được bốn đến năm người nên cả đội tù Cái Bang là khách ngoại lệ. Ông quản giáo ra lệnh và chọn một nhóm tù trẻ, khỏe để sang sông, còn tất cả chờ đợi ở bên nầy. Ai không biết bơi thì đổi người khác. Bên kia sông có tre làng, có những thân cau cao vút vươn trên nền trời xám lẻ loi. Làng vắng vẻ, không thấy bóng người. Tĩnh mịch của vùng quê thật gợi nhớ. Tuổi học trò của Nghiêm cũng gắn bó với đò ngang. Quê nghèo được bao bọc bằng những dòng sông. Mỗi lần muốn ra phố đều phải qua đò ngang. Mỗi bến nước, một con đò. Đò Giữa, đò Dọc, đò Điện Bình, đò Hoa Trà, đò An Trường, đò Kẻ Thá, đò Hà Mật… Bao nhiêu bến đò ngang là bấy nhiêu kỷ niệm. Mùa mưa phùn gió bấc, gió chướng, thì mọi người ru rú trong cái tơi bằng lá hoặc chiếc áo mưa. Nam sinh quần xắn đến gối, dép móc trên ghi đông xe đạp gọn gàng nhưng nữ sinh thì áo dài vướng víu, dễ bị bùn dơ. Làm sao giữ chiếc cặp sách vở cho khỏi ướt, phải che chắn làm sao khi phải xắn quần đến gối khoe cặp bắp chân nõn nà. Quần áo dài trắng mà bị ướt, vải dính vào da thì da thịt như khỏa thân trước những cặp mắt hau háu của bọn con trai. Mùa hè đùa giỡn, nghịch nhau với làn nước hai bên mạn thuyền, đầy ắp tiếng tru tréo, cười đùa. Giọng con trai vỡ tiếng, giọng con gái trong vắt. Người lớn thường mắng mỏ, càu nhàu đám nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò! Tuy là quê nghèo nhưng một chuyến đò ngang cũng lớn, chở được mười mấy người. Quê nghèo đó đã hơn mấy mươi năm không gặp lại. Mấy mươi năm người khách qua đò ngày xưa bị nổi trôi theo dòng đời, đã quên hẳn bến sông! Nghiêm lặng người với kỷ niệm.

Bố Thục cũng có vẻ thẫn thờ. Ông vuốt chòm râu dài, lốm đốm sợi bạc. Chòm râu mà ông đã bị hạch sách đủ điều chỉ vì một lý do vô cùng đơn giản mà không ai giải quyết được. Lệnh của trại thì cấm để râu, tóc nhưng dao cạo râu thì bị tịch thu. Quản giáo bắt ông cạo râu. Ông nói không có dao. Quản giáo bảo hỏi tù văn hóa phụ trách hớt tóc. Tù văn hóa hớt tóc trả lời chỉ có một tông đơ cùn phải hớt cho 300 người. Chuyện râu cứ thế lòng vòng. Cuối cùng thì râu bố Thục cứ dài ra cho ông vuốt. Ông thấy mình già như ông già Cái Bang vuốt râu. Quê bố Thục ở ngoài nầy, bố di cư vô Nam năm 1954. Tuổi thanh niên của bố may mắn còn hưởng được chút tự do, tuổi già của lại phải quay trở về quê hương. Hành trình về cõi chết. Bố tâm sự:

– Tôi thì lá rụng về cội, cũng được đi! Nhưng mấy cậu thì… giải thích làm sao đây?

Ông lái đò cũng có chòm râu bắp. Loài dán dùng râu để nói chuyện, ông lái đò và bố Thục nhìn râu để hiểu ra nhau. Một ông đang sống trên sóng nước, nắng mưa. Một ông đang tù đày, khổ ải.

Ông quản giáo đi theo toán sang sông để vào làng mua bắp cải. Tù Cái Bang còn lại tìm chỗ nghỉ chân, chờ đợi. Ông vệ binh chiếm một gốc cây có vị thế tốt để quan sát, gà gật tựa lưng, còn tù Cái Bang thì tản mát, ngồi nhìn cây cỏ đìu hiu.
Qua hai chuyến để chở hết toán tù sang bên kia sông không ai hiểu tại sao ông lái đò không ở lại nơi cái chòi lá đơn sơ của ông bên đó để chờ toán mua bắp cải quay về,ông có thể tiết kiệm được sức lực khi phải chèo qua dòng sông rộng? Ông lại chèo ghe trống sang sông. Vào bến, cắm thuyền, ông lên bờ. Dáng ông còm cõi, lưng còng, bộ đồ nâu bạc phết. Áo ông dày cộm và vá chùm đụp. Cái quần dài xắn ngang gối khoe đôi ống chân đen đủi, khẳng khiu như hai thanh củi, đôi chân trần không có dép. Đến ông vệ binh, nói mấy câu mồi điếu thuốc vấn, rồi ông ra phía sau gốc cây đi thẳng vào lùm bụi . Ông có việc sinh lý cá nhân! Ông chậm rãi trở ra, có vẻ khoan khoái nhìn bố Thục, rồi ngoái đầu vào lùm cây, ông nói thật nhỏ chỉ vừa đủ nghe:

– Đừng cho nó thấy, xuất trưa của tôi để ở trong đó. Ông vào ăn cho khéo, tôi cảnh giác cho.

Ông lái đò trở lại gốc cây. Ngồi hút thuốc và nói chuyện với ông vệ binh để câu giờ.

***

Sau bữa sắn cơm tối, bố Thục kéo một hơi thuốc lào dài, ếm khói. Bố về chỗ nằm, vắt tay lên trán. Không nằm được bố lại trở dậy, ra ngoài đầu hồi, nhìn mông vô rừng. Bóng tối nhòe nhoẹt. Hải tắm dưới suối lên, ngừng lại chỗ bố, gợi chuyện:
– Đường xa quá, nên mệt hả bố?
– Oải chứ, nhưng ông lái đò cứ làm tôi nghĩ quẩn.

Hải yên lặng, bố tiếp:
– Ông dấm dúi cho tôi khẩu phần của ông. Chỉ cơm độn với dưa muối thôi. Tôi ăn nhưng xót lắm! Nghĩ đến hoàn cảnh của mình và tình thương lớn của ông.

***

Câu chuyện được kín đáo truyền miệng trong một số tù thân thiết nhau là mỗi đợt tù đi ngang qua bến sông, ông lái đò đều âm thầm quan sát tù nào già yếu nhất, để tìm cách dấm dúi một phần cơm.

Dũng biết ngày mai lán của Hải đi mua bắp cải. Tìm gặp Hải, Dũng giãi bày tâm sự:

– Cũng như bố Thục mấy tuần trước, tao đã nhận được một phần cơm của ông lái đò. Tao không biết lấy gì để bày tỏ cho ông lão biết tụi mình mang ơn ông về chuyện nầy! Ông lão thì già yếu quá, tao cũng muốn ông chống chỏi với cái lạnh khắc nghiệt trên sông nước, kéo dài mạng sống thêm chút nữa để thỉnh thoảng giúp đỡ bọn mình. Tao chỉ có mỗi cái áo lạnh đang mặc trên người, là của vợ tao đưa khi thăm nuôi ở trong Nam. Tao biết sẽ không còn dịp đi đến làng Cỗ Phúc lần thứ hai nên phải nhờ mầy. Mầy tìm cách theo toán qua bên kia đò, rồi quăng chiếc áo nầy vô túp lều nhỏ của ông lão nơi bến sông. Chắc chắn ông cũng không biết ai đã biếu ông chiếc áo ấm nầy, cũng như ông sẽ không bao giờ biết tên những người ông đã dấm dúi phần cơm, nhưng chắc ông hiểu được lòng biết ơn, tình nghĩa của tù miền Nam! Trái tim nhân hậu của ông sẽ kể cho con cháu ông, là những chứng nhân thầm lặng của cuộc đổi đời. Đường tù con dài, đói lạnh còn nhiều, nhưng nếu không làm được điều nầy thì lương tâm tao không thể nào yên được. Vợ tao sẽ tha thứ cho tao lý do bị mất cái áo.

Dũng vừa nói xong, để lại cái áo, rồi đứng dậy quay về lại lán ngay như sợ Hải không nhận lời. Hải một mình, trầm ngâm, rồi lấy khoát vào người.

Đây là một vật chứng tự nguyện trao đổi, nó thật nhỏ nhoi trong đời sống hàng ngày nhưng vô cùng quan trọng trên bước đường tù vô định của một tù đói! Một dấu ấn đậm nét trong nhau của những kẻ khốn cùng, của những con người mà Đảng muốn họ hận thù nhau!

***

Hai tuần nữa đến Tết, lán 8 được lệnh cho nghỉ làm buổi chiều, chuẩn bị cơm nước sớm để đi lao động ban đêm, khiêng mấy tạ nếp đi xay tại nhà máy của một nông trường trà. Không thể dùng quang gánh khiêng vì đường ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, lại đi ban đêm, chắc chắn sẽ vấp té và tai nạn. Không ai quan tâm đến thương tật của tù nhưng họ lo nếp sẽ bị đổ làm thiệt hại kinh tế. Do đó họ hướng dẫn tù dùng túi đựng quần áo cá nhân hoặc dùng quần dài cột chặt hai ống chânđể đổ nếp vào rồi cột lưng lại. Cái quần dài sẽ biến thành hình chữ U, vác trên hai vai vòng qua cổ. Vác theo cách nầy dễ chịu hơn là đeo ba lô, khi đi phải khom người về phía trước để cân bằng cơ thể. Nhưng đường xa, hai ống chân đầy thóc sẽ ép hai bên ngực gây khó thở.

Nhà máy xay nông trường có lẽ làm việc 24/24. Tù vác lúa nếp đến nơi khá khuya, nhưng nhà máy vẫn đông người. Đổ thóc chung vào những cái thúng đan bằng tre khá lớn rồi tù tản ra khắp nơi. Đây là lần đầu tiên tù có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với sinh hoạt của công nhân nông trường. Tiếng gọi là nhà máy, nghe thật quan trọng nhưng vô cùng thô sơ, từ trang thiết bị đến cách tổ chức thật nghèo nàn. Mấy bóng đèn điện tù mù không đủ sáng, bụi cám, thóc, bay mù trong không khí. Công nhân lam lũ, mệt nhọc, không thấy được chút sinh khí hay nụ cười. Những bài hát đầy xung động, những nụ cười rạng rỡ, những ánh mắt ngời sáng tương lai của công nhân trên những bích chương và phim ảnh thật mỉa mai với thực tế ở đây! Hải, Nghiêm ra bên ngoài dù lạnh, đểdễ thở hơn. Một chị đi ngang qua, Hải hỏi xin nước uống. Trong bóng tối không nhìn rõ mặt, chị hỏi:

– Các anh ở trại nào? Đợi đây. Cẩn thận, chúng quan sát đấy!

Chị hỏi, không đợi câu trả lời, rồi bỏ đi rất nhanh.

Hải nói:
– Có ý tốt. Không xấu.

Nghiêm:
– Có thể. Chờ xem.

Hải, Nghiêm còn dò dẫm, nghi ngờ. Những bài học chính trị tù được biết là người dân miền Bắc rất căm thù Mỹ-Ngụy miền Nam mà!

Một lúc sau, một anh công nhân đi đến gần, nói nhỏ, rồi cũng bỏ đi ngay:
– Hai anh lại đằng ấy, vợ tôi đã để nước và hai xuất cơm tối của chúng tôi, gói trong lá chuối. Các anh cẩn thận đấy!

Anh không đợi nghe lời cám ơn, rồi mất hút.

Những con người xa lạ, lại nhịn cả phần ăn tối để cho tù trong một trạng thái căn thẳng tự nó nói lên rất nhiều điều!

***

Hình như những bài học tù đã bị nhồi nhét từ Nam ra Bắc có cái gì đó ở phía đàng sau!

Một buổi chiều khi lán 7 trên đường đi lao động về, vừa lội qua dòng suối cạn, đến khúc quành có gờ đất dựng đứng do xe ủi làm đường bên dưới tạo nên, thì bị phục kích. Đá, sỏi từ trên đồi quăng xuống như mưa. Đường độc đạo không lối thoát nên tù chỉ còn cách lấy hai tay che đầu, chạy thoát về phía trước và la lớn báo động cho nhau. Những viên đá lớn nhỏ, đủ loại quăng xuống và tiếng đám con nít léo nhéo bên trên rượt theo đám tù. Hai ông vệ binh đứng lại nơi suối, nhìn và vỗ tay cười lớn. Một số tù bị u đầu, trầy trán, trầy tay nhưng thương tích không nặng.

Buổi tối, ông quản giáo vào sinh hoạt đặc biệt. Ông giải thích:

– Các anh nà tội đồ của dân tộc, theo Mỹ-Ngụy giết hại nhân dân, nên cách mạng đưa các anh đến vùng đất hẻo nánh nầy nà để bảo vệ mạng sống cho các anh. Dù chúng tôi đã giải thích với các em về chính sách khoan hồng của Đảng và nhà nước dành cho các anh, nhưng rất tiếc nà các em ở đây cũng ném đá các anh để trả thù việc các anh đã giết cha, chú, thân nhân của các em. Do đó, từ nay các anh không được đi riêng nẻ vì có thể bị giết chết bất cứ ở nơi nào. Các anh phải đi chung, về chung để được chúng tôi bảo vệ. Trẻ em vô tư mà còn căm thù, huống chi nà người nhớn! Trẻ em thì chỉ có đá sỏi vớ vẩn nhưng người nhớn thì có dao rựa, vũ khí trên tay… Hàng rào nứa quanh trại chỉ nà tượng trưng nhưng hàng rào nhân dân mới quan trọng. Chiều nay các anh học được bài học nhỏ để thấy hết mọi nguy hiểm của bản thân.

Ông quản giáo lý luận thật hùng hồn. Ông quên là ông đang nói chuyện với đám tù chứ không phải ông đang dàn dựng cho đám trẻ con. Ông lú lẩn. Sự dối trá đã trở thành đạo lý trong ngôn ngữ hàng ngày của ông. Đạo lý của chủ nghĩa của ông.
Một ngày nào đó ông mới có được kinh nghiệm của ông lái đò, của anh chị công nhân nhà máy xay ở nông trường trà Trần Phú. Ông sẽ kinh nghiệm được những kẻ trọn đời nghèo khó và chịu đựng. Những kẻ bị Đảng nhân danh!

Bi kịch là chính ông. Đảng nhân danh ông và ông cũng nhân danh Đảng!

Trong tận cùng của khổ đau và chịu đựng, trái tim nhân ái đã lớn dậy. Sự dối trá, gian ác và bạo ngược là những lớp phân lá mục phủ lên trên, và âm thầm ở bên dưới, hạt giống của những ông lái đò, anh chị công nhân nông trường sẽ nẩy mầm!

(còn tiếp)

KiwiTeTua
07-08-2015, 11:31 PM
12. Giá Của Tự Do

Nghi phân vân quá. Phải chọn lựa một con đường. Nên tiếp tục nín thở qua sông như tình trạng nầy hay lại phải sắp xếp một chuyến vượt thoát. Sự chia tay Chẩn trong đau đớn là một dấu ấn trong đời. Là một thúc đẩy phải tìm sự sống. Phải có quyết định dứt khoát trong những ngày tới, không thể lần lữa. Có nên gợi ý với Tố Nga hay không? Là một câu hỏi quan trọng. Phải tìm câu trả lời.

Buổi tối Nghi gặp Nghiêm ở ngoài sân như tình cờ, nhưng cả hai đã hẹn trước để tránh tình trạng theo dõi của ăng tên. Nghi, Nghiêm và Chẩn đã có ý định trốn trại từ lâu nhưng mọi việc chuẩn bị chưa kịp thì bị chuyển trại liên tục. Do đó khi về trại nầy Nghi và Nghiêm ít nói chuyện với nhau để đánh lạc hướng ăng tên. Cuộc tình của Nghi và Tố Nga, toán cưa xẻ đều biết nhưng chi tiết thì chỉ có Nghiêm.
Nghi lên tiếng trước:

– Mày tính sao? Ở thì cũng chết và đi thì cũng chết. Tỉ lệ đi thoát thì gần như không có.
– Phần mày có tin được Tố Nga không?
– Tao tin, nhưng sợ cái vụng dại của đàn bà làm hỏng chuyện mà thôi.
– Mày yêu thật?
– Thân tàn ma dại như thế nầy mà nó yêu tao tha thiết, nên tao nghĩ là thật.
– Cuộc tình rồi sẽ đi về đâu?
– Chắc khó có câu trả lời.
– Nếu sắp xếp chu đáo thì phải có Tố Nga nhập cuộc, tao nghĩ vậy.
– Bây giờ còn chút sức khỏe nên có người bên ngoài hổ trợ thì hy vọng sẽ có tỉ lệ thành công cao hơn. Tao cũng nghĩ vậy.
– Mày thử gợi ý với Tố Nga, còn tao sẽ gợi ý với Lân, nó thế Chẩn.
– Phải thực hiện càng sớm càng tốt kẻo lại chuyển trại thì mọi việc phải trở lại từ đầu.

Nghiêm không ngủ được. Bao nhiêu câu hỏi cứ tràn về. Nghĩ đến chuyện trốn trại thì cùng lúc phải nghĩ đến cả trăm vấn đề có thể xảy ra. Nếu vượt thoát thì sẽ phải qua hướng Trung Quốc vì thời điểm nầy về chính trị rất thuận lợi. Hoàng Văn Hoan, Chủ tịch Quốc hội Cộng sản Việt Nam đã đào thoát sang Trung Quốc như vậy thì không lo đến việc bị giao trả trở về. Không khí chính trị đang căng thẳng giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam ngày một rõ ràng hơn. Mới hai năm trước, khi còn ở trong miền Nam, những bài báo trên tờ Nhân Dân và Sài Gòn Giải phóng thường được đọc tại lán, trong giờ nghe đọc báo trước khi đi ngủ, bao giờ cũng ra rả tình hữu nghị Việt Trung môi hở răng lạnh [1] Một điều đồng chí Mao Trạch Đông kính mến, hai điều đồng chí Châu Ân Lai, rồi sau đó là đồng chí Hoa Quốc Phong… nhưng với lịch sử thì chỉ như một cái chớp mắt, bây giờ lại là bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh, bọn Sô vanh nước lớn…

Tình nghĩa thầy trò từ môi hở răng lạnh đến sớm đầu tối đánh giữa hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam đã nói lên tính cách bất lương của chế độ vì chỉ có bọn bất lương mới thay đổi thái độ và ngôn ngữ xoành xoạch như sự sấp ngửa của một bàn tay.

Nếu đến được Trung Quốc trong giai đoạn nầy thì rất nhiều hy vọng sẽ có cơ hội được sang các nước tự do. Đấy là giấc mơ! Nhưng từ đây đến biên giới Trung Quốc bao xa, không biết địa hình, trong tay lại không có chút thực phẩm, thuốc men và núi rừng trùng điệp không thể định hướng, liệu có thoát được hay không? Chỉ mấy tháng trước đây khi vừa ra đất Bắc ở trại 5 thuộc nông trường trà Trần Phú đã có hai cuộc trốn trại bất thành.



http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Giá Của Tự Do_1436400216.jpg


Cuộc trốn trại thứ nhất do hai anh Lê Duyên Ngẩu và Hoàng Thao, thực hiện ba tuần sau khi đến Hoàng Liên Sơn.
Ngày hôm trước, anh Thao được biểu dương về lao động tốt trước trại, tối hôm sau hai anh trốn. Hơn hai mươi ngày biền biệt tưởng đã thành công, nhưng hai anh Thao, Ngẩu bị lạc hướng trong núi sâu và cạn cả thực phẩm đành men ra rẫy ăn cắp sắn. Anh Thao, người Nùng, bị giết chết tại đó. Anh Ngẩu bị đánh tả tơi, bầm dập rồi bị dân quân giao nộp về lại trung đoàn. Khi toán rau xanh cử người đi khiêng về, anh Ngẩu chỉ còn như một xác chết. Thương tích đầy người. Râu tóc dài. Cơ thể mỏng như phiến lá dính vào chiếc cáng không thể nhận ra. Anh bị biệt giam, cùm riêng nơi phòng kỷ luật. Hôm sau khi cán bộ từ trung đoàn xuống làm việc, anh được mở xích cả tay chân, nhưng không thể đi được. Anh đã phải bò từ nhà kỷ luật đến nhà làm việc, cách xa gần ba trăm mét, trên con đường đất sỏi lởm chởm ven theo triền của hai sườn đồi khác nhau, với các bậc tam cấp lúc xuống, lúc lên, cao như đụng vào mũi. Đây là một hoạt cảnh không thể nào quên cho thân phận người tù của chế độ Cộng sản Việt Nam: một ông vệ binh tay cầm súng AK, đi sau một con vật người bò lệch bệch trên đất sỏi, bằng hai đầu gối và hai cánh tay. Cứ bò được năm ba bước lại gục đầu trên đất nghỉ mệt. Không phải chỉ có Nghiêm, mà bao nhiêu tù đang lao động trồng sắn và phá rừng trên các đồi quanh đó đều thấy rõ. Rất rõ. Có thể đây là mục đích của bộ chỉ huy trại! Họ muốn báo trước cho những tù có ý trốn trại nhìn cái gương của hai anh Thao, Ngẩu [2].

Tự do vô giá, nên cái giá của tự do phải trả bằng máu hoặc chính mạng sống, tù vẫn tìm cách ra đi.

Hai tuần lễ sau, đêm 19-8-1976, bác sĩ Nguyễn Hữu Thường và Đệ lại trốn. Gần hai tuần lễ sau đó, Đệ bị bắt và được giao trả về trại bình yên. Đây là một nghi vấn thật lớn. Sau thời gian bị giam cùm cách ly với mọi tù khác, Đệ được cho trở về lại lán. Đệ đã giữ yên lặng hoàn toàn chuyện trốn trại một cách khó hiểu. Mọi người trở nên e dè với Đệ. Mãi về sau, gạn hỏi, Đệ cho biết bác sĩ Thường đã được cộng sản Lào bắt đi. Thời gian sau đó, Đệ lại bảo bác sĩ Thường bị té núi gãy chân, nhưng không cho biết thêm chi tiết nào khác.

Bác sĩ Thường đã một lần tìm cách trốn trại ở trong Nam nhưng bất thành khi đang giả dạng làm đàn bà tại nơi hố đái của đàn ông lúc thân nhân đến thăm nuôi và bị bại lộ.

Bác sĩ Thường có quyết tâm trốn trại dù đã ra ngoài Bắc nhưng điều kiện thể chất không khỏe mạnh, lại không có kinh nghiệm về mưu sinh thoát hiểm, nên dù đã âm thầm hợp tác với một số tù khác nhưng bất thành. Cuối cùng bác sĩ Thường trốn với Đệ.

Khi đến trại 5, lần đầu tiên kiểm nghiệm, tù bất ngờ, nên bị trại tịch thu rất nhiều thuốc men và giao cho bác sĩ Thường giữ một số tượng trưng để làm nhiệm vụ y tế cho tù. Lợi dụng dịp cán bộ dẫn đi lên các triền núi cao, tiếp xúc và chữa bệnh cho các viên chức người Mèo, bác sĩ Thường làm quen và tìm hiểu địa hình, rồi sau đó cùng Đệ trốn trại. Một cuộc trốn như vậy coi như đã có chuẩn bị khá tốt, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bác sĩ Thường đã chết, nhưng cái chết không rõ ràng. Có thể bị bắn, có thể bị phản bội hoặc tự sát bằng thuốc độc cyanide mà bác sĩ Thường luôn luôn cất giữ trong người. Cyanide là một loại thuốc để tự vẫn của các chiến sĩ biệt kích nhảy toán, vì bác sĩ Thường đã chuẩn bị việc tự sát chứ không để bị bắt trở lại.[3]

Phan, người thứ năm, tìm cách nghiên cứu địa hình để trốn trại. Trong khi đi lao động, anh men theo con suối, đi ngược dòng nước, tìm lên các đỉnh cao để xác định phương hướng. Khi chiều xuống, anh đóng vai đi lạc nên ra ngoài đường lớn đón xe nhờ chở về trại. Một chiếc xe quân đội chở anh rồi giao cho dân quân xã canh giữ, rồi thông báo về trại. Ông trung úy Đinh trưởng ban hậu cần được lệnh đi bắt Phan về.

Trời tối, Phan được thảnh thơi ngồi ngoài sân của một gia đình người Tày. Mấy người bên trong nhà đang lo bữa ăn tối trong ánh đèn dầu tờ mờ. Một cô bé và một chú bé, có lẽ con chủ nhà, tò mò đứng nhìn Phan rồi đem nước cho Phan uống. Những ánh sao trời dần dần hiện rõ. Trong triệu triệu vì sao ngôi sao nào là của Phan? Một ngôi sao đang lạc loài trong bóng đêm của cuộc đời và đang ngồi đợi bị dẫn dắt về lại trại giam!

Ông Trung úy Đinh đến. Ông không nói gì, chỉ nhìn Phan rồi đi vào bên trong nhà. Họ chào hỏi và nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ Tày. Phan nghe xi xô to nhỏ, nhưng không hiểu gì. Hình như họ đang dùng chung bữa ăn tối muộn màng. Ăn vừa xong thì đám con nít cỡ 12,13,14 tuổi trong xóm kéo đến mỗi lúc một đông. Chúng nhìn Phan khá chăm chú nhưng Phan không nhìn lại. Cơn đói triền miên lại đến, thêm cái lạnh của đêm chớm về nên Phan cố thu người cho nhỏ lại giữ ấm. Đám con nít lòng vòng quanh Phan rồi tản ra. Chúng không biểu lộ gì thù hận, chỉ hiếu kỳ.

Trời tối đã lâu. Phan có chút ngạc nhiên sao chưa thấy ông cán bộ dẫn về trại. Bên trong nhà lại nghe tiếng Tày xi xô với đám nhỏ. Bỗng một giọng Việt hơi lớn hơn, vọng ra:

– Còn chần chờ gì nữa!

Nghe vậy, đám con nít vây lấy Phan và bắt đầu tấn công. Những đòn đánh không thù hận, không nguy hiểm. Chúng chỉ đánh cho có lệ. Phan ngồi yên chịu trận, hai tay ôm lấy đầu và cố bảo vệ khuôn mặt. Phan bình tĩnh và đủ sáng suốt để nghe ngóng tình hình chung quanh. Bỗng một tiếng dội của một thanh củi hoặc một thanh gỗ nào đó, được ném ra từ bên trong nhà cho đám trẻ. Một cú đánh chớp nhoáng, phang ngay vào mặt Phan, Phan chỉ kịp kêu lên một tiếng ối rồi bị ngất đi…

Khi tỉnh dậy, dòng máu tươi còn loang trên mặt. Trán Phan đã bị một vết thương nặng, lõm vào và tóe máu. Vết thẹo nầy là dấu vết không thể nào phai. Chắc chắn dấu vết nầy sẽ lưu lại mãi mãi trên khuôn mặt Phan và trong ký ức suốt cuộc đời còn lại, cùng với lời của ông trung úy Đinh nói với Phan sau đó:

– Anh biết đấy, các anh đã gây nợ máu với nhân dân, đến con trẻ cũng căm thù các anh. Cũng may cho anh là tôi đã can thiệp kịp lúc.

Cộng Sản nổi tiếng với chiến thuật du kích, tạo bất ngờ, đánh lén, rồi rút êm không để lại dấu vết, nhưng chắc chắn đây không phải là đòn du kích. Đây là một bài bản. Cán bộ đã sắp đặt với người dân và đặt biệt cho trẻ con, đối với tù từ miền Nam ra.

Tuổi thơ của con trẻ vốn không hận thù nhưng cán bộ đứng đàng sau dạy chúng thù hận và cung cấp vũ khí để chúng thực hiện. Đây là sự ném đá giấu tay của chế độ!

Bóng tối của chế độ không nằm trong chiến thuật nhưng trong chiến lược giáo dục và đào tạo tuổi thơ mang hận thù. Cung cấp vũ khí để chúng đánh đòn thù dù đối tượng của chúng chỉ là những con người bình thường nhưng bị Đảng tô vẽ như những bóng ma, ác quỷ. Khi chúng biết cười tươi trước máu đổ thì bản chất người, bản chất hiền lành, lương thiện của chúng đã mất rồi!

Đấy là kế hoạch trăm năm trồng người của ông Hồ Chí Minh!

Tương lai của chúng, của gia đình và xã hội sẽ đi về đâu trong thù hận giả tưởng chất ngất khôn nguôi? Phải chăng đây là con người vừa hồng vừa chuyên[4], là con người mới Xã hội Chủ nghĩa trong thiên đường Chủ nghĩa Xã hội mà đảng Cộng sản Việt Nam đang ra sức đào tạo?

[1] Lời ông Mao Trạch Đông
[2] Anh Lê Duyên Ngẩu, về sau, chết bất đắc kỳ tử tại trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa sau khi được con gái anh, mới 14 tuổi, một mình lặn lội từ miền Nam ra Bắc tìm thăm cha. Một cuộc thăm nuôi đầy xúc động.
[3] Năm 2000, người viết được biết, thân nhân của BS Thường đã cải táng mộ anh về miền Nam.
[4] Lời ông Hồ Chí Minh.

(còn tiếp)

KiwiTeTua
07-21-2015, 10:44 AM
13. Tình Mong Manh
Trước khi bước ra khỏi nhà Tố Nga quay lại nói nhỏ với em:

– Chị biết nhà mình thiếu gạo tháng này rồi nhưng chắc cũng sẽ xoay được thôi. Trưa về chúng mình sẽ liệu.

Tố Uyên vỗ vai chị:

– Chị cẩn thận, bọn quản giáo Hương và mấy đồng chí của nó bám chị em mình không được, coi chừng chúng dở trò hoặc theo dõi chuyện khác đấy!

Tố Nga ra khỏi nhà mang theo hai nỗi lo. Tình trạng kinh tế gia đình ngày một thiếu hụt, hai chị em cố xoay xở mọi bề nhưng ngày càng khó sống. Thầy mẹ đang tình trạng già yếu mà nhà lại không có con trai. Nỗi lo thứ hai, Tố Nga biết cuộc tình vô vọng với Nghi sẽ nhiều bất trắc nhưng Tố Nga không thể nào cưỡng lại được. Nghi thấy điều đó và cũng đã tâm sự với Tố Nga. Anh lo sợ về an ninh của Tố Nga và bản thân. Nếu mọi chuyện vỡ lở thì cái tội cấu kết với thành phần có tội phản động sẽ là của Tố Nga và với Nghi thì tội âm mưu trốn trại, quan hệ với thành phần xấu trong xã hội và biết đâu lại không thêm một cái án hiếp dâm ly kỳ không chừng! Bấy nhiêu đó thì chắc Tố Nga sẽ nguy khốn, còn Nghi, cũng có thể bỏ mạng. Nghi khuyên Tố Nga nên nhìn vào thực tế đời sống, nhưng cũng như bao nhiêu lần, anh không thể dứt khoát trước những dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài trên đôi má của Tố Nga.

Tình yêu là trái cấm. Càng khó khăn cách trở, càng đam mê. Càng hồi hộp âu lo, càng liều lĩnh. Trong tim Tố Nga như có thêm một mệnh lệnh thầm kín nào đó, Tố Nga không thể nào hiểu được. Có lẽ đây là trường hợp đúng nhất để hiểu câu con tim có lý lẽ riêng của nó!

Cả hai tuần qua Tố Nga không gặp được Nghi. Lòng cô nôn nóng. Đợt hàng hợp tác xã phân phối về có cái tem phiếu được một ký thịt lợn, Tố Nga dành gần phân nửa, xào nấu, rồi tìm cách đi gặp Nghi. Cũng may là Tố Uyên lại biểu đồng tình với chị, nên chuyện lớn, chuyện nhỏ, hai chị em thường thì thầm với nhau.

Với buổi sáng nơi núi rừng chưa qua cơn ngái ngủ về đêm, con đường đất sỏi như rộng hơn. Tố Nga cắm cúi đi. Cô nghe cả tiếng lạo xạo trên đất theo từng bước chân. Nhịp tim cô cũng nôn nóng nhưng phân vân. Trạng thái mâu thuẫn tự nhiên, đến rồi đi, rồi lại đến. Cái gùi cô vẫn mang trên vai như cô đang đi rừng tìm măng. Cô không có được bước chân bay bổng của một người được tự do hò hẹn với người yêu. Cô không có được ước mơ được người yêu đứng đợi nơi chỗ hẹn hò, để được nhào tới ôm nhau và một nụ hôn như không bao giờ rời ra được. Cô vẫn phải cảnh giác! Núi rừng chung quanh, cây lá chung quanh như vẫn có đôi mắt nào đó, đang dòm ngó theo dõi. Hai tuần qua không gặp Nghi, Nghi sẽ ra sao? Có bao giờ hôm nay Nghi lại ốm, không đi theo toán cưa xẻ không? Tố Nga và Nghi chỉ luôn luôn như những kẻ gặp nhau tình cờ, không thể có hẹn hò như những cặp tình nhân khác.

Qua khỏi con đường mòn đi lên ngọn đồi có toán cưa xẻ của Nghi đã khá xa, nhưng đây cũng là mục đích của Tố Nga, để đánh lạc hướng những đôi mắt vô hình đang theo dõi. Nhìn trước sau, đường vẫn vắng vẻ, Tố Nga rẽ vào trong rừng và thoáng chốc đã mất hút trong cái mênh mông tĩnh mịch của núi rừng buổi sáng.

Tố Nga cố tranh thủ tìm cho được vài mụn măng bỏ vào gùi, để không ai có thể nghi ngờ cô nếu tình cờ gặp bộ đội hay quản giáo. Sau đó cô đi ngược về ngọn đồi nơi có toán cưa xẻ của Nghi. Dòng suối nơi lần đầu tiên Tố Nga gặp Nghi lại hiện ra. Dòng nước, dòng thời gian vẫn cứ róc rách trôi. Mới đó mà đã gần hai tháng qua và còn bao lâu nữa Nghi sẽ bị chuyển trại? Câu hỏi đến thật bất ngờ. Thật đau đớn.

Tố Nga không đi theo lối mòn quen, cô tìm một lối đi mới để đề phòng bất trắc. Đến lưng chừng đồi Tố Nga đã nghe được tiếng rèn rẹt của lưỡi cưa ăn vào gỗ. Rồi tiếng rèn rẹt mỗi lúc một lớn hơn, Tố Nga đã thấy được nhóm người cưa xẻ. Ngồi quan sát không thấy có ai lạ, Tố Nga ném một viên sỏi để bắn tin, viên sỏi đụng nhánh cây rơi xuống. Cô ném lần thứ hai thành công, rồi ngồi yên chờ đợi.

Nghe tiếng viên sỏi rơi xuống đất, Nghi hiểu. Toán cưa xẻ cũng hiểu. Nghi nói với Đương cốm điều gì đó, rồi lấy cái thùng vội vã đi xuống suối lấy nước. Đi một quảng, thấy không có gì nghi ngờ, Nghi rẽ vào lối khác.

Rừng núi lại như một vòng tay ôm bảo bọc cho đôi tình nhân gặp gỡ.

Tố Nga không nói được lời nào, chỉ nhìn Nghi, rồi lặng lẽ khóc. Cô khóc, vì thời gian sẽ không chờ đợi một ai. Rồi một ngày nào đó, có thể rất gần, rất bất ngờ Nghi sẽ bị đưa đi nơi khác và chắc chắn sẽ không một lời báo trước. Cái mong manh của tình yêu như những bóng nắng đang nhởn nhơ trước mắt rồi vội mất. Như những bong bóng trước hiên mưa nhà cô những chiều tha thiết. Vỡ nát. Tan biến. Và nhạt nhòa trong ảm đạm trời buồn.

Ôm Tố Nga trong vòng tay, Nghi không hiểu được tâm trạng của người yêu, nên hỏi:

– Em có chuyện gì buồn phải không? Có phải thầy mẹ biết và can ngăn?

Nghi lấy tay áo của mình, lau những giọt nước mắt cho Tố Nga.

– Không anh ạ. Bỗng dưng em thấy cái mong manh của cuộc tình nên khóc. Thế thôi.

Nghi thở dài. Anh cũng cảm thấy như vậy, anh nói:

– Chúng mình đều biết tình yêu sẽ không có đoạn kết và càng ngày càng nguy hiểm cho em hơn.

– Nhưng thà hoàn cảnh buộc chúng mình xa nhau, chứ riêng em không thể nào đủ can đảm chấm dứt. Mỗi lần gặp gỡ em luôn mang tâm trạng là lần gặp sau cùng.

– Em thật lãng mạn nhưng anh cũng cùng tâm trạng đó.

Nghi cuối xuống cởi chiếc giày màu nâu tím đã sờn rách, mà lúc còn ở trong Nam anh đã tự may bằng vải áo giáp nhuộm với màu trái lựu đạn khói trước sự ngạc nhiên của Tố Nga. Anh lần gở từ trong mũi giày, lấy ra một bọc plastic anh đã giấu trong đó. Anh nói:

– Anh biết những khó khăn về vật chất mà vô tình em phải gánh chịu thêm từ ngày chúng mình gặp nhau. Anh đoán được sự khó khăn đó của gia đình em và sự hy sinh của em và Tố Uyên. Cả nhóm cưa xẻ tụi anh đều hiểu điều đó. Mà lần nào gặp gỡ cũng như là lần sau cùng, do đó anh mong em nhận chút quà nầy.

Tố Nga ngạc nhiên và phân vân. Nghi ôm lấy Tố Nga, đặt lên môi cô một nụ hôn thật dài, rồi nói:

– Em nhận đi để anh vui.

– Mà vật gì thế cơ?

– Cái đồng hồ đeo tay của anh. Trước năm 1975 tại miền Nam nó có chút giá trị, nên anh nghĩ bây giờ có lẽ có giá trị nhiều hơn. Anh chưa bao giờ đăng ký nộp cho trại tù và cố giấu cho đến bây giờ.

Ngưng giây lát, Nghi tiếp:

– Chúng mình không có thời gian. Mong em đừng từ chối.

Tố Nga đón nhận và từng dòng nước mắt lại nhạt nhòa trên má.

– Là cái đồng hồ đẹp như thế nầy thì có lẽ cả đời em cũng không thể mơ mình có được.

Nghi nói thêm:

– Đừng quan trọng nó là vật kỷ niệm cần phải giữ lại. Em nên giải quyết tùy theo hoàn cảnh của gia đình.

Tố Nga tựa đầu nơi ngực Nghi. Nghi vỗ về:

– Em nghĩ có thể giúp tụi anh trong một kế hoạch trốn trại được không? Tụi anh biết, cho đến bây giờ vẫn chưa có một tù nào trốn trại và thoát được nhưng sớm muộn gì cũng chết, nên cố tìm cái sống trong cái chết, em nghĩ sao?

Đôi mắt Tố Nga chợt ráo hoảnh. Cô ngồi thẳng người lại, nhìn trực diện với Nghi:

– Em cũng có nghĩ đến điều nầy. Nhưng rừng núi rất hiểm trở, khó thể thoát.

Tố Nga tiếp:

– Anh đừng nói gì thêm cả. Em hiểu. Em chấp nhận vì yêu anh. Nhưng liệu có thoát được hay không? Ở đây có hai hướng đi theo hai lộ chính khác nhau. Một về hướng Yên Báy, xa khoảng hơn bốn mươi ki lô mét, rồi từ Yên Báy đi ngược lên biên giới Trung Quốc cả trăm ki lô mét. Hướng thứ hai, đi về Nghĩa Lộ, cũng hơn mấy trăm ki lô mét mới sang Lào. Nhưng cả hai tuyến đường đều không thể nào đi thoát được, vì công an và dân chúng. Còn băng rừng, lội suối thì vô cùng hiểm trở, em không thể biết được… Thực phẩm, quần áo, em có thể lo được và chôn giấu ngoài nầy.

– Tụi anh có ba người. Liệu có cách nào cải trang và di chuyển bằng xe ra Yên Báy và từ Yên Báy lên gần biên giới Trung Quốc, rồi từ đó tụi anh băng rừng?

– Trước mắt em thấy không có cách nào. Vì dân ở đây rất ít, nên mọi người nhẵn mặt với nhau. Chỉ một người di chuyển bằng xe, cả ô tô cơ động hoặc xe đạp cũng khó thoát rồi.

Nghi lần trong ve áo ra trao cho Tố Nga một mảnh giấy nhỏ, ghi địa chỉ nhà anh ở Sài Gòn. Anh nói:

– Em giữ cẩn thận mảnh giấy nầy, nếu bất cứ trường hợp nào chúng mình không còn liên lạc được với nhau thì địa chỉ nhà ba má anh ở Sài Gòn là nơi liên lạc. Đây là tín hiệu để ba má anh nhận diện được người mà anh tin tưởng và nhờ đưa tin. Phải có nét chữ viết của anh và loại giấy đặc biệt nầy. Nếu tụi anh trốn đi, em cố gắng tin cho ba má anh biết. Em đừng nghi ngại gì cả. Ba má anh hiền lành và phúc hậu lắm!

– Đi vào Nam thì chưa chắc em dám đi. Còn gửi thư thì em sẽ tìm cách an toàn để gửi nhưng thư từ trong Sài Gòn gửi tới đây không chắc gì không bị rà xét hoặc bị giữ lại tại công an để điều tra trước khi đến tay em. Công an đã nắm vững lý lịch từng gia đình và bọn chúng cũng bám theo Tố Uyên và em nữa. Chúng biết rõ gia đình em không có quen biết ai ở Sài Gòn cả anh ạ.

Tố Nga tiếp:

– Ờ nhỉ, thế sao anh lại không viết một lá thư cho gia đình để em gửi…

Vừa nghe Tố Nga mách nước, Nghi bừng tỉnh. Anh ôm chầm lấy Tố Nga:

– Anh đã nói là em vừa đẹp, vừa thông minh mà!

Tố Nga xúc động lắm. Cô cố đẩy Nghi ra:

– Cái anh này…

Giây phút tuyệt vời. Giây phút mặt trời như đứng lại nhìn xem cây lá vỗ về trên da thịt.

Tình nồng.
Tình say.
Tình đắm đuối.
Tình trăn trối.
Tình chia ly.
Chất ngất.
Nước mắt.
Mồ hôi.
Thời gian vỗ cánh.
Mây bay.
Và tình trăm năm.

KiwiTeTua
07-21-2015, 10:46 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/traitruong_1437475563.jpg


14. Ông Trại Trưởng
Nhìn dáng của ông Chín ngón đứng trên bờ hồ cá có thể thấy được phần nào những diễn biến trong trại trong những ngày sắp tới. Cái năng nổ, tự tin như đã mất trong ông tự bao giờ, ông không hay biết. Những bước đi vững chắc, giọng nói oang oang, gãy gọn và dứt khoát của ông đã thay đổi. Giọng ông bây giờ lại phân vân, lưỡng lự vì một câu hỏi lớn trong đầu ông chưa có câu giải đáp.

Bây giờ hàng ngày khi mở radio, ông nghe ra rả luận điệu kích động và lên án bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh là bọn Sô vanh nước lớn nhưng luận điệu nầy chỉ mới xảy ra mấy tháng trước đây thôi. Còn từ trước đó ông chỉ nghe nói đến tình hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững! Ông đã nghe không biết bao nhiêu lần, đến độ thuộc nằm lòng câu môi hở răng lạnh của lãnh tụ Trung Quốc hậu thuẫn cho Đảng trong thời gian chiến tranh với miền Nam. Ông chỉ nghe mọi người đều dùng những danh từ trang trọng nhất để gọi các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc vĩ đại. Ông tin Đảng. Đảng vĩ đại. Đảng là đỉnh cao trí tuệ của loài người nên đã đánh thắng cả hai đế quốc sừng sỏ nhất. Đảng mang đôi hia bảy dặm. Có đôi mắt nhìn suốt được chiều dài của lịch sử. Đảng đã ca ngợi thành đồng Xã hội Chủ nghĩa Liên Xô, người anh em vĩ đại Trung Quốc. Đảng không thể nào sai. Nhưng hôm nay cũng Đảng, lại đả kích Trung Quốc như là kẻ thù nguy hiểm nhất, ác độc nhất, chắc hẳn Đảng cũng không thể nào sai. Đảng ca ngợi Trung Quốc, Đảng đúng. Đảng kết án Trung Quốc, Đảng cũng đúng. Đảng nói như thế nào cũng đúng nhưng có lẽ lỗi là tại chính ông. Ông không hiểu được cái đúng mới nhất mà Đảng đang kích động quần chúng, nhân dân đấy thôi. Đảng đang kích động chính ông nữa nhưng ông chưa theo kịp cái nhìn mới của Đảng. Cái tội không phải là Đảng thay đổi lập trường xoành xoạch, nhanh như trở bàn tay, nhưng cái tội là ở ông. Ông chưa bắt nhịp được sự chuyển hướng mới của Đảng để đưa dân tộc đi lên cho kịp nhịp bánh xe của thời đại mới, của ba dòng thác cách mạng. Ông như người ăn cơm mắc nghẹn. Ông phải ráng nuốt. Chỉ cần nín thở mà nuốt. Nuốt đánh ực cái là xong. Là ông sẽ thấy ngay vận hội mới của dân tộc và của bản thân ông!

Hôm qua đi họp ở trung đoàn, ông chính ủy ban lệnh phải thu gọn lại mọi kế hoạch của các trại, càng nhanh càng tốt. Thế mà chỉ hai tháng trước đây thì đặt kế hoạch trường kỳ, bung ra càng nhanh càng tốt! Cái hồ cá khang trang, ông đã nuôi bao nhiêu mộng. Ba mươi ngàn con cá trám cỏ thả xuống đợt đầu, chỉ cần bảy tám tháng nữa thì sẽ thành một số vốn khổng lồ. Mọi công khó đã xong xuôi, bây giờ chỉ cần cho tù cắt cỏ, xắt lá sắn quăng xuống hồ hằng ngày và đợi thời gian thu hoạch. Cơm đang lùa tới miệng chỉ đợi nuốt, thế mà ông chính ủy bắt phá đập bắt cá! Khi họp, ông chín ngón cứ tưởng ông chính ủy quên mất kế hoạch mà ông đã trình lên trước kia và được chính ông chính ủy biểu dương trước trung đoàn, nên có ý nhắc khéo ông chính ủy:

– Thưa anh, cái hồ cá của trại tôi đang phát triển rất thuận lợi, chỉ đợi ngày thu hoạch.

Thế nhưng ông chính ủy tảng lờ:

– Theo lệnh trên, mọi kế hoạch đều phải thu vén lại trong thời gian ngắn nhất và chờđợi.

Ông Chín ngón đau lòng lắm nhưng không dám đặt câu hỏi để biết cho được nguyên nhân. Cái nguyên nhân ác ôn nào đã giết giấc mơ và niềm hy vọng của ông. Đất nước đã thống nhất, đã hòa bình rồi cơ mà! Người anh em Xã hội Chủ nghĩa môi hở răng lạnh vĩ đại lại đang ở bên cạnh, nhưng cái hồ cá vẫn không yên!

Ngoài trách nhiệm của một quân nhân, ông còn mang bổn phận của một đảng viên, cho nên ông chỉ phải thi hành. Chấp hành tuyệt đối. Mọi người chỉ có bổn phận phải thi hành lệnh Đảng và bảo vệ bí mật. Phải thi hành. Khóc mà thi hành. Tức tưởi mà thi hành. Ông chín ngón tan nát lòng mà thi hành. Đảng là bộ óc của ông. Ông không có quyền khác ý kiến. Ông phải nhất trí. Phải nhất trí!

Ông chính ủy ở xa nên ra lệnh cho ông rất dễ vì không thấy trước mắt, nhưng ông chín ngón lại phải trực tiếp ra lệnh cho ông quản giáo cho một đội phá đập. Ông phải trực tiếp nhìn dòng nước ồ ạt chảy, chảy cuốn băng băng mang đi niềm mơ ước của ông với bùn đất. Ông thi hành nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ông chỉ lờ mờ nhưng không hiểu. Không hiểu nhưng ông phải nhất trí. Ông có biết đâu cấp trên của ông và chính các ông lãnh tụ Đảng cũng không hiểu, không biết phải làm gì để xây dựng đất nước, để đưa dân tộc ra khỏi nghèo đói và lạc hậu, để hòa giải dân tộc, xóa bỏ hận thù giữa hai miền Nam Bắc mà Đảng đã dày công tạo ra trong thời gian chiến tranh. Các ông chỉ quen việc gây chia rẽ và hận thù nên không có trái tim biết đoàn kết và yêu thương đồng bào. Đàng sau khẩu hiệu đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết là sự khô cứng về tư duy và khốn cùng về ý thức. Các ông lãnh tụ chỉ biết Liên Xô vĩ đại, Trung Quốc vĩ đại, và Đảng cũng vĩ đại, nhưng là loại đàn em nên có bổn phận phải phục tùng! Cái khổ là hai người anh em vĩ đại nầy đang xung khắc nhau và bây giờ đến lượt xung khắc với Đảng! Vì đã đụng đến Đảng nên các ông phải quyết tâm bảo vệ, bảo vệ quyền lợi Đảng. Quyền lợi Đảng trên hết. Trên tổ quốc và xương máu nhân dân!

Đảng treo bó cỏ trước mắt con ngựa, bắt con ngựa phải chạy. Chạy vả cả mồ hôi, chạy đến sùi bọt mép, nhưng bó cỏ vẫn luôn luôn ở trước mắt. Nên, nếu cần hy sinh, đã có dân, những con ngựa bị khớp mõm! Nếu cần chiến đấu, đã có quân đội, quân đội đang mang tên nhân dân! Đảng là chủ nhân ông. Chủ của người dân. Chủ của quân đội. Chủ cả cánh đồng cỏ xanh tươi.

Giao việc cho ông quản giáo Hương dùng một đội phá đập. Xả nước từ từ, chờ hai ba ngày sau khi cạn nước thì tăng cường một đội nữa để tìm cách thu hồi số cá. Ông chín ngón lại nôn nóng đi thanh tra hiện trường cưa xẻ.

Cây gỗ lớn đã dứt ra thành nhiều đoạn ngắn. Ban đầu, ông nghĩ kế hoạch còn lâu dài, nên cho xẻ thành ván những đoạn nhỏ trước, vừa để tù cưa xẻ học việc, vừa cho đội mộc đóng một số bàn ghế gia dụng, sau đó ông cho xẻ ván các đoạn gỗ lớn, vì lúc nầy tù cưa xẻ đã có tay nghề khá hơn, nên ván của các đoạn gỗ lớn sẽ rất rộng bản và có giá trị. Ông đã lên kế hoạch và liên lạc mối lái về thành phố. Trung đoàn sẽ cho xe chở đi tiêu thụ. Mọi việc đang diễn ra tốt đẹp nhưng đến đây thì bị đảo lộn. Ông chín ngón phải cho tù xẻ ngay gỗ rộng bản. Ông cho tăng tiêu chuẩn ăn của tù cưa xẻ lên 21 cân và tuyển chọn thêm tù, tăng cường cho toán. Điều quan trọng trong lúc nầy là lưỡi cưa không được ngưng! Cứ luôn phiên nhau cưa từ sáng đến chiều. Ông cắt hai vệ binh trực tiếp canh giữ.

Lưỡi cưa nhất định phải rèn rẹt. Rèn rẹt liên tục như cưa được thời gian và vặn ngược được kim đồng hồ!

Linh tính cho Tố Nga biết toán cưa xẻ thế nào cũng cắt Nghi đi xuống suối lấy nước, nên Tố Nga quanh quẩn nơi dòng suối chờ đợi. Cô ẩn hiện, rình rập, như một con chồn nhỏ tinh khôn chờ cơ hội, dù Tố Nga cũng biết cơ hội có thể không còn nữa.

Buổi sáng hôm qua Tố Nga đã thấy một người xuống lấy nước nhưng không phải là Nghi và có một ông vệ binh đi theo nên Tố Nga thất vọng, lặng lẽ quay về nhà. Mang trở về gói thực phẩm cô đã nấu cho Nghi nhưng không gặp, lòng cô buồn vô hạn. Cô mở gói thực phẩm chính cô nấu với tất cả thương yêu trao gửi trong đó, rồi ngồi nhìn nó thẫn thờ. Cô muốn ăn nhưng không còn tha thiết nữa. Lần đầu tiên cô thấm thía câu ca dao:

Mâm đồng chùi sáng
Để dưới ván thấy hình
Cháo đậu xanh kia, đường cát nọ,
Nhớ mình, quên ăn!

Người ta thì nhớ mình, nhớ người chồng đến quên ăn, còn Tố Nga? Tố Nga biết mọi diễn biến đang thay đổi rất nhanh. Có thể cô sẽ không bao giờ còn có cơ hội gặp lại Nghi, nên cô chuẩn bị một cách thật tình cờ để gặp ông vệ binh tại dòng suối, nơi hàng ngày toán cưa xẻ xuống lấy nước.

Hôm nay Tố Nga đi rừng, mệt và ngồi nghỉ thỏa mái nơi bến nước của dòng suối. Cô không có cái hồi hộp, rình rập và sợ sệt như ngày hôm qua. Tình cờ, cô nhất định phải tình cờ gặp ông vệ binh và một người tù lấy nước tại đây. Những câu hỏi, câu nói, cô đều chuẩn bị sẵn để cố moi cho được tin tức trong trại.

Từ xa cô đã thấy Nghi đang đi xuống. Cái dáng dấp đi rừng của Nghi cô không thể nhầm lẫn với ai được. Nó không có vẻ cực khổ, lam lũ của một người sống ở rừng cho dù Nghi tiều tụy, rách nát! Nghi vẫn có cái nét nào đó của một tài tử đóng phim trong rừng. Cô cũng không có cái nét của một người đang sống ở rừng, điều mà chính cô không hề hay biết. Tố Nga bối rối, quên cả mọi chuẩn bị phải đối phó như thế nào với ông vệ binh đeo súng đang lẽo đẽo theo sau Nghi. Cô quên hết. Cô sững sờ khi thấy Nghi. Trái tim cô đập lên thình thịch.

Nghi thấy Tố Nga. Nghi biết có thể gặp Tố Nga trong giây lát ở một nơi nào đó nhưng không ngờ lại gặp ở đây. Nghi biết cái khôn ngoan, nhanh nhẹn của Tố Nga, dù thế nào cô cũng dàn cảnh để thấy nhau trong chốc lát trước khi chia tay. Nghi cần phải bình tĩnh, nên khi vừa thấy Tố Nga, Nghi đi chậm lại đợi ông vệ binh đến gần. Nghi muốn dựa theo phản ứng của ông vệ binh khi thấy có Tố Nga nơi suối để có phản ứng riêng. Ông vệ binh lên tiếng:

– Có dân nhỉ?

Rồi ông nhận ra người quen:

– À, chào cô Tố Nga, ngọn gió nào đưa cô đến đây sáng nay?

– Dạ, chào anh Quân. Anh đang dẫn đối tượng đi đâu đấy?

– Đi lấy nước. Tôi được tăng cường coi toán cưa xẻ hôm nay.

– Dạo này chắc anh bận nhỉ?

– Vâng, toàn trại đang phải tập trung nhân lực để dứt điểm một số vụ việc…

– Thảo nào không thấy các anh ghé nhà chơi như trước kia.

– Vâng, bận lắm. Và không biết bao lâu mới lại có giờ rỗi rảnh đây.

Ông vệ binh quay qua nói với Nghi, hơi lớn tiếng để kín đáo khoe tí oai quyền:

– Cho phép anh nghỉ giải lao mười lăm phút, nhưng đừng đi đâu xa nhé.

– Dạ, cám ơn cán bộ.

Trong lúc ông vệ binh và Tố Nga nói chuyện, Nghi men theo bờ suối, đi về phía ngả ba, giao điểm của hai dòng nước, nơi Tố Nga đã hẹn Nghi trước kia. Vừa đi, vừa suy nghĩ làm thế nào để Tố Nga biết và nhận được mảnh giấy Nghi đã chuẩn bị sẵn mang theo trong người mấy hôm nay. Đến nơi, Nghi nhìn quanh rồi ngồi xuống dở một viên đá nhỏ, lật ngược lên, để tạo chút khác biệt và giấu mảnh giấy bên dưới. Nghi bẻ thêm một nhánh cây nhỏ vứt bên lối đi, thân của nhánh cây hướng về viên đá như một mũi tên định hướng. Nghi hy vọng cái thông minh của Tố Nga giúp cô nhận ra được.

Mười lăm phút sau Nghi quay lại. Nghi biết Tố Nga thế nào cũng kín đáo quan sát anh. Ông vệ binh chào Tố Nga. Nghi cúi xuống xách thùng nước lên, một nhánh cây vô tình cài vào quai xách, Nghi bẻ nhánh cây vứt tại chỗ rồi xách nước lên đồi. Nghi hy vọng hình ảnh nhánh cây gãy là lời nhắn khéo cuối cùng cho Tố Nga.

Bỏ lại Tố Nga, bỏ lại dòng suối phía sau lưng Nghi mang thêm một nỗi buồn. Thêm một lần chia ly, thêm một lần mất mát trong đời! Tố Nga lặng người. Gặp nhau không dám nhìn. Không dám nói. Yên lặng xót xa. Yên lặng đau đớn. Tố Nga bước xuống suối rửa mặt, cố giấu những giọt nước mắt nhạt nhòa. Dòng suối ơi. Dòng suối ơi!

Hồ cá đã cạn. Trời lại đang mưa phùn. Gió bấc thổi từng cơn. Rét, lạnh và sình lầy nhầy nhụa. Ông quản giáo Hương mang đôi ủng, khoát áo mưa. Rất đông vệ binh đội mưa, đi đi lại lại trên bờ hồ, chỉ huy cả hai đội tù bắt cá. Tiếng chỉ trỏ, kêu réo, khá ồn ào huyên náo. Đa số tù không có tay nghề bắt cá nên những chú cá cứ vẫy vùng từ nơi nầy đến nơi khác. Tù lại một phen tắm sình.

Hình ảnh của những chú cá không còn lối thoát nhưng cố vẫy vùng tìm cách thoát thân cũng giống như đám tù cùng đường trong ao tù chế độ.

Tù cùng nhau yên lặng hành động. Những chú cá lớn lớn phải bóp đầu cho chết và dìm xuống sình, rồi tìm cách nhét vào túi áo quần. Những Tôn Ngộ Không ứa máu, trong lần dỡ sắn ba tháng trước đây lại hiện về nhưng thời điểm đã khác nhau. Ngày đó trại thi hành kỷ luật khắc khe, nhưng hôm nay là hoạt cảnh chợ chiều ba mươi Tết. Ông chín ngón và các ông quản giáo lo tìm cách thu vén và bảo vệ quyền lợi cá nhân nên không ông nào còn nghĩ đến chuyện kỷ luật đối với tù.

Tiêu ướt sũng, tái mét, run rẩy giao cho Nghiêm gô cá đầy ắp rồi vội vã ra suối tắm. Cái lạnh đã quá sức chịu đựng nên cần phải tắm nhanh rồi tìm ấm. Nghiêm ra suối làm cá. Nhìn đám tù sình lầy, đen đủi, trần truồng, xương xẩu, chen lấn nhau tắm giặt, cũng huyên náo, ồn ào như một bầy khỉ ở Phi Châu đang tranh nhau trong vũng nước. Có phải đây là đám vượn người thời tiền sử của Darwin và chủ nghĩa duy vật?

Thủy tổ của nhân loại, của Karl Max-Lenin lại tái xuất hiện vào cuối thế kỷ 20!

Đảng Cộng sản Việt Nam thật có công lớn khi đưa lịch sử nhân loại đi một vòng tròn trở về thời kỳ nguyên thủy!

Hai tuần lễ sau khi họp ở Trung Đoàn thì có lệnh chuyển trại. Ông chín ngón dậy thật sớm. Ông kéo một hơi thuốc lào thật sâu, rồi ngồi trầm ngâm ở văn phòng. Tất cả nhân viên của ông đều đang bận chuẩn bị cho việc chuyển trại, trừ ông.

Mới tờ mờ sáng, tù đã bắt đầu lũ lượt rời trại, trong màn sương trắng như màu sữa loãng. Những con vượnngười lại thêm một bước văn minh, biết gồng gánh, khiêng vác hành trang cá nhân của mình! Thứ hành trang tù thật đơn giản, gọn nhẹ nhưng thật sự không nhẹ chút nào với tình trạng sức khỏe cạn kiệt và đường xa. Chỉ cần đi bộ không thôi, trên mấy chục cây số cũng đã là một việc khó rồi. Ông chín ngón đứng nhìn theo cho đến người tù cuối cùng rời khỏi trại. Một cảm giác trống vắng thật khó tả trong ông. Những sinh động của một trại tù giờ đây không còn nữa. Cái ồn ào, nhộn nhịp trong thời gian qua không còn nữa. Núi rừng lại trở về với cái im vắng mênh mông của nó. Ông rơi vào nỗi cô đơn lạ lùng.

Chờ nắng lên, ông một mình đi lang thang trong trại. Ông nghe cả âm thanh của những chiếc lá khô vàng quyện theo bước chân ông. Từng dãy lán nằm im lìm như còn vương vấn hơi tù. Ông bước vào hội trường, một cảm giác thật khó tả. Mới hôm nào ông đứng trên bục giảng, hùng hồn thuyết về chủ nghĩa, đường lối chính sách, về nội quy, kỷ luật. Những khuôn mặt tù hốc hác, tai tái, chì chì, nhìn ông trong sợ hãi. Những ánh mắt đó cho ông có cảm tưởng ông cao lớn hơn, oai quyền hơn, nhưng bây giờ thì tất cả không còn nữa.

Xuống trại mộc, những sản phẩm chưa kịp hoàn tất, đang còn ngổn ngang ra đó. Căn nhà ông ấp ủ, bàn ghế ông mơ ước đang ở trước mắt ông nhưng sao lại xa vời. Đến bên suối, nhìn những lối mòn, những tảng đá nhẵn bóng vì sinh hoạt của tù và dòng nước vẫn róc rách trôi. Không một ai chung quanh ông. Ông trở về con người thật của ông, bản chất của ông. Ông đứng đái trên dòng nước.

Về lại bộ chỉ huy, sau khi giao việc cho mấy ông vệ binh coi giữ trại, ông chín ngón đi ra hiện trường cưa xẻ. Đến hồ cá ông dừng lại. Mặt hồ nước rộng mênh mông, xanh biếc không còn nữa. Cái kiếng thần vĩ đại, phản chiếu cả màu trời và ước mơ của ông không còn nữa. Mặt hồ bây giờ sâu hoắm, lỗ chỗ, xấu xí. Một lớp nước mỏng trên mặt sình chì xám, với những hang hốc quanh bờ, đều phô bày ra, xám xịt khó coi. Ông chín ngón bước đi, bước chân nặng trĩu.

Những ngày trước kia, trên đường đi kiểm tra toán cưa xẻ, cũng núi rừng, cũng suối nước, cũng cái yên vắng muôn đời của rừng già nhưng ông chín ngón thấy nó linh hoạt và sống động mà sao bây giờ lại như một bức tranh tĩnh vật?

Tố Nga ngồi yên trên mặt phẳng của khúc gỗ cưa còn dở dang. Cô chết lặng đi với nỗi nhớ. Những sinh hoạt tại đây cô chưa bao giờ đặt chân đến nhưng cô biết rất rõ. Cái chòi lá sơ sài, trống trải nhưng là nơi che mưa nắng của toán cưa xẻ. Mấy chạng ba của mấy cây trụ lều là nơi móc quần áo, gô, coóng. Những que củi còn chụm đầu lại trong đống tro bếp đã nguội lạnh, những chiếc lá cháy nám lăn tăn trên nền đất theo cơn gió nhẹ. Sinh hoạt của tù cưa xẻ còn rõ ràng nhưng không có một dấu vết đặc biệt nào của Nghi. Tố Nga chỉ cần dấu vết của Nghi.

Cô đã nhận được mảnh giấy của Nghi nơi dòng suối, những lời dặn dò làm cô khóc khô cả nước mắt. Tố Nga cũng viết sẵn một lá thư hồi âm, cô dự trù sẽ giấu gần nơi Nghi đã gửi mảnh giấy cho cô. Không cần dặn dò, không cần chỉ điểm nhưng khi hai trái tim tìm nhau, hướng về nhau thì sẽ nhận diện được dấu vết của nhau. Loài thú khi yêu nhau cũng bắn tin nơi cành cây, hốc đá để biết và tìm đến nhau. Ôi chao khi hai người yêu nhau lại phải làm theo dấu thú.

Tố Nga đã đến dòng suối nhưng dòng suối vắng lặng. Tố Nga lại tìm đến nơi cùng Nghi hò hẹn trước kia nhưng chỉ thấy cây lá vô tình. Không có một dấu vết nào của Nghi. Cô lần lên lưng chừng đồi, với hy vọng được nghe tiếng rèn rẹt quen thuộc thân yêu. Tiếng lưỡi cưa ăn vào gỗ là tiếng khổ sai của tù nhưng cũng là tiếng hy vọng của Tố Nga. Thế nhưng bây giờ mọi nơi đều yên vắng. Yên vắng hoàn toàn. Đi nhanh hơn. Nhanh hơn, nhưng nhóm cưa xẻ không còn nữa. Tất cả đã biến mất. Khi Tố Nga thấy căn chòi trống trơn, vắng lặng, cô bật khóc. Khi loài thú xa nhau còn có những tiếng kêu đặc biệt nhưng khi con người xa nhau, sao yên lặng ngập tràn?

Nga khóc. Cô nghe tiếng thổn thức của chính mình. Tiếng kêu của chính mình. Tiếng kêu tuyệt vọng trong một cuộc tình câm nín. Bước chân tù của Nghi đã đi về đâu. Bước chân người ở lại như cô sẽ về đâu?

Tố Nga nuối tiếc. Nếu hôm qua Tố Nga ra đây, biết đâu cô có thể gặp Nghi lần cuối? Tố Nga đem lá thư cô viết cho Nghi ra xem lại. Không gửi được cho anh, không trao được đến tay anh, thì em ngồi đây đọc cho anh, cho cây cỏ, núi rừng lắng nghe chúng sẽ chuyển đến anh…

Ông chín ngón ngạc nhiên. Không phải là thú rừng. Không phải là bóng ma. Là người sao lại xuất hiện ở đây? Câu hỏi đến đột ngột trong ông. Có thể có người đã biết tù di chuyển nên đến đây tìm cách ăn cắp gỗ của ông. Ông bước nhanh hơn.

Thấy có người đi đến, Tố Nga giật mình lo sợ. Cô gấp vội lá thư bỏ vào túi thì ông chín ngón đã đến gần. Ông ngạc nhiên nhưng chưa lên tiếng. Đôi mắt ông dừng lại nơi tờ giấy vừa gấp lại vội vàng. Ông là con cáo già. Ông có câu hỏi khôn khéo, để thăm dò:

– Chào cô Tố Nga, cô ngồi nghỉ lâu chưa? Đây là khu vực quân sự của chúng tôi đấy.

Tố Nga bối rối như một người bị bắt quả tang vì phạm tội. Cô lúng túng tìm cách trả lời:

– Chào thủ trưởng, tôi đi rừng đang lúc mệt, lại thấy có mặt gỗ bằng phẳng nên ngồi nghỉ ấy mà! Tôi không biết đây là khu vực quân sự của thủ trưởng.

Ông chín ngón tiếp:

– Đây là nơi làm việc của tù dân không có quyền lui tới.

Tố Nga xuống nước tìm kế thoát thân:

– Tôi không biết thủ trưởng ạ chỉ mới ngồi nghỉ chốc lát ấy mà!

Ông chín ngón không để cho Tố Nga rút yên được. Ông tiếp:

– Tôi chịu trách nhiệm ở khu vực nầy và mọi việc liên quan đến tù. Tuy cô đến đây một mình không thấy có liên hệ nào với tù nhưng về mặt an ninh tôi cũng phải hỏi. Tôi chỉ muốn giúp cô bảo vệ an ninh cho chính cô. Bọn tù nầy rất nguy hiểm nếu vô tình gặp chúng cô có thể bị mất mạng đấy!

– Dạ, cám ơn thủ trưởng mách bảo. Xin phép thủ trưởng tôi đi và sẽ chẳng bao giờ trở lại khu vực nầy đâu.

– Tôi đã bảo với cô, tôi chịu trách nhiệm an ninh trong khu vực nên cô có thể cho tôi xem mảnh giấy cô vừa cất vào túi được không?

Tố Nga bối rối ra mặt. Cô tìm cách chống chế. Cô cố biện minh để thoát khỏi sự nghi ngờ của con cáo già nầy. Tố Nga nói:

– Đấy là bài hát, vật riêng tư cá nhân thủ trưởng xem làm gì.

– Xin lỗi cô, tôi đã bảo vì an ninh cơ mà!

Tố Nga phản ứng:

– Tôi không có quan hệ gì với các đối tượng. Tôi không có gì sai quấy cả. Thủ trưởng không có quyền tra xét tôi.

– Tôi đã bảo, phải bảo vệ cô cũng như người dân trong vùng nầy. Đó là trách nhiệm của tôi.

Vừa nói, ông chín ngón vừa trờ tới. Tố Nga đứng dậy, thối lui, cô cố thoát tay ông chín ngón. Nhưng ông chín ngón không còn là ông thủ trưởng nữa, ông là con gấu khổng lồ tấn công Tố Nga tới tấp. Chỉ trong giây phút Tố Nga đã bị khống chế hoàn toàn. Ôm và vật Tố Nga trên đất một cảm giác mới bừng bừng trong ông. Mảnh giấy không còn là mục tiêu nữa. Cơ thể một người đàn bà ấm áp, đương độ và sinh động đang nằm trong vòng tay ông. Điều mà trong những giấc mơ, cứ đêm đêm hiện về quậy phá giấc ngủ của ông. Run rẩy và thèm khát. Giọng ông hấp tấp:

– Sẽ không có một ai biết chuyện nầy đâu Tố Nga. Em kêu lớn cũng vô ích. Mảnh giấy em đang giữ chắc chắn có liên quan đến tù. Em sẽ bị liên hệ. Em sẽ bị điều tra. Cái án cải tạo… tôi sẽ bỏ qua..

Tố Nga không còn nghe rõ. Cô chỉ cố vùng vẫy. Vùng vẫy trong tuyệt vọng. Đến khi cô biết thì đã muộn. Cô không thể đi rừng một mình. Đi đêm có ngày gặp ma! Cô có thể bị giết chết và chôn giấu tại đây mà không ai có thể tìm được xác. Bản năng sinh tồn trỗi dậy. Cô gắng sức vùng vẫy, chống trả. Nhưng vô vọng. Càng chống trả, quần áo cô càng xốc xếch, xô lệch.

Ông Chín ngón không còn nghe bất cứ tiếng than van, xin xỏ nào của Tố Nga. Ông như con vật đang say mồi. Tố Nga tuyệt vọng. Cô kêu cứu, nhưng tiếng kêu của cô mất hút giữa núi rừng mênh mông và làm cô mất thêm sức. Cô tự nhủ, phải bình tĩnh trong lúc nầy. Cô cần phải sống. Phải nhận diện dấu vết rõ ràng nơi ông chín ngón. Từng dấu vết nhỏ nhất trên cơ thể ông cô phải ghi nhớ. Cô sẽ đưa ra pháp luật dù cô thừa biết thứ pháp luật của người cai trị. Hai tay cô bị bẻ ngoặc ra phía sau. Cả thân người đồ sộ của ông chín ngón đè lên cô. Bàn tay còn lại của ông tung hoành trên cơ thể cô. Những mảnh vải tối thiểu trên người cô lần lượt đều bị ông chín ngón tháo bỏ. Chính hai cái tay áo sơ mi của cô trở thành sợi dây buộc hai cánh tay cô. Ông chín ngón trút bỏ áo quần của ông trước đôi mắt kinh hãi của Tố Nga. Rồi cơ thể ông đổ lên người cô. Cô nhắm mắt. Nước mắt ràn rụa. Nghi ơi. Nghi ơi!

KiwiTeTua
07-30-2015, 07:43 AM
15. Hiến Điền Về Quê

Cầm lá thư Nghiêm trên tay, Hoàng khóc. Hoàng đã tự nhủ phải cứng rắn, không khóc, thế nhưng nước mắt từ đâu cứ chảy ra liên tục. Những giọt nước mắt mà Hoàng cố giấu trước mọi người. Những giọt nước mắt thường chỉ lặng lẽ chảy về đêm làm ướt đẫm áo gối. Cái gối mộng của một tình yêu đang độ, của một cuộc hôn nhân chưa tròn hai tuổi bỗng chốc trở thành cái gối để giấu che dòng nước mắt âm thầm.

Khung trời kỷ niệm còn đó. Đà Lạt đang độ mùa hoa quỳ vàng ối khắp các lối đi, những cánh hoa vàng lấp lánh trong nắng chiều vàng. Những bước chân sóng đôi trên từng lối mòn heo hút. Ôi những cánh hoa quỳ Đà Lạt. Ôi những lối mòn đầy hoa cỏ dại là những kỷ niệm của một trời thu nhớ. Mùa thu ngọt ngào quyến rũ mang những dấu chấm của bức tranh tình yêu tuổi học trò. Em và anh, chàng và nàng như những cây cọ đầy màu sắc cùng nhau vẽ nên bức tranh tình yêu. Từng nét, từng chấm li ti trên khung đời mộng như là những mảnh linh hồn trao gởi.

Khuôn viên viện đại học Đà Lạt còn đó. Khuôn viên trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị còn đó. Buổi hẹn hò đầu tiên nơi đại giảng đường, đêm mừng sinh nhật tập thể còn đó.Cảnh vật còn đó nhưng vành trăng ai xẻ làm đôi, nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường![1]

Hai mươi lăm cây số từ Bồng Lai về Đà Lạt bây giờ là con đường dài như vô tận. Con đường của ngút ngàn kỷ niệm ngày xưa và con đường của mù khơi tương lai còn lại. Định mệnh sẽ đưa anh về đâu? Định mệnh sẽ đưa em về đâu? Sẽ đưa chúng mình về đâu?

Trước mắt Hoàng không còn khuôn viên Đại Học. Không còn cảnh vừa tan trường ra đã thấy chiếc xe gắn máy màu đỏ của Nghiêm đứng trơ trọi bên gốc thông già, là dấu hiệu để báo cho Hoàng biết có Nghiêm đến đón. Còn Nghiêm thì ngồi ở lưng chừng đồi nhìn nắng vàng dưới lũng sâu.

– Đón con người ta mà làm như cực khổ lắm!

Từng cái vờ vĩnh giận hờn, chợt đến, chợt đi. Chợt tan như nắng vội. Chợt buồn như mưa bụi làm đẫm ướt bờ mi.
Hoàng còn nhớ khi xe Nghiêm vượt qua đám sinh viên cùng lớp, Nghiêm vô tình cứ băng băng nhìn phía trước nhưng Hoàng thì nhìn lại đàng sau. Đám bạn nói, cười, vẫy tay Hoàng và Nghiêm nhưng Hà thì cắm cúi bước. Những bước chân đau buồn lặng lẽ. Những bước chân đơn độc âm thầm.

Hoàng cứ nghĩ tuổi thanh niên thường tự tạo ra cho mình một nét đặc biệt giữa đám đông và Hà tự tạo ra cái âm thầm đơn độc ấy. Những mảnh giấy nho nhỏ, những dòng chữ mang nội dung đặc biệt của Hà cứ vô tình sót lại trong tập vở Hà mượn của Hoàng. Hoàng hiểu. Nhưng cái âm thầm của Hà vẫn là của Hà. Hoàng không thể chia sẻ cái âm thầm lẻ loi đó.
Vài lần Nghiêm bận công tác không đến đón, Hà lại lúng túng thả bộ theo Hoàng trên con đường về nhà. Hà không bao giờ hội nhập với đám đông học trò. Với đùa giỡn, chọc phá ồn ào. Trái lại Hà luôn luôn ấp úng đến tội nghiệp. Hà vừa tách biệt bí ẩn, vừa mặc cảm lẻ loi. Thứ mặc cảm của một người luôn luôn thấy mình cứ lẽo đẽo đàng sau trên con đường tình ái.

Và bây giờ mọi người lại ngạc nhiên. Hoàng cũng ngạc nhiên. Hà là Bí thư đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Lâm Đồng – Đà Lạt!

Lá cờ đỏ sao vàng run phần phật trong gió. Từ ngày xuất quân cho đến bây giờ lá cờ luôn luôn theo toán công tác thủy lợi, được cắm ngay ở vị trí cao nhất tại hiện trường lao động. Lá cờ là niềm tự hào của đảng viên đang lãnh đạo công trường, là quyền lực của chế độ nhưng là niềm lo lắng của những tấm lưng còng thiếu dinh dưỡng, đang lao động quần quật. Đảng đang đứng canh chừng phía sau lưng!

Công trình dẫn nước từ thác Prenn về Định An và hai xã K’Long A, K’Long B đang được thực hiện. Câu khẩu hiệu đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên (!) nhắc nhở mọi người, dù thành phần lao động cho công tác nầy không phải chỉ dành cho thanh niên, là thành phần trong trắng, nhiệt tình và luôn luôn được ca tụng, vẽ vời, bằng đủ loại chữ nghĩa! Chính quyền địa phương huy động toàn bộ nhân lực từ Bồng Lai trở lên, kể cả đàn bà, con gái có con mọn như Hoàng.

Và ngày mai, ông Bí thư đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh sẽ xuống thăm công trường!

Thư Nghiêm không viết về bản thân. Nghiêm viết cho người ở lại với những lo lắng, sắp xếp. Lá thư được viết từ miền Bắc xa xôi như một lời trăn trối. Hoàng làm sao có thể bước thêm bước nữa(!) khi Nghiêm gợi ý đừng phí phạm tuổi xuân(!) Hai con là lẽ sống của Hoàng làm sao Hoàng có thể gửi lại cho nội để đi lấy chồng khác? Hoàng không đau đớn trách cứ vì những gửi gắm của Nghiêm với cha mẹ hai bên. Nghiêm chấp nhận hy sinh cho tình yêu, Hoàng cũng thừa nghị lực như vậy. Nghiêm hy sinh cá nhân cho Hoàng và Hoàng cũng hy sinh cá nhân cho con.

Lúc nầy không phải là sự thổn thức của trái tim nhưng cần nghị lực để sống!

Lúc còn ở Trung Học trong giờ Việt văn, một lần cô giáo chia lớp học ra làm hai để tranh luận về thái độ của Loan, nhân vật chính trong Đoạn Tuyệt của Nhất Linh: Khóc lóc hay rên rĩ là yếu hèn! Phải nhìn sự thật bằng đôi mắt ráo lệ, không phiền muộn, không oán hờn, mạnh mẽ mà sống! Lần đó Hoàng thấy thương Loan quá. Một mình phải đương đầu với thói lề xã hội, một xã hội phong kiến! Hoàng biết đâu chính Hoàng đang phải đương đầu với xã hội hiện tại! Một xã hội nhân danh lao động nhưng trấn áp người lao động. Một chế độ nhân danh chống áp bức bóc lột nhưng công khai trù dập và cướp đoạt tài sản của người dân! Hoàng biết rất rõ, Hoàng không có được cái can đảm làm cuộc cách mạng xã hội như Loan. Hoàng nhỏ bé hơn, yếu đuối hơn. Hoàng chỉ cố gắng bảo vệ hạnh phúc gia đình của riêng mình, của hai con. Cơn cuồng phong của xã hội có dữ dội nhưng đôi cánh nhỏ nhoi của con gà mẹ vẫn đem hết sức lực để bảo vệ đàn con!

Khi tất cả những thành phần ưu tú của đất nước không xu nịnh chế độ mới, đều là “phản động” (!) phải tập trung cải tạo thì thân phận nhỏ nhoi của Hoàng chỉ như cỏ rác, có đáng gì! Nhưng thà như cỏ để tồn tại trước cơn bão dữ. Là cỏ của suy tư. Là cỏ của nhân chứng. Không mạnh mẽ như Loan nhưng phải bền vững. Nghiêm ơi, nếu định mệnh đã chia cắt vĩnh viễn chúng ta thì em phải tồn tại. Em phải là nhân chứng! Nếu cuộc đời chúng ta đã qua đi thì con chúng ta phải tồn tại. Cây hy vọng phải được lớn lên. Lớn lên từ sự nhẫn nại kiên trì. Em không hận thù vì cuộc đời vốn quá ngắn. Em không sợ hãi vì chẳng còn gì để sợ nhưng kinh ngạc trước sự vong thân đạo đức của chế độ!

Ngày mai Hà sẽ xuống thăm công trường thủy lợi. Một Hà tách biệt thầm lặng ngày trước có khác với một Hà Bí thư đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hiện tại không? Hà có nhận ra Hoàng trong đám lao động ở công trường? Một Hoàng khép nép trong chiếc áo dài với cái huy hiệu tròn có chữ Thụ nhân của viện đại học Đà Lạt cài trên tay áo ngày trước? Hoàng nhìn lại chính mình bây giờ. Hốc hác. Gầy. Đen. Áo quần chính hiệu nông dân! Một Hoàng ngồi khum lưng trên đất nhóm lửa, thổi tro bay đầy đầu. Mười ngón tay búp măng thường đan vào nhau mà Nghiêm đã nâng niu chìu chuộng bây giờ chai cứng sần sùi. Hoàng bất giác thở dài. Chút mặc cảm về nhan sắc hiện về. Hoàng soi lại dung nhan mình trên tấm kiếng thời gian. Từ cô nữ sinh yêu đời dệt mộng đến ngày tháng nổi trôi buôn bán chợ trời. Rồi từ chợ trời đến nông dân. Và bây giờ đang lao động khổ sai trên công trường thủy lợi ! Khoảng thời gian thật ngắn nhưng đã làm đảo lộn mọi giá trị. Xã hội bật gốc. Ước mơ bị hủy diệt. Một giai cấp mới đang thống trị với hỗn mang và vô học. Những người dân lương thiện thiếu ăn, bị cưỡng bức nai lưng đào đất vét mương, để xây dựng một thiên đường ảo tưởng!

Bạn Hoàng đang dạy ở trường Văn Học Đà Lạt kể cho Hoàng nghe câu chuyện về gia đình Hà. Hà kết hôn với Diễm cũng là bạn học chung của hai đứa. Diễm có người yêu là dân Võ Bị trước kia nhưng sau năm 75 đã mất liên lạc và nghe đâu cũng đang cải tạo ở ngoài Bắc. Khi Diễm có thai đứa con đầu lòng, Diễm ngạc nhiên trước sự hờ hững và lạnh lùng của Hà. Một tuần lễ sau Hà ép Diễm đi nạo thai. Không ai biết rõ lý do kể cả Diễm. Miền Nam mấy ai biết chính sách ba khoan trong thời gian chiến tranh ở ngoài Bắc. Chưa yêu thì khoan yêu. Nếu đã yêu thì khoan cưới. Nếu đã cưới thì khoan có con ! Diễm chỉ mơ hồ là có con trong lúc nầy không đúng lúc, Hà chỉ nói có vậy. Phải chăng nhận được chỉ thị từ trên và vì địa vị của Hà hiện tại nên cần phải làm gương? Nhẹ việc nhà, nặng việc Đảng(?) bí ẩn chỉ có Hà biết. Với rất nhiều dư luận trong số ít bạn bè còn lại cho biết Diễm bị mất bình thường sau đó. Hoàng nghe và thấy lạnh cả người! Ý định nếu gặp Hà Hoàng sẽ xin Hà giúp đỡ cho Nghiêm sớm được về Hoàng bỏ ngay từ đó.

Khi đứa con đầu lòng của Diễm phải hy sinh thì chút tình bạn ngày trước có giá trị gì ?
Tình cảm không còn là thiêng liêng thì con người như một cỗ máy.

Cứ để kỷ niệm cũ tồn tại. Cứ để một Hà ấp úng ngày xưa tồn tại. Tránh cho mình khỏi mặc cảm. Tránh cho Hà khỏi khó chịu. Hoàng khai bệnh lánh mặt.

Hoàng từ giã Sài Gòn và gia đình Nghiêm để lên Bồng Lai theo kế hoạch di tản dân ra khỏi thành phố. Chính sách kinh tế mới của chính phủ bắt mọi người dân trở về nông thôn, đặc biệt vợ con của những người đi cải tạo thì được nhà nước hứa hẹn sẽ sớm cho trở về sum họp. Cô sinh viên đang ngỡ ngàng trước những biến động to lớn của lịch sử, của xã hội và chưa bao giờ đối diện với thực tế ghê rợn như lúc nầy, lại đang được chính phủ hứa sẽ sớm cho chồng về sum họp tại kinh tế mới. Mục đích đời sống trước mắt của Hoàng là sum họp gia đình cùng lo nuôi dưỡng hai con còn thơ dại. Mọi chuyện đều vứt bỏ lại phía sau. Tương lai là cái gì còn trừu tượng, xa vời. Phải nắm bắt thực tế. Đảng đã khẳng định làđường lối chính sách trước sau như một, như vậy thì đi. Không cần biết tương lai. Phải đi. Đi để Nghiêm được trở về. Lời hứa của Đảng, của chế độ mới là một bảo đảm! Giá trị đạo đức của một cá nhân thì có thể nghi ngờ nhưng đạo đức của một đảng đang lãnh đạo, của một chế độ mới, một chính phủ mới phải chắc chắn! Phải thành tín!

Đi .
Bỏ tất cả lại đàng sau!
Những chuyến xe đầy ắp người đi kinh tế mới được cổ vũ. Tiễn đưa rầm rộ. TV, đài phát thanh thi nhau làm phóng sự. Và Hoàng phải đi.

Hoàng lặng lẽ cùng một số người trong gia đình Nghiêm sửa soạn rời Sài Gòn. Gia đình phải chia làm đôi, một nửa ở lại, một nửa ra đi. Bỏ lại những ồn ào, náo nhiệt phía sau. Bỏ lại những tháng ngày ngược xuôi, buôn bán chợ trời, kiếm sống phía sau. Hai đứa con còn thơ dại, đứa con gái lớn chưa đầy hai tuổi gửi lại cho bà nội, cho cô chú, còn đứa nhỏ đang bú sữa mẹ, Hoàng đem theo. Không có tiền để mua sữa cho con nên Hoàng cho con bú sữa mẹ. Thân xác mẹ thiếu dinh dưỡng vì phải ăn bo bo, khoai bắp, rau đậu nhưng Hoàng vẫn hy vọng sức trẻ của chính mình sẽ cung cấp đủ nguồn sữa cho con. Không thể tìm nguồn trợ cấp từ bên ngoài thì đem thân xác ra, rút sinh lực ra lo cho con!

Từ bé cho đến lúc nầy Hoàng chưa bao giờ biết lao động tay chân cho dù có con nhưng Hoàng vẫn còn trên ghế nhà trường. Công khó của cha, công khó của mẹ là nuôi hy vọng cho con tốt nghiệp đại học, vì đây là bước căn bản để tiến thân trong xã hội ngày một đòi hỏi thêm kiến thức nhưng công khó đó đã bị gãy đổ bất ngờ theo vận mệnh miền Nam.
Mọi việc ra đi phải được sửa soạn, chuẩn bị trước. Đứa con gái chưa đầy hai tuổi, đang chập chững đi. Rờ rẫm. Phá phách. Nó cũng lăng xăng tới lui, thích thú trước các đống đồ đạc ngổn ngang đang được sắp xếp, nào dao, cuốc, rựa, liềm… dụng cụ nhà nông. Hoàng ứa nước mắt nhìn con. Tuổi thơ đâu biết rằng nó sắp phải xa mẹ! Đâu biết rằng từng bước chuẩn bị là từng bước cách xa! Xa mẹ chắc nó sẽ khóc vì nhớ một thời gian nhưng con nít sẽ chóng quên. Chỉ có Hoàng, ngay từ lúc quyết định rời xa thành phố là lúc đã bắt đầu đau đớn, xót xa. Giấc mơ sau khi tốt nghiệp đại học sẽ xây một mái ấm gia đình tại Đà Lạt, có căn nhà nhỏ nằm khiêm nhường trên một triền đồi với những ngọn thông cao không còn nữa. Tiếng thông vi vu trong gió là nhạc khúc êm đềm trong những giấc ngủ bình yên khi vợ chồng mới cưới nhau không còn nữa. Căn nhà nhỏ nằm giữa rừng thông ở đường Yersin không còn nữa. Những cây thông đẹp đã bị đốn đi để biến thành củi ngo đem bán và nấu bếp. Tiếng thông reo trong gió, bây giờ là những tiếng u uẩn, xót xa trong đêm dài của những con người không còn tương lai, không còn hy vọng.

Suốt đêm Hoàng không thể ngủ. Mới 3 giờ sáng mọi người trong gia đình đã thức dậy. Không ai nói với nhau nhưng hình như trắng đêm không ai ngủ được. Riêng Hoàng trằn trọc nằm giữa hai con. Xoay qua bên nầy, nhìn con gái. Xoay qua phía bên kia, nhìn con trai. Nhìn giấc ngủ thiên thần của trẻ thơ mà tan nát lòng. Đứa con gái khi cựa mình để cái ti rơi xuống một bên má, bàn tay tí hon của nó lại quờ quạng lượm nhắt lại vô miệng. Nhìn đôi môi múm mím, chùn chụt từ nhịp nhanh rồi chậm dần, rồi ngưng hẳn chìm lại vào giấc ngủ. Cái ti lại tụt xuống.. ! Bàn tay nhỏ nhắn của đứa con trai còn đang bú sữa mẹ lại mò mẫm, luồn trong áo tìm vú mẹ. Nó biết bầu vú sữa là của riêng nó nhưng khi mơ ngủ nó vẫn muốn kiếm tìm, gìn giữ. Từng dòng nước mắt lại lặng lẽ rơi trên gối. Cái gối đã ướt đẫm không biết bao nhiêu đêm dài. Nghiêm đang ở đâu? Bặt tin Nghiêm gần nửa năm rồi! Nghiêm ơi, Nghiêm có biết hoàn cảnh hiện tại của mẹ con em không? Em đang nằm đây giữa hơi ấm của hai con mà có cảm tưởngđã xa vời vợi, đã ngoài tầm tay với!

5 giờ sáng phải lên đường, bà nội ẳm cháu trai ra cửa tiễn. Bà yêu cháu nhất nhà, bà hít hà mùi thơm da thịt trẻ thơ của cháu nhưng bà không thể giấu được nước mắt. Bà khóc. Quay qua nói với Hoàng đang đứng bên cạnh như để an ủi chính mình và động viên Hoàng:
– Đi đi con. Còn má ở lại, không sao đâu. Con cố gắng sớm ổn định trên đó rồi má sẽ đem chúng lên với con.

Hoàng yên lặng quay trở vô nhà. Lại đến giường vén mùng nhìn con gái đang say ngủ. Hoàng sờ tấm tả đã ướt. Cô Tư đứng sau lưng lên tiếng:
– Chị đi đi, để em thay tả cho.

Hoàng không trả lời. Nước mắt rơi từng giọt. Hoàng muốn kéo dài thêm từng giây phút với con gái. Hoàng muốn tự tay thay tả cho con lần cuối. Tấm tả có mùi ngai ngái, Hoàng nói trong lòng:

– Mùi nước hoa hảo hạng của má đây mà! Mùi Immortel số 5.

Vừa xa con trai, bầu vú sữa Hoàng căng cứng và chảy ướt đẫm áo, Hoàng đau xót nhớ con nên dứt khoát quay về ngay để đem con lên ở với mình. Năm sáu tháng trôi qua. Năm sáu tháng Hoàng cố gắng trong đời sống nhà nông, cuốc đất, làm cỏ, gieo giống… chăm sóc con, không có việc nào Hoàng không làm nhưng Hoàng chưa thể thích nghi. Đứa con trai ngày một lớn, nhu cầu dinh dưỡng ngày một nhiều hơn nhưng sức khỏe Hoàng ngày càng xuống dốc. Nguồn sữa khô cạn dần. Có trái cây gì, có quả trứng nào Hoàng chắt chiu, bù đắp cho con và quên hẳn nhu cầu bản thân. Mớ kiến thức học được ở trường không có nơi áp dụng và còn phải tự giấu nhẹm. Người ta đang kỳ thị trí thức! Thỉnh thoảng về đêm Hoàng lại phải ẳm con tham gia học tập. Những dè bĩu, ngụy quân, ngụy quyền cứ xoáy lấy trong từng chữ, từng ánh mắt của người dân trong vùng, một vùng thuộc loại “xôi đậu” trước kia. Mười mẫu đất vườn và cà phê đang độ cho sản lượng của ông bà Năm, ba má Hoàng, người đã bỏ công khai phá và gầy dựng bây giờ là một miếng mồi ngon mà nông dân trong vùng thèm muốn. Họ là những người vừa là hàng xóm, vừa được ông bà Năm thuê mướn trước kia đã trở thành những người đang quyết định số phận của gia đình ông bà Năm. Thôn xóm đã vào qui hoạch thành tập đoàn sản xuất! Ông tập đoàn trưởng, người quen biết với ông bà Năm trước kia là một cán bộ nằm vùng. Ông không đến nỗi là người quên dĩ vãng, nhưng trào lưu cách mạng (!) của nông dân rất mạnh. Họ không có chút kính nể ông tập đoàn trưởng thì có thể ông bà Năm đã bị ghép nhiều thứ tội! Điều họ ham muốn họ không nói đến. Họ chỉ nói là gia đình có con, rể là sĩ quan ngụy. Tình chòm xóm trước kia xa lạ rất nhanh. Sự nhờ vả, vay mượn nhau trong thời còn xôi đậu cũng là của dĩ vãng! Chiếc xe đò Minh Trung chạy tuyến đường Đà Lạt – Sài Gòn của ông bà Năm đã nhiều lần giúp đỡ việc đêm hôm tăm tối chở người bệnh đi cấp cứu, sinh đẻ cũng chỉ là sự “che đậy của bọn tư bản”! Bọn giả nhân nghĩa! Không, bây giờ không còn loại dĩ vãng đó. Bây giờ không còn loại tình nghĩa cũ đó.

Thời đại mới. Tình nghĩa mới. Quan hệ mới. Tiếng nói của những người có công với cách mạng đang lãnh đạo, đang định hướng cho xóm giềng! Đó là những tiếng nói có trọng lượng. Đó là đạo đức mới, con người mới của cách mạng!
Mười mẫu vườn là do bóc lột mà có! Chiếc xe đò là do bóc lột mà có! Tất cả tài sản là do lạm dụng quyền thế của con cái mà có! Mấy mươi năm lao động cần mẫn của ông bà Năm trong phút chốc là con số không. Lại mang thêm một cái tội lo gầy dựng gia đình, nuôi dạy mười ba người con có chút học thức, có chút địa vị trong chế độ “Mỹ-Ngụy” !

Những đêm bình công điểm lao động là những lúc Hoàng phải đối diện với thực tế phủ phàng:
– “Chị Hoàng làm không có năng suất nên không thể tính là công lao động chính mà chỉ như công phụ mà thôi.”
Hoàng ôm đứa con trai vào lòng ngồi yên lặng trong bóng tối của ánh đèn không đủ sáng, nghe họ nói về mình. Hơi ấm từ con là nghị lực giúp Hoàng vượt qua giá băng của hoàn cảnh. Hoàng buông xuôi. Sự khác biệt giữa công chính và công phụ là để được chia thêm chút khoai bắp cũng chẳng đủ vào đâu. Cả tương lai của Hoàng và gia đình người ta còn trù dập, cướp đi thì chút khoai bắp có giá trị gì? Đứa con trai nhoài người ra khỏi lòng mẹ, xòe tay bi bô và nở nụ cười thơ dại với người ngồi bên cạnh, những nông dân của Đảng đang hừng hực ganh tị và căm thù mẹ nó!
Không khí ngột ngạt. Căng thẳng.

Một buổi tối, ông tập đoàn trưởng đến nhà ông bà Năm. Sau khi nhấp tí nước trà cho thấm giọng, ông mở lời:
– Anh chị Năm biết rồi. Biết hết rồi. Người trong xóm đang tìm mọi cách để thưa lên xã hoặc lên huyện về tình trạng gia đình của anh chị. Như ông Điền, có đất liên ranh với anh chị, lại bè bạn với nhau từ hồi não hồi nào, bi chừ lại trở mặt vu oan anh chị giành lấn đất, cũng may anh chị còn giữ được mấy miếng giấy viết tay từ hồi mới khai phá rừng chứng minh, chớ không cũng mệt dữ lắm, chớ chẳng chơi đâu. Bi chừ họ áp lực ngầm lên tui. Mà lòng dạ tui đâu có khuất tất gì, cho nên anh chị suy nghĩ kỹ đi. Cái chính sách đất đai đều thuộc của nhà nước, thì sớm muộn gì đất đai anh chị cũng thuộc về nhà nước, chớ chẳng chơi đâu. Lúc đó thì liệu anh chị có còn giữ được nhà, được xe, hay lại bị gởi đi nơi khác?
Ông tập đoàn trưởng né tránh chữ cải tạo, nhưng ông bà Năm thấm ý.

Ông tập đoàn trưởng nói tiếp:
– Tui cũng bất nhẫn trong mấy cái chuyện như thế nầy lắm nhưng ở trên không ai nghe tui, mà không chừng mấy ổng sẽ thay thế tui bằng người khác thì dẫu sao anh chị cũng mất đi một tiếng nói đã giúp đỡ anh chị…

Tiễn ông tập đoàn trưởng ra cửa, ngọn gió đêm buốt lạnh tràn vào. Đêm bên ngoài đen như mực. Không còn loại đêm yên bình ngồi ngắm sao một thuở! Đêm bây giờ là bóng tối đang đè nặng lên tâm tư ông bà Năm. Là con quái vật sẵn sàng nuốt chửng chút hạnh phúc mong manh của tuổi xế chiều mà ông bà đã đắp xây hơn mấy chục năm qua. Ông bà Năm nhìn nhau. Lòng dạ ông tập đoàn trưởng không tệ! Ông ấy cũng không ham cái chức vụ nầy. Ít ra trong số bạn bè lối xóm cũ cũng còn lại một người: ông nằm vùng đang vỡ mộng!

Tuần lễ sau, ông tập đoàn trưởng đưa ông bà Năm lên xã, nộp tờ đơn xin tình nguyện hiến điền (!) để về quê!
Ông Đặng, Bí thư xã, tiếp khách:
– Hai bác biết chuyện, giác ngộ sớm như vậy là rất tốt. Đảng và nhà nước lúc nào cũng khoan hồng cho người biết ăn năn, hối cải và thay mặt Đảng, tôi chấp thuận thỉnh nguyện hiến điền của hai bác. Còn lúc nào hai bác về quê, chính quyền sẽ sẵn sàng cấp giấy tờ để hai bác di chuyển không gặp trở ngại.

Ra khỏi trụ sở xã Hiệp Thạnh gần ngả ba Phi Nôm, nắng buổi sáng chưa xuyên thủng được những mảng mù sương còn lãng đãng trên cây cỏ. Cây cổ thụ vẫn đứng đơn độc bên kia vệ đường, lối về Đơn Dương. Nhìn nắng hanh hao trên ngọn đồi trơ trọi phía bên kia cầu, bà Năm bật khóc. Bà Năm đã cố kiềm giữ không khóc trước mặt ông bí thư, nhưng cho đến giờ phút nầy sức chịu đựng của bà đã cạn. Bà như kiệt sức, không còn cầm giữ được nước mắt. Một tay bà cầm cái túi nylon, có mấy miếng cau trầu, tay còn lại bà nắm lấy bàn tay sần sùi của ông, là chỗ bám víu cuối cùng. Đây không phải là thói quen của bà từ thời còn trẻ cho tới nay:
– Mình rời Sài Gòn, từ lúc mới có hai đứa, con Hai với con Ba! Hơn ba mươi năm nay rồi, bây giờ biết quê ở đâu mà dìa?

Ông Năm cầm bàn tay khẳng khiu của bà. Giọng ông chẫm rãi và bình tĩnh. Ông biết tuổi già của ông bà rất rõ nhưng gắng an ủi bà:
– Thì lúc mình mới lên đây, hai vợ chồng cũng hai bàn tay trắng vậy. Nhân nha rồi cũng có chỗ để mình xin dìa quê mà!

Mẹ trông con qua cầu Ái Tử,
Vợ trông chồng đứng núi vọng phu,
Một mai bóng xế, trăng lu,
Con ve kêu mùa hạ, biết mấy thu cho gặp chàng!

Lời câu ca dao tha thiết. Nhẹ nhàng nhưng sâu lắng. Từng chữ như ngấm vào trong máu, trong tim. Biết mấy thu cho gặp chàng! Nghiêm ơi!

Đoạn đường mịt mù đang ở trước mặt. Đương đầu với nghịch cảnh hay buông trôi? Hoàng phải đương đầu như thế nào để tồn tại, để mong ngày được gặp lại Nghiêm?
Gia đình ba má Hoàng, ông bà Năm, phải bỏ của chạy lấy người! Gia sản mấy mươi năm cần cù lao động bây giờ phải xin tình nguyện dâng hiến cho chính phủ, chính phủ nhân danh người lao động!

Ông bà đã bán chiếc xe, gom góp tiền đi tìm quê mới để về! Hoàng và gia đình Nghiêm cũng phải tìm nơi mới. Đường trở về Sài Gòn đã cụt! Hộ khẩu đã bị cắt. Người không có hộ khẩu là thành phần cư trú bất hợp pháp, đồng nghĩa với bất lương, tội phạm, vì người bị ghép vào thành phần cư trú bất hợp pháp có thể bị bắt bất cứ lúc nào, dù chính mình đang sinh sống trong căn nhà mang tên mình là chủ đã mấy mươi năm! Đây là điều lạ lùng nhất về thủ tục hành chánh của chế độ, một chế độ tự xưng là đỉnh cao trí tuệ của loài người! Hộ khẩu là sợi dây thòng lọng. Sợi dây không còn lơ lửng trên đầu nhưng đã tròng vào tận cổ và nhà nước đang từ từ đẩy cái ghế dưới chân ra.

Đi về đâu?

Ông bà Năm tìm về Châu Phú tỉnh An Giang, một nơi hoàn toàn xa lạ. Thế nhưng là về quê! Hoàng và gia đình Nghiêm sẽ đi vùng kinh tế mới ở Lộc Ngãi. Một năm trước, Hoàng rời Sài Gòn với hy vọng Nghiêm được sớm trở về đoàn tụ. Và bây giờ Hoàng phải rời bỏ đây để đi kinh tế mới vùng khác vì không còn con đường nào để đi.

Nhà cửa, đồ đạc, tháo dở ngổn ngang. Mọi người đang lo thu dọn, sắp xếp, chợt thấy ông Chín Hổ, công an xã, cỡi chiếc Honda đàn bà màu xanh khá bóng láng, chạy đến. Mọi việc bỗng dưng khựng lại. Lòng dạ ông bà Năm bồn chồn, lo lắng. Chắc có chuyện rắc rối nữa đây! Ông Chín Hổ ngừng xe, vẫn ngồi trên yên. Hai chân ông bỏ thỏng hai bên. Nhìn quang cảnh rồi ông đánh diêm hút thuốc. Ông ngậm điếu thuốc đầu lọc làm cặp môi thâm sì của ông hơi trễ xuống. Ông vẫy vẫy ông bà Năm lại gần:
– Cháu hẹn bác trai, trưa lên xã lấy giấy đi đường nhưng tiện thể qua ngã nầy nên cháu đem đến đây cho hai bác luôn.

Ngôn ngữ thật tử tế, lịch sự nhưng ông bà Năm không mảy may xúc động. Ông bà đang hồi hộp đợi chờ để biết cái gì ở đàng sau câu nói và hành động hiếm hoi nầy!

Vừa nói, ông Chín Hổ vừa móc xắc cốt lấy giấy tờ đi đường ra đưa cho ông bà Năm.

– Đồ đạc bác nhiều dữ rứa? Phải mà bác cho cháu bớt mấy miếng tôn. Cái chái chuồng heo nhà cháu cần hai miến
Bà Năm rối ruột, đưa hai tay nhận tờ giấy cho phép đi đường quên cả tiếng cám ơn. Hàng chữ in đậm nét: đang nhảy múa trước mắt bà!

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc

Những con người cần cù, lương thiện, bị cướp giật săn đuổi đến cùng đường!
[1] Kiều

KiwiTeTua
08-03-2015, 09:52 PM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Đất Lành_1438638364.jpg


16. Đất Lành

Công viên Hòa Bình trước nhà thờ Đức Bà hình vuông, có bốn lối vào theo hình chữ thập. Giao điểm là tượng Đức Mẹ đạp chân lên đầu con rắn, cỡ gấp đôi người thật. Đầu con rắn bị sứt mất một miếng nhỏ. Trụ để tượng khá cao. Thân trụ làm bằng đá hoa màu nâu đỏ. Chân trụ cũng là chỗ ngồi của đám thợ hình khi ế khách. Chắc hẳn cái công viên nầy không phải dùng để thương mại mà chỉ để thờ phượng. Một nơi trang nghiêm của thành phố. Mỗi chiều, một số người muốn tĩnh tâm, thường đến ngồi trên một số băng ghế đá chung quanh nhìn lên tượng Đức Mẹ cầu nguyện. Thế nhưng, không biết từ bao lâu, nơi trang nghiêm nầy đã trờ thành một địa điểm thương mại. Là địa bàn chính của Quốc doanh Nhiếp ảnh Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh. Nếu có khách chụp ảnh, muốn có một tấm hình ngồi trên băng ghế đá nhìn vô nhà thờ thì người thợ chụp ảnh không ngần ngại gì xin người đang ngồi cầu nguyện ở đó nhường chỗ và cũng chưa bao giờ gặp sự phản đối. Mọi người hình như đều có cái ẩn nhẫn, chịu đựng nhau. Phải chăng vì cùng cực khổ nên dễ cảm thông hay nhận được tình yêu từ Đức Mẹ nhân từ nên dễ tha thứ cho một người thợ kiếm cơm đang gặp khách? Cũng có thể vì đây là nơi kinh doanh của nhà nước, được cả nể, nên không ai dám đụng đến! Nếu phàn nàn cản trở, biết đâu lại không bị phiền phức đến luật pháp Xã hội Chủ nghĩa và ông công an, ba đời là thành phần bần cố nông, dĩ nhiên phải hành xử kiểu làm cản trở công việc của nhà nước là có ý chống đối chế độ! Một câu nhịn là chín câu lành có khi lại hay hơn!

Chính sách trần tục hóa những nơi tôn nghiêm của nhà nước thật có kết quả, khi hàng ngày đủ mọi chuyện thế tục đang diễn ra tại đây.

Ngoài số thợ chuyên nghiệp lâu đời, đám thợ hình còn lại đủ loại, đủ thành phần.

Loại bụi đời, lang bạt. Vừa chụp hình vừa bàn tính chuyện mua bán dâm, dùng địa điểm nầy để hẹn hò, mối lái. Loại nầy có Ấn Nổ và Hoàng Phi. Ấn Nổ tên thật là Ân nhưng mỗi lần có khách, tùy loại, anh ta “nổ” cách khác nhau. Ấn nút là nổ. Nổ như pháo. Đặc biệt khi gặp đám chị em ta thì lên giọng đại ca. Và đại ca cũng làm được việc là giới thiệu cho các em một số khách làn chơi thuộc loại ở các nơi xa mới về thành phố. Bù lại, khi ế khách, đại ca tìm đến được các em cho mùi mẫn không tính tiền. Đại ca với đàn em là Hoàng Phi cũng vừa là đạo diễn, vừa là diễn viên đóng phim con heo với mấy em để chụp hình và chụp thêm một số hình lõa thể riêng của mấy em, thủ sẵn trong túi đồ nghề, để tùy loại khách đem ra làm mối hay gạ bán ảnh, đặc biệt cho loại khách về Sài Gòn công tác, muốn học văn minh và tìm chứng cớ đem về khoe với đơn vị.

Loại công nhân viên hãng phim Sài Gòn Giải phóng. Họ ăn cắp phim đem ra đây tiêu thụ. Họ nhờ vào tiếng tăm của hãng phim câu khách sộp để chụp hình thêm thu nhập. Họ giữ các chức vụ tổ trưởng, tổ phó như Đổng, Man, Khai và Đường. Bù lại, quốc doanh nhiếp ảnh cũng mượn hơi họ để quảng cáo với khách hàng. Vì mấy cái tên chánh quay phim, phó quay phim nổi bật trên màn ảnh các cuốn phim chiếu trong thành phố gây ấn tượng tốt cho khách, dù thật sự nghề nghiệp của họ cũng chẳng có liên hệ gì nhiều đến chuyện chụp ảnh ở đây. Và có rất nhiều trường hợp, vì họ quen với ánh sáng lý tưởng được bố trí tại các phim trường cho chủ đề nên không quen với loại ánh sáng thiên nhiên bên ngoài, nên số hình họ chụp bị hư, xấu còn nhiều hơn những người thợ bình thường!

Loại ngụy tạo danh tánh. Vì khi ra tù không nghề, không vốn, không hộ khẩu, lại bị kỳ thị mọi mặt nên lục soạn đồ cũ may đâu còn sót lại cái máy chụp ảnh thì nhờ đám thợ ảnh chuyên nghiệp, có uy tín trong nghề, giới thiệu đi làm mà không phải điền đơn, kê khai lý lịch, trắc nghiệm khả năng kỹ thuật. Thân, Tân, Cù Hè và Nghiêm thuộc loại nầy. Loại nầy thì hành nghề rất cẩn thận. Tận tụy. Thoạt nhìn thì họ yêu nghề rất mực. Nắng sớm, chiều mưa, đêm hôm khuya tối họ đều có mặt tại địa bàn. Đôi lúc công viên vắng tanh họ vẫn còn bám lại như những con cò đang đứng cô đơn trong quảng vắng, nhờ thế đôi lúc họ vớ được khách sộp. Các thành phần có tiền, sau khi ăn nhậu, lả lướt về khuya thường có thêm cái thú thích chụp ảnh với người đẹp! Chỉ qua vài mẩu đối thoại cũng có thể biết chút ít về thành phần xã hội của họ. Họ rất phông độ trước người đẹp và thợ chụp hình.

– Ông chụp lấy cho hết đỉnh tháp chuông nhà thờ cho tôi nhé!

Chữ lấy và cho tôi nhé cuối câu rất quan trọng! Ngôn ngữ loại sai bảo nầy không phải thứ dân thường! Nhưng bóng tối bao trùm, công viên thì chỉ có mấy ánh đèn đường vàng vọt chiếu sáng, tháp chuông nhà thờ lại cao nghễu nghệnh lờ mờ trong bóng đêm, nên người biết tối thiểu về chụp ảnh hẳn không ai có thể đưa ra một đòi hỏi lạ lùng như vậy! Cho nên phải rất khéo léo giải thích để khách hàng không mất cái hào hoa phông độ với người đẹp và chụp ảnh theo ý mình mà khách vẫn vừa lòng!

Nhóm nầy, thật sự là những người đem lại lợi nhuận cho công ty. Nhưng bên trong họ luôn luôn lo sợ, vì nếu tông tích bị lộ thì chắc chắn sẽ bị đưa ngay trở lại trại cải tạo và cái mũ CIA sẽ bị chụp ngay lên đầu! Chụp ảnh là số một trong số 13 nghề bị cấm làm, kể cả nghề hớt tóc! Nhưng TV, radio của nhà nước thì đường lối chính sách vẫn trước sau như một. Không phân biệt đối xử!

Loại nguy hiểm nhất là đám công an chìm! Họ vừa chụp ảnh, vừa săn tin, vừa hành nghề mật vụ. Họ là loại công an bảo vệ chính trị. Công an giao thông, công an kinh tế đều đứng đàng sau loại công an nầy! Chế độ tồn tại hay không là đám công an nầy.

Họ còn trẻ và có cái thính mũi của một loài chó săn. Có cái hiền lành, kiên nhẫn của một chú mèo nằm đợi con mồi. Mềm nhũn! Nhưng khi đã vung tay chộp bắt thì con mồi khó thể thoát thân vì lúc đó bộ móng vuốt khéo che giấu mới bung ra, cứng như thép, sắc như dao cạo chộp ngay vào yết hầu! Cuộc biểu tình đầu tiên chống chế độ tổ chức gần sở thú tháng 6 năm 1991 bị bể ngay từ đầu là do nhóm nầy. Họ nói năng từ tốn, không khoa trương, khoác lác nên rất dễ cho người khác tâm sự. Được cái số người nầy không ra hiện trường chụp ảnh thường xuyên. Đôi khi họ vắng mặt cả tháng dài. Thường họ ra hiện trường rất trễ, tám chín giờ đêm. Đến và đi rất bất chợt. Bin, Đen thuộc nhóm nầy.

Và thêm một ông biệt động thành tên Nhiên. Ông nầy nằm trong nhóm của ông La Văn Liếm, chỉ huy trưởng biệt động thành Sài Gòn. Hàng năm cứ đến ngày lễ kỷ niệm đơn vị đặc công của thành phố ông đều tham dự, rồi sau đó kể lại. Đây là niềm hãnh diện của ông. Ông biệt động thành tánh tình cởi mở, nói cười thỏa mái, ít câu nệ. Ông thuộc loại lè phè và cũng hơi ba phải. Điểm đặc biệt là đôi chân ông bị “xi cà que”! Ông là biệt động thành thứ thiệt hay dõm không ai biết chắc nhưng có thể là thiệt! Có thể nhờ tính tình loại ba phải ruột để ngoài da với đôi chân giống như tật nguyền nênông đánh lừa được cảnh sát Việt Nam Cộng hòa chăng? Ông hoàn toàn không có cái nhanh nhẹn, tháo vát và lầm lì, điều mà các thám tử thực hiện công tác giết người, phá hoại phải có. Nghề chụp hình của ông cũng rất khiêm tốn. Ông là tác giả thường trực của số hình chụp hư hoặc xấu nên thường bị khách hàng chê, đôi khi bị sỉ vả nhưng được cái cười hề hề, xin lỗi nên mọi chuyện cũng êm xuôi. Câu chuyện tôi chụp ông Lê Duẩn cụt cẳng được ông kể rất chi tiết rồi đưa hình cho cả đám thợ xem.

Hôm đó, bên thông tin văn hóa quận 1 bất ngờ cho người đến cửa hàng quốc doanh nhiếp ảnh (vì cửa hàng nầy trực thuộc quận 1) là họ cần ngay một người thợ.[1] Ông Minh, cửa hàng trưởng, định cho người chạy ra ngoài địa bàn nhà thờ Đức Bà tìm vì cửa hàng nằm ngay ngả tư Lê Thánh Tôn-Đồng Khởi (Gia Long cũ), chỗ văn phòng hàng không Việt Nam trước kia rất gần thì gặp ông biệt động thành bước vào. Ông Minh nghĩ cũng như những lần trước, chẳng có gì quan trọng, nên dù biết tay nghề của ông biệt động thành rất rõ nhưng ông biết thợ không thích chụp cho nhà nước vì vừa mất thì giờ, vừa rắc rối tiền bạc, lại chẳng được bao nhiêu nên tiện thể ông Minh thông báo cho ông biệt động thành.
Ông biệt động thành nhại giọng cán bộ kể:

– “Ông vớ bở! Đang thiếu chỉ tiêu ấy mà! Tớ đi ngay với ông văn hóa quạnh đang đứng chờ!”

Thật bất ngờ, đó là lần thăm viếng “đột xuất” bà chủ tịch Quận I của ông Lê Duẩn, Tổng bí thư Đảng. Theo tin đồn đãi thì bà chủ tịch là nhân tình cũ của ông Tổng bí thư, cho nên khi vừa thấy xe đỗ bà chạy tới, cận vệ vừa mở cửa xe thì ông Tổng bí thư cũng nhào ra. Hai người ôm nhau rất thắm thiết tình đồng chí và cái cảnh nầy ông biệt động thành không kịp trở tay! Cái máy xí lố cố không thể chụp từ xa và cũng không dám chạy lại gần do đó mấy tấm ảnh được chụp loạn xạ trong lúc nầy, không đúng khẩu độ và khoảng cách nên đều bị nhòe. Chỉ may mắn có được một tấm tương đối rõ thì lại không nằm ngay ngắn như những tấm ảnh bình thường. Phải để nghiêng tấm ảnh xem thì đầu của ông Lê Duẩn bị cắt sát mí tóc còn hai chân thì một cụt ngay chỗ đầu gối, một cụt thấp hơn. Còn bà chủ tịch, đang nhón gót cao cho vừa tầm ông Lê Duẩn, nhờ nằm gần đường chéo tấm hình, nên còn nguyên vẹn.

Ông biệt động thành đem tấm hình ra khoe rồi cười hề hề.

Không riêng gì ông biệt động thành, đám thợ hình thường có nhiều phi vụ đặc biệt đểkể cho nhau. Vừa vui, vừa giết được thời gian ế khách.

Ông Viện, tổ trưởng cũng có chân dạy thêm một lớp về nghệ thuật nhiếp ảnh đang rất thịnh hành ở thành phố. Những thành phần có máu mặt, thích chụp ảnh thường mướn mấy ông thầy nầy thực hiện. Viện còn trẻ, độc thân nhưng là thầy giáo nên ngôn ngữ và thái độ rất đáng tin.

– “Sau party, học trò của tôi dắt lại giới thiệu với tôi một người đẹp. Cô bé nhìn cũng dễ coi. Cô yêu cầu tôi chụp cho cô một số hình đặc biệt. Lúc nầy tôi đã hơi xỉn. Người đẹp có lẽ cũng vậy. Tôi không lạ gì những trường hợp như thế nầy nên nhận lời. Tôi hỏi: bao giờ? Người đẹp trả lời dứt khoát: tôi sẽ cho người đến đón anh tối mai. Tôi phân bua: muốn chụp ảnh đặc biệt, tôi phải có chút chuẩn bị. Sớm nhất là hai ngày sau. Người đẹp: như vậy thì tối thứ tư. Tôi nghĩ chắc người đẹp muốn chứng tỏ mình là thành phần ngon lành nên từ chối và nói: cho tôi địa chỉ tôi sẽ tìm đến. Cô học trò tôi nháy mắt. Tôi lại hiểu lầm: chắc con bé chịu đèn rồi nên tôi gật đầu. Đúng hẹn, khoảng chín giờ đêm có chiếc xe hơi đến đón làm tôi thật ngạc nhiên. Thời buổi nầy mà có xe hơi thì lạ lắm. Trong đời tôi cũng chưa bao giờ có được hân hạnh nầy.”
Viện mở túi đồ nghề lấy ra một xấp ảnh khá dày nhưng không cho xem. Đó là ảnh chụp ái nữ ông Nguyễn Văn Linh, Bí thư Thành ủy trong phòng riêng. Quần áo và trang trí dựa theo Playboy. Một số thợ ở đây cũng đã chụp loại hình tương tự cho một số cô trong giới ăn chơi vì đang là phong trào thời thượng của thành phố và thường đem ra khoe với đám thợ hình trước khi giao cho khách. Trường hợp của Viện rất đặc biệt nên Viện sợ không dám cho thợ xem. Không được nhìn thấy hình nhưng nghe Viện kể, đám thợ cứ cười lên hăng hắc và hít hà om sòm!

Imex, ngôi nhà hiện đại nhất của thành phố, được xây cất do quỹ tích lũy từ lương tháng của quân nhân Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Bên trong có thang máy. Dưới có tầng hầm cho xe hơi đậu. Imex nằm trên đường Nguyễn Huệ, bấy giờ là trung tâm thương mại xuất nhập cảng quan trọng nhất của thành phố. Ông Charles Đức, quốc tịch Pháp, chồng của đào cải lương Bạch Tuyết là giám đốc. Ông Charles Đức có nhiều liên hệ mật thiết với các lãnh tụ của chế độ, nên những nhân vật chóp bu thường đến đây. Họ đến cả về đêm. Trên sân thượng tòa nhà có một lều tranh và cũng là quầy rượu. Cây kiểng chưng bày rất đẹp. Ở đây có thể quan sát cả thành phố, Thủ Thiêm và sông Bạch Đằng. Nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh thỉnh thoảng dẫn vài nhóm học trò học nhiếp ảnh lên đây vào buổi chiều. Dân thường muốn đặt chân đến đây chắc hẳn phải qua cửa ải ông gác dan, mà danh từ mới gọi là bảo vệ. Thợ chụp hình gặp khách xịn, sau khi chụp mấy kiểu nơi chậu kiểng trước thềm nhà mà được ông bảo vệ gật đầu cho phép dùng thang máy lên sân thượng thì coi như trúng số. Mấy ông bảo vệ ởđây lúc nào cũng quần áo bảnh bao, không đồng phục và chỉ hút thuốc có cán nên rất nhiều người có vai vế mới đến tưởng lầm, cứ dạ thưa…

Sân thượng có cái cao của chóp bu, đứng ngồi trên đầu thiên hạ,là nơi mấy ông lãnh tụ thích đến chắc không phải vì việc nước. Đây là hang động hiện đại bí mật, trái ngược hẳn với địa đạo Củ Chi thời còn chiến tranh. Bên trên thì tiệc tùng, yến ẩm nhưng bên dưới vẫn vắng vẻ tránh được sự dòm ngó của người dân. Ở đây rất tĩnh lặng. Thứ tĩnh lặng uy nghi của những kẻ đầy uy quyền thụ hưởng! Thường thường các cô chiêu đãi được tuyển chọn đã được sắp xếp từ buổi chiều. Xe chở họ vào dưới tầng hầm rồi lên thẳng bên trong nên không một gặp mặt.

Imex là địa điểm 2 của Quốc doanh Nhiếp ảnh Quận I. Khu vực nầy là nơi ăn chơi hạng sang của thành phố. Bin và Nghiêm thường bám trụ ở đây về đêm. Bin biết khá rõ nhân dáng của các lãnh tụ dù là ban đêm thiếu ánh sáng. Một lần Bin chỉ ông Võ Nguyên Giáp mặc sơ mi trắng ngắn tay,áo ngoài quần với một cận vệ theo sau. Lần khác là ông Nguyễn Văn Linh, cũng đến đây khá khuya với một cận vệ. Họ đến như những người nhàn tản, rất bình thường, nên nếu không biết rõ thì rất khó nhận ra.

Vắng khách, đang ngồi tán gẫu với mấy thợ chụp hình khác dưới chân tượng Đức Mẹ, trước nhà thờ Đức Bà thì thấy Nghi đạp xe trờ tới. Nghiêm có chút ngạc nhiên, lên tiếng:
– Ủa, xích lô đâu mà đi xe đạp tới đây ?

Nghi lờ vờ:
– Đổi tài. Nghỉ xả hơi một bữa!
– Khá không?
– Khá con mẹ gì!
– Có gì lạ không?
– Có. Có nên mới nghỉ xả hơi ra đây tìm mày.
– Tao cũng đang ngồi ngáp ruồi đây.
– Qua bà Hai kiếm cái cà phê. Nói chuyện.

Nghiêm quay qua nói với Thìn, người đang ngồi bên cạnh:
– Tôi bỏ tài. Anh cứ đôn lên.

Vì thợ đông nên phải chia tài, theo kiểu tài xế ở bến xe!
Nghiêm kêu hai cái cà phê đá. Cà phê đá ở đây nổi tiếng là ngon.
Nghi tâm sự việc sắp xếp của mình, rồi hỏi:

– Mày thấy như vậy có ổn không?

Nghiêm như chìm trong suy nghĩ, không trả lời. Nghi tiếp:
– Thằng Lân sẽ chở tao đến ga Bình Triệu và chờ bên ngoài. Mày và tao vào trong tìm. Mày cố làm sao chụp cho được cái ngơ ngác của cô nàng giữa đám đông và cái xúc động của tụi tao khi gặp lại nhau là hoàn thành thiên phóng sự của mày. Bốn năm năm đã trôi qua, tụi tao cũng chưa chắc dễ nhận ra nhau.
– Vậy mày có dặn bảo dấu hiệu gì để nhận diện không? Áo vàng, áo tím gì đó. Hay mang cái gùi trên vai chẳng hạn ! Mà tại sao lại không thêm một cái vương miện bằng hoa lá rừng Hoàng Liên Sơn kiểu La Mã nhỉ? Bảo đảm trăm phần trăm, vừa dễ nhận, vừa không trùng với ai cả !
– Mày thì lúc nào cũng phịa thêm chuyện.
– Ừ, tiên nữ của rừng xanh mà! Coi chừng tao mê tiên nữ của mày cũng như tao đã mê tiên nữ Audrey Hupburn có đôi mắt to, tròn như mắt sóc, trong một phim đóng ở rừng. Khi cô nàng trốn người lạ thật kín ở trên một nhánh cây nhưng lại quên mặt hồ nước trong xanh bên dưới phản chiếu. Khuôn mặt và đôi mắt nàng nổi trên gợn sóng lăn tăn, làm trái tim tao xao xuyến. Đôi mắt đó đã làm cho tuổi chớm yêu của tao mê mẫn, nhớ mãi đến bây giờ.
– Cái khổ là cô nàng không có cái áo nào có màu sắc đặc biệt để khác lạ giữa đám đông. Và thư từ chỉ mới nhận được cái thứ ba nên cô nàng dặn tao mặc áo sơ mi xanh và đội nón lá.

Nghiêm cười thật thỏa mái:
– Gớm, chỉ lá thư thứ ba mà đã bỏ nhà chạy tuốt vô Nam tìm trai rồi!

Nghi giận đỏ mặt:
– Vừa phải thôi nghe mày!

Nghiêm trầm ngâm nhìn bạn. Ngày tháng Hoàng Liên Sơn lại hiện về. Là tháng năm không thể nào quên trong một đời người nhưng chắc chắn lúc nầy chưa phải là lúc ngồi nhìn lại. Từ sau 30-4-1975 đến bây giờ vẫn là một cuộc tản hàng ! Một cuộc chạy! Đang tiếp tục chạy và vì thế không ai muốn đứng nhìn lại đoạn đường đã qua. Phải tiếp tục đoạn đường còn lại. Nhưng chuyện tình tưởng như vô vọng của Tố Nga bỗng dưng làm sống lại ngày tháng cũ. Mỗi người phải đương đầu với gian khổ một cách khác nhau, chịu những khắc nghiệt khác nhau. Những cánh bèo trôi dạt tưởng như vô định trước cơn sóng dữ lại gặp nhau. Lại tựa vào nhau. Bám vào nhau. Tố Nga đã can đảm và phản ứng dứt khoát, dám sống chết cho một tình cảm mong manh nhưng rất thật. Rừng núi Hoàng Liên Sơn không thể giam hãm được ước mơ của một trái tim không chấp nhận sự an bài của chế độ.

Uống thêm một ngụm cà phê, nhìn cái bồn chồn với toan tính của Nghi, Nghiêm thấy mừng cho bạn:
– Đùa với mày đó. Tao cũng xúc động không kém khi nghe tụi mày bắt lại được liên lạc với nhau. Cả bọn tao cũng mong được gặp cô nàng. Cái gian khổ và lãng mạn kết hợp nhau làm sao quên được. Mong rằng cuộc tình tụi mày kết thúc có hậu. Nhưng cái đẹp ở núi rừng và ở thành phố khác nhau mày có chuẩn bị tâm lý cho bà già chưa?

– Cả ông bà già đều phúc hậu mà. Tiêu chuẩn ưu tiên của ông bà già là tình yêu chân thật và biết hy sinh. Chính ba má tao hối thúc tao kêu con bé vào ngay và rất trông đợi để gặp con bé. Con bé viết thư cho tao cũng lo sợ vụ liều này lắm !
Mới đó đã hơn bốn năm trôi qua, kể từ ngày rời trại Khe Tối. Bước đường tù mịt mờ, đói khát, bị hành hạ, chết chóc luôn săn đuổi nhưng đời sống vẫn có sự bí mật ở phía trước! Không ai biết được cái sắp đến. Chỉ chuẩn bị. Mơ ước. Phấn đấu. Nhưng hiện tại bao giờ cũng mới mẻ và ngạc nhiên. Đó là sự sinh động cho dù thành công hay thất bại. Cứ nghĩ đã chết đi ở một trại tù nào đó, thân xác đã bị vùi dập ở một ven rừng nào đó như một số người thì giờ đây thân xác ấy đã tan rã trong lòng đất cho cây lá rừng vẫn xanh! Những trang hồi ký, những tập truyện, bây giờ cố vẽ lại, viết lại, thì ngọn gió vẫn vô tình lay động trên cành cây, ngọn cỏ nơi nấm mồ hoang vu! Làm sao quên được quá khứ, một đan kết của khổ đau và thù hận. Thứ thù hận của một chủ nghĩa không tưởng, thêu dệt để đày đọa con người vào một khuôn mẫu như đồ vật.
Ngày tháng sắp tới sẽ ra sao. Hiện tại vẫn là bóng tối. Tương lai vẫn mịt mờ cho cả một dân tộc không riêng gì cho những tù nhân được cho về ! Nhưng sự chờ đợi của Nghi đã có thêm một ngày mới. Một dấu hiệu mới. Một chặng đường mới. Dù chưa biết được kết thúc nhưng sự nối kết đã nói lên một hạnh phúc mới. Loại hạnh phúc tìm được mà chỉ những kẻ kề cận cái chết trong cực hình mới thấm thía khi nếm được vị ngọt ở đầu môi.

Quán cà phê vĩa hè đang đông khách ra vào. Đây là nhà in của báo Lao Động nằm cạnh văn phòng tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn trước kia. Sau năm 1975 họ đã chiếm đoạt cơ sở nầy. Từ công viên Hòa Bình nhìn qua, dãy nhà văn phòng Tòa Tổng Giám Mục im lìm gần như hoang vắng. Chỉ có những cây sứ cùi đang còn cố vươn tay qua dãy hàng rào tường rêu mốc, như nhắc nhở người qua đường.

Nghiêm chưa bao giờ đọc tờ báo Lao Động nầy nhưng cơ ngơi của một tờ báo lại do cướp đoạt thì nội dung liệu có nói lên được cái tối thiểu của công lý ?

Con tàu Thống Nhất cuối cùng rồi cũng bò vào bến. Chuyến tàu hôm nay về trễ gần một tiếng đồng hồ. Khi tiếng còi tàu vang lên Nghi, Nghiêm và Lân cùng đứng dậy quên hẳn cái uể oải của sự đợi chờ. Lân vui vẻ ra mặt, quày quả ra chiếc xích lô đậu gần đó còn quay đầu lại i ỉ một câu trong bài Lý con ngựa ô, chọc Nghi:

– Anh đưa nàng..là…anh đưa nàng là..là… dề din!

Nghi không trả lời cùng Nghiêm bon chen giữa đám đông vào trong. Cả hai cố gắng tìm một chỗ dễ quan sát. Dòng người nhốn nháo, xô bồ. Sân ga chật hẳn lại. Nghi mặc áo xanh và đội nón lá trông lạ huắc. Nhưng cái căng thẳng trên khuôn mặt Nghi mới đặc biệt.

Con tàu nhả ra đủ loại người. Chen lấn nhau hỗn độn. Tiếng rao hàng, tiếng mời chào bắt khách, tiếng tru tréo, la mắng chửi nhau om sòm. Sân ga với những tình khúc nên thơ và xúc động như lên xe tiễn em đi, chưa bao giờ buồn thế hoàn toàn không thấy ở đây. Nghi lẩm bẩm:

– Người người như thế nầy thì khó nhận ra lắm.

Nghiêm cầm cái máy chụp ảnh trên tay và túi đồ nghề đeo ở trước bụng đề phòng bọn đạo chích. Nghi kéo tay Nghiêm:
– Mình lùi trở lại để cô nàng dễ nhận ra tao hơn là đứng gần đây.

Khi lượng người giảm dần, Nghi chỉ tay về một người con gái đang bước xuống tàu:
– Có thể là cô nàng !

Nhưng một người đàn ông vừa chạy tới, đón đỡ cái xách tay. Nghiêm bất ngờ nghe một giọng nói nhỏ từ phía sau:
– Xin lỗi có phải anh Nghi đấy không ạ ?

Nghiêm quay lại như một cái máy. Trong khoảnh khắc ấy, Nghiêm dang ra xa và đưa máy lên bấm theo tiếng ồ kinh ngạc của Nghi.
– Tố Uyên! Em đi có một mình? Chị Tố Nga đâu?

Nghiêm chụp vội thêm mấy tấm hình nữa, rồi lãng ra xa dành chút riêng tư cho bạn.

Từ xa nhìn lại, Nghiêm thấy Nghi như chết sửng và tái xanh. Sự việc gì đó đang xảy ra chắc chắn là quan trọng. Quan trọng hơn mọi điều đã tiên liệu. Nghiêm nghĩ ngay đến định mệnh !

Buổi tối, Lân và Nghiêm đạp xe đến nhà Nghi. Gõ cửa thật lâu. Má Nghi ra đón. Bà vỗ vai Lân và Nghiêm thì thầm:
– Tụi con tìm cách an ủi thằng Nghi. Hai bác thấy tinh thần nó suy sụp hẳn. Còn con nhỏ Uyên thì khóc đến sưng cả mắt.

Lân, Nghiêm vào. Lân không còn ồn ào kiểu cái miệng đi trước như mọi khi. Căn phòng khách như rộng hơn. Thật yên lặng. Từng tiếng tích tắc của cái đồng hồ đang treo trên tường nghe thật rõ. Ba Nghi và Nghi ngồi yên trên ghế. Tố Uyên dợm người đứng dậy nhưng Nghi ra dấu ngồi lại. Nghi chỉ tay qua Nghiêm và Lân, nói với Tố Uyên:
– Anh Nghiêm, anh Lân bạn tù cùng trại Khe Tối với anh.

Má Nghi lại ngồi bên Tố Uyên. Bà vỗ vỗ lên vai Tố Uyên:
– Con ăn uống tí chút gì đi để giữ sức khỏe. Đường xa mệt mà không ăn uống gì như thế nầy làm bác lo lắm. Bác đi lấy thức ăn lên cho con nghen?

Lân tiếp:
– Em nên nghe lời bác. Mọi người ở đây như trong một gia đình. Tất cả đều lo cho em.

Tố Uyên đứng dậy:
– Cám ơn hai bác và các anh.

Rồi quay qua nói với má Nghi:
– Con theo bác vào trong…
– Không. Không khách sáo gì ráo trọi. Con ngồi đây. Ngồi yên đây. Để bác lo cho. Phải có cái ăn, cái uống mới được.

Bà vừa nói, vừa ấn trên vai Tố Uyên, bắt ngồi xuống.
Không ai biết phải bắt đầu câu chuyện như thế nào. Vết thương lớn quá. Cả mọi người như ngộp thở. Yên lặng chờ đợi nhưng không biết chờ đợi cái gì! Một lời nói, dù là an ủi, cũng như một nhát dao cứa thêm vào vết thương đang rĩ máu, vào nỗi đau đớn tột cùng.

Cuối cùng Nghi lên tiếng:
– Tố Nga bị thằng chín ngón hiếp ngay buổi sáng tụi mình rời trại Khe Tối. Ngay tại chỗ cưa xẻ!

Tố Uyên tiếp:
– Chị lê về được đến nhà thì kiệt sức. Cả tuần lễ thầy mẹ và em phải chăm sóc cho chị. Chị uất ức lắm. Anh biết, một người con gái bị làm nhục như vậy đau đớn là thể nào! Yên lặng thì càng bị dồn nén, hành hạ mãnh liệt hơn. Lên tiếng thì xấu hổ. Chỉ còn con đường tự sát. Chị như không còn lối thoát. Chị tuyệt vọng. Tuyệt vọng về cả việc chia tay với anh Nghi. Vì thân phận tù các anh ai cũng nghĩ sẽ bỏ xác một nơi nào đó thôi. Nhưng cuối cùng chị cũng vượt qua được. Chị quên bản thân. Quên việc xấu hổ. Chị nói phải làm một cái gì, chị không bỏ cuộc. Chị phải đấu tranh. Nhất định chị phải tố cáo. Chính sự tố cáo của chị mới đưa đến thảm kịch.

Giọng kể đều đều của Tố Uyên thấm trong nước mắt, tiếp:
– Hôm xử ở quận, mấy tên công an xã đã từng đeo đuổi chúng em nhưng không được, cũng vào xem. Khi họ bắt chị trưng bằng cớ, chị bình tĩnh nhìn vào mặt ông trại trưởng kể từng chi tiết, dấu vết chị ghi nhận được trên người ông. Đám công an theo dõi cười khả ố làm tòa phải yêu cầu giữ trật tự.

Sau đó ông trại trưởng được ông chỉ huy phó trung đoàn xác nhận, ông ấy là cán bộ gương mẫu đã được đề nghị chiến sĩ thi đua hai năm liền! Còn ông trại trưởng thì tố cáo chị Tố Nga đã có liên lạc với các anh. Ông trưng bằng cớ lá thư tình của chị viết định tìm cách gửi cho anh Nghi sáng hôm đó, nhưng không dẫn chứng được tên người nhận vì trong thư chị chỉ viết anh yêu dấu chứ không đề tên anh. Ông trại trưởng nhân danh một chiến sĩ cấp thi đua, tố cáo ngược lại chị:

– Chị Tố Nga vi phạm luật pháp nhà nước, có quan hệ bất chính với tù cải tạo, chị sợ tôi tố cáo trước nhân dân nên vu oan cho tôi. Xin các đồng chí xét cho.

Kết thúc, họ xử vụ án không đủ bằng chứng buộc tội. Ông trại trưởng ung dung ra về.

Người trong xã biết sự thật nhưng luật pháp là của Đảng và nhà nước, mình làm sao chống lại nổi? Mình chỉ còn cách tự an ủi nhau thôi. Sau đấy người trong xã thường đến thăm viếng và động viên chị và gia đình thầy mẹ chúng em.

Bị dằn vặt cả mấy tháng dài, từ chuyện cũ họ đuổi gia đình chúng em ra khỏi Hà Nội đi kinh tế mới, chuyện chúng em không thể vào đại học đến chuyện oan ức của chị nên chị quyết định khiếu kiện lên tỉnh.

Chờ mãi. Chờ mãi không thấy ai trả lời nên chị trực tiếp lên tỉnh. Sáng hôm đó chị rời gia đình và không còn bao giờ trở về nữa ! Lộ trình xe thì chỉ có một tuyến đường và mỗi một chiếc xe duy nhất nên mọi người đều nhẵn mặt nhau. Hôm đó không ai thấy chị lên xe đó ! Chị bị mất tích nên cả xóm cùng với gia đình chúng em đổ xô đi tìm. Ba ngày sau xác chị nổi lên ngoài suối lớn.

Công an điều tra nói chị tự tử vì lý do không rõ !

Tố Uyên nghẹn ngào nấc lên.

Ba Nghi vốn hiền lành ít nói nhưng cũng không chịu đựng được nữa. Ông thở dài rồi bật thành tiếng:
– Quân khốn nạn. Chúng giết người để diệt khẩu!

Má Nghi sụt sịt, vỗ về Tố Uyên:
– Ông trời có mắt nghen con!

Căn phòng tê cứng. Một lúc sau Tố Uyên tiếp:
– Cả xã, cả huyện đang bàn tán xôn xao thì lúc đó quân Trung Quốc tràn qua đánh. Mọi người phải bỏ chạy. Rồi chiến sự tràn lan. Đến sau chiến tranh, họ tổ chức lễ tuyên dương. Ông trại trưởng thành anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân! Ông lên chức lớn hơn.

Thời gian trôi qua. Câu chuyện chị Tố Nga bị rơi vào quên lãng. Mọi người đều ngậm ngùi thương tiếc nhưng không còn ai muốn khơi dậy. Duy ngôi mộ của chị không bao giờ vắng hương khói, đó là tấm lòng của người dân trong xã an ủi linh hồn chị.

Xã hội chủ nghĩa thì thừa luật lệ để kết án người dân nhưng không có một luật lệ nào để có thể đem một anh hùng ra xử tội !

Một tuần lễ trôi qua thật nhanh, sáng nay Tố Uyên trở về. Lân đạp xích lô đến sớm ngồi uống cà phê với Nghi. Vợ chồng Nghiêm cũng đến tiễn đưa. Ba má Nghi lu bu với mấy giỏ xách hành lý nặng nề. Tố Uyên vẫn mặc bộ đồ hôm vào. Đôi mắt to tròn có chút quầng đen trông thật u buồn nhưng không dấu được nét thông minh. Mái tóc đen dài buông xõa ôm ấp một bên khuôn mặt trắng xanh. Trông Tố Uyên đẹp não nùng! Nghi nói với vợ chồng Nghiêm và Lân:
– Hai chị em giống nhau in hệt.

Lân hối thúc:
– Đến giờ rồi nghen. Coi chừng trễ tàu.

Nghi hỏi:
– Đồ nhiều quá, liệu mày đạp nổi không ?
– Còn gân mà mầy!

Nghiêm nói:
– Vợ chồng tao đèo bớt một túichạy theo tụi mầy.

Nhìn Nghi, Lân tiếp:
– Mầy lên ngồi trước đi.

Rồi quay qua Tố Uyên:
– Em lên ngồi chung với Nghi.

Tố Uyên phân vân. Có chút thẹn, nhìn ba má Nghi.

Má Nghi lên tiếng:
– Lên ngồi đi con. Cứ ngồi lên đùi của nó.

Ba Nghi cầm tay Tố Uyên, chậm rãi:
– Về thưa với anh chị như hai bác đã bàn với con mấy ngày qua. Thầy mẹ con và con cứ vô đây càng sớm càng tốt. Nhà bác cũng đủ chỗ cho gia đình con ở. Đàng nào hai bên cũng như một rồi. Thằng Nghi thì không thể đi với con ra ngoải vì thứ luật pháp của xã hội nầy không ai lường trước được.

Nghiêm chuẩn bị sẵn máy ảnh, lên tiếng:
– Phải có một tấm hình chụp chung cảnh nầy mới được. Mời hai bác đứng gần lại chiếc xe một chút.

Lân đang ngồi trên yên, một tay cầm lái chiếc xích lô, tay kia cầm cái nón lụp xụp, vẫy vẫy:
– Đóng phim hả?
– Mày thì lúc nào cũng xía vô được.

Nghiêm ra dấu:
– Nghi, mầy nghiêng đầu qua một tí để mái tóc Tố Uyên không che khuất khuôn mặt mầy.

Hoàng chạy vội đến bên cạnh chiếc xích lô, phía Tố Uyên, vừa lên tiếng:
– Chậm chậm nghe anh Nghiêm, còn em nữa.

[1] Thời điểm năm 1982.

Hồ Phú Bông


- HẾT -