PDA

View Full Version : 30-4: Ngày Tháng Sau Cùng, Anh Ở Đâu? - Captovan



khongquan2
03-14-2015, 08:19 AM
30-4: Ngày Tháng Sau Cùng, Anh Ở Đâu?

Captovan


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/di_tan_1975_1426320723.jpg

Những ngày tháng sau cùng của tháng 3, tháng 4 năm 1975 anh ở đâu, làm gì, thế nào, tại sao, là đề tài ai cũng thích kể cho người khác nghe và ai cũng thích… không nghe người khác kể. Biết vậy nhưng tôi vẫn cứ kể, viết lung tung khắp nơi. Nay nhân dịp kỷ niệm 39 năm mất nước, xin ôn vài đoạn gọi là để nhắc cho những cái đầu ở tuổi cổ lai hy đừng quên những gì mình đã khóc ở tuổi tam thập.

Nói một cách tổng quát thì 30/4/75 là cái tang chung của quân dân miền Nam. Tang thì dĩ nhiên là buồn rồi, nhưng tùy hoàn cảnh mà có người muốn quên, muốn chôn sâu, còn có người thì nhớ mãi hằng năm vẫn "làm giỗ" để nhắc cho chính mình. Tình cảnh tuỳ thời thế "đi hay ở" mà nhớ hay quên, khỏi cần phân tích.

Trong khi một số các anh chị kể chuyện Tháng Tư ra đi thì tôi kể chuyện Tháng Tư ở lại.

*Nói dối Mẹ

Quận Thuần Mẫn mất ngày 7/3, gia đình con anh ruột tôi, với 4 nhân khẩu đóng quân trong quận, không biết sống chết ra sao, phiêu bạt nơi nào? Ban Mê Thuột mất ngày 11/3, dòng dân quân, xe cộ súng đạn chen chân trên Tỉnh Lộ 7B, xác người đứng, ngồi, nằm lại đây.

Chiến sự lan nhanh sang Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng khiến mẹ tôi cứ rối lên, bắt tôi đi hỏi tin tức về gia đình cháu nội ở Thuần Mẫn, thằng con út của cụ vả thằng cháu đích tôn, cả hai đang chiến đấu ở Đà Nẵng, rồi tin thằng con ông chú tử trận tại Thuận An. Mẹ tôi không đi nổi, chỉ ngồi dựa vách tay lần tràng hạt, miệng lâm râm cầu kinh rồi hối tôi đi hỏi tin tức con cháu của cụ. Hỏi ai giờ ấy? Thấy bà mẹ quê khóc đứng khóc ngồi, vừa khóc vừa đọc kinh, rồi lại bắt tôi đi hỏi, tôi phải nghĩ cách nói dối:

- Mẹ cứ yên tâm, con đã nhờ mấy người bạn làm lớn lắm ở TTM đi tìm hộ rồi.
- Ừ cứ đi hỏi đi con, tìm đi, tốn bao nhiêu mẹ lo cho, cố mà năn nỉ người ta.

Bạn cùng khóa tôi làm ở TTM thì nhiều nhưng mẹ tôi thì chỉ có cỗ tràng hạt, một cơi trầu, chứ giầu có ba vạn chín nghìn gì đâu mà đòi "lo cho" con, cho cháu. Tội nghiệp các bà mẹ thật thà cứ bị những thằng con quỷ quái nói dối, nói dối từ lúc còn là quỷ ma trốn học.

Sáng 19/3/75, tôi vừa đi xin được thùng mìn chống CX từ một người bạn thủ kho đạn ở Long Bình về để tăng cường phòng thủ cho căn cứ Sóng Thần thì nhận được lệnh của ông đại tá TMT gọi ra trình diện hành quân ở Quảng Trị gấp. Tôi sang gặp Tr/Tá Nguyễn Đức Ân, Chỉ huy trưởng (CHT) Trung Tâm Huấn Luyện HT/TTHL kiêm CHT/CCST, ông cùng các sĩ quan đang ăn cơm trưa, trong đó có ông phó là Trần Xuân Bàng K19, Vũ Thế Khanh K20, Nguyễn Kim Thân K21 v.v.. Tôi nói:

- "Tr/ Tá cho người sang CC Sóng Thần để tôi bàn giao kế hoạch phòng thủ, số mìn chống CX, tôi cần một ngày bàn giao và sẽ chỉ ra trình diện hành quân vào ngày 21/3 mà thôi".

Cùng nhận lệnh với tôi có Th/Tá Doãn Thiện Niệm K21, anh đã đi ngay ngày 19/3. Chuyện gia đình đang rối như canh hẹ, tôi mà báo cho mẹ tôi biết phải ra Quảng Trị, nơi thằng con út và cháu đích tôn của cụ đang chiến đấu ở đó thì chắc cụ thăng thiên sớm, nên tôi đành phải lại nói dối mẹ là đi công tác ở Vũng Tàu.

*Đà Nẵng ngày giờ cuối

Đúng lời hứa, tôi đến BTL/HQ tại căn cứ Non Nước Đà Nẵng chiều ngày 21/ 3/75. Vừa thấy cái mặt mẹt tôi, Đ/Tá TMT Lê-Quê đưa nhất dương chỉ vào mặt tên không ra đúng lúc:
"Lệnh gọi từ ngày 19, sao bây giờ ông mới đến? Sau chuyến này, tôi sẽ đưa ông ra tòa án quân sự. Bây giờ đi liên lạc với Tr/Tá Phan TĐT/HD để phòng thủ căn cứ Non Nước"!

À ra thế, tôi đâu có ngờ gặp ông ở đây, ông là TMT thường trấn thủ Thủ Đô SàiGon, chắc ông bị tư lệnh gọi ra hành quân nên ông hành... quân cấp dưới: "tao ra mày cũng ra".

Ruột đang nẫu như dưa hấu phơi nắng, nghe ông mắng và dọa sẽ đưa ta tòa án quân sự tôi cũng phải bật cười, nhưng không nói gì mà vạch… ra coi, đồng hồ chỉ 3 giờ chiều ngày 21/3/75.

Thấy tôi mỉm cười, ông không nói thêm mà bỏ đi. Đây là lần thứ 2 tôi bị, lần trước ở cống TTHL Rừng Cấm, ông thưởng tôi 15 ngày trọng cấm vì tội dừng xe jeep gần chỗ ông đứng làm bụi bay lên..

Phòng thủ cái khỉ gì khi tôi không có quân trong tay mà chi có cây colt? Buồn tình tôi đi tìm hai tên bạn đang làm việc ở đây là Huỳnh Văn Phú và Trần Vệ. Giữa tiếng bom đạn và đầy âu lo mà nghe Trưởng Phòng TLC Sư Đoàn HVP "nổ" và nói phét thì vui như tết, anh em lên hay xuống..tinh thần là do Phú-Phét, còn TTT/TTHQ Trần Vệ thì đang hò hét với dàn máy. Hai chàng cắm cúi làm việc, tôi đi lang thang, bất ngờ gặp Lê Quý Bình, chàng hỏi thăm:

"Mày đang ở Sóng Thần Thủ Đức mà ra đây làm cái giống gì?"
"Ông Que-Le gọi tao ra để hành (quân), thế mày trồng củ cải gì ở đây?"
"Tao làm phó cho ông Trần Ngọc Toàn K16".
"Ông Toàn đang coi Tiểu Đoàn 4 mà"
"Ông ấy vừa bàn giao cho Đinh Long Thành để về đây thành lập Tiểu Đoàn 18".

Đinh Long Thành là người thứ hai của K19/TQLC được làm tiểu đoàn trưởng sau Trần Văn Hợp trong số hơn 30 tên cùng khóa cùng binh chủng. Long Thành "được" bàn giao giữa tiếng súng nổ đạn bay, tiểu đoàn trưởng chưa kịp biết mặt, biết tên các trung đội trưởng thì cái "Đinh bị Long", TĐP Th/Tá Nguyễn Trí Nam K22 và ĐĐT Đ/Úy Tô Thanh Chiêu tử trận, và rồi tiểu đoàn bị xóa sổ vào ngày 27/3 trên pháp trường (bãi) cát Thuận An!.

Tình hình chiến sự biến chuyển từng giờ, ai cũng tối tăm mặt mũi, chúi đầu vào làm việc mà tôi lại lang thang như chó d.. chỉ vì cái lệnh quái đản thì yếu quá. Là lính, vứt chuyện cá nhân, chuyện gia đình qua một bên, tôi vào TTHQ xin việc, để theo dõi tình hình chiến sự và nhờ vậy mà biết được tin tức LĐ.147/TQLC đang kẹt tại bãi biển Thuận An.
Trước khi mất Ban Mê Thuột ba Lữ Đoàn Dù 1, 2, 3 trấn thủ Đà Nẵng, còn 4 LĐ/TQLC ở Huế, QT, như vậy là 2 Lực Lượng Tổng Trừ Bị bị biến thành địa phương quân - nghĩa quân để giữ đất đóng đồn!

Ngày 11/3/75 Ban Mê Thuột thất thủ, ngày 13/3 Tonton ra lệnh rút Dù về Sài gòn làm tổng trừ bị, trong số những Mũ Đỏ này hẳn là có nhiều K19 như Hải Khều Đoàn Phương Hải chẳng hạn. Khi rút Dù vào SG thì TQLC được lệnh kéo 3 Lữ Đoàn từ Huế vào Đà Nẵng trám chỗ trống của Dù rút ra, chì còn để lại Huế LĐ.147/TQLC mà thôi.
Lữ Đoàn Trưởng LĐ147 là Đ/Tá Nguyễn Thế Lương, LĐP là Tr/Tá Nguyễn Đằng Tống K16, gồm có các Tiểu Đoàn 3, 5, 7 của các TĐT K20 là Nguyễn Văn Sử, Phạm Văn Tiền, Phạm Cang và TĐ.4 của K19 Đinh Long Thành. LĐ.147/TQLC và SĐ.1/BB là lực lượng của QĐI Tiền Phương đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tr/Tướng Lâm Quang Thi.

*Bãi biển Thuận An

Khi bỏ Huế, Tướng Thi cho lệnh rút quân ra bãi biển Thuận An, xuôi Nam vào Đà Nẵng bằng cách dùng cầu hay tàu thuyền vượt qua cửa biển Tư Hiền, nhưng đi nửa đừơng thì ông tướng cho lệnh dừng lại để chờ tàu Hải Quân vào đón, vì cầu qua cửa Tư Hiền không làm được. (?). Nhưng than ôi! Không có tầu nào vào đón quân dân ta, trừ con tầu ma*, thế mới kỳ! Kỳ ơi là Kỳ! Do kỳ cục hay kỳ đà nào cản mũi mà tàu không vào bốc quân được, cũng không vào tiếp tế, quân trên bờ hết đạn, hết lương thực, hết nước uống, địch bao vây tấn công, Cọp Biển đành xút móng, đành bị hy sinh "oan uổng", chết đủ kiểu, chết trên bờ, chết dưới nước, chết trong lòng "con tầu ma", chết tức tưởi, chết vì hỏa lực từ trên các đồi cát xả xuống, chết vì chửi thề rồi ôm nhau rút chốt lựu đạn mini! Trong số này có Th/Tá Nguyễn Trí Nam và Đ/Úy Tô Thanh Chiêu, em tôi!

"Con tàu ma" là một chiếc tàu vào bốc quân, nhưng vì số lượng đông quá sức chứa, tàu mắc cạn đang loay hoay tìm cách lui ra biển thì bị VC chơi B40, B41, người chết trong lòng tầu, người chết trên boong, người rơi xuống biển "chết vì nước"… nên tôi gọi đó là con tàu ma còn Tháng Ba Gẫy Súng Cao Xuân Huy gọi là quan tài sắt.

Năm 2011, đồng bào thôn An Dương và các thôn dọc theo bờ biển Thuận An đã và đang mới chỉ thu gom được 132 bộ xương trôi dạt vào bờ, trồi lên mặt cát rồi các ân nhân này đem tập trung vào một khu gọi là nghĩa trang với bia đá:

"Thập Loại Cô Hồn Hiển Hách Chi Mộ".

Cám ơn đồng bào thôn AN DƯƠNG tuy đang sống dưới chế độ XHCN, nhưng vẫn nhớ thương đến người lính VNCH đã thu gom hài cốt để lập mộ, dù biết những hài cốt này là TQLC, nhưng bị nhà cầm quyền làm khó nên đành ghi bia đá "Thập Loại Cô Hồn"! Tổng hội TQLC đã gửi tiền về để nhờ đồng bào lập trai đàn cầu siêu nhưng "9-quyền" địa phương không cho phép! Thế đấy, tụi ác quỷ nhớ dai nhưng người Việt tỵ nạn CS thì mau quên!

Chi tiết về thảm họa trên đây đã có trong các bài viết "Ngày Tháng Không Quên" của Đ/Tá Nguyễn Thành Trí, TLP/TQLC, "Tháng Ba Gẫy Súng" của MX Cao Xuân Huy, đã có Phạm Cang viết về TĐ.7 Di Tản, đã có "Người Lính Bị Bỏ Rơi" của Phạm Vũ Bằng và "Hồn Hoang Trên Pháp Trường Cát Thuận An" của Philato. Trong câu chuyện kể này tôi xin được không nhắc lại nữa.

Lính cầm súng chiến đấu thì cầm chắc cửa tử trong tay, không chết nay thì mai, đang nhai miếng cơm xấy thì đạn bắn toét miệng, cơm, máu và óc văng vào mặt thằng bên cạnh! Họ không kêu không than không trách vì đó là bổn phận, nhưng nếu chết vì cấp chỉ huy cẩu thả, "đem con bỏ chợ" thì không hiểu được, chỉ biết chửi thề.

Dù là tấn công hay lui binh đều cần có ít nhất là hai kế hoạch, vậy mà một cuộc lui binh cấp sư đoàn (+) lại chỉ có đường duy nhất là rút ra bờ biển, ra bờ biển thì bắt buộc phải có cầu hay tầu. Nhưng rồi Tướng Thoại HQ chẳng làm nổi một "cái cầu" để TQLC đi, Tướng Thi không ra lệnh nổi một cái tàu há mồm vào đớp lính. Nếu có kế hoạch hai, lấy QL1 làm trục lui binh cho SĐ.1BB và TQLC thì quân ta rộng đường tiến thoái, dẫu có thiệt hại cũng không bị lâm vào cửa tử như đã xẩy ra!

Tức thế đủ rồi, tôi mời các bạn vào vào Đà Nẵng.

Ngay khi có lệnh rút khỏi Huế từ chiều 24/3, người dân từ Bắc xuôi Nam, người từ Tam Kỳ QN ngược lên, tất cả đổ vào cái rọ Đà Nẵng, bao thảm cảnh xảy ra tại đây, hẳn là có nhiều K19 chứng kiến, trong đó có Th/Tá Hoàng Trai, CHT/TTHL/SĐ.1BB. Tôi ở Non Nước, em tôi ờ Sơn Trà, cháu tôi ở phi trường mà không thể liên lạc được với nhau.

*Bờ biển Non Nước

Sáng ngày 29/3/1975, lúc 6 giờ, trước cửa TTHQ/SĐTQLC, tôi đứng nói chuyện với hai anh Trung Tá Xuân Phúc và Hữu Tùng, trưởng và phó LĐ.369/TQLC và Trâu Điên Trần Văn Hợp, chuyền tay nhau ca café đen và điếu thuốc, hít khói vào thở ra hơi buồn và thở dài! Chúng tôi hỏi nhau về kế hoach 5W, vì đã có lệnh bỏ Đà Nẵng mà chưa biết đi về đâu bằng đường nào? Con đường duy nhất là biển Đông.

Non Nước sáng hôm 29/3 ấy trời âm u vì khói đạn pháo kích đêm qua còn bao phủ, ngột ngạt, khó thở. Bất chợt có tiếng ồn ào, mọi người hướng ra biển khơi có ánh đèn nhấp nháy, đó là tín hiệu cùa 2 tàu LSM vào đón TQLC. Lệnh trên cho ban tham mưu, các đơn vị yểm trợ ra bờ biển trước. Tôi đứng nghiêm chào hai anh Phúc-Tùng và Hợp, bắt tay nhau mà nước mắt chảy vòng quanh, tức trào máu họng, các anh ở lại điều quân, tôi tham mưu đi trước, nhưng đi trước tôi là Trung Tướng Tư Lệnh QĐI Ngô Quang Trưởng.

Chiều tối 28/3, khi các tư lệnh đang họp tại BTL/HQ ở Tiên Sa thì VC pháo kích, buổi họp tan, quý tướng lãnh tan hàng. Tướng Thoại HQ thì không còn tàu đón, trực thăng của Tướng TQLC bị hỏa tiễn chém gãy cánh, hai ông đi bộ men theo sườn núi tìm "thuyển ra cửa biển", còn Trung Tướng Tư Lệnh QĐI là Ngô Tướng Quân thì về với TQLC, thật là trớ trêu! Đêm qua, Tướng Trưởng "qua đêm" trong TTHQ/TQLC và sáng 29/3, ông cũng bơi như chúng tôi và đã được dìu lên tàu an toàn.

Sóng to gió lớn mà tàu thì đậu mút tầm thềm bắn 300 m thì làm sao đây? Nhìn những anh em Công Binh, THD bơm xuồng Zodiac, mang phao vào cổ mà thèm. Họ ung dung ngồi chờ trên bãi cát, sóng dội lên bờ rồi rút họ ra theo, phao và xuồng cao su được kéo ra tuốt ngoài xa, tưởng như đến được tàu, nhưng không, sóng sau dồn sóng trước, hất ngược những zodiac lên bờ, còn những cái phao màu vàng cam thì bị sóng dập vùi, trôi dạt tứ phía, lững lờ như những đám lục bình trôi, và qua vài con sóng dập vùi, những người mang phao đã nằm bất động.

Cùng tắc biến, tôi chợt nghĩ đến bài học vượt sông bên bờ hồ Than Thở, dùng poncho làm phao, sóng cao thì ngụp xuống cho sóng qua đầu nên không bị kéo trở lại, đuối quá rồi, vào cái lúc sắp xuôi tay, miệng đọc "nhân danh cha" thì một sợi dây thừng từ trên tàu bay tới, tôi chụp vội và được kéo lên, gật đầu cám ơn những người quăng dây, tôi nhìn thấy nụ cười của anh Phạm Văn Sắt K16 và Th/Tá Phan Công Tôn, nhưng Đ/Úy Nguyễn Văn Hưởng được kéo lên nửa chừng thì bị rơi trở lại, chìm vào đáy tầu.

Từ trên boong nhìn xuống nước, tôi thấy mặt những người cột phao quanh cổ ngửa mặt tím ngắt lên trời, nằm bất động, họ đã chết thật rồi, vớt người sống chưa xong thì ai mà nghĩ chuyện vớt xác, coi như thủy táng, "lính thủy đánh bộ" mà, đằng nào cũng chết vì nước.

Trong lúc bao nhiều người đang cố gắng tìm cái sống trong cái chết để bơi ra tàu thì VC pháo kích, khói bụi mịt mờ trên bờ nơi anh Phúc Tùng và Hợp còn trên đó, người người tán loạn. Đạn rơi tõm-tõm quanh tầu, tầu bèn de ra khơi, kéo theo những người bơi chưa tới, và họ không bao giờ tới được tàu HQ nên đành vể Thủy Cung hay Thiên Quốc.

Số phận hai anh Phúc và Tùng "mất tích" từ đó, ngay sau những loạt hỏa tiễn 130 ly, không ai biết các anh đi về đâu, những ai không tận mắt chứng kiến thì đừng phịa chuyện rằng các anh đã lên trực thăng. Chán hơn nữa là có chàng nhà zăng linh nước viết về Đã Nẵng dám phịa rằng hai anh Phúc và Tùng đang bơi ra tàu thì bị pháo kích chết! Xin lỗi anh tí, phịa vừa thôi, anh ngồi tại HQCX Saigon mà biết chi chuyện Đà Nẵng, mà dám phịa chuyện Tướng Trưởng mượn quân phục màu xám mặc vào.

Trần Văn Hợp thì khá hơn, chúng tôi đã gặp nhau khi về đến Vũng Tàu. Nhưng còn một K19/TQLC khác cũng mất tích như hai anh Phúc-Tùng, đó là Hồ Ngọc Hoàng. Hoàng là TĐP/TĐ.6 của Tr/Tá Lê Bá Bình, Bình lên tàu được, nhưng cánh B của Hoàng thì kẹt lại vả đã nhập chung với TĐ.9 của Th/Tá Lâm Tài Thạnh, họ chiến đấu suốt ngày đêm 29/3 ở chủng viện Sơn Trà và Hoàng mất tích trong đêm đó. Tất cả diễn tiến này đã được Đ/Úy ban 3 TĐ.9 là Đoàn Văn Tịnh K22 viết chi tiết "Xưa Nay Chinh Chiến Mấy Ai Về" trong đặc san Sóng Thẩn 2011.

*Những ngày giờ sau cùng

SĐ (-) TQLC về đến Vũng Tàu ngày 1/4/75, đóng quân trong căn cứ Úc Đại Lợi sát với bãi sau để bổ sung quân số và tái trang bị. Chiều xuống, sau khi xong việc, Hợp và tôi ngồi trên bãi cát, chân thò xuống nước, tai nghe trasistor loan tin chiến sự, mắt nhìn ra biển khơi, tầu bè tới lui, đêm xuống xa xa cuối chân trời, thành phố biển sáng đèn, tàu xếp hàng ngang đi về đâu không biết, trên đó có bao nhiêu thượng cấp, lãnh đạo của đất nước tôi! Bất giác liếc sang bên phải là bãi biển "mộng mơ" mà trước đây đã một lần tôi dẫn người yêu ra đây ngắm trăng mật, chúng tôi tính chuyện gọi vợ con ra Vũng Tàu "nghỉ mát" mà trong đầu không hề nghĩ tới chuyện "tìm đường bỏ nước" ra đi.

Vợ chưa kịp ra thì ngày 16/4 mặt trận Phan Rang thất thủ, TQLC được lệnh lên đường tăng cường cho Quân Đoàn III, từ mặt trận Long Khánh, Long Thành, Biên Hòa, rồi Long Bình và tử thủ tại căn cứ Sóng Thần vào sáng ngày 30/4/75. Một điều đau thương nhưng cũng rất hãnh diện để nhắc lại là vào thời điểm dầu sôi lửa bỏng này, TQLC được bổ sung một số thiếu úy Võ Bị và CTCT vừa làm lễ tốt nghiệp mãn khóa trên đường di tản, các đệ này đã chiến đấu và rồi nhiều anh em đã gục ngã khi trên ba-lô còn mang theo cái mũ SVSQ, họ là những khóa 28, 29 và K4 CTCT. Những em bị thương được đưa về VB Lê Hữu Sanh Thủ Đức thì trưa ngày 30/4 lại bị VC đuổi ra, "thằng mù cõng thằng què"! Ôi đau thương!

Sáng 30/4/75 khoảng 10 giờ, tại căn cứ Sóng Thần, Tango Đ/Tá TLP Nguyễn Thành Trí họp cùng các đơn vị trưởng, dù trong tình thế tuyệt vọng nhưng ông hài lòng khi thấy tất cả các đơn vị trưởng đều có mặt, các đơn vị vẫn chỉnh tề hàng ngũ, súng vẫn cầm tay.

Nhưng vận nước đã không được quyết định bởi những người trực tiếp cầm súng, mà ở tận mãi đâu đâu, ở lầu 3 góc hay 5 góc, lầu cao gác tía, Tonton ra lệnh đầu hàng, quân sĩ ngỡ ngàng ngơ ngác!

"Là quân nhân, nhưng không làm gì khác được, thôi anh em về với đơn vị, giải thích cho các cấp biết, nhiệm vụ cầm súng của chúng ta đã bị kết thúc".

Tango nói với các đơn vị trưởng xong quay sang tôi:

"Cần Thơ ở lại để bàn giao căn cứ cho phía bên kia"!

Tôi biết ông lập lại câu nói của TT Big Minh cho có lệ và cũng là lúc Hợp bấm tay tôi rồi đi về TĐ.2, hiểu ý cái bấm tay của Hợp, tôi "bất tuân thượng lệnh", không bàn giao cái củ cải cho củ cải nào cả mà đi theo thằng bạn về vị trí đóng quân của nó cho có đôi vào lúc khoảng cách sinh tử là sợi chỉ.

Sau khi nói lời cuối cùng với quân sĩ, Hợp vốn bản tính bình tĩnh lầm lì cũng phải quay đi lau nước mắt rồi cùng tôi kẻ trước người sau đi ra khỏi căn cứ Sóng Thần. Như cái xác không hồn, chúng tôi nương theo dòng người men theo ven xa lộ để về trại gia binh Cửu Long Thị Nghè. Vừa tới đoạn ciment Hà Tiên thì nghe súng nổ ròn phía trước, chỗ ngã ba Cát Lái. Tụi nón cối dạt về sau, lum khum chạy núp hai bên đường bắn trả, tôi nghe tiếng Bắc Kỳ quen quen:

"Địt mẹ bọn Trâu Điên ngoan cố.

Thần hồn nhát thần tính, hễ thấy rằn ri là chúng gọi "Trâu Điên". Chúng vẫy tay ra hiệu cho đồng bào cứ đi trước đi. "Các anh bộ đội tử tế quá"! Tôi liếc Hợp rồi hất hàm, đi. Nào ngờ đồng bào đi trước, giặc cướp trộn trấu theo sau, vì dĩ nhiên "lòng súng nhân đạo, cứu người lầm than" của những người anh em Trâu Điên tách bầy, chiến đấu tới cũng đã không bắn vào quân dân ta có VC đi lẫn trong đó.

Về đến Thị Nghè thì thấy phía trước một toán băng đỏ đi ngược chiều, tay cầm súng M16 thỉnh thoảng nổ ông Thiên, chúng đang xô đẩy một bộ rằn ri bị trói 2 tay phía sau. Tránh đâu bọn trâu đánh này? Tôi xẹt vào một cáí sân nhà bên đường, núp sau những chậu bông mai tứ quý, liếc phía sau, thấy Hợp cũng xẹt vào con hẻm gần đó.

Đang lấp ló ngó xem bộ rằn ri kia là ai thì có ai đó nắm gáy áo tôi kéo giật vào phía sau, đóng cửa lại nói khẽ:

- Muốn chết hay sao mà lấp ló đó, tụi nó đang đi lùng sục các anh, sáng nay chúng mới bắn Ch/Uy an ninh trại gia binh ở ngay đầu cầu Dầu đấy.

Cầu Dầu nằm trên đường Dương Công Trừng, cách trại Cửu Long chừng 100m.

Tưởng ai xa lạ, hóa ra là cô Ba Dung, chủ tiệm café mà trước đây miếng đất trống trước cửa tiệm bị TPB của Nguyễn Rô đến cắm dùi. Lúc đó tôi là trưởng khối thặng số thương bệnh binh BV Lê Hữu Sanh TQLC Thị Nghè, tôi chịu trách nhiệm TPB/TQLC tại Thị Nghẻ, vì không muốn TPB/TQLC bị mang tiếng lây là cắm dùi nên tôi đã yêu cầu nhóm anh em thuộc TPB Nguyễn Rô đi ra khỏi khu vực Thị Nghè, cô Ba Dung tưởng tôi làm việc này vì cô! Lầm, nhưng kệ, cải chính làm gì, lạ rồi cũng nên quen. Nào ngờ chuyện nhỏ lúc trước nay bị nhận diện.

Bài viết này xin kết thúc ở đoạn tuyệt đại đa số các cấp lãnh đạo và chỉ huy ở Saigon thì tìm đường ra sông ra biển, trong khi các TQLC đang đóng quân tại Vũng Tàu như đi "nghỉ mát", thiên thời địa lợi nếu muốn "vượt biển một mình" thì dễ như trở bàn tay. Nhưng vì nhiệm vụ lại kéo nhau ngược trở vào đất liền tiếp tay ngăn quân thù với SĐ.18,với QĐ III, và cuối cùng thì tử thủ ở CC/ST rồi tuyệt đại đa số các cấp chỉ huy TQLC vào tù. Cùng một đội tù tại Long Giao gồm có Trần Văn Hợp, Huỳnh Văn Phú, Tô Văn Cấp, TQLC/17 Trần Kim Hoàng, Lê Văn Cưu, TQLC/21 Trần Quang Duật, Doãn Thiện Niệm và Quách Ngọc Lâm cùng Lê Xuân Sơn k21, và nhiều Võ Bị và Võ Khoa TQLC khác nữa. Những mất mát liên tiếp xảy đến trong ngục tù là tự tử, tử nạn như các Tr/Tá Nguyễn Văn Nhiều K14, Nguyễn Đằng Tống K16, Huỳnh Văn Lượm K17, Đoàn Thức, Nguyễn Hữu Cát, Th/tá Trần văn Hợp K19 v.v..và tôi được tặng gần 10 cuốn lịch.

Kết thúc những ngày tháng cuối cùng của chúng tôi là như thế, như thế. Còn bạn thì sao?

Captovan

Longhai
03-14-2015, 12:30 PM
30 tháng 4 năm 1975 Chị ở đâu ?

Nguyễn Thị Thêm


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/30-04_1426348955.jpg

Chị về nhà sau một ngày lang thang ngoài đồng. Con trâu đã vào chuồng ngủ yên. Chị lặn lội ra bờ ruộng cắt một gánh cỏ về sân Hợp tác xã trình diện rồi đem vào chuồng trâu. Chị cũng không cần biết hôm nay mình được bao nhiêu điểm lao động. Cuộc đời chị như cái máy chạy theo những mắc xích vòng quay. Sáng trưa chiều tối, chị làm, chị sống, chị sinh hoạt như một cái xác không hồn. Chị đã mất tất cả niềm vui và nụ cười từ khi chị đặt chân lên mảnh đất này.

Chị bước vào nhà, buổi chiều đã buông. Ngoài sân mấy vồng ớt, nén, cà chờ chị cho tí nước uống. Nó cũng khao khát như chị. Nó muốn được sống, được hít thở khí trời, được ươm hoa kết nụ. Đứa con gái lớn bồng em lao ra mừng chị. Nhìn con, chị chỉ muốn khóc, muốn ôm nó vào lòng chở che, an ủi. Con ai đem bỏ nơi này. Tội thân con tôi. Đứa con gái có đôi mắt xanh thật đẹp, làn da trắng với những cọng lông tơ phơn phớt. Mái tóc vàng rối tung theo gió chiều. Bộ quần áo vải đã sờn vai, bạc màu. Quần ngắn ngủn để lộ ra cặp đùi trắng trái ngược với màu vải đã xám xịt xấu xí. Chị nhìn hai đứa con lòng như dao cắt.

Đưa tay ra đón đứa con gái nhỏ, chị bảo con chị :

- Đem giỏ cơm vào nhà đi con. Mệ con đâu ?

- Mệ đi qua nhà mụ Chắt. Nghe nói ngày ni bên nớ có kỵ.

- Ờ ! Con đã ăn cơm chưa ?

- Con đợi mạ về ăn luôn. Chị vào nhà, ôm con bé em trong tay, xiết con vào lòng, những đốt xương sườn cấn vào tay chị. Hai đứa bé vừa qua cơn bệnh nên đứa nào cũng gầy nhom, xanh mướt.

Chị nhớ từ ngày chị về nơi này vì khí hậu không quen nên mấy đứa con cứ khó chịu, nay đau mai yếu. Ông chồng chị đã theo lệnh triệu tập, cơm đùm gạo bới đi theo lệnh Ủy ban chưa nghe tin tức gì. Con bé lớn cả tuần cứ ho. Mỗi lần cơn ho kéo tới cháu lại ói. Những thức ăn, nước dãi tuôn ra theo từng cơn ho. Nó rũ người xuống oằn oại thở không ra hơi. Nó đã trắng lại bị bệnh nên làn da trắng trở nên tai tái. Hai con mắt xanh lõm vào như cái hố bom. Nó cố gắng ngóc đầu nhìn chị ,đôi mắt mệt mỏi, hơi thở khó khăn. Chị ôm đầu con vào lòng ứa nước mắt. Thuốc men đâu còn để lo cho nó. Làm gì có bác sĩ hay tiệm thuốc tây để mua. Con bé lớn đã vậy, con bé nhỏ lại nổi ban. Người sốt từng hồi, mặt mày đỏ bừng, hết sốt lại lạnh. Hai đứa con nằm rên hừ hừ trong sự bất lực của người mẹ. Má chồng chị lăng xăng hết xoa dầu rồi nấu nước gạo rang cho uống. Buổi sáng chị cõng con lớn đi trạm xá. Con bé đã lớn lại cao, chị cõng con chân nó lòng thòng gần chạm đất. Con đường từ nhà đi lên trạm xá phải qua mấy xóm, bọc theo con đường dẫn ra ruộng tuốt mãi ỡ xóm Yên. Tới nơi thả con xuống cái ghế gỗ trước trạm xá là chị ngồi vật xuống thở dốc, dường như tất cả sức lực của chị đã cạn. Con bé rũ người ra như muốn té. Chị lại bật dậy đở con. Cô y tá mặc cái quần chẻn, áo trắng cổ bâu như dân công đi tải đạn. Cô ta bước tới rờ rờ đứa bé. Chẳng biết cô có kinh qua trường lớp gì hay không, chỉ biết cô là đồng chí hộ lý, là cán bộ y tế ngoài Bắc vào công tác. Phụ tá cô ta là con gái của lão chủ tịch xã nghe nói đã tốt nghiệp lớp 2 trường làng ở đây. Loay hoay một hồi, cô ta ghi vào sổ tên họ chị và con bé. Mở lọ thuốc vạn năng, cấp cho chị vài viên Xuyên Tâm Liên bảo về canh chừng cho con bé uống. Thế là xong. Chị biết mấy viên thuốc đó chả tác dụng gì, nhưng vẫn nhận về. Vì chị cần giấy chứng nhận là con chị bệnh thật, để chị được tạm nghỉ lao động một ngày, không bị đem ra kiểm điểm và ghi vào sổ đen. Chị lại cõng con bé lớn về qua con đường hồi nãy đã đi. Chị lấy cái khăn trùm lên đầu con cho khỏi nắng và che luôn cho mình vì không thể đội nón lá. Buổi chiều trước giờ trạm xá đóng cửa, chị lại bồng con em đi khám và cũng nhận vài viên Xuyên Tâm Liên như con chị. Lần này có thêm lời dặn dò :

- " O nhớ tán ra cho hén uống".

Đi đi về về, hai chân chị muốn rã rời, hai tay tê dại, lưng mỏi, người ê ẩm mà hai con bé vẫn trơ ra, dường như càng ngày càng nặng. Chị nuốt nước mắt, nổi uất nghẹn dâng lên làm chị không thở được. Tức ran cả ngực, cái đầu muốn bể tung. Mẹ chồng chị cũng đau thương không kém. Bao nhiêu chịu đựng, dồn nén vật bà suy nhược, đau nhức toàn thân. Bà gục xuống nằm ly bì. Một mình chị chăm ba con bệnh trong hoàn cảnh lạ người lạ quê. Con gà mái mới gầy, nhảy ổ được vài ba trứng, chị lấy nấu cháo cho mẹ chồng, cho con. Chị muốn thịt luôn con gà để hầm cháo mà mẹ chồng không cho :

- Thôi con ! Để nó còn đẻ lấy trứng tẩm bổ cho cháu. Một buổi tối. Chị ra giữa trời, nhìn lên bầu trời tối thui chị muốn hét to hết hơi sức của mình nhưng kịp thời ngưng lại.

Chị lấy tay quẹt nước mắt và nói với tất cả dồn nén trong lòng :

- Ông Trời ! Tui bây giờ không còn gì hết. Hai đứa con tui, ông muốn bắt đứa nào thì bắt một đứa. Đứa kia cho nó lành bệnh. Con ruột, con nuôi tui không phân biệt. Tui quá sức chịu đựng rồi. Tui không đấu với ông nữa. Ông tha cho tui. Chị cũng không biết sao chị lại nói những lời không đầu không đuôi, bất tôn, bất kính như vậy. Chị là Phật Tử, lúc nào cũng niệm Phật mà giờ chị lại ra sân nói chuyện với ông Trời. Buổi sáng, trời còn tờ mờ. Chị dậy sớm ra vườn hái đọt chè tươi nấu nước cho mẹ chồng. Hốt nửa lon gạo bắt cháu cho con. Ngồi khơi lửa rơm cho nồi cháo, ghế ấm nước bên cạnh chị nghĩ mông lung. Phải làm gì đây ? Liều thôi. Sống chết có phần số. Không lẽ cứ bó tay đứng nhìn. Chị ra vườn, hái tất cả những loại lá, loại rau mà chị biết. Đào ít cỏ gấu, giựt ít dây tơ hồng, cỏ vườn chầu, rễ tranh, lá chanh, lá ổi. Chị hái không kể số là loại gì và bao nhiêu. Chị đem tất cả xuống sông rửa sạch. chặt nhỏ và xao Thủy Thổ rồi nấu nước cho con uống. Cả hai đứa bé và cả mẹ chồng. Chị đã tới nước liều, chị cóc sợ điều gì xảy ra. Thế rồi, như một phép lạ, cơn ho con bé lớn vơi dần và vài ngày hết hẳn. Con bé nhỏ dịu sốt và ban trắng từ từ lặn, để lại những mảng da đen đen. Mẹ chồng chị đã có thể dậy và ra chợ bán để kiếm cơm nuôi cả nhà. Sau cơm mưa trời lại sáng, các con chị đã có thể chăm sóc lẫn nhau, chị lại tiếp tục ra đồng Hợp tác xã làm việc như bây giờ. Có lẽ ông Trời đã nghe chị kêu, đã đồng cảm với chị và cho chị một con đường để tiếp tục cuộc hành trình cam khổ.

Chị vào nhà lấy cơm cho con ăn. Lựa khoai chị gắp ra một cái dĩa để mình ăn, còn cơm trắng đơm vào chén cho con. Mấy con cá sông kho với ớt đỏ lòm bắt mắt. Ở đây, người ta ăn ớt như không hề biết cay và con bé lớn chị không biết từ lúc nào nó có thể ăn ngon lành. Còn chị thì chỉ ăn cá, gạt ớt không ăn mà còn muốn cháy cả lưỡi. Chị múc nước tô canh rau tập tàng chan vào chén và đút cho bé em. Mẹ chồng chị đã nấu sẵn trước khi đi có việc. Ăn xong, chị bảo con bé chị chơi với em để mạ gánh nước tưới ớt kẻo tối.

Chị gánh đôi thùng ra bờ sông. Hôm nay sao bến vắng lạ lùng, không có ai xuống tắm hay giặt giũ. Chị để đôi thùng trên mấy tảng đá rồi thọc chân xuống nước, nhìn ra mông lung. Sông Ô Lâu nước trong vắt, bên kia sông thấp thoáng nhà cửa và bóng người qua lại. Những con cá lội lững lờ dưới chân chị. Thỉnh thoảng lại đụng vào chân chị nhồn nhột. Có vài con tôm nhỏ bơi qua về bình an, vô tư. Chị không biết mình nên buồn hay vui, nên khóc hay cười. Hôm nay, trong sân Hợp tác xã chị đã nghe tin Sài Gòn thất thủ. Mọi người vui mừng hò reo.

Mấy tên Cán Bộ hét lớn :

-" Quân ta toàn thắng, đã ủi xập dinh Độc Lập rồi. Tướng Minh đã đầu hàng. Quân ta toàn thắng "

Chị bước ra khỏi sân tập đoàn, tránh xa tiếng hò reo ồn ào, Nước mắt không chảy mà tim đập rất nhanh. Quân ta toàn thắng ? Quân nào là quân ta ? Quân nào là quân địch. Trong cái mớ hỗn độn đó chị nghe như có tiếng kêu gào, tiếng khóc dậy trời và những tiếng nổ kinh hồn của đạn pháo.

Chị không biết cha mẹ mình ra sao ? Anh em người nào còn, người nào mất. Còn thằng em đi Hải quân có kịp về nhà hay đã di tản theo tàu. Con mắt chị mờ theo ánh nắng chói chang. Sài gòn thất thủ là chị còn cơ may tìm về cha mẹ. Tất cả đều đã xong đã hết , đã tận cùng. Đất nước và con người đã cạn hết sức lực vì hai chữ hòa bình và tự do. Máu đã đổ nhiều rồi, nước mắt đã chảy thành sông. Khăn tang cô phụ, thi thể tử sĩ, tiếng khóc mẹ già, nước mắt con thơ đã vang lên từ bao nhiêu năm. Thôi thì hòa bình cũng tốt. Chị nghĩ như vậy và nghĩ đến con tàu Bắc Nam đem chị về miền Nam. Về mảnh vườn thân yêu quen thuộc. Chị lại được hít thở không khí tự do và đầm ấm gia đình. Nhưng chị lại lạnh cả xương sống khi nghĩ đến thực tế. Tự do ư ? Rồi miền Nam cũng sẽ là Cộng Sản. Cũng Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc. Cũng làm ăn tập thể, cũng hội họp thâu đêm. Cũng chế độ tem phiếu. Cũng bình bầu, cũng góp gạo nuôi quân, cũng nắm gạo bỏ hũ cho hội phụ nữ, cũng nắm gạo tích lũy cho Thanh Niên. Cũng băng rôn, cờ xí trên mọi ngã đường, cũng cổng văn hóa mỗi đầu xóm nhỏ...

Một miền Nam trù phú, rộng rãi, tự do phải đi vào hợp tác xã, phải quy nạp tài sản đất đai vào tập thể, phải lao động, chấm công, bình điểm. Chị không thể mường tượng được xã hội miền Nam sẽ đối phó ra sao. Bây giờ, ngồi một mình yên lặng chị thấy mình thật mâu thuẫn. Vui hay buồn khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chị phải làm sao khi cả đàn con đều mang súng Quốc Gia. Còn chồng chị bao giờ mới về. Bên này con sông Ô Lâu buồn ngơ ngác như vậy đó. Mọi thứ ở đây thay đổi lạ kỳ. Bên kia con sông Đồng Nai của chị có nổi sóng ba đào hay im lìm chịu đựng. Con đường về mới lóe lên đã tắt ngúm khi người kiểm soát người. Khi chế độ hộ khẩu và hệ thống kiểm tra lý lịch chặt chẽ gò bó người dân. Chị làm sao có đủ chữ ký từ ông đội trưởng hợp tác xã đến Ủy Ban và theo hệ thống dài tới tỉnh để được về nhà. Nước mắt chị ứa ra, chị như con chim bị nhốt trong lòng không cách chi vùng vẫy.

- Mạ ơi ! răng mà lâu rứa mạ ! Có tiếng con bé lớn gọi chị. Có lẽ chờ lâu không thấy chị về, con bé chạy đi tìm vì sợ chị gánh nước lên dốc bị té hay lấy nước bị hụt chân. Chị trả lời cho con yên tâm rồi quảy đôi thùng xuống sông lấy nước.Tháng Tư, ngày 30 sẽ là điểm mốc của lịch sử Việt Nam. Chị đã chứng kiến Đà nẵng hỗn loạn, tan tác trong ngày bỏ ngõ. Chị biết Sài gòn sẽ còn ghê gớm tang thương hơn. Ôi thành phố hoa màu, Hòn Ngọc Viễn Đông sẽ chìm trong biển lửa. Chạy trốn nơi đâu, thoát thân cách nào. Toàn bộ VN đã nhuộm màu cờ đỏ. Thế là đã hết, đã chấm dứt thể chế Quốc gia. Nơi đây không một tin tức từ bên ngoài. Chỉ nghe vang vang tiếng loa phóng thanh từ Ủy Ban xã và tiếng nhạc lềnh lềnh âm hưởng lạ kỳ. Bầu trời thì cao rộng mà con người nhỏ bé lạc loài vô vọng. 39 năm đã qua. Ngày 30 tháng tư năm đó anh ở đâu ? Chị ở nơi nào ? Tôi trả lời cho câu hỏi mà mọi người hỏi thăm nhau mỗi dịp tháng Tư đen. Ngày đó tôi ngồi bên bờ sông Ô Lâu khóc cho vận nước, khóc cho chồng, cho mình, cho con.

30 tháng Tư năm nay (2014) tôi đang ở California nước Mỹ. Hai đứa con gái ngày xưa đã là một phụ nữ trung niên. Chồng tôi đi tù hơn 8 năm đã được thả về với thân thể và tâm hồn rách nát. Bây giờ anh đang là một người lính đã hoàn toàn mất hết súng đạn với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Còn tôi, một người vợ lính ngày xưa chờ chồng tù tội trở về. Tôi cũng đã hoàn thành nhiệm vụ đối với gia tộc là sinh cho anh thêm hai thằng nhóc con. Bây giờ hai thằng nhóc đó đều là hai người lính trong Quân đội Hoa kỳ. Một thằng Không Quân, một thằng dưới biển. Vâng. Tôi đã kể câu chuyện của tôi trong ngày 30 tháng 4 năm 1975. Còn anh, còn chị, còn các bạn. Ngày 30 tháng 4 năm đó đã làm gì ? Ở đâu ?



Nguyễn thị Thêm
30/4/2014.