PDA

View Full Version : Huấn Luyện Phi Hành * Tình HOÀI HƯƠNG



Tinh Hoai Huong
11-17-2014, 01:16 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/b. fico 1 ve TTHL.KQ_1416186256.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanVietNam_FullVersion (1)_1416186822.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhứt
Chương 1
Chuyến Viễn Du Đầu Tiên,
dự Hội-Nghị Sinh Viên Quốc Tế toàn Thế Giới, lần thứ 11
Tình Hoài Hương
***

Bầu trời ở miền núi rừng Đà Lạt xanh lơ điểm những hoa mây trắng đang qùy gối trên hồ Xuân Hương thơ mộng, mây lang thang đó đây ẻo lả vắt qua sườn đồi im ắng, không gian tĩnh mịch, thinh lặng đến độ nghe hơi thở cuả rừng thông reo vi vu, thì thào với suối ngàn róc rách len qua bờ lau sậy lô xô. Mấy con đường mòn đất đỏ vắng tanh vắng ngắt, nhu mì bò trên sườn dốc đầy cỏ may xanh um. Đà-thành muôn thuở ru Hành với giấc mộng quan hoài ước mong luyến nhớ, nhớ những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà xinh xinh, có những sợi khói ấm áp nép mình bên cây mận trĩu trái, cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt, cây hồng mơn mởn, cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà cho anh cảm giác lâng lâng thi vị quá chừng! Chính nơi đây Hành đã và đang có một thời nhớ nhung vô vàn nhớ và đắm say yêu người... Ấy thế mà, một mai nầy anh buộc lòng phải luyến lưu giã từ nơi dấu yêu.

Xin tạm gọi “anh ấy" là Lữ Phi Hành với tư cách là Phó thư-ký tổng hội sinh-viên Việt Nam, và có các bạn: Nguyễn Ngọc Thạch: Chủ tịch tổng hội sinh-viên Đà Lạt. Vĩnh Kha: Chủ tịch sinh-viên Huế. Lê Đình Điểu: Tổng thư ký tổng hội sinh viên Việt Nam. Lê Đình Bảo: Tổng thư-ký tổng hội sinh viên Huế. Tôn Thất Tuệ: Ủy-viên báo-chí tổng-hội sinh-viên Sài Gòn. Họ đã lên đường đi dự Hội-Nghị Sinh Viên Quốc Tế toàn Thế Giới, lần thứ 11, nghiã là 11th ISC (international Student Conference) tại Cheistchurch (New-Zeland) và dự Hội-thảo lần 5th - Tại Sydney (Autralia) là 5th ASS (Asian Student Seminar).

Lẽ ra thì lúc 17:00, sinh viên được xe bus đón tại hotel, để ra phi trường tiếp tục cuộc hành trình. Nhưng khổ nỗi vào giờ đó, các bạn mãi mê đi shopping mua sắm ngoài trung tâm. Ban điều hành phi trường gọi phone nhiều lần. Họ đến phòng ngủ của đám sinh viên, đã không thấy ai, họ gọi phone dặn reception phải giữ bọn nầy lại, không cho đi đâu hết. Sau khi đi mua sắm đã đời, sáu người nầy quay về hotel mới biết tin. Ui! Chưa kịp tắm rửa, thay quần áo gì, chốc lát sau xe bus đến chở cả nhóm lên phi trường. Tất cả anh em cứ ngồi trong Louge, sốt ruột bồn chồn, lo âu, băn khoăn, đi lui đi tới chờ đợi đến tối mịt. Đợi dài người, mới hay là đang có cuộc đình công của toàn bộ nhân viên hãng Hàng-không (bộ phận phục vụ trên không, và dưới đất).

Thế rồi, họ “lùa” sinh viên Việt Nam qua làm thủ tục an ninh phi trường và quan thuế. Trên chiếc máy bay 707 đồ sộ, rộng mênh mông, mà chỉ có khoảng ba mươi hành khách. Chính ông phi công trưởng đoàn đã đến từng chỗ ngồi, tự tay chăm sóc cho mọi người. Lúc 21:00 ông ta điều khiển phi cơ cất cánh. Sau khi bình phi, ông ta để viên phi công phụ lái. Rồi ông tự xuống tiếp tục làm tiếp viên cho hành khách (vì trên máy bay không có một người tiếp viên hàng không nào. Họ đồng lòng lo kêu gọi nhau ơi ới đi đình công hết). Thấy Hành kéo cái ghế dài ra định ngủ. Ông ta nói:
- Nầy you, hãy vui lòng đứng lên chút xí.

Rồi ông luồng tay kéo hai chân ghế giăng ngang ra. Thế là cái băng ghế ba người ngồi, đã trở thành chiếc giường nệm êm ái. Ông vói tay lên hộc lấy gối nhỏ và mền, cho bọn tôi đắp. Chuyến đi buồn cười vậy đó. Nguyên cả buổi quá mệt mỏi vì háo hức lo đi mua sắm. Nên tất cả anh em bơ phờ rã rời nằm ngủ khò suốt đêm dài, không nhúc nhích. Họ thi nhau ngáy ồ ồ ồ vang như sấm. Lúc các bạn tỉnh dậy, thì mặt trời đã lên khá cao. Phi cơ sắp sữa đáp xuống Perth, (thành phố lớn ở miền đông nước Úc). Bước ra ngoài cửa phi cơ, các anh chợt rùng mình, vì luồng gió lạnh buốt từ ngoài thổi ập vào. Ôi sao lạnh đến thế! Bây giờ chỉ là mùa Thu, mà đã lạnh đến - 9/oC. Chả bù cho ở Sài Gòn giờ nầy đang oi nồng nóng hầm hập!

Sáu anh sinh viên co ro cúm rúm run lẩy bẩy, rụt cổ cong lưng thất thểu bước. Lúc sắp nhận hành lý, họ mới biết là: do nhân viên ở phi trường đình công, cho nên nhân viên nghiệp dư đã sắp xếp hành lý của hành khách ở phi cơ nầy; lại chuyển lộn xộn qua với chiếc phi cơ của chuyến bay đi nơi khác!!! Thôi chết rét rồi! Trên thân mỗi người trong bọn anh chỉ mặc một bộ quần áo mỏng và chiếc veston nhẹ. Vì quá lạnh, cho nên chả ai rủ ai, mọi người đều tạt vào shop gần đó. Mỗi người lo mua một chiếc áo khoác duffelcoat dày cui, mà mặc vào cho đỡ lạnh. Cả đoàn co ro cúm rúm, dúm dó vì vẫn lạnh thấu xương. Hạnh xuýt xoa cắm cúi chạy nhanh đến xe bus. Xe chở sáu người về hotel.

Sáng hôm sau, nhân viên báo là đã có hành lý từ nơi khác chuyển đến cho mọi người rồi. Công nhận nhân viên hàng không quốc tế làm ăn mau chóng và đàng hoàng, không có chuyện lề mề chậm chạp. Thật may, cám ơn quý vị! Đồng thời có chuyến bay từ Perth đi Sydney (bờ phía Tây nước Úc). Thế là bạn hữu vội vàng nhận hành lý, lại lo leo lên phi cơ khác bay liên tiếp trên 10 giờ. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy toàn sa mạc mênh mông lạnh giá trải dài hằng ngàn cây số. Trống trải, đơn điệu võ vàng của trung tâm nước Úc. Chiều tối phi cơ mới đến Sydney. Thay vì được nghỉ đêm tại đây. Họ lại “tống” sáu anh lên máy bay cánh quạt cổ lỗ sĩ, bay từ Úc Châu, băng qua biển Tasmania. Qua Tân Tây Lan. Hơn hai giờ đồng hồ sau, phi cơ mới đến Christchurch. Một thành phố cổ kính và nhỏ bé ở hòn đảo phía Nam của New-Zealand.

Cùng trong buổi tối đó, thì ban tổ-chức cho biết là: tại miền Bắc nước Việt Nam, cũng có một phái đoàn sinh viên Bắc Việt đã đến Tân Tây Lan. Nhưng vào giờ phút chót họ bị ở lại, vì phái đoàn sinh viên của miền Nam Việt Nam (là sáu sinh viên) đến trước nơi đây đã ba giờ, và sáu anh nầy đã làm thủ tục nhập cảnh rồi. Nên ban tổ chức họ lịch sự từ chối phái đoàn của miền Bắc Việt Nam kia. Thế là sinh viên ngoài miền Bắc Việt Nam buồn thiu phải lủi thủi ra ngồi thừ trên ghế, co ro cúm rúm người ở phi trường. Họ không được cấp visa nhập cảnh, đành chờ chuyến bay quay trở về Hà Nội. Nghĩ cũng thật xót xa thương cảm và tội nghiệp đám sinh viên miền Bắc Việt Nam! Thảo nào "phe nhóm tổ chức" ở trong miền Nam đã lanh lẹ chở bọn nầy bay đi nhanh như... gió bão và... chạy như điên, để đến nơi “dự tranh... cho kịp chuyến tốc hành”.
Tân Tây Lan gồm có ba bốn đảo:
- Hòn đảo phía Bắc là: thủ phủ Wellington và Aukland, rất nóng.
- Phía Nam có đảo Christchurch.
- Hòn đảo Tasmania rất lạnh.
- Trong khi ở trên phía Bắc Christchurch (New-Zeland), họ có thể đi ung dung vui thích tắm biển, phơi nắng suốt ngày thoải mái. Ở phía Nam Christchurch (New-Zeland) cùng thời điểm đó, họ đi trượt tuyết, đi tắm suối nước nóng. Ngộ thiệt! Ở giữa đám tuyết trắng xoá, giữa hai đảo có con phà rất lớn, sức phà có thể chứa lên đến hai mươi xe hơi, & có năm trăm hành khách.

Nơi mọi người đến dự hội nghị là Christchurch, một thành phố nhỏ rất sạch sẽ và tươi đẹp, (gồm có hơn bốn trăm ngàn dân định cư). Quả thật Christchurch tuyệt vời và thơ mộng như Đà Lạt, những ngôi nhà cổ kính đồ sộ u trầm nép mình dưới bao vòm cây già cỗi và yên lặng. Con sông xanh tươi êm đềm lặng lờ uốn khúc, dưới nước trong vắt có từng bầy thiên nga tung tăng bơi lội. Bên những sườn đồi nhấp nhô và trong bình nguyên ngút ngàn cỏ xanh mướt, đồi cao đồi thấp nhấp nhô chập chùng, thì người ta thả đầy dẫy đàn cừu trắng đang cúi đầu cặm cụi chăm chỉ gặm cỏ, không cần người chăn. Nhà nhà đều có sân rộng lát gạch, nhiều chim bồ câu trắng, nâu hoặc đen (mập ơi là mập), chúng soãi cánh lòa xoà bay lượn trong không gian mờ mờ ảo ảo bàng bạc hơi sương. Người dân ở đây hiền hoà, vui vẻ, ung dung. Đa số dân hiếu khách, chí tình, dịu dàng cởi mở, niềm nở thân thiện.

Sở dĩ có tổ chức “lần họp Thứ 11th Sinh-viên Thế Giới” tại Christchurch, là vì tại nơi đây có ngôi trường đại học nổi tiếng, lâu đời nhất của Tân Tây Lan. Giống như đại học cuả Anh là Cambridge. Hay Oxford của Mỹ, Harvard, hoặc Princeton vậy đó. Hành cùng năm bạn được đưa đến ở một khách sạn xinh xắn khang trang tiện nghi sạch sẽ có bốn tầng lầu, vì khách sạn nầy chỉ cách xa nơi hội họp độ vài trăm mét. Mình có thể thảnh thơi tà tà ung dung thong thả đi bộ, tới lui hotel và chỗ họp được gần nhất và dễ dàng.

Hôm khai mạc hội nghị, phái đoàn miền Nam Việt Nam chỉ được ban tổ chức sắp ngồi ở hàng ghế “quan sát viên” mà thôi. Chi lạ rứa!? Mình cũng cảm thấy kỳ lạ và ấm ức. Bước qua ngày thứ hai, sau khi trong hội trường đang thảo luận sôi nổi về việc:
- Tại sao Việt Nam chỉ có phép đến đây: để “làm quan sát viên” mà thôi!?

Cuối cùng, phái đoàn Việt Nam mới có một bài phát biểu cảm tưởng trong hội nghị. Ấy là nhờ do có lời khẩn khoản đề nghị chính đáng, công bình, và tự do, của một anh đại diện sinh viên Thụy Sĩ lên tiếng phản đối kịch liệt về việc: "phân biệt, kỳ thị hoặc cố ý bỏ quên nhóm Việt Nam" nầy. Cho nên đại hội đồng gồm 112 nước đang tham dự hội nghị, đã đồng ý tổ chức một cuộc “bỏ phiếu trưng cầu ý kiến”. Kết quả: Phái đoàn sinh viên miền Nam Việt Nam đắc cử vẻ vang! Sáu anh sinh viên miền Nam Việt Nam lấy làm cảm kích cùng tri ân anh đại diện sinh viên Thuỵ Sĩ, và trân trọng cảm ơn đại hội đồng hiệp hội sinh viên thế giới. Thật tuyệt vời! Cuối cùng đại hội chấp thuận Việt Nam được chính thức gia nhập vào Hiệp Hội Sinh Viên Thế Giới.

Ngày thứ ba, họ chuyển sinh viên Việt Nam cho chính thức đường hoàng vào ngồi chỉnh tề đâu ra đó, “chễm chệ” trên những hàng ghế mời danh dự, để hân hoan tham dự hội nghị và có toàn quyền tự do phát biểu cảm tưởng. Hoan hô tinh thần Tự do. Dân chủ. Độc lập muôn năm! Thế là… kể từ năm 1964, Việt Nam đã được công nhận là hội viên chính thức cuả hiệp hội sinh viên toàn thế giới (cho tới bây giờ). Đây là một thành công qúy giá, danh dự, rực rỡ, to lớn, đám sinh viên tiên khởi nầy đã mang vinh dự về cho nước Việt Nam trên phương diện ngoại giao, và về mặt chính trị. Cuộc họp chỉ có ba ngày là kết thúc.

Ngoài những ngày rãnh, họ còn đi thăm các thành phố của Úc Châu và Tân Tây Lan). Sau đó, Hành, Thạch, và Bảo ở lại Christchurch, ba người đi tham quan các thắng cảnh và hai thành phố lớn của Tân Tây Lan, (ở trên đảo phía Bắc). Còn ba người kia là Điểu, Vĩnh Kha, Tuệ thì bay đi Úc Châu trước, họ ở đó chờ dự hội nghị sinh viên Á Châu lần 8th. Sáu người hẹn gặp nhau ở Sydney. Tóm lại, chuyến đi đó chỉ xảy ra trong vòng ba tuần lễ. Thế mà các bạn trẻ đã xoay trở tài tình, để có thể khoan khoái du hành nhiều nơi khác và ghé lại thăm Manila vui vẻ. Rồi sáu anh vui vẻ ung dung bay đi Kuala Lumpur, cùng du lịch đó đây thoải mái thảnh thơi thêm mấy ngày.

Thật ra, như đã nói: Nhóm sinh viên miền Nam Việt Nam đã đi xuất ngoại, dự hội nghị sinh viên thế giới lần 11th, tổ chức tại Christchurch. & Hội nghị sinh viên Á Châu lần 8th đó -chỉ là cái cách xử thế, mà ông Nguyễn Khánh dùng tiền “cả vú lấp miệng em”; cho “sáu sinh viên cầm đầu nầy” đi xa hẳn Việt Nam lúc bấy giờ. Là một hình thức ve vuốt làm dịu nhẹ đám sinh viên cầm đầu: ngỏ hầu – ông cách ly các tổng hội sinh viên tại miền Nam Việt Nam – với tất cả sinh viên ở trong nước -đã và đang- ráo riết hăng say hoạt động, biểu tình, chống đối chính phủ đang rầm rộ diễn ra mọi nơi. Chứ ông chả tốt lành gì, mà tốn nhiều chi phí cho sáu người nầy "ung dung khơi khơi nhàn hạ đi tung tăng" như thế!
Sau chuyến công du thoải mái đi Singapore. Malaysia. Úc Châu. Tân Tây Lan. Phillippines, trở về lại Việt Nam.

Hành vội vàng trở lên Đà Lạt rút hồ sơ, lấy mấy chứng chỉ văn bằng trên đại học. Anh đành cay đắng ngậm ngùi rời khỏi “con đường trí thức & kiến thức danh giá” mà mình đã chọn. Hành đã “hoàn tất kiếp sống phong trần đầy vũ bão” vào năm thứ Hai tại viện đại học Đà Lạt. Đó cũng là do cái dấu ./. về tình yêu nồng thắm giữa “anh LPH với em yêu dấ́u” xa xăm muôn trùng, từ bài thơ cuối anh đã viết cho em:
Hoàng hôn buông những chiều nắng nhạt.
Đường em đi cây dài bóng mát.
Mặt hồ xưa long lanh sóng vỗ,
Nắng xiên từng hàng hoa, lác đác.
Nỗi niềm riêng gợi nhớ xôn xao.
Tình yêu đến hoài vọng ước ao.
Mùa xuân tới. Đông qua len lén,
Đường em về cỏ đầy lối nhỏ.
Hàng thông xanh im phủ bóng mờ.
Giữa cuộc đời cảm thấy bơ vơ…
Trái sầu đông tê tái cõi lòng.
Giếng mắt đẫm giọt sương mòng mọng.
Thác ven rừng uốn lên uốn xuống
Nước rẽ đôi giòng thương ly biệt.
Đường về quê sao buồn da diết!
Mối tình tựa ngấn sương ưu phiền(*)
*
(*) Thơ Tình Hoài Hương

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau

Tinh Hoai Huong
12-17-2014, 03:54 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/a.linh 19 TTHL - KQ NhaTrang_1418788920.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanVietNam_FullVersion (1)_1418789104.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhứt
Chương 2
Không Quân: (Niềm ước ao của tôi)
Tình Hoài Hương
***

Cám ơn “bạn đường LPH” (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ” (nên bạn đường ấy xin đề nghị dấu tên) ; Nhứt là tôi biết ơn & xin mạn phép qúy anh Không-quân: DHB – TQD – DVH – TVP - TCB - NCT - Hoàng Hùng – Lưu Vong - Hùng Nguyễn - Lê Vinh – Hùng Phan – PH - Trương A Tùng - v.v... đã chia sẻ, động viên - khích lệ - cập nhật... Đồng thời quý vị đã cho tôi chút cảm tác, ngỏ hầu tôi có thể hoàn thành bài viết & ghi lại chuyện đời Không Quân thi vị, thân thiện, đầy huấn nhục được tóm tắt & đúc kết ít phần chính trong chương trình "Huấn Luyện Phi Hành” (cả nghiã bóng lẫn nghiã đen -cuả “tựa đề” câu chuyện và “tên người”-…).
Tiện thể, tôi cũng chân thành cám ơn quý nhiếp ảnh gia, đã đăng những tấm hình quá đẹp trên internet, cho tôi được chiêm ngưỡng & mạn phép copy right vô bài viết của mình; ngỏ hầu phong phú hóa hình ảnh sống động độc đáo đầy nghệ thuật và tài đức của quý vị. Cẩn bút.
Tình Hoài Hương,
***
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhứt
Chương 2

Cảm tình đó lâng lâng chiều tĩnh mịch.
Như thi sĩ yêu quan hà anh lính.
Như họa sĩ yêu bức tranh đa tình.
Như con người yêu tự do bay bổng.
Như Không-quân vút cánh vào thinh không.
Lái con tàu lả lướt người trong mộng.
Phi đạo nối liền tình yêu không phận.
Tình rất đẹp tôi trao đến tha nhân...(*)

Hồng Hạnh em yêu,
Cuộc đời anh chắc có lẽ gắn-bó thân thiết với binh chủng Không-quân hay sao à! Hồi còn nhỏ khi đúng mười sáu tuổi, thì tất cả thanh niên ở miền Nam Việt Nam, ai ai cũng lo đi kê khai Lược Giải Cá Nhân (ở đường Trần Hưng Đạo: Nha Cảnh Sát Đô Thành). Sau khi điền tên tuổi, địa chỉ vào tờ khai, anh mang lên nộp trong văn phòng. Ông cảnh sát già thu nhận tờ khai, ông đọc lướt qua và nhìn anh, cười lớn:
- Cậu tên “Lữ Phi Hành” nghe ngộ lắm. Tôi e rằng lớn lên cậu sẽ đi Không-quân ha.
Anh gật đầu cười, có thể do ba má đặt tên anh, là một điều dự đoán hữu duyên với binh nghiệp của mình sau nầy, cũng nên? Một lần khác vào đầu tháng 02 năm 1962, khi đã chuẩn bị đầy đủ tập hồ sơ, anh dự định lên nộp đơn xin gia nhập vào Không-quân. Lúc đó anh chưa đủ tuổi, nhưng anh dám giả mạo chữ ký của ba, mà ghi: “đồng ý cho nhập ngũ”. Rồi anh nhờ thằng bạn (có chị làm ở văn phòng Phường trên Phú Nhuận), chị ấy đóng dấu xác nhận chữ ký giả của ba đã… “cho phép”.

Ngày ấy đúng là một ngày xui xẻo hết biết, khi thức dậy anh lo đi làm vệ sinh cá nhân, ăn sáng xong, mặc quần áo sẵn sàng, và chuẩn bị mang hồ sơ lên Tân Sơn Nhứt để nộp. Anh đứng trên lầu ba trước chiếc tủ gương lớn chải tóc. Thì, giật thót mình khi nghe tiếng phi cơ bay vù vù… ầm ầm... bay rất sát, điếc tai, gần như ép buồng phổi anh đau nhói, muốn nghẹt thở tức vỡ lồng ngực. Không biết chuyện kinh khủng gì xảy ra? Vội chạy nhanh lên sân thượng, anh bước ra ngoài dáo dác nhìn xuống khu vực Sài Gòn. Anh thấy hai chiếc phi cơ trên bầu trời, rồi thoáng chốc anh nghe tiếng nổ rền ở miệt nhà thờ Đức Bà. Thì ra có biến loạn. Những quả bom trút ào ào ầm ầm xuống tại dinh Độc Lập.

Một lúc sau mới nghe nhóm phòng vệ Tổng Thống phủ phản ứng. Súng phòng không dưới đất ào ào bắn lên đùng… đùng… đùng… khói đen nghịt tỏa ra từng nhúm to trên bầu trời. Hai chiếc phi cơ khu trục A1 Skyraider đã dội hết bom ở dinh Độc Lập, bắn hết đạn, nhanh như chớp họ đã bay vút đi biến dạng. Ba chân bốn cẵng anh và thằng em nhảy xuống dưới nhà, dù má vẫy tay lia lịa, lớn tiếng eo éo kêu la, má cấm con không được đi đâu. Hai anh em vẫn phóng xe veloxolex chạy về hướng đó, tò mò coi xem chuyện gì, bom đạn bắn đi đâu. Nhìn chung, thì không thấy thiệt hại gì mấy. Người người xôn xao bàn tán, xe cộ tụ tập lại trước dinh Độc Lập đông như kiến, không thể chen chân, mọi ngả đường bị chận đứng, đông nghẹt.
Mãi đến xế chiều anh mới biết tin là: do hai phi công Trung-úy Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử đã ném bom. Phi cơ của Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã bị bắt đưa vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử thì đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang. Thế là anh đành kiếm ngỏ tắt tiu nghỉu trở về nhà, buồn phiền xếp lại hồ sơ xin đi lính.

Lần nầy, thì không có gì ngăn cản bước chân anh muốn phiêu bạt giang hồ cả, anh đã đường hoàng ung dung đi lên Tân Sơn Nhứt nộp đơn, và nôn nao vui vẻ trở về nhà nằm rung đùi chờ đợi dài người. Khoảng thời gian nhàn rỗi nầy thật vô vị, trống vắng và buồn kinh khủng! Anh vẫn hẹn hò với cô bồ mới toanh vừa quen biết: hai đứa dung dăng đi ăn, đi chơi chỗ nầy, vung vít chỗ kia. Tuy đã có “cô bồ”, nhưng anh có thêm vài ba cô bạn hờ thân mật thắm thiết khác nữa. Ấy thế mà… sao lòng mình vẫn cảm thấy đìu hiu, muộn phiền và nhớ nhung “nàng ấy” rã rời đến thế!? Anh nhớ mối tình đầu bây giờ đã xa xôi chi lạ! vô cùng nhớ. Nàng thi sĩ ấy từng gieo vào lòng anh ước muốn thiết tha với giấc mơ “Hải hồ ươm mộng”:

Tơ giăng đầy phố cao mây phủ kín.
Những tháng năm bịn rịn trải lá Thu.
Dãy núi xa trăng khuyết ngậm sương mù.
Buồn ly biệt, người lữ thứ nào biết?
Rặng thông già vi vu xanh lá biếc.
Một mình ta tha thiết mối tình thơ.
Người đi xa dật dờ kiếp hải hồ.
Đâu có ngỡ ta vẫn chờ vẫn đợi.
Mộng quan hoài nguyện sắt son vẫy gọi.
Những đêm dài thao thức với trăng côi.
Ta ngước nhìn lờ lững áng mây trôi
Mong người từng bước trải đời lãng tử.
Hôm nào đó nếu dừng chân lữ thứ.
Quán trọ chiều rũ áo tự phong sương.
Khách mỏi mòn, vó ngựa lỏng giây cương.
Xin hãy nhớ tình hoài hương ngóng đợi. (*)

Độ nửa tháng sau có thư mời gởi về nhà, báo anh lên sân bay Tân Sơn Nhứt khám sức khoẻ. Thông thường như mọi năm, ban tuyển mộ Bộ Tư Lệnh Không-quân chọn bốn khóa. Ví dụ như: Năm 1960 là có khóa 60A. - 60B. - 60C. - 60D. Tuy nhiên, nhiều năm cũng có những khóa như: 65B và 65D, là Hạ-sĩ-quan được tuyển chọn đi học sĩ-quan không phi hành. Anh và một lô một lốc các bạn trai trẻ hào hoa phong nhã đầy nhựa sống tráng kiện khác, sung sướng hân hoan, xôn xao, nôn nóng sắp hàng dài dài chờ đến phiên khám sức khỏe. Mặt mày ai nấy đều rạng rỡ mừng vui. Phòng khám nhỏ xíu chật chội. Đa số thí sinh cứ háo hức tràn vào đứng gần kế bên ông bác sĩ. Anh ngồi vào ghế đợi, nhìn những người khác khám rất nhanh. Bác sĩ khám thân thể. Phần tai. Mũi. Họng. Răng. Mắt. Ngực. Phổi. Thần kinh. Khám máu. Nghĩa là khám tổng quát. Họ bắt thí sinh đứng thẳng, xem mình có bị dị tật bẩm sinh gì không. Đa số tuyển sinh đều khá tốt.

Mọi cuộc khám nghiệm về riêng anh trôi qua êm đẹp, bác sĩ khen đôi mắt anh trong sáng lạ thường: 10/10. Chỉ có lúc khám tai thì quá lâu, ông ta lấy đèn soi vào lỗ tai, bác sĩ không thể khám màng nhĩ ngăn tai ngoài và tai giữa. Nên ông cứ loay hoay mãi, ông lấy cái kẹp nhỏ, dài, từ từ gắp, moi ở lỗ tai anh ra từng miếng cục ráy tai to ơi là to, và nhiều kinh khủng. Khiến những tuyển sinh đứng, ngồi, gần đó í dà dá da… họ chen nhau nhìn, rồi le lưỡi, rùng mình, trợn mắt cùng cười ồ. Ghê quá! Thiệt là mắc cỡ!

Thật sự anh không mấy hy vọng, vì suốt thời gian qua mình sống buông thả, bê bối, tự do, (nếu không muốn nói là phóng đãng) chẳng mấy khi anh chú trọng đến sức khỏe, hay chăm chút cho bản thân. Anh gầy đi nhiều so với chỉ số cần thiết. Ví dụ chiều cao 1mét 68, anh có, tuy thế về trọng lượng thì mình chỉ nặng hơn 50kgs chút xíu. Xong xuôi, anh lại trở về nằm nhà, lo lắng chờ đợi, từng ngày đi ra đi vào thật vô vị. Tối tối, đêm đêm, anh ưa rủ rê cô bồ kia đi ăn, la cà đi chơi rông. Thời gian nầy, anh và cô bồ thân thiết hơn.

Một hôm, nhận giấy báo anh đủ điều kiện trúng tuyển để gia nhập vào “khoá phi hành”. Anh rất vui, thế là chấm hết chuỗi ngày bê tha lông bông chán chường vô vị đã trôi qua. Hí hửng vui vẻ mặc bộ quần áo sạch đẹp, anh ung dung sung sướng vọt lên Tân Sơn Nhứt làm thủ tục nhập học. Họ đưa mẫu đơn tình nguyện để tuyển sinh điền và ký tên vào: hứa sẽ gia nhập vào binh chủng Không-quân –ít nhất là mười năm– kể từ ngày ký.

Họ cấp phát cho mỗi khoá sinh một ba lô, phát cặp thẻ bài, bắt SVSQ luôn đeo vào cổ, thẻ bài đã có số quân, anh phải thuộc lòng mấy con số dài ngoẵng. Ghi nhớ mình mang loại máu gì. Họ phát giày bata, giày botte de saut, mũ, bít tất, vài bộ đồ treillis, vài bộ kaki. Họ bảo anh mang về sửa sang lại, để mặc cho vừa khổ người của mình. Về những huy hiệu hay cánh bay, anh thấy sĩ quan Không-quân được may trên các bộ quân phục của KQVNCH. Chỉ cần nhìn thấy họ mặc áo bay, mà anh mê là vậy. Các anh: TCB & Trần Văn Lương, TQD, ĐHB... đã bổ túc cho anh những phần hữu ích, hiểu biết thêm (để anh nhờ thợ may may cho đúng nơi vài chi tiết) như:
- Vai trái: huy hiệu Sư Đoàn. (ví dụ: I, II, III, v.v...)
- Vai phải: huy hiệu Không Đoàn. (ví dụ: 23, 33, 43 v.v...)
- Ngực trái: huy hiệu Không Quân (con rồng Tổ Quốc Không Gian).
- Ngực phải: huy hiệu Phi-đoàn. (ví dụ: 211, 213 v.v... và con số đầu thay đổi theo loại phi cơ. Ví dụ như: số 1 là Quan Sát. Số 2 là TT v.v...)
- Huy chương cá nhân đeo bên trái (trên nắp túi áo trái).
- Trên huy hiệu của phi đoàn là cánh bay (trên nắp túi áo phải, nếu là áo trận).
- Cánh bay đeo bên phải, nằm trên bảng tên (trên nắp túi áo quân phục).
- Khi mặc áo trận (áo bay) không bao giờ đeo huy chương cuống (tức là một phần nhỏ của cái huy chương). Ngoại trừ được gắn huy chương ngoài mặt trận. (Khi mặc quân phục Đại-lễ, hay Tiểu-lễ, thì mới đeo đầy đủ mọi thứ, như đã trình bày bên trên). Áo trận thì mang phù hiệu cấp bậc đính trên một miếng vải nền đen độ chừng 4cm hoặc 5cm vuông, may vào mép của vạt áo, ngang miệng trên hai túi áo. Mấy ông HSQ+BS nếu hà tiện, thì xài miếng kẹp bằng kim loại.

Áo bay đương nhiên giống như áo trận, nhưng cũng có thể làm hai miếng trên hai vai. Mặc áo kaki vàng nếu không thắt cà vạt, thì mang cầu vai ống, mà tiếng Pháp gọi là Fourreaux. Ở Mỹ bây giờ đã xài, gọi là Soft shoulder boards, slide shoulder boards. Áo kaki vàng có thắt cà vạt, có thể mang cầu vai ống, hoặc cầu vai đại lễ. Cầu vai đại lễ có sườn cứng, tiếng Pháp gọi là Épaulettes. Tiếng Mỹ gọi là Hard shoulders boards.
* * *
Đúng vào buổi tối ngày 30-09, thằng em trai là Tom lái xe hơi chở anh ra đi “tòng quân”. Má không làm sao ngăn cản thằng con gàn bướng chỉ thích tự do làm theo ý mình, không muốn ai điều khiển, nên má khóc rất nhiều, má nghẹn ngào quệt hai hàng nước mắt đưa tiễn con đi. Anh cảm thấy lạnh tanh, chả có gì nao núng mà ầm ĩ khóc lóc, tru tréo với than vãn! Đời trai giang hồ qua bốn biển, chẳng lẽ má cứ giữ rịt con bu bám theo lưng má ở trong góc xó nhà hoài, để má chăm chút cho con bú mớm sao má!?
Có câu nói nầy cuả Jean-Paul Marat (1743-1793) nghe rất chí lý má ơi: “On est grand parce que vous vous mettez à genoux. Citoyens! Levez-vous droitement” (Các anh quỳ gối, nên thấy người khác cao lớn. Hởi công dân! Hãy đứng thẳng người lên). Vậy thì má khóc làm gì khi con trai muốn đứng lên bằng chính đôi chân mình để tự lập, má à. Anh không thấy cô bồ đến tiễn đưa (như cô ta đã hứa). Cũng bình thường thôi, vì Everything can change in the blink of an eye. (Mọi chuyện ở đời có thể thay đổi trong chớp mắt)

Anh mặc bộ treillis “mới cáu cạnh” cảm thấy thú vị, hãnh diện, le lói lạ, anh đội lệch mũ lưỡi trai, mang botte de saut, hiên ngang huýt gió ung dung kèm chút nôn nao đi đến trại Cửu Long (ở bên trại Thủy Quân Lục Chiến). Đó là nơi tập trung đông đúc khóa sinh từ các trường: Hải Quân. Trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Họ sẽ đi học chung với nhau trên chiếc Tuần Dương Hạm 602. Sau khi xuống con tàu bồng bềnh nhấp nhô trên sông, anh chọn ngồi ở một nơi có mặt phẳng trên bon tàu. Nhiều tên “tân binh” sợ sóng gió, thì họ chui tọt xuống dưới gầm tàu. Dưới kia chắc hẳn là đông đúc vui vẻ, nhộn nhịp ồn ào, nhưng mà kín mít, lù mù tối ngột ngạt lắm!

Chiếc tàu to kềnh càng từ từ kéo neo lên, con tàu chuyển lối dần dần rời sông Sài Gòn, tàu chạy trốn sau khúc quanh ở “Cảng Nhà Rồng”. Bên kia sông thành phố Sài Gòn vẫn rộn rịp, rầm rộ, tấp nập xe cộ bon chen lao đi vun vút. Người và người vô tư lự, nhộn nhịp nối đuôi nhau chuyển động ì ầm không biết mệt dưới ánh đèn đường muôn màu. Chả ai ngủ ngáy gì được, nhìn quanh, anh thấy Trần Thế Vinh to con, đẹp trai ngồi lầm lỳ ở một góc, bên cạnh Quân nhỏ loắt choắt. Các anh em khóa sinh khác lân la ghé tới tíu tít vui vẻ bắt tay làm quen với nhau. Họ tự nhiên nói chuyện giây lát, thế là họ đã tỏ ra vui vẻ thân mật ngay. Làm y như là “tụi nầy” đã có duyên kỳ phùng hội ngộ, họ hàng thân thiết hoặc quen nhau từ kiếp nào! Tình bạn trẻ trung cao đẹp hồn nhiên bắt đầu thật dễ thương.

Bỗng con tàu chồng chềnh nhấp nhô ghê lắm. Ai nấy cảm thấy quay cuồng chóng mặt, đứng ngồi không vững. Hỏi ra, khoá sinh mới biết dự báo thời tiết báo buổi sáng thì biển lặng. Đến trưa sóng to, rất to đang đổ dồn. Con tàu lênh đênh bồng bềnh nhấp nhô trồi lên trụt xuống, giống như nút chai bồng bềnh trong cái ao lớn khi gió ào ào thổi tới. Thế là "các cậu ấm" ngồi bên cạnh anh bắt đầu nôn ọe tùm lum tà la ra mật xanh mật vàng. Riêng anh vẫn tỉnh queo. Đến xế chiều, Vinh, mặt xanh như tàu lá, anh ta đưa hộp cơm vắt và thịt kho rất ngon (của mẹ Vinh làm) cho anh:
- Mầy ăn đi. Tao nuốt không vô rồi.

Cười hề hề, anh đang đói nên ưng ý bưng ngay lấy hộp cơm thịt, anh ra ngồi bên góc bon tàu ăn ngon lành. Mặc dù lúc đó có những đợt sóng thần cao ngất đang phủ lên đầu tàu đầy bông sóng bạc trắng. Chiều buông xuống rất nhanh, hoàng hôn lả lơi trên phần đất mới đến có màu tím nhạt, màu vàng óng lẫn với màu ven đêm... dần dần chuyển sang choạng vạng tối. Ấy là lúc các anh em khóa sinh sinh viên sĩ quan Không-quân mệt mỏi rã rời, đừ đẫn, phờ phạc, cả người nhẹ lâng lâng bồng bềnh dật dờ như đi trên mây, thì con tàu đã từ từ vào bến đậu ở Cầu Đá. Nha Trang... Ôi... "Nha Trang... là miền quê hương cát trắng..."!
Thân chúc em mọi điều như ý tốt lành. Tạm biệt nhé cố nhân em yêu.
LPH
*
Tình Hoài Hương

(*) Thơ Tình Hoài Hương

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

AcDieu225
12-19-2014, 03:54 AM
Cám ơn THH/AUD.

Tinh Hoai Huong
01-03-2015, 07:16 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/a.linh Legan Cap Bac_1420270092.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanCa_1420270334.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhứt
Chương 3

Anh KHÔNG QUÂN Cho Em Xin hai chữ… “Lễ Độ” !
Tình Hoài Hương
***

Năm 1965... Hành mệt nhọc vác ba lô xuống bến tàu Cầu Đá. Đoàn Không-quân trong nhóm gồm có bảy mươi bốn sinh viên sĩ quan khóa sinh, cộng với mấy trăm tân binh Không-quân. Những đoàn xe GMC vù vù chở mọi người về căn cứ 12, thì hàng chữ: "Trung Tâm Huấn Luyện Không-Quân - Căn Cứ 12" đập ngay vào mắt mọi người.
Con đường tráng nhựa khá dài, có lẽ dài đến bảy tám trăm mét chạy quanh doanh trại. "Vòng Cộng Hoà" sừng sững giữa các bãi cỏ xanh tươi. Nơi đây chuyên dành để sinh-viên sĩ-quan đàn anh sắp ra trường, sẽ tập trung đàn em khoá sinh lại, họ tha hồ "nhồi" cho tân khoá sinh có sức khỏe, kiên cường, nhẫn nhục, có sức chịu đựng dẻo dai trong quân đội. Cạnh đó, chưng bày chiếc máy bay F8F Bear Cat, loại phi cơ một cánh quạt tấn công của Pháp. Đồng thời chiếc máy bay nầy đã từng dùng để huấn luyện đợt phi công đầu tiên của Việt Nam.

Câu Lạc Bộ có nhiều người đang ăn uống, nhiều người giải trí: đánh bida, pingpong. Phía trên kia là văn phòng điều hành khóa sinh, nơi làm việc của Đại-úy Trưởng-đoàn khoá-sinh. Văn phòng ông Thượng-sĩ Cơ Bản Huấn Luyện người Mỹ. Văn phòng đoàn cán-bộ sinh-viên sĩ-quan. Những khoá sinh đi trước Hành chưa được tuyển chọn đi du học, thường đề-bạt lên làm cán-bộ (Trung đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn. Ai càng “thâm niên... phạn xá”, hi hi hi... thì cấp chức càng… bự). Vòng nhỏ là Vòng-Khóa-Sinh: tức là sân nhỏ giữa doanh trại. Mỗi cuối tuần có đám sinh viên sĩ-quan, khóa-sinh nào bị phạt, sẽ thi hành lệnh "dã chiến" là chính tại nơi nầy, sân rất lớn nằm ngay bên dãy nhà tiền chế theo kiểu ba-rắc của Mỹ, ở giữa là hai dãy nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng. Phía trên là văn phòng để điều hành khóa sinh.

Bạn chung khóa sinh với anh gồm đủ mọi miền, đủ thành phần, đủ hoàn cảnh. Họ cùng quy tụ về dưới mái trường Không-quân-Mẹ: Vừa thất thểu qua khỏi cổng trường, tất cả khoá sinh được tách riêng ra, xếp hàng ngay ngắn, chờ điểm danh. Tân-binh được hướng dẫn viên cho đi thẳng xuống khu nhà đằng phía xa xa kia. 74 khoá-sinh sinh-viên sĩ-quan Không-quân thì ghé lại trước cổng trường. Sinh viên sĩ-quan vác ba lô đi vào giữa sân. Đầu tiên, khoá sinh xếp hàng theo thứ tự cao, thấp. Những anh nào cao lêu nghêu, thì đứng trước, đứng trên. Những anh thấp bé chút đứng dưới, đứng sau, (chi lạ ha, Hành cứ tưởng là ai thấp, lùn, ốm o… thì phải đứng trước, đứng trên, thì mình nhìn mới “thấy đường” chớ! Ai dè... lại tréo cẵng ngỗng thế! Thiệt tình! Hành thấy một sĩ quan huấn luyện rất cao lớn, to con gần giống như người Mỹ to bự chảng vậy. Khi ông ta mở miệng ra, mọi khoá sinh nghe mà phát khiếp! Giọng nói ông ta tốt, sang sảng, rổn rảng, oang oang. Hành nghĩ không phải là giọng nói, mà giống như là giọng ông ta gầm hét quá to như cái trống làng (chả cần dùng loa liếc phóng thanh phóng tháo gì, cho mệt):
- Các anh. Có ai là sinh viên đại học. Hãy bước ra khỏi hàng. Đứng qua bên phải đây.

Trong bụng Hành mở cờ reo vui, thích thú, hân hoan, sung sướng thầm nghĩ: "Chà! Oai nhe! Le lói nhe! Đã nhe, sung sướng, ưu đãi nhe! Chắc là đám sinh viên nầy được phè phỡn ưu tiên nhe. Khỏe re như con bò kéo xe à nhe". Hành cùng một nhóm nhỏ độ chừng sáu bảy tên, vội vàng hăng hái, hớn hở bước ra khỏi hàng, lẹ làng đứng qua bên phải. "Ông to con" kia hất hàm cho các cán bộ Trung-đội-Trưởng dẫn đám đông còn lại bắt đầu "chào sân". Nghĩa là cho “tân binh” bắt đầu chạy quanh Vòng Cộng Hoà. Sau hết, ông ta quay sang phía "bọn le lói" nầy, ông “hét” tiếp:

- Các anh được cha mẹ, ông bà... cho ăn no, rồi vác thân tà tà ung dung “đi học đi hành” hay lắm. Tốt lắm. Giỏi lắm! Sung sướng lắm. Mà các anh không biết nương thân, còn bày đặt tụm trăm tụm ngàn rầm rộ biểu tình, biểu tọt, phản đối la hét, chống báng nọ kia ầm ĩ. Các anh có biết không: Vì các anh ưa náo động, ưa dợt le, ưa làm ta đây là người khôn ngoan giỏi giang am tường hết mọi vấn đề chính trị. Các anh lên mặt ta đây rành đời, muốn dạy đời... nên các anh thường quấy rối, quậy phá lung tung, bạo động ở ngoài xã hội muốn bình an kia. Vì vậy, chúng tôi ở đây mới bị các anh “chẳng đi học lại đi hành”, bắt chúng tôi ở trong quân đội phải cắm trại ngày đêm liên miên. Rõ không? Bây giờ, các anh đã vào đây rồi. Chúng tôi sẽ cho các anh biết: Thế nào là lễ độ. Đâu là kỷ luật sắt trong quân ngũ... nà! Nào. Chuẩn bị. Các anh hãy chạy theo tôi.
Thế là ông ta chạy trước rõ nhanh. Các khóa sinh Không-quân tuần tự lúp xúp chạy theo sau lưng ông. Cứ thế mà chạy. Vừa chạy, ông ta vừa hét to:
- 65...
Các sinh viên sĩ-quan phải cố "gào lên" to hơn:
- Khỏe.
Cứ thế, "tân binh" bị ông "hành hạ, tra tấn" cho đến quá mười giờ đêm. Có hơn một nửa khóa sinh đã ngất xỉu, họ nằm vật ra bên vệ đường. Chả có ai "ân cần" thương xót chăm sóc, giật tóc giật tai, tạt cho tí nước nôi vào người, cho tỉnh, hay cho ăn uống tí gì. Họ cứ nằm lì (y như trẻ con "nằm vạ" ra đó). Khi nào ai tỉnh dậy, thì tự động bò lết về sân. Còn Hành sao khoẻ đến thế nhỉ? Mặc dù lúc đó anh ốm nhom. Có lẽ do hồi trước ở Đà Lạt, anh phải đi bộ rã gối rã giò nhiều, ngày ngày có ít nhất là ba bốn lần anh đi lên đi xuống: từ trong đại học, đi ra phố, về nhà. Đi hoài, nên Hành đi bộ quen chân rồi chăng? Chả rõ. Chỉ biết là Hành nhìn vào cái lưng của thằng khóa sinh chạy trước, cứ thế mắt nhắm mắt mở, anh cắm đầu chạy riết, sau cùng Hành cũng mệt bá thở.

Cho đến khi hơn hai phần ba những anh bạn kia đã "rụng rời tả tơi". Ông ta mới cho mấy anh chạy khật khưỡng, lẻo khoẻo dừng lại. Tất cả về tập trung ở sân cỏ. Ông ra lệnh cho từng cặp đi qua nhà kho (kế bên dãy nhà khóa sinh). Khóa sinh phải tự túc khiêng giường, tủ, bàn, ghế. Trời đất! "Chúng tôi" đang đói cồn cào, và mệt lả người. Hành dật dờ đi khiêng đồ cùng với Vinh, vì cán bộ cho tự chọn hai người được ở chung một phòng, cùng đựng áo quần trong một cái tủ sắt, một bên là đồ dùng của mình, một bên kia là của Vinh. Lúc xong công việc đã hơn nửa đêm, Hành càng mệt muốn đứt hơi thở, đói cồn cào mà không thể ăn uống nuốt trôi thứ gì. Vậy mới thấy thương Vinh, chắc chắn Vinh rất mệt và đói run người, vì đã nhường phần cơm buổi trưa ngon bá cháy lại cho mình.

Những ngày thụ huấn đầu tiên thì ôi thôi, bị phại lia chia. Hình phạt ở đây hầu hết có tác dụng của việc huấn luyện thể chất khoẻ mạnh, cường tráng như: "nhảy xổm", "hít đất", "tấn công", "đi vịt", "bò", "lăn". Trong phòng ngủ cán bộ mang găng tay trắng tinh, họ tìm kiếm những chỗ ngóc-ngách mà quệt vào. Thử hỏi làm sao chả có tí bụi chớ? Cứ thế, họ lầm lì, lạnh lùng rút trong túi áo của khoá sinh ra một tờ giấy: Ghi phạt vào chiều Thứ Bảy. Bị phạt, thì trong vòng chừng vài giờ từ trong phòng: khoá sinh ấy chạy lên sân, các bạn "bị kỷ luật" phải thi hành bất cứ lệnh phạt nào. Nếu ai làm sai, là bị phạt hít đất. Có những lệnh trớ trêu buồn cười lắm. Như cán bộ hét:
- Anh về phòng mặc ngược áo treillis. Mặc trái quần kaki. Một chân bên phía mặt mang botte de saut. Một chân bên trái mang giày bata. Các anh bị phạt chỉ có mười phút, để thi hành.

Mệt ơi là mệt, nhưng rất vui. Khi ra lệnh, thì cán bộ hét oang oang, to muốn điếc con ráy. Nên các bạn ở trong những phòng khác đều nghe rõ. Thế là sinh viên sĩ quan ở chung phòng hoặc cùng dãy với bạn ấy, nếu ai không bị kỷ luật, họ liền chạy tới tận tình giúp người bị phạt làm thật nhanh. Nghĩa là họ sắp xếp sẵn sàng đầy đủ mọi thứ. Anh bị phạt kia lo chạy về phòng, nhờ có bạn phụ giúp mặc đồ, gài nút áo, mang giày, thắt dây giày, như thế mới kịp. Thử hỏi, nếu không có sự yểm trợ của bạn đồng môn rất "biết điều" trong phòng giúp đỡ mặc áo, xỏ quần, mang giày, vân vân...; thì làm sao kịp chớ!? Vậy mà khi anh chạy lên tới nơi, cũng bị phạt năm mươi cái hít đất. Hành trợn mắt hả miệng thở, mệt hộc xì bơ.

Mãi về sau nầy Hành mới biết vì Vinh to con, đẹp trai và khỏe, học khá giỏi. Tính tình Vinh đàng hoàng, dễ thương. Cán bộ thấy nó “có uy, có thớ, ngầu” như thế, nên họ ưa “ưu ái chiếu cố chăm sóc hai chúng ta". Họ "siêng năng" tới phòng "hỏi thăm sức khỏe bạn và tôi"! Vô tình ở chung với Vinh, Hành cũng vướng vào cái thảm hoạ bị "trù dập tả tơi, bị đì tới bến". Khi khổng khi không hai đứa vô cớ bị phạt "dã chiến" hoài. Nghĩ cũng tức bực vì sự vô lý ấy, mà mình đành nín khe, im re chịu trận xin tuân phục theo “cái đức vâng lời" là thượng sách mờ. Thì ra, trong quân trường họ cố rèn luyện cho khoá sinh lấy "đức vâng lời" làm điều tiên quyết. Bất kể "lệnh lạc" đó ra sao, có đúng, sai, dị hợm hay nực cười! "Thi hành trước, khiếu nại sau" mà! Những lần sau khi bị phạt chung, toàn khóa sinh thường thì thầm bảo nhau:
- Khi tụi mình chạy qua khu sinh-viên sĩ-quan đàn anh đã ngủ. Tụi bây nhớ quay vào phòng của họ, mà gào lên cho thiệt to, thiệt dài. Nghen:
- Sáu mươi lăm ... lăm ...
- Khỏe.
- Nhớ chưa?
Cứ thế, khóa sinh Không-quân quay mặt vào cửa phòng ngủ của cán bộ, hết sức gân cổ hét la thật to. "Chúng tôi" ở ngoài sân, nghe còn muốn điếc con ráy. Thế là có kết quả ngay. Có mấy ông cán bộ "coi sóc" sinh viên sĩ quan "bự" hơn, (là Đại Niên Trưởng) đã kêu cán-bộ Đại-đội-Trưởng lên la mắng, rầy rà:
- Nè. Có phạt tụi nó. Thì phạt ban ngày. Còn ban đêm, thì để cho "ông" ngủ nha.

Hành không thể nào quên về thời kỳ “Huấn Nhục” nó cay đắng… mà thi vị lắm! Cũng tựa như cái sự cay của ớt, cái chua của chanh, cái mặn ngọt của tương; để làm cho tô phở ngon, thêm đậm đà hấp dẫn! Ới nầy! Các em gái hậu phương hỡi! Chắc các em ưa đứng ở ngoài hàng rào của quân trường Không-Quân Nha Trang để… “ngắm nghé” lom lom len lén dòm ngó quý anh ha! Các em sẽ lạ lẫm với hai tiếng “Huấn Nhục” lắm, phải không các em? Anh nghĩ lại cũng thấy mục đích cao cả, và tuyệt diệu của việc nầy đấy.
Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu: "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội" là như thế nào! - "Trên" ra lệnh, là "Dưới" răm rắp nghe, và thi hành! Chứ lỡ mà khi các anh ra trận, thì không ai có thời gian tỉ mỷ giải thích nầy nọ đâu em. Họ chỉ cần thuộc cấp phải lắng nghe, tuân phục, chấp hành lệnh ban ra thôi! Nào, anh kể sơ sơ như vầy... là các em sẽ hiểu, mà không cần giải thích nha. Các em hãy ngồi bên, nghe anh tâm tình nè: Các em có biết không? Một ông niên trưởng nọ tự dưng đứng trước một chàng khoá sinh, hỏi:
- Nầy, ông cao bao nhiêu vậy ông?
- Dạ, 1 mét 68.
- Thấp vậy mà cũng vô Không Quân ha. Hai mươi cái hít đất đi ông.
Có một ông... "gian ác" khác, cầm trái ớt hỏi một khóa sinh:
- Trái gì đây ông?
- Dạ, trái ớt.
- Tầm bậy! Đây là trái chuối. Mười cái nhảy xổm đi ông.
- Ông nói lại coi, đây là trái gì?
Anh khoá sinh ngán quá, trong bụng chưởi thầm, nhưng cũng ráng “thưa”:
- Dạ, trái chuối.
"Ngài niên trưởng" cười cười:
- Trời đất! Nó là trái chuối à, vậy thì ông ăn hết, xem nó có ngọt không ông?

Bắt buộc là chàng khoá sinh đứng thộn ra ăn nguyên trái ớt, không dám nhăn mặt cãi lệnh à! Đó! Các em hiểu thế nào là “Huấn Nhục” chưa? Nhiều cái tức cành hông, tức như bò đá; mà ở đây các anh không cần biết lý do; để lý giải, hay lập luận gì hết!? Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng học sinh, sinh viên xưa kia sẽ gân cổ lên ha. Nhưng khi các anh đã vào đây rồi: là đồ bỏ, anh ta không được ngóc đầu dậy rông rống, chỉ chỏ, la ó, phản đối, biểu tình ở trong quân trường. Các em à! Có nhiều trò “Huấn Nhục”... "quái chiêu" hơn, ác liệt hơn! Nghe mà ớn. Anh đồng ý với quý anh em là: “cái gì vừa vừa... phải phải..., là nó rất hay”... Có mấy "cha" niên trưởng vô ý, hay có tâm "xà", tự chế ra những hình phạt: làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, hoặc gây thương tật cho sinh viên sĩ-quan, là không nên, không thể được. Về phía dã chiến (từ một ông vua dã chiến), thì anh khoái cái trò mỏi lưng, đau đầu gối:
- Lấy que tăm xỉa răng đi đo chu vi sân phạn xá.
Cán bộ lại còn hù:
- Đo cho đúng vào, nghe không. Trước anh, đã có nhiều người đo rồi. Nên tui đã có con số đo sân nầy rõ rệt. Nghe.
- Cầm muỗng cà phê đi băng qua sân, hứng nước. Rồi trở lại băng sân, đỗ nước vào bi đông.
- Chuyện sau nầy thì mình càng không mấy vui: để ngón tay lên mui nap-rocket, (hình mui tháp ngang đầu gối), rồi chạy xung quanh… Mẹ kiếp! nghĩ lại còn muốn mữa!
- Bắt khóa sinh đứng nhìn mặt trời giữa trưa nắng. Nhẹ nhàng đấy, nhưng "cha nội niên trưởng" nầy có hiểu không, chúng tôi sẽ bị “mù”: dân phi hành cần phải bảo trọng cặp mắt quý giá đến dường nào!
- Cái trò nửa đêm mưa bắt khóa sinh vừa hít đất, vừa nhìn bóng đèn. Cũng không vui, sẽ bị hư “đôi mắt phi tiêu” như chơi.
Lương vẫn nói:
- "Lễ độ" cái con... khỉ! Từ ngày có cái Liên Đoàn sinh viên sĩ quan, mới có người nghĩ ra "nghi thức" tiếp đón tân SVSQKQ: ngày vào quân trường mẹ như thế chớ. Theo tập tục từ các quân trường lớn, lúc khóa sinh ngồi trên tàu thủy vừa hết say sóng, thì liền bị quý niên trưởng cho thử sức với bão táp quay cuồng, dồn dập, liên tục... “phờ người”, chớ chẳng phải chơi. Có nghe khóa sinh xì xào tâm sự nhỏ to với nhau vào những phút giây cho nghỉ xả hơi, ta mới thấy được bản lĩnh của từng người; ôi thôi: hỉ, nộ, ái, ố: có đủ cả; đứa thì lấy làm vui khi thấy thằng khác bị phạt. Đến khi tới phiên mình bị phạt, thì trong bụng không tức giận cũng ấm ức. Đứa nào có cái tướng dễ thương, là ít bị “quay dế”, thì trong lòng có cảm tình với đàn anh. Đứa nào có cái mặt thấy dễ ghét, là bị hành hạ liên tục, rồi sinh ra oán ghét.

- Tại sao lại… "lễ độ” cái con khỉ? Ai đời thằng nhóc con mới bận áo lính chưa được bao năm, mà dám phùng mang trợn mắt, ra lệnh nọ kia với một "ông cụ già như Lương tui". Tui hơn nó cỡ mười tuổi đầu. Tôi mặc quân phục hơn nó cỡ chín mười năm, lãnh lương hơn nó hai ba bậc, mà tôi phải gọi nó là niên trưởng! Ôi thôi! Nói chơi vậy cho vui, và hàn huyên tâm sự xí thôi, chớ đó là tập tục cổ truyền từ phương Tây, rồi tràn lan sang phương Đông, nghi thức làm nên truyền thống: là phương pháp đào luyện bằng thực tiễn, là bàn tay điêu khắc ra "một thế hệ hào hùng, danh tiếng”, có lý tưởng, có tình huynh đệ chi binh mà. Nếu không có “lễ độ” trong quân ngũ, thì súng ống sẵn đó, khi tức giận lên, mình tự ái vặt, nổi nóng hừng hực hơn lửa, không thể tự chủ, chẳng ai nhớ gì quy củ, kỷ luật trong quân trường; là mạnh ai nấy nổi giận, làm loạn, thì còn gì là kỷ luật quân đội và gia phong quân trường mẹ nưã! Phải không qúy vị?

Ngay cả tên cán bộ phạt Hành nhiều nhất, hoá ra là thằng Thanh. Cứ đêm đêm, nó cố tình kêu Hành ra, phạt anh năm mươi cái hít đất. Thi hành xong. Hành rã rời ngất ngư, nhưng cố gắng đứng nghiêm chào, và la to:
- Sinh-viên sĩ-quan Lữ Phi Hành… khoá 65... Thi hành lệnh phạt xong.
- Có biết tại sao tôi ưa phạt anh không?
- Thưa không.
Thế là nó nhìn Hành cười cười, và cứ phạt anh ra hít đất hoài. Vì cái tội "không biết". Mãi về sau, khi anh gần đi Mỹ. Nó mới “hóm hỉnh” thố lộ:
- Tôi là anh họ của cô bồ nhí xí xọn của anh đây. Thấy bộ dạng anh coi công tử bột, dễ ghét, đã vậy anh cùng nhóm sinh viên ưa đi quậy tưng trời, biểu tình biểu tọt… ở ngoài vòng rào kia. Anh không “đi học”, mà anh “tưng bừng đi hành”… thì khi anh vô đây, tôi cứ “hành” tội, phạt anh chơi. Vậy có được không!?
- Trời đất.
*
Tình Hoài Hương

Mời độc giả xem tiếp chương sau

Tinh Hoai Huong
01-06-2015, 03:02 AM
Cám ơn THH/AUD.
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/fico _1420513297.jpg

THH xin kính chào anh AcDieu225 thân mến,
THH chân thành cám ơn anh AcDieu225 đã vui lòng ghé vào đọc: Truyện Dài... và ghi lời nhẹ nhàng cám ơn hiếm quý, khiến tôi xúc động.
Quả thật là lâu lắm, quá lâu rồi không hân hạnh gặp anh trên HQPD! Anh AcDieu225 && và hiền muội có khỏe không ạ?
Tình thân,
THH

AcDieu225
01-11-2015, 04:17 AM
Kính THH/AiUuDu: Cảm ơn Giời mọi người đều bằng an đấy THH. Lâu lâu tạt vào HQPD để giải trí và đọc thông tin bạn bè cho qua ngày. Thanks THH!

Tinh Hoai Huong
01-25-2015, 04:59 PM
Kính THH/AiUuDu: Cảm ơn Giời mọi người đều bằng an đấy THH. Lâu lâu tạt vào HQPD để giải trí và đọc thông tin bạn bè cho qua ngày. Thanks THH!


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/dia hoa 4_1422204676.jpg
Chào anh Ác Điểu du hành
Ơn Giời hạnh phúc trong lành thịnh an
Cầu xin cuộc sống thanh nhàn
Muôn người tận hưởng vinh sang suốt đời.
*
Tình Hoài Hương
Kính mời độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
01-28-2015, 06:34 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/fico tructhang & bien_1422427936.gif
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Tuyet Trang - Sy Phu_1422431302.mp3

Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhứt
Chương 4

Huấn Nhục Tại TTHL/KQ Nha-Trang
Tình Hoài Hương
***

Lackland (Texas) Ngày… tháng… năm 19…
Hồng Hạnh,
cô em gái thương,

Do từ thuở anh còn mài đủng quần trên ghế của các trường Tiểu-học, Trung-học và Đại-học, anh quá ngưỡng mộ những anh chàng phi công, anh yêu ngành bay bổng, và đã đêm từng đêm, ngày từng ngày anh ôm mộng: mai sau anh sẽ ngao du đây đó với mây trời lồng lộng, giang hồ bồng bềnh phiêu lãng bay qua bốn bể. Vì:
Đời phi công ngang dọc vượt ngàn non.
Từ đại dương bay qua vạn lâm sơn.
Giữa sáng nắng khuya chiều bồng bềnh tới.
Tự hào đó muôn đời tôi ước muốn…

Mộng vàng ươm sương gió cuốn non sông.
Thiều quang cánh chim bằng rong nghìn núi.
Đêm chập chờn thao thức vùi trăng vỗ.
Ngày tha phương cánh bạc tô vuông đời.

Bầu trời tròn hoài mong đợi trong tôi.
Từ thinh không anh nhìn đời bát ngát.
Tự do ấy toả rung ngàn nốt nhạc.
Mộng hải hồ hằng khao khát thế nhân.

Dưới chân mây ta nhìn lên vạt nắng
Vờn trong gió mơ năm tháng song hành.
Bỗng hoá thân anh đổi đời xoay chuyển.
Phiêu lãng nơi đâu tầm tay tang biến?

Anh: ngấn nước thầm lặng miền ven biên
Bên dãi ngân hà. Tôi nào giữ được.
Dẫu lãng du tình lả lướt lưng trời.
Biết bao giờ tôi ôm trọn giòng trôi!? (*)

Tuy anh đã đi du học ở Mỹ đã lâu, quân trường & cảnh vật nơi đây khác hẳn bên Việt Nam, khiến bọn anh thường nhớ biết mấy... khi còn huấn nhục tại quân trường mẹ. Dù nhọc nhằn nhưng lòng cảm thấy rất nhớ những ngày ở quê nhà, và vui từ mỗi buổi bình minh lúc mặt trời rạng rỡ đỏ thắm pha màu hồng tươi, quyện lẫn từng vạt mây ngà bồng bềnh trôi trong không phận Nha Trang, mây hồng lững lờ soi mình lung linh trên mặt biển lặn sóng. Mặt trời ươm nắng từ từ ngoi lên khỏi mặt biển xanh ngắt, bơi bơi vào không gian vô tận. Chim biển rộn ràng chao lượn, rối rít hót những âm thanh líu lo, nghe vui vẻ lạ thường.

Và lúc chiều về, phía núi xa xa có những mãng mây ửng hồng, hoà với mây tím chắn che trên đỉnh, mặt trời vàng óng còn lấp ló dưới chân đồi, khiến anh tưởng chừng như có nàng sơn nữ sau khi ngâm mình trong suối mát, trên đường về nhà sàn, sơn nữ còn quay lại mỉm cười vu vơ. Các cô nàng ngắm nhìn bọn anh với vẽ mặt bẽn lẽn, e ấp, lưu luyến, chưa muốn xa cách; dù chỉ vài tia nắng nhạt mà còn hơi nóng, có khác gì ánh mắt nồng nàn của sơn nữ thay lời chào tạm biệt, trong những phút cuối mình còn thấy nhau... Em ơi! Em khoan vội nói:
- [“Anh đã dong vô lính, không lo chuyên tâm học hành, đỗ đạt ra làm “quan tàu bay” như má mình ưa nói; anh ở đó mà lãng mạn, phiêu bồng nói chuyện tào lao, mơ mộng tới mấy nàng sơn nữ. Không có đâu, đừng mơ hão nhớ huyền. Mệt”].

Ha ha ha! Chiều nay anh trai có ít giờ rãnh rỗi, nên anh viết thư gởi đến em, hầu đáp lại tấm chân tình, mà bấy lâu nay ba má, anh, chị, em… thân thiết đã riêng dành cho anh. Cũng như anh đền đáp cho gia đình, ba má mình phần nào; về sự họ đã thắc mắc, băn khoăn, phân vân từ cuộc sống mới của “đứa con cưng” của ba má nơi quân trường, mà anh chưa có dịp kể cho gia đình nghe (như anh đã hứa). (Em không ganh tị, phụng phịu, xù mặt ra... khi anh nói "anh là con cưng", à nhen). Hy vọng thư nầy đến kịp lúc, từ phương xa mọi người trong gia đình mình có thể dõi theo dấu chân anh. Em nhé! Anh nhớ ngày đầu tiên, khi vừa đến quân trường Không-quân Nha Trang, tụi anh được các niên trưởng dàn chào “tưng bừng, nên mệt bá thở”, làm bạn Quân sợ đến gần "té đái", ai ai mà chả có đôi lúc yếu lòng xìu xìu ểng ểng ha em. Khuya đó, nó lân la tới gần bọn anh, rù rì to nhỏ rủ rê anh, Tâm và Vinh:
- Tụi mình đào ngũ về Sài Gòn đi.
- Mầy nói cái gì?
- Thì “đào tẩu”… Có gì, sau đó chúng ta trốn lên Đà Lạt. He.
- Ha ha! Thôi mầy. Đã vào đến bây, sao yếu vậy? Chết nhát hả? Ngủ đi mầy.
Thế là Quân tiu nghĩu, uể oải lững thững đi về phòng ngủ. Vậy mà bây giờ Quân vẫn hân hoan theo kịp bạn bè, Quân vui vẻ và kiên nhẫn chạy đua bén gót theo bạn, nó không hề bỏ cuộc, chứ có kém chi ai. Vậy mới biết:
“Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài tan”.

Thời khóa biểu học trong quân trường khá sít sao, chặt chẽ. Buổi sáng sớm trường mở loa phát nhạc quân hành. Tất cả anh em liền ngồi bật dậy như cái lò xo, mắt nhắm mắt mở, họ vội thay bộ đồ thể thao, thường là áo thun T Shirt, quần dài treillis, có quần tắm lót bên trong. Anh cùng các bạn lo chạy ra sắp hàng, điểm danh như thường lệ. Khoảng năm giờ sáng, có một ông Thượng-sĩ huấn luyện viên thể dục hướng dẫn tụi anh chạy bộ thẳng ra bờ biển, rồi tiếp tục rẽ về bên phải, chạy đến Cầu Đá, xa hơn quân trường sáu kí lô mét. Anh nhớ lại thật vui, mà tức cười nữa em à; người ta nói: "gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu". Mà bọn anh là trai đôi mươi đang thời sung mãn, phơi phới… thì dù là gái mười bảy, gái mười tám, nếu có muốn đi “đấu vật” còn phải chịu nằm dưới... là thường. Vậy nếu… anh chạy năm bảy kilô mét bi giờ, thì có ra gì!

Chạy có đổ mồ hôi thật, nhưng vẫn đều bước nhịp. Không một chàng nào rơi rớt… "tụt hậu" cả nghe em!
Miệng vang vang bài hát "Không Quân Hành Khúc". Lúc tụi anh chạy ngang qua căn cứ Hải Quân, thì câu hát: "Ta là đàn chim bay trên cao xanh. Khi nhìn qua khói những kinh thành xa. Ðôi cánh tung hoành vượt trên mây xanh. Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng. Ðây đó hồn nước ơi! Không quân Việt Nam vút trên ngàn mây gió U..u… u… Ôi phi công danh tiếng muôn đời. Nhìn xa phi trường Việt Nam. Không quân ra đi cánh bay rợp trời..." được cả bọn anh không ai bảo ai, mà cùng nhau quay mặt vào quân-trường Hải Quân bạn, đồng thanh cất cao giọng, để "giựt nổi", để “làm le, làm dóc, chơi trội” chút xíu. Ấy là bọn anh cố ý chọc phá, vui chơi, khoe sự bay bướm với mấy chàng áo trắng “Hoa Biển” lả lướt mà lỵ!

Rồi, cả đoàn sinh viên sĩ-quan lại chạy trở về, tới khúc quanh trước khi vào cổng quân trường, lúc đó thì mọi người được huấn luyện viên cho tự do thoải mái. Ai muốn hít thở không khí trong lành, ai đi lại trên bãi cát trắng, hoặc ai muốn tắm, muốn bơi, đều có quyền tự ý đùa giỡn, vẫy vùng thoải mái trên sóng biển. Mỗi lần chạy về đến cổng căn cứ Không-quân, anh nhìn lên tấm bảng ghi hàng chữ đậm: "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu". Trong lòng ai nấy cũng cảm thấy có phần yên tâm. Sự kiên nhẫn và chịu đựng ngày càng tăng thêm. Không quản nhọc nhằn gian khổ, nên các anh em cố gắng trì chí học hành. Hy vọng sau nầy sẽ được gia nhập vào một trong những Không-Đoàn ghi sau:
- Không Đoàn 41 - Vùng 1.
- Không Đoàn 62 - Vùng 2.
- Không Đoàn 23 - Vùng 3
- Không Đoàn 33 - Chiến Thuật tại phi trường Tân Sơn Nhứt.
- Không Đoàn 74 - Vùng 4… vân vân…

Lúc các anh về đến sân trường, khóa sinh tập họp lại điểm danh, rồi tan hàng. Mọi người chạy về phòng, ai nấy lo sắp xếp chăn màn, gối nệm cho vuông thành sắc cạnh ngay ngắn. Dưới chân giường có "chưng" đôi giày bóng lộn, con ruồi đậu lên còn trợt té, Hồng Hạnh à. Trong tủ có cái bi đông nước, và ca nhôm sáng chói. Mọi thứ từ quần áo đến đồ dùng: phải ngăn nắp sạch sẽ. Trên đầu giường khóa sinh luôn có tờ giấy trắng in sẵn tên, họ, để sinh-viên đàn anh đi kiểm soát phòng. Họ sẽ rút ra ghi cho sinh viên Không-quân điểm: thưởng hay phạt! Nghiêm minh và công bằng lắm nghe em!

Trước mỗi tuần vào ngày Thứ Bảy, cán bộ huấn luyện sinh viên sĩ quan sẽ cho biết là: Tuần sau khoá sinh sẽ học môn gì. Họ cẩn thận niêm yết bảng "Thời Khoá Biểu" trong tuần tại phòng của khoá sinh. Lần đầu tiên họ cho khóa sinh test để sắp lớp. Dĩ nhiên anh được vô học lớp cao nhất. Đó là lớp học từ 2.100 đến 2.500. Sáng nào bọn anh cũng học Anh-văn. Sau mỗi ngày học, anh vào phòng Lab thực tập làm bài, luyện giọng. Những anh kém thì học lớp vỡ lòng từ lớp 1.100 đến lớp 1.500. Trình độ khá hơn thì tới lớp 1.600 đến 2.000. Sau khi học hết các lớp, anh thi đạt điểm cao nhất trong khoá đó! Hãnh diện nghe! Nể anh chưa?
Các anh đi học thường mặc quần áo kaki vàng, giày soulier bas. Còn lúc học môn quân sự thì mặc treillis, giày bốt cao cổ, mũ lưỡi trai. Các môn học đủ hết, từ: căn bản về đủ các môn quân sự, kể cả lết, bò, trườn, chống hai tay lên vĩ sắt nóng. Học chiến thuật tác chiến. Cơ-bản Thao Diễn. Thể thao quân sự. Vũ khí chiến lược. Nghệ thuật chỉ huy. Vân vân… Tóm lại là chương trình học có rất nhiều môn. "Thực đơn" của một tân khóa sinh cần biết: Các anh phải nắm vững mọi vấn đề cần thiết cho một sĩ quan chỉ huy.
Mỗi tháng, các anh tân binh có tiền lương, đồng tiền tuy hạn chế, vừa phải nhưng không đến nỗi nào eo hẹp.
Mãi kể với em nghe tí nét sinh động của đời nhà binh, còn chút nữa anh quên nói tiếp theo, là sau khi tập thể dục sáng xong về đến phòng, thì anh đi đánh răng rửa mặt, làm vệ sinh, thay quần áo thích hợp, đi ăn sáng và học trên lớp, hoặc ra bãi tập. Đến trưa tụi anh cũng phải xếp hàng đàng hoàng đi lên Phạn Xá. Các tân khóa sinh chưa được đeo Alpha trên áo, phải đứng nghiêm chào, tự xướng danh:
- Khóa sinh tên: … số quân…

Anh nhớ dường như số quân bên Không-quân bắt đầu từ con số 6. Rồi bạn bè anh em mới được bỏ mũ ra, tuần tự đi vào nhà ăn. Anh đi đến cái bàn nào gần nhất. Rất nhiều dãy bàn dài, có những hàng ghế đóng dính liền nhau. Mỗi hàng ghế có thể cho mười sáu khoá sinh ngồi. Sinh-viên chia nhau ra thành từng "ca rê". Bốn người ngồi ăn cơm chung trong một mâm. Nhưng khoan đã... có bài bản điệu nghệ cả nghe em! Anh đứng nghiêm trước ghế ngồi, chờ tất cả mọi khoá sinh vào xong đâu đó rồi; khi nghe lệnh của cán bộ:
- Tất cả khoá sinh: Ngồi!
Cả đám khóa sinh Không-quân hô to:
- Xuống.
Bấy giờ mới được ăn đó nhe em! Trời ơi! Hôm nào hổng hên, anh ngồi ăn chung với vài ông bạn “vai u thịt bắp, mồ hôi dầu”. Thì kể như hôm đó coi như anh "trúng mối độc đắc", nghĩa là mình thua là cái chắc rồi. Vì, họ ăn uống dễ dãi, ăn rất nhanh và ăn quá khỏe. Bọn anh e dè chỉ chỏ rù rì phụ nhĩ với nhau:
- "Tay đó" là hung thần phạn xá đó nghe mầy!
Gắp thật lẹ, lùa thật mau
Ăn không kịp nghỉ, nuốt không cần chờ
Thằng nào lẹ, thằng đó nhờ
Thằng nào chậm chạp đói mờ người ra (2)

Thoáng một cái, là trên mâm thức ăn hết sạch. Bát canh ruồi cũng sạch từ khuya. Vài ông "chăm chỉ" còn bẻ trái chuối ra, chan cả nước trà vô cơm, mà lua lia chia vô miệng ăn tiếp. Miễn sao họ ăn nhanh cốt no bụng là xong. Em ạ! Mấy lần đó anh đói meo, chỉ có nước là chờ giờ nghỉ giải lao mười lăm phút, anh cắm đầu cắm cổ chạy lên Câu Lạc Bộ, để mua cái gì ăn thêm, cho đỡ đói. Nếu Câu Lạc Bộ không có thức ăn theo ý thích, anh nói với ông bà chủ mua dùm. Thì hôm sau họ sẽ đem hàng về, cho anh "bồi dưỡng" thêm, chiều chiều khi về phòng, anh có thể "chè chén" tí. Sống ở đây, như một "gia đình khoá sinh" ôn nhu trật tự nho nhỏ, cũng mới lạ vui vẻ và thích thật.

Anh không quên nói nhè nhẹ về “mấy món ăn chơi” mà trong thời gian huấn nhục, bọn anh "được" các niên trưởng chiếu cố: Nhảy xổm, hít đất vài chục cái là xoàng, như cơm bữa! Tối bị phạt chạy vòng Cộng Hoà, cũng chỉ là thường tình, giúp mình ngủ thêm ngon, đâu có ngán! Nhưng anh cũng… “hơi hãi" nếu bị phạt dã chiến, em ơi! Nhờ anh có chích TAB, nên nắng gió sương khuya: coi như nó là bạn bè, giúp biến làn da tụi anh trở nên rám nắng, “phong trần, hiên ngang, khí phách nam nhi”, vóc dáng rắn rỏi hẳn ra. Lúc đó các em coi các anh cũng “đã con mắt” mà thôi! Phải không nà?

Chàng nào "vô phước" bị dã chiến, là te tua, cả phòng cũng mệt lây, vì họ lo phụ giúp anh ấy thay quần áo, khi thì quần treillis áo vàng, vác sac marin lên trình diện ông "hành văn... Niên Trưởng" trong vòng một phút chẳng hạn. Rồi bị phạt lấy muỗng cà phê múc nước đổ đầy bi đông trong vòng năm phút. Nào lấy tăm xỉa răng đo chiều ngang barrac được bao nhiêu. Nào khoả sân cát cho bằng phẳng giữa trưa nắng chang chang. Xen vào đó là những cú nhảy xổm, hai tay nắm hai lỗ tai tréo nhau, hay kiểu chân co chân duỗi như cái cày… vân vân…

Mình phải ráng thực hành cho đúng theo mẫu sáng tạo của "Quan" sinh-viên sĩ-quan Niên Trưởng. Bởi thế, tụi nầy hổng ngán mấy “Ông” sĩ-quan Trung-úy, Đại-uý... bằng "hãi" mấy “Ngài” Niên Trưởng mang họ "Hành"-văn đâu! Đó em hiểu thế nào là Huấn Nhục chưa? Nhiều cái tức cành hông, mà không cần có lý do, để lý giải hay lập luận gì hết! Ba cái tự ái vặt của đời sống dân sự, sự cải lý của chàng sinh viên, học sinh, thì “Các Ngài” sẽ trị cho "mấy tển" im re, xép ve! Chứ ở đó mà ngông nghênh, tự đắc... Họ không được ngóc đầu dậy ở trong quân trường đâu, em à! Đây là những "chén mồ hôi" nhỏ tong tong từng giọt, từng giọt, từng giọt... theo những bước chạy tốc hành trên bãi cát nóng trong quân trường Không-Quân-Mẹ.
Sau ba tháng huấn nhục trầy da tróc vảy, họ huấn luyện các anh sinh viên sĩ quan Không-quân chịu đựng gian khổ, nhục nhằn, cuộc sống của các anh hầu như cái máy. (Hay sắp trở thành cái máy, mà chả biết). Các anh gò mình trong trật tự, có khuôn khổ, và quen dần với kỷ luật sắt.
* * *
Ngày… Tháng... dần qua nhanh, và niềm vui mừng vinh quang lại đến! Đó là ngày anh và bạn hữu chính thức trở thành sinh-viên sĩ-quan thực thụ. Khoá sinh được làm lễ gắn Alpha tổ chức tại sân trường Không-Quân Nha Trang. Buổi ra mắt sinh-viên sĩ-quan vô cùng nghiêm trang, chu đáo, và trọng thể, với niềm xúc động đặc biệt, tự hào hãnh diện không thể quên. Có Chỉ-huy-trưởng Căn-cứ. Chỉ-huy-trưởng Liên-đoàn sinh-viên sĩ-quan. Sinh-viên sĩ-quan. Cán-bộ. Thân nhân. Bạn hữu ai có điều kiện, hay bạn hữu ở gần gần, đều có thể đến tham dự đông đủ. Từ sáng sớm, các khoá sinh ra sắp hàng chỉnh tề ở ngoài sân. Có mấy anh em len lén… vụng trộm thủ một chiếc dép nhựa, hay miếng cạc tông nhỏ xíu, để kê dưới đầu gối. Chứ quỳ hàng giờ như thế, có mà rục đầu gối ra. Nhưng anh em ấy phải hết sức thận trọng, kín đáo, coi chừng cán bộ. Vì nếu họ thấy, thì chết đa. Khoá sinh quỳ gối đọc lời tuyên thệ, trước khi được vinh dự gắn Alpha lên cầu vai.
Ngày đầu tiên được phép xuất trại, anh ra phố đi rong chơi tự do thoải mái, đi lung tung nhìn ngắm Nha Thành đến 17:00. Ngoại trừ những anh em bạn nào bị ghi thẻ phạt, thì không được đi phép xuất trại. Cán bộ niên-trưởng kiểm soát khá kỹ. Họ vui vẻ dặn dò sinh viên sĩ-quan đủ thứ. Trước khi xuất trại, sinh-viên phải ghi nhớ và thuộc lòng nên giữ kỷ luật, như sau:
- Ra phố, phải có quy chế "tác phong" của sinh-viên sĩ-quan đàng hoàng.
- Quần áo chỉnh tề. Cấm không được ăn mặc cẩu thả.
- Không "chè chén" say sưa, làm mất thể diện phong cách con nhà tướng.
- Không cười đùa giễu cợt, giỡn hớt "lố lăng" lấc cấc, trơ trẽn lom lom dòm ngó chỉ chỏ lung tung ngoài phố.
- Cấm đi xích lô. Cấm đi xe đạp. Chỉ được phép đi xe vespa, xe hơi. Taxi.
- Mỗi khi gặp tuần tra của căn cứ, anh phải đứng lại nghiêm chào. Sau đó anh mới ung dung thong dong đi tiếp.
- Nếu ai vi phạm bất cứ một trong những nội quy nào. Sẽ lập tức bị cán-bộ ngồi trên xe tuần tiểu nhảy xuống; thu hồi tấm giấy phạt (để trong túi áo bên phải của sinh-viên). Cán-bộ sẽ mang về căn cứ, còn khóa sinh ấy lo âu chờ xử phạt.
Cũng nhờ có kỷ luật quân trường ban hành gắt gao, cuộc sống có điều độ, chửng chạc và uy nghiêm như vậy, mà anh cùng hầu hết các bạn tăng trọng lượng; khỏe mạnh, cường tráng, vui tươi hơn lúc trước nhiều. Theo quan niệm của anh: hình phạt "dã chiến" nầy, thật ra đó là cách tập luyện cho khoá sinh có nhiều thể lực, có sức khỏe, có tinh thần khắc phục, kiên cường nhẫn nhục chịu đựng gian khố, biết ôn nhu, trầm tĩnh, đắn đo, khôn ngoan, có nhiều kinh nghiệm sống, tháo vát hơn. Hầu ta có thể kiên cường, vượt qua mọi chông gai, gian nan, thử thách trên trường đời đầy binh lửa.
Anh nghĩ lại cũng thấy cái mục đích cao cả và tuyệt diệu của việc nầy: khi quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Người ta đã cố tình huấn luyện cho mình hiểu "kỷ luật là sức mạnh của quân đội" là như thế nào! “Trên” ra lệnh, là “Dưới” phải nghe, và nghiêm chỉnh thi hành răm rắp! Chứ lỡ nếu lúc mình ra trận, không ai có thời gian mà cà kê giải thích tỉ mỉ nầy nọ đâu! Họ chỉ cần thuộc cấp chấp hành thôi! Mà lạ thật em à! Đó là chặng đường của sinh-viên sĩ-quan ai cũng phải qua cầu. Và, gió cũng thổi cuốn bay đi hết tất cả thù oán, nóng giận, hiềm khích với đàn anh. Sau khi thành công ra trường đời, họ chỉ để lại trong lòng như là những kỷ niệm vui vui, không hề phai nhạt của thuở xưa nơi quân trường mẹ. Thử hỏi mấy ai đành lòng quên! Khi đó thì ta có nhớ gì, ngoài dư hương kỷ niệm:
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khí thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc đường hoàng... (3)
"Đó" cũng như "đây", có khác gì... Ở đâu thì quân luật nhà binh đều tương tự như thế thôi, sinh viên sĩ quan phải răm rắp tuân hành kỷ luật, và nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh. Phải vậy thôi. Nhưng, thật thà mà nói thì anh ưa thích cuộc sống ở quê nhà hơn, vì dù sao chăng nữa anh vẫn cảm thấy ấm áp tình đồng hương qua tiếng mẹ đẽ thân yêu ngọt ngào, ấm áp và trìu mến lạ thường. Có thể vì anh chưa hội nhập ở xứ người, và anh còn nhớ thương quê nhà da diết, nơi đó có cha mẹ, anh chị em, và người thân.
Tạm biệt em.
Anh trai,
Q Thiệu
*
Tình Hoài Hương

(1) Thơ Tình Hoài Hương
(2) Phan Ni Tấn N.D
(3) (Thế Lữ)

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

Tinh Hoai Huong
03-14-2015, 08:14 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/1DALAT nha tho 1_1426321147.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Da Lat Tinh Yeu - Vu Khanh_1426321286.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 5
Bức Bình Phong
Tình Hoài Hương
***


Em Hồng Hạnh yêu ơi!
Lúc trời choạng vạng tối, ngồi xuống ghế, bàn tay phải cầm bút để viết thư, mà lòng Phi Hành nầy dường như đang thì-thầm tỏ lời tâm sự, trò chuyện với người rất yêu dấu: Trước khi vào câu chuyện chính của cuộc đời người phi công dang dỡ, có nhiều điều anh dấu kín trong lòng, chưa hề tâm sự cùng ai, nhưng em là người đầu tiên, có thể bảo là duy nhứt lắng nghe anh vui lòng kể rõ lý do… Tại sao anh đi lính, nhe em:

- Mùa hè năm 1960, anh học Y-khoa Sài Gòn– là năm bà nội vừa chết, anh buồn lắm, nhân đó, thỉnh thoảng anh xin ba má cho anh đi xa, trông coi cô Bảy mười ba tuổi, cô Tám mười tuổi, cô Út sáu tuổi, các em nội trú trong trường Missionaires de Marie gần Trại Hầm, Đà Lạt. Cứ hai tuần một lần, ở Sài Gòn anh lên Đà Lạt, đến trường xin phép soeur, anh dẫn ba cô đi ra phố, cho em ăn uống, đi xem ciné, đi vòng vòng phố mua sách hình, mua dụng cụ tập vở, linh tinh... Hai cô em lớn ngoan hiền, học giỏi, nên anh xin phép dễ dàng. Còn Út, xin phép rất khó, anh thường bị soeur mắng vốn, vì đi đâu Út cũng nói chuyện, nói trong phòng ngủ, trong phòng ăn, trong nhà thờ, nói cả trong toilete. Út không được đi ra ngoài phố, thế là Út nhảy đành đạch lên mà khóc nhè.

Thời gian thường lên Đà Lạt về Sài Gòn, khi bóng chiều ập xuống trong khu đồi im mát, trời khá lạnh, sương muối bắt đầu rơi lốp đốp, thấm ẩm các cành cây ngọn cỏ, sương đọng lại thành từng giọt mọng nước, rung rinh trên phiến lá chao nghiêng khi cơn gió nhẹ thoảng về. Tháng ấy anh tình cờ anh gặp em... rồi chúng ta quen biết, và tha thiết yêu nhau. Nói thật ra, cũng vì em phần lớn, mà anh bỏ đại học Y, (anh học với Nguyễn Tấn Trung). Anh đã lên học tại viện đại học Đà Lạt, cho được gần em.

- 1963 là lúc anh thi đậu xong cái bằng Dự Bị Cử Nhân Văn Chương Anh, Pháp, tại viện đại học Đà Lạt. Rồi 1964 anh bước vô năm thứ hai của đại học nầy, là thật sự vô nghĩa. Vì cú “choáng váng khốc liệt tình cảm” do em gởi tới, (anh vừa nhận cách đó không lâu). Anh sống vật vờ, cứ để cuộc đời mình trôi lênh đênh, như cánh bèo trên giòng suối hoang vu... Chính năm ấy anh mất em thật rồi. Chúng ta đã xa nhau mấy năm trời không ai hiểu đâu là nguyên nhân. Bây giờ ngồi suy nghĩ lại, anh mới biết: hồi đó, do tính bồng bột, nóng nảy tuổi trẻ, tự ái của thằng trai trẻ có đầy đủ những yếu tố: con nhà giàu, học giỏi, đẹp trai, lịch lãm... thì anh có thể chinh phục bất cứ người con gái đẹp nào mình muốn.

Ấy vậy mà anh đã bị ngăn trở, chê bai, khinh dễ, hất hủi. Anh rất đau, tự ái, đồng thời anh thấu hiểu: Bất cứ ai ai, cũng phải hành động như thế! Vì thú thật, không ai hiểu chúng ta yêu nhau thật sự thánh thiện. Trời ơi! Không ai thấu hiểu cả. Anh và em yêu nhau chân chính, chúng mình giữ gìn tình yêu trong sáng, dù trải qua bao nhiêu chuyện tưởng như là “trời gầm đất lở”. Nhưng sao? Rốt cuộc anh vẫn giữ gìn cho “em cưng” thần tượng cao cả tuyệt vời. Có thể nói do anh đã quá yêu em (mối tình đầu tiên của anh). Anh chiêm ngưỡng em như bóng dáng xuân kiều trên nền trời thăm thẳm trong xanh, không gợn áng mây trôi, tình yêu nầy như hai vì sao lấp lánh đang qùy gối bên nhau, âu yếm, ríu rít thỏ thẻ trò chuyện ở bến Ngân Hà, xa thật xa... Anh nào dám xúc phạm đến em bao giờ!

Thế nhưng dưới mắt cuộc đời, dưới mắt thực tế, thì bố ai tin được thằng con trai đang lớn ấy, (lại đào hoa nữa mới chết). Nhứt là trong mắt hai bà chị có cô em gái rất trẻ xinh đẹp còn hồn nhiên, ngây thơ, hiền thục dịu dàng, thùy mị, tuổi đời em chưa từng nếm trải, thì các chị không thể nào tin vào huyền thoại ấy được! Họ nghĩ trước sau gì anh cũng “chơi qua rồi bỏ” cho mà xem. Không ai biết được sự sỉ nhục nầy (một mình anh gánh chịu). Bây giờ… anh ngồi đây tâm tình cùng em: về chuyện anh bị chị Tư của em đối xử ra sao, anh nói lại cho em rõ nguyên nhân tại sao chúng mình bị “đứt phim” nhé:

Khi anh vừa bước chân vô nhà chị Tư như thường lệ, (vì ba má anh đã đi dạm ngỏ em, -là gì rồi- mà mình không thể tự nhiên vô nhà thân thiết sao, hở em, nên anh đẩy cửa, bước vô phòng khách nhà chị Tư, anh ung dung đi lui đi tới, chờ em. Anh không biết là em còn ở chơi nhà nầy, hay em đi về nhà chị Tuế rồi, anh chẳng rõ. Lúc đó chị Tư dưới nhà bếp đi lên, nhìn thấy anh, mặt chị hầm hầm, chị nhìn anh tỏ vẻ khinh bỉ, hình như chị giận dữ việc gì ghê lắm. Anh chưa kịp chào hỏi, thì chị liền nhào đến bên anh, chị hét to như sấm sét. Câu chị nói (mà ngàn đời sau anh không thể quên):

- Còn dám vác mặt đến đây à? Tìm ai rứa? Đi. Đi... Đi mau ra khỏi nhà tui. Hãy tránh xa em tui, không được gặp nó nữa. Nó còn ngây thơ không biết gì. Nhớ đừng bao giờ chường mặt đến nhà nầy nữa. Nghe. Tui lấy chổi chà đập vô mặt đó. Đồ khốn nạn, lưu manh, lăng loàn hết con nầy tới con khác, thứ trai gì mà mất nết và mất dạy quá chừng!

Chị Tư xô mạnh anh ra gần cửa lớn, đầu anh đập vô cái tủ kính. Anh kinh ngạc bàng hoàng tột độ chẳng biết chuyện gì đã xảy ra? Anh vội bước ra khỏi cửa, bước đi mà giống như chạy, anh không dám quay lại nhìn, sợ lối xóm nghe thấy. Từ nhỏ đến bây giờ, chưa bao giờ anh bị ba má xúc phạm đến danh dự và tư cách mình quá đáng đến thế. Anh mắc cỡ muốn độn thổ vì lời nói của chị; giống như anh là một đứa trần truồng, lúng túng trước “sân khấu cuộc đời” rộng mênh mông, có bao nhiêu người đang chằm chằm nhìn anh, họ đều nghe, khinh miệt, cười chê, nhạo báng.

Bước lên cái dốc thảm hại chừng mươi thước, tại khúc quanh vắng người, lòng anh nỗi lên cơn giông bão dữ dội. Anh đứng lặng, cắn răng bặm môi mà vẫn uất nghẹn, anh tức bực muốn nổi điên đã bật khóc tức tưởi (như hồi xưa anh đã khóc lúc bà nội chết vậy). Một đứa trẻ nhỏ khi dỗi hờn, vò vĩnh, phụng phịu, ước muốn một điều gì, mà không có, em bé chẳng được, thì bé vùng vằng, dậm chân dậm cẳng khóc thét lên thật to. Khóc cho đã nư, rồi em nín, sau đó vui cười quên ngay. Còn anh, anh buồn phiền, tự ái và tự trọng, đau khổ gần như tuyệt vọng; anh không thể khóc rống lên trước mặt mọi người, anh cúi gầm mặt khóc giữa cuộc đời gập ghềnh, gồ ghề đắng cay! Anh cố gắng nuốt nỗi đắng chát vô lòng, nhưng nước mắt từ khóe mi anh tuôn trào, lăn dài xuống má, chảy ròng ròng xuống bờ môi mằn mặn, rồi chảy vô bụng, vô tim, vô óc... Anh uất giận vì không hiểu nguyên nhân tại sao chị Tư lại đối xử tệ đến thế, nên anh càng cảm thấy uất giận và đau ghê lắm.

Anh buồn quá sức! Vâng. Anh rất buồn. Thời gian nầy anh tìm quên em, anh đã quen nhiều bạn mới: Thằng bồ của Hà là Vũ Anh nó mượn xe vespa của anh mấy ngày, nó đi xuống Fimnom thăm Sylvia (còn gọi là Sonia), bà nầy là vợ ông Tây, mà Vũ Anh rất mê. Vũ Anh ngủ lại một đêm, sáng hôm sau nó về Đà Lạt, loạng quạng thế nào, xe bị tông hư nát, nó không dám mang lại trả. Vì vậy, anh phải mượn xe honda của ông cai gác cổng đại học, chở Quyên Hà đến nhà Sonia ở dốc thác Preen (vì anh không biết nhà Vũ Anh, nên anh chở Hà (Hà là tình nhân của Vũ Anh) đi, để cô ta chỉ nhà). Rồi anh mướn xe lam chở xe hư về phố, tự anh bỏ tiền túi ra để sửa xe. Chính hôm đó, khi xe của anh còn nằm ụ ở garage, anh đi bộ đến nhà anh chị Tư, và lãnh nhận trận cuồng phong từ chị ập tới, như anh đã kể ở đầu thư.

Mấy tuần trước đó, em gái Vũ Anh là Hồng Ánh (rất mê anh, nhưng anh chỉ xem nó là đứa con nít, không hề có tình ý gì). Nhiều lần nó viện cớ nầy cớ nọ... nhờ anh chở nó đi đây đi đó. Biết bao lần anh chở Hà nữa, vị chi là cả ba người đi chơi tay ba, đi la cà lung tung, ở lại đêm nói chuyện phiếm. Anh cũng mặc xác họ muốn gì, làm gì... Mình có xe mà họ nhờ chở đi, nếu anh không cho mượn, hay không chở dùm, coi có vẻ bần tiện sao đâu. Mà, anh cho mượn xe hay chở dùm, cũng bất tiện, phiền toái bực bội hết sức. Ồ! chết thật rồi, hay là chính khi cả ba người đang ôm eo ếch, ngồi “lắc lư con tàu đi” tòn ten trên xe vespa của anh, nhiều lần anh và họ vô ý lí la lí lắc đùa cợt, cười nói huyên thuyên khi anh chạy xe diễu vòng vòng trên phố, thì lúc đó chị Tư đã nhìn thấy anh chở mấy con nhỏ lả lơi mái tóc bay bay trong thị xã nhỏ bé nầy, nên chị Tư mới nổi cơn thịnh nộ với anh? Hả em?

Về việc Thạch “thóc mách” với em chuyện anh quen mấy con nhỏ, chẳng qua nó ghen tương thôi. Không phải riêng chuyện anh với Hà, hay Hồng Ánh, Thanh Thuỷ... mà hồi xưa, khi anh chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi, Thạch yêu thích con nhỏ tên Khôi. Nhưng con nhỏ lại mê anh tít thò lò, nó đá lông nheo liếc mắt đưa tình, nó tự tìm cách hẹn hò riêng anh đi ciné. Đồng thời con nhỏ “láu cá” ngầm báo cho Thạch biết, để rình. Anh đâu ngu đến thế, mà thử. Hôm ấy anh có đến điểm hẹn thật, nhưng anh đứng xa xa nơi khuất, mà theo dõi. Quả nhiên, Thạch, con nhỏ Khôi, và cô em của hắn đến đó rình. Anh thấy tụi nó đi lui đi tới dáo dác tìm kiếm anh. Anh tỉnh queo vui vẻ huýt sáo quay trở về nhà, làm như anh chưa hề biết chuyện chúng gài bẫy.

Buổi tối chúng nó gặp nhau ở nhà anh học bài như thường lệ. Thạch hằn học kể ra chuyện đó, anh tủm tỉm cười, tiện thể anh vạch mặt con nhỏ Khôi trơ trẽn bắt cá hai ba tay ra luôn. Về phần con nhỏ Khôi chẳng bắt được con cá nào, xấu hổ, nó bèn đứng dậy đi ra khỏi phòng hoc, trốn biệt tích giang hồ. Trung phải đứng ra giải hòa nối kết tình bạn giữa anh và Thạch sắp rạn vỡ. Mặc dù vậy, Thạch luôn xem anh là tình địch, (kể từ hồi nhỏ xíu, cho đến bây giờ) thiệt oan ơi ông địa. Có thể em không biết, chứ thật tình là Thạch rất “mết em, si mê em”. Cũng có thể là nó muốn “cua” em, để trả thù mối hận tình đầu thuở xa xưa của nó vậy! Rất vui là “em tôi” đoan chính, vô tình em không mảy may có chút tình ý gì với hắn.

Sau khi xa em... trong đại học xá Đà Lạt, anh đã dọn ra ở riêng, lúc trước ở trên Trần Bình Trọng, sau đến đường Võ Tánh. Ban ngày anh chẳng thèm lên đại học ghi chép bài vở, để mặc Hà viết lách, ghi bài dùm rồi cô ta đem về cho anh, Hà ở lại trong phòng riêng đến khuya. Anh rất buồn vì mất người yêu dấu, chính lúc đó Hà đã thay thế em qua từng khoảng trống vắng hụt hẫng. Trở về chuyện Hà: Giới trai trẻ, nhứt là sinh viên thời ấy, chẳng mấy ai mà chả biết tiếng đào hoa của cô ta. Hà biết mình có nhan sắc khá, lại học cao. Cô ta thích “Flirt”. (từ nầy, em có hiểu không? nghĩa là cô ta chỉ đùa giỡn tình cảm với người khác phái). Với ai, cô ta cũng thích “làm trò đùa” lẵng lơ gợi cảm như thế. Cô ta thích thế, nghĩa là Hà đang cặp với Vũ Anh, mà cô ta cặp bồ với anh nữa. Ngay cả khi Hà đã giao du thân mật với anh, Hà vẫn cặp kè với ông Thiếu-tá có vợ con đùm đề. Đối với Hà tình cảm tay ba, tay tư là chuyện nhỏ, chuyện bình thường.

Em biết không, mỗi ngày Hà bắt ông ta chở Hà đến phòng anh từ sáng đến chiều, Hà hành hạ ông ta đủ điều, bắt ông ta đi mua cơm thật ngon, nhiều món đắt tiền nóng sốt ngoài tiệm Mê Kông, ông khệ nệ bưng xách vô cho “hai người” ăn, còn ông ta thì “ngồi chơi xơi nước, ăn mì ngóng cháo ngó" ngoài xe. Hà còn làm nhiều chuyện ngộ nghĩnh, tiếu lâm hết biết. Hằng ngày Hà bắt ông ta ngồi đợi Hà đã đời ngoài xe, mặc trời lạnh cóng, hay gió mưa bão bùng, khi ấy Hà ở trong phòng hú hí du dương vui vẻ với anh. Cũng nhiều ngày Hà đi chơi chung với Vũ Anh, anh, và ông Thiếu tá nọ suốt canh thâu. Sau thời gian ngắn đó, Hà bắt ông nầy về ly dị vợ, để làm đám cưới linh đình với Hà. Trước ngày cưới, Hà còn gặn hỏi anh mãi:
- Nếu Hà lấy Thịnh, Hành nghĩ sao?
- Tốt chứ. Hà nên lấy ông ấy đi.
- Hành không yêu Hà rồi.
- Chưa bao giờ Hành nói yêu Hà.
- Không phải chúng ta có tình yêu sao?
- "Moi" thẳng thắng trả lời Hà rõ: Đây chỉ là trai và gái tự do gần gũi nhau thôi.
- Hà hỏi lại: Hành có yêu Hà không?
- Tất nhiên không yêu Hà. Đến giờ phút nầy, mà Hà vẫn chưa tin là tôi không hề yêu Hà à? Hà nghĩ tôi cũng “cá mè một lứa” như bọn thằng Vũ Ánh, Trương Anh, Điều, Độ, Bích… sao? Không đâu Hà à. Giữa tôi và Hà chỉ là sự đam mê của tuổi trẻ thôi. Điều đó giống như sự đam mê của nghệ sĩ yêu bức tranh, như thi sĩ yêu bài thơ hay, như khán giả ngưỡng mộ tài danh nghệ nhân trên sân khấu. Tình yêu bao gồm cả thân, thương, và mến. Nhưng, thương và mến: thì chưa chắc hẳn là yêu say đắm, và chí tình thủy chung. Vậy sự đời chỉ là thân, thì Hà cứ để mặc cho tự nhiên nghen.

Nghe rõ ràng cương quyết vậy, Hà đau khổ suốt thời gian mấy tháng, và thất vọng bỏ đi làm vợ bé. Nhưng đi đâu, Hà vẫn rủ rê anh đi cùng. Hà khuyên anh đừng đi lính, với "tình cảm sâu đậm" đó, Hà tưởng là có thể lay chuyển được anh sao. Hà nào biết sự “thật tình yêu thương” của anh, là riêng dành cho “ai kia”, (em biết rõ "ai kia" là ai mà! Vì, HH ôi! Sự cảm động đầu tiên mà anh trao về riêng em, bao giờ cũng là tình yêu rất trong sáng, chân thật, tinh tuyền hương hoa thơm lạ, và trường cữu nhứt. Em là mối tình đầu, là hạnh phúc vĩnh cửu, là người tình cuối; ngoài em ra, anh không hề yêu ai. Vì em là tình yêu. Thế thì, bây giờ tuyệt nhiên không phải là cô ta. Mai sau vẫn không có ai khác, ngoại trừ em chính là tình yêu. Anh đoan chắc như thế.
Sau nầy ông chồng cô ta ghen, tức giận và hận vì bị Hà hành hạ, ông luôn đánh Hà bầm dập, vì cái tội Hà thích liếc mắt đưa tình lẵng lơ với trai. Riêng gia đình cha mẹ Hà, họ chỉ chú trọng đến tiền bạc, lợi lộc. Chuyện yêu đương là trò chơi, họ chỉ muốn con cái họ cặp với con của những gia đình bề thế, giàu có, địa vị cao sang... Chính anh đã đưa mẹ Hà vô thầu ở Câu Lạc Bộ trong đại học. Họ thầu được hai ba năm.
***
Sau khi xa em, anh thật đau buồn, không biết anh đã làm gì nữa! Quen với ai? Tại sao ra nông nỗi nầy! Đời anh coi như xuống dốc thảm thương, (kể từ sau khi bị chị Tư của em mắng nhiếc, và chính em xa lánh ruồng bỏ anh... em làm nghiêng ngả đời ập xuống chao đảo đời anh. Quả thật tối hôm đó trời trút xuống cơn mưa to, dai dẵng từ xế trưa đến tối, mưa rất lớn. Anh ngồi trong phòng trọ chờ trời tạnh, chờ mãi không được, nên anh cùng Lý đội mưa đến tiệm Mỹ Hương ăn cơm. Vừa cởi áo khoát móc lên tường, anh chỉ mặc phong phanh cái áo sơ mi màu xanh da trời, quần jean, mái tóc mặt mũi anh ướt sũng nước mưa. Bên ngoài, trời vẫn mưa tầm tã, mưa rất to.

Quay vô bàn Lý đã chọn, ngồi xuống ghế, anh nhìn chung quanh. Đầu tiên anh thấy “em yêu” ngồi ngay ở bàn đối diện, gần sát bàn của anh. Anh đã chạm phải cái nhìn “nàng” sắc lạnh, như xoáy suốt vào lòng mình. Như tia chớp sáng lòa thuở ban đầu, (ngày xưa khi mình mới quen nhau ở nhà thờ “con gà” đó em), thì nay cái nhìn sững sờ nầy, cũng là tia sét. Nhưng tia sét nầy quá phũ phàng, đen hơn than, bạc hơn vôi, đã lạnh lùng giết chết tình yêu chúng mình. Anh thấy em thộn mặt ra, trên tay em cầm trái chuối, bỗng nhiên như nặng, đã rơi phịch xuống bàn. Mặt em tái xanh, run rẩy, như con chim non bị nạn. Em lãng tránh nhìn anh. Có lẽ trong lòng em thầm van lơn, cho anh đừng nhìn thấy cảnh bẽ bàng, khi em ngồi với “ai kia”. Phải không em?
Phải! Thà đừng nhìn thấy nhau, không thấy cảnh chua xót phũ phàng, thì hay biết mấy. Nhưng đôi mắt “anh và em” như dán chặt xoắn xuýt vào nhau, mình nhìn nhau lặng câm chết sững. Im lặng. Bối rối. Ngỡ ngàng. Thật chán chường chưa hỡi Trời! Dù bị ướt sũng, nhưng anh cảm thấy hai vành tai và mặt mình nóng đỏ bừng bừng, hơi nóng từ bên trong lồng ngực toả ra ác liệt. Anh không cảm thấy đói bụng cồn cào như lúc chiều nữa. Hình như anh bị đau ốm gì lâu ngày, đau nặng lắm, mệt đừ, khó thở, rã rời, ngột ngạt kinh khủng. Trước mặt em yêu, thì anh chỉ đờ đẫn phiêu bồng như là cái xác không hồn.

Lý nhìn anh sững sờ, (anh xem Lý là đứa em nuôi, cho nên đôi lúc anh kể chuyện “anh và em”, cho nó nghe. Tiếc là nó chưa quen biết em, tuy thế nó biết tỏng tòng tong “chuyện mình” nhiều lắm). Lý nhìn lui nhìn tới trong tiệm, rất tinh ý đã thấy rõ thái độ anh từ đầu, nó lặng lẽ liếc nhìn em, gặn hỏi mãi:
- “Già” nói đói bụng lắm, sao bi giờ ngồi đây thừ người ra, không chịu ăn uống. Có chuyện nghiêm trọng lắm. Phải không?
- Hết đói rồi.
- Ăn đi. Ăn chút đi. Chuyện đâu còn đó.
- . . .
- Hôm nào “già” hỏi ẻm, sẽ rõ. Đừng buồn làm gì!

Rất lâu, khi anh ngẩng đầu lên quay qua len lén nhìn cái bàn đối diện ấy, thì đã trống trơn! Thế là anh ngồi chống tay lên cằm, không cảm thấy đói bụng! Đợi Lý ăn uống xong, anh và Lý vừa đi dưới trời còn lất phất mưa, vừa tâm sự. Lý khuyên bảo gì, anh cũng chẳng nghe. Anh rất nhớ và hiểu tính nết HH lắm. Làm sao mà quên được! Cho nên, hôm đó quả là tiếng sét xé buồng tim, tiếng sét nầy không phải là tiếng sét ái tình đầu tiên, mà tiếng sét đánh vô óc, mang tai, đánh vào lồng ngực. Anh chẳng thiết gì nữa cả.
Mặc dù nay anh xa em rồi, nhưng anh luôn ngấm ngầm theo dõi em rất kỹ, rất lâu trong mấy năm trời. Bao nhiêu lần, anh chỉ thấy em toàn đi ngoài phô,́ hay đi chỗ nầy chỗ nọ với bạn gái. Tuyệt nhiên em không hề đi riêng với một người con trai nào. Vì thế, hôm nay anh gặp em ngồi ăn cơm chung với “ai”. Thật sự là anh té ngữa ra, vì anh biết rằng: Nếu em đi với ai, hẳn người đó sẽ là người mà em yêu thương. Hay ít ra là người em đã chọn, để làm người bạn đường, hoặc bạn đời. Chứ nếu không có một trong hai vấn đề kia, thì đố em chịu đi cùng ai.

Đêm đó, anh không còn lòng dạ nào mà vô cà phê Tùng, hay xuống khu dancing như mọi khi, anh rất buồn, thể xác hình như đã chết thật sự rồi. Trở về nhà trọ, anh thao thức trằn trọc vật vã trắng đêm. Ngay sáng sớm hôm sau, anh kêu Kỳ dậy, nói cho Lý biết quyết định bàn giao tổng hội sinh viên, bức tranh portriat mà họa sĩ Quang đã vẽ Hà, cả bàn, ghế, tủ giường, áo quần, cho đến cái máy quay dĩa thời trang mới toanh, anh cũng cho Lý luôn. Vì Thạch thì trốn đi đâu biệt tích, hay nó lẽn "vô bưng" rồi cũng nên, anh tìm nó mấy ngày không ra.
Anh đi bộ ra Hotel Thủy Tiên, hỏi bà Tư Rậm:
- Chừng nào bà về Sài Gòn?
- Lúc nào cũng được. Anh biết lái xe không?
Anh cười mỉa, khinh khỉnh:
- Bà biết rõ tôi từ khuya rồi, còn giả bộ ngây thơ, vờ vĩnh mãi.

Tiện nói thêm bà Tư Rậm nầy tuổi lớn hơn anh cả một con giáp, bề xề, cục mịch, có chút nhà quê thô kệch, chẳng đẹp đẽ gì, còn xấu là khác, bà ta có chồng con đùm đề, nhưng bà say mê anh như điếu đỗ. Hôm xưa, lúc nhà bà mở party (ở gần nhà ba má), lẽ ra - là anh cua con gái đầu lòng của bà. Ngờ đâu vô tình anh bị bà ta xoắn xuýt ép “chàng” uống rượu ngà ngà say, thì bà ta xốc kè anh vô phòng và... cái điều không tưởng tượng nỗi đã xảy ra. Anh có cảm tưởng như bị hiếp dâm thô bạo. Thế rồi, thỉnh thoảng bà ta vẫn rủ rê anh, (khi ông chồng đi vắng). Bà ta nói:
- Lâu lâu cho tui “hun” anh, cho đã thèm.
Bà ta vẫn hăm he:
- Anh cứ quen người khác. Nhưng nếu anh bỏ rơi tui, không chịu “đi đêm” với tui. Tui sẽ bắn chết anh.

Khốn nạn thế đó! Hôm trước ở Hotel Thủy Tiên, bà ta ôm con bé mới sinh, tên Osin lên Đà Lạt cho “chàng” coi mặt. Bà ta cứ nói là con của anh. Nhẫm tính chu kỳ, thời gian gần gũi bà, thì chắc chắn nó không phải con của mình. Vả lại thời gian tám chín tháng qua, chồng bà ta luôn ở nhà, còn anh đi học ở xa. Bà Tư Râu Rậm muốn “gài bẫy” (cho anh lọt vô tròng, mà ưng thuận lấy bà. Vì trách nhiệm từ đứa con, thì bà ta ly dị chồng, nên bà nói vậy). Nhưng làm sao gạt được anh! Anh thẳng thắng phản đối, cương quyết:
- Tôi trả bà về với gia đình. Bà và tôi chấm dứt. Đừng hòng đem súng đạn ra mà “hù doạ” tôi nghen.

Anh lái chiếc xe Chevrolet Bel-Air chạy vòng ra đổ đầy xăng, rồi quay xe về đầu cầu ông Đạo, định lái xe lên dốc Võ Tánh, thì anh thấy có một tốp năm cô đi thơ thẩn bên lề đường, nhí nha nhí nhảnh tíu tít chuyện trò. Trong số đó có một con nhỏ là em của Long, bạn học với anh trên đại học, nó nhìn thấy anh nên gọi to:
- Anh Hành đi đâu đó. Cho tụi em đi với.
- Anh đi tà tà chơi. Muốn đi, thì lên xe.

Mấy cô nhảy tót lên xe, anh chở họ đi vòng vòng bờ hồ Xuân Hương, rồi tà tà chạy xe thẳng tới hồ Than Thở. Họ nhảy xuống đi lung tung. Riêng anh rất buồn và chán chường kinh khủng, vã lại mất ngủ suốt đêm qua, nên anh mệt mỏi ngồi thừ người trên xe, vừa nhắm mắt định ngủ một tí. Lúc đó, một cô gái trong bọn trông hơi kha khá người, thấy anh không đi với họ, cô ta liền quay gót trở lại xe. Cô ta đến bên, tự động mở cửa xe nhảy vào, cô lân la gợi chuyện làm quen trước. Cô ta cho biết tên là Lê Trân Thư. Hai người chuyện trò khá lâu. Thư vui vẻ cho địa chỉ, hớn hở hẹn ngày tái ngộ ở Sài Gòn.

Lái xe hơi đưa trả họ về phố Hoà Bình, rồi anh chạy xe như bay tới Lữ Quán, vội thu xếp ít bộ đồ. Thế là anh ra đón mẹ con bà Tư Râu về Sài Gòn. Vì quá đau buồn chuyện “em với anh”, và mất ngủ suốt cả đêm, nên khi lái xe, anh như người đi trong mộng, chẳng thèm nói một lời nào với bà ta. Lái xe trên đoạn đường dài, đường thẳng, hay đường quá tốt, cộng với tiếng xe kêu o o o… đều đều, thì mình chợp mắt lúc nào chẳng hay, tiếng xe như điệu ru dịu êm, có thể khiến tài xế mau buồn ngủ. Vì anh đeo kính đen, nên bà Tư chẳng biết anh ngủ gục, cứ thế anh tống ga chạy bon bon trên đường. Suýt tí nữa chiếc xe hơi lao xuống đèo. Kịp bẽ tay lái, anh giữ lại được. Hú hồn! Đến gần Bảo Lộc, anh ngừng xe khá lâu, vô nhà hàng rửa mặt cho tỉnh táo, ăn uống nghỉ ngơi vài giờ. Rồi anh mới dám lái xe chạy tiếp về Sài Gòn.

Sau đó thì anh “đăng vô lính” (như đã nói ở đoạn đầu câu chuyện Huấn Luyện Phi Hành). Hy vọng anh vẫn còn khả năng viết lách, để hầu chuyện với em trong suốt cuộc hành trình đi tìm tương lai (của đời người phi công lênh đênh, bềnh bồng trôi giạt tám hướng bốn phương trời), và điều thiết yếu là chúng mình sẽ có chuyện cần nói, đáng nói với người anh cần nói, lúc cần nói về việc tin yêu, vui, buồn, tương phùng tri ngộ cùng em trên mọi lĩnh vực. Em chịu không?
Thư đã dài, anh tạm ngừng bút. Chúc em luôn tươi trẻ, an bình, và không còn giận anh nữa nha. Anh mừng.
Phi Hành (Antony)
* * *
Tình Hoài Hương
Kính mời qúy độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
03-25-2015, 07:26 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/1dalat 116cine ngoclan _1427268023.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Noi Long Si Phu_1427268208.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Nhì
Chương 6
Hương Xưa
Tình Hoài Hương
***


Lữ Phi Hành nói đúng. Phải. Lần cuối cùng Hồng Hạnh gặp Phi Hành, (sau vài ba năm xa nhau), ấy là lần đầu tiên Hạnh đi cùng người con trai khác. Tối đó, trời mưa tầm tã, Hạnh với bạn núp mưa, nên vô ăn cơm ở tiệm Mỹ Hương, Thứ mới chỉ là bạn mà Hạnh đặc biệt có cảm tình. Về phần Thứ thì khỏi nói: anh đã phải lòng và yêu Hạnh biết bao, anh quyết chí muốn sau nầy sẽ vinh dự gọi em là “vợ yêu”.

Bỗng giật thót người khi Hạnh vừa cầm trái chuối lên, trái chuối dường như nặng trịch, giống như tay mình cầm khối đá, nó rơi rụng xuống bàn lúc nào, chẳng rõ. Tim Hạnh co thắt trong lồng ngực dập dồn, hơi thở đứt đoạn. Hạnh nghẹn ngào run rẩy như con chim non bị ướt, sửng sốt rồi lúng túng quay lui quay tới, cô muốn độn thổ, muốn tìm nơi ẩn náu trốn chui trốn nhủi khỏi chỗ nầy. Hay chết khuất đi, không dám nhìn người xưa, để Hành đừng trông thấy cảnh bẽ bàng gượng gạo hết sức dị kỳ. Định mệnh bày trò chơi chi trớ trêu, xỏ lá quá! Dù muốn lẫn tránh Hành, nhưng đôi mắt Hồng Hạnh cứ dán chặt vô anh, thầm mong Hành đừng nhìn thấy mình, thì hay biết mấy!

Bạn Thứ đang kề miệng bên tai Hạnh nói nhỏ câu gì đó, khi anh thấy mặt cô tái xanh, tái méc, thì anh ngỡ là Hạnh bị trúng gió, nên Thứ vội lấy lọ dầu con hổ ở trong túi áo veste (hôm trước con Thương Chi đã cạo gió cho anh ta. Thương Chi rất mê Thứ đẹp trai tài hoa là gì) – Anh ta bôi xức lên hai bên thái dương của Hạnh lia lịa. Mặc cho cô cúi gầm, xù mặt, Hạnh cứ lấy tay mình xô hất tay Thứ ra nhiều lần, vì cô sợ Hành nhìn thấy cử chỉ anh nầy âu yếm, vuốt ve, trìu mến, làm mình ngượng ngùng xấu hổ, sợ người xưa hiểu lầm: nghĩ mình cố ý “làm trò hề yêu đương màu mè" trước mắt cố nhân, để chọc tức, khiến Hành đau lòng. Còn Thứ thì ngỡ là người anh yêu phụng phịu, nhõng nhẽo ưa làm nũng với mình, nên anh “xáp lá cà” vô sát bên Hạnh, ngọt ngào, hai tay Thứ ấm áp dường như mơn trớn lên má Hạnh, Thứ tươi cười rù rì nói những câu âu yếm thân thiết.

Khi móc áo mưa lên đinh treo xong, Hành ngồi xuống ghế, thì Hành nghe tiếng lách cách của ly chén chạm nhau, và thấy trái chuối rớt trên bàn đối diện. Hành ngẩn lên và bàng hoàng nhìn Hồng Hạnh đăm đăm. Bốn mắt dường như rực lửa giao nhau trong khoảnh khắc, nhưng lâu dài giống cả một đời người hiện hữu nhìn nhau. Thứ nào biết “chuyện chẳng lành” trong trái tim hai người kia đang dậy sóng! Thứ chẳng hề biết sự “chạm trán gay gắt nổ ra" ấy, nên anh vô tình vẫn vui vẻ ôm bờ vai giá rét của cô, anh duyên dáng vô tư lự nói cười ngọt ngào huyên thuyên.

Còn “họ”; Không có câu gì để nói với nhau nữa sao? Không! Đôi mắt thầm lặng đã ngấm ngầm tỏ lộ bao nỗi niềm uất ức, đắng cay, tràn ngập nước mắt xót xa đang dội ngược vô tim. Hơn cả ngàn tiếng thì thầm trong tâm tư vừa trổi dậy, hơn vạn lời thở than hờn trách về cảnh éo le, mà oán thán nhau vô biên. Biết biểu lộ dưới dạng thức nào cho trung thực, khi bốn mắt âu sầu lặng lẽ nhìn nhau!? Đôi mắt đó thể hiện cả lòng hồ giao động sôi sục sóng gió, dường như ném vô người đối diện cái nhìn vừa bối rối, bàng hoàng, xót xa, cay đắng, lại vừa nhẹ nhàng chế diễu châm biếm, lẫn trong nỗi buồn mênh mông, xa xăm...dài vô tận!

Phi Hành quay qua nhìn Thứ đang rối rít loay hoay xoa xoa, bóp bóp, xức dầu cho cố nhân. Chao! Cô thấy hai vành tai, trái tai và mặt người xưa lấm tấm những giọt nước mưa mà lại đỏ bừng. Mặc dù trời Đà Lạt lúc nầy lạnh 10o/C. Hành bối rối vuốt ngược mái tóc ướt đẫm nước mưa, rồi úp khuôn mặt gầy nhom lên hai bàn tay xương xương (Hạnh thấy bây giờ anh không còn trắng hồng, cân đối, vui tươi, và hào hoa như ngày xưa).
Lý đi cùng Hành hỏi:
- Làm sao vậy? Sao hồi nãy “già” kêu đói bụng lắm. Sao bây giờ lại ngồi thừ người ra? Già không chịu ăn uống. Có chuyện gì nghiêm trọng lắm. Phải không?

Hạnh đã nghe rõ câu Lý hỏi, cô cần phải thoát ra khỏi chỗ nầy ngay tức khắc, không đủ can đảm ngồi nán lại phút nào. Không thể nào nhìn da mặt Hành bắt đầu trắng bệt. Không kịp uống nước, cô giục Thứ:
- Đi về! Đi về thôi.

Thứ kinh ngạc nhìn Hạnh đứng bật dậy, vội đến nỗi anh dẫm lên chiếc guốc của Hạnh, Hồng Hạnh phải ngồi phịch xuống ghế, tức giận khi Thứ làm đứt quai guốc, nhưng Hạnh chỉ lắp bắp run run len lén thì-thầm nho nhỏ, nhờ Thứ đi đến quầy của tiệm cơm, xin họ mấy sợi thun, để cô lấm lét co chân trái lên cao, loay hoay cúi xuống cột chặt mấy sợi thun vô bàn chân mình với chiếc guốc. Mặt Hạnh nóng bừng bừng như ai vừa dội gáo nước sôi, mà toàn thân thì lạnh toát, thật xấu hổ không thể nào tưởng tượng nỗi. Không hiểu tại sao mình lại quá sợ hãi khi chạm trán với Hành như vậy? Có phải tự trong đáy lòng sâu thẳm, Hồng Hạnh vẫn dấu kín một mối tình nồng cháy, sắt son, em không muốn cho cố nhân trông thấy cảnh "xót xa dị hợm", khiến anh đau buồn thêm chăng?

Thì em nào có kém gì anh, đôi mắt Hạnh tối sầm lại vì nỗi đau quá độ, giống như có bàn tay ai vô hình bóp nát trái tim cho trào máu ra, khiến cô choáng ngợp người. Sự đối mặt quá bất ngờ, phũ phàng, cũng như tia nhìn Hành xuyên qua cô đột ngột, quặn lên nỗi đau tê tái dâng tràn tột đỉnh. Dẫu hai người đã thực sự xa nhau rồi, nhưng lòng mỗi người vẫn giữ những vết chém sâu in đậm trên trán, in lên đời mình; khi thỉnh thoảng vô tình họ nhìn thấy nhau trên phố cũ. Sao trông “mình” khắc khoải ủ dột đến thế? Mặc dù, theo Hạnh biết chung quanh Phi Hành có những bà, những cô thường ân ái? Bên nỗi cô đơn ưu phiền không xác định được, không có ai là người anh yêu dấu thật lòng nữa sao? Có phải câu Hành vẫn nói:
- “Em chính là tình yêu và hạnh phúc của anh. Em là tình đầu và cũng là tình cuối. Ngoài em ra, anh không thể yêu ai, và chẳng hề yêu ai”. –là sự thật và trọn đời?

Ôi! mình đã uống cạn đáy chum rượu biệt ly vĩnh viễn trong câu chuyện tình đôi ta rồi ư? Thế giới tiểu thị dân trong thành phố Đà Lạt thơ mộng, nơi xứ hoa đào tươi thắm, vẫn dai dẵng đùa cợt nỗi đau, lạnh lùng tung đi hấc lại trong đời mình, như quả bóng đá lăn lóc trên sân cỏ. Mặc dù ta muốn quên, muốn không nhìn thấy nhau nữa, chẳng muốn thấy gì ngoài vòng sô tang quấn chặt trong lòng. Dù thời gian trôi đi, trôi đi… vết thương có thể lành, nhưng tự nó còn lưu lại những tổn thất bất hạnh, buồn đau, khiến Hạnh ngậm ngùi nuốt lệ. Thế mà hỡi ôi! Cả hai người cứ gặp nhau hoài, vẫn nhìn thấy nhau hoài... trong thành phố bé nhỏ nầy, là sao thế hử!? Hỡi ông Trời bà Đất ui!

Trong thâm tâm Hạnh cầu mong sao Hành không trông thấy mình khi ra về. Khổ nỗi, muốn đi ra khỏi tiệm, cô phải đi ngang qua sát bên bàn ăn, nơi Hành đang ngồi, vì lối đi rất chật hẹp, có thể chạm vào cánh tay nhau. Chần chừ do dự băn khoăn mãi, thừa lúc Lý gọi Hành cùng chụm đầu cúi xuống xem menu, chọn thức ăn, Hạnh vụt đứng dậy, run bần bật, lùi lại lẽn núp trốn sau lưng Thứ, mà vọt lẹ ra ngoài trời đang mưa tầm tã, khiến Thứ chạy theo nhìn Hạnh, kinh ngạc:
- Em! Trời đang mưa rất lớn. Ướt hết em ạ. Sao em vội thế không biết.

Hạnh quá sợ ánh mắt xót xa đau đớn của Hành lặng lẽ nhìn theo. Nhưng, tại sao mình lại quá sợ hãi, đến nỗi phải trốn núp sau lưng Thứ, như kẻ gian đã phạm tội gì tày trời vậy? mình xa nhau chứ có phải mình phạm tội cướp của giết người gì mà trốn tránh ai? Thì ra… Hạnh không dám làm tan nát lòng anh, Hạnh vẫn yêu cố nhân thiết tha.

Sau đó ít tháng sau, bất ngờ Hồng Hạnh nhận thư Hành:
Em yêu,
Sau khi tốt nghiệp khoá quân sự tại TTHLKQ Nha Trang, anh Hành được bổ nhiệm về làm Tiểu-đoàn-trưởng, Tiểu-đoàn tân binh (khu nhà Sắt). Thế là anh phải dọn qua bên đó ở, để chỉ-huy hơn một trăm tân binh Không-quân. Thỉnh thoảng anh được đi phép về Sài Gòn (ba lần) nhờ quen với Thiếu úy Nghĩa rất dễ thương (anh Nghĩa đã tốt nghiệp trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam tại Đà Lạt). Nhờ anh Nghĩa, nên anh biết cách làm đơn xin đi phép, khi ra ngoài trạm tiếp liên, anh liên lạc với phi công Hoa Kỳ, xin đi ké phi cơ của USAF.

Có một lần đang học ở Nha Trang, anh được đi phép về Sài Gòn. Vì còn là sinh-viên sĩ-quan Không-quân, anh không được phép bay cùng pilot, nên anh Nghĩa đã cho anh mượn áo quần bay của ảnh, để mặc ké mà che dấu “cái tôi khù khờ non dại”. Chuyến phi cơ quân sự đó họ ghé tạt qua Đà Lạt có chút công tác. Từ phi trường Cam Ly, họ thả người xuống cho dạo phố vài giờ. Tài xế chở anh em Không-quân từ Cam Ly chạy lên dốc đại lộ Yersin, rồi xe vòng xuống hồ Xuân Hương, lại lên dốc Lê Đại Hành. Anh đứng lố nhố trên chiếc Dogde không mui với chục mạng pilot khác.

Lúc xe chạy lên dốc Lê Đại Hành, thì anh nhìn thấy "nàng HH" đi trên phố, (trước mặt tiền của rạp ciné Hoà Bình) cùng bốn cô bạn. Mừng quá, anh vừa vẫy tay lia lịa, vừa hớn hở gọi to tên em. anh bồn chồn, xôn xao cuống quít chồm người ra ngoài ngoắt lia lịa. Rõ ràng em đã đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn quanh khi nghe tiếng ai gọi tên mình. Nhưng rồi em bình thản ung dung quay đi vui cười với bạn.

Khi xe Dogde tấp vô bên hông khu Hoà Bình, bên cạnh tiệm ảnh Hồng Châu, anh vội vàng nhảy xuống xe, liền tất tả chạy trở lại chỗ cũ, rồi chạy ngược chạy xuôi tìm em, anh dáo dác nhìn quanh tìm em khắp vùng, nơi em vừa dẫm chân lên đó, nơi "em yêu" cùng các bạn vừa đi qua. Không hiểu các em rẽ đi lối nào, mà lẹ quá chừng trong làn sóng người đua nhau đi dạo, như trẫy hội trên phố chiều Thứ Bảy vậy!? Vì anh nghĩ có lẽ cưng đã hết giận anh rồi. Bởi vì, anh mong em cũng giống như tình anh đối với em ngày xưa đậm đà ra sao, thì bây giờ vẫn thắm thiết như thế.
Nhưng định mệnh quái ác, đã tàn nhẫn xô hai người đi hai ngả tách bạch. Không cho anh và em gặp nhau. Dù chỉ thoáng hơi thở cuả không gian, và tích tắt thời gian gần thật gần trong tầm tay. Dù chúng ta đang ở chung một thời điểm – đi chung trong thành phố nhỏ bé và thơ mộng nầy. Thế mà... chúng ta không thể nhìn thấy nhau, không thể gần nhau, để ân cần vồn vã hỏi thăm nhau sao, hở Trời!?

Rồi mai đây, khi anh sẽ rời xa quê hương, sẽ ngăn chia biết bao sông, cách biết bao dặm trường dọc ngang xuôi ngược. Núi non hùng vĩ và hiểm trở trùng trùng vây bủa. Biển cả mênh mông cuồng phong gió táp mưa gào, chúng ta sẽ xa nhau, xa diệu vợi muôn trùng hải lý. Có nằm mơ, anh cũng không thể bơi lội trong giấc mơ mà về thăm em. Chắc chắn nơi ấy chẳng thể có giang thuyền nối nhịp. Anh không có đôi cánh đại bàng, hai chân anh sẽ mỏi mệt rã rời chùng bước, ngập ngừng. Anh không có gì, chẳng còn gì tất cả. Làm sao anh có thể chắp nỗi đôi cánh, như chim đại bàng lướt gió tung mây, để trở về cố hương… hầu tìm chút mùi hương xưa, đã êm ái vụt bay ra khỏi tầm tay mình?! Vì, có thể em đã bay xa... xa mất hút ra khỏi đời anh rồi, cũng nên!?

Thế là kể từ hôm đó, từ đáy lòng anh lại bừng thức dậy nỗi tức tưởi, nghẹn ngào, xót xa, hậm hực, cay đắng, nỗi thương đau vùi trong biển tình còn dấu kín nơi tim, (vẫn thắm thiết âm thầm mà sâu lắng). Anh lặng lẽ tìm về chút "nhớ mùi của hương xưa"; anh luôn luôn mơ thấy em tươi vui, ngọt ngào, đằm thắm, ân cần, dịu dàng, lặng lẽ nhẹ nhàng đến thăm anh. Khi bừng tỉnh giấc chiêm bao, anh lại mơ mơ màng màng, ước mong mình hoá thành chú bướm, để anh có thể nhởn nhơ bay về đậu bên ngoài khung cửa sổ phòng nhà em. Anh sẽ mỉm cười, lẵng lặng nhìn cưng uyển chuyển đi ra thẩn thờ, buồn xo đi vào nhìn tháng ngày dần chết lịm trong đời.

Anh sẽ ca bài "Mộng dưới hoa" (như ngày nào anh cùng em đi trên đại lộ Pasteur, gần cổng nhà em, anh đã hát. Em khen hay, và nhìn trước ngó sau không thấy ai, em thưởng cho anh nụ hôn ngọt lịm ở trên má). Anh sẽ ru em ngủ, nhìn em êm đềm say sưa đi vào giấc mộng đẹp không vướng chút muộn phiền. Trong đó, anh mơ mình sẽ về trùng phùng bên em. Vì, Hồng Hạnh đã thôi giận hờn, em bao dung, từ bi tha thứ cho anh mọi điều lầm lỡ (vì tính đa tình, phiêu bồng lãng mạn), khiến chúng mình không vui, khi:
Tình yêu sóng giạt khắp chân mây
Cho đến một hôm tại chốn nầy
Đắm đuối tôi thương ‘mình’ quá đỗi
Yêu sao tình ấy vẫn mê say.
Cầm tay khẽ nói mộng dài lâu
Đằm thắm nụ hôn tựa buổi đầu
Xúc động bàng hoàng như muốn khóc
Món quà trân quý bởi vì đâu?
Xa rồi dấu ấn ở trên môi!
Giọt mật hôm nao ngọt cuộc đời
Hay vẫn chỉ là men trái đắng
Những ngày ly biệt cảnh chia phôi.
Tình yêu thần tượng đẹp muôn màu
Dù kiếp này hay hẹn kiếp sau
Vị đắng trào lên đôi mắt ướt
Chảy dài thương nhớ nụ hôn đầu... (*)

Sự nghẹn ngào tức tưởi luôn dày vò tâm thức anh. Sau khi xa Hạnh, dư âm nầy luôn quanh quất đâu đây canh cánh ràng buộc bên mình. Khiến anh nhũn chí dìm lòng trong tiếng nấc: Có biết không em? Cõi lòng anh dày vò, ray rứt, tan nát vì cái đào hoa và đa tình bồng bột của thằng con trai mới lớn. Mà, chỉ khi nào còn lại một mình anh. Lúc anh sống cho riêng anh, thì tình cảm thiêng liêng trân qúy ấy: nó lại chợt hiện đến. Một mối tình thâm sâu thật đầm ấm, ngọt ngào, nhưng xa xăm; diệu vợi... và muôn trùng đơn côi, vắng lặng luôn dày vò anh. Em ơi. Anh thì thầm nguyện cầu: Chúng ta sẽ vĩnh viễn yêu nhau, bên nhau trong vòng tay dịu êm. Nhé em.
*
Đến tháng 9 năm 1965, Hành được lệnh đi khám sức khoẻ, do USAF khám. Sau đó, họ điều anh về Sài Gòn đi làm thủ tục an ninh, & thủ tục xuất cảnh. Trên giấy thông hành ghi: "đi du học", trong thời gian tám mươi (80) tuần lễ. Ôi cha ơi! Lâu quá đi thôi. Ngao ngán biết chừng nào! Tuy vậy anh cùng các bạn cùng khoá vui vẻ, nôn nao, hớn hở, hân hoan, lo may đầy đủ quần áo, mua áo lạnh, vân vân… Hành hân hoan chuẩn bị chu đáo mọi thứ cần thiết để đi Mỹ.

Khoảng thời gian nhàn hạ và mòn mỏi chờ đợi nầy, Hành lấy xe hơi của ba, anh đến đón Nghĩa cùng đám bạn hữu của cô bồ tèo mới quen đi khắp nơi ăn uống, nhảy nhót, cắm trại, v.v... Trước đó, cô ta có gởi thư cho anh, cô nói là có bốn bạn gái cùng lớp, muốn kết thân với "tụi anh". Anh hỏi đám bạn, thì có bốn tên tình nguyện nhập cuộc, anh khoan khoái tụ tập họ ở nhà một thằng bạn, ung dung viết tên mấy cô gái, rồi bỏ vô cái mũ lưỡi trai. Xóc đều cho bốn thằng "bốc thăm". Có một bạn rung đùi ca ngâm câu ca dao:
Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến cho anh quen nàng
Tơ tằm đã vấn thì vương
Đã trót gian díu thì thương nhau cùng

Thế rồi, chàng trai phong trần bạo dạn mở lời:
Ai về đường ấy hôm mai
Gửi năm điều nhớ gửi vài điều thương
Gửi cho đến chiếu đến giường
Gửi cho đến chốn buồng hương em nằm

Bạn moi đủ thứ chuyện tiếu lâm sưu tầm lượm lặt khắp đó đây, tha hồ làm le, làm dóc làm thân, làm tin, làm tới làm tàng với các cô nàng, cố ý chọc cho họ cười và tự nhiên hơn, gần gũi dễ thân thiện trong buổi sơ giao, không sợ nhạt nhẽo vô duyên: Hiên kể chuyện hắn sưu tầm lượm lặt đó đây:
- Người ta đã thống kê được rằng, cuộc đời một người đàn ông hầu hết gắn bó với chữ “ăn”. Khi còn bé thì “ăn học”. Lớn thêm chút nữa thì “ăn chơi”. Lúc có bạn gái thì chăm chăm chút chút cố tìm cách “ăn thịt”… Ăn thịt xong thì phải “ăn hỏi”, rồi “ăn cưới”. Cưới về phải tiến hành “ăn nằm”. Khi vợ đến kỳ “khai hoa nở nhụy” anh ta đành phải “ăn chay” hoặc len lén vợ đi “ăn vụng”. Sau khi vợ sanh cu bé, thì phải “ăn kiêng”. Về già anh rụng răng nên phải “ăn cháo”. Già khú thì anh theo các cụ bà mà “ăn cỗ”…
- Nè, bọn mình ắt là có đứa sẽ được vợ tương lai dặn dò thế nầy:
Anh về, em nắm cổ tay
Em dặn câu nầy anh chớ có quên
Đôi ta đã trót lời nguyền
Chớ xa xôi mặt mà quên tấm lòng
Ngờ đâu sau thời gian đó ít lâu, có hai cặp đã trở thành vợ chồng thật sự:
Anh là con trai út nhà
Anh đi kén vợ đằng xa quê người
Thấy em đẹp nết đẹp cười
Đẹp người đẹp nết lại tươi răng vàng
Vậy nên anh gửi thư sang
Tình cờ anh quyết lấy nàng mà thôi.
***
Một hôm vào ngày Thứ Sáu, Hành và cô bồ Trân Thư đi ăn, rồi đi chơi vui vẻ nguyên ngày. Cuối cùng cả hai đứa vô nghỉ nhờ ở nhà Trung. Dù anh và cô ta chỉ quen nhau vài tháng ngắn ngủi, mới mẻ. Không phải Hành tự khen "cái tôi”, nhưng anh thầm phục ta tán gái tài tình, trơn tru, hay ho của mình, nên Thư như con cá cắn câu đã mau chóng xiêu lòng dễ dàng. Cả hai nói với nhau nhiều lời hứa hẹn sắt son, thề hứa suốt đời sống bên nhau đến khi răng long tóc bạc. Anh và cô ta “mết nhau” si mê, say đắm, có những giờ phút thắm thiết mặn-mà, bạo dạn nồng nhiệt cuồng mê hun hít quấn quít. Cô bồ sẵn sàng và dễ dàng hiến dâng cho anh đời con gái. Nhưng không hiểu tại sao, tự dưng khi đó đột nhiên hình ảnh (mối tình đầu) lại xuất hiện: Nàng ngây thơ. Dịu dàng. Khả ái. Đằm thắm. Tươi mát. Duyên dáng. Hồn nhiên và trong sáng xiết đỗi. Bởi vì Hành và nàng yêu nhau đứng đắn, đàng hoàng, vô cùng trong sáng. Hình bóng tuyệt vời, sự ngây thơ và thánh thiện của nàng: đã hiện lên trước mắt anh quá rõ nét.

Thật hết sức bất ngờ! anh lặng lẽ phiền muộn nằm vật xuống trên giường kêu cái đụi, như trái mít ướt rụng, tự dưng anh kịp thời ngừng lại những động tác yêu đương cuồng mê với cô nhân tình. Vắt tay lên trán, anh nhăn mặt nhiú mày bâng khuâng suy nghĩ miên man. Hành bàng hoàng mở mắt ra, ái ngại nhìn cô nhân tình mới, Hành buồn thiu dáo dác nhìn quanh, bồn chồn ngơ ngác nhìn cô bồ loã lồ, tênh hênh. Cô ta nằm kế sát bên mình, vòng tay cô ta vẫn quấn siết trên cổ anh và kiên nhẫn chờ đợi. Hành xót xa buông tiếng thở dài, thì thào nói với tình nhân:
- “Hãy mặc quần áo vào đi”.

Thư kia hụt hẫng, bực bội, tức giận và sượng sùng, chưng hửng! Thật là chả ra cái thể thống gì! Mất mặt và mất hết ý nghiã cuả một cuộc làm tình chưa trọn! Có lẽ cô ta lầm tưởng anh còn là "trai tơ trinh trong" chưa biết làm tình, thì thiệt là “lầm chít” em ơi! Nhưng từ trong thâm tâm anh… thì than ôi! Chính nhờ mùi của hương xưa của Hồng Hạnh rất vô tình thoang thoảng bay đến, nhẹ nhàng êm ái như hương xuân trân quý, mà "em yêu" đã ân cần đến bên anh kịp lúc. Em thân ái, trìu mến, ưu ái hiền hòa, lặng lẽ âm thầm đến bên anh, tình cờ em Hạnh đã cứu thoát nhiều người con gái con nhà lành khác, mà anh "đã iêu". Lẽ ra “các cô ấy” nên biết: vô tình các cô nhờ có “em cưng”, nên các cô ấy không bị mất thứ trân quý nhất của đời con gái, các cô phải cám ơn nàng! Còn em, em biết không, có biết gì không. Hở em HH yêu của anh!?

Để bớt ngượng, anh vơ tấm mền mỏng đắp lên mình cô bồ còn bần thần tê tái, mong sao cô ta bớt loã lồ hổ thẹn và trân tráo. Phần anh, cử chỉ đó có vẻ như lạnh lùng và đểu đểu xí, nhưng anh không gượng được nỗi hân hoan hãnh diện tự kiêu ùa về (khi anh tự biết chính mình đã chiến thắng dục tính). Trận cuồng phong mê đắm đó như gió bay qua cánh rừng, rồi tan biến vào hư vô, thì tình cảm ấy giống như những giọt nắng úa tàn qua kẽ lá, cuốn theo dòng sông chảy xiết mà thôi.

Hành ngồi dậy vô phòng tắm, sau đó anh uể oải chán chường kiếm điếu thuốc thơm gài lên môi, Hành e dè kể cho cô bồ nghe nhiều chuyện tiếu lâm đã đọc, hoặc sưu tầm trên báo, ví dụ như:
Hai người bạn gái gặp và hỏi chuyện nhau:
- Chuyện mầy và anh chàng mới quen tới đâu hở... ?
- Chia tay rồi.
- Sao vậy!? Tao thấy tối qua hai người còn đi xem phim mà...
- Tối đó, trong rạp điện cúp, mà chân anh ta cứ…
- Thế !!! Anh ta sàm sỡ với mầy à???
- Được như vậy thì còn khá... Đằng này chân anh ta cứ sờ soạng...
- Sờ soạng chân mầy, không thú vị à!?
- Không. Hắn sợ mất dép cuả hắn í chứ!
- Rõ khổ!?
Cô bồ liếc xéo anh, hậm hực nhưng cười gượng gạo. Hành lại tằng hắng kể chuyện thứ hai:
- Bà kia vẻ mặt đầy lo lắng, nói với lão thầy bói:
- Thưa thầy, chồng của con thường đi làm về rất muộn. Có nhiều hôm ảnh đi tới 11, 12 giờ khuya, ảnh mới về đến nhà. Con nghi ảnh mê đứa nào rồi. Nhờ thầy xem giùm cho con đường phu thê, gia sự.
Thầy bói đĩnh đạc gieo quẻ, rồi phán:
- Chồng của thân chủ là người trăng hoa, phong tình, có bồ bịch tứ tung. Thân chủ muốn giữ được chồng, phải thường xuyên bỏ công theo sát bên anh ấy, mỗi khi ảnh bước chân ra khỏi nhà! Nghen.
- Thưa thầy, con không thể nào bám theo chân ảnh như vậy được!
- Vì sao thế?
- Chồng con là phi công!

Hành vẫn thấy nàng lấm lét nhìn, rồi vội cúi mặt ú ớ. Lại chuyện thứ ba, thứ tư: - Một thầy tu trẻ đi khất thực qua làng nọ, trời hanh khô, mà thầy tu ấy lại đi đường đã khá lâu, nên thầy thấy khát nước, bèn rẽ vào nhà nọ xin nước uống. Trong nhà chỉ có một cô gái trẻ. Cô gái nghe thầy tu hỏi xin nước, thì đặt một chai nước xuống hiên nhà, rồi quay vào trong, định lấy cái ly. Thầy tu tưởng cô đi vào luôn, nên mở nắp chai ra, thầy định tu một hơi, cho đã cơn khát. Vừa lúc đó cô gái đi ra, thấy vậy cô kêu lên:
- Thầy đừng tu, để em lấy…
Nhà sư trẻ tuổi hoảng hốt ngắt lời:
- Xin cô đừng lấy, để tôi tu!

Mặc dù Hành cố moi óc ra, kiếm nhiều chuyện tiếu lâm sưu tầm lượm lặt đó đây, để kể cho Trân Thư nghe, ngỏ hầu mong tạo không khí dễ chịu, bớt xốn xang, vô duyên, tẻ nhạt đôi chút, và cố quên đi cái chuyện ái ân dị hợm, trơ trẽn, lãng xẹt, ngượng ngùng. Nhưng có nói gì, có pha trò hề gì, thì… “cả hai anh chị” cũng không thể nở nụ cười hồn nhiên, thoải mái vui vẻ như lúc đầu nôn nao nằm trên giường muốn giao hoan cho được!

Thôi thì ta đành trở về thuở hồng hoang trinh nguyên:
Đôi ta thật sự ước vuông tròn
Em tuổi đôi mươi gót bước son
Lí lắc hay cười. Anh lặng lẽ
Sân trường phượng đỏ cánh chim non.
Chẳng biết tình em, anh có hay?
Thở dài anh ngắm đám mây bay
Nhìn em tay ngắt cành hoa trắng
Hái trái ân tình trĩu nặng vai.
Thế rồi anh bảo một chiều đông
Dẫu quyết cùng nhau vẹn chữ đồng
Lửa khói lan tràn trên đất mẹ
Thân trai phải trả nợ non sông.
Anh đã ra đi tựa bóng mây
Xẻ đôi chén nhớ uống càng say
Vầng trăng ai nỡ chia hai mảnh
Em vẫn chờ anh phố cũ này. (*)
***
Sáng Thứ Bảy, gia đình ba má, các chị, em, cô tình nhân, mọi người đi tiễn đưa Hành trên phi trường Tân Sơn Nhứt. Chẳng hiểu sao anh và cô ta còn thèm thuồng lưu luyến, bịn rịn, tiếc nuối, hoặc tưng tức “chuyện tình dang dỡ hôm qua chưa làm tròn”, hay sao!? Nên đứng riêng ra một góc vắng, hai người xoắn xuýt ôm chặt lấy nhau hun hít suốt, dường như để vớt vát cơn thèm khát cháy lòng hôm qua đã bị quê xệ, cụt hứng. Khi gần hết giờ tâm tình, phải chia tay, Hành thì thầm bên tai cô ta:
- Hãy trao cho anh kỷ vật nào thân thiết nhất của em.

Cô bồ vội vàng chạy vào toilet ở phi trường. Lát sau, cô ta trở ra nhét vào túi quần anh. Kỷ vật cô bồ trao lúc bấy giờ là cái quần xịp, kèm vài sợi... ô hô! "Cuộc tình đau muốn bứt da" có lẽ cô tình nhân đã chảy nước mắt vì đau. Biết đâu, ngày mai... cô bồ có còn nhớ cơn đau nầy, hay còn đau hơn thế nữa khi xa biệt nghìn trùng, khi xa mặt thì cô có cách lòng hay không? Ai mà biết được! Họ đã ra về hết. Khoảng chừng 11:45' trưa,
Hành và các bạn hào hứng, mạnh dạn, vui vẻ huýt gió tưng bừng, khoan khoái bước lên phi cơ. Vài phút sau, phi cơ lăn bánh trên phi đạo càng lúc càng nhanh. Sau cùng mặt đất tách rời phi cơ bay vút lên cao. Hành nhìn xuống đất nước Việt Nam. Xóm làng thương yêu. Cha mẹ. Chị em. Họ hàng thân quyến. Bạn hữu. Cô bồ nho nhỏ xa dần. Xa dần... và mất hút tầm nhìn.

Phi cơ lao vút vào không gian, mang Hành & bạn bè cùng trang lứa ra đi xây mộng hải hồ. Nơi cao vút trên không trung bao la, có từng tảng mây xôm xốp bồng bềnh trôi dưới đáy phi cơ, dưới cánh máy bay, để lại vùng trời quang rạng trắng xoá thỉnh thoảng rắc vài lọn mây ươm vàng chói sáng ánh dương rực rỡ. Mịt mùng. Mênh mông… Phi cơ của Continental Airlines loại 707, bay từ Việt Nam sang Manila. Ghé lại trạm tiếp tế nhiên liệu, rồi phi cơ bay sang đảo Guam. Wake. Sau cùng đến Honolulu.

Đã đến giờ vô lớp, anh đành tạm biệt em yêu. Hẹn em thư sau nhé.
Lữ Phi Hành
***
Tình Hoài Hương

(*THH)= Thơ tình Hoài Hương
(cd)= ca dao

Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

Tinh Hoai Huong
04-09-2015, 06:04 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 7
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/a.linh 30_1428559092.jpg
Kiếp Phong Trần Trên Đất Khách
Tình Hoài Hương
***

Anh em khóa sinh sinh viên sĩ quan Không-quân miền Nam Việt Nam mặc quần áo nỉ màu xanh biển đậm, bên cầu vai có chữ tắt ghi: VN (Việt Nam) màu đỏ rất to. Khi đến Honolulu nghi ngơi, họ cho tốp anh em sinh viên sĩ quan Không-quân xuống phi cơ. Mọi người đi rông đây đó dòm ngó, hớn hở chỉ chỏ, xì xào bàn tán ráo riết. Các anh em bạn đi vào trong mấy Mall lớn, bạn hữu vui vẻ đi vòng vòng xem rất nhiều hàng hoá chưng bày la liệt. Lúc đó, đám sinh viên sĩ-quan Không-quân Việt Nam nói tiếng Anh, đúng là do phát âm của giáo sư Việt dạy, mình nhái theo giọng của người Anh. Chứ nếu ta phát âm theo giọng chuẩn của người Mỹ, thì… mình nói, hoặc nghe: đều chưa được chính xác cho lắm.
Từ trên loa phóng thanh có xướng ngôn viên gọi tên nhóm sinh viên sĩ-quan Việt Nam mãi, mà kỳ thực “các ông tướng con” nhà nầy, không hề nghe gì ráo. Có thể do họ nói nhanh, nói rất lưu loát, còn bọn nầy thì tỉnh bơ… ù tai, điếc lác, chẳng thèm hiểu hết câu họ đang rao ra rả tìm “trẻ thất lạc” làm gì cho mệt. Mặc kệ họ réo gọi ai rùi hay sao, mà chả có “con ma nào đếch cần nghe” hết. Không thể chờ đợi đám sinh viên sĩ quan Không-quân miền Nam Việt Nam nữa, vì đã đến giờ phi cơ phải rời chỗ đậu, để ra ngoài phi đạo.
Lúc đó mới có vài nhân viên hàng-không phát hiện ra “tụi nầy” đang đi lơ ngơ. Họ tức tốc vội vàng “lôi” các “ông tướng con” chạy ra xe bus. Xe bus chạy kèm theo một chiếc xe hơi khác, kéo rề rề một cái cầu thang khá dài. Hai xe nầy lao vun vút ra phi đạo. Rất may, là phi cơ ấy chưa ra đến đầu phi đạo. Phi công trưởng đang dừng tại Run Up Engine. Nơi ấy dùng để thử lại lần chót các máy móc thiết bị, trước khi máy bay ra xếp hàng chờ đợi trên phi đạo.
“Các cha nội” cùng Hành hộc tốc ba chân bốn cẵng phóng vội vã một lần hai ba bậc thang, vội nhảy lên phi cơ, rồi ai nấy mệt nhoài hổn hển thở. Hành liền chui tọt vào trong khoang hành khách. Tiếp viên nhanh nhẹn vội vã sắp xếp, lăng xăng chỉ chỗ ngồi, họ phụ giúp sinh viên Không-quân thắt dây nịt an toàn, các cô giúp cho “cái bọn lu la” ham rong chơi… (không có… bời), đã quên cả thì-giờ và lối về chỗ trọ tạm dừng chân ở Honolulu.
Trên phi cơ đã chiếu nhiều phim khá hay. Nhưng “các ông tướng con” vừa luyện cú chưởng “phi thân tốc” qua cuộc co giò chạy đua “ma-rơ-tông” thừa sống bán chết. Ai nấy mệt hộc xì bơ, muốn đứt hơi thở, muốn xỉu rục xuống bất tỉnh nhân sự. “Các cụ” đã mệt nhoài, nên họ chỉ ngồi trong khoang tàu bay năm bảy phút, sau đó họ đều phè cánh nhạn, tâm hồn lẫn thể xác lâng lâng bay bổng phiêu bồng lên chín tầng mây, mà khò khò ngủ say, ngủ ngon lành, họ thi nhau ngáy to vang rền như sấm.
Sinh viên sĩ-quan Không-quân đã được dặn dò kỹ ở phi trường Tân Sơn Nhứt về việc “nhập gia vấn túy, nhập quốc vấn tục” rồi, nghĩa là ở Việt Nam mỗi gia đình có những gia phong tục lệ riêng, mình cần phải biết ứng dụng mà xử thế; Còn chuyện “nhập quốc” trên thế giới, dù nước ấy có văn minh tiến bộ, dân trí cao bao nhiêu, tất nhiên mỗi nước cũng có sự phối hợp: giữa nghệ thuật và những đặc trưng về phong tục tập quán; càng khác nhau hơn, không nước nào giống nước nào. Ta liệu đó mà tìm hiểu, để hòa nhập vào quốc gia ấy trong cách khôn khéo lịch sự giao tiếp, nhìn xa trông rộng mà xử thế.
Nên khi đặt chân xuống phi trường San Francisco, đã có sĩ quan liên lạc trực ở Atco. Các anh em xin phương tiện chuyên chở bằng xe bus, và trình báo hiện diện. Nhìn lại đồng hồ tay, chỉ mới 9:00AM, họ cho chiếc bus chở “các cha nội”, về Hotel trong căn cứ. Tất cả anh em sinh viên sĩ-quan Không-quân Việt Nam lo tắm rửa sạch sẽ, vui vẻ ca hát, huýt gió vang khắp đó đây, ai nấy sung sướng, ăn uống đầy đủ, xem tivi, nghỉ ngơi rất ung dung, thoải mái.
Ngủ qua đêm đó, hôm sau có phi cơ chở cả bọn đi về San Antonio (Texas). Từ trên không trung nhìn xuống, lúc phi cơ nghiêng cánh, chuẩn bị đáp ở phi đạo. Các chàng trai phong trần cúi đầu nhìn vào những ô cửa kính, bạn và Hành đều cảm thấy vô cùng choáng ngợp. Bởi: nhà… nhà… nhà… rộng rãi khang trang. Xe… xe… xe… Toàn là xe hơi xịn, đủ kiểu, đủ màu trên những parking lot khổng lồ chứa toàn xe ơi là xe. Ôi! Sao mà nhiều xe thế không biết! Quang cảnh tuyệt vời như gấm thêu hoa. Bên Mỹ là cái xứ nhìn từ trên cao xuống mà.
Các chàng trai dễ thương nầy là công dân nước Việt Nam, họ vừa mới chân ướt chân ráo lấp ló đặt chân lên đất Mỹ giàu sang, tột đỉnh văn minh, nên họ cảm thấy ngỡ ngàng, vì cái gì cũng to, cũng lạ, rộng rãi, văn minh, vui mắt, hào nhoáng, xa hoa, bóng bẫy lạ! Dĩ nhiên hệ thống xe cộ tốc hành tuyệt vời, biện pháp an ninh tinh vi hơn, phải cao hơn, sang hơn, chặt chẽ an toàn lộng lẫy huy hoàng hơn tại Việt Nam, là cái chắc. Và, có những điều ngộ nghĩnh kỳ lạ: Nói ra những điều dưới đây, quý anh chị em có cho Phi Hành là “Hai Lúa khờ me, từ miệt quê lờ tờ mờ lù đù lên Tỉnh” không nhé!:
*Thứ nhất là: Trong khi “các ông tướng con” ngồi với đống hành lý nặng nề. Chờ viên sĩ quan Mỹ liên lạc với xe bus đến đón tất cả anh em khóa sinh Việt Nam về căn cứ (vào trường học Anh văn ở Lackland AFB, cách San Antonio độ chừng chục miles). Có rất nhiều bạn khát nước, nhưng chả biết làm sao mà uống? Sau khi Châu nghiên cứu tỉ mỉ máy SunRock, đặt ở phi trường, vậy mà bạn đành chịu thua. Châu đến bên cạnh Trung, rù rì nói nhỏ:
- Quái lạ! Sao ngồi đó, tao thấy mấy tên Mỹ từ xa đi đến. Nó chỉ cúi xuống, là nước ở trong cái vòi kia tự động bắn vọt cong lên, cho nó uống đã đời. Tao đi đến máy lọc nước ấy, tìm hoài chả thấy cái nút bấm đâu cả? Tao lại trở ra ngồi quan sát họ thật kỹ. Tao lại nhẫm đếm mấy bước chân cuả tụi Mỹ nữa. Xem nó bước đi bao nhiêu bước, thì có nước vọt lên, để uống. Tao cũng lập lại như nó. Dĩ nhiên bước chân người Việt mình ngắn hơn người Mỹ. Cho nên tao đã trừ hao rồi nha. Vậy mà tao vẫn không thấy có nước vọt ra gì hết. Mầy à! Khát thấy mồ!
Lúc đó, Hòa bận rộn sắp xếp lại hành lý, đồng thời lo ngóng tìm viên sĩ quan Mỹ trực. Nghe bạn nói thế, anh đi lại xem. Quả thật! Chỉ thấy cái vòi, nhưng chả thấy nút bấm ở đâu. Không thấy nút khoá hay mở cái vòi (fauset) như thường lệ (giống vòi nước máy ở Việt Nam, để mình mở cho nước chảy ra). Sau đó, các anh chàng sinh viên sĩ quan Không-quân chụm lại, đứng gần máy nước mà nghiên cứu, họ chăm chú xem mấy người khác đến uống nước. “Các ông tướng con” mới khám phá ra cái “nút ngầm”. A ha! Muốn uống nước, ta phải thò mũi giày vô đạp cái bàn đạp ở một bên góc dưới gầm của cái máy lọc nước. Chỉ có thế! mà nó đã chứng minh cho mình biết sự “ở nhà quê vừa ra Tỉnh” của nhóm sinh-viên sĩ-quan chân ướt chân ráo vừa đặt chân đến đất Mỹ tự do, “đài các”, hào nhoáng, vinh sang, lộng lẫy, và đầy đủ tiện nghi. Ha ha ha!
*Thứ hai là: Khi các anh đến phi trường San Antonio, gặp viên sĩ-quan Liên-lạc (Atco – Air Training Center Officer), các chàng khóa sinh đưa cho ông ta xem Sự Vụ Lệnh (Order to report to: ...). Họ liền phone cho xe bus đến đón khoá sinh về văn phòng. Vừa khiêng hành lý ở trên xe, đồ đạc chưa chạm xuống đất, xe bus vội quay đầu vọt chạy đi mất hút. “Các ông tướng con” lớ ngớ, ngẩn ngơ đi tìm người hướng dẫn. Đang đi dọc đường, Hành thấy mấy cái valises (dù bên ngoài đã ràng cột bằng sợi những dây nhựa, loại tốt, nhưng nó vẫn bung đứt). Thế là đồ đạc rơi ra tùm lum, ngổn ngang. Hành phải ngồi xuống, bỏ đại mọi thứ đồ đạc lộn xộn ra đường, xếp lại gọn gàng xí. Sau đó anh vừa xách, vừa kéo lê nó đi. Thật là bất tiện, mệt bá thở, vất vả vô cùng mà tha củi về rừng vì ba cái của nợ “áo và cơm”!
*Thứ ba là: Đêm hôm đó ở Hotel, vì quên tiệt và ở Việt Nam chưa xài loại khóa chốt tự động “tân thời”, tức là ta đóng cửa khóa chốt ở trong phòng, mở chìa khóa ở bên ngoài phòng. Số là khi đi tắm xong, Thanh, Ngọc, quấn khăn lông vào người, họ chỉ mặc cái quần đùi, áo may-ô, hai anh đi ra ngoài hành lang, định sang phòng bạn kế bên ngồi chơi tán dóc. Thanh quên mất “cái chốt chết tiệt” đã tự động bấm cài cánh cửa lún vào ổ khoá trong phòng. Khi gió lùa ào ào ngoài hành lang, nó đã thổi cánh cửa đóng ập lại, nghe kêu cái “ầm”. Thanh giật mình quay lại chạy về phòng, nhưng Thanh không thể mở ra được, vì thế, anh đã bị nhốt ở ngoài hành lang. Anh chàng kêu la cầu cứu. Rốt cuộc Vinh phải chạy xuống phòng Reception, nhờ ông ta lấy Master Key, để lên phòng mở cửa ra.
Sinh viên sĩ quan Không-quân vào trường học Anh văn ở Lackland AFB cách San Antonio độ chừng chục miles. Bạn và Hành phải lội bộ một quảng đường năm trăm (500) mét, mới đến mấy cái Barrack dành cho sinh viên sĩ quan ở. Mỏi chân, bơ phờ, mệt mỏi muốn bá thở! Sinh viên sĩ quan Không-quân đã ký các thủ tục cần thiết, sau đó mỗi người được phân chia phòng riêng. Chỗ ở mỗi phòng láng cón rộng rãi, trang nhã, thoáng mát: có hai giường, hai tủ Locker, hai table de nuit, một bàn học, một tủ lạnh trong phòng xài chung cho hai người ở. Nhà vệ sinh, nhà tắm thì nằm giữa những dãy nhà ngủ. Mỗi dãy có mười hai phòng, mọi người xài nhà vệ sinh, nhà tắm công cộng và giữ gìn rất sạch sẽ, bóng loáng.
*Thứ tư là: (khám phá ngộ nghĩnh). Sau một tuần nghỉ ngơi, nhóm Hành được bay lên New-York, đi thăm rất nhiều nơi. Xe bus dừng lại ở một tiệm Cafeteria đồ sộ có sức chứa cả ngàn người. Họ chỉ mở một cửa xe bus để đi xuống. Bắt buộc tất cả khóa sinh tuần tự xuống xe. Cán bộ John đứng dưới đất phát tiền cho mỗi người: mười đồng. Ai bước xuống xe, là ông ta phát cho một tờ bạc. John chỉ cái máy đổi tiền giấy ra xu (coins). Ông̣ hướng dẫn briefing cho nhóm biết cách thức, làm sao trả tiền, để lấy thức ăn. Tại đây, lần đầu tiên Hành trực tiếp “thử nghiệm” hệ thống ăn trưa “quy mô chớp nhoáng” của người Mỹ; qua hệ thống Cafeteria tự động.
Bước vào cửa tiệm, cả nhóm đứng xếp hàng có trật tự, chờ đợi. Hành thấy một hàng tủ đựng thức ăn bóng loáng sạch sẽ, mỗi tủ có cái lỗ to, phía trên ghi giá tiền trả, để ta tự bỏ tiền vào. Khi đã chọn các món ăn, cửa tự động mở ra. Hành vừa lấy thức ăn để trên khay của mình, đặt ly nước coca xong, Hành chưa kịp bưng đi xa. Lập tức phía đằng sau tủ, có người để dĩa thức ăn khác vô ngay chỗ cũ. Họ làm chớp nhoáng, nhanh như máy, chẳng có lè phè chậm chạp như tiệm ăn ở Việt Nam.
Hành tìm chỗ ngồi, thoải mái ăn uống xong. Sau đó thu dọn chỗ mình vừa ngồi ăn uống, chùi sạch bàn, (ghế: nếu bị dơ). Tự động mình ên bưng thức ăn thừa, nước uống dư, cùng napking để vất vô thùng đựng rác nhựa có bọc ny lông đen to, có nắp đậy. Tuy là thùng rác nhưng không có con ruồi, con gián, con kiến bò vô. Cái Automat Cafeteria là thế đấy! (Từ năm 1965 (và mãi đến bây giờ...), ở Việt Nam chưa dám tổ chức tiệm ăn tự động như thế! Nước Mỹ văn minh tột cùng, giàu sang, tiện nghi, sạch sẽ, nhất là đại đa số họ có tinh thần dân tộc, tính tự giác, tự trọng: làm cái gì họ cũng tuần tự xếp hàng có thứ tự, bất kể già trẻ lớn bé, ai đến trước đứng trước, ai đi sau đứng sau; không ồn ào chen lấn, họ đã đi trước các nước chậm tiến khác, và nước Việt Nam mình gần một thế kỷ, là thế́).
*Thứ năm là: Ở Mỹ không có chuyện tài xế lái xe ra đường, cứ ào ào phóng lút ga, không có chuyện tài xế muốn qua mặt một xe hơi đang chạy cùng chiều, là bóp còi, vỗ thùng xe inh ỏi, tài xế ra hiệu cho xe mình lạng, lách, vượt qua xe khác đang chạy trước mặt. Ở Mỹ khi xe khác bóp còi ở sau lưng mình, thì có nghiã là: Họ đã chưởi ta. Tệ hơn nữa là khi xe ấy vượt qua mặt ta, mà ông tài xế quay lại, giơ ngón tay giữa lên, thì coi như mình lái xe quá tồi, quá chậm, dỡ, ẹ như… Í, họ đang chưởi ta đó! Ồ hố!
Ô! Lại còn có cái màn nếu ai khen mình lái xe cừ khôi số 1, thì họ nắm bốn ngón tay lại, giơ một ngón tay cái (thumb) đưa lên trời, ấy là họ ngụ ý khen ta là: "số dzách" - Ngược lại, cũng là ngón cái mà quay ngược đầu, chỉ chỉ xuống đất, thì có nghiã là: “Đồ tồi, lái ẹ quá”! Cũng mắc cười khi người Việt mình mà giơ hai ngón tay trỏ và ngón giữa bắt chéo lại với nhau, thì thế nào mình cũng bị ông bà cha mẹ cho “các cụ con” ăn vài cái tát nẫy lửa vô mặt, (vì ông bà nói làm điều ấy là: tục tĩu!). Trái hẳn với người Mỹ, nếu mình "hành động" hai ngón tay chéo ấy giơ về phiá họ; thì có nghiã là lucky!
Vinh góp chuyện:
- Ở mỗi quốc gia có một phong thổ, lối sống, khái niệm và nhận định hoàn toàn khác nhau; Ví dụ: Khi tôi chụm ngón tay cái và tay trỏ lại với nhau, tạo ra hình tròn trên bàn tay, như con số O (zéro), và giơ lên, thì ở Nhật có nghĩa là= "tiền bạc" (thế nào đó). Ở Pháp là= số 0. Ở lưu vực Địa Trung Hải là= "Pé dé" (pédérastê= kẻ loạn dâm hậu môn). Tại Hoa Kỳ, Anglo Saxon là O K. Cũng như, đa số bên Âu Châu, Pháp... khi ngón tay cái đưa lên, bốn ngón kia nắm lại; có nghĩa là= super (số dzách), thượng thặng! Anh-quốc và các nước Anglo Saxon là= O K. Vùng Địa Trung Hải thì bảo là= "cút đi". Hy Lạp, Hoa Kỳ... và đa số các nước khác khi ở ngoài đường ta đưa ngón tay lên là= "xin quá giang".
Cũng khác biệt về "nhận định" phong tục tập quán của từng quốc gia, khi ta đưa mu bàn tay ra trước mặt bạn, với hai ngón tay trỏ và tay giữa giơ lên cao, tạo ra hình chữ V; tại Anh có nghĩa là= hai. Có những nước khác ngụ ý là= "tồi bại; cút đi". Nhưng cũng cử chỉ ấy, mà lòng bàn tay của mình giơ ra trước mặt bạn, ở Mỹ và đa số các nước khác đều đồng ý là= "chiến thắng". À, ngón tay cái, cùng ngón tay trỏ, ngón giữa: xoa xoa vào nhau là= muốn "nhắc nhở về tiền bạc". Cũng như, khi tôi bắt tay một người bạn Việt Nam, tôi có cử chỉ thân ái siết tay bạn, mừng rỡ hai bàn tay rung rung ba bốn lần; và dùng tay kia vỗ vỗ vào vai bạn, rồi thú vị ôm chầm lấy bạn, tỏ ý tôn trọng bạn tâm giao, thân thiết vui mừng sau bao năm xa cách. Đối với Hoa Kỳ thái độ ứng xử trong cử chỉ của hai người đàn ông "thân mật" ấy; đôi khi gây nên sự ngờ vực, hiểu lầm và khó chịu. Tóm lại, bản ngã của sự quyến rũ từ cử chỉ trong việc trao đổi những tập tục, phong tục tập quán của mỗi quốc gia, và cái bắt tay lịch sự siết nhẹ, nhưng vừa đủ chặt, (không lỏng lẻo, hời hợt); là một đặc trưng đầy nghệ thuật, tôn trọng nhau, tế nhị, mang truyền thống hữu nghị xã giao quốc tế.
Hoà cười tít mắt:
- Đúng là “đất có quê, lề có thói, ở bầu thì tròn ở ống thì dài”. Ha ha ha...
- Bạn sống ở môi trường nào, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến mình (khi đang ở nơi ấy thôi).
Trung nhìn các bạn, điềm đạm mỉm cười:
- Nhưng với người tự trọng, có danh dự và tôn trọng đạo lý, sẽ tùy theo môi trường ấy mà hành xử. Tôi kể cho “mấy cụ mi” nghe chuyện đời xưa, bạn nghe xong, thì tuỳ hỉ, và tự suy nghĩ ha: Nước Kinh (bên Tàu) có người nổi tiếng xem tướng giỏi, ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương kêu người ấy đến hỏi:
- Ngươi dùng thuật gì mà coi tướng giỏi như thế?
- Tâu thần không có thuật gì cả. Thần chỉ xem bạn của người ấy: là biết được người ấy hay hoặc dở. Ai chơi với người: hiếu, thuần, để, cẩn, biết giữ phép nước… thần đoán người ấy hay, ngày kia họ sẽ vẻ vang, người ấy sẽ thịnh vượng. Thần xem cho quan lại: thấy ông ấy chơi với bạn có phẩm hạnh, thích điều phải, thành tín, thì thần đoán quan ấy là người tốt, chức tước sẽ tăng, giúp vua thêm có ích. Thần xem cho vua chúa: quan gần có nhiều hiền nhân, quan xa có lắm người trung. Lúc vua có lỗi có nhiều người can ngăn, thì thần đoán vua ấy giỏi, tất nhiên vua ấy được bàng dân thiên hạ tôn trọng, nước mỗi ngày được yên, thiên hạ sẽ quy phục bên vua. Quả thật thần không có thuật gì cả, chỉ xem người mà biết được người đó, là lời nói phải.
Vua Trang Vương nghe chí lý, liền thu dùng những người tài giỏi. Sau đó nước Sở thành một cường quốc trong thời Chiến-quốc.
*Thứ sáu: Đã nhất, thích nhất là ở Mỹ trong những dịp lễ nầy lễ nọ, càng có những ngày lễ lớn: thì hầu hết các cửa tiệm, hoặc ở trong Mall đều treo bảng GET ONE FREE ONE - Hoặc cho hạ giá biểu từ 60 đến 80% off = đa số những mặt hàng sale. Cũng buồn cười nhất là ở Mỹ họ thích ghi giá: 99c, thay vì ghi chẵn 90c, hay ghi chẵn $1. Ví dụ như Hành mua một áo lạnh giá chính thức là $79,99, anh tưởng là họ sẽ trả lại cho mình 1cent. Nào ngờ khi ra xếp hàng tính tiền áo, họ đã không trả lại 1cent ấy, mà còn “vô nhân đạo” trấn lột, cưá cổ ta thêm vài đồng tiền Tax (nơi người tiêu thụ) nữa chứ!
*Thứ bảy: Hành đã có dịp ghé thăm gia đình một người bạn Việt Nam sống ở Mỹ lâu năm, họ kể: Chỉ có sáng sớm ngày 26 tháng 11 cuả năm... thì tất cả các nơi đặc biệt gọi là new Black Thanksgiving day, mới ra báo sale 50% hay đến 80%, 90% về những mặt hàng (đặc biệt là loại hàng mắc tiền, điện tử, v.v...). Bạn lo đi mua tờ báo bán tại các trung tâm thương mại rất sớm, coi trước nơi tiệm nào ta cần mua gì, và bạn chuẩn bị ghi những thứ cần thiết cho gia đình. Dân chúng sắp hàng ở các trung tâm mua bán từ 4:00PM cuả mấy ngày trước lận à. Họ mặc áo quần rất ấm, vác ghế bố, mền, túi ngủ tới nằm ngoài trời khá giá lạnh, ở đó họ ngủ cả đêm ngoài trời rét căm căm, để giữ chỗ ưu tiên vô mua hàng hóa cần thiết, họ sắp hàng có trật tự. Có người chỉ cần để trên chỗ đứng xếp hàng một carry on, một túi xách, ba lô… thì chẳng có ai lấy thứ đó của mình, hoặc vứt nó đi qua một bên, mà chen vô chỗ không có người xếp hàng kia. Cho dù mình vắng mặt khá lâu, nhưng họ vẫn tôn trọng quyền tự do của người đến đứng sắp hàng trước.
Các cửa tiệm chỉ bán từ 8 giờ sáng đến 12giờ trưa. Ôi khi cửa tiệm mở ra, là trong cũng như ngoài vui vẻ, nhộn nhịp, huyên náo, ồn ào như vỡ chợ, ai ai cũng tay bưng tay xách đủ thứ hàng hoá lỉnh kỉnh, mà người mua đã lưu ý để “lọt mắt xanh” từ mấy ngày trước. Nhà bạn của Hành ở gần các trung tâm thương mại lớn, từ nhà đi đến các nơi đó chỉ có 5' lái xe, nên bạn không cần phải sắp hàng chen lấn, và ngủ đêm xí chỗ trước (cho hôm sau vào mua sale). Từ sáng đến sập tối, cả ngày bạn lo đi shopping mua sắm quà cáp, áo quần, đồ chơi, v.v... Cũng thật khổ sở nhất là đứng xếp hàng trả tiền, mỗi tiệm có ít nhất là 10 > 20 quầy tính tiền, và trả tiền bằng máy tự động. Ấy thế mà người ta sắp hàng chờ đợi dài ngoẵng cả mấy chục thước! Họ mỏi chân vô cùng.
Hết giờ sale, bạn về nhà gói quà riêng từng phần cho gia đình, bạn hữu, con, cháu, bạn bỏ quà vào phòng khách, thì không còn mấy chỗ rộng cho lối đi nữa. Khi mua đầy một xe Van, ông xã của bạn lái xe chạy trên freeway cũng kẹt xe như nêm, về nhà chất đồ đạc ở garage xong, ông xã lại chạy xe đi mua đồ đạc ở chỗ khác. Lớp thì mua về nhà dùng, lớp để dành cho con cháu cần dùng bây giờ, hay để dành đó, sau sẽ từ từ tặng cho các con cháu trong dịp birthday, Christmas, Tết… cho tháng năm sắp tới. Sau ngày đó, thì những malls và các tiệm giẹp mặt hàng cũ, có khi họ đem những thứ còn lại biếu cho các cơ quan từ thiện. Các tiệm nầy bắt đầu chuẩn bị sắp những mặt hàng mới đặc biệt cho mấy ngày đại lễ: Christmas & New Year.
*Thứ tám: Anh bạn đi mua cho con chiếc xe “sạc” điện, giá là $380, 99c (chưa tính thuế). Tối hôm qua cả nhà ngồi lại ráp chiếc xe hơi đó, cho con, cháu, có thể ngồi lên lái chạy vòng vòng, xe ráp xong đã dán nhãn hiệu hết rồi, trông rất đẹp). Nhưng hôm nay, sau khi đi đến một tiệm khác, bà vợ thấy chiếc xe điện tử y chang hiệu như vậy, mà rẽ hơn. Nên chị ấy đem chiếc xe (loại đồ chơi trẻ con có thể ngồi lên hai ba đứa nhỏ, lái xe chạy vòng vòng dọc ngoài park). Bạn tới tiệm cũ cự nự: “giá tiền xe chênh lệch, ông bà bán cắt cổ… Bạn đòi chủ tiệm bớt giá”, chủ tiệm không chịu bớt giá. Bà chị đứng cự nự một hồi, chị gọi phone cho chồng đang đi làm. Ông chồng nói:
- Không cần lôi thôi gì cả, bây giờ em hãy đi tới cái tiệm mới có chiếc xe giá $280 mà mua chiếc xe đó, em chở xe về nhà. Còn chiếc xe cũ hôm qua anh đã mua, thì ngày mai anh sẽ chở đi trả xe ấy, lấy tiền lại. Thế là xong.
Chị bạn vâng lời đã mua chiếc xe ở tiệm có giá rẽ khác, bạn xếp hai hàng ghế sau, để chở cái thùng to tướng (đựng chiếc xe mới toanh rẻ rề) đi về nhà. Chị bỏ đồ đạc đã mua xuống garage. Ông xã đi làm về, lại tháo chiếc xe $380,99c vừa ráp hôm qua ra, xếp vô thùng, rồi ông xã chở chiếc xe ấy đem đi trả, dễ ợt. Tất cả tiệm buôn bán cuả người Mỹ có cái dễ dàng & dễ thương, chân tình, hiếu khách đúng với “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” như vậy. Khi mình mua cho đã, nếu đem về nhà, mà không thích, không vừa ý, thì vài tháng sau mình đem đến trả lại - cũng OK, miễn là có receipt, hoặc mình không làm món đồ đó hư hại. Món đồ đó là món hàng mình đã mua từ chính công ty, hoặc cửa tiệm cuả họ, thì họ nhận tuốt hết. Họ chẳng cần hỏi lý do “tại sao trả”?! Họ vui vẻ nhận hàng return.
Các tiệm cuả người Mỹ buôn bán thì thế. Chứ nếu mua hàng hóa của chủ nhân Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, hay tiệm của người Lào, Miên… khác sống ở Mỹ, thì sức mấy! Hãy coi chừng: Mình vừa cầm món hàng ấy ra khỏi cửa tiệm, không trả lại được, dù món hàng ấy mới toanh, chưa bóc tem, chưa suy suyển hư hao gì, có biên nhận cũng mặc. Ta chẳng có thể đem đến trả lại à nha, coi chừng bị “ăn đòn”, bị chưởi te tua, bị đốt phong long nữa à.
Tại Việt Nam, nếu vào những dịp Tết nhất lễ lạc, thì các chợ, các tiệm buôn đều nâng giá bán lên cao ít nhất là: gấp đôi gấp ba ngày thường, không kể những loại hàng thông dụng hằng ngày. Nếu khan hiếm thịt heo, thịt bò, thịt gà, vịt, v.v... thì người bán tự động nâng giá lên gấp bốn năm lần, là chuyện thường xảy ra tại Việt Nam. Ở tại Mỹ không như ở Việt Nam; ngược lại ngày Lễ là sale có khi hạ giá từ 50% tới 80% . Ô la la… tha hồ mua sắm nha.
***
Họ cho sinh viên sĩ-quan dọn vào ở một cái nhà khá rộng của Tiểu-đoàn. Gồm có các phòng ngủ, phòng họp, phòng truyền thông. Văn phòng trực. Mỗi phòng có mười người sử dụng. NAS vẫn tiếp tục nhiệm vụ ngày xưa. Bên trong NAS có một viện Bảo tàng (Museum of Naval Aviation) gồm có 150 phi cơ ở bên trong 1 building, để cho dân chúng xem Free. Sau khi vào cổng, chúng ta có thể chạy một vòng để nhìn lại mái trường, barracks, hangars, mess hall… trước khi đến viện Bảo tàng.
Sau mấy tuần lễ được đi du ngoạn đó đây thăm danh lam thắng cảnh Mỹ, ông cán bộ hướng dẫn đoàn cho sinh viên sĩ quan Không-quân đi hầu hết các nơi phụ cận vùng Washington DC và New York. Nhóm sinh viên sĩ-quan quay về căn cứ Hải-quân Pensacola và nhập trại. Trường vừa mở cửa sau kỳ Long Holiday (nhân dịp Xmas và New Year…). Thanh đã có bồ ở quê nhà, cô nàng nghe chuyện “lôm côm” do Thanh kể trong thư, nàng vui thích làm bài thơ tặng người yêu và nhóm sinh viên sĩ quan Không-quân Việt Nam Cộng Hoà lữ thứ:
Mây lướt nhẹ xuân mơ trỗi dậy
Nhạc giao hòa theo gió đẩy ngàn tơ
Đông tàn. Xuân nẩy lộc hoa mơ
Hiên nắng nhạt bướm lượn lờ hớn hở
Em đứng đợi anh về luyến nhớ
Xuân ngừng trôi yến liệng tơ vương
Lưu vong tình chinh khách thương dặm trường
Chao cánh én chập chờn trên khóm trúc
Mai trổ nụ đơm bông vườn hạnh phúc
Xuân xưa pháo Tết bên thềm rực rỡ xôn xao
Tẩy trần chén rượu em trao
Xuân nay đất khách lệ trào. (Ngất ngây
tình quê). Niềm nhớ vơi đầy… (THH)
Hành và các bạn hưởng cái Tết Nguyên Đán cổ truyền đầu tiên (không có bao lì xì đỏ, chẳng có bánh chưng bánh tét, dưa hành, mứt pháo, hoa mai đua sắc vàng nở rộ trong thành phố, và nhà nào nhà nấy bày mâm tiệc cúng ông Táo về Trời, để tâu với Ngọc Hoàng công việc làm ăn dưới thế trần tưng bừng náo nhiệt của người Châu Á). Kiếp tha hương nơi xứ Hoa Kỳ với một đêm giao thừa cô tịch, một Tết Nguyên Đán buồn hiu, lạc lõng trên đất khách quê người. Chính lúc đó từ nơi sâu thẳm trong tiềm thức: mình mới cảm thấy vô vàn nhớ quê hương, nhớ nhà, nhớ bạn hữu thân quen và tình yêu quê hương đậm đà thâm thúy xiết bao!
*

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
07-11-2015, 07:41 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 8
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/b. llinh tructhg_1436598426.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Vien Du - Mai Huong_1436600330.mp3
Những Đợt Huấn Luyện
(Thú Vị & Mới Lạ Đối Với Tôi)
Tình Hoài Hương
***

Buổi sáng tinh mơ trong quân trường có chút xíu lành lạnh, khiến Hành nhớ về Đà Lạt vào buổi ban mai giá rét len lõi vào chân tơ kẽ tóc, làm hơi tê tê đầu môi Hành, gây chút run run nhè nhẹ trong thân thể, vài giọt sương mai mòng mọng, ứ đọng rung rinh trên những tơ nhện mong manh lắc lư, đung đưa giăng mắc khắp lối đi, khiến xứ hoa Anh Đào càng thơ mộng. Nay đứng lẻ loi, chơ vơ một mình trên khoảnh vắng chênh vênh, Hành đưa mắt nhìn bao quát chung quanh, mà cảm thấy buồn buồn, thương thương, lẫn ngậm ngùi rộn ràng nhớ nhớ quê hương xa mờ xa khi chút sương sớm còn phủ kín ngọn đồi.
Hôm nay là ngày chủ nhật, cũng là trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của đám sinh viên Việt Nam, mấy “tiền bối” đi qua Mỹ trước Hành, họ vui vẻ hướng dẫn tân sinh viên ra phố “share” ăn cơm Tàu. Đặc biệt được ăn cơm trắng, canh chua cá bông lau, dưa cải kẹp thịt ba chỉ luộc chắm nước mắm ớt tỏi, món ăn bình dân nhưng có đặc thù của người Á Đông, do các anh ấy gọi. Đó cũng là một kỷ niệm đẹp dịu êm khi sống nơi đất khách quê người. Họ thân thiết nói với lớp đàn em “hậu sinh chúng ta”:
- Tụi mình vui vẻ nói chuyện bằng tiếng Việt ở đây, nghe thoải mái quá chừng, thiệt đã con ráy ghê.
Họ cùng nhau ung dung đi rông chơi thoải mái đủ mọi nơi. Đến tối mịt mới lò mò lục tục kéo nhau lê bước rã rời trở về trường.
Đợt 1.-
Sáng Thứ Hai, tất cả sinh viên sĩ-quan Không-quân được lệnh đến phòng Lab, trật tự xếp hàng thi sắp lớp. Hành đậu vào lớp 2100 – Đây là lớp cao của Trường. Những tên nào yếu kém Anh-văn, chỉ vào lớp 1100 – 1300 – 1500 – 2000. Học hết khoá học sinh ngữ là lớp 2500. Thời gian học ở đây rất thảnh thơi, an nhàn, sung sướng lắm. Hành chỉ học toàn Anh-văn buổi sáng sớm mỗi ngày. Sau đó anh đi học thể dục. Rồi đến học lớp học lý thuyết, luyện giọng. Buổi chiều Hành học trong phòng Lab – nghe và viết bài. Ngoài giờ học, thì sinh viên sĩ quan Không-quân chỉ có việc xếp hàng đi ăn trưa, ăn tối, nghỉ, giải trí, ngủ.
Sinh-viên sĩ-quan có cái Mess Hall riêng, dành cho sinh viên sĩ-quan các nước ngoài. Lúc đó có chừng vài chục người sinh viên các nước ngoài đến Mỹ để học. - Hạ-sĩ-quan ăn uống theo Hạ-sĩ-quan – Hạ-sĩ-quan chỉ giao du với Hạ-sĩ-quan– Hạ-sĩ-quan có cái N.C.O cho riêng của Hạ Sĩ Quan. Binh sĩ ăn theo Binh-sĩ. Binh sĩ có chỗ riêng! Chả ai được vào Câu Lạc Bộ (O - Club) cả. Nước Mỹ có cái điều “tự do ung dung… kỳ thị” đặc biệt đến thế là cùng!
- Từ đầu tháng 10, Hành học ở đó. Đến cuối tháng 11, tốt nghiệp xong, là anh “ngồi chơi xơi nước”. Đến giữa tháng 12, sinh viên mới có lệnh lên xe bus qua Pensacola NAS (Naval Air Station). Hỡi ơi! Khi qua đến nơi, lúc vào quân trường NAS, thì mọi sinh viên sĩ quan Không-quân mới té ngửa ra, vì chả thấy có “con ma” nào ở đó cả! Thì ra, hệ thống “tinh vi chu đáo tỉ mỉ” của Hoa Kỳ... đôi khi cũng bị xáo trộn, lãng quên, lầm lẫn, khủng hoảng đôi chút, à há! Nghĩa là sinh viên sĩ quan Không-quân đến đó quá sớm. Chưa có khóa học. Chưa có chỗ ở, nên tạm thời mấy tay Hạ-sĩ-quan Thủy-quân Lục-chiến (US Marine Corps) ở trong trường nầy phải chở mọi người đến Barrack đang bỏ trống, cho họ ở tạm. Vui thôi!
Ngày hôm sau, cũng là tay Hạ-sĩ-quan đó dẫn sinh viên sĩ-quan vào P.X, cho sinh viên tự do đi mua sắm đủ thứ đồ dùng cần thiết, lặt vặt, ngay cả cây kim sợi chỉ cũng phải mua để… “luyện tập học với hành”. John lại dẫn đoàn sinh viên sĩ-quan vào Barber Shop, Hành và các bạn cắt tóc ngắn lên còn 2cm, như là “regulation”. Cái đầu “nam nhi hảo hớn” coi y như mấy “cha nội” từ đời Mãn Thanh, tròn vo như quả bóng, mình lấy tay xoa xoa, rờ rờ lên đầu, rồi tinh nghịch xoa lên đầu nhau thì nham nhám, nhột nhột, hay hay, coi ngộ nghĩnh ghê. Bạn bè hớn hở quay về Barrack, họ lại nằm dài ra ở đó “ăn chơi” ngủ, nghỉ, trò chuyện đã đời… phát chán.
- Tuần sau, có lệnh trên chuyển xuống dưới là chuẩn bị đi “Trip” lên Washington DC. New York. Ôi! Sướng ơi là sướng nha! Thế là mười anh sinh viên sĩ quan Không-quân Việt Nam, và bốn mươi anh sinh viên sĩ quan các nước khác như: Ethiopa. Iran. Venezula. Peru, vân vân... cùng kéo nhau đi thưởng ngoạn. Tóm lại cả đoàn năm mươi sinh-viên sĩ-quan Không-quân, cộng thêm cả sĩ-quan (các nước khác gởi sĩ-quan qua Mỹ học với US Navy). Cùng đi có hai người Mỹ hướng dẫn “phái đoàn sinh viên du học” đi tham quan Washington DC và New York.
Đến Washington DC, đoàn sinh viên sĩ quan được vào ở Hotel Willard sang trọng quá chừng! Họ hướng dẫn cả nhóm sinh viên đi ăn sáng xong. Mọi người đi tà tà, ung dung, hí hửng du ngoạn khắp nơi. Ô! Khi Hành cười hay thở ra, hơi thở của mình quyện lại, tạo thành một vệt khói lam mỏng dài bay bay. Ngộ ghê! Từ Toà Bạch Ốc, nhóm bạn vào ngồi nghe các ông dân biểu tíu tít trổ tài hùng biện, họ tranh luận ở The Capitol. Hành nghe họ thao thao bất tuyệt, mà y như cứ nghe gió lao xao lùa qua song cửa, giống như vịt đực ngẩn ngơ nghe sấm. Sau đó cả đoàn đi thăm các nơi đặc biệt và quan trọng: thư-viện Quốc-gia (Library of Congress). Đến Maryland thăm trường đại học Hải-quân Mỹ Annapolis (Annapolic Naval Academy).
Trong kỳ nghỉ dài hạn ấy, phái đoàn sinh viên sĩ quan Không-quân cũng không quên đi thưởng lãm tại các viện bảo-tàng quốc-gia, nơi trưng bày phi thuyền, phi cơ, hàng-không Hải-quân National Museum of Naval Aviation. Không đoàn VI Phi huấn: Phi đoàn VT-4 Warbucks. Phi đoàn VT-10 Wildcats. Phi đoàn VT-86 Sabrehawks. Phi đoàn phi diễn nổi tiếng của Hải Quân Hoa Kỳ: “Blue Angels” (Thiên Sứ Xanh) với phi công ưu tú có những đường bay tuyệt vời, vô cùng ngoạn mục, hấp dẫn.
Biệt đội Trực thăng Tìm Cứu NAS Pensacola Search and Rescue Detachment. Trường sĩ quan phi hành Naval Aviation Officers School. Nơi đào tạo bác sĩ phi hành Hải quân Navy là trường Y-khoa phi hành School of Aviation Medicine. Trường Địa huấn School of Preflight. Trung tâm huấn luyện kỹ thuật Naval Air Technical Training Center nằm ở Chevalier Hall. Pháo đài cổ Fort Barrancas. Di tích Barrancas thời nội chiến Civil War National Cemetery. Ở Chevalier Hall là trung tâm Huấn luyện Kỹ thuật Naval Air Technical Training Center. Địa danh lịch sử là ngọn hải đăng Pensacola Lighthouse. Tới Lực lượng Duyên phòng Coast Guard Hoa kỳ. Hải quân Hoa kỳ không có huấn luyện phi công cho tất cả quân chủng, mà trường chỉ đào tạo phi công cho Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Tuần duyên Hoa kỳ (US Coast Guard). Còn mỗi quân chủng đểu có trường đào tạo phi công riêng cho mình.
Trường phi hành Hải Quân Hoa Kỳ Pensacola “Annapolis of the Air” (Võ bị Hải Quân của Không gian). Tới đây… bỗng dưng Hành bị đau bụng dữ dội. Chẳng biết ngày hôm qua ăn phải “cái giống hot dog chó má” gì! Mà ra nông nỗi phải rên sết quằn quại thế nầy. Ai biểu, có đi té re mới tởn, vì mình ở Việt Nam mới chân ướt chân ráo đi qua xứ USA (nơi "chuyên trị thịt thà dầu mỡ"), hầu như bạn và mình cũng chưa "đã thèm" khi xực “hót đót”, nên Hành tham ăn, cố tộng thứ béo bở cho nhiều vô, bây chừ mình không ị té re, cũng uổng! {Khi anh mới vừa ngồi xuống toilet trong Airport, bất chợt toilet kế bên có tiếng người hỏi:
- Khỏe không anh?
Hơi ngại ngại kỳ kỳ, nhưng anh cũng dè dặt trả lời:
- Dạ, cũng khỏe.
Kế bên:
- Sao rồi?
- Dạ mới ngồi xuống, nên chưa biết.
Kế bên:
- Xong tui qua bên đó, được không?
- Không, đang bận!
Kế bên:
- Khoan... chờ chút, tui gọi lại nghe! Có thằng khùng nào kế bên, cứ trả lời tui hoài. (* sưu tầm)
Tóm lại, cả đoàn sinh viên sĩ quan Không-quân đi tham quan hầu hết các nơi lừng danh trên xứ giàu sang, hào nhoáng, xinh đẹp và lộng lẫy; để tìm hiểu về lịch sử thành lập nước Mỹ từ thời sơ khai, lập quốc. Đến những cơ sở lừng danh như Viện Bảo-Tàng Không-Gian. Thăm những trường huấn luyện căn bản những phi-hành-gia. Vân vân…
* * *
Đợt 2.-
Sinh viên phải bò dậy từ hơn 4 giờ sáng do tiếng chuông reo, trên loa inh ỏi ầm ỉ: “Reveille! Reveille! Reveille! All hands hit the deck”. Không kịp đánh răng, rửa mặt... Hành phải theo lịch trình mỗi buổi là sinh viên sĩ-quan phải co giò chạy theo huấn luyện viên US Marine Sergeants. Các bạn cúi đầu hì hục chạy bộ mấy dặm đường đèo, lượn quanh co qua những ngọn đồi đầy nước và trơn ướt như da lươn. Khi thì leo lên con dốc cao, con đường ngoằn ngoèo uốn mình quanh co, chập chùng trong những rặng thông. Rồi sinh viên sĩ quan lại chạy xuống dốc đèo lài lài thoai thoải ở phía bên kia sườn núi. Sau đó Hành cùng bạn mệt mỏi trở về phòng.
Đúng 7:00AM là giờ thanh tra, sinh viên sĩ quan Không-quân chạy ra xếp hàng ngoài sân, quần áo gọn gàng thẳng nếp, cà vạt gài tie pins, đôi giày bóng loáng, con ruồi đậu lên còn bị trượt chân té lăn cù. Sĩ quan huấn luyện viên và sinh viên cán bộ khóa-sinh đến trước mặt tân sinh viên sĩ quan Không-quân ngắm nghía quân phong, quân phục, quân kỷ; đồng thời sĩ quan huấn luyện hỏi những câu đã học về lịch sử, quân đội, thời sự, cách sử dụng vũ khí cá nhân, học chào kiếm để làm lễ ra trường. Vân vân…
Hôm nào trong lòng vui vui, có ông sĩ quan huấn luyện khen thưởng sinh viên sĩ-quan Không-quân, được gọi là “outstanding”. Còn như ngày xui tháng hạn nào đó buồn buồn, thì "mấy ông trời con" sĩ quan huấn luyện viên phải gió mắc kinh phong đổ quạu, là chết hết cả đám sinh viên sĩ quan. Tụi nầy đành “chạy bộ mệt nghỉ”! Kỷ luật tại trung tâm huấn luyện Không-quân rất gắt gao, vì nơi này đảm nhận huấn luyện chung cho cả Sĩ-quan Hải Quân và Lục Quân (Marine Corps). Hình phạt thông dụng vẫn là “chạy bộ hộc xì bơ”, mà các khóa sinh vẫn gọi là: “Military drill” hay huấn nhục. Tại đây, sau hơn ba tháng vã mồ hôi hột, Hành cảm thấy con người mình cứng cáp, thể chất khoẻ mạnh hơn, đồng thời tự tin, kiến thức của mình cũng được nâng lên cao, học hỏi mở mang thêm,
hữu ích rất nhiều.
Đợt 3.-
Thế rồi, các khoá sinh tuần tự leo lên chiếc xe bus, đến trường phi hành; cách đó hơn năm mươi (50) dặm. Tại cổng trường, có tên gọi Sauffley Field NAAS (Naval Air Auxilliary Station). Anh nhìn thấy tấm bảng rất to ghi sau: “IT IS BETTER TO FLY THAN TO DRIVE”. Mà đúng thật! Theo thống kê hằng năm, thì tỷ lệ số người tử nạn phi cơ, so với số người tử nạn xe hơi là: 1/1.000- đó à. Đây là nơi huấn luyện căn bản, một căn cứ Không-quân vĩ đại đồ sộ. Cũng là nơi đào tạo sĩ-quan phi hành cho cả ba binh chủng: Hải, Lục, Không Quân: tuyệt vời.
Trong đợt nầy, mười khoá sinh Không-quân Việt Nam không được ở chung phòng với nhau nữa. Họ bị tách rời ra từng người một. Xen vào đó là các khoá sinh Mỹ, Mễ... Đây cũng là phương cách rất tốt, hữu hiệu, để sinh viên chúng ta trau dồi Anh-ngữ. Vì lẽ, khi khoá sinh Việt Nam, hoặc sinh viên nước ngoài khác ở chung phòng. Theo thói quen, họ sẽ hăng say đối thoại vui vẻ bằng ngôn ngữ riêng từng quốc gia của mình. Nay, khi phải thường xuyên ở chung phòng với người Mỹ, họ bắt buộc phải dùng Anh-ngữ để chuyện trò, hoặc làm công việc hay học hỏi thêm. Như thế, vốn liếng sinh ngữ của mình sẽ gia tăng nhanh chóng và tiến bộ gấp bội.
Có một chuyện ngộ nghĩnh, buồn cười, đã xảy ra trong nhóm của Hành (mỗi nhóm là mười người khoá sinh, kèm theo huấn luyện viên). Tổng cộng toàn khoá học bay có tất cả năm trăm (500) khoá sinh, mà chỉ có nhóm Việt Nam là mang “sắc thái đặc biệt” nhất: Nguyên nhân đó là có một nữ khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân. Từ xưa, trong lịch sử Hải-quân hay Không Quân của Hoa Kỳ, chưa hề có vụ này. Số là như thế nầy: có một cô bé xinh xinh đẹp đẹp, mái tóc dài vàng óng ả, mắt xanh lơ, miệng cười tươi thắm, "yểu điệu thục nữ quân tử hảo cầu” 100% kia, cô ta lại mang cái tên rất ư là con trai. Nên máy điện toán IBM tưởng lầm là "nam nhi", đã tuyển mộ lầm cô. Í da dà... Thế là ban tuyển mộ họ gởi giấy báo cho cô biết:
- “You” đã trúng tuyển vào trường đào tạo sĩ-quan phi-hành Hải-Quân. Yêu cầu you đến trình diện.
Khi cô nàng lù lù đến trình diện, thì phòng sĩ-quan tuyển mộ mới tá hỏa tam tinh, họ gần như chết đứng! Bật ngửa ra họ mới biết người trúng tuyển là phụ nữ. Làm sao bây giờ? Trả cô về ư? Nhất định cô ta không chịu. Cô ta lại đòi kiện lên đại biểu quốc hội tại nơi cô ta đang cư ngụ. Cả trường bay nhốn nháo, bàn tán xôn xao về việc: Có nên thu nhận cô ta vô học, hay từ chối!? Thế là họ phải hội họp Tổng Tham Mưu, gồm: Bộ Tư Pháp, Bộ Quốc Phòng, Bộ Hải Quân, Bộ Tham Mưu Liên Quân, Chỉ Huy Trưởng căn cứ. Kết quả… “bất đắc dĩ” là: họ đành để cô ta theo học khoá nầy, ngỏ hầu tránh lôi thôi, phiền phức về sau.
Sáng Thứ Hai khi khai giảng khóa học, sau bài diễn văn chào đón của Đại Tá Chỉ Huy Trưởng, cô ta tươi tắn cười vui, ỏn ẻn, duyên dáng đi diễn hành theo sau đoàn khóa sinh Việt Nam. Do vậy nhóm sinh viên của Hành được chú ý nhất trường, là vì sự độc đáo tuyệt vời như thế đó. Đây là trường hợp bất khả kháng chẳng đặng đừng; kể từ thời “tạo thiên lập địa” của ngành Không-Quân và Hải-Quân. Cho đến giờ phút nầy chưa từng có chuyện “kinh thiên động địa” như vậy! Chính vì lý do đó, mà sau nầy mới có chuyện đào tạo nữ phi công chăng?
Đôi khi nhàn hạ, các bạn sinh viên sĩ quan xúm lại đọc một bản tin vui vui trong tuần: Ngày hai buổi, tùy theo thời tiết, nếu buổi sáng học lý thuyết, trên gác hangar rộng rãi (nơi cất giữ phi cơ), thì buổi chiều đi thực tập bay, và ngược lại. Thời gian học rất vui và náo nhiệt hẳn lên. Vì có cô gái Mỹ dí dỏm kia cũng xinh xắn vui tính, dạn dĩ, hồn nhiên, sinh động, hoạt bát, cô không khác gì một đứa con trai. Cô gái nổi bật trong đám đông, nhờ mái tóc dài vàng óng ả. Trong khi mái tóc của tụi nầy lại ngắn cũn cỡn, sát tới da đầu và nham nhám... coi thiệt ngô nghê!
*

Tình Hoài Hương

Tinh Hoai Huong
09-23-2015, 01:58 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 9
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/b. pilot 7 - T34_1442971236.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/Vo Cau Muon Dam_ HopCa_1442971576.mp3
Cứ Tưởng Ta Là… SỐ 1
Tình Hoài Hương
***

Đợt 4.- Năm 1965… Vào lúc 4:00 sáng, Hành thức dậy theo tiếng kèn, (do máy phát nhạc gắn trên mỗi dãy phòng ngủ), ba chân bốn cẳng anh cùng các bạn lật đật chạy đi làm vệ sinh cá nhân thật nhanh.
Đúng 4:15’ sinh viên sĩ-quan Không-quân tập trung thành từng Trung-đội để điểm danh. Mỗi sáng Hành phải chạy lên thao trường cách xa 1 mile. Sau đó anh trèo lên một cái đồi thấp. Có những đường chạy vòng trôn ốc xoay quanh ngọn đồi. Từ dưới chân đồi chạy hộc xì bơ lên đỉnh đồi cao gần như dựng đứng, trên con đường có cỡ chừng mấy chục cái cọc, mỗi cọc cách xa nhau khoảng 100 yards. Khi Hành vừa thở vừa cố chạy chậm lên đến đỉnh đồi xong. Các khóa sinh đứng thở dốc độ mươi giây, lại lo co giò chạy vòng trở xuống theo sau lưng thầy. Các bạn và anh cứ chạy lên chạy xuống trên ngọn đồi nầy ròng rã như thế cả giờ. Lúc nào gần hết giờ, thầy trò cùng nhau chạy xuống con đường dốc lài lài cũ, chạy về lại thao trường lần chót, thì tan hàng. Công nhận ông thầy bền sức, dẽo dai, “ngài” khỏe thật. Bái phục!
Vài lần Hành bị cảm, do khá mệt trong người, nên phải "ma lanh" xí, anh chạy khật khưỡng lúp xúp sau lưng bạn. Ông thầy lúc nào cũng chạy đầu tiên, (làm gương mẫu mà) thầy chạy trước khoá sinh. Biết thầy không để ý, và ít khi ngoái cổ nhìn lui sau, Hành liền "lủi" vào núp trong mấy lùm cây rậm quanh con đường vòng dốc cao. Hành chờ khi ông thầy chạy trở xuống con đường trôn ốc cũ, trời còn mờ mờ chưa sáng, thầy chạy qua mặt mình một đoạn ngắn, thì Hành lò mò chui ra, chen vô giữa với các bạn “siêng năng hăng hái” khác, để chạy tiếp. Mỗi lần như thế, có vài ba bạn chạy ở khúc gần cuối, nhìn thấy Hành, bạn phì cười giơ ngón tay lên hăm doạ.
Nhưng Hành để ý quan sát, thì hầu như không có ai muốn bắt chước cái tật xấu và lười biếng của mình, thì tự Hành cảm thấy hổ thẹn, mà chừa bỏ thói hư. Duy có một lần bạn Minh cũng bắt chước làm giống như Hành cho bớt mệt tí chút, vì gót chân bạn bị sưng to và thốn. Chứ Minh nào dám ngồi lâu (vô nghỉ ít phút). Nếu thầy phát hiện ra, là chết đa. Vừa chạy Minh vừa ngao ngán lẩm cẩm “dệt mộng” cho đỡ đau khổ vì Đời và Thơ:
Thơ đẹp không như đời.
Chạy lòng vòng hụt hơi.
Run mòn đôi chân rồi.
Có hay nào cảnh trời.
Giọt mưa thà cứ rơi.
Đắng cay trong lòng rửa.
Thanh thản dưới giòng mưa.
Lòng anh em hiểu chưa?
Không-quân yêu hoài, nữa.
Tình êm đẹp dù chưa
một lần ta thất hứa.
Tim mình trao thật vừa. (*)
Trở về, Hành lo lau chùi dọn dẹp phòng ốc sạch sẽ. Giường ngủ trải tấm drap thẳng băng như mặt phẳng. Inspection - Khi sĩ quan cán bộ đến kiểm soát, họ thả cây thước xuống nệm, cây thước phải nhảy dựng đứng “tưng tưng” lên, như cái lò xo, mới thành công. Họ đeo găng tay trắng quệt lên: Khám tủ locker. Sàn nhà đánh xi láng bóng, soi mặt thấy mờ mờ. Bàn ghế sách vở ngăn nắp. Dưới gầm giường không có bụi, vân vân... Hôm nào mà họ cho là outstanding, là mình được khen thưởng.
Còn nếu chỗ nào sĩ quan cảm thấy dơ, là cả phòng bị phạt đi bộ, chạy bộ; gọi là military drill. Thay vì giờ tự do, ai làm gì thì làm, mình phải thay quân phục dã chiến, lên phòng tiếp liệu lãnh súng. Làm ơn đi, các ông tự giác nhe, “ta tự mình” đưa cả phòng ra sân thi hành lệnh! Mấy bạn không phạm lỗi gì, vô duyên vô cớ bất đắc dĩ cũng bị “móc gộp chung vô cả đám dính chùm như chùm nho”, lãnh sẹo đủ! Thiệt tức như bò đá, nhưng họ chẳng dám xổ tiếng “Đan Mạch, hoặc tung võ mồm giọng của người “Đi Miên”. Ôi, từ Việt Nam qua Mỹ rồi, khi nhắc lại chuyện bị phạt, có thể nặng nề hơn, hoặc na ná giống như hồi sinh viên sĩ quan ở quân trường Không-quân Nha Trang, là mình vẫn cảm thấy ngây ngây sốt, ớn lạnh xương sống đây!
Đợt 5.- 6:30’ AM - Đi ăn sáng, sinh viên sĩ quan hàng lối chỉnh tề, đi chặt góc vuông. Ngồi thẳng lưng, nâng thức ăn lên ngang miệng, rồi mới cho vô miệng. Khi nhai thức ăn, không ăn ngồm ngoàm, không hả to miệng để khoe thiên hạ mình có mấy cái răng "dàng". Điều ăn uống nầy, thì ở đâu cũng phải "tao nhã thanh lịch" như thế, chả phải nói!
Sau giờ điểm tâm, sinh viên sĩ quan chuẩn bị đi học từ 8:00AM đến 12:01PM trong ngày:
1.- Học văn hoá & chuyên môn. (Đám Việt Nam chúng ta học thêm mấy giờ Anh-văn).
2.- Không hành.
3.- Khí tượng.
4.- Nghệ thụât chỉ huy.
5.- Học cách đi đứng (học cơ bản thao diễn).
6.- Học “đoạn đường chiến binh” (Obstacle Course – O Course).
Trình tự học ghi như sau:
- Chương trình văn hóa (Academics); áp dụng cho ngành hàng không, dùng thước slide rule để tính.
- Study Skills dạy cách học bài, trong đó có Speed Reading Skills (Speedy Skills).
- Leadership là nghệ thuật lãnh đạo.
- Kỹ năng đọc nhanh và Communication Skills kỹ năng thông đạt.
- Môn Naval Orientation dạy về lịch sử, cách tổ chức Hải quân Hoa kỳ.
- Môn Chính-trị FNP (Foundation of the National Power) dạy lịch sử thế giới.
Những tổ chức quốc tế, như: UNO, NATO, WAPA, ngoại giao, hiệp ước, công ước cận đại.
- Navigation (không hành) trong đó có Celestial Navigation nhắm hướng ban đêm bằng vị trí các sao trên trời, cách sử dụng các phi cụ.
Tất cả đều có phim ảnh, trợ huấn cụ cho từng ngành, từng môn một.
Đợt 6.- Buổi chiều học chuyên môn. Có nhiều môn-học chuyên ngành như:
- Aerodynamics là khí động học áp dụng cho phi cơ và bom đạn sử dụng.
- Leadership là nghệ thuật lãnh đạo.
- Engineering trong đó có môn Động-cơ-nổ và Động-cơ phản-lực.
- Aviation Science dạy điều khiển các bộ phận của phi cơ.
- Phương sách bảo trì phi cơ.
- Luật lệ lưu thông hàng không.
- Học phương thức liên lạc vô tuyến. Code Morse và Recognition; nhận dạng các phi cơ đồng minh và phi cơ địch.
- Weather and Meteorology. Thời tiết và Khí tượng.
- Chương trình Thể Lực và Mưu sinh Thoát hiểm (Physical Fitness-Survival) phát triển sự kết hợp sức mạnh vào kỹ năng chuyên môn.
- Tập dượt các môn võ đô vật truyền thống (collegiate wrestling), quyền Anh có đội nón độn nệm (smokers boxing).
- Bơi lội thì phải bơi suốt 2,000m (40 vòng tới lui) có bận đồ bay.
- Chương trình Huấn luyện Quân sự (Military Training) rèn luyện khóa sinh việc hành chánh, quân phong quân kỷ, và khả năng tác chiến.
- Học cách sử dụng vũ khí cá nhân. Chào kiếm chuẩn bị lúc làm lễ ra trường. & Vân vân...
Đợt 7.- Navigation (không hành) trong đó có Celestial Navigation nhắm hướng ban đêm, bằng vị trí các sao trên trời, cách sử dụng các phi cụ.
- Aerodynamics là khí động học, áp dụng cho phi cơ và bom đạn sử dụng.
- Khóa sinh Kỹ thuật không phi hành (aviation ground officers).
- Điều hành viên. Cơ khí Phi hành (air crewmen) chẳng đi đâu xa mà đã có trường Naval Aviation Officers School ngay tại căn cứ Pensacola.
- Căn cứ phụ Naval Air Auxiliary Station Ellyson Field là trường Phi hành Trực thăng Helicopter Training Squadron EIGHT HT-8, cách căn cứ Pensacola 16mi về hướng Đông-Bắc.
- Căn cứ phụ NAAS Saufley Field là Trường bay Vỡ lòng VT-1 (Primary Flight Training) ở cách 10 mi về hướng Bắc của Mainside (nickname của căn cứ chánh NAS Pensacola). & Vân vân...
* * *
* Về những huy hiệu hay cánh bay, Hành thấy sĩ quan Không-quân được may trên các bộ quân phục của KQVNCH (hồi xưa còn nhỏ xíu, anh nhìn thấy họ mặc áo bay, mà mê tít thò lò là vậy). Các niên trưởng & anh Trần Văn Lương đã bổ túc những phần hữu ích, hiểu biết thêm, để nhờ thợ may cho đúng nơi, đúng chỗ vài chi tiết:
- Vai trái: huy hiệu Sư Đoàn.
- Vai phải: huy hiệu Không Đoàn.
- Ngực trái: huy hiệu Không Quân.
- Ngực phải: huy hiệu Phi đoàn.
- Huy chương cá nhân đeo bên trái.
- Trên huy hiệu của phi đoàn là cánh bay.
- Cánh bay đeo bên phải, nằm trên bảng tên (trên huy chương của đơn vị mình đang phục vụ).
- Khi mặc áo trận (áo bay) không bao giờ đeo huy chương cuống (tức là một phần nhỏ của cái huy chương) ngoại trừ được gắn huy chương trên mặt trận. Mà là: Mặc quân phục Đại lễ hay Tiểu lễ, thì mới đeo đủ thứ (như đã trình bày trên).
- Bên Hải-quân Mỹ thì chọn cánh bay màu vàng.
- Bên Không-quân Mỹ và Bộ-binh thì chọn cánh bay màu bạc.
- Phù hiệu Sư Đoàn (I, II ...), Căn Cứ (12...) mang bên vai trái.
Tóm lại: “Tổ Quốc Không Gian” mang bên ngực trái, bên trên là cánh bay.
Phù hiệu Phi Đoàn mang bên ngực phải, bên trên là bảng tên.
Phù hiệu của các loại phi cơ đang bay mang bên vai phải. Lon mang trên hai vai.
- Cánh bay mang bên ngực phải, trên hàng huy chương (mang trên quân phục kaki, hay đại lễ).
HSQ cao cấp (Th/S+Th/S I) & Ch/U ; cũng như SQKQVN chưa bao giờ đeo lon, do tiếng Tây "galons", (chớ không phải là gallons) trên ve cổ áo (revers). Áo trận thì mang phù hiệu, cấp bậc đính trên một miếng nền đen độ chừng 4cm, hoặc 5cm vuông, may vào mép của vạt áo, ngang miệng trên hai túi áo. Mấy ông HSQ + BS nếu hà tiện, thì xài miếng kẹp bằng kim loại. Áo bay đương nhiên giống như áo trận, nhưng cũng có thể làm hai miếng trên hai vai. Mặc áo kaki vàng nếu không thắt cà vạt, thì mang cầu vai ống, mà tiếng Pháp gọi là Fourreaux. Mỹ bây giờ đã xài, gọi là Soft shoulder boards, Slide shoulder boards. Áo kaki vàng có thắt cà vạt, thì có thể mang cầu vai ống, hoặc cầu vai đại lễ. Cầu vai đại lễ có sườn cứng, mà tiếng Pháp gọi là Épaulettes. Mỹ gọi là Hard shoulder boards.
- Danh từ NAVY có nghĩa là Hải-quân. Viết hoa như thế, hoặc viết Navy như thế nầy cũng đồng nghĩa. Nếu thêm US NAVY có nghiã là Hải-quân Hoa-Kỳ. Còn Tỉnh-từ của chữ Navy là NAVAL. Ví dụ như NAVAL AVIATOR là Phi-công Hải-quân. Chứ bên NAVY họ không gọi là Pilot. Vì họ cho rằng: Pilot của bên Air Force thì rất lè phè. (Ui cha ơi! Kiêu kỳ! Láu cá. Dễ sợ ha! Cứ tưởng chỉ có... ta đây là số 1). Mặc dù họ rất kính phục quý trọng các binh chủng khác, tuy họ khá thừa biết:
- Bộ-Binh có những Sư-đoàn thiện chiến, nổi tiếng từ Đệ nhị Thế Chiến, như Sư-đoàn Bảy 101 lừng lẫy với trận đổ bộ ở Normandy (khi họ giải-phóng nước Pháp). THE FLYING 101st DIVISION.
- Hay là Sư-đoàn “Anh Cả Đỏ” THE BIG RED ONE". Vân vân...
- Ngược lại, họ đã to nhỏ nói như: trong Bộ-binh Hoa Kỳ, thì coi Hải-quân và Không-quân là: “Lính-Kiểng” chuyên bay-bướm lả lướt, phong lưu. Đôi khi họ nói nhỏ xí bên tai Hành: Anh là lính “phong tình” .
- Ngược lại Hải-quân NAVY, {trong đó có Thủy Quân Lục Chiến (Marine Second Lieutenant)} lại láu-cá coi Bộ-binh là: quân-đội "vị-thành-niên”.
- Rồi thì họ coi Air Force là “Lính Tập Bay”. Chứ chả phi-công, phi kiết gì ráo cả!
- Còn mấy ông DELTA FORCE là của Special Force (Lực lượng Đặc Biệt) họ nghĩ đám Trinh-sát Biệt-kích chuyên môn “lủi sâu” vào nội bộ, địa phận kẻ địch, để phá hoại, tuyên truyền, thâu lượm tin tức tình báo. Nhóm này thuộc về Special Force. Trực thuộc US ARMY.
Phải công nhận ở trong Quân-Đội Hoa Kỳ, các Binh-Chủng có riêng truyền thống đặc biệt tuyệt hảo của mình. Nên chả anh nào chịu thua anh nào cả. Điều bạn tôi nói ra đây, là do ý trung dung nhận xét của chính những người lính Mỹ, ở trong quân trường họ đã bô lô ba la nói ra, cho các khóa sinh nghe cho vui đó nha. Họ là dân Mỹ ở một đất nước quá tự do, muốn nói sao thì nói, họ nghĩ gì thì cứ nói toẹt móng heo ra. Chả ai dám tự tiện bắn lính Mỹ “cái đùng” đâu, mà sợ run như cầy sấy hỉ! Tổng Thống có chút sai sót nào, họ cũng lên tiếng "thảo luận & , chỉ trích, xây dựng" nữa là! Hô hô hô! Nước Mỹ hầu như tuyệt đối tôn trọng nhân quyền, bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do cá nhân; rất khác xa với nước Việt Nam.
Vì thế cho nên anh Lính của Binh-Chủng nào cũng tôn sùng, ngưỡng mộ, bái phục, tha thiết mến yêu binh chủng của riêng mình cả, họ coi binh chủng của mình là nhất. Là số 1. Họ có “ráo riết yêu da diết và thích” binh chủng đó kinh khủng, họ mới tình nguyện không điều kiện xung phong vào binh nghiệp ấy, và tự phong cho mình là “Number One” cả! Còn các Binh Chủng khác là xanh xanh, hườm hườm, thường thường. Coi họ quá le lói cao ngạo ta đây ha. Cũng đúng thôi! “ăn cây nào rào cây ấy” mà! Nói chung, có sự suy nghĩ và phát biểu ý kiến rất “hồn nhiên, vô tư lự, tự do cá nhân”, là do họ thích lấy le, làm dóc tổ và vênh váo “cạnh tranh nhộn nhịp” , rất “quậy tưng trời cho vui” mà thôi. Ngoài ra họ không hề có ác ý. Họ ưa “thì thầm” bên tai nhau, trêu chọc, đùa dai vớ vẩn ti tí ở các binh chủng với nhau thôi. Xin nhắc lại là họ ưa chọc ghẹo nhau, cho vui vui khi sống kiếp xa nhà, phong trần gió bụi bềnh bồng trên mây trắng trời xanh, chứ chả phải họ có hiềm khích, bài bác, ác thù gì ai. Vui nhộn thôi mà. Chả ai thèm đấu khẩu “hung ác”, hay muốn “ăn tươi nuốt sống” nhau cả. Ở một xứ sở tột đỉnh văn minh, giàu có ngút ngàn, tiền rừng bạc bể, và rất tự do bình đẵng suy nghĩ, thì "khổ" vậy đó. Người Mỹ cũng có những “kỳ thị rất kiêu kỳ”, lãnh đạm, tự tôn và thoải mái. Ai muốn suy nghĩ gì, thì xin cứ tự do... cá nhân!
Hành chỉ ghi nhận trung thực những gì tai nghe mắt thấy, khi anh lính Mỹ xí xô thoải mái nói cười ha hả. Nhưng riêng anh và nhóm bạn khác ở nước nhược tiểu xa xôi, vân vân…; thì tuyệt nhiên nếu có ai “tra khảo", dần anh cho đến chết, Hành chả dại mở miệng nói bô lô ba la, tô hô trước quần chúng! Có mà điên. Thế nên, tác giả bài viết cũng xin phép góp phần nhấn mạnh về cảm nghĩ riêng là: Cứ khách quan không phân biệt chủng tộc, “kỳ thị, kỳ khôi” gì mà nhận xét: Thì phi công hoặc bất cứ ngành nghề nào: cũng đáng được quý mến, kính phục và trân trọng như nhau. Nếu phi công F 5 ; AD6 ; A37 có bị bắn rơi, thì chỉ có phi công trực thăng rescue lo cho mà thôi. Ngược lại, phi công trực thăng bị rớt, thì sẽ được phi công khu-trục đến thả bom, hầu ngăn chận đối phương, để Bộ-binh hoặc trực thăng cứu vớt.
LÍNH gì, lính ở các binh chủng nào, ở đâu, từ quốc gia nào… cũng có cái: vinh dự, hào hùng, khó khăn, khổ sở, vất vã nhọc nhằn, đặc thù, vinh quang... Họ cùng tự hào hãnh diện khi chiến đấu vì lý tưởng, họ cùng bảo vệ tổ quốc, họ yêu quê hương, gian lao khổ sở, hy sinh dũng cảm: đồng đều như nhau. Vì thế, quý vị dù là phi công Việt Nam; Nhưng khi đi du học, vẫn được xem là NAVAL AVIATOR của NAVY. Cho nên, khi trở lại với USAF, Phi Hành & các anh sinh viên sĩ quan Không-quân vẫn bị “kỳ-thị” như thường. Ở bển, họ coi mình là “đám con nuôi, con ghẻ, tí con cưng” của NAVY vậy. (“Cưng ơi”! thì cũng là “cưng” đấy thôi).
***

Tình HOÀI HƯƠNG

(*) Thơ Vui Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
11-19-2015, 05:32 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/A.LINH 61 airforcebass_1447908499.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/hqpd/Vien Du - Mai Huong_1447907886.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 10
Bơi tại eo biển (Pensacola & Mễ Tây Cơ).
Tình Hoài Hương
***


Em gái thương,
Thỉnh thoảng, lúc nào rảnh rỗi, thanh thản, thì anh ngồi bên bàn viết thư gởi về em và gia đình mình, kể chuyện nầy chuyện nọ. Hoặc anh ghi sơ sơ trong bút ký cá nhân về những sinh hoạt bình nhật, những vui buồn trong đời sống của một chàng lãng tử, thích sống phiêu lãng bồng bềnh trên mây, & ôn luyện những buổi học tập và thực hành tại Pensacola; nơi có căn cứ US Air Station và The Famous “Blue Angel” US Naval Flying Demonstration Team - tương đương với The Thunderbird US Air Force Flying Demonstration Squadron của USAF.
*Anh trích dẫn tí chút từ “Trường Phi-hành Hải-quân Hoa Kỳ Pensacola” của NT ĐHB, cho em dễ hình dung ra rõ ràng nhen. *Phía Nam là phần còn lại của vịnh Pensacola, tiếp giáp thành phố Pensacola Bay trước khi đi vào Big Lagoon. Pensacola có căn cứ US Naval Air Station, một mũi đất (langue de terre), địa thế rộng khoảng 5,804 acres & căn cứ phụ Naval Air Auxiliary Station Ellyson Field, là trường phi hành trực thăng Helicopter Training Squadron EIGHT HT-8, ở cách căn cứ Pensacola 16 mi về hướng Đông-Bắc. - Căn cứ phụ NAAS Saufley Field là trường bay vỡ lòng VT-1 (Primary Flight Training) ở cách 10 mi về hướng Bắc của Mainside (nickname của căn cứ chánh NAS Pensacola). *(Hết trích dẫn).
Em à, suốt năm trời bình an lặng lẽ trôi qua trên xứ lạ quê người, ngày nào cũng như ngày nấy, mỗi khi thức dậy: anh nghe trên loa ra rã gọi sinh viên sĩ quan Không-quân: “All hands fall in for morning spiffy (inspection)”, hoặc có nơi sinh viên sĩ quan Không-quân bỗng choàng thức giấc, do tiếng chuông reo inh ỏi muốn điếc con ráy, và tiếng loa móc trên các phòng nheo nhéo réo to: “Reveille! Reveille! Reveille! All hands hit the deck”.
Thì tất cả sinh viên sĩ quan Không-quân khóa sinh lập tức nhảy phóc xuống giường, làm vệ sinh cá nhân xong, lo thay quân phục. Bề ngoài thì sinh viên “trau chuốt sắm sửa” quần áo, quân phong quân kỷ chỉnh tề, đường ly quần áo thẳng nếp, bâu áo gài collar and tie pins, mang đôi giày bóng loáng, con ruồi đậu lên còn soi rõ bóng, có khi nó bị té trợt lăn cù cù (như dạo đó em sợ hãi nên bị loạng choạng, quờ quạng tập đi "pa te" vậy. Nhớ không em)? Cà vạt phải khép kín cổ thành chữ V cứng và gọn ở yết hầu, ngay ngắn à nhen. Sau đó các anh em khóa sinh trình diện ở phòng trực OOD (Officer of the Day).
Đợt 9.- Sinh viên sĩ quan Không-quân phải học qua những phương pháp cần thiết ở trường bay: Các bạn đều tận tâm tận lực ngày đêm miệt mài vùi đầu tối đa vô những trang sách dày cộm; ngỏ hầu vượt qua mọi trở ngại, gian khổ như thế. Có những điều họ quyết phải thực hiện thành công cho bằng được, dù với bất cứ giá nào. Từ học lý thuyết, đến thực hành, từng đợt, từng đợt… chu đáo ôn luyện những phương pháp căn bản. Thật vô cùng gay go, giống như một người không thích ăn ớt, lại buộc phải tộng vô họng vài trái ớt xiêm trộn lẫn trong chén cơm vậy. Trước khi sinh viên sĩ quan Không-quân được chính thức công nhận đã tốt nghiệp về chương trình huấn luyện phi hành, để trở thành phi công thực thụ, khóa sinh Không-quân phải học ở rất nhiều nơi.
Nếu họ không chịu khó rèn luyện kỹ càng, thì chẳng khác nào ngày họ rời xa quê hương, xa gia đình và các anh, chị, em... rồi qua đây: chỉ là công cốc, công dã tràng xoe cát vừa xong, thì bị sóng biển xô bờ cuốn trôi đi những viên ngọc trong miệng còng. À, ngọc Dã tràng có thể nghe được tiếng nói cuả loài thú vật. Em tin không? Anh kể cho em nghe:
Một lần kia, ông vua nước Lỗ ngồi trên thuyền với Dã Tràng, vua đã mượn viên ngọc để xem, và nghe thử có đúng như lời đồn đãi không. Quả thật vua đã nghe cá tôm nói chuyện linh tinh với nhau, khiến vua vui thích quá, đã há miệng cười ha hả… Thế là viên ngọc rơi tỏm xuống biển. Dã Tràng tiếc viên ngọc quý, nhảy xuống biển mò tìm viên ngọc, chẳng may Dã Tràng bị chết đuối. Trời biết chuyện, đã cho ông hoá kiếp thành con cua nhỏ, đời đời miệt mài xoe cát ven bờ biển.
Hoặc anh hùng hơn, là chuyện vua Lê Lợi “nằm sương gối đất”… Ồ, sao em lại nhăn mặt nhíu mày phụng phịu thế kia? Hẳn là em chưa hiểu ý anh rùi! Thong thả để anh giải thích nào: Nếu anh và bạn chịu thương chịu khó noi gương các vị tiền bối học hành, thì sau nầy anh sẽ “áo gấm về làng” vinh quang và rạng rỡ như vua Lê Lợi đó. Nè em, nghe anh giải thích thành ngữ “nằm sương gối đất” nhen: “nằm sương gối đất” ngụ ý nói về cuộc sống của người truân-chuyên gian-nan, cơ cực nhưng biết ẩn nhẫn. “Nằm sương gối đất” có hai ý: 1.- do nghèo khổ cùng cực. 2.- do nuôi ý chí quật cường, để mưu cầu cho quốc gia đại cuộc.
Ví như: 10 năm ẩn nhẫn vô cùng gian nan khổ sở “nằm sương gối đất” luôn đói khát khổ cực vô cùng, để chống giặc Minh (từ năm Mậu Tuất 1.418 tới năm Mậu Thân 1.428). Thế mà Vua và Lính: họ không hề than van. Đó là Bình Định Vương Lê Lợi và các tướng sĩ: Lê Sát. Lê Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Xí, Trần Nguyên Hãn & quân nhân. Triều đại nầy có: ông Lê Lai mặc hoàng bào giả dạng làm vua, thay thế vua Lê Lợi, ông xông ra thành đi đến quân thù, để liều mình cứu chuá Lê Lợi thoát ra khỏi vòng vây của địch. Có lần thành trì cuả vua Lê Lợi bị vây hãm, buộc lòng Lê Lợi để cho các con cháu bị giặc bắt. Nhưng vua Lê Lợi vẫn kiên cường ở lại trấn giữ biên cương, quyết chí trui rèn ý chí sắt son… ngỏ hầu đánh đuổi giặc Minh ra khỏi quê hương. Sau nầy vua đem an bình thịnh trị về với dân tộc. Nghe xong hai câu chuyện trên, em hiểu ý anh muốn nói gì rồi hen.
Tóm lại, những môn học “khổng lồ, đồ sộ, vĩ đại” ấy, khiến anh cũng như bạn bù đầu bù óc và lạnh người! Nhưng tuyệt nhiên anh không lùi bước, mà quyết chí vượt lên trên tất cả gian lao thử thách và chướng ngại. Em có cảm thấy các anh có khí phách & cừ khôi, tuyệt hảo như thế không hở? Đó, em hãy nghĩ xem: các anh phải đương đầu với một lô một lốc chương trình học về việc huấn luyện phi hành dài ngoẵng, lê thê… Ấy, em có cảm thấy kinh hoàng, run rẩy, sợ hãi không? (mặc dù em chưa từng “thưởng thức những món ăn tao nhã tuyệt vời rất đặc thù” ấy. Phải không nào? Nầy nhé:
Đợt 10.- Học: tập bơi lội hai giờ. Trong nhóm sinh viên sĩ quan người Việt, chỉ có năm người bạn kia (đa số là dân quê ở vùng biển), là có đủ tiêu chuẩn học bơi hai giờ. Còn sáu anh Việt Nam khác phải học bơi bốn giờ. Học đủ các loại: Jungle/ Swamp/ Sea Survival. - Bơi tự do. - Bơi ngửa. - Bơi sấp. - Bơi ếch. Bơi Bướm - Bơi đứng (bơi chỉ bằng hai chân). Vân vân...
Khi sinh viên sĩ quan Không-quân đã thành công trong việc học bơi rồi, họ phải tập bơi ở eo biển Pensacola và Mễ Tây Cơ. Anh em khóa sinh trình diện ở phòng trực OOD (Officer of the Day) tại Bldg 624, khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân mặc quần áo phi công, áo dính liền với quần (poupie suits). Anh ưa ngắm nghiá bộ đồ bay màu xám, màu cam, màu đen, cảm thấy thích thú, (hãnh diện, dĩ nhiên!) vui vẻ; coi mình ngồ ngộ, giống y như thời “baby” bé bõng ưa nhõng nhẽo vòi vĩnh mẹ, anh nghĩ mình lúc nầy còn thiệt ngây thơ, hồn nhiên, ngộ nghĩnh, xinh đẹp, rất dễ thương đang mặc tã. Ha em).
Mỗi toán thực tập ba người, có một chiếc ca nô kèm theo, trên ca nô có hai huấn luyện viên (hạ-sĩ-quan hay binh-sĩ). Trong ca nô có đủ thứ: Cây cọc cán dài độ ba mét, có cái móc thép cong như hình chữ C ở đằng đầu cây cọc. Khi nào khoá sinh mệt quá, huấn luyện viên giơ cây cọc ra, để cho mình bám víu vào, thì họ kéo mình lên ca nô, cho nghỉ mệt xí. Trên canô có tấm mền dày, để khoá sinh quấn lại cho ấm cơ thể. Có chai rượu mạnh (“Martell XO Supreme”), để khoá sinh “hân hạnh” hớp một ngụm cho “tỉnh táo”, (nhớ là “quý ngài khoá sinh” chỉ được phép “tợp” một ngụm nho nhỏ thôi, vì nó khá mắc tiền đó.
Em ơi! Nếu anh là “bợm”, chắc anh sẽ hả họng “nốc” vào một ngụm rượu tương đối hơi to xí, cho khoái khẩu, thì say xỉn, chứ làm sao anh “tỉnh táo” cho nỗi. (Nè em, anh nói nhỏ tí: ở quân trường Mỹ, thì làm gì có “Martell XO Supreme” từ Pháp khá đắt tiền, để cho sinh viên sĩ quan đang rèn luyện ý chí uống ha. Đừng tưởng bở. Anh cố ý loè em, nói dóc, “nổ” một phát từ Long Beach bay về tới Long Xuyên, Long An, Long Hải, Long Bình, Long Giao, Long Đất, Long Đồn... một tí với em cho vui, chẳng sao, không hề gì em ha. Em không nỡ méc "anh Thiệu niên trưởng nầy" với các niên trưởng khác bạn của anh, họ sẽ chọc quê anh, nhen em).
Vài phút sau, tỉnh táo rùi, khoá sinh Không-quân làm ơn nhảy ùm xuống nước. Tiếp tục bơi, bơi, và bơi... Vì có khóa sinh học chung đa số là sĩ quan của Hải-quân, và Marine Corps; cho nên họ bơi lội khá giỏi, coi thật lả lướt, bay bướm nhịp nhàng uốn lượn mê hồn như "thiếu nữ người Cá" ở dưới nước. Sinh viên người Việt thì thể lực có phần nhỏ con, (so với người Mỹ, Mễ, v.v…) nên họ bị cán bộ nhào nắn như ý họ muốn. Nhưng sinh viên sĩ quan Không-quân Việt Nam gan lì và dũng cảm như ai, đã cố gắng tuân giữ theo “kỷ luật nhà binh” gắt gao. Dù mình cảm thấy “bị nhồi, bị vật” mệt muốn lè lưỡi, khá vất vã, mệt kinh khủng. Thấy không em, đa số sinh viên sĩ quan Không-quân đều có khí phách, tao nhã, can trường, kiên định và cương quyết đến thế là cùng. Em phục tụi anh chưa nào!
Khoá sinh đến bãi tắm, lúc ấy đã có hàng ngàn thân nhân của khóa sinh, bạn bè, khách địa phương và thập phương hâm mộ từ các nơi đứng đó chờ đợi để xem. Họ vui vẻ hân hoan, nồng nhiệt, hớn hở hò hét, động viên, cổ vũ. Kèm theo những ban nhạc tự phát đánh những điệu nhạc hùng tráng rộn ràng vui tươi, nghe rất hay. Khiến bầu không khí càng thêm tưng bừng, náo nhiệt, vui vẻ, hỉ hả, náo nhiệt quá chừng!
Sĩ-quan điều khiển chương trình thổi một hồi tu-huýt dài. Cả năm trăm (500) khoá sinh Không-quân đồng loạt nhào đầu xuống nước, bơi lổn ngổn dưới những bông bọt hoa biển trắng xoá. Các khoá sinh như bầy cá màu vàng cam tung tăng bơi lóp ngóp, bơi đủ kiểu, lặn ngụp trong màu biển xanh long lanh bát ngát. Đẹp vô cùng. Đứng trên bờ anh cảm thấy vui mắt, náo nhiệt, sung sướng, rộn ràng, hân hoan, thích thú hết biết.
Theo lời chỉ dẫn rỉ tai của khoá sinh đàn anh (như anh), thì: Khi anh em khoá sinh đã bơi ra hơi xa xa bờ, khuất tầm nhìn của huấn luyện viên đang đứng quan sát ở trên bờ rồi. Thì bạn thò tay vào túi, lấy con dao lam ra, rọc bỏ hết hai tay áo sát tới nách, hai ống quần rạch gần sát háng (vứt ống quần và tay áo, cho nhẹ người, thoải mái, thì mình bơi lanh lẹ dễ dàng, sẽ không bị lúng túng, nặng và vướng vít). Bộ đồ bay chỉ còn khúc thân giữa cũn cỡn, như chiếc áo ba lỗ gắn liền với quần xịp mà thôi. Bi chừ trông mấy anh càng dị hợm, ngố ngáo, họ vừa bơi vừa tha hồ líu lo trêu chọc đùa ghẹo nhau (cũng giống như baby mặc quần áo ngắn lòi tay lòi chân), coi tức cười ngộ nghĩnh lắm.
Trên trời có khoảng chục chiếc trực thăng đang ù ù bay lượn quần thảo dọc theo eo biển. Từ trên không trung, họ có nhiệm vụ quan sát thật chính xác: canh chừng cá mập. Vì thật ra, lâu lâu cũng có vài ba chú cá mập ốm đói ở ngoài khơi xa xa, cá mập vô tình bơi lạc vào vùng nầy tìm thức ăn. Nếu lúc nào các khoá sinh thấy trực thăng bắn lên trời một quả pháo hiệu màu đỏ. Thì ngay lập tức, tất cả mọi sinh viên sĩ quan Không-quân phải leo lên ca nô gần nhất, để bảo đảm an toàn tính mạng mình.
Sau mấy giờ lặn ngụp dưới nước, khoá sinh bơ phờ bơi mệt nhoài, nhưng ai nấy đều cảm thấy vui; là có nhiều xe bus xếp hàng chờ đợi sinh viên sĩ quan, xe sẵn sàng đưa khóa sinh rã rời mỏi mệt, bơ phờ lê bước trở về trường. Xong khóa học thực tập, ngày mãn khóa sinh viên sĩ quan Không-quân thật đông vui, náo nhiệt hết biết, trông cứ như ngày hội lớn. Bao nhiêu xe hơi tư gia và xe bus đậu dài dài trước cổng trường. Tất cả khoá sinh leo lên xe trong bộ áo bay màu da cam rực rỡ. Coi rất đẹp mắt, lé mắt... Mọi người nhìn đám sinh viên sĩ quan Không-quân đều xuýt xoa, tắc lưỡi trầm trồ khen ngợi, mà mê tít thò lò à nhen! Anh tin chắc là họ sẽ phát thèm (chảy nước miếng chớ chẳng chơi).
Thư đã dài, cho anh kính lời thăm hỏi cha mẹ, anh cầu mong đại gia đình mình luôn bình an, vui vẻ và như ý. Em hãy ngoan, thay anh phụng dưỡng cha mẹ chu toàn nghe. Lúc nào trở về quê hương, anh sẽ tặng cho em ít bánh kẹo, cho em ăn, sẽ hết vòi vĩnh anh trai nầy nọ, lúc đó sẽ sún hết hai hàm răng của em vốn dĩ khá trắng, nho nhỏ và đều như những hạt bắp, thì em hết dám khoe với thiên hạ em có hàm răng rất đẹp mà nay "hăng rết" (là hết răng). Ha ha ha...
Hẹn gặp lại nhe em. Tạm biệt.
Anh trai,
Thiệu
***

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
02-25-2016, 10:22 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1456394885-a.linh 44 doBo & tructhg.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1456395283-Quyet Chien Thang - Hop Ca.mp3

Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 11

Mưu Sinh Thoát Hiểm (Physical Fitness-Survival).
Tình Hoài Hương
***


Đợt 11.- *Điều hai:
Khoá huấn luyện phi hành có ba ngày đêm Survival Days tại khu sình lầy của rừng Eglin AFB, đây là nơi từng huấn luyện Biệt Kích Mỹ, để sinh viên sĩ quan Không-quân học lớp Mưu Sinh Thoát Hiểm (Physical Fitness-Survival).
Khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân bên trong mặc bộ áo quần lót dày cui, kế đó mặc bộ đồ viá mùa Đông ấm áp. Bên ngoài còn mặc thêm áo treillis, nai nịt gọn gàng. Đội mũ lưỡi trai trùm kín hai lỗ tai và cổ. Mang giày cao cổ loại giày để đi rừng, vượt đồi núi, hay lội sông suối, đầm lầy.
Trang bị mỗi cá nhân gồm có:
- Được đeo dao găm.
- 1 bình bi đông đựng nước uống.
- Đem theo dụng cụ cần thiết để cắm lều đi rừng.
- Khóa sinh được phép chế ra cái ná dây thun.
- Được cấp phát thuốc trừ sốt rét. Thuốc khử nước độc. Thuốc trừ muỗi.
- Ngoài ra sinh viên sĩ quan Không-quân hoàn toàn không được mang theo chút xíu thức ăn nào, (trừ nước lạnh).
Mỗi toán bốn người: Hành và Cường may mắn đi chung với hai cựu quân nhân Thủy-quân Lục-chiến Mỹ có nhiều kinh nghiệm dồi dào. Vì họ đã từng sống và chiến đấu tại chiến trường ở Việt Nam lâu năm. Sáng sớm hôm đó, ban tổ chức vất mỗi toán một ở nơi khác nhau; cách xa doanh trại cuả ban tổ chức cả bốn năm miles. Ban tổ chức hẹn ba ngày sau, sẽ gặp lại tất cả khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân ở tại điểm X nào đó trên bản đồ.
Ngày đầu tiên có dồi dào sinh khí, nên sinh viên sĩ quan Không-quân ai nấy đều vui vẻ hăng hái, nhóm Hành đi miên man trong rừng rậm, dù quá vất vả, mệt không thể tưởng tượng, ngày đi đêm đi, thỉnh thoảng chỉ nghỉ ngơi khoảng vài ba giờ khuya, cho lại sức. Ngày thứ hai họ bắt đầu thấm mệt, nhưng không thể nào có giờ phút ung dung ngồi nghỉ ngơi, trong bụng trống rỗng, cồn cào bèo bọt, xót ruột quá sức, bình nước hết sạch, khiến họ khát khô cổ họng rát bỏng, hai môi khô nứt nẻ và dính chặt vô niếu, khiến mình thêm đau, và mệt lử. Họ hốc hác, bơ phờ đi tìm nguồn nước ở các khe suối, mương lạch, khử trùng cẩn thận trước khi nhấp môi, cho bớt khát bớt đau cổ và quá mệt mỏi. Nhưng ai nấy đều quyết tâm phải thực hành môn học “quái ác” nầy cho bằng được. Đàn anh niên trưởng đã thành công vẻ vang vượt trội, cớ sao mình không giống được như thế nhỉ!?
Ngày cuối cùng là Escape Day. Sau khi tất cả khoá sinh biến sâu vào rừng rậm, tỏa đi trên các đường mòn, thì có nhiều cán bộ huấn luyện viên rất “ngầu” mặc toàn đồ pijama đen, đeo mắt kính râm, đội mũ lưỡi trai, cổ choàng khăn len, vai đeo AK lủng lẳng đập lộp cộp vô dây nịt, (coi giống “Vi Ci” quá ta). Họ nhanh như sóc chạy rảo quanh khắp nơi. Nếu họ thấy có toán sinh viên sĩ quan nào vô tình, hay vô ý đi lang bang, ngố ngáo, ngơ ngác đi trên đường cái. Thì cán bộ nổ súng (đạn mã tử) ngay. Lập tức họ chận bắt sinh viên sĩ quan ấy lại.
Thế là toi đời... sinh viên! Khoá sinh phải đưa phiếu của mình ra. Cán bộ bình tĩnh ung dung cười tủm tỉm, bấm lỗ vào những chỗ nào mà khoá sinh sinh viên sĩ quan ấy sai phạm (“người ta” thì lo âu, đau khổ thấy bà nội, mà nhìn cung cách cán bộ ung dung cười cười! nụ cười còn hơn “một nụ cười bao thành cũng đổ của Bao Tự”). Lỗi, ví dụ như:
- Lỗi, khi đi trên đường mòn.
- Không ngụy trang khéo léo.
- Bị lộ mục tiêu, vân vân...
Tuần sau, những anh sinh viên sĩ quan ấy băn khoăn, lo lắng, phập phồng, run run vì phạm lỗi đó, họ buồn xo bâng khuâng phải xếp hàng đi thi lại môn nầy. Thiệt trớ trêu, cười không được khóc không xong, chỉ biết ngậm ngùi âm thầm khóc mếu ngâm câu thơ đường thi: “Thủy lưu hoa tạ lưỡng vô tình”. Nước cứ vô tình chảy theo giòng, và cuốn trôi tất cả mộng ước đời trai. Đây cũng là một kinh nghiệm quý báu trong đường binh nghiệp, họ sẽ lưu tâm cẩn thận, bền gan trì chí hơn, thì sẽ thành công tốt đẹp. Dĩ nhiên! các anh sẽ thành công và thành tài thôi. Phải không em?
Họ sẽ giống như ông Khuông Hoành thời Hán (bên Tàu) nhà nghèo đến nỗi không có tiền mua sách, mua đèn để thắp, ông liền nghĩ ra cách xoi lủng bức vách nhà kế bên, để hưởng tí ánh sáng, mà học bài. Sau đó ông xin vô làm công ở một nhà giàu kia đã lưu trữ nhiều sách vở. Ông Khuông Hoành không nhận lấy tiền công, chỉ xin mượn sách để học. Nhờ ông có ý chí, chuyên cần, và cầu tiến, nên đã thành công vẻ vang.
Trong ba ngày đó, tất cả toán sinh phải tự lực cánh sinh. Băng rừng rậm. Vượt đồi leo dốc trơn trượt cao chót vót. Lội sình lầy. Đầm lầy sâu lút đến ngực sền sệt bùn và đất sét trộn lẫn vô càng dẽo quẹo. Nếu ai sa chân vô chỗ nầy, cựa quậy thì mình càng bị lún sâu xuống bùn, không thể nhất chân lên giữa đầm rộng mênh mông, toàn cây gai chằn chịt rậm rạp mọc lúp xúp, bẩn thỉu, hôi tanh. Đầm tối âm u đầy dẫy muỗi, cá sấu, trăn, rắn, rết, bọ cạp, vắt, ve. Toàn là “thứ dữ” độc hại biết bao, chúng có thể giết chết con người trong nháy mắt. Vì thế mới gọi là Survival.
Ban tổ chức nói:
- Nếu ai bị rớt máy bay ở trong rừng, mình phải biết linh hoạt, thông minh, nhanh nhẹn ứng phó thích nghi trong mọi hoàn cảnh. Sau đó ta tự mình tìm cách sống. Rồi chờ đợi cứu viện sau.
Úi Trời! Nơi đây đầy nguy hiểm, nhất là ngày đêm lo ngay ngáy vì những nanh vuốt mãnh thú, nhìn miệng mồm của bầy cá sấu ốm đói, chúng luôn bò lổm ngổm sục sạo trong đầm lầy, để tìm thức ăn, thì tính mạng con người coi như chỉ mành treo chuông.
Buổi tối hôm ấy trời cuối thu rất lạnh. Nhóm sinh viên sĩ quan Không-quân bốn người không thể nào ngủ ngáy gì nỗi. Bốn người lo đi chặt cây làm một cái lều nho nhỏ, và gom góp đầy cây khô, củi mục, kể cả lá cây tươi kèm vào, chất thành đống to để đốt lửa. Các bạn nhịn đói nhịn khát ngồi sát bên nhau sưởi ấm.
Nửa đêm, khi quá đói, Cường không chịu nỗi anh đành lôi ra hai cái hot dog, mà bạn đã dấu kỹ đâu đó, Cường nướng trên đống lửa, bốn người “sáng mắt ra”, thật là “một miếng khi đói bằng một gói khi no”, Cường chia đều “cuả quý”, họ ngồi chụm đầu vào nhau, bây giờ đúng là lúc cùng “ăn một mâm nằm một chiếu”, tâm đầu ý hợp giữa những người cùng cảnh ngộ và thật tình thân thiết. Họ nhai nhỏ nhẻ ngấu nghiến như mèo, gậm nhấm thật lâu từng rẽo hot dog. Họ “ăn lấy thơm lấy tho, chớ không lấy no lấy béo”. Vì… “ăn lấy vị, không ai đong lấy bị mà ăn”. Họ uống từng ngụm nước. Mọi người vui vẻ trao đổi những kinh nghiệm, kể chuyện về thời niên thiếu ở quê nhà, nói chuyện phiếm, tếu, rất vui, ngỏ hầu tạm quên thời gian chậm chạp trôi, cho bớt buồn ngủ, bớt lạnh cóng.
Kể chuyện tếu, là cốt mong cho trời mau sáng. Nhất là muốn quên trong bụng cứ “réo rắt” sôi lọc ọc, ruột non ruôt già đều phản đối biểu tình dữ dội vì đói, đòi ăn. Lúc đó thì Hành và Cường tha hồ moi trong óc ra tìm “những vần thơ” trong tục ngữ, thành ngữ, ca dao về “ăn” và “đói” mà cười hể hả. Họ thông dịch lại những câu ca dao cho hai bạn Mỹ đồng hành nghe. Mọi người cảm thấy thú vị, reo vui. Nhất là hai bạn Mỹ quá “nể” và "trọng" người Việt Nam mình là: một dân tộc ôn nhu, cần mẫn “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, thông minh, giàu tình cảm, trọng tình trọng nghĩa “ăn đến nơi, làm đến chốn”, và “ăn hiền ở lành, ăn ngọt trả bùi”, thủy chung:
“Ăn chanh ngồi gốc cây chanh.
Khuyên cội khuyên cành khuyên lá khuyên lung
Khuyên cho đó vợ, chồng đây
Đó đẻ con gái, đây bồng con trai”. Dù:
- Đói rụng râu, rầu rụng tóc. Đói đầu gối phải bò. Đói ăn vụng, túng làm liều. Ô!
- Không được. “Đói cho sạch, rách cho thơm”. “Đói cho qua, nết phải giữ”.
- “Đói cơm lạt mắm tèm hem, cơm no ấm áo lại tìm nọ kia”.
- “Đói lòng ăn trái khổ qua, nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười”.
- “Đói lòng ăn một quả sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương”.
- “Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”.
- “Đói thì đầu gối phải bò, cái chân phải chạy cái giò phải đi”. Mau lên, đứng dậy, đi… trời đã sáng rồi! Đi…
Bình minh mập mờ vừa thấp thoáng lấp ló trong đầm lầy, thì bạn cùng Hành vội vàng thu dọn sạch sẽ, cẩn thận xoá kỹ hết các dấu vết. Dập tắt lửa cẩn thận, họ bắt đầu ra đi. Hai ông Thủy-quân Lục-chiến vừa nhìn lui nhìn tới, vừa chu đáo cẩn trọng xem la-bàn định hướng, họ đi trước dẫn đường, Hành và Cường lẽo đẽo đi theo, bám sát sau lưng bạn. Hai ông lính Thuỷ-quân Lục-chiến Mỹ vui vẻ dẫn hai anh Việt Nam đi đâu, thì “hai ông tướng Việt” lọt tọt đi bám riết theo đó, mình không sợ gì chuyện “giao trứng cho ác” vì họ rất tin hai bạn ấy đã giàu kinh nghiệm ở chiến trường ViệtNam. Dọc đường, nhóm của Hành đã gặp một toán sinh viên Hải-quân bạn đi ngược lại hướng mình đang đi. Nhóm Hành vui mừng khi đã biết:
- Từ nơi nầy (chỗ tám người đang đứng nhìn ngó chung quanh, tính toán, cân nhắc, thảo luận), để đi đến điểm hẹn X, là chỉ còn cách xa xa chừng năm trăm (500) hay sáu trăm mét (600) mà thôi.
Ôi quá tuyệt vời. Nhưng bốn ông khoá sinh Hải-quân bạn vừa gặp kia, thì họ cứ gân cổ lên mà cãi lại với hai ông Thủy-quân Lục-chiến Mỹ của nhóm Hành. Bốn ông bạn cùng khoá kia lắc đầu, lắc đầu muốn gãy cái cổ, họ vẫn không tin hai bạn Thủy-quân nói gì hết. Họ vội vàng từ giã nhóm bạn, để tiếp tục đi ngược lại hướng của nhóm Hành Cường đã đi hôm qua. Hai anh Thủy-quân Lục-chiến nầy dù đầy thiện chí cố gắng giải thích, năn nỉ, khuyên bảo gì, thì nhóm sinh viên Hải quân nọ cũng ngoan cố, không chịu nghe mà! Biết làm thế nào được. Thây kệ!
Đến chiều, toán bốn người bạn khoá sinh Hải-quân mà Cường Hành vừa gặp buổi trưa đó, đã đi mất dạng vào rừng sâu, xa, xa hun hút. Nên họ bị lạc gần tám cây số trong rừng rậm âm u, chằn chịt gai góc và đầm lầy u ám. Nơi đây, mặc dù ánh mặt trời chỉ hơi nghiêng về chiều, nhưng ở trong rừng rậm thì ban ngày cũng tối đen, âm u như đêm ba mươi không trăng sao. Bốn anh Hải-quân kia đành phải dùng tín hiệu kêu cứu khẩn cấp, xin trực thăng, nhờ máy bay đến điạ điểm đã bị lạc, để đón họ quay về điểm X. Họ phải “đau khổ” buồn bã chờ đợi... khi nào có một kỳ học khác, để họ đi thi lại môn Mưu Sinh Thoát Hiểm (Physical Fitness-Survival) nầy.
*

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
07-14-2016, 09:26 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 12

http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1468487062-b.phico F5_VNAF2.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1468487414-Tuyet Trang - Sy Phu.mp3
“Học và Hành” các loại phi cơ
Tình Hoài Hương
***


Đây Florida và căn cứ Pensacola của Hải Quân Hoa Kỳ. Pensacola là tên của một thành phố nhỏ, thuộc Tiểu-bang Florida. Florida’s Panhandle trong khu vực Vịnh Mễ Tây Cơ (inlet of Gulf of Mexico). Pensacola & Vịnh Mễ Tây Cơ nằm dưới South of Alabama. Khí hậu khá ôn hoà, ấm áp. Pensacola có căn cứ US Naval Air Station và The Famous “Blue Angel” US Naval Flying Demonstration Team. Tương đương với The Thunderbird US Air Force Flying Demonstration Squadron của US Force vậy. Từ Sauffley Field NAAS đi Whiting Field NAAS độ chừng hơn trăm miles (thì phải)?! Đến đó, khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân được phân phối ra hai phi đoàn khác nhau.
Đợt 12.-
Tất cả khóa sinh Student Naval Aviators đều phải qua trường này, cần tìm thấy cảm giác mạnh lúc đơn phi đầu tiên (first solo) tại đây. Khoá sinh sinh viên sĩ quan ở bên Squadron 2. Bên nầy cũng như bên kia, chẳng khác gì. Nghĩa là nửa buổi sáng đi học lý thuyết, thì nửa buổi chiều khoá sinh sinh viên thực hành. Học:
* Cockpit Procedures - Có cái cockpit (phòng lái) của phi cơ làm trợ huấn cụ học sử dụng các bộ phận ở phi cơ, các đồng hồ phi kế, lúc mở máy, đang bay, học khi khẩn cấp, lúc đáp. V.v...
* Học: Engineering và Flight Characteristics chịu đựng được bao nhiêu G’s, hỏng bánh ở tốc độ nào. Và vòng đáp touch-and-go (chạm bánh-bay lại).
* Học liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát không lưu: ở đây có skull practice, là mỗi khóa sinh thực tập được mang một headset, gọi báo cáo với đài không lưu, nghe đài, trả lời. Ngoài ra còn có link trainer (phòng lái giả) để khóa sinh thực tập ôn lại mấy động tác bay.
* Học về giai đoạn pre-solo (tiền đơn phi). Trừ phi vụ làm lễ ra mắt (baptême de l’air), khóa sinh sẽ bay 10 phi vụ thực tập các động tác bay căn bản. Sử dụng bộ phận điều chỉnh phi cơ bay bình phi. Phương thức làm vòng đáp và kỹ thuật đáp. Học cách đối phó khi có trường hợp khẩn cấp, luôn luôn phải giữ sự bình tĩnh và an toàn của một phi công (good airmanship and safety).
* Phi vụ 12 (safe-for-solo check flight) khóa sinh sẽ bay với một thầy nhiều kinh nghiệm trong nghề huấn luyện, để khảo hạch. Nếu check pilot ra dấu “thumbs up” , thì phi vụ 13 là phi vụ đơn phi đầu tiên “first solo”.
Sau đó sinh viên sĩ quan Không-quân học bay solo nhiều lần:
- Bay đủ kiễu. Đủ cách.
- Bay bình thường.
- Bay đêm.
- Bay không hành (bay từ thành phố nầy, đến ba bốn thành phố khác. - Trong một vòng tròn).
- Bay hợp đoàn hai chiếc.
- Bốn chiếc.
Thấm thoát khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân đã học bay được ba tháng rồi. Khoá sinh xuống Hangar khi đi bay. Dạo nầy khoá sinh đi học đỡ mệt hơn, đi học rất gần. Đi bay ít nhất khoảng hai giờ mỗi ngày. Trừ những ngày trời vần vũ mây đen, hay giông bão thì khoá sinh ở nhà nghỉ, tự do. Sinh viên sĩ quan ngồi dưới Hangar, chờ đợi khi nào có thời tiết tốt. Nếu trời vẫn xấu, họ ở đó chờ, ngày mai khoá sinh trở lại học tiếp. Lúc đó họ đã chụm đầu vào với nhau đọc những bài viết thật vui, cả nhóm hoan hỉ cười reo vì chuyện tiếu lâm thứ nhất:
Trên một chuyến bay, kiểm tra tình hình ổn thoả, phi công trưởng bắt đầu đọc thông báo trên loa:
- Thưa quý khách, đây là phi công trưởng đang nói cùng các bạn. Chào mừng các bạn đến với chuyến bay 293 > từ New York đến Los Angeles. Thời tiết rất tốt, vì thế chúng ta sẽ có một chuyến bay êm đềm, thoải mái. Xin mời ngồi xuống và thư giãn. “Ôi Trời ơi… Không! Thôi chết rồi”!
Sau vài giây im lặng, phi công trưởng lại nói tiếp trên loa:
- Thưa quý khách, tôi thành thật xin lỗi: nếu tôi có lỡ làm quý vị sợ. Nhưng… trong lúc tôi đang nói, thì cô tiếp viên mang cho tôi ly cà phê, vô tình cô ta làm đổ lên người tôi. Quý vị mà thấy phía trước quần tôi, thì biết.
Một hành khách gào lên:
- Thấy cái gì mà thấy, có giỏi thì xuống đây, nhìn sau đít quần của tôi nè!
Cả đám sinh viên cười ha hả, Vinh đọc một chuyện vui thứ nhì trên tuần báo:
- "Một người bạn của tôi trên chuyến trở về Nam Phi (sau một thời gian sống ở Âu Châu), đã phải chờ khá lâu ở phi trường Heathrow của London. Trong khi chờ máy bay cô ấy mua một ly cà phê, một gói bánh quy, cô ấy kéo lê hành lý tới một cái bàn trống ngồi đọc báo và ăn bánh. Khi đang đọc tờ báo buổi sáng, cô nhận ra có người làm gì đó sột soạt ở bàn mình. Liếc nhìn qua tờ báo, cô sửng sốt thấy một anh chàng ăn mặc lịch sự đang với tay lấy bánh bỏ vào miệng. Không muốn làm ầm ĩ, cô chỉ nghiêng mình lấy một cái cho mình. Một phút sau, cô lại nghe tiếng sột soạt. Anh chàng kia lại lấy thêm bánh để ăn.
Cho đến lúc cả hai đã ăn đến cái bánh cuối cùng trong gói, cô tức giận hết cỡ, nhưng vẫn không nói được câu nào. Rồi chàng trai bỗng bẻ cái bánh làm hai, đẩy một nửa về phía cô, và ăn nửa còn lại, rồi bỏ đi. Lát sau, khi loa phóng thanh gọi tên cô, và yêu cầu cô xuất trình vé, cô vẫn còn bừng bừng cơn giận. Khi cô mở túi xách ra, thì khám phá ra rằng: gói bánh của mình vẫn còn nằm nguyên trong đó. Thì ra từ nãy tới giờ cô ấy đã ăn bánh của người ta. Chàng kia đã chia sẻ với cô đến miếng bánh cuối cùng. Thật là một con người tốt bụng". (Reader's Digest)
Và chuyện vui thứ ba:
- Một cậu bé nói với một cô bé:
- Tớ là BF của cậu!
Cô bé hỏi:
- BF là gì?
Cậu bé cười hì hì trả lời:
- Nghĩa là “best friend” đấy.
Sau này họ hẹn hò, chàng trai lại nói với cô gái:
- Anh là BF của em!
Cô gái dựa nhẹ vào vai chàng trai, thẹn thùng hỏi:
- BF là gì hả anh?
Chàng trai trả lời:
- Là “boy friend” đấy!
Vài năm sau đó họ kết hôn, sinh được những đứa con thật xinh xắn, người chồng lại cười và nói với vợ rằng:
- Anh là BF của em!
Người vợ dịu dàng hỏi chồng:
- BF là gì hả anh?
Anh chồng nhìn đứa con xinh xắn và hạnh phúc trả lời:
- Là “baby’s father”.
Khi họ già, họ cùng nhau ngồi ngắm hoàng hôn trước hiên nhà, ông lão lại nói với vợ:
- Bà nó à! Tôi là BF của bà đấy!
Bà lão cười với những nếp nhăn trên mặt:
- BF là gì hả ông?
Ông lão mỉm cười thật hạnh phúc và trả lời một cách thật thần bí:
- Là “be forever”.
*
Đợt 13.-
Bên nầy, Barrack ở cách xa chỗ đi bay, gần ba cây số. Mỗi sáng sinh viên sĩ quan Không-quân thức dậy rất sớm 4:00 lo làm vệ sinh cá nhân. Chuẩn bị thức ăn sáng. Thường là bánh Sandwich kẹp thịt hay trứng gà, (gói lại để ăn sáng và trưa). Một chai sữa hay chocolate. Trong chỗ bay có toàn cà phê Maxwell chua lè. Vậy mà cứ mươi phút, khoá sinh thấy mấy ông thầy Mỹ vào lấy cà phê uống lia lịa, họ uống hết một ly cối.
Độ chừng 4:30' xe Bus đậu tại Barrack. Xe chờ đúng một phút. Một phút thôi. Họ giật chuông để khoá sinh chạy lại. Các khóa sinh phải có mặt ở dưới sân chờ đợi xe bus trước. Nếu ai bị trễ vài ba phút, (vâng, chỉ trể quá lắm là bốn năm phút thôi, thì xe bus chẳng chờ đợi ai, mình phải “vắt giò lên cổ” chạy bộ từ nhà đến trường bay. Xa khá xa, và mệt đứt hơi. Mệt bở hơi tai đấy. Mới hy vọng kịp giờ. Vì sẽ chậm mất vài chục phút sau mới có một chuyến xe bus khác.
Đợt 14.-
Các anh khoá sinh sĩ quan Không-quân học loại phi cơ “Beechcraft” T 34 mentor – (là loại phi cơ biến thể từ Beechcraft model 35 bonanza). T 34 là loại phi cơ huấn luyện cánh quạt có chiều dài 28ft 8 1/2 in (8,75m). Sải cánh 33ft 3 7/8 in (10,16m). Chiều cao phi cơ 8ft 7 in (2,92m). Trọng lượng cần thiết khi cất cánh 4,300lb (1,950kg). [(T 34 C – 1 huấn luyện vũ khí thì 5,500lb – (2,491kg)]. Tốc độ bình thường của phi cơ T 34 mentor 214 knot (396km/h; 246mph ở cao độ 17,000ft (5,180m). Đường bay 708 hải lý (1311km , 814mi) ở vận tốc 180knot (333km/h ; 207mph.
Kế tiếp sinh viên sĩ quan Không-quân chuyển sang tu nghiệp loại: T-28A của USAF.
- T- 28B, - T-28C có hai chỗ ngồi. Một cánh quạt, nhưng động cơ mạnh hơn, to hơn chiếc T- 34 nhiều. Đây là loại máy T- 28 A, B, C, và D. - T-28B, - C, D của US Navy. T 28 B Trojan có chiều dài 33ft 0 in, (10,06m). Sải cánh 40ft 1 in (12,22m). Chiều cao phi cơ 12ft 8 in (3,86m). Vận tốc khi phi cơ bay lên cao là 4,000fpm (20,3m/s). Tốc độ 343 mph (552km/h). Trọng lượng tối đa của phi cơ khi cất cánh là 8,500lb.
T 28B là loại phi cơ quân sự có động cơ 1 x wright R 1820 – 86 cyclone kiểu piston. Loại sau cùng, có cái "móc" đằng sau đuôi, để đáp xuống Hàng-không Mẫu-hạm. Tên gọi là Trojan. Loại nầy bay nhanh hơn loại nhỏ. Lại khó điều khiển. Nếu học xong những giai đoạn rất cần thiết và căn bản nầy, thì sinh viên sĩ quan Không-quân có thể trở thành phi công loại: T 28 và T-34B Mentor của US NAVY rồi.
Có lần Hành gởi về quê nhà xa xôi bài thơ chia buồn cùng người thân (khi biết bạn đã lâm nạn):
Anh áo lính oai hùng trong chiến trận
Sóng bạc đầu, cánh thép gió đằng vân
Anh hiên ngang dày dạn áo phong trần
Bốn vùng chiến thuật vì dân vì nước.
Thề quyết giữ giang sơn này gấm vóc
Chí mài gươm dưới nguyệt quyện phong ba
Đem an vui hạnh phúc tới muôn nhà
Mưu cuộc sống an hòa tình thương mến.
Anh đã ra đi một chiều vĩnh viễn
Người xa người giòng lệ tiễn chân mây
Xong cuộc đời, anh về với cỏ cây
Còn để lại áo bay trong tình sử.
Cuối bài thơ tôi nhớ về quá khứ
Chuyện tình buồn hai đứa phải chia tay
Anh nghỉ yên nơi nấm mộ cỏ này
Dân đất Việt nối vòng tay trỗi dậy...
*
Tình Hoài Hương

(*) thơ Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
08-20-2016, 06:28 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1471674718-fico 2 USAF.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1471673419-XuatQuan.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 13

Những Pha "Sành Điệu"
(của khoá sinh Không Quân QLVNCH)
Tình Hoài Hương
***


Đợt 15.-
Em Hồng Hạnh yêu,
Anh kể tiếp phần sau về sự “học và hành” của sinh viên sĩ quan Không-quân ở Mỹ nhe em: Khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân được đi thăm các viện bảo tàng chứa phi cơ, khi các anh tận mặt xem các thiết bị cần thiết, rờ mó, làm quen với máy móc đa dạng, nhận rõ những đồng hồ phi kế từng món rườm rà ấy có công ích gì, đặt ở đâu, trên, dưới, phải, trái… thì khoá sinh sẽ dễ nhận định ra vị trí của chúng. Hơn là mình chỉ mệt mỏi ngồi trong lớp mà đơn điệu tưởng tượng. Hoặc nhìn hình ảnh mô tả các thiết bị máy móc trên sách vở khô khan, không thiết thực như người ta thường nói "trăm nghe không bằng mắt thấy". Đôi khi anh cũng cảm thấy chán phèo. Nói thật là khi mình nghiêng cứu về lý thuyết, thì khó hình dung hơn em à.
Dù sinh viên sĩ quan Không-quân có khả năng hữu dụng, có tinh thần hiếu học, đầy nhiệt huyết dâng tràn, thì không có gì mà không có thể làm được; ngược lại có kết quả mỹ mãn nữa là đằng khác. Nhưng nếu mình ngồi trong lớp mà mơ mộng, lơ là, dù một mảy may sơ sót, thì khi đem ra thực tế ứng dụng, mạng sống của chính mình kéo theo nhiều người khác có thể không được bảo đảm an toàn.
Anh cũng biết khi đã trở thành sinh viên sĩ quan Không-quân rồi, không ai mà không có dịp thưởng thức các pha lả lướt, bay bướm, ngoạn mục đầu tiên trong ngành “học lái tàu bay” cả. Chỉ nghĩ đến khi anh ung dung tự do một mình tự tay lái chiếc phi cơ, vút bay bổng trên không trung bao la, mênh mông, ngút ngàn, là anh cảm thấy sung sướng rơn người, và tự hào sảng khoái hạnh phúc xiết bao, vì đời mình phơi phới lên hương như ta mọc thêm cánh. Phải không nà!? Khi đó thì anh sẽ ngồi trên khoang lái rung đùi uống “cô ca cô la, cô cô... gì” mà chẳng cảm thấy vui vẻ, thoải mái, và nghêu ngao hát: "Trời hôm nay thanh thanh, gió đưa cành mơn man tà áo…”, em hỉ!
*
Thầy Maj. Meyer vui vẻ, rất kiên nhẫn, cần cù và tận tâm, từ đâu đó thầy đang đến chỗ tập dượt huấn luyện sinh viên sĩ quan Không-quân, khi tất cả khoá sinh lần lượt leo lên phi cơ an toàn xong, thầy vui vẻ hỏi khóa sinh Không-quân:
- Sao, quý anh có khoẻ không?
- Cám ơn ông, vẫn khỏe.
- Ngồi cho kỹ nhe. Tôi bắt đầu Acrobatics đây!
Có nghĩa là ông thầy bắt đầu thử sức, dzợt cho mình te tua tơi tả đám khóa sinh Không-quân oai dũng, do mình muốn làm bá chủ vũ trụ không gian đây mà! Ông muốn xem họ có thể kiên trì, có sức chịu đựng, gan lì dẽo dai đến bao giờ! Ông thầy ung dung lái chiếc phi cơ bay vút lên trời êm ru. Thầy không lả lướt, không hào hoa phong nhã, không đẹp mắt, không lé mắt, bảo đảm không ăn tiền hốt bạc thì thôi. Ai nấy đều suýt xoa hết lời trầm trồ khen ngợi thầy.
Nhưng khoá sinh vui vẻ, thoải mái, hí hửng chưa được bao lâu. Thì, thầy làm đủ thứ trò kinh khủng, dựng tóc gáy, rợn người, như: Bay vút lên cao tít cung trăng bỗng nhiên tàu bay rớt xuống “cái độp”. Tiếp theo thầy bay đảo ngược lại. Lộn vèo xuống. Quay tít những vòng bay tròn nhiều phen. Phi cơ chổng đầu xuống đất rồi vút bay dựng đứng thân tàu bay lên cao. Khi thầy kéo cần lái, phi cơ ngóc đầu vọt thẳng lên. Khi phi cơ lại cắm đầu xuống nhanh như tên bắn, như sao xẹt.
Thầy đạp rudder thì phi cơ liền ngóc đầu lên cao. Trồi lên trụt xuống, quầng thảo ráo riết trên bầu trời, bồng bềnh nhô lên hụp xuống, chao cánh uốn lượn, bập bùng, lắc lư, khi cao khi thấp, lộn vèo ngược xuống đất, rồi bay vút lên tít trời cao thẳng đứng, cho phi cơ lòn trong các bè mây, bay ngửa bụng lên trời như vậy. Bỗng nhiên phi cơ tụt xuống cái rụp, như trái mít rụng trên mặt đất. Và phi cơ lướt vút lên trời quay vòng vòng như chong chóng. Lúc đó ruột gan phèo phổi anh muốn bay ra ngoài, cả bộ lòng mình dâng lên trên đỉnh đầu. Ớn lạnh xương sống đó em à. Thầy cứ làm lung tung loạn xạ như thế gần chục vòng. Vân vân…
Ấy là thầy Maj. Meyer dạy bay mấy rides mới, khi thầy tủm tỉm cười cười để trở lại bình phi lúc thử sức xong: đầu người nào người đó đều cảm thấy choáng váng, tóc dựng đứng, mặt mũi xanh lè, có một số ít anh em ói mửa tùm lum. Nhiều anh mất bình tĩnh, lúng túng, đầu nghiêng qua ngả về. Anh nói thiệt với em nhe: Mặc cho khoá sinh mồ hôi hột chảy ra đầm đìa như tắm, mặt mày ai nấy đều xanh lè, xám xịt, tóc tai đã ngắn lại xù ra càng dựng đứng, như con khỉ đít đỏ có bộ tóc rễ tre trong thảo cầm viên, khiến mình nhắm nghiền mắt và nhức bưng cái đầu. Ban đầu anh vui hết biết, nhưng vào đoạn giữa đường bay, khi thầy "tung chưởng" ra, thì thú thiệt cu dái anh teo tóp muốn rụng rời! Nè em, em đừng trợn mắt lên, la anh:
- Anh nầy dị hợm quá đi. Ở đây, mà anh nói gì chuyện "cu dái", nghe tục tĩu (mất hết thi vị trong không trung bồng bềnh mây trắng mây hồng, ngút ngàn và thơ mộng). Hả.
- Tại đầu óc em u tối, cứ nghĩ bậy bạ hai cái lủng lẳng kia là thô tục. Chớ, không gọi vậy, thì em cho anh gọi là anh "dun dun vì quá hãi" nhen. Thôi! thôi, cho anh xin đi! Anh biết em đang phùng man, trợn hai con mắt to như mắt ếch lên rồi. Xin lỗi em, anh tiếp nhen:
Nhưng khi thầy đưa phi cơ vút bay lên cao, lão luyện bay lượn và bình phi nhẹ nhàng êm ái, thì thân thể mình lâng lâng như nằm trên tấm nệm nhung, như cánh diều lả lướt trong gió chiều êm ả. Thầy lái máy bay thành thạo và quan sát đó đây thường xuyên, thầy rất quen thuộc các địa hình, cảnh vật, nhà cửa, sông, rừng, núi, biển... ở dưới đất. Thầy bảo" "ta phải nhớ mình đang bay đến nơi nào, ở đâu, nơi nào có đặc điểm gì cần lưu ý", vân vân... Thầy nhắc nhở khoá sinh phải cẩn thận, lúc bay qua những khoảng vùng núi đồi nào nguy hiểm, hoặc lúc có thời tiết xấu tệ, thì phải cẩn thận, bình tĩnh, chú ý làm sao.
Thầy khuyên khoá sinh luôn mở rộng tầm nhìn chung quanh, quan sát điều nghiên bên ngoài, ấy cũng là góp phần quan trọng của luật bay. Bay trên không trung, radar có thể phát hiện, dù cách xa 10 dặm. Bay tầm thấp 600 dặm/h, tránh radar địch tốt nhất. Nhưng cũng khổ một nỗi là phi công bay như thế, thì dễ bị lạc đường. Khoá sinh nhớ chú ý quan sát những thao tác của thầy, ghi chú tỷ mỷ vô sổ tay, mà rút kinh nghiệm khi bay một mình, để thực hiện trong tương lai.
Đợt 16.-
Huấn luyện viên chỉ cần hơn nửa giờ lái phi cơ bay vun vút, vòng vo. Thế là huấn luyện viên thấy đám sinh viên Không-quân “dật dờ ngẩn ngơ”… vì bầu trời bao la ngút ngàn trên không trung mênh mông, dường như “chìm xuống dưới gót chân phong trần”, mắt khoá sinh đã nổi lên muôn ông sao lốm đốm rơi lộp độp, trăm bà trăng tròn đen thùi lùi lồ lộ lung linh nhảy nhót, khiến trước mặt ta xây xẩm quay cuồng ! Hầu hết tất cả khoá sinh rất mệt đã rệu xuống! Thế là ông thầy thấy có kết quả ngay. Đa số những người như các anh, và may thay có cô gái Mỹ ấy nữa, còn tỉnh queo một xí. Chỉ có hai anh khoá sinh Không-quân Việt Nam thì ngất ngư, ói mửa tùm lum ra mật xanh mật vàng hoài mãi. Hai anh kia bị chóng mặt da tái nhợt, rồi xanh lè, đầu óc quay cuồng, họ mệt lả không thể ngồi vững được.
Đợt 17.-
Những phi công lái phi cơ vận tải, tuy ở trên không trung bao la, nhưng họ thực hiện công việc làm rất “sành điệu”, chính xác, hữu dụng. Quan trọng hơn hết là: các khía cạnh của kết quả được thành công tốt đẹp, mỹ mãn. Khoá sinh học cách tiếp tế nhiên liệu trên không trung, là một kỷ thuật tuyệt vời, rất điêu luyện, và khó khăn thực hành nhất trên trời cao lồng lộng, gió, mưa, bão bùng. Vì lý do nào đó lúc phi cơ bị lâm nguy, do lựng khựng về kỷ thuật, hết xăng… bị trục trặc một vấn đề gì, sinh viên sĩ quan phải lanh trí, thông minh, có nhận xét tinh tường, am hiểu vì sao nó như thế.
Khoá sinh cũng phải học lúc đang chiến đấu, mà phi cơ bị bắn rơi; phải biết làm gì, thì ghế phóng sẽ đưa mình từ lòng phi cơ “nhảy vọt ra” bên ngoài. Khoá sinh phải bình tĩnh học cách biết nhảy dù ra khỏi phi cơ. Đây cũng là một trong nhiều nguy cơ, gây ra nguy hiểm kinh khủng đến tính mạng (riêng mình và người khác bay cùng, hoặc phi cơ rớt xuống đất, lúc tại dưới đó có đông người, thì không thể tưởng tượng nỗi điều đau khổ gì sẽ xảy ra).
Đợt 18.-
Khi ấy, phi công phải chuẩn-bị thiết-bị liên lạc với tổng đài, nước, pháo sáng, (flair) địa bàn, vân vân… (nhất là một mình quờ quạng vì đêm tối nơi vùng lạ). Trong lúc chờ phi cơ bạn đến giải cứu. Cẩn thận tránh kẻ thù xuất hiện, thì mình lấy sơn màu xanh lá cây, hoặc màu đất bùn đen, mà "sơn" vô mặt, nguỵ trang giả dạng, trá hình lúc mình đã rơi xuống đất. Học thuộc lòng những mật khẩu cần liên lạc, để thông báo vị trí mình đang ẩn nấp với chỉ huy rõ, để họ liên lạc & tìm kiếm mình dưới đất. Phi công bị rớt nên bình tĩnh, kín đáo, cẩn thận dò xét khắp nơi, im lặng, cẩn thận tránh kẻ thù phát hiện, khi liên lạc vô tuyến với tổng đài. Xử dụng radio, vô tuyến, hút thuốc, đi lại… cũng là cách tự tố cáo mình “lạy ông tui ở bụi nầy”, mình đang lồ lộ rõ ở vị trí nào, cho địch biết để nó '"tóm cổ ta".
Anh không dám tự kiêu tự đại khi anh đã vượt qua giai đoạn tiên khởi nầy. Vì, ở đời mà, nếu anh giỏi môn nầy, thì đó chỉ trong giới hạn. Có người khác giỏi hơn mình, vì bể học thì quán thế mênh mông, không biết đâu là bến bờ, nếu họ không giỏi thứ nầy, thì giỏi các thứ khác. Em có biết câu tục ngữ: “cao nhân tất hữu cao nhân trị” không? Hẳn là em học ở trường Tây, nên mấy “soeur Đầm” hổng biết tiếng Việt, và đọc chuyện cổ tinh hoa đâu, ha em. Vậy thì anh kể cho em nghe câu tục ngữ trên, vì có chuyện như thế nầy nghen:
- Ông Khâu Tố dẫn ngựa đi tới sông uống nước, ngựa bị chết đuối. Khâu Tố ỷ sức mình giỏi, đã nhảy xuống nước “quậy tưng trời”, cuối cùng ông bị đui một mắt, ông leo lên bờ. Yếu Ly mắng:
- Ngươi tự xưng là dũng sĩ nhảy xuống sông, khoe đã đánh nhau với thủy thần. Ngươi liều mình mà không cứu được ngựa, bị hư một mắt. Lại trở về với con mắt mù, không biết nhục, còn khoe khoang, là sao!?
Khâu Tố bị mắng, cảm thấy hổ thẹn, ra về. Yêu Ly tối về nhà dặn vợ con không đóng cửa, cố ý chờ Khâu Tố. Quả nhiên, nửa đêm Khâu Tố cầm gươm xông vô phòng Yếu Ly:
- Ngươi có ba tội đáng chết: Một: làm nhục tao giữa đám đông. Hai: không lo xa, vì đêm ngủ không đóng cửa. Ba: Thấy tao vô nhà, ngươi không chạy trốn.
- Chưa chắc. Theo ta, ngươi có ba điều hèn, đáng tự tử. Một: Ta làm nhục ngươi ở chỗ đông người, mà ngươi chẳng dám nói một lời. Hai: Ngươi lẽn vô nhà ta như phường trộm đạo, không dám lên tiếng trước. Ba: Ngươi kề gươm vô cổ ta rồi, mới dám to tiếng doạ nạt. Vậy, ngươi hơn ta chỗ nào, khi ta cố ý để cửa “mời” ngươi vô nhà hử!?
Nghe xong, Khâu Tố xấu hổ quá chừng, ném gươm xuống đất, rồi ra đường đập đầu xuống tự sát.
Đọc câu chuyện trên, em sẽ hiểu ra sao rồi hen. Đến đây, thư đã khá dài, trước khi ngừng bút, em cho anh kính lời thăm đại gia quyến em, cầu mong họ luôn bình an, hạnh phúc. Riêng em Hồng Hạnh của anh thì vui vẻ, tươi tắn và trẻ đẹp hoài, em sẽ không buồn, và hết giận anh. Bởi vì… chúng mình đã giận nhau, xa lìa nhau ngót bốn năm dài đằng đẵng rồi đó em. Thư nầy anh mong sẽ là nhịp cầu nối kết chặt chẽ đầy bao dung & thông cảm. Chúng mình hãy “làm hoà nhau” nghen em. Anh mừng.
Tạm biệt em,
Lữ Phi Hành.
***
Tình Hoài Hương
Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau.

Tinh Hoai Huong
10-07-2016, 02:05 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1475803862-b. fico bay trgdem.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/ThuThaHuong.mp3

Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 14

Chuyến Bay Đêm Dài Lê Thê...
Tình Hoài Hương
***


Đợt 19.-
Tất cả sinh viên sĩ quan Không-quân ngày đêm chuyên cần học tập, tay phải khoá sinh rút cây viết từ bên túi áo nhỏ xíu ở cánh tay trái ra, anh đầu cúi xuống trên những quyển sách dày, to và nặng kinh khủng học Văn hoá (Academic). Sau đó khoá sinh đi thực hành tổng quát về các bộ môn:
- Học “bay bổng toàn diện” đại khái học các loại sau:
- Thể lực (Physical)
- Meteorlogy (khí tượng)
- Principes of flight (nguyên lý bay).
- Communication (liên lạc).
- Học lớp đáp bụng (crash) khi phi cơ bị trục trặc, hoặc đáp khẩn cấp.
- Học lái AD-6 Skyraider ở VT-30, Corpus Christi, Texas.
- Học lướt qua về cơ khí viễn hành loại Chinook lo về: kỷ thuật kiểm soát máy móc, bơm xăng, dầu, nhớt, sữa chữa nhẹ.
- Học tổng quát các hệ thống của máy bay, học điều khiển, khí động học, khí tượng học, học cách bảo vệ phi cơ cũng như phi công an toàn dưới đất, và ở trên không trung. Kể cả học Quân sự (Military).
Cứ: Học, học, học... ; Hành hành hành... & khoá sinh di chuyển xoành xoạch như thế tại các trường gần, xa… suốt nhiều tháng trời dài đằng đẵng trôi qua:
Đợt 20.-
Trường phi hành ấn định một số giờ bay nhất định, để sau đó khoá sinh sẽ thực tập bay “solo”. Nếu quá số giờ ấn định, mà các khoá sinh vẫn không bay “solo” được. Thì coi như không hội đủ điều kiện để trở thành một phi công. Họ sẽ bị loại ra khỏi khóa huấn luyện.
Sinh viên sĩ quan Không-quân rất hân hạnh được học “du hành vào không trung” về huấn luyện Không-quân ở Pensacola, Florida. Mỗi khoá sinh có một huấn luyện viên ngồi kèm sát phía sau lưng, để thầy tận tình giảng dạy. Bước đầu, khoá sinh làm quen với các loại phi cơ nhỏ T-34B Mento. Đó là loại phi cơ có hai chỗ ngồi, tương tự như loại Beech Craft một động cơ. Phi cơ có tốc độ tối đa là 140 hải lý/giờ (Knot hay là Nautical Mile).
Một đêm kia, Hành thấy ông thầy mặc bộ áo bay (combinaison de vol) vui vẻ đến bên anh, ân cần vỗ vai mình và cho Hành bay không hành. Thông thường khoá sinh Việt Nam bay đêm, là có thầy đi theo. Khoá sinh chỉ an nhàn cầm bản đồ bay, đi lấy tin tức Meteorology là xong việc. Ngoài ra, đã có “người khác” lo cho hết mọi thứ. Đêm đó, Hành vẫn ỉ y có thầy cùng bay với mình. Nên anh tà tà đi lui đi tới, ung dung nhìn trời ngó đất, miệng huýt sáo lia chia. Hành chả lo chuẩn bị chu đáo một thứ gì cần thiết cho chuyến bay đêm. Kể cả cái đèn pin, là thứ quan trọng được cấp phát, và cần thiết khi bay. Nhưng giờ đây chiếc phi cơ sẽ bay với mình trống trơn, chả có bất cứ cái gì! Hỏng mất rồi!
Đeo dù vào rồi, Hành cứ ngồi đó rung đùi ca hát vu vơ, anh sảng khoái huýt gió ở dưới đất. Hành mòn mỏi chờ đợi ông thầy mãi, nhưng thầy vẫn biệt tăm biệt tích. Lúc đó có sĩ-quan Operation Officer đến bên Hành, anh ta tỏ vẻ ngạc nhiên hất hàm hỏi:
- Sao anh còn ngồi đó?
- Thì… tôi phải ngồi đây, chứ ngồi đâu bây giờ!?
- Chờ ai vậy?
- . . .
- Sao anh không ra Flight Line bay đi?
- Tôi chẳng thấy ông thầy.
- Oh! không có ông thầy, bà thầy nào cả. Từ nay trở đi anh bay một mình. Nhanh lên. Tụi nó sốt ruột đang chờ anh kia kìa. Trễ rồi.
Đợt 21.-
Chèn đét quơi! Thấy bà cha cố tổ tui rồi! Có ngờ đâu "sự thể quái dị" lại ra thế nầy! Thế là Hành vội vàng dựng đứng người bật lên ra đi... mà là chết trong lòng một ít (partir, c' est mourir un peu...). Anh lo đi Preflight Check. Hành đi một vòng chung quanh phi cơ. Khám: Từ dưới lên - Từ trái qua phải - Khám đủ thứ hết. Hành run run giống như thầy bói mù rờ con voi khổng lồ vậy. Hành đi check phi cơ đấy, mà băn khoăn, lo lắng tâm trí thì hoang mang để tận đâu đâu! Lo âu quá chừng! Định tâm lại, Hành phải đi hỏi mượn đèn pin của người cơ trưởng của chiếc máy bay nầy. Hành đi thêm một vòng, để check lại thật kỹ. Sau đó Hành đem trả đèn pin cho anh ta, mà trong lòng còn băn khoăn, hồi hộp, bấn loạn, bồn chồn lo âu run rẩy bước đi trên nền gạch bóng loáng, nhưng Hành có cảm tưởng như đang đi trên đoạn đường sỏi đá lổm chổm gập ghềnh.
Bỗng dưng nhớ bài thơ “Phi Đạo” khiến Hành lo “đứt cần câu”:
Có nhiều cậu học trò còn luống cuống
Mới sô lô thấy phi đạo đã run
Tháo mồ hôi trống ngực đập lung tung
Mới va chạm đã bung ào một cái!!
Lắm bạn bỏ bay lâu thì cũng vậy
Đáp bị bung khi mình chẳng muốn bung
Mới đầu thì nghe tức tối quá chừng
Đáp vài cái lấy lại ngay phong độ
Những anh mẽo lái tàu to quá cỡ
Đáp cái nào cũng tóe lửa thấy ghê!!
Tạo tiếng kêu kít kít đến phát ê
Thân phi đạo rung rinh như muốn vỡ (Kha Lăng Đa)
Hành lo lắng kèm với một chút sợ sệt, “miễn cưỡng” lò mò leo lên phòng lái. Ôi! Đêm đó là đêm cuối cùng Hành bay không hành dài lê thê, dài ngun ngút đến vô tận. Sao lòng ruột mình cồn cào, nôn nao, bất an lo lắng quá thể. Hành gọi đài xin take take off clearance, power 100%. Dường như Hành đang ngồi trên đống kiến lửa vậy? Đầu óc anh rối ren như tơ vò, trong dạ bồn chồn đau điếng đến thế không biết. Hành lo sợ nhất là nếu khi bay vô phần gió ngang quá sớm (Entered his base leg too early), bị cut short downwind leg (cắt ngắn gió xuôi), hoặc bất ngờ vì lý do nào đó cần quẹo gắt (steep bank turn), thì mình không biết có điều tồi tệ kinh khủng gì sẽ xảy ra đây? Hành hoang mang lo lắng… là vì thi sĩ Kha Lăng Đa đã nhắc nhở:
Các bạn ơi! đừng bực mình nhăn nhó
Những khi sân có đèn đỏ xi nhan
Phải chờ cho cờ lia chớ vội vàng
Đừng đáp đại ắc xi đăng đấy bạn!
Nếu kẹt quá thấy mình cần rất khẩn
Rì quét vào đáp em-mẹc-giăng-xi
Và đừng nên ham sân lạ làm chi
Ở tù đấy! tội đáp hoang đáp trộm . (Thơ Kha Lăng Đa)
***
Đợt 22.-
Hành lái phi cơ ra sắp hàng ngay giữa phi đạo, mà trong bụng đánh lô tô lụp bụp, tim rung tưng bừng, rổn rảng lung tung xèn không yên. Trong lòng anh mang nỗi bất an kỳ lạ, tâm trí chùn xuống vì băn khoăn, âu lo kèm thêm ít luyến lưu, lẫn ân hận, và bùi ngùi xao xuyến… vì ngộ lỡ như mình có “mệnh hệ nào” thì quả thật là đáng tiếc “đời trai nửa chừng xuân” . Thôi! Cũng đành co thắt ruột gan, bặm môi le lưỡi, nghiến răng trèo trẹo, rồi răng trên cắn môi dưới, Hành cắn môi muốn tươm máu vành môi mà liều mạng cùi vậy.
Một vài phút sau, khi chiếc phi cơ anh bạn ở ngay trước mặt của mình đã cất cánh, Hành chuẩn bị, báo với đài kiểm soát không lưu lần cuối. Hành tống ga chạy nhanh trên phi đạo. Phi cơ rời đường băng, khi đã đạt trên 120Knots (Hành đoán độ chừng khoảng: Knot = nautical mile = là một hải lý = 6080feet = 1km60). Đến cao độ đã được ấn định, Hành kéo cần ga, cho phi cơ bay chậm lại, quẹo về hướng định sẵn. Bên trong buồng lái, có bảng phi kế đầy dẫy những đồng hồ tròn tròn, nho nhỏ chiếu sáng: xanh, đỏ; làm cho anh chói mắt. Hành không thể nào xem bản đồ, check lộ trình bay được. Hỡi ông Trời quơi! Độ chừng ba mươi giây sau, khi bay ra khỏi tầm nhìn của sân bay, Hành tống thêm ga bay nhanh hơn, cao hơn, Hành cố ý bay nhanh, để dò tìm thằng bạn đang bay phía đằng trước phi cơ của mình.
Thế rồi, quả nhiên Hành đã nhìn thấy ánh đèn sáng chớp chớp của “nó, Navigation” (dẫn đường) đang bay ở đằng trước! Cám ơn thằng bạn “hồng nhan tri kỷ” lúc nầy nghen. Mừng quá chừng khiến Hành cười rú lên… Ha ha ha…! Hành cảm thấy khỏe re như con bò kéo xe không có hàng hóa chẳng chở đồ đạc gì đang đi te te!!! Vì, theo thông lệ quốc tế bắt buộc: Trên mỗi chiếc phi cơ khi bay trên không trung, phải có các bóng đèn liên tục chớp tắt "Navigation Lights" như sau:
- Bên trái là: Bóng đèn màu xanh lơ.
- Bên phải là: Bóng đèn màu trắng.
- Phía trên đầu cuối cánh trái là: Bóng đèn màu đỏ. (Red 110/o)
- Phía trên đầu cuối cánh phải là: Bóng đèn màu xanh lá cây. (Green 110/o)
- Phía cuối cùng của đuôi phi cơ: bóng đèn màu trắng (White 140/o)
{ *** Chú thích của HQPD : vị trí & màu đèn không hành:
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1476142323-aircraft-position-lights-400x266.jpg }
Thế là Hành cố nặn óc moi trong đầu những bài học hóc búa ra: cứ nhìn theo chiếc phi cơ bay trước mặt, nhìn các bóng đèn chớp tắt kia, là mình nhớ và biết ngay. Hành mừng rỡ hớn hở… lại vui vẻ vi vu huýt gió, ung dung rung đùi à nha. Hành tà tà bay theo sau chiếc phi cơ kia. (Nếu nó đi lạc, thì chắc chắn 100% là Hành sẽ đi lạc theo “hắn”! Ồ! nếu rủi ro bị như vậy, chắc là Hành không còn coi “thằng nớ là hồng nhan tri kỷ”, và Hành không hẳn chỉ buồn năm phút đâu, mà buồn trăm năm với cái thằng “hồn nhạn” í chớ!).
Đoàn khu trục bay đi hùng dũng
Để lại phi trường nỗi nhớ nhung
Tiếng máy gầm vang gây gió thét
Tua tủa lao mình khoảng không trung. (Thiên Phong).
May thay, sau khi phi cơ của Hành “lẽo đẽo bám dính đít thằng bạn dễ thương cuả mình”, anh đã bay được qua năm thành phố, trong vòng hai giờ đồng hồ, rồi bay trở về! Khi đã nhìn thấy sân bay nhà, Hành quá sung sướng an tâm cho chuyến… “đi đến nơi về đến chốn”! OK! Sound and safe! Lấy lại tự tin, anh “chơi” một cú đáp quá êm, quá đẹp… “như để” ! Đến nỗi những người trực ở đầu phi đạo, họ phải thốt lên lời khen:
- Real nice landing!
Thực là hai lỗ mũi phồng to và hỉnh lên, thấy ớn. vì mình “bặm trợn gan lì như…trâu”! Hành sung sướng hãnh diện làm sao! Phấn khởi quá chừng chừng. Anh vội mở canopy ra cho mát mẻ sản khoái chút xíu. Không ngờ bụi ở đâu ập vào la liệt mịt mù. Báo hại thật! Thay vì quẹo vào Taxiway, Hành lại chạy ra bờ cỏ ven phi đạo. Suýt tí nữa thì Hành rơi đài, đụng rớt rụng hai quả dừa nước teo tóp tí hon lủng lẳng rồi. Vì bên ngoài thảm cỏ, đất mềm, có thể bị “sụp” ngay. Cũng may mắn anh lanh lẹ (trong hốt hoảng bàng hoàng), Hành cũng nhớ ghì kéo nó lại được:
Có nhiều cái rộng và dài phát ngáp
Đáp một lần thì đã thấm vào đâu? !
Nhiều cái thì ngắn đến phát rầu,
Lại chật hẹp ôi ! thật là khó đáp
Có lắm cái cỏ hai bờ rậm rạp
Có cái không cỏ mọc hoặc lai rai
Theo luật thì kể từ buổi sơ khai
Chính giữa nó có một đường kẻ sẵn
Nhìn cho kỹ có cái trông rất phẳng
Cũng có khi lõm ở giữa hoặc mô
Miền Cao nguyên nó thường đỏ lại gồ
Ở thành thị nó đen vì có nhựa (Thơ Kha Lăng Đa)
Hành lập cập run rẩy đưa phi cơ trở về vị trí đậu an toàn. Còn một chút nữa là mang tiếng: “Đi sông, đi biển không chết; mà lại chết vì cái lỗ chân trâu”! Kể ra kết thúc chuyến bay đêm thật hoàn hảo ấy chớ, Hành vui vẻ sung sướng "phẻ re" biết chừng nào. Anh cảm thấy thế nào là mừng vui đã thoát nạn trong an toàn hạnh phúc! Tuyệt vời làm sao ấy! Lúc đi bộ trở về barrack gần ba giờ sáng, thế mà lòng Hành hân hoan mừng rỡ thú vị lắm. Vì anh đã vượt qua được lần thứ nhì trong cánh cửa “vũ môn".
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
10-09-2016, 07:09 PM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1476133534-b. fico bay trg mây.jpg

Tinh Hoai Huong
11-22-2016, 07:06 AM
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1479797679-al KQ PD237.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd616/1479798131-TINH THU cua LINH - Tuan Vu.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 15
Bản Lãnh SVSQKQ
Tình Hoài Hương
***


Hồng Hạnh ơi,
Nhân ngày lễ Thanksgiving, anh kể hầu em vài chuyện “buồn cười nhỉ” do các bạn sưu tầm thiệt vui, và chuyện thật trong đời sống của anh (về những ngày xa quê hương) nhen em: hy vọng em sẽ cười, hết hờn giận anh nhé. Hi hi... Mặc dù anh biết có thể là em không muốn đọc thư anh (vì anh “hư” quá, đôi lúc anh làm điều sai quấy, khiến em đau buồn mà). Nhưng anh cứ viết tiếp cho em thư nầy, em có thể đọc khi vui, lúc buồn hay nhớ nhung… đến “ai đó”… Bởi vì:
Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên (Thế Lữ)
* Anh bắt đầu kể chuyện tiếu lâm mà bạn hoặc anh đã sưu tầm nè:
Một hôm tui đi vào khu shopping, thấy ba cô gái đẹp đi ngược chiều với tui. Trong đó có một cô mặc quần Jeans đã quên kéo zipper lên. Đi gần tới ba cô, tui nhìn lên trời nói: "Everybody checks your zipper, please!"
Cả ba cô nhìn xuống, cô mặc quần jeans xoay vào tường rồi kéo zipper lên. Cô liền chạy theo tui nói rất nhỏ: "You too!"
Vì nghe không rõ, tui tưởng "thank you", nên tui nói: "No problem."
Tức quá cô ta chỉ ngón tay ngay đó và nói: "You too."
Tui quê quá nhìn cô cười hi...hi... rồi kéo zipper lên, mà quên xoay vào tường.
* Một phụ nữ toàn diện là phụ nữ: sáng diện, trưa diện, chiều diện! Tối diện. Vậy thì: Thất bại lớn nhất của đời con là không bỏ được nó. Bi ai lớn nhất của đời con là phải sống với nó. Sai lầm lớn nhất của đời con là quyết định lấy nó. Tội lỗi lớn nhất của đời con là nghe nó. Đáng thương lớn nhất của đời con là bị nó sai khiến. Mặc dù ta biết: Tình yêu là vĩnh cửu. Và chỉ duy nhất một thứ được phép thay đổi: Ðó là người yêu. Do đó: Sau lưng người đàn ông thất bại là người đàn bà xúi dại. Sau lưng người đàn ông thành công là người đàn bà ngồi không. Sau lưng người đàn ông thành đạt là người đàn bà đánh bạc. Sau lưng người đàn ông long nhong là người đàn bà long đong. Sau lưng người đàn ông ngoại tình là người đàn bà ngồi rình. Sau lưng người đàn ông bất lực là người đàn bà rất bực. Sau lưng người đàn ông yếu đuối là người đàn bà...chán chuối...(*) ha ha ha ...
***
Sau đây là những chuyện có thật của khoá sinh sinh viên sĩ quan Không-quân; anh vào chuyện nhen:
* Các anh đang học bay ở Randolph AFB (Texas). Ở ngay đầu sân bay, có một trại chăn nuôi mấy chục ngàn con “gà Tây” (Turkey). Ông chủ trại tên Joseph lầm lì, đã làm một cái chòi gác cao ngất, ông đặt một khẩu súng đại liên 20 trên đó. Ông doạ:
- Tôi sẽ bắn rơi tất cả chiếc máy bay nào, mà bay sà xuống thấp. Liệu hồn.
Vì trại của ông chăn nuôi vài ngàn con gà Tây, chúng rất sợ tiếng phi cơ gầm rú, khi đáp xuống, hoặc khi cất cánh. Chúng sợ hãi inh ỏi kêu quang quác, bay tán loạn, và tịt ngòi nín thở ngừng đẻ trứng. Khiến trang trại của ông thường bị thua lỗ đậm. Nên ông ta tức giận vô cùng và cương quyết làm “căng” như vậy! Thật ra, khoá sinh không quân cũng có lắm anh khoái chí thích chọc ghẹo, tinh nghịch quá chừng! Họ ưa bay là là sát mái nhà, rượt đuỗi đàn gà của ông ta nhốn nháo chạy té re, xịt cả phân ra ngoài. Cho nên ông ta mới giận dữ, hăm doạ ấy mà. Thế là, trường ban lệnh cấm: Các anh không được bay dưới thấp quá 300 feets.
* Có một lần, các anh đi học Ground School (học lý thuyết dưới đất) thì bọn Mỹ gốc Xì, được trường thuê mướn quét dọn phòng ốc, đã đình công. Họ đòi tăng lương, nên không chịu làm việc. Lớp các anh có mười người sĩ quan tốt nghiệp ra trường cả. Lên lớp, ông đại úy Mỹ rất “kỳ thị chủng tộc”. Y nhấn mạnh từng câu nói:
- Tụi Xì đình công. Thì tụi bay phải làm thay tụi nó, quét dọn lớp cho sạch sẽ.
Vinh đứng ra chất vấn nó:
- Tại sao?
- Tụi bây cũng là coloured people.
- Chính phủ ông mời chúng tôi sang đây, là đi học bay. Vậy thì, dù chúng tôi có là da màu chăng nữa. Không làm.
- Chúng tôi vẫn là Guest. Chứ không phải là Servant của mấy ông.
- Ông không được nói thế.
Các anh khoá sinh Không-quân Việt Nam và hai anh Đại Hàn cương quyết không chịu làm. Thế là tên đại-uý tức mình, chưởi mắng các anh đủ thứ tiếng lóng. Nó gọi người Việt Nam là Goddamn Gook. Hoà đã gây lộn với thằng Mỹ ấy khá lâu. Chính Thanh dũng cảm đi lại gần nó, Thanh lầm lì không nói không rằng, anh từ từ lấy cái ghế đẩu gần đó, kéo sát lại. Vì Thanh chỉ cao đến ngực thằng Mike, (trong khi Mike cao 1m98). Thanh từ từ leo lên ghế, giơ thẳng cánh tay thoi một cú đấm rất mạnh vào giữa mặt thằng kia. Mike xịt toé máu mũi, văng máu tùm lum, tà la. Thấy vậy, cả mười khoá sinh sĩ quan Việt Nam và Hàn Quốc bao vây nó lại. Thằng Mỹ sợ quá, vừa la vừa co giò chạy lên “méc” ông chỉ huy trưởng.
Ông Đại Tá và ban quân huấn xuống ngay. Các bạn đẫy anh và Vinh ra nói chuyện, vì dù sao tiếng Anh của hai anh cũng có đủ khả năng đối chất lưu loát. Công nhận người Mỹ thật hay! Mike biết lỗi, nó đi bắt tay từng người, xin lỗi cả lớp. Nó từ tốn gọi tụi anh là các "ông sĩ quan" đàng hoàng. Từ đó, Mike thân thiện, hiểu biết hơn, không có thái độ khinh khi người da màu nữa. Tuy nhiên, vì Thanh phạm kỹ luật nhà trường, nên bị báo cáo về Việt Nam. Họ “đì” Thanh “tới bến” hoài. (Sau nầy không cho Thanh đi bay. Nhờ đó mà Thanh còn sống sót đến bây giờ. Nay Thanh làm đủ thứ nghề, chạy xe ôm, sữa xe đạp... Cuối cùng, Thanh cũng ra đi vĩnh viễn, vì bệnh ung thư yết hầu).
* Thường thường, vào hai buổi chiều Thứ Bảy, Chủ Nhật cuối tuần, thì nhà trường có những chuyến xe bus quân sự miễn phí, họ chở các sinh-viên sĩ-quan Không-quân ưa đi ra bờ biển chơi. Hay đi về những thành phố gần đó để ăn uống, giải trí. Thế nên, cứ chờ đến cuối tuần là bọn anh vui vẻ ra bờ biển, ngồi trong các bar uống nước, uống bia, hay dùng tí xíu rượu nhẹ giải khuây. Các anh đang ngồi nhâm nhi bia, và tán dóc, hỏi đố nhau, mỗi thằng chêm một vài câu vô hại, có lợi để vui vẻ khoái chí cười ha hả:
Tại các quán kia, có những cô gái tóc vàng, mắt xanh, họ còn rất trẻ, và dĩ nhiên đa số họ khá đẹp, các em ấy là sinh-viên, đi làm thêm partimes mùa Hè, họ muốn tự lập và tự tin để kiếm tiền mua sắm, xài vặt, hoặc đóng tiền học. Vì thế, các quán bar luôn luôn vui vẻ ồn ào nhộn nhịp, đông đúc. Ầm ỉ hết biết. Đến quán uống bia, hay uống nước ngọt, thì các anh thích ngồi gần cửa ra vào, cho thoáng. Và; hầu hết các anh Không-quân nầy ưa bày cho các em gái những ý hay, nên các anh được sự mến mộ của mấy em tiếp viên. Ví dụ như bạn anh nói với mấy em:
- To give a shine to hair: Add one teaspoon of vinegar to hair, then wash hair (muốn cho tóc được óng ả: bỏ một muỗng cà phê giấm lên tóc, rồi gội sạch).
- To avoid smell of cabbage while cooking: Keep a piece of bread on the cabbage in the vessel while cooking (muốn làm bớt mùi bắp cải khi nấu: để một miếng bánh mì trên bắp cải trong nồi khi nấu.)
- To boil eggs quickly : Add salt to the water and boil. (muốn luộc trứng nhanh chóng: bỏ muối vào nước và đun sôi.)
- To whiten white clothes: Soak white clothes in hot water with a slice of lemon for 10 minutes. (muốn tẩy trắng quần áo màu trắng: ngâm quần áo màu trắng vào nước nóng có bỏ một lát chanh trong vòng 10 phút).
- To rid the smell of fish from your hands: Wash your hands with a little apple vinegar. (để tẩy hết mùi tanh của cá trên tay: rửa tay bằng một chút giấm táo) vân vân ...
- Hi hi hi... ha ha ha...
Thế nên, có một nhóm Hoologans bất cần đời, coi người khác như pha, đi đâu chúng cũng dàn hàng ngang, giạng chân ra, rú xe mô tô có phân khối lớn, khói bay mù mịt, bóp còi kêu inh ỏi. Tụi nó to cao, dềnh dàng, vạm vỡ, mặt mày bặm trợn, nghênh ngang và xâm vô thân thể chằn chịt những hình thù dị hợm trông quái đản, chẳng giống ai. Vì thế, chúng thấy đám sinh viên Việt Nam hào hoa lịch sự, được các cô vui vẻ tiếp đãi ân cần nồng hậu. Thế là, “tụi nó” tức giận, chễm chệ ngồi lên cái bàn nầy, mà gác chân qua bàn kia, chúng “phồng man trợn mắt” quyết tìm cách gây hấn với “tụi anh”. Lần nào tụi anh cũng gặp bốn năm tên ngồi đối diện “nghênh” chiến. Hoặc đi ngang qua bàn các anh ngồi, chúng cố ý đụng bàn, đá ghế, phà thuốc lá thẳng vô mặt các anh, làm đổ ly nước ngọt, hay ly bia lên lưng, lên vai các anh. Chúng tỉnh bơ lỏ mắt ra “nghinh” với mình nữa chứ. Hiền nói:
- Tao đã nói mà: Tụi mình “xuất quân” yên hùng anh dũng từ Việt Nam qua Mỹ vào cái ngày đầu tháng một tây, ấy là ngày Chủ nhật, thì luôn luôn có “thứ 6 ngày 13” ; nên tụi mình bị xúi quẫy, xui xẽo hết biết.
- Xui cái gì! Sợ “rúm ró” bọn côn đồ, thì nói…
- Không phải là sợ, nhưng mình dây dưa với bọn du thủ du thực, du đãng làm gì; nhất là do mình mang bộ quân phục Không-quân thật không có lợi. Nếu mình mặc thường phục thì chưa chắc à, ai sợ ai.
Nghĩ phận mình nhỏ con, nhất là vì trên người đang mang bộ quân phục Không-quân, nên các anh không muốn gây ra rắc rối phiền phức, hay kết bè cánh, tạo “băng đãng” tại địa phương xa lạ làm gì, cho mệt; cho nên tụi anh đành phải nhịn nhục. Nhưng trong lòng mỗi đứa đều cảm thấy ấm ức, bực bội, tức giận kinh khủng! Chả lẽ mình hèn, cứ cúi đầu chịu nhục, nhút nhát ru rú trong nhà không dám thò mặt ra phố, để cho chúng nó lên mặt vênh váo ăn hiếp mình hoài sao ta!? Về trường bay, tụi anh vẫn hậm hực, tức giận, sôi nổi bàn tán chuyện nầy. "Ông nội Vinh" giận nhất, hăm he phải tìm cách nào đó, để "phục thù rửa hận" mới thôi. Thanh niên khóa sinh giơ thẳng hai tay lên trời, đồng ý với Vinh cái rụp: “give me five”.
Khi đó hai anh sinh viên sĩ quan Không-quân gốc Đại Hàn trong trường bay, tướng tá của họ oai phong lẫm liệt, trông vạm vỡ ngon lành. Họ là hai võ sư Đệ Tứ Đẵng Karatedo và Taekwondo. Hai anh nầy thường nghe tụi anh kể lại chuyện nhóm Hoologans. Một hôm họ nói với tụi anh:
- Để chúng tôi “trị tội” bọn “mất dạy” kia cho. Yên trí đi.
Tưởng là họ chỉ nói đùa cho yên chuyện, nhưng thế rồi, một buổi chiều Thứ Bảy cuối tuần, các anh sinh viên sĩ quan Không-quân vui vẻ hớn hở đi cùng hai anh Đại Hàn, ra quán bar. Vì hai anh Đại Hàn là người Á Châu, nên người Mỹ nhìn thoáng qua coi vóc dáng diện mạo của hai anh nầy, họ không thể phân biệt quốc tịch chủng tộc người Việt Nam và Đại Hàn khác nhau gì mấy. Hai anh kia bàn tính:
- Nếu có đụng độ trong quán. Các bạn cứ chạy ra phía ngoài, gọi mấy chiếc taxi, các bạn ngồi hết trong xe trước. Chờ sẵn chúng tôi ở trên xe đó nhe. Còn trong quán, thì để chúng tôi “làm gỏi” mấy tên “cao bồi, du đãng” nầy một lát, là “xong béng”. Rồi khi thấy hai đứa tôi chạy ra khỏi cửa, thì mình cùng nhau dzọ lẹ, cho xe taxi chạy vù về căn cứ bay. Nha.
Hôm sau, bọn “cu bồi kia” vào quán vẫn thấy đám anh ngồi nguyên ở chỗ cũ. Theo thường lệ chúng vẫn ngang nhiên đi lui đi tới, nghêng ngang đá bàn, đá ghế, và “cà nghinh, cà bật”, ngổ ngáo, bặm trợn. Coi chẳng giống con giáp nào, chẳng giống con cầy con lợn nào. Hai anh Đại Hàn ngồi ở bàn kế bên bàn các anh, họ nháy mắt nheo mày nháy nhó với tụi anh, gật gù tủm mỉm cười cười.
Vinh bình thản kêu cô tiếp viên tính tiền. Mấy anh Việt Nam nhẹ nhàng thối lui, cùng ra ngồi chờ sẵn trong ba chiếc taxi để cửa xe mở toang, rồ máy xe chờ sẵn. Không nói chẳng rằng, hai anh Đại Hàn từ từ đứng dậy, ung dung tới bên hỏi chuyên bọn chúng; rồi nhanh như chớp hai anh nhào vô bọn chúng. Họ “nện” cho mấy tên kia một trận đòn đích đáng, họ “dợt” mấy tên kia những cú chưởng huyền bí tung lên ném xuống, như mèo vờn chuột, thiệt nên thân. Bảo đảm không đẹp mắt không ăn tiền! Thiệt là xem những chiêu tuyệt hảo hơn coi phim Hàn Quốc. Rồi hai anh Đại Hàn kéo nhau chạy ra xe. Cả nhóm anh sung sướng cười nói hớn hở vui vẻ thoải mái quá chừng. Xe chạy riết về căn cứ Không-quân. Nhưng khổ nỗi, khi hai anh Đại Hàn vừa ban “hậu ơn”, cho chúng bài học xứng đáng nhớ đời xong, họ vừa chạy ra xe taxi, hai anh Đại Hàn cứ la to:
- Việt Nam muôn năm. Việt Nam muôn năm!
- Good boy!
Ngày hôm sau, các báo địa phương đăng tin thú vị:
- Có một nhóm sinh-viên sĩ quan Không-quân Việt Nam vào quán bar, họ bị các tay kia làm nhục nhiều lần. Nay họ đã ẩu đả với bọn Hooligans. Khiến có mấy tên bị thương nhẹ. Một tên gãy xương quai hàm. Một tên gãy tay. Một tên long đầu gối, què chân. Từ đây xin đừng ai dụng chạm, hay “kỳ thị” đến người Việt Nam nữa nhé.
Tin nầy chấn động cả thành phố nhỏ. Thật hả hê sung sướng vui mừng trong dạ làm sao! Trong bụng tụi anh đều mở cờ tung bay phất phới, hân hoan vui vẻ không thể tả! Có điều hơi phiền toái là: Tin đó được đưa lên tận phòng Tùy Viên Quân Sự Việt Nam, (tại Toà Đại Sứ Mỹ). Than ôi! Ít lâu sau, có một ông sĩ quan liên lạc bay đến. Ông mời cả nhóm Việt Nam lên phòng hội. Khi tụi anh vừa bước vào phòng, ông ta lịch sự chỉ ghế mời khoá sinh Không-quân Việt Nam ngồi. Ông lắc đầu, nhướng mày lên, cười cười:
- Các anh cứ thú thật với tôi đi. Ai đã đánh mấy thằng Mỹ bị thương? Chứ các anh nhỏ con, làm sao mà đánh đấm tơi bời cái bọn có dao găm kia. Đến nỗi chúng bị gãy tay, lọi giò, gãy răng đó? Hở?
Tụi anh đành kể lại hết và thú nhận. Ông ta cười vang không nói gì. Mọi chuyện rồi cũng ổn thoả thôi. Về sau, mỗi lần có người Châu Á đi ra phố, đa số thị dân đều đón tiếp ân cần, trịnh trọng. Vì họ nghĩ: Người Việt Nam bé nhỏ nầy, nhưng Việt Nam là “Hero. Võ công cao cường”. Đám “cu bồi” đó chẳng dám hó hé quậy tưng trời như xưa nữa. Mấy anh khoá sinh Không-quân Việt Nam đã dẹp sạch lũ Hooligans ngoài bờ biển thật rồi. Nhân đó, tên Vinh đẹp "giai" nhà ta, được qúy nàng mắt xanh siêng năng tận tình, vui vẻ ưu ái chiếu cố âu yếm “vuốt ve cưng nựng” nhiều hơn (anh nhờ đó mà “hưởng lộc tí xái”! Hi hi hi…).
* Đến giờ vào lớp rồi em ạ, thế nên trước khi anh bước vào những câu chuyện định mệnh sầu đắng, anh xin dừng bút tại đây & tạm biệt em nhé. Không quên chúc em vui vẻ, trẻ đẹp và siêng năng chăm chỉ học tập, cho anh nhờ… Anh gởi lời kính thăm ba má của em, các anh chị luôn an mạnh. Nhen. Anh nhớ em nhiều.
Anh,
LPH
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
01-19-2017, 10:25 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 16


http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1484822052-a.l 72doan haiquan.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadpics/mp3_pdf/1484822709-Linh xa nha - Duy Khanh.mp3
Muốn Học Khoá Huấn Luyện về NAVY
Tình Hoài Hương
***


Em gái thương,
Lâu nay, do anh quá lu bu bận rộn đủ thứ chuyện trên trời dưới đất linh tinh, nên anh ít viết thư gởi về em gái và gia đình. Thông cảm hen. Trước là anh kính lời hầu thăm ba má, anh cầu mong ba má chúng mình luôn dồi dào sức khoẻ, bình an (có lẽ ba má ưa nhắc đến thằng con giang hồ, ham lãng du phiêu bồng đó đây nơi xứ người, mà quên đường về cố hương, hay sao? Nên anh cứ hách xì nhảy mũi, nóng ruột quá đi. Nên hôm nay anh mới viết thư cho em đây). Hãy thưa với ba má là anh vẫn bình thường (anh chỉ nói với em câu sau nầy: Anh khoẻ re như con bò kéo xe), để trong tuổi già ba má vui vẻ, đừng lo âu gì cho anh hết. Nhen em. Sau là anh gởi lời thăm các anh chị, các cháu. Riêng em gái út cưng ưa nhõng nhẽo, thì “hay ăn chóng nhớn” học hành chăm chỉ, xinh tươi, ngoan hiền, thùy mị; em không “lí lắc giống con khỉ” như xưa, he he he… thì lúc nào trở về quê hương, anh sẽ tặng cho em những món quà bất ngờ… Em chịu chưa? Bây giờ anh trở về chuyện phi công nghe:
Đợt 23.-
Em à, nếu anh muốn chuẩn bị đi học khoá huấn luyện về NAVY (Hoa tiêu Hải Quân Naval Aviator) tuyệt vời, mà anh thường ấp ủ (xây mộng giang hồ qua bốn bể “ở trong lòng”). Nếu anh muốn được gắn cánh bay vàng của Hải-quân Navy Wings of Gold, thì ít nhứt anh phải có khái niệm về ngành nghề mình yêu thích. Anh cần biết sơ lược về các nhu cầu thiết yếu bắt nguồn từ đâu: các tiêu chuẩn, cơ cấu tổ chức của ngành Không-quân Hải-quân ra sao.

Nầy em, hãy nghe anh đọc và dịch ra từng đoạn từ sách vở. Nhân đó, cô em học trường đầm từ nhỏ ở Tiểu học (Primaire) – Trường Trung học (Secondaire) – cho tới năm em lên lớp Đệ Nhị (Tú tài: Secondaire Supérieure), thì em xin chuyển ra đi học tại trường Việt, để em có thể trau dồi thêm môn Việt-văn, vì em có ước nguyện sau khi lớn lên, em sẽ dạy môn Văn, Sử, Điạ… là môn em rất yêu thích. Ngoài ra ở trường Việt, em học thêm sinh ngữ B (Anh-văn là sinh ngữ phụ của em, và môn Toán, là hai môn học em yếu kém) nhé: Vã chăng đây cũng là một trong những đợt anh phải học đấy.

1/ Three Training Squadron (VT-3) - With World War II raging in the Atlantic and Pacific Oceans both Show and the demand for trained pilots at its peak, the first to bear the name Training Squadron Three Squadron was created. On February 15, 1943 (one week after the beginning of the massive air raids Bougainville and Rabaul Against Solomon in the Islands).
*(1) Huấn Luyện VT-3 - Với Thế Chiến thứ II diễn ra ác liệt ở Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, cho thấy sự nhu cầu đòi hỏi đào tạo phi công ở mức độ cao điểm, đã trở thành một ưu tiên. Phi đội huấn luyện đầu tiên mang tên VT-3 được thành lập. Vào ngày 15 Tháng 2 năm 1943 (một tuần sau khi bắt đầu các cuộc không kích lớn tại thành phố Bougainville, và căn cứ chủ lực Rabaul ở phía Nam quần đảo Solomon).
2/ Training Squadron Three Detachment 8-B (VN3D8-b) was under the command of LT Organized Thomas Bradbury at Saufley Field USN, Pensacola, Florida. VN3D8-B was relocated to Whiting Field, Milton, Florida on July 1, 1943 and was later joined by VN3D8-a form from Training Squadron Chevalier Field to Three. (Interesting to note, naval training squadrons Second World War là khi the Identified by the designator "VN".

*(2)- Huấn luyện VT-3, Biệt Đội 8-B (VN3D8-b) được tổ chức dưới sự chỉ huy của LT Thomas Bradbury USN tại Saufley Field, Pensacola, Florida. VN3D8-B đã được chuyển tới Whiting Field, Milton, Florida vào ngày 01 Tháng 7 năm 1943, và sau đó được tham gia vào VN3D8-A từ Chevalier Field. (Quan trọng cần lưu ý, các phi đội huấn luyện Hải Quân trong Chiến tranh thế giới thứ II đã được xác định bởi các thiết kế "VN").

3/ The "VT" designator, used by current Naval training squadrons, was used to denote Torpedo Bomber squadrons.) Throughout the costly struggle with the Axis forces, Training Squadron Three continued to train pilots in order replace those lost in combat/training operations and to man the units which would be needed for the final campaigns against the Japanese mainland.
On Sept. 2, 1945, following months of punishment by American forces, the Japanese military government signed the terms of surrender, and the struggle which had claimed the lives of millions came to a sudden halt. Eighteen months later in 1947, with little need for multiple training squadrons with which to train an enormous invasion force, VN-3 was decommissioned. VN-3 took its place in annals of Naval History as a squadron which took great pride in preparing the cream of America's youth for the defense of this nation and its ideals.

*(3)- Thiết kế huy hiệu "VT", hiện tại còn dùng ở trường huấn luyện Hải Quân Mỹ, trước đó cũng được dùng cho các phi đội ném bomb Torpedo. Trong suốt cuộc chiến tranh tốn kém với các lực lượng Axis, huấn luyện VT-3 tiếp tục đào tạo các phi công, để thay thế những người bị mất trong chiến tranh/huấn luyện, và điều hành với các đơn vị, sẽ là cần thiết cho các chiến dịch cuối cùng chống lại Nhật Bản.
Vào ngày 02 tháng chín năm 1945, sau nhiều tháng trừng phạt của lực lượng Mỹ, chính phủ quân đội Nhật Bản đã ký kết điều kiện đầu hàng, và các cuộc đấu tranh đó đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người đã bị ngưng đột ngột. Mười tám tháng sau vào năm 1947, với nhu cầu cho nhiều phi đội huấn luyện, mà để đào tạo một lực lượng xâm lược to lớn, VN-3 đã được cho ngừng hoạt động. VN-3 đã diễn ra trong ghi chép lịch sử của Hải Quân như một phi đội mà mất niềm tự hào lớn, trong việc mơ ước của giới trẻ Mỹ bảo vệ cho quốc gia và lý tưởng của nó.

4/ The current Red Knights of Training Squadron Three picked up the torch lit by their predecessors on May 1, 1960 and continued the legacy of "Training the Best for America's Defense". On that day Training Squadron Three (VT-3) was commissioned at South Whiting Field. Although the country was not at war (the Vietnam War would not reach its height until 8 years later) the squadron was tasked--utilizing the T-28 Trojan - to prepare a younger generation of student naval aviators in radio instruments, formation flying, and air-to-air gunnery.
In 1965, the air-to air gunnery was discontinued and flight familiarization and basic instrument training were added in its place.

*(4) Hiện nay Huấn luyện VT-3 Red Knights cầm ngọn đuốc thắp sáng bởi những người tiền nhiệm của họ vào ngày 01 tháng 5 năm 1960 và tiếp tục di sản "Đào tạo tốt nhất cho quốc phòng Mỹ". Ngày đó huấn luyện VT-3 được ủy quyền tại South Whiting Field. Mặc dù đất nước đã không có chiến tranh (Chiến tranh Việt Nam sẽ không đạt được tỷ lệ cao cho đến 8 năm sau) phi đội được giao nhiệm vụ - sử dụng máy bay Trojan T-28 - để chuẩn bị cho một thế hệ trẻ của sinh viên phi công Hải Quân trong các dụng cụ radio, bay hợp đoàn, và không chiến. Năm 1965, máy trang bị súng phòng không: không còn tiếp tục và được thay thế các dụng cụ huấn luyện.
***

Hẳn là em mệt đừ rồi vì tiếng Anh tiếng U phải không? Thế em mới biết thương anh và các bạn của anh (đang ở nơi đất khách quê người, luôn luôn phải đương đầu với “chông gai, thử thách và bão tố” ập xuống đời trai: từ chuyện chữ nghĩa, học với hành); “rồi hành với học” đến đừ đẫn ê ẩm dật dờ thân xác & ngao ngán! Nói chơi vậy chớ chẳng phải như vậy đâu nghe em. Em đừng tưởng bở, làm biếng, em không trau dồi Anh-ngữ, thì lúc anh về, em sẽ bị anh cú cho u đầu, sưng chù vù cả trán nữa. Đến đây, anh lại sực nhớ chuyện ngày xưa: anh kèm em học môn Toán và Anh văn, lúc đó sao anh nóng như lửa ha (vì cái ngu “dốt đặc cán mai” của em), anh tức giận đã cú nhiều lần lên đầu, và búng trán em mấy cái. Khiến em lấy tay xoa lia lịa trên đầu tóc em đã bù xù (mới bị anh cú), và cái trán của em sưng u một cục. Em khóc thiệt to hu hu hu như bò rống, nước mắt nước mũi tùm lum.

Anh ngẩn người nhìn em có chút thương cảm, lúng túng và hối hận. Em liếc thấy anh đang xìu mặt xuống, thì được trớn em càng khóc la to hơn, phụng phịu giận dỗi nhảy đành đạch. Khi đó anh nói: “Ái chà! con nhỏ nầy dữ thiệt à nghen”. Anh muốn hạ giọng an ủi em xí, nhưng nghĩ lại mình không nên dỗ dành "con nhỏ" làm gì, cho nó lên mặt làm tới, làm nư, làm tàng, làm dóc... tổ, thì cái ngu vẫn đeo bám, khiến em chẳng thể thông minh hơn. Anh cầm cây thước xỉ xỉ tới trước mặt em, khiến em sợ anh đánh đòn, đã chạy vô núp trong phòng, mà thút thít khóc. Bi giờ nghĩ lại, anh cảm thấy thương em làm sao ấy. Anh trai nầy xin lỗi muộn nhen. Anh đã được “tiêm nhiễm” ở xứ Mỹ văn minh tiến bộ, nên không có chuyện anh sau khi trở về nhà, anh sẽ “ăn hiếp em” như dạo ấy nữa. Đừng lo nha.

Em biết không, trở ngại lớn nhất trên đường đời, làm cho anh nhụt chí mềm lòng khi muốn đi tới thành công, trước tiên là vì do tính anh, tuy con trai đàn ông đó, nhưng coi vậy mà có chút đa tình ủy mị trong tình cảm. Ngay cả lòng tự trọng và cố chấp cũng cản trở bước tiến của anh không ít. Anh bị những thứ “tự tôn” làm cho mờ mắt, anh đã không thành công ở lãnh vực nào đó. Anh có thể vạch ra cho mình một con đường tươi sáng, thành đạt mà anh đã chọn, nhưng vì lòng tự trọng đã trói chặt bản thân anh. Ví dụ thứ nhất về chuyện tình của anh với Huyền Nị, mà em cũng như gia đình mình đã tưởng “anh chị” sẽ có kết cuộc tốt đẹp. Ừ! Cũng là chữ “kết” đó; nhưng kết quả chỉ là kết thúc. Nào ai có ngờ… nhỉ!

Do nghe theo ý kiến và sự nài nỉ ỷ ôi của Huyền Nị chỉ thích sau nầy anh trở thành một “luật gia” thao thao bất tuyệt nổi đình nổi đám! Thì đó, anh đã đi học Luật Khoa hơn một năm, một nghề mà anh không cảm thấy hứng thú và yêu thích, nên anh chán quá sức, vì mình không có tài hùng biện, thì phải! (thay vì anh thích đăng vô Không Quân). Ngay bước đầu anh biết chọn ngành Luật là sai, mà vì tình yêu, ủy mị, nể nang, nghe Huyền Nị, anh chưa chính chắn suy nghĩ. Có thể về sau nầy, lúc cả hai đã thành vợ chồng rồi, “ngựa cũ quen đường xưa”, nàng vẫn “quen thói chỉ huy” chồng. Anh thì... lấy lòng khoan dung, nhu nhược, yếu thế hơn, vì những giọt nước mắt của nàng lấn áp. Do quá tình cảm, anh vẫn nể mà “xót xa rung động”, để rồi anh sai hoài, tiếp tục lún sâu vô sự điều khiển, và cảm nghĩ của riêng nàng, thì anh không có cách gì gỡ ra được. Thử hỏi, lúc đó anh là “cái thứ gì”, ngoài việc anh trở thành một con rối, một hình nộm vô tri vô giác? Nên xa… là phải không nào.

Bây giờ anh trở lại chuyện chính về ngành Naval Aviator tại Pensacola thuộc Tiểu Bang Florida, nơi mà anh đã có dịp học và hành… là một cuộc chiến dài và đơn độc, tự bản thân mình kiên trì đấu tranh, nhẫn nại mà tự vươn lên. Dù anh học và hành chưa giỏi hơn ai ở vài lãnh vực nào đó. Anh không thể ỷ lại, nhờ thầy thôi thúc và nâng vực anh đứng thẳng lên trên đôi chân (sau những lần sai phạm, vấp ngã). Ví như khi anh leo núi quá chậm, cảm thấy mệt mỏi, đuối sức, ấy là lúc anh chán nãn làm sao! Trong thâm tâm anh mong ước: phải chi ở trên đỉnh núi kia, có bậc thầy đã dày dạn kinh nghiệm, từng trải, người ấy đang thòng sợi dây xuống giúp, cho anh run rẩy cột sợi dây vô thân (cột vô thân thể, hay “cột cổ” mà lôi anh lên, cho thắt họng anh nghẹt thở đây!?).

Em có nhớ hồi xưa lúc còn nhỏ, chúng mình đi ra góc cầu Huỳnh Thúc Kháng ở Huế, tại bờ sông chúng ta coi một người đàn ông đã treo thân tòn ten trên nhánh cây đa, hai tay và hai chân ông ta thòng xuống. Khi gió lùa qua, thân hình ông ta lắc lư, đu đưa… đầu gục xuống, cổ ngoẹo qua một bên, hai con mắt dường như muốn lồi ra ngoài, nhưng ghê gớm nhất là cái lưỡi le dài ơi là dài trên khuôn mặt tím bầm. Thật kinh khủng. Chúng ta rất sợ, đã ù té chạy, hoảng hốt đến nỗi té lăn cù, trầy trợt nhiều chỗ ở cánh tay, bàn tay, đầu gối chảy nhiều máu, mà chúng ta không hề biết đau. Em còn nhớ không vậy!?

Nay, dù đã lớn khôn, nghĩ đến lúc anh sẽ bị “thắt họng”; bỗng dưng anh vẫn sợ điếng hồn… Nên, anh phải kiên trì tự vươn lên, để vượt qua trở ngại từ ngọn núi đá... là bản ngã che chắn của chính mình. Đây là ngọn núi lớn đầu tiên trong đời, mà anh phải kiên định cương quyết vượt qua. Anh biết rằng: Khi anh đã leo được lên đỉnh núi ấy, (như lớp đàn anh, và bao chàng sinh viên sĩ quan Không-quân khác); Đấy là lúc anh có thể phát huy hết khả năng, để đạt đến kết quả mỹ mãn, không những cho nhiều buổi học và hành bây giờ, mà sẽ ứng dụng phong phú cho cuộc đời mai sau.

Hẳn là em cũng thừa biết “cái triết lý vụn” của anh: Ngọn núi càng cao, càng hiểm trở, thì tính hiếu chiến hiếu thắng từ anh (& đa số chàng trai) ai cũng muốn chiến thắng chiếm hữu nó càng dâng cao độ. Anh có cảm tưởng khi anh đã đứng trên chóp núi, nhìn bao quát chung quanh, nhìn xuống chân phía dưới mặt đất, thì dường như anh có hào hứng, vui vẻ và hân hoan mà tin tưởng: khi mình lái chiếc phi cơ chạy trên đường băng, chuẩn bị sẵn sàng để cất cánh bay bổng vào không trung. Vì, sau khi ra trường đời, anh cần vượt qua nhiều ngọn núi cao, càng cao… và khó khăn hơn bây giờ gấp bội.

Việc học hôm nay không những nhằm mục đích rèn luyện trí óc, mà còn luyện tập thân thể khoẻ mạnh cường tráng: ăn uống, nghỉ ngơi, giải trí, xem tivi coi thời sự, đọc báo, v.v... Tất cả mọi thứ đó không những vừa luyện tập, vừa tập trung để nhớ và nghe bên ngoài; mà còn lắng nghe được nội tâm của người khác (hoặc chính mình) muốn gì. Nghĩa là chính ta biết mở rộng vòng tay trong đời sống, biết được giá trị của lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Việc nầy, tuy quá phức tạp lẫn khô khan, nhưng anh và hầu hết mọi người đã thành công rồi nhen:

Đợt 24.-
Anh trở về chuyện thực tế nha: Sau khi vào cổng trường, ta có thể nhìn bao quát chung quanh, nào là: barracks, hangars, mess hall… trước khi đến viện bảo tàng. NAS vẫn, đã, và đang tiếp tục làm nhiệm vụ như từ trước tới ngày nay. Trong building ở NAS (Naval Air Station) có một viện bảo tàng đồ sộ và quy mô “Museum of Naval Aviation” chưng bày khoảng 150 phi cơ đủ thời đại, phong phú và đa dạng của Navy, Marine Corps, Coast Guard Aviation, Naval Flight Officers, Blue Angels Navy Flight Demonstration Squadron… trên một diện tích 350,000 square feet of exhibit space & outside its 37- acre grounds. Họ mở cửa cho dân vô xem free từ 9am tới 5pm.
* Trong chương trình nầy, khoá sinh phải học bơi thêm và bơi thành thạo với Hải-quân: (lại bơi ếch, bơi ngửa, bơi sấp, bơi tự do, v.v…). - Học ở “Dilbert Dunker”, mô hình giả có cái mỏ hình cung giống buồng lái của máy bay (trong hồ bơi). Nói tới “Dilbert Dunker” thì khỏi chê: người ta đặt anh ngồi vào một cái ghế sắt tương tự như cockpit (phòng lái) của phi cơ nhỏ T-34, gài dây an toàn shoulder harness và safety belt, kéo anh lên tuốt trên đỉnh của giàn phóng, cao khoảng chừng 10 m, khi huấn luyện viên thổi tu huýt, họ buông cái ghế cho rơi theo đường ray chúi xuống chừng 60/° vào hồ bơi. Cái ghế lật úp. Nước bắn tung tóe tùm lum. Anh phải đếm thầm: “One thousand one, one thousand two, … one thousand five”, rồi anh nhanh nhẹn tháo gỡ dây an toàn ở bụng và vai ra.

Hai chân ngồi chồm hổm lên ghế, hai tay vói thẳng lên miếng gỗ, giả làm windshield (kính che gió), anh ngửa đầu ra phía sau, rồi hai tay gồng lên ở phía trước buồng lái, hai chân tống thẳng cẳng đạp mạnh ra khỏi cái “Dilbert Dunker”. Tứ chi vẫy vùng trong nước như con ếch, anh cố ngoi đầu từ dưới đáy hồ lên khỏi mặt nước. Ôi Giời ạ! Chúng tôi là sinh viên sĩ quan Không-quân trên bờ, phi cơ và người chỉ ở trên phi đạo, để vút bay lên không trung bao la, ngút ngàn, rộng mênh mông giữa bầu trời thênh thang lồng lộng gió. Chớ có cho "tàu bè" cỡi sóng chạy vun vút trên biển như "ba te đi dạo” bằng tàu thủy, thanh nhàn ngao du trên tàu, trên ghe thuyền đâu, mà phải học, phải sợ đắm sợ chìm, rồi miệt mài học cho bù đầu trọc óc hỉ! Vậy mà bắt buộc khóa sinh sinh viên sĩ quan Không-quân như khoá các anh sắp sữa hoàn tất việc học “lái tàu bay”, gần trở về quê hương, vẫn phải bù đầu, bù óc thức thâu đêm suốt sáng học những môn nầy đấy.

Thư đã quá dài, anh phải tạm ngừng bút nơi đây. Đành hẹn em thư sau nhé. Nhớ cho anh kính lời thăm ba má và đại gia đình, mong họ giữ gìn sức khoẻ, và em phải ngoan ngoãn hiền lành thùy mị, học giỏi nữa ha.
Anh trai,
Thiệu

***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
02-11-2017, 01:00 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 17

http://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1/1486771221-e 40namtrg demhutthuoc.jpg
http://hoiquanphidung.com/uploadpics/mp3_pdf/1486771469-Niem Khuc Cuoi - Khanh Ha.mp3
Hai Lối Sống & Một Cuộc Đời
Tình Hoài Hương
***


Hồng Hạnh yêu thương,
Lâu rồi, quả thật từ quá lâu từ bốn năm rồi em nhỉ… hôm nay anh rất vui mừng khi nhận thư em, trong đó có đoạn em đã viết thế nầy:
… Ngày. Tháng. Năm... Rồi cũng dần qua. Dần qua. Dần qua... Cho đến một sớm mai nào đó, em thức dậy với nỗi bàng hoàng, & dày vò kinh khủng. Em chợt thấy những xôn xao, đê mê, rộn ràng của một thời trẻ dại đã vụt xa bay trong niềm luyến lưu, hoài mong, đau buốt, ray rứt, muộn phiền, bùi ngùi, và tiếc ngẩn.

Phải! Không bàng hoàng sao được!? Khi tất cả cảnh vật và con người đã đổi thay… Một tiếng chim ca. Một cánh hoa vừa hé nở buổi Xuân sang. Một cụm mây trắng dập dềnh bồng bềnh qùy gối trên mặt nước hồ Xuân Hương. Một giọt sương tí tách rớt trên đầu lá ngoài cửa sổ nhà em. Một hơi thở nồng nàn từ trời cao giao hoà với đất thấp trên đồi thông luôn reo vi vu. Một cảnh hoàng hôn đượm buồn lướt thướt mưa phùn lặng lẽ rơi. Hay buổi bình minh rạng rỡ vươn lên nơi chân trời muà Hạ. Một chiều Thu giông gió thổi lá úa lả tả bay tràn ngập trước ngưỡng cửa. Như thổi về những dự định sông hồ của chàng trai phong sương. Lúc em biết anh đang ươm tơ vàng đi dệt mộng sông hồ, duỗi bước quan hà qua muôn dặm sơn khê ngút ngàn xa hun hút ở đất khách. Thì… em có nụ cười thân thiện, kèm giọt nước mắt từ viền mi luyến thương, em hoài nhớ về người ấy... Thú thật là em quá hân hoan vui mừng đó, anh à.

Em mong rằng tất cả và tất cả những chuyện u buồn xưa, ngày nay đã chẳng còn, để anh không nãn chí chồn chân, nhen. Vì vậy, xin cho em say đắm tìm về chút mùi hoài hương xưa nồng thắm, đã trôi tuột ra ngoài vòng tay quắt quay nỗi nhớ nhung… (đã vô tình vỗ cánh xa bay…). Tuy nhiên, em thắc mắc một điều: Xin anh cho em biết: tại sao hồi ấy anh không tiếp tục học trên đại học Đà Lạt, mà anh đi lính vậy!? Hở anh?

Đọc đến đây, bỗng dưng anh… anh thèm khóc. Anh đã gục đầu vào hai bàn tay, đôi vai rung lên, nức nở mà nước mắt không thể chảy ra, (không giống như khi xưa anh đã òa khóc lúc bị chị Tư của em cấm anh không được yêu em), thì bây giờ hình như nước mắt đã khô cạn từ lâu. Tình cảm ấy nhẹ nhàng như hai giọt sương rung rinh lóng lánh, lâng lâng dịu êm trong giếng mắt em. Ngày đó anh xa em, như đã nói ở đoạn trước: (trong đại học xá anh dọn ra ở riêng trên đường Võ tánh, anh chẳng thèm lên đại học ghi chép bài vở, mặc Q. Hà viết lách, ghi bài, đem về phòng riêng cho anh, Hà ở lại đến khuya...). Anh làm phó chủ tịch tổng hội sinh viên, Thạch chủ tịch. Hà là thư ký, Nguyễn Cầu thủ quỹ. Ban đầu nhóm anh cùng nhau sinh hoạt chung khá tử tế, hoà nhã vui vẻ.

Dù vậy, anh vẫn rất phiền muộn vì mất em, sau đó anh buồn vì giữa anh và Thạch thường có những bất đồng nội bộ. Rồi tuần khác anh xích mích to tiếng cải nhau với Thạch. Đó là vì chuyện Thạch không muốn cho Quyên Hà lên đài phát thanh Đà Lạt, để Hà vừa đánh đàn piano, vừa đơn ca, (mỗi tuần một lần, trong chương trình phát thanh của sinh viên đại học). Công nhận trong Viện có mấy bạn khác, nhất là Thạch thì đàn và hát rất hay. Thật ra, Hà hát dỡ ẹt, đàn cũng quá tệ; nhưng nàng muốn “lên khuôn” có tham vọng và danh vọng cho người khác tôn thờ chiêm ngưỡng, thì họ càng yêu mến mình. Phần anh biết điều Thạch nhận xét về Hà là đúng, nhưng anh muốn lấy lòng nâng bi “tôn” người đẹp lên cao. Thật thà mà nói anh muốn chiếm đoạt trái tim nàng, nên anh cương quyết để Hà vô đài phát thanh thu âm. Thạch nhún vai bĩu môi nói:
- Hà mà “đánh với đấm” gì, cái ngữ ấy.

Nên chi… anh đã mất bạn thân. Trước chuyện anh buồn do ly biệt em, (kể từ sau khi anh bị gia đình em, và chính em xa lánh, ruồng bỏ anh). Giấc mơ tình yêu càng to lớn, khi tan tành thì những mãnh vỡ càng nhiều và còn to. Sau chuyện anh và Thạch gay gắt mích lòng coi như trầm trọng nầy, anh và Hà càng gắn bó thân mật với nhau. Chứ không thể nói là “phát sinh” nẩy nở tình yêu. Xa em rồi, anh không biết gì, hay đã làm gì nữa! Quen với ai? Tại sao? Tại sao anh ra nông nỗi nầy! Đời anh coi như xuống dốc thảm thương. Anh đem đời mình vất đi, lọt xuống vực thẳm.
Nói như thế, có phải tự vì muốn bào chữa là mình quá giàu tình cảm, ủy mị, mà đâm ra nhu nhược không? Những đêm dài anh đốt đời mình trong ly cà phê đắng và khói thuốc. Anh nằm la cà ở những động hút xách, hầu giết dần cuộc đời chán chường không thấy tương lai. Ôi! Anh cứ ngủ vùi trên giường đến trưa, có người nấu cơm tháng đem tới nhà gõ cửa. Ăn uống rồi anh lờ đờ đi tắm rửa, thay quần áo xong, là anh lừ đừ lửng thửng đi ra phố với đầu óc dật dờ rỗng tuếch.

Anh lấy đêm làm ngày, nhiều đêm anh tụ tập năm bảy đứa cù bơ cù bất đi ăn xôi ở Thủy Tiên, đi ngông vòng quanh bờ hồ nghêu ngao ca hát và “đú đởn”. Khi những tiếng xe thổ mộ đầu tiên lọc cọc lạch cạch chuẩn bị hàng hoá đi họp chợ, xe ngựa lóc cóc chạy trên đường vắng ngắt và giá lạnh, sương mịt mùng che phủ các lối đi. Vài lần tụi anh chẳng biết có bị khùng không? mà đã đi bộ ba vòng bờ hồ Xuân Hương, vị chi là đi 18km, đi từ đầu canh một đến lúc hừng đông. Đi, đi, đi… nói nói nói… ca hát nghêu ngao, quậy tưng bừng trong đêm khuya vắng trên đồi Cù. Cứ thế tụi anh đi, đứng, nằm, ngồi, ngoài trời khuya như ma trơi đi ăn đêm, ngỏ hầu chờ sáng, không biết chán. Rồi bọn anh quay về khu bến xe cũ, ngồi la cà ở cà phê Đomino, nhìn những giọt cà phê đen tí tách nhỏ xuống ly, nhấp vị đắng dâng lên đầu môi, anh lại cảm thấy xót xa cay đắng dật dờ buồn bã khôn nguôi.

Thông thường, tụi anh cặp với ba bốn ca sĩ (hạng bét) vài cô ca ve (cũng thế) để có người mà “hót”, mà tán dóc, phét lác trêu ghẹo bù khú. Duy có một điều: Ngày anh em mình đi chơi với nhau lần cuối cùng ở thác Datanlania, anh nghĩ giữa anh và em đã có một vực thẳm sâu hun hút, một bức tường thành gia đình gia giáo kiên cố, em không thể vượt qua mà vươn lên được, em không hề biết là nỗi đau khổ của anh dâng lên cao vút. Thì tất cả hình ảnh đàn bà, con gái khác: chỉ là cái bình phong, cái bóng mờ khuất sau lưng. Họ như khúc gỗ không mặn nồng xương thịt, (kể cả Hà, là cô gái khá đẹp, lý tưởng đầy ước mơ của đa số sinh viên & các ông ở thời buổi ấy. Vậy mà anh cũng chẳng thèm chọn cô ta).
Anh dùng họ để che đậy nội tâm rực lửa tình sầu. Anh bám víu vào họ, để khỏa lấp khoảng trống đầy muộn phiền, anh che đậy vết thương lòng luôn ứa máu, ngỏ hầu không muốn chìm sâu vô sự đau khổ thêm. Thế là anh buông mình vào những cuộc chơi, để tìm quên, quên, quên… (Anh muốn quên ai, thì em biết rồi há)! Anh không thiết tha điều gì, hầu che đậy nỗi hận, và niềm đau đớn, đắng cay ngút ngàn trong lòng. Vì, thú thật em chính là tình yêu của anh. Em là tình đầu và là tình cuối. Ngoài em ra, anh chẳng hề yêu ai.

Ôi! Anh không bao giờ quên cái buổi trưa chở Quyên Hà và Hồng Ánh lắc lư ở trên xe vespa của anh. Bất ngờ anh thấy em ngồi trên xe lam, em nhìn anh sửng sốt, kinh hoàng. Cái nhìn của một người bàng hoàng tuyệt vọng, oán hờn, khinh bỉ người khác ra sao, thì em nhìn anh cũng tương tự như thế! Lòng tan nát, anh hổ thẹn cúi gầm mặt xuống như kẻ gian, mặc dù lúc đó anh chưa “làm gì nên tội” với mấy nường kia. Anh vội vã rồ máy phóng xe vespa chạy đi thật nhanh. Vì anh nghĩ: “quả thật anh không xứng đáng với lòng tin yêu và chung thủy của em, người con gái ngoan hiền còn trẻ, quá trẻ và vì sự trong sáng rạng ngời từ trong tư tưởng cùng thể chất ấy, em đã yêu anh... mà thường chảy những giọt nước mắt long lanh ràng ruạ trên đôi má hoen màu, để lánh xa anh”.

Bề ngoài thì coi anh hư hỏng như vậy, nhưng thật ra trong lòng anh âm thầm “khắn khít tình cảm với em”. Anh ước mong vô vàn… van xin cho anh và em có một cơ hội thuận tiện, có một dịp may mắn, để chúng mình sống đằm thắm yên bình, vui vẻ hạnh phúc tuyệt vời trong happy ending. Chứ đừng kết thúc cuộc tình duyên trong bi thảm, sầu đắng! Nhưng quả thật là anh không còn dịp may nào nữa. Em hoàn toàn lẫn tránh, lạnh lùng xa cách anh. Anh không còn cơ may thuận tiện nào, để tỏ lộ sự bứt rứt, bồn chồn, băn khoăn từ tấm chân tình yêu quý em, mà anh rất thành thật muốn trao gởi về em.

Thế là anh bệ rạc lún sâu vào những canh bạc, để tìm quên. Vâng! Tết đó anh còn ở trên Trần Bình Trọng, tụi anh chung nhau đánh bài tối ngày sáng đêm. Anh đánh cặp với mấy thằng bên sư phạm, bên phân khoa triết, lúc ăn lúc thua. Anh có thủ sẵn một sợi dây chuyền hai lượng vàng y, (má cho anh, má nói anh để dành, đề phòng nếu má chưa kịp chuyển tiền phòng trọ, ăn học & tiêu xài lên cho anh, thì anh cầm đỡ nó mà xoay xở, rồi khi má chuyển tiền lên, thì anh đi chuộc lại). Mỗi ngày anh cứ lấy xe vespa ra tiệm vàng Bùi thị Hiếu cầm sợi dây chuyền, anh lấy xấp tiền, chạy về đánh bài tiếp.
Ăn bạc thì anh chạy ra chuộc nó lại. Bỏ sợi dây chuyền vô bóp chưa nóng túi, thì thua bài; anh lại chạy ra cầm sợi dây chuyền. Cứ xoành xoạch cả ngày và đêm như thế. Đến nỗi khi thằng con bà chủ tiệm vàng thấy anh vừa chạy vô tiệm, là nó chả thèm nhìn, chả thèm cười nói gì, nó cầm sẵn xấp tiền đưa anh, rồi nó cầm sợi dây chuyền cất vào tủ vàng, nó biết anh đã “chai mặt, chẳng có hồn”, nên nó không viết giấy tờ cam đoan biên nhận (như mấy lần trước) gì ráo.

Tụi anh đánh bài luôn trong hai ba tuần lễ nghỉ Tết, khi nào mệt không thể ngồi, thì anh đi ngủ chập chờn ở xó xĩnh trong nhà ông bà Tạo chủ chứa bài lấy tiền xâu. Liền đó có tay khác chầu rìa điền vào thay thế ngay. Cơm nước cà phê ở dưới tầng hầm đưa lên, có vợ chồng ông Tạo nấu cho bọn đánh bài ăn ba bữa, dĩa cơm và thức ăn gì đó chẳng biết, tụi anh ăn đại khái, chứ chẳng cảm thấy no nê & ngon miệng. Đa số tiền bạc của tụi anh thua, là nằm gọn ở trong túi dày cộm của “ông bà xâu”, rồi họ lại cho bọn anh vay bạc có lãi cao, mà đánh bài; chớ bọn sinh viên ít có thằng nào hí hửng ra về vì ăn bạc cả.

Mê bài bạc chơi hoài, chơi mãi, tất nhiên anh thua sạch, cháy túi, chẳng còn gì cả để chuộc lại sợi dây chuyền! Thấy bọn sinh viên Bửu, Tâm, Long, Thành, Tân, vân vân... ủ rũ nằm nhà co quắp, đói meo, anh “nổi máu anh hùng rơm” lên, bèn chạy tới Ấp Ánh Sáng tìm ông Thượng-sĩ Hồ, ông nầy mê chiếc xe vespa của anh lắm, cứ đòi mua, lúc trước anh không chịu. Anh đem xe đến, ban đầu anh chỉ dự định “cầm” ít ngày, rồi chuộc lại thôi. Nhưng đến nơi, nghe lời ông ta “ngon ngọt dụ dỗ", anh đồng ý bán rẻ rề cho ông Hồ. Chiếc xe vespa đời mới trị giá 50.000$ mà ba má mua cho anh, là “gia tài” cuối cùng trong đời sinh viên! Anh giao giấy tờ và chiếc xe, rồi kêu taxi ra về.
Anh bao taxi đưa cả “đồng bọn lu la” đi ăn khuya ở đường Phan Đình Phùng, gần rạp ciné Ngọc Hiệp, bao cho chúng nó ăn cơm Tàu một bữa no nê, cho bỏ tức những ngày đói khổ trắng tay vì cờ bạc. Rồi anh cho mỗi thằng ít tiền còm tiêu vặt. Anh lo trả nợ nần (do cờ bạc mà gây ra). Tiền không còn dư bao nhiêu, anh đành mướn phòng trọ nhỏ hơn trên Võ Tánh, trả tiền nhà trước bốn tháng, để ngày ngày anh có thể đi bộ đến đại học cho gần.

Anh lại bắt đầu sống một ngày buồn tẻ như mọi ngày trống trải, bê tha, đơn điệu vô vàn làm sao. Biết là bệ rạc tồi tệ như thế, mà anh vẫn lao đầu vô... các động tiên nằm dài, phần lớn anh nằm đó nghe mấy cha nội lão luyện kể chuyện tiếu lâm, chuyện bù khú, hơn là hút. Anh tấp vào quán cà phê, ngồi lì đến khi đói bụng, anh đi kiếm chút gì ăn qua loa, rồi ghé vào chỗ nầy chỗ nọ. Mấy lần anh đi nhảy, đi chơi với ca sĩ Ly, và Lan, cùng thằng Giàu, Minh, Lộc, là sinh viên, và hai ba thằng cù bơ cù bất nữa. Tụi nó “bu bám” theo anh và tôn anh lên “đại ca”. Hê hê hê! Thằng Lân và Lý có chiếc xe MGA, tụi nó chất bia lên xe chạy trước, nhóm kia đi bộ theo sau.
Thường tụi anh tụ tập khá khuya, hầu hết tiệm ăn trên phố đã đóng cửa, thành thử tụi anh lo thủ sẵn mồi. Khuya lắm, khi sương mù dày đặt bao phủ thành phố tĩnh mịch, che khuất cảnh vật. Đi mỏi chân, thì tất cả tụi anh ngồi xuống bờ cỏ ven đường, lấy két bia và tí mồi ra nhậu. Gần sáng anh về ngủ chung một giường với hai nữ ca sĩ áo quần xộc xệch nằm hai bên, đầu tóc bù xù, mặt mày trôi tuột phấn son coi lem luốt vì thấm sương giá, "bọn nó" tha hồ chọc phá nhào nắn anh, bắt anh nằm giữa làm “cục nhưn”. Anh tỉnh queo chẳng có hứng thú gì, chỉ nằm “độn” mà vật vờ ngủ đến sáng.

Cứ như thế, anh buông thả cuộc đời mình lờ đờ trôi đi, như con thuyền dập dềnh bấp bênh trôi trên dòng sông, anh đã đem đời anh vứt xuống vực thẳm rồi. Những đêm dài đốt đời trong ly cà phê đắng và khói thuốc, nằm la cà ở những động hút xách, hầu giết dần sự chán chường. Cho đến cái đêm định mệnh mưa to gió lớn... anh tình cờ gặp em đi với "ai đó" vô tiệm ăn Mỹ Hương! Ấy là lúc trái tim anh đã tan nát vỡ vụn và đời anh hoàn toàn sụp đổ. Vì, anh biết chắc chắn anh đã mất em.

Như anh đã kể trên: anh đang học năm thứ Hai trên viện Đại-học Đà Lạt, mà suốt đêm đi la cà, lêu lổng. Ban ngày ít khi anh lên đại học, nếu anh có lên viện không phải để học, mà để thanh toán những phần tử phá bĩnh, có ý định chi phối thành phần tổng hội sinh viên cũ. Họ là một nhóm sinh viên mới từ Sài Gòn lên. Nghe tin nhóm đó có ý định tổ chức họp sinh viên Đà Lạt, mà không xin phép, nghĩa là không có ý kiến của Tổng Hội cũ. Với tư cách là Phó Chủ Tịch của Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam, anh đã cảnh báo họ nhiều lần. Họ không sợ. Các anh đã muốn yên, họ không tha. Bọn họ cứ “chọc mũi dùi” vào quậy phá các sinh viên trên Đà Lạt hoài. Tức điên người. Không chịu nỗi.
Hôm đó anh vừa đi lên con dốc viện, chợt thấy trên đại học có một nhóm chừng bốn, năm tên sinh viên đi ngược lại. Tay cầm đầu tên là Chân. Chúng cầm dây xích, dao, cầm gậy nhọn. Anh đã chuẩn bị từ trước, nên anh kêu bọn: Điều, Độ, Trương Anh, Bích đen, v.v... lên chận chúng ở dốc gần đại học. Thấy chúng nó vừa ló dạng ở đầu dốc, tụi anh rượt đuỗi, đánh chúng một trận tả tơi. Thế là chúng bỏ "vũ khí" chạy có cờ.

Mấy "thằng bạn hờ lơ tơ mơ, cù bơ" trên kia (của anh) chạy theo bọn đó, phần anh rượt theo tên cầm đầu, thằng Chân đứng lại giơ cao đoạn dây xích lên quay vù vù, nó định đập vô đầu anh. May là anh né khỏi, anh bay người tới đá mấy cú “song phi lao” vào mặt, vào ngực hắn. Thằng Chân hụp xuống lấy con dao nhíp kẹp dưới ống quyển, hắn xông tới quơ lên. Thế là con dao ghim vô bắp chuối anh, máu bắt đầu chảy. Anh bị thương nên không thể chạy nhanh, nhưng anh cứ rượt theo hắn. Hắn chạy trối chết vào cổng đại học, hắn xộc vô toà nhà của cha Lập (Viện-trưởng) núp. Sau nửa buổi, cha viện-trưởng mời anh lên, cha ôn tồn giản hoà. Một cuộc giàn xếp được tổ chức giữa hai phe nhóm. Vì rất nể cha Viện-trưởng, nên "phe chúng ta" uể oải miễn cưỡng bắt tay bọn chúng. Lúc ra tới cổng đại học, anh chỉ tay vô bọn chúng, nói:
- Ngày mai, tao còn thấy bọn mầy lãng vãng ở đây. Đừng trách tao ác nghen.

Chúng nó sợ teo người hết dám chọc ghẹo ai ở Đà Lạt, lo kéo cả băng “chuồn” trở về Sài Gòn. (Ồ, thì ra hồi anh học năm đầu khóa Chiến Tranh Chính Trị, có một nhóm ở Sài Gòn lên, tay cầm đầu ấy tên là Chân. Bi giờ hỏi ra anh mới biết, thằng Chân chính là anh họ của cô tình nhân mới Trân Thư của anh. Thiệt ngao ngán)!!! Buồn cười nhỉ!

Một thời gian khá lâu lúc anh còn học Y Khoa ở Sài Gòn, trước khi lên học tại Đà Lạt, anh có quen thằng tên Đại-công-tử, là tay giang hồ đàn anh khét tiếng thời bấy giờ. Nay nó đã trốn lên ẩn nấp ở Đà Lạt. Mấy lần, khi đến phòng trọ thăm nó, anh thấy nó ngồi lầm lì, im lìm câm nín ở góc nhà. Suốt ngày im lặng, nó hậm hự luôn tay cắm cúi mài liếc con dao. Dù dao đã bén, mà nó vẫn mài miết. Anh khuyên bảo:
- Đừng vì thù, mà trả thù dai dẵng như vậy. Rồi thù nầy chất chồng lên thù kia. Em hãy sống bình an, ngay cả trong tâm hồn em cũng cần lặng yên.

Sau ít lâu, thấy nó tội nghiệp, {vì anh biết thật tình nó muốn sám hối, quyết chí tu thân sửa mình, không muốn quậy nữa. Nó xếp con dao sáng loáng vô xó góc, không mài con dao bảy (loại dao to, dài chừng 30cm, rất sắc bén, thường dùng đi rừng). Nên anh đã cho nó ăn ngủ ở nhờ free mấy tháng trong phòng mình}. Khi thằng Đại rất tự trọng không muốn làm phiền anh, nó vừa dọn đi khỏi phòng trọ của anh, nó ở chỗ khác mới có năm ngày, thì bị bọn thằng Xì Rô, và vài người khác (giả dạng mặc đồ quân nhân, mà không phải sinh viên), kéo nhau ra chận đường nó ở gần vũ trường Maxim’s. Chúng chém thằng Đại chừng năm sáu dao gì đó. Khá may, nó chỉ bị thương. Sau khi ngã từ trên taluy cao xuống đất, nó bị trầy trụa, bị trúng ba lát dao không nặng lắm vào lưng, và mấy lát dao ở tay, chân, (như sau nầy anh kể lại cho Duyên Anh đã viết về “Vết thù trên lưng ngựa hoang” của nó).

Lúc đó anh cùng ca sĩ Ly, và một nhóm đàn em của thằng Đại, đang nằm hút ở “Vòm anh Hai ghen”. Nghe thằng Hi chạy về báo tin, "chúng tôi" chạy ra, thì tất cả đã tan hàng. Chỉ còn lẻ tẻ mấy bà con cô bác đứng xầm xì, xôn xao to nhỏ bàn tán. Anh hỏi thăm, đã biết nó đi nhà thương. Anh chạy lên bệnh viện dáo dác tìm kiếm và hỏi thăm. Họ nói:
- Đúng là có một người bị mấy vết chém trên lưng, tay, chân, nhưng không nặng lắm. Ông ấy vừa đi khỏi đây.

Khuya ấy sắp tàn, khi trở về phòng trọ, anh thấy trên ổ khoá của phòng mình có một vật gì đen đen, treo tòn ten trên hai cái khuy của ổ khoá. Nhìn kỹ, thì anh chợt rùng mình, sợ kinh khủng! Đó là hai quả lựu đạn MK2. Theo thói quen thường nhật khi nào đi ra khỏi nhà, thì anh bấm thêm ống khóa ở hai khuy ốc vít móc bên ngoài. Nhưng sao hôm ấy, tự dưng anh chỉ khoá ống khoá chìm ở trong cánh cửa, mà không móc thêm ổ khoá bấm ở ngoài. Thế nên bọn nó tưởng là anh đang ngủ trong phòng. Mất hồn, anh chạy bộ từ phòng trọ lên dinh Tỉnh Trưởng (lúc đó là Trung-tá Phấn). Tửng bưng sáng, anh xin gặp Trung-tá và trình bày sự việc. Ông cho xe jeep chở chuyên viên bên quân đội đến tháo gỡ “của nợ giết người khủng khiếp” ấy đi. Ông nhìn anh trầm ngâm hồi lâu, rồi từ tốn khuyên:
- Rõ ràng có người muốn giết em. Cách tốt nhất là: em hãy mau trốn đi khỏi chỗ nầy, em tạm thời “chui” vào trong quân đội. Em mới có thể sống sót. Chứ không thì trước sau gì có ngày em cũng bị... toi, ngoẻo đó.

Anh đã hiểu. Chỉ còn duy nhất một con đường anh phải thu xếp, ổn định cuộc sống khá hơn, không thể sống bệ rạc bừa bãi, buông thả, đã “thả nổi” cuộc sống mình bê tha quá tệ như hiện nay. Mặc dù thời sinh viên mình chỉ góp tay “trừng trị” cái bọn côn đồ du đãng thôi, ấy thế mà cũng bị vạ lây! Cộng thêm vào niềm đau đớn khi mất người anh yêu, là mất tất cả, anh chẳng còn mảy may hy vọng gì, mà nấn ná ở lại Đà Lạt! Thời gian rối rắm nầy, anh không thể gặp “em yêu”, em lẫn trốn anh, anh không thể thấy em. Đôi khi anh muốn gặp em để giải thích cho em rõ hoàn cảnh éo le hiện tại. Anh ân cần muốn cùng em, đề nghị chúng mình nên ngồi bên nhau vui vẻ êm đềm trò chuyện, hầu tìm một biện pháp dung hoà thích hợp cho đôi ta.
Nhứt là khi anh nghe em ân cần dịu dàng thỏ thẻ nói lời hay ý đẹp bên tai mình, thì anh rất bình tĩnh lắng nghe và suy nghĩ. Ôi! Làm như cái số kiếp chúng mình đã vĩnh viễn phân lìa rồi hay sao em ạ. Hễ anh thấy “em yêu” đi với các bạn gái, thì y như rằng, em không nhìn thấy anh. Ngược lại... có thể em cũng vậy! Phải không nào? Cuộc rượt đuổi vô vọng trong bóng tối như sự trốn tìm mãi hoài tiếp diễn. Vậy, anh mong em thông cảm, xin hãy nghe anh kể lại chuyện cũ đời xưa riêng anh một lần duy nhất, và có thể là cuối cùng nhé. Có một điều em không hề biết: nỗi đau khổ từ ngày mất em dâng cao ngút ngàn ra sao. Hết thật rồi. Rất phù du...
***
Sau bốn năm chia lià em, bây giờ, anh đang đứng trên bon tàu Hàng Không Mẫu Hạm nhìn ra đại dương mênh mông xanh thẳm, bầu trời rộng thênh thang bao la nầy tưởng nhớ lại dĩ vãng, rồi so sánh: quá khứ, hiện tại, tương lai… mà cân nhắc, suy nghĩ, chọn lựa... Anh đã “phản bội quá khứ” ngoảnh mặt đi về hướng đời tách bạch khác, nơi chân trời phía trước mặt đang có một cuộc sống đổi mới, hoàn toàn tươi sáng rạng rỡ & có tương lai, và chắc chắn có hạnh phúc hơn. Anh đã để lại trên đời sống mình một lỗ hổng khổng lồ, một vết sẹo kinh hoàng trong quá khứ & tình cảm.
Từ nay anh không thể trở về để sửa lại dĩ vãng. Càng không muốn quay nhìn lui quá khứ, mà chỉ nhìn tới phía trước. Anh như con rắn khi lột da xong, nó thản nhiên bò đi, chẳng cần biết nó đã vất lớp da khô đét ở chỗ nào; như anh đã trút bỏ quá khứ muộn phiền áo não không do dự vậy. Em có thấu hiểu cho anh chăng? Đích thực cuộc sống mới hiện tại trong đời anh là: từ khi anh đăng vô Không-quân, nơi nầy đã rạng rỡ bừng dậy sự tin tưởng, tràn đầy hy vọng qua những tháng năm học hành ở quân trường, lúc anh thực hành trên máy bay. Anh phải thực hiện ước mơ nầy cho bằng được mọi giá phải trả.
Nếu thiếu lòng kiên nhẫn chịu đựng và cần cù, thì có thể không thành công bất cứ việc gì. Anh đã đọc được mấy câu rất hay ở đâu đó thế nầy: "Thời gian hàn gắn gần như mọi sự. Hãy để cho thời gian có thì giờ". (Time heals almost everything. Give time time) & “Hãy chôn quá khứ, để hiện tại không bị xáo trộn”. (Make peace with your past so it won’t screw up the present). Phải không em yêu!?

Đến đây, anh nói lời tạm biệt, mong thư em lắm, để thân mời em xem cuộc hành trình tuyệt vời của các anh sinh viên sĩ quan Không-quân đang tiếp diễn mỗi ngày trên đất khách quê người, anh sẽ nối tiếp ở thư sau nhé em yêu. Anh rất nhớ em, xin phép hôn… lại em nhen. Chịu hông?
Lữ Phi Hành
*
Tình Hoài Hương
Trân trọng kính mời độc giả xem tiếp chương sau.

Tinh Hoai Huong
03-12-2017, 02:14 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 18



https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1537323675-Hang-khong-mau-ham-My - 2.jpg
/upload/img//HQPD_1393638646.mp3

Làm Sao Mà Quên Được
Nhạc và Lời: Phạm Duy
Giọng ca: TTMD
Trên Hàng Không Mẫu Hạm
Tình Hoài Hương
***


Đợt 25.-
Em gái thương,
Con tàu dềnh dàng rất to lớn, bự sư không thể tả, và đồ sộ ấy khá tự tin & kiêu hãnh! Vì được thiết kế hoàn hảo tuyệt vời như một “mê cung cao sang, đài các” được "quý phái" mệnh danh là: “Hàng Không Mẫu Hạm”. Ngoài việc con tàu thiết kế nguy nga như một “cung đình thủy giới uy nghi tráng lệ ở đại dương bao la và hùng vĩ”, thì con tàu đã trang trí tối tân, đầy đủ tiện nghi. Maps trên tàu cho ta thấy rất nhiều phòng ốc, có những cánh cửa hình trái xoan dày và êm, chống ẩm không thể thấm nước, mọi thứ rộng rãi, sạch sẽ.
Điểm chính đáng vô cùng đặc biệt ngoài sự con tàu có rất nhiều phòng ốc, tàu Hàng Không Mẫu Hạm có thể chứa nhiều phi cơ, xe hơi, máy móc,... có công kỹ nghệ tối tân nhưng cũng phức tạp, có máy phát điện to lớn riêng, để cung cấp cho toàn bộ con tàu thêm tiện nghi hoàn hảo. Nhiều kho hàng chứa thực phẩm tươi sống và đông lạnh to lớn. Trên tàu có nhà hàng, có bệnh viện, nhiều khu giải trí hữu ích lành mạnh; không khác gì một thành phố nổi, đầy đủ tiện nghi mà lênh đênh uốn lượn trên sóng cả ba đào giữa đại dương mênh mông.
Động cơ tàu là một cổ máy có công suất rất cao, có lực đẩy lên khoảng 90.000 tấn, tốc độ 35 dặm/h. Bon tàu xiên góc (angled deck) lợi hơn bon thẳng (fore-and-aft deck): vì dễ điều khiển phi cơ cất cánh và đáp, nhìn bon tàu trống trải, thì mình cảm thấy thoải mái, thênh thang, an toàn khi phi cơ lớn đáp trên tàu dễ dàng.
Ngoài ra, tàu Hàng Không Mẫu Hạm có các điểm chính:
- Trung tâm điều khiển toàn diện bay (Primary Flight Control).
- Kiểm soát Không-lưu (Air Traffic Control).
- Đường Băng (Flight Desk) .
- Gian chứa máy bay (Hangar Bay).
- Có giàn phóng máy bay đặt dưới đường băng, khi phi cơ vô ở gian chứa máy bay rồi, cánh phi cơ có kỹ thuật tuyệt hảo, ấy là hai cánh phi cơ được xếp lại gọn gàng, rotor của máy bay trực thăng được xếp lại ngay ngắn. Thiệt ngộ và dễ thương! Ở trong Hangar, khi phi cơ được đưa lên sàn tàu chuẩn bị cất cánh, thì có người chịu trách nhiệm điều khiển đội bay, là người “kiểm soát đường băng” ở văn phòng đài chỉ huy được gọi là Running Hand, trong tay họ có những cây đinh ghim đủ màu, có mô hình “The Ouija Board” chứa nhiều phi cơ giả, & các đường băng (giống hệt như ở trên sàn tàu nầy, nhưng mô hình được thu nhỏ lại khoảng 70%), cho người điều hành không lưu có thể nhìn tổng quát, mà điều khiến mọi hoạt động trên sàn tàu. Họ (cơ trưởng của bộ phận nhiên liệu, vũ khí, hậu cần, v.v…) túc trực quanh đó, cũng phải đội mũ bảo hiểm, mang mặt nạ, găng tay…. Để bảo đảm họ không bị thương vong.
Đợt 26.- Các kỹ sư Hải Quân sáng tạo ra hệ thống Rainbow tinh vi, tuyệt vời cho mình phân biệt rõ về việc:
* Mặc áo giáp nỉ màu vàng: chịu trách nhiệm khi phi cơ cất cánh, hạ cánh. Hướng dẫn phi cơ di chuyển (Yellow Shirts: Aircraff Handlers).
* Mặc áo giáp nỉ màu trắng: điều khiển phi cơ hạ cánh. (Việc hạ cánh trên tàu nhanh hơn trên phi đạo gấp 2 hoặc 3 lần).
* Mặc áo giáp xanh: Nhân viên bảo trì thiết bị, có bổn phận móc phi cơ vô giàn phóng & chịu trách nhiệm ngăn ngừa tai nạn. (Green Shirts Equipment Opeators).
* Mặc áo giáp nâu: nhân viên cơ khí, có nhiệm vụ coi sóc phi cơ trên đường băng. (Brown Shirts: Plane Captains).
* Mặc áo giáp tím: nhân viên tiếp nhiên liệu cho phi cơ (Purple Shirts: Fuel Technicians).
* Mặc áo giáp đỏ: nhân viên lo vũ khí, đạn dược... (Red Shirts: Weapons Handlers).
Mọi người trên tàu cộng tác với nhau thân tình & ăn ý, sít sao, chặt chẽ, tinh tường. Vì trên sàn bay rất ồn ào, dù có phóng mười mấy cái loa mà gào lên rõ to, nhưng ai ai cũng điếc chả ai thèm nghe; nên họ phải dùng cử chỉ lưu loát, nhanh nhẹn & dứt khoát, nhịp nhàng (ra hiệu bằng tay như ngôn ngữ người câm) để giao tiếp với nhau, mà điều khiển phi cơ: cho phi cơ di chuyển lên phía trước, hoặc lái qua trái, qua phải... Cơ trưởng đứng bên cánh trái của phi cơ, ra hiệu cho phi công quay máy, viên phi công đã liên lạc với đài kiểm soát, anh ta hai tay ôm cần lái, cần ga... đã gật đầu ra hiệu sẵn sàng di chuyển, sẵn sàng cất cánh tại giàn phóng, thì nhân viên quan sát toàn bộ đường băng vẫy mạnh tay ra hiệu GO cho phi cơ cất cánh trơn tru.
* Đây gọi là Trung-tâm điều khiển Bay (Primary Flight Control), là đầu não của các bộ phận quan trọng, liên kết với nhau trên Hàng Không Mẫu Hạm, (nằm trên tầng cao của tháp chỉ huy). Luôn luôn có hệ thống tin tức cập nhật, chính xác từng phút thích hợp (integrated Ship information System) ở trên tháp chỉ huy; gọi tắt: ISIS. Nó liệt kê chính xác số lượng phi cơ đã rời tàu, đang hiện hữu & cập nhật các phi vụ, cùng mỗi phi công đang thực hành phi vụ.
* Trung tâm Kiểm Soát Không Lưu trên tàu: CATCC (Carrier Air Traffic Control Center) nằm ở dưới đường băng. Nếu thời tiết xấu, tầm nhìn bị hạn chế, thì họ phải dùng radar theo dõi máy bay & dùng đến CATCC giúp phi công quay phi cơ trở lại sàn tàu chính xác & bảo đảm an toàn.
Khi chuẩn bị mọi việc xong, sĩ quan phụ trách giàn phóng gọi là Shooter (xạ thủ) ra lệnh cho phi công chuyển qua chỗ cất cánh ở khu vực mũi tàu. Nơi đây có nhiều luồng khí đẩy mạnh hơn, việc phóng máy bay trên tàu quan trọng chính là: sử dụng hơi nước. Cỗ máy nầy sẽ kéo máy bay chạy dọc theo đường băng, cho đến khi nào phi cơ bay vọt lên không trung.
Giàn phóng dài 300 feet, gồm piston cylinder nằm song song ngay ở mặt bon tàu, nối kết phi cơ với piston, được đặt trong một cái rãnh chạy dọc theo đường băng; Từ cách hướng dẫn, vận hành, thiết bị… được nối vô mũi của càng đáp trước và nối vô giàn phóng. Thanh định vị giữ phi cơ đúng, thì giàn phóng hơi nước có áp suất cao, và điều chỉnh sẽ chính xác. (Tùy theo trọng lượng của chiếc phi cơ ấy). Nếu áp suất thấp, thì Module (còn gọi là bubble “bong bóng”) được lắp vô đường băng, phải kiểm soát lại việc phóng phi cơ ra sao. Ngược lại, nếu áp suất quá lớn, phi cơ sẽ bị gãy cái càng đáp. Thật là một việc quá "nhạy cảm" phức tạp, rắc rối, khó khăn, nhiêu khê trăm bề.
Trước khi cất cánh, ở phía sau tàu mở lên, thanh giằng (gần bánh xe ở trên phi cơ) là các bộ máy hơi nước liền mở ra, để chuẩn bị phóng phi cơ bay đi. Viên phi công thấy hai hình chữ nhật trước mặt ghi: FLY = GO & FRI-FLY = NO go. Phi công giơ tay chào lần cuối, rồi nhấn nút EJECT – lập tức cái thanh định vị được nhân viên điều hành ở bon tàu tháo ra, áp suất hơi nước di chuyển về phía giàn phóng. Chính lúc ấy viên phi công bị đẩy nhanh lướt vun vút theo phi cơ vùn vụt bay đi quá mau!
Mà điểm đặc biệt nhất là trên bon tàu đã chứa khoảng trăm người di chuyển đang làm việc, nếu không cẩn thận lúc di chuyển, có thể gây ra thảm hoạ. Mục đích của tàu HKMH là cho phóng phi cơ đi, và cho phi cơ về đáp. Tàu đựng khá nhiều phi cơ tối tân, có sàn bay rắn chắc (phi đạo) rộng rãi, sạch sẽ, bằng phẳng, đường băng song song với trục dài của sàn tàu, đường băng thoải mái chìa ra phía trước sàn tàu. Tuy kích cở đường băng ngắn, nhưng vừa đủ kích thước an toàn vững chắc, đầy uy lực để viên phi công tự tin cho phi cơ khi cất cánh ngược chiều gió, tạo sức đẩy tăng vọt lên nhanh, & khi chạy về phía đằng trước mũi tàu với tốc độ 35knot (65km/h). Anh lấy làm lạ và vẫn ngạc nhiên một điều là: dù vận tốc rất nhanh của chiếc phi cơ vun vút lướt bon bon trên mặt băng như vậy, thì sức mạnh & sức gió thần tốc của phi cơ lướt nhanh đang vun vút chạy theo đà, thế mà những nhân viên đứng trên bon tàu trống trải kia không bị cuốn hút theo chiếc tàu bay, là sao nhỉ?
Trong khi anh đứng trên phía ngoài buồng lái chăm chú quan sát và học tập, hoặc thực hành, anh thấy những tốp sĩ quan điều không mặc áo màu vàng, màu đỏ, màu xanh… áo có pha dính chất lân tinh lấp lánh sáng chói, (áo lóng lánh để dễ nhìn thấy khi làm việc về đêm). Họ là những người lo kỹ thuật cơ hữu, thay động cơ, khung phòng, sửa chữa, có trình độ hiểu biết sâu rộng về kỹ thuật cao và rất giỏi, họ có đầy đủ kinh nghiệm dày công tu luyện, họ nhanh nhẹn tinh tường, làm việc nhịp nhàng ăn khớp với nhau (perfect teamwork). Họ làm tiền phi cho phi cơ sắp cất cánh, & kiểm soát hậu phi, khi phi cơ vất vả trở về.
Khi "Tàu về"... Một người cơ trưởng đứng dưới đất nhanh nhẹn dùng hai cánh tay ra dấu hiệu, lanh lẹ hướng dẫn phi công lái phi cơ vô taxiway. Một người nữa đứng chờ đợi, tay cầm hai cục gỗ to, khi phi cơ ngừng hẳn lại, thì ông ta sẵn sàng chêm cục gỗ ấy vô bánh xe của phi cơ cho an toàn, rồi sau đó mới tính cho phi cơ "vô nhà nghỉ ngơi". Ngoài việc lo bảo trì định kỳ, khung phòng, cơ trưởng còn sửa chữa động cơ, thủy điều, điện, vân vân… Đôi lúc ở bên trái phi cơ, anh thấy một tài xế lái chiếc xe hơi, có móc cái rờ mọt đựng hành lý. Khi phi cơ ngừng hẳn lại, cánh cửa từ khoang tàu bay mở ra, phi hành đoàn trong phi cơ bắt đầu bước xuống cầu thang.
Đợt 27.- Khi hạ cánh
Ba khối dây cáp to, (mỗi khối dây cáp có nhóm pulicap nối với các đường ống thủy lực có piston ở bên trong) có đường kính 2 inches giăng ngang đường băng 15 feet, khối dây cáp chặn nầy nối liền đến hệ thống thủy lực. Khi hạ cánh đuôi phi cơ phải móc vô được một thanh kim loại dài 7 feet với sợi dây cáp, gọi là móc đuôi (tail-hook). Cái móc đuôi khi đã móc được vô khối dây cáp rồi, các sợi dây cáp sẽ giữ phi cơ có tốc độ 150 dặm/h hoàn toàn ngừng lại, êm ru.
Trước tiên, khoá sinh nhìn hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS), cho hoa tiêu biết độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên hàng không mẫu hạm để hạ cánh. Anh bấm nút cho cái móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft), ở dưới bánh xe sau đuôi phi cơ hạ xuống và thò ra. Trên sàn tàu chạy song song dọc hai đường băng dài (tạm gọi là phi đạo) sơn màu vàng, có ba sợi dây cáp cũng sơn màu vàng giăng ngang bon tàu. Khi mấy bánh xe trước của phi cơ vừa chạm xuống sàn tàu, cái móc đuôi có hình dạng như cây "inox" dài, đầu cây móc hàn dính vô đáy gầm đuôi dưới bánh xe phi cơ, còn đầu kia là cái móc inox hình chữ C tự động móc vô mấy sợi dây đã giăng ngang nơi các ụ cáp. Ba sợi dây móc nầy tinh vi, dẽo dai, bền chắc và ngoạn mục ấy, có bổn phận và uy lực dùng để “cản, kéo" phi cơ dừng lại đúng lúc, và chính xác trên bon tàu. Nghĩa là thứ dây nhợ nầy dường như có một phép mầu nhiệm: sẽ “rị tàu bay” đứng lại như ông thần. Trường hợp dây móc bị hụt, cả ba dây cáp tréo cẵng ngỗng, phi cơ không thể ngừng trên sàn tàu, bắt buộc phi công phải cho phi cơ cất cánh bay trở lên trời.
Con tàu HKMH luôn luôn di động, bồng bềnh, chồng chành, chao đảo trôi nổi lay động, rung rinh thường xuyên trên mặt biển, không lúc nào đứng yên, thật vất vả vô cùng khi phi công lái máy bay đáp xuống con tàu với tốc độ 150 dặm/h. Tuy rằng trên đường băng 800 feet có sợi dây cáp giăng ngang, vẫn khiến anh phi công dày kinh nghiệm và lão luyện có chút vất vả lo âu nhọc nhằn. Làm sao không!
Viên phi công bay trên trời rồi đáp xuống con tàu đã vậy, anh áo trắng LOS ở dưới đất liên lạc với phi công qua radio, phải đứng ở đuôi tàu, anh ta dùng gậy đèn (lighted wands), để điều khiển phi cơ hạ cánh trên mẫu hạm, anh lo điều khiển ra tín hiệu hạ cánh LSO (Landing Sirnal Officer). Anh ta cũng khá căng thẳng đầu óc và không kém lo lắng mệt mỏi tột cùng như anh lái tàu bay!
* Những ánh đèn màu di chuyển chớp tắt được gọi là Meatball , gồm 12 màu xanh, 9 màu vàng, 12 màu đỏ:
* Tín hiệu đèn đỏ: tránh phi công va chạm khi đáp, phi cơ phải giữ góc tiếp xúc với đường băng khoảng 15 đến 18 giây.
* Tín hiệu đèn xanh: Phi cơ tiếp xúc với đường băng 3,5/o.
* Tín hiệu đèn vàng: chớp chớp theo dõi phi cơ lên xuống, hoặc phi cơ bị chệch ra khỏi các góc, không đúng với đường băng.
* LSO tín hiệu màu đỏ: Give Up là cho biết phi cơ bay quá cao, hoặc quá thấp.
Đợt 28.- Học
- Khóa sinh tập dượt đáp phi cơ theo kính chiếu trên đất liền MFCLP (Mirror Field Carrier Landing Practice) - nhiều đợt tập dượt trên đất liền, trên loại tàu chiến hạm như một căn cứ Không-quân ở biển.
- Học an ninh phi hành áp dụng trên tàu (carrier safety), trắc nghiệm lý thuyết về vòng đáp trên tàu.
- Học các bộ phận trợ phi (flight support) trên Hàng Không Mẫu Hạm: hệ thống kính chiếu trên tàu (operation of the mirror landing system).
- Học các cơ chế, tốc độ, sử dụng chân đáp, cánh phụ, móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft).
- Học loại phi cơ A là attack aircraft yểm trợ không địa.
- Học lúc máy bay cất cánh từ Hàng Không Mẫu Hạm.
- Học phi cơ Skyraider có speed brakes ở hai bên hông, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, dùng để đáp Hàng Không Mẫu Hạm. Trong chương trình nầy, khoá sinh học bơi thêm và bơi thành thạo với Hải-quân: (lại bơi ếch, bơi ngửa, bơi sấp, bơi tự do, v.v…).
- Học cách rời tàu. Học cách thoát ra khỏi lòng máy bay khi lâm nguy.
- Học Abandon Ship Drill (bỏ tàu khi bị chìm), ấy là học để biết hành xử làm sao, khi phi cơ bị lật… được thầy chu đáo ân cần dạy rất kỹ lưỡng.
- Học báo cáo lấy cao độ và xuống cao độ vào vòng đáp (climbing and letdown).
- Học đáp khẩn cấp (giả máy tắt) từ cao độ cao (simulated high altitude emergency), vòng đáp ở các sân bay phụ (outlying fields) & đáp hạ cánh phụ (full flap landing) sao cho an toàn.
***
Đợt 29.- Hành
Huấn luyện viên cho từng tốp khóa sinh thực hành, và biểu diễn trước nhiều lần cho nhuần nhuyễn. Khoá sinh leo lên cockpit (buồng lái giả), được cài đặt trên một đường rây, đặt trên chiều cao của hồ bơi, từ cockpit cách mặt nước khoảng chừng 10 mét, nghĩa là cao bằng bon tàu nhìn xuống mặt biển ra sao, thì cockpit cũng giống như vậy. Cockpit có ghế ngồi, có dây an toàn, có panel cản lại. Nói chung là: có đầy đủ mọi thứ cần thiết, để bảo vệ an toàn cho khoá sinh thực tập. Cockpit giống hệt như một buồng lái phi cơ thứ thiệt.
*.- Sau đó học cất cánh và xử dụng. Lúc mở máy là một vấn đề khó khăn phức tạp không ít, nếu khoá sinh thò tay nhấn primer lâu quá, thì carburetor bị flooded (ngộp). Nếu ít (nhanh, mau) quá, là bị bắt lửa sớm (backfire). Lúc nào ông cơ trưởng cũng theo dõi từng động tác của phi công, ông ta tinh ý biết ngay là có vấn đề trục trặc, ông vội vã leo lên "phi cơ", coi butterfly valve có bị bung ra không, xăng có rò rỉ ở đâu không, & có bị sút dây hoặc cháy gì không.
* Lúc cất cánh, anh phải bình tĩnh nhanh nhẹn vận dụng hết sức lực, mắt lướt nhìn tổng quát tất cả đồng hồ phi kế, tai lắng nghe hiệu lệnh, tay ôm cần lái, cần ga... giữ phi cơ chạy thẳng trên một đường gạch màu vàng dài, chạy suốt theo đường băng đã vạch sẵn trên sàn tàu, khi thấy sau đuôi phi cơ xịt ống lửa quyện khói ngùn ngụt phụt ra, ấy là lúc chân mặt của anh kềm bánh lái thật mạnh, "gồng mình" cho bánh đuôi hỏng lên, nhanh chóng làm sao cho bánh đuôi hỏng lên, mới dễ giữ phi cơ chạy thẳng được.
* Đáp, phải giữ đúng three-point attitude để luôn chạm bánh ba điểm. Chạm bánh rồi, ôm cần lái vào bụng, hai chân luôn làm việc, giữ phi cơ chạy thẳng, chân trái đạp mạnh hơn.
Đợt 30 .-
Trong Không-Lực Việt Nam (VNAF) từ năm 1963 đến 1965, chỉ có 74 người đặc biệt tuyển chọn, để đi học US Naval Aviator (Phi-công Hải-quân. Đeo cánh Vàng) Còn bên USAF hay VNAF, chỉ đeo cánh Bạc. Thế nên, các phi công do US Navy đào tạo, đều đòi hỏi kỷ năng và tài nghệ khá cao. Sau khi kiểm soát kỹ càng, các học viên mang dù, được gài chặt vào ghế rồi. Huấn luyện viên hỏi:
- Ready?
Khoá sinh tự tin đưa ngón tay cái “thumb up”. Ông thầy gật đầu kéo cái chốt. Thế là hai buồng lái giả nầy tuột băng băng bon bon xuống “dốc rây” dựng đứng cao tít trên không trung, rơi tõm rất nhanh xuống nước. Sau đó buồng lái lật ngược, chổng mông lên. Học viên “tá hoả tam tinh” như bị trời giáng cho một cú búa tạ vào đỉnh đầu. Nguy hiểm thật.
Một lần khác, khoá sinh học cách thoát ra khỏi máy bay khi đáp xuống biển, có một phi cơ bị lật ngửa. Viên khoá sinh bị dây đai nịt an toàn cột chặt vào ghế. Nhưng ông huấn luyện viên biết cách điều khiển sự nguy hiểm ấy trong nháy mắt. Nhân đó thầy tập họp khoá sinh lại, thực hành về điều “mắt thấy tai nghe miệng đọc” liền.
Đợt 31.-
Điều đầu tiên là: khoá sinh bình tĩnh ngồi yên, chứ mình càng loay hoay vì nóng ruột, hồi hộp, nôn nóng, lo âu bao nhiêu, càng dễ phạm sai lầm khi nhìn mọi việc xảy ra chung quanh. Tiếp theo sau đó, anh mới thao tác từng việc một, anh phải đếm thầm: “One thousand one, one thousand two… one thousand five”... , rồi nhanh nhẹn tháo gỡ dây an toàn bụng và vai. Mặc nước bọt xoáy tùm lum. Khoá sinh tháo dây an toàn, dây radio, ngồi chồm hỗm lên ghế mà đạp rất mạnh. Thoát ra bên hông, anh nhanh chóng bơi ngay ra xa, để tránh chiếc phi cơ tạo ra lực kéo, lôi mình tụt vùn vụt xuống nước sâu hơn.
Nhớ hồi xưa khi ba có chiếc xe hơi. Mặc dù xe hơi có chú tài xế Bảy chăm sóc, nhưng tính anh khi lái xe đi đâu, là anh đi một vòng quanh xe kiểm soát kỹ, trước khi leo lên xe ngồi lái. Ở trường bay cũng thế! Trước khi điều hành phi cơ, tự mình phải cẩn thận đi xem xét mọi thứ, việc nầy gọi là Pre-Flight check.
Bên Không-quân cũng thế! Khoá sinh đi một vòng kiểm soát từng bánh xe, từng chong chóng, xem xét hết mọi ngỏ ngách phi cơ cẩn thận. Xem có rịn rỉ dầu nhớt ở đâu không. Vì khi mình mở công tắc lên rồi, chỉ cần chậm năm giây. Là nó “nổ cái đùng”, toi mạng như chơi. Thậm chí anh còn cẩn trọng mở bình xăng ra, coi màu xăng ra sao nữa: Vì em có biết không, mỗi loại máy bay, có một màu xăng rất khác nhau, khác hẳn, riêng biệt, chắc chắn khoá sinh cần phải học thuộc lòng:
- Xăng màu tím: để dùng dành tiêng cho phi cơ phản lực.
- Xăng màu xanh lá cây: để dùng cho phi cơ cánh quạt một động cơ.
- Xăng màu vàng: để dùng cho phi cơ cánh quạt nhiều động cơ.
Ấy thế mà, có lần anh thoát chết đó em à. Hôm ấy, chả hiểu sao, thay vì nhân viên có trách nhiệm điều hành đổ xăng máy bay cho loại cánh quạt. Nhưng họ lại lầm lẫn đổ loại xăng máy bay phản lực vào phi cơ anh sẽ lái. Khi mở nắp bình xăng ra xem, anh thấy xăng khác màu quy định. Anh mất hồn mất vía, lập tức anh vội chạy rất nhanh lên phòng điều hành, yêu cầu họ kiểm soát mấy chiếc phi cơ ấy lại. Anh không nhận chiếc máy bay nầy. Họ và anh lật đật chạy xuống chiếc phi cơ sai lầm kia. Đúng y bon vì sự bất cẩn trọng đại đó! Tốp lính bảo trì có lẽ không biết về việc lẫn lộn xăng nhớt. Có lẽ họ quên, hay họ chả để ý, không rõ. Nên thay vì họ cho chiếc xe bơm xăng chạy vào khu máy bay phản lực, (cách đó vài chục mét). Họ lại lầm lẫn chạy xe quẹo vào khu vực đậu máy bay cánh quạt. Hú hồn hú vía em nhỉ! Tối hôm đó anh bỏ ăn mất ngủ, lật đật về phòng trùm mền mà lạnh toát người run lập cập ... trước tiên anh nghĩ đến ba má, anh chị, nghĩ đến em gái út Hồng Hạnh, anh chồm dậy viết và gởi em lá thư tâm tình, mặt vẫn xanh như tàu lá chuối.
* Đợt 32.- Lần Đầu Tiên
Anh đứng trên bề cao của trường tập, cao khoảng hai mươi mét, chiều cao tương tự như trên bon tàu của Hàng Không Mẫu Hạm nhìn xuống mặt biển, anh bình tĩnh xếp hai cánh tay tréo qua hai bên vai, sẵn sàng trong tư thế chuẩn bị. Khi thầy hô “nhảy”, anh nhắm mắt, toàn thân nhảy thẳng đứng xuống nước cái ùm. Vì sao thân thể lại cứng đơ thẳng đứng (như thân cây chuối từ trên cao tít bị dộng xuống biển)!? Vì nếu anh đang đứng ở trên độ cao ngất kia, mà anh giăng ngang hai cánh tay ra, cũng như giăng xoạc hai chân ra, khi thân thể mình va đập mạnh vô nước, với tốc độ quá cao, nhanh kinh hoàng đó, mình có thể bị gãy tay, gãy chân như thường. Em có hiểu không?
Như đã nói ở trên: Bên Không-quân có đường phi đạo dài độ 3 miles, để phi cơ đáp xuống. Còn bên Hải-quân, chỉ có cái bon tàu Hàng-không Mẫu-hạm luôn bập bùng, lênh đênh, bềnh bồng, chiều dài chừng 200’ Yellow Zone hay Landing Zone, thì trên Hàng-không Mẫu-hạm, chỉ dài độ 30mét thôi. Cách nhau độ 10mét, có một dây cáp. Nếu máy bay đáp trong phạm vi nầy, dây cáp sẽ tự động bật lên. Và cái hook đằng sau đuôi máy bay, sẽ bấm vào kéo máy bay lại, để phi-cơ đáp xuống. Lúc anh thực tập đằng sau mỗi chiếc máy bay của US Navy, đều có gắn cái Hook, (tức là cái móc). Khi nào, phi cơ chạm xuống bon tàu, sợi dây cáp tự động bật lên, để “níu” chiếc phi cơ lại. Nếu anh đáp vượt ra ngoài dây cáp thứ nhất, còn hai sợi nữa. Chung qui, có tất cả độ 90 foots (độ chừng 30 mét) để phi cơ đáp xuống.
Nếu lọt ra ngoài, một là: Anh phải tống ga cất cánh bay vút lên trở lại. Hai là: Lùi vào Safety Barrier ở cuối bãi đáp, nơi đây có tấm lưới nylon đặc biệt, mới có thể níu kéo chiếc máy bay đứng lại, (bất cứ loại máy bay gì). Rồi tấm lưới ấy đành phải phế thải nó đi. Dù một tấm lưới chi phí ít nhất là một trăm ngàn dollars! Mỹ giàu kinh khủng chưa em? Thứ ba là mình và phi cơ lao xuống biển, đi mút mùa lệ thuỷ thăm hà bá chơi. Ha ha ha!!!
Cất cánh cũng vậy, nếu ở dưới đất, có thể chạy theo chiều dài của phi đạo. Lúc nào đủ tốc độ, tự động chiếc máy bay sẽ bay bổng lên. Anh chỉ cần kéo nhẹ cần lái, là OK. Còn bên US Navy không được. Mỗi khi muốn cất cánh, thì cái Canopy (cái mũi bằng Plexiglass, một loại nhựa trong) phải để chiếc máy bay đậu ở trên hai cái bệ phóng. Hai bánh xe của phi cơ gắn lên đó (là cái Catapult). Bậc phóng rất mạnh. Có thể đủ sức đẩy những chiếc phi cơ nặng cả chục tấn.
Anh ngồi an toàn ở trong buồng lái. Lúc thấy người đều khiển ra hiệu lệnh. Anh tống ga hết sức, chân đạp hết thắng, - đồng thời tống hết ga. - Phi cơ gầm thét. Như muốn vọt tới, mà bị dùng dằng níu giữ kềm lại. Lúc nầy anh rất căng thẳng về tinh thần (mấy lần đầu nó giật hai bên thái dương anh tưng tưng), và thể chất tăng cao độ. Khi có dấu hiệu xuất phát, máy thủy điều dưới bon tàu, sẽ phóng chiếc máy bay đi. Tốc độ kinh hoàng nhất. Nghĩa là, phi cơ chỉ cần rời bệ phóng vài giây, là đã đủ tốc độ để bay rồi. Thật ra, anh đi vào chi tiết mong cho chuẩn xác, chứ ngay cả ai được huấn luyện bên Không-quân (USAF) cho dù là phi công, chưa chắc họ đã nhớ hết những chi tiết, những thứ lặt vặt mà anh kể em nghe đâu.
Anh ngừng bút nhe. Nhớ cho anh kính lời thăm ba má và đại gia đình, mong họ giữ gìn sức khoẻ, và em phải ngoan ngoãn hiền lành thùy mị, học giỏi nữa ha.
Anh trai,
Thiệu
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
05-25-2017, 05:10 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 19


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1495686723-FICO 4 USAF.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanVietNam_FullVersion (1)_1416186822.mp3
Những Cánh Cửa "Vũ Môn"
Tình Hoài Hương
***


Đợt 33.-
Tóm lại, Phi Hành cùng bạn hữu đã tới các trường, các lớp, những nơi cần thiết học tập và thực hành hầu như đầy đủ các bộ môn:
- Trường Sinh Ngữ Quân Đội Không-quân Hoa (General & Specialized) tại căn cứ Không-quân Lackland, San Antonio, Texas.
- Trường quân sự Hải quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida.
- Trường huấn luyện phi cụ IPIS tại Randolph AFB, Texas.
- Trường dạy Khu-trục tại Hurlburt Field ở Florida.
- Trường bay Hải quân Hoa Kỳ Corpus Christi, Texas.
- Trường Hải quân Hoa Kỳ, học về cao đẳng phi hành (Advanced Taining) căn bản trên phi cơ T-34B, & phi cơ T – 28 B / C ; có chong chóng ba cánh, và phi cơ A D-6 Skyraider VT-30, Corpus Christi, Texas. * tại trường Saufley Field và Whiting Field (Pensacola, FlA).
- Học lớp UPT (I-28 Air Force) trên phi cơ T – 28 A Trojan – Keesler AFB, MS tại Randolph (Texas). V.v…

Trong cánh cửa "vũ môn" ấy, Hành thích học và thực tập nhứt là loại phi cơ C 130, vì nó bệ vệ an toàn, do có hệ thống động cơ, thủy điều, điện… Những thứ đó có thể thay thế, khi một trong những bộ phận nào đó có chút trục trặc. C 130 thật kỳ diệu, đặc biệt có thể gắp bốn động cơ; chứa được 28,000 gallons xăng JP4 trong cánh, hai bình xăng phụ Pylon Tank.

Đợt 34.-
Việc đầu tiên, người chịu trách nhiệm máy móc leo lên nóc check hệ thống cánh quạt lớn, lên ‘tail skid’ check cánh quạt đuôi, rồi anh cơ phi (cơ khí viên phi hành) kiểm soát lại dầu máy, dầu hộp số, coi nó có ở ngay cái vạch an toàn không, anh cẩn thận chu đáo coi hết từ trên xuống dưới, hai bên thân tàu, vân vân... Xong xuôi, anh ra dấu hiệu an toàn 100% - để phi công sẵn sàng chuẩn bị đi "quay cuồng với máy bay" trên không trung bao la. Hành đến bàn sĩ quan trực lập phi trình, điền sổ phi vụ lệnh, ghi nhận toạ độ, coi toạ độ, sau đó anh leo lên phi cơ ngồi gọn gàng trên ghế trái trên phi cơ làm "hoa tiêu chính". Gài dây an toàn, Hành để quyển check list trên đùi xong, anh đội mũ, đeo ống nghe để liên lạc với đài kiểm báo và nhân viên dưới đất. Một tay anh vói lên đầu cần kiểm soát các cầu chì bên hộp trái, và bên phải. Rồi Hành tìm nút overhead panel, để khởi động GTC; kiểm soát 32 cái đồng hồ trước mặt giữa vị trí của phi công chính và phi cơ phụ. Lúc trước thầy làm tới đâu, Hành phải ghi nhớ và học thuộc lòng các động tác. Hôm nay Hành cũng làm y chang như thầy.

Đợt 35.-
Những lần sau Hành tập bay solo với bốn chiếc khác, tập bay hợp đoàn (Formation Flight). Hành bay qua Tampa (FLA) vài ba lần. Vì nhà ông thầy ở vùng đó. Theo chương trình suốt thời gian bay, thỉnh thoảng Hành được đi bay không hành nhiều lần. Nghĩa là đến cuối tuần vào chiều Thứ Sáu, Hành lên phòng khí tượng làm Flight Plan (bản đồ bay). Mình có quyền chọn địa điểm nào mình ưa thích, để bay đến đó. Hành báo cho thầy biết nơi mình sẽ đến. Ông thầy chỉ có việc bỏ vào túi xách phi hành (Flight Bag) mấy bộ quần áo. Ông thầy điềm đạm và ung dung lên sân bay chờ Hành. Hành thường chọn bay đến Oklahoma, vì nơi đó có gia đình bà chị đang sinh sống. Sáng thứ Bảy, Hành gọi phone báo cho chị biết tin. Anh chị sẽ lái xe chạy lên phi trường đón em về nhà họ, Hành ở chơi trọn kỳ week-end. Chiều Chủ Nhật, anh chị đưa em trở lại phi trường, Hành sẽ cùng ông thầy bay trở về trường học.

Bình thường đi bay, ban ngày trời trong xanh gió nhẹ… thật là lý tưởng cho người phi công bay bằng mắt thường, nghĩa là mình dễ điều khiển con tàu, dựa theo cảnh vật bên ngoài mình trông thấy dường như quen thuộc, dễ dàng nhận xét mình đang ở nơi nào hơn, và theo giác quan mình cảm nhận rõ ràng từng vị trí. Ví như nhờ ta nhìn thấy đường chân trời, nên biết mình đang cho phi cơ bay chúi xuống; hay ngóc đầu lên, máy bay đang nghiêng, hay bình phi, v.v… Đó là bay theo mắt trần của mình, nên còn gọi là Visual Flight. Dĩ nhiên cũng có nhiều khi máy bay lướt nhẹ qua những đám mây mỏng lưa thưa, lúc đó làm cho Hành thêm vui tươi hứng khởi, mình có cảm giác lâng lâng, bềnh bồng, lả lướt, khoái cảm nên thơ, thú vị biết chừng nào; đâu cần mộng mơ lãng mạn, mà tưởng như mình đang len lỏi, đùa vui, nắm vuốt dãi áo lụa trắng ngà, mềm mại của các nàng tiên nữ duyên dáng xinh như mộng đang uyển chuyển, phất phơ trong điệu vũ khúc nghê thường trên chốn bồng lai tiên cảnh… đào nguyên! ái dà dá da... thiệt là thích ơi là thích.

Còn về đêm trời đẹp, nhờ có ánh đèn xa xa của thành phố nầy, thành phố nọ mà mình đã thăm viếng hoặc bay qua vài lần, nhờ vậy mình có thể định vị của máy bay được. Dù có… gay go hơn ban ngày! Ngược lại, bay phi cụ (Instrument Flight) là phi công chỉ bay theo, và căn cứ vào những cái phi kế thôi! Tất nhiên họ phải tin tưởng tuyệt đối vào những cái đồng hồ đỏ quoạch nầy, để uyển chuyển linh động, nhịp nhàng mà điều khiển máy bay, cốt yếu là mình giữ phi cơ bay thăng bằng, lên xuống, hay nghiêng, quẹo, ... đều dựa theo mấy cái đồng hồ! Nó cũng tương tợ như là... "phù chú linh thiêng của vị thần hộ mệnh" ấy mà!
Mấy tay "lão luyện" nầy khá giỏi, có nhiều năm trong nghề bay, có nhiều kinh nghiệm, thì tay lái "vững vàng tuyệt chiêu" lắm rồi! Hành nghe nói mấy tay bay phi cụ là họ có card trắng hay xám gì đó. Khi phi trường bị đóng cửa vì thời tiết xấu, hạn chế nhiều loại máy bay, những tay được mang card loại nầy họ chỉ cần thông báo với đài kiểm soát card của mình màu gì… số mấy... là họ được quyền cất cánh ngay. Mấy tay “săn bão” chắc cũng thuộc hàng “sư tổ, đại sư phụ” của mấy “ngài phi cụ” nghen!

Còn Hành, bay đêm nay coi như Visual Flight thôi, vì thời tiết khá trong lành. Tốt nhứt là bay lúc trời sáng sủa là an toàn hơn. Có tầm nhìn cao (Visibility), dù trong lúc bay Hành liếc nhìn vào phi cụ, nhưng không phải chỉ chăm chú bay theo phi cụ không thôi! Do trong tâm trí anh cứ mãi thắc mắc định hỏi thầy, hay tìm tòi học hỏi nơi sách vở, nơi bạn bè, nhưng rồi anh cứ quên hoài quên huỹ, cứ lu bu chuyện nọ chuyện kia, nên Hành không nhớ hỏi thầy, hoặc nhờ các niên trưởng chỉ giáo thêm về sự thắc mắc, mà anh chưa khi nào dám thực hành, chuyện như vầy: Tất cả các loại phi cơ khi bay trên không trung bao la, các huấn luyện viên kỳ cựu đều có thể bay lên, bay xuống, bay thẳng tới trước, quẹo gắt, lật ngửa, thậm chí máy bay úp sấp, hay chổng ngược đuôi lên trời dễ dàng, rồi vèo một cái vút bay thẳng đứng lên trời cao. Mọi việc họ đều thao tác tuyệt vời. Thế nhưng Hành không thể biết: các loại phi cơ ấy có thể bay thụt lùi như mình “de xe lại” được không nhỉ?

Đợt 36.-
Sau bao tháng ngày trầy trật bận rộn, nhọc nhằn lo "học và hành", nay Hành bay gần như thành thạo. Bây giờ nhớ lại, cảm giác lâng lâng trong hạnh phúc nhẹ nhàng êm ái của thuở ấy dường như hãy còn nguyên vẹn. Khoá sinh được biết năm vừa rồi có một sinh viên Việt Nam bay đêm như thế, khi sắp về đến sân bay bỗng nhiên phi cơ của anh ta bị lật ngửa. Phi cơ lao xuống khu rừng bên cạnh. Anh ta bị vertigo! (tạm coi như choáng váng, không nhận biết vị thế thật sự của máy bay như thế nào, mà anh chỉ tin vào cái “ảo giác sai lầm” - lúc đó như: về độ cao, sự thăng bằng…). Nhân khi nói đến vertigo, một hiện tượng có thể xảy đến với bất kỳ một phi công nào khi bay… lỡ bị lọt vào trong mây do thời tiết xấu, hay trong đêm tối mịt mùng không một ánh trăng sao! Thì… chao ơi, có lẽ hầu hết ai ai cũng cảm thấy lo lắng như mình. Thật khổ hết biết!

Khi đã nhuần nhuyễn, thành thạo, và thành công, nghĩa là có trường dạy đưa tặng Hành cái "bằng cấp bay bổng" hẳn hoi, thì sinh viên sĩ quan Không-quân chờ đợi... lúc nào có đủ ba người, họ mới tổ chức lễ phát bằng & có buổi tiệc linh đình. Họ tiễn khoá sinh sĩ quan Không-quân trở về bên US Air Force, để... một lần nữa cần phải học bay bổ túc thêm:
- Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
- Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
- Học Landing Signal Officer (LSO).
- Học sử dụng cờ màu (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands)
- Học điều khiển phi cơ hạ cánh trên Mẫu Hạm.
- Flight Deck Officer (FDO).
Vì nguyên nhân sau: Chương trình bay với US Navy đã được đặt ra, do từ ông Nguyễn Cao Kỳ đề xướng, khi ông lên làm Phó Tổng Thống, ông nói:
- Nếu Mỹ sợ dư luận trong nước, và quốc tế, về việc các phi công Mỹ đang ở Việt Nam bị bắn rơi, bị bắt làm tù binh ngoài miền Bắc nước Việt Nam. Hãy xin cho phi công Việt Nam đi bay thay thế. Họ sẽ được huấn luyện bởi US Navy. Họ sẽ được cất cánh từ Hàng-không Mẫu-hạm ở ngoài khơi biển Đông. Họ sẽ tiến vào bờ, (nơi vùng đất liền nào đó), để đánh phá các mục tiêu của địch đã định. Sau đó, họ sẽ tự động bay thoát đi, bằng cách là phi cơ ấy quay trở lại với con tàu Mẹ. Tôi tin chắc họ sẽ thành công.

Hồi đầu Mỹ chịu, nhưng ở miền Nam Việt Nam phải tuyển toàn những người có trình độ Anh-văn cao. Có thể hình tốt, nhứt là những người hoàn toàn tự nguyện mới được. Vì thế, Hành và một số ít bạn được gởi đi học thêm ở US Navy. (Rồi không hiểu vì sao... một thời gian lâu lắm, lúc về sau nầy, lại có lệnh “ngưng” chương trình US Navy ấy. Kể ra, từ năm 1964 cho đến 1967, có tất cả 74 người đi học ở trường Võ Bị Hải-quân Không-Hành, thi đậu chỉ có 40 người, trong đó có Lữ Phi Hành) * Có thể do chi phí "quá tải" nặng kinh khủng khi muốn đào tạo một phi công US Navy, nên họ lo việc "chi tiền" không xuể, chịu không nỗi chăng? Vì thời gian huấn luyện những phi công US NAVY nầy khá dài, tốn kém đủ mọi thứ gần gấp rưỡi gấp hai khi học bên US Air Force. Muốn huấn luyện thành thục một phi công bên Không-quân, kể cả thời gian học Anh-văn ở Lackland AFB, cho đến khi ra trường thường chỉ cần mười tám tháng * Còn muốn đào tạo một phi công US Navy phải mất ít nhứt hai năm.

Đó là chưa kể phi công ấy phải học “chuyền sâu”, tức là phi công ấy đi học bổ túc nầy, huấn luyện nọ..., để anh ta có thể bay loại phi cơ thông dụng tại Việt Nam, (là loại khu trục cơ A.1.E Skyraider). Loại Skyraider học lái 8 giờ bay trên không trung. (Phi cơ nầy mang 8,000lbs, 4 đại bác 20mm; 12 dàn ngoài có thể mang 500lbs. 3 dàn trong mang 3,000lbs).
* Không hiểu tại sao hồi ấy và hiện nay tại Việt Nam không thể có loại phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom? (mỗi dàn có 6 quả bom nặng 500lbs). Phi cơ A-4E không cần có dù-đuôi khi đáp trên Hàm Không Mẫu Hạm. Mà, nếu bom napalm thả trúng ngay trên súng địch rất hữu hiệu, chính xác, (vì sức nóng rợn người của bom sẽ làm “co dúm” hoặc cong queo nòng súng)!? Thì ta cần gì phải nhọc công mệt nhoài "đánh với đấm"??? Nếu “phe ta” có phi cơ A-4E của Navy mang bốn dàn bom, là tuyệt vời quá rồi còn gì!
* * *
Tình Hoài Hương
Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau

AcDieu225
06-15-2017, 02:45 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/fico _1420513297.jpg

THH xin kính chào anh AcDieu225 thân mến,
THH chân thành cám ơn anh AcDieu225 đã vui lòng ghé vào đọc: Truyện Dài... và ghi lời nhẹ nhàng cám ơn hiếm quý, khiến tôi xúc động.
Quả thật là lâu lắm, quá lâu rồi không hân hạnh gặp anh trên HQPD! Anh AcDieu225 && và hiền muội có khỏe không ạ?
Tình thân,
THH

Không có chi HH ơi, mình viết/đọc/nghe giải trí mà. Cám ơn chia sẻ vui vẻ với mọi người nha . Thắng "Điếc"

Tinh Hoai Huong
07-14-2017, 07:30 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Nhì
Chương 20
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1502679188-LacklandAFBFirst.jpg
/uploadpics/mp3_pdf417/1502679590-Quyet Chien Thang - Hop Ca.mp3
Trở Về Với U S A F
(United States Air Force - Không Lực Hoa Kỳ)
Tình Hoài Hương
***


Khi đã tốt nghiệp bên US Navy, Hành chính thức được công nhận là phi công, có bằng lái phi cơ loại hai chỗ ngồi. Đồng thời anh nhận được quyết định thăng cấp Chuẩn-úy phi công từ bên Bộ Tư Lệnh Không-quân miền Nam Việt Nam đã chuyển qua Mỹ. Muốn tốt nghiệp bên US Navy, theo khả năng và sự kiên trì cố gắng của anh, thì không phải là chuyện dễ dàng để vượt qua những gian nan thử thách căm go. Hành thấy thi sĩ Trần Văn Minh ghi bài thơ rất tuyệt, vì “ngài ấy ca cẩm” chuyện lái tàu bay thật có duyên:
Nào đáp sân này nào hạ cánh sân kia
Dù ngắn nhỏ ta trăm thứ hằm bà lằng
Mà mần răng bay bổng luôn luôn
Hết lên rồi lại xuống, xuống rồi lại lên
Xuống xuống lên lên, cứ như chày giã gạo
Người không thì giờ đổi áo
Tàu chẳng kịp xả hơi
Có nghỉ có ngơi chăng là để châm xăng chế nhớt (TvM)

Lẽ ra, Hành đã được gọi đi học khoá Huấn Luyện Viên, khóa đó có ba chỗ, gọi là IP (intructions Pilot) bên Keesler. Nếu, ngay lúc ấy trong giới bạn cùng khóa sinh, có ai chịu khó ra trường cùng Hành, là anh nhanh chóng chuyển đi học khoá đó khoẻ re. Nhưng xui xẻo là lúc đó có một bạn đi thăm gia đình em gái ở bên Florida. Thế là Hành và bạn nữa được đưa về Battalion X trước. (Tiểu-đoàn Battalion X nầy là nơi ở của những người đang học bên US Navy bị loại, họ ở đó chờ đợi để điều đi học các loại phi cơ khác.

Hành có một tháng ròng rã ngồi chơi xơi nước, nhưng có lương có tiền ron ren rủng rỉnh như ai. Sáng, trưa, chiều, tối, anh chỉ ăn rồi ngủ. Thức dậy không biết làm gì hơn, Hành tà tà đi ra phố rong chơi lung tung đó đây đã đời. Chiều tối anh chui vào mấy Bowling Alley, hay vào rạp chiếu phim coi hoài, phát mệt đừ. Thời gian nầy Hành bắt đầu mập ú. Nhàn rỗi quả thực vô vị, nhàm chán. Hành viết thư về gia đình, viết thư tình cho Trân Thư mỗi ngày một lá thắm thiết, ghi đầy nhớ nhung yêu thương "ra riết" như hai người đã là chồng vợ, Hành kể hết chuyện dông dài trên trời dưới đất, không sót chuyện gì. Hành gởi nhiều hình ảnh đó đây, kèm đủ thứ quà cáp quần áo thời trang đầy nhóc về cho Trân Thư.

Đợt 40.-
Mãi đến lúc bạn kia đi thăm gia đình em trở về, thì cả đám sinh viên nầy mới trở về học bổ túc bên Randolph ở Texas. Thật ra, lúc đó Randolph chẳng có khoá học nào cả, nhưng chả lẽ họ cho nhóm khoá sinh Không-quân nầy nằm dài, ở không rung đùi xơi thức ăn béo bở, tha hồ uống Coca Cola mà ung dung lãnh lương rủng rỉnh sao? Nên họ điều bọn Hành đi qua học bổ túc T-28A mà bên USAF sử dụng. Hành ví dụ T-28A nó như chiếc xe honda chừng 50cc phân khối. Thử so sánh đi... trong khi đó, Hành đã tốt nghiệp "cái bằng"... có loại xe honda gắn 90cc phân khối rồi. Thiệt chán phèo.

Về đến Randolph, việc đầu tiên là: Trên Sự Vụ Lệnh thuyên chuyển nhóm sinh viên sĩ quan Không-quân nầy, thì Mỹ vẫn ghi là “A/C", nghĩa là Cadet. Theo nguyên tắt là các anh vẫn còn là sinh viên sĩ quan. Từ ăn đến ở đều là sinh viên sĩ quan, thì chưa được hưởng quyền lợi của sĩ quan. Khi vừa đến văn phòng, Hành nhìn trong danh sách Việt Nam gởi người đi du học khóa nầy: Có nhiều người đến từ Việt Nam, tất cả họ đều là sĩ quan từ Thiếu-uý, Trung-úy... Chứ không có ai là sinh viên sĩ quan. Trường bay định chuyển các anh sinh hoạt chung nhóm với đám "tân SVSQKQ".

Thế là tất cả không đồng ý. Hành trưng bày sự vụ lệnh, đưa bằng tốt nghiệp ở trường bay Mỹ ra, và đưa quyết định của Bộ Tư-lệnh Không-quân Việt Nam công nhận "các anh" hiện giờ đã là sĩ quan thực thụ. Ông Đại-tá Chỉ-huy-Trưởng Không-quân Hoa-Kỳ mời các anh nhóm nầy lên văn phòng trình diện. Hành trình bày rõ ràng quan điểm của mình. Đòi hỏi trường bay phải có quyết định đúng đắn. Nếu không, thì "chúng tôi" đi trở về US Navy & sau đó các anh xin về Việt Nam, không thèm học hành chi nữa. Sau khi bàn thảo có phần nóng bỏng, gay gắt, và giằng co một hồi lâu. Họ đành chấp nhận là “Hold for third Lieutenant”. Vì bên đó không có cấp bậc Chuẩn-úy (Aspirant), mà chỉ có 'Warrant Officer" ; được tạm biết là "Thượng-sĩ-Nhất", là cấp bậc cao nhất của USAF.

Vì, họ vẫn chưa muốn công nhận các anh là sĩ quan, nhưng họ cho mình hưởng chế độ ở phòng sĩ quan. Hành và Hiên được cấp một phòng lớn rộng và tiện nghi thoải mái, có phòng khách, hai phòng ngủ, toilet. Vân vân... Đi học bay bên nầy, công nhận các sinh viên sĩ quan Không-quân đang thụ huấn ở Hoa Kỳ cảm thấy thoải mái nhàn hạ như đi dạo mát. Nhưng Hành thương cho những anh sĩ quan ở Việt Nam đang theo học tại đây; tuy họ đã tốt nghiệp khóa L-19 bên Việt Nam rồi. Nhưng họ theo học với bọn Hành cũng có phần vất vả, nhọc nhằn. Chứ “mấy đứa phi lâm nầy” thì đã từng bay xoành xoạch loại phi cơ to hơn, mạnh hơn nhiều... Nên các anh cũ “Hold for third Lieutenant” cứ ngồi đó rung đùi ung dung "hỉnh mũi" lên trời, miệng huýt gió lia chia, và nheo nheo mắt nhìn "mấy anh mới đến" thao tác tập tành, mà reo vui... như cây thông hiu hiu reo vi vu khi đứng giữa trời đất.
***
Khóa học nầy ấn định ba tháng. Nhưng tất cả khoá sinh mới học đến tháng thứ hai, thì trường bay phải chuyển toàn thể căn cứ đi Keesler AFB, (cách xa đó độ 200 miles). Ở đây, Hành có một kỷ niệm rất vui: Ông thầy người gốc Ý dễ thương và vui tính, hồi ấy ông đã qua Việt Nam lấy bà vợ trẻ, bà ta một chữ tiếng Anh bẻ đôi, bà cũng không biết. Thế là lúc đó, vợ thầy có bầu, ông muốn đưa bà vợ học khóa giảng dạy “Người Mẹ Tương Lai”. Nên thầy khẩn khoản nhờ đám sinh viên Việt Nam: có ai tình nguyện xung phong đi làm thông dịch viên cho "bà thầy", lúc bà gặp khó khăn vì chữ tiếng Anh tiếng U phức tạp, rườm rà và lộn xộn. Nghĩ tình "thân đàn bà Việt trôi lênh đênh giữa 12 thứ tiếng", Hành cũng có ý muốn tìm tòi học hỏi cho biết "cái sự đời", nên Hành "xung pheng chút xí... đi lồm diệc nghĩa".

Ông thầy vui mừng đem xe đến chở Hành và bà bầu kia đến bệnh viện. Anh phải ngồi đó nghe, rồi ghi chú cẩn thận vô quyển tập bằng tiếng Việt, lại vừa ghi vừa phiên dịch rõ ràng từng món, từng món... cho bà bầu thực hành. Hành ân cần chỉ cho bà ta biết cách thức luyện tập trước khi bà sanh, sau khi bà ta sanh con. Cách bà thay tã lót. Tắm rửa. Pha sữa. Hay nấu thức ăn cho em bé bao nhiêu tháng tuổi thì làm sao, làm gì. V.v... Tóm lại trong ba tháng ở đó, Hành làm “trợ lý ngôn ngữ” đắc lực và có uy tín cho bà bầu. Khi ghi danh học bà bầu được tạm mang "Họ Lữ" của anh "chồng hờ dật dờ". Mấy tháng sau thì bà bầu sanh một nhóc tỳ kháu khỉnh, để kỷ niệm ông bà thầy đặt tên cho thằng bé là Tony Luis.

Chuyện thứ hai, là có sự hiềm khích giữa anh, và tên Trung-úy tên Carroll. Nó chả làm gì anh cả, nhưng Hành vẫn ghét nó. Thế mới kỳ! Số là ở barrack có lệnh cấm nấu nướng trong phòng. Vì trong trường sợ vật liệu xây dựng nầy dễ bốc cháy. Mỗi chiều, anh ta đứng gần chỗ người Việt ở, chận đường mấy sinh viên đi mua thức ăn về định nấu nướng thêm. Vì ăn đồ Mỹ hoài, ngán lên tới cần cổ và không hợp khẩu vị. Carroll tịch thu, vất hết những rau tươi, thịt heo, thịt gà tươi, thịt bò vào sọt rác. Có hôm, Hành thấy tên ấy làm chuyện lếu láo đó như mấy lần trước (với mấy anh kia). Chịu không nỗi, Hành đến bên Caroll cự nự:
- Anh có thấy rõ họ nấu nướng ở Barrack không?
- Đây là những thức ăn còn sống, e rằng không hợp vệ sinh.
- Tôi rõ. Nhưng sao anh dám vứt thức ăn của họ?
- Không có phép dùng thức ăn sống.
- Anh có biết anh đã xâm phạm “tự do cá nhân”, đồng thời anh phạm lỗi “phá hủy tài sản” của kẻ khác không? Vì họ đã mua thức ăn bằng tiền của CA. Anh có muốn tôi complaint, thưa anh lên CA không?

Tên Trung Uý Mỹ không muốn đụng chạm đôi chối, hay tranh luận lôi thôi gì, bởi vì Hành cũng là một sĩ quan. Công nhận anh ta khá hiền và tôn trọng tự do. Tuy “ảnh” thi hành đúng đắn bổn phận và nhiệm vụ, chẳng có lỗi gì mà Carroll cũng bằng lòng "xin lỗi". Từ đó anh ta hết đứng chận đường đám sinh-viên. Thật ra vụ nầy, Hành cũng có một lần bị. Hôm đó đám sĩ quan Việt (sĩ-quan thiệt đó nha) tất cả sĩ quan đi học, thì ở nhà có an ninh (Air Security) đến chận các ngõ lên xuống, họ tự động lấy chìa khóa Master Key mở các phòng ra. Hễ thấy nơi nào có đồ dùng để nấu bếp, thì họ tích thu hết. Thậm chí có những thứ hàng hóa mới tinh chưa bóc tem, còn nguyên kiện mà anh em định mua gởi về quê nhà biếu tặng thân nhân. Air Security chở một chiếc xe GMC đầy nhóc các "hàng hoá" linh tinh. Trưa hôm sau, Hành và chín bạn nữa bị mời lên phòng Chỉ-huy-Trưởng căn-cứ, để họp. Nhìn nồi niêu soon chảo chất đống tùm lum tà la trước mặt. Ông nói:
- Chúng tôi tôn trọng qúy anh là sĩ quan đồng minh. Sao qúy anh không tuân theo điều lệ của căn-cứ là: "Cấm nấu ăn trong phòng". Qúy anh có ý kiến gì không?
- ...
Mấy bạn kia rụt rè nhút nhát nên đẫy Hành ra tranh luận: OK nói thì nói. Sợ gì! Có bị bắn “cái đùng” đâu mà sợ chết:
- Thưa Đại-tá, chúng tôi là người Việt Nam, chúng tôi ăn thức ăn Việt Nam quen rồi. Nay ở bên Mỹ gần hai năm, ăn toàn thức ăn Mỹ. Không hợp khẩu vị, nên chúng tôi ăn không được ngon miệng và... bị đói hoài !? Do đó, chúng tôi không có đủ sức khỏe để đi bay. Với lại... ông chưa có bằng chứng gì là có người nấu nướng, phải không?
- ...
- Nếu ông thật sự tôn trọng, quan tâm đến chúng tôi. Xin ông xây cho chúng tôi có một chỗ để nấu nướng riêng. Được không, thưa ông?

Hành mở ngoặc đơn ra để nói với bạn đang ở Việt Nam hay: Ở Mỹ không bao giờ bị đói đâu bạn ạ, cho dù có ai homeless, "vô gia cư", họ cũng có nhiều cơ quan thiện nguyện nuôi, giúp họ có nơi ăn ngủ chu đáo tươm tất & đàng hoàng, cung cấp đồ dùng ấm áp, thức ăn họ phân phát nhiều lắm, rất ngon, nóng hổi, sạch sẽ. Chỉ vì Hành phải nói như thế mới thấy thảm, để ông ta cảm động mà không ban lệnh phạt.
Nhìn đống soon nồi méo mó đen đen cũ kỹ như thế, mà nghe Hành bố lếu bố láo nói ẩu, nói liều, nên cả nhóm Không-quân đều cười to. Như thế, kể ra Hành “muốn thí mạng cùi”, cũng lạ! Cả nhóm nháy mắt nheo mày đều nhìn nhau tủm tỉm cười. Công nhận người Mỹ rất “Fair Play”, đúng là họ có “tinh thần cao thượng” ôn hoà, tinh tế hết sẫy, chịu chơi hết mình. Hành khâm phục đức tính của người Mỹ khoan dung đức độ dường bao. Ông Đại-tá ôn tồn hóm hỉnh cười cười, nói:
- OK. Để tôi xem đã. Tạm thời, tôi phải giữ những thứ nầy lại. Cảm phiền qúy anh tối nay đi ăn ở Cafeteria dùm nha. Mai sẽ tính.

Sáng sớm hôm sau, có đoàn người đến cấp tốc xây cất mấy căn nhà bằng vật liệu nhẹ, có mái che nép mình dưới hàng cây xanh nhiều bóng mát, có đường đi ximăng láng cón. Họ làm ba cái bếp to rộng, mới toanh sạch sẽ và sáng bóng, đầy đủ thứ cần thiết hết. Kể cả treo bảng hướng dẫn sử dụng điện. Nhớ tắt điện sau khi dùng. Nhớ làm vệ sinh mỗi ngày các lò nấu. Vân vân... Ui là chu đáo! Họ còn dí dỏm bảo các anh lên lấy lại “dụng cụ bếp núc méo mó” kia để... lảm kỷ niệm! Thế là từ đó xuất hiện “cái bếp dã chiến” ngay tại khu B.O.Q (Bachelor’s Officer Quarter) khu dành riêng cho sĩ-quan độc thân.

Rồi một ngày kia, có lệnh di dời toàn bộ căn cứ qua Keesler (Mississippi). Thu dọn đồ đạc xong, Hành lên xem bảng trực. Oái oăm thay! Trong lịch trình thì Hành phải bay với Carroll. Hành đi xuống cự nự phản đối dưới Chỉ-huy-Trưởng:
- Các ông sắp xếp cho tôi bay với Carroll. Nhất định tôi sẽ không bay đến Mississippi đâu. Tôi sẽ cho hắn đi theo tôi ra ngoài phòng lái, đi chơi với tôm cá dưới biển. Nếu không, tôi sẽ làm một phi vụ Kamikaze.
(Hồi xưa, thần phong của Nhật hồi Đệ-nhị Thế-chiến, là những phi cơ có trang bị đầy bom đạn, bay cảm tử. Họ chỉ cất cánh nhào xuống các chiến hạm Mỹ. Ra đi họ không hẹn ngày về, ...). Tuy sau nầy trong thâm tâm Hành biết mình làm như thế là không phải, chẳng có tình người. Nhưng sự đời lúc ấy chẳng hiểu ma hành quỷ bắt hay sao, mà khiến Hành lại xử tệ với Cattoll đến thế cơ chứ!

Nhượng bộ Hành, nhưng họ cũng rất cáo già. Khi đến căn cứ Keesler AFB, thay vì họ đưa mấy người Việt Nam về BOQ, ở với những sĩ quan đồng khoá. Họ xỏ lá, cho "ba thằng bên Navy" về thẳng bên Barrack của sinh viên sĩ quan. Hai bạn kia cũng như anh tức tối lắm, Hành định lập kế “đảo chánh làm loạn”, nghĩa là không chịu thua, do tuổi trẻ sôi nổi và háu chiến háu thắng, Hành muốn cự nự họ cho bỏ tức nữa. Bàn lui bàn tới, nhưng sau cùng, Các bạn ôn hòa hơn, nói:
- Thôi mầy. Chỉ còn vài tuần nữa là học xong, có chết "con chí" nào mà lo, nhưng mà... "có chí" thì nên. Kệ cha nó.

Thỏa thuận với nhau, nên các bạn và Hành ở tạm đến hết khóa học. Sau khi tốt nghiệp, trường tổ chức một buổi lễ bế mạc long trọng. Nhưng mấy người Việt âm thầm bỏ trốn đi hết, chả cần báo, chả cần tham dự, để trả lời về vụ bọn nó o ép, kỳ thị, chơi xấu mình. Thế là trường báo về Bộ Tư-Lệnh Không-quân Việt Nam là: “tụi anh” không tuân theo kỷ luật, đề nghị phạt. Cả ba người Việt đều bị phạt “15 ngày trọng cấm: Ghi trên giấy tờ”.

Hành ghi vô nhật ký những chuyện vui vui & những điều không mấy vui, nhưng đó vẫn là chuyện có thật trong kiếp phi hành, mình không cảm thấy phiền muộn, dù là một dấu ấn cần ghi nhớ... trong trường bay; ngỏ hầu làm hành trang bước vào đời... để tô điểm cho cuộc sống của Hành mỗi ngày thêm thăng hoa.
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý vị xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
08-14-2017, 03:04 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 21

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507861981-b. pilot 7 - T34.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1507862053-Vo Cau Muon Dam_ HopCa.mp3
Xệ Cánh Bay
Tình Hoài Hương
***


Phi Hành muốn thân thiện, trầm ngâm kể lại câu chuyện có thật trong “đời phi công hụt” của mình cho các bạn & “cố nhân” (lúc nầy chẳng hiểu sao anh và Hồng Hạnh bị mất liên lạc, không có tin tức gì từ sau khi trường mình di chuyển đi nơi khác, và Hồng Hạnh cũng ra trường đổi đi dạy ở nơi "khỉ ho cò gáy")... Xin bạn và em yêu ân cần ngồi lại chia sẻ với mình, lặng lẽ lắng nghe mà bùi ngùi đồng cảm, như người bạn tri kỷ hồng nhan kỳ phùng. Chuyện đau buồn như sau:
Ngày 19 tháng 7 năm 1967, đúng 7 giờ chiều. Hành mặc chiếc áo bay, đội mũ bay, ôm cánh dù nặng trịch, tay cầm bản đồ, đèn bấm đi check mấy cục than dẫn điện, coi có bị gì không, anh sợ rằng nếu mất lửa, khi mở máy sẽ bị ngộp xăng. Kiểm soát cẩn thận xong xuôi đâu đó, Hành chờ giờ TOT (time on target) chính xác, anh mở máy, cánh quạt quay, luồng khói xanh bùng lên khi động cơ nổ. Hành rung đùi, dẫu sao anh vẫn khoan khoái vui vẻ, hãnh diện, vì:
Lóp ngóp bơi trong áo rộng thùng thình
lại cứ tưởng rằng mình bảnh, mình chi rằng đích thực mình giây
Cho nên nó mới ra cái nông nỗi này:
Nhác xem phi lệnh có tên đà run như cầy sấy
vừa mới thấy có mang: nào bom, nào hỏa tiễn, nào đạn ca nông
không rét sao mà chưn lẩy bẩy
gặp ai cũng ỉ ôi năn nỉ: Mầy, mầy đi giùm tao
dù vẫn biết chẳng thằng nào nó khứng
đành nai lưng mũ vác mũ ra tàu
nhớ anh cơ trưởng ảnh bế ảnh bồng ảnh thả vào trong cốc-pít
mặt nạ dưỡng khí mang vào thì hì hà hì hít
hít thật nhiều vì cảm thấy thiếu hơi. (1)
Hành lái phi cơ đến đầu sân và standby xin phép rời phi đạo. Hành kiểm soát lần nữa đủ mọi thứ cần thiết, anh hân hoan vui vẻ cất cánh bay cùng với ông thầy. Bay được ba giờ, thầy kêu Hành quay trở về sân bay. Lúc đó có hai chiếc A.1.E khác đang chờ. Thầy bảo:
- Anh cứ tiếp tục làm phi-đội-trưởng, hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia đi ra Range, thực tập. Anh bay solo! Chúc may mắn và bình an.
- Cám ơn thầy.
Thế là thầy xuống khỏi phi cơ. Khi tay lái đã điều chỉnh chính xác, ấy là lúc phi cơ bình phi, phi công được thảnh thơi nhàn hạ khoan khoái tí chút. Cùng bay với Hành hôm đó có hai bạn sắp hàng chờ anh. Khi cất cánh xong, Hành nghe số 2 và số 3 báo họ đang bay sát theo Hành. Anh yên trí dẫn họ làm các thao tác qui định. Sau khi Hành ném hết bom, bắn hết đạn. Phi cơ của Hành xăng còn ít thôi, anh báo cho hai bạn biết, và dẫn họ về. Đến gần sân bay, anh báo tin cho một bạn cùng bay đáp xuống trước, phi cơ bạn ấy tà tà rề rề… rẽ về đường Taxiway. Bấy giờ đến phiên người bạn thứ hai đáp xuống phi đạo, nhưng anh ta đáp thật gần, và chậm quá sức, (vì lý do tế nhị, tôn trọng bạn, Hành không nêu tên hai bạn cùng bay ra nơi đây).
Phần Hành bay sà sà trên đầu phi cơ của bạn đang đáp kia. Nhìn bao quát Hành thấy rõ những ngôi nhà to, nhiều loạt đèn lung linh lóng lánh đủ màu sắc nhấp nhô, những con đường lượn quanh thành phố, kể cả vô vàn chiếc xe hơi đủ màu ùn ùn chạy đi chạy về, khiến anh rợn người lo sợ toát mồ hôi, hoa cả mắt. Chằng hiểu sao bỗng dưng anh chợt nhớ tới bài thơ “Phi Đạo”:
Có nhiều cậu học trò còn luống cuống
Mới “sô lô” thấy phi đạo đã run
Tháo mồ hôi trống ngực đập lung tung
Mới va chạm đã bung ào một cái!!
Lắm bạn bỏ bay lâu thì cũng vậy
Đáp bị bung khi mình chẳng muốn bung
Mới đầu thì nghe tức tối quá chừng
Đáp vài cái lấy lại ngay phong độ
Những anh Mẽo lái tàu to quá cỡ
Đáp cái nào cũng tóe lửa thấy ghê!!
Tạo tiếng kêu kít kít đến phát ê
Thân phi đạo rung rinh như muốn vỡ
Các bạn ơi! đừng bực mình nhăn nhó
Những khi sân có đèn đỏ xi nhan
Phải chờ cho cờ lia chớ vội vàng
Đừng đáp đại ắc xi đăng đấy bạn!
Nếu kẹt quá thấy mình cần rất khẩn (2)
Lúc đó do quá bất thần, lúng túng, bàng hoàng và sợ hãi kinh khủng, lạnh người từ trên gáy kéo dài xuống toàn sống lưng, tay chân mình. Thiệt căng thẳng! Phen nầy chắc toi mạng thiệt rồi. Phi cơ rớt xuống quá nhanh. Hành không nhớ mình đã làm gì, chẳng hiểu sao kim RPM của rotor và engine cứ dính chặt, cứng đơ không chịu split, chẳng hề nhúc nhích cụ cựa. Trong tích tắc ấy, Hành thầm nghĩ:
- “Nếu mình bớt ga để đáp xuống. Thế nào cũng đáp ngay trên đầu phi cơ của bạn ấy. Chắc chắn mình và mấy phi cơ gần đó sẽ nổ tung banh xác”, càng chết hết cả đám Không-quân đang đứng ở dưới đất, họ bồn chồn lóng ngóng xôn xao nhìn lên, lo lắng chỉ chỏ kia kìa.
Vì thế anh vội vàng tống ga vút bay lên trời tiếp, (như mình đã từng làm việc ấy tương tự trước đây). Nhưng, vì do Hành quen tay lái với các loại T-28 rồi. Khổ một điều rất quan trọng là: hồi trưa nay, anh đã từng bay lên cao độ 5.000 bộ, để rút kinh nghiệm. Vì, khi bay bình phi mà mình muốn hạ cánh cản, bánh xe xuống rồi, thì chiếc máy bay sẽ khá nặng nề, coi như vô dụng giống đống sắt vụn, không dễ dàng điều khiển máy bay nữa. Nhưng nếu anh tống ga cho phi cơ vút phọt lên trời lúc đó, thì sức quay của cánh quạt sẽ tạo nên một lực đẫy rất mạnh. Khiến chiếc phi cơ có thể lật ngửa ra tức khắc. Hoặc phi cơ sẽ chúi mũi đâm sầm đầu cắm phụp xuống đất, là nổ liền lập tức.
Còn nếu như phi cơ ở độ cao chuẩn mực, mình có thể dễ dàng “go” được. Nghĩa là trên không trung rộng thênh thang đó, mình sẽ kéo phi cơ trở lại vị trí bình thường. Dĩ nhiên mình cần có ít nhất 200 bộ, mới có thể cứu chữa một tình huống vô cùng gay cấn hiểm nghèo phức tạp ấy. Đằng nầy, Hành ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng đáp, nên phi cơ chỉ ở cao độ chừng hơn 100 bộ thôi, nên Hành vội tống ga rất mạnh, là do vậy.
Hậu quả, chiếc phi cơ chập chờn chao đảo, rú rít rung giật tưng bừng và nghiêng hẳn qua một bên. Hiện tượng đó gọi Torque Roll. Thế là điều cuối cùng không muốn chẳng hề mong đã xảy ra. Hành chỉ kịp nhìn thấy bầu trời lăn lộn quay cuồng chao đảo, ngả nghiêng, chới với quay vun vút bay tùng phèo. Hành nghe một tiếng nổ to rất dữ dội, long trời lở đất bùng lên, choáng váng đinh tai nhức óc, hai mắt anh toé lửa. Cánh phi cơ chạm xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo, cánh quạt bị bứt ra bay đi khá xa. Phi cơ lật qua bên phải, rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất” cách nơi anh đáp xuống chừng 2 kilomets.
Anh biết điều phũ phàng cay đắng nầy, là khi Hành đã nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, họ chụp lại toàn cảnh tai nạn lúc bấy giờ. Hành thấy chiếc máy bay cuả mình ngồi lái, giống như những miếng vỏ cây đại thụ nhăn nhúm vỡ vụn, chúng bay lả tả rải rác khắp nơi từ phía đầu đến phía cuối phi đạo. Thật quá kinh hoàng. Than ôi! Đường phi đạo rộng thênh thang lo gì đáp vội, để tự mang thảm hoạ vô thân thế nầy!?
Riêng về phần Hành bị buộc cứng vào ghế ngồi bởi sợi dây nịt an toàn, anh chả hiểu làm sao cái ghế tự động văng ra ngoài bãi cỏ? “nó ngồi” thẳng đứng. Hành ngồi y nguyên trên ghế còn đầy đủ chiếc dù đeo sau lưng, mũ bay đội hơi chúi xuống mắt. Sau cú đáp khiếp đảm “kinh hoàng dị tộc chẳng giống con giáp nào” đó, mắt Hành dường như toé lửa, trăm ngàn ông sao bung ra ở khoé mi. Hành cảm thấy đau nhói kinh khủng cùng khắp thân thể, nhưng anh vẫn còn tỉnh táo trước sự việc chớp nhoáng xảy ra trong tích tắc. Hành nghe thoang thoảng mùi cỏ ẩm, mùi khét, và làn gió nhẹ phe phẩy thổi mơn man trên mặt mình. Hành nhắm mắt lại, chỉ kịp kêu:
- Chúa ơi!
Gió vẫn thổi man mác vào mặt mình lành lạnh, một lúc sau anh mở mắt ra dáo dác nhìn chung quanh, Hành mới biết mình còn sống. Anh chỉ thấy toàn các mãnh sắt vụn rải rác đó đây, đám khói nho nhỏ bốc lửa trong buổi hoàng hôn. Đó là những ống dẫn dầu thủy điều bị cháy. Anh ngồi ở ghế bay, một mình chơ vơ lạc loài trên bãi cỏ có nhiều vệt lửa cháy bập bùng. Máu trào ra góc đầu bên thái dương dưới mũ bay chảy xuống cằm xuống cổ, Hành cảm thấy một cánh tay bên phải tê buốt nằm ở tư thế khác thường. Hành nghĩ nó đã gãy nát rồi.
Những tiếng nổ chát chúa nghe to như tràng cà nông đại bác bắn vô núi để lấy đá, kèm theo nhiều luồng lửa đỏ, khói đen xám cuồn cuộn từ đằng sau đuôi phi cơ ùn ùn xịt tới phiá trước. Hành thấy hai xe chữa lửa hú còi inh ỏi, chớp đèn liên tục, hai xe police, xe cứu thương emergency landing đồng loạt cặp song song gần đường phi đạo. Các xe ấy ập sát vào chỗ xảy ra tai nạn. Hành thấy hai y tá Mỹ (Corpsmans) vội vàng lui cui chạy nhanh vào chỗ anh ngồi. Mấy người Mỹ khác vừa chạy vừa dập tắt các đám cháy nhỏ. Một người Mỹ rối rít hỏi to, gọi hoài:
- Phi công ở đâu rồi? Phi công ở đâu rồi?
- Tôi ở đây. Đây!
- Are you OK?
- Okay.
Họ chạy vào. Mặt Hành lúc đó đầy dầu nhớt, máu me. Họ vội tháo dây an toàn, rồi nhẹ nhàng cẩn thận đỡ anh ra khỏi chiếc ghế. Hành cố gắng đứng lên, nhưng bị đau thấu tim, toàn thân sụm xuống không thể bước đi! Như vậy Hành mới biết mình đã bị gãy tay phải, chân bên phải. Họ vội vàng lấy cái dù mở rộng ra lót trên cỏ, họ dìu Hành từ từ ngả mình nằm tạm xuống trên đám cỏ xanh. Khi họ đưa Hành vào đến nơi balcon ở phi trường, ngay lập tức có một “đạo quân” bác sĩ, y tá vây quanh bên anh. Họ lanh lẹ cắt hết quần áo bay, nhưng có chiếc giày bên chân phải của Hành là không cởi ra được, vì đã bị một khúc ống inox dài đâm xuyên thủng từ bên nầy qua thấu bên kia gót bàn chân Hành. Bốn ông Mỹ lực lưỡng tiến đến đè anh ra rõ mạnh. Ông bác sĩ lấy cái kềm, kẹp cứng cây inox, rút ra. Chao ơi! Hành cảm thấy đau đớn thấu trời xanh, rợn tóc gáy, Hành đứng tim, óc muốn phọt ra mà chết tươi.
Họ cấp tốc lo cứu thương cho anh. Hành vẫn nằm trên cán thương tại nền gạch ở góc phi trường, anh thấy các bạn đứng nhìn xuống. Hành mỉm cười hơi gật gật nháy mắt nheo mày với “tụi nó”. Hành thấy “hai ông tướng” thân mến cùng bay với mình thì lắc đầu lia lịa, muốn gãy cổ. Mặt họ xanh mét lộ vẻ thất vọng, ngậm ngùi, bồn chồn, lo lắng, buồn thiu. Một bạn lấy hai tay bụm mặt quay đi. Hành nghĩ:
- Chắc là mình bị thương nặng lắm. Hay sao đây, nhưng mà cổ nhân đã có câu:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).
Thây kệ cha nó, đến nước đứt đuôi con nòng nọc rồi, tới đâu thì tới. Họ đã tiêm cho Hành hai mũi thuốc morphine giảm đau. Thế mà anh cưỡng lại, vì Hành sợ nếu ngủ đi mình sẽ không có sức lực để thức dậy nữa. Thấy Hành còn tỉnh táo, ông bác sĩ trực hỏi:
- Anh có muốn đi bằng trực thăng không?
- Tùy ông.
Nhìn Hành “tỉnh queo”, thế là ông ta cho chiếc xe cứu thương đến, họ nhẹ nhàng cẩn thận đặt Hành nằm lên cán thương, hai y tá khiêng cán thương leo lên xe, hụ còi inh ỏi trong suốt lộ trình, xe chạy rất nhanh trên freeway đến Eglin AF Hospital, cách nơi xảy ra tai nạn độ chừng nửa giờ. Lúc đó là 19giờ 55’. Họ cấp tốc mang Hành vào phòng cấp cứu đặc biệt. Màu drap trải giường trắng, bộ quần áo trắng, trong phòng sơn màu trắng, tất cả mọi thứ ở đây đều mang màu sắc trắng tinh, khiến Hành có cảm tưởng như mình sẽ nằm liệt trong bệnh viện toàn màu trắng lạnh lẽo, mà hãi hùng.
Một lô bác sĩ chuyên khoa khác xúm lại bên anh cùng nhau chẩn đoán, tốp nầy tiến tới khám, thì tốp kia lui ra góc phòng biên chép. Tốp thì xem: Tai, mũi, họng, răng, hàm, mặt. Tốp khác lo khám nội khoa. Tóm lại họ khám chu đáo, tỉ mỉ, chăm chú rất lâu, rất kỹ; nhưng tháo vát nhanh nhen và nhịp nhàng. Vì thấy sức đề kháng của Hành quá mạnh, nên bác sĩ lại tiêm cho anh mũi thuốc thứ ba, mà bác sĩ thấy anh còn tỉnh táo, họ kinh ngạc trợn mắt nhìn nhau. Tất cả đều lui ra, nhường chỗ cho các bác sĩ chấn thương chỉnh hình ở lại chụp ảnh. Hành biết chắc mình bị gãy cánh tay phải & gãy từ xương đùi xuống mắt cá bên chân phải.
***
- 21:30’ hôm sau Hành chợt tỉnh dậy, thấy mình nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt (Speccial Care Unit). Chung quanh có nhiều bác sĩ, y tá. Họ khá mừng rỡ reo lên. Bác sĩ hỏi:
- How are you?
A ha! có thoải mái không? Ui cha! nhìn xuống thân thể mình hoàn toàn như một cái “xác ướp Mummy” vậy. Bên cạnh có đủ thứ dụng cụ máy móc, phát khiếp. Lâu lâu có y-tá đến hút đàm, dịch truyền, dây truyền máy giăng mắc chi chít. Vân vân... Bị thương chảy rất nhiều máu, Hành thường khát khô cổ họng, thèm uống nước vô cùng. Họ chỉ lấy miếng bông gòn thấm chút nước trong cái ly nhỏ, mà thấm thấm trên đôi môi nức nẻ khô lông lốc, anh tức bực ghê, nhưng đành chịu. Ước gì lúc nầy mình được nốc một ly cối nước đá lạnh ừng ực xuống cổ, thì khoái khẩu đã khát biết chừng nào!
Thế là xong! Tàn kiếp giang hồ, thoả chí tang bồng hồ thỉ nam nhi, mà bấy lâu nay Hành hằng vọng tưởng
đạt thành ước ao nhe! Hết lướt mây cỡi gió rồi, hết tự do lả lướt bay bướm trên nền trời bao la bát ngát thênh thang. Tự dưng Hành nghĩ tới má với những hàng nước mắt khóc sướt mướt, khi má tiễn đưa mình lên đường "tòng quân". Nay má ơi... có lẽ má đang nhìn con mỉm cười:
- Hết thời trai rồi cu tí ơi! Từ nay con ở yên ổn bên má hen.
Hành phì cười vì những ý nghĩ ngộ nghĩnh đó, đến nước nầy rồi mà trong đầu óc lãng mạn dệt ra những lời vu vơ dấm dớ đó sao? Cũng có thể lắm chứ... Hành không còn thú tự do vẫy vùng đôi cánh tung bay trong gió bạt ngàn. Mất hết rồi niềm tự hào sãng khoái, khi anh vi vút bay vào không gian trò chuyện với chị hằng nga xinh đẹp, với muôn vì sao khuya long lanh lấp lánh! Còn đâu nữa lúc bay trong bầu trời đêm huyễn hoặc, thân thiết và mê đắm bao la, mênh mông!? Chao ôi là tủi hờn biết bao! Nhưng:
Cái buổi hậu phi mới biết đá vàng
bước xuống thang là anh muốn té
ngũ chi ê ẩm, mặt mày xây xẩm, đầu gối lỏng le
không phải xì-ke mà cứ như anh xì-ke thiếu thuốc
mắt hoa đầu buốt trời đất cuồng quay
đi khám định kỳ ắt phen này i-náp (1)
Hơn một tuần vật lộn với nhiều phen đau điếng kinh hoàng của thể xác mệt nhoài, Hành bàn giao chức vụ Trưởng-đoàn Khóa-sinh cho bạn khác điều hành. Bác sĩ Mỹ đứng bên cạnh theo dõi. Luôn miệng hỏi:
- Are you comfortable?
- Are you OK?
Ôi! Lại hỏi mình có thoải mái không hoài à? Trên thái dương và mí mắt Hành bị rách một đường, may mấy mũi, thân hình bị bó bột trắng xoá, từ bàn chân phải lên tới bụng, tràn qua đùi bên trái. Họ chỉ chừa một cái lỗ khoét ở giữa, để anh cần “làm việc” vệ sinh cá nhân. Nơi háng của anh bị thương nặng, do dây móc dù đã kéo một bên tinh hoàn. Hành giống Adolf Hitler (là một người ăn kiêng, chỉ duy nhất có một… tinh hoàn). Hô hô hô… Thú thật vào giờ phút nầy Hành quá ngao ngán, chán chê, chẳng nhớ gì về việc thèm... kiêng ăn, cử uống, cử... cử thèm thuồng rục rịch nhúc nhích rờ mó đến ai. Ui xà, nếu có mười nàng tiên lượn quanh mình, anh xin chắp hai tay mà vái lia lịa như tế sao. Có thể ông Trời tàn nhẫn “bắt vạ” anh thuở xưa ưa lả lướt bay bướm và đa tình làm gì! nên nay Hành chỉ sót lại "nửa quả tẻo teo", thì còn phong độ chi để “làm ăn cái giống gì đây” hử Trời!
Chân phải Hành bị treo lên cục tạ to dùng làm cán cân. Nghĩa là người ta định kéo giãn khúc xương gãy bên chân nầy, cho bằng với chân bên kia. Chắc là bây giờ anh “muối mặt mo” ở dơ như: Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất I, tự coi mình là người mẫu mực trong chuyện vệ sinh thân thể. Bà từng tuyên bố rằng: “cho dù bẩn hay sạch, thì cứ mỗi ba tháng, bà mới tắm một lần”... cho “phỉ nhổ đời trai tráng” hết thời, rũ liệt teo tóp như mình khi bị bó bột sao ta!?
Lẽ ra theo chế độ sĩ quan, Hành được xếp nằm ở trong phòng chăm sóc riêng, một phòng chỉ có một người nằm. Nhưng bác sĩ thấy nếu cho anh nằm trong đó quá vắng lặng, rất buồn. Không có phương tiện giải trí gì, sợ Hành sẽ bị trầm cảm nặng chăng. Bác sĩ mới ra lệnh y tá đẫy Hành ra nằm chung với nhiều bệnh nhân ở phòng công cộng. Ngoài nầy, có hai dãy giường của Hạ-sĩ quan và Binh-sĩ rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giải trí vui vẻ và nhộn nhịp! Mà bây giờ anh cần phải vui vẻ náo nhiệt, chứ nếu Hành chìm trong bóng tối và sự im lặng triền miên, có lẽ không sớm thì muộn, anh sẽ tress, bị điên mất.
Ngoài phòng rộng và đông vui nầy có những người đi lại được (ambulatory), một ti vi rất to, cỡ 50” để anh em toàn phòng xem chung. Bên cạnh Hành có đủ thứ tiện nghi. Mỗi giường đều có gắn tấm ri đô khi cần sử dụng vệ sinh riêng tư, Hành bấm chuông gọi y-tá đến. Mang “bô” Bed Pan tới, cô ta bỏ ra ngoài kéo màn lại. Mình “tự do thao tác” làm trời làm đất gì sau tấm màn, thì làm. Xong việc, Hành bấm chuông, cô y tá mở tấm màn kéo về một góc, cô đến toilet dọn dẹp ngăn nắp, rồi mang bao đựng cái “bô”, đem đi. Buổi sáng, buổi chiều, đều có bác sĩ đến thăm, họ khám bệnh nhân kỹ càng, cho thuốc uống đều đặn, chăm sóc chí tình, chu đáo, ân cần.
Mỗi ngày, vào buổi sáng họ đưa mỗi bệnh nhân một tờ thực đơn ghi ba món ăn và nước uống. Mình thích phần ăn nào, thì check V vào đó. Ngày mai họ nấu, nói chung họ cho ăn khá ngon. Bệnh nhân cứ ăn, ngủ, xem Ti vi riết. Phát chán! Sau ngày Hành bị tai nạn, ông thầy dạy bay vào thăm, thầy mang một thùng carton lớn đựng toàn Play Boy. Thầy nói:
- Tôi thương anh lắm! Gởi tặng anh. Những thứ nầy tôi đã sưu tầm hơn mười năm rồi.
Thế là Hành nằm đó mà “nghiên cứu” hết mấy trăm tập play boy, nhờ thế vốn liếng sinh ngữ ngày càng khá hơn. Mỗi tuần các bạn đến an ủi, giúp đỡ, thăm "thương binh" một lần. Đám bạn sinh viên sĩ quan Việt Nam như: Trần Thế Vinh, Phan Quang Tuấn, Trương Công Thành, Trần Quốc Trung, Vũ Tùng, Trương Đông Đình, Hoàng Quốc Huấn, Huỳnh Lô, Trần Văn Bời v.v… đều đến thăm bạn. Ngay cả ông đại úy sĩ quan liên lạc từ Mississippi cũng bay qua thăm Hành. Khi trước còn nằm ở trong phòng kín, đầy oxy, Hành đã bỏ hút thuốc lá một thời gian khá lâu. Nhưng do mấy “ông bạn hiền thương xót anh bị gãy cánh bay" ưa đến thăm, tạo cho anh có dịp tha hồ hút với hít.
Họ đẫy băng ca đưa Hành ra nằm ngoài sân phơi nắng mà “nghiên cứu, nghiền ngẫm” cái sự đời cu tí nhà ta. Rồi họ đưa thuốc lá, biểu Hành nằm đó ngắm trời, ngắm cây cỏ hoa lá… mà hút hít, để viết thư tình, làm thơ tình, cho vui. Dĩ nhiên! Còn thú vui nào bằng thú vui “hút hít” chứ! Sau đó ui cha! Hành đâm ra ghiền hút thuốc nặng, anh hút ngày một gói thuốc lá “con lạc đà”. Đúng là cỡi trên lưng con lạc đà thì quá đã! Thời gian Hành ra ở phòng ngoài (phòng bệnh nhân điều trị) anh nhờ mấy bà thiện nguyện mua dùm thuốc lá và hút liên miên, hút đã đời... mà bây giờ chẳng có ai gần bên cằn nhằn, cấm đoán nữa! (như người yêu cũ thuở xa xưa ở Đà Lạt, nàng phụng phịu, hờn dỗi nhăn mặt nhíu mày). Hành không hiểu sao mấy lá thư mình gởi đi cho Hồng Hạnh từ mười tháng qua, lại bị trả về với ghi chú: "Không có tên nào ở điạ chỉ nầy".
Ở đây có bà Louise thích “chăm sóc đặc biệt” cho các chàng "độc thân vui tính và đào hoa" như Hành nhất. Lâu lâu, bà ta đẫy anh vào phòng tắm gội đầu, lau mình, rồi dần dần bà thân mật vui vẻ “tắm rửa” kỳ cọ kỹ lưỡng, tay bà mân mê kích thích đủ thứ nơi chỗ kín đáo, rất nhột nhạt phừng phưng và nhúc nhích cụ cựa kia. Đám sinh viên sĩ quan "yếu ốm" rất sợ, vì cái tính dâm kinh khủng của bà. Bà hỏi Hành:
- Thích “massage therapy” ở chỗ đó đó hoài không?
- Ô lá là... Ai... ái!
Hành mệt mỏi nằm ở bệnh viện Hurlburt # 1 hơn bốn tháng. Một hôm, từ ở bệnh viện mới (cũng gọi là Hurlburt Hospital # 2). Người ta dời Hành về Hurlburt Hospital # 2. Ở đây sướng lắm! phòng ốc riêng cao ráo, có một cửa lớn, một cửa sổ thoáng mát. Hành có thể đứng ngắm rặng núi mờ mờ xa xa, góc kia anh nhìn mặt trời lặn xuống đường chân trời, mà không sợ làm phiền ai. Mỗi phòng hai người, đầy đủ tiện nghi, trang bị tối tân. Giường loại mới có nút bấm tự động, để mình tự điều khiển giường cho mình ngồi lên cao, hoặc nằm xuống thấp an toàn theo ý thích, khỏi cần nhờ trợ y giúp đỡ. Có chuông điện trên góc giường. Có ti vi, toilet... kế sát bên chiếc bàn nhỏ, có tủ quần áo, đồ dùng sạch ơi là sạch.
Hành nằm dưỡng thương riết, khổ sở nhất là sự ngứa ngáy da non từ bên trong lớp băng bột dày cui, không biết làm sao để gải cho đã ngứa, anh nằm dài thân một bên muốn tê bại người như thế quá ê ẩm. Nhiều tháng sau họ đã cắt bột chung quanh bụng Hành, và chân phải, chỉ còn bó bột ở trên cánh tay phải. Thế nên, mỗi lần muốn di chuyển đi dâu, Hành chỉ cần tựa người trên chiếc xe lăn, hoặc cây nạng thong thả đi một mình. Vã chăng, cái số kiếp Trời gieo trong đời mình phải cưu mang cái “định mệnh sầu đắng” rồi hay sao!? Vì chiều hôm đó như thường lệ, Hành từ giường đang nằm, anh ngồi dậy rồi đứng lên nhảy cò cò để vào toilet, do yếu bên chân trái, cũng ỷ y hoặc vô ý, nên anh bị trượt té. Chân phải bị thương lại đập rất mạnh vào bồn cầu, khiến nó sưng tấy lên liền, đến nỗi chật cứng ống quần pirama, nguyên cái chân phình to và "nẩy nở" nhanh đến khiếp!
Nghe tiếng động mạnh, mọi người chung quanh gần bên Hành liền hớt hãi chạy vào. Họ đỡ Hành nằm lên giường. Y tá, bác sĩ, bu quanh anh khám nghiệm. Họ mang Hành đi chụp X Ray, chích cho mấy mũi thuốc khiến anh đã ngủ vùi. Vài ngày sau, bác sĩ trưởng khoa điều trị đến. Ông nói:
- Tôi thấy cái đùi của anh vừa chớm lành, nay bị gãy tung ra hết rồi. Cánh tay của anh nữa. Anh sẽ không đi đứng bình thường, sẽ bị tật.
- ...
Sau nầy anh có muốn đi bay lại không?
- Sure!
- Vậy thì anh mổ lần hai, nhưng anh phải cẩn thận hơn, thì sau nầy về quê nhà, tôi nghĩ anh vẫn còn khả năng đi bay được. Anh nghĩ sao?
Một liều, ba bảy cũng liều thôi, cái mạng nầy cùi từ khuya rồi, cần chi sợ lở nữa, nên Hành vội vã gật đầu cái rụp.
- Nếu anh đồng ý. Hãy ký tên vào tờ cam kết.
Không ngại ngần anh cầm bút ký cái rẹt. Thế là sau khi cho thử nghiệm đủ mọi thứ, họ chở Hành đến trung tâm chỉnh hình. Y tá lột hết quần áo, làm vệ sinh, xoa thuốc tím lên những nơi sắp mổ. Họ đắp lên người Hành tấm drap trắng tinh, thơm thơm mùi thuốc sát trùng. Họ cột đầu tóc Hành bằng chiếc khăn trùm kín mít. Họ cho anh nằm lên bàn mổ. Hành nằm ngửa nhìn sửng sốt năm cái đèn sáng choang. Hai bên toàn những dụng cụ mổ bằng loại inốc bóng loáng, đủ thứ máy móc tối tân với kéo, kềm, búa, cưa, kim chỉ... Y như là một xưởng kim khí, hay xưởng hàn gì đó. Chứ không phải là bệnh viện. Nhìn mấy miếng bạch kim (platinum) cùng một hàng ốc vít (jewett screw). Toàn thân anh bây giờ đã có giá trị kim tiền (platinum), "mình an toàn cất dấu về sự giàu có để kín đáo giữ của quý nặng ký trong người", không sợ ai phát hiện mà ăn trộm ăn cướp những miếng bạch kim nầy, là cái chắc! Một tuần sau, đến phiên mổ cánh tay phải, họ cũng làm tương tự chu đáo tỉ mỉ như trên. Tuy trong thân thể anh bây giờ đã giàu xụ, nhưng anh cảm thấy chán nãn tột cùng cho kiếp phù dung.
Thời gian nằm ở mấy bệnh viện Hành đọc nhiều bài, nghe cũng quá nhiều chuyện tiếu lâm, vui hết biết. Nhưng có chuyện tiếu lâm nầy, khiến Hành ngao ngán phì cười, sao nhân vật chính trong truyện ấy không phải là tôi nhỉ: “Có một ông đang đi máy bay thì mắc mót ỉa đái gì, chả biết! Ông liền bần thần chạy tới chạy lui, nhưng toilet Nam đều có người dùng. Một nữ tiếp viên cảm thấy hơi ngại cho cha này, cô sợ ông ta “vãi” ra đấy những bãi mìn, thì thúi um cả làng, làm sao mà nữ tiếp viên bốc hốt dọn dẹp cho xuễ! Thế nên nữ tiếp viên thương “tình cảnh éo le” của ông ta, cô bèn cho ông ta vào nhà vệ sinh nữ, tiếp viên mỉm cười, kèm theo lời dặn dò cẩn thận:
- Ông đừng nhấn nút bậy bạ, nguy hiểm nha.
Ông ta không nhớ nghe lời vàng ngọc, sau khi thoải mái làm nhiệm vụ thải chất xú uế ra ngoài xong, ông liền nhấn nút W W (viết tắt của chữ Warm Water là nước ấm), một làn nước ấm áp dễ chịu liền xịt vào chỗ ông vừa bài tiết.
Ông này thì thầm:
- Đàn bà sao sướng thế…
Ông bèn nhấn tiếp nút thứ 2 có chữ W A (viết tắt của chữ Warm Air nghĩa là khí ấm), một làn khí ấm áp sấy khô, chỗ cần làm khô của ông ta.
Ông ta huýt gió vui vẻ:
- Trời ạ! thế giới này còn có những chuyện thế à?
Ông ta nhấn tiếp cái nút có chữ P P (viết tắt của chữ Powder Puff nghĩa là xịt bột thơm). Một làn bột nhẹ nhàng bắn ra, làm thơm tho cái chỗ đó. Cuối cùng, không ngăn được tò mò, ông ta nhấn vào nút có chữ A T R!!!
Tỉnh dậy thấy nằm trong bệnh viện, cha nội ấy hét tướng lên.
- Sao tui ở đây? Tui nhớ là tui đang ở trên máy bay mà?
Cô y tá trả lời:
- Thì đúng vậy! Sau khi ông hưởng hết những hạnh phúc trong phòng vệ sinh, ông đã táy máy nhấn lầm cái nút ATR (viết tắt chữ Automatic Tampon Remover) nghĩa là: tự động gắp băng vệ sinh ra. Thế nên bây giờ ông đã làm cho “của qúy của ông” ngao du ở dưới bốn cầu, ông đau đớn nằm chóc ngóc nơi đây, sẽ hiu quạnh đời trai buồn bã! Họ cẩn thận dặn dò ông trước rồi, nhưng ông không nghe lời. Xin lỗi!
***
Phi Hành sống âm thầm, buồn lặng đầy nhớ nhung trường cũ, nhớ về những ngày tự do còn khoẻ mạnh. Khi anh có thể lái “con chim sắt” cùng mình chắp đôi cánh, tự do vẫy vùng trong bầu trời thênh thang. Cuộc sống hào hùng nầy luôn vẫy gọi, níu kéo mình muốn quay về bến mơ từ thời vàng son xưa cũ ấy. Hành siêng viết mỗi ngày một lá thư, gởi nhiều quà cáp hình ảnh từ khi anh mới sang Mỹ, lúc trở về USAF, sau khi anh bị thương đến Trân Thư. Nhưng, ở đời luôn có cái “nhưng, bị, tại, vì, do...” đầy bất nhân bám riết đời anh, tại sao thế nhỉ!?
Dạo xưa, trước khi anh chưa bị “xệ cánh”, thì ít nhất mỗi tuần anh nhận được hai lá thư của Trân Thư từ Việt Nam gởi sang Mỹ, nàng kể biết bao chuyện vui, liên tục "rền rĩ nhớ thương anh", cam kết hứa hẹn đủ thứ chuyện yêu đương đầy ứ. Nhưng mà... sau khi Trân Thư xem nhiều hình Hành bị thương... bị gãy tay, gãy chân nằm bệnh viện, mất một ít “của quý” đến ngày nay… một năm rồi, thì hầu như sự liên lạc thưa thớt dần dần, Trân Thư đã tỏ lộ nhạt nhẽo, hững hờ, trống vắng, rồi mất hút luôn. Trân Thư chẳng còn tha thiết đậm đà thăm hỏi, mà trở mặt làm ngơ, coi bẽ bàng vô duyên sao đâu.
Hành thật buồn. Người ta nói: “xa mặt cách lòng” cũng đúng, càng đúng hơn khi “con người ấy” hững hờ tàn nhẫn quay lưng, vô nhân đạp trên đớn đau người khác, mà xéo bước... “Ai mà phụ nghĩa quên công. Thì đeo trăm cánh hoa hồng, chẳng thơm”. Hành hiểu tình đời thường trắng trợn và bạc bẽo đến thế! Mém chút nữa thì anh “ca” bài thơ hát nói cho Trân Thư nghe: Mưa Thu vần vũ hiên lầu.
Đôi ta thấm lệ nỗi sầu hoen mi.
Kẻ Nam người Bắc làm chi.
Buồn trêu ngọn cỏ tình si hỡi chàng.
Tình yêu đã chết
Nhớ thương về tôi viết một đôi hàng.
Lưng tròng mắt lệ nhỏ giọt đường trăng.
Tàn mộng ước băn khoăn nơi đất tạm.
Bước giang hồ gập ghềnh muôn dặm.
Kẻ lữ hành gian khổ khắp nơi.
Lặng lẽ tim đau không thốt nên lời.
Chàng lãng tử bị phụ rồi hôm đó.
Vẳng nghe tiếng âm vang trong gió.
Những đêm dài than thở thương đau.
Tình ơi đã chết từ lâu... (3)
*
Tình Hoài Hương
(1) Trần Văn Minh
(2) Kha Lang Da
(3) Tình Hoài Hương
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

Tinh Hoai Huong
10-13-2017, 12:41 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 22

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd417/1500017338-b phico tr thang 6.jpg
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanVietNam_FullVersion (1)_1416186822.mp3
Anh Tôi: Phi Công Xịn Bị... "Say Sóng"(Travel Sick)
Tình Hoài Hương
***


Anh Thiệu khi đã hoàn tất tốt đẹp trong chương trình sinh viên sĩ quan Không Quân Việt Nam đi du học (1963) về việc "Học Bay" ở Hoa Kỳ, và anh đã vinh sang hãnh diện ung dung trở về quê hương, anh cũng như bao người trai khác "khi tổ quốc lâm nguy, thất phu hữu trách", họ có bổn phận mang trọng trách trên vai từ người trai thời chinh chiến cần phục vụ cho tổ quốc; anh tận tụy với quê hương, yêu tha nhân cũng như thương chính tình mình.
Anh ưa kể lại cho các anh chị em Hạnh nghe những chuyện vui nhiều buồn ít, và vất vả nhọc nhằn thì ôi thôi... kể sao cho xiết trong thời gian anh huấn nhục: Nói chung anh kể chuyện rất hấp dẫn, hóm hỉnh, có duyên, thú vị và thu hút, quyến rũ người nghe cứ ngẩn ngơ, và cười vui thoải mái hân hoan hãnh diện khi có anh đến không ngờ... Nhưng có điều anh vui thích nhất, luôn ghi nhớ và anh ưa nhắc đi nhắc lại khi hàn huyên tâm sự: Ấy là lần “đầu tiên trong đời bay của mình” thật là sảng khoái, hân hoan và vui vẻ biết chừng nào! Anh nói:
- Hôm ấy ông thầy lái chiếc phi cơ bay vút lên trời, thầy làm đủ thứ trò, thầy biểu diễn những pha bay ngoạn mục rất tuyệt vời, và sành điệu hết biết. Nào là:
- Bay ngược.
- Bay vút lên.
- Lộn vèo xuống.
- Quay tít những vòng bay tròn.
- Vút lên cao.
- Đảo ngược lại.
- Chổng đầu xuống đất. Vân vân… như thi-sĩ Không-quân Kha Lăng Đa đã chí lý diễn tả khi bay bổng, nhất là khi đáp:
Rất nhiều kiểu đáp xảy ra hàng bữa
Đáp ban ngày và đáp cả ban đêm
Nhiều anh đáp bình tĩnh lại êm
Nhiều bạn đáp ôi thôi như trời giáng
Có cao thủ nghề bay đà dày dạn
Đáp sao mà trông sướng đến muốn rên
Lúc tách đao để hai cẳng hai bên
Rồi chân giữa mới từ từ hạ xuống
Trường bay của US Navy mỗi tuần nhận vô một lớp, và cũng cho ra trường một lớp. Mỗi ngày, trong hai tuần đều đặn, anh Thiệu đều có chuyến bay thực tập chung với thầy. Cho đến một hôm, sau khi đáp xuống một sân phụ, thầy bảo:
- Dừng lại. Anh hãy vào bãi đậu.
Thầy thản nhiên đeo dù, bước ra cửa buồng lái, và bảo:
- Anh có thể cất cánh bay solo rồi. Hãy bay đi, đáp đúng ba lần. Không được “knock out” à. Nhớ trở lại đây đón tôi về. Good luck!
- OK. Thank you.
Anh cảm thấy sợ, cũng run rẫy lo lắng thấy bà ấy chớ, anh ráng hết sức gò mình mà bay lượn trên không trung. Tuy nhiên sau đó anh thấy hơi yên tâm, mừng rỡ và thích thú lắm! Đó là một ngày hân hoan “trọng đại” sung sướng vô cùng. Một mình. Một cánh chim. Một hoài bão. Một dự tính. Một lý tưởng hoài mong. Tất cả đều là của riêng ta trong tầm tay. Một bầu trời mùa Xuân tươi mát và phóng khoáng tự do lả lướt vô vàn. Anh vẫy vùng một mình trên bầu trời thênh thang, tự do thoải mái toan tính chuyện ước mơ sông hồ... cho thoả chí tang bồng hồ thỉ nam nhi. Qua ba vòng bay lả lướt và điệu nghệ muốn lát mắt người xem dưới đất kia, anh đáp phi cơ xuống an toàn. Rồi anh đã bay lên lại để đi đón thầy. Hai thầy trò mừng rỡ cùng nhau “chia sẻ hạnh phúc để huy hoàng” trở về căn cứ.
Theo thông lệ, chiều tối hôm đó tất cả khóa sinh đều mặc đồng phục kaki vàng, cà vạt đen, tất cả mọi người hẹn nhau đến câu lạc bộ. Nơi đây, thầy dùng lưỡi lê (loại dao ngắn trang bị cho phi công) cắt đứt cà vạt của khóa sinh, tượng trưng cho "sinh viên sĩ quan Không-quân-Ta" đã có khả năng tuyệt vời toàn hảo mà thoát khỏi sự “dùng dằng níu kéo” của trái đất. Theo tục lệ, chiều ngày được thả solo, sau khi thầy cắt cà vạt rồi, thì mấy khóa-sinh sinh-viên sĩ quan Không-quân cùng flight “được” lật ngửa, họ nắm hai tay, hai chân khóa sinh "thành công & trưởng thành" mà quăng xuống hồ bơi của câu lạc bộ. Anh là người đầu tiên tốt nghiệp trong khoá học với mười sáu giờ bay solo. Ông thầy đã vui vẻ không ngần ngại bỏ tiền túi ra đãi cả lớp một chầu bia Budweiser, chuyện trò thân thiện, hoan hỉ quá chừng.
Dù được cấp bằng tốt nghiệp trước tiên, anh Thiệu phải ngồi đó “tà tà vui chơi xơi nước”. Chờ đến khi nào có đủ năm khoá sinh tốt nghiệp, thì họ mới gởi mình qua căn cứ khác; để tiếp tục thụ huấn giai đoạn 2.
***
* Có nhiều lần Hạnh cảm thấy thú vị (khi được anh trai cho phép em đọc điều ghi trong sổ tay của anh, về mục anh tuân thủ những điều thầy đã dạy): Hạnh thích nhất ở đoạn:
Đợt 37.-
- Nếu động cơ bị trục trặc, phạm một lỗi nào đó, tuy rất nhỏ, cũng dễ gây ra tai nạn. Dù vậy các anh vẫn kiểm soát chung quanh phi cơ, đường băng, coi có những vật cứng gì rơi rớt không. Anh phải xem xét điều nầy: ví dụ đinh, sỏi, đá, thuỷ tinh… Vì, tuy vừa quay chong chóng chuẩn bị bay tầm thấp, nhưng đôi khi những thứ ấy cũng bị phi cơ hút phải: đất, cát, nước, rác… hoặc những vật nhỏ khác nữa. Mình không thể coi thường dù vật nhỏ đó, nhưng chúng có thể bị hút vào động cơ, khi máy bay chạy lướt qua trên đường băng, sẽ dễ gây ra tai nạn kinh khủng ở trên không, mà không thể nào ngờ.
Hạnh thích, vì nó đúng và chính xác, phải cẩn thận tối đa.
Đợt 38.-
- Tất cả khoá sinh bị loại, sau đó ít lâu đều phải ra Hội Đồng (Board) giám định. Buồn thay, đa số các khóa sinh bị loại, (vì lý do ghi trên), có khi phải phiền não chuẩn bị tinh thần khăn gói về nước. Nhưng cũng tùy theo nhu cầu khi nào thuận tiện, họ sẽ theo học các khoá huấn luyện, được tổ chức trong nước như: “Quan Sát Viên”. “Điều Hành Viên”. “Phòng Thủ”, v.v… Hoặc họ được thuyên chuyển sang Bộ Binh (nếu là sĩ quan). Hay họ tiếp tục theo học giai đoạn 2, tại trường Sĩ-quan Trừ Bị Thủ Đức, (nếu là sinh viên sĩ quan).
Riêng một số khóa sinh bị loại, nếu có ai may mắn gặp ngay khoá “Không Phi Hành” đang tổ chức trong thời gian ấy tại Hoa Kỳ, thì họ sẽ được chuyển đi tiếp tục theo khóa học ghi trên. Hầu hết 99% các khóa sinh này đều có hạnh kiểm tuyệt vời, đạo đức, học lực cao, được các IP (Instructor Pilot) nhận xét tỷ mỷ và chu đáo, phê chuẩn họ vào hạng giỏi.
Đợt 39.-
Các khóa "Không Phi Hành" thường là:
- Kiểm Soát Không Lưu (Air Traffic Control - ATC): Khi mãn khoá trở về nước, họ sẽ làm việc tại các đài kiểm soát (tower) của phi trường. Nhiệm vụ chính của họ là: điều khiển phi cơ cất cánh và hạ cánh. Cũng như họ thông báo các dự đoán thời tiết khá chính xác.
- Weapons Controller - WC: Đây là khóa học về Hỗ-Trợ Không Hành (Air support) và Điều-Hành Không-Chiến (Air Defense). Các khoá sinh được huấn luyện cách hướng dẫn bằng Radar, tại Tyndall AFB (Florida, và điều nầy hoàn toàn không liên quan gì đến kiểm soát vũ khí cả).
- Sau khi tốt nghiệp, họ được gọi là Sĩ Quan Điều Không. Họ sẽ phục vụ tại các Đài Kiểm Báo như: Panama (Sơn Trà - Đà Nẵng). Paris (Tân sơn Nhứt). Pyramid (Ban Mê Thuột). Peacock (Pleiku). Paddy (Cần Thơ).
- Nhiệm vụ chính của sĩ quan WC là hỗ trợ không hành (air support), và điều hành không chiến (air defense), được gọi là đều hành không-lưu. Họ làm việc tại các trung tâm và đài radar.
- Riêng khóa sinh không-lưu là Air Traffice Control, thì họ làm việc tại các Tower, và được gọi là sĩ quan kiểm soát không lưu.
***
*.- Nhân tiện nói chuyện “vất” bạn xuống hồ bơi... anh Thiệu đã nói bổ túc thêm cho Hạnh nghe về sự việc đã xảy ra năm năm sau đó -(lúc ấy anh Thiệu đã rời trường học bay):
- Khi được thầy thả Solo, các khoá sinh đều được bạn “thảy, vất” mình xuống nước, để "rửa cánh bay" cho sạch sẽ, chẳng còn vướng bụi trần. Đây là một tập tục, được xem như truyền thống cuả Không-quân; nhớ em nhé -không thể thiếu-
* Tuy nhiên, có một chuyện không may đã xảy ra tại Fort Wolters (Texas): Một khóa sinh Không-quân Việt Nam tên là Nguyễn Phương Nghị, thuộc Class 70 - 46 A2. Anh Nghị được thả Solo TH-55. Trên đường về nhà, xe Bus dừng tại khách sạn Holiday Inn, thuộc thành phố Mineralwell. Khoá sinh Nguyễn Phương Nghị được các bạn cùng Flight đã vui vẻ nắm hai tay và hai chân anh ta, để “vất” anh Phương Nghị xuống hồ bơi của khách sạn Holiday Inn, mà rửa cánh bay. Nhưng chẳng may không thể hiểu vì sao Nguyễn Phương Nghị bị tử nạn. Hôm đó là ngày 19 tháng 06, năm 1970 thật đau buồn cho giới Không-quân nói chung, và cho gia đình anh Phương Nghị nói riêng. Câu chuyện này do anh Đặng Vũ Hà chỉ nghe nhiều người kể lại, và anh Hà cho anh Thiệu hay tin, anh Thiệu ngậm ngùi ghi vài hàng vô nhật ký.
*.- Đối với hai anh khóa sinh Việt Nam bị ói mửa tùm lum: thì có một anh sau này ra trường thủ khoa (hạng nhứt): Student of the week. Đó là anh Sammy Võ Văn Trương.
*- Trong thời gian học T-34 năm 1966, Nguyễn Thành Trung không bay solo được, vì ông thầy thấy Trung quá nhát. Trong thời gian chờ đợi thủ tục rời NAS, Trung mặc lễ phục đến gõ cửa văn phòng của ông Tướng, Trung năn nỉ xin xỏ… hầu mong mình có cơ hội trở lại trường bay. Ông Tướng đã tiếp anh ta, ông có chấp nhận với phần ghi chú: “Phải giúp đỡ khóa sinh nầy cho đến khi anh ta ra trường”. (1).
*.- Trường hợp Nguyễn Cao Hùng: là giỏi số 1 về điạ huấn ở trong lớp; (gồm có 26 khóa sinh). Anh Hùng bay T-34 rất giỏi. Một chuyện về anh Hùng có thật ghi sau: Một hôm đang tắm biển Pensacola Beach, anh Hùng thấy có một cậu bé bị sóng biển và nước cuốn ra khơi. Ở trên bờ biển lúc đó rất đông người, nhưng họ chỉ đứng nhìn, không có một người Mỹ nào dám bơi ra biển cứu em bé hết́. Lúc bấy giờ anh Hùng rất cam đảm liền nhào xuống biển, vội vàng bơi tới để cứu em, anh Hùng bế em bé vào bờ. Sau lúc ấy thì toán cấp cứu biển mới đến cứu nguy. Báo chí điạ phương đã đăng tin, nếu em bé còn ở dưới nước độ mươi giây nữa, thì không có phương chi có thể cứu em bé “hồi sinh”. Anh Hùng được ông Tướng ra chỉ thị cũng giống như anh Trung. (1).
***
*.- Về việc "Say Sóng" (Travel Sick) trong bầu trời gió lộng, thì chỉ khi nào [anh trai của Hồng Hạnh (dù bấy giờ anh Thiệu đã là... Thiếu-tá Không-quân rồi)], anh đi tàu thủy, hoặc xe lửa, mà anh ấy ngồi trên xe không tự do mình lái, hoặc anh ngồi trên tàu thuyền mấy ngày liền, thì anh ấy bị chóng mặt ói mửa triền miên. Ngoài ra khi anh ấy tự lái máy bay bay vun vút đi khắp bốn vùng chiến thuật, vậy mà anh ấy không hề bị ói mửa gì! Thế mới lạ lùng. Sau nầy cũng vậy, nếu bạn anh Thiệu lái máy bay quần lên quần xuống, quay mòng mòng, đảo qua lại để bay hành quân, chỉ một lát sau anh Thiệu cảm thấy quá chóng mặt, dường như "say xỉn trên bầu trời gió lộng" là tất nhiên anh Thiệu bị ói ra mật xanh mật vàng. Bạn cười anh Thiệu quá trời.
Ngày anh Thiệu bị đi tù “cải tạo”, anh ngồi trong chiếc tàu thủy lớn di chuyển tù từ trong miền Nam ra ngoài Bắc, thì anh ấy cảm thấy quá ngao ngán, nhưng lạ lùng là anh không bị ói, mà khi anh Thiệu lên bờ, thì anh vẫn còn có cảm giác chóng mặt, cả người anh cứ dật dờ lâng lâng, như mình đang bay bồng bềnh bay bổng trên mây trắng trời xanh, toàn thân anh Thiệu sàng sàng, y như là anh vẫn ngồi trên tàu thủy đang chạy trên sông nước vậy. Rồi mười hai năm sau lúc đoàn tù đi xe lửa chuyển tù từ Bắc về lại trong Nam, hơn bốn ngày mới tới trại Hàm Tân; về tới trại tù rồi, mà lúc nằm ngủ trên vạt giường tre, cả thân anh Thiệu cứ sàng sàng, lâng lâng, bay bổng, lửng lơ, giống như anh ấy đang ngồi trên xe lửa vậy.
Khi vượt biên đi tàu nhỏ bị sóng nhồi, anh ói tới mật xanh luôn, đắng nghét cổ họng. Coi như anh ấy bị say sóng, hay tiếng Anh gọi là Travel Sick, chứ không hẳn là SEA Sick. Nghĩ thật tức cười là khi ở Mỹ, nhiều lần anh Thiệu đi chơi ở mấy chỗ giải trí, như ORLANDO có chiếc xuồng đưa qua đưa lại, lên thật cao và đột nhiên rớt xuống thấp "cái độp", anh Thiệu vẫn muốn "thi gan cùng sóng gió", anh muốn "thắng" bản thân, phải đi một lần cho biết cảm giác bây giờ mình có khác ngày xưa ra sao? Khi chiếc xuồng dừng hẳn lại, anh xuống đất rồi, anh vẫn cảm thấy choáng váng, ngất ngư, tóc tai dựng đứng, mặt mày anh xanh lè.
Hồng Hạnh tủm tỉm cười cười, thân ái hỏi anh trai:
- Em rất ngạc nhiên: Tại sao khi anh lái phi cơ, thì anh không bị say, "say sưa" với gió núi mây ngàn gì đó? hay anh không bị ói? Mà anh lái tàu bay tỉnh bơ? Sao có chuyện kỳ lạ như vậy, hở anh?
- Tự mình ngồi lái thì không sao mà em. Anh giải thích nè: Khi anh tự lái phi cơ, tức là mình ngồi đúng ngay ở trung tâm, nên nó chuyển động không nhiều. Em hãy tưởng tượng như cái kéo vậy nhe. Anh ngồi ở ghế lái phi cơ, tức là anh đang ngồi ở ngay giữa cái trục của cái kéo, tất nhiên cái trục thì nó đứng yên một vị trí cố định, không di động. Còn người khác (em hoặc hành khách) là ví như họ đang ngồi ở trên lưỡi kéo, hoặc ở đầu mũi kéo. Nên em thấy lưỡi kéo hay mũi kéo thì nó luôn di chuyển: ra, vô, nhấp nhấp từng bước xê dịch; em coi dễ sợ chưa?
- Nghĩa là...
- Anh nói vậy em có hiểu không? Ví dụ nè: khi em cầm cây kéo để cắt giấy vậy mà - Em ngồi lái phi cơ, tức là em ngồi ở ngay cái trục giữa của hai lưỡi kéo. Khi em nhấp cái kéo, thì cây đinh nó chỉ nhích một chút xíu, còn lưỡi kéo nó phải nhúc nhích liên tục, để giăng hai lưỡi kéo ra rộng ghê chưa.
- Vậy là em hiểu rồi, khi lái phi cơ thì mình ngồi chính xác ở cái thế rất cân bằng.
- Phải. Đó là lý do anh chưa dám đi cruise là vậy. Nếu mình đi mà cứ "thấp thỏm lo âu chập chờn lâng lâng lo lắng vì sợ ói mửa", thì còn ra thể thống gì mà vui vẻ gì với "trui triết" hả?
- Em nghĩ: không có sao đâu anh, vì trên tàu (Cruise) to đùng như một thành phố, ở đó giống như mình nằm trên giường, êm ru hà. Khi anh lên bờ, em đoán chắc có lẽ anh cũng có cảm giác “nhập tâm” mình hơi sàng sàng, nhẹ lâng lâng chao đảo một xí thôi. Còn riêng em đã đi cruise không hề hấn gì cả!
Có lần Hạnh tò mò hỏi anh trai:
- Tại sao người ta không dùng “Trưởng-phòng Hành Quân”, “Trưởng Phòng” v.v... mà lại dùng chữ “Sĩ Quan”? Thì họ chính là sĩ quan mà?
- À… Sau nầy chính phủ đổi danh xưng, chữ: “Trưởng Phòng” là để dành cho cấp lớn hơn. Thí dụ ngày xưa người ta dùng “Chỉ Huy Trưởng Phi Đoàn”. Nhưng sau nầy họ đổi lại là “Phi đoàn Trưởng”, “Phi đoàn Phó”, “Sĩ quan hành quân”, “Sĩ quan huấn luyện”, “Sĩ quan An phi”, và 3, (4) Phi đội, đứng đầu là “Phi-đội-trưởng”.
Hạnh đã mỉm cười:
- Cám ơn anh. Em đã thấu hiểu.
Không biết vì ai?! Vì NAS, vì chiếc lá B-k-n- dễ thương chao lượn bên bờ biển cát trắng soãi mình trong nắng hanh vàng, đã chôn chân mình ở nơi nầy? NAS Pensacola, NAAS Saufley Field VT-1 và Whiting Field VT-3 ư ?! khiến Hồng Hạnh gợi nhớ “người ấy” và mình đã nhớ rất nhiều kỷ niệm lãng đãng trôi đi trôi về tự thuở xa xưa. Hạnh thinh thích muốn trao tặng chàng bài thơ:
Ngày đó anh quang vinh.
Học xong bước đăng trình.
Con tàu vút trời xanh.
Lả lướt đường bay lính.
Trên phi đạo đa tình.
Cánh bay chói bình minh.
Dọc ngang đời phiêu lãng.
Bay bướm anh đời lính.
Em áo tím xinh xinh.
Ôm mộng mơ thật tình.
Ngày đó em lính quýnh.
Không dám tỏ lòng mình.
Chân thật và lặng thinh.
Mắt ướt lệ lung linh.
Vô tình trăng Tố Nữ.
Nên lặng lẽ một mình. (2)
* * *
(1) do anh DHB cho tin.
(2) thơ Tình Hoài Hương
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.

thuyguyen530
10-21-2017, 03:30 PM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 22

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1507861981-b. pilot 7 - T34.jpg

/uploadpics/mp3_pdf1017/1507862053-Vo Cau Muon Dam_ HopCa.mp3
Xệ Cánh Bay


Phi Hành muốn thân thiện, trầm ngâm kể lại câu chuyện có thật trong “đời phi công hụt” cho các bạn & “cố nhân” lặng lẽ lắng nghe, mà bùi ngùi đồng cảm, ân cần ngồi lại chia sẻ với mình, như người bạn đường tri kỷ kỳ phùng. Chuyện đau buồn như sau:

Ngày 19 tháng 7 năm 1967, đúng 3 giờ chiều. Hành mặc chiếc áo bay, đội mũ bay, ôm cánh dù nặng trịch, tay cầm bản đồ, đèn bấm đi check mấy cục than dẫn điện coi có bị gì không, anh sợ rằng nếu bị mất lửa thì khi mở máy nó sẽ bị ngộp xăng. Kiểm soát cẩn thận xong xuôi đâu đó, Hành chờ giờ TOT (time on target) chính xác xong anh mở máy, cánh quạt quay, luồng khói xanh bùng lên khi động cơ nổ. Hanh rung đùi, dẫu sao thì mình vẫn khoan khoái vui vẻ hãnh diện, vì:

Lóp ngóp bơi trong áo rộng thùng thình
lại cứ tưởng rằng mình bảnh, mình chi rằng đích thực
mình giây
Cho nên nó mới ra cái nông nỗi này:
Nhác xem phi lệnh có tên đà run như cầy sấy
vừa mới thấy có mang: nào bom, nào hỏa tiễn,
nào đạn ca nông
không rét sao mà chưn lẩy bẩy
gặp ai cũng ỉ ôi năn nỉ: Mầy, mầy đi giùm tao
dù vẫn biết chẳng thằng nào nó khứng
đành nai lưng mũ vác mũ ra tàu
nhớ anh cơ trưởng ảnh bế ảnh bồng ảnh thả
vào trong cốc-pít
mặt nạ dưỡng khí mang vào thì hì hà hì hít
hít thật nhiều vì cảm thấy thiếu hơi. (1)

Hành lái phi cơ đến đầu sân và standby để xin phép rời phi đạo. Đèn phi trường nhấp nháy trong phòng lái đèn lân tinh quay qua quay lại long lanh. Hành trang bị đủ mọi thứ cần thiết xong, anh hân hoan vui vẻ cất cánh bay cùng với ông thầy. Bay được vài ba giờ, thầy kêu Hành quay trở về sân bay. Lúc đó có hai chiếc A.1.E khác đang chờ. Thầy bảo:
- Anh cứ tiếp tục làm phi-đội-trưởng, hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia đi ra Range, để thực tập. Anh bay solo! Chúc may mắn và bình an.
- Cám ơn thầy.

Thế là thầy xuống khỏi phi cơ. Khi tay lái đã được điều chỉnh chính xác, ấy là lúc phi cơ bình phi, là người phi công được thảnh thơi nhàn hạ khoan khoái tí chút. Cùng bay với Hành hôm đó có bạn Linh, và Hạ, cả nhóm sắp hàng chờ anh. Khi cất cánh xong, Hành nghe số 2 và số 3 báo là họ đang bay sát theo Hành. Anh yên trí dẫn họ ra đi làm các thao tác được qui định. Sau khi Hành ném hết bom, bắn hết đạn. Phi cơ của Hành xăng còn ít thôi, thì anh báo cho hai bạn biết, và dẫn họ về. Đến gần sân bay, anh báo tin cho Hạ đáp xuống trước, phi cơ Hạ đang tà tà rề rề… rẽ về đường Taxiway. Bấy giờ đến phiên Linh đáp xuống phi đạo, nhưng anh ta đáp thật gần, và chậm quá sức.

Phần Hành đang bay sà sà trên đầu phi cơ của Linh. Nhìn bao quát anh thấy rõ những ngôi nhà to, những loạt đèn lung linh lóng lánh đủ màu sắc nhấp nhô, những con đường sóng lượn quanh thành phố, kể cả vô vàn chiếc xe hơi đủ màu đang ùn ùn chạy đi chạy về, khiến anh rợn người toát mồ hôi, hoa cả mắt. Bỗng dưng anh chợt nhớ tới bài thơ “Phi Đạo”:
Có nhiều cậu học trò còn luống cuống
Mới “sô lô” thấy phi đạo đã run
Tháo mồ hôi trống ngực đập lung tung
Mới va chạm đã bung ào một cái!!

Lắm bạn bỏ bay lâu thì cũng vậy
Đáp bị bung khi mình chẳng muốn bung
Mới đầu thì nghe tức tối quá chừng
Đáp vài cái lấy lại ngay phong độ

Những anh Mẽo lái tàu to quá cỡ
Đáp cái nào cũng tóe lửa thấy ghê!!
Tạo tiếng kêu kít kít đến phát ê
Thân phi đạo rung rinh như muốn vỡ

Các bạn ơi! đừng bực mình nhăn nhó
Những khi sân có đèn đỏ xi nhan
Phải chờ cho cờ lia chớ vội vàng
Đừng đáp đại ắc xi đăng đấy bạn!
Nếu kẹt quá thấy mình cần rất khẩn (2)

Hành làm autorotation (tự động quay) đáp ép buộc khi máy của phi cơ đã bị tắt, thì bây giờ coi như chiếc phi cơ chỉ là thứ đồ vô ích vất đi, không còn xử dụng được. Tuy nhờ cánh quạt (rotor) lúc đó vẫn quay, nên chiếc phi cơ rớt lài lài 45/o. Phi cơ cũng không thể vọt lên cao. Nhưng lúc đó do quá bất thần, lúng túng, bàng hoàng và sợ hãi, lạnh người từ trên gáy kéo dài xuống toàn sống lưng mình; vì những điều không may. Thiệt là quá căng thẳng! Phen nầy chắc là toi mạng thiệt rồi.

Hành không nhớ control cánh quạt, vì thế phi cơ rớt xuống quá nhanh. Hành không thể liên lạc với đài Air traffic control, cũng không thể liên lạc với hai tần số UHF và VHF. Máy bộ đàm Motorola cà giựt rè rè rột rạt, bực mình hết sức. Hành nhớ hình như mình đã kéo cần lái để flare, nhưng chẳng hiểu sao kim RPM của rotor và engine cứ dính chặt, cứng đơ không chịu split, nó cứ nằm ù lì một chỗ, chẳng hề nhúc nhích cụ cựa. Kim đồng hồ RPM thì rung giật nhảy không ngừng.

Hành tính làm môt cú đáp autotouchdown trên taxiway, nhưng suy nghĩ cho cùng thì không thể được, vì sẽ gây nguy hiểm chết người cho rất nhiều từ phi cơ đang đậu trên parking, và những phi công, những nhân viên khác đang ở dưới đất. Trong tích tắc ấy, Hành thầm nghĩ:
- “Nếu mình bớt ga để đáp xuống. Thế nào cũng đáp ngay trên đầu phi cơ của Linh. Chắc chắn mình và cả mấy phi cơ gần đấy sẽ nổ tung banh xác”, càng chết hết cả đám Không-quân đang đứng ở dưới đất, họ lóng ngóng xôn xao nhìn lên, lo lắng chỉ chỏ kia kìa.

Vì thế anh vội vàng tống ga để có thể vút bay lên trời tiếp, (như mình đã từng làm việc tương tự trước đây). Nhưng, vì do Hành quá quen tay lái với các loại T-28 rồi. Khổ một điều rất quan trọng là: hồi trưa nay, anh đã từng bay lên cao độ 5.000 bộ, để thử nghiệm nó rồi. Vì, khi đang bay bình phi mà mình muốn hạ cánh cản, và bánh xe xuống rồi, thì chiếc máy bay sẽ trở thành khá nặng nề, coi như vô dụng giống đống sắt vụn, không thể dễ dàng điều khiển máy bay nữa.

Nhưng nếu anh tống ga vút phọt lên trời lúc đó, thì sức quay của cánh quạt sẽ tạo nên một lực đẫy rất mạnh. Khiến chiếc phi cơ có thể lật ngửa ra tức khắc. Hoặc phi cơ sẽ chúi mũi đâm sầm đầu cắm phụp xuống đất, là nổ liền lập tức. Còn nếu như phi cơ đang ở độ cao chuẩn mực, mình có thể dễ dàng “go” được. Nghĩa là trên không trung rộng thênh thang đó, mình sẽ kéo phi cơ trở lại vị trí bình thường. Dĩ nhiên là mình phải cần có ít nhất là 200 bộ, mới có thể cứu chữa một tình huống vô cùng gay cấn hiểm nghèo phức tạp ấy. Đằng nầy, Hành đang ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng đáp, nên phi cơ chỉ ở cao độ chừng hơn 100 bộ thôi. Cho nên Hành vội tống ga rất mạnh, là do vậy.

Hậu quả là chiếc phi cơ chập chờn chao đảo, rung giật tưng bừng. Phi cơ nghiêng hẳn qua một bên. Hiện tượng đó gọi là: Torque Roll. Thế là điều cuối cùng Hành chỉ kịp nhìn thấy bầu trời lăn lộn quay cuồng chao đảo, ngả nghiêng, chới với quay vun vút bay tùng phèo. Hành nghe một tiếng nổ rất to rất dữ dội, long trời lở đất bùng lên, nghe choáng váng đinh tai nhức óc. Cánh phi cơ đã chạm xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo. Cánh quạt bị bứt ra bay đi khá xa. Phi cơ lật qua bên phải. Rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất”. Cách nơi anh đáp xuống chừng 2 kilomets.
(Anh biết điều nầy, là khi Hành đã nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, họ chụp lại toàn cảnh tai nạn lúc bấy giờ. Hành thấy chiếc máy bay cuả mình vừa ngồi lái, giống như những miếng vỏ cây đại thụ nhăn nhúm vỡ vụn, chúng bay lả tả rải rác khắp nơi từ phía đầu đến phía cuối phi đạo). Thật quá kinh hoàng. Đường phi đạo rộng thênh thang lo gì đáp vội, để tự mang hoạ vô thân thế nầy!?

Riêng về phần Hành đang bị buộc cứng vào ghế ngồi bởi sợi dây nịt an toàn. Nhưng anh chả hiểu làm sao cái ghế tự động văng ra ngoài bãi cỏ? “nó ngồi” thẳng đứng? Hành ngồi y nguyên trên ghế còn đầy đủ cả mũ bay, cái mũ đội hơi chúi xuống mắt. Có dù đeo sau lưng. Sau cú đáp khiếp đảm “kinh hoàng dị tộc chẳng giống con giáp nào” đó, mắt Hành dường như toé lửa, trăm ngàn ông sao bung ra ở khoé mi. Hành cảm thấy đau nhói kinh khủng cùng khắp thân thể, nhưng anh vẫn còn tỉnh táo trước sự việc chớp nhoáng xảy ra trong tích tắc. Hành nghe thoang thoảng mùi cỏ ẩm. Mùi khét, và làn gió nhẹ phe phẩy thổi mơn man trên mặt mình. Hành nhắm mắt lại, chỉ kịp kêu:
- Chúa ơi!

Gió vẫn thổi man mác vào mặt mình lành lạnh, anh lại mở mắt ra dáo dác nhìn chung quanh, Hành mới biết mình còn sống. Anh chỉ thấy toàn các mãnh sắt vụn. Những đám khói nho nhỏ đang bập bùng bốc lửa trong buổi hoàng hôn. Đó là những ống dẫn dầu thủy điều bị cháy. Anh ngồi ở ghế bay, một mình chơ vơ lạc loài trên bãi cỏ có nhiều vệt lửa cháy bập bùng. Máu trào ra góc đầu bên thái dương dưới mũ bay, Hành cảm thấy một cánh tay bên phải cuả mình đã tê buốt đang nằm ở tư thế khác thường. Hành nghĩ nó đã gãy nát rồi.

Những tiếng nổ chát chúa và to như tràng cà nông đại bác bắn vô núi để lấy đá, kèm theo những luồng lửa đỏ, và khói đen xám cuồn cuộn từ đằng sau đuôi phi cơ xịt tới. Hành thấy hai xe chữa lửa hú còi inh ỏi, chớp đèn liên tục, hai xe police và xe cứu thương emergency landing đồng loạt cặp song song gần đường phi đạo. Các xe ấy ập sát vào chỗ xảy ra tai nạn. Hành còn thấy hai y tá Mỹ (Corpsmans) vội vàng lui cui chạy nhanh vào chỗ anh đang ngồi. Mấy người Mỹ khác vừa chạy, vừa dập tắt các đám cháy nhỏ. Một người Mỹ rối rít hỏi to:
- Phi công ở đâu rồi? Phi công ở đâu rồi?
- Tôi ở đây. Đây!
- Are you OK?
- Okay.

Họ chạy vào. Mặt Hành lúc đó đầy dầu nhớt, máu me. Họ vội tháo dây an toàn rồi nhẹ nhàng cẩn thận
đỡ anh ra khỏi chiếc ghế. Hành cố gắng đứng lên, nhưng bị đau thấu tim, toàn thân sụm xuống không thể bước đi được! Như vậy Hành mới biết là mình đã bị gãy luôn chân bên phải. Họ vội vàng lấy cái dù mở rộng ra mà lót trên cỏ. Họ dìu Hành từ từ ngả mình nằm tạm xuống trên đám cỏ xanh.

Khi vào đến nơi có thể tạm cấp cứu, ngay lập tức có một “đạo quân” bác sĩ, y tá vây quanh bên mình. Họ lanh lẹ cắt hết quần áo bay, nhưng có chiếc giày bên chân phải của Hành là không cởi ra được, vì đã bị một khúc ống inox dài đâm xuyên thủng: từ bên nầy qua thấu bên kia gót bàn chân cuả anh. Bỗng nhiên anh thấy có bốn ông Mỹ lực lưỡng tiến đến. Họ đè anh ra rõ mạnh. Ông bác sĩ lấy cái kềm, kẹp cứng cây inox, rút ra. Chao ơi! Lúc đó Hành cảm thấy đau đớn thấu trời xanh, rợn tóc gáy, Hành muốn đứng tim, óc muốn phọt ra mà chết tươi. Sau đó, họ cấp tốc lo cứu thương cho anh.

Hành vẫn nằm trên nền gạch ở góc phi trường. Anh thấy Hạ và Linh đứng nhìn xuống. Hành còn mỉm cười hơi gật gật nháy mắt nheo mày với “tụi nó”. Hành thấy “hai ông tướng” thân mến cùng bay của mình thì lắc đầu lia lịa, muốn gãy cổ. Mặt họ xanh mét lộ vẻ thất vọng, ngậm ngùi, bồn chồn, lo lắng, buồn thiu. Hạ thì lấy hai tay bụm mặt lại quay đi. Anh nghĩ:
- “Chắc là mình bị thương nặng lắm. Hay sao đây”, nhưng mà cổ nhân đã có câu:
“Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”
(Người ta sinh ra, ai mà không chết.
Cần phải lưu chút lòng son vào thanh sử).

Thây kệ cha nó, đến nước đứt đuôi con nòng nọc rồi, tới đâu thì tới. Họ đã tiêm vào người Hành hai mũi thuốc morphine giảm đau. Thế mà anh cưỡng lại, vì sợ nếu Hành ngủ đi, mình sẽ không còn sức lực để thức dậy nữa. Sau khi thấy Hành còn tỉnh táo, ông bác sĩ trực hỏi:
- Anh có muốn đi bằng trực thăng không?
- Tùy ông.
Thấy Hành còn “tỉnh queo”, thế là ông ta cho chiếc xe cứu thương đến, họ nhẹ nhàng cẩn thận đặt Hành nằm lên cán thương, hai y tá khiêng cáng thương leo lên xe. Xe hụ còi inh ỏi trong suốt lộ trình, xe chạy rất nhanh trên freeway đến Eglin AF Hospital, cách nơi xảy ra tai nạn độ chừng nửa giờ. Lúc đó là 19giờ 55’. Họ cấp tốc mang Hành vào phòng cấp cứu đặc biệt. Màu drap trải giường trắng, bộ quần áo trắng, trong phòng sơn màu trắng, tất cả mọi thứ ở đây đều mang màu sắc trắng bong, khiến Hành có cảm tưởng như mình sẽ nằm liệt trong bệnh viện toàn màu trắng tinh lạnh lẽo, mà hãi hùng.

Một lô bác sĩ chuyên khoa khác xúm lại bên anh cùng nhau chẩn đoán, tốp nầy tiến tới khám thì tốp kia lui ra góc phòng biên chép. Tốp thì xem: Tai. Mũi. Họng. Răng. Hàm. Mặt. Tốp khác lo khám nội khoa. Ngoại khoa. Tóm lại là họ khám chu đáo, tỉ mỉ chăm chú rất lâu, rất kỹ; nhưng tháo vát nhanh nhen và nhịp nhàng. Vì thấy sức đề kháng của Hành quá mạnh, nên bác sĩ lại tiêm cho anh mũi thuốc thứ ba, mà bác sĩ thấy anh còn tỉnh táo, họ kinh ngạc trợn mắt nhìn nhau. Tất cả đều lui ra, nhường chỗ cho các bác sĩ chấn thương chỉnh hình ở lại. Họ chụp ảnh. Hành biết chắc mình đã bị gãy cánh tay phải, & gãy từ xương đùi xuống mắt cá bên chân phải.
***

Chừng khoảng 21:30’ hôm sau Hành chợt tỉnh dậy, thấy mình nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt (speccial Care Unit). Chung quanh có nhiều bác sĩ, y tá. Họ khá mừng rỡ vỗ tay reo lên. Bác sĩ hỏi:
- How are you?
A ha! Ai cũng hỏi Hành có thoải mái không? Ui cha! Nhìn xuống thân thể lúc đó, thấy mình hoàn toàn như một cái “xác ướp Mummy” vậy. Bên cạnh có đủ thứ dụng cụ máy móc, phát khiếp. Lâu lâu có y-tá đến hút đàm, dịch truyền, dây truyền máy giăng mắc chi chít. Vân vân... Bị thương chảy rất nhiều máu, Hành thường khát khô cổ họng, thèm uống nước vô cùng. Họ chỉ lấy miếng bông gòn thấm chút nước trong cái ly thủy tinh, mà thấm thấm trên đôi môi nức nẻ khô lông lốc, anh tức bực ghê lắm, nhưng đành chịu. Ước gì lúc nầy mình được nốc một ly cối nước đá lạnh ừng ực xuống cổ, thì khoái khẩu biết chừng nào!

Thế là xong! Tàn kiếp giang hồ, thoả chí tang bồng hồ thỉ chí nam nhi mà bấy lâu nay Hành hằng vọng tưởng ước ao nhe! Hết lướt mây cỡi gió rồi, hết tự do "lả lướt bay bướm" trên nền trời bao la bát ngát thênh thang. Tự dưng Hành nghĩ tới má với những hàng nước mắt khi trước, má đã tiễn đưa mình lên đường "tòng quân", nay má ơi... có lẽ má đang mỉm cười:
- Hết thời trai rồi cu tí ơi! Từ nay con ở yên bên má hen.
Hành phì cười vì những ý nghĩ đó, đến nước nầy rồi mà trong đầu óc lãng mạn nầy còn "dệt ra" những lời vu vơ đó sao? Cũng có thể lắm chứ... Hành không còn thú tự do vẫy vùng đôi cánh tung bay trong gió bạt ngàn. Mất hết rồi niềm tự hào sãng khoái, khi anh vi vút bay vào không gian trò chuyện với chị hằng nga xinh đẹp, với muôn vì sao khuya lấp lánh! Còn đâu nữa lúc bay trong bầu trời đêm huyễn hoặc, thân thiết và mê đắm bao la, mênh mông!? Chao ôi là tủi hờn biết bao! Nhưng: Cái buổi hậu phi mới biết đá vàng
bước xuống thang là anh muốn té
ngũ chi ê ẩm, mặt mày xây xẩm, đầu gối lỏng le
không phải xì-ke mà cứ như anh xì-ke thiếu thuốc
mắt hoa đầu buốt trời đất cuồng quay
đi khám định kỳ ắt phen này i-náp (1)

Sau một tuần vật lộn với nhiều phen đau thể xác, Hành bàn giao chức vụ Trưởng-đoàn Khóa-sinh cho Hạ điều hành. Bác sĩ Mỹ đứng bên cạnh theo dõi. Luôn miệng hỏi:
- Are you comfortable?
- Are you OK?
Ôi! Lại hỏi mình có thoải mái không hoài à? Trên thái dương và mí mắt Hành bị rách một đường, họ phải may mấy mũi. Gãy tay. Nhìn thân hình bị bó bột trắng xoá, từ bàn chân phải lên tới bụng, tràn qua đùi bên trái. Họ chỉ chừa cho một cái lỗ khoét ở giữa, để anh cần “làm việc” vệ sinh cá nhân. Phía nơi háng của anh bị thương nặng, do dây và móc dù đã kéo bên tinh hoàn phải ra. Thì ra Hành giống Adolf Hitler (là một người ăn kiêng và chỉ duy nhất có một… tinh hoàn). Hô hô hô… Thú thật vào giờ phút nầy Hành quá ngao ngán, chẳng nhớ gì về việc thèm... kiêng ăn, uống, hoặc có cử... cử chỉ thèm thuồng rục rịch nhúc nhích sờ mó gì đến ai. Ui xà, nếu có mười nàng tiên lượn quanh, thì anh cũng chắp hai tay mà vái lia lị như tế... tế sao.

Có thể ông Trời tàn nhẫn “bắt vạ” Hành chỉ sót lại "nửa quả tẻo teo", thì còn phong độ gì để “làm ăn cái giống chi đây” hử Trời! Chân phải Hành bị treo lên cục tạ to, dùng làm cán cân. Nghĩa là người ta định kéo giãn khúc xương gãy bên chân nầy, cho bằng với chân bên kia. Chắc là bây giờ anh “muối mặt mo” như: Nữ hoàng Elizabeth đệ nhất I, tự coi mình là người mẫu mực trong chuyện vệ sinh thân thể. Bà từng tuyên bố rằng: “cho dù bẩn hay sạch, thì cứ mỗi ba tháng, bà mới tắm một lần”... cho “phỉ nhổ đời trai tráng” hết thời, rũ liệt teo tóp như mình sao ta!?

Lẽ ra theo chế độ sĩ quan, Hành được xếp nằm ở trong phòng chăm sóc riêng. Một phòng chỉ có một người nằm. Nhưng bác sĩ thấy nếu cho anh nằm trong đó, thì quá vắng lặng rất buồn. Không có phương tiện giải trí gì, sợ Hành sẽ bị trầm cảm nặng chăng. Bác sĩ mới ra lệnh cho y tá đẫy Hành ra nằm chung với nhiều bệnh nhân ở phòng công cộng. Ngoài nầy, có hai dãy giường của Hạ-sĩ quan và Binh-sĩ. Rộng rãi, đầy đủ tiện nghi giải trí vui vẻ và nhộn nhịp! Mà bây giờ anh cần phải vui vẻ náo nhiệt, chứ nếu Hành chìm trong bóng tối và sự im lặng triền miên, có lẽ không sớm thì muộn, anh sẽ tress, bị điên mất.

Ngoài phòng rộng và đông vui nầy có những người đi lại được (ambulatory). Có một ti vi rất to, cỡ 50”, để cho anh em toàn phòng xem chung. Bên cạnh Hành có đủ thứ tiện nghi dụng cụ máy móc. Mỗi giường đều có gắn tấm ri đô khi mình cần sử dụng vệ sinh riêng tư. Hành bấm chuông gọi y-tá đến. Cô ta mang “bô” Bed Pan tới, cô ta bỏ ra ngoài kéo màn lại. Mình “tự do thao tác” làm trời làm đất gì sau tấm màn ấy, thì làm. Khi xong việc, Hành bấm chuông, cô y tá mở tấm màn kéo về một góc, cô đến toilet dọn dẹp ngăn nắp, rồi mang bao đựng cái “bô”, đem đi. Buổi sáng, buổi chiều, đều có bác sĩ đến thăm, họ khám bệnh nhân kỹ càng, cho thuốc uống đều đặn, chăm sóc chí tình, chu đáo.

Mỗi ngày, vào buổi sáng họ đưa cho bệnh nhân một tờ thực đơn có ghi ba món ăn và nước uống. Mình thích phần ăn nào, thì check V vào đó. Ngày mai họ nấu cho ăn. Nói chung họ cho ăn khá ngon. Bệnh nhân cứ ăn, ngủ, và xem Ti vi riết. Phát chán! Mấy lần sau ngày Hành bị tai nạn, ông thầy dạy bay của Hành vào thăm. Thầy mang nguyên một thùng carton lớn, đựng toàn những cuốn Play Boy. Thầy nói:
- Tôi thương anh lắm! Gửi tặng anh. Những thứ nầy tôi đã “sưu tầm” hơn mười năm rồi.

Thế là Hành cứ nằm đó, mà “nghiên cứu” hết mấy trăm tập play boy. Nhờ thế vốn liếng sinh ngữ trong anh ngày càng khá hơn. Mỗi tuần các bạn đến an ủi, giúp đỡ, thăm "thương binh" một lần. Đám bạn sinh viên sĩ quan Việt Nam như: Trần Thế Vinh, Phan Quang Tuấn, Trương Công Thành, Trần Quốc Trung, Vũ Tùng, Trương Đông Đình, Hoàng Quốc Huấn, Huỳnh Lô, Trần Văn Bời v.v… đều đến thăm bạn. Ngay cả ông đại úy sĩ quan liên lạc từ Mississippi cũng bay qua thăm Hành. Khi trước còn nằm ở trong phòng kín, đầy oxy, Hành đã bỏ hút thuốc lá một thời gian khá lâu. Nhưng cũng do mấy “ông bạn hiền” thương xót anh bị gãy cánh bay ưa đến thăm, họ đã tạo cho anh có dịp tha hồ hút với hít.

Họ đẫy băng ca đưa Hành ra nằm ngoài sân phơi nắng mà “nghiên cứu, nghiền ngẫm” cái sự đời cu tí nha ta. Rồi họ đưa thuốc lá, biểu Hành nằm đó ngắm trời, ngắm cây cỏ hoa lá… mà hút hít, để viết thư tình, làm thơ tình, cho vui. Dĩ nhiên! Còn thú vui nào bằng thú vui “hút hít” chứ! Sau đó ui cha! Hành đâm ra ghiền hút thuốc nặng, anh hút ngày một gói thuốc lá “con lạc đà”. Đúng là cỡi trên con lạc đà thì quá đã! Thời gian Hành ra ở phòng ngoài (phòng bệnh nhân điều trị) anh nhờ mấy bà thiện nguyện mua dùm thuốc lá và hút liên miên, hút đã đời... mà bây giờ chẳng có ai gần bên cằn nhằn, cấm đoán như người yêu cũ thuở xa xưa ở Đà Lạt, nàng phụng phịu, ưa hờn dỗi nhăn mặt nhíu mày!

Ở đây có bà Louise thích “chăm sóc đặc biệt” cho các anh chàng "độc thân vui tính và đào hoa" như Hành nhất. Lâu lâu, bà ta đẫy anh vào phòng tắm gội đầu, lau mình, rồi dần dần bà thân mật vui vẻ phừng phưng “tắm rửa” kỳ cọ kỹ lưỡng, tay bà mân mê kích thích đủ thứ nơi, đủ thứ chỗ kín đáo rất nhột nhạt phừng phưng và nhúc nhích cụ cựa kia. Đám sinh viên sĩ quan rất sợ vì cái tính dâm kinh khủng của bà. Bà hỏi Hành:
- Thích “massage therapy” ở chỗ đó đó hoài không?
- Ô lá là... Ai... ái!

Hành mệt mỏi nằm ở bệnh viện Hurlburt hơn ba tháng. Một hôm, từ ở bệnh viện mới (cũng gọi là Hurlburt Hospital # 2). Người ta dời Hành về đó. Ở đây sướng lắm! Phòng ốc cao ráo, có một cửa lớn, một cửa sổ thoáng mát. Hành có thể đứng ngắm rặng núi mờ mờ xa xa, góc kia anh nhìn mặt trời lặn xuống đường chân trời, mà không sợ làm phiền ai. Mỗi phòng hai người, đầy đủ tiện nghi, trang bị tối tân. Giường loại mới có nút bấm tự động, để mình tự điều khiển giường cho mình ngồi lên cao, hoặc nằm xuống thấp an toàn theo ý thích. Khỏi cần nhờ trợ y giúp đỡ. Có chuông điện ngay trên góc giường. Có ti vi và toilet ngay kế trong phòng sát bên chiếc bàn nhỏ, có tủ quần áo, đồ dùng sạch ơi là sạch.

Hành nằm dưỡng thương riết, khổ sở nhất là sự ngứa ngáy da non từ bên trong lớp băng bột dày cui, không biết làm sao để gải cho đã ngứa, và anh nằm dài thân một bên muốn tê bại người như thế quá ê ẩm. Nhiều tháng sau họ đã cắt bột chung quanh bụng Hành, và chân phải, chỉ còn bó bột ở trên cánh tay phải. Thế nên, mỗi lần muốn di chuyển đi dâu, Hành chỉ cần tựa người trên chiếc xe lăn, hoặc cây nạng và thong thả đi một mình. Vã chăng, cái số kiếp Trời gieo trong đời mình phải cưu mang cái “định mệnh sầu đắng” rồi hay sao!? Vì chiều hôm đó như thường lệ, Hành từ giường của mình đang nằm, anh
ngồi dậy rồi đứng lên nhảy cò cò, để vào toilet, do yếu bên chân trái và cũng ỷ y hoặc vô ý, nên anh đã bị trượt té. Chân phải đang bị thương lại đập rất mạnh vào bồn cầu, khiến nó sưng tấy lên liền, đến nỗi chật cứng ống quần pirama của nhà thương. Nguyên cái chân phình to và "nẩy nở" nhanh đến khiếp!

Nghe tiếng động mạnh, mọi người chung quanh gần phòng Hành liền hớt hãi chạy vào. Họ đỡ Hành nằm lên giường. Y tá, bác sĩ, bu quanh anh khám nghiệm. Họ mang Hành đi chụp X Ray, chích cho mấy mũi thuốc gì đó khiến anh đã ngủ vùi. Vài ngày sau, bác sĩ trưởng khoa điều trị đến. Ông nói:
- Tôi thấy cái đùi của anh vừa chớm lành. Nay đã bị gãy tung ra hết rồi. Cả cánh tay của anh nữa. Anh sẽ không đi đứng bình thường. Sẽ bị tật. Sau nầy anh có muốn đi bay lại không?
- Sure!
- Vậy thì anh phải mổ lại. Để tôi làm việc với anh chu đáo tỉ mỉ, nhưng anh phải cẩn thận hon. Sau nầy về quê nhà, tôi nghĩ anh vẫn còn khả năng đi bay được. Anh nghĩ sao?
Một liều, ba bảy cũng liều thôi, cái mạng nầy cùi từ khuya rồi, cần chi sợ lở nữa, nên Hành vội vã gật đầu cái rụp.
- Nếu anh đồng ý. Hãy ký tên vào tờ cam kết.
Không ngại ngần anh cầm bút ký cái rẹt. Thế là sau khi cho thử nghiệm lại đủ mọi thứ, họ chở Hành đến trung tâm chỉnh hình. Y tá lột hết quần áo, làm vệ sinh, xoa thuốc tím lên những nơi sắp mổ. Họ đắp lên người Hành tấm drap trắng tinh, thơm thơm mùi thuốc sát trùng. Họ cột đầu tóc Hành bằng chiếc khăn trùm kín mít. Họ cho anh nằm lên bàn mổ. Hành nằm ngửa nhìn sửng sốt năm cái đèn sáng choang. Hai bên toàn những dụng cụ mổ bằng loại inốc bóng loáng, đủ thứ máy móc tối tân với kéo, kềm, búa, cưa, kim chỉ... Y như là một xưởng kim khí, hay xưởng hàn gì đó. Chứ không phải là bệnh viện. Nhìn mấy miếng bạch kim (platinum) cùng một hàng ốc vít (jewett screw). Toàn thân anh bây giờ đã có giá trị kim tiền (platinum), mình an toàn về sự giàu có để giữ của quý trong người, mà không sợ ai phát hiện, mà ăn trộm ăn cướp những miếng bạch kim nầy, là cái chắc! Một tuần sau, đến phiên mổ cánh tay phải của anh, họ cũng làm tương tự như trên. Tuy thân anh bây giờ đã giàu xụ, nhưng anh cảm thấy chán nãn tột cùng cho cái thân thể phiền muộn của mình!
* * *

Thời gian nằm ở mấy bệnh viện Hành đọc nhiều bài, nghe cũng quá nhiều chuyện tiếu lâm, vui hết biết. Nhưng có chuyện tiếu lâm nầy, khiến Hành ngao ngán phì cười, sao nhân vật chính trong truyện ấy không phải là tôi nhỉ: “Có một ông đang đi máy bay thì mắc mót ỉa đái gì, chả biết! Ông liền bần thần chạy tới chạy lui, nhưng toilet Nam đều có người dùng. Một nữ tiếp viên cảm thấy hơi ngại cho cha này, cô sợ ông ta “vãi” ra đấy những bãi mìn, thì thúi um cả làng, làm sao mà nữ tiếp viên bốc hốt dọn dẹp cho xuễ! Thế nên nữ tiếp viên thương “tình cảnh I e” của ông ta, cô bèn cho ông ta vào nhà vệ sinh nữ, tiếp viên mỉm cười, kèm theo lời dặn dò cẩn thận:
-- Ông đừng nhấn nút bậy bạ nha.
Ông bạn không nhớ nghe lời vàng ngọc. Ông khách sau khi thoải mái làm nhiệm vụ thải chất xú uế ra ngoài xong, ông liền nhấn nút W W (viết tắt của chữ Warm Water là nước ấm). Thế rồi một làn nước ấm áp dễ chịu liền xịt vào chỗ ông vừa bài tiết.
Ông này bèn thì thầm:
- Đàn bà sao sướng thế…
Ông bèn nhấn tiếp nút thứ 2 có chữ W A (viết tắt của chữ Warm Air nghĩa là khí ấm) thế rồi một làn khí ấm áp sấy khô, chỗ cần làm khô của ông ta.
Ông ta huýt gió vui vẻ:
- Trời ạ! thế giới này còn có những chuyện thế à?
Ông ta nhấn tiếp cái nút có chữ P P (viết tắt của chữ Powder Puff nghĩa là xịt bột thơm). Thế rồi một làn bột nhẹ nhàng bắn ra, làm thơm tho cái chỗ đó của ông ta. Cuối cùng, không ngăn được tò mò, ông ta nhấn vào nút có chữ A T R!!!
Tỉnh dậy thấy nằm trong bệnh viện, cha nội ấy hét tướng lên.
- Sao tui ở đây? Tui nhớ là tui đang ở trên máy bay mà?
Cô y tá trả lời:
- Thì đúng vậy! Sau khi ông hưởng hết những hạnh phúc trong phòng vệ sinh đó, thì ông đã táy máy nhấn lầm cái nút ATR (viết tắt chữ Automatic Tampon Remover) nghĩa là: gắp băng vệ sinh tự động ra. Thế nên bây giờ ông đã làm cho “của qúy của ông” đang ngao du ở dưới bốn cầu, ông đau đớn nằm chóc ngóc nơi đây, và sẽ hiu quạnh đời trai buồn bã mà thôi! Tôi đã cẩn thận dặn dò ông trước rồi, nhưng ông không nghe lời. Xin lỗi!
***

Hạnh vẫn sống âm thầm, buồn lặng và đầy nhớ nhung trường cũ, nhớ về những ngày tự do, còn khoẻ mạnh. Khi mà anh có thể lái “con chim sắt” để cùng mình chắp đôi cánh, tự do vẫy vùng trong bầu trời thênh thang. Cuộc sống hào hùng nầy luôn vẫy gọi, níu kéo mình muốn quay về bến mơ, từ thời vàng son hoài hương xưa cũ ấy. Hành siêng viết mỗi ngày một lá thư, gởi nhiều quà cáp và hình ảnh từ khi anh mới sang Mỹ, lúc trở về USAF. Tiếp sau khi anh bị thương đến Trân Thư. Nhưng, ở đời luôn có những cái “nhưng, bị, tại, vì, do...” đầy bất nhân bám riết đời anh, tại sao thế nhỉ!? Dạo trước khi bị “xệ cánh”, thì ít nhất mỗi tuần anh nhận được hai lá thư của Trân Thư từ Việt Nam gởi sang Mỹ, nàng kể biết bao chuyện vui, và liên tục rền rĩ cam kết hứa hẹn đủ thứ chuyện yêu đương đầy ứ.

Nhưng mà... sau khi Trân Thư xem nhiều hình ảnh Hành bị thương... bị gãy tay, gãy chân nằm bệnh viện, mất một ít “của quý” đến ngày nay… một năm rồi, thì hầu như sự liên lạc thưa thớt dần dần, và mất hút tăm hơi. Trân Thư ít liên lạc thư từ với người tình, lời thư của Trân Thư viết đã tỏ lộ sự nhạt nhẽo, hững hờ, trống vắng. Chẳng còn tha thiết đậm đà thăm hỏi, Thư có vẻ như đã “trở mặt làm ngơ” xa cách, vô duyên sao đâu.

Hành thật buồn. Người ta nói: “xa mặt cách lòng” cũng đúng. Và, càng đúng hơn khi “con người ấy” đã hững hờ tàn nhẫn quay lưng, vô nhân đạp trên đớn đau của người khác, mà xéo bước... “Ai mà phụ nghĩa quên công. Thì đeo trăm cánh hoa hồng, chẳng thơm”. Hành hiểu tình đời thường trắng trợn và bạc bẽo đến thế! Mém chút nữa thì anh “ca” bài thơ hát nói cho Trân Thư nghe:
Mưa thu vần vũ hiên lầu.
Đôi ta thấm lệ nỗi sầu hoen mi.
Kẻ Nam người Bắc làm chi.
Buồn trêu ngọn cỏ tình si hỡi chàng.

Tình yêu đã chết
Nhớ thương về tôi viết một đôi hàng.
Lưng tròng mắt lệ nhỏ giọt đường trăng.
Tàn mộng ước băn khoăn nơi đất tạm.
Bước giang hồ gập ghềnh muôn dặm.
Kẻ lữ hành gian khổ khắp nơi.
Lặng lẽ tim đau không thốt nên lời.
Chàng lãng tử bị phụ rồi hôm đó.
Vẳng nghe tiếng âm vang trong gió.
Những đêm dài than thở thương đau.
Tình ơi đã chết từ lâu... (3)

(1) Trần Văn Minh
(2) Kha Lang Da
(3) Tinh Hoai Huong
(4) Câu chuyện có thật, nhưng tên của các anh trong truyện chỉ là: "tên giả".
***

Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Bài đầu ngô mình sở lúc đi là A1 lúc về là trực thăng , . Tác giả nói là dùng tên giả nhưng lại trưng toàn nhân vật có that . Đề nghị HQPD xoá bài này.

Tinh Hoai Huong
10-21-2017, 06:50 PM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1508611576-hong trên đất 14.jpg
Cám ơn anh thuynguyen530.

Thưa anh, nếu không lầm thì ngay ở đoạn đầu truyện dài, tôi đã có ghi v/v nhân vật chính xin đề nghị dấu tên: Cám ơn “bạn đường” (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ” (nên bạn ấy xin đề nghị dấu tên).
* * Chuyện thật tên giả = Tôi không ghi rõ ba anh: (có lý do riêng, ý của nhân vật chính: dè dặt, không muốn phiền hà đụng chạm đến ai khi cùng lái ba phi cơ lúc ấy. Vậy nên tôi phải tôn trọng).
* - Đọc lại đoạn trước : Hành quay trở về sân bay. Lúc đó có hai chiếc A.1.E khác đang chờ. Thầy bảo:
- Anh cứ tiếp tục làm phi-đội-trưởng, hướng dẫn hai chiếc phi cơ kia đi ra Range, để thực tập. Anh bay solo! Chúc may mắn và bình an.
- Cám ơn thầy.

* - & đoạn sau : Cánh phi cơ đã chạm xuống bãi cỏ, sát bên phi đạo. Cánh quạt bị bứt ra bay đi khá xa. Phi cơ lật qua bên phải. Rồi lật ngửa. Cuối cùng chỉ dừng lại ở điểm “tiếp đất”. Cách nơi anh đáp xuống chừng 2 kilomets.
(Anh biết điều nầy, là khi Hành đã nằm ở bệnh viện, thì Uỷ-ban điều tra tai nạn phải dùng một chiếc trực thăng, bay lên cao độ 3.000 bộ, họ chụp lại toàn cảnh tai nạn lúc bấy giờ.

Thưa anh, tôi thiết nghĩ hai đoạn nầy: do người lái & hai loại phi cơ khác nhau, không có gì sai anh ạ .
Vậy, mong anh thuynguyen530 thấu tình đạt lý về những điều người ấy đã yêu cầu, mà thông cảm nhé !
Kính báo

THH

Tinh Hoai Huong
12-29-2017, 04:02 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 23

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1514520297-con ve sau.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1514516345-Thoi Em Hay Ve - Elvis Phuong.mp3 Trở Về Quê Hương Bẽ Bàng
Tình Hoài Hương
***


“Quê hương trái đất nửa vòng.
Ngày thương đêm nhớ, những mong ngày về”.
Trên không trung có vầng trăng sáng toả vằng vặc như chiếc dĩa bạc soi rõ mọi thứ trong góc phòng bệnh viện. Hành đứng lên lại nằm xuống, đi ra đi vô xem ti vi chiếu tin tức thế giới, xem “chuyện lạ Việt Nam”, thỉnh thoảng trên ti vi Mỹ chiếu đi chiếu lại những cuộc biểu tình gay gắt cũ sôi sục đêm ngày: Các phe nhóm chống chính phủ, các cấp lãnh đạo tôn giáo, các tổ chức chính trị, sinh viên học sinh rầm rộ phản đối, biểu tình, rối tung rối mù, mù… mịt trời đất, hầu hết diễn ra ở miền Nam Việt Nam.
Nỗi buồn đau bỗng trĩu nặng trên vai Hành, không biết làm gì hơn là tối ngày Hành soạn va ly ra coi những gói quà to tướng sẽ đem về tặng thân nhân ở quê nhà. Hành dùng chất vitriol rửa những hình thể đá thạch bóng ngời, trông giống như màu da thật. Hành lại bồi hồi thở vắn than dài, thẩn thờ đóng lại mấy cái va ly. Các bạn cùng khoá đã trở về Việt Nam lâu lắm rồi! Chỉ còn độc nhất mỗi mình "ta cứ nằm ù lì lại”. Trước khi về VN, các bạn đã đến chia tay anh, họ xúm lại chọc quê:
- Thôi, yên trí đi, mầy cứ ở lại Mỹ an giấc nghìn thu hen.
- Nằm nghỉ ngơi cho sướng cái đít đi.
- Còn sống, thì mầy chộp cổ ngay một con Mẽo, con Xì… là "xong bén đời giai”.
- Tầm bậy! Sao xúi hắn an giấc ngàn thu?
- Vì, không bao giờ có ai nói: An giấc ngàn Xuân cả.
- Vậy thì đừng biểu nó: An giấc ngàn Đông nghen?
- Hãy an giấc ngàn hạ xuống, để tàn đời trai cho rùi.
- Xuân, Hạ, hay với Thu?
- Ư hừ!
- Mầy théc méc mần chi hỉ! Hổng chịu mở méc ra, coi tụi tao tôm gốp thùng bẹc két rủng rỉnh "xung xướng” đem tiền Mỹ đi dzìa Việt Nam nè.
Những buổi tối, Hành nằm thao thức hằng giờ đăm đăm xem thời sự trên tivi, nhìn cảnh chiến tranh Sài Gòn đổ nát, chết chóc. Cộng sản tràn ngập vào Thủ Đô. Hành nghĩ thầm: “Thôi. Thế là hết”. Hành mòn mỏi chờ đợi chiến cuộc Tết Mậu Thân 1968 ở Việt Nam mau chóng chấm dứt, giảm bớt cường độ giao tranh. Hoặc là: đụng độ dữ dội giữa miền Nam Việt Nam và miền Bắc tạm lắng xuống, thì bằng mọi giá anh phải xin đi về Việt Nam. Mấy bạn Mỹ thường trêu:
- Làm sao anh về nước? Khi tay chân bó bột? khi chiến tranh đang xảy ra liên miên?
Đại bàng có bay xa bao nhiêu cũng phải dừng cánh, đàn ông có đi xa bao lâu cũng phải có ngày trở về nhà. Ở Việt Nam có thể có người muốn đi du lịch ra ngoại quốc, còn anh trải qua nhiều tháng năm sống "lây lất" ở nước ngoài rồi, nay anh nôn nao mòn mỏi ngóng trông mau chóng "tung cánh chim tìm về tổ ấm”, hạnh phúc thay khi có ngày mình được trở về quê mẹ thân yêu. Hành quyết chí gởi thư đến căn cứ Không-quân đòi họ cho phép anh trở về quê hương. Vì ít nhiều gì, Hành vẫn mang canh cánh bên lòng mối tình hoài hương. Vã lại, toàn bộ gia đình ba má, anh, chị, em, các cháu của mình ở Việt Nam mà. Cũng có thể là Hành còn nghĩ đến chút tình với Trân Thư.
Ngày ngày... chẳng biết làm gì ngoài việc giết thì giờ nhàn rỗi quá chán ngán, Hành cùng những anh quân nhân thương binh Không-quân Mỹ xúm lại coi thời sự trên ti vi, lúc nầy đài Mỹ chiếu đi chiếu lại chuyện lạ bốn phương "hot" nhất: ông Jean Bedel Bokassa đã tham gia trong đoàn quân viễn chinh Pháp. Ông qua Việt Nam hồi thập niên 1950, Jean Bedel Bokassa (thuộc bộ tộc M’Baka ở Phi Châu) sinh ngày 22-2-1921 tại làng Bobangui, cách xa thủ đô M’Baiki (Phi Châu Xích Đạo - Equatorial Africa). Năm 1950, Trung-sĩ-nhất Bokassa là quân tình nguyện của Lục-quân Pháp, thuộc binh chủng lính Lê Dương (Légion étrangère), khi ấy Trung Phi vẫn là thuộc địa của Pháp. Năm 1953, ông Trung-sĩ-nhất Bokassa 32 tuổi, đóng tại Chánh Hưng, Sài Gòn (quận 8 bây giờ). Thời gian sang Việt Nam tham chiến, chàng Lê-dương Bokassa tây đen tăng cường về Biên Hòa làm nhiệm vụ gác cầu ở Cù Lao Phố (cầu Gành), nơi Cầu Gành có một máy nước công cộng. Ông ta đã “tò te” với một bà Việt Nam xồn xồn Huệ nghèo gánh nước mướn ở Tân Thuận Đông. Họ thuê một căn nhà nhỏ ở Tân Thuận Đông, quận Nhà Bè, nơi đơn vị anh ta đóng quân gần cầu Tân Thuận. Khi Huệ có bầu, thì Bokassa buộc phải rời khỏi Việt Nam quay gót trở về cố hương. Bao nhiêu năm thăng trầm trôi qua, ông Jean Bedel Bokassa từ từ leo lên chức Tướng, rồi ông trở thành hoàng-đế Cộng-Hoà Trung-Phi. Tháng 1 năm 1966, Bokassa đảo chính, lật đổ David Dacko, tự lên làm tổng thống. Hoàng đế Jean Bedel Bokassa sực nhớ đến người tình cũ và con gái, ông bèn gởi một văn thư nhờ bộ Ngoai Giao Pháp, chuyển đến Bộ Ngoại Giao miền Nam Việt Nam Cộng Hoà: xin họ giúp ông tìm con gái ruột tên Nguyễn thị Martine. Bộ Ngoại Giao ráo riết tìm kiếm, nhưng không thể tìm ra Martine.
Họ bèn đem một cô gái lai da đen 19 tuổi tên Baxi (con bà Nguyễn Thị Thân ở Xóm Gà, Gia Định) giả làm con gái Tổng-thống Bokassa. Đúng là có một “nàng con” đến trình diện bộ Ngoại-giao, cô gái nầy làm thủ tục xuất ngoại. Tổng-thống vui mừng tổ chức buổi tiếp nhận con rất long trọng. Phần bà Huệ sanh con gái có làn da ngăm đen, và hơi ngà ngà, thì bà vui buồn lẫn lộn. Thời gian mấy năm đầu, thỉnh thoảng Bokassa và bà Huệ có liên lạc trao đổi tin tức, sau đó do hoàn cảnh mỗi người, nhất là không gian và thời gian xa cách biền biệt góc biển chân trời, dần dần họ vắng bặt tin tức. Lớn lên, Martine là một cô gái nghèo khổ hiếu thuận, ngoan ngoãn, chịu khó giúp mẹ làm việc vất vả khuân vác tại nhà máy Xi-măng Hà Tiên.
Nào ngờ, khi biết tin ấy, cậu ruột của cô gái Nguyễn Thị Martine đã đến toà soạn nhật báo Trắng Đen trình bày tự sự, kèm y chứng thư đầy đủ chính xác giấy tờ hộ tịch. Chính phủ và đồng bào khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, “ồn lên” bàn tán sôi nổi về hai cô công chúa lọ lem. Không biết ai thiệt, ai giả? Tin nầy đến tai vua Cộng Hoà Trung Phi. Hoàng Đế Bokassa lại gởi văn thư khác, xin Tổng-thống Thiệu cho “cả hai cô công chúa” đi tuốt về thủ đô Bangui, thuộc Cộng Hoà Trung Phi. Phái đoàn đại diện cao cấp Cộng hòa Trung Phi lại sang Việt Nam & còn có: ông bà chủ nhiệm báo Trắng Đen, bà Nguyễn Thị Huệ, cô Martine, một tùy viên sứ quán Pháp đại diện Bộ Ngoại giao Pháp, và thông dịch viên. Họ đi Trung Phi.
Tổng thống nhận ra người tình cũ, và con gái “công chúa Martine”, nên càng vui mừng khôn xiết, ông ra lệnh tiếp đãi phái đoàn Việt Nam như thượng khách. Ông không ngần ngại nhận "cô Baxi giả công chúa" kia làm con gái nuôi. Bà Huệ trở về Việt Nam. Khi đó bà Huệ đã có chồng vẫn được lãnh trợ cấp mỗi tháng 200,000$ tại Pháp Á ngân hàng Sài Gòn do Tổng thống Bokassa cấp dưỡng. Thời điểm đó số tiền nầy rất lớn. Thật là chuyện hi hữu ngàn năm có một không hai. Hai nàng lọ lem sau những năm tháng trong đêm tối hãi hùng đói khổ ở quê nhà, hôm nay đã tót lên đỉnh cao sang, phú quý trong ngôi vị công chúa. Thật là đời lên hương ngát, “xung xướng” tê người. Chuyện duy nhất có thật, bàng hoàng thiệt.
***
Từ sự cương quyết của Hành, và do Thủy-quân Lục-chiến Hoa Kỳ, & Hạm-đội thứ Bảy can thiệp, lúc đó họ mới cho Hành biết: sẽ đưa anh trở về Việt Nam. Cuộc đi kéo dài hơn cả tháng, vì cứ bay “nhảy cóc” từ chỗ nầy đến nơi khác, như là mình đang bồng bềnh dạo chơi trên không trung du hí vậy. Thoạt đầu, họ mang anh ra phi trường khi Hành còn nằm trên cáng thương. Họ xách theo bốn va ly to tướng đầy nhóc quần áo, đồ đạc linh tinh & hai thùng carton to bự sư đựng quà dành riêng cho cô bồ, hai thùng nữa dành cho gia đình, xách tay samsonite đầy đủ thuốc men, do bác sĩ ghi toa chỉ định cách uống thuốc. Một mình Hành là “thượng khách chễm chệ” trên chiếc phi cơ rộng lớn. Trong buồng lái chỉ có: Phi hành đoàn. Tiếp viên hàng-không lo về việc ẩm thực. Bốn anh lính Không-quân thay nhau khiêng cáng, bưng đồ dùng của Hành. Hai bác sĩ quân-y. Một y-tá. & Lữ Phi Hành. Hết. Ngoài ra không có ai nữa.
Bay đến Colorado, nằm lại ba đêm. Rồi bay qua San Francisco, Hành nằm tại bệnh viện hai tuần. Hành ăn no rồi ngủ kỹ. Tự nhiên có một ngày thanh bình và trời quang mây tạnh, Hành được đám phóng viên, truyền thông ở Mỹ đến tận nơi dàn dựng quay phim, họ đưa anh "oai dũng" hí hửng leo lên... ti vi nữa. Tình cờ mà tức cười thật. Họ bảo:
- Anh cứ “giả đò, làm bộ làm tịch” như mình chính xác là thương phế binh gốc người Hoa sống ở Mỹ nhe. Anh cầm phone vui vẻ gọi về nhà, nói chuyện với thân nhân gia đình anh, nhe.
Thiệt tình! Xạo hết chỗ nói. Nằm tại San Francisco hai tuần, thì chiếc phi cơ C – 130 rất to, chở Hành đi. Lại vẫn chỉ có bấy nhiêu người cũ, tất cả lên phi cơ bay một lèo qua Clark Field (Phi Luật Tân). Họ lại đưa anh vô nằm trong bệnh viện đợi thêm hai tuần nữa. Ôi là ngao ngán và ớn bệnh viện lên tới cần cổ! Chỉ mong chờ bớt chiến sự ở miền Nam Việt Nam, thì anh mới được trở về, sẽ tính sau. Ngày đêm mòn mỏi chờ đợi... rồi đợi chờ, trông ngóng đợi chờ hoài mãi. Hành cảm thấy quá căng thẳng, lo âu, mệt mỏi, hết sức oãi và lâu quá chừng chừng!
Thế rồi buổi sáng Thứ Bảy khoảng đầu tháng Tư, năm Mậu Thân 1968, chiếc C-130 hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhứt. Mặc dù khi phi cơ còn lăn bánh chạy chầm chậm trên phi đạo, họ đã hạ cái bửng phía sau đuôi phi cơ xuống. Ngay lập tức có một chiếc xe cứu thương, một xe cứu hoả, chạy cặp sát hai bên hông chiếc phi cơ C -130 hai xe chạy rề rề theo. Hai anh lính phi công Mỹ, (ở bên xe cứu thương), liền nhanh nhẹn nhảy phóc xuống dưới đường phi đạo. Chạy bộ rất nhanh, họ bưng cái cáng thương trống không ở trên phi cơ xuống, họ chạy qua bên chiếc C-130 để "trao trả" cái cáng nầy cho Việt Nam. Đồng thời trên phi cơ, hai anh lính Mỹ lanh lẹ khiêng sẵn cáng “áp tải thương binh Lữ Phi Hành” tụt nhanh xuống đất. Họ giao cáng thương cho người đứng dưới đất ở Việt Nam nhận. Lúc ấy, từ trên cửa phi cơ họ thảy bốn chiếc va ly to tướng, mấy thùng carton lớn, cùng tất cả đồ dùng, chiếc xách tay đựng thuốc men của Hành qua xe cứu thương ở Việt Nam, khi phi cơ đang còn chạy chầm chậm, rề rề.
Phi cơ C-130 lo dzọt vút bay đi thật lẹ. Vì lúc nầy tất cả xe cứu thương, phi cơ, ai ai cũng đinh ninh mình đang ở trong tầm ngắm của hoả tiễn 122 hay 130 bên “phe kia”, nằm đâu đó ngoài vòng phi đạo, (mà lúc còn ở ngoại quốc mỗi ngày Hành nhìn trên ti vi các nơi, đều chiếu những đoạn thời sự nóng bỏng ở Tết Mậu Thân). Thế nên phi hành đoàn đã gồnh mình tới miền chiến tranh đang ì ầm, phải cẩn thận cảnh giác tối đa, họ dám liều mình mà bay trên không phận miền Nam, thì đã làm một nghĩa cử cao đẹp, rất can đảm phi thường và anh hùng rồi. Hành hết lòng cảm ơn chính phủ Hoa Kỳ. Phi cơ tăng tốc độ, chạy một đoạn ngắn thì cất cánh bay bổng. Hai chiếc xe cứu hoả, cứu thương lo rẽ vào đường Taxiway. Họ đưa Hành qua bên bệnh viện dã chiến số 3. (Third Field Hospital). Vài ông Mỹ ngồi bên cạnh nói:
- Are you crazy?
- Coming back to Việt Nam?
Phi Hành hoảng hốt la lên:
- Ô! Các anh lầm rồi. Tôi là người của bên Không-quân Việt Nam. Không phải bên Không-quân Hoa Kỳ.
Họ vội quay đầu xe, đem Hành bàn giao qua bên Không-quân Việt Nam. Úi Trời! May quá! nếu mà ông Mỹ kia không lên tiếng nói ra, chắc là anh sẽ “bị” quay trở về Mỹ mất rồi! Vô bệnh viện Cộng Hoà gặp bác sĩ Thành khám anh rất kỹ. Ông định cho Hành xuống nằm ở bệnh xá Không-quân, nhưng Hành năn nỉ bác sĩ:
- Em du-học suốt ba mươi lăm tháng rồi. Nhớ nhà lắm. Em còn chống nạn đi đứng tốt. Xin bác sĩ cho phép em về thăm ba má. Nhà em ở gần đây. Sáng thứ Hai, em xin trở vô bệnh viện.
- ... OK.
Thế là bác sĩ kêu xe cứu thương cho chở Hành về, xe đậu ngay trước cửa nhà. Hành mặc bộ quần áo ở bệnh viện vui vẻ háo hức hân hoan chậm bước dưới phố chiều Sài Gòn rực nắng tươi. Mọi người đi lui đi tới tấp nập, cảnh vật nhộn nhịp huyên náo lạ! Lòng anh cảm thấy vui và hồi hộp không thể tả! Hành bảo hai binh sĩ Việt Nam khiêng, xách, vát bốn va ly, mấy thùng quà bước vô nhà trước Hành. Ba của anh đang ngồi đọc báo trên sofa, ông đứng lên, dáo dác nhìn hai anh binh sĩ lạ, rồi ông nghiêng mình nhìn kỹ. Một lát sau ông liền chạy đến, ôm chầm lấy con trai lấp ló sau lưng mấy người lính, ông kêu lên rất to:
- Trời ơi! Thằng Hành đã về rồi nè. Má sắp nhỏ ơi...
Ba khóc. Hành khóc... má chạy ra, mừng rỡ níu lấy cổ con, hôn chùn chụt và khóc rống lên hu hu hu.... Các chị, em, ở trên lầu ba, lầu bốn, vụt chạy xuống, họ xôn xao mừng rỡ mà khóc oà. Cả nhà đều choáng váng và bất ngờ tột độ. Vì anh không hề báo trước về chuyện anh sẽ trở về Việt Nam. Hành muốn dành cho gia đình mình một sự ngạc nhiên thú vị mừng vui tuyệt vời. Thật là một cuộc đoàn tụ bất ngờ, kinh hoảng mà đầy nước mắt hân hoan vui mừng trào lên bờ mi “kịch tính”. Lạ lùng như vậy đó. Quả đất tròn vo, tưởng là to lớn lắm! Ấy thế mà, khi đi xa nửa quả địa cầu, nay quay trở về quê hương, hoá ra Hành vẫn thấy nhỏ ha.
Ngay lập tức, ba anh gọi phone cho “em Trân Thư iêu rấu” biết tin "ngày trở về (của anh thương binh)... anh bước lê trên quãng đưởng đê, đến bên luỹ tre, nắng vàng hoe...". Hành nóng lòng nóng ruột nôn nao đi ra, đi vào, chờ đợi cuộc trùng phùng thật tình cờ. Hành đang nằm lim đim trên sofa, thì cô ta đến. Trông Trân Thư chẳng vui vẻ, hân hoan mừng rỡ, hay lo âu cuống quít một mảy may gì! Nét ưu tư, lỡ làng dường như hằn rõ lên gương mặt Thư đã héo hon rồi. Thế là, Hành và cô ta lúng túng, e ngại hững hờ ngồi trên sofa, nói những câu chuyện hết sức vô duyên, nhạt nhẽo hơn nước ốc, gượng ép, ngượng ngùng và xa lạ, chả ra môn ra khoai. Cô ta luôn cúi đầu xuống, hay sượng sùng né tránh cái nhìn lặng lẽ của anh. Sau khi Thư cho Hành biết: cô ta đã đổi nhà, dọn lên đường Phan Thanh Giản, cô ta vội vội vàng vàng đứng dậy, cáo từ.
Cuộc gặp gỡ nầy chưa đầy mươi phút. Hành hẹn Thư hôm sau sẽ lên đón cô ta đi ăn sáng. Cô ta ấp úng, ngập ngừng, lưỡng lự, do dự ậm ự... nhẹ gật đầu. Bây giờ mặt đối mặt, diện kiến trực tiếp, anh kiểm chứng lại điều nầy: Thái độ ngượng ngùng của Thư trả lời anh rất chính xác, nên anh chuẩn bị tinh thần từ cái nhìn xa lạ, hững hờ dè dặt đầu tiên, chỉ sau hơn hai năm xa cách biền biệt, nay mới gặp lại. Không có gì khó hiểu đâu. Xa mặt cách lòng! dĩ nhiên có nhiều thay đổi khi con người không có sự trung kiên, không có tình yêu chân thật, không chung thuỷ, thì tình ấy như một món hàng, chỉ là sự chọn lựa trên địa vị, danh vọng và tiền tài, tình cảm dễ dàng thay đổi trong chớp nhoáng, bạc bẽo theo.
Hành đã biết ngay từ dạo ở Mỹ, nhưng anh còn "bán tín bán nghi", khi Thư nghe hung tin anh báo bị tai nạn phi cơ. Lẽ ra, như bao người yêu chân tình, hay những vị hôn thê thủy chung khác, họ sẽ tỏ ra cuống quít âu sầu, lo lắng, ngày ngày thư từ, hoặc gởi điện tín tấp nập hỏi thăm người yêu rối rít. Đằng nầy... lúc Hành vừa qua Mỹ trước khi anh bị tai nạn, mỗi tuần Thư viết cho anh ít nhất vài ba bốn lá thư dài. Nhưng sau khi biết “anh lâm nạn”, kể từ đó đến nay hơn mươi bốn tháng, thì cô ta đã tỏ ra lạnh nhạt, lâu thật lâu cô ta mới "nhỏ giọt" có vài hàng chữ “cầm hơi” rồi... im bặt. Ở Mỹ anh luôn suy nghĩ: chẳng lẽ Thư bây giờ sinh tệ như: “sông sâu có thể bắc cầu. Lòng người thâm hiểm, biết đâu mà dò”! Thì cũng phải... Hành bây chừ chẳng khác nào: "Làm trai cho đáng sức trai. Khom lưng chống gối gánh hai “hạt vừng”. Khổ nỗi người ta làm trai còn chống gối vì hai "hạt vừng", còn tôi đây chỉ còn "một hột" cũng chả xong...
Buổi sáng, Hành lái chiếc xe bedford đi lên điểm hẹn chờ Thư, anh chỉ đậu xe ở xa xa. Vì Thư nói:
- Không muốn cho người nhà biết chuyện hẹn hò nầy.
Lúc bấy giờ chân phải của anh đã hoàn toàn cưa cắt bỏ băng bột, nhưng còn chống nạn đi khập khễnh (cho tới bây giờ. Tuy thế, anh không đi nạng, nếu ai không nhìn kỹ, thì ít ai lưu ý điều nầy). Loại nạng đặc biệt do bên bệnh viện Hoa Kỳ chế tạo riêng. Vì, tay phải của Hành vẫn còn bó bột đặt ở độ cong 90/o. Nên chiếc nạng bình thường được lắp thêm cái tay, để anh có thể tựa cả cùi chỏ lên, mà làm điểm tựa, cho anh đi vững vàng chắc chắn hơn nhờ có thêm cái nạng.
Thư lấm lét nhìn anh, vẻ mặt ngượng ngùng, e ngại, bối rối. Thấy thế, tự nhiên Hành cũng cảm thấy xốn xang lúng túng ngượng ngùng không kém. May là Hành lo xa, đã mặc bộ đồ bay màu xám đính huy hiệu con rồng thè lưỡi trước ngực áo, mà cô ta còn tỏ thái độ lấm lét ngượng ngùng ái ngại rụt rè như thế. Nếu chẳng may anh chỉ là tên lính quèn, nghèo xơ nghèo xát; thì ắt hẳn... (hồi xưa & bây giờ) Thư chả bao giờ ngó nửa con mắt, hay tự động làm quen Hành trước, giống như hồi Hành ở Đà Lạt đâu nhỉ!
Hai người đến tiệm ăn Sing Sing ở đường Phan đỉnh Phùng. Khi anh và Thư bước vào tiệm, thì hầu như tất cả thực khách thân ái và đầy cảm tình dồn mắt nhìn về phía "tụi tôi". Một thiếu úy phi công lái chiếc xe hơi bedford diễu qua phố, đậu trước nhà hàng rồi chống nạng đi với người đẹp! Khiến ai ai cũng ưa thích ái mộ về sự phô trương, lác mắt vì thời thế tạo anh hùng thế thời phải thế. Chắc ai ai cũng nghĩ anh bị tai nạn xe cộ. Vì, nếu là phi công thì... ít khi có ai què quặt, hoặc lành lặn trở về nhà sau một phi vụ không chiến. Hôm qua, lần đầu tiên mới nghe bản nhạc “Kỷ vật cho em” của Phạm Duy, trong đó Hành nhớ mang máng hình như câu nầy:... "Anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, bên người yêu tật nguyền chai đá" - (hay là... “ngập ngừng ngượng ngùng cay đắng... phải không em Thư ui!).
Hành đăm chiêu mà mỉm cười, vụng về vướng vít tí chút khi tay ôm cái nạng gỗ cho nó dựa vô góc tường, rồi lết đít ngồi xuống ghế, kéo rề rề theo cái chân què muốn lặt lià lặt lọi. Thư thản nhiên gần như dửng dưng nhìn, cô tự động ngồi xuống đối diện với anh, đầu cô ta luôn cúi gầm xuống mặt bàn, lâu lâu cô ta liếc nhìn trộm anh, cái nhìn dường như có ý đồ bất chính nào đó, gian gian mà lúc nầy Hành không thể hiểu nỗi. Thư chẳng thèm nhìn thẳng vào mặt anh, không hề hỏi thăm thương tích của “anh yêu” ra sao rồi? Hoặc giả nếu cô ta có "vờ như" ân cần vui vẻ, nói câu an ủi vỗ về nào (khác hẳn như hồi xưa cô ưa liếng thoắng). Thì anh sẽ tin ngay, không bao giờ nghĩ xấu về những "hành vi lố bịch" lúc bấy giờ của "cô em Bắc Kỳ nhớn nhớn"... dành cho anh đây chẳng qua là một "tai nạn nghề nghiệp". Hành ngao ngán lẫn thất vọng, kín đáo thở dài, anh cũng chả cần hỏi thăm ở quê nhà Thư "thay lông đổi cánh" tới đâu!?
Cứ thế, cả hai người cúi gầm đầu im lặng ăn ăn, húp húp và uống uống... mệt nghỉ. Hành nghẹn đắng cổ họng khô lông lốc. Ăn qua loa cho xong, anh lặng lẽ đứng dậy khập khễnh từng bước đi tính tiền. Hai người lụp chụp lật đật đi ra khỏi tiệm. Ngồi trong xe, sự riêng tư bây chừ lại có vẻ lố bịch vô duyên nên cả hai người càng khó chịu hơn. Chả bù cho ngày xưa trước khi Hành đi Mỹ, thì một tay anh cầm lái, còn một tay Hành vòng qua kẹp cổ nàng bóp bóp, nắn nắn chỗ nầy chỗ nọ... Còn Thư thì tay bận rộn ôm ôm, rờ mó cổ, bấu víu tai tóc và rờ bụng nắn ngực của anh, dù nhột ơi là nhột nhưng Hành rất khoái. Thỉnh thoảng cô chồm qua hôn anh chùn chụt, miệng nói tía lia: "em yêu anh, em nhớ anh nhiều".
Nhưng... gặp nhau lần nầy thiệt quá tệ và xa lạ, bẽ bàng đến độ xót xa, dường như Hành và Thư chưa hề có một thời gian thân mật đậm đà yêu thương nồng nhiệt, khắng khít hơn vợ chồng trước suốt thời gian anh chuẩn bị đi Mỹ, hay sao ta?! Bi giờ coi Thư có thái độ quá dị hợm, xa lắc xa lơ, bẽ bàng, trơ trẽn đến độ thê thảm. Trước khi thả Thư xuống lề đường gần nhà cô ta, vì Thư muốn vậy. Hành cố gặn hỏi:
- Bao giờ... anh mới có thể gặp lại em?
Hoàn toàn im lặng, không có câu trả lời, không một cái lắc đầu hay gật đầu. Càng tệ hại hơn không có cái liếc nhìn, mà cô ta chỉ cúi gầm xuống đất.
- Cho anh xin số phone nha.
Lắc đầu quầy quậy. Im lặng. Không cho. Âm thầm lặng lẽ chia tay nhau ra về. Thật hết rồi: “Yêu nhau sinh tử cùng liều. Thương nhau lội suối qua đèo có nhau” mà! Ở đây Phi Hành và Trân Thư: Chẳng thà không gặp thì thôi. Gặp nhau rồi, cùng phơi bày những điều quá trắng trợn, càng buồn đau tê tái và tủi hờn thê thảm hơn. Thế thì... quá rõ ràng rồi. Còn nghi ngờ gì nữa!
Sông sâu có thể bắc cầu.
Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò.
Sông sâu còn có kẻ dò.
Lòng người nham hiểm ai đo cho tường. (*)
Ngay lúc đó, Hành quẹo xe lái một mạch vào bệnh xá Không-quân. Xem xét tập hồ sơ bệnh án dày cộm của anh. Sau khi khám xong, ông Thiếu-tá bác sĩ cho biết:
- Mọi việc đều ổn. Cứ ở lại đây mấy tuần. Tôi theo dõi anh. Sẽ quyết định sau.
- Xin bác sĩ vui lòng cho em về nghỉ. Nhà em ở rất gần đây.
- Anh đến đây bằng cái gì?
- Em tự lái xe hơi đến.
Ông trố mắt, kinh ngạc nói:
- Ôi! Chết rồi. Làm sao tay chân anh như vậy, mà tự lái xe đến? Không được đâu. Để tôi cho xe đưa anh về. Từ ngày mai sẽ có xe cứu thương đến, rước anh vô đây khám, rồi có tài xế đưa anh về.
Thiếu-tá bác sĩ quá chu đáo ân cần chăm sóc bệnh nhân, Hành đành phải tuân lệnh thôi. Nhưng, mỗi ngày khi khám bệnh xong, chú tài xế Trung-sĩ vừa đưa anh ra khỏi cổng Phi Long, Hành liền bảo chú dừng lại, anh cho chú ta ít tiền, và nói:
- Tôi tự lái xe được. Ngày nào cũng vậy, chú cứ đậu xe chờ tôi ở chỗ nầy. Tôi gởi xe nơi người bạn. Đơn vị anh ấy làm ở phòng an ninh phi trường. Rồi chú chỉ chở tôi vô bệnh xá thôi hen. OK?
Dĩ nhiên là chú ta rất vui mừng. Vì chẳng mất công đưa đón, mà mỗi ngày Hành còn tặng chú vài trăm đồng, để chú uống cà phê.
* * *
Dẫu sao thì trong lòng Hành cũng ấm ức bứt rứt bực tức không vui, ba bốn tuần nay anh ưa lái xe lảng vảng đến gần nhà Thư. Có mấy lần Hành lái xe đến đậu thẳng ở bên sát mé cổng. Khi bấm chuông, thì Hành thấy Thư hăng hái vui vẻ bước ra thềm. Rồi... chợt Thư ngước nhìn thấy Hành, nên cô ta vội vã thụt lùi, vụt lui nhanh vô phía phòng khách. Chờ một lúc khá lâu, Hành bấm lại mấy lần chuông. Người nhà ra cổng, nhìn anh ú ớ:
- Cô Thư... đi vắng rồi.
Lần sau. Lần sau. Lần sau nữa... vẫn cứ thế! Dĩ nhiên Hành thất vọng và thật buồn. Nhưng thôi, anh đã hiểu. Khi con người đã tàn nhẫn quay lưng đi, thì nếu mình cố giằng co níu kéo, lại càng vô ích mà thêm mang nhục. Dù rằng anh rất muốn mọi chuyện yêu đương giữa Thư và Hành: nên giải thích rõ ràng, minh bạch, hầu: “cư xử với nhau, không gì hay bằng nghĩa, không có gì quý bằng nhân”. Sau nầy, nếu hai người có tình cờ hay hữu ý gặp lại nhau, cũng không thể bẽ mặt bôi tro trét trấu, dị hợm nói xấu nhau chả ra gì. Thật là anh đã rất lầm khi yêu Trân Thư. Một mối tình không xứng đáng với lòng tin yêu nồng nhiệt thân thiết của mình.
Một ngày kia, Thư phone đến thì biết Hành đi vắng nhà, Cô ta khệ nệ bưng đem trả lại anh tất cả thư từ, hình ảnh, quà bánh... nhiều thật nhiều mà anh đã gởi tặng Thư từ lúc còn ở Mỹ. Ba má anh nói Thư ráng ở lại chút, chờ Hành về, hai người ngồi lại nói chuyện phải trái sau. Cô ta lắc đầu quầy quậy. Cộc lốc nói:
- Không. Cháu bận.
Người ơi gặp gỡ làm chi
Để rồi hai đứa chia ly hai đường. (*)
Sau cú quay giò lái chia tay “tuyệt đẹp của cô ta”, Hành sống những tháng ngày trôi qua rất vô vị, chán chường, thất vọng và hụt hẫng biết bao! Hành trôi lênh đênh như con thuyền không bến đậu. Trước ngày đám cưới, Thư nhờ bạn thân là Hiền gọi phone tới nhà gặp anh, lấy cớ “bắn tin”:
- Thư lấy chồng, để “trừ cấn món nợ” cờ bạc khổng lồ, vì bà dì của Thư mắc nợ ông chồng của Thư.
Bỗng dưng anh sảng khoái cười xoà kha kha kha. Úi trời đất qủi thần thiên địa ơi! Gạt đứa con nít có lẽ nó còn kinh ngạc nữa là. Nghe giống y hệt chuyện “nàng Kiều lâm nạn thời nay”! Nợ của bà dì, thì mắc mớ chi mà cháu gái họ xa xôi (nếu dùng củ cà nông bắn đi, chưa chắc đã trúng tới họ với hàng) mà cháu hờ… ấy phải nai lưng ong nuột nà ra, để gánh vác, đỡ đần cho bà dì có một đàn con cháu lít chít (chứ không phải do nợ của cha mẹ mình, hoặc cô ta... mắc phải ông chồng cao cấp, danh giá giàu sang, nên trừ cấn cho dứt điểm "món nợ hồi môn" ấy!? đành “hy sanh” cuộc đời son trẻ, tương lai rạng rỡ, hạnh phúc tình yêu)?! Ô là là... Sao nói dối ngọt xớt thế, mà không biết ngượng mồm loa mép dãi? hả trời!!!
Ngày Thư làm đám cưới, là đúng vào ngày đầu năm dương lịch, ngày ấy không xa ngày Hành đến bên cổng nhà nhìn Trân Thư núp lén sau rèm không muốn gặp mình bao lâu, Hành đã lái xe đến đậu ở bên kia bưu điện Sài Gòn sớm hơn một giờ. Anh ngắm nhìn xe hoa chở cô dâu chú rể trờ tới. Hành để ý quan sát tỉ mỹ thật kỹ: Rõ ràng Trân Thư không hề có cử chỉ ủ dột, miễn cưỡng, hay lo buồn, bâng khuâng thương tiếc người tình xưa, lẫn tiếc thương thân phận mình khi phải “ hy sanh bán mình” chuộc nợ cho "bà dì khả ố" nào cả. Ngược lại Thư đang hân hoan, hí hửng, khoan khoái, ung dung vui vẻ lí lắc rìu rịt cặp tay chồng. Nói đúng ra, cô ta chẳng hề có chút nào "bị" gượng ép, bị bắt buộc lấy chồng; để trả nợ đậy cho bà dì. Trái lại, coi cô ta rất lả lơi, hí hửng tình tứ nép sát vô ngực chồng, hai anh chị một già một trẻ dung dăng dung dẽ tiến vô vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn. Không hiểu ở trong nhà thờ Trân Thư có thở than cùng Chúa:
Người đâu gặp gỡ làm chi.
Để cho khổ thế còn gì tuổi xuân?
Chúa ơi! Con khổ vô ngần.
Chúa mà không giúp là thân con tàn.
Con đang thiếu nợ trăm ngàn.
Nhìn đồ “chồng” sắm hai hàng lệ rơi.
Con quỳ lạy Chúa trên trời.
Giúp cho con trốn được người con yêu. (*)
Hành ngồi trong xe hơi, lặng câm thừ người ra suy nghĩ miên man, buồn bã mất mươi phút. Khi nhìn thấy sự thật rõ mồn một và hiểu ra… anh vui vui chút ít, nên kết thúc xong một chuyện tình mà Hành cứ lầm tưởng là “đẹp như giấc mơ hoa dâm bụt”. Dẫu sao thì... khi xưa, đã rất nhiều lần anh giăng rộng vòng tay ra ôm ấp, ghì siết Trân Thư đắm đuối si dại tình tự. Hành cùng đi chung với cô nàng trên một đoạn đường đời luyến ái dài, khá dài khoảng trên một năm rưỡi cùng nhau yêu cuồng... cũng đủ để thấm đượm nỗi vui mừng ái ân cuống quít, hay hờn ghen nho nhỏ về chuyện xa xưa. Hành đã cười trên nỗi đắng cay bẽ bàng, vô duyên tệ lậu của đời mình. Ha Ha Ha!!! Anh mạnh dạn lái xe đi về nhà, cảm thấy lòng nhẹ nhõm, hết băn khoăn, sầu muộn. Quả thật đúng như thế, chẳng lẽ anh “rên”:
Người đi một nửa hồn tôi mất...
Một nửa hồn kia... đứng chưởi thề! (*)
Mãi về sau nầy khi an cư lạc nghiệp ở Mỹ, ly dị ông chồng già khú đế nhưng giàu sang đầy danh vọng xong. Năm 2005, bà ta gọi phone về nhà anh, tò te ỏn ẻn nỉ non tha thiết nói:
- Lúc em xa anh, mà đi lấy chồng đó; không ai hiểu được em đâu.
- Thì vâng! Anh hiểu! Hô hô hô!!!
*
(*) sưu tầm đó đây
***
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
03-06-2018, 02:38 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 24

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1520303754-a.linh 19 TTHL - KQ NhaTrang.jpg http://hoiquanphidung.com/userupload/img/KhongQuanVietNam_FullVersion (1)_1416186822.mp3
Có Anh, có Tui... Chớ còn Ai Vô Đây!
Tình Hoài Hương
***

Phi Hành vô cùng mệt mỏi vì cứ "nằm lì" ở bệnh viện Cộng Hoà suốt tháng nầy qua tháng khác, cho đến khi vài khóa sinh đàn em qua Mỹ hoàn tất việc học hành xong & trở về Việt Nam thỉnh thoảng đến thăm, họ kể cho Hành nghe biết bao chuyện vui ở quân trường Mẹ cũ. Ở đó, đã có Anh, có Tui... chớ còn Ai vô đây. Bỗng dưng... khiến Hành như bừng tỉnh cơn mê, gợi nhớ biết bao điều về thuở vàng son vang bóng. Nhớ ơi là nhớ! Đêm đêm anh nằm bắt chân chữ ngũ (một chân tàn tật và vắt cánh tay què lên trán) anh không biết làm gì hơn, là thường loay hoay nhớ, rồi thả trí óc mơ mộng, bâng khuâng suy nghĩ, muộn phiền hồi tưởng về thời gian học ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang; & khi anh qua bên Mỹ học bay, là tuyệt vời vui vẻ lắm:
Sau nầy, Hành được anh em đã thụ huấn ở quân trường cho biết: họ bổ túc thêm những sự kiện cần thiết khác, mà đôi khi Hành vô tình đã quên, như: Về việc tuyển mộ thanh niên vào Không Quân chia ra nhiều giai đoạn: Giai đoạn trước năm 1969 (Việt Nam hoá chiến tranh) ứng viên phi hành phải hội đủ điều kiện:
- Ít nhất học lực Tú Tài I.
- Từ mười tám tuổi (18) trở lên không cần sự ưng thuận của người giám hộ.
- Đầy đủ sức khoẻ: cao trên 1m68, nặng 50 kí lô, "pignet" tương đối, tai, mũi, họng, răng, tất cả đều phải tốt. Nhất là đôi mắt phải 20/20. Ứng viên được bác sĩ khám vô cùng kỹ lưỡng.
Khi tuyển vào Không-Quân, có thể nói là gắt gao, bạn sẽ phải ký giấy cam kết phục vụ trong quân đội, hưởng quy chế hiện dịch, mình không thể giải ngũ trước hai mươi lăm năm (25t). Ngoại trừ vi phạm quân kỷ, hay bị bệnh tật đau ốm triền miên. Khoá sinh sẽ thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Tại đây, tên của khoá được đặt tùy theo năm (thí dụ: nhập ngũ tháng 1/1963, thì tên của khoá học ấy sẽ gọi là: Khoá 63 A, những khoá sau đó lấy tên kế tiếp: 63 B - 63 C ... Khoá của bạn Hành có số ứng viên khá đông, nhưng chỉ tuyển được bảy mươi (70) người. Sau đó có một anh ghi trong khai sanh có tên Tây là: Robert Trương Công Thành, nên anh bị loại vào giờ phút chót, chỉ vì cái tên Tây, tên Pháp… (hỡi Robert là anh Rô Bẹc ơi!).
* Trường hợp điển hình của anh Trần Lương thuộc dân Rochefort, mà mãi đến sau nầy anh mới được điều chỉnh vô ở khóa 65. Có thể anh Lương hồi đó ham vui, thèm của lạ, (hi hi hi…) nên anh bị mấy bà đầm xinh xinh đẹp đẹp bu bám theo “dzụ khị” mời anh đi Tây học nghề, tiện thể anh có dịp tha hồ “chiêm ngắm” dung nhan những kiều nữ mặt hoa da phấn mắt xanh, tóc vàng. Anh là dân Ốc-xe, đi với một đám dân Rốt-sơ-pho, đầu năm 1955 anh Lương “đậu” với chức Binh Nhi.̀ Lần lượt, bạn bè anh xin đi học bay, học làm bác sĩ, kỹ sư, thuyền trưởng, họ làm quan gần hết. Riêng anh Lương bị cầm chân… vì nhu cầu công vụ, mãi đến đầu năm 1965 anh Lương muộn màng được ưu ái “thưởng” cho chính mình theo học bay khoá 65B.
Ra Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, anh Lương nếm sơ qua đủ “mấy món ăn chơi” của tiến trình đội mũ có giây bạc. Tóm lược sơ qua cuộc đời binh nghiệp hai mươi năm- ba tháng- hai mươi ba ngày của anh Lương thì thế nầy: Anh không có bằng cấp, không chứng chỉ quân sự, hay chuyên nghiệp nào từ bậc thấp nhứt đến cao nhứt trong Không Quân. Vì: do bà xã bả tài lanh gởi mấy thứ giấy “thông hành hợp lệ” đó qua thế giới bên kia cho Diêm Vương nghiên cứu, thưởng thức tài năng cuả người dân ở miệt trên trần đời hết rồi. Chắc mai nầy qua bển, anh Lương sẽ có đầy đủ hồ sơ quân vụ ngon lành. Ha?
Nói về việc bay bổng thì Hành được anh Lương thú vị kể cho nghe:
- Lương không có hân hạnh được Không Quân cho đi học bay, vì anh bị cận thị. Nhưng trước khi đi Không Quân, thuở thanh bình Lương cũng đã từng leo… lai rai trên mấy chiếc Piper Cub rùi. Dạo đó dù sao anh Lương cũng lớn tuổi hơn anh em cùng khóa với bạn & tôi, nên chắc là anh không bị "dần" nhiều đâu nhỉ! Cái “Lễ Độ” là... "dạy một xíu" cho đàn em, chứ không phải là lễ độ với người lớn tuổi, hay thâm niên quân vụ hơn mình đâu! Cũng tựa như trong phái võ ấy mà, kẻ nào vô học sau, thì phải gọi người trẻ nhập môn sớm nhứt trước mình là: “đại sư huynh” vậy mà! Nếu anh bị "quần" nhiều, là do anh hổng... hên đó! Vì tôi (Thiệu...) nhớ anh Phước (Nùng là cận vệ của xếp) cũng ra đấy học điều chỉnh, mà ảnh đâu có bị ai phạt vạ gì ha! Anh ấy còn lái xe jeep chạy ven vòng đai... bắn chó nữa đó. Dù sao thì thời đó vui quá, anh Lương nhỉ. Ở đâu cũng có quý niên trưởng đàn anh, có bạn hữu, có anh, có tui… chớ còn ai vô đây”!
***
… Vừa xuống máy bay, mới bước vào ngưỡng cửa Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, ai ai cũng náo nức xôn xao, vui vẻ háo hức chờ đợi. Theo truyền thống của Trung-Tâm Huấn-luyện Không Quân Nha Trang, ngày vào quân trường là ngày quan trọng nhứt đối với sinh viên sĩ quan Không Quân. Gọi là "buổi chào mừng quân trường". Sau đó họ gỡ Alpha của anh ra, và huấn nhục mình lại theo truyền thống của binh chủng Không Quân. Tại quân trường Không-Quân Nha Trang, các sinh viên sĩ quan được huấn nhục theo truyền thống Không Quân, rất cá biệt. Hoàn toàn khác với quân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hay quân trường Võ Khoa Thủ Đức.
Trung-tâm của bộ chỉ huy sinh viên sĩ quan Không-Quân Nha Trang gồm có cấp Đại Đội, Trung Đội... để dìu dắt sinh viên sĩ quan đàn em. Đối với sinh viên sĩ quan đàn anh sẵn sàng "đón rước" khoá đàn em (ngoại trừ khoá đàn anh, mà trên đàn em một khoá, thì không được can dự).
Bỏ xuống bên lề những quân trang, ta được cán bộ tập hợp lại điểm danh xong, là bắt đầu chạy bộ về sân cờ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân (vì không có vũ đình trường như ở các quân trường khác), bạn bắt đầu chạy vòng quanh doanh trại. Dĩ nhiên các sinh viên sĩ quan chạy theo cán bộ hết lời doạ nạt, hò hét… Họ phải "rền vang hò hét” muốn bể cả Trung Tâm Huấn Luyện, là những "hung thần hét ra lửa" bất đắc dĩ mà. Cho đến khi nào đa số khoá sinh nằm gục, rơi rớt lả tả dọc đường, anh em nào còn chút sức khoẻ, thì dìu những anh em ngã gục kia về chỗ nghỉ ngơi giây lát. Và bạn lại tiếp tục bị hành hạ như thế, không kể ngày hay đêm.
Bắt đầu ngày hôm sau: Sáng. Trưa. Chiều. Tối, bạn đều phải “tập” hít đất, nhảy xổm... đến khi mọi người đều mệt lã, thì cán bộ cho tạm nghỉ mươi phút. Mục đích cuả Trung Tâm Huấn Luyện là muốn tân sinh viên sĩ quan có một cơ thể tráng kiện, một tinh thần vững chắc, sẵn sàng nhận lãnh mọi trách nhiệm do thượng cấp giao phó (dù quá vô lý). Trong lúc huấn luyện, tất nhiên có nhiều hình phạt, lời nói của cán bộ nghe rất chói tai, bất công... buộc tân khoá sinh thi hành không điều kiện. TTHL có mục đích rèn luyện con người khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần & những hình phạt sẽ hoàn toàn không làm thương tổn đến sinh viên sĩ quan. Phải nói là… ngược lại.
Điều quan trọng nữa là trước khi học bay, hồ sơ an ninh của mình chính xác rõ ràng minh bạch, và tuỳ theo tài khoá, các sinh viên sĩ quan được gởi đi học ở Mỹ: Về các loại máy bay cánh quạt, hay trực thăng, (hoặc theo học những lớp phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang). Sau khi qua giai đoạn căn bản quân sự, các sinh viên sĩ quan được học Anh-ngữ, chờ đợi du học, hay học bay Cessna tại Nha Trang. Hoặc giả suốt đời làm sinh viên sĩ quan "Đại Cồ Niên Trưởng" tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân.
Trong hai tháng huấn nhục, khoá sinh không được vào câu lạc bộ rong chơi trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Ngoại trừ những ngày cuối tuần, hay ngày lễ, khóa sinh mới được tiếp thân nhân ở trạm tiếp liên gần cổng quân trường.
- Ngày gắn Alpha là ngày rất quan trọng, tân sinh viên sĩ quan mặc đại lễ, quỳ gối dưới nền xi măng (không được phép kê bất cứ vật gì dưới gối à nha, nếu tự ý làm thì coi chừng a lê hấp... ra rìa), để sinh viên sĩ quan cán bộ đàn anh đến gắn Alpha trước sự hiện diện của Chỉ Huy Trưởng, toàn thể Bộ Chỉ Huy, các sĩ quan cán bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Từ đó tân sinh viên sĩ quan mới được phép xuất trại cuối tuần, họ vui vẻ ung dung đi ra phố, giống như các sinh viên sĩ quan đàn anh vậy. Dĩ nhiên, trước đó bạn được huấn thị những điều không được phép làm, như: đi xe đạp, xe gắn máy, xích lô. Quân phục chỉnh tề. Đi đứng dõng dạc. Không được vào những quán ăn bên lề đường. Tới những khu phố "cấm". Nhất là nắm tay người đẹp... dung dăng ở nơi công cộng. (PH)
***
Ngoại trừ những khoá đặc biệt vì đông quá, thiếu huấn luyện viên dạy về môn “Căn Bản Quân Sự”. Nên họ đã gởi quý anh đó đi học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, ngày 10/9/1967, để học giai đoạn I. Ấy là khoá đầu tiên của Không Quân gởi qua trường Bộ Binh Thủ Đức. Học xong giai đoạn 1, bên trường Bộ Binh Thủ Đức không cho họ quay trở lại trường Không Quân. Buộc lòng họ phải "trốn" về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân). Anh Phúc trở về TTHL KQ Nha Trang 21/1/1968, gọi là khoá 68 A. Cuối năm 1968 và giữa năm 1969, vì nhu cầu “bành trướng” Không Quân mong muốn ngành Không Quân được phát huy hơn, nên có việc tuyển chọn sĩ quan, hay sinh viên sĩ quan Không Quân từ các quân trường Thủ Đức, Đồng Đế hay Quang Trung. Nhiều Hạ-sĩ-quan Không Quân sau khi nhập ngũ, họ đã cố gắng học thêm, nên khi có bằng Tú Tài I, họ được tuyển vào sinh viên sĩ quan phi hành, hoặc không phi hành (nếu là “Không Phi Hành” thì điều kiện sức khoẻ dễ dàng hơn tí). Ngoại trừ những Hạ Sĩ Quan lão thành đi Không Quân từ thời xa xưa (trước năm 1956) thì có thể được theo học khoá Sĩ Quan đặc biệt, không phi hành (theo cấp số, nghề nghiệp như Navigator, không lưu...)
Quân số mỗi khoá tuỳ thuộc vào con số ứng viên, có đầy đủ sức khoẻ. Trung Tâm Giám Định Y khoa Không Quân lúc nào cũng bận rộn kinh khủng. Vì họ phải lo thêm cho các sĩ quan Không Quân phi hành cần khám định kỳ hàng năm nữa. Sáu tháng học đầu tiên, khoá của anh Phúc bị ăn hiếp mọi mặt... Về sau, may sao có Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tuyền (chức vụ thời bấy giờ) làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khoá Sinh, ông đã mạnh dạn thay đổi cục diện. Thiếu Tá Tuyền làm "cách mạng", là để sinh viên sĩ quan có quyền tự trị, tự điều hành và tránh những vụ (rất hiếm hoi, chỉ có ít người tham nhũng, ăn chận), họ quá hành hạ sinh viên sĩ quan (như từ lúc trước thời 1965). Vì vậy các khoá sinh viên sĩ quan Không Quân vào học sau nầy, có một cuộc sống trong quân trường tạm gọi "ung dung thoải mái” hơn qúy đàn anh lão thành của họ. (TVP)
* * *
Trở lại chuyện huấn luyện sinh viên sĩ quan: một hình phạt trong thời kỳ huấn nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, mà anh Lôi Thiên “thích nhất” là:
- “Xoãi Cánh trên bãi cát. Đếm sao trên trời”.
- Có bị phạt gì đâu! một niên trưởng thấy mình bị mấy cán bộ quần như con gà chết. Thế là ông kéo mình ra chỗ khác... xa xa... cho nằm xoãi hai tay hai chân trên cát, nhìn trời mà đếm sao. Sao trên trời đếm đếm bao giờ cho hết, có ai kiểm soát nào. Nên anh Lợi không thích sao được!!! Niên trưởng này thuộc khoá 68B chế ra cái màn phạt này. Mấy ông Niên Trưởng khoá 65 quá may mắn, những năm sau nầy họ phạt anh Liêm ít nhất cũng 100 cái (nhẩy xổm, hít đất...), còn nhiều trò mới lạ, có những tên rất kêu như:
- “Quan Công ngồi ghế đẩu”.
- “Phượng Hoàng rũ cánh”...
- “Móc giò lên tủ”.
- “Móc giò lên đà ngang trần nhà, miệng ngậm một lúc mười điếu thuốc đang cháy... (vì trong thời gian huấn nhục, không ai dám lén lút hút thuốc lá). Mấy ổng cán bộ nói:
- Không Quân là dân sang hào hoa phong nhã lả lướt nên không xài bạc lẻ (mặc dù trong túi họ không có một đồng xu. Ừ phải. Thời buổi nầy ai thèm xài đồng xu như ở thời Khang Hy chớ. Thành thử tối thiểu phải là 100). Ai làm được thì làm, nếu không làm nỗi, thì mình cứ nằm chình ình ra đó, mấy ổng phải chuyển qua hình phạt khác. Nghĩ lại mà ớn, nhưng để lưu luyến nhiều kỷ niệm vui vui ở quân trường... Nhắc lại chuyện xưa, anh Liêm cũng chỉ để nhớ những "kỷ niệm" khó quên thôi. Đâu cũng vậy, trong một tập thể cũng có "vài con sâu làm rầu nồi canh", dù họ hơi đi quá trớn, muốn nổi danh là "hung thần" tự biên, tự diễn… thế thôi. Ngày nay bạn & tôi gặp lại nhau, không ai hận thù, không hờn oán, đôi khi nhắc lại chuyện cũ, cười với nhau, coi như những kỷ niệm xa xưa. Thì đó, có tui chớ còn ai vô đây nà! (Liêm, & Lôi Thiên).
* Nghĩ đi, nghĩ lại chuyện đã xảy ra hơn bao nhiêu năm qua, nhiều lúc tôi thấy có một cái gì ngồ ngộ... tự ta tủm tỉm cười. Bạn LD chắc cũng có những giây phút ấy? Nếu ai không vào quân ngũ, thì không bao giờ có những cảm giác ấy! Vì vậy anh tkdf đã có bài thơ “Tự Trách”:
Tưởng như mọi chuyện ở ngoài đời.
Bước chân vào lính, mới hỡi ơi!
Ớt cay, mật ngọt, ông cứ nuốt.
Nhai vào, mới biết nóng bờ môi.
Tôi bảo ông nuốt, sao ông nhai.
Cãi lời cán bộ, phạt gấp hai.
Thế chờ, xuống đất, chân móc tủ.
Ngu quá, bảo nuốt, sao lại nhai?
* Anh Lôi Thiên nằm xoãi cánh đếm sao trên trời, sao trời thì đếm làm răng hết sao… Còn tui thì bị cán bộ bắt đứng đếm:
- Một ông lặt cỏ, hai ông lặt cỏ, ba ông lặt cỏ...
* Đếm cho đúng 100 ông mà không trật, thì cán bộ cho vào hàng. “LD tui” cứ phải đứng đếm đi đếm lại hoài, mà cứ trật tới trật lui... Tới bây giờ mỗi lần nhớ tới, bạn ấy và tôi đếm đi đếm lại… mà chưa bao giờ đếm được tới 100 ông…
* LD đứng một chỗ đếm 100 ông lặt cỏ, vẫn còn đỡ khổ, đàn em Luckyluke bị đứng theo kiễu con nhà võ: “Phượng Hoàng sa bãi c...”; là đứng hai tay giăng ra như cánh chim, một chân co lên, mà đếm: “Một ông lặt cỏ, hai ông cỏ lặt, ba ông...” Đếm tới khoảng 20, thì chân em run, mắt “em” hoa... Nếu đếm sai, hoặc lỡ nói lái chữ “cỏ lặt”, thì bị "thưởng" thêm 50 nhảy công lực. Riêng anh Lôi Thiên phè cánh nhạn đếm sao trời, thì quá đã: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông...” Chưa kể buổi trưa nắng, “em” bị chống tay thế chân chờ trên đường nhựa, ta bị phỏng cả hai tay (sau này rút kinh nghiệm, “em” thủ hai miếng gỗ, để tránh bị phỏng tay là hết đường viết lách, cầm đũa ăn, uống, v.v...).
Nguy hiểm nhất là nhìn mặt trời. Đúng là quái chiêu, như NT Nghịch Nhĩ đã viết, hư mắt như chơi! Còn ai bị cạo đầu, thì bị chơi ngay một đường ranh ở chính giữa đầu ta, như xa lộ không đèn, Ôi! “Tóc chẻ hai sầu chia đôi ngã”. Cứ mỗi lần nhắc tới vụ “huấn nhục”, là “em” vừa tức vừa buồn cười!!! Nhưng có lẽ nhờ vậy mà qúy anh Không quân đã học hỏi được nhiều điều hay, và nhẫn nhục đấy. Phải thế không; Thưa quý anh khả kính ơi!
***
Riêng về anh Phúc sau ngày mất nước 30/4:
Trở về chuyện của anh Phúc lúc nhỏ: lúc ấy tôi mới lên năm tuổi, tôi đã chứng kiến tám mươi ba (83) dân phu đào kinh dẫn thuỷ nhập điền, bị tàn sát bằng mã tấu. Họ nằm chết la liệt, ngổn ngang cạnh Quốc Lộ 4, gần nhà ông nội của tôi. Trước đó tôi thường nghe nội, ba tôi kể lại:
- Những hành động dã man của Vẹm, thì không thể nào tả hết. Trong số đó có người anh của nội bị bắt, đem đi chôn sống nơi nào. Sau 30/4 bọn ác ôn lại tái diễn thảm kịch kinh hoàng. Họ giết hại ông nội, còn tịch thu tài sản, đồ đạc, mấy ngàn giạ lúa ba tôi vừa mua vài tháng trước. Chẳng những vậy, má tôi bị truy tố, vu khống má hoạt động cho CIA, vì trong nhà có những tấm "mui xe GMC", ba tôi mua, để che lúa khi trời mưa. Tất cả ruộng vườn đều bị tịch thu, nhà cửa bị bọn chúng chiếm đóng. Bà nội chín mươi (90) tuổi, cùng cả nhà phải đi xuống ở nhà sau. Cũng may, nhờ bên ngoại giúp cho bữa đói bửa no, nên đại gia đình chúng tôi cố gắng sống lăn lóc qua ngày.
- Ba tôi ngày xưa làm nghề gỗ, thường đi Túc Trưng mua gỗ đem về cưa ra bán, đến khi bà Nhu dành độc quyền khai thác, ba tôi đổi sang hành nghề bán lúa gạo nuôi đàn con tám đứa. Cho đến giờ phút nầy, tôi không hối hận về những việc làm ngày xưa, mà cho là mình làm đúng, tiếc rằng "mãnh hỗ nan địch quần hồ". Tôi có nên xoá bỏ hận thù không? Sao? bao nhiêu gia đình tan nát vì lũ người không ra người? ngợm không ra ngợm kia, mà xóa bỏ ranh giới giẹp tan hận thù, coi đành sao ta? Gia đình vợ con tôi xa nhau đúng 14 năm 3 tháng và 10 ngày, tôi qua Mỹ đây năm 75, sống lây lất từng ngày, lấy hạnh phúc gia đình của bạn bè làm niềm vui, cho đến năm 1989 vợ và con bé gái mới sang Mỹ. Sau đó chúng tôi có thêm thằng nhóc, nay ngoài hai mươi tuổi. May mắn cho tôi… nếu tôi ở lại, chắc chắn bị giết bởi những tên CS/30. Bọn nó rình ngày rình đêm ở cư xá Thanh Đa (nhà tôi) cũng như ở quê tôi, chờ tôi trở về.
Sự thật tôi không muốn đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam sau ngày “mất nước”, khi chúng tôi đi theo gia đình đứa em vợ định ra cổng Phi Long, nhưng bị Quân-cảnh chận lại, năn nỉ thì nó bắn liên tục ba tràng M16, buộc lòng tôi phải leo xuống xe, không nói một lời từ biệt ai. Đến trưa tôi được lịnh di tản về Cần Thơ, mãi lo gọi điện thoại về Sài Gòn xem vợ con về tới nhà chưa. Nhưng tất cả tổng đài đều không ai trả lời. Thất vọng quá, tôi vừa bước ra cửa phòng Quân Báo của Tr/tá Bích, Tr/tá Huynh PĐ Phó 518 di chuyển (taxi) ngang qua. Thấy tôi, ông ngừng xe lại bảo tôi leo lên chiếc AD5 phía sau, để trở về Tân Sơn Nhứt. Tôi là người sau cùng và thứ hai mươi ba trên chiếc AD5 chật hẹp. Vì lên sau cùng, nên chịu khó cong người và ép mình ở phía sau đuôi, giữa hai sợi dây cáp điều khiển phi cơ.
Khi đến Utapao, tôi tìm mọi cách trở về Việt Nam, thế nhưng cả Thái Lan và Mỹ đều không cho. Tôi đành phải qua Guam. Tại đây tôi chần chờ chưa chịu sang Mỹ, cho đến khi đám người đòi về Việt Nam trên chiếc tàu Việt Nam Thương Tín làm loạn, đốt phá doanh trại, treo hình già Hồ và cờ CS, tôi tự nghĩ: tôi có thể trở về để chịu khổ với gia đình và vợ con tôi. OK. Nhưng tuyệt đối tôi không thể cúi đầu, nịnh bợ chạy theo VC, nên tôi đi Mỹ ngày 4/6/75.
Thật ra vợ con tôi có dịp rời VN ngày 25/4/75, nhưng hôm đó ông Thiệu "mượn" chiếc phi cơ ấy đi Đài Loan, rồi ngày 27/4/75 vợ tôi đổi ý, không muốn đi, thà ở lại sống chết bên nhau, vất vả lắm tôi mới thuyết phục vợ. Tôi đinh ninh vợ con có tên trong danh sách chuyến bay đã ấn định, chúng tôi không chen lấn, từ từ sắp hàng. Khi tới phiên thì chỉ còn một chỗ cho vợ tôi mà thôi. Ông Đại/Tá NvR, Chánh Văn Phòng Tướng Tư Lịnh Không Quân không cho đứa con gái vừa tròn 7 tháng lên máy bay, ông viện dẫn đứa nhỏ đó dù ngồi trên lòng mẹ, cũng tính một chỗ ngồi? Vì chỗ quen biết với vợ chồng tôi, ông “hứa "lèo" sáng mai có chuyến khác sẽ dành ưu tiên cho vợ con tôi.
Ôi!!! Ngày mai… không bao giờ đến; vì đây là chuyến cuối cùng. Đúng là "cái số bốc cứt". Sau nầy, nhiều người cho tôi biết "chỗ ngồi của vợ con tôi trên máy bay ấy, thì "bị ai đó" đem bán cho đám Ba Tàu Chợ Lớn?! Vô cùng trớ trêu, khuya ngày 29/4/75 VC ào ạt pháo vô phi trường TSN, một trong những người liều chết cất cánh bay lại là tôi!, để bảo vệ hàng ngàn người trong TSN (có “hắn ta” trong đó). Chỉ có một điều về KQ thì phi cơ Skyraider thường bay hợp đoàn ít nhất từ hai chiếc trở lên, mỗi chiếc đều mang bom đạn tối đa từ 6 đến 10 trái bom. Trong lịch sử KQ chưa có ai cất cánh một mình, ngoại trừ tôi (vì phi trường bị pháo, bất đắc dĩ tôi phải cất cánh một mình).
"Ông ta" khác một trời một vực với các bạn của tôi hằng thân quý, nhất là khác hẳn anh cố Tr/Tá Phạm Văn Thặng, người đàn anh khả kính của tôi, anh từng sống chết với đồng đội tình như anh em, có thể nói còn hơn vậy nữa. Đời tôi gắn liền với anh ấy, dù khi anh còn sống hay đã chết. Mỗi năm vào ngày giỗ của anh, lòng tôi bâng khuâng muộn phiền, đứng ngồi không yên, buồn man mác như đã mất đi những gì quý báu, vì tôi thương anh lắm! Tôi luôn nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm ngày nào... Ở những nơi đó, đã có anh. Có tui… chớ còn ai vô đây!
* * *
Tình Hoài Hương
Trân trọng mời độc giả xem tiếp chương sau

Tinh Hoai Huong
04-18-2018, 03:49 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1524022756-1 ho 52 thuy ta.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1524022832-Chiec la cuoi cung - Si Phu.mp3 Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 25
Tai Nạn Trực Thăng Rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt...
Tình Hoài Hương
***


Những ngấn nước to tròn long lanh mòng mọng rung rinh đậu trên cánh hoa anh đào mỏng manh, đang e lệ đung đưa trong gió rì rào. Bầy thiên nga (xe đạp nước làm thành con vịt trời bằng gỗ buộc chặt ở cọc cắm) thong thả lắc lư, quay lui quay tới trên hồ Xuân Hương loang loáng ánh bạc. Nhà hàng Thủy Tạ trắng toát in bóng xuống mặt hồ phẳng như phiên gương trong suốt như pha lê. Trời thanh thoáng tươi mát lạ thường giao hòa với gợn sương ẻo lả, uốn éo vật vờ bay lên trên không trung. Bên kia hồ bình minh đã lấp ló ở đọt thông ba lá, vài cánh bằng lướt gió tung mây vút bay qua thành phố thơ mộng, trông ngoạn mục vô cùng...
Hồng Hạnh ghé vô nhà hàng Thủy Tạ ăn sáng trước khi đi thăm anh chị Thuyền. Nhà hàng hữu tình ẩn hiện trong làn sương đục mờ mờ dật dờ là là trên mặt hồ như ngái ngủ, mùi cà phê tỏa ra thơm phưng phức. Hạnh thích nơi nầy, không vì chủ nhân tươi cười xinh lịch, vui vẻ đon đả chào mời khách, mà cũng là nơi đây phong cảnh có xí lãng mạn, trữ tình nổi tiếng vào hàng thứ nhì, thứ ba ở thành phố, qua cách họ pha cà phê ngon, vừa ý khách, với nhạc chọn lọc dịu êm, dìu dặt nhè nhẹ vẳng lên, không ồn ào chói tai khiến mình khó chịu.
Sau khi cô tiếp viên đặt trên bàn tách cà phê sữa nóng, dĩa bánh “sừng trâu” (le Croissant), Paté Chaud trước mặt, thì Hạnh mở tờ báo ra đọc. Những bàn trống ở trong phòng đã có lác đác năm ba cặp ngồi bên nhau rôm rả chuyện trò về thơ, văn, chuyện tiếu lâm vui nhộn, kèm những tiếng cười sảng khoái vô tư lự qua câu thơ vui, khiến Hạnh tủm tỉm cười, chú ý lắng nghe:
Nhớ người xưa ngày cũ,
Dưới lằn đạn đi anh uy vũ can trường.
Cánh bằng bay anh lướt gió muôn phương.
Em đứng đợi tường vi bên cửa sổ.
Thân chiến binh một đời vẫn nhớ.
Tấm lòng trai muôn thuở sắc son.
Mây hoàng hôn trải mưa nắng nước non.
Hình ảnh đó khắc ghi từng kỷ niệm.
Tiếng đàn ai chiều nay dạo phím.
Cho em nhớ về màu áo lính ngày xưa.
Thương sao... nói mấy cho vừa. (1)
Ồ! thật thú vị, dân Đà Lạt hầu như say trong hồn núi phách lá rừng thông rì rào reo vi vu thơ mộng, Đà Lạt diễm ảo nét đào nguyên thấp thoáng mờ ảo trong sương, trong gió mơ màng thi vị qua tiếng chim líu lo hót trên cây, nên đa số ai ai cũng có thể "nhã nhạc buông thơ" hết cả sao cà? Có một anh ngồi bên trái góc bàn, vui vẻ ngâm nga trích đoạn thơ của thi-sĩ Không-quân Trần Ngọc Nguyên Vũ:
Đời phiêu-bạt mang-mang hồn Thục-Đế
Tiếng Đỗ-Quyên mãi vọng chốn quê nhà
Như nhắc nhở trong ta còn món nợ
Đừng để rồi năm tháng sẽ phôi-pha.
Những món suốt đời không trả hết
Nợ ba-sinh nợ những mối chân-tình
Nợ đại-cuộc nợ những lời ủy-thác
Nợ chất chồng quấn chặt bước điêu-linh.
Lời nhắc nhở năm canh dài khắc-khoải
Con tim ta mang nặng mối u-hoài
Trong cuộc sống đã bao lần tự hỏi
Gánh được gì cho đất nước trên vai.
Hạnh ngồi một mình nơi góc nhà hàng khuất bóng, cũng cảm thấy ngại ngùng e ấp, nên đã lấy tờ báo giơ lên cao khỏi tầm mắt, để những bạn trẻ kia không nhìn thấy Hạnh “tò mò lom lom ngó trộm” họ… tình cờ Hạnh làm khán thính giả nghe bao cảm khúc tuyệt vời, lòng cảm thấy hân hoan, vui thích, khi nghe một anh Trung-úy Biệt Động Quân dí dỏm kể chuyện tiếu lâm về "Hứa Chữ và Tào Tháo":
- Một hôm Hứa Chữ đi qua doanh trại, thấy Tháo ngồi buồn bực cạnh ba vò rượu. Chữ bèn hỏi:
- Có việc gì mà chủ tướng buồn vậy, lại trượt lô à?
Tháo tu ực một hơi hết vò rượu, rồi nói:
- Ta vừa phát hiện tin động trời: thằng Tào Thực con ta là Gay…
Hứa Chữ gần xỉu, hét lên:
- Hết hồn chim én!
Tháo vác vò thứ hai uống một hơi, rồi nói tiếp:
- Ta còn phát hiện thêm tin kinh dị nữa: thằng Tào Chương, cũng là Gay nốt!
Hứa Chữ:
- i don’t believe in my “tai...”
Tháo vác vò thứ ba lên tu nốt, lại nói:
- Tin nữa là: thằng Tào Phi, cũng là Gay luôn...
Hứa Chữ không bình tĩnh nỗi, gào lên:
- Trời ơi, thế nhà Tào đại nhân... không có ai thích đàn bà cả sao?
Tháo chậm rãi trả lời:
- Có chứ, Vợ ta... (2)
Ha ha ha... Họ cười ngất. Hạnh phải cúi xuống che miệng khúc khích cười. Một anh phi công nhấp tách cà phê xong, hóm hỉnh:
- Đàn ông thú vị nhất là: Đàn ông muốn hư hỏng, phải có tiền. Đàn bà muốn có tiền, phải hư hỏng. Đàn bà thích nhiều thứ ở một người đàn ông. Đàn ông thích một thứ ở nhiều người đàn bà. Đàn ông lúc nào cũng muốn, nhưng không phải lúc nào cũng có thể. Đàn bà lúc nào cũng có thể, nhưng không phải lúc nào cũng muốn. (2)
Họ chọc ghẹo nhau qua những vần thơ vui vui. Người con trai phong trần xoa xoa đôi bàn tay, ứng khẩu:
Ui! Chuyện tình yêu làm sao ai biết?
Mời nhau uống cà phê vui rồi xĩu!?
Ai nhũ ngày đó anh đi Phan Thiết
Em Đà Lạt! Làm sao mình “tìm hiểu”? (1)
Một cô gái mặc áo dài hồng, bên ngoài khoác manto đen:
Nay mời đến nhà em. Tuy chân chất.
Nghèo lắm! Không có gì ta sợ mất.
Anh thấy: Từ trong nhà ra ngỏ ngoài.
Ở cuối xóm lên tít đầu ghềnh coi... (1)
Một anh mặc quần áo Nhảy Dù ngồi ở bàn khác với hai bạn mặc thường phục, (có lẽ không phải anh ta đi chung với nhóm phi công kia) vui góp vần thơ tiếp theo liền:
Nhà sạch sẽ, thanh tao và tươm tất.
Cà phê Chồn e đắng. Em pha mật.
Anh cho thêm thỏi đường kèm “ông Thọ”
Sữa ông ấy là sữa thật! không lừa
Âu rất vui khi nghĩ đến sữa nầy.
Uống vào rồi... mình thấy đời hương ngát.
Dù đi Lính đôi ba lần anh bị phạt.
Em phương xa hic hic yêu thương ngay... (1)
Những chuyện tiếu lâm bộc phát và câu thơ bông đùa đối đáp của họ không hại ai, nghe cũng vui tai. Tuổi trẻ hồng lên đức mến và ngọt ngào hương vị mùa Xuân, thật đáng yêu làm sao! Hạnh tủm tỉm cười, đứng lên đủng đỉnh ra khỏi nhà hàng, nhìn lên bầu trời trong xanh và dõi theo những cánh chim vi vút trong không gian vừa đủ lạnh, cô cảm thấy mình có niềm vui lâng lâng. Hạnh chạy xe honda đi thăm gia đình anh chị Thuyền và cháu Châu Ngọc Bích, Châu Ngọc Diệp ở Nha Địa Dư, chị đang chuẩn bị khóa cửa để chuẩn bị đi đâu đó. Thế là chuyến đi thăm nầy chưa đúng lúc rồi! Mấy anh chị em trở vô nhà nói năm ba câu chuyện cần, rồi Hạnh hẹn anh chị ngày mai đến nhà em ăn lẫu dê, (do cô em út đãi bốn gia đình anh chị khác ở gần trong thành phố nữa).
Không muốn anh chị mất thì giờ, Hạnh lên xe Honda chạy trước họ. Lúc lái xe ngang qua cầu đúc nhỏ, gần khu bệnh viện của ông bác sĩ ngoại quốc Soigné nổi tiếng xưa nay, đối diện khu bệnh viện có một cái am miếu âm u sơn son thiếp vàng, hương trầm khói tỏa nghi ngút, lúc nào đi ngang đây, Hạnh cũng nghe tiếng kinh mỏ êm êm đều đều tụng niệm. Đi qua khỏi cầu đúc một đoạn ngắn, nơi có chòm thông xanh và mấy hàng ghế đá nhìn qua đồi Cù, Hạnh thấy gần sát khu nhà hàng Thuỷ Tạ một chiếc trực thăng đậu ở dưới bãi cỏ quay chong chóng vù vù. Sau đó, có bốn anh phi công mặc quần áo cam & quần áo xám lúi húi chạy xuống những bậc cấp. Họ leo lên chiếc trực thăng, có anh còn ngoái cổ, hoặc cúi xuống thò nửa thân hình lắc lư ra khỏi lòng phi cơ, họ lưu luyến ưu ái vẫy vẫy tay chào bạn, sau đó họ đóng cửa phi cơ. Trực thăng nổ máy ầm ầm, chong chóng quay tít mù, sức gió từ cánh quạt xô những hàng hoa anh đào, hoa mimosa, hàng cây xá lỵ ngả nghiêng gần như sắp nằm rạp xuống đất.
Chiếc máy bay nhẹ nhàng nhấc bổng thân tàu lên khỏi mặt đất, anh phi công tài hoa lái trực thăng cho bay lượn vòng rộng ra xa xa, rồi vút một cái, phi cơ đứng sững một chỗ trên không trung, tiếng máy nổ tạch... tạch... tạch... phi cơ từ từ nghiêng mình vút lên cao, lượn bay tỏa ra thành mấy vòng tròn, khi thì bay thu hẹp lại (bay quanh trên nóc nhà hàng Thủy Tạ). Phi cơ ung dung, uyển chuyển lả lướt, bay bướm trồi lên, hụp xuống, nghiêng cánh bên nầy, chao cánh bên kia, giống như chiếc lá vàng uốn lượn trong không gian ngan ngát Thu vàng. Hạnh trầm trồ khen ngợi, thật lả lướt đẹp mắt người nhìn!
Lúc đó Hạnh đã chạy xe Honda tới ngang qua khu thao trường đối diện với Thủy Tạ. Bên lan can và phía trong những khung cửa kính, những anh và các cô gái xinh xinh đẹp đẹp lố nhố đứng ngồi, cười nói rôm rả huyên thuyên, những bàn tay “ái nữ” cầm khăn hồng, khăn tím, khăn trắng, giơ lên vẫy chào lia lịa. Bỗng, một tiếng nổ long trời lở đất gầm rú, to kinh khủng. Mọi người sững sờ, bàng hoàng tột đỉnh, chẳng biết chuyện động trời gì đã xảy ra ở đâu!? Hạnh hoảng hốt, giật nẩy mình, toàn thân lạnh toát, mất hồn mất vía, run rẩy như cầy sấy, hai đầu gối va vô nhau lộp cộp. Do bị bất ngờ, không hiểu sao xe honda leo lên lề đường hồi nào, mà cô không hề hay biết? Hạnh té chúi nhủi xuống mặt đường nhựa, xe honda gầm rú, bánh xe vẫn quay tít mù. Giống như có ai bồng cô ngồi phịch xuống lề đường. Toàn thân Hồng Hạnh ê ẩm, nhức nhối, đau rần, đùi và cánh tay bị tươm máu trầy trụa thương tích, ở bờ ngực nghèn nghẹt nhoi nhói đau. Mặt tái xanh Hạnh run bần bật, nhưng hai mắt cô vẫn dán chặt vô chiếc trực thăng.
Bất ngờ, bàng hoàng, sợ hãi đến tột độ, khi cô vô tình trực tiếp thấy nguyên nhân của dữ kiện, nhìn rõ sự kiện đã xảy ra trước mắt mình, dù chỉ trong tích tắc thoáng chốc chớp nhoáng quá nhanh thật sự hãi hùng. Chiếc máy bay bị lâm nạn chao đảo, nghiêng bên nầy, nghiêng bên kia, chòng chành uốn lên uốn xuống, y như chiếc lá vàng bay từ trên ngọn cây cao tà tà rơi xuống lúc trời vừa lặng gió. Trực thăng từ từ chúi đầu xuống bồng bềnh, chơi vơi. Mặt hồ bỗng trồi lên lõm xuống, tung toé nước, lan nhiều vòng sóng tròn xoáy tít, sóng cuồn cuộn (giống như sóng biển tấp vô bãi cát) sóng chồm vô tận bờ cỏ, mặt nước dậy sóng bắn vọt lên cao.
Trong khoan máy bay Hạnh thấy rõ mấy phi công lố nhố, loay hoay, cuống quýt cố tìm lối thoát thân. Một người gục vào ô cửa dòng máu từ thái dương chảy ra nhoè nhoẹt khung kính. Mấy bàn tay kia chới với đưa lên hoảng hốt, tuyệt vọng đấm đấm đấm vô cánh cửa kính. Cuối cùng chỉ còn mấy lóng tay yếu ớt rụng rời nhè nhẹ cào cào cào... và mất hút.
Do phi cơ bay vòng tròn quá gần nóc nhà, chẳng ngờ đuôi máy bay quệt vô chém trúng cột thu lôi (bằng gạch xây thẳng lên cao). Hình như chiếc trực thăng không đành cam chịu số phận đột ngột phũ phàng đau xót bị vùi thây trong lòng hồ buốt giá, nó lại nhô lên hụp xuống chòng chềnh thêm vài lần bồng bềnh, chao đảo, nghiêng ngả trên mặt hồ như chiếc thuyền con cỡi trên biển bạc đầu. Mặt hồ Xuân Hương lại dậy sóng, nước bung lên trời như những ngọn pháo bông khổng lồ vọt lên cao ngất, thành vòi rồng ly ty từng đợt nước trắng xoá tóe tỏa ra, nước rơi mạnh xuống mặt hồ. Sau đó phi cơ dần dà chìm xuống, chìm xuống, lún dần, lún dần xuống lòng hồ mất hút, trên hồ vẫn lăn tăn bọt bong bóng nước đục ngầu đó đây kêu bụp bụp.
Bây giờ, tuy chỉ trải qua tích tắc một khoảnh khắc thời gian rất ngắn chưa tàn một phần ba điếu thuốc, chiếc trực thăng méo mó cong queo coi hết sức vô duyên, trơ trẽn đã cắm đầu xuống đáy hồ, chỉ còn chút đuôi máy bay chổng ngược lên khỏi mặt nước đen thui. Hạnh thấy cây cột thuỷ lôi cụt lủn, trơ trẽn lạ, vô duyên tệ, làm xấu xí dị hợm, mất thẩm mỹ, thiệt khó chịu người nhìn. Cửa nẽo tường vách của khu nhà hàng bể toang hoang, Hạnh cảm thấy ghét cay ghét đắng cái nhà hàng mang tên Thuỷ Tạ độc đáo, duyên dáng và "lừng danh" xưa, nay coi như “ô-danh” mất rồi. Toàn bộ cuốn phim diễn ra chính xác, cùng với nỗi hãi hùng kinh dị tột đỉnh, là nguyên vẹn không bao giờ phai mờ trong tâm trí cô.
Điện ở trong nhà hàng và cột thu lôi liên tục xì xì xẹt xẹt, nổ lốp bốp, nổ hoài… Mùi khét và khói tỏa ra, hôi ơi là hôi. Trong nhà hàng người ta rú ré to thật to, họ nhốn nháo bò lê bò la, chạy lui chạy tới rầm rầm, la hét, khóc than, kêu gọi nhau ơi ới, nghe man rợ lắm. Thì ra một góc vách tường ở phía ngoài Thủy Tạ bị sập, vài ba người bị thương, một người té xuống hồ.
Bây giờ cô mới sực nhớ xe honda của mình nằm chình ình bên lề bị bể cái bửng còn nổ máy xịch xịch, Hạnh dợm đứng lên thì biết mình bị trặc chân, thương tích không nhẹ mà cũng chẳng nặng qua những vết xây xát khắp hai tay. Cô uể oải đựng xe đứng lên, tắt máy, rồi từ từ leo lên ngồi trên yên xe Honda. Hình như cô bị một cú xốc hay sao, mà cảm thấy bải hoải chân tay run rẩy, rụng rời, không thể nhấc tay chân lên nỗi, hầu đạp nổ máy xe honda để chạy về nhà? Hạnh vẫn ngồi ù lì, thừ người ra ngố ngáo, ngu ngơ dòm ngó lung tung, run run, bồi hồi, lồng ngực như có tảng đá đè lên, nghẹt thở, mệt kỳ lạ. Hạnh rất buồn khi thấy cảnh đau thương vô hạn (của người xa lạ) mà vô tình mình đã tận mắt chứng kiến, đồng thời cô cũng vui mừng khi mình may mắn đã ra khỏi nhà hàng, (trước lúc xảy ra tai nạn khủng khiếp). Nếu cô không gấp đi thăm anh chị của mình, thì liệu rằng Hạnh còn có thể còn sống mà làm chứng nhân một sự kiện nầy không nhỉ?
Lâu lắm…, Hạnh rã rời đứng lên mới biết máu tươm ra ở đầu gối sưng to như đầu gối con voi, mắc cá chân sưng vù. Cũng do băn khoăn, thắc mắc, hiếu kỳ, bâng khuâng vô cớ, nên cô bỏ buổi đi dạy học về chiều. Không hiểu những người bị lâm nạn kia có phải là những anh chàng vui tính mà hồi sáng tình cờ Hạnh đã nghe họ kể chuyện tiếu lâm, đọc thơ, vui vẻ ngâm nga ca hát đó không nhỉ!? Tiếc thương thay! Hạnh thẫn thờ nhìn sững mặt hồ, lòng buồn vời vợi, đau xót lạ lùng, ngẩn ngơ tiếc nuối một cái gì đó vừa mất ngoài tầm tay của mình, mà cô biết chắc đấy không phải là của mình, nhưng vẫn cứ tiếc thương! Hạnh “đa cảm” giống như họ là những người thân yêu trong gia tộc!
Hồng Hạnh im lặng nghe thiên hạ chỉ chỏ ồn ào xôn xao bàn tán. Hầu hết người hiếu kỳ từ chỗ nầy chỗ nọ trong thành phố Đà Lạt đã tập trung đông đảo quanh khu vực hồ Xuân Hương (càng lúc người ta càng bu lại quanh khu nầy đông đen), có thể nói là họ nôn nao, băn khoăn kỳ lạ! Dù bây giờ chỉ còn chút xíu cái đuôi phi cơ lấp ló khỏi mặt nước, họ cũng như Hạnh không thể làm gì hơn là trơ mắt ra nhìn. Nghe họ đoán già đoán non, nói sai, phét lác tán hưu tán vượn, mà cô chẳng cần lưu tâm hoặc đính chính. Hạnh nhìn vô trong nhà hàng Thủy Tạ coi người ta lo chạy lên chạy xuống cầu thang, ra vào, kêu réo nhau inh ỏi lo tắt hết điện hoặc làm gì đó. Hạnh ngẩn ngơ nhìn chằm chằm chút đuôi trực thăng, mà ngao ngán lắc đầu xuýt xoa tiếc rẻ thở dài hoài.
Việc cứu cấp những anh phi công coi như trớt quớt, hỏng tiệt mất rồi. Từ khi xảy ra biến cố đột ngột đến giờ cũng khá lâu, nửa giờ sau mới có xe cảnh-sát hụ còi báo động, bên Quân-cảnh phối hợp tăng cường giữ trật tự, họ ráo riết giăng kẽm gai rào từ ngoài đường vô cầu gỗ tới Thủy Tạ. Thời gian chậm chạp nặng nề trôi qua, chiếc phi cơ rơi xuống hồ khoảng 10:30’ sáng, dân chúng bu quanh khu hồ bên Thủy Tạ nhiều lắm, thế mà ba giờ chiều mới có bốn người dân địa phương biết bơi lội thiện nguyện thay quần áo ngắn, họ leo lên trên nóc nhà Thủy Tạ, họ bước ra cầu thang nhảy tủm xuống hồ, bơi quanh quanh đuôi máy bay, lặn xuống trồi lên vài ba lần. Rồi họ bò vô bãi cỏ, ngồi nhìn ra mặt hồ phẳng lặng. Vài người trong nhóm bơi lội đó nói to:
- Nước rất lạnh. Lạnh như ở xứ tuyết.
- Đáy hồ sâu lắm.
- Không thể ở dưới đó lâu hơn.
- Máy bay đóng kín cửa.
Dân tụ tập tại khu vực nầy càng lúc càng đông đen hơn cho đến khi tối mịt, hoàn toàn không thấy gì, thì họ cùng Hạnh mệt lử, bần thần, ngơ ngẩn như người mất trí, ngố ngáo, hụt hẩng, cô uể oải, khấp kha khấp khểnh dẫn xe honda xuống lề đường nổ máy, không thể hiếu kỳ thêm, cô rã rời mệt mỏi chạy xe chầm chậm về nhà, bụng đói cồn cào, cổ họng khát khô lông lốc.
***
Ba giờ chiều ngày hôm sau, khi nắng tươi vẫn chan hoà trên vạn vật. Hạnh chở hai chú con trai nhỏ xíu đi ra bờ hồ, để coi người ta vớt xác). Mấy mẹ con ngồi chết trân trên xe honda, nơi thảm cỏ xanh rờn sát hàng kẽm gai chằng chịt giăng nhiều vòng. Một chiếc xe GMC từ hướng phi trường Cam Ly chở thợ lặn ở Nha Trang lên Đà Lạt. Họ chụp hình đuôi máy bay, chụp hình địa thế và khu vực máy bay rơi, chụp khu Thủy Tạ, vân vân... Ba anh thợ lặn thay quần áo người nhái, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cần thiết nghề nghiệp cấp cứu ngồi vô ca nô. Anh lái ca nô chở thợ lặn ra giữa lòng hồ, ca nô chạy rất chậm quanh quanh chiếc phi cơ. Họ chỉ chỏ, bàn tính, rồi mấy tay thợ lặn nhảy tủm xuống nước làm việc lâu lắm.
Bốn giờ chiều, thợ lặn trồi lên đưa cái xác thứ nhứt lên bờ. Họ đặt người chết nằm dưới cỏ, loay hoay mở áo quần anh pilot ra, họ cầm sổ ghi chép cẩn thận, làm gì đó, thật lâu, chụp hình... (vì dân chúng ngồi tuốt ngoài hàng rào rất xa, không ai trông thấy rõ). Hai anh lính quân y đem cáng thương đến, họ nâng cái xác lên đặt anh ta nằm ngay ngắn trên băng ca, rồi khiêng anh ta từ trong lối Thủy Tạ đi ra ngoài xe hồng thập tự (đậu ở trước mặt thao trường, nơi Hạnh bị té xe hôm qua) giữa hàng hàng lớp lớp người chào tống biệt đông đúc, người ta đứng chật như nêm ở suốt hai bên vệ đường tò mò chen lấn nhìn xem.
Anh pilot dáng cao ráo, đeo đồng hồ Omega, hai bàn tay thõng xuống, đung đưa, lắc lư, bên trong là áo thun trắng, ở ngoài anh pilot mặc bộ đồ bay xám, chật căng cứng, coi anh mập ú (vì chương phình). Mặt mày anh sáng sủa, mũi cao, miệng rộng và hai bàn tay anh sưng húp, bầm tím, tím thẫm một cách ghê rợn. Đôi mắt anh ta trợn trừng, tóc dính bệt vô trán. Mũ bay úp trên ngực anh nhúc nhích, lắc lư, nước trên thân thể anh pilot vẫn chảy theo từng nhịp đi của hai người khiêng cáng. Mọi người hiếu kỳ đi xem giạt ra hai bên lề nhìn anh pilot nằm bất động, họ tò mò chạy theo mấy anh lính khiêng cáng. Trên xe hồng thập tự có hai anh lính chờ sẵn ở chiếc xe quân-y đang nổ máy. Họ đỡ cáng, xúm nhau đẫy cáng thương vô xe lanh lẹ gọn gàng, đóng xe sập cửa lại vút chạy đi về hướng Cam Ly.
Hai anh lính lại đem chiếc băng ca đi ra hồ. Non nửa giờ sau, cuộc vớt xác vẫn tái diễn như lần đầu. Mọi người dự kiến đều chán nãn lắc đầu, ngao ngán tiếc thầm cho kiếp trai trí thức, hào hoa và phong trần. Chỉ vì... vài phút đa tình, lả lướt, bay bướm, nay bốn chàng trai lãng tử đã trở thành người thiên cổ! Do sơ ý lo bông đùa, phi công đã bay lui bay tới mấy vòng lả lơi, vẫy tay từ biệt với mấy người đẹp, người yêu ngồi ngoài balcon ở nhà hàng. Họ quên tiệt... quên mất là nhà hàng Thủy Tạ có cây cột thu lôi đá cao lênh khênh chọc trời kia. Thật là những bàn tay vẫy chào oan uổng vĩnh biệt! Đáng giá nghìn năm thương đau, ân hận dày vò người thân suốt cả cuộc đời "Khuýp Danh" mất rồi. Đau đớn thay!
Giếng mắt khô lệ đã tuôn tràn.
Tự đáy sầu trỗi tiếng than van.
Ta vẫn khóc bên hồ hiu quạnh.
Thụy như mưa tiếng sấm nổ vang.
Mặt đối gương lên tiếng gọi mời.
Phiến lá lưa thưa chân dung người.
Bạc đầu xanh mắt buồn phớt lạnh.
Vó ngựa chùng đại mạc chiều mưa.
Đường trăng Tố Nữ khăn sô thưa.
Khuýp danh hờn giăng mắc tơ mưa.
Trời hoang lạnh vòng tang gió cuốn.
Là chút tình riêng ta tiễn đưa!
Ta muốn cười lớn giọng dưới mưa.
Ôi! tình sao bỗng chín giọt sầu.
Dòng sông rẽ nhánh chia hai nửa.
Ly biệt đẵm lệ nhỏ thơ buồn... (1)
Trên đây là chuyện hoàn toàn có thật 100% một chiếc trực thăng đã bị rớt tại hồ Xuân Hương, Đà Lạt, vô cùng “vô duyên òm, lãng nhách lạ”. Rồi, Tháng 9 năm 1973 - sau tai nạn rợn người kia, có thêm một chiếc trực thăng thứ hai rớt xuống gần công viên khu chợ Đà Lạt, gần cây xăng Shell, nơi bến bãi xe đò rước khách đi các Tỉnh miền Tây, miền Trung khác. Sau lưng bến xe và cây xăng nầy là ba dãy khu nhà Ấp Ánh Sáng, nhìn qua cầu ông Đạo và góc hồ Xuân Hương.
Thật vô cùng may mắn! Đó là nơi tập trung đông đúc dân chúng tấp nập đi các nơi, đi phố, đi chợ. Nhưng khi chiếc phi cơ trực thăng thứ hai nầy do người Mỹ lái bị rớt xuống, chỉ bị thương nặng mấy người đi bộ. Kể cũng lạ! Hôm sau lúc đi chợ, Hạnh thấy chiếc trực thăng nằm chúi sát bên góc đường lên phố Hoà Bình, trực thăng dựa mũi lên mấy bờ tường đá. Những cây anh đào gãy cành, bật gốc còn nguyên, chưa ai kịp thu dọn. Ngoài ra không thấy gì, trong trực thăng sạch sẽ, đẹp mắt, trống trơn.
*
Tình Hoài Hương

(1) Thơ tình Hoài Hương
(2) Sưu tầm lượm lặt.
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
05-18-2018, 11:47 PM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Ba
Chương 26


https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1564881353-linh 41.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1537914645-Ao LuaHaDong-VuKhanh_3ytf4.mp3
Chất Độc AGENT ORGANGE (Diethymethyl-Dioxine).
Tình Hoài Hương
***


Hoàng Năm Tony vui lắm, nhẹ hẳn người khi anh đã ly dị với Phùng, anh tự do thì-thầm nói chuyện phone với người yêu xưa suốt. Vì đúng như lời Ayana nói: nhờ thủ tục “đầu tiên” nên anh mới “có tiền mua tiên cũng được”! anh ưa viết thư, (hoặc phone) tâm tình những chuyện trên trời dưới quận:
Em yêu,
Dù đôi ta đang ở nơi hai phương trời xa xôi và cách biệt vô vàn, nhưng anh hoàn toàn tin tưởng ở em. Vì anh biết chắc rằng: Không có việc gì trên cõi đời nầy, mà chúng mình không làm được, miễn là hai người có quyết tâm. Anh khuyên em hãy bình tĩnh vững tin. Mỗi năm có ba trăm sáu mươi lăm ngày (năm nhuận có ba trăm sáu mươi sáu ngày. Cũng như có tháng chỉ có hai mươi tám, ba mươi ngày, ba mươi mốt ngày. Mỗi ngày có hai mươi bốn giờ, mỗi giờ có sáu mươi phút, mỗi phút có sáu mươi giây). Năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào… đều có mặt anh ở bên cạnh em suốt 49 năm qua. Chúng mình đã song hành đến tận bây giờ, thì còn ngại ngần gì nữa. Phải không em? Chúng mình sẽ dìu nhau đi đến chân trời góc bể, sẽ đi hết cuộc đời vắn vỏi còn lại. Nghe em! Anh vẫn tâm nguyện là sẽ chờ đợi em, ở bên cạnh em mãi. Bây giờ anh sẽ kể nhiều chuyện hữu ích cho em nghe, trước là mở rộng kiến thức, sau là giải trí nghen em.
Hôm xưa anh và em đi thăm, ủy lạo một số đồng bào ở trong làng “Hoà Bình Từ Dũ bị số phận bạc đãi”, em đã hỏi về việc: Chất độc màu da cam “Agent Organge” là gì, tại sao? Bây giờ, nghiên cứu ra, anh trả lời em nè:
* Vụ thứ nhứt.- Agent Organge có từ hồi Bộ-chỉ-huy quân-sự Mỹ ở Việt Nam. Gọi là Operation Ranchhand. Họ đã dùng loại phi cơ trực thăng UH-1-B. C-123. C-130 - để rải đều nó xuống miền Nam Việt Nam một số hoá chất “Diệt Cỏ”, mang tên là "Agent Organge". Tên hoá chất khoa học nầy là Dioxine rất độc. Có một thời đã gây nhiễm độc cho những con tôm ở ngoài khơi Việt Nam. Con tôm ở dưới nước còn bị ảnh hưởng, thì nói gì đến con người, hay cây cỏ. Ha em!
* Sự việc chất độc kia được phát hiện, là nhờ cậu con trai Đô-đốc Trung-tướng Hải-quân, Tư Lệnh Lực-lượng Hỗn-hợp ở Thái Bình Dương. Đó là ông Fleet Admiral Zumwalt, nguyên là người chỉ huy thực hiện chương trình Ranchhand. Con trai ông nầy bị nhiễm độc, và chết sau đó vài năm. Còn di chứng để lại là một đứa cháu nội dị tật bẩm sinh của ông. Sau khi ông giải ngũ rời quân đội, chính ông là người đứng ra khởi kiện chính phủ và quân đội Hoa Kỳ (toà án Brooklyn New York). Toà án tuyên bố ông Fleet Admiral Zumwalt thắng kiện. Họ bồi thường cho ông Fleet Admiral Zumwalt gần mười hai tỷ USD, cho toàn bộ Cựu Chiến Binh Mỹ (thì phải)!
Bên Mỹ họ không hề hay biết vụ nầy, cho đến năm 1995 mới lòi ra! Từ đó có những phong trào rầm rộ vác đơn đi kiện, đòi bồi thường. Dow Jones Chemical phải bỏ tiền ra “trám miệng” dư luận. Chính hãng nầy có lần phải bồi thường cho Ấn Độ, vì đã để rò rỉ chất độc Cobalt, làm cho một số thường dân bị chết, bị thương tật. Họ đã cắn răng bỏ ra vài trăm triệu USD, làm dịu dư luận thế giới là gì!
-* Ở Việt Nam và Campuchia (còn gọi là Khu R - ở Khu Mỏ Vẹt) từ thập niên 1960 – đã có chất độc Diocine, loại hoá chất rất độc. Mục đích chính là họ rải thuốc Agent Organge làm khai quang bụi rậm, rừng rậm, diệt sạch cỏ. Chất độc A.O nầy trông có vẻ hiền lành lắm! Nhưng thật ra nó ngấm ngầm tấn công vào hệ thống gene của những ai đã từng sống, từng sinh hoạt trong những vùng bị rải thuốc. Không ngờ nó làm biến dạng gene con người quá dễ sợ, dị dạng ghê gớm. Vì thế mà sinh ra quái thai. Nhưng thuở ấy người ta chưa thấu rõ nguyên do, họ cứ đổ vấy đổ vá, đổ lỗi cho “chuyện ái ân” là những kẻ ưa “phong tình bậy bạ lăng nhăng vung vít” thêm ở bên ngoài, mà biến dạng gene ra "quái thai" cái cớ sự nông nỗi ấy. Thật ra ít có ai biết. Loại thuốc Agent Organge nầy không bị phân tán. Nó tồn tại rất lâu dài. Tức là nó vẫn sống sau khi cây cối, rừng rú đã chết hết, đất trở thành hoang mạc, cằn cỗi, trơ trơ khô khan như nham thạch. Ấy thế mà thuốc vẫn tồn tại ngấm sâu vô lòng đất, hoà tan trong nước, tấn công vô bất cứ nơi nào: từ các ông già, bà lão, trai, gái, già trẻ lớn bé… nó không tha ai. Thế nên vụ việc nầy rất ảnh hưởng đến sông ngòi, lan tràn theo gió bay đi muôn phương. Dù càng đi xa, thì chất độc càng yếu dần, chứ chưa chắc thuốc đã hết công hiệu! Nói chung, sau khi các nhà khoa học nghiên cứu kỹ càng, thì họ kết luận A.O là một yếu tố khoa học rất độc hại, vô cùng nguy hiểm. Kinh khủng chưa em?
Biết bao nhiêu đứa trẻ tại Mỹ sinh ra không có tay chân, hoặc bị bệnh liệt não, bệnh to đầu, hay bại liệt từ thuở sơ sinh. Tại Việt Nam số người bị chất độc A.O nhiều gấp ngàn lần so với bên Mỹ. Vì, theo bản đồ quân sự Mỹ, thì có đến 35% trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam đã bị rải hoặc phun thuốc diệt cỏ. Tóm lại chất thuốc diệt cỏ nầy có tên là Diethymethyl-Dioxine rất độc hại. Từ đó, ngay cả những người đã lập gia đình ở các khu vực chung quanh vùng đó, đã sinh ra toàn quái thai (như thập niên 1960, phụ nữ dùng thuốc ngừa thai mang tên Thalidomide không thể ghi trong lịch sử Y-học hiện đại!). Không có bút mực nào tả hết sự dã man kinh hoàng dị tật khủng khiếp từ chất Diethymethyl-Dioxine!
* Vụ thứ Hai.- Một ông tỷ phú quốc tịch Mỹ thường đi chiếc máy bay nhỏ du lịch nhiều nơi trên thế giới. Nơi nào... ông ta cũng để lại vài “dấu tích kỷ niệm luyến ái ngọt ngào” là một đứa con rơi. Khi ông ta gần chết, thì có nhiều phụ nữ đã đệ đơn xin toà án công nhận: cho người con ruột (của họ) thừa kế gia tài của người cha tỷ phú. Quả thực “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”! Thuở ấy có một bà xồn xồn ở Ninh Thuận (Việt Nam) hổng biết tòn ten làm sao mà bà ta “vớ” được “ông Trùm tỷ phú”!? Bà ta nhờ một ông Việt Nam làm đơn, xin thừa kế tài sản cho con trai. Ai ngờ, có ông XX quen biết bà, ông XX lại là một tay lưu manh ngoại hạng. Ông XX nhờ một luật sư Mỹ lo phụ trách chuyện nầy. Qua các thủ tục trắc nghiệm cần thiết, hầu tòa, v.v… họ đã thắng kiện.
Theo lệnh toà án, nhà bank Mỹ đã chuyển vô bank ông kia một số tiền ban đầu là một triệu tám trăm ngàn đồng USD. Sau khi thanh toán, chia chác với nhau, họ ung dung cầm đưa cho bà ta tám mươi ngàn đồng USD. Bắt bà nầy ký tên và thêm một câu thòng: “Tôi đã nhận đủ tiền, không kiện cáo thưa gởi gì!” Bà nầy vốn nhà quê ít học, chữ i chữ tờ chữ cu chữ cò Việt Nam còn chưa thông, bà ta chả phân biệt rành rõi. Huống hồ chi đến chữ Anh với chữ “U…raway”. Nên bà ta “xung xướng”, run run cầm cây bút cứ hí hoáy ký bừa cái rẹt. Ồ! Có những tám mươi ngàn đồng dollars ở Việt Nam, bà ta sướng tê người rồi! Từ nay bà ta phè cánh nhạn! Bà ta “giàu được trung được hiếu; khó mất thảo mất ngay”. Cần chi nữa! Bấy giờ người ta mới phát hiện ra “hắn” còn làm ăn gian lận nhiều vụ khác. Thế là báo chí “moi móc ra” Ôi! Đồng tiền làm mờ mắt và táng tận lương tri con người, em nhỉ!
Vụ thứ ba.- Năm 1966, có một cô bé bị cháy phỏng hết cả người, mà ông nhiếp ảnh gia Nick Út, là phóng viên của AFP đi công tác tại Đà Nẵng, đã chụp hình (ông hiện giờ định cư tại Úc). Ông được giải thưởng Pulitzer về nhiếp ảnh. Cô bé đó đã được đưa qua Canada chữa trị lành lặn. Cô lớn lên, nay làm “đại sứ thiện chí” của Unicef. Bị napalm cháy cũng ghê gớm lắm. Nhưng so với chất độc màu da cam, là chuyện nhỏ! Vì, nếu bị cháy, thì có thể còn lọc cắt lớp da cũ. Nuôi lớp da khác thay thế. Phải không nhỉ?! Tôi tin có Thiên Chúa, (hoặc Phật Mẫu phù hộ), cho nên cô ấy gặp cơ may tốt lành. Đối với tôi, lòng tin đã có và sẽ có trong mỗi tôn giáo cũng tốt, khi mình đã lựa chọn. Nhưng có lần anh đã nói: - Cứ nhắm mắt mà sống chết vì đạo. Thì xin lỗi, anh chưa đến cái mức đó đâu. Có những điều anh chưa hiểu nỗi sự “mầu nhiệm”, thì cũng cắn răng chấp nhận theo ông bà cha mẹ, vì họ đã vô đạo từ thời trước, tuân theo sử sách viết thì họ cho là “giáo điều” rồi! Vã lại khi còn tấm bé anh không tự chọn. Thật ra, anh nhận thấy đạo nào cũng toàn vẹn, là tấm bình phong gìn giữ con người với con người – khuyên mọi người tốt lành trong lãnh vực hướng thiện, ôn nhu, chí tình, bác ái, vị tha, ăn hiền ở lành, tránh dữ, làm việc thiện. Nhất là không phạm tội. Còn chuyện khác chỉ là phần “hồn” của niềm tin mà thôi.
Em đã thẳng thắng trả lời:
- Hèn gì... coi anh có vẻ lơ tơ mơ. Em nghĩ: Con người sinh ra trong thiên nhiên, tất phải trọn vẹn. Nếu con người có hư hỏng, một phần là do ở xã hội”. Nhưng, xã hội cũng trực tiếp chịu ảnh hưởng của gia đình đó, thời đó và xã hội đó, anh à.
- Ừa... Chỉ có má anh là “cuồng tín” nhất. Ba anh thì không đến nỗi nào. Riêng anh nhắc nhở các con nên giữ đạo. Vì, đạo nào cũng mong muốn con người hướng thiện. “Nhân vi sơ, tính bản thiện” mà! Cần có đạo đức tốt nên tuân phục. Ngoài ra, anh không buộc các con phải siêng năng, sốt sắng đi lễ đọc kinh cầu nguyện luôn miệng. Anh nghĩ đôi khi anh thật tức đó em. Chỉ cần mình sai phạm một lỗi lầm nào đó, ví dụ như khi ai uống rượu say lỡ "ngộ sát" giết người, vì lạc tay lái cán chết người chẳng hạng, thì muôn đời ở tù, là “Lục Quân Việt Nam”, khi chết ta bị sa xuống chín tầng ngục đời đời kiếp kiếp. Chả có cơ hội thống hối ăn năn, chẳng có hình phạt tù chung thân khổ sai, như khi còn ở trên thế trần đã đành. Chết rồi cũng bị “Trời tru đất diệt”. Ức thiệt.
Trầm ngâm giây lát, anh bảo:
- Anh không tin đấng tối cao lại nghiêm trọng “ác”, như trong giáo luật do tiền nhân định ra đâu. Phô trương đạo đức ra bề ngoài đọc kinh ra rã, mà bên trong lòng rỗng tuếch, thì có ra gì. Anh nghĩ đấng quyền năng ấy rất bao dung, bác ái, rộng lượng, khoan hoà và khoan đãi, ngài yêu thương, luôn vị tha khoan hồng dung thứ cho kẻ có tội. Đại khái, anh còn nhớ Chúa đã nói: “Nếu có ai tát con bên má nầy, thì con hãy đưa má kia cho người ấy tát” mà em. Hoặc là "con tha tội cho người khác không chỉ bảy lần, mà phải tha trên bảy mươi bảy lần" nữa, em à. Vậy ta im lặng nhẹ thở dài, nghe em:
- Bây giờ đám con ta lo bương chải kiếm sống đủ mệt muốn tắt thở. Còn thì giờ đâu suốt ngày đêm sáng tối lo đọc kinh. Mình phải đối diện và phải trả lời về hành vi của mình trước mặt Chúa thôi. Nội cái “đời” không mình đã mất hết giờ chạy bộ muốn bá thở, mệt hụt hơi. Em không thấy bi giờ ta ra đường, hầu hết mọi người phải mang mặt nạ, bịt kín mặt mũi, để chống “ám khí” bụi bặm bốc lên ở lưng trời ngút ngàn, không bao giờ tan nhạt đi sao. Anh làm gì có xe hơi, hoả tiễn để phóng cho kịp “trào lưu văn hoá tiến bộ cuả loài người chớ”. Hả em. Hu hu...
Vụ thứ tư.- Nhân nói đến xe hơi, xe cúp, em nghe có một anh đại học tốt nghiệp về ngành computer. Anh ta rất giỏi đã “móc nối” với một nhóm khác tiêu thụ trên ba ngàn năm trăm cái bằng lái xe giả. Họ làm tinh vi đến nỗi sau nhiều năm nghiên cứu, so sánh với tài liệu gốc, sở Giao-thông Vận-tải mới phát hiện ra đó là bằng giả. Ớn quá không hỉ!?
- Đúng quá rồi còn gì. Nên, từ nay trở đi cảnh sát sẽ gác 24/24 các “cửa nẽo” nơi đi ra đi vô thành phố, đẫy mạnh việc kiểm soát giấy tờ xe, bằng lái xe, kính chiếu hậu, nón bảo hiểm. Ui chà! Thế là người bán tha hồ chặt đẹp nha, nón bảo hiểm tăng vùn vụt như diều gặp gió. Họ làm mạnh như vậy, may ra dân mình đi vào nề nếp giao thông tốt. Em về Việt Nam, em chẳng dám đi bộ, càng không dám chạy xe cúp, chớ nói là lái xe. Thậm chí em thấy nhiều người (chắc là ở Tỉnh xa đến) họ thấy một hàng xe chạy dài dài trên đường một chiều. Vậy mà họ cứ cố len vô để chạy ngược chiều. Mới quái lạ thiệt à nhe.
* - Khó khăn về việc nón bảo hiểm là: em ngồi chờ mà đội cái “nồi cơm điện” lên đầu, giữa trời nắng chang chang, nóng hầm hập là nhức đầu ngộp thở chết mất. Có nhiều bất tiện lắm: Ví dụ thứ nhứt: cả gia đình đi ăn tiệm chung chẳng hạn, nhà nào cũng có ít nhất năm bảy cái mũ bảo hiểm. Khi đến nơi thì làm sao? treo tòn ten nón nơi xe, sẽ mất toi liền đó em. Vì thế mỗi người phải tự xách kè kè theo bên hông.
*Bất tiện hai là: Rủi ai làm nghề “chạy xe ôm”, họ phải sắm ít nhất hai cái mũ bảo hiểm, một mũ cho người lái xe ôm, một mũ cho một khách hàng đội nữa.
*Ba là: nếu người dân trong vùng (khu phố, quận huyện, thành phố) bắt buộc đội nón bảo hiểm, họ chỉ chạy xe ra vô gần gần khu chợ chồm hổm, cũng phải xách nón theo, nhứt là luôn luôn lo lắng đề phòng bị mất cắp mũ.
*Bốn là: ví dụ cô dâu sáng sớm chạy xe cúp đi làm tóc, uốn tóc, trang điểm để lên xe hoa, buộc lòng cô ta phải để đầu trần.
*Năm là: ngàn học sinh, sinh viên đến trường có cả ngàn cái mũ bảo hiểm. Nếu để mũ ngoài xe là không bảo đảm, mang mũ vô lớp thì kềnh càng, không có chỗ cất, không có chỗ ngồi học? thật bất tiện. Bao giờ tất cả người ta chạy xe gắn máy trên “xa lộ an toàn” có đầy đủ mũ bảo hiểm. Hy vọng Việt Nam "ngàn năm mây bay" ít ai bị tai nạn, họ sẽ giống hệt như bên BangKok, Singapore rất nghiêm trang chỉnh tề chấp hành luật giao thông, là điều rất mừng.
*
Tình Hoài Hương
***
Ghi thêm:
Bổ túc về “chất độc màu da cam” từ trích dẫn nguyên văn dưới của ông Trương Vinh :
Cảnh phun thuốc trên đám rừng già 3 C-123 cât cánh từ phi trường Nakhon Phanom, Thailan bay thẳng một mạch tới Đèo Ban Raving, từ đĩnh đèo nầy lấy hướng nam bay thẳng một lèo xuống tận 3 biên giới Việt Miên Lèo, trước hết qua Tchepone, ngang con sông Xêsamou Sêkông qua Mường-May, Mường Sao, Saravane, Bản Phya-Ya, tới Bản Tà Xẽng, Saravane dông cao nguyên Boloven, Bãn Đông, đến phu lưu song và các chi nhánh sông Mêkông, tỉnh Mường Nồng trở về Thailan đáp xuống lại phi trường Nakhon-Phanom
- Ánh đèn pin liên-tục qua lại trong bóng đêm, thỉnh-thoảng dừng lại một tụ điểm như xoi-mói tìm kiếm những gì khác lạ nơi cặp càng bằng nhôm, với vô số vòi-phun, chi-chít nằm xen kẻ, trải dài gần 15 thước mỗi bên, cho đến tận đầu cánh. Tôi đang kiểm soát tiền phi cho một phi-vụ khai hoang, mà mục tiêu là khu rừng già nằm bao phủ trên tuyến đường sắt Trãng-Bom, Long-Khánh.
- Chỉ còn 15 phút nữa là chúng tôi phải cất cánh cho kịp đến mục-tiêu, đúng lúc mặt trời vừa ló dạng và đó cũng là lời cẩn-thận cân-nhắc của Trung-tá Cố-vấn Kentroity: Không-khí ban mai thăng-bằng, trong lành và ít khuấy động, nên có nhiều hiệu quả hơn, khi phun thuốc tỏa xuống đều-đặn, hội tụ trên những cành lá, từ-từ ngấm dần.
Trong đêm tối, không-khí ẩm-ướt làm mát da mặt qua những luồng gió nhẹ thoang-thoảng bên tai, tôi đang bị ám ảnh vì cảm thấy ngứa mũi qua những mùi thuốc khai-hoang khó chịu xông ra từ thân phi-cơ? Nhìn lại khoảng đường từ Phi-đoàn xuống Phi-đạo, dãy cây Trứng-Cá trơ-trọi xơ-xác chỉ còn cành không lá, cũng vì những hơi-hám còn động lại trong thùng, dù đã khóa chặt nhưng vẫn còn ảnh hưởng lây-lất đó đây.
- Cao hơn chúng tôi vài trăm thước, một hợp đoàn hình than của 3 chiếc vận-tải cơ C-123 đang bay lướt qua trên không phận Thanh-Thủy-Hạ, chúng trang bị bên trong, những thùng Plastic cứng chứa đầy Hóa-chất (1000 gallons cho mỗi thùng) và giàn phun thuốc bằng kim loại nhẹ gắn dưới cánh.
Cường độ chiến tranh tăng dần theo đà khai phá Xa-lộ Averell-Harriman (đường mòn Hồ) và điểm kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập từ hàng rào Mac Namara, nên mãi đến năm 1965, các phi-vụ khai-hoang càng tăng dần để rải xuống các vùng mật-khu của Bộ-đội Bắc-Việt mà phần nhiều rừng già gồm tới 3 tầng lớp cây, nơi đây không bao giờ có ánh nắng mặt trời, nhưng dưới đó Hoa-kỳ đã thả hàng 100 ngàn cột Antennas với hình dạng giống như chong-chóng, rơi cắm chui xuống đất, hoặc móc trên cành cây để theo dõi, nghe-ngóng sự đối thoại của Bộ-đội BV, đồng thời các phi-vụ khai hoang nầy cũng để tiêu diệt hoa-màu, mùa-màng nằm rải-rác ở những khoảng trống dưới đó.
Nút kiểm soát theo dõi nhịp độ xâm nhập của Hàng rào điện-tử Mac Namara báo động ở lằn “Vàng”có nghĩa sự xâm nhập ở vùng cao nguyên sắp ở lằn mức báo-động (1967-1968) Không-lực Hoa-kỳ tăng phi vụ lên 5 chiếc và nhiều đợt, ở chiến khu D, C và vùng 3 biên-giới Chu-Prong (Pleiku) gọi là Chiếc-dịch “Hot-Tip”.(mở đường làm dấu vàng lá Trường sơn tây vì sợ BV mất phương huớng đi chệch, chắc đọc giã nghe hơi chõi lỗ tai?
Chúng tôi đang bay nối đuôi nhau cách khoảng vài giây, trên cao độ 1000 bộ, nhưng không được bay cao hơn vì đây là không phận của 2 phi-trường lớn Tân-Sơn-Nhất và Biên-Hòa có rất nhiều phi-cơ qua lại. Trời còn lờ-mờ sáng nên tầm nhìn xa vẫn còn thu ngắn lại, dưới bụng phi-cơ có vài cụm mây Status mõng-manh như những cuộn khói dật-dờ lạc-lỏng. Tôi đang lấy hướng trực chỉ 90 độ, có nghĩa là ngay hướng Đông; Ngọn đồi Châu-Thới đang mờ-ảo hiện ra, chập-chờn qua những tảng mây bay ngược về phía dưới
Hôm nay, chúng tôi có cơ-duyên được nhìn thấy trọn-vẹn, từ trong đêm tối tỉnh-mịch, cho đến khi mặt trời hoàn toàn thức dậy; Quả thật, trước mắt tôi tầm nhìn xa bắt đầu trải rộng, xa về phía chân trời, vài tia nắng yếu-ớt đang lóe lên dưới đám mây Cumulus, ánh sáng bàng-bạc, yếu-ớt của buổi rạng đông đã len qua cụm mây trước mặt, rồi bỗng chốc sau đó, ánh sáng không chói-chang lắm của nữa vầng mặt trời xuất hiện ra như một hiện tượng hào-quang, rồi như một mâm đồng khổng-lồ uy-nghi xuất-hiện, thúc dục những bộ óc chiến tranh, thêm một ngày dài, như thôi ngừng tay chém giết, hủy-diệt, tàn-phá đất nước quá nghèo khổ và đau thương nầy!
Tôi như kẻ phạm tội, không dám nhìn xuống khu rừng, tâm-tư ngổn-ngang bấn-loạn, vì dưới đây hình ảnh những bụi cây bờ suối, những trái “lồng-đèn” chín đỏ, những bụi trái “chùm-bao” bạt ngàn, nhũng trái “sim tím” nặng trĩu trên cành lá, rồi tiếng chim hót líu-lo nghe vui tai, mờ-ảo, trữ-tình như quay lại lãng-vãng trong tim óc tôi. Cũng vào những buổi sáng như thế nầy, sương mù còn đọng lại trên vách đá, biết bao mùi-vị thiêng-liêng thanh-khiết đang ngự trị trên vùng núi Khe-Sanh hùng-vĩ. Tôi đang rùng mình vì lạnh hay cảm nhận “tội-lỗi” Rồi chút nữa đây, chính tay tôi sẽ bấm nút hủy diệt chúng một cách tàn nhẫn, không chút tiếc thương! Tôi không dám nhìn rõ sự hùng-vĩ của núi đồi bao quanh vùng Phan-Thiết, Long-Khánh, khi biết rằng, chính mình là thủ phạm tàn phá quê-hương
Kéo vành kiếng mát nơi nón bay phủ kín che mặt; Tôi đang xấu-hổ không dám nhìn thẳng vào những đám rừng dưới thân phi-cơ, vì cảm nhận như một ám-ảnh in sâu vào óc…sắp nhẫn tâm lấy dao rạch vào mặt người “sơn-nử” đang tuổi xuân thì, càng xấu hổ và cảm nhận mình là tội-lỗi… (Vinh Truong).
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng

thuyguyen530
05-23-2018, 03:23 PM
"Cánh quạt của chiếc F-5 bị nạn , quay tít , đẫ chém chết một em bé chăn bò " . tác giả viết bài that hay , chỉ tiếc là chiếc F-5 không có cánh quạt .

Tinh Hoai Huong
06-15-2018, 10:14 PM
"Cánh quạt của chiếc F-5 bị nạn , quay tít , đẫ chém chết một em bé chăn bò " . tác giả viết bài that hay , chỉ tiếc là chiếc F-5 không có cánh quạt .

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1529100525-CHAN TRAU THOI SAO.jpg

Cùng anh thuynguyen530 thân,

Anh và gia đình có khoẻ không ạ?
Thưa anh, lẽ ra tôi không dự tính RE: ít hàng chữ đưa lên diễn đàn HQPD, (trong những lần trước, trước nữa…) vì tôi rất e ngại điều không vui sẽ làm phiền lòng độc giả không ít.
(Tiện đây, tôi xin độc giả HQPD vui lòng bao dung và lượng thứ, nếu tôi có điều sơ sót linh tinh nhé. Hoài Hương chân thành cảm ơn quý vị).

Có thể PM, có lẽ là điều hãnh diện. Nhưng ngặt nỗi là anh không có open mục PM, (Private Messages) để tôi có thể nhã nhặn, tế nhị, kín đáo, cùng nhau xây dựng về câu văn đoạn viêt hơn. Ngỏ hầu tôi dễ dàng thưa chuyện cùng anh. Rất tiếc!
Hôm nay, do bài viết “Vĩnh Biệt Chiếc F5…” - khá dài, nên tôi chỉ xin ghi lại ít trích đoạn ngắn v/v “em bé chăn bò”… mà anh thuynguyen530 đã đưa lên diễn đàn 05-23-2018 08:23 AM
Cảm phiền nhờ anh thuynguyen530 bỏ chút thì giờ quý báu đọc lại đoạn văn ghi sau:


Hồi sáng, không hiểu sao có người nói tiếu lâm, chẳng biết họ đùa hay nói thiệt:
- Có lẽ cánh quạt của chiếc F 5 quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, một con bò, và làm bị thương mấy con bò gặm cỏ trên đồi Cù.
Liền có một thanh niên đốp ngay:
- Con bò chết là phải. Đúng là… ngu như bò.
- Tại sao?
- A37 và phản lực F5 - thì không có cánh quạt.
- Vậy, F5 nó giống tàu bay giấy à?
- Đừng "hỏi xỏ" như vậy! Nghe nè: Phản lực bay được là nhờ có động cơ phản lực nó đẩy máy bay, nên bay lên được.
- Vậy mà tui tưởng đã gọi là máy bay, thì phải có "chong chóng" chớ.
- Ừ, thì cũng có loại máy bay như trực thăng, thì có cánh quạt trên lưng. Các loại khu trục AD6, quan sát L19... thì có cánh quạt trước mũi. Các loại khu trục AD6, quan sát L19, vận tải C47, v.v... đều xài động cơ nổ. Động cơ nổ là nó dùng xy lanh (như xe hơi là động cơ nổ). Trực thăng UH1 cũng dùng động cơ phản lực, nhưng nó có cánh quạt trên lưng nữa, vì vậy có thể gọi nó là bán phản lực; nghiã là ½ phản lực.
- Ngộ quá hén! thiệt là tui... tui có "chong chóng mặt...” vì - do "tàu bay" mà con bò bị chết!
- Ừ... Thì con bò chết vì... ngu như bò!

Mình cũng hiểu thanh niên kia ngụ ý chưởi khéo người nọ là "ngu như bò" mà cũng bày đặt "lên lớp đôi co". Nhưng thôi, hơi đâu nghe chuyện người dưng kia không biết mà cũng chẳng rành. Theo thiển ý của Hạnh thì có lẽ do những vật nào đó trong bộ phận của phi cơ rơi trúng, hoặc do tiếng nổ kinh hoàng gây ra "mà chết".

Tinh Hoai Huong
07-19-2018, 04:01 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Ba
Chương 27
Chuyện CHAT: Bù Khú

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1534659039-chim 1.jpg

/uploadpics/mp3_pdf1017/1534659283-Neu Vang Anh - Kim Anh.mp3

Chuyện CHAT: Bù Khú
Tình Hoài Hương
***


Date: Mon, 1 - 26 - 2006 -00:05:34 -0700 (PDT)
From: "Tony Dautry Hoàng Năm" <khanhson21@yahoo.com.vn>
Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject: Thư mang số # 5.946 *Chuyện MAIL & “CHAT” bù khú.
To: "Wit Mi Mi" < ti1@yahoo.com >
*

Tony.– Hello… Ah! Chào em yêu thương, (từ bi giờ anh phải gọi em là con mèo Mun xinh xinh): Thời gian trôi qua dài quá dài... thăm thẳm sau 45 năm vợ chồng tan hợp rồi hợp tan, mail nầy anh em mình kể chuyện bù khú linh tinh cho vui cửa vui nhà, em nhen:
Hôm đầu tháng Giêng, anh bị con “vòi vọi” to như con bọ xít, thân đen bóng, cánh cứng, có vòi như cây kim cong cong, nhọn hoắt. Nó có bốn chân, và hai cái râu, từ dưới gầm giường nó bò lên nệm lúc nào không biết. Thừa lúc anh ngủ say, nó chích anh mấy phát. Ui! cái trán sưng chù vù, cứng ngắt và ngứa ngáy, nhức nhối kỳ lạ. Gần cả tháng rồi, vẫn đau nhức, trán vẫn u, sưng tấy lên và ngứa lắm. Vậy mà em còn chọc quê anh là “mọc sừng” ha. Giận thì thôi.
Ayana.- Ui! Em cứ tưởng là do anh đi hoang. Nó muốn cảnh cáo anh í mà. Xin lỗi nha.
Tony.- Hôm nay, anh tức quá, đi thay tấm drap mới, giặt mền, gối, rồi anh lật hết những thanh giường ra. Lau nhà sạch sẽ xong, anh lấy thuốc xịt hết vào mấy cái khe. Thì thấy hai con “vòi vọi” đen đen lăn ra chết. Chứ nó chạy nhanh kinh khủng, không thế nào đập trúng. Anh bỏ nó trong bao nylon. Chiều nay sẽ đem nó xuống bác sĩ chữa trị da liễu, cho ổng xem. Vì bác sĩ cho rằng nó là con A Sừng! Cách đây vài tháng anh cũng bị nó chích như thế, nay vẫn còn u lên một cục cứng ngắt. Thie65t là kinh hồn em à.
Ayana.- Anh cẩn thận nhen. Ở một tỉnh thành gần khu núi đồi, hồ ao, đầm lầy bên Úc (nơi chị Tú ở). Có một chỗ dành để người dân cắm trại. Nhiều mái lều dựng lên, ăn ở vui vẻ. Bỗng họ nghe tiếng hét to kinh khủng, tại một cái lều hơi gần gần bờ hồ, có con cá sấu to lớn bò đến ngoạm chân người đàn ông, lôi đi xềnh xệch. Cả khu cắm trại hốt hoảng nhốn nháo, họ ùa ra bãi xem chuyện gì. Thì một người đàn bà cùng gia đình cắm lều gần, nhìn thấy cảnh tượng hãi hùng đó trước tiên. Hai bàn tay không, bà ta can đảm nhảy xuống hồ, bà cỡi lên mình con cá sấu. Hai tay bà ôm ghì lấy lưng và nách con vật, hai chân bà quắp chặt vào bụng nó. Con cá sấu giật mình, nó hãi hùng nhả chân người đàn ông ra. Nó quay ngược mỏ lên, táp táp vào người đàn bà hoài mà không được.
Thế là nó vát bà ta chạy tuốt xuống hồ nước. Mọi người bất ngờ sững sốt, nhốn nháo, sợ hãi kêu la inh ỏi. Một người đàn ông ở lều khác, bình tĩnh xách súng chạy đến gần. Tay thiện xạ do dự một phút, rồi đưa súng lên nhắm và bóp cò. Đùng!... Đùng! Con cá sấu giẫy giụa vài cái, rồi nằm ngay đơ nửa trên nửa dưới hồ nước. Người đàn bà can đảm phi thường cỡi con vât ấy không bị lạc đạn. Mệt đứt hơi, bà ta nằm vật ra bên con vật nhuộm máu đỏ. Người ta vội vã gọi trực thăng đến, cấp cứu hai nạn nhân. Một người bị cụt chân, một bà bị gãy tay. Chỉ vì “cái mỏ” con cá sấu.
Tony.- Còn một chuyện có thật nữa: Hai chị em cô bé nhà kia đi tắm sông ở Nam Phi. Cô chị độ mười tuổi, thấy em nó bị con cá sấu ngoạm, con cá sấu cố sức lôi đứa em xuống sông, để ăn thịt. Cô chị quýnh quá không biết làm sao, cô ấy không biết sợ hãi liền chạy đến bên con cá sấu, cô gái lấy ngón tay trỏ chọt rất mạnh, chọt lủng mắt con cá sấu. Con cá sấu bị bất ngờ, và đau lắm. Nên nó nhả cô em ra. Nó lo chuồn xuống nước, lặn mất tiêu. Cô em bị thương nặng. Họ cấp cứu hai chị em vô bệnh viện.
Ayana.- Đó, anh thấy chưa? Mà anh còn đòi cuối tuần nầy, đi ăn thịt cá sấu với anh Vượng, anh Nuôi hỉ! Em sợ nên em “ghê tởm” cá sấu. Vì thấy nó dữ dằn, da lởm chởm sù sì gớm ghiết, móng chân móng tay nhọn hoắt. Cái mỏ và hàm răng ôi thôi kinh dị. Nhất là buổi tối hôm đó, ngày chúng mình đi vào trại nuôi cá sấu xem. Trong bóng tối, mình lấy đèn pin rọi xuống ao, hồ, thì trông thấy những đôi mắt của nó, như là ánh sao lấp lánh. Vì hai con mắt nó sáng rực, đỏ au, từng con từng con nhìn sững vào ánh đèn. Thịt nó trắng, mềm và thơm ngon. Lại có hương vị đặc trưng thơm hơn thịt vịt, thịt gà nữa. Em làm thịt cá sấu sạch, xào với sả, ớt, mè, tỏi, hành, ngũ vị hương, ít dầu hào, cuốn ăn với bánh tráng nướng. Thật ngon hết sẩy.
Tony.- Rượu cá sấu nầy là môn thuốc, người ta nói để trị bệnh suyễn hữu hiệu lắm em ơi! Uống vào nghe "đã" đến óc. Tuyệt cú mèo. Rồi anh hỏi đố em: Có biết con cá chình không? Mất mấy trăm ngàn đồng Việt Nam, anh mới mua được một con cá chình chỉ nặng vào khoảng 800 gr. Ở Việt Nam bây giờ con gì cũng được đưa lên bàn ăn, để thiên hạ xài, có tiền là “chiêm ngưỡng” hết: Chồn. Cheo. Rùa. Mễn. Nai. Rắn. Ba ba. Vân vân… Ôi thôi đủ thứ hầm bà làng hết. Đến nỗi bi giờ hầu như những loài qúy hiếm e có nguy cơ diệt chủng. Đã có lệnh cấm săn bắn, cung cấp thịt rừng.
Ayna.- Anh lại nhem thèm em nếm tí rượu cá sấu nữa hả? Ghê quá đi. Cho tiền thuê, bạc mướn, có lẽ em hổng dám ăn thịt cá sấu.
Tony. - Em có thấy ớn lạnh không? Người đàn bà cỡi lưng cá sấu. Cô bé chọt mắt cá sấu. Rất phi thường. Can đảm lắm. Nhưng... Chưa đáng kính phục bằng một đàn bà Việt Nam dám cỡi lên mình con rắn, bóp nát trái tim con rắn nữa. Nhất là bà ta làm con rắn cúi đầu khuất phục. Thật đáng ngợi khen. Anh đố em biết bà ấy là ai nào?
Ayana.- Bói bài hay cầu cơ cũng chịu thua. Đừng nói tới. Em hổng biết.
Tony.- Ấy! ... Là em đó.
Ayana.- Ui chà chà. Thương thiệt!
Tony.- Anh lại đố em 4 chữ MEN nè:
1.- MEN TAL ANXIETY : Hoảng loạn tâm thần.
2.- MEN TAL BREAKDOWN : Suy sụp thần kinh.
3.- MEN STRUAL CRAMPS : Co thắt khi có kinh.
4.- MEN OPAUSE : Hiện tượng tắt kinh.
Ayana.- Ô! anh đố em, mà anh giải thích hết rồi. Lại còn hỏi ư.
Tony.- Em có để ý là tất cả nguyên nhân các sự kiện ở trên, đều do chữ MEN mà ra không! Đó, đàn ông các anh là thiên đường. Mà đàn ông cũng là địa ngục khi có "em".
Ayana.- Ồ! Cái nầy họ “chơi chữ” quá hay. Vì trong bốn triệu chứng của người đàn bà, đều bắt đầu từ chữ “MEN” mà ra! Dễ ghét mà rất dễ thương. Anh hỉ!
Tony.- Phải. Loài chuột có thể giao phối hơn 20 lần/ngày. (Còn hơn con dê nữa ha)! - Con gián có thể sống trong suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Vì vậy anh rất gớm con gián. Voi là loài động vật có vú duy nhất không thể nhảy cao. - Muốn luộc con ếch hoặc con rắn, trước tiên ta bỏ nó vô nồi nước lạnh, đậy kín nắp, mở gas thật nhỏ, chờ bao giờ nồi nước từ từ nóng và sôi. Chớ nếu bỏ nó khi nước đang sôi, thì nó sẽ quậy lung tung và nhảy phóc ra khỏi nồi. À, anh nhớ có chuyện nầy nữa… Ôi vui ơi là vui. Đúng rồi! Sau đêm em bị ma đè (chứ hổng phải người đè à nha), thì cả anh và em đều hoảng loạng, đến nỗi rắc rối… bồi hồi, quên trước quên sau, quên đầu quên... quên… luôn cái phao câu! (con gà con vịt, thì ít khi ai gọi là đuôi gà, đuôi vịt. Mà họ “thít” gọi là phao câu mập ú nù. Phải hông nà?
Ayana.- Đúng quá đi thưa “bác xĩ mu rùa hóc môn”.
Tony.- Ha ha! Ui xà, dzậy mà còn phong cho anh làm tới chức “bác sĩ mu rùa hóc môn” nữa chứ. Ôi trời ới! Nếu vô tình, có ai lọt chân vô trong mạng internet riêng của chúng mình, thì chắc họ sẽ cười bể bụng, vì mấy cái chuyện tiếu lâm của hai ông bà già gân 60-70U lẩm cà lẩm cẩm nầy ha.
Ayana - Vậy chứ công dụng của cái rốn là gì nè chàng?
Tony.- Để cuống rốn gắn liền tí nhau với người mẹ, như sự nương tựa vào sự sống của con từ mẹ mà có. Nhưng khi sinh ra đời, cuống rốn của em bé được cắt đi, thì từ đó sự sống, hay gọi nôm na là hơi thở của em bé tách rời mẹ, độc lập. Đáng lẽ ra khi cái rốn lành, phải thành một vết sẹo bằng phẳng. Chứ tại sao cái rốn lại teo tóp nhăn nhúm, trở thành sâu hoắm thế hở cô nương của anh?
Ayana.- Xin chịu thua.
Tony.- Còn nữa, cặp vú của người đàn bà có công dụng để nuôi con. OK! Thế thì, người đàn ông không thể cho con bú mớm gì. Sao vẫn có vú hỉ?
Ayana.- Công dụng nầy, chỉ có Trời mới biết.
Tony.- Rồi, khi người đàn ông đi “quờ quạng ăn phở bậy bạ”, hắn gặp một “gái già bia ôm” nên bị lây rận, (do người đàn ông khác “di dân rận” cho bà ta), con rận thân dẹp lép, bò lết tới trên mình tên đàn ông thứ tư, thứ năm gì đó. Chỉ cần hai thân thể áp vào nhau chừng vài phút thôi, là lãnh đủ! Có hơi ấm cơ thể, thế là lũ rận nhanh nhẹn bò sang người mới, định cư liền. Tên đàn ông trăng hoa đó lại mang rận về tặng lại cho vợ. "Nhục và nhột" thì thôi.
Ayana.- Úi quơi Trời đất thiên địa ui! Vậy ra anh đã từng mang rận đi, mang rận về ư! Xin bái biệt và tống khứ anh.
Tony.- Không. Đừng nóng thế em.
Ayana.- Dieu seul le sait...
Tony.- Nè em: ngày anh còn học chung với Trung trong đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong phòng thí nghiệm có kính hiển vi điện tử. Hôm xưa, chả biết làm sao Trung có được mấy con rận, nó mang rận vô lớp. Ta có thể soi rọi con rận ra to chừng 15.000 lần của thực tế. Rận có cả thảy ba đôi tay chân (6) lông lá xồm xoàm! Phía trước rận có hai càng nhọn hoắt, dùng để đào hang. Con rận màu trắng ngà, khác với con chí màu đen. Con rận đẻ trứng bám chặt trên những sợi lông, giống như con chí đẻ trứng trên những sợi tóc của người ta. Lấy trứng rận ra để trên bàn: giết, nó cũng kêu “cái cốc”, y như trứng chí vậy. Rận không sống ở ngoài da, mà nó đào hang. Nghĩa là nó dùng càng đào lỗ, chui vào lỗ chân lông mà nằm ở chỗ kín, dơ bẫn. Nó không giống con chí sống lúc nhúc, luôn bò rần rần, loi choi hút máu ở trên đầu (do người ít tắm gội). Khi nào đói, rận mới bò ra châm vòi vào thịt, hút máu tươi để sống. Mình ngứa điên cuồng là đó. Rận giống như con rệp tiết ra chất hôi, chuyên sống ở khe vách, giường, phản. Rận, rệp, chí, đều sinh sôi nẫy nở rất mau. Em có biết: kinh khủng vô cùng là con gián có thể sống suốt vài tuần với cái đầu lìa khỏi thân. Anh quên nói mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn.
Ayana.- Phải làm sao mà diệt chúng nó chứ anh.
Tony.- Biện pháp duy nhất là ta phải hy sinh cạo bộ lông, cạo tóc. Không còn chỗ cho chí rận bu bám. Mỗi ngày ta nên tắm gội sạch sẽ, lấy DDT (thuốc diệt côn trùng) xoa đều lên bề mặt da. Làm như vậy cả tuần, thì chí rận mới “dứt điểm”, sẽ chết hết. OK! Đó là phần giải thích của anh là “bác sĩ mu rùa hóc môn”. Em thỏa mãn chưa?
Ayana.- Cảm ơn chàng. Nhà có quá nhiều kiến. Tại sao Trời sinh con kiến để làm gì? Tả và nói con kiến có công dụng gì. Cho em nghe nhe.
Tony.– Cô Nương! Coi chừng mùa nóng thường có nhiều kiến nhen. Bọn kiến tinh ranh, khôn đáo để đó em. Trời lạnh lẽo hay sắp chuyển mưa, là chúng biết trước lo dời trứng lên cao, phòng trú trên trần nhà. Trời nóng nó lại chuyển chỗ xuống đất. Vì thế, kiến không tha mình chỗ nào cả. Đâu đâu nó cũng bò tới “thám thính” được. Ngay cả tủ quần áo, khi không còn mùi long não (naphtalin), nó cũng chui vô. Nhất là nhà em có thịt, cá, chất béo, mỡ, mật ong, thức ăn, thực phẩm khô, là có kiến. Vì thế, anh phải cẩn thận với thức ăn. Mệt lắm. Em đọc đi: Ants hate cucumbers. Keep the skin of cucumbers near the place or ant hole. (Trị kiến: Kiến ghét dưa leo. Bỏ võ dưa leo gần chỗ có kiến hay ổ kiến).
Ayana.- Em hỏi chàng, vậy chứ con kiến có cái đuôi, như những con vật khác không anh?
Tony.– Ha ha ha!!! Công nương ơi! Đúng nguyên tắc thì con kiến có đuôi đó em à. Hổng phải nó có đuôi rõ ràng như đuôi chó, đuôi mèo, hay “đuôi phao câu gà, vịt”. Em có tin không? Kiến có đuôi, nhưng kiến có hai cái đuôi, chứ không phải một cái đuôi đâu em. Đuôi mọc ngược phía trên đầu. Mà ta nôm na gọi là hai cọng râu. Theo khoa học thì con kiến bài tiết trên các cành cây. Chúng liên lạc truyền tin với nhau bằng hai “cọng đuôi râu” nầy. Nếu loại kiến “cùng chung một nòi giống”, thì nó sẽ có chung một tần số âm thanh như nhau. Nếu khác giống nòi, nó tự động phát ra những tần số âm thanh khác. Lập tức nó dùng càng to cắt đứt đầu đối thủ. Nói chung, loài vật đều có đuôi cả, tùy theo dài, ngắn, to, nhỏ, cụt đuôi nữa.
Ayana.- Ồ thì ra... cọng râu con kiến cũng “hoá thân” là cái đuôi tinh xảo tuyệt vời đó anh nhỉ! Mấy loài khác, thì em thấy cái đuôi rõ rệt. Còn con ruồi, con kiến, khi xem trong discovery em "nỏ thấy”. Con kiến có thể nâng một vật nặng gấp 50 lần trọng lượng của nó, nó luôn ngã về phía phải khi bị ngộ độc. Kiến không biết ngủ. Anh à, mỗi năm, số người chết do ong đốt còn nhiều hơn cả số người chết do rắn cắn. Vậy, em tò mò về cái đuôi con rắn, thì có ở từ khúc nào nè anh?
Tony.- Cái đuôi của con rắn, theo anh biết thì tính từ khúc cuối cùng của các đốt xương sống. Nghĩa là từ 1/5 đoạn cuối cùng của con rắn. Đặc biệt ở Thái Lan anh và em đã chứng kiến người Thái biểu diễn màn xiệc rắn. Họ cho người đi du lịch “nhâm nhi” chút rượu thuốc ngâm rắn. Họ cho chúng mình rờ vô chỗ bộ phận sinh dục con rắn đực, nó chia ra làm đôi. Ổng ta nói ai mà rờ được chỗ đó đó, thì lucky lắm.
Ayana.- Em nhớ ra rồi. Hồi ấy thật thú vị, vui quá anh à.
Tony.- Còn tính về con người "tiền kiếp"... thì cũng có “cái đuôi” ngắn tủn ngắn tỉn như cục thịt thừa đó chứ em. Họ ưa chà đít xuống đá, để mài đuôi cho rụng đi. Nay mất gốc rồi, vì mọi sự yêu thương truyền cảm cũng từ “cái đuôi” mà phát xuất ra. Phải chăng đó là giây liên lạc mật thiết của con người không ha?
Ayana.- Anh nầy vớ va vớ vẩn. Bộ cứ “Nhân Chủng Học” là anh tin vào thuyết Darwin, thì loài người xuất thân từ loài đười ươi sao! Họ có cái đuôi rất ngắn. Nhưng sau vài triệu năm, thì cái đuôi của loài người rụng đi?? (Ah! Em lại tưởng tượng giống như con nòng nọc, con thằng lằng rụng mất đuôi!?). Rồi do cái thế đi đứng của loài người mình ung dung, hoàn hảo hơn, nên họ đứng lên, bắt đầu đi bằng hai chân. Chứ ngày xưa như trái đất, thì họ đi bằng bốn chân há?
Tony.- Vậy ra, em là “cái đuôi” của anh rồi. Anh phải “bảo-trì” thật tốt, cái đuôi yêu dấu của anh nha. Từ nay anh sẽ chính thức phong chức cho em là: “Người công nương quản-đuôi yêu dấu của anh”. Còn anh sẽ là NO của em: Nô nức. Nô đùa. Nô giỡn. Nô bộc. Nô tỳ. Nô lệ. Nô gia. Nô nhân. Nô dịch... No. No. No. Yes. Yes. Yes... của em suốt đời. Chịu chưa Mi Mi công nương nữ hoàng của anh?
Ayana.- Dạ vâng! Nhưng, anh cho em xin anh cái đuôi ở khúc giữa kia.
Tony.- Ui Trời! Sao em khôn thế. Nếu em là cái đuôi của anh. Tất nhiên em là hiện thân tình yêu trọn vẹn duy nhất từ đầu chí cuối của anh rồi. Em đã trở thành cái đuôi, mà em còn đòi yêu sách chọn khúc đầu, khúc giữa, khúc nầy, khúc nọ nữa. Thôi xin em hãy bằng lòng làm cái đuôi lý tưởng của con rắn nha! Em biết anh tuổi “Tân Tỵ” mà! Thì rắn đi đâu cũng phải “tha” cái đuôi kéo lết đi theo. Đi đâu rắn cũng “có đầu có đuôi” kéo lê thê lòng thòng cho em bu bám theo cùng. Hà gì em phải lo lắng, chọn khúc giữa cho ấm áp an toàn và chắc ăn hỉ!
Ayana.– OK Salem!
Tony. - Yes. Amen!
- Ha ha ha... Khuya quá rồi, chúng mình ngừng chat hỉ! Chúc em ngủ ngon và nhiều mộng đẹp. Anh hôn em.
- Em cũng vậy. Good night anh yêu.
***
Tình Hoài Hương

Mời độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
08-06-2018, 08:04 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 28
Truyền Nhân Nam-Khoa-Y
(Niệu-đạo-học Urologist)
Tình Hoài Hương
***


Trước ngày Hoàng Phương Nam (tự Hoàng Năm, Tony) và Hồng Hạnh chính thức trao lời “vĩnh biệt cố nhân”, thì hai người đã vui vẻ chuẩn bị chu đáo cho một ngày đi xa… họ ăn mặc chỉnh tề, đeo kính mát, mang theo hai mũ bảo hiểm. Các bạn đã tụ họp đông đủ ở góc trái trường đại học Văn Khoa, rồi cùng bạn đi thăm Tân. Năm đổ xăng đầy bình, anh chở cô từ Sài Gòn đi lên Nghiã Trang Đô Thành.
Cơn triều cường chảy hoài đến khúc quanh cầu Bình triệu, Thủ Đức... vẫn ngập tới nửa bánh xe, mặc dù cơn mưa chiều hôm trước không to lắm, nhưng nước ao tù bây giờ còn tụ đọng. Ồ, đó là nơi nhà ga cũ, nơi xưa kia mỗi lần đi qua đây, Năm và Hạnh ưa bị ngập lụt nước mưa, phải bỏ cả giày dép ra, hai người lội bì bõm dưới nước đen ngòm bùn sình hôi tanh, ngỏ hầu đẫy chiếc dream chết máy, khó khăn nhọc nhằn vô cùng, hì hục mãi không đẫy nỗi chiếc xe nặng như tảng đá. Hai người nâng đầu xe lên cao cho nước chảy ra. Sau đó, hai người gò lưng đẫy xe tới một đoạn hơn cao, có ít nước đọng hơn, Năm đạp xe hoài mãi, thì chiếc cúp từ từ nổ máy. Năm chen lấn đoàn xe đông như kiến đang bì bõm rì mò trong sình lầy, mặc dù nước đọng dâng cao, khách qua đường không ai nhường ai, họ chạy xe mau, khiến nước bùn văng bắn tung toé lên đầy ngực, đầy đầu cô.

Chỗ gần gần Gò Dưa luôn bị ngập lụt. Năm chạy xe đến cầu Gò Dưa mới có đoạn đường tốt. Chạy xe mãi đến gần ngã tư xa lộ Thủ Đức, anh rẽ vô lối đi tắt, đi lung tung vòng vèo đến nghĩa trang Đô Thành thăm bạn thân nhất đời đã về cõi vĩnh hằng. Gởi xe xong, khi mặt trời đứng trên đỉnh đầu, nắng và nóng kinh khủng, Hạnh mua một bó hoa, một bó nhang, hộp quẹt, nến. Hai người đủng đỉnh tới ngôi mộ Tân. Kịp lúc ấy nhóm bạn thân cũng vừa đến. Gia đình bạn chọn nơi nầy thật đẹp, chu vi nghĩa trang rộng khoảng 10 hecta thuộc khu đất gò cao ráo, phóng khoáng. Nơi mà hồi xưa Trung-tướng Mai Hữu Xuân đã mua, rồi nhờ ba của Năm đứng ra chăm chút cai quản.

Tân nằm trong nghĩa trang nầy (nghĩa trang uy linh tương tự như Arlington ở Washington DC), ấy là một vinh dự to lớn, vì Tân nổi tiếng là một bác sĩ khá giỏi. Trước ngôi mộ anh xây đá cẩm thạch đen khá cao, rất đẹp, bia mộ ghi đầy đủ tiểu sử. Hình Tân chụp vào độ tuổi trung niên coi phong độ, trẻ trung, vui tươi, hiền hoà. Sau lưng bia mộ lớn là tấm bảng đen bóng, trên đó khắc ghi bài thơ tiếng Anh, đại ý:
I burst into tears at my birth.
Whereas one laughed for congratulations!
Now I am brought at an early grave.
One mourns over me crying.
Only me that I smile quietly.
“Lúc tôi mới sinh ra đời.
Tôi khóc thét lên.
Mọi người đều vui cười hoan hỉ.
Nay tôi đã nằm xuống.
Mọi người tiếc thương và than khóc.
Chỉ riêng tôi lặng lẽ mỉm cười”.
(Chuyển ngữ câu tiếng Anh trên, cô không nhớ chính xác nguyên bản lời thơ ghi từ vết khắc trên bia mộ Tân, cô nhờ tác giả bài viết truyện dài nầy tạm viết thay). Hạnh cúi đầu lặng lẽ thì thầm gởi anh Tân lời tống biệt cuối cùng:
- Thôi anh Tân ơi! Nếu em có khóc thương tiếc nuối anh. Thì... bây giờ em đành chấp nhận sự thật của tạo hoá ngàn năm an bài: Sinh. Lão. Bệnh. Tử. Sống. Gặp gỡ. Vĩnh biệt, chia tay. Có tựu rồi tan. Có sống rồi chết. Ai ai cũng phải bước qua “cái Ải buồn phiền đau đớn kinh hoàng” nầy! Hạnh thật buồn, và rất qúy trọng anh Tân. Anh biết không? Nhớ ngày đầu tiên cách đây bốn bảy năm, hồi xa xưa rất xa em quen anh … đó là ngày em và anh Hoàng Phương Nam tạm biệt nhau ở trên bến xe Đà Lạt, gần tiệm cà phê Domino. Dù chỉ gặp và trò chuyện cùng anh Tân không đầy mười lăm phút, nhưng em thấy anh vui tính, hiền lành, hóm hỉnh, có duyên, và dễ thương. Có một điều bây giờ em vô cùng nuối tiếc về anh. Vì, sao anh lặng lẽ ra đi quá sớm, trong khi chương trình làm việc của anh còn đầy ắp bề bộn thế nầy? Thật quá uổng. Anh đã làm một chuyện rất tốt đẹp mãi lưu truyền đến ngày nay. Mặc dù anh chết đi, nhưng anh đã để lại một kho tàng vô giá cho y học (nói chung, và cho cánh đàn ông nói riêng). Em nhìn đúng khía cạnh thuần tuý về nghề nghiệp chuyên môn của anh, em không nghĩ là anh Tân “khích dục hay gia tăng độ dâm đãng” như một số người khác đâu. Anh hãy lắng nghe em, anh Năm, Sơn, Hương, Trung và Lan… đã từng thảo luận về việc nầy nè:
* Đây là một khía cạnh không kém quan trọng của xã hội. Rất ít ai dám mạnh dạn đề cập đến. Ai cũng sợ nó. Vì nó tế nhị, nhạy cảm (nếu không muốn nói là hơi trắng trợn). Vã lại, nếu đàn ông mà không “làm tròn bổn phận truyền giống thiêng liêng cao cả tuyệt vời” trong điạ vị cuả người chồng đối với vợ. Người nam nhút nhát thú nhận “mình bị bất lực”; thì còn gì là “đàn ông tính”! Ở đây chúng ta hoàn toàn không đề cập đến vấn đề “trai gái lố lăng, lẵng lơ đĩ thoả” nhen.
* Khoa Y học NIỆU nầy chính thức công nhận chỉ chừng 20 hoặc 30 năm nay. Gọi đó là: Nam Khoa Andrology - được phơi bày rõ ràng ra dưới lăng kính Y Học nghiêm túc, đứng đắn, đàng hoàng, cần thiết rất khoa học - (chứ không phải dưới lăng kính kích dục, cường dục, hay... dâm đãng, điếm đàng cuả thói trăng hoa đĩ thoả vui chơi). Trước kia, chỉ có khoa trị liệu về các bệnh liên quan về Niệu. Còn chuyện kín đáo riêng tư “tế nhị phòng the” giữa tình yêu đắm say vợ chồng, thì ai ai cũng sợ bị lộ ra. Họ sợ nói ra chuyện ái ân thì... người khác sẽ chê mình… “phóng đãng dâm tặc”.
Năm có một phần suy nghĩ trong vấn đề nầy:
- Nhất là một số các bà vợ cho rằng: do chồng mình ưa bay bướm, đàng điếm, ăn chơi, sa đoạ, mà ra nông nổi, thì “bị liệt”. Chứ gì!?
Nhóm bạn nam nữ ngẩn ngơ nghe Sơn phản đối kịch liệt:
- Tầm bậy nữa rồi. Khoa nầy hiện nay đã chứng minh được sự cần thiết của môn y học. Do dân số trên thế giới đa số trên 65% đã rơi vô tuổi khá cao, nếu chưa muốn nói là già. Còn lại 35% là tuổi trẻ. Do đó những vị cao tuổi của NAM và NỮ, đều cần thiết là dùng Andrology. Nếu, họ muốn có cuộc sống gia đình hạnh phúc lứa đôi trường tồn.
- Em nghĩ anh Tân chọn ngành Y nam khoa nầy, chỉ vì xu hướng cá nhân. Vì chính anh Tân đèo bồng một lúc ba bốn bà. Nè: hai bà vợ lớn, bé. Cộng thêm hai bà bồ hờ kia nữa, là gì!?
- Không đúng đâu. Trước kia, Tân chỉ là một bác sĩ đa khoa giỏi. Vấn đề bạn Tân theo môn Nam Khoa, không phải tự ên do Tân hứng khởi đề xướng ra, (nhất là ở Việt Nam có phong tục tập quán cổ kính khác biệt hẳn Tây Phương). Mà là do một vị giảng sư đại học Y khoa: Lichsteinberger - là tên của vị linh mục khả kính trong dòng Tên, ông ấy là một bác sĩ rất tài ba, xuất chúng trên nhiều lãnh vực y khoa. Sự trở về ngành chuyên môn là do Tân tình cờ mà thôi: Lúc ấy có một bác-sĩ giảng-sư dòng Tên, khi cùng làm việc trong bệnh viện ở Việt Nam, ông ta đã khuyên Tân:
- Anh nên chọn về ngành Y-Nam-khoa. Vì cánh đàn ông các anh rất thiệt thòi. Anh có điều kiện, nên lưu ý về khoa đặc biệt nầy. Tôi hy vọng anh sẽ phát huy y-học Nam-Khoa tốt, để giúp nam giới trong vấn đề tình yêu vợ chồng.
Thế là sau khi về Pháp, vị linh mục đó gởi cho Tân những tư liệu, tài liệu, sách vở chuyên môn, để Tân nghiên cứu, nghiền ngẫm, học hỏi thêm. Ông bác sĩ dòng Tên ấy nghiên cứu kỹ về những cặp vợ chồng, về hạnh phúc lứa đôi trong xã hội. Do thực tế là ông ta hoàn toàn không có điều kiện để phát huy hay thực hành. Vì vậy, ông ta truyền đạt vấn đề nầy cho môn sinh giỏi nhất. Tấn làm “truyền nhân” nghiên cứu kỹ càng. Thành thật mà nói: Không biết bao giờ ngành Y học Việt Nam mới có được một bác sĩ khác được kết nạp vô E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới). Vậy thì, em không nên nghĩ đó là chuyện “kích dục dâm ô”.
Lan góp ý:
- Em chưa đồng quan điểm với các anh... về việc nầy tí nào cả.
Trung nhìn vợ:
- Tại sao em cứ nhìn “nó” với bản năng tầm thường bé nhỏ của một người đàn bà ru rú thu mình trong trôn ốc? Như con ốc len rụt rè nhút nhát thò ra thụt vô? Mà em không chịu vươn mình lên đỉnh cao của y học, nghệ thuật, và sự thật!? Anh hỏi em: Tại sao nữ giới đã có phụ-khoa, có sãn-khoa? Trong khi đó người đàn ông không nhiều thì ít, cũng bị “trục trặc” yếu xìu về vấn đề ấy, thì họ lại không được phép đi khám Nam-khoa? Theo như thống kê gần nhất, đàn ông từ 40 -> 60; 70; 80 tuổi - đa số bị trục trặc đến 65%, 85%. Mà chả có môn y-học nào để chuyên trị! Hở? Không công bằng.
- Có phải anh gián tiếp khuyên em: Hãy cứ nhìn vấn đề Nam-khoa một cách khoa học, chính chắn, lành mạnh. Em sẽ thấy nó bổ ích cho nhân loại. Chứ không phải để cánh đàn ông lợi dụng điều đó mà đi “ăn chơi” trác táng nơi ổ tú bà chắc?
- Ứ ừ, nó phục vụ cho sự hoà hợp gia đình giữa vợ chồng. Em cứ nghĩ anh như vậy, thật oan ơi ông địa! Đó là quan niệm chung của một số ít phụ nữ có chút mặc cảm về chồng mình bay bướm.
- À ra thế! Vì lúc đề cập đến chuyện nầy, có không ít đàn bà Việt Nam “kín cổng cao tường rất khó nói”. Biết thắc mắc cùng ai? Ngày nay Tân đã dày công nghiên cứu y học, mạnh dạn phổ biến trong Nam-khoa chuyên về Niệu-đạo-học Urologist nè!
- Đúng rồi Hạnh ạ! Ta hãy cùng nhau nhìn vô lăng kính Y-Học mà tìm hiểu, nghiên cứu, nghiền ngẫm lại em nhé! Anh công bằng, lấy công tâm ra để cùng nhau chia sẻ, tâm tình, tìm hiểu. Nói về vấn đề tế nhị, anh không có ý tranh chấp chuyện nầy với em. Hoặc bất cứ với ai gì cả. Nhá.
- Dạ vâng! Thưa ông tướng!
Năm hóm hỉnh nhìn người yêu:
- Ông... Tướng gì nào?
- Tướng công E.D.A.C.T (Hiệp Hội Suy Nhược Dương Cường Toàn Thế Giới) đó!
- Vậy, em sẽ là nữ “trợ tá đắc lực của Urologist”. Nhen.
- Ha ha! Hổng dám đâu. Thưa Tướng công E.D.A.C.T. Nay họ đã già lắm, cuộc tình giữa hai người: thật ra chỉ là an ủi, sẻ chia trên phone khi vắng xa nhau, thân thiết, nồng nhiệt, vui vẻ, nâng vực nhau những lúc gặp muộn phiền, thất vọng nào đó. Chúng ta nói chuyện đôi khi ba xàm ba láp, mà ân cần san sẻ, có chút xí vui vui và hữu ích. Cho đến một ngày nào đó… có một trong hai người vĩnh viễn nằm xuống, đành đoạn rứt áo ra đi... Thế thôi.
***
Nói rất thật tình thì Hạnh không hề ưa thích gì bà Hoà (là bà vợ bé của bác sĩ Tân). Vì cô cho rằng: Bà Hoà giựt chồng người! cô nghĩ cánh đàn ông các anh ưa bênh vực nhau. Nhất là Sơn, Năm, Trung, họ với Tân thân thiết từ hồi còn bé tí, họ coi nhau như ruột thịt. Kể cả con nhỏ Sáu (cháu ruột cuả bà Thủy) đã ngồi nói chuyện về mấy anh ấy và bà Thuý thế nầy:
- Cháu kêu bà Thu bằng dì, cháu mới thấy thấm thía nỗi đau của dượng Tân. Chỉ vì dì Thu và dượng thuở còn non trẻ: đã bồng bột vội vàng làm đám cưới. Khi họ chưa thật sự thấu hiểu nhau, khi làm vợ chồng rồi, họ mới lộ ra cả trăm điều trái ngược, mà không ai có thể ngờ! Nhất là sau nầy khi dượng Tân đã thành danh trên đường đời. Dượng càng không thể chấp nhận có một người vợ kém cõi thấp sút từ mọi mặt. Lỗi ở dì Thu không biết ngọt ngào chia sẻ với chồng, dì càng không đảm đang vui vẻ tháo vát. Theo cháu nhận xét thì: dì Thu vốn là cô gái nông thôn hơi nhà quê, ít học. Vì thế lối ăn nói cuả dì thiếu suy nghĩ, xử trí kém cỏi, không tế nhị, vô duyên, lại có chút trẻ con, lười biếng và vô trách nhiệm. Ở nhà dì ưỡn ẹo rông rống ngồi chơi xơi nước, dì không làm gì cả. Nhàn cư vi bất thiện mà! Có tật xấu là khi dì Thu tức giận, thì chuyên môn đi ngồi lê đôi mách nói xấu người nầy, nhún vai chê trách người kia. Dì Thu chẳng chịu đi chợ búa cơm nước gì, chồng đi làm về luôn đói meo. Thế là dượng bỏ nhà “đi ăn…” mệt nghỉ. Trước tiên là “tốn tiền”, sau đó lây lan qua “tốn tình”! Dì nói:
- Tội gì chợ búa cơm nước chi cho mệt. Ổng làm tới chức bác sĩ, bác sĩ thiệt à nghen, có nhiều tiền ổng cho gái ăn cũng vậy. Tui cứ kêu người ta bưng cơm tháng, tội gì tui chui vô bếp cho khổ! Ổng đi… coi kià:
Đi đâu? Nay mới về nhà???
Có thấy xó góc chổi chà dựng bên
Tôi hỏi: [“chỉ một mình ên
Sao mà thì thọt góc thềm làm thinh? (*)
Hạnh ngậm ngùi nghe cô cháu gái cuả bà Thu kể tiếp:
- Cộng thêm tính ghen là số một, dì Thu làm mất danh dự chồng không kể xiết. Đúng ra, dượng rất mất mặt với bạn bè khi mang vợ ra ngoài xã hội giao tế. Dì Thu luôn đốp chát những câu thiệt vô duyên, như gáo nước tạt vô mặt bạn. Sau nầy, dượng gặp bà Hoà thì khác hẳn. Bà Hoà là y tá, Tân yêu bà Hoà thông minh, tế nhị, khôn ngoan, đảm đang, vui vẻ. Có thể nói Tân rất hãnh diện vì đã gặp và yêu bà Hoà (làm vợ lẽ). Vì thế, thời gian sau dì Thu cứ buồn xo “ngồi trong bóng tối”.
Cô liếc nhìn anh Sơn (bác sĩ gia đình) Sơn dò hỏi. Anh gật đầu:
- Ừa, Sáu nói nghe thật lạ lùng! Vậy mà thật đó. Bà Thu có ba đứa con với Tân, nay con cái khôn lớn, thành đạt cả. Các con Tân rất yêu mẹ. Tân đã tạo cho bà Thu có cái nhà tươm tất, có cửa tiệm để mẹ con sinh sống. Đặc biệt là Tân chưa hề ly dị với bà Thu. Trên pháp lý mọi tài sản đều là của Tân (Tân chưa làm di chúc để lại). Theo anh nghĩ có lẽ Tân không ngờ... Nên, em đừng nghĩ rằng bà Hoà “cướp” hết nha: Chồng, và hai tài khoản: Một bank tiền Việt Nam. Một bank tiền USD. Bà Hoà chỉ giữ mấy quyển sổ ghi bệnh nhân của Tân thôi. Bà Thu vợ chính thức mới là người thừa kế tài sản (khi Tân nằm xuống xuôi tay, ba đứa con cuả bà Thu rất tốt, đã xúm lại thuyết phục mẹ chúng, nên làm giấy ủy quyền (vợ lẽ cuả cha); là cho bà Hoà có tiền nuôi hai đứa em nhỏ cùng cha khác mẹ. Bà Thu rất thân với bà vợ cũ của Năm. Hai bà có những tính giống nhau, nên mỗi lần gặp mặt, là họ xúm lại chưởi Năm và Tân ác liệt. Thật oan uổng và tội nghiệp lắm em! Hãy lấy công tâm mà xét xử công bằng đi.
- Thì anh cũng kinh khủng không vừa gì! Chắc anh muốn nói: Tình yêu chân thật phát xuất từ hai trái tim đồng điệu, thông cảm. Thì sự cần thiết ấy không có tội, có lỗi. Phải không nà?
- Thôi em! Moi móc làm gì. Chuyện buồn mà! Anh không muốn tranh luận với em điều nầy. Có thể em nghĩ anh không công bằng, thiên lệch; khi anh chỉ đến thăm mẹ con bà Hoà, mà hầu như ít đến thăm mẹ con bà Thu (vợ chính thức). Nếu em biết sự thật, em sẽ thấy anh có lý. Tân cũng “đào hoa” ra phết đó em à. Ai có ngờ con người coi có vẽ chậm chạp, lù đù, hiền lành, ít nói. Thế mà có khối bà, khối cô mê Tân tít thò lò! Kỳ xưa, anh ta bị “hai bà: vợ lớn, vợ bé” đuổi Tân ra khỏi nhà, chỉ vì anh ta có thêm “bà Ba” nữa mới chết! Tân phải đi lang thang ngoài phố, ăn cơm quán, ngủ hotel suốt một năm. Ấy là vì hồi đó Tân lại cặp một con bồ xinh xắn luôn xà nẹo bên Tân. “Một vợ nằm giường lèo. Hai vợ nằm chèo queo. Ba vợ ra chuồng heo mà... nằm”. Hồi đó Tân định thuê nhà để “bà thứ ba” đó về ở chung nữa, mới ghê.
- Trời! Thì hồi đó chính Sơn thuê nhà cho Tân ở đó mà. Cả đến bây giờ, khi Tân chết rồi, lại có cô bác sĩ trẻ măng mê Tân hết sức. Lúc sắp sữa liệm Tân, cô ta chạy ra ngoài ôm mặt khóc nức nở! Cô bác sĩ nầy trẻ lắm, chỉ hơn con của Tân ba tuổi là cao. Tôi có biết cô ta. Theo tôi nghĩ có lẽ do cô ấy quý trọng tài năng của Tân, thì đúng hơn. Nghe chị nói, tôi mới té ngữa ra. Ai dè cái bề ngoài Tân đạo mạo, nghiêm trang. Mà ẩn chứa trong lòng những “sống động tình cảm cuồn cuộn sôi sục cồn cào” chứ. Có điều làm sao mà anh ta “dàn xếp” tuyệt hữu khi chia tay với bà nầy, hẹn hò chung sống với bà kia yên ổn ha. Dù họ:
BA BÀ đấu khẩu bên thềm
Nạt nhau đừng có vác mền giữa đêm
Lưng dài cao cẵng lại thèm
Suốt đêm anh lỡ say mèm “Phở, Bia”
Cơm không thể nuốt "ôm bia mộ” buồn!!! (hê hê hê!!!)
Lỡ "khiêng về" BA vợ khùng!!!
Bởi vì: Bà (1) nói lung tung,
Bà (2) trợn mắt. Bà (3) lủng củng trong mùng (*)
Lâm cười cười:
- Có lần đám bạn gặp nhau, Tân mời chúng tôi đi ăn cơm rồi giành trả tiền. Tân moi trong ngăn bóp tờ một trăm xếp nhỏ xíu, nhét kỹ một góc kín.
- “ÔNG ở góc phố cuối vườn. Trốn đâu BÀ cũng tìm đường tương chao”! Nhưng bây giờ chết đi, Tân chả mang theo được đồng nào. Thậm chí mấy nút áo, nút quần, cũng bị lặt ra để lại trên trần thế. Theo tục lệ Việt Nam, họ nói phải cắt hết mọi thứ để lại, không có đem theo sắt đá nút neo gì hết. Xác mới nhẹ nhàng, dễ siêu thoát. Tuy vậy Tân chết đi, còn để lại mối ưu phiền cho hai bà vợ, cùng bầy con hai dòng máu một cha khác mẹ, quả thật là rất buồn! Thiệt!
Xét cho cùng, Hạnh vẫn thấy thương bà vợ lớn hơn. Bà lớn tất nhiên không khôn khéo, thất học, không biết cư xử, không biết cách giữ chồng, (như lời cô Sáu và Sơn nói). Nên bị người khác giựt chồng là phải! Vì bà lớn quá yêu chồng, sợ mất chồng, nên “kè kè giám sát” từng hành vi, cử chỉ chồng. Khiến anh ta nổi giận vì sự ràng buộc khắt khe quá mất tự do, mà... xa! Còn bà nhỏ lanh lẹ, khôn ranh hơn là ngoan, có học, tinh tế là có chủ đích cả! (như lời anh ca tụng). Bà Hoà rất biết Tân có vợ con “đình huỳnh”. Nhưng bà ta ngầm ngầm ma lanh câu móc chiều chuộng chồng người. Vỗ về an ủi chồng người! đương nhiên nhào vô giựt chồng người... Anh cho là... là phải nốt!?
- Thôi, dù sao cũng là chuyện nói cho vui, chứ chả còn gì! Giữa hai bên chỉ là khoảng trống mênh mông. Thấy tội cho mấy đứa nhỏ con cuả hai người đàn bà: chúng cũng là anh chị em ruột cùng cha khác mẹ, mà hai bên chưa bao giờ quen biết nhau, từ xưa đến bây giờ, và mãi mãi... Họ đứng trên hai “chiến tuyến” khác hẳn nhau.
*
Tình Hoài Hương

(*) Thơ Vui Tình Hoài Hương
Kính mời độc giả xem tiếp chương sau.
Trân trọng
*
Tình Hoài Hương

Tinh Hoai Huong
08-19-2018, 06:24 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1533539676-1A HH chup 4.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1533539130-Neu Co Yeu Toi ElvisPhuong.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 29

Date: Mon, 15 Jun 1998 00:15:34 -0700 (PDT)
From: "Tony Dautry khanhson21Saigon"
Add to Address Book Add Mobile Alert
Subject: Thư mang số # 4001 * Anh trao em: lời tuyên xưng tình yêu.
To: "wit" < tio1@yahoo.com >
*
Tìm Về Hương Xưa
Tình Hoài Hương
***


Em "Mun" yêu ơi! khi anh đọc những câu chuyện tiếu lâm sưu tầm, lượm lặt trên báo chí, không thể nhớ hết rất vui… Ồ! những chuyện ấy dường như giống y chang câu chuyện đau khổ của “thằng tôi” thế nầy: *Sáu tuần đầu: - Anh yêu em, hy vọng em sẽ thích sợi dây chuyền anh tặng. Trông em như thiên thần trong bộ đồ này. Mình sẽ đi nghỉ vài ngày ở nơi nào đó em thích. Chúng mình cần một phòng là đủ. Không nghe em nói, anh nhớ lắm. Ở cạnh em là anh vui rồi. Giọng em cứ líu ríu như chim hót ấy, anh nghe cả đời không chán. Em có đói không, em thích ăn gì, anh chạy xe đi mua về cho. Món ăn có vị hơi lạ, nhưng là sản phẩm của chính tay em làm nên, thật tuyệt vời. Mỗi ngày một lần, suốt đời em nhé.

* Sáu năm sau: - Lương đây, muốn mua gì tự đi mà mua. Suốt ngày quần với áo. Cần có bốn phòng mới được. Du lịch làm gì, ở nhà có chết ai. Im lặng một lúc không được à, sao cứ quàng quạc như vịt suốt ngày thế nhỉ, không biết mệt à? Em đi một mình được rồi. Ăn gì mà ăn lắm thế, người ngợm béo ú lên kia kìa. Nấu ăn thế này ai nuốt nỗi hả trời, vợ với chả con. Để yên cho tôi ngủ, khều khều cái gì. (Quang Tri).
Thì... thằng đàn ông trong anh bắt đầu có ý muốn trở lại cuộc sống thảnh thơi thuở xa xôi lúc còn độc thân, ngỏ hầu có sự thoải mái vùng vẫy tung tăng tự do từ thuở còn là sinh viên đầy nhiệt huyết và thanh nhàn. Ngày ấy sao mà vui vẻ, an hoà, hồn nhiên đến thế! Anh vẫn xót xa nhớ về những ngày tháng: Xuân, Hạ, Thu, Đông lúc “yêu hương xưa của tôi” đậm sâu, vì mối tình của “chàng PH với nàng HH ấy” trong sáng, hồn nhiên, an lành, ngọt ngào xiết đỗi.

Anh nhớ những con thác cao chảy xối xả xuống lòng thung, những cội thông xù xì thân vút cao, cây đan cây cành đan cành sừng sững đứng thẳng tắp reo vi vu vui tươi trong gió rì rào. Anh nhớ những buổi chiều mùa Thu trời vẫn vũ mây xám ảm đạm, có áng mây vàng phơn phớt tim tím lãng đãng bay bay dưới chân núi. Rồi mây lã mình nằm im trên đỉnh Lâm Viên, từng bè mây bồng bềnh lờ lững trôi trôi… chờ đợi ánh sao hôm về vần vũ ôm lưng đồi. Gió hiu hiu và mây lãng đãng rủ nhau về qùy gối trên mặt hồ im sóng. Có ngày trời Đông vần vũ mây xám, từng cuộn mây nặng trĩu tà tà bay lướt thướt quấn quít ngang đầu người, cơn mưa phùn lăn tăn li ti, nhỏ lí tí như bụi phấn nhẹ tênh bồng bềnh nhấp nhô uốn lượn trong không trung, mưa âm thầm đậu từng lớp mỏng tanh trên mái tóc lữ hành.

Anh nhớ tháng nầy qua năm khác tiếp tiếp, núi đồi Đà Lạt hùng vĩ điệp trùng cao ngất, ngút ngàn, mướt xanh. Thấp thoáng nhiều mái nhà mờ mờ ẩn hiện trong hơi sương bàng bạc, nhạt nhòa, những con đường mòn đất nâu vàng uốn quanh co sau lùm cây bướm bạc mong manh, và bụi sim tím ẻo lả đong đưa. Thành phố núi cây đan cây điệp trùng vòng vòng quanh quanh co co, nhấp nhô uốn lên uốn xuống chập chùng như lượn sóng. Anh tưởng tượng ra “chàng cùng nàng” đang thì-thầm bên nhau. Và, này em yêu! Chính những giờ phút u hoài, trầm lặng, một mình anh lặng lẽ trầm ngâm trước ly cà phê đen như cuộc đời mình, thì anh mới cảm thấy quá chua chát, ân hận xót xa biết bao em ơi! Khi anh muộn phiền cô đơn, lạc loài, ray rứt đau buồn, anh chỉ biết mơ về em, nghĩ về em, rất nhớ em, nhớ mối tình đầu tiên trong sáng, nên thơ và romantic khó quên trong đời anh vô vàn.

Em ôi! Thật thế, anh nhớ và vẫn yêu em biết bao! nhớ mùi hương xưa đằm thắm xiết đỗi trìu mến. Tự trong đáy lòng anh, tự nơi sâu lắng nhất của tâm tư, tiềm thức anh trỗi dậy tiếng nói thì-thầm, hân hoan vui thích, rồi than van áo não dày vò trong tuyệt vọng. Con tim anh đau xót, muốn vỡ tan ra trăm ngàn mãnh, dù biết chúng mình trót trao niềm đau chia ly: là đã thật sự vĩnh biệt nhau nghìn trùng mất rồi! Thế mà từ ngày ấy đến nay anh đâu có ngờ… anh vẫn lặng lẽ đi tìm kiếm em, tìm dấu chân buồn tênh trên lối cũ nẽo xưa. Anh bồi hồi cười một mình, khi đôi mắt anh vô tình có giọt nước mọng ướt rung rinh trên mi, (có phải anh đa tình lãng mạn quá không em?), như giọt mưa lãng vãng làm chao đảo lưng trời xám xa xôi ngày ấy: Vào một ngày nào đó thuở trước, anh và em đã dạo bước dưới mưa, hai đứa bị ướt hết áo quần. Mưa rơi lộp độp êm êm trên chiếc dù xanh lục khi anh và em cùng che chung, dưới mưa mình âu yếm trao nhau mấy nụ hôn say đắm nồng nàn, hân hoan. Sau đó vui cười chọc ghẹo nhau. Anh đã nói:
- Đó là do chúng mình gọi mưa đến để xin những giọt nước long lanh, tạo thành những nốt nhạc ru tình về ngủ quên trên bờ vai đôi ta mà em.
- Do trời ưu ái ban tặng giọt ân tình cho mình há anh. "Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách" của cụ Đàm Thận Huy. "Sắc bất ba đào dị nịch nhân". "Mưa không có khóa mà có thể giữ khách". "Sắc đẹp chẳng có sóng nhưng dễ làm người ta chết đuối" do ông Nguyễn Giản Thanh (đỗ tiến sĩ cuối đời Lê) làm câu đối với cụ Huy, hay quá anh nhỉ. Nhưng mà em thấy anh ca... không giống ông Giảng Thanh, mà anh ca cải lương với em, có phần phụ hoạ từng cơn mưa phùn đó.

Em! Có còn nhớ về ngày ấy không hở?! Nay thì, anh mang chiếc dù đen to thô cứng, nặng trĩu ưu phiền trên vai, và trên tấm lưng mình còng xuống những cố gắng vĩ đại. Một mình anh đi trên con đường Sài Gòn ngập đầy nước mưa (trộn lẫn sình và nhiều rác rưới) ào ào trút xuống thành những vũng bùn chảy ven kinh Nhiêu Lộc, làm ướt sũng đôi chân mình do dự ngập ngừng mỏi mệt. Anh đi trong hiện tại, mong tìm kiếm một hình ảnh cũ quen thuộc trên lối mòn xưa. Dù anh biết là không thể nào! Em ơi! anh khóc thầm, tiếng nấc khô không một giọt lệ, không nức nở. Cảm thấy đau khi anh tự lừa dối mình, anh muốn ru lòng tịnh yên. Hầu như trọn đời, ngàn năm anh luôn đi tìm hạnh phúc mới ở đâu đó. Rất có thể xa xăm đến cuối một đời người… nhưng có lẽ anh sẽ không bao giờ gặp?!
***
1994 - sau bao năm dài đằng đẵng chia xa cách biệt em, nay anh “mạnh dạn” gò lưng trên ghế, tay đặt trên bàn phím để hồi hộp gõ cho em E-mail nầy: Dù thời gian lặng lẽ trôi đi, cùng bao nhiêu biến đổi thăng trầm uốn khúc trong cuộc sống chất chồng, bao năm buồn vui đau đớn không có cách gì tả xiết. Thế mà vượt cả đại dương mênh mông, cả một quãng đời lê thê quá dài! cả một cuộc đổi thay kinh hoàng về muôn mặt! cả sự chia xa nghìn trùng! Ấy thế mà... cuối cùng anh và em còn gặp lại nhau. Thú vị xiết bao. Ôi! Tuyệt vời làm sao! Bao nhiêu thăng trầm ngày xưa như cơn bão thổi qua đời, nếu chúng ta có nhắc lại đôi điều về quá khứ tiềm ẩn trong trà qua vị chát, chút ngọt và thanh nơi cuống cổ pha xí đắng, thì đó là kỷ niệm buồn vui xếp lớp lăn tăn, cũng là dĩ vãng dịu êm, để chúng mình chờ đợi ngày mai tươi sáng huy hoàng, tốt đẹp hơn.

Bấy giờ đã có anh, có em, có tương lai, cuộc đời của chúng mình trong happy ending! Phải không em? Ngộ quá, anh nghĩ mãi không ra: khi anh ở Mỹ thì em ở Việt Nam, từ lúc anh trở về quê hương, em lại leo lên phi cơ dông đi Mỹ. Cũng giống như anh không còn mang tên cũ, mà kể từ khi trở về Việt Nam, anh làm rắn “lột xác” đã có tên từ lúc cũ mèm Hoàng Nam Tony từ hồi bé tí xiú. Và em bay qua Mỹ lúc vô quốc tịch lại “thay da đổi thịt” thành Jacqueline Ayana đó thôi. Huề nhen.

Em ơi! Bây giờ xin nói về chuyện riêng cuả gia đình anh chút xíu nhen em: Mới có mươi năm lạnh lùng trôi qua, mà cuộc sống gia đình nầy cuốn phăng đi tất cả, xô mỗi người về mỗi ngả tách bạch, chia lìa. Có chăng, chỉ mờ nhoà hình ảnh thu nhặt được bức biếm hoạ khổng lồ lặng lẽ lướt qua dòng đời. Mà, bốn bàn tay run run cuả “hai đứa nầy” không thể vun xới hạnh phúc, không thể níu kéo dĩ vãng về bên khung cửa gia đình mình ấm áp hơn. Một lần kia sau khi đi làm về, vô tình anh gặp bọn Bảo, Điều, Trương Anh, “Bích đen” ở Đà Lạt hồi xưa… Thế là anh cùng chúng nó rủ rê nhau vô động hút. Dạo trước, trước khi lấy vợ, anh chỉ đi nếm thử món nầy, hút chút chút cho vui, không ghiền. Nhưng sau nầy, khi đã có vợ, có con, do đau buồn vì cá tính vợ chồng khá trái ngược nhau; anh lại gặp bạn cũ “quá tốt, tốt phát ghiền" trì kéo rủ rê, nên anh không thể kềm chế bản năng tình cảm ủy mị yếu hèn và nhu nhược (!?). Anh muốn lẫn trốn hiện tại, không thích bị khống chế hay ràng buộc bởi mệnh lệnh của bà vợ, nên buông thả đời mình, anh đi hút thuốc phiện giải khuây mỗi ngày, riết rồi đâm ra ghiền nặng. Than ôi!

Anh nhớ thời kỳ anh còn du học bên Mỹ. Vui sao là quá vui em à. Bây giờ sau khi anh có vợ con, thì còn gì nữa? Mất hết tất cả rồi! Tháng ngày lặng lẽ trôi qua, anh gượng sống trong sự đau khổ tột cùng từ gia đình nhỏ nầy. Anh ước mong sao giông tố chóng qua, vợ chồng anh cố gắng vươn lên, sẽ có dịp tìm hiểu, chí tình chia sẻ và thông cảm, thấu hiểu nhau hơn. Nhưng không có được mấy ngày vui? Hay gia đình nầy sẽ như chiếc thuyền nan lỏng lẽo, bồng bềnh lênh đênh trôi trên cơn cuồng sóng đầy vũ bão, mà vỡ tan lúc nào chẳng biết!? Định mệnh đã chơi xỏ anh một vố khá đau, không biết bao giờ “nó” mới buông tha anh trong cái khuôn đúc nhiều đau khổ, sóng gió và thử thách? Không gì đau hơn khi bà vợ muốn ngự trị chiếm hữu chồng trọn vẹn: từ vật chất, thể xác đến tâm hồn của anh, vì:
Tình vợ mà có muôn đời.
Phải nhường vợ chức "đương thời quan gia".
Muốn vợ trẻ mãi không già.
Lưng ta chắc phải như là "parabol".
Tính chất vợ thì phải tuân.
Kẻ làm lính phải luôn luôn thật thà.
Nấu cơm, đi chợ, quét nhà...
“Quan” gọi thì dạ, bẩm bà có ngay. . (Biendong07)
Bà vợ "làm bá chủ" không cho ông chồng nhúc nhích cục cựa mảy may à. Vợ ép chồng vô con đường cùng, không lối thoát, bà ta muốn khống chế anh trên mọi lãnh vực. Bà không dành cho chồng một khoảng trống tự do thoải mái nào. Vợ không thấu hiểu cho chồng là anh rất cần có chút riêng tư trên nhiều phương diện (mà bà vợ ấy không nên xen lấn vào). Thế nhưng đôi khi anh nghĩ: bởi vợ có những hành động như thế, là cũng có phần đúng trong cung cách của một người vợ yêu chồng thật. Tuy nhiên, vợ anh không khôn ngoan mềm mỏng tế nhị, khiến lòng mình có những phản kháng đi ngược lại lời yêu cầu của bà. Thế là từ đó vợ chồng sống trong một bi trường kịch, hai người không thấu hiểu nhau, chẳng thể thông cảm, hiểu ý và chia sẻ lẫn nhau.

Thật đau khổ kinh khủng cho cuộc sống chung nầy! Mặc dù, có thể là cả hai người đều cố gắng dùng hết nỗ lực, hầu đưa gia đình mình ngoi lên từ bậc thang hạnh phúc dù đơn sơ, tầm thường nhất, cố gắng hàn gắn vài nụ cười thân thiện, trìu mến, ân cần, để bay tới một tuyệt đỉnh yêu thương chân thật, trang trọng hơn. Khốn thay! dự tính ấy không bao giờ trở thành sự thật, khi hai người ra toà xé giấy hôn thú, như quăng bỏ đời mình vô sọt rác, dù ba đưá con gái gào lên trong vô vọng. Người đàn bà có yêu chồng, mới ghen. OK! Có nhiều cách ghen:
1- Ghen -khôn ngoan tế nhị kín đáo- để bảo vệ hạnh phúc và không làm mất danh dự gia đình. Rất nên.
2- Rất yêu chồng, nên em dịu dàng âu yếm và nũng nịu. Không muốn chồng "ngựa cũ quen đường xưa". Tốt lắm.
3- Ghen đằm thắm ân cần khuyên bảo chồng, để đem lại vinh danh cho chồng.
4- Ghen - để rồi đem đến cho chồng sự nhục nhã ê chề, chưởi bới mầy tao, con nầy thằng kia xối xã, mất mặt chồng giưã đám đông. Không nên.
Ghen- vì chồng "quá quắt" lắm, khiến vợ bị tổn thương tình cảm - người vợ không tôn trọng người chồng. Ghen: vì chồng có làm sao, vợ mới ghen dữ dội- "không có lửa làm sao có khói"! Nếu chồng chung thủy không trăng sao bay bướm, thì vợ biết ghen với ai đây!? Anh nghĩ em là người khôn ngoan đằm thắm, thông minh tinh túy dịu dàng trong tình nghiã vợ chồng, hẳn là em sẽ chọn cách ghen từ số 1, số 2 và 3. Phải không nào!? Em hoàn toàn ngược lại với bà vợ cũ cuả anh, bà chỉ chuyên chọn cách số 4.

Thật ra bà ta chỉ làm màu làm mè việc ghen tuông cho có lệ mà thôi, vì vừa ly đị ngày hôm trước, thì hôm sau bà ta đã kéo ông bồ nhí trẻ hơn bà 13 tuổi về ở trong nhà (bà ta đã kiếm cớ dọn đi khoảng 8 tháng trước). Anh và ba đứa con gái cứ tưởng tên con trai kia về ở đó, là để cua con bé Hai, vì tên bồ nhí kia chỉ hơn con đầu lòng cuả bà ta mấy tuổi. Nào ngờ... sau đó một già một trẻ "sản xuất" một thằng cu đỏ hoe, thì cả nhà anh mới té ngữa ra!
***
2005 - Khi em đọc lá thư nầy, ấy là lúc em cùng chiếc phi cơ 747 vỗ cánh bay về vùng “thiên đàng cũ”, bỏ lại sau lưng em khung trời thân thiết vô vàn nhung nhớ! Bây giờ em trôi bồng bềnh trên mây, trong khung trời tự do, đôi mắt em đã đẫm lệ, hàng nước mắt chia ly lăn dài trên má. Em yêu! Khóc không quan trọng,
vì điều cần thiết là: em biết lau sạch nước mắt, để tìm một giải pháp thích ứng phù hợp để tự vươn lên. Đừng buồn thương mà chi. Em cứ ra đi ươm mộng, vun đắp cho tương lai đôi ta, cho những gì mình xây dựng mơ ước & rồi em hãy quang rạng trở về. Và, anh sẽ chờ đợi, như anh đã từng chờ em dưới những cơn mưa phùn mùa Đông ngày xưa trên xứ hoa đào. Anh sẽ chờ, chờ em mãi đến lúc bạc đầu răng long. Cho dù hẹn nhau đến kiếp sau, anh vẫn chờ. Cứ tin anh đi em.

Anh tự an ủi: Thiên đường tình yêu ở trần gian không thể vĩnh cửu, thời gian vừa qua chỉ là những giờ phút vay mượn, là sự an ủi đền bù sau bao năm ly biệt. Nhưng thôi em ơi! Anh mãn nguyện lắm rồi. Cứ như một phép lạ đã xảy ra trong đời anh. Em đến! mang sự sống mới nơi anh, mang lại một khung cảnh tuyệt vời, cùng những giây phút say đắm vun đắp cho tương lai, cho những gì mình xây dựng mơ ước, mặn-mà, cuống quít, nồng nàn, hụt hơi. Anh nghĩ giá mà anh có đột ngột từ giã cuộc sống trong vòng tay em êm ái, anh chẳng ân hận. Ngược lại, có thể đó là diễm phúc nhất đời mình.

Anh đang là là chơi vơi trong nghẹn ngào luyến lưu, tiếc nhớ vô bờ, ngậm ngùi dâng sóng. Anh tiếc quá! Giá mà thời gian đọng lại, ngưng hẳn. Tất cả trở thành vĩnh cửu, để câu chuyện tình 45 năm qua của chúng mình mãi mãi đi vào lịch sử. Em nhỉ! Em có biết không? Lúc em rời Việt Nam, anh ngồi rũ rượi, thừ người ra trên sofa trong phòng khách. Thể xác anh rã rời vì nhớ, trí óc anh điên loạn vì xót xa, đau đớn. Vì, mới đây anh có em trong vòng tay yêu thương, còn cảm thấy mùi của hương xưa thơm thơm thoang thoảng quanh đây. Anh nghe hơi thở nồng say ngọt ngào từ em còn vương vấn những môi hôn nồng nàn ngọt lịm, trìu mến. Chúng mình đã nghe bài tình ca lên ngôi. Để rồi -giờ đây– như chợt tỉnh cơn mê - chỉ còn một mình anh: Đau buốt. Đơn côi. Trầm buồn. Vắng lặng!

Những ngày gần đây đã làm dậy sóng cuộc đời anh vốn lặng yên như mặt nước hồ Thu. Đâu rồi những lúc anh bâng khuâng lo lắng mòn mỏi ngóng chờ em ở bến xe mới ở Đà Lạt? Sợ lạc nhau, chắc hẳn anh sẽ run rẩy chết cóng vì giá lạnh mất. Đâu rồi lúc chúng mình vui đùa bên sóng biển Nha Trang mênh mông? Mặt biển xanh thẳm vắng lạnh chỉ có hai người chung một trái tim yêu đắm say quá chừng! Đâu rồi lúc chúng mình chậm bước sánh vai dìu nhau đi trên phố vắng về khuya ở hồ Tịnh Tâm tại Huế? Đâu rồi vài lần anh chưa kịp đến điểm hẹn tại Hà Tiên, khiến em phụng phịu, dỗi hờn ngóng trông, giận anh, bờ mi em có hai ngấn lệ mọng nước rưng rưng, rung rinh. Bây giờ mà em vẫn giống như ngày xưa thuở em mới tròn mười sáu tuổi? Em ơi! Ký ức sẽ đậm sâu hơn theo dòng chảy của thời gian, tuổi thanh xuân chúng mình có bí mật sâu lắng, trữ tình, ngọt ngào, sẽ òa vỡ; vì những hạt lệ nung nấu niềm nhớ nhung yêu thương sâu thẳm, hoặc cuống quýt hân hoan mừng vui trong chúng ta… thì sẽ không còn bí mật nữa. Phải không em yêu.

Tình yêu là dòng suối mát miên man lặng lờ chảy từ trên cao xuống, thì chúng ta giống con cá thảnh thơi uốn lượn dưới dòng suối. Nếu một mai dòng nước từ trên cao không chảy xuống lòng suối nữa, thì lòng suối nứt nẻ khô cạn; lúc đó con cá sẽ chết. Chúng ta cũng thế thôi. Em có biết không, trên chuyến xe lửa tốc hành từ Quảng Trị trở về Sài Gòn, em bình thản mỉm cười tựa đầu lên vai anh, lim dim mơ màng dường như ngủ gục. Anh bỗng chợt buồn kinh khủng! một nỗi buồn vô cớ, buồn kỳ lạ! Anh nghĩ: “Biết đến bao giờ giấc mơ sẽ trở lại”?
Nhưng anh tin ở em. Tin định mệnh sẽ đưa hai đường cong cong trở về tụ điểm ban đầu từ năm 1960 – 1975 - 1995 - 2005 – 2015 – 2025 em lại quay về với anh! Chừng đó, chúng mình sẽ một tay ôm tấm lưng còng, một tay run run vòng qua cổ, chúng ta dắt dìu nhau đủng đỉnh thong dong đi trên đường cũ đầy lá me bay, dù mình chống gậy lom khom bước, vẫn ung dung, lửng thửng, chu du đây đó trên vùng đất nước Việt Nam thân yêu, & khắp thế giới nữa nha em.

Chúng ta sẽ đưa nhau về đoạn cuối cuộc đời, nơi cùng đích cuộc sống yêu thương –có anh– có em– có nhau - vĩnh viễn còn nhau mãi trong happy ending. Em ơi! Anh là người thực tế, không hy vọng hão huyền. Nhưng tại sao anh tin chắc như đinh đóng cột & linh cảm sẽ có ngày anh lom khom chống gậy, run rẫy mà mừng rỡ, nôn nóng ra phi trường Tân Sơn Nhứt đón chào mùi hoài hương xưa của Hoàng Nam Tony cho tròn với lời hứa hẹn của hơn 49 năm về trước. Hẳn em nhớ lần đầu tiên yêu nhau, khi chúng mình đi thăm mộ cô Thảo, (người đã chết vì tình yêu) bên cạnh Hồ Than Thở không em? Anh chỉ cho em thấy tấm bia mộ ấy đã ghi hai câu thơ:
”Dù cho non sông thay đổi mãi...
Ngàn năm em vẫn sống trong anh…”
Chính thế! Hình ảnh em ngự trị trong tim anh suốt bao năm nay, sẽ vĩnh viễn không bao giờ tàn phai. Trong cơn đau buồn của những cơn khủng hoảng trầm trọng ngày xưa– Ngày nay- Ngày mai; Trong biến đổi thăng trầm cuộc sống sau 30-4 –Và, do niềm tin bất diệt cuộc tái ngộ bất ngờ, không định kỳ -Anh chỉ vẫn có em –còn em mãi mãi– Ngoài em ra, anh không hề yêu ai, không ai hết. Vì, em chính là tình yêu. Em là tình đầu cũng là tình cuối của anh. Xin em tin tưởng anh, hãy nhìn thẳng vào mắt anh, đừng để thoáng nghi ngờ làm hoen ố góc trang tình sử quá đẹp của chúng mình. Nhé em. Vì như em đã biết một điều rất quan trọng ấy rồi. Em không nhớ sao?

Hồi xưa anh từng nói với em: anh đã nói với người con gái, tha thiết hơn là bạn thân quý từ thuở em chưa là vị hôn thê, em chưa là vợ của anh. Thế nhưng em vô cùng cần thiết - quan trọng hơn thế gấp ngàn lần trong đời anh. Bởi vì "em chính là tình yêu vĩnh cửu cuả anh". Vì, anh yêu em nhiều lắm! Bây giờ và mãi mãi không bao giờ thay đổi. Hiến chương tình yêu nầy cao quý trân trọng vô vàn. Em thương yêu ơi! Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai, do:
- Thứ nhứt: Em chính là người yêu trọn vẹn duy nhất.
- Thứ nhì: Em ví như người chị, người mẹ đầy bao dung, rộng lượng thật khoan thứ. Không có ai rộng lượng, bao dung, kiên nhẫn, chịu đựng, tha thứ, hiểu anh trọn vẹn- như em cả.
- Thứ ba: Em là người bạn chung chí hướng, người vợ tuyệt vời say đắm tin yêu chồng, chăm sóc gia đình thương mến các con, là người yêu quý đời đời kiếp kiếp cuả anh.
- Thứ Tư: Anh chỉ có thể lìa xa em, mất em, khi anh đã nhắm mắt xuôi tay trên đời.
- Thứ năm: Bởi vì, em ơi! em chính là tình yêu duy nhứt cuả anh. Chỉ có em mới xứng đáng trong yêu thương tuyệt vời vĩnh viễn nầy. Anh nhắc lại: Ngoài em ra, anh không hề yêu bất cứ ai. Biết không em, em không chỉ là người yêu dấu nhất đời cuả anh. Mà, em chính là tình yêu đầu tiên và cuối cùng cuả anh.

Em thấu hiểu anh nhiều mà, hương xưa yêu dấu của anh ơi! Em đem lại hạnh phúc tưởng chừng đã chết hẳn trong anh. Em gợi lại sự sống trong anh về mọi phương diện: Em mang sinh khí cho đời anh từ tâm hồn đến thể chất. Vậy thì, từ đây anh đã có mục tiêu để sống. Sống để chờ. Chờ đợi và hy vọng có một ngày mình toại nguyện. Anh sẽ cùng em tay trong tay, trong tình thương chan chứa của các con. Nhất là trong tình yêu tuyệt vời mạnh mẽ của chúng mình giúp sức cho hai chúng ta có đủ kiên nhẫn, có sức chịu đựng giông tố, hầu vượt qua mọi thử thách ngang trái, trong thời gian không gian xa xăm muôn trùng. Cả hai ta sẽ quay về bến, bến vĩnh cửu an toàn cuối đời nghe em!

Nếu chúng mình có duyên số với nhau thì định mệnh an bài cho sum họp rồi. Vì thế, anh hy vọng và sống trong tình yêu, anh chờ đợi sẽ có ngày định mệnh nối kết anh và em quấn lại dây tơ hồng. Dù muộn màng cỡ nào vẫn có nhau trước khi nhắm mắt lìa đời. Thật ra, anh ít khi dám bàn bạc hay nghĩ đến điều gì xa xôi. Anh bị căng thẳng giữa hai vấn đề nan giải: Chính vì quá yêu em, nên đôi khi anh phân vân lắm. Tình yêu đưa anh + em vào cái thế rất khó xử. Bên nghiã bên tình và đạo lý con người!
Càng đi sâu vô chi tiết, anh thấy còn trách nhiệm: một bên là tình yêu cá nhân, một bên là tình yêu gia đình. Anh không muốn vì anh, mà em đánh đổi tất cả tự do hạnh phúc xa hoa đầy ắp đang có. Em về đây sống kiếp tơ tằm thiếu thốn, nghèo khó. Em đừng buồn khi anh phân tích vấn đề nầy tế nhị, để em thấu hiểu anh hơn. Ấy vậy mà anh vẫn ước ao sẽ có một ngày, ngày nào đó em trở về vĩnh viễn bên anh. Anh đã có tuổi rồi, chứ còn son trẻ gì đâu em!
***
- 2007- Để anh nói thật cho em rõ về quá khứ sau ngày anh ly dị Phùng nhé: Gần đây, lúc 4 giờ sáng anh hay đi tập thể dục lòng vòng khắp khu Sài Gòn, Phú Nhuận, Gia Định. Vì anh đi bên ngoài thoải mái hơn. Chứ đi vòng vòng trong công viên chán quá! Vã lại, có một hôm, anh thấy bà Nguyệt đi vòng vòng dáo dác nhìn quanh tìm anh. Nên anh vội vàng “hồ, biến”, để khỏi gặp mặt bà ta. Chán lắm rồi. Em à, từ lâu anh không hề hay biết gì đến bà ta cả. Nhưng lâu lâu bả vẫn “canh me” anh.
Có một lần: anh, bà Kim, anh Vượng, anh Bốn, anh Nuôi, cùng ngồi uống cà phê đấu láo với nhau bên công viên. Thì bà Nguyệt đột ngột xuất hiện giận dữ và ghen tuông với Kim đang thắm thiết ráo riết cặp bồ với anh. Nó đã tới bên đá bàn đá ghế, sừng sỏ hung hăng với anh. Nên bà bị Kim (ả Kim là ca-va hồi trước, có bốn đời chồng hờ, bi giờ bả tự do cặp bồ “fairplay" khơi khơi), Kim là tay không vừa, bả hung dữ bốp chát, la chưởi mắng nhiếc rất đau:
- Cô không phải là vợ anh Tony Năm. Hai người không còn bồ bịch nữa, ảnh cặp với tui là thường. Nè, đàn ông thiếu giống gì, mà cô phải chạy theo khóc lóc với một người đã ruồng bỏ cô. Há? Cô nên nhớ tui không giống cô, vui tui ở buồn tui biến. Đời mà! Vậy đó, nên anh xin em hãy tin tưởng anh: Anh không đi ngược lại với quyết định của mình. Lâu rồi, nó không thấy anh, nên đi rảo tìm anh ấy mà! Anh không muốn cho bả gặp, thì có Trời mới biết anh đi đâu, làm gì. Do vậy anh chuyển hướng đi tập, để khỏi mất công phiền toái. Em nhỉ! Ngoại trừ vài lần anh đi chợ Tân Định, Nguyệt thấy anh liền cua rất ngặt cúp xe trước mặt anh, bả chận đầu anh như muốn “thân yêu làm quen lại”. Nguyệt cười toe toét, nhưng chưa kịp ngỏ lời gì, thì anh đã cho bả biết là anh “dứt khoát” hẳn với bả rồi.

Không phải là anh sợ em buồn, mà “giấu diếm” em. Chẳng qua chuyện tình hờ nầy chả là “cái quái” gì! V/v Nguyệt, Kim, hoặc con ba xàm ba láp nào… thì chả có gì ầm ĩ cả! Anh thừa sức đối phó lại những “thủ đoạn của chúng nó”. Thứ nhì là anh chán cái “xã hội” thu hẹp bên công viên kinh khủng! Anh đã từng nhấn mạnh: Chỉ có niềm “Tin Yêu” mới dung dưỡng mối tình thắm thiết của chúng mình, dù xa xôi cách trở muôn trùng, sẽ có ngày càng bền lâu. Em chớ để dư luận hay tin đồn, gây nghi kỵ - vô tình giết chết chúng mình thật đó em!
Như em biết, từ lâu rồi anh không gặp và chả cần quan tâm tới họ nữa. Không ai trên cõi đời nầy ngu xuẫn đến độ: đi liếm lại bãi nước đờm bọt rơi xuống đất, mà mình vừa nhổ ra khỏi miệng. Anh không phải là thằng điên cuồng, mê muội, tiếc rẻ gì! Mấy bà đó không xứng đáng để mình nhắc đến. Anh từng nói với em đừng quan tâm về chuyện đã qua. Quá khứ không tốt đẹp, thì gợi nhớ làm gì hả em. Nhất là quá khứ đó gợi lên sự đau buồn kinh khủng cho nhau. Em đừng vội tin mà tự làm khổ thân và buông xuôi cuộc tình vốn đã có quá nhiều sóng gió, lao đao từ bao năm qua. Em nhé!

Thật ra, anh ít khi dám bàn bạc hay nghĩ đến điều gì xa xôi. Anh bị căng thẳng giữa hai vấn đề nan giải: Hãy nhìn vào sự thật hầu biết cách cư xử với nhau cho đúng đắn. Anh tin qua cơn “chấn động tinh thần” nầy, em sẽ bình tĩnh trở lại, chuyện đã qua rồi, xin em hãy để cho nó qua đi, và sẽ yêu anh hơn. Nhất là em nên thận trọng với những tin “hoả tốc”, kiểu giết người không gươm không dao nhe. Nếu em thấu hiểu được anh, thì anh sẽ rất vui mừng. Một lần thứ mười một (?!) Anh xin lỗi em đã vì anh, mà em buồn đau kinh khủng! Hãy rộng lượng bao dung và tha thứ nhe.

Anh hiểu chứ, em rất ghét nếu không muốn nói là căm thù chuyện anh lăng nhăng. Anh không nỡ làm em đau khổ thêm. Chúng ta nên sống với niềm tin yêu mãnh liệt và trong sáng. Cương quyết kết thúc câu chuyện tình mình đã nửa thế kỷ, thì không dễ dàng gì bị hoàn cảnh xé cho tan nát nữa đâu em! Em chịu không? Vậy thì, em đã hiểu lòng anh rồi nhe. Em cứ tin đi, anh không thể phụ lòng tin yêu của em đâu. Em ơi! Hãy bao dung vị tha thứ lỗi cho nhau. Nếu ta cứ ngồi đó trách móc, thì cả đời vẫn không hết chuyện. Khoảng xa cách muôn trùng nửa vòng cầu nầy, đã nhiều lần gây đớn đau & hiểu lầm. Mình nhất quyết với nhau đừng cố chấp, rộng lượng, em thứ tha anh thêm một chút em nhe. Chuyện em đề cập đến “hai ba tên đàn bà kia”, anh xin thề anh không hề nghĩ ngợi gì nữa. Em nhớ lời anh thường nói với em không: Mệt mỏi. Rắc rối và buồn phiền. Khổ lắm.

Kỳ xưa rất xa xôi 1962, do có những mâu thuẫn nho nhỏ, vô tình dần dần đẩy chúng ta đến bờ vực thẳm chia lìa vĩnh biệt. Những việc lỗi lầm đã qua, xin đừng nhắc lại làm gì! Hãy để sau lưng quá khứ đầy sóng gió và cay đắng đi. Em đừng đeo nó vô người và trở thành gánh nặng trĩu mình phải mang theo suốt đời. Bây giờ mấy bà kia chỉ là khoảng trống, sau những lần ấp ủ tình trần xác thịt! Là cái bình phông che đậy sự thiếu vắng em. Vì, lần anh và em giận dữ chia tay cuối cùng vào năm 2000 anh nghĩ mình mất hết tất cả rồi! Anh nghĩ em đã thay đổi, không còn “người xưa bến cũ”. Trong lúc anh bồng bềnh như con thuyền trên sóng cô đơn, thì họ đến chỉ giúp anh “giải sầu”, anh chả thèm lưu tâm đến họ.

Anh giải thích cặn kẽ về hiện tại của chúng ta cho các con rõ. Em đã chọn tương lai cho hai đứa mình rồi, em không do dự băn khoăn. Cuộc sống thực tế mỗi ngày nhất là vấn đề tình cảm giữa chúng ta nếu các con tỏ ra bất kính đối với cha mẹ, chẳng thà mình chết đi sướng hơn. Duy có điều rất đổi vui mừng chính các con của anh thật lòng yêu thương em. Hầu như yêu thương gần gũi em hơn mẹ chúng nữa. Hẳn em rõ hơn ai hết, các con gái yêu thương em nhiều.

Không phải bây giờ em giàu sang, thì các con mới yêu thương em đâu, mà hồi xưa khi các con còn bé tí, khi mẹ chúng bỏ cha con anh mà ra đi ở riêng, chúng đã yêu thương em mỗi khi em ghé tạt về thăm gia đình anh. Điều ấy khiến anh càng vui mừng hãnh diện về em. Chỉ có em mới xứng đáng để anh và các con yêu thương em nhiều. Chính em là người rất quan trọng, cần thiết trong ngôi vị làm mẹ của các con trong gia đình anh lắm, (khi mẹ chúng đã có chồng mới và có con riêng). Em hiểu mà. Kỳ lạ thay! Điều nầy khiến anh rất vui mừng.

Còn chuyện em nghe các con nói về bà Nga, bà Trân Thư, Nguyêt. Kim, hay bà lu xu bu ba xàm ba láp nào đến bên anh, thì họ chẳng là cái đinh gì! Chả lẽ các con có quyền lực gây ảnh hưởng đối với anh sao? mà mấy bà kia kể lể khóc lóc với bọn trẻ? Nếu có, anh sữa sai. Em không thông đồng với các con, rồi rình rập anh đi đâu, làm gì nhé. Vì, chính anh mới là người quyết định đời mình. Nhe em. Anh muốn em chấm dứt tình trạng nghi ngờ. Mỗi lần nghi ngờ là làm chết dần chết mòn tình yêu, làm sự xa cách giữa anh và em càng rộng lớn.
Tại sao anh có thể tin em hầu như tuyệt đối. Ngược lại ở bên Mỹ em cứ phập phồng thấp thỏm lo âu, ngờ vực anh hoài? Anh sẽ rất buồn đó em. Anh muốn em phải có niềm tin yêu, có sức mạnh vươn lên đỉnh hạnh phúc. Mấy đứa con cũng lo sợ, thắc mắc là anh sẽ quay trở về với "mấy cái bà khủng khiếp”, (như lời bé Tư nói với bé Hai hồi sáng), và khuyên răn anh đủ điều. Có lẽ do em “tâm sự” với các con. Em nghĩ rằng anh dễ bị dụ khị lắm ha!? “Bò không ăn cỏ, bò ngu. Trai không cua gái, trai ngu hơn bò” sao ta!? Hê hê hê!

Vậy là anh bị shocking cả đêm anh không ngủ được. Sáng nay anh bỏ đi tập thể dục, mặc dù đã ngậm hai viên sterpsil anh vẫn khan tiếng. Anhnói với em công viên kia giống chuồng thú hổn tạp, là hiện thân phù phiếm nhất trên cõi đời. Người nầy đâm thọc người kia, thẳng thừng mắng nhiết, chà đạp đập đỗ nhau. Tiếc thay, họ là những ông vua, những bà hoàng hậu, thái hậu, những quý công nương thơm ngát. Chả ai chịu nhận mình làm phó thường dân nam-bộ! bên trong họ ẩn chứa toàn hung thần quỷ dữ! Họ bóp méo sự thật làm người khác đau đầu, rồi tụm năm tụm bảy ngồi đó nói xấu, chà đạp nhau và cười khẩy.
Anh Ba, anh Vương, anh Nuôi nói lại cho anh nghe nhiều điều “dựng đứng” về anh. Em không nhìn vẽ bên ngoài, mà đánh giá con người ấy nha, họ thâm hiểm lắm em. Làm sao em biết được bên trong lòng ai tốt, ai xấu, ai thương ai ghét mình. Không biết họ nghĩ gì! Em nên tin những gì đáng tin, nghe những gì cần nghe. Ở đời mà! Có thể họ qúy mình, nếu lỡ mình đụng chạm đến quyền lợi của họ, ngoài mặt họ tươi cười, nhưng bên trong họ sẵn sàng hạ mình, trả thù bất cứ lúc nào có dịp.

Thôi kệ! Ai muốn nói gì thì nói. Đó là thủ đoạn có dụng ý chia rẽ anh và em “trâu buộc ghét trâu ăn”. Miễn sao em hiểu anh, mới thành vấn đề. Vì thế em nên rút kinh nghiệm từ nay hãy thận trọng. Câu chuyện nay tạm gác qua một bên. Em đừng tự mình đi “bới lông tìm vết” hay “vạch lá tìm sâu” về dĩ vãng mà anh đã chán ngấy lên tận cổ! Hãy nhìn vào sự thật, hầu biết cách cư xử với nhau cho đúng đắn. Anh tin qua cơn “chấn động tinh thần” nầy, em sẽ bình tĩnh trở lại, chuyện đã qua rồi. Xin em hãy để cho nó qua đi, và sẽ yêu anh hơn. Nhe. Nhứt là em nên thận trọng với những tin “hoả tốc” từ Việt Nam bay qua Mỹ kiểu giết người không gươm không dao nhe. Nếu em thấu hiểu được anh, anh sẽ rất vui mừng. Một lần thứ hai mươi (?!) Anh xin lỗi em đã vì anh, mà em buồn đau kinh khủng!
Hãy rộng lượng bao dung tha thứ nhen.

Em yêu, chúng mình biết nhau từ thuở nào, đã yêu nhau tha thiết bao năm rồi, em hãy suy nghĩ chính chắn với tình yêu gần như file://bat tử rồi. Vì, em đã có anh bên cạnh, có các con là đồng minh, đồng thời là hậu phương vững chắc vun trồng tình yêu bền chặt từ 49 năm qua. Hiện tại và tương lai, em vẫn là kẻ chiến thắng toàn vẹn trên mọi lãnh vực, vì anh yêu em nhiều. Em phải cương quyết hơn, tự tin thì còn sợ quái gì!? Hãy tin tưởng, mạnh dạn để sống với cuộc tình đã có quá nhiều hương thơm mật ngọt nồng say ấm áp và thắm thiết, chông gai, truân chuyên, lẫn cay đắng bẽ bàng!

Chúng mình đã đi gần hết đoạn đường khá dài. Nay sao em lại do dự, ngập ngừng, chùn bước thẫn thờ đến thế hở? Em đừng thèm quan tâm - và nhất là - em đừng thèm nghĩ ngợi gì đến mấy đàn bà cũ rích lăng nhăng lèm bèm kia, (mà có một thời anh “lỡ quờ quạng” nữa). Nhe em! Cơn buồn râm ran khắc khoải nhóm bừng lên trong lòng anh nỗi dày vò héo hon và tủi thân, dù thổn thức anh chẳng thể khóc to, nhưng nước mắt rung rinh viền mọng bờ mi cứ lăng dài xuống má. Nhìn mây trôi gió hú, lòng anh ngoái vọng nỗi hắt hiu đợi chờ "người ta" với mối tình vừa ươm mộng lai láng trong tim, khiến anh đi lui đi tới đứng không yên ngồi chưa ấm chỗ, đã lật đật nôn nao háo hức bước ra cửa dáo dác nhìn quanh. Sau đó, anh bần thần ngồi xuống bàn viết lá thư mang số 4.354:
***
2009 - Hôm nay, anh xin gởi em một đoá hoa hồng thắm sắc tin yêu, để chứng tỏ sự kiên định tình cảm từ anh. Mong em đừng để những điều phiền toái gợn sóng trong lòng, làm bâng khuâng sầu héo nữa. Hãy tin yêu nhau mà sống nghe em! Đừng làm hoen ố tình yêu mình bằng những chuyện không đáng, làm cho vết rạn trở lại vì chuyện vu vơ. Chúng mình quyết chiến thắng định mệnh, đương đầu với những chuyện âu lo khác quan trọng hơn. Hơi đâu em nghĩ chuyện ba xàm ba láp cho mệt, hỉ. Giờ nầy, sao mình dễ dàng để cái chuyện “ruồi bu kiến đậu” phá bĩnh mình như vậy!? trong khi thật ra mình vui lắm! Vì có em, anh đã thay đổi, “lột xác” (hay là như em nói: Anh tuổi con rắn, thì “rắn lột da” nè). Hê hê hê...

Em hãy nhớ: Đó là một quá khứ đáng nguyền rủa, là những thử thách gay go nhất của đôi ta. Chúng ta giữ cho nhau không vì xiềng xích hôn nhân, mà giữ nhau bằng sợi dây tình yêu cho dù mong manh. Nhưng chúng mình ràng buộc với nhau mật thiết trường cửu khắng khít cả đời người: Đó là sợi tơ hồng ươm tình yêu bất diệt! Anh đã từng nói với em: “Trước em, anh chưa hề yêu ai; và sau em anh chẳng còn yêu ai. Em chính là người anh yêu đầu tiên và là người anh yêu cuối cùng. Em chính là tình yêu”, thì những điều anh nói ra, là do từ trái tim anh. Em ơi! Vì không có ai trên cõi đời nầy có thể làm cho anh xa rời em được nữa đâu! chỉ có em! Vâng chỉ có em chính là người quyết định kết thúc cuối cùng câu chuyện tình yêu 49 năm nầy. Anh nhắc lại: Chính ANH mới là người - để EM hoàn toàn quyết định vận mạng tình yêu đó em.

Em biết dứt khoát lập trường của anh: - Anh nhắc lai chỉ có em: là người yêu đầu tiên và là người cuối cùng duy nhất trong đời anh. Ngoài em ra, anh không thể yêu bất cứ ai. Em nhớ nhe: Duy Nhất – Không còn con đường lựa chọn nào khác. Không có ai trên cõi đời nầy – có thể chia lìa anh và em- (trừ phi CHÍNH EM mà thôi. OK?!). Hãy giữ vững niềm tin yêu và hy vọng, để có đủ sức chờ đợi chiến thắng cuối cùng nhe em. Tạm thời, chúng mình phải xa nhau – là chỉ còn bức màn rất mỏng ngăn chia chúng ta. Tuổi thanh xuân qua rồi! Bây giờ điều thiết thực nhất giữa anh và em là sự hiện diện tinh thần vô cùng quan trọng. Chuyện thể xác chỉ là hàng thứ yếu. Hay nói đúng ra cũng hữu ích để nâng vực tình yêu lên cao. Hãy tin tưởng nhau: “Yêu nhau không phải là chỉ để nhìn nhau, mà cùng nhau nhìn về một hướng”, như Exupery đã nói nghe em.

Vậy xin em hãy để quá khứ ấy vùi chôn dưới lớp bụi thời gian, xin đừng khơi dậy làm gì, chỉ thêm đau lòng nhau. Anh chợt hiểu: Ngoài em ra – Từ trong cuộc đời và cả trong thâm tâm, anh không thể thiếu vắng em. Không ai xứng đáng với tình yêu nồng nhiệt của anh cả. Mọi chuyện bây giờ XONG rồi. Mình là của nhau từ thuở nào rồi! Em ạ. Chắc chắn điều nầy: Chỉ có em mới xứng đáng có quyền ngự trị trong trái tim anh. Thể xác phiêu lãng nầy là cái bến tạm, cho dù anh có ở hay sống với người nào, thực tế con tim anh vẫn quay về nguồn bến xưa. Trong chiều sâu hun hút của tâm tư anh vẫn hướng về em, với tất cả tình yêu ban đầu. Vì, làm sao có thể quên em được hở? Không có gì có thể chia cách tình yêu của anh & em đâu. Vậy, bài thơ "Mối Tình Duyên" dưới đây em viết cho anh, hay cho ai vậy hở? (Em mà viết cho ai, thì... thì em "chít mí anh" - Liệu hồn nha):
Ngày nao dưới nắng vàng chói lói
Bầu trời xanh lấm chấm mấy lọn hồng mây
Em nhìn mây tưởng tượng yến oanh bay
Bao cánh én vờn quanh ngọn cỏ
Anh đã đến nụ cười rạng rỡ
Tay trong tay bước dưới hàng dừa
Mặc ai nhìn… ánh mắt trao đưa
Ở ống tất dài* lòng vui hơn Tết
Mình đến với nhau nụ cười không mệt
Hứa ngàn đời cùng kết tóc mối tình duyên
Anh chinh khách em thuyền quyên
Trăm năm một thuở mình nguyền sống chung
Yêu thương luyến nhớ ta cùng… (*)
Em à, cho anh xuống nhà thay tấm drap giường, xịt thuốc diệt “con sâu vòi vọi”. Sợ nó làm tổ ở đâu đó trong những thanh giường. Nó đã chích anh mấy phát, đau nhức và sưng u lên nhiều cục cứng ngắt, đau nhức cả tháng vẫn chưa tan. Kinh khủng quá. Sau đó, anh sẽ xem bóng đá nữa. À quên: Anh xin tổng kết tài chánh trong “tổ kiến của chúng mình”: - Từ tháng 7 - 1993 đến cuối 2009, em gởi về anh tổng cộng 48.500.oo USd *Trong đó, do những lần đau ốm, hay anh đi mỗ mũi, bệnh viện. Đi các tours, hotels, (ngày Tết, ngày lễ Noel, hay 30-4, em hay nói anh đi Đà Lạt nè, Cần Thơ, Mỹ Tho, Vũng Tàu v.v... Khi thì anh đi với mấy bạn Không-quân ở Mỹ về, hoặc đi cùng bạn già U-70 ở Việt Nam). *Đồng thời anh đóng tiền sữa nhà, *Đóng tiền khu xóm, *Đi làm lại toàn bộ hai hàm răng giả. *Dịch vụ lo hoá giá nhà, mong sau nầy có sổ hồng, thì dễ bán nhà. *Tiền sữa xe, tu bổ xe của anh và bé Tư. Tiền sinh nhật các con, cháu nè. *Tiền quà bánh cưới hỏi đám tiệc v.v... khoảng tiền linh tinh cho bà con anh em, bạn hữu, hay là cứu trợ đồng bào bị thiên tai, bão lụt, à anh mua nhiều vé số cặp nữa, v.v...

*Anh bàn với em về chuyện tiền bạc em đã gởi, chúng mình không nên nói cho các con biết rõ đâu em. Không phải việc gì cũng nói hết đâu em à. Vì... Đôi khi anh phụ đập vào các khoảng chợ búa linh tinh bất thường khác. Anh cần có những khoảng tiền riêng là vậy. Vật giá ngày càng leo thang tăng lên vùn vụt, anh chi dùng vào trong “tổ kiến của chúng mình” một mớ. Bây giờ vơi kha khá. Em bảo lúc nào "trong tổ kiến" có đủ năm bảy trăm ngàn đô, "làm vốn cho tuổi già"- thì em không làm việc ở bển nữa, mà thu tóm mọi thứ nhà cửa, quay về với anh. Thương em vô cùng đã vì gia đình mình mà chịu khó, chịu khổ lăn lộn kiếm sống. Càng nghĩ, anh càng thấy thương em.

Nhớ năm 2003 khi em trở về Việt Nam, có lần em đã đưa cho anh một cái vòng cẩm thạch, bảo: “để minh chứng tình yêu, anh đeo chiếc vòng ngọc vô tay cho em. Từ nay trở đi, sẽ không có ai và không có gì tháo gỡ ra được”. Nhất là, em có mái tóc rất dài tới chấm mông, tha thướt óng ả dễ thương đến thế, khi tuyên xưng tình yêu, em đưa kéo cho anh cắt ngắn mái tóc mà anh rất thích. Từ chối mãi không được, anh run run cầm cái kéo trong tay cắt mái tóc em ngắn lên tới cần cổ. Anh tiếc mái tóc ấy làm sao! Lòng anh vẫn nguyện mỗi khi mở tủ ra, anh luôn giữ trọn tình chung thủy nhớ thương em. Mái tóc nầy anh vẫn cất giữ lại trong chiếc hộp xinh xinh bỏ trong tủ như báu vật, minh chứng cho tình yêu nồng nàn của hai ta. Vì, nhìn thấy tóc em là: “già người, già tóc, già râu. Bộ phận chiến đấu còn lâu mới già”.
Hi hi hi… "Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn, cho nên được gọi là khôn hơn người. Tái dê chấm với tương gừng, ăn xong rồi lại phừng phừng như dê", thì… nếu chúng mình “có duyên số với nhau” thì định mệnh an bài cho sum họp rồi. Vì thế, anh hy vọng và sống trong tình yêu, anh chờ đợi sẽ có ngày định mệnh nối kết anh và em trở lại dây tơ hồng. Dù muộn màng cỡ nào, vẫn có nhau trước khi nhắm mắt lìa đời.

Mỗi chiều sau khi đi ăn tối ở ngoài tiệm, (anh chỉ tự nấu ăn buổi trưa thôi). Còn buổi tối anh đi ra ăn ở ngoài tiệm. Em cho anh đi đây đó thong dong chút, chứ em nhốt anh cả ngày trong bốn bức tường ngột ngạt, chắc là anh héo hon chết sớm em ơi! Sau khi đi ăn tối về nhà lúc 19g, anh sẽ check thư em, anh xem bóng đá trước khi đi ngủ nhe. Anh dừng thư. Hẹn em mỗi ngày sáng và chiều anh viết hai lá thư ngắn báo tin trên E-mail. Muốn viết rất nhiều, nhưng càng nghĩ anh càng ức nghẹn. Chúc em an mạnh, vui vẻ. Thư bất tận ngôn. Chỉ vì “em hoài hương xưa là tất cả của riêng anh. Anh nhắc lại: Em chính là tình yêu”. Hẹn thư sau sẽ nói nhiều. Anh rất nhớ em, hôn em và chào em nhé.
Hoàng Nam Tony,
*
Tình Hoài Hương
(*) Thơ Tình Hoài Hương

Tinh Hoai Huong
09-25-2018, 10:40 PM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 30

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1526686750-b phico USAF.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1526686833-Chiec la cuoi cung - Si Phu.mp3
Vĩnh Biệt Chiếc F 5 tại hồ Xuân Hương Đà Lạt
Một câu chuyện có thật đã xảy ra năm 1974
Tình Hoài Hương
*


Từng cuộn mây trắng bồng bềnh trôi trôi, mây như đoàn thuyền con nhấp nhô trên sóng nước đang quỳ gối in bóng xuống mặt hồ Xuân Hương phớt xanh. Sương phơi phới rải rác đó đây nhã từng cụm dày là đà bay bay, như cô thiếu nữ xuân-thì khoát tấm áo lụa mỏng manh. Đôi khi mây chuyển thành màu ngà, trở qua màu hồng thắm pha trộn chút ngai ngái ươm vàng, rồi ánh bạc lấp lánh từng dãi dài. Đứng trên lầu nhìn ra hồ, Hạnh ngẩn ngơ ngó từng cụm mây bay, giống như bà tiên xõa tóc huyễn hoặc đứng trên đồi tuyết vào cuối tháng hai năm 1974.

Bỗng nhiên có một tiếng nổ gầm rú to kinh khủng ngân rền như những nhịp sấm, làm rúng động, quằn quại cả bầu trời trong xanh và cao mênh mông. Giây lát sau kèm theo một tiếng nổ long trời lở đất vang đinh tai nhức óc. Hạnh tưởng chừng như núi Lâm Viên đã sụp, hay vũ trụ tận diệt. Đúng lúc kinh hoàng ấy có những tiếng xì xì, xẹt xẹt vút vút bay trên đồi Cù (đối diện nhà cô), kèm theo tiếng nổ phụ khác to to rền rền không kém tiếng nổ ban đầu. Mấy cửa kính, cửa sổ, đồ đạc bằng thủy tinh trong nhà tự động nhảy xuống đất, bể loảng xoảng. Gió lùa vô mấy khung cửa bể, khiến mùng màn trong nhà lồng lộng bay phất phới.

Hạnh giật nẩy mình, hai tay đang bưng thau nước (để tắm cho bé Hoàng) đã rơi xuống đất, nước văng tung toé lênh láng trên nền gạch, văng ướt hết quần áo cô. Chú bé hai tháng tuổi ngủ vùi đã khóc thét lên. Hạnh vội chạy đến ôm chầm con trai. Mọi người trong thành phố trong khu Hạnh ở đều nhốn nháo, thất thanh, hốt hoảng, họ la hét tướng lên gọi nhau không dứt, họ hỏi thăm đã có chuyện gì xảy ra vậy, họ ơi ới kêu rống rõ to, giống như con heo, con bò, con dê trong ba toa bị chọc huyết. Chỉ non mươi lăm phút sau, Hạnh nghe nhiều tiếng còi xe cứu thương hú inh ỏi, vang dội mấy góc phố. Phút chốc người nhà đi chợ về báo tin:
- Có một chiếc máy bay rớt ở ngoài hồ Xuân Hương. Mọi nẽo đường bị chận lại hết.
Thôi chết rồi, bây giờ là lúc tan trường, các con phải đi bộ về ngang qua cầu Ông Đạo. Làm sao đây hở Trời? Vô cùng lo lắng, ruột gan nóng như lửa đốt, Hạnh quá sợ hãi, run lập cập, cô vội vàng trao con út cho mẹ chồng, nhờ me trông coi. Thay bộ đồ ướt, mặc thêm hai áo lạnh, Hạnh run rẩy lần từng bước thấp bước cao, khi chạy, khi đi, miệng không ngớt lâm râm đọc kinh cầu nguyện. Từ nhà Hạnh đi bộ đến bờ hồ, tới nhà hàng Thanh Thủy chỉ mất năm phút. Vừa vòng ra đầu ngỏ đường Cộng Hoà và Võ Tánh, gần khu toà tổng Giám-mục, thì Hạnh đã thấy hàng hàng lớp lớp người đông nghìn nghịt chạy lui chạy tới lố nhố. Kẽ la người hét ồn ào hơn vỡ chợ, đường ven hồ bị niêm phong bởi nhiều vòng kẽm gai.

Quân-cảnh, Cảnh-sát Dã-chiến, Biệt-đội phòng vệ thị trấn tay bồng súng, miệng luôn thổi còi báo động. Họ giải tán mọi người tò mò muốn đến gần ven hồ Xuân Hương, để nhìn cho tỏ tường. Hình như các biện pháp an ninh đề phòng, đều không thể ngăn chặn được làn sóng người hiếu kỳ mỗi lúc một kéo dồn về khu vực bị tai nạn hết sức đông. Tất cả xe đạp, xe gắn máy, xe lam, xe ngựa, xe hơi, đều bị cấm vô khu vực cầu ông Đạo, người đi coi cứ đứng ù lì ra, không thể nhúc nhích cục cựa. Mặc kệ! Ai muốn la khàn cổ, cứ la. Ai muốn chưở̉i cứ chưở̉i. Người ta vẫn ùn ùn xô đẩy nhau đi xem càng lúc càng đông nghịt, dường như điếc không sợ súng, cứ chen lấn xô đẩy nhau mà coi… "cho đã".

Hạnh run như cầy sấy, lo sợ tột đỉnh vẫn hiếu kỳ cố chen vai thích cánh với những người đi bộ san sát nhau. Bên kia dốc đường Lê Đại Hành đã bị xe cảnh sát chận ngang, họ không cho dân vô thành phố, và khu chợ hoặc đi lên phố. Nội bất xuất, ngoại bất nhập rồi. Hạnh khiếp đảm, kinh hoàng, rụng rời bãi hoãi thân thể, cô đứng chôn chân xuống đất nhìn mặt hồ Xuân Hương tù hãm. Nước mắt cứ trào ra, mặc dù không chủ định khóc.

Hạnh đứng thừ người nhìn xuống hồ Xuân Hương. Úi trời đất qủi thần ơi! Một cảnh tượng vô cùng hãi hùng đã phơi bày ra trước mắt: Mặt hồ thường ngày trong xanh dường bao, ta có thể soi rõ bóng mình dưới làn nước xanh biếc im sóng, vậy mà nay hồ trở thành một đầm lầy, bầy nhầy đất bùn sền sệt, sủi bọt lăn tăn to, nhỏ, đủ kiểu, vô số bong bóng cứ đứng yên một chỗ “sụt sịt” không bể tan. Dầu nhớt, xăng máy bay lênh láng, khói đen là đà vần vũ trên mặt hồ, mặt nước bầy nhầy từng miếng thịt vụn, thịt mỡ, từng khúc ruột trắng lòng thòng, thịt tươi dính rong rêu, bùn đất, từng cánh tay, lóng chân, giày, dép, mũ, nón, đủ thứ, vân vân… loạn xà ngầu tròng trành lờ đờ trôi đi, trôi lại trên mặt hồ sùi sụt sủi tăm.

Ngay chính giữa hồ, nửa cánh bay của chiếc phi cơ F 5 lâm nạn chĩa thẳng lên trời, thân phi cơ nhấp nhô khỏi mặt nước đen ngòm, đuôi phi cơ chổng kềnh nhô cao lên khỏi mặt hồ, phi cơ đã cắm phập xuống đáy hồ, không hiểu sao phần đầu phi cơ lại bức thân mà bay vụt lên phía sân Cù, cắm phập xuống đất? Hạnh không thể nào hiểu nỗi tại sao? Đó là nguyên nhân mà cô đã nghe có tiếng nổ phụ lần thứ nhì (liền sau khi nghe tiếng nổ to kinh khủng đầu tiên). Ngẫm nghĩ thì người dân ở trong phố hết sức may mắn! nếu nguyên cả chiếc phi cơ, hoặc chỉ một cái đầu của phi cơ thôi, mà vô phúc rơi đúng vô khu vực phố Hoà Bình, hay rơi vào khu chợ mới, thì coi như người dân sẽ chết vô số kể! Xin cám ơn Thượng Đế vô ngần.

Xe cứu thương lo cấp cứu thương nhân vẫn hú còi inh ỏi, xe tới tấp chạy lên bệnh viện Đà Lạt. Trong chớp nhoáng Ty Thông Tin Đà Lạt làm loa phóng thanh dã chiến móc tạm trên mấy cột điện, tiếp tay với Cảnh-sát, Biệt-đội phòng-vệ Tỉnh/Thị-xã giữ gìn an ninh trật tự, họ luôn kêu gọi đồng bào hãy tản mác ra, ai về nhà nấy, hay có ai đã chứng kiến từ đầu các sự kiện xảy ra, hoặc muốn tìm thân nhân; lạc người thân, hãy đến ở sân bến xe đi các Tỉnh gần đầu hồi mấy dãy nhà ấp Ánh Sáng (có hai cái bàn làm trạm cứu nguy đặt tạm ở cây xăng Shell,) ngỏ hầu khai báo hoặc tường trình các sự kiện.

Trên trời, bây giờ có chiếc bà già L-19, luôn bay lượn vòng vòng. Một chiếc trực thăng đã hạ cánh xuống đồi Cù, khu vực nầy hoàn toàn bị cô lập. Mấy phi công Mỹ lúi húi tháo cục bạch kim. Hồi sáng, không hiểu sao có người nói tiếu lâm, chẳng biết họ đùa hay nói thiệt:
- Có lẽ cánh quạt của chiếc F 5 quay tít, đã chém chết một em bé chăn bò, một con bò, và làm bị thương mấy con bò gặm cỏ trên đồi Cù.
Liền có một thanh niên đốp ngay:
- Con bò chết là phải. Đúng là… ngu như bò.
- Tại sao?
- A37 và phản lực F5 - thì không có cánh quạt.
- Vậy, F5 nó giống tàu bay giấy à?
- Đừng "hỏi xỏ" như vậy! Nghe nè: Phản lực bay được, là nhờ có động cơ phản lực nó đẩy máy bay, nên bay lên được.
- Vậy mà tui tưởng đã gọi là máy bay, thì phải có "chong chóng" chớ.
- Ừ, thì cũng có loại máy bay như trực thăng, thì có cánh quạt trên lưng. Các loại khu trục AD6, quan sát L19... thì có cánh quạt trước mũi. Các loại khu trục AD6, quan sát L19, vận tải C47, v.v... đều xài động cơ nổ. Động cơ nổ là nó dùng xy lanh (như xe hơi là động cơ nổ). Trực thăng UH1 cũng dùng động cơ phản lực, nhưng nó có cánh quạt trên lưng nữa, vì vậy có thể gọi nó là bán phản lực; nghiã là ½ phản lực.
- Ngộ quá hén! thiệt là tui... có "chong chóng mặt...” vì - do "tàu bay" mà con bò bị chết!
- Ừ... Thì con bò chết vì... ngu như bò!
Mình cũng hiểu thanh niên kia ngụ ý chưởi khéo người nọ là "ngu như bò" mà cũng bày đặt "lên lớp đôi co". Nhưng thôi, hơi đâu nghe chuyện người dưng kia, không biết mà cũng chẳng rành. Theo thiển ý của Hạnh thì có lẽ do những vật nào đó trong bộ phận của phi cơ rơi trúng, hoặc do tiếng nổ kinh hoàng gây ra tức ngực đứng tim "mà chết". May quá, hôm nay là ngày thường, nên không có những cặp tình nhân ngồi rù rì hú hí dưới gốc thông trên sân Cù. Cám ơn Trời!
Ba dãy nhà bên ấp Ánh Sáng có nhiều mái tôn bị lột sạch mái, bay đi tứ tung tá lả. Căn nhà nào còn thì mái tôn cũng cháy đen, bị cuốn cong lại. Ôi thật hãi hùng. Nặng nề nhất là dãy nhà thứ ba ở gần ven suối, đa số gia đình khu ấy còn làm nhà bằng gỗ, lợp mái tôn thiết, là bị cuốn sạch, sụp đổ hư hại nặng nề khá nhiều. Vì dãy nhà thứ ba nầy nằm ngay dưới sức ép, sức nóng của đường bay đã sà xuống thấp lúc phi cơ lướt vút qua trên mái. Có những mái nhà, vách ván, giống như miếng bánh tráng bị nướng cong phồng rộp lổm chổm, cháy đen. Những hàng cột cháy trụi, nhà bị sập, hay còn lại bức tường vách chông chênh. Trông thật ngao ngán. Chắc chắn là sẽ không ít người bị thảm nạn.

Hạnh, xem phi cơ rớt đã đời xong, cô mới sực nhớ tới chú con trai đầu lòng là bé Dzũng học giáo lý ở bên nhà thờ chính toà (cư dân địa phương thường gọi nhà thờ “con gà”). Hạnh cố chen lấn, len lỏi, lùi ra xa, vất vã lắm cô mới tìm lối thoát ra khỏi vòng người ngoài cùng. Thế là Hạnh đâm đầu chạy một mạch về phía đường Cộng Hoà, Phan Bội Châu, phố Hòa Bình vắng như chùa bà Đanh. Hạnh chạy ngược trên đường Thành Thái đến rạp ciné Ngọc Lan.
Cô không nhớ là mình có tiền trong túi để nhảy lên xe lam, hay ngồi xe taxi đi đón con cho lẹ. Hạnh cứ cắm đầu, cắm cổ chạy một mạch xuống đường Cường Để, chạy lên dốc Bà Triệu, chạy trên đại lộ Yersin tới sân banh cuả Cảnh Sát, là tới nhà thờ. Hai chân bắt đầu run, cô ngồi phịch xuống trên lề cổng đá của nhà thờ, thở hổn hển. Khi bớt mệt, Hạnh vô trong nhà thờ vắng lặng chưa thấy các em học sinh, Hạnh lo lắng dáo dác nhìn quanh, thì cha phụ trách lớp giáo lý từ mái vòm hội quán đi ra báo tin lành:

- Bình yên cả. Lẽ ra, tôi cho các cháu về đúng giờ. Nhưng không hiểu sao hôm nay tôi cho học sinh về chậm mất một giờ, nên chúng thoát nạn. Những cháu nào cư ngụ ở ngoài phố, thì đi tắt về lối Lục Lộ, để qua cầu Bá Hộ Chúc, mà lên phố.
Hạnh cám ơn cha. Vô cùng tạ ơn Chúa! Lòng khấp khởi vui mừng, ngẩn ngơ. Cha phụ trách đã bỏ đi lúc nào không rõ. Hạnh vội chạy về nhà, lúc nầy cô mệt kinh khủng! Khắc khoải lo sợ mà chạy bộ cả buổi, do vừa sanh con mới non tháng, nên hai chân run rẩy, dường như cô choáng váng muốn nghẹt thở, hụt hơi, tim đập thình thịch, mệt sắp lả đi, buộc lòng cô phải đi từng bước ngắn, có khi Hạnh ngồi bừa lên lề đường, thở hổn hển nghỉ mệt thật lâu. Hạnh cố gắng lê từng bước rã rời về tới nhà. Đồng thời, lúc đó ở ngoài sân Thiện chân thấp chân cao vô nhà, anh thở hổn hển hỏi dồn dập:
- Em ơi! Các con về nhà chưa?
Hạnh quá mệt không thể thốt nên lời,cô chỉ nhìn anh gật gật đầu.
Dzũng, con trai lớn (thay cho mẹ) nhanh nhẹn đáp lời ba:
- Dạ! Các con về nhà hết cả rồi. Ba yên tâm.
Đông đủ cả nhà mừng rỡ vô cùng. Không ngờ các con biết tìm lối về, khôn ngoan đến thế! Vậy mà, Hạnh quá run sợ lo lắng cho các con sẽ có bề gì... Hay bị kẹp cứng giữa làn sóng người đông đúc. Các con dưới chín tuổi, nếu không bị kẹp cứng trong đám đông người hơn kiến, thì con sẽ bị nghẹt thở, bị người to lớn dềnh dàng xô đẩy, dẫm đạp lên đầu lên cổ, tất bẹp dúm ra! chết là cái chắc. Tạ ơn Chúa! Hạnh thấy bé Dzũng ngồi trên giường toe toét cười, con kể lại chuyện đi về nhà cho bà nội, và mấy đứa em nó nghe:
- Học và tập dợt xong. Đáng lẽ là cháu về rồi. Nhưng cha phụ trách gọi các cháu ở lại, cho tụi cháu ăn bánh và uống nước ngọt. May quá! Nếu cha không kêu tụi cháu ở lại, thì đúng lúc đó là cháu đã đi về tới ngang cầu ông Đạo rồi.
Hạnh mừng rỡ đến ứa nước mắt, dịu dàng hỏi con trai:
- Sao con về nhà an toàn được vậy?
- Dạ, tụi con đứng ngoài sân nhà thờ, thì thấy có ngọn lửa đỏ rực toả xịt từ trên trời bay ra, rồi khói mù mịt kéo dài từ hướng Cam Ly chạy tới hướng bờ hồ, cả tiếng động gầm rú, quái lạ từ trên trời nghe rất điếc tai. Cha biểu tụi con lủi chạy vô núp dưới căn hầm nhà thờ, nằm xuống nền nhà ngay. Nhưng tụi con chỉ kịp chạy vô tới ngang cửa căn hầm, là nghe mấy tiếng nổ to lắm. Nhà thờ rung rinh quá sá, cửa kính bể hết ráo. Tụi con nằm im một hồi lâu không nghe gì nữa, thì cha cho tụi con đi về nhà gấp. Con đi xuống khu Lục Lộ về phiá cầu Bá-hộ Chúc, vì bị cấm không cho đi qua cầu ông Đạo. Con khóc rống lên vì sợ quá.
Bé Tuấn cũng góp chuyện:
- Con ngồi viết bài trong lớp (trường Đoàn Thị Điểm). Nghe ầm ầm, tiếng động điếc tai, nổ to lắm. Trong lớp con rớt cái la phông và bảng đen, cửa kính bể hết. Bụi đất, gạch cát bay rào rào trên đầu tụi con. Thầy Tu nói tụi con chui vô gầm bàn, nằm úp mặt xuống đất, hai tay lấy cặp bưng đầu, tụi con nằm như vậy lâu lắm. Thầy đi đâu đó, rồi trở vô lớp, thầy nói “bị rớt máy bay ở bờ hồ”. Cả lớp chạy ra đứng trên sân rạp ciné Ngọc Lan coi. Đông lắm.
***
Xế chiều có tin ban đầu cho hay: Những người bị lâm nạn ở trên dọc hai bên bờ hồ, trên cầu Ông Đạo là do bị sức gió của phi cơ F 5 thần tốc ào ào cuốn mạnh, hút họ và quăng họ xuống hồ mất tiêu, ba cặp trai gái ngồi tâm tình bên gốc cây bách tùng. Sáu người bán dạo: Cà rem, kẹo kéo, bánh bò, khô mực, hột vịt lộn, vé số Kiến-thiết Quốc-gia. Bốn người ngồi câu cá rải rác ven mé hồ, gần nhà hàng Thanh Thủy, hoặc mé góc cầu Ông Đạo. Những người đi tản bộ, người ngồi xe lam, đi honda, xe đạp trên cầu Ông Đạo, những ai đi chung quanh khu vực hồ. Vài nguồn tin không hiểu có chính xác chăng, thế nầy:

* Tin thứ nhứt: Anh phi công lái phi cơ F 5 từ Sài Gòn lên vùng Cao Nguyên làm nhiệm vụ xong, phi cơ bị trục trặc kỹ thuật, không thể quay về Sài Gòn, chẳng may phi cơ lao rất mau từ hướng phi trường Cam Ly, vụt đâm đầu xuống hồ Xuân Hương?!
* Tin thứ nhì: Một sĩ quan pilot Việt Nam tên Toàn, có hôn thê ở ngay ấp Ánh Sáng, độ tháng nữa là họ làm đám cưới. Anh ta đi làm nhiệm vụ trên vùng cao nguyên xong, anh bay lượn mấy vòng tại “khu nhà em” dợt le… Chẳng may anh bay thấp, đà lướt quá trớn, nên phi cơ đâm đầu xuống đất?
Cô Minh có nhà ở dãy nhà thứ nhứt của ấp Ánh Sáng đã kể:
- Lúc đó, tôi phơi quần áo trước sân nhà, bỗng nghe những tiếng động vô cùng điếc tai, ào ào, gầm rú, gió cuồn cuộn bốc rác rưới bay thốc lên cao. Rồi một sức nóng kinh khủng, nóng tột độ từ trên trời phủ chụp xuống đầu rất mau. Kèm theo những khối lửa đỏ lòm, khói đen nghịt dài dài thành một đường từ hướng Cam Ly chạy về. Theo đà lướt rất sát của phi cơ, tôi bị xô chúi nhủi, nằm sấp, đập mặt xuống nền xi măng. Tôi cứ tưởng trời long đất lở. Tôi bị tức ngực, điếc tai, chảy máu đầu, đau đầu ghê lắm.

Bên kia lối Thuỷ Tạ có một chiếc trực thăng vừa đáp xuống bãi cỏ. Họ thả mấy người nhái ra, đồng thời xe GMC kéo mấy chiếc thuyền con tới. Cuộc tập trung mò kiếm chớp nhoáng bắt đầu. Hầu như tất cả người dân dự-kiến đều ngồi bất động xếp lớp chung quanh vòng bờ hồ đen nghịt. Mặt mày ai nấy đều tỏ lộ nét lo sợ buồn bã mà hiếu kỳ. Mấy “ngư ông” bắt đầu lên thuyền bằng mái chèo gỗ đi thật nhẹ, chậm chạp. Hạnh nghĩ họ không dùng thuyền máy, vì sợ máy nổ sẽ khua động sóng to, không vớt được những miếng thịt rữa nát ra chăng? Bốn anh thợ lặn đồ nghề đeo đựng đầy người nhảy ùm xuống hồ nước lạnh giá và hôi thối đất bùn. “Ngư thuyền” cầm cái vợt lưới to rộng vành có cây cán sắt khá dài. Một người khoan thai khua nhẹ mái chèo, một người khác cầm cây vợt lưới tìm vớt những miếng thịt vụn, những thứ vật lạ lềnh bềnh trôi, vân vân...

Đứng trên bờ, người ta có thể nhìn thấy bèo, lục bình bồng bềnh trên mặt nước ao tù, năm bảy miếng thịt vụn dính mỡ có từng chùm cỏ trôi đi trôi về, trôi vòng vòng loanh quanh gần trong mé bờ. Lập tức, người đứng sát ven bờ hồ la hét chỉ chỏ cho người trên ghe xem, họ đồng loạt bụm hai tay vô miệng, làm loa kêu to, ngoắt, vẫy tay lia lịa, cho bác “ngư thuyền” thấy, mà bơi đến “vớt cái xác vụn” tẻo teo kia lên. Họ “lượm được” thứ gì của “cố nhân”, họ liền bỏ vô bọc ni lông đựng trong mấy chiếc thau nhôm to. Họ từ từ chèo ghe vô mé bờ hồ, (phía gần nhà hàng Thanh Thủy).
Trong khi đó, những thân nhân của người lâm nạn, nằm vật vã trên các gốc bách tùng, các bãi cỏ, họ gào khóc thảm thiết vô cùng. Họ chẳng cần biết những cái bọc ni lông đó là thịt bầy nhầy của bà con thân nhân của họ, hoặc là của ai!? Cứ thế, họ ôm những bọc ny lông kia, mà vật vã gào khóc dữ dội rất buồn thảm.
Ngay tức khắc, xe thông tin bắt loa phóng thanh chạy cùng khắp đọc thông báo: ông Tỉnh Thị Trưởng Đà Lạt ra lệnh cấm:
- Cư dân không được dùng nước máy ở khu vực hồ Xuân Hương. Nhà máy nầy đóng cửa. Nhà máy nước Suối Vàng, hồ Than Thở, sẽ cung cấp nước cho toàn dân thành phố Đà Lạt.
Hạnh cúi đầu thầm thỉ:
- Thưa ông Tỉnh Thị Trưởng ơi! Thấy cảnh tang thương, rùng rợn kinh khủng kia, người dân Đà Lạt hiền lành đã sợ mất hồn mất vía, kinh thiên động địa, hồn xiêu phách tán rồi. Họ không lăn đùng ra dãy đành đạch mà chết bất đắc kỳ tử, là may thì thôi. Có mô dám ăn uống cái thứ nước bùn sền sệt, hôi tanh pha lẫn thịt thà, máu huyết không thể chịu nỗi chớ!
* * *
Tai nạn thương tâm đó đã xảy ra hơn một tuần rồi. Ấy thế mà mặt hồ luôn luôn sôi bọt bong bóng. Bọt bong bóng cứ hết bể bụp cái nầy, lại nổi lên đợt bong bóng khác, sủi bóng sì sụt hoài. Lúc nầy người hiếu kỳ đến xem thưa thớt dần dần. Họ chỉ tập trung vào mỗi buổi chiều nhàn hạ, khi mặt trời chưa gác núi. Riêng Hạnh dạy học mỗi ngày đều dẫn hai con trai đi ngang qua bờ hồ để tới trường. Chung quanh khu vực nầy bắt đầu có mùi hôi tanh thoảng lại rất khó chịu. Mẹ con cô luôn chứng kiến những cảnh thật đau lòng, thương tâm vô cùng, không thể nào cầm lòng mà âm thầm rơi lệ. Hạnh thấy những thân nhân (của người bị nạn) cùng nhau tụ họp lại ở ngay góc bờ hồ, phía bên đầu cầu Ông Đạo khu vô chợ Mới (mấy cây Tùng, gần quán Hạnh Tâm). Mở đàn cúng cầu siêu suốt tuần, họ đặt những hàng quách dài, mỗi quách độ bốn tấc để ở thảm cỏ sát ven đường, từ những quách nho nhỏ, họ đắp tạm nhiều bậc cấp bằng đất có trải tấm vải trắng dài thật dài (làm thành con đường từ ven bờ nước mà nối liền với những cái quách.
“Con đường vải lê thê tơ lụa khăn sô trắng” nầy tạo thành chiếc cầu giao cảm linh thiêng, ngỏ hầu chiêu hồn, kêu gọi những vong linh vô trong quách an nghỉ). Thầy cúng đến lập bàn thờ cúng vái suốt mười ngày đêm, khói hương nhang trầm nghi ngút. Thân nhân khóc than não nuột, tiếng khóc than rên siết không lúc nào ngưng bay lên trời cao. Thảm thiết lắm. Mủi lòng đau đớn vô cùng!

Sau mười ngày tụng niệm, một buổi sáng tinh sương khi đi ngang qua mé hồ, Hạnh chứng kiến họ cuốn tròn tấm vải ở dưới nước lên ven bờ hồ, để đó, thầy tu cúng xong, hai chú tiểu nghiêm trang tiếp tục cuốn từng tấm vải chậm rãi dần dần cuốn tới cái quách. Cuốn tấm vải của cái quách nào xong, thì họ bỏ hẳn tấm khăn vải trắng ấy vô trong quách đó, chỉnh tề, ngay ngắn. Mỗi lần cuốn cổ quách nào, thì có hai thầy cúng đứng hai bên tụng kinh. Thân nhân bò lết dưới đất vật vã, khóc rống lên. Thảm thiết vô cùng. Sau hết, thầy cúng cho người đóng kín cổ quách lại. Chở đi. Mặc dù người ta đi xem cuộc chiêu hồn đông vô số kể, nhưng mọi người im lặng cúi đầu quệt nước mắt xót thương. Đó là chút tình “tứ hải giai huynh đệ. Máu chảy ruột mềm. Thương người như thể thương thân. Bầu ơi! Thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”! Là vậy.

Mặt hồ Xuân Hương suốt mấy tháng qua vẫn sủi tăm, bồng bềnh những bèo bọt bong bóng nhớp nhúa. Bùn đất tráng lên mặt nước đen ngòm rờn rợn luôn thoảng mùi hôi thối, tanh rình, thúi kỳ lạ. Dầu, mỡ, xăng nhớt, cứ đọng lại từng khóm, ánh lên long lanh từng vệt loang dưới mặt trời đỏ chói trong lòng hồ. Không có cách gì tẩy uế hết. Thật ngao ngán quá chừng. Dù mỗi ngày, chuyên viên tháo gỡ phi cơ lặn xuống hồ tìm kiếm... đôi khi họ tha xương cốt thịt thúi lên từng ít một. Không ngày nào đi ngang qua khu vực cầu ông Đạo, Hạnh không khỏi bùi ngùi cảm động, xót xa… dù không muốn, cô vẫn vô tình nhỏ lệ, khóc sưng đỏ hai con mắt mà xót thương người dưng.

Cuối cùng trước mùa mưa, ông giám đốc nhà máy thủy điện phải mở những ngăn cửa đập ở dưới chân cầu ông Đạo, xổ hết nước trong hồ Xuân Hương cho nước chảy qua cầu Bá hộ Chúc. Con suối nhỏ uốn lượn chảy men đường phố Cường Để, rồi chảy tới thác Cam Ly, lẫn khuất trong rừng sâu. Hồ Xuân Hương đã lồ lộ ra chiếc phi cơ méo mó nhăn nhúm như trái táo khô, cụt lủn, mất đầu mất cánh, chỉ còn giơ ra khung sườn, mấy bánh xe trông vô cùng dị hợm khó coi! vô duyên xấu xí hết chỗ nói. Lòng hồ Xuân Hương trơ trẽn hắc ám phơi ra giữa lộ thiên, giơ đầy sự bẩn thỉu lên trời. Đáy hồ lổm chổm đụn rác rưởi ô tạp. Cỏ lác, cỏ năn, quyện chặt với xe đạp, vỏ xe hơi, xe honda. Rải rác xác xương súc vật. Tôm búng mình nhảy tưng tưng trên bùn sền sệt, ếch, nhái, cóc, lươn, cá lóc, cá trê, cá lớn cá bé phóng mình giãy giụa, đập đuôi bành bạch lủi thật mau trong sình lầy đặc quánh.

Dạo trước, ai ai cũng chỉ thấy bề mặt của hồ Xuân Hương duyên dáng, thơ mộng, tuyệt diễm, quyến rũ, tràn lan thi vị thơ mộng là thế. Nhưng không ai trông thấy bề sâu của lòng hồ. Nay, hồ Xuân Hương đã khác hẳn cách nhìn... và Hạnh nữa, cô thường tư lự ngước mắt lên không trung: để ươm mộng vàng, dõi mắt qua vạn sơn lâm tìm bóng chim bằng rong nghìn núi, hoặc toả rung ngàn nốt nhạc... mà mơ về dáng anh phi công nào… ở phương trời xa xôi lắm (!!!)
* * *
Tình HOÀI HƯƠNG

Tinh Hoai Huong
10-14-2018, 08:54 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần thứ Ba
Chương 31
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1539506860-6.jpg

/uploadpics/mp3pdf_2018/1539507034-Lan Dau Cung La Lan Cuoi.mp3
Mưu Sự Tại Nhân…
Tình Hoài Hương
***


Trời đã về đầu đêm, tiếng côn trùng đơn điệu rả rích, những tia lửa trong lò nung than bập bùng, từ thân cây có tiếng nổ tí tách, tia lửa giống lọn pháo bông lóe lên, xòe ra và tắt ngúm. Tiếng xào xạc rì rào lúc gió lao xao thoảng qua đám cỏ tranh, cộng với tiếng cú nấc cục, tiếng chim lạc đàn kêu trong rừng rậm, nghe càng bi thảm từ không gian u tịch im lắng của vùng hoang dã, đìu hiu cô độc ở chốn nầy, khiến Hạnh cảm thấy sơ hãi, lạnh run lan mau tới xương sống. Cô cúi đầu nhìn xuống hai bàn chân bết bùn đen và nứt nẻ, mà chạnh lòng rơi những giọt nước mắt. Ngồi lì một chỗ thẩn thờ suy nghĩ, Hạnh lo lắng bồn chồn không yên.

Đang lúc buồn phiền bối rối băn khoăn, thì bất thình lình một con dơi đi ăn đêm vút bay xuống bắt muỗi, nó tộn vô lông mày cô, đã sưng u một cục, đau điếng. Cô giật bắn cả người suýt tí nữa lòi con ngươi, có thể mù mắt mất toi! Thiệt may mắn hết sức. Cô cùng các cháu lo đóng nắp cửa lò than, vội vã đi rửa ráy tay chân, sau đó leo lên cầu thang dây.
Nhà sàn khá cao được lót bằng nhiều cây mây đã thuộc láng bóng, bốn vách tréc đất trộn rơm và phân trâu, mái nhà lợp tranh, phía trước nhà sàn có một cửa lớn, hai cửa sổ nhỏ xíu. Còn ba phiá khác kín mít. Muốn vào nhà ta phải leo lên cầu thang dây, khi mọi người vô hết trong nhà, thì cầu thang dây kéo lên, cuốn lại để trên sàn; đó là cách đề phòng các loài thú dữ về đêm chúng ưa lang thang dưới đất tìm mồi.
Hạnh nằm lên trên sàn, về mùa hè thì thật êm và mát lạnh lưng; nhưng về mùa Đông lại khá lạnh, vì gió lùa dưới sàn nhà, nhứt là cô vẫn sợ sợ có người đứng dưới sàn nhà thọc cây dao lên lưng mình. Thật ghê gớm! Do nghĩ vậy mà suốt nhiều đêm cô phập phồng lo lắng, trăn qua trở lại chập chờn trên sàn kêu cót két không dám ngủ, dù khuya đã cạn từ lúc nào.
Khi tiếng gà rừng gáy te te nghe cụt lủn và vô duyên, để báo hiệu bình minh sắp ló dạng. Giây lát sau nó gáy thêm lần nữam rồi thoáng chốc nó vụt bay lên cành cây cao mau hơn tên bắn, thân hình nó nhỏ nhắn lông lá bình thường. Nó không được “oai vệ và cao sang” như gà mình nuôi trong chuồng, nhưng nó rất lanh lẹ. Tại tư gia, con gà trống là loại gia cầm “quý phái” từ cung cách đủng đỉnh, cho đến lông lá màu sắc tươi đẹp, nó được xếp vào hạng cao sang ưu tú, vì sự bệ vệ đường hoàng, khi nó muốn “ve vãn cua gò nường mái dầu” thì con gà trống điệu nghệ “hiên ngang oai vệ” nhảy lên cành cao, đập đôi cánh phành phạch nhịp nhàng, nó ngóng cao cổ sang sãng gáy một tràng dài ò ó o ò…. xong, gà trống liền nhảy xuống đất, tới gần “nường mái” nó nghiêng mình xoè cánh thân ái kè kè chạy vài vòng quanh “nường”, rồi nó bới móc ụ rơm, gục gặc mổ cạch cạch xuống đất, nó kêu “tụt tụt tụt…” mà gạ gẫm để chiếm ngự “nường”.

Cú rúc trên bụi cây nghe rợn người. Bé Dzũng chạy vô căn nhà tranh vách đất thấp lẻ tè lấy cái ná, trong túi quần bé đựng bọc đá, nó kêu sột soạt rột rạc theo mỗi cử động, cậu bé chạy ra phía gần gốc me, nhắm chỗ con cú kêu mà bắn ná lên. Người ta nói nếu con mễn, hoặc con cú, con quạ kêu gần đâu đó, thì trong xóm sẽ có chuyện chẳng lành, có chuyện không vui. Vì vậy dân quê vùng nầy ưa lấy đá ném, bắn ná lên chỗ nó đậu, mong đuổi đi. Sau đó bé Dzũng theo anh họ là Châu kiên nhẫn vác cuốc đi làm vườn, rau lang là loại dễ trồng và ít chăm sóc hơn những loại rau khác ở đồng khô cỏ cháy tại khu Rừng Lá, nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá gà ăn muối, dù Châu cẩn thận chăm sóc, cực nhọc trăm bề, nhưng các loại rau cần nước, rau dền, rau tần ô… èo uột không thể mọc lên tươi tốt dưới ánh mặt trời luôn thiêu đốt, thì làm sao có đọt rau lang tươi non, chớ nói gì đến có củ để ăn, và dư thừa mà xắt lát phơi khô độn với sắn, bắp… thay cơm.

Ở vùng nầy ưa xảy ra cái nạn có một số người không chăm chỉ chuyên cần lo trồng trọt làm ăn, mà chuyên môn chờ người khác ra công vất vả nhọc nhằn làm việc, khi gần thu hoạch hoa màu, thì đêm khuya họ lẽn đi rình mò ăn trộm của người khác! Lớp thì heo rừng ăn lá khoai hoặc dùng răng nanh và mũi để moi đất lấy củ khoai, củ sắn! Lớp bị voi rừng về phá hoại vườn mía, vườn bắp, vười khoai sắn...Khỉ cũng về bẻ bắp non, đào khoai sắn tinh vi lắm. Người ta nói: “Nuôi ong tay aó, nuôi khỉ đốt nhà” quả không sai, bọn khỉ trong bià rừng thuộc giống vật tinh khôn chẳng khác gì loài chó săn. Nó lanh lẹ chạy nhảy leo trèo tung hoành phá phách hơn các dã thú khác, chẳng những ban đêm nó “xuất đầu lộ diện” mà ngay cả ban ngày, chúng vẫn “tự do thao túng” phá hoại hoa màu nhà cửa vườn tượt cư dân, không chút kiên dè. Nào khỉ hái dừa, hái trái, nhổ rau, bẻ chuối, đào củ, vân vân… Phá phách chán, chúng leo lên mái nhà tranh thấp lè tè, xếp thành hàng dọc ngồi bắt chí bắt rận cho nhau.
Sáng sớm mọi người lớn lo đi làm việc, chỉ còn ông bô bà lão "già ọp ẹp" và trẻ em ốm yếu ở nhà, bầy khỉ biết họ chẳng “làm nên trò trống gì”, nên chúng tha hồ quậy tưng trời! Chiều tối có người đi làm về, thì chúng chin chít kêu gọi nhau nối đuôi lũi mau vô bià rừng. Cư dân ở đây khá phiền não vì thất thoát ngũ cốc từ nhiều phương diện. Thiệt vô cùng mệt mỏi và khổ hết biết về đủ thứ chuyện tai ách dồn dập uà về.

Tháng trước trong nhà Châu bán được mấy bao than, và ba thước củi, cũng may mắn anh em Châu đi rừng đã bẫy bắt cặp nhím, đập được con rắn hổ lửa, họ đem về nhà cẩn thận làm sạch bộ lòng và bỏ đầu con rắn, thịt rắn nấu cháo, thịt nhím xào lăn. Xương bọn chúng ngâm chung vô vò đất đã nung, Châu đặt choé đất rất to gần bên hông nhà sàn, sau đó cháu cho những vị thuốc bắc vô, đổ đầy rượu đế, rồi khằng kín chóe rượu, bên hông cổ choé rượu có bốn cái miệng nhỏ xíu, cắm bốn cây trúc màu vàng uốn cong cong chỉa ra bốn hướng. Khi nào rượu đã lên men, mấy cháu trai sẽ kê miệng vô đầu cây trúc chúm môi mà hút một hơi dài, cây cần trúc kêu o o o… loại rượu nầy thơm ngon thiệt “đã điếu” và phừng phưng say ngầm, có khi bụng đói thì say bí tỉ.

Nhân nói về vụ rắn, một hôm bốn anh em trai: Châu, Trân, Vân, Sơn đi làm rừng về, người vác cuốc kẻ cầm rựa, lưng đứa khác đeo ba lô, họ vừa đi vừa nói về rừng Lá mưa bão, khiến cây cối bị tróc rễ lật gốc nhiều nơi. Bỗng Trân thấy một con rắn thật to đang bò ngang trước mặt, nó tính lũi vô vạt tranh bên mé cồn. Do bất chợt và quá bất ngờ không kịp trở tay, thay vì Trân trở đầu cuốc để đập trên lưng nó, thì vô tình Trân “cuốc” ở đằng khúc cuối đuôi con rắn. Nó lũi nhanh vô bụi rậm. Đem khúc đuôi ngắn vô nhà, trong lòng họ cảm thấy tiếc, vì không có bữa ăn với chút thịt. Chị Sáu nói:
- Con ơi! Đánh rắn thì phải đập nát đầu cho nó chết. Vậy là có chuyện không may rồi.

Dì cháu Hạnh liếc nhìn nhau mỉm cười, có lẽ họ cho đó là chuyện dị đoan vớ vẩn, không ai tin lời chị. Tuy vậy chẳng nói ra, nhưng trong lòng mấy dì cháu cũng có chút e dè. Thế rồi
hơn một tuần sau, (lần nầy có thêm em út là Nhân mười bốn tuổi, vị chi là năm anh em trai) đi rừng về, họ vừa tắm suối xong, lên bờ người mang ba lô, người thay áo kẻ mặc quần, thì Sơn thấy trên cành cây sung có con rắn cụt đuôi đang thòng thân hình nó xuống gần tới đầu cuả Trân. Hốt hoảng Sơn la to:
- Anh Trân chạy mau, con rắn ở trên đầu anh.
Nghe em la, Trân vội quơ cái áo kaki rất mạnh lên không trung, cúi đầu chạy ra khỏi cây sung. Vân cầm cây tầm dông quất túi bụi vô cành cây sung, khiến con rắn rớt xuống đất lũi rất mau vô bụi cây bình bát. Họ chạy tới bụi bình bát tìm hoài, nhưng chẳng thấy tăm hơi con rắn nơi đâu! Ai nấy đều tiếc hùi hụi, lại không được ăn tí thịt. Lần nầy có cả năm anh em, mà không làm nên trò trống gì với con rắn. Tức thật! rồi chẳng thèm áy náy làm gì, cho mệt! Cư dân đi rừng khi gặp thỏ, nai, mễn, thời buổi nầy làm gì có súng, thì họ dùng bẩy, là chuyện thường. Về đêm người làm cây gỗ, làm than thỉnh thoảng gặp đàn voi, hoặc cọp, (cọp hiếm khi đi theo bầy), dù đa số họ bạo gan bạo phổi tuy rất sợ hãi, nhưng nếu không đi làm rừng, thì lấy gì sinh sống.
Do vậy họ “đa mưu túc kế”. Loài vật có bốn chân hung dữ nhưng chúng biết kiên dè cái uy cuả người (dù chỉ có hai chân), nhưng họ có bộ óc thông minh sáng tạo trí tuệ phi thường, vì vậy thú hoang biết sợ không dám tấn công, không hại người nếu mình không gây nguy hiểm đến chúng. Cọp ngủ ngày, đêm tối rình mồi, nó sợ lửa, thế nên nếu phải ở trong rừng canh lò than, họ đốt đống lửa to hù nó sợ mà tránh. Gặp voi dân nghẻo đánh phèn la, đập thùng rỗng hò hét, chúng sẽ lãng ra xa.

Lần thứ ba, Châu và Vân đi trước, tiếp theo Trân đi giữa qua cổng chính để vô sân nhà, đi sau lưng Trân là Sơn. Thình lình con rắn cụt đuôi vắt mình trên sà ngang của cánh cổng phóng xuống đớp một phát vô cánh tay Trân. Nghe tiếng Trân hét to, Châu và Vân quay lại, thì thấy con rắn hổ rớt xuống đất, nhưng nó vẫn nằm gần chỗ Trân đứng, cổ nó ngóng cao với cái lưỡi chẽ đôi thụt ra thụt vô đưa qua đưa lại, đột nhiên nó phóng tới dưới bắp chân Trân mổ thêm một phát nữa, nó chỉ nhắm tới Trân mà mổ, hình như để trả thù. Trân rên la quay quắt ít phút, rồi rệu xuống nằm vật dưới đất như trái mít rụng.

Trên vai Châu vác cái cuốc, lưng mang gùi đựng mấy mụt măng, Châu quăng gùi ra xa, lanh lẹ trở cán cuốc đập túi bụi lên lưng con rắn, khiến nó không thể bò đi, thân nó cuộn vài vòng, rồi dẫy nẩy lên uốn éo, coi kinh dị ghê. Sợ nó còn khả năng mổ thêm người khác, nên đứa em út là Nhân cầm cây tầm dông dích con vật lên coi, thì thấy cái đầu nó lúc lắc, dường như muốn làm gì đó, hoặc tìm chỗ thoát thân, Nhân nhớ lời mẹ dặn dò, liền hét:
- Anh Vân đánh nát bét cái đầu cho nó chết, mau đi.
Mọi sự bây giờ rất lộn xộn, bấn loạn, Vân cầm cái xà gạt đập túi bụi lên đầu con vật. Sơn lo xốc Trân đứng dậy để anh hai Châu cõng em kế chạy đi vô nhà. Trân quằn quại đau đớn, mặt mày tái nhợt, mồ hôi lấm tấm rịn ra trên trán. Trước 75 Châu đã từng đi lính Biệt Kích 81, làm việc với Mỹ, nên đứa anh Hai nầy rành rẽ chuyện cấp cứu và tự cứu mình. Châu nhanh như chớp vừa chạy vừa bảo các em:
- Nhân đi cắt sợi dây võng dài treo sau hè, để cột chặt hai chỗ mà Trân vừa bị rắn cắn, nếu để chậm thì nọc độc chạy lên tim, là chết liền. Mau lên.

Châu đặt em trai kế nằm lên tấm phảng, lanh tay lột áo Trân coi vết rắn cắn nơi nào, thì thấy trên cánh tay phải của Trân sưng to, cứng ngắt, bầm tím thành một vòng tròn lan rộng quanh bốn dấu răng sâu hoắm, dù mỗi lỗ răng con rắn cắn chỉ nhỏ bằng nửa hạt tiêu. Ôi! Một con vật nhỏ bé mà dễ dàng lấy mạng người mau đến thế sao!? Khủng khiếp quá. Châu lật đật cột thiệt chặt sợi dây dù lên cánh tay em, đồng thời đưa khúc dây dù còn lại cho Vân để cột lên ống chân Trân. Vội vã nặn máu trên cánh tay em, súc miệng bằng ngụm rượu đế, Châu kê miệng vô hút máu bầm, rồi nhổ xuống đất, cháu làm như vậy nhiều lần. Sau đó Châu lấy dầu cù là con hổ chà xát quanh cánh tay, Vân cũng làm những động tác giống anh Hai. Có lẽ do cột chặt sợi dây dù, máu không thể lưu thông, nên chỗ bị thương ở cánh tay và bàn chân của Trân đều tím bầm, sưng u lên rõ to. Về phần Vân sai em:
- Sơn đi bơm bánh xe ba gác nghe. Xong, em lấy gối và cái mền lính trải lên xe cho anh Trân nằm. Lấy thêm bộ quần áo của anh Trân đem theo nữa. Mau đi.

Làm sơ cứu xong, Châu mặc lại chiếc áo nhà binh cũ mèm cho em, lúc nầy anh mới để ý thân thể Trân giống bộ xương cách trí, Châu mủi lòng thấy mặt mày em trai xanh như tàu lá chuối, em nhắm mắt nhăn nhó, lâu lâu uốn éo oằn người kêu “úi cha ơi”, thảng hoặc em vật vã thân thể rên rỉ co giật, run rẩy từng cơn nóng rồi lạnh, liên miên. Châu lo sợ toát mồ hôi, lẽ nào nọc độc chạy mau đến thế à! Hay là do cơ thể của em thiếu nhiều chất dinh dưỡng, quá ốm đói, nên em không có sức đề kháng nỗi từng cơn đau đớn. Trước 75 Trân đi lính làm việc trong Tiểu Đoàn 2 Công Binh Kiến Tạo, Trân có sức khỏe dồi dào, học thức khá, am tường hết những kiến thức chuyên môn không chút sai sót, vấn đề làm việc trong văn phòng, hay ra ngoài công lộ nếu có khổ cực nặng nhọc gì, chỉ là chuyện nhỏ!

Châu năm nay đã ngoài ba mươi kế đến là Trân. Sau tú tài II Vân đi lính Biệt Kích Dù đã hai năm chưa lần nào bị thương. Ba anh em lớn tồn ngồng mà chưa có ai lập gia đình, ngày trước họ đều phơi phới xuân xanh, trẻ trung yêu đời, tràn đầy sức sống vui tươi lành mạnh. Thời đó gia đình hạnh phúc vui vẻ biết bao. Mỗi năm anh em hẹn nhau về phép, trước là thăm mẹ và hai em nhỏ, sau nữa là sum họp gia đình nhân ngày giỗ ba đã hy sinh vì tổ quốc tại Căn cứ 4, năm 1972.

Châu ngậm ngùi đau xót không thể có giọt nước mắt khóc cảnh ngộ đắng cay bi thảm khốn đốn sau ngày “đổi đời” trắng tay & đắng cả hồn nầy. Ba người đó chẳng dại gì đi trình diện "cải tạo", ngu sao tự đút đầu vô rọ, chẳng thà "đâm đầu vô rừng" mà còn ngáp ngáp chút "không khí thông thoáng tự do" núi rừng. Thuở xưa mấy anh em đi “toàn lính thứ dữ”, phong độ oai hùng, chẳng ai bị thương tật gì. Nay sống “ẩn cư” nơi chó ăn đá gà ăn muối lại sinh ra “bá bệnh”. Gia đình nghèo mẹ goá con côi trai trẻ như vậy, lo làm lụng quá vất vả nhọc nhằn từ “của rừng rưng rưng nước mắt” vẫn không có đủ ăn, là sao vậy!? Hay vì gia đình thuộc “ngoài diện và tuyến”, không hề có ưu tiên! sức trai trẻ không có bo bo ăn, chớ nói gì cơm độn! Độn thổ thì có! Chẳng nếm chút cá thịt đã đành, lại không có rau tươi, họ bị mụt ghẻ lở loét máu mủ cùng khắp thân thể, ui chao xót gan xót ruột từ nghiã bóng đến nghiã đen.

Nhiều ngày nhịn đói đi rừng muỗi đốt, ve vắt hút máu, xuống suối tắm thì điả bu đầy thân hút máu. Tắm suối bị sốt rét ngả nước, nước ở rừng thiêng nước độc từ những con vật chết lâu đời không ai chôn, dòi bọ rúc riả, chim chóc tha vi khuẩn gieo rắc khắp nơi. Từ lá trên rừng rụng xuống thúi hoắc, quyện với xác thú hoang, khi mưa nước trên rừng chảy tràn lan vô con suối, tuy nước trong vắt nhìn thấy sỏi cát dưới đáy, nhưng chứa nhiều mầm bệnh, đầy vi khuẩn… sinh ra đủ thứ bệnh hiểm nghèo, nhứt là bệnh sốt rét ngả nước, bệnh lao, bệnh phổi, thương hàn, kiết lỵ, vân vân… Cho dù có làm mấy cái lu vại cát lọc lấy nước trong “tinh khiết” nấu ăn, nấu nước sôi uống, cũng chả “xi nhê” gì!
Không ăn uống không tắm giặt trong suối nguồn thiên nhiên vô tận trời ban cho, thì con người tại vùng nầy sẽ chết khô chết khát, không có nước xài. Đào giếng là chuyện xa xỉ do rừng rậm toàn núi đá sâu hun hút đào hoài không thấy đất, chẳng có nước. Máy nước là chuyện chỉ có trong mơ! Hồi xưa, trước 75 thì có từng đoàn xe GMC đông đúc ào ào chạy đi “tải nước” ngọt trong vùng lân cận chạy về Free dài dài cho cư dân ở những căn cứ I, II, III v.v… xài xã láng, nay “mất nước” thì… còn khuya mới có “nước chùa”.

Ngẩn ngơ ngậm ngùi giây lát đứng bất động như trời trồng, Châu sựt nhớ lanh lẹ sai em:
- Còn Nhân vô bếp bới chút cơm, mắm ruốc kho quẹt, chén đũa, cái ly, bình nước uống cho Trân nghe. Anh sẽ ở lại với Trân. Mình đẩy xe thồ đưa Trân chạy lên trạm xá Mỹ Hưng ngay. Mấy đứa cỡi xe đạp theo, lát nữa chở nhau về nhà. Nếu mẹ đi vườn về, mấy đứa không nói gì hết về chuyện Trân bị rắn cắn nghe. Đừng để mẹ già thêm lo lắng, không ích gì, mà mình bấn loạn rối ren thêm. Nhớ chưa!

Từ những băn khoăn trắc trở coi bình dị kia, sức lực trai trẻ hồi xưa phong độ cường tráng bao nhiêu, nay ai nấy nhìn không ra người ngợm không phải ngợm, thấy năm thằng cháu trai mà ngậm ngùi thương xót ưá hai hàng nước mắt, Hạnh nhìn cảnh các cháu đẩy xe ba gác đi khuất, trong lòng vô cùng sợ hãi, cô run rẩy đứng xớ rớ muốn xĩu muốn rệu theo bầy cháu. Ôi cực khổ trăm bề!

Chị Sáu đội thúng bắp đã bẻ trong vườn về nhà, dù bắp còn non, nhưng phải bẻ bắp gần ngoài bià rừng, cho chắc ăn, còn hơn chờ bắp già, nếu bắp không mất vô tay bọn trộm cắp, cũng vô bụng lũ khỉ lũ voi. Khi vừa bước qua khỏi cánh cửa cổng, chị thấy con rắn hổ nằm chèo queo trên đất, cái đầu nó nát bét. Chị sung sướng cười vang, thầm thì với em gái:
- Mấy thằng con dù đã lớn tồng ngồng, vẫn biết nghe lời mẹ đập nát đầu rắn ha. Chắc mấy đứa đi tắm rồi. Chị em mình vô nấu nồi cháo bắp độn củ khoai, lát sắn khô với xí gạo, cho mấy đứa vất vả nhọc nhằn có chút thịt tẩm bổ ăn.

Hạnh băn khoăn thấp thỏm muốn nói toẹt cho chị biết cháu Trân đang lâm nguy hết sức, nhưng nhớ lời Châu dặn dò, nên cô chần chừ, bồn chồn lo lắng không yên. Mãi đến tối, thấy thiếu Trân trong bữa ăn, chị Sáu thắc mắc hỏi, liền nghe con trai trưởng trả lời:
- À, con cho em đi Long Khánh, hoặc đi Chợ Lớn mua lưỡi cưa. Mẹ để dành cháo, mai mốt em về, nó sẽ ăn, mẹ.
Nhờ sự lanh lẹ tháo vát dũng cảm cuả anh em trong gia đình, và được cấp cứu kịp thời, bốn ngày sau Trân xuất trạm y tế về nhà nghỉ dưỡng vì quá yếu kém, Trân kịp ăn món cháo thịt rắn do mẹ nấu tuyệt vời. Năm anh em trai, Hạnh và bé Dzũng thỉnh thoảng liếc nhìn nhau, tróc lưỡi suýt xoa khen món cháo rắn ngon ơi là ngon! Họ cười hả hê nói chuyện tiếu lâm về việc “tuổi Tỵ, tuổi Dậu” là không hạp, vì: “cõng rắn cắn gà nhà”, hai tuổi nầy không bao giờ được dòm thấy nhau, nên “thằng Tỵ” phải chết trong tay “thằng Dậu” mà thôi. Ha ha ha… vui vẻ hết biết.
***
Xong công việc làm vườn, Vân dẫn thằng em họ đi một vòng coi mấy cái bẫy, xem có con thú nào lọt vô tròng không. Hôm nay bẫy được con thỏ đực, Vân xách hai tai thỏ lên, nó dài thòng hiền lành yên ắng không cựa quậy. Bé Dzũng nhìn con vật, cảm thấy thương:
- Tội nghiệp quá. Mình thả cho nó trốn đi. Anh.
- Làm sao được, Trời sinh muôn thú để giúp chúng ta ăn đỡ lòng, mà sống còn, em à.
Lúc trở về Vân leo lên hái mấy trái vả. Vân dùng cây tre dài, một đầu sào chẻ ra làm sáu, thành cái lồng hái trái trên cành cao, lát nữa về nhà chị rửa và xắt mỏng, trái vả khi cắt ra làm đôi, nó có hình dáng giống trái tim, vị của nó chát, hơi nhẩn nhẩn đắng pha chút ngọt lăn tăn trên đầu lưỡi. Bữa cơm gia đình sơ sài chỉ có nhúm rau thập tàng, ngày nào kha khá thì có mấy khô cá nục nướng, ít rau tía tô rau thơm kẹp với trái vả chắm mắm ruốc dằm ớt tỏi vắt chanh, đường, ăn với xíu cơm độn nhiều sắn khô, cũng là may mắn rồi.

Khi mặt trời chưa mọc, thì Châu, Trân, Vân, Sơn, Nhân đùm những mo cơm vắt độn, con cá khô nướng và bình nước trà nóng để đi vô rừng sâu rất xa, có khi họ đi làm một hai tuần mới về nhà, là chuyện thường. Sau bữa cơm đạm bạc, trước khi đi rừng, Châu dùng mấy lon guigoz (loại lon guigoz nầy bây giờ rất quý hiếm, bền; vì đa dụng: có thể dùng nó đựng thức ăn, nước uống, hoặc treo nó ở cành cây nấu mọi thứ trên bếp), đựng “cơm” độn trong lon, (gọi là cơm độn cho nó oai ở thời buổi XHCN) một cá khô và chút nước rau thập tàng bòn nhặt đó đây trong rừng đã luộc với muối hột. Họ vất vả nhọc nhằn vô cùng khi tìm cây, đốn cây, cưa thành từng khúc xong, bửa ra từng thanh to, phơi khô, sau đó dùng xe đạp thồ về gần nhà, đắp lò củi đốt thành than, đem đi các nơi bán. Nói nghe dễ dàng khi thành phẩm tới tay người tiêu thụ, thật ra có nhiều giai đoạn khó khăn, nhọc nhằn, khổ cực gian truân trăm bề từ của rừng rưng rưng nước mắt. Họ trộn cây lá mục đốt lửa thành tro làm phân bón cây. Những món thành phẩm nầy, dân đi rừng luôn luôn cắt đặt người thức khuya cẩn thận canh chừng, vi nếu sơ hở một chút, là họ thường bị mất cắp cây củi, phân tro, hoặc bị trộm nguyên cả lò than.

Hồng Hạnh cùng con cháu đi vô rừng, người kiếm củi, người săn bẫy thú rừng, người cưa cây gỗ… cô tìm rau tàu bay, rau hồng tiên, lá ớt rừng, lá sân lá lốt, vân vân… Hạnh lấy khăn trùm kín đầu tóc, đội chiếc nón lá cũ, cẩn thận nhét hai cục bông gòn vô hai lỗ tai, đề phòng con ve, vắt. Cô lấy mấy sợi dây thun cột túm hai ống quần, đề phòng đỉa, vắt, ve, bò cạp bò vô chân, v.v... mang đôi ủng cũ của chị Sáu, cô lội mau qua suối, nhìn xuống dòng nước lờ đờ trôi, Hạnh thấy hai chân mình mát lạnh và trắng hơn. Hạnh vừa bước lên bờ đi len lõi trong những lùm cây được đoạn ngắn, cô cảm thấy ngứa ngáy nơi bắp chân, cô vén quần lên cao, thì phát hiện ra mấy con vắt đen sì đeo dính sát trên ống chân. Không hiểu làm cách nào mà chúng nó chui vô được! Lạnh toát người vì sợ mất hồn mất vía, cô không dám lấy tay bắt nó,
Hạnh bèn lấy khăn nhỏ đặt lên mình con vắt “lôi” nó ra. Chẳng những nó không rời ra khỏi bắp chân cô, mà thân hình nó càng dài và trơn tuột. Chợt nhớ bọc vôi ăn trầu gói trong lá chuối, cô ngồi phịch xuống dưới đất, vội vàng mở gói vôi ra, bẻ cành cây ngắn, Hạnh quệt vôi mà trét lên con vắt. Lập tức hai con vắt hút máu người đã mập ú liền nhả miệng ra khỏi ống quyển, nó búng ra một đoạn, có con còn ngó ngoáy, nhảy đành đạch trước khi nằm ngay đơ. Từ khi hai con vắt rời ra khỏi chân cô, máu vẫn chảy trên bắp chân ngứa rần. Gớm kinh khủng.

Các cháu vất vả khó nhọc thồ bốn bao than trên hai chiếc xe đạp cũ từ trong rừng sâu ra ngoài đường cái, để Hạnh chờ xe khách đem than đi Sài Gòn bán mới có giá; nếu trót lọt về gần đô thị thì giá than càng cao; từ Rừng Lá đi Sài Gòn, xe hơi ngừng lại rất nhiều ụ chốt trạm gác để công an kiểm soát giấy tờ tuỳ thân, hàng hoá. Muốn trơn lọt thì khách hàng cũng như tài xế phải lo lót “tiền đường”, mới mong trơn tuột lọt qua ải. Mặc dù qua nhiều chốt siêu cao đóng thuế nặng, khi đem tiền về cho gia đình, thì chẳng còn bao nhiêu. Nói chung, người lao động trong rừng rú khổ cực trăm bề, họ cầm đồng tiền khiêm nhường tí xíu chưa nóng tay, lo nợ cũ chưa trả hết đã đèo “gối đầu” thêm nợ mới, cứ thế chất chồng lên cao. Phần tiền ít ỏi còn lại, họ chi tiêu đủ mọi thứ củ: khoai, sắn, cá khô, mắm muối là thứ cần thiết nhứt, để dành dụm ăn khoảng mươi ngày. Tóm lại nợ vẫn hoàn nợ, mà thân thể cứ bào mòn theo thời gian.

Hôm nay Hạnh đem “hàng” đi bán, vì mang vác than củi nặng không xong, đi rừng thì sợ điả sợ ve, vắt… nên cô chỉ được mỗi việc tương đối nhẹ nhàng “đi bán mua” xí! Ngồi sau cuối đuôi xe, Hạnh giật thót người và điếc con ráy, khi tên lơ đu cánh tay trên cửa xe, dùng tay kia đập rầm rầm vô thùng xe vừa la vừa hét: “Dzô… Dzô…”. Tên lơ xe nhảy phóc xuống đường lúc xe chưa kịp lết bánh, nó lanh lẹ bưng những bao hàng: than, tiêu, điều… của khách chất đống bên lề đường, nó thảy lên xe, quăng bừa bãi chật cứng trong lòng xe, bất kể đụng chân cẵng khách đang ngồi, Hạnh sợ hãi mệt mỏi co hai chân lên băng ghế dài. Lơ xe bảo bà con cứ ngồi lên những cái bao bố đó. Lúc xe ngừng ở trạm Long Thành, cô thấy một người đàn bà luống tuổi, ăn mặc bẩn thỉu rách rưới, đứng giữa trời khua tay múa hát rồi vật vã liên miên cười khóc, bà ta không còn tỉnh táo.
Thật quá thương tâm. Sự khốn đốn cùng khổ đã vùi dập bao người tiến thối lưỡng nan ở lại, để bươn bả bòn mót rau trái hiếm hoi trong rừng, cũng chẳng có, vì cây quả không thể sống sót do sự bới móc săn lùng của con người và giống vật tinh khôn. Mà mọi người trong khu xóm tồi tàn có muốn ra đi khỏi nơi đây kiếm sống, cũng không thể được, chớ nói gì đến có cơ hội, có tiền tài có cơ may mà tìm đường vượt biển. Ở thời buổi chao đảo đói kém khủng khiếp nầy, họ còn tỉnh tảo như Hạnh nếu chưa điên cũng sẽ khùng mà thôi!

Lúc bán than xong, cô leo lên xe bus tới nhà bạn Kim Chung ở đường Hai Bà Trưng, để hỏi thăm tin tức, mà kẻ sống nơi khỉ ho cò gáy như mình cần biết. Vừa tụt xuống xe Hạnh gặp Hoàng Năm, thật là “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” , không có cái mừng rỡ sung sướng hạnh phúc nào sánh bằng! Ôi! Hai người kéo nhau vô tiệm kem gần nhà Kim Chung nói nói nói… thao thao bất tuyệt từ chuyện sau khi chia tay nhau đến bây giờ. Nói gì nhiều thế không biết, từ lúc mười một giờ sáng đến tận ba giờ chiều không mệt! Sau đó, Năm đập tay xuống bàn cái rầm:
- Ui trời đất ơi! Gặp em tình cờ anh mừng quá, quên cả đói. Bây giờ mình qua bên Trần Quang Khải ăn cơm vĩa hè nhen. Anh đói lắm rồi.
Đi bộ qua bên Trần quang Khải, họ kêu cơm phần có cá nướng, thịt heo kho trứng vịt, một tô canh chua, ly nước trà đá. Hai người rỉ rả ăn vừa chuyện trò. Bỗng Hạnh nhìn Năm đăm đăm rồi kề tai nói nhỏ:
- Anh từng học lái tàu bay rồi, mình làm một chuyến “không tặc” nhe. Anh thấy sao?
Hầu như Năm giật bắn người, không tin ở tai mình khi em dám bạo gan bạo phổi nói vậy!
- Ui trời!
- Làm gì mà nhác hơn cáy vậy anh?
- Em tưởng chuyện kinh khủng đó là trò chơi à! Em thiệt tình điếc không sợ súng mà?
- Dẫu sao em bây giờ quá sức khổ cực, cay đắng trăm bề. Em đã rớt xuống tận đáy xã hội rồi, thì còn gì để sợ nữa chứ.
- Đành thế. Nhưng mạng sống cao quý lắm, em phải trân trọng. Kế đến là… nếu mình làm chuyện ấy, chẳng khác nào tự ý đi tử hình.
- Nếu anh không muốn, thì thôi. Em tìm người khác.
Sau khoảng mươi lăm phút im lặng ăn uống, Hoàng Năm thì thào:
- Em nè, bộ anh ngu hay sao mà không muốn thoát ra khỏi chốn nầy. Nhưng muốn làm gì, cũng phải đắn đo cân nhắc lựa chọn, tìm biện pháp thích nghi ứng dụng lúc thuận tiện. Nói chuyện nầy ở đây không tốt. Mình đi chỗ khác vắng vẻ hơn, khỏi có ai dòm ngó.
- Ta đi đến nhà bạn Kim Chung, cô ấy làm trong Hàng Không Việt Nam đó.
- Ô! Còn gì bằng.
Thay vì đi bộ, họ vẫy xe xích lô đi cho mau, họ đến nhà Kim Chung lúc vợ chồng bạn & hai con nhỏ ăn cơm tối. Kim Chung mời hai người ra ngồi tạm ngoài phòng khách chờ giây lát. Sau khi Hà (chồng cô) ăn cơm xong, anh ta (kiến trúc sư) cần đi vô sở làm việc dang dỡ. Cô giới thiệu Hoàng Năm với bạn xong, liền nói về mục đích việc thăm bạn hôm nay. Nghe xong Kim Chung mừng rỡ tỏ ý ưng thuận ngay. Thật ra vì không có vàng nhiều, nên bạn muốn chồng đi vượt biên trước. Bây giờ nghe bạn đề nghị, cô mừng vui khôn tả xiết.
Hạnh hỏi Năm:
- Vậy anh có muốn hợp tác với em không?
- Muốn lắm. Nhưng… có nhiều vấn đề cần yểm trợ về việc anh nghiên cứu, chẳng hạn như: biết lịch trình chuyến bay từ Sài Gòn đi Cà Mau, phải có bản đồ, lịch bay, la bàn, sách tham khảo liên quan đến máy bay, có bản vẻ trong lòng phi cơ, vân vân…
Kim Chung vội vã nói:
- Việc nầy… em sẽ cung cấp tài liệu, cách điều hành họ khác ngày xưa ra sao, tin tức cập nhật. Danh sách phi hành đoàn, hành khách, giúp ưu tiên mua vé máy bay. Tóm lại em không có tiền đóng góp vô nhóm, nhưng sẽ cung cấp những gì anh Năm cần, hoặc việc gì liên quan đến chuyến bay chẳng hạn.
- Tôi cám ơn chị. Còn em, anh cần bốn năm nhân lực vạm vỡ, kín đáo, gan dạ, tháo vát; để giúp khi anh lái phi cơ, nếu lỡ bị họ phát hiện, bị hành hung, thì mấy người đó sẽ lanh lẹ “xử đẹp” họ. Trước tiên anh huấn luyện họ, chỉ cho họ biết cụ thể vị trí mỗi người khi hành động. Cần một súng lục, bốn dao găm. Đồng thời cần tiền chi tiêu xoay xở những việc từ lúc khởi sự, di chuyển, đến khi mua vé máy bay cho nhóm mình. Chúng ta phải bỏ tiền ra “bao” bốn lực sĩ từ A đến Z, cùng nhau đóng góp công của. Nói vắn tắt như vậy, nhưng chúng mình phải họp nhau nhiều lần bàn tính chi tiết cặn kẽ hơn.
- Vậy được rồi. Anh lo về việc lái tàu bay, điều hành, chỉ đạo, lập ra kế hoạch, tổ chức chu đáo và cụ thể, mình sẽ bàn tính kỹ ở tuần sau. Còn em lo kêu người có khả năng đóng góp tài chánh, “sáu nhân lực phi thường”. Bây giờ em đi về. Hẹn anh tuần tới ở nhà Chung. Kỳ họp thứ ba sẽ chuyển đi nhà người khác bên quận Tư, và quận Nhứt.

Mọi người hân hoan chia tay nhau. Hạnh tót lên chuyến xe hàng quen thuộc của bà Tám Te từ miền Tây đi Phan Thiết. Ngồi co ro ở băng ghế cuối cùng rất chật hẹp, hôi hám mùi phân gà phân heo, những tiếng gáy ò ó o, tiếng cục tát kèm với tiếng ụt ịt kêu la của “mấy mụ heo cái” nghe rân trời, nhưng lần nầy Hạnh không cảm thấy đinh tai nhức óc như mọi khi, vì trong lòng cô “bận” tưng bừng trổi lên bản tình ca muôn điệu, ru hồn cô reo vui bay bổng lên chín tầng mơ mộng! Về tới Căn Cứ 2 cô vội nháy nhó mấy cháu đi ra suối, Hạnh nói lại hết mọi dự tính. Tất nhiên các cháu trai vô cùng mừng, tưởng như họ bị ngộp thở dưới đáy sông, được vị tiên giáng thế lấy cây vợt thần chìa ra vớt họ ngoi lên bờ.

Kể từ hôm đó các cháu lo chăm chỉ cố gắng đi làm nhiều ngày giờ hơn, đã khổ lại khốn đốn hơn, cực càng cực hơn, nhưng họ không sờn lòng nãn chí; ngỏ hầu nuôi hy vọng ngày mai chân trời mới sẽ nở hoa! Ngoài tiền chi tiêu trong gia đình, họ còn lo dành dụm chắt chiu từng đồng, để mua bộ quần áo, vì sợ người ta nghi ngờ lối phục sức khiêm tốn bần hàn, nhưng sao có tiền mua vé máy bay đi đâu, làm gì mà dao rựa sáng loáng sắt bén vậy!? Bộ tính đi Cà Mau làm nghề “mổ heo”!? Hẳn là người chân chất thật thà như các cháu sẽ ú ớ, thì lộ tẩy ngay. Đúng là “dân rừng núi” cùi cụi mà lo xa đa nghi như Tào Tháo.

Hạnh và Châu vài tuần đi Sài Gòn một lần gặp các bạn, qua những lần hội họp kín đáo, nghe Hoàng Năm trình bày rõ ràng từng chi tiếc, lập kế hoạch, cắt đặt phân công cho ai làm việc gì trên phi cơ, v.v… thì cô mời được gia đình Phương, Phương rõ trong nhóm rất cần tiền, tuy không thể giúp công, vì chồng già đông con mọn quá nhỏ, nhưng cô đồng ý đóng năm cây vàng, đồng ý bao trọn gói “làm việc ấy”.
- Ngọc Hường ở ngả sáu Phù Đổng Thiên Vương gồm bà và ba đứa con xin đi theo – không có tiền, không có vàng- nhưng bà bảo đảm mọi người đến họp trên lầu 5 rất an toàn, bao ăn ở trước khi “lên tàu” di chuyển… Ngọc Hường hứa chắc chắn cho nhóm mua được cây súng lục. Hạnh nễ chị nầy, vì có bà mẹ giàu và em trai bà ở trong tù “cải tạo” đối đãi với gia đình Hạnh rất tốt. Tóm tắt mọi người không ai có tiền, tất cả chỉ nhờ vào “ơn mưa móc” của Phương mà hy vọng “dựng lên cơ đồ”.
- Gia đình Hạnh + Châu= 12ng. (+ 4 bạn võ sĩ "hành động" của Châu= 16ng). - Gia đình Hoàng Năm = 5 ngưởi. - Gia đình Kim Chung= 4ng. - Gia đình Phương 12ng. Tổng cộng: 37 người lớn, nhỏ.
Phân công: Ngọc Hường nói với mọi người trong nhóm:
- Em trai tôi là An đồng ý mua giúp cây súng 800 đồng (thời giá lúc đó hơn hai cây vàng).
Mọi người vui mừng, bước đầu đã thấy “thuận buồm xuôi gió”. Hạnh tin tưởng “bà chị vu vơ” không hề đắn đo, đã xiả ra sáu trăm tại chỗ, cô hẹn khi nào giao súng sẽ chi thêm hai trăm cuối. Sáu ngày sau Hạnh đến đúng hẹn, bà Hường đưa cây súng thiệt –nhưng không có đạn giao ra cho cô- Hạnh chưng hửng mở to mắt cự nự:
- Chị làm ăn cái kiểu gì thất tín ác ôn vậy hả? Có súng không có đạn, làm sao bắn?
- Em đem súng đi trước, đừng để ở đây, vì người giao hàng biết nhà, coi chừng bể ổ.
- Nhưng khi nào mới có đạn?
- Em cứ đưa hết tiền còn lại cho chị, họ nói tiền trao đạn phải có!
- Mấy ngày có đạn?
- Chậm lắm là mười ngày. Bảo đảm.
- Khi nào có đạn, thì em mới giao hết tiền.

Tức giận vô cùng, nhưng đã leo lỡ lên lưng cọp, đành nuốt giận, cô dắt cây súng lục nặng trịch lận nó trong lưng quần tây đặt trước bụng. Cái bà Ngọc Hường thiệt khốn nạn, coi mạng sống người khác như cỏ rơm không bằng, bà đưa cho mình củ súng tơ hơ tốc hốc, chẳng hề có bao bị, không có sợi dây cột “con cò” (máng vô cổ, sẽ không tuột không rớt). Bà ta muốn “tống khứ” của nợ, xô mình mau mau đi khỏi tầm mắt, bà chỉ biết có tiền. Trong vụ “áp phe” nầy chắc chắn bà ta cuỗm tay trên ít nhứt là năm sáu trăm bạc, cũng có thể bà ta nuốt trọn tiền. Hạnh nghi khẩu súng nầy của chồng bà (là Trung-tá...) chớ phải chơi. Hạnh suy đoán như vậy là do cô muốn tận tay “tiền trao cháo múc” với cậu em An nào đó. Thì bà ta liền dẫy nẫy lên, cương quyết không muốn Hạnh gặp mặt tên ấy, (chỉ qua trung gian cuả bà).

Nhưng muốn “làm nên đại sự” cô cóc cần chuyện vụn vặt ăn chặn kia làm gì. Mặc xác bà có tính gian trá láo lường, đến nỗi khi chồng bị tù "cải tạo", mấy mẹ con bà ăn không ngồi rồi chạy “áp phe” tính hoang phí tiêu xài đã quen không chừa thủ đoạn nào, ôi thôi mọi mánh lới bà ta không thể tả hết, nên bà dạy con chẳng có đứa nào ra hồn. Hạnh gò lưng trên chiếc xe mi ni đạp chầm chậm, nếu chạy xe mau, sợ cây súng rớt xuống đường. Cô đạp xe trên đại lộ Lê Văn Duyệt, băng qua bùng binh chợ Bến Thành, đi dạo tới khu nhà hàng Mỹ Cảnh một chút, liếc lui nhìn tới ngó quanh, Hạnh sợ bà Ngọc Hường cho người theo dõi mình, rồi “tống tiền” thêm đợt nữa, thì có nước mình nhảy xuống sông Sài Gòn “tự dận” cho rùi. Sau đó cô qua cầu Khánh Hội vô khu Trịnh Minh Thế. Chằng hiểu sao lúc nầy cô không hề sợ hãi chút nào, can đảm lận trong bụng cây súng chết người như vậy?! Có lẽ do sự sống đớn hèn cùng khổ hiện tại đã khiến cho mình quá chán ngán, đắng cay vô cùng, nên cô đâm ra gan lì chai đá không sợ chết là gì.
Bấm chuông cho bạn mở cổng sắt ra, Hạnh thì thào:
- Có súng rồi.
Phương đang bưng tô canh chua trên tay, đã rơi tung toé xuống nền gạch, mặt bạn xanh léc hai tay run rẩy; đủ biết cô ta sợ hãi đến cỡ nào:
- Ui trời! Giữa ban ngày, mà bồ lận súng đi khơi khơi ngoài đường thế, không sợ à.
- Ừ. Nhưng có thứ khác còn đáng lo sợ hơn.
- Vào nhà nhanh lên.
Vừa dựng chiếc xe đạp bên mé vách tường, lọt chân trong chân ngoài chưa kịp cất chiếc nón lá ra khỏi đầu, Phương liền kéo tay Hạnh vô phòng, rù rì to nhỏ:
- Bồ bị theo dõi sao?
- Không.
- Cái gì?
- Súng chưa có đạn.
- Giời ạ! Không có đạn, vẫn bị tù mục xương vì súng đấy.
- Vẫn biết vậy. Nhưng cùi rồi, hổng sợ lở.
Hồng Hạnh kể lại chuyện bà Ngọc Hường cho bạn nghe. Phương bất bình:
- Bà ta là tay chẳng vừa. Tôi cũng nghĩ như bồ.
Phương lấy túi vải đen bọc cây súng, dùng sợi len quấn túi vải lại, bên ngoài cô quấn thêm vài lớp bao ni lông. Hai người rón rén leo lên gác xép, Phương mở tấm ván nhỏ trần nhà ra, cô cầm cây súng đưa cho bạn, do không ngờ súng nặng, suýt tí nữa thì nó rơi xuống sàn nhà, Phương hốt hoảng đưa tay kia chụp lại:
- Ối giời! nó nặng thế cơ à? Tôi quá phục bồ.
- Hừ! Bộ bồ tưởng súng cao su chắc. Súng thật đó.
- Nói khẽ chứ. Bên dưới xóm người ta nghe đấy.
- Ừ nhỉ.
Phương nhô mình ra mé cửa sổ, đảo mắt nhìn quanh phiá dưới đất một vòng. Yên trí không có ai dòm ngó lên ô cửa, Phương nhéc cây súng dưới mái ngói cẩn thận, rồi đậy tấm ván lại kỹ càng. Hai cô kẻ trước người sau tụt xuống gác xép:
- Bồ ở lại ăn cơm nhá.
- Không, mình phải về cho kịp chuyến xe, kẽo trời tối và mưa.
- Trước khi ấn định ngày chính thức GO (hai tuần), bổn phận Hạnh phải leo lên máy bay, đi từ phi trường Tân Sơn Nhứt xuống Cà Mau-, để dò đường- cô mang theo ở xách tay vài bộ quần áo, ít thức ăn, một cục cân bằng sắt nặng một kilogram, được gói trong một kí lô nếp, bên ngoài bọc nhiều lớp giấy báo bọc ni lông phủ lên. Cô hỏi Hoàng Năm:
- Em đem theo cục sắt đó, để làm gì vậy?
- À, để “sắt” trong người, hoặc trong hành lý, thứ nhứt cục sắt bọc trong nếp, hầu như ít khi bị máy dò phát giác ra. Thứ nhì mình coi nhân viên an ninh có kiểm soát khi hành khách lên xuống tàu hay không, nếu phát hiện cục sắt nầy, họ nghĩ em đi buôn. Biết rõ như vậy, mà đề phòng khi mình mang súng lên máy bay.Thế là Hạnh mua vé đi hai chiều lên tàu bay xuống Cà Mau ở lại hotel vài ngày "lêu lổng", rồi lên phi cơ trở về Sài Gòn. Cô kín đáo lặng lẽ quan sát từ cách kiểm soát vé, kiểm soát hành lý, khi vô trong khoang máy bay cô ngồi ở hàng ghế đầu, gần cửa vô phòng lái, nhẫm tính xem độ xa nơi mấy hàng ghế đầu, đến cánh cửa phòng lái, thì cách xa khoảng bao nhiêu bước chân cuả mình, (hoặc nhắm chừng xa mấy mét). Cô ghi nhận giờ bay từ Sài Gòn đi mấy giờ, quan sát trên dưới. Vân vân… Nói chung phải ghi nhận từng chi tiết, để lúc trở về cô trình báo lại cho Hoàng Năm rõ từng chi tiết, để anh hoạch định phương cách tấn công, dự trù nhiên liệu xăng nhớt đủ từ Sài Gòn bay đi xin tỵ nạn ở nơi khác.
Đối đế lắm thì dùng cách thứ hai: mọi người đi xe đò xuống Cà Mau ở vài ngày, rồi từ Cà Mau bay đi… ngoại quốc, thì tiết kiệm nhiên liệu hơn từ Sài Gòn bay thẳng đi Thái. Nhưng di chuyển bầu đoàn thê tử đùm đề ngồi trên xe đò, nhiêu khê rắc rối không ít, nhứt là mình đi xe đò thì công an nghi ngờ người Sài Gòn xuống vùng biển lạ cái lạ nước, chẳng khác nào “lạy ông tui ở bụi nầy” chờ vượt biên. Thế nên chọn giải pháp “du lịch trên phi… tầng cao vút” là chắc cú.

Nhiệm vụ của Hạnh trong "chuyến bay dò la..." đi kể như hoàn tất tốt đẹp. Lúc về, cô mua nhiều trái cây, chim quay, thịt heo quay, thịt vịt, hột vịt lộn, mua ê hề mọi thứ bánh trái đem lên phi cơ, họ không kiểm soát gắt gao như công an cán bộ làm việc dưới đất, nhân viên dưới đất ở trong phi trường, hoặc trên phi cơ đều ơ hờ lỏng lẻo, có quá nhiều khe hở, họ chẳng đóng cửa ngăn phòng lái với hành khách, cho dân mang cuốc xẽng liềm hái lên phi cơ vắng người, khách chân vắt trên ghế bên cạnh ngủ ngáy khò khò, chả ai thèm lưu tâm. Cô đem quà bánh về chia cho nhóm bạn và gia đình chị Sáu ăn no nê. Thức ăn miền Tây thứ gì cũng tươi ngon và quá rẻ.

Sau đó, Năm vẻ dự đồ theo ý Hồng Hạnh mô tả, anh phân công tập dợt cho Châu, Trân, Vân và bốn người bạn cuả Châu, mỗi người đàn ông ngồi phiá bên ngoài (lối đường đi lên đi xuống ở mấy hàng ghế đầu, ngoài), đàn bà trẻ nhỏ ngồi sau, phiá cửa sổ). Châu bọc khẩu súng lục ngồi ngay hàng ghế đầu, gần cánh cửa buồng lái. Bốn võ sĩ đạo chia hai cánh ngồi bên Châu và Hoàng Năm, hai anh nữa ngồi trên hàng ghế thứ nhứt, thứ hai. Nếu cửa phòng lái hôm đó đóng, trước tiên một anh xông tới chỗ người gác phone, không cho họ bắt máy liên lạc các tần số. Người khác dùng dao uy hiếp tiếp viên bắt họ mở cửa phòng lái, lúc đó Châu cầm súng, hai võ sĩ nhảy vô uy hiếp phi công chính, để Hoàng Năm cướp cần lái. Trân, Vân, Sơn ngồi ở hai bên phải, trái (của hàng ghế thứ ba) dùng băng keo dán miệng mấy tiếp viên, trói họ, mời họ ngồi xuống ghế, cũng như trấn an hành khách. Dự tính như thế, họ ráo riết tập dợt nhuần nhuyễn suốt ba ngày. Công nhận bốn ông võ sĩ Karate và Nhu Đạo đều to con, phốp pháp lực lưỡng, ít nói lầm lì, ăn uống như hung thần, thấy phát khiếp.

- Anh chị em trong nhóm tự mua vé máy bay đi Cà Mau vào ngày 05 tháng Năm năm 1978, chuyến bay lúc 7:45’ sáng. Có một số người ở xa không đi mua vé đúng lịch bay được, (như gia đình Châu và bốn người bạn độc thân làm "cảm tử", không muốn đưa cha mẹ anh em theo) thỉ Kim Chung nhận tiền mua vé giúp họ. –Phần gia đình Kim Chung, Ngọc Hường và Hoàng Năm tự đi mua vé. (do Hạnh làm thủ quỷ, dĩ nhiên đã đưa tiền cho mọi người. Tiền bạc chi tiêu, mua súng, linh tinh… đều công bố rành mạch, nay tồn quỷ tám trăm chín mươi bốn đồng).
Lúc “dòm vô túi tiền của nhóm”, Kim Chung thấy… thì nói:
- "Mình cần tiền để cho đứa em gái ở lại trông coi nhà, lỡ gia đình đi không được, còn có đường quay về”,
Kim Chung nĩ Hạnh cho cô ta "mượn" một cây vàng, cô hứa sau nầy ra nước ngoài sẽ trả lại cho nhóm. Cũng như Hoàng Năm đã "nhờ" Hạnh đưa một cây vàng, để Năm giao cho vợ ở nhà chợ búa cơm nước lo cho con, sắm sữa áo quần… để anh yên trí lo cho mọi người vui vẻ lên đường. Sau khi trừ tất cả chi phí, trong nhóm chỉ còn chín mươi bốn đồng. Nhưng cô nghĩ: vàng và tiền đưa tới hai bà Ngọc Hương, Kim Chung (sau nầy Kim Chung bỏ tên cúng cơm cũ, khi làm ở Air Việt Nam đổi tên Thu Thuỷ), Ngọc Hường, và Hoàng Phương Nam, hoặc Hoàng Năm (tự Tony), có lẽ tới tết Congo cũng chả lấy lại xu nào. Họ mê tiền hơn cần tình cần nghiã, họ trái ngược với Hạnh chỉ cần lưu giữ nghĩa tín trung và trung thành gắn bó trong tình cảm. Okay! Thây kệ! Đời là thế.
***
Mọi người không ai ngủ ngáy gì nỗi, vì bồn chồn khắc khoải, lo âu trăm bề băn khoăn ray rứt tột cùng. Ngày mốt đi rồi mà hôm nay hỏi Ngọc Hường về vụ đạn, thì chị ta ú ớ, ngẩn tò te cúi cúi liếc liếc, coi như “tên ấy” xù! Bỉ ổi hết sức. Ai ai cũng tức nghẹn đắng cổ họng muốn ói máu. Chán ngấy không thể nhổ bãi nước miếng vô mặt chị ta. Bốn anh võ sĩ bàn:
- Nếu không có đạn, đem súng đi làm gì vô ích, càng bất lợi. Thôi thì liệu mài dao găm dao nhíp kín đáo nhéc vô túi xách cạp quần cho gọn. Còn tụi tui sẽ ra sức “thượng cẵng tay hạ cẵng chân” mà dùng thế võ… thế thời phải thế. Cứ y như những buổi luyện tập trước mà hành động, ắt sẽ thành công tốt đẹp. Cứ vững tin đi. Không lo âu làm gì cho mệt.

Một điều hết sức bất hạnh vô cùng bức bối không thể khóc, chẳng thể cười ra nước mắt nữa: khi tạm ổn mọi lo toan chằn chéo dồn nén, cùng bao cay đắng mỏi mệt hãi hùng ùn ùn chất chồng tạm thời lắng xuống, đùng một cái nhà nước ra thông cáo toàn cõi đất nước Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam nội bất xuất ngoại bất nhập – mọi người mọi nhà phải đi đổi tiền lần thứ hai vào ngày 03 tháng 5 năm 1978.

Ôi Trời! Quả là sét đánh ngang tai. Một cú búa tạ long trời lở đất đã giáng xuống đầu cuả nhóm 37 người (nói riêng), và bàn dân thiên hạ (nói chung). Mọi thứ trên đời nầy cơ hồ sụp đổ xuống đáy vực, họ hy vọng ngày mai tràn đầy tươi sáng bao nhiêu, thì bây giờ chỉ đem lại sự thất vọng não nề, chán nãn tuyệt vọng tột cùng bấy nhiêu. Không có đau đớn nào bằng sự sụp đổ toàn diện trong mưu sự tại nhân, mà thành sự tại thiên nầy. Ngày mai vui tươi hạnh phúc không bao giờ đến với 37 người kia ở vùng đất mới. Vì những ngày tiếp sau đó chẳng có tàu bè "bay bổng du hí du dương" gì hết ráo.
Tất cả tàu bè phi cơ "phi... pháo" gì đều nằm ụ một đống "bế quan toả cảng" mất rồi. Đấy là sự thật và chuyện buồn rất nghiệt ngã đau đớn khôn lường, nhóm họ ôm nhau khóc hu hu hu…
*
Tình Hoài Hương

Mời độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
11-01-2018, 06:16 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/hqpd1017/1531971990-3.jpg
/uploadpics/mp3_pdf1017/1531972575-Hoai Cam.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 32
Nghẽn Đắng Lòng Thiệu & Nị
Tình Hoài Hương


Hương vị yêu thương như cây thông luôn tươi tốt xanh mướt ngày ngày lớn dần lên, choàng vô lòng Thương Nị nhiều say đắm, ước mong, hy vọng ngọt ngào bao năm tháng niềm tin yêu vừa khởi sắc bừng lên trong cuộc sống. Nị chợt thấy những xôn xao đê mê rộn ràng như thời trẻ dại xa lắc xa lơ nào đó, tưởng đã vụt xa bay trong niềm luyến lưu hoài mong đau buốt, hoặc ray rứt, muộn phiền, bùi ngùi và tiếc ngẩn… Nào dè "cơn say" dường như bừng sống lại từng ngày từng tháng luyến nhớ anh yêu! Khi “người ấy” thốt lên câu:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Nị cười rất xinh:
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào! (1)
Rồi “chàng” đã vui vẻ ướm lời:
“Thân trai cũng mười hai bến nước,
Nặng nỗi lo vô phước gặp 'chằng'.
Thế nhưng, chuyện chẳng khó khăn,
Miễn là khéo nịnh, khéo ăn, khéo 'mần', ". (2)

Thế rồi anh Thiệu gõ e-mail thế nầy: Hình em chụp mấy tấm rõ ràng nhưng nhìn nghiêng, nên anh không nhận ra em được, khi tình cờ gặp em đâu. Nếu không hẹn trước là chịu, anh dám ôm hôn ẩu kẻ khác lắm à nghe. Em liệu đấy, hổng trách anh được à. Em đẹp và có nét quá đi, bởi vậy mới là hoa hậu chứ. Hình đầu tiên em nói chụp năm vừa qua, sao trẻ quá vậy? Anh nói em 40t không ai tin. Còn hình cười thì cỡ vừa ngoài 40, thấy khá đẹp và trẻ hơn tuổi đó nghe. Bây giờ chúng mình gặp nhau muộn màng, đã có tuổi rồi, anh không kỳ vọng gì nơi em như xưa đâu. Dĩ nhiên đầu có bạc, da nhăn nheo, chẳng có sao phải không, ai đòi hỏi em phải săn đầy như vài ba chục năm về trước được ha.

Anh biết chớ, ai cũng vậy, em còn được vậy là #1 đó! Anh cần cái tình nồng nàn và chân thật của em hơn nhé, coi anh như #bis là ok nghe. Mong sao mình còn có nhau với hạnh phúc đến hết đời, là mãn nguyện! Thương em quá đi, cưng lắm nghe. Nếu kẹt gì không mail, đừng phiền trách nhau nha. Anh dặn trước vậy! Không nghe là đánh đòn, hổng thèm yêu đó! Anh rất thương và yêu em lắm nghe. Anh nghĩ đến em hoài, nhưng ở xa xôi đành phải chịu thôi em ạ! Lâu lâu có chuyện gì cần nói và chat, mình hẹn nhau.

Anh còn nhiều chuyện làm lắm em ơi. Như ngày nay anh không nằm nghỉ được 1/2 giờ nữa đó. Em yêu! Hồi trưa vừa chat với em xong là anh lại bận. Số là như vầy, anh có mấy bạn cùng khoá ở Minnesota đi thăm vợ của một bạn khác bị cancer, họ kêu anh tới ăn cơm chiều, vui chơi với mấy anh chị nầy cũng lu bu hết ngày. Bây giờ lo thêm cái vụ sân cỏ nữa, anh định diệt cỏ trước xem sao cái đã. Dù lót đá hay cỏ giả gì, cũng phải diệt nó. Vì trước kia anh cứ nghĩ nó là một loại cỏ, nên không diệt từ đầu, bây giờ mới mệt cầm canh. Ngày mai sau khi đi bộ xong, anh đi ra Walmart gần nhà, để tìm thuốc diệt cỏ, và mua dụng cụ đào cỏ xem sao. Bye em, anh hôn em & đi ngủ nghe.
Th
*
Ngờ đâu… khi Thiệu chat, nói chuyện phone với Nị qua những câu thơ, ca dao và những lời ấy, anh “gieo quẻ” đầu năm hỏi “thăm em”, thì… Thương Nị quyết định mang tình yêu chân thật và say đắm đến “thăm anh”; ấy là một buổi sáng mùa Xuân đầu năm 2008, Nị tới phi trường lấy boarding pass trên chuyến bay 2398 từ vùng WPB, lúc 11:20 am’ ngày 14 tháng Giêng, để đi tới phi trường HB intl vào lúc 01;15 pm’. Anh nào có biết khi Nị ngồi tại seat 14A ở trong phi cơ, tâm trí cô ngổn ngang trăm mối tơ vò ra sao!? Nị hình dung lúc gặp anh, là cô cảm thấy nôn nao, vui vẻ, xao xuyến, bồn chồn, hồi hộp, băn khoăn kỳ lạ. Thế rồi phi cơ hạ cánh.

Dù nôn nao đợi mong buổi kỳ phùng, nhưng Nị cố ý kéo dài thời gian hội ngộ, cô đi vòng vo đây đó khá lâu, rồi từ xa xa Nị đã thấy Thiệu đứng đơn lẽ tại cổng ra baggage claim như đã hẹn. Anh mặc chiếc áo da đen, áo sơ mi màu xanh, quần đậm màu, mang đôi giày sport. Còn Nị mang giày cao 9 phân (vì anh cao 1m83, nên Nị phải mệt mỏi "dện" đôi giày cao gót, cũng đành chịu mỏi). Có lẽ do Nị “hóa trang” mặc quần bó áo lạnh rộng, đội mũ vành to sụp xuống gần lông mày, đeo kính mát đậm thành “cao bồi vườn", coi "ngầu” một xí, nên anh không nhận ra em chăng? Nị là người cuối cùng nghiêm trang từ từ kéo carry on đến gần anh, Thiệu xê dịch về phía em, hơi mỉm cười anh ngập ngừng hỏi:
- Xin lỗi, có phải cô là…
Thiệu chưa nói dứt câu, thì Nị không thể cưỡng lại lòng mình: reo vui mừng rỡ toét miệng cười tươi sà vô lòng anh. Họ ôm chầm lấy nhau, anh cúi xuống hôn phớt nhẹ vào má Nị, rồi vui vẻ kéo carry on đi, còn tay kia quàng qua vai Nị, anh dừng lại tìm môi Nị. Không chịu ngoãnh đi, Nị thẹn thùng xô nhẹ anh ra. bảo:
- Coi chừng có người nhìn thấy. Kỳ quá anh à!
Thật ra thì trong bụng em bảo dạ:
"Con ếch ngồi dựa gốc bưng.
Nó kêu cái "quệt", biểu ưng cho rồi". (1)
Cười cười bấm alarm bỏ carry on vô cốp xe, Thiệu vô băng ghế giữa, Nị ngồi bên cạnh:
- Bây giờ ngồi trong xe, “cửa đóng then cài” kín đáo rồi, em không mắc cỡ nữa ha!
Nị gối đầu lên ngực anh, họ đắm đuối tìm môi nhau. Vài lần sau thì Nị không còn e lệ rụt rè bẽn lẽn… Khi về tới điểm hẹn, hai người vô nhà hàng Kim Sơn ăn trưa, rồi anh dẫn Nị đi mua thức ăn, để ăn tạm mấy buổi sáng cho đỡ ngán, Còn những buổi ăn trưa, tối, dự tính sẽ ăn buffet, vì nơi đây không có nhà hàng Việt Nam. Thiệu nhìn Nị tươi cười:
- Em biết lúc nầy anh ăn tráng miệng bằng gì không? Ăn xoài đấy! xoài Thanh Ca màu vàng, họ bán một thùng 14 trái lớn, cỡ 13 dollars, mua về để cho vàng, da hơi dùn nhăn một xí, thì ăn rất ngọt em à. Còn hôm qua anh có mua bắp sống $1/6 trái, đem về ăn rất ngọt, bắp Mỹ mà! Em biết cách làm không?
- Dạ không anh à.
- Không phải luộc đâu nghe, kiểu luộc xưa rồi. Anh chỉ em cách nầy: Em lột sạch vỏ, rồi em lấy giấy paper towel (giấy dày lau tay trên bàn ăn đó) nhúng nước cho ướt, xong bóp giấy cho ráo, rồi quấn kín trái bắp lại, bỏ vô Microwave nhấn nút 4 phút, là nó dư sức chín, em đem ra ăn rất ngọt. Anh ăn kiểu đó không hà! Hy vọng em biết.
- Dạ, bây giờ anh nói, em mới biết cách nầy. Ở Florida có bán xoài, bắp tươi mới hái đem về, chợ Mỹ, Việt gì cũng có, nhưng không rẻ như ở đây anh à.

Thiệu cất mọi thứ vô xe xong xuôi, như y hẹn từ trước, hai anh em lại vô tiệm Ross cho gần, nếu đi Mall rất xa, sợ không có thì giờ kịp trở về; để đi chuyến du hí đã ấn định. Họ chọn quà tặng cho nhau, hầu đánh dấu kỷ niệm những ngày gặp gỡ. Nị tính mua tặng anh con dao cạo râu điện có ba chấu Remington, nhưng họ đi vài ba tiệm khác, đều không bán. Chi lạ thiệt, nếu biết vậy thì cô mua ở Florida rồi. Vô tiệm Mỹ kia tìm được tủ bán dao cạo râu, ai ngờ khi bà bán hàng cho chìa khóa vô mở cửa tủ kính, cớ sao lại bị gãy lìa chìa khóa dính cứng ở trong ổ? Thiệt tình! Họ đứng chờ hoài không được. Nị bảo:
- Hay đây là “cái điềm” báo trước: nếu ai mà tặng dao, kéo... cho nhau, là không tốt, vì trước sau gì cũng “cắt nhau đứt lìa, chia ly vĩnh viễn” chăng?
- Có chuyện ấy sao em!
- Dạ, em nghe nhiều người nói rồi.

Họ không mua dao cạo râu nữa. Nị và Thiệu đồng ý chọn cho nhau mỗi người hai cái áo. Ui! “Mình” tuy hai nhưng chỉ là một, tuy một mà là của hai cơ mà, vì đã hiểu ý nhau, chọn đúng màu sắc, sở thích của người yêu đến không ngờ. Thế mới ngộ. Nị trao tặng anh cái bóp mới kèm $105 dollars, là do cô suy nghĩ:
- Cái bóp mới lấy hên là: em trao tặng anh “một trăm năm” hạnh phúc bên nhau hén anh.
Cứ dẫy nẫy lên không chịu nhận, Thiệu nói:
- Em tốn tiền vì anh quá nhiều.
- Vậy chứ anh không tốn tiền mua nhiều món quà cho em ư? Điều quan trọng là cách anh trao tặng món quà, mà em rất vừa ý đó sao? Anh à, có những món quà mình tặng cho nhau; tưởng rằng đắt tiền… hay tự tay em đan cho anh cái mũ xinh xắn, để anh đội đi bộ vào mùa Đông chẳng hạn, hoặc con chó lông xù… như là vật-tín báo hỉ về sự trung thành tình nghĩa. Vậy thôi. Mình đã chọn quà cho nhau thật vừa ý quá chừng, món quà ân tình đậm nét yêu thương ấy, sẽ đi theo chúng mình suốt cuộc đời ngắn ngủi còn lại. Nhưng kỳ thực trong lòng em nghĩ khác:
“Em xa mình hổng chết cũng đau.
- Thuốc bạc trăm không mạnh, mặt nhìn nhau mạnh liền". (cd)

Tiền bạc hay vật chất mình tặng, có khi rồi sẽ hết. Còn tình yêu và hạnh phúc đã trân trọng trao cho nhau, dù chỉ một lần, mà vĩnh cửu một đời, không ai, không có gì có thể so sánh, hay dùng tiền bạc đánh đổi tình yêu, hoặc suốt cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc của riêng ta. Hẳn là anh cũng đồng ý với em điều nầy. Phải không hở anh !?
- Anh đồng ý.
Xong xuôi, còn dư nhiều thời gian, ngồi bên nhau trong nhà hàng chờ chuyến di hành, họ kể lại biết bao chuyện đáng nói. Gần đến giờ lên đường, hai người ngồi trong xe, cô bắt đầu chọn ít quần áo gọn gàng để mang theo, đồ đạc đàn bà bao giờ cũng rườm rà, Nị chọn lui chọn tới thứ cần thiết qua một túi xách vải khác, cô nghiêng đầu:
- Em gởi áo quần ké anh, anh mang vác mệt nghỉ vì em, thì nhớ đời, anh sẽ tởn không dám có bà khác, lại phụ tình em ha.
- Rồi anh sẽ có một đời mang nặng em mãi mãi… Em ơi! anh biết em muốn nhắn nhủ gì rồi. Em hãy nghe anh nói: anh biết em yêu anh nhiều lắm, chính điều ấy đã làm phiền lòng em! Anh tức cười chớ không giận, hay bực gì em cả, vì anh biết đó là do bắt nguồn tự tình cảm yêu đương mà em đã dành cho anh. Anh yêu em và anh rất trân trọng tình yêu của mình. Bây giờ anh nhắc lại, để em suy nghĩ nha: Ngày xa xưa ấy… Em suy luận sai, anh không có tình ý gì, anh chẳng biết “họ” là ai cả. Nói lại là KHÔNG rồi; bây giờ NẾU là anh có, cũng là chuyện quá khứ.
Anh nói hiện tại ngoài em ra, anh độc thân không có ai hết. Mà anh đã nói “không có”, là không. Còn bây giờ, nếu anh nghe chuyện em kể về em: “hồi trước em có tình yêu như vậy, như vậy...”. Tự dưng anh cằn nhằn, nổi đóa, thì sao nà! Vô lý ha. Việc nữa: anh làm Thơ Vui, là anh nói chọc, chẳng có biểu lộ tình cảm riêng tư gì ở đó đâu em! (chọc phá, chớ không phải chọc để "gò, cua, câu" người ta)! khi anh post bài thơ đó, bạn đọc cho là vui, (không một ai coi anh có tình ý gì cả; ngoài việc chọc cười thôi!). Người kia cũng cảm thấy vui, hay bị quê xí thôi. Em cho anh biết nếu có người thứ hai nào nói như em, thì tội gì anh cũng chịu!
- Dạ... dạ.
- Ban đầu anh tưởng em giả bộ hờn dỗi là đùa thôi, đâu dè thế. Anh nói lại một lần nữa: Vì biết tất cả là do TÌNH em YÊU anh, vì em ghen mà ra, nên anh không hờn em gì cả! Nhưng em nhớ là mình phải đắn đo suy nghĩ cho hợp lý một chút nghe.
- Dạ vâng! Anh nói phải.

Đúng 8g30 pm đoàn xe du lịch lên đường. Đến nơi, Thiệu vào check hotel, họ lên thang máy ở từng lầu 15. Phòng ngủ khá khang trang tiện nghi sạch sẽ và rộng rãi. Ngồi bên nhau chuyện trò ăn uống thoải mái, rồi cùng đi tắm rữa, Thiệu kỳ lưng cho Nị, cô kỳ cọ lưng cho anh. Trước khi mua quà tặng, ở nhà anh đã mua sẵn hai chiếc áo thun, một cái có size XX rất rộng, dài, và một cái size L, để khi gặp gỡ, là mỗi người mặc áo ấy, hầu lấy "hơi hướm" của nhau. Rồi khi nào chia tay, họ sẽ trao đổi áo đó đã mặc, đem về nhà mình. Bây giờ họ đã mặc chiếc áo ngàn đời khó quên, như sợi tơ trời dệt gấm hoa tình yêu, sẽ không ai có thể rứt ra mối duyên nầy. Cho dù tuổi đời họ không còn trẻ dại như ngày xưa. Nhưng “tình yêu đôi ta” vẫn nồng thắm duyên mơ, đắm say như thuở mái tóc mình còn xanh vậy.

Suốt thời gian hầu như gần một tháng rưỡi nay Nị bị cảm cúm, ho kinh khủng. Khi lên phi cơ đến với anh, Nị không thể mở mắt ra. Ấy thế mà… trên đường đôi ta đi tìm dấu chân tình yêu, thì Nị chả ho hiếc hách xì nhảy mũi gì! Đích thực sự mãn nguyện không thể và không bao giờ ngờ đã đến với họ trong tột đỉnh hạnh phúc cuối cùng ("happy ending") quá tuyệt vời! Mùi thơm từ hương hoa ngâu trên từng lầu 15 bay về phòng, nhắc Nị nhớ lại hương yêu đằm thắm ngọt ngào thâm trầm sâu lắng. Nị cảm thấy dường như tình tuyệt hảo hoá thân từ bờ môi ân tình say đắm thở nhẹ vô trái tim, vào trí óc lá bùa yêu ngọt lịm, khiến cho đêm thương ngày ngẩn ngơ mê mệt nhớ! Trùng dương mở hội cho tình yêu chân thật rất đỗi đằm thắm dịu dàng và nồng nàn lên ngôi. Bừng thức dậy, nghe tiếng chim hót trên mái lầu: Nị vương tay ra, thì chạm gói qùa, và tờ thiệp, ghi:
"Em ngủ ngon không? Anh ngủ không ngon lắm, chỉ tàm tạm. Anh chúc em vui tươi bình an trong tâm hồn bên anh. Anh tạ ơn em đã mang đến cho anh tình yêu nồng nàn chân thật, cho anh tin rằng mình đã yêu, và được yêu, một mối tình lớn trong đời! Anh mừng sinh nhật của em. Cầu chúc em đạt được những gì mơ ước, yêu đời và yêu anh, kể từ nay cho đến mãi đến tận mai sau em nhé.
Người yêu em
Th
Ôi! Anh Thiệu: Thiếu Tá Không Quân Việt Nam Cộng Hòa quyết ươm tơ vàng ung dung bay đi dệt mộng hải hồ, rong ruỗi quan hà lả lướt qua muôn dặm sơn khê: suốt từ Bến Hải cho tới Mũi Cà Mau. Anh hào hoa phong nhã, trí thức, anh thuộc típ người cao ráo to con, đẹp trai với mái tóc cắt ngắn, vừng trán vuông vắn cao và rộng, khuôn mặt hồng hào, lông mày rậm đuôi mày hơi nhếch lên dưới đôi mắt hai mí to “có trữ tình”, mũi lân, miệng rộng. Anh có duyên nhứt là từ bờ môi nầy, khi anh cười thì lộ ra hàm răng đều đặn, anh nói giọng miền Nam nghe sang sảng rõ ràng, nhưng ngọt ngào ấm áp chân thật, chứ không gay gắt, khiến Nị ưa ngẩn ngơ ngắm nhìn anh. Nay trên vầng trán anh đã in nhiều dấu ấn suy tư, mái tóc anh nhuộm muối tiêu đầy phong sương, bụi phấn thời gian phủ trên đôi vai săn chắc. Dù ngày nay: không gian, thời gian, tuổi trẻ điạ vị danh vọng… tất cả với anh đã không còn; nhưng Nị rất kính trọng anh, yêu anh tha thiết biết ngần nào. Nị quàng tay lên cổ anh, vít xuống thủ thỉ:
- Nị đến với anh dẫu muộn màng, nhưng yêu anh nhiều lắm. Bởi hôm nay đây em yêu anh, không vì ở trên ngực áo của anh còn gắn phù hiệu cánh bay, không vì trên cầu vai anh có cánh mai bạc rực rỡ, không vì anh có chức tước vinh sang trong cuộc đời giàu kinh nghiệm xưa. Bây giờ em thật lòng yêu anh khi anh không còn gì. Anh đến với em bình dị không danh phận, không xa hoa phù du, nhưng chúng ta đến với nhau giống như cuộc tình đầu đơn sơ. Em yêu anh vì cung-cách anh đáng quý mến, vì lúc nào anh cũng giữ mực thước, thấu hiểu, uy nghi, tính tình anh đàng hoàng, tiết độ chững chạc. Em yêu anh vì anh có trái tim bao dung, độ lượng tình đồng-cảm. Vậy thì, xin anh hãy cho em say đắm tìm về chút mùi hoài hương xưa nồng thắm từng ấp ủ trong vòng tay nhau nỗi quấn quít nhớ nhung. Nhe anh.
- Anh hiểu. Anh cũng rất yêu em, chân tình và vụng dại như ngày nào anh còn trẻ.

Họ đển bên nhau là: Jan-14-2008. Nị vùi đầu trên ngực anh, lắng nghe anh tâm tình:
- Khi anh đọc thư em, cũng như lúc nói chuyện vớí em, anh thật vui và thấy có hạnh phúc. Cám ơn trời đã mang mình lại với nhau! Anh nghĩ: lúc trước không biết anh tán em hồi nào, anh cũng không nhớ, thật ra anh không có ý đó nữa. Nhưng mà lúc nói chuyện với em, tự nhiên anh có lời lẽ như thể mình đã bồ bịch với nhau tự thuở nào, mà thân thiết vậy! Bây giờ nhớ lại, anh tức cười ghê, rất vui là chúng mình thành há. Bởi vậy anh cho là hai đứa mình được ơn Trên sắp đặt đến đúng thời điểm nầy, là dính với nhau thôi! Được vậy, cứ nên trân trọng giữ gìn, cùng hưởng nghe em yêu.
- Dạ vâng.

Trên đường trở về từ trưa Chủ Nhật, sau khi Thiệu lái xe đi vòng lần thứ nhứt, Nị ngồi lại chờ người thân đến đón, nhưng quá lâu. Tủi thân và bật khóc trong tiệm ăn, nên Nị vô restroom rửa mặt. trở ra cô ngồi trong tiệm nhìn thấy Thiệu vòng xe đến, Nị vui mừng vội chạy ra parking, cốt nhìn anh xí thôi. Lòng Nị quá buồn khi anh chìa tay ra siết chặt tay mình, đôi mắt Thiệu rất buồn lại trữ tình nhìn Nị say đắm thay lời chào từ biệt, xe anh đã từ từ chạy đi khuất xa.

Sau những ngày hạnh phúc, mình chia tay nhau, bỗng dưng Nị thèm khóc, đã nức nở gục đầu vô hai bàn tay ở trong tiệm ăn. Dù đã dặn lòng: “Dễ gì mà khóc khi mình vẫn còn là của nhau. Vĩnh viễn. Đừng lau nước mắt, không khóc nghe! Đừng buồn. Hãy cương quyết và tươi vui lên. Dù bị cào xé hơn roi vọt mỗi ngày ngấm đẫm vô tim khi chia xa, em can đảm mà không khóc. Hay em đã trở thành chai đá rồi sao”!? Hay vì, em vẫn và sẽ là người chiến thắng. Phản quang sinh tồn ấy là nhờ tình yêu anh yêu em rất chân thật, chung thủy, thì hy vọng chúng ta sẽ vượt qua tất cả. Phải không anh yêu dấu?

Hôm thứ Hai, cô hỏi đứa cháu gái, nó cho biết khu nhà anh đúng là khu nhà mới. Nị dự định ra chợ mua những món quà Tết, mang đến nhà anh để cúng ba má, và muốn nhìn anh xí, để anh ngạc nhiên. Cô muốn mua nhiều thứ: thịt, cá, rau, lạp xưỡng, v.v. nữa. Nhưng sợ không kịp giờ về cho chuyến bay xa, cô nghĩ đi nghĩ lại, thấy không mấy tiện. Nên Nị mua mấy món quà hoa quả bánh mứt tượng trưng cho ngày Tết (nếu bất ngờ không phone báo trước, không gặp anh ở nhà, cô sẽ để những món quà ấy ở ngoài cửa, không sợ mèo xé ra ăn vụng, hoặc những thứ khác như thịt, cá, vân vân… bị hư).

Vì khu nhà mới xây chưa có tên trong bản đồ, nên cháu và Nị tìm nhà anh, chạy xe lui chạy tới gần chục vòng, cuối cùng đã tìm thấy. Tới nhà anh, Nị chưa kịp chui ra xe, ai dè con cháu nhanh nhẹn đi đến bấm chuông hồi nào, Thiệu bước ra. Ôi, cô không thể nào tưởng tượng anh đã sửng sốt bàng hoàng đến thế. E ngại, nên Nị không nhớ dự định ban đầu của mình muốn tự tay sắp xếp món quà đó lên bàn thờ, thắp ba nén nhang lạy tạ ba má. Cô nhìn lướt sơ trong nhà mới cuả anh: có phòng đọc sách, nơi làm việc tươm tất. Trong nhà chưng bày đầy đủ thứ tiện nghi cần thiết, nhưng trang nhã, lịch sự, gọn gàng không rườm rà, cạnh cửa sổ có chậu hoa lan màu tím nở rất nhiều hoa và đẹp. Đặc biệt nhà quá vắng lặng, vì anh đã sống một mình thư thái trong sự độc thân.

Anh yêu, anh giống như con chim phượng hoàng rực rỡ dù có soãi rộng đôi cánh tung bay tự do thoải mái khắp bốn phương trời; thì đến một lúc nào đó cũng mệt mỏi rã rời đôi cánh, muốn dừng lại ở mái hiên nơi căn nhà vừa đủ ấm. Thế mà sao em vội ra đi như gã trể tàu, như người lỡ hẹn, như người chạy trốn, một nỗi buồn kinh khủng phủ chụp lấy trái tim Nị, đầy nghẹn ngào chua xót, khi cô mệt mỏi bước vô lòng phi cơ. Nhưng rồi trong phút chốc Nị tràn lan hy vọng và hạnh phúc khôn cùng: chúng mình sẽ vĩnh viễn sống bên nhau, khiến Nị vui lắm khi nhớ lại lời anh thủ thỉ:
- Chỉ biết mình đến với nhau bằng tình chân thật, hết lòng với nhau trong hiện tại, không dám đòi hỏi gì hơn. Có được là tốt thêm thôi, chứ không bắt buộc. Trong những lúc nào đó trong đời sống mình có gì không vừa ý, thì hãy nhớ rằng: vẫn còn có anh (hoặc em) bên cạnh, để vỗ về và sống với nhau, tuy trong mộng, mà thực đấy nghe. Anh mong muốn cho em có hạnh phúc, anh chỉ là kẻ lấp đầy thêm những cái em thiếu thôi, nhứt là về tình yêu, để cho em vui, là đẹp rồi. Đúng là trên đời nầy biết bao người có đầu óc làm hại kẻ khác vì ích kỷ, rêu rao nầy nọ, khoe khoang! Anh hoàn toàn không như vậy, nghĩa là con người anh thuộc loại bình thường, nhưng lương thiện, chớ không là bậc anh hùng, hay loại đạo cao đức trọng gì. Những gì anh đã hứa và nói với em, đều đáng tin cậy vì chữ tín, vì lương tâm của anh lớn lắm.

- Lần thứ nhì họ hẹn hò với nhau 4 ngày: Thứ Ba, ngày 17-Mar-2009. Lần nầy anh nhìn sâu vô mắt Nị:
- Em yêu. Lúc trước mình đã từng nói với nhau rằng: hễ có gì thắc mắc không rõ, là nói ngay ra, đừng ghim trong lòng, mà giận hờn không nên. Em còn nhớ chứ?! Thì ra nói vậy, mà không phải vậy há!! Anh không ngờ anh đùa với em, có ý nói “em đúng là dân... hay cải đó”, mà anh viết (… chấm chấm); không ngờ em không hiểu ý bởn cợt của anh! Trong đầu em lại nghĩ: anh nói em là (thứ) dân gì, là sao? (tại chính em mang vô chữ “thứ" , nên nghe nó nặng nề thêm, lầm là vậy đấy). Biết em như thế, từ nay anh không bao giờ đùa với em nữa, là yên chuyện.
Cô cúi đầu im lặng.
- Tại sao em nói hiểu anh; mà em cho con người anh ăn nói như vậy ha?! Có bao giờ anh khinh miệt người mình yêu một cách vô cớ không? Anh thật không ngờ em hay bắt bẻ vô lý, em hay hỏi dò, để xem ý, rồi suy đoán sai. Em có tật hay nói lẩy quá đi! còn nói mát và xóc óc nữa! Bản tánh của anh thẳng thắn, nên nói ra ngay như thế! Thí dụ như em nói:
- “... thì xin lỗi đó, được chưa? Hoặc giả… “thì em ngu nên không hiểu ý anh”. Sao em không để dành những câu như vậy, để đối đáp với những nơi và những ai cần đối đáp. Chứ em đem ra nói với anh làm gì, mất vui! Cái gì không bằng lòng và không rõ, em nói thẳng ra, dù em xem anh thế nào đi nữa. Phần anh cư xử với ai cũng vậy hết. Tại sao đến giờ phút nầy, mà lại có chuyện vô cớ, làm khổ nhau, hả em? Hay là cá nhân em vừa có chuyện gì buồn bực trong lòng, nên nảy sinh ra gắt gỏng chăng?
Em thử xem lại coi anh có ý nói như vậy không? anh không có gì sợ mà tráo trở tránh né đâu. Đó là bản tánh của anh, mong em thấy. Như vậy là em cố tình tạo ra sự căng thẳng... dựa vô một chuyện không có thực gì cả! Tại sao em không đem chuyện gì đó ra thẳng thắn hỏi anh? Mà có gì đâu để hỏi chứ? Hay là em chỉ dựa vô đó, như là một cái cớ, để xa nhau... mà thôi? Nếu em muốn vậy, cứ nói ra, chớ cần gì nại cớ nầy, cớ nợ làm chi!
- …
- Anh đã nói từ lâu: anh không có gì oán trách em hết, cho dù em xa anh bằng cách nào. Thế thì có ngại gì em phải lấy cớ ha... Mà cũng nực cười, là cái cớ không có gì vững vàng cả! Anh sợ gì chuyện anh quen người nầy người nọ mà nói dối chứ. Nếu anh có quen ai, cũng xảy ra trước khi anh gặp em mà. Thế thì đâu có gì đáng trách? Ngặt nỗi là anh không quen ai trong lúc anh đang yêu em; mới đáng nói chứ! Nầy em, nếu em vẫn coi chuyện ấy là quá serious, và em TỰ cho mình là đúng, anh mong em kể rõ lý do vì sao mà em quyết định như vậy đi.
Khi hai người ngồi bên nhau, Nị thút thít khóc, Thiệu băn khoăn:
- Em à, có mấy điều anh cần nói thẳng ra, em nên suy nghĩ xem sao nghe: Tự dưng kêu nhau đến đây, rồi phút chót em lại kiếm chuyện gì không đâu, để làm phiền lòng nhau. Tại sao tới giờ nầy em không tin anh bận? Cái vụ làm sân gạch và cỏ nhà anh, đâu phải làm một vài ngày là xong. Anh vừa lo nghĩ cách làm, vừa làm mệt, mà nói ra như vậy, không được sao, không tin à? Đúng là em cứ đem ba cái chuyện đó ra nghi ngờ, dọ hỏi để không tin, rồi nói lẩy nói đương; như vậy có giúp ích gì trong tình yêu không? Nếu em không tin mà cứ cho anh là như vậy, thì em nên xa anh ngay, cho em khoẻ thân và không bận lòng gì cả! Thật ra, anh cũng có nỗi buồn vậy! Nhưng mà em à, mình phải chấp nhận cái tình cảnh hiện tại thôi, biết để mà không buồn và oán trách nghịch cảnh gì cả em à!
Nị cúi đầu cứng cổ, chỉ biết im lặng. Anh ôm bờ vai cô:
- Nên nói một lần cho dứt khoát! chúng ta là người lớn, có hiểu biết cả, xin thẳng thắn phân tỏ rành mạch, đừng để hối tiếc, và phải ân hận, vì sự nông nỗi của mình, nghe em. Anh không muốn chuyện tình của mình tan vỡ một cách phi lý như vậy. Đó là vì anh vẫn tin nơi những gì em nói với anh từ trước, anh nhắc lại thế! Xin nói lại anh không có gì lỗi trong chuyện nầy cả, nên anh không cần năn nỉ, hay xin lỗi gì hết!
- Dạ, anh nói rất phải. Em sai.
- Nếu em biết là sai, thì từ nay em không nên lập lại nghe em.
- Dạ vâng.

Người ta thường bảo: “Sinh ly, tử biệt rồi, mới nhận ra sự chân tình của người mình yêu”, thì đã muộn chăng? Thế mà giờ đây khi ngồi trên seat 17 F chuyến phi cơ CO 1830 W, lúc 7:15PM – thành phố của người yêu trầm mình dưới đáy phi cơ đang trôi bồng bềnh trong bầu trời đêm rét mướt, khi triệu triệu ánh đèn màu dưới đất xa dần, xa dần… chìm khuất và mất hẳn. Trả lại anh yêu đơn độc ở trong ngôi nhà cũ những ngày trống vắng, đêm đen tĩnh mịch vô tận, Nị gởi lại cho người yêu những chéo mộng, cùng nỗi buồn hiu vô cùng nhớ nhung, thương cảm xót xa tột cùng.

Trở về nơi chốn xưa, Nị đã xé tặng Thiệu nửa mãnh trái tim, lòng cô trĩu nặng nhớ thương và quá đỗi là đau, cơn đau đầy tê tái trong hạnh phúc vun ắp bẽ bàng quá thật! Ôi sao giờ đây mình đã xa nghìn trùng. Chao! tình yêu ấy nhè nhẹ, đơn sơ, mộc mạc, thấm đượm tình yêu đồng quê cỏ nội, khi mình hân hoan dẫm trên lối xưa để tìm đến nhau. Cùng chia sẻ niềm vui chất ngất trong hạt lúa trổ đòng đòng. Cùng cụng ly rượu hồi quang ngọt bùi, bên ngô khoai bốc hơi thơm ngào ngạt. Yêu nhau trong tiếng ca dao tình tự, trìu mến lời ru con từ mẹ nhân ái trong từng nốt nhạc hân hoan, độ lượng và ưu ái khoan dung. Lòng Nị lắng dịu những u uẩn đau buồn cao chất ngất, nghe lòng phổ tình yêu vào từng nốt nhạc, thở hơi sương trong lòng đời đắm say hạnh phúc đơn sơ không thể diễn đạt nên lời.

Lần thứ ba gặp nhau 4 ngày là: Ngày thứ Tư, 02-Sept- 2009.
Thiệu rất vui, và Nị cũng vui không kém, thật hạnh phúc khi nghe:
- Thuở ban đầu mình tưởng rằng chỉ thân nhau thôi, nhưng không ngờ mình đã được đến với nhau, sống hạnh phúc bên nhau, như vậy là bù đắp được khá nhiều rồi em ơi. Không nên mơ ước theo ý mình, rồi thất vọng, khổ tâm thêm chứ ích gì! Em tập nghĩ rằng: mình có như vầy là ĐƯỢC THÊM đi nghe em. Nếu không được thêm nữa, thì đành chịu vậy. Nhớ mà trân trọng, nâng niu cái gì mình đã có với nhau. Giữ mãi như vậy, là quý đó em ạ! Trong tương lai, dù khó khăn, nhưng biết đâu có sự xui khiến, thì mình gặp nhau thôi, biết đâu được, có ai ngờ!
- ...
- Anh nghĩ là số mình chắc chắn là thọ, có điều là sau nầy sức khoẻ sẽ yếu kém nhiều vì một phần là do lớn tuổi, một phần khác sức khoẻ sẽ suy yếu, là đương nhiên. Cho nên nghĩ và nói ra cái thực tế sau nầy mình khó gặp lại nhau em ạ. Thôi thì dù sao bây giờ mình cũng may mắn gặp gỡ, hạnh phúc vui vẻ với nhau như vậy, là rất quý, đáng trân trọng, ghi nhớ há. Trong tương lai chắc chắn là mình còn trọn lòng với nhau, nghĩ về nhau, là tốt rồi đó em ơi. Đó là thực tế, mình phải thấy như vậy!
- Em cũng nghĩ như anh.
- À, hôm sau khi nhổ răng cái thứ nhì về, là chiều tối anh bị sốt, trong người lạnh run, phải trùm mền và nằm trên tấm heat nóng khoảng hơn một giờ, mới hết lạnh run. Có lẽ do anh hơi ớn lạnh muốn bệnh, mà đi nhổ răng, nên mới sinh ra như vậy. Lần đầu tiên trong đời bị đó. Tóm lại coi như tiêu thêm hai cái răng hàm dưới, từ nay ăn uống sẽ khó khăn và chậm chạp, đành chịu thôi. Chứ nó nhức từng cơn không thể nào chịu nỗi. Cái bệnh nướu răng khốn nạn thật! Nhìn hai cái răng không hư hao gì, mà phải nhổ thật là tiếc!

Do công việc làm, hai người lại phải "nhà ai nấy ở, đường xa ta cứ đi...". Rồi một ngày không lâu lắm, sau cái ngày anh nhổ răng, Nị đã thẩn thờ lo âu và bàng hoàng nghe tin anh Thiệu lâm trọng bệnh, vậy mà anh cố gọi phone:
- Những lời anh dặn dò em từ trước, mong rằng em suy nghĩ chính chắn, làm đúng theo lời anh dặn nghe. Duyên tình của mình được Trời cho thêm như vậy là quý rồi, mình có may mắn gặp nhau là coi như mãn nguyện. Bây giờ không phải lúc hỏi có yêu nhau không? Cũng như xác nhận từ lâu rồi, phải không em?
- Em biết rồi.
Thiệu cười:
- Hôm DEC 10 anh đi đến bác sĩ làm siêu âm về tim như thường lệ, mỗi năm làm một lần. Mãi đến hôm Dec 24 - (14 ngày sau) bác sĩ kêu anh đi vô bệnh viện emergency, để có thêm những cái test khác. Kết quả họ thấy không bình thường, lúc đó là cận lễ NOEL, vã lại quá đơn chiếc nên anh tự động dời lại đến thứ 2 DEC 28 mới đi đến đó. Nhưng khi vô bệnh viện phòng emergency, họ không cho về, bắt anh phải nằm lại, để có nhiều cái test. Lúc đầu họ nghĩ anh bị máu đóng cục. Nhưng sau khi làm siêu âm lại, thì không phải, họ thấy trong valve tim của anh có một chút gì đó, rất nghi ngờ bị nhiễm trùng.
Họ lấy máu để xem, có đúng hay không, họ cần anh phải làm nội soi, để họ nhìn rõ bên trong, xem ra sao. Họ bắt anh ở lại sáng thứ 4 sẽ làm nội soi. Anh không đồng ý, xin về, thứ Hai tuần tới anh gọi phone để hẹn, sẽ làm sau. Lý do nằm trong nhà thương mà chờ đợi, bất tiện, tốn tiền vô lối lắm.
- Anh ôi. Khổ anh rồi.
- Trở về thực tế, anh dặn em như thế nầy. Trong thời gian anh phẩu thuật, tuyệt đối không muốn em đến thăm hay gọi phone gì cả. Vì làm như vậy, không ích lợi gì cho nhau, mà gây rối rắm phiền hà lắm. Có một số bạn biết anh sẽ đi phẩu thuật, những tin tức bạn thăm hỏi ấy, anh đều không đọc, vì thời gian đầu tiên sức khoẻ còn yếu sức, cá nhân anh không thích ồn ào xôn xao. Em có suy nghĩ và thấy vậy không?
- Dạ, cũng nên như vậy.
- Do giải phẩu trong van tim, phải mất thời gian khá lâu anh mới hồi phục sức khoẻ trở lại bình thường, anh nghĩ ít ra cũng vài tháng, mới có thể ngồi lên sơ sơ vô Internet được, còn bình phục hoàn toàn phải cả năm đó em à! Khi nào khoẻ được, anh sẽ gởi mail cho em ngay nhé. Bởi vậy mình đã có cơ may gặp nhau như vậy, cũng là mừng vui, hạnh phúc lắm rồi; trong tương lai sức khoẻ của anh sẽ yếu đi, chắc gì mình gặp nhau được. Thì mình vẫn gặp và yêu nhau ở mail giống trong nhà mình vậy. Mong em làm đúng lời dặn nghe, thì anh hôn em nhiều lắm.

Dĩ nhiên là thời gian nầy anh vẫn liên lạc thư với em đều đặn mà. Thật sự anh không sợ hãi vụ đi phẩu thuật. Ngay cả không sợ chết đâu, nghĩ mình cũng lớn tuổi rồi, nếu Trời không cho sống nữa, thì chịu thôi, anh bình thản không sợ gì cả. Tuy nhiên vì là con người nên có lo lắng, tâm trạng như học sinh bồn chồn băn khoăn về ngày đi thi vậy mà, chứ thật tình anh không sợ gì hết.

Thứ 5 tới, là ngày Jan 21, anh phải đi vô bệnh viện, làm một cái test khác, trước khi phẩu thuật, đó là điều bắt buộc, b/s xem anh có bị nghẻn tắt ở mạch nào không, để khi giải phẩu b/s biết, thì họ làm luôn. Sau đó sẽ có ngày hẹn đi giải phẩu, chứ bây giờ chưa biết. Nhưng anh nghĩ khoảng cuối tháng nầy! Hôm nọ nhờ thọc máy chụp hình vô họng để soi tim, nên thấy trong van tim của anh có một cục thịt thừa tròn, nằm dính phía ngoài van, giống như cái bong bóng có sợi dây cột vô que gỗ vậy. Van tim như que gỗ, mỗi khi van đóng mở, thì cái bong bóng nó bay đập tứ tung.

Bác sĩ bật hình lên cho anh thấy, nên anh mới quyết định cho mổ, vì sợ nó vỡ ra, hoặc là nó nằm ngay chỗ nghẽn mạch, là nguy hiểm lắm. Nhưng em yên tâm nghe, vì B/S nói: đó là loại dễ trong mấy ca mổ van tim. Nhưng vì mổ tim nên cần nhiều thời gian hồi phục. Anh hỏi thăm và đoán biết rằng ít nhứt cũng phải bốn năm tháng anh mới cảm thấy đỡ đau. Dĩ nhiên sức khoẻ không được như xưa đâu. Hiện tại anh thấy bình thường, khoẻ mạnh, vẫn đi bộ như thường em ạ!

Tuy anh không nói ra, nhưng hiểu tình cảm mà em dành cho anh như thế nào chứ, anh biết và cảm động lắm. Yêu em nhiều, anh vẫn nhớ và giữ lời nói lúc trước với em! Với bạn bè, một số ít biết, anh yêu cầu họ đừng phổ biến đến những bạn khác, vì lẽ anh sợ họ gọi tới hỏi thăm nầy nọ, lại làm cho mình thêm lo lắng và mệt hơn thôi, thà để yên vậy cho thanh thản đến ngày đi phẩu thuật. Khi nào gọi cho em, thì anh sẽ viết cho biết trước; nhưng em phải bình tĩnh, đừng khóc lóc hay lo sợ gì cả, không hay nghe em. Anh nhớ những lời em dặn, anh phải hỏi b/s chớ, nhưng dù sao mình cần kiêng ăn tôm, cá biển và nếp... dễ làm cho thịt lồi ra và ngứa...
Tạm biệt em yêu
Anh Th
***
May-01-2010.
Em yêu

Ca mổ của anh là đại phẩu thuật, vì mổ xẻ trái tim, mổ hơn 5 giờ đồng hồ, xong có đặt cái ống để cho chảy nước vàng ra ngoài. Anh bị biến chứng, vì cỡ bốn ngày sau bác sĩ rút ống chảy nước vàng ra, nên nó bị ứ đọng, làm anh mệt và khó thở lắm. Anh ho ra máu ở ngay lằn mổ, nên bác sĩ biết có máu đọng, do đó anh phải mổ lại lần hai, để lấy nước vàng ra gần 1 lít nước vàng, và đặt ống rút nước, để vậy đến bây giờ coi như cả tháng. Rồi sau đó vì nhịp tim đập yếu, họ phải giải phẩu lần ba, đặt máy trợ tim pace maker vô cơ thể của anh vĩnh viễn.

Bác sĩ quyết định đặt máy trợ tim, để khi nào tim mình đập thấp, thì nó tự động kích trái tim mình đập mạnh lên. Máy nầy đặt dưới da trên ngực, chứ không phải trong trái tim. (Cỡ gần 10 năm khi check thấy hết pin, là bác sĩ mổ ra ngay chỗ đó, để thay pin mới, chứ không mổ tim lần nữa. Mổ chỗ đó chỉ khoảng 1/2 giờ thôi. Có nhiều cái phức tạp nữa…) Tim anh vẫn còn trục trặc, hôm nọ đi rút nước vàng ra rồi, nó vẫn còn có air trong thành của buồng phổi! Nếu nó từ từ biến mất thì ok. Còn không, phải đi rút kiểu khác, rất phiền. Anh vẫn còn yếu và mau mệt. Chuyện về hai người, anh nghĩ: trong tương lai thật khó mà gặp nhau lắm, vì sức khoẻ của anh. Anh đã đọc mail của Nị và attach mà em gởi, nên bây giờ anh có đôi điều nói với em đây:
- Mấy đêm qua anh có ngủ được chút đỉnh; thật tình anh không biết con người mình bây giờ ra sao nữa. Nó xáo trộn khi vầy khi khác, không đoán trước được; duy có điều là anh dễ bị mệt hơn xưa nhiều lắm. Thí dụ như chỉ xách mấy bịch đồ không nặng lúc đi chợ về, từ garage vô nhà mà cũng mệt. Thật nản cho anh bây giờ. Thực lòng mà nói sức khoẻ của anh được bình thường 85%, nghĩa là không còn nước ra; phải mang ống nữa; chứ không có nghĩa là 85% sức khoẻ của lúc xưa, em hiểu không? Bây giờ anh mau mệt, đi đâu mà nhìn qua nhìn lại mau, là chóng mặt. Anh ngước lên vói tay làm gì đó, là mệt phải đứng đó thở... Kể sơ như vậy. Dù sao được như bây giờ cũng là quá ngon lành rồi. Chứ lúc trước chỉ riêng cái vụ fluid, là nó quần anh mệt lắm, vì nó ép buồng phổi khó thở kinh khủng. Anh vẫn biết rằng mỗ tim mà, đâu dễ dàng bình phục mau được! Sức khoẻ làm phiền mình lắm từ thể xác đến tinh thần...

Đúng ra bây giờ anh yếu và hay chóng mặt quá. Hôm nọ trên FL, anh đi ra ngoài tiệm, đang ngồi trên bàn ăn thấp, anh nghiêng qua một bên, để lau chùi cái bàn bị rớt đồ ăn dơ, vậy mà mất thăng bằng, anh ngã xuống sàn nhà, không sao cả, nhưng thấy là mình yếu không gượng vững được. Cũng như ở nhà khi anh ngồi chồm hổm một xí, là bật ngửa trên thảm, vì ngồi như vậy thì anh uất hơi khó thở! Nếu ngồi cả ngày không nằm nghỉ, là mệt thấy rõ! Phải chịu vậy thôi. Dáng đi của anh bây giờ khom và rút vai như con gà rù. Thấy nản quá. Tập sửa dáng đi lại, chắc cũng hơi khó đây!

Lúc nầy trời ở đây rất lạnh dưới 40F độ, anh đi bộ mặc áo lạnh dày và trùm mũ len do Nị đan tặng… nên rất ấm áp. Bây giờ chỉ có vậy và hồi ức là hình ảnh đẹp. Mình biết vậy và phải chấp nhận. Tự trong thâm tâm anh mong Nị cũng biết nghĩ suy cái thực tế, để mà sống bình thản! Dù sao thực tại mình còn liên lạc trao đổi vui buồn trong cuộc sống, như những người bạn tâm giao hồng nhan tri kỷ, là điều rất quý. Anh có sự hiểu biết, coi chuyện xưa là kỷ niệm đẹp thôi, anh cám ơn Ơn Trên đã cho mình được những gì mong ước bên em yêu. Coi như vậy là đủ... Giữ chuyện xưa ở mức độ như thế, là đẹp vô cùng!

Về phần anh, thật tình mà nói anh có ý tốt đối với em, em không thấy hay sao lại đâm ra quạo quọ với anh vậy? Anh biết tình cảm của em đối với anh mà. Nhưng anh cũng biết thân của mình bây giờ, nên anh không trói buột em điều gì cả, đó chẳng qua là mở lối cho em cảm thấy thoải mái thôi. Riêng phần em, anh đồng ý cho em vui vẻ, hoặc trao đổi thư từ với những ai mà em thấy hợp. Em cứ tự nhiên cho đỡ buồn, nhưng nhớ tình chân thật là chính và căn bản đó nghe em. Anh không hề trách cứ gì em cả. Miễn là em được đền bù vui vẻ là mừng rồi. Đó là những gì anh nói thực. Vì mình phải biết và nhận thấy cái thực tế đó em ạ! Anh rất hiểu tình cảm và sự lo lắng của em dành cho anh. Anh không quên cám ơn những lần cầu nguyện, sự lo âu và sự đặc biệt quan tâm em dành cho anh. Cám ơn em đã lo lắng và an ủi anh. Anh rất biết điều đó, anh hiểu và thấy nhiều về tình cảm của chúng mình. Nhưng anh không muốn kể lể ra làm chi,
cần giữ mãi trong lòng thôi em ạ.

Phần anh đối với em vẫn vậy! Nhưng nói trước vì sức khoẻ, nên lắm khi bất ngờ anh không vào mail, hoặc phone cho em mỗi ngày. Như vậy làm cho em nổi nực, rồi nghĩ nầy nọ... làm anh cũng thấy không vui. Tất cả những gì nói trên là góp ý và nhận xét chân thật, nếu có gì khác ý của em, cũng bỏ qua cho nhá. Có gì cần chia sẻ và trao đổi với anh, thì em cứ tự nhiên. Phần em phải lo cho sức khoẻ trên mọi thứ nghe... Vì lớn tuổi thì sức khoẻ của mình cũng thất thường lắm! Anh cầu mong cho em khoẻ mạnh và vui. Lúc nầy anh oải quá hết hôn em nỗi.

Thực tế về sức khoẻ bây giờ đã khiến anh bức rức, tánh tình hay bẳng gắt! Ngay chớn-thuỷ ở ngực hay bị uất hơi, khó thở, đau lói ở đó, có lẽ do bị nhịp tim (rhythm) đập nhanh gây ra như vậy. Anh đi thì cảm thấy như bị co rúm lại, nên khó thẳng người. Ngoài ra da mặt và da đầu bây giờ hay bị tróc da như vảy cá vậy! Có lẽ bị mỗ tim, nên nó làm cho da khô hơn xưa? Ngồi dựa lưng vô thành ghế một xí là bị ho, do phổi yếu chắc. Bây giờ một ngày uống hơn 10 viên thuốc, vì vậy anh để hình ảnh xưa cho nó đẹp, hơn là thực tại. Dĩ nhiên đó cũng gợi nhớ đến kỷ niệm vui… nhưng mà thôi, chắc là cái phần mình chỉ được có vậy thôi, không nên than oán gì cả! Sức khoẻ làm cho con người cũng hết hăng hái mọi chuyện. Ham hố cái gì khi anh về nhà luôn mang một túi nhỏ bên hông để đựng nước vàng. Tội nghiệp em yêu, người thân và bạn hữu đều lo lắng, đồng thời cầu nguyện cho anh nhiều lắm. Anh rất xúc động và mang ơn tất cả.
Anh dừng bút, mong em luôn bình an, vui vẻ nhen.
Anh Th

Mỗi đêm… từng đêm… hai tay Thương Nị ôm đầu, lắng nghe bài ca: “Cơn Bão Nghiêng Đêm” và, không thể cầm được lòng, cô đã gục đầu lên thành ghế khóc nức nở, khóc hoài, khóc mãi muốn mờ đôi mắt.
***
Tình Hoài Hương

(1) ca dao
(2) sưu tầm
(Câu chuyện rất buồn của TT TM)

Tinh Hoai Huong
12-01-2018, 07:27 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 32

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1541052540-ME 36 aB.jpg
/uploadpics/mp3pdf_2018/1541051776-Da Lat Tinh Yeu - Vu Khanh.mp3
TUỲ BÚT về sự Phù Hoa cuả Chúng Mình
(Viết từ chuyện buồn của TM Ayana & PH Tony)
Tình Hoài Hương
***


Trên cành sao có chiếc lá cong queo cứ lao xao rên rĩ, dường như cố vươn cuống lá khô đét để vờn ôm phiến tích thời gian, lay đọng nỗi nhớ nhung muộn phiền ngày tháng cũ nó được ung dung đong đưa trên cây. Chiếc lá lắc lư rồi hững hờ buông mình chao lượn trong không gian héo úa nắng tàn. Gió chiều hiu hắt phe phẩy trêu đùa ngọn cỏ dại không tên ở viả hè. Nhìn chiếc lá và một con chim lẻ bạn rủ cánh buồn bã thỉnh thoảng cất tiếng gọi đàn, lòng em bỗng chùng xuống bao sầu đắng.

Hạnh phúc lớn nhất trong đời người là thực hiện được những ước mơ lúc mình đạt nguyện vọng. Em muốn tìm một hướng đi đứng đắn trong công việc, trong tình yêu và cuộc sống bằng khả năng hữu dụng cuả chính mình. Cuộc sống ở những ngày còn ấu thơ bao giờ cũng đẹp với bao ước mơ và hy vọng, hoài bão, lập trường, lý tưởng… Có điều khi đã lớn lên, thì những ước mơ tươi đẹp, và thực tế quả thật khá xa vời. Vì so với góc nhìn mới mẻ, cùng quan điểm, hoài bão, lập trường cuả mình, lại hoàn toàn trái ngược. Rồi ta sẽ thấy vị trí bây giờ mình đứng vững nơi đây, và bao quan niệm, lập trường, hoài bão, ước mơ to lớn (của mình từ nhiều năm xưa trong cuộc đời) - thật ra khi ngoảnh nhìn lại, chỉ cách nhau những bước chân mờ nhoà, chập chùng phai nắng trên thềm nhà cũ, ấy vậy mà bây giờ vô cùng đối lập, lung linh, xa xôi và khác lạ.

Tình yêu khi nhìn từ xa dưới ánh mặt trời, tưởng là óng ả long lanh như hạt kim cương chói sáng, nhưng lúc em nhìn gần: va chạm cuộc sống, tình yêu, hôn nhân, lại khác xa nhau lắm! Trước ánh mặt trời rạng rỡ thì viên kim cương long lanh lóng lánh đẹp và sang, coi quý giá quyến rũ thượng khách lắm bạc nhiều tiền; Nhưng trong bóng tối, viên kim cương bình dị như hòn đá vô tri vô giác. Quá vui hoặc quá buồn; cũng có những giọt lệ long lanh trên giếng mắt bờ mi. Người ta thường nói “cười ra nước mắt”, hoặc “cười là tiếng khóc khô không lệ”; quả thật không sai! Khi chúng ta yêu nhau say đắm, giống loài hoa nở rộ, sẽ thấy hết vẻ đẹp và ngưởi được mùi thơm riêng biệt cuả nó. Những lần anh ôm em vô lòng hứa hẹn chúng mình sẽ có hạnh phúc đầy ắp trong tương lai… Lúc đó em đã nói:
- Nếu trời có sập xuống, anh nhớ bảo vệ tình yêu chúng mình bền vững trong vòng tay anh rắn chắc như hôm nay nhen, anh không thay đổi à.
- Hi hi… Trời sập, thì chúng mình sẽ tiêu tùng, tình yêu tất nhiên biến mất rồi, còn đâu!
- Anh đừng lo, vì anh chính là bầu trời đầy sao và trăng cuả riêng em mà. Bầu trời dành cho trái đất nếu có sập, cũng đành! Nhưng tình yêu chúng mình giống khuôn mặt cuả em và anh thì không thay đổi. Nhất là, anh là trăng là sao, thì không thể rụng trong tim em! Anh có biết một câu nói đáng giá ngàn tỷ đồng dollars, nhưng khi anh phát âm ra với em, hoàn toàn miễn phí, không anh?
- Ồ! Câu gì nặng ký vậy em?
- Câu: “anh yêu em nhiều lắm, em là mối tình đầu, là tình cuối cuả anh. Em chính là tình yêu. Ngoài em ra, anh không hề yêu ai nưã. Anh xin nhắc lại: Trước em – anh không có ai. Sau em – anh không còn ai. Em hãy cùng anh chọn hướng đi lên chiếc cầu dài nối từ bờ nầy sang bờ kia, chúng mình sẽ nắm chặt tay nhau vượt qua mọi trở ngại, để tiến về ngôi nhà bên sườn đồi. Mỗi khi nhìn thấy nó, chúng ta đều mến thích và ước nguyện trọn đời chung sống bên nhau. Nhen em.

Ôi! Nghe anh nói có vẻ như “nghe ca cải lương”, nhưng em cảm động sung sướng hạnh phúc ngất ngây dạt dào niềm rung cảm yêu thương anh biết ngần nào. Lúc đó không phải do hạnh phúc chúng ta sung sướng rạng ngời oà vỡ tiếng cười; mà cười vì chúng ta mới có hạnh phúc, em có cảm tưởng em nâng mặt đất lên sát bầu trời đầy sao lấp lánh. Có câu ca dao chí lý nầy quả không sai:
Dế kêu cho giải cơn sầu
Mấy lời anh nói, bạc đầu không quên.
Dụi mái đầu em có những lọn tóc đen nhánh rất dài (thơm mùi bồ kết lá bưởi lá chanh) buông xoã trên bờ ngực anh, em tươi cười ứa hai giọt nước rung rinh ở khoé mắt. Ngồi trên chiếc cầu gỗ nhìn xuống hồ Than Thở im vắng, em thấy gương mặt chúng mình in trên mặt hồ yên sóng không phải là hai con quạ xấu xí, mà gương mặt của đôi loan phượng rực rỡ vờn nhau! Anh cúi xuống âu yếm nâng cằm em lên, đặt những nụ hôn nồng nàn nơi giếng mắt bờ môi ấy. Hẳn anh còn nhớ lúc đó anh đã nói:
- Những giọt nước mắt ân tình nầy mặn hơn biển cả, nồng hơn vôi, khi trọn đời chúng mình đã chọn, thì không bao giờ quên. Em ạ.

Lại “ca cải lương” nữa rồi, khi yêu nhau có lẽ trai gái đều có những câu nói lẩm cẩm thế mà hay, nên em càng mê anh mới chết. Ấy vậy em cảm thấy hạnh phúc tràn ngập uà về vào tháng năm dài đằng đẵng trôi qua… Nếu anh đã chọn một hướng đi, em mong anh tôn trọng lời hứa ban đầu, tình yêu đôi ta không như bọt sóng ào đến rồi tan biến. Ngày đó anh bảo em “chọn”. Chọn! chọn cái gì nữa? Tình yêu nam nữ giống như mây và lửa, một khi chúng ta không còn yêu nhau, thì ngọn lửa dù toả sáng bao nhiêu, vì giông bão mưa dầm mà lửa tắt ngúm, khói sẽ theo mây tản mác bay đi hoà lẫn nơi nào không biết. Anh có nhớ lúc ấy trên tay anh cầm hai cây cà rem to, cây cà rem nào cũng hấp dẫn ngon lành, anh phân vân đắn đo không biết nên ăn cây nào, vì anh chỉ có thể ăn mỗi lần một cây. Anh tủm tỉm cười đưa cho em một cây cà rem. Em chưa kịp giơ tay ra cầm, anh “chọc quê” em, thụt tay lại dấu cây ca rem sau lưng, rồi anh tươi cười dường như trêu ghẹo đưa cây kia ra cho em. Cứ thế, cho đến khi… cuối cùng trên tay anh chỉ còn hai cây que tre, kem vì gió thổi đã chảy hết xuống đất.

Sự nghiệp nếu thất bại, ta có thể gầy dựng lại lần nầy, lần khác… Muốn có tình yêu chân chính vững bền chung thủy, trước hết mình cho đi không hề tính toán, sau đó sẽ nhận được mọi thứ hoàn hảo, tuyệt vời tin yêu hơn. Nhưng hôn nhân nếu đã thất bại, dường như em cảm thấy có một lỗ hổng trong trái tim mỗi khi có gió lùa rít qua lỗ đó, khi có mưa thì nước rỉ ra. Dù lỗ hổng không to, nhưng dần dà nước có thể thấm đẫm và mục nát cả cây cầu. Mối tình cũng giống chuyến tàu suốt, nếu mình chọn lầm người đó, là sẽ thay đổi cả cuộc đời ta. Thế nên mọi phiền não đau khổ cứ tràn đầy không có gì lấp được, dù cố gắng khao khát mong chờ, cũng khó lòng hàn gắn, thì chuyện tan vỡ không biết sẽ đến lúc nào (như cây cà rem đó thôi).

Cũng vậy! thuở xưa anh thèm em (ngược lại xin thừa nhận em thèm anh biết mấy! thèm đến nhiễu nước miếng muốn nhỏ xuống đất, như cây cà rem chảy). Không phải sao? tự thuở ban đầu có những bước chân tình cờ rụt rè đi về chung lối trên đại lộ Yersin ra phố chợ, đôi ta e ấp thẹn thùng; bỡ ngỡ, rón rén, vui vẻ rộn rịp, anh hân hoan chọc ghẹo làm quen em. Tia mắt bẽn lẽn đong đưa liếc nhìn nhau đằm thắm, sâu lắng, trữ tình mời gọi trao gởi. Rồi từ phương xa nhiều lần thư anh & em tới tấp bay đi bay về... trong nôn nao đợi mong, băn khoăn thấp thỏm, xao xuyến hẹn hò. Ngày tháng trôi qua… chúng mình gặp lại trên thành phố thơ mộng, mấy ngón tay ấm áp rụt rè nhẹ nhàng len lén ngại ngần lướt nhẹ vào nhau, xoắn xuýt nắm chặt mãi chẳng nỡ rời. Nụ cười khả ái chúm chím dịu dàng đượm hương nồng, hồn nhiên, ân tình rạng rỡ trao duyên. Bao yêu thương ngất ngây âu yếm chờ đón nụ hôn ngọt lịm, thắm thiết đắm say, nồng nàn, đầy ắp quý mến tin yêu… suốt nhiều tháng năm ngự mãi không rời trên bờ môi vụng dại cuả chúng ta.
Một lần nọ em ngồi đan áo sau vườn thông trong biệt thự Mimosa, (số 2 Pasteur) thấy anh vô nhà, con chó chạy ra sân sủa rân trời, em nói:
- Chó sủa vang rứa, nhưng không có răn mô.
Nghe lời em, anh dựng xe vespa đi vô sân, liền bị nó đớp một phát, may mắn chỉ rách chút xíu ống quần. Em la con chó, đuổi nó đi. Anh cười khà khà:
- Ôi dào. Con chó có đủ hai hàm răng nhe ra, nó cắn anh rách ống quần nè. Vậy mà em nói “chó không răng”! Không biết, anh bắt đền em à.
Vậy là anh hôn em thật lâu. Rồi một lần kia em nhờ anh:
- Tiện thể, anh cho em xin ly nước lọc nhen.
- Loại nước lạt lẽo nầy, mà em thích uống sao?
- Do em đã thấm đẫm sự ngọt ngào nơi anh rồi.
- Từ lúc nào vậy em?
- Còn hỏi nữa sao anh? Nhưng… em cần nhắc lại: kể từ khi có "người khác giống” chen vô đời hai ta. Vô tình anh cột nhiều nút thắt trong lòng em, khiến em đau đến tê liệt.
Anh cười cười, hóm hỉnh:
- Anh là người dũng cảm, oai hùng, đa tình và tốt bụng, anh giúp người khác khi họ “thiếu thốn” hoặc lâm nguy nép vào ngực anh thôi. Trong mười điều luật Chuá dạy có thể tóm lại hai điều: “Kính Chúa, yêu người”. Nhưng quan trọng là “thương người như thể thương thân” mà em. Anh giống lớp vỏ cứng của trái cây, ví như trái mít, sầu riêng, măng cụt, “mãn cầu” thì nó mới bảo vệ được múi thịt thơm tho, mềm mại ngon lành ở bên trong.
- Ồ…
- Anh yêu em không những tặng em thứ anh đang có, mà anh cho em những cảm giác em không thể có… ví dụ anh mớm vào môi em mật ngọt tình yêu, hoặc “giọt rượu nồng tình ái”. Vị ngọt ở rượu giống như câu chuyện của anh và em. Mình phải biết cách ung dung nhâm nhi nhấm nháp khi uống rượu chứ em.
- Tại sao?
- Ban đầu vị ấy có chút ngọt ở đầu lưỡi, kèm sau nhiều vị nồng chát, nóng bỏng, kéo theo chút đắng, cay cuối cuống họng. Cũng như tình yêu mang đầy hương vị ngọt ngào chua cay đắng chát trong lòng ấy mà cưng.
Anh nhớ không, lúc đó em nhìn anh mỉm cười đằm thắm:
- Có hai mẹ con sư tử nói chuyện với nhau, con hỏi mẹ:
- Hạnh phúc của mình ở nơi nào vậy mẹ?
- Hạnh phúc của con ở nơi cái đuôi của con đó.

Sư tử con ngây thơ hân hoan vui thích liền đứng lên quay vòng tròn nhiều phen, nó cố gắng tìm bắt cho được cái đuôi của mình. Nhưng nó quay hoài mãi, mà không chụp được cái đuôi, đến khi nó mệt lử, xâm xoàng chóng mặt nằm vật xuống đất, nó vẫn không thấy hạnh phúc nơi nào!
Mẹ sư tử dịu dàng vỗ về con:
- Khổ thân con! Hạnh phúc không do ở nơi con quay cuồng xoay vòng quanh tìm kiếm đâu. Chỉ cần con an tâm ngồi xuống, thứ nhất cái đuôi sẽ ôm vòng bên bắp vế cuả con, lúc đó con tha hồ tìm ra chân lý. Thứ nhì con đứng thẳng lên, ngẩn cao đầu trung thực tiến về phía trước: giữ vững niềm tin yêu, chung thủy, là hạnh phúc sẽ ở trong con.
- Theo em, khi yêu nhau chỉ cần uống một ly nước lạnh, mình cũng cảm thấy mát lòng, là hạnh phúc rồi anh nhỉ!
Anh ngẩn ngơ nhìn em giây lát, đong đưa:
- Em đẹp như hoa pensée, có tư tưởng đáng mến phục.
- Cám ơn anh. Nhưng xin từ chối, em muốn làm loài cỏ.
- Tại sao?
- Hoa nở rực rỡ ít ngày rồi tàn. Nhưng cỏ thì có sức sống dai và mạnh, mặc dù Thu tới Đông tàn, nó ủ rũ nhất thời, rồi mau chóng trở lại xanh tươi.

Anh giống bụi gai mắc cỡ năm xưa ở trên đồi Cù, khi đó, anh hái một nhánh hoa "Mắc Cỡ" màu tím, có gai nhọn nằm ẩn dưới cành nhiều lá kép, anh cài hoa lên đầu người anh yêu. Ui cha! Cành lá e thẹn ẻo lả khép lại, em xuýt xoa khi mấy gai nhọn đâm vô đầu rỉ ra chút máu. Nhưng muốn làm anh vui, em cố chịu đựng. Anh nhớ không? dường như hoa lá và gai nhọn ấy quấn chặt trong tim em mãi. Bây giờ em vẫn cảm thấy đau ghê lắm, không làm sao nhổ ra được. Anh ơi!

Nhớ một lần kia, anh em che chung chiếc dù, chúng mình vui vẻ nắm tay nhau hân hoan hát bản nhạc “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ: “… Anh đến thăm em trời đông giá, anh đến thăm em trời mưa gió, đường xa lạnh lùng! Mặt gặp mặt cầm tay không nói một câu. Lời nghẹn ngào hồn anh như say như ngấy, vì đâu…”. Chúng ta cười reo sung sướng, vô tư lự chạy bên hàng cây xá lị lúp xúp có từng chùm hoa trắng nở dưới bầu trời Đà Lạt trong cơn mưa tầm tã, cơn mưa giông đầy sấm sét ầm ầm nổ liên tục. Thế mà đôi ta chẳng sợ sấm sét, vậy mới ngộ! Nước mưa rơi lộp độp trên chiếc dù như những dòng nhạc thánh thót êm êm rơi trên hai mái đầu chụm lại, chúng ta vừa chạy vừa hổn hển trao những nụ hôn mê đắm nóng bỏng. Một lúc sau em dừng lại ngơ ngác hỏi anh:
- Uả! Xe vespa cuả anh mô rồi?
- Anh làm con gà trống đi bộ mà cưng.
- Tại sao?
- Thì con gà làm gì có bằng lái xe, mà chẳng đi bộ!
- Hi hi… Bi chừ chúng mình đi mô “rưá”?
- Ổ khoá phòng em hư, anh mua khoá, không mua “rựa”
- Trời à! Anh nói giọng miền Nam, là em hiểu hết. Còn em “noái”, anh khôn hiểu mô tê răn rứa chi cả, là răn hì?

Anh cười ha ha ha. Thuở ấy vui vẻ hồn nhiên hạnh phúc biết ngần nào! Giờ đây, anh cầm chiếc dù khác che nắng che mưa cho em. Anh tưởng rằng anh có thể che nỗi muộn phiền buồn bã trong lòng em ư? Tình yêu không thể hiện vụng về thờ ơ lạt lẽo khi trao chiếc dù không bằng mắt, bằng tay; mà cần thể hiện cả tấm lòng, ước nguyện, thông cảm, nhiệt thành tin yêu nhau nưã anh à.
Một ngày xa xôi kia anh vui vẻ hỏi em:
- Mặt trời và quê hương, nơi nào gần em hơn?
- Tất nhiên là mặt trời.
- Ồ! Tại sao?
- Em ngẩn đầu lên, là thấy rõ mặt trời đứng trên đầu em rồi. Còn quê hương mặc dù gần hơn mặt trời. Nhưng em không nhìn thấy, nên em nói quê hương xa hơn mặt trời.
- Em duyên dáng thùy mị dễ thương lại dí dỏm, thông minh kỳ lạ. Chính vì em rất thông minh, nên anh yêu em nhiều.
- Cảm ơn anh. Nhưng anh hóm hỉnh hơn em, lại có duyên ngầm. Anh quyến rũ người khác phái dễ dàng trong sự đa tình lãng mạn đó nhe.

Lúc đó anh nhìn em, nụ cười dạt dào trìu mến ẩn dưới tia mắt trĩu nặng ân tình. Anh hiện tại trong mắt em thì… anh giống con búp bê Nhật treo lơ lửng nhún nhảy đong đưa trên cành cây khô mục, búp bê có đẹp, nhưng không có sức quyến rũ và hấp dẫn, tệ hại hơn chẳng còn sức sống! Ly thủy tinh đầy nước trong đã giáng mạnh xuống nền gạch bông, nước tung tóe, chút nước đọng trong lòng bàn tay khẽ khàng bụm lại, nhưng nước không cầm giữ mãi trên tay mình, ly bể tan làm anh đứt tay. Bàn chân anh đầy máu lúc anh vô tình dẫm đạp lên mãnh vỡ lổn nhổn. Trái tim con người giống dòng nước không ngừng chuyển động. Trên sông, nước sâu đến đâu cũng đo được xuống đáy, vậy mà lòng anh thì em không thể nào lường.
Cuộc đời là thế! lúc anh em mình leo lên núi Lâm Viên, hoặc đi lãng du các thác Pongour, Preen, Gougah, Datanlania, đi thăm thác Hang Cọp… các nơi ấy cao ngất và sâu hoắm; chuẩn bị mọi thứ bao giờ chúng ta cũng hân hoan, vui vẻ, khoẻ khoắng khi khởi hành. Nhưng… khi chúng ta xuống núi, hay bò lên khỏi vực thác sâu hun hút, để trở về, thì thân thể ta rã rời mệt mỏi, uể oải đừ đẫn suốt mấy ngày. Cũng vậy, “cả hai cô cậu” cảm thấy đời tưng bừng lên hương, nếu hai người có cỡi trên trường giang sóng sau xô sóng trước, chúng mình vẫn hài hoà vui vẻ, thảnh thơi nồng thắm tin yêu. Ngày xưa hai người âu yếm ngồi chung trên thuyền, chúng ta từng thề:
- Nếu thuyền chìm, mình nắm chặt tay nhau, bằng mọi giá phải dắt dìu nhau ngoi lên bờ, không được buông ra. Nhen.
Khi một trong hai người tự ý bỏ xa thuyền, mình ên dong đi trên dòng sông bão tố; có ngày thuyền lật úp hay tụt xuống vực sâu, thì chẳng thể trách ai. Một chân bên nầy một chân bên kia, anh không thể bước chàng hảng cùng lúc ở hai con thuyền bồng bềnh trên sóng nước. Muốn giữ người mình yêu, phải giữ mình trước với hai bàn tay và đôi chân đứng vững của chính mình. Thế thì em đã hiểu vì sao!

Có một lần duy nhất trong dịp Noel cách đây 46 năm, từ Sài Gòn lên Đà Lạt thăm em, anh trao tặng em sợi dây chuyền 18K mặt chữ H rất nhuyễn độ một phân, chiếc áo lạnh màu vàng óng ả, loại nỉ nhung mềm nhẹ của Pháp đắt tiền, rất đẹp. Đôi guốc sơn mài cao gót màu tím đầy hoa lá cẩn xà cừ. Khi ấy anh ân cần cúi xuống mang đôi guốc hài hoà xinh xắn vô chân em. Anh chưa hề đo chân em, mà em mang sít sao vừa vặn. Em phục anh thật tinh mắt và khéo chọn! Rồi anh đứng dậy âu yếm ôm hôn em, em nghẹn ngào vui thích hân hoan và cảm động biết bao. Điều đó luôn ngự bên phiá trái lồng ngực nầy! Hẳn anh còn nhớ chứ!? Ký ức qua tháng năm có thể mờ nhạt dần, nhưng không hiểu tại sao em trân quý nâng niu giữ gìn những món quà đầu tiên do anh trao tặng đó biết ngần nào.

Thời gian theo tháng năm quá dài trôi qua mau… cho đến một ngày một kia, do sợi dây chuyền mỏng manh đã đứt và rơi tự bao giờ. Em tiếc ngẩn ngơ đi tìm khắp nơi, chẳng biết nó rớt ở chỗ nào, em kiếm hoài trong vô vọng! Cái áo đẹp em luôn trang trọng cẩn thận nâng niu, giữ gìn, nay không còn mới, nó ngắn và chật. Lại thêm chiếc guốc bên chân trái mòn hẳn gót, đứt quai, chiếc cao chiếc thấp lệch lạc, cũ mèm và có phần xấu xí, em không thể mang. Đôi guốc phải có cặp vừa vặn số đo, không chật không hẹp không ngắn không dư, không rộng không hẹp. Hai bàn chân cần đi cùng một hướng mới yểu điệu, ung dung, thảnh thơi. Chứ không thể một chân bên nầy một chân bên kia, như dấu chấm phết, là guốc có thể mang thành đôi, thành cặp.

Chẳng hiểu sao em không nỡ vất đôi guốc, vẫn tiếc rẻ, sợ quăng đi là “sỉ nhục tình cảm”; nên “gắn bó duyên nợ” lưu giữ nó tận đến bây giờ. Em có thể mang chiếc guốc què khập khểnh đi cùng anh, nhưng do tình em đối với anh chân thật, thuỷ chung, vì lương tâm em không thể chạy trốn anh suốt đời. Nào ngờ… những kỷ niệm đó biến thành giọt nước mắt mọng tròn lăn hoài trên má, ý nghĩ em từa tựa giống thi sĩ Nguyễn Trung Kiên*: … Nếu ngày nào một chiếc dép mất đi
Mọi thay thế đều trở nên khập khiễng
Giống nhau lắm nhưng người đời sẽ biết
Hai chiếc này chẳng phải một đôi đâu
Cũng như mình trong những lúc vắng nhau
Bước hụt hẫng cứ nghiêng về một phía
Dẫu bên cạnh đã có người thay thế
Mà trong lòng nỗi nhớ cứ chênh vênh (*)

Ngày nay ở trong lòng em vẫn nhớ hoài đôi guốc ấy, em sợ một ngày nào đó chính em sẽ mang “đôi guốc què” ra đi khỏi đời anh, sợ rằng khi em mang đôi guốc nầy là bị té, không phải té từ ngọn núi cao, mà em bị ngã do những hòn đá cuội dưới chân mình. Vì, suốt thời gian qua em bị đôi chân mình mang guốc lệch đã treo ngược lên trời, khiến đầu óc em vật vờ choáng váng, quay cuồng dật dờ, mệt mỏi kinh khủng! Đôi guốc mất đi có thể mua đôi khác, nhưng tình yêu khi mất thật rồi, thì chẳng thể nào tìm lại được.

Thay vào bao hụt hẫng muộn phiền đó, em đền bù bao mất mác cho mình và anh, mà không hề so đo tính toán hơn thiệt. Bằng cách, em dư khả năng trao tặng anh những món quà dềnh dàng to lớn đắt tiền khá đẹp, kèm nhiều bộ áo quần, veston hợp thời trang, cặp kính Ray Bon P, đồng hồ Longines Admiral Automatic dây vàng 18K Thụy Sĩ Swiss Made, chiếc nhẫn 5 chỉ vàng 18K khắc con rồng nhận ngọc bích, sợi dây chuyền hai lượng vàng 24K & những đôi giày đủ loại đủ kiểu, v.v...

Thế nhưng mỗi lần em tin yêu ân cần trao tặng anh, anh “lại vô tình lơ đễnh” đánh mất một thứ, mỗi lần một thứ có trọng lượng nặng nhẹ, và hiện kim nhiều ít khác nhau… Những vật “tuỳ thân hộ thổ” tiền tài vàng bạc kia, em đề phòng ngộ lỡ khi anh ốm đau bệnh nạn bất ngờ chẳng đặng đừng, anh có thể bán nó, để “trang trải” trước, sau đó vợ con bù đắp đầy đủ hậu hỉnh cho anh sau! Vậy mà... dần dà anh bán sạch từng món, không phải do anh túng thiếu, bệnh nạn gì! Vì cuộc sống vật chất của anh đã có người vợ tào khang (là em) và con gái trưởng chu toàn lo cho anh rất đầy đủ. (Mà do anh “dại gái” bán đi để “bao” họ!!!).

Thật ra của ngoài thân có trọng lượng khá nặng kia, em không hề tiếc, mà chỉ tiếc… chỉ xót những đôi giày, (mấy bà tình hờ cuả anh cố ý đánh cắp cả đôi, hoặc một chiếc, do sự ngụy tạo thấp hèn kém tế nhị, vô ý thức bởi những “hành động cố gắng thanh cao”). Thì chiếc giày còn lại anh không thể ung dung thanh thỏa mang đi cùng em, nên nó trở thành vô dụng, dị hợm, trơ trọi và rất khả ố. Tuy nhiên, em phải có trách nhiệm về những món quà mà anh đã trao cho em, cũng như ngược lại anh cũng nên như thế. Nếu anh không trả được, thì cho đến cuối đời anh vẫn không thể yêu ai thật lòng. Máu của mình là máu lạnh, thế mà từ khi gặp anh lần sau cùng vào năm 06, em vẫn sôi sục niềm luyến thương say đắm, tỏ lòng mềm nhũn, nhân ái, bao dung và tha thứ cho anh về những lỗi lầm đáng nguyền rủa...

Sự thay tình yêu hay đổi lòng giống như một con khỉ, nó leo lên cao thì càng lộ rõ mông đít đỏ của nó. Từ đó, tình yêu mãnh liệt đầy tin tưởng trong em, như bọt sóng ào đến rồi oà vỡ tan biến trên lớp cát mịn dưới chân. Cơ khổ thay! anh đã vất những đôi giày, lật đật đi chân trần trên con đường lạo xạo sỏi đá, anh tự động ra khỏi chiếc thuyền hoa chắc chắn êm ái bền lâu cuả chúng mình. Làm trai nên nhìn thẳng về phía trước, hãy nói đi: “anh chọn gì ngoài sự trao đổi thô thiển về dục tính”!?

Lần cuối cùng người còn lại sẽ dừng bên mé vực cảm thấy xót xa, ê chề, cay đắng, chua xót và buồn bã lặng lẽ nhìn theo người kia. Tuy nhiên em có chút hiếu kỳ, bởi dã tâm anh muốn đạt tới “sự nghiệp, tài chính, hoặc vụ lợi”; mà chà đạp tình yêu cùng quá khứ đầy ắp ân tình, bất chấp mọi thủ đoạn à? Nhưng, em hiểu ra rồi, anh tính nào tật ấy không hề thay đổi, có khi anh càng tệ hơn ngày xưa vì mục đích riêng, anh xem thường tình yêu, danh dự, nhân cách, để đạt đến đòi hỏi xác thịt cá nhân với mấy bà kia sao? Cánh lá xương khô trôi một chặng trên dòng sông đời ngắn ngủi có bóng dáng anh trầm luân lưu lạc… với khuôn mặt hằn nếp nhăn chất chồng vội vã từng đêm truy hoan. Luống thời gian hối hả ùa về cuồn cuộn chảy từ trên mắt xuống môi, khiến lòng em bỗng nghẽn đắng từng cơn uất giận bùng sôi thắt lòng.

Tình yêu cuả em xét ra coi “chàng” còn có sự bất trung, lừa dối và vụ-lợi, gây tổn thương trầm trọng đối với tình cảm thiết tha mà “nàng” đã tận tụy thành tâm trao tặng “chàng”. Nhất là anh biết em chân thật trong mọi hoàn cảnh, em hết lòng “chung thủy chỉ yêu một mình anh”, em năn nỉ anh hãy cho em một thời gian, khi có đủ khoảng tiền kha khá, em sẽ quay về bên anh. Dạ vâng! Em thành tâm yêu thương và tôn trọng anh, quyết định bỏ tất cả, thi hành đúng lời hứa: hai ngôi nhà đồ sộ và một cửa tiệm, em chỉ bán một cái nhà, (nhà trả hết tiền mua từ lâu), nên em đã có $789.999. Khi check tiền cho anh coi, em tính rút tiền “trong tổ kiến cuả chúng mình” ra chi dùng bao dự tính ở tương lai. Nhưng “nhà nước” báo số tiền quá lớn, & ở Việt Nam không có ngân hàng mà em đang xử dụng.

Em loay hoay, phân vân không biết làm cách nào, thì… thì do các con cảm thấy bất nhẫn, vô lương tâm và tự hổ thẹn… nếu các con tiếp tục hùa theo anh lừa dối em (vì các con hết lòng yêu thương em), bé Hai và Bé Tư đã méc lại em mọi chuyện: anh vẫn xài thủ thuật “vơ vét tiền bạc của mẹ con em, lại “xơ cua bao trọn gói” thêm bà nọ bà kia, khiến em đau đớn, thì quả nhiên anh quá tồi, khả ố và tệ kinh khủng. Bây giờ em chẳng thể giơ tay ra cứu vớt anh thêm lần nữa, người ta nói “nhất bất quá tam” í mà! Khổ thay! Em đã “lờ đi” ôm trong lòng sự phiền não chua xót đau đớn biết bao năm rồi, (khi anh lừa dối em về tình và tiền không chỉ ba lần, mà ba lần ba... là chín lần ấy nữa).

Không đúng sao anh? Nầy nhé: Từ năm 1963 vụ cô Quyên Hà – từ bà Tư Râu Rậm, bà Dung, bà Nga, bà Nguyệt, bà Kim, bà "Lý Lắc" lu xu bu… nhặng cả lên, không làm sao kể hết. Mấy mụ kia chả đáng gì, chính anh luôn tự hào thừa nhận: "em xuân sắc mặn mà, thùy mị, hiền thục dịu dàng, thông minh vượt trội hơn mấy mụ kia, là cái chắc, anh cảm phục sự thông minh của em, nên anh càng yêu em"). Lời anh nói đó dĩ nhiên em hãnh diện chứ. Tuy nhiên, em chỉ buồn về vụ mấy cú phone gọi ở Mỹ về, khi vợ nằm bên chồng: qua vài câu xã giao, anh lẽn ra phòng khách nói chuyện phone với bà tình nhân cũ: từ hai giờ khuya đến năm giờ rưỡi sáng. Sau đó anh lên lầu lóc cóc gõ e-mail.
Hôm sau bé Hai, bé Tư khều em lên lầu mở e-mail ra, chỉ cho em, cả ba mẹ con cùng đọc:
Date: 01-20-2006 > 14:05:20
From: khanhson21@saigon.com
To: cungio77…thu.com
cc: tmtfe@.com
Subject: Gửi Thư
Lê Trân Thư ơi!
Anh đọc thư em, mà lòng anh ngổn ngang trăm mối và ngậm ngùi. Nhưng anh rất mừng, là hai đứa mình cùng một quan điểm: Mối tình đó bất diệt. Vậy thì, xin cứ để đó. Mình cứ tôn thờ nó, và xem đó là cuộc tình tuy đậm đà. Nhưng kết thúc rất có hậu. “Tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ” mà em! Vâng! Em cứ tự nhiên, vì anh cũng hiểu là công việc của em rất đa đoan và bề bộn. Tuy nhiên, em vẫn drop cho anh vài hàng khi rãnh rỗi. Vì như em nói đó: Bây giờ chỉ có sự cảm thông sâu sắc; Những gì tiềm ẩn được phơi bày. Anh hiểu em, và ngược lại em cũng hiểu anh phần nào. Xin cứ xem mối tình cuả mình là giai đoạn đẹp nhất cuả cuộc đời nầy. Nếu có kiếp sau. Nếu có... thì anh hứa với em là: anh không để lỡ bước nữa đâu. Anh đã có em trong vòng tay. Và bỗng nhiên em thoát ra bay mất. Nhưng ngược lại, em vẫn còn mãi mãi trong tim anh. Điều nầy chỉ có anh biết, khi nào anh nằm xuống, thì nó vẫn còn tiềm ẩn với thời gian và không gian. Em vẫn là mãi mãi, là ngàn năm Trân Thư ơi!
Thôi thì như anh nói: Mình còn có thể nói cho nhau những gì mình từng ấp ủ tận đáy tâm hồn. May thay, kiếp sau còn đoạn cuối cuộc đời - em đã hiện diện cho kiếp sau.
Anh gửi lời cảm ơn em. Anh đã nhận được 200usd. Vâng! Anh sẽ nhớ mà, mỗi ngày anh đều viết cho em hai lần thư, càng dài càng tốt - một copy về điạ chỉ e-mail ở sở em làm - một copy về điạ chỉ e-mail: tmt cung707.com.

Mấy năm nay anh chuẩn bị đón Tết, lu bu nhiều việc. Mặc dù năm nào cũng như năm nào: Anh vẫn đi trên đường một mình cô độc. Nhưng mùa xuân năm nầy, anh có em, có thêm nhiều bạn đồng hành trong quá trình đớn đau nầy. Anh tin rằng: Nếu em “hét” được, thì anh cũng sẽ hét. Cho có thời gian và sự kiên nhẫn, cũng như ý chí quyết chống chọi lại mà thôi?! Điều nầy anh có thừa. Anh hiểu là anh vẫn có, và vẫn còn em trong đời mà. Hãy đến với anh – Như cô thiếu nữ ngày nào em nhé. Mọi chuyện khác, thì thời gian sẽ cuốn trôi đi. Anh cũng không quên cảm ơn sự quan tâm đặc biệt của em: Em hứa quyên góp tiền từ các bạn, và gửi về thêm cho anh 2.000usd nữa há. Thanks.

Để hôm nào buồn buồn, anh nói chuyện phone tâm tình với em, ôi! chuyện gì mà mình nói phone vào lúc đêm khuya, từ bốn năm giờ liền vậy nhỉ!? Thì ra, vẫn còn rất nhiều điều, mà chúng mình chưa bao giờ thổ lộ với nhau. Gần tàn đời rồi em. Hãy nói cho nhau biết tất cả nhe. Em còn nhớ anh thường viết cho em câu: Em không chỉ là người yêu. Mà, em chính là tình yêu? Tạm biệt... Hẹn sẽ gặp lại em.
Tony

Đọc xong thư, em quá thất vọng, đau đớn kinh khủng gục mặt trên bàn phím khóc nức nở. Hai con gái ôm lưng em, cả ba người cùng khóc. Từ lúc đó, em mới biết cách học theo “cái sách bất hủ cuả anh”, em điềm đạm khôn ngoan lặng lẽ suy tính, biết tàn nhẫn lạnh lùng hơn, (những thứ nầy em lãnh đạm dấu kín trong tim, tuy ngoài mặt em vẫn lo đi chợ nấu ăn, ân cần săn sóc anh, tận tụy chu toàn hết bổn phận). Kẻ nầy đã vinh dự chiến thắng tình cảm nông nỗi quá tệ ấy! Thân phận con người, sự kính trọng, tin yêu, danh dự, lòng tự trọng: khiến em mệt mỏi tột cùng. Định mệnh thật trắng trợn, cay đắng, vô tình đến tàn nhẫn phản bội hai người. Một cuộc tình có lẽ thật lâu dài, (49 năm tròn “dang díu” cố giằng co níu kéo chắp nối trên mail, trên phone, trên thực tế) tri âm tri kỷ, say mê đắm đuối yêu nhau nhất. Em xót thương dày vò, ân hận… hối lỗi, ray rứt lẫn mến yêu anh, và thương yêu các con lắm.

Bỗng dưng hôm nay toàn diện bể vỡ sụp đỗ tan tành, vĩnh biệt trong đắng chát bão bùng! Cứ tưởng cuộc tình sẽ thắm thiết trường cửu. Nào có phải như vậy! Vì rằng tình yêu “chàng” trao cho “nàng” là con dao hai lưỡi đâm lút cán vào trái tim người chân tín, đã bùng vỡ máu tươi. Em ví mình như con bò, anh là con rắn cùng uống chung một dòng nước yêu thương. Ấy thế mà con bò khi uống nước, thì ưu ái cho nhân loại sự sống bằng máu thịt chính mình và sữa tươi. Còn con rắn khi uống nước, lại phun ra nọc độc, con rắn ấy chính là anh: Tân Tỵ sanh vào tháng 6 oi ả, nóng kinh hồn!

Bây giờ anh trở thành cái bóng đen lem luốc lu mờ, không sôi bỏng trong quá khứ, cũng như ở hiện tại và tương lai. Lần cuối cùng, nếu quyết định sai nữa; là em hư mục, ân hận suốt đời! Khi nhận ra quá khứ, hiện tại, tương lai của người yêu dấu chả tốt đẹp gì, anh vĩnh viễn không bao giờ xoá sạch lỗi lừa gạt -mọi người và riêng em- cần được tha thứ. Quá khứ không hay ho, do từ anh tự bôi tro trát trấu thành vết chàm nám khắc lên mặt anh mất rồi, không bao giờ anh kỳ cọ rửa sạch trong tâm thức người thân. Anh chỉ là con chim sẻ muốn bay bổng lên cao để hóa thành con phượng hoàng, thì trước tiên nó hồn nhiên đập cánh xuống. Khốn thay, nó vụng về phành phạch vỗ cánh đập xuống vũng bùn nhơ, nay con phượng hoàng hoá thân thành con quạ lửa hung ác gớm ghiết, mà ai khi trông thấy nó, cũng lấy ná bắn, hoặc lấy đá ném cho chết; bởi vì con quạ chỉ đem đến điều bất hạnh tai ách, điềm xui xẻo đến mọi người!
***
“Đứt tay một chút còn đau.
Huống chi nhân nghiã lìa nhau, sao đành”.
Vậy mà… “tình ly thân” của chúng mình… (nói ngắn gọn thật sự chia tay vĩnh viễn từ ngày July 4/06- Independence Day). Một ngày đại lễ lịch sử tôn qúy cuả Hoa Kỳ, toàn dân long trọng kỷ niệm tuyên ngôn độc lập. Ngày cả nước Mỹ hân hoan sung sướng vui vẻ hạnh phúc chào mừng (federal holiday), họ tay trong tay nườm nượp đi lãng du rong chơi các nơi trên du thuyền, đi xe lửa tốc hành vội vã gặp nhau, mọi nẽo đường bộ kẹt nghẽn vài chục triệu xe hơi trên freeway. Phi trường đầy ứ đông nghịt người ta xếp hàng hai, hàng tư... chờ đợi. Thế mà chính ngày nầy, hai ta ngượng ngùng run run ấp úng cúi mặt ngậm ngùi không còn giọt nước mắt, thấp thỏm khi “ký hiệp định phân ly”!
Thế nhưng… dù đi lô ca chân có chậm đến mức nào, rồi có lúc cũng đến đích, em dứt khoát thả những chiếc thuyền giấy chở đầy hoa tình yêu và hoa tim trôi ra ngoài khơi, mà có một thời dài ngoẵng em đã chân thành, ưu ái, nồng nhiệt tha thiết trân trọng trao dâng cho người… tưởng là “hồng nhan tri kỷ”. Tình ấy nay như đống tro tàn, tuy trong lòng em không mất đi ngọn lửa vùi trong tro nỗi luyến lưu một thời xôn xao nỗi nhớ. Mọi việc giờ đây hoàn toàn sụp đỗ, nhưng điều duy nhất em muốn nhắn với anh:
- Không nên coi thường sự chân thành khi em tin yêu anh, em thuỷ chung với mối tình “phân lià hợp rồi tan, tan lại hợp suốt 49 năm qua”. (Em nhấn mạnh -anh nên nghiền ngẫm suy nghĩ kỹ ở điểm: “em chỉ mang hình ảnh cuả chính anh đi khắp bốn phương trời, chung tình với anh suốt bao năm nơi lồng ngực nầy đây”). Tuy vậy, may mắn hết sức bây giờ em đã tỉnh ngộ dứt khoát thoát ra, tình cảm không cho phép mình tiếp tục dệt mộng trên bãi cát vàng với “phu quân cố nhân”. Để rồi, khi bừng tỉnh giấc mơ, nghe bạn bè nhắc tới tên “anh yêu” với nhiều điều kinh dị… hơn là sự tốt đẹp; khiến em ngao ngán. Bỗng giật mình, lạnh toát cả người.
Ôi! Cuộc tình tàn và thế thái nhân tình nào chỉ có thế thôi: em sợ ai kia dã man tàn bạo nhất thế giới, vì lòng người ấy hiểm ác nhẫn tâm khó lường. Em lạnh lùng ngoảnh mặt quay lưng không thích lún sâu vào con đường tình nữa, theo ý Trời mất rồi.

Lúc mới yêu nhau, “em tôi” đến với “anh ta” bằng hai bàn tay đầy ắp ân tình dạt dào yêu thương, khá nhiều rung cảm, chân thật và tín trung. Lúc lặng lẽ ra đi, em không hề có một lời oán trách anh. Chân thật mà nói em chỉ muốn chúng ta chia tay nhau lặng lẽ, êm đềm, không để lại trong lòng nhau nỗi muộn phiền, dày vò, oán hận, buồn đau. Em đã làm thế thật, em trần trụi -có còn gì nữa- để tiếc nuối, mà không buồn bã lặng lẽ ra đi trước mặt anh không hề mang theo một thứ gì. Nỗi đau thấm đẫm muộn phiền, rõ ràng khuấy động tim em, tim anh, oái oăm dằn vặt từng chặng, từng chặp, từng bước chân tức tưởi đong đầy chua xót, (do định mệnh trớ trêu quái ác trao vô tay mình), làm sao mình không đau xót chứ! em cố dằn lòng kéo carry on nhỏ xíu ra đi trước mặt anh và con gái, không ngoảnh lại. Nếu quay lại nhìn, em sẽ thương xót anh hơn, rồi thêm lần nữa… em không cương quyết chia xa anh, thì đâu vẫn hoàn đấy.

Anh thập thò rón rén đứng nơi cưả chính, bồn chồn lo âu, hồi hộp nhìn theo em mãi. Có lẽ anh sợ em trở lui giở trò đòi lại những gì đã biếu! Anh à, em không tồi và tệ như anh nghĩ đâu. Tình cảm là thứ bảo vật trân quý nhứt, hơn bất cứ vật gì trên cõi đời ô trọc, mà em không đòi lại, thì sá gì mấy chục ngàn dollars, vài lượng vàng và những thùng quà to tướng, những bộ quần áo & những đôi giày thời trang lẻ tẻ! Đó là chuyện nhỏ. Rời xa anh, em chỉ vỏn vẹn còn hai bàn tay trắng trơn, chiếc vòng ngọc thạch thuở xưa em đưa anh, nhờ anh đeo vô tay mình, lúc đó em thỏ thẻ:
- Anh đeo nó vô tay em, cố ý ngầm bảo tình chúng mình sẽ trường cửu, chuyển tiếp liên lũy như một vòng tròn, không hề phân ly, hén anh & chiếc nhẫn hôn ước mình đã sung sướng hân hoan lồng vào ngón tay đeo nhẫn cưới cho nhau -không còn. Mái tóc của em bóng mướt rất dài mà từng ngày anh hằng trân quý vuốt ve, cũng cụt lũn -do tự tay anh đã cắt trước mặt ba đứa con gái- anh trang trọng cất trong hộp:
- Lâu lâu nhớ em, anh đem ra nhìn, vì đó là thứ có thật từ chính thân em.

Từ thuở xưa, xa lăn lắc… tay em đã gài lộn hàng nút áo từ cái khuy trên tụt xuống hột nút dưới, lúc ấy em “mờ mắt vì sự chói lói huy hoàng sáng láng long lanh trong tình cảm”, em không hề thấy, và đâu có ngờ... nên hí hửng hân hoan vui vẻ vội vã chụp những tấm hình “kỷ niệm tình yêu anh và em”, mà em hằng trân quý, em trìu mến nâng niu niềm khát vọng yêu thương vô vàn dâng lên cao vút! Bây giờ những tấm ảnh ngày xưa xuyên qua thời gian còn in dấu sờ sờ “chiếc áo tình lệch lạc và xéo xẹo giưã hai hàng nút thắt”. Mối tơ duyên nầy sai: khi em và anh vô tình đi vào đời nhau, khiến toàn cái áo bị nhăn nhúm méo xẹo, không còn sự long lanh phù phiếm huyền trầm đầy xao xuyến và dạt dào rung cảm trong ký ức. Em gỡ hoài mà cái nút thắt quá bền và rất chặt không thể bung ra.

Nay nhận biết, em thật quá thất vọng về anh, anh nói một đằng làm một nẽo. Đời người như chuyến xe đò chạy qua những bến tạm trên con đường dài ngoẵng, có lúc xe êm ái bon bon lướt nhanh; cũng lắm khi nhấp nhô gập ghềnh bởi nhiều ụ đất lồi lõm. Hai ta gặp nhiều phiền muộn, chông gai thử thách, và sóng gió khi cởi trên con sóng, để vượt qua mọi trở ngại, vì hạnh phúc không tự đến từ những điều dễ dàng suông sẻ mình muốn. Em nghĩ mãi không hiểu, so với thời gian 49 năm qua, biết bao phen anh gieo cho em nhiều đau khổ tột cùng dai dẵng, em thiết nghĩ: anh có tài năng quá tuyệt và rất lạ: anh có thể thu hút & biến cuộc sống, tình yêu, con đường chúng ta đang đi dẫn tới đào nguyên, hay tụt xuống địa ngục. Bức tranh tình yêu ấy quyến rũ mê hoặc mình, đã mặc nhiên biến em trở thành kẻ nô lệ luôn gắn bó, cô vợ ngu dại nầy lầm lủi lẽo đẽo theo chồng từ những tháng năm quá dài. Bỗng mất.

Lần chia tay coi như vĩnh biệt, em chẳng còn gì phải bịn rịn, lưu luyến ngậm ngùi tiếc nuối. Mất 49 năm vượt thắng mọi vấn đề tình yêu, sự sống, hạnh phúc bằng chính đôi chân dần dà khoan hoà và khoan đãi bước tới tương lai, thì em phải quên dĩ vãng đáng buồn. Anh có đập đỗ mối tình mà anh từng tự hào khoe với bạn hữu: “Tôi yêu cô ấy rất nhiều, cô ấy là tình đầu cũng là tình cuối, ngoài cô ấy ra, tôi chẳng hề yêu ai, tôi nâng niu trân quý và mến trọng mối tình đó”.

Thì em chỉ ủ rũ muộn phiền ngả xuống trên mặt đất; như loài cỏ may, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ gà, cỏ gấu, cỏ tranh, cỏ mần trầu, cỏ lồng vực, cỏ mật, “cỏ bạc đầu” bị đàn ngựa dẫm đạp, nó vẫn có sự sống dẽo dai tự vươn lên mà bùng dậy. Thật tình em không thể hiểu sao chúng mình đã yêu nhau suốt từng bao năm qua, mà ta không thấu hiểu về nhau hơn tí nữa? Quá thất vọng để nhìn anh qua lăng kính ngã bụi vàng đường xa: Nay em mới “ngộ ra” một điều se sắt xót xa đau lòng: Hết lòng tạ ơn Trên! con chưa phải là người “xấu số”. Em không thèm tham dự cuộc đua, chả cần nghe lời đường mật của anh, em tủi hổ đi ra khỏi đời anh mà trở về “nguyên quán” khi tóc em và anh đã bạc, lưng còng, gối mỏi, đôi mắt không còn tinh anh. Tiền bạc, ước muốn tình yêu chân thật trường cửu, chưa phải là quyết định cuối cùng. Em nhận ra giá trị tình yêu ấy chỉ là bánh xe cũ rích lăn tròn như con số O rỗng tuếch. Dĩ vãng, hiện tại rồi tương lai là bánh xe thời gian chậm chạp có vòng quay khổng lồ. Anh không đáng được em yêu đằm thắm, em không thể nhân nhượng, bao dung tha thứ một người không biết hối cải.

Anh trắng trợn tàn nhẫn hẹn hò thề hứa với con đàn bà khác trước mắt người mà anh bảo là “anh chỉ có em, ngoài em ra anh không hề yêu ai”. Thì anh sẽ phải ôm lấy suốt đời sự lỗi lầm, ân hận, ray rứt và dày vò suốt kiếp. Dù mai đây lá trên rừng có tơi tả rụng, trăng có úa tàn, những ánh sao lu mờ, sóng biển có bốc hơi thành mây, thành mưa, thì em vẫn khẩn thiết cúi rạp mái đầu phủ phục xuống đất: "Xin Trời cao đất dày có hai quan thần linh đứng trên hai giá vai mình biên chép soi xét: Hãy tha cho con cái tiền duyên đớn đau, đốn mạt dày vò, đắng cay, đọa đày nầy. Thưa ông Trời"!

Vậy, anh cũng chả nên hậm hực tức tối, nói xấu và trách móc oán giận người vợ bạc phận làm gì! Lúc xưa chúng ta yêu nhau thắm thiết, nồng nàn, say đắm, để rồi bây giờ anh nhẫn tâm đào hố chôn sống em (-không phải chỉ một vài lần trong sự phẫn uất cuả cuộc sống rã rời ly thân-). Rồi sau đó anh lại móc em lên, tiếp tục gieo cho em sự phiền muộn tột đỉnh, khiến em vô cùng đau đớn, xót xa, chua cay, thương cảm, ray rứt. Anh nỡ xem em như con cá sống nằm trên thớt, anh nhẫn tâm cắt từng khúc rồi rắt thêm muối tiêu tỏi ớt vô. Anh không nhớ rằng: con cá cũng có xương. Vậy nên, anh hãy cẩn thận vì có khi xương cá sẽ đâm sâu vô cuống họng, khiến anh đau đớn vì xương cá mắc hoài trong cổ nghen anh. Hẳn nhiên anh thừa nhận là em rất hiền, có nhân ái, em chỉ biết lặng lẽ khóc thầm và an phận; do vậy mà khi anh quen mụ Li Lac kia, anh trở mặt e-mail mắng nhiếc xỉ vả em đủ điều, anh còn nhớ nhỉ? Anh à, anh không nên coi thường tình yêu chân thật cuả em, mà bôi nhọ lỵ mạ em đến vậy.
Lần ấy, vì còn yêu anh nên em tha cho anh đó. Chẳng qua… từ trước tới nay, em luôn luôn học theo cái sách bất hủ của anh Tony Hoàng Năm đã từng dạy cho em Thụy Mi Ayana những chiêu độc đáo. Em bắt chước anh từng món, từng món… từ cái giá đau đớn tột cùng căm phẫn đó thôi. Ngày ấy em có phần nhẹ nhàng, có chút nương nhẹ trả hết cho anh. Nhưng anh à, đừng trách em -sẽ không có lần sau khả ái nhẹ nhàng nữa đâu nhé-, (nếu anh nhẫn tâm chà đạp lên sự đau khổ và tự ái cuả người anh từng yêu), thì em không nương nhẹ đâu. Lúc bùng sôi từng cơn uất hận cháy lòng lên cao độ, thì không biết sự phẫn nộ trong tư tưởng và hành động của em sẽ ập đến lúc nào. Nếu hôm nay phải trả cho vụ việc anh gây tổn thương cho em từng chút, từng chút… -trong quảng đời ngắn ngủi còn lại (cuả anh) ở buổi xế tà; từ bây giờ cho đến lúc anh chết- so ra, thật không quá lắm đâu.
***
Rồi một buổi kia, (cách bốn năm sau khi chúng ta ly biệt), vô tình em lại nhận được tin anh “than thở kêu gào” trong e-mail lần nữa:
My name’s Tony
Have you received my Circular letter? You are stunned… aren't you? But it is true. I'm stricken by disease and mostly by painful (prostrate) problem and chronic (asthma). I don't have Medicar... and we are... out of mean to be hospitalized. I need urgent financial HELP. I'm waiting patiently for YOU to HELP me... I'am calling out for ALL HELP. Please do answer me.
Your friends and brothers.
Tony
Chuyển ngữ:
Tôi tên là Tony,
Các anh chị có nhận được thư của tôi chưa? Chắc anh chị rất ngạc nhiên lắm phải không? Nhưng đó là sự thật. Tôi bị một chứng bệnh rất nặng “ung thư”, chủ yếu là do tuyến tiền liệt (Prostate) và hen suyễn (Asthma) kinh niên, tôi cần phải nhập viện đễ được điều trị, rất tiếc tôi không có bảo hiểm về sức khoẻ (Medicare), và cũng không có tiền bạc. Tôi rất khẩn cấp cần sự giúp đỡ về tài chánh. Lời kêu gọi của tôi đến tất cả quý anh chị, và rất mong được sự giúp đỡ. Xin vui lòng trả lời tôi.
Bạn của các anh chị và anh (cuả các em)
Tony

… Nay, em đã có cuộc sống mới. Nếu còn -chút tình chăng- với anh, hy vọng em còn sót lại tí dư vị qua tình "bè bạn" mới lạ, & xíu xiu tò mò? Tuy nhiên, bỗng dưng em nhận được tin anh, qua những hàng nhắn RE: kia, đôi ba lần em phân vân xót xa tự hỏi:
- “Tưởng anh có tí hạnh phúc" với mụ đàn bà Lí Lac thứ bao nhiêu kia tại Việt Nam, cớ sao hôm nay anh nhiều lần E-mail & PM (Private Messages) cho em vậy!? Cây kim có một đầu nhọn, một đầu có lỗ, cuối đuôi kim kéo theo sợi dây dài đằng đẵng giống thời gian. Nếu cây kim lỡ chích sâu vô tay anh, đụng xương, đụng gân, nỗi đau lê thê khôn nguôi, thì đau lắm, có khi tật nguyền lặt lià lặt lọi suốt đời anh ạ. Thì ra… “mụ Lí Lắc” gốc Quảng Trị ấy đến với anh không cho anh “cái mỏ lết mu ruà” gì, ngược lại càng khiến đời sống anh (vốn dĩ trước kia phẳng lặng an vui sung túc khi có “mẹ con chúng em”); bỗng dưng bây giờ anh mang vác đủ thứ âu lo, đeo thêm gánh nặng, chìm lĩm theo “hủ mắm nêm khổng lồ bu bám trên lưng”. Anh bận rộn, chao đảo tinh thần, bần hàn lo lắng đủ mọi phương diện đến thế sao!? Em nghĩ rằng: tự trong cùng đáy tâm tư, anh đã tiếc nuối và dật dờ trong sự dày vò hối hận, ray rứt vô vàn bức bối, (khi anh rời xa gia đình mình đã có một thời đầm ấm yên vui: nơi đó từng có em có các con, ấy thế mà anh bỏ lỡ cuộc sống tươi đẹp sung túc từ bao năm qua cùng mẹ con em). Phải không nào!?

Anh à, bây giờ... muộn mất rồi! anh không nên làm thế nữa, anh không còn là "thần tượng thời vàng son" cuả mẹ con chúng em. ANH đã chọn con đàn bà ấy, thì anh không nên làm họ buồn, càng không nên liên lạc với người xưa. Ngược lại vị hôn thê đầu đời nầy khinh anh, bởi vì anh đã nhiều phen lừa dối em và con gái về hai phương diện: Tình và Tiền. Anh cũng hiểu từ xưa nay em chưa bao giờ gọi anh là “ông” và xưng là “tui” nhỉ! Nhưng đây là lần đầu tiên và là lần cuối TÔI không bao giờ trân trọng & kính phục Ông.
Tuy nhiên, em nói đây với tất cả sự chân thật của người đối với tình người. Mai kia, em không muốn ngồi đây buồn bã, để nghe anh báo tin lần thứ mấy mươi là cuộc tình của anh hôm nay lại tan vỡ… Mà, thật sự em cầu mong anh giữ chặt bà nầy, bà kia, bà ấy…, (dù bà tình hờ "lòi tói" hay không nào cũng vậy nha). Anh đừng để thêm những lần tan vỡ, tội nghiệp anh! Em thương xót anh lắm, biết không! Dù sao, nay anh đã khá già cần có người "hầu hạ"! như anh đã nói chuyện phone ở lần em làm giấy tờ bảo lãnh anh du lịch qua Mỹ đó:
- [“Anh đã già, cần người phục vụ (như sợi dây lòi tói)” lo cho anh, chứ ai lo cho anh]!!!

Dẫu sao thì em tôn trọng sự lựa chọn không đơn giản và ích kỷ vụ lợi cuả anh, chỉ xin anh không nên coi bà ta là “công cụ lòi tói cũ kỹ & hư mục” đời mình. À, ra thế! Sẽ không còn ai thực sự chân tình đến với anh chia sẻ mọi điều, (như em: một hôn thê xa xưa nữa sao ta)? Thiệt tình em ứa nước mắt ngậm ngùi thú nhận em thương xót anh lắm! Sau những năm quá dài… nay em đã hiểu: cho dù con sói có rụng hết răng và lông, nó vẫn là một con sói già lầm lì ương bướng, ngoan cố đáng sợ, khiến người ta dè dặt xa lánh. Nếu anh muốn thành công trên mọi lãnh vực [kể cả “hôn nhân lờ tạm bợ cuả sợi giây lòi tói” ăn vờ ngủ vẩn với tình hờ và hủ mắm nêm của mụ Li Lac. (Ồ! Ở Cali có con đường mang tên Lilac thiệt mà anh), -như anh từng nói-, anh phải học cách “dấu nhẹm bản lãnh con sói già” trong tim. Anh không nên lập lại thêm lần thứ mấy mươi về sự tàn nhẫn “flirt” đùa cợt tình cảm với người khác phái, dẫm đạp họ ngả gục xuống trên mặt đất. Nhe.

Anh tưởng rằng mấy bà ấy thật tâm yêu thương anh (như em) sao? Anh đã “bị họ trấn lột” sạch sành sanh mọi thứ trần truồng, như con sói già rụng hết lông và răng chăng nữa. Vậy, anh có biết “mụ thợ săn Lilac ấy” bẫy con sói bằng cách cắm những cọc cán dáo lún sâu xuống đất, ngọn dáo bôi đầy máu chiả lên trời. Khi con sói đi qua rừng cây, nó ngưởi được mùi máu tanh, nó say mê vui thích đứng lại nhắm mắt liếm hoài máu trên ngọn dáo, liếm mãi. Khi nó bị ngọn dáo cắt đứt lià cái lưỡi nó không hề biết đó là máu cuả chính mình, lúc tỉnh ngộ, con sói đau đớn ngửa mặt lên dưới ánh trăng tru hú vang động khắp khu rừng (như trong hình ảnh miêu tả về loài sói). Nhân đây, em kể hầu anh nghe câu chuyện: "Có một nông thôn kia được một nhà triệu phú gọi đến, nhà triệu phú nói:
- Anh đi dọc theo khu đất nầy, nếu anh đi tới đâu, thì đất đó là của anh. Tôi cho anh.
Ông nông thôn rất mừng, ban đầu ông khoan thai bước đi từng bước, sau đó ông đi mau hơn, ngoảnh lại nhìn sau lưng mình thấy chủ còn đứng đó, ông không rảo bước mà chạy rất mau, nếu ông chạy xa chủ bao nhiêu, thì phần đất sẽ thuộc về riêng mình càng nhiều bấy nhiêu. Lúc cắm cây sào lên chỗ phần đất cuối cùng không thấy chủ nữa, ông dừng chân ngồi nghỉ. Tối đến, ấy là lúc ông phải quay trở về nhà như lời chủ dặn. Vì chạy quá xa, quá lâu, nên trời tối đen không thấy đường, khi mò đến gần nhà thì ông rất mệt, ngất xỉu, đứt hơi và chết. Ông ta chỉ nằm vỏn vẹn dưới ba tất đất.

Trong chuyện "mụ lòi tói Li Lac và Anh", có sự lợi dụng nhau đê tiện, thô bỉ, cùng “thủ thuật” tham lam cuả con sói, tên thợ săn, sẽ giống hệt người nông dân kia đấy. Hạnh phúc hay tàn nhẫn đây? Gieo “giống” nào thì gặt “nhân” ấy đã lạnh lùng dấn bước vô đời sống anh rồi, em không cười nhạo khinh rẻ lúc anh sa đoạ, vấp ngã rồi sụp đổ đâu. Có những người chỉ cần trìu mến nhìn vào mắt nhau vài lần, là có cảm giác ngất ngây, vững chí tin tưởng chung thủy yêu nhau say đắm kéo dài đến vô tận, là có thể tìm được một nửa kia của chính mình, như một cạnh sườn (hụt mất) của ông Adong mà có bà Eva. Khi em đã chính thức có được một chiếc xương sườn thứ 6 nơi hông trái, ở gần buồng tim của anh rồi. Thì hà cớ sao anh bị kẻ kia lừa, ăn cắp mất “chiếc xương sườn” vậy hở! Em chẳng hiểu trong lòng anh có nghĩ như em không? Bây giờ thân anh xiêu vẹo, suy sụp, cuộc sống ấy sao thảm thương chua xót thế nầy? Tội nghiệp anh biết chừng nào! Vũ khí của người chân tình tín trung thương yêu là sự say đắm đầy tin tưởng & lòng tự trọng. Vẫn khốn thay lòng tự trọng của anh bất hạnh hơn sự bất hạnh của em: Đó là anh đã bì bõm dày xéo dẫm đạp lên những vết chân cũ trong vũng bùn sình mà anh từng đi qua.

Em không thể khóc một cuộc tình đan trong mây, có lẽ qua thời gian bụi phấn bay theo gió tàn phai vỡ vụn, sóng và gió cuốn tình bay đi biền biệt trong không gian bao la, theo hàng nước lăn tăn trong khoé mắt trôi mãi trôi hoài ra ngoài. Nay em không thể khóc nữa khi nhìn anh bi thương, bởi vì nước mắt mình ráo hoảnh từ lúc nào, chẳng rõ, nước mắt bây giờ là thứ xa xí phẩm như rượu cạn kiệt xuống đáy chai. Để rồi hằng năm anh viện cớ nầy, cớ nọ… luôn ngửa tay xin tiền làm phiền em và nhiều người bạn phương xa. Em thật tình ao ước, mong muốn anh có sự sống tốt đẹp hơn; dù sao em vẫn có lòng nhân đạo vì chút tình riêng nghiã cũ, dẫu sao “tình cũ không rủ cũng đến” cơ mà. Một lần yêu thôi là suốt đời nhớ tưởng, huống chi mình đã có nhau gần như suốt cả đời người!

Biết anh ưa thanh nhàn sung túc, thật tâm ngay lúc nầy em muốn gởi nhiều tiền về giúp anh như thuở nào, vì em có thừa khả năng (khi chúng ta xa nhau, em đã về Việt Nam năm lần không muốn để anh biết, hoặc gặp anh. Em lui tới những nơi ông bà bô lão, trẻ thơ nghèo khổ ở vùng hẽo lánh xa xôi đang cần… “hảo tâm”). Hôm nay em cũng muốn tặng riêng anh nhiều hơn họ! (tất nhiên). Nói nào ngay thiệt tình bi giờ “em vẫn còn… muốn cho anh hơn thế nữa, nếu anh nhận lỗi mình cư xử không đẹp không đúng với em,
là em có thể…”. Nhưng các em, nhất là bạn hữu quyết liệt can ngăn, cấm tiệt, họ thừa biết “cái tẩy” anh ưa lừa dối gạt gẫm người khác nhiều phen. Họ bảo:
- Mầy quá ngu si đần độn, mê muội mất cả lý trí, (khi giúp người khốn nạn, chỉ biết ăn chơi đàng điếm, hắn chuyên lừa phỉnh bạn, hoang đàng). Tại sao mãi đến bây giờ mầy vẫn chưa chịu mở mắt ra, tỉnh ngộ hả? Đồ ngu! Bọn tao quyết liệt phản đối việc mầy giúp đỡ cho hắn. Ngu vừa vừa thôi.
- Thì tôi “thương người như thể thương thân” í mà.
- Nên để tiền đó giúp cho người thật sự cùng quẫn, nghèo khó, bệnh tật hoạn nạn, hơn là giúp kẻ mạnh khoẻ phây phây kia… chỉ biết chuyên “làm tiền người khác”.

Buồn thay mọi thứ huyền trầm phù phiếm nhanh chóng biến tan trong phù hoa phân ly rồi. Mất hết thật vẻ nhìn trìu mến, tư lự, bâng khuâng, băn khoăn ray rứt, xót xa dày vò liên lũy. Không còn gì cả! “anh của tôi” ơi! Từ hạt sương mọng giọt lung linh dưới ánh nắng rực rỡ, từ tình yêu lý tưởng nồng nàn, đắm say tin yêu mà em trân quý tôn thờ thần tượng trong giấc mộng hoài hương xưa. Giờ đây đối với em bập bùng chao đảo và rỗng tuếch. Chả là gì! Chẳng có giá trị ti tí mảy may hạnh phúc nào. Ngược lại nó dày vò bất tận là đằng khác. Nếu bây giờ em trở về với anh, có nghĩa là đồng tình dấu nhẹm những chuyện anh lừa dối các bạn, em và con gái, mà anh luôn sai phạm sao!? Tình yêu giống như chiếc răng sâu bị đau nhức, biết nó hư mà cứ tiếc, để đó, lần lữa không chịu nhổ quăng đi, thì mình sẽ đau nhức hoài. Nhưng mà, bây giờ… chẳng thà mình chịu đau một lần, nhổ quách đi, rồi sẽ hết đau mãi. Phải không nào, thưa anh?

Trong cuộc lột xác đổi đời, vĩnh viễn em buông xuôi hai tay, không thèm đem theo chút hành trang, cho dù những kỷ niệm ru tình vẩn vơ bé tí xíu, nhỏ nhất. Mặc dù anh từng nói: “Không có ai rộng lượng tha thứ, bao dung, kiên nhẫn chịu đựng, cần cù, chu đáo và hiểu anh trọn vẹn- như em”. Thiên đường hay điạ ngục chẳng ở nơi nào xa lắc, mà chính tại nơi trần gian đây, là do cách suy nghĩ, hành xử và hoàn cảnh của mỗi người trong gia đình. Em cảm thấy quá buồn, hổ thẹn cùng thất vọng não nề, chiếc “đồng hồ nô lệ thời gian & tình yêu giữa em và anh” không còn ung dung reo vui triền miên kêu tích tắc mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi tháng, mỗi năm… khi lên dây thiều nó dần dà kêu cót két, rột rạc, khô khan, rồi nhão nhoẹt nghe kỳ lạ và đứt phựt, chết hẳn, chết tiệt trước thời gian khi ta muốn vượt đến đích rồi.

Đúng ra, em đã cơ cùng gian nan lặn lội vượt qua được những ngọn đồi an toàn. Lúc xưa em ứa hàng nước mắt, cảm thấy sung sướng, hạnh phúc. Ngày nay em đơn độc vượt qua lưng chừng ngọn núi cao ngút to lớn sừng sửng chấn trước mặt, e rằng sức cùng hơi cạn, em không đủ khả năng kiên cường nhẫn nại bước thêm bước nào, khi đôi chân em vụng về rã rời run rẩy. Anh giống như ngọn núi lớn sừng sững chận đứng trước mặt, khiến em cảm thấy rùng mình sợ hãi và ngộp thở, em không thể ngoảnh nhìn lui phía sau, vì sau lưng em là một dĩ vãng dài ngoẵng có vực thẳm sâu hun hút. Mình đã bao phen bẽ bàng quay lưng với nhau, đối diện với vách núi đá cao ngất, và vực thẳm chênh vênh cheo leo sâu hoắm. Bây giờ làm sao quay mặt lại nhìn nhau, khi mình không thành tâm tôn trọng yêu thương người đối diện!

Anh giống như một quyển sách dày, em cần mở ra nghiêng cứu đọc từng trang, rồi nhắm mắt từ từ nghiền ngẫm suy nghĩ… từ ký ức xa xăm tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua, em ôm dĩ vãng để sống mãi với thời gian, lúc đó em mới thấy rõ, hiểu và biết hết ý nghĩa của những uẩn khúc buồn vui trong cuộc sống từ anh. Thời gian dài trôi qua, có cố gắng cỡ nào cũng chẳng thể ruồng bỏ quá khứ khi ngày qua ngày… quá khứ còn đeo bám theo mình, cho dù đi xa tới đâu nó vẫn hiện hữu, tồn tại. Em cứ tưởng bản thân có ý thức là mình chưa thể quên, ấy thế mà cuối cùng em đã vượt qua. Hôm nay chỉ mới đọc tới ¾ trang sách thì em nhận ra "chân tướng" cuả anh. Vậy thì, đối lập với tình cảm hiện tại là sự lạnh nhạt thờ ơ, để rồi em thừa bản lãnh giải quyết tình trạng nan giải hiện tại. “Quyển sách đời ấy” chẳng còn hấp dẫn, mối tơ duyên nầy sai từ thuở ban đầu trẻ dại (lúc chị Tư có “nhận định” khá chính xác, đứng đắn về anh). Lúc đó em không nghe lời chị khuyên can. Nay em chân thành hối lỗi, ray rứt dày vò. Phải! Bây giờ mới ra nông nỗi, ta đấm ngực tự trách thân: lỗi tại tôi mọi đàng, chớ trách ai.

Ngày xưa đôi ta ngồi ở cuối bờ hồ Xuân Hương, em thấy trên viền mi anh long lanh giọt nước, khi đó anh nói: “anh đã phóng lao, thì phải theo lao”. Nghe vậy, em ngẩn ngơ nhìn anh mà chẳng thể khóc. Quảng thời gian dài đằng đẵng trôi qua, anh che hai mắt, bịt hai tai hối hả chạy về phiá trước. Đến lúc anh mở mắt ra, thì dĩ vãng đầy ắp xô kéo anh tụt về ngỏ hẹp chằn chéo không lối thoát. Nào ngờ… khi anh “theo lao” để rồi sau bao năm, mũi lao ấy quay lại cắm phụp vô tim vô óc anh (kể cả em) có những vố đau điếng đến dại người. Thời khắc nầy nầy em mới ngộ ra mũi lao mà anh phóng đi đã và đang “sống” cùng anh. Em đọc mẫu đối thoại ngắn sưu tầm lượm lặt ở đâu đó: Một người cha nói với con của mình:
“Hãy nắm chặt bàn tay của con lại, nói cho cha biết con có cảm giác gì?”.
Người con nắm chặt tay: “Hơi mệt ạ”.
Người cha: “Con thử nắm chặt hơn nữa xem!”.
Người con: “Càng mệt hơn ạ!”.
Người cha: “Vậy con hãy buông tay ra!”.
Người con thở phào một hơi: “Thoải mái hơn nhiều rồi ạ!”.
Người cha: “Khi con cảm thấy mệt, nắm càng chặt sẽ càng mệt, buông nó ra, sẽ thoải mái hơn nhiều!”.

Bây chừ… em cố gắng... đã buông hết, nên an thư tự tại. Nhiều đau thương tinh thần trầm trọng ngút ngàn, thể chất sụp đổ đã qua, em có thể can đảm đứng dậy bằng đôi chân chính mình, nhìn thẳng vô mặt mọi người thân, anh ơi! Em nhếch mép nở nụ cười mãn nguyện! Thôi cũng đành. Vì dù “làm em” mình đã kiên trì nhẫn nhục bao dung chịu đựng và cao thượng nhất, em đã làm hết tất cả những gì có thể cho anh về tình cảm, sự chân thật tín trung, vật chất, tài chánh: kể cả sự rộng lượng, bao dung, tha thứ “vì anh yêu” quá nhiều! Cám ơn anh (chị, em v.v) ... dù sao cũng nhớ về tôi... Bây giờ tôi quá suy yếu, không thể nhớ lại xem, tôi đã từng biết anh (chị, em) chưa. Nhưng mà về tôi (với tôi) giống như chiếc xe lửa vội vã qua khỏi nhà ga, đi đến... (ai biết nơi đâu...). Tôi chỉ có thể chợt thoáng nhìn anh (chị, em) thôi...! Lòng khoan dung (sự tha thứ) và quá khứ (dĩ vãng) đã xoá mờ tôi khỏi cõi đời nầy (thế giới nầy). Amen.
Tạm dịch:
THANK YOU all the same for remembering of me...? I am now too senile to recall if I have ever known you... but to me it is like a train rushing past the station heading for (who know where). I only got a glimpse of you...!!! Forgiveness and past have erased me from this world... Amen.
Ngày nay em ngậm ngùi “rũ áo phong sương” :
Như cây lá… làm sao đếm
Cuộc tình rũ áo bên thềm. Thế thôi
Núi cao chân chồn gối mõi
Còn gì nữa đâu: những chiều trưa tối
Sông xưa nước cuốn lá trôi theo thuyền
Năm tháng qua không ưu phiền giữa thiên nhiên
Giờ trút bỏ, là nhẹ phần bão tố
Nhớ chuyện cũ làm chi mùa phượng đỏ
Theo dòng đời thả áo trôi đi
Bao phong sương chẳng mộng mị, có lạ gì
Nếu gặp gỡ mình trang nhã… đi khuất dạng
Âu cũng là duyên nợ trong định mạng
Trách chi năm tháng hững hờ
Em ra đi, ai điếng lặng trông chờ
Biết rằng nẽo ấy bơ vơ (*)
*
Tình Hoài Hương
(*) Thơ Tình Hoài Hương

July/4/2009
(Viết từ chuyện buồn cuả TM Ayana & PH Tony
*

Tinh Hoai Huong
12-23-2018, 05:57 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 33

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1545544437-canh dep 4.jpg
/uploadpics/mp3pdf_2018/1545543777-BaiThanhCaBuon-ElvisPhuong_3bhu.mp3
Du Hành Từ Vực Thẳm lên Đỉnh Núi Tuyết Palm Springs
Tình Hoài Hương
***


Do hơn nửa tháng trước, bầu trời Cali rất ảm đạm vần vũ mây đen nặng trĩu, trông thê lương và so với những mùa Đông năm cũ, thì năm nay tại Cali lạnh lắm. Sau đó đã mưa to tầm tã suốt bốn năm ngày đêm, nên nhiều vùng núi ở California đã có tuyết phủ dày hơn 5i. Đây là một “hiện tượng khác lạ” rất hiếm khi xảy ra ở vùng có mỹ từ “Cali nắng ấm”. Thế là đại gia đình Nị hân hoan hớn hở rù rì rủ nhau đi leo núi tuyết ở Palm Springs trên cao độ 8,500f, để chơi tuyết, trượt tuyết. Vì, ở Cali mặc dù trời rất lạnh, nhưng có mấy khi dự báo thời tiết chỉ cho biết mức độ tuyết dày cui như lần nầy đâu. Nếu không đi, thì uổng.

Sau khi năm gia đình đi mua nhiều thức ăn, nước uống, cùng đầy đủ những thứ khi chơi tuyết cần mang theo như: Ván trượt tuyết. Mắt kính Goggles. Giày loại trượt tuyết. Gậy. Mũ bảo hiểm. Găng tay. Bít tất. Khăn quàng cổ. Quần áo lót bó sát ôm thân thể, quần áo dày mặc ngoài. Áo lông thú mặc phủ bên ngoài. Khoanh dây dừa (đề phòng để kéo mấy người yếu từ dưới vực lên trên mặt bằng). Chúng tôi các con cháu tất cả 18 tên đã tụ họp đông đủ ở nhà Nị, họ hân hoan hớn hở vui vẻ sung sướng thoải mái du hành. Đoàn xe gồm 5 chiếc bon bon chạy từ các hướng khác, trong xe các cháu luôn hân hoan ca hát, từ xe nầy gọi phone qua xe khác cho nhau, hẹn ở tụ điểm đúng giờ quy định dưới cổng trạm gác đầu tiên, cách xa chân núi chừng ¾ ml.

Tất cả đã vui vẻ đến nơi an toàn, xuống xe mọi người đều thay đổi quần áo dạ len dày cui cần xử dụng lúc đi trượt tuyết. Họ nai nịt gọn gàng, mang giày, đội mũ lông, bao tay, mang sky trượt tuyết, vân vân... Tại dưới chân núi xa xa là Top # 1, nơi đây có một xe chữa lửa, hai xe cảnh sát, một xe hồng thập tự Ambulance có còi hụ báo động trên nóc, và lắp đèn tín hiệu. Trong ca bin có hai ghế dành cho tài xế, sau lưng tài xế là vách ngăn chia cách tài xế và khu dành riêng cho bệnh nhân. Khu nầy ở trên vách xe có treo hộp Band-Aid, tủ đựng đồ sơ cứu, bình oxy, máy hút đàm, giá treo dịch truyền, hai băng ca, có hai ghế dựa cho bác sĩ và y tá. Tất cả mấy xe kia luôn đậu trên parking lot, ngỏ hầu lo về việc an toàn cho du khách, hoặc nếu có chuyện gì bất trắc bất ngờ xảy ra, họ sẽ kịp thời có xe chở người đi cấp cứu.

Khi nhân viên kiểm soát giấy tờ tuỳ thân xong, họ hướng dẫn du khách qua phòng chờ khoảng mười lăm phút, thì thiên hạ xếp hàng theo từng đợt, từng tốp (tuỳ theo số thứ tự đã ghi trên tấm vé, để vào parking lot, rồi tại đó họ ngồi trên những hàng ghế chờ xe Bus. Cũng khoảng mười phút sau xe Bus đến chở cả đoàn lên tầng đồi # 2. Tại # 2, có bốn phòng mua vé: cả đoàn người thứ tự xếp hàng bước tới những bậc cấp của Tram-car chính, nơi đó có một cái sân lát gạch hồng khá rộng, đoàn lữ hành xếp hàng ba hàng bốn dài như “rồng rắn” lần lượt đi vô cổng Tram-car. Giá vé ở Tram-car đưa lên núi tuyết là $39/1 người lớn, người già bớt còn $22, trẻ em $17. Nếu chiếc tính ra, thì sơ sơ một ngày ở đây có thể thu vô tám chín chục ngàn, là thường, (ấy là hôm nay không phải holiday, hoặc weekend; mà thiên hạ lũ lượt kéo nhau đi chơi, dù phải xếp hàng chờ đợi đông hơn kiến).
Nơi cổng # 3: có nhân viên điều hành mở cửa cho từng người vô bên trong tram-car, mà các con cháu gọi là “khu phòng lồng kính treo lơ lửng khổng lồ".

Cái Tram hình bát giác toàn bộ làm bằng kính dày cui, ngó ra tám hướng dễ dàng thấy cảnh vật bên ngoài, cột bằng inoc chắc chắn. Tram-car lơ lửng lắc lư trong gió được nối liền với một sợi dây cáp to và rất dài, (to bằng cổ tay của người nam). Chúng ăn khớp sít sao với nhau bởi một cái móc câu ròng rọc to tướng, chạy từ trên đỉnh núi cao nối dài dài xuống mặt đất. Chiếc lồng kính khổng lồ này được trang bị những cây inoc to bằng cổ tay, nối dọc theo chu vi lồng kính là một lan can ionc tự động xoay tròn theo chiều kim đồng hồ (mỗi cửa kính từ dưới chân lên chóp lồng cao khoảng 8f, rộng khoảng 6f). Trong khoan lồng kính có thể chứa từ 20 đến 30 người lớn và trẻ em, cùng các dụng cụ cồng kềnh lủng củng lỉnh kỉnh do cá nhân mang theo.

Khi đoàn người "thám hiểm" đã vô trong lồng kính an toàn, thì hướng dẫn viên gài khoá cửa, chu đáo kiểm soát rất kỹ những ngỏ ngách. Nị run rẩy lù đù chọn một chỗ ngồi trên bệ, sát cây cần trục đặt chính giữa lồng kính hình bát giác nầy. Người điều hành đã đóng cửa phòng lái, ông bắt đầu mở máy cho Tram-car chạy, thì cây cần trục sau lưng Nị (đã ngồi đây), đang từ từ xoay vòng quanh theo hướng kim đồng hồ. Nhưng cái lồng kính khổng lồ tram-car chứa mấy chục người kia, thì nó xoay ngược lại với vòng xoay tròn của cái kim đồng hồ. Ngộ thiệt! Mặc dù thế, cả hai thứ nầy đều nhịp nhàng ăn khớp xít sao với nhau, không hề rung rinh, hoặc cọ xát vào nhau, không có tiếng kêu rột rẹt cót két nào, mọi thứ đều hài hoà êm ái, chẳng hề có tiếng động, cứ giống như mình ngồi ở trên sofa ung dung uống cà phê và xem phong cảnh tuyệt vời ở ngoài lồng kính vậy.

Duy có một điều: Khi đến một điểm đúng vị trí nhứt định của tầng núi nào đó, ví dụ như cái lồng kính đã lên cao độ 2000f, là nó sẽ "giao tiếp dây nối kha1c" ở với cao độ 3.000f ; thì tự nhiên nguyên cái lồng kính tram-car chứa từng ấy người, bỗng dưng lắc lư rung rinh chao lượn nghiêng nghiêng, giống như người đang nằm trên võng đung đưa. Cái lồng kính liền hụp xuống, dường như rơi xuống, nghe "cái rột", rồi lắc lư nhẹ nhàng vút vút bay bổng lên cao, như chùm bong bóng thả trên trời lúc có gió thì nhô lên hụp xuống. Mọi người Mỹ, Mễ và thanh niên thiếu nữ trai trẻ khác đứng trong lồng kính đều vui thích sảng khoái níu lấy nhau reo vui sung sướng "ồ" to.

Chỉ có riêng Nị mỗi lần như thế, là run lập cập, nhắm tít mắt, sợ mất hồn mất viá đến són đái, tim óc muốn bay lên chín tầng mây, hai tay Nị bấu chặt lấy thành ghế, thân thể lạnh toát, mồ hôi hột đổ ra như tắm. Úi trời đất quỷ thần ơi! lúc đó gan phổi ruột phèo mình dường như muốn bóc ra ngoài. “Đường tơ duyên” nối liền đất ở dưới chân đồi mịt mùng với đỉnh núi cao chót vót muốn chọc thủng màn trời, chỉ vỏn vẹn có một sợi dây cáp khổng lồ treo lơ lửng cái tram-car lắc lư chứa 30 mạng.

Nị sợ hãi, do trí tưởng tượng phong phú mà ra, ví dụ như: ngộ lỡ ra chuyến tram-car nầy lên, chuyến kia xuống, cứ liên tục như thế chẳng ngừng, sợi dây cáp sẽ nóng, sẽ sờn nhão, dãn, sẽ già rệu rạo, sẽ dứt... khi không có điện hoặc trục trặc… làm sao sửa chữa khi bị hư, vân vân… thì nó chơi vơi lơ lửng giưã chín tầng mây trắng ùn ùn bay, gió lồng lộng rít không ngừng bên man tai. Thật chẳng có gì bảo đảm an toàn! thì khi ấy làm sao nào? Nói nào ngay từ trong thâm tâm Nị lấy làm hối hận, lo lắng, bồn chồn, phập phồng run rẩy, sợ hãi không thể tả, vì mình cũng “quá date” rồi, mà còn xiêu lòng ham vui, nghe lời mấy con trai xúm lại dụ khị:
- Ba mẹ nên đi lên “đỉnh núi thần” vài lần cho biết, đó là cảnh ở trên “Đào Nguyên của hạ giới Mỹ”, rất ngoạn mục, không có nơi nào đẹp tuyệt vời bằng. Lần nầy có đông đủ con cháu sẽ nữa, khi “đời người có mấy gan tay. Hơi đâu cặm cụi cả ngày lẫn đêm”. Ba mẹ không đi với con cháu, sẽ tiếc lắm, uổng phí cả đời người, lại mang tiếng là ở Mỹ mà chẳng biết nơi mô tê chi rứa...

Bây giờ Nị ngồi đây tự dày vò, ân hận sao mình quá ngu dại trót “nghe lời đường mật” cuả con cháu, lù đù leo lên đỉnh núi tuyết làm chi, cho đến nỗi dở khóc dở cười. Thiệt là thân già khú đế, rệu rạo, cà tong cà teo, răng long tóc rụng sói cả đầu, chỉ thấy da bọc trốt, mà còn dại dột ưa thích ham vui! Thiệt tình “đường quang không đi, đâm quàng vào đường rậm mà dỡ khóc dỡ cười”.

Những khung cửa kính tram-car trong veo rất dày có trục inoc từ từ xoay cái lồng kính chuyển vòng quanh đi tứ phía: khi thì lồng kính nơi Nị ngồi xoay vô núi, lúc thì quay ra đất liền, hoặc thấy đồi tuyết bao la ẩn núp dưới vầng mây vàng. Nị hi hí hai mắt ra nhìn, cũng xuýt xoa công nhận sự phi thường do Thượng Đế tác tạo ra vũ trụ đẹp ơi là đẹp tuyệt trần. Y như Từ Thức lên Đào Nguyên lạc cõi thần tiên, ở trên mây nhìn xuống hạ giới lung linh diễm ảo dưới những lọn mây trắng ùn ùn bay, từng đám hoa tuyết xôm xốp lênh đênh lả lơi trong bầu trời giác nắng vàng chói lói rơi rơi. Nị có thể nhìn lên chóp núi, nhìn xuống thành phố xa xa, cảnh vật hùng vĩ, thi vị, bao la, mênh mông thấp thoáng dưới chân mình rất đẹp...

Nhưng Nị vẫn hãi hùng vì nó sâu mút tầm mắt. Thật là chóng mặt, xâm xoàng, rùng mình kinh hãi hết biết. Một cái nhà đồ sộ có vài chục tầng dưới đất, mà từ trên cao độ nầy, Nị nhìn thấy nó nhỏ như con rận, con chí. Đi lên thì ngợp thở như thế đã đành, lát chiều gần tối tram-car sẽ đi xuống dưới mặt đất, chẳng biết phải làm thế nào mà “bò” đây? Cầu xin sao cho mình không rệu xuống. Than ôi! Có lẽ do thế mà Nị chỉ là một người tầm thường, không thể trở thành một pilot khí phách đẹp trai hào hoa phong nhã kiên cường (như anh). Hoặc là một anh lính Nhảy Dù đỉnh đạt oai hùng bất khuất từng trải (như cháu Bảo), để có thể ôm mây lãng du vào không gian lả lướt, tự do bay lượn trên bầu trời thênh thang (cũng giống như anh), và (cũng như em) đã từng ôm ấp mộng quan san giong ruỗi sơn hà, giang hồ chu du qua bốn biển, đi khắp đó đây cho phỉ chí tang bồng...

Họ là những người hùng rất đáng trân trọng mà mình bội phần ngưỡng phục! Nhạc sĩ Lam Phương đã có câu "Em ơi! Nếu mộng không thành, thì sao? Non cao đất rộng biết đâu mà tìm. Đường đời mịt mù vạn nẽo về đâu. Mong chờ duyên kiếp đưa lối bắc cầu…" - Đúng là non cao đất rộng chẳng thể thấy đâu mà tìm… ra một lối thoát, cho nên bi chừ em mới “chết chìm” trong mây. Ha ha hả...

Đùa tí cho vui vẻ cả làng. Bây giờ Nị xin kể tiếp: Lúc mọi người: Mỹ, Việt, Tàu, Nga, Thái, Lào, Ấn Độ, Campuchia… đều hân hoan tấp nập vui vẻ bước ra khỏi Tram, họ đi từng hàng dọc theo hành lang lót thảm đỏ mịn và dày dệt hoa văn đủ màu. Tứ bề thì một bên là núi đá cao dựng đứng, ngửa đầu lên mỏi cổ vẫn không thể nhìn thấy chóp đỉnh núi đá ở đâu. Những hòn đá khổng lồ nằm kề bên những hòn đá tự nhiên vừa vòng ôm. Hay những viên đá to to nho nhỏ tròn tròn, dẹp dẹp, hoặc những viên đá tảng hình thể lạ mắt, nhưng tất cả đều rất đẹp (hình thù tự nhiên không do bàn tay nghệ nhân trau chuốt). Nhìn những loại đá
độc đáo pha màu sắc không trắng không đen, mà ngà ngà nâu nâu dễ ngắm ưa nhìn, khiến Nị nghĩ đến những câu ca dao khá hay của Việt Nam mình thâm thúy tuyệt vời:
Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn
Giận thì em nói vậy, chứ dạ còn thương anh.

Nị cúi xuống nhìn vực thẳm sâu hun hút, chỉ thấy điệp trùng ngọn cây xanh tươi um tùm và núi tuyết bao bọc tứ bề. Trong nhà khách khá rộng có máy điều hoà, bên tay phải lồ lộ ra một nhà hàng chênh vênh mọc bên mép đá phủ đầy tuyết đóng chặt thành lớp băng dày cui. Mấy con đường uốn lên uốn xuống quanh co từ ngoài nhà hàng ra balcon đều bám đầy những ụ tuyết dày và cao. Một bên là vách núi lồi lỏm dựng đứng, ba bên khác là vực thẳm, có nhiều tầng lớp đá cheo leo nhô ra góc núi, núi trên cao chồng lên núi dưới thấp, núi chênh vênh lưng chừng lơ lửng. Cứ thế núi len lỏi trong đám cây tùng bách, đan quyện những cây sồi chập chùng xếp lớp lớp tầng tầng, ngút ngàn, tạo thành những con đường ngoằn ngoèo len lỏi trong rừng cây khi đi xuống đi lên, nói chung chỉ có hai màu xanh của cây lá và màu trắng cuả hoa tuyết.

Trong phòng khách rộng nhiều ngọn đèn mờ màu xanh lục. các cửa sổ treo màn voan trắng khá dài, buông thả từ trên trần nhà xuống nền thảm. Tốp người trong đại gia đình Nị lên lầu ba để nghỉ ngơi, nơi đó là khu nhà hàng nổi cao chót vót chọt lên khoảng mây trần ùn ùn bay. Bàn ghế sạch sẽ, tứ bề tường làm bằng gạch, khung cửa kính dày. Chung quanh nhà hàng là vực thẳm, những đỉnh núi đá chen lẫn với giàn hoa tygon, bồn hoa hồng, cây bách, cây tùng, rừng dương nhọn hoắt đang rì rào vi vu reo, gió rủ nhau đùa giỡn xô nghiêng ngã những cành cây uốn cong. Khi có người nào đó mở cánh cửa lớn ở đại sãnh, để bước ra sân sau, mà xuống mấy con đường quanh co uốn lượn theo ven vực sâu lót những viên đá tảng đã đẽo gọt, thì những làn gió lồng lộng xoáy rít lên từng cơn hú, nghe ghê rợn khắp tứ bề.
Lạnh kinh khủng! Lạnh thấu xương! Nị và một số người Mỹ khác đang đứng xớ rớ gần cửa lớn (do gió thổi tạt vô nên bị đóng ập lại), suýt tí nữa thì lăn cù cù, may mà đầu Nị không va vào góc cái bàn sắt sát đó, nếu gió đẩy họ ra xa xa xí nữa, họ sẽ rơi tỏm xuống mé vực, thì toi mạng như chơi! mé vực nầy nằm cheo leo ở bên con đường đá độc đạo.

Lồm cồm ngồi dậy, chính lúc đó từ ngoài sân Nị nhìn vô bên trong nhà hàng dưới tầng hai, (là nơi dành để tiếp tân, triển lãm hình ảnh... bán quà lưu niệm, vân vân...) thì Nị thấy ông xã đang lồm cồm lết lết từ hành lang tới chân cầu thang, anh mò vô ở băng ghế dựa, rồi anh nằm vật lên đó, cánh tay thòng xuống, một chân gác trên thành ghế, một chân sà xuống sàn nhà. Nị hoảng hốt đứng lên loay hoay chưa biết làm sao. Lát sau có đứa con trai chạy xuống tầng trệt, con lại nhảy lên những bậc cấp ở tầng hai ngoài sân, (nơi Nị đang dòm vô ô cửa kính). Thấy mẹ, con nói:
- Hồi nãy ba đã mệt, muốn xỉu. Bây giờ không sao. Con đã khám cho ba, thì biết ba không việc gì. Do ba "dị ứng với cao độ í mà". Mẹ đừng lo.
Trước khi đi chơi núi tuyết, ông xã bị cảm nhẹ, nhưng các con nài nỉ:
- Ba đi chơi cho vui, chứ ở nhà một mình buồn!!!
Nhìn chồng mặt xanh như tàu lá mà run, Nị nói với con:
- Con cứ đi trượt tuyết với họ. Để mẹ trông chừng ba cho.
- Dạ. Có gì mẹ gọi phone cho con nhe.

Người ta đông như kiến, cánh cửa kính to dày ở tầng hai, dù có muốn mở thế nào, cũng phải có sức mạnh mới kéo ra được. Nhưng hôm nay cánh cửa ở tầng hai đã khoá, vì gió lùa dữ dội. Nên Nị chạy ngược xuống phía cửa tự động dưới tầng hầm, nơi nầy kín gió hơn, chung quanh có ba vách núi cao bao bọc. Mọi nơi (của ngôi nhà) đều có hai lớp cửa kính dày cui, một lớp cửa tự động ở ngoài, và một lớp cửa bình thường ở bên trong kính rất dày, cũng là nơi để cho tất cả mọi người dễ dàng đi ra đi vô, mà không sợ có gió lùa hút mình ra ngoài mé vực.
Nị vô tầng hầm, rồi chạy lên lầu hai, và tới bên ông xã. Mặt mày anh tái méc, môi khô rốc, tróc lở, anh nhắm mắt, một tay gác lên trán, hơi thở yếu ớt nhưng phập phồng dồn dập. Nị nghiêng đầu cúi sát xuống trên mũ len, kêu to tên anh. Ông xã lừ đừ mở mắt lim dim, phều phào:
- Anh không sao, em để yên anh nằm nghỉ chút xíu, là khỏe ngay í mà.

Mặc người ta đi qua đi lại, ông xã vẫn chiếm cứ một khoảng rộng, nằm chình ình ngay cù đơ trên ghế dựa. Tuy cảm thấy thật chướng mắt, nhưng Nị ngồi kế bên lo lắng bồn chồn vuốt lưng anh, Nị định gọi nhân viên cấp cứu, thì ông xã mở mắt, dường như thều thào:
- Mỗi lần anh nhìn xuống chân núi, là cảm thấy quay cuồng, chóng mặt muốn ói thôi, chứ chả phải việc gì.

À thì ra ông xã rất sợ độ cao. Ngộ ghê! đã hơn 40 năm rồi, bây giờ mình mới chưng hửng “khám phá” ra điều bí mật nầy. Vậy mà làm cho người ta hết hồn hết vía! Ai có ngờ anh thường vỗ ngực khoe với các cháu là “ông già gân” lại nhác như cáy, “đi lâu mới biết đường dài” nhỉ! Thảo nào anh ưa nói câu: “Chú bạo chú khôn. Tôi nhác tôi khốn (nhưng) tôi hãy còn đây”! Hi hi hi… đôi khi ông xã cũng phéc lác tỏ ra ta đây oai dũng, chả sợ hãi điều gì, thế mà anh lại quá sợ con chuột. Ấy mà mình cứ tưởng do “vì cô bán rượu” nên anh mới “say” chếnh vếnh như thế chứ:
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa.
Nị tủm tỉm cười đưa cơm hộp cho ông xã, nhưng anh không ăn, nên Nị đi mua nước và mua bánh mì Bate Chaud. Ông xã ngồi dậy, cả hai cùng ngấu nghiến nhai bánh mì, uống nước lọc. Khoảng một giờ sau, thì ông xã ổn định trở lại bình thường. Hai người dắt díu nhau đi xuống tầng hầm mờ mờ ánh đèn tím nhạt (lầu 1, chìm trong nửa hốc đá làm thành một bờ tường). Đi ra cửa nhìn xuống vực thẳm phủ đầy tuyết đông cứng thành những con đường trơn láng, y như lướt trên mặt băng, Nị thấy có những người té lăn cù cù, chổng tay chân lên trời. Vậy mà đám trẻ khoái chí vỗ tay reo cười ha hả. Nị nghĩ cũng vui vui mà sợ khá nhiều, sợ e nguy hiểm. Nị bấm camera quay phim chỉ được mươi lăm phút, không dám tới gần lan can nhìn mọi người nhỏ tí dưới vực sâu.

Ông xã không dám xích ra gần tới hàng rào ngăn cái sân gạch và thung lũng, anh mới chụp khoảng mười tấm hình, thì có đợt gió lồng lộng đột nhiên ùa về, rung ngả nghiêng những cây thùy dương trồng bên mé đồi, đọt cây thùy dương nằm rạp xuống hàng rào (ở cuối sân sau nhà hàng). Gió rít lên từng cơn. Thật lạnh! Lạnh xoáy vô hai mang tai đau buốt dị thường. Hai người vội vàng kéo nhau chạy vô tầng hầm rất ấm, Nị và chồng mệt mỏi rã rời leo lên từng bậc cấp, trở về chỗ cũ, là nơi ban nãy ông xã đã nằm thẳng cẳng trên sofa!
Ngồi chưa ấm chỗ, trong phòng khách kế lò lửa toả hơi nóng ra khắp tứ phiá, thì đứa con Út (là đứa to cao khoẻ mạnh nhứt) đang lừ đừ đem những thứ lỉnh kỉnh lên phòng khách, con mệt mỏi ngồi bệt xuống tấm thảm, mặc thiên hạ đi qua đi lại. Con thở hổn hển:

- Ba mẹ không thể xuống dưới vực thẳm đâu. Mấy anh chị không chơi gì hết, vì ở dưới đó ẩm ướt, quá lạnh. Độ dốc thì cao dựng đứng, con đường nhỏ hẹp mà ngoằn ngoèo, lại trơn trợt, khi đi xuống con nhích nhích từng bước, thì có đỡ mệt, nhưng lúc đi lên con phải lấy hai tay mà từ từ vịn xuống mặt tuyết láng bóng, bò lên. Nên con đi lên càng lúc càng mỏi mệt hơn. Đường rất trơn và lạnh lắm. Mấy anh chị và các cháu đi còn không nỗi, làm sao khiêng vác thứ gì. Con sẽ xuống dưới phụ mấy anh chuyển dần dần đồ đạc lên, vì trời đang đổ tuyết xuống dày và nhiều hơn. Nếu chậm, trời tối, là không kịp và càng nguy hiểm vì không thấy gì.
- Hãy cẩn thận đi từ từ nghen con.
- Dạ.
Ui Trời ơi! Cả một bầy tám đứa con, cộng với bầy cháu tám đứa nhóc nữa. Nghĩ mà run sợ hãi hùng, bồn chồn, lo lắng, băn khoăn, đứng ngồi không yên! Ngoài mặt thì lạnh nhưng trong lòng Nị quắt quay, y như ngồi ở trên lò lửa nung! Nị thì-thầm đọc kinh cầu nguyện, van xin cho mọi sự sẽ bình yên, con cháu và tất cả mọi người đang hiện diện bất kể là ai, sẽ vượt qua nỗi hiểm nghèo.

Mãi đến xế chiều khi hoa tuyết đã bay trắng xóa ngập tất cả núi rừng, thung lũng, gió ào ào lồng lộng tạt vô các khung cửa kính rít lên từng cơn hú vù vù. Các con cháu tất tả kéo theo những túi đồ đạc lết lết sau lưng mà thở dốc, hai hàm răng tự động va vào nhau kêu lụp cụp hoài. Họ rên hừ hừ, hai gò má lại đỏ au, mà đôi môi khô tái nhợt và run bần bật, tóc họ ướt nhẹp nước vì hoa tuyết rơi dán vô mặt, vô mũi, giống như họ đã tắm trong hồ, quần áo tả tơi xộc xệch. Thật là quá thảm! Vừa lên khỏi bậc cấp cuối cùng ở trong phòng chờ, không cứ gì đại gia đình nầy, mà ai nấy (kể cả Mỹ, Mễ, Thái…) đều nằm la liệt co quắp xuống nền nhà, thở dốc! Y như họ đang nằm vạ giữa bá quan văn võ!
Bé Matthew nói bằng tiếng Anh:
- Cháu không bao giờ đi đến đây lần thứ hai.
Bé Aidyn cũng ngọng nghịu:
- Em không thích đi coi tuyết.
- Phải. Chẳng thú vị chút nào!

Nị lần bước run run lẫn bồn chồn hồi hộp lo sợ, (như lúc ban đầu) vô tram-car để trở xuống chân núi. Khi an toàn dựa lưng vô góc "tường" (làm bằng kính), một tay Nị vịn vô lan can của tram, còn một tay Nị cầm camera quay liên tục. Quả thật phong cảnh buổi hoàng hôn từ trên đỉnh núi ngút ngàn, chập chùng uốn lượn hoa tuyết lẫn trong mây, trong núi đá phủ rêu quá diễm lệ. Lúc xuống giữa lưng núi đá, nhìn xuống thành phố bao la dưới bình nguyên, những ánh đèn lấp lánh nhiều cao ốc sáng từ mọi nhà, đèn xe hơi có dòng đỏ chạy ngược chiều, dòng vàng chạy xuôi chiều, tấp nập nối đuôi nhau xuôi ngược trên freeway, thật là một đất nước diễm ảo thiên đường, tươi đẹp, phong phú, tột đỉnh giàu sang và phù vinh.

Nị liếc nhìn quanh, thì hầu như Tây, Tàu, Nga, Mỹ, Việt Nam, Lào, Campuchia hay Ma-rốc cốc keng chi, cũng ủ rũ, bần thần, mỏi mệt khủng khiếp! Nhưng ánh mắt họ vẫn biểu lộ sự hân hoan, sảng khoái tự hào mãn nguyện, khi họ đã tận hưởng những phút giây lênh đênh trên không trung tuyệt vời hoa mỹ, trong giang sơn cẩm tú mà thiên nhiên ưu ái đặc biệt ban tặng cho nước Hoa Kỳ diễm lệ. Xin cám ơn Trời.

Về phần ông xã, sau khi đi chơi núi tuyết đến nay đã nửa tháng qua, ông xã còn ốm đau do thời tiết, do khí hậu, hay môi trường sống bị ảnh hưởng cái cảm cúm cuả miền Đông Bắc lây lan đã tràn về Cali, hay do gió hú thổi vù vù từ trên núi tuyết ở đỉnh Palm Springs thổi vô tim, vô óc, khiến anh choáng váng, quay cuồng, mà phát ốm yếu o ho hen, và nằm vạ từ đó đến ngày hôm qua mới lôm côm bò dậy? Hở ông xã? nằm lì chi lâu vậy mà run cầm cập, ngủ li bì hoài, khiến cho em bị bệnh thật sự, bị lây anh từ bệnh cảm cúm bốn ngày nay, em rất đau, ho khan, đau đầu đau óc, đau ngực. Tết nhất sắp đến, gần kề… nhưng mắt mờ giọt nước, thương thân già khú còn dại ơi là dại… chân tay lỏng lẻo, vì ham leo núi tuyết.
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
01-15-2019, 12:31 AM
https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1547511114-CON DAO 2.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload_hqpd/hqpd116/1463011084-giua long dat me - truong vu.mp3
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương 35
CÔN SƠN
(Côn Đảo POULO CONDOR
còn gọi: Long Range, hay Côn Lôn LORAN)
Tình Hoài Hương
***


Côn Sơn Loran (Côn Đảo còn có tên gọi là Côn Sơn Long Range, hay xưa kia có tên gọi nữa là: Poulo Condor) với đường chân trời vẫn giao hòa nhịp nhàng thắm thiết cùng biển cả mênh mông bao la. Bầu trời xanh xanh, xam xám, nhàng nhạt, mây trắng cuộn từng lọn bồng bềnh, lênh đênh bơi bơi trong không gian ngút ngàn vô tận. Nước xanh lam đậm và tươi ánh, long lanh lung linh như quyện lẫn hoà tan vào nhau, tạo thành đường viền chỉ bạc lóng lánh tít đặm ngàn hải lý nơi chân trời xa mờ xa. Vào mỗi buổi bình minh hay hoàng hôn, mặt trời to to tròn tròn đỏ rực, nhúng lên nhúng xuống nhấp nhô đùa nghịch trong nước quanh Côn Sơn Loran. Mặt trời rạng rỡ vươn cao ánh bình minh, hay ánh tà dương chìm lặn vào chân trời đâu đó, đều quyến rũ tuyệt đẹp và da diết đượm buồm.
Côn Sơn an tọa tại vùng Đông Nam Việt Nam, được Pháp thành lập vào giữa thế kỷ 19, do kinh tuyến gốc từ đài thiên văn Greenwich ở nước Anh. Điều 224 trong bộ luật thời vua Gia Long xưa đã ghi: “Côn Lôn ngộ xá bất nguyên” (bị dày ra côn đảo, có đại xá cũng không thể về). Xa xăm! Mịt mùng! Đơn điệu! Lẽ loi! Diện tích đảo Côn Sơn trên tọa độ 8o 40” 57” Bắc & 106/o 36”26” Đông. Côn Sơn nằm giữa hai kinh tuyến- đi qua hai trục của trái đất, các điểm trên đó cùng một kinh độ: 106/o và 107/o36’ Đông với Sài Gòn; cùng một vĩ độ 8/o36’ Bắc với Cà Mau. Côn Sơn nằm ở cuối vĩ tuyến 9, trên mặt phẳng song song với xích đạo, nhìn ngang từ chóp Mũi Cà Mau ra hướng Biển Đông. Côn Sơn trực thuộc giám định từ khu Bà Rịa Vũng Tàu, trên đường bay 215km hay 116 hải lý. Tổng diện tích toàn diện khoảng 51, 52km2.
Côn đảo là một cù lao khổng lồ hoang vu dầm mình trong đại dương xanh thẳm, lềnh bềnh nhấp nhô bao bọc bởi đại dương bao la, bát ngát triều cường sóng vỗ lao xao. Bờ biển sạch nước trong veo tuyệt đẹp. Hải âu soãi cánh ríu rít nô đùa chao lượn trên những ngọn sóng bạc đầu. Gió lồng lộng luôn rì rào dưới hàng phi lao. Sóng cả xô bờ đập vào những mô đá gập ghềnh hùng dũng chạy lui chạy tới, tạo thành nhạc biển hùng ca bất tận, triền miên. Xa thật xa, thỉnh thoảng có những cánh buồm trắng nhỏ li ti, nhấp nhô trên sóng nước biếc xanh. Những cánh buồm ít khi vào bến đậu nơi đây. Thế nên, thuở xưa cụ Tiểu La Nguyễn Thành (1863-1911) đã làm một bài thơ có tựa đề: "Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn" được chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng dịch nghĩa:
Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
Mưa Thu gió Thu âm thầm làm cho mộng hồn ảm đạm
Tự ta suy đồi mà lòng chưa già cỗi
Có ai hăng hái mà chí vẫn đang còn
Gió mây biến đổi thật lấy làm lạ
Trời đất xoay vần chẳng cần phải nói
Mỗi khi gặp đàn thơ, treo cao ngọn cờ
Thẹn mình đánh trống qua cửa sấm
Và dịch bài thơ ấy như sau
Ngày nay năm ngoái đến Côn Lôn
Mưa gió trời Thu để đoạn hồn
Như tớ suy đồi lòng chửa chết
Ấy ai khẳng khái khi đang còn
Gió mây tráo chác trăm hình đổi
Trời đất vẫn xoay một quặng tròn
Cao ngất đàn thi cờ phất đấy
Thẹn nghe cửa sấm trống khua dồn (HTK)
Năm. Tháng. Ngày, giờ… ngày cũng như đêm lồng lộng sóng cuồn cuộn dập dồn, rì rào gió biển dìu dặt, lao xao. Từ trên phi cơ nhìn xuống vĩ mô, thì dưới những vùng mây lướt mây, trông Côn Sơn giống như một con gấu khổng lồ, dường như nó hờn dỗi phụng phịu quay lưng “làm ngơ” nũng nịu chẳng thèm nhìn về đất liền. Một phần “con gấu” đồ sộ ấy choài ra mé biển xanh ngắt, bề mặt “con gấu” ngâm mình trong nước loáng bạc, "nó" hướng ra biển Thái Bình Dương. Mũi trước của Côn Sơn mang tên con Chim Chim. Mũi sau tên là Cá Mập. Côn Sơn có một phi đạo nho nhỏ duy nhất ở Đầm Trầu chạy dài 10km từ sân bay tới huyện đảo. Sân bay bình thường và đơn sơ không có đài kiểm soát không lưu. Chỉ có vài cột trụ dựng lên mấy cái “ống gió”, cho phi công dễ nhìn một xí trước khi đáp, để hoa tiêu định được vị trí hướng gió mà thôi. Ô là là! Muốn di chuyển từ Côn Sơn đi về đất liền, thường thường người ta chỉ dùng phi cơ, ấy là phương tiện giao thông duy nhất nhanh chóng và an toàn tuyệt hảo lúc bấy giờ (1973).
Một bên là hàng cây bàng già nua, một bên kia là biển cả mênh mông sóng gợn dập dồn. Làng Cỏ Ống là khu vực gần phi trường. “Con gấu Côn Sơn” cúi nhìn mấy cụm đảo nho nhỏ lân cận của nó là: Hòn Câu. Hòn Bảy Cạnh. Hòn Bông Lan. Hòn Tài Lớn. Hòn Tài Nhỏ. Hòn Vung. Hòn Trứng. Hòn Trác. Hòn Tre Lớn. Hòn Tre Nhỏ. Hòn Bà. Hòn Anh, hòn Em. Cộng chung là có hơn 16 hòn đảo nhỏ tí xíu. "Hòn" thì như thế, mà "Bãi" cũng có chút độc đáo qua tên gọi: Bãi An Hải (hòn An Hải). Bãi Lò Vôi. Bãi Đất Dốc. Bãi Ông Đụng. Bãi Đầm Tre giống một cánh tay con gấu vươn chìa ra biển.
Trạm khí tượng cạnh hồ Quang Trung. Phi Yến. Hàng Dương... Bên phía Tây của hòn đảo Côn Sơn là: Thị-trấn nhỏ bé trồng rất nhiều cây bàng xanh um rợp bóng mát, đơn điệu, hoang sơ, khiêm nhường với những hàng quán lẻ tẻ, có số ít cư dân sống đời đạm bạc, khép kín. Đi xa nữa sẽ lên những trại giam tù chính trị (chuồng cọp). Trại biệt giam B2. Dãy nhà cuối cùng khá xa xa dành cho đám tù quân phạm… Những “ông” hạ-sĩ-quan, sĩ-quan, hay quân nhân bị phạt tù, từ 5 năm trở lên, thì ở đây… vân vân... Ai trong những nhóm tù phạm đó giỏi Anh-văn, sẽ được tuyển vào đài làm việc, họ sẽ được tự do đi lại trong khu doanh trại, ăn uống đầy đủ. Mỗi tháng họ cũng có ít tiền xài, được mua sắm thoải mái trong canteen của Mỹ. Thật ra, tuy ở tù mà họ còn “sung sướng” vô canteen ăn nhậu như ở “Đường Sơn Quán” thoả thuê ha!
Kế đến là hầm Xay Lúa. Cầu tàu 914. Cầu Ma Thiên Lãnh (nghe tên đã thấy rùng rợn bủn rủn cả người). Đến "thành phố buồn” mang danh nghĩa trang Hàng Dương. Đi mãi tận cuối “lãnh địa sầu muộn” ta sẽ đến Sở Củi. Nơi nầy, các tù nhân khổ sai đi vào khu rừng bạt ngàn để đốn củi, chặt cây, đem về cho trại giam. Côn Sơn có một doanh trại kha khá gồm vài ba dãy nhà. Gần văn phòng có mấy căn nhà nhỏ, để cho Trưởng-đài, Phó-đài, chuyên viên Y-tế xử dụng. Một dãy nhà khác dành cho nhân viên Việt Nam. Từ ngoài cổng đi vào, có mấy con đường tráng nhựa. Dãy nhà đầu tiên, là nơi làm việc của đài Phát Sóng, gọi là Loran (Loran gọi tắt của chữ Long Range). Đây là một trong ba điểm tam giác - để quân đội Mỹ định vị toàn bộ vùng biển Đông: Ở ngoài Trung có Tân Mỹ Lo Ran (ở ngoài hòn đảo Tân Mỹ). Phía Nam là hòn đảo Côn Sơn Lo Ran. Và, bên phía Tây có Sattahip (ở trên đảo tại Thái Lan) và dàn khoang Ocean Prospector về phía Đông-nam, cách xa đảo Côn Sơn khoảng 188 hải lý. Những nơi của đài phát sóng đây có nhiều cột antenna cao ngất trời xanh cả trăm mét.
Hôm trước cái bóng đèn điện ở Côn Sơn bị yếu xìu, nó cứ xìu xìu ễng ễng chớp chớp tắt tắt và “đứt bóng”. Sau đó liền có một chiếc phi cơ chỉ chở duy nhất một cái bóng đèn, và tốp quân nhân đi kèm trên phi cơ để “hộ tống một bóng đèn” từ trong đất liền vùn vụt bay ra Côn Đảo mà thôi. Bóng đèn rất mắc tiền thì ta không nói, nhưng mà… nhất là nó là "một vật chính" thật quan trọng cuả đài phát sóng. Nó bé xíu có tí ti, nhu mì duyên dáng mà cũng “le lói, danh dự” quý trọng kinh khủng chưa nào? Về vụ cái antenna nầy, có một lần bóng đèn trực trên đó bị cháy. Ông Trưởng đài vội vàng lên phòng báo tin với cả đoàn nhân viên:
- Suốt ngày nay tôi sẽ bận leo lên cột antenna, để thay bóng cái đèn bị cháy, tôi lắp vào đấy cái bóng đèn mới. Hôm nay tôi bàn giao toàn bộ đài lại cho anh Tony trông coi. Nếu có người liên lạc vô tuyến từ đất liền ra, anh cứ trả lời nhe.
Nói xong ông Trưởng-đài mời Hoàng Năm, Tom (thư ký tiếp liệu), và một anh phi công nữa, cùng đứng đó chăm chú nhìn (chứng kiến để ký nhận). Chính tay Mike mở cái hộp carton ra, có nhiều lớp giấy tốt bọc lại. Mike dè dặt và thận trọng từ từ mở đến mười phút mới xong những lớp giấy. Sau đó, Mike nhờ thư ký tiếp liệu làm biên bản, để mọi người hiện diện tận mắt chứng kiến, rồi cùng ký tên vào. Ông trưởng đài từ tốn đóng dấu lên tờ giấy xong, ông bỏ trong tủ lớn khoá lại. Rồi thì Mike thay bộ đồ phi công màu vàng. Mike mang găng tay, chân đi ủng cao, đầu đội mũ bảo hiểm, vai đeo theo túi haversack to nặng. Đó là những sợi dây an toàn. Cuộn dây nhợ lớn móc bên hông quần Mike. Mike tự bước và móc vào cột antenna, anh ta từ từ leo lên. Sau lưng Mike là một ba lô nhỏ, mang cả café, coke, và sandwich anh đã làm sẵn được bỏ trong ziploc. Anh làm việc trên top cột antenna rất lâu, mãi đến 17:30’ Mike vui vẻ huýt gió mới từ từ tụt xuống đất. Nghĩa cử ấy về sự tận tâm chu đáo trong tinh thần tận tụy làm việc có trách nhiệm thật cao quý của người Mỹ, khiến Năm khâm phục, Năm sực nhớ đến bài thơ "Đập Đá Côn Lôn" của cụ Phan Châu Trinh (1872- 1926) khi cụ bị tù đày ở Côn Đảo, có khác chi Mike bây giờ:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lỡ núi non
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước
Gian nan chi kể việc con con… (PCT)
* * *
Trước khi ra Côn Đảo, tháng tháng, ngày ngày... mỗi buổi sáng Tony (Hoàng Năm) chỉ có việc lái xe hơi đến điểm hẹn, chú tài xế chở anh vào bệnh xá sắp hàng giữa sân, chờ khám bệnh. Đứng xớ rớ chút cho “có lệ làng”, rồi anh chuồn! Sau nầy, anh vào trình diện tại đại đội hành dinh Không-quân, anh được giao nhiệm vụ “cai quản” độ hai mươi người, thuộc đủ thành phần. Có tên đào ngũ. Có tên thặng số linh tinh. Có tên lính kiễng. Trung đội “ruồi ô hợp” ấy chỉ có hai người sĩ quan, là Năm và Thiếu-úy Tâm. Chả hiểu sao Tâm bị truy nã về tội đào ngũ? Trong khi Tâm còn ở trong bệnh xá rành rành thế nầy nè!?
Nhiệm vụ của Tony Năm: Sáng sáng cho họ ra sân, sắp hàng, điểm danh, anh báo cáo lại cho Thiếu-tá Chỉ-huy-Trưởng. Cho họ đi vòng quanh doanh trại lêu bêu cúi nhặt vài cọng rác, nhổ vài cây cỏ mọc ven lề đường, nhặt tàn thuốc lá vứt vào sọt rác. Thế là xong. Tony Năm lại cho họ đủng đỉnh vào sân xếp hàng, điểm báo, ung dung đọc vài tin ngắn. Rồi anh ra lệnh cho họ tan hàng. Hàng tháng, họ vẫn an nhàn phây phây lãnh lương. Hàng qúy, vẫn có người đến làm lại sổ sách đàng hoàng (lũng đoạn tài chánh của chính phủ một phần lớn là: do kẽ hở to tát nầy). Năm nằm ở đây từ giữa tháng 4-1968, đến tháng 6–1968, thì nhận được lệnh:
- Phải chuyển “quý anh” qua bên Tổng Y Viện Cộng Hoà để nằm. Bằng mọi giá, phải cho những người “an nhàn phơi phới” như thế nầy giải ngũ. Vì trong một cuộc thanh tra bên bộ Tổng Tham-mưu thì anh và viên Trung-uý kia, đều "không" có tên trong danh sách Không-quân, họ cho là “tụi nó” đã đào ngũ bên Không Quân rồi?! Trời ơi là trắng trợn và dị hợm! Thế mới chết. “Hai anh tướng con” vội vàng co giò chạy qua bên Tổng-y-viện Cộng Hoà nằm chơi xơi nước. Và, phải làm cách nào đó để được phép chính thức giải ngũ, mà có ăn lương hợp lý. Xét về cánh tay, và chân của Năm bị gãy, thì nay cánh tay đã tạm ổn. Chân phải đi đứng chưa được vững, hầu như bị tật luôn rồi. Nghĩa là khập khễnh chút chút. Nhưng, cứ coi như bình thường, kể như lành lặn chưa đến nỗi phải đi theo kiểu chấm và chấm phết, hoặc tản bộ điệu cha cha cha... thì làm sao giải ngũ đây? Ông Thượng-sĩ ở bệnh viện, cảm thương anh đã rỉ tai bảo nhỏ:
- Chỉ có cách: tạo ra bệnh suyễn, thì anh mới có thể giải ngũ.
Thế là từ thời điểm đó, Năm bắt đầu hút thuốc phiện. Anh theo bọn “lính kiễng” thương binh sung sướng nhàn hạ, “nhàn cư vi bất thiện” đi ăn chơi xã láng, hút xách khá nhiều. Mỗi ngày, sau khi làm những công việc nhàn hạ vô duyên của một quân nhân ung dung đi lượm lặt ba bốn cọng cỏ ăn lương, Tony Năm cùng bọn “lu la” kia lủi nhanh vô nhà tên Xì Thẩu ở Chợ Lớn, ông ta chuyên cung cấp bàn đèn, thuốc phiện, và sa đoạ. Giá cắt cổ kinh hồn. Trong mắt anh đã nhìn thấy nỗi quằn quại của một người bị tước đoạt mọi quyền hạng sạch trơn, vô nghĩa, trần trụi, khỏi cần bộc lộ niềm đớn đau phiền hận qua ngôn ngữ, cử chỉ. Mà, trải dài ra sự mệt mỏi, khinh mạn, cùng sức chịu đựng lì lợm. Như màn voan xám đục giăng mây đen luôn vây kín, từ mọi phía trên đỉnh sương mù.
Sau thời gian buông thả đời mình trong đau buốt chán nãn tột cùng, Năm muốn “quay đầu là bờ” ổn định cuộc sống nên anh đã lập gia đình. Tưởng rằng “đã yên” nào ngờ… gia đình Năm “lủng củng lình xình” chả mấy vui vẻ hạnh phúc tốt đẹp gì, càng rất đau buồn! Thời gian nầy anh đã được giải ngũ. Ở nhà Năm quá chán bà vợ, bà là dân thiếu học mà ưa quậy và phổi bò, bà ưa gây đủ thứ chuyện ồn ào trên trời dưới quận. Phần chính do Năm chán nãn chuyện gia đình đến tột cùng. Phần muốn đi xa nhà, Năm nghĩ: “Thà xa nhau, để mà gần nhau hơn. Chứ ở cận kề, ngày nào "ông xã với bà xệ" cũng có... “gấu ó” tưng bừng sóng gió, đay nghiến, dằn vặt xỉ vả nhau, thì khổ tâm lắm. Nhất là khi các con còn bé tí, mà tụi nó vẫn biết lo sợ, biết buồn, biết khóc, biết bịt hai tai mỗi lần cha mẹ chúng hung hăng "hùng hồn" cùng nhau ẩu đả to tiếng không ngượng mồm, khiến chúng rất “hết hồn hết vía”.
Ngày ngày anh thất thểu đi tìm một việc làm, tìm mãi… cuối cùng có được một việc ở công ty điện thoại hãng FEC của Mỹ. May mắn là Tony có người bạn làm trong FEC của Mỹ ân cần giúp cho anh có dịp đọc qua tập tài liệu. Hôm thi trắc nghiệm Anh-văn, ban giám khảo hỏi Năm những chuyện hóc búa, ví dụ phải trả lời như:
- * Trận động đất kỷ lục gây thiệt mạng nhiều nhất từ trước tới nay xảy ra vào năm 1557 ở Trung Quốc. Nơi khu vực nơi người dân sống trong những hang động bằng đá. Núi đá ấy sụp đổ, giết chết khoảng 830.000 người. Nơi có nhiều động đất và phun trào núi lửa nhất trên trái đất là quanh Thái Bình Dương, thường được gọi là Vành đai lửa Thái Bình Dương, gây ra các vụ chấn động và nung nóng trải dài từ Nhật Bản tới Alaska và Nam Mỹ.
- * Đại dương lớn nhất trên trái đất là Thái Bình Dương, bao phủ một diện tích rộng 165 triệu km2, lớn hơn gấp hai lần Đại Tây Dương, có độ sâu trung bình là 3,9 km.
- * Nơi duy nhất có sông băng chảy qua đường xích đạo là núi Cotopaxi ở Ecuador, có sông băng duy nhất vắt qua đường xích đạo. Dãy núi Mid-Atlantic nằm dưới biển gần như chia đôi toàn bộ Đại Tây Dương từ Bắc tới Nam. Iceland là nơi dãy núi ngầm này nhô lên khỏi mặt biển.
- * Điểm tận cùng của nước Mỹ về phía Đông là đảo Amatignak, Alaska. Điểm xa nhất về phía Tây là Pochnoi Point ở Semisopochnoi, Alaska. Điểm xa nhất về phía Nam là mũi phía Nam của đảo Hawaii. Điểm xa nhất về phía Bắc là Point Barrow, Alaska.
Tony Năm ghi nhớ, nên anh đã vượt qua giai đoạn thi khó khăn nhất, Năm được tuyển chọn, thì ra họ đã cố ý trắc nghiệm tâm lý, kiến thức và trí nhớ dẽo dai. Được làm việc, nhưng với điều kiện là Năm phải làm việc ở ngoài đảo Côn Sơn. Vui vẻ lên phi cơ bay ra Côn Sơn làm việc, anh cảm thấy thật hào hứng thoải mái, tự do tung tăng về đủ mọi phương diện. Tuy nơi đây có hoang vu vắng lặng và da diết buồn thật.
Ở Côn Sơn không bao lâu, nhưng anh được nghe, và chứng kiến nhiều chuyện không thể tưởng tượng, thật thú vị. Nói ra chả ai tin nỗi. Vì họ không tận mắt nhìn. Năm và Tiến ở chung một căn phòng xây rộng lắm. Còn những chuyên viên nước khác như: Phi, Đại Hàn, Đài Loan, vân vân... thì ở chung một nhà khác. Mỗi nhà đều có phòng tắm nước nóng, nước lạnh. Phòng có máy lạnh, máy giặt, máy sấy, vân vân... Tức là tuy ở ngoài đảo nhưng đầy đủ tiện nghi “sảng khoái” như ở đất liền. Có điều là “tụi mình” không thèm giặt, cứ cho đám quân phạm gần đến lúc mãn hạn tù sẽ được phóng thích ít tiền, là xong hết.
Còn một đám tù khác phục vụ trong nhà ăn. Có đám phục vụ làm vệ sinh trong phòng ngủ, trong toilet. Họ làm công việc lặt vặt trong doanh trại để chờ ngày trở về nhà. Ôi! Tóm lại, họ gồm đủ mọi thành phần: Từ những “anh” sĩ-quan ngổ ngáo, từng bắn giết mấy người, đến những “em” binh nhì hung hăng ném lựu đạn cho chết cả sòng bài, để lấy tiền vung vít xài hoang. Cả thành phần đào ngũ, giết người vì giành gái, nóng giận đánh lộn với cấp trên, say rượu, vân vân...
Tuy nhiên trong thành phần kể trên, có Trung-úy Kỵ là Biệt-kích Dù đóng trên Pleiku, anh ta bị tù về tội: Lấy AR-15 thẳng thừng ria một loạt, chết hết ba ông Biệt-động-quân say rượu. Vì, mấy “ông tướng kia” trong cơn say túy lúy, chỉ “muốn xàm-xỡ” với mụ vợ “ông thầy” (của Kỵ mà thôi!)!! Dù họ chưa rờ mó chắm mút xí xi nào với “ngài phu-nhân” trét phấn tô son, mụ chưng diện lòe loẹt, đỏm đáng, hở hang khêu gợi quá lố, mụ ưa phô bộ ngực xề xệ độn nòng coi phì nhiêu ra, chả trách ai mà không thích lom lom dòm. (Chớ chẳng phải họ muốn xàm xỡ với vợ của mình, dù vậy Kỵ bỗng muốn dợt le, nổi máu “yên hùng” tào lao chi địa lên cao độ như rứa mới ác)! Kỵ bị ra tòa án binh lãnh 20 năm tù giam khổ sai. Cậu ta ân hận thì đã… ra Côn Đảo mà… ngồi.
Hằng ngày, Tony Năm làm việc sát cánh Mike, nên cũng rành về các thủ tục quản trị trong văn phòng. Công việc của anh mỗi ngày ở Côn Sơn là: Kiểm soát và làm Time sheet cho sáu anh nhân viên bảo vệ. Họ đều là người Việt gốc Pakistan, Năm giúp Mike khi có việc cần. Hết giờ, Năm đi ăn uống, nghỉ ngơi, ngồi chơi rung đùi xơi cá, tôm hùm, cua, sò, ốc biển mệt nghỉ. Cá, tôm, cua, sò ốc, mực nhiều vô số kể núp dưới những tảng san hô, những gầm hang núi ngầm chìa ra biển.
Lần sau cùng, khi trở ra Côn Sơn, Tony Năm bị chứng ói ra máu, nên Năm báo với Mike (trưởng CÔNG TY). Ông Mike vội vàng gọi nguyên một chiếc phi cơ vận tải, loại C-47 Dakota từ Sài Gòn bay ra Côn Sơn, để khẩn cấp chở Năm đi về đất liền điều trị. Người Mỹ thật qúy trọng nhân mạng, dù Năm chỉ là một nhân viên. Năm nằm trong bệnh viện Hoa Kỳ Trird Field Hospital, chụp X-Ray, và làm đầy đủ thủ tục y khoa cần thiết, chờ đợi. Năm bị loét bao tử, có một vết to bằng đầu ngón tay, nên nằm đó điều trị hai tháng.
Thời gian nằm bệnh viện, ngày ngày bà xã vào thăm anh đã đành. Còn có con bồ cũ ghé thăm Năm. Có lần con nhỏ bồ đang tỷ tê nói chuyện hủ hỉ ôm hót, hôn hít, khóc lóc về cảnh gia đình nó cho Năm nghe… thì bà xã anh lù lù xuất hiện, bà ta nổi máu ghen la lối mắng nhiếc um sùm xong, bà ta xông tới một tay túm mái tóc dài của con bồ, một tay bà ta thoi đấm túi bụi lên mặt mũi cô ta đến xịt máu, khiến con nhỏ xanh mặt lủi mất. Năm đang nằm trên giường không kịp phản ứng, anh mắc cỡ cứ thộn mặt ra chịu trận lôi đình từ vợ trút xuống.
Khi Tony Năm khoẻ lại rồi. Lẽ ra, thông thường thì Hãng FEC cho mình nghỉ việc. Nhưng nhờ Tony Năm đã siêng năng làm việc; đồng thời được sự “gởi gắm” của Mike, ông ta chứng nhận Năm làm việc giỏi, Năm lại quen thân với một trưởng phòng người Việt Nam. Nên anh được nghỉ phép và ăn lương hai tháng. Trở lại Hãng FEC, lần nầy họ cho Năm vào làm tạm “gác cổng” ở văn phòng chính tại đường Phan Đình Phùng, Sài Gòn. Tuần sau, họ đổi vào Năm làm “trợ lý” cho một người nữa, anh lo cỡi xe cúp đi lên đi xuống, ra vào phi trường Tân Sơn Nhứt.
Gần cuối tháng 4-1975, Năm lấy xe Van của bà bồ già tên Tư Râu Rậm đi làm một bản đồ, trong đó Năm ghi rõ ràng tất cả địa chỉ, nơi nào nhân viên Mỹ đã, đang ở tại Sài Gòn, các Tỉnh phụ cận ở miền Nam Việt Nam. Thường thường người Mỹ ở tập trung, họ thuê bao nguyên một building nhỏ. Nếu ai có bồ bịch ở Việt nam, hay ai có vợ con từ Mỹ đem qua Việt Nam, họ mới ở riêng và ở cách xa nhau. Khi hoàn thành xong công việc, và giao cho “sếp”, cũng là lúc Năm đã biết về chiến dịch “White Christmas” – Nghĩa đen là “Chiến dịch di-tản người Mỹ”. Tony Năm vẫn ung dung và dửng dưng vì Năm chỉ thích sống tại Việt Nam! Ngày cuối cùng trước khi ra đi, ông “sếp” gọi Năm:
- Tôi sẽ ra đi về Mỹ gấp đây. Bây giờ, cái công ty nầy là thuộc về anh.
Năm chỉ cây dù cuả ông xếp lớn dựng ở cuối văn phòng, cười cười:
- Tôi không có ý định đó. Nếu ông cho… tôi chỉ xin ông “cây dù đen” kia, để làm kỷ niệm.
Năm giống như:
“Thằng Bờm có cái quạt mo.
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng Bờm chẳng lấy trâu…
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đồi một bè gỗ lim
Bờm rằng Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi… nắm xôi. Bờm cười” Ha ha ha !
*
Ừ thì… trước năm 1975, “Bờm” cứ thoải mái vui vẻ cười ha ha ha đi, để rồi… nếu sau ngày 30 tháng 4 mất nước, mà Bờm không biết lo giữ gìn đất nước quê hương Việt Nam cẩm tú trường cửu và vĩnh thịnh trong độc lập tự do, đó là hòn ngọc viễn đông vô cùng trân quý, và Côn Sơn (Côn Đảo Poulo Condor) thơ mộng tuyệt vời đầy rung cảm; “nếu” bị lọt vô bàn tay khát máu của Tàu Cộng… Thì, “Bờm” không còn cười ha hả nữa, mà Bờm sẽ hối hận ôm mặt khóc hu hu hu, là đã muộn mất rồi! Khi đất nước Việt Nam thân yêu nhuộm máu Trung Quốc, chúng trắng trợn ngang ngược vi phạm luật pháp quốc tế, dùng mọi thủ đoạn, vũ lực thô bạo cưỡng đoạt & thủ thuật cướp đoạt chủ quyền cuả Việt Nam, chiếm đoạt Hoàng Sa - Trường Sa - đấy là hải đảo huyết mạch nằm trên tuyến đường chiến lược quan trọng; rồi Đèo Ngang, Hà Tĩnh… cũng đi đon!
Thế nên Trung Quốc chủ trương bá quyền độc chiếm (từ eo biển Malacca, sẽ lấn đến các nước Đông Bắc Á, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản…). Lại thêm những vụ: dân Trung-quốc “núp bóng” người Việt bằng cách đưa tiền tỷ cho người Việt có điều kiện đứng tên mua nhà ở ven biển, sông ngòi, hải đảo… Họ mua hơn 246 lô đất ở Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, cụm đất rộng lớn nầy có thể chứa hơn 100.000 người, làm đặc khu cho người Trung-quốc ở. Đây cũng là kế sách di dân tuyệt hảo cuả Trung Quốc chuyển sang Việt Nam; (chính phủ Trung Quốc sẽ đỡ mang vác gánh nặng hơn một tỷ ba con dân nước họ). Thế mà số ít người Việt “chỉ đứng trên danh nghiã “hợp tác, hợp te, quản lý hờ” với “con đường tơ lụa”, còn mọi vấn đề khác đều do Trung-quốc sở hữu làm chủ; xây khách sạn, lập công ty thương mại nầy, công ty sản xuất, hoặc nhà hàng ăn uống, du lịch nọ! Đó là vấn đề chính yếu đáng sợ nhất!
Bây giờ nhà nước Việt Nam còn “làm” vụ động trời khác -đề xuất lập ba đặt khu “thuê đất” 99 năm- Hiện nay Trung-quốc đã “lọt thỏm” vô những yếu điểm quan trọng như Đà Nẵng, Nha Trang, Vân Đồn, Quảng Ninh, Bắc Vân Phong, đảo Phú Quốc… vẫn là điều phi pháp! Đê hèn. Ôi! máu sẽ chảy từ chân núi Bayan Har qua các dòng sông: Yanguoxia, Bapanxia, Daxia, Qinglongxia, v.v… (Tây Tạng, Trung Hoa), máu ngoại bang thắt bím đuôi sam tuôn trào khắp mọi nơi, trôi về trên non sông gấm vóc quê ta, là máu thấm đẫm đến từng chân tơ kẽ tóc dân Việt! là chúng nuốt chửng, nuốt trọn Việt Nam rồi – thì từ đây sẽ “sụp đổ & tàn lụi suốt bao thế hệ, từ đời chúng ta và hậu duệ sẽ đau khổ, ngậm ngùi cay đắng, xót xa cùng quẫn dài dài. Vậy thì người Việt (chúng ta) sẽ ngao ngán cúi gầm mặt, đớn đau lủi thủi quay trở lại trang sử buồn… trên những con đường đất nhuộm đỏ máu tươi rất gập ghềnh, hoang phế… (mà tổ tiên đã từng trải qua đầy gian truân khổ ải, lẫn chông gai. Ngỏ hầu cho Việt Nam “sống” vững mạnh tới bây giờ… mới có chúng ta).
Quyền lực vinh sang hiện đang “sống” ở trong tay đảng và nhà nước đó thôi, nó như một toà lâu đài rộng thênh thang và quá cao, nếu biết cách xây dựng nền móng và duy trì cho vững bền; thì trường cửu và vĩnh thịnh không cứ gì cho chính thân, mà đất nước và con dân cũng được hưởng nhờ “ơn mưa móc”. Bằng không... một khi chân móng và bức tường rạn nứt lung lay, ắt có ngày sụp đỗ và "chết". Vấn nạn nầy cũng tương tự như “dạy học” và “học tập” là chúng ta đi tìm con đường chính chắn, đúng đắn, đầy nhiệt huyết cho chính bản thân. Nếu sai lạc những nguyên tắc căn bản về: ngôn ngữ, xuề xòa cách phối trí điều hành, không tôn trọng về tự do ngôn luận, tự do cá nhân, tướt đoạt quyền công dân, cùng sự giáo dục không đoan chính, “cả vú lấp miệng em” bóp méo sự thật và chà đạp lịch sử cuả dân tộc Việt Nam từng quật cường đứng lên xua đuổi giặc ngoại xâm (như tổ tiên ông cha chúng ta đã từng thể hiện); sẽ khiến trí tuệ và hàng lớp thanh niên của đất nước đó bị băng hoại đào thải, hỏng cả một dân tộc, mất gốc và tàn lụi theo thời gian, làm hại cả dân tộc & thế hệ con em tương lai. Cớ sao đảng và nhà nước hiện tại, hay thằng Bờm có cái quạt mo ngày xưa lại dẫm chân lên vết xe cũ, trùng lặp một 1.000 năm đô hộ giặc Tàu lần nữa, mà không sáng con mắt ra? – hay vẫn do chủ nghiã: “100 năm trồng người”?
Lúc đó “dân nước ta” sẽ bị ngoại lai đô hộ, thống trị trong xiềng xích nô lệ khổ ải trầm luân suốt kiếp! Đã mất Hoàng Sa và Trường Sa rồi, không chóng thì chày đảo Phú Quốc, Côn Đảo, vịnh cảng quân sự Cam Ranh… & những nơi thuộc lãnh hải và lãnh thổ Việt Nam; là “yếu điểm quan trọng nhất, là pháo đài khó công nhưng dễ thủ”, cũng tương tự na ná -sẽ rơi vô tay bè lũ khát máu Tàu cộng cho mà coi- Thế thôi! Người Việt Nam từ bé chí lớn không thể hết nguôi từng cơn rúng động choáng váng, rụng rời, bàng hoàng rơi lệ, vì kẻ tội đồ bán đất nước.
Tàu chệt đã tràn ngập trên những vùng đất quan trọng ở khu phố Tây sầm uất, (thuộc thành phố Nha Trang). Tôi đến Nha Trang vào tháng 10 năm 2017 mà tưởng chừng như đang đi lạc trên đất nước Tàu đông đúc náo nhiệt ồn ào kinh khủng! Trong nhà ngoài phố đều xuất hiện người Tàu, chữ viết trên tiệm ghi toàn tiếng Tàu & khu Vĩnh Thạnh, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Trung – Thiệt tình! Cho đến bây giờ mà Đảng và Nhà Nước không có những “nhân sĩ trí thức” có thể chế, có ý thức trách nhiệm và tinh thần tự tôn dân tộc? vẫn “tập trung phá thối” không chịu mở mắt ra!? Trời ơi! Giờ phút lâm nguy nầy, mà đảng còn ru ngủ dân Việt trong chiêu bài mị dân bán nước: “Không có gì quý hơn độc lập tự do và hạnh phúc” sao ta? Hãy tỉnh táo lại đi. Chuyện đó “xưa rồi Diễm, xưa rồi Bờm” !!!
*
Tình Hoài Hương
Kính mời quý độc giả xem tiếp chương sau
Trân trọng

Tinh Hoai Huong
05-01-2019, 07:21 AM
Đôi lời phi lộ

Kính thưa quý độc giả tôn kính,
Truyện dài "Huấn Luyện Phi Hành" chỉ còn vài chương nữa là chấm hết.
Dạ thưa, tôi ghi chuyện "phi hành"... mà vô tình để "lọt mất" những vị anh tài Không-Quân rất phi thường, kiệt xuất khác còn hiện hữu, (hoặc đã tạ thế như quý anh: Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập.- Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà. Đại Uý Không Quân Trần Thế Vinh... Trung Uý Nguyễn văn Lộc, Hoa tiêu Phi đoàn 548 Ó Đen. Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan.- Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. & vân vân, v.v...), quả thật là một điều rất thiếu sót, và đáng trách (khi tôi viết riêng về ngành nầy). Vậy, xin quý vị rộng lòng thứ lỗi. Nay tôi mạn phép ghi tiếp một trong những vị anh hùng quả cảm, đầy nhiệt huyết cuả ngành Không-quân QLVNCH, mà tôi rất kính trọng và ngưỡng phục:

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1556693852-THIEU TA TRUONG PHUNG.jpg

/uploadpics/mp3pdf_2018/1556694056-Chuyen Chiec Cau Da Gay - Hoang Oanh.mp3
Cố Thiếu Tá Không Quân: TRƯƠNG PHÙNG
(tưởng niệm 44 năm Thiếu Tá KQ TRƯƠNG PHÙNG: 29/4/1975 -> 29/4/2019)
Tình Hoài Hương
***
***

Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, phi cơ đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
- Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!
Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo bốn chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, vì thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt có tới bốn chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
- Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc ấy vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình, rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
- Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:
- Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì, chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật!
Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom” - (một chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom”.
Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5, họ cho biết là:
- Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
…Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra (-không biết vì lý do gì-) !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần, vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện, nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại, bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây.
Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một. Tôi vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay! lúc ban chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37. (Sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà”, nó bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).
Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!
Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
- Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?
Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi của mình”, (vì thiếu cảnh giác, đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát). Đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lỗi lầm” ; tôi đã bật lên tiếng nói:
- Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
- Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?
Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh Phùng lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu, nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ! Anh Phùng nói:
-… Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
Rồi anh nói tiếp:
- Bất cứ giá nào, mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.
Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
- Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!
Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quầng lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay, anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
- Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…
Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh ở PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
- Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.
Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu (gần giống như răng các bô lão rụng, hu hu!... nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" í mà). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off", và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
- Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
- PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
- TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!
Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
- PL51 in hot và thả từng trái một!
Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
- Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
Tôi hỏi lại:
- Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
- Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
- Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
Khoảng 15, hai mươi phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
- TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, tôi nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
Anh Bảo liền cãi chánh:
- Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.
Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
- Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
- TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
- TL06, tất cả giàn pháo đã “clear” (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
- Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
Tôi được nghe Saigon Tower trả lời:
- Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!
Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã cho phi cơ đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút, nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".
Ngay lúc đó, trong lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng!
Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom, cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!
Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
- Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.
Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
- Số 1 thả bom “như để” . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
- Phượng Hoàng 11 Hold High and Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
- TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11. Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
- TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
- Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
- Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
- Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
Tôi vội bấm máy trả lời:
- Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!
Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp cho dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
- PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
- Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
- Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
- PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
- Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
- PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3 touch down"!
Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
- Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống (*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoẽo đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
- Nhảy dù đi…
- Nhảy dù…
- Nhảy dù nhanh lên…
Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng không hề muốn mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.
Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi… chờ hoài… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
- Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!
Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn.
Sau khi Quân-cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), tôi không nói được một lời gì với vợ con, (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
- Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!
Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, anh thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận. Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Anh oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).
*
Trần Hoài Hương
***
Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 ... 2010 và sau nầy:

*.- Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali.
*.- Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
*- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.
1.- Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi... (Trần Văn Phúc) vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỹ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới.
Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?
*2.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).
*3.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?
*4.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống (*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi)… màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em ở trong phi trường TSN đều thấy.
*5.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:
- Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. & Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. & Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.
*6.- Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (do uống xăng!?). Vì vậy thời gian tôi quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:
*7.- Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng-quân trong hai tuần lễ vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng sĩ quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu.
Tôi được hân hạnh cùng bay chung với NT Th/tá Trương Phùng vào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, dùng bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét).
Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh Văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV đặt rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống”, để bọn cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ VNCH, là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng. Vì vậy sau khi thảo luận, đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-tá Nhã:
- Đại-tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "truy kích".
Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
- Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm chờ đến sáng mai, mới có phi vụ rescue. Các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.
Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi. Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ. Vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần: “mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau”.
Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ, bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều, cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
- Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết: Tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.
Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ, với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống tôi thấy từng cụm năm ba tên cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải, và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
- Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).
Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot khi ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng, để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình, đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng, an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ, dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-tá Nhã đã lưu ý hai lần:
- Nếu có gì bất trắc, các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
Anh Phùng cười, rằng:
- Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh.
*8.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới năm thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.
*9.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).
*10.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ, đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy, đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn...
11.- Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:
- Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ, là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75 là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”)? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
- Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh, hở?!
Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
- Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng.
- Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
* * *
Tình Hoài Hương
Tác giả chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) và quý vị Không-quân đã có tên trong bài viết} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối, hắc ám của lịch sử Việt Nam.
* Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.
*
Tình Hoài Hương

Tinh Hoai Huong
06-26-2019, 07:02 AM
Huấn Luyện Phi Hành
Phần Thứ Ba
Chương Cuối
Photo by Hoài Hương

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1561532090-72.jpg

/uploadpics/mp3pdf_2018/1561532176-Cam On Em - Elvis Phuong.mp3
Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt...
Tình Hoài Hương
***


Một ngày đẹp trời ở miền California đầy nắng ấm, gia đình tôi có vinh dự đi coi Marine Corps Air Station Miramar – tưng bừng tổ chức đại hội ba ngày AIR Show tại San Diego, vào Thứ Bảy 01 tháng 10 năm 2011 – khai mạc từ 8:00am đến 8:45pm. “Hội chợ” hân hoan diễn ra đông đúc, náo nhiệt, vui vẻ, nhưng rất uy nghiêm, trật tự, có bài bản lớp lang thứ tự và vô cùng long trọng, để trình diễn các tiết mục phi diễn (bay bổng) như: Các phi công biểu diễn bay một, bay hai, bay hợp đoàn ba bốn chiếc, bay sáu chiếc, vân vân… với những đội hình máy bay đặc sắc có phi công tinh nhuệ tài hoa, bay bướm, lả lướt, để bay vi vút lả lướt vào thinh không quá ngoạn mục, vô cùng hấp dẫn, tuyệt vời... mà tôi có nằm mơ cũng không thể nào tưởng tượng nỗi.
Nhưng ở trang nầy, tôi chỉ ghi tóm tắt mấy phần chính tôi ưa thích nhất: Warbird Racetrack/ Individual Fly bys B-25 Mitchell. Navy Trainers Parade. T-33 Shooting star Demo. Dog Fight (F-6F Hellcat/A6M Zero). The Horsemen (Two F8F Bearcarts Formation Demo). Opening Ceremonies. Invocation/ National Anthem/Flag Drop... F–16 Viper Demo. Heritage Flight: P–51. Legacy Flight: F/A- 18 Super Hornet & F-16 Hellcat. AV-8B Harrier Vertical Take-OffF & Landing Demo. US Air Force: Thunderbirds. U.S Navy Bleu Angles. U.S Army Golden Kninghts... F/A 18 Afterburner Passes. Spectacular Fireworks Display.
Về các đội bay phi diễn cuả quân lực Hoa Kỳ, thì có hai đội bay chính thức vô cùng ngoạn mục, sống động và tuyệt vời như sau:
* 1- Phi đội Thunderbirds (“Chim Sấm Sét”) của Không quân US Air Force Air Demonstration Squadron, F-16C và F-16D thân phi cơ sơn màu trắng, xanh và đỏ, ở trước mũi nhọn cuả con tàu sơn màu đỏ, kế đến là vòng khoang màu trắng, cuối cùng là vòng khoang màu xanh dương, trên đuôi tàu màu đỏ, có ba vòng sơn trăng to, vừa, nhỏ, trên đuôi tàu sơn màu trắng, điểm rải rác những ngôi sao to nhỏ màu xanh dương. Số thứ tự cuả mỗi phi cơ được gắn giữa hông ở gần bụng con tàu (# 1, or # 2, ...), có hàng chữ United States Air Force ở mỗi bên hông, gần đuôi phi cơ. Gần cửa phi có hàng chữ SSgt Joe Reif ; TSgt Randy Hasenplug. Phi đội bay gồm 6 chiếc F-16, (và một chiếc dự phòng) hoạt động vào năm 1953.
Phi đội Thunderbirds trú đóng tại căn cứ Không Quân Nellis ở Nevada, gồm có tám phi công, thường biểu diễn đội hình bằng những pha tuyệt vời: trước giờ khai mạc, ban đầu có một phi cơ ung dung bao vùng bay tà tà từng đoạn, bay uốn lượn nhẹ nhàng trên bầu trời rộng thênh thang. Tôi cứ mãi nhìn ngắm chiếc phi cơ nầy, nên không biết từ đâu xuất hiện thêm một chiếc phi cơ nữa, hai chiếc bay chung nhịp nhàng khi lên khi xuống, lúc bay cùng chiều, lúc bay ngược chiều. Tôi đang mãi miết nhìn hai chiếc phi cơ F-16, trang bị máy tạo khói ở vị trí lắp súng 20mm, và coi hai phi cơ biểu diễn động tác úp ngược vào nhau, thật quá kỳ diệu. Thì từ xa xa có thêm hai chiếc phi cơ nữa nhập lại thành bốn chiếc, theo các kỹ thuật thao diễn cùng bay hàng ngang, hàng dọc…
Rồi bốn phi cơ toả ra, bay đi bốn hướng với những vệt khói trắng, khói xanh, khói đỏ... lả lướt kéo dài ngoẵng sau đuôi. Cuối cùng có sáu chiếc Lockheed Martin F-16 Fighting Falcon đồng loạt biểu diễn những pha rất ngoạn mục: khi thì bay vun vút như mũi tên bắn đi, lúc bay hợp đoàn theo hình diamond. Tiếp theo hai chiếc nầy bay ngược đầu, bốn chiếc khác bay vút lên cao, bỗng nhào lộn, hoặc đâm đầu xuống đất. Đôi khi hai chiếc kia bay ngược chiều mà sà xẹt xuống sát mặt đất. Thế rồi họ cho phi cơ đứng sừng sững tại chỗ (trên không trung không nhúc nhích) một thời gian lâu khoảng năm ba phút, phi cơ lại lắc cánh dựng đầu thẳng đứng mà vút bay lên cao tít chân mây.
Nhìn những chiếc phi cơ mỹ miều nầy xẹt qua xẹt lại chỉ cách xa nhau trong gan tất, mà không đụng nhau, tôi cảm thấy hồi hộp lo sợ rợn tóc gáy. Thật là tuyệt diệu, quá bái phục, hai tay tôi vỗ vào nhau đã thấm đỏ rần, mỏi mệt vẫn không thấy đau. Tưởng chỉ có mỗi mình tôi lo sợ điều kinh khủng không may xảy ra trên không trung, nhưng quay nhìn qua khán giả tôi thấy rất nhiều người cũng lo sợ như mình, họ bưng mặt quay nhìn xuống đất, hoặc la hét, họ hồi hộp, hãi hùng kinh khủng, lo âu biết dường bao, giống hệt như tôi.
* 2- Đội Phi diễn Blue Angels cuả Hải Quân: ("Những Thiên Thần Xanh") Blue Angels có căn cứ đặt tại NAS Pensacola (Florida) chuyên sử dụng các phi cơ Boeing F/A-18 Hornet. Blue Angels thành lập vào 21-7-1946, họ được tuyển chọn từ hai quân chủng Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến cuả USA. Tên chính thức cuả Blue Angels là US Navy Flight Demonstration Squadron. Thân phi cơ màu xanh dương, điểm chữ màu vàng nghệ, phi cơ mang số thứ tự ở trên đuôi cuả mình (# 1, # 3, # 6...), chữ US Navy ở giưã thân tàu dưới hai bên cánh, hai bên hông tàu là Blue Angles; có 2 bánh xe ở dưới đầu phi cơ, và bốn bánh xe ở dưới bụng gần đuôi phi cơ.
Tôi rất thích nhìn những chàng Thủy-quân Lục-chiến & Hải/Không-Quân Mỹ khí phách mà trẻ trung, khi họ ôm mũ bay đi vô trước hàng quan khách, tôi nhìn tận mặt, họ là những vị sĩ quan mang cấp bậc từ Đại-úy trở lên Đại-tá, họ không mặc các bộ áo G-suit, (là bộ áo chuyên dùng để chống lực G khi bay). Họ là những sĩ quan bên Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến điều khiển bảy chiếc máy bay, từ số 1 do Đội-trưởng, và bay dẫn đầu là Trung-tá Hải-quân Ryan Bernacchi) - đến phi cơ số 6 bay đơn phụ là Đại-tá Thủy Quân Lục Chiến Jeff Kuss & Phi cơ số 7 là phi công dự bị & dẫn chương trình do Đại-úy Hải-quân Tyler Davies. Họ vui vẻ tươi tắn, quả cảm và đầy nhiệt huyết, họ mặc áo quần bay màu xanh da trời đậm (Thiên Thần Xanh mà lỵ). “Blue Angels” khi biểu diễn Fat Albert… bay solo qua nhiều phi tác bay vun vút quá nhanh, tôi nhìn chưa kịp vì đường bay xẹt qua bầu trời tuy rất ngắn nhưng vun vút hơn sao xẹt, quá tinh tường, khá lão luyện.
Kế đến phi cơ đã bay theo đội hình diamond, (quả trám) khi họ bay ngang, lúc bay dọc, khi cho phi cơ vút lên cao, khi phi cơ nhào xuống đất toả ra nhiều hướng thành hình cánh hoa nở rộ trên bầu trời. Rồi mỗi phi cơ vừa bay vừa tự quay vòng vòng trên trời, như chiếc vụ xoay tít ở dưới đất… hoặc phi cơ bay ngược chiều, để “rủ” thêm bạn Blue Angels khác cùng thao diễn những nét nghệ thuật duyên dáng mỹ miều và độc đáo. Không biết từ lúc nào… bất ngờ những chiếc phi cơ nầy đã nhập cuộc thành đội bay Indian File (hàng dọc), hàng ngang. Khi thì bay giống như hình mũi tên phóng xuống gần sát đất, lại bay vút lên trời cao. Bay ngược đầu, bay vòng xoắn, liên tục lắc cánh, hụp lên hụp xuống, v.v… Họ bay gần sát cánh nhau chỉ trong gan tất, mà phi đội bay rất nhanh cùng những pha trình diễn xuất sắc, rất đẹp, tuyệt vời ngoạn mục qua sự lắp đặt thiết bị phun khói biểu diễn. Những chàng phi công trẻ có dũng khí can trường, đầy bản lãnh pha chút bay bướm uyển chuyển kinh khủng, tôi không thể nào diễn tả nên lời.
Đa số mọi người đều hồi hộp, hoảng hốt, lẫn lo âu, run rẩy, sợ hãi bưng mặt đồng loạt “ồ” lên, reo hò, cùng muôn ngàn tiếng vỗ tay hoan hô nồng nhiệt, để tán thưởng những chàng chiến binh dọc đường gió bụi biểu diễn phi tác lả lướt nhẹ nhàng uốn lượn như để, giống như họ làm trò ảo thuật "bay nhảy" trên không trung! Phần tôi rất kính trọng và mến phục những chàng trai trẻ đầy hiên ngang cường tráng, chuyên nghiệp, khá điêu luyện, hào hùng, gan lì, phóng khoáng, đầy tự tin, dồi dào kinh nghiệm, rất dũng cảm cuả toán bay phi diễn Blue Angels lâu đời nhất trên thế giới, họ có những đường bay ngoạn mục tuyệt vời, tinh tường đẹp mắt, quyến rũ và thu hút khán giả luôn luôn không ngớt vỗ tay trầm trồ ngợi khen, say mê hồi hộp theo dõi nhìn hoài không biết chán mắt.
***
Đoạn Cuối
Từ hôm tôi có vinh dự hân hoan đi xem Mcas Miramas biễu diễn những phi vụ khá thú vị, hào hùng, duyên dáng, bay bướm & lả lướt, quyến rũ tuyệt vời, cũng như khi tôi đã tận mắt nhìn, tay rờ Catapult, Canopy đang chưng bày triển lãm & những chiếc phi cơ trên bon tàu xong. Trở về nhà, ngày ngày đêm đêm tôi thẩn thờ suy nghĩ mãi... chỉ vì tôi ước muốn ghi lại ít trích đoạn về “Chương Trình Lãng Du Vào Không Gian” mà ngày xưa xa xôi... tôi quen “bạn đường” (có quan điểm, hoặc đồng cảm về vài phương diện nào đó & đi chung trên một đoạn ngắn), người đã tham dự khoá SVSQ Không-quân, rồi bạn ấy kể sơ sài, vắn tắt cho tôi nghe.
Sau nầy, tôi nhờ ơn từ quý anh Không-quân lão luyện đã am tường, dày dạn kinh nghiệm, chuyên nghiệp, có bản lãnh, họ từng phục vụ lâu năm trong ngành Không Quân cuả QLVNCH, họ ân cần, tận tâm hướng dẫn tôi nên tìm hiểu học hỏi, nghiên cứu thêm ở đâu... về một ngành chuyên môn phong phú, đa dạng, rất tuyệt vời mà tôi đặc biệt rất ưa thích. Thế nên câu chuyện về “Huấn Luyện” được tóm lược những điểm căn bản chính yếu. Trước tiên do những RE: từ quý anh Không-Quân kể như sau:
* Về việc tuyển mộ thanh niên vào Không Quân, chia ra nhiều giai đoạn: Trước năm 1969 (Việt Nam hoá chiến tranh) ứng viên phi hành phải hội đủ điều kiện:
- Học lực ít nhất Tú Tài.
- Từ mười tám tuổi (18) trở lên (không cần sự ưng thuận của người giám hộ).
- Đầy đủ sức khoẻ: cao trên 1m60, nặng 50kí lô, "pignet" tương đối, tai, mũi, họng, răng đều phải tốt. Nhất là mắt phải 20/20. Ứng viên được khám vô cùng kỹ lưỡng. Có thể nói là gắt gao. Như khoá của tôi số ứng viên khá đông, nhưng chỉ tuyển được bảy mươi người. Sau đó một anh ghi trong khai sanh tên Tây là: Robert Trương Công Thành, nên anh bị loại vào giờ phút chót. (Hỡi Robert… Tây ố là là Pháp ơi!).
- Khi được tuyển vào Không-Quân, tôi phải ký giấy cam kết phục vụ trong quân đội, hưởng quy chế hiện dịch, tôi không thể giải ngũ trước hai mươi lăm năm (25). (Ngoại trừ vi phạm quân kỹ, hay bị bệnh tật). Điều quan trọng nữa là trước khi học bay, hồ sơ an ninh phải tốt. Tuỳ theo tài khoá, các sinh viên sĩ quan theo học những lớp phi cơ quan sát tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, được gởi đi Mỹ học về các loại máy bay cánh quạt, trực thăng, v.v… (Trần Lương).
* Khoá sinh được thụ huấn tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Tại đây, tên của khoá được đặt tùy theo năm (thí dụ: nhập ngũ tháng 1/1963, thì tên của khoá học sẽ gọi là: khoá 63 A. Những khoá sau đó lấy tên kế tiếp: 63 B - 63 C ...). Ngoại trừ những khoá đặc biệt như khoá của tôi đông quá, thiếu huấn luyện viên dạy về môn Căn Bản Quân Sự. Nên họ đã gởi chúng tôi qua học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức vào ngày 10/9/1967, để học giai đoạn I. Ấy là khoá đầu tiên của Không Quân đã gởi tới trường Bộ Binh Thủ Đức. Học xong giai đoạn 1, bên trường Bộ Binh Thủ Đức không cho chúng tôi quay trở lại trường Không Quân. Buộc lòng chúng tôi phải "trốn" về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân). Hi hi hi...
Tôi đi Nha Trang 21/1/1968, gọi là khoá 68 A. Sau đó họ gỡ Alpha của chúng tôi ra, huấn nhục chúng tôi trở lại theo truyền thống của binh chủng Không Quân rất cá biệt. Hoàn toàn khác với quân trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, hay quân trường Thủ Đức. Trung Tâm của Bộ Chỉ Huy Sinh Viên Sĩ Quan Không-Quân Nha Trang gồm có cấp Đại Đội, Trung Đội... để dìu dắt Sinh Viên Sĩ Quan đàn em. Đối với Sinh Viên Sĩ Quan đàn anh, tất cả sẵn sàng "đón rước" khoá đàn em, (ngoại trừ khoá đàn anh, trên một khoá, thì không được can dự).
Vừa xuống máy bay, mới bước vào ngưỡng cửa TTHL Không Quân Nha Trang, ai ai cũng náo nức xôn xao, vui vẻ háo hức chờ đợi. Theo truyền thống của Trung-Tâm Huấn Luyện, ngày vào quân trường, là ngày quan trọng nhất đối với Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân, gọi là "buổi chào mừng Quân Trường". Bỏ xuống bên lề những quân trang lủng củng, khoá sinh tập hợp lại trên sân, điểm danh xong, là khoá sinh bắt đầu chạy bộ về sân cờ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân (vì không có Vũ Đình Trường, như ở các quân trường khác), tôi bắt đầu chạy vòng quanh doanh trại. Dĩ nhiên các Sinh Viên Sĩ Quan cán bộ chạy theo, họ hết lời doạ nạt, "hò hét rền vang” muốn bể cả Trung Tâm Huấn Luyện. Họ là những "hung thần hét ra lửa" bất đắc dĩ. Cho đến lúc đa số khoá sinh nằm gục, rơi rớt dọc đường, anh em nào còn chút sức khoẻ, thì dìu những anh em ngã gục kia về chỗ nghỉ ngơi giây lát. Chúng tôi tiếp tục bị hành hạ như thế, không kể ngày hay đêm. Ngay từ ngày đầu tiên, ai cũng nãn chí, thất vọng, rất nhiều người muốn bỏ cuộc. Vì vậy, ta có nên nói:
- Anh đã chọn lầm binh chủng không hả? (PH)
Bắt đầu ngày hôm sau: Sáng. Trưa. Chiều. Tối, tôi phải “Tập” hít đất, nhảy xổm... Cho đến khi mọi người đều mệt lã, thì cán bộ cho tạm nghỉ mươi phút. Mục đích Trung Tâm Huấn Luyện muốn tạo cho Tân Sinh Viên Sĩ Quan, có “cái đức vâng lời” là điều tiên quyết. Trung tâm huấn luyện có mục đích rèn luyện con người khoẻ mạnh từ thể chất đến tinh thần, có một tinh thần vững chắc, có một cơ thể tráng kiện, để sẵn sàng nhận lãnh mọi trách nhiệm do thượng cấp giao phó (cho dù quá vô lý). Trong lúc huấn luyện, tất nhiên có nhiều hình phạt, lời nói của cán bộ nghe rất vô lý, chói tai, bất công... buộc tân khoá sinh phải thi hành vô điều kiện.
Sau khi qua giai đoạn căn bản quân sự, Sinh Viên Sĩ Quan được học Anh Ngữ, chờ đợi du học, hoặc học bay Cessna tại Nha Trang. Hoặc giả suốt đời làm Sinh Viên Sĩ Quan "Đại Cồ Niên Trưởng" tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Trong hai tháng huấn nhục, khoá sinh không được vào câu lạc bộ, rong chơi trong Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân. Ngoại trừ những ngày cuối tuần, hay ngày lễ, khóa sinh mới được tiếp kiến thân nhân ở trạm tiếp liên gần cổng quân trường.
- Ngày gắn Alpha là ngày rất quan trọng, tân Sinh Viên Sĩ Quan mặc đại lễ, quỳ gối dưới nền xi măng (không được phép kê bất cứ vật gì dưới gối à nha), để Sinh Viên Sĩ Quan cán bộ đàn anh đến gắn Alpha, trước sự hiện diện của Chỉ Huy Trưởng, & toàn thể Bộ Chỉ Huy, các Sĩ Quan cán bộ của Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang. Từ đó tân sinh viên sĩ quan mới được phép xuất trại cuối tuần, họ vui vẻ đi ra phố, giống như các sinh viên sĩ quan đàn anh vậy. Dĩ nhiên, trước đó bạn được huấn thị những điều không được làm: như không đi xe đạp, xe gắn máy, xích lô. Quân phục chỉnh tề. Đi đứng dõng dạc. Không được vào những quán ăn bên lề đường, những khu phố "cấm". Nhất là không nắm tay người đẹp... dung dăng ở nơi công cộng. (NH)
Cuối năm 1968 và giữa năm 1969, vì nhu cầu “bành trướng” Không Quân mong muốn ngành Không Quân phát huy hơn, nên việc tuyển chọn sĩ quan, hay sinh viên Sĩ Quan Không Quân bừa bãi, quá dễ dàng. Từ các Quân Trường Thủ Đức, Đồng Đế hay Quang Trung (nên mới có vụ tên Nguyễn Thành Trung dội bom dinh Độc Lập ngày 8/4/75). Nhiều Hạ Sĩ Quan Không Quân, sau khi nhập ngũ, họ cố gắng học thêm, nên khi có bằng Tú Tài I, họ được tuyển vào sinh viên sĩ quan phi hành, hoặc không phi hành, thì điều kiện sức khoẻ dễ dàng hơn. Ngoại trừ những Hạ Sĩ Quan lão thành, đi Không Quân từ thời xa xưa (trước năm 1956) thì có thể được theo học khoá Sĩ Quan đặc biệt, không phi hành (theo cấp số, nghề nghiệp như Navigator, không lưu...)
Quân số mỗi khoá tuỳ thuộc vào con số ứng viên, có đầy đủ sức khoẻ.
Trung Tâm Giám Định Y khoa Không Quân lúc nào cũng bận rộn kinh khủng. Vì họ còn phải lo thêm cho các Sĩ Quan Không Quân phi hành cần khám định kỳ mỗi năm nữa. Sáu tháng đầu tiên, khoá của tôi bị ăn hiếp mọi mặt... Về sau, may sao có Thiếu Tá Nguyễn Hồng Tuyền (chức vụ thời bấy giờ) làm Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn Khoá Sinh, ông đã mạnh dạn thay đổi cục diện. Thiếu Tá Tuyền làm "cách mạng", là để Sinh Viên Sĩ Quan có quyền tự trị, tự điều hành và tránh những vụ (có rất ít người) tham nhũng, ăn chận, quá hành hạ Sinh Viên Sĩ Quan (như từ lúc trước). Vì vậy, các khoá Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân vào học sau nầy có một cuộc sống trong quân trường tạm gọi "thoải mái” hơn. (Trần Văn Phúc)
* Nhờ đọc mấy cái RE của anh luong55, nên tôi đoán: chắc là anh thuộc dân Rochefort. Mãi đến sau nầy anh học điều chỉnh nhằm khóa 65. Dạo đó dù sao anh cũng lớn tuổi hơn anh em trong cùng khóa với anh, nên anh không bị "dần" nhiều đâu nhỉ! Cái “Lễ Độ” là "dạy" cho đàn em, chứ không phải là lễ độ với người lớn tuổi, hay thâm niên quân vụ hơn mình đâu, nghe anh! Cũng tựa như trong phái võ, kẻ vào sau, gọi người trẻ đã nhập môn sớm nhất, trước mình thì phải gọi là: “đại sư huynh” vậy mà! Nếu anh bị "quần" nhiều, là anh hổng... hên đó! Vì tui nhớ anh Phước (“Nùng” là cận vệ của Xếp), cũng ra đấy học điều chỉnh, mà ảnh đâu có bị ai phạt vạ gì ha! Anh ấy còn lái xe jeep chạy ven vòng đai để... bắn chó nữa đó. Dù sao thì thời đó cũng vui quá, anh nhỉ. Kính. (Nghịch Nhĩ).
* Bravo, Nghịch Nhĩ chịu khó đọc, cũng chịu khó đoán lắm. Gần đúng, nhưng chưa đúng lắm. Tụi tui hồi đó ham vui, thèm của lạ... nên bị dzụ đi Tây học nghề. Đầu năm 1955, tui là dân Ốc-xe, bạn một đám dân Rốt-sơ-pho, đến “Cơ” với chức Binh Nhì. Lần lượt, họ xin đi học bay, học làm bác sĩ, kỹ sư, thuyền trưởng, họ làm quan gần hết. Riêng tui bị cầm chưn, vì nhu cầu công vụ, mãi đến đầu năm 1965, tui mới muộn màng được các ngài ưu ái “thưởng” cho theo học khoá 65B. Ra TTHLKQ/NhaTrang, tui cũng nếm sơ qua đủ mấy món ăn chơi của tiến trình đội mũ có giây bạc.
Sẵn đây, tui tóm lược sơ qua cuộc đời binh nghiệp hai mươi năm- ba tháng- hai mươi ba ngày của tui. Tui không có bằng cấp, chứng chỉ quân sự, chuyên nghiệp nào từ thấp nhứt, đến cao nhứt trong Không Quân, đối với cấp bậc cuối cùng của tui, mà tui không có: vì ngày 30-4-1975, bà xã tui bã gởi trước những thứ đó qua thế giới bên kia hết rồi. Hic hic… chắc mai nầy qua bển, tui có đầy đủ hồ sơ quân vụ ngon lành hì.
Nói về bay bổng, tui không hân hạnh được Không Quân cho đi học bay, vì tui bị cận thị. Nhưng trước khi đi Không Quân, thuở thanh bình tui cũng đã từng có mặt lai rai trên mấy chiếc Piper Cub sơn đỏ vàng của Câu Lạc Bộ Hàng Không Tân Sơn Nhứt, để đi Lộc Ninh, Hớn Quản, với thằng bạn thân là hội viên và IP ở đó, nhưng tui đi gần gần thôi. Đã thiệt. Sau nầy, đi máy bay tui bị cho ngồi ghế sau, bị dồn xuống bụng, bị rinh đi cả buổi trên trời, oải lắm. Có một lần đi Clarkfield bằng C-47, trồi lên sụp xuống, nguyên một buổi nhìn xuống, tui chỉ thấy một màu xanh thẳm lăng tăng. Chẳng những tui oải, sợ teo và hãi lắm, tui phải chui tọt ra nằm ngay đơ đằng sau đuôi mấy lần. Đến rồi đi; ngày rời Trường Mẹ đi Mỹ, tui cũng làm tới chức khoá sinh cán bộ cấp Đại-đội chớ bộ! Nhưng không lưu lại tai tiếng gì. Có lẽ tại tui không bị "dần" nhiều, nên tui cũng không muốn hành hạ ai làm chi, cho mệt họ và mình cũng mệt mỏi không ít. Nhưng tui mà hét lên, thì anh phải biết: Anh cứ hỏi cái khoá từ Thủ Đức qua Không-quân thì rõ. (Trần Lương 55).
* Một hình phạt trong thời kỳ Huấn Nhục tại Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân Nha Trang, mà tôi “thích nhứt” là: "Xoải cánh trên bãi cát. Đếm sao trên trời". Có bị phạt gì đâu! một niên trưởng thấy mình bị mấy cán bộ quần hoài như con gà chết. Thế là ông kéo mình ra chỗ khác xa xa... cho tôi nằm xoãi hai tay, hai chân trên cát, nhìn trời đếm sao. Sao trên trời đếm bao giờ cho hết. Nên tôi thích (nhắm mắt) ngắm “sao” trong mơ quá chừng! Niên trưởng này thuộc khoá 68B, chế ra cái màn phạt êm ru nầy, thiệt đã quá chừng. Hiện nay ông ở bên Houston. (Loithien).
* Mấy ông niên trưởng khoá 65 quá may mắn, những năm sau này, họ phạt chúng tôi ít nhất cũng có 100 cái (nhẩy xổm, hít đất...), còn nhiều trò mới lạ có những tên rất kêu như: “Quan Công ngồi ghế đẩu”. - “Phượng Hoàng rũ cánh” - “Móc giò lên tủ”. - “Móc giò lên đà ngang trần nhà, miệng ngậm một lúc mười điếu thuốc đang cháy (vì trong thời gian huấn nhục, không ai dám lén lút hút thuốc lá). Mấy ổng Cán bộ khoá đàn anh nói:
- Không Quân không xài bạc lẻ (mặc dù trong túi họ không có một đồng xu), thành thử tối thiểu phải là xài 100, ai làm được thì làm, nếu không làm nỗi, thì mình cứ nằm ình ra đó, mấy ổng phải chuyển qua hình phạt khác. Nghĩ mà ớn, nhưng là kỷ niệm vui vui ở quân trường. Nhắc lại chỉ để nhớ những “kỷ niệm khó quên” thôi. Đâu cũng vậy, trong một tập thể cũng có "vài con sâu làm rầu nồi canh", họ hơi đi quá trớn, muốn nổi danh "hung thần" rồi tự biên, tự diễn chút xiú. Thế thôi. Ngày nay chúng tôi gặp lại nhau, không hận thù, không hờn oán, đôi khi còn nhắc lại chuyện cũ, và cười ha ha với nhau, coi đó như là kỷ niệm xa xưa. (Liêm919).
* Nghĩ đi, nghĩ lại chuyện đã xảy ra hơn bao nhiêu năm qua, nhiều lúc thấy có một cái gì ngồ ngộ... tự ta tủm tỉm cười. LD chắc cũng có những giây phút ấy? Nếu ai không vào quân ngũ, thì không bao giờ có những cảm giác như vậy đâu há:
Tưởng như mọi chuyện ở ngoài đời.
Bước chân vào lính, mới hỡi ơi!
Ớt cay, mật ngọt, ông cứ nuốt.
Nhai vào, mới biết nóng bờ môi.
Tôi bảo ông nuốt, sao ông nhai.
Cãi lời cán bộ, phạt gấp hai.
Thế chờ, xuống đất, chân móc tủ.
Ngu quá, bảo nuốt, sao lại nhai? (Tự trách – tkdf)
* Anh LT nằm xoãi cánh đếm sao trên trời, sao trời đếm không hết. Còn tui thì bị cán bộ bắt đứng đếm: - "Một ông lặt cỏ, hai ông lặt cỏ. ba ông lặt cỏ"... Đếm cho đúng 100 ông, nếu không trật, thì cán bộ cho vô hàng. Tui cứ phải đứng đếm đi đếm lại hoài, mà cứ trật tới trật lui... Tới bây giờ mỗi lần nhớ tới, tôi mỉm cười đếm lại, mà chưa bao giờ đếm được tới 100 ông… (LD).
* Các anh LT và LD đứng một chỗ đếm 100 “ông lặt cỏ”, còn đỡ khổ, đàn em bị đứng theo kiểu con nhà võ: “Phượng Hoàng sa bãi c…”; nghiã là đứng hai tay giăng ra như cánh chim, một chân co lên, mà đếm: “Một ông lặt cỏ, hai ông cỏ lặt, ba ông...”. Đếm tới khoảng hai mươi ông, thì chân run, mắt “em” nổi hoa sao chớp chớp... Nếu đếm sai, hoặc lỡ nói lái chữ “cỏ lặt” ra nẽo kia, thì em bị thưởng thêm 50 nhảy công lực. Riêng anh LT phè cánh nhạn đếm sao trời, thì quá đã: “một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông...”. Chưa kể buổi trưa nắng, “em” bị “chống thế chờ” trên đường nhựa, bị phỏng cả hai tay (sau này rút kinh nghiệm, “em” thủ hai cục đá, để tránh bị phỏng tay). Nguy hiểm nhất là em nhìn mặt trời. Đúng là quái chiêu, như niên trưởng Nghịch Nhĩ đã viết, mình sẽ hư mắt như chơi! Còn ai bị cạo đầu, họ chơi ngay một đường bay chính giữa bộ sọ cuả ta, như "xa lộ không đèn coi trụi lủi"... Ôi! "Tóc chẻ hai sầu chia đôi ngã". Cứ mỗi lần nhắc tới “huấn nhục”, là “em” vừa tức vừa buồn cười! Nhưng có lẽ nhờ vậy mà “em” học hỏi được nhiều điều hay, và nhẫn nhục đấy. Phải thế không; Thưa quý anh ạ! (Luckyluke).
* Bạn Tình Hoài Hương,
Hello thì quá thường. Bravo thì chưa đủ. Tui phục bạn đã bỏ công sưu tầm, lượm lặt… và đăng lên loạt bài nầy với người thật, việc thật, hầu khơi lại cho người đọc những kỷ niệm êm ái một thời của chúng tôi có buồn, có vui, hân hoan và hãnh diện đã xếp lớp lăn tăn trong cuộc sống. Cho tui méo mó nghề nghiệp một tí cho vui: Bạn giống cái radar lắm, phát đi tia sóng dò tìm, rồi chờ thu tín hiệu phản hồi về giải đoán. Mời quý vị coi dưới đây, xem tui nói điều trên, có phải đúng như vậy không nè … (Luong55).
***
Trong Không-Lực Việt Nam (VNAF) có người được đưa đi huấn luyện chung với US Naval Aviator. Tất cả các phi công nói chung đều có một chương trình huấn luyện đầy gian khổ cam go, vất vả nhọc nhằn như nhau, đòi hỏi các khóa sinh phải bền bỉ, cố gắng thực tập thuần thục các phương pháp phi hành rắc rối phức tạp. Hầu như 99% khóa sinh Không-quân đều có hạnh kiểm, đạo đức, học lực cao, được các IP (Instructor Pilot) nhận xét tỷ mỹ, phê chuẩn họ vào hạng khá, giỏi, thì sau khi nhập học ở trường Không quân Nha Trang xong. Sinh-viên Sĩ-quan Không-quân được đi Mỹ học tập.
Tại cổng trường có tên gọi Sauffley Field NAAS (Naval Air Auxilliary Station). Tấm bảng rất to ghi: “IT IS BETTER TO FLY THAN TO DRIVE”. Đây là nơi huấn luyện căn bản, một căn cứ Không-quân đồ sộ. Cũng là nơi đào tạo sĩ-quan phi hành cho cả ba binh chủng: Hải, Lục, Không Quân. Tất nhiên kỷ luật rất gắt gao, vì nơi này đảm nhận huấn luyện chung cho cả Sĩ-quan Hải Quân và Lục Quân (Marine Corps). Hình phạt thông dụng là “chạy bộ hộc xì bơ”, mà các khóa sinh vẫn gọi: “Military drill” hay huấn nhục.
TRƯỜNG ở các địa điểm:
- Trường dạy Khu-trục tại Hurlburt Field ở Florida.
- Trường bay Hải quân Hoa Kỳ Corpus Christi, Texas.
- Trường quân sự Hải quân Hoa Kỳ tại Pensacola, Florida.
- Trường Hải quân Hoa Kỳ, học về cao đẳng phi hành (Advanced taining) trên phi cơ T – 28 B/C ; có chong chóng ba cánh, và phi cơ A D-6 Skyraider VT-30, Corpus Christi, Texas.
- Có các căn cứ phụ Naval Air Auxiliary Station Ellyson Field là trường Phi hành Trực thăng Helicopter Training Squadron EIGHT HT-8, cách căn cứ Pensacola 16mi về hướng Đông-Bắc.
- Căn cứ phụ NAAS Saufley Field là trường bay Vỡ lòng VT-1 (Primary Flight Training) cách xa 10 mi về hướng Bắc của Mainside (nickname của căn cứ chánh NAS Pensacola).
- Học lớp UPT (I-28 Air Force) trên phi cơ T – 28 A Trojan – Keesler AFB, MS tại Randolph (Texas).
- Điều hành viên. Cơ khí Phi hành (air crewmen) học tại trường Naval Aviation Officers School, căn cứ Pensacola.
- Hàng Không Mẫu Hạm có Trung tâm điều khiển toàn diện bay (Primary Flight Control).
- Kiểm soát Không-lưu (Air Traffic Control).
- Đường Băng (Flight Desk).
- Gian chứa máy bay (Hangar Bay).
- Giàn phóng máy bay đặt dưới đường băng.
***
- Diễn tiến trình tự học tập:
Mỗi buổi sáng SVSQKQ đi tập thể dục, sau đó họ học Anh-văn, đến lớp học lý thuyết, luyện giọng. Buổi chiều học trong phòng Lab – nghe và viết bài. Nói chung HỌC: - Học văn hoá & chuyên môn. Khoá Anh ngữ (General & Specialized) tại căn cứ Không-quân Lackland, San Antonio, Texas. & Chương trình văn hóa (Academics); áp dụng cho ngành hàng không, dùng thước slide rule để tính.
- Study Skills dạy cách học bài, trong đó có Speed Reading Skills (Speedy Skills). Kỹ năng đọc nhanh và Communication Skills (kỹ năng thông đạt).
- Naval Orientation (dạy về lịch sử, cách tổ chức Hải-quân Hoa kỳ).
- Chính-trị FNP (Foundation of the National Power, dạy lịch sử thế giới).
- Tổ chức quốc tế, như: UNO, NATO, WAPA, ngoại giao, hiệp ước, công ước cận đại.
- Luật lệ lưu thông hàng không.
- Nghệ thụât chỉ huy. (Leadership).
- Học cách đi đứng (học cơ bản thao diễn). Học cách sử dụng vũ khí cá nhân. Chào kiếm chuẩn bị lúc làm lễ ra trường. & Vân vân...
- Thể lực (Physical). Tập các môn võ đô vật truyền thống (collegiate wrestling), quyền Anh. V.v...
- Huấn luyện Quân sự (Military Training) học hành chánh, quân phong quân kỷ, khả năng tác chiến.
- Mưu sinh Thoát hiểm (Physical Fitness-Survival). Ba ngày đêm Survival Days.
- Học “đoạn đường chiến binh” (Obstacle Course – O Course).
- Học bơi đủ các loại: Jungle/ Swamp/ Sea Survival. - Bơi tự do. Bơi ngửa. Bơi sấp. Bơi ếch. Bơi Bướm. Bơi đứng (bơi bằng hai chân). Bơi 2,000m (bốn mươi vòng bơi tới bơi lui). Vân vân... Bơi qua eo biển ở gần Pensacola và Mễ Tây Cơ.
- Học tổng quát các hệ thống của máy bay, học điều khiển, khí động học, khí tượng học, học cách bảo vệ phi cơ, cũng như phi công an toàn dưới đất, và ở trên không trung. Kể cả học Quân sự (Military).
- Học liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát không lưu, khóa sinh mang headset, gọi báo với đài không lưu, nghe đài, trả lời. Học cách liên lạc vô tuyến. Code Morse và Recognition; nhận dạng các phi cơ đồng minh và phi cơ địch.
- Học Communication (liên lạc), báo cáo lấy cao độ, xuống cao độ vào vòng đáp (climbing and letdown).
- Học “bay bổng toàn diện” đại khái: - Principes of flight (nguyên lý bay).
- Học điều khiển phi cơ cất cánh và hạ cánh trên Hàng Không Mẫu Hạm. Học bay trên bon Hàng-không Mẫu-hạm, (còn gọi là Yellow Zone hay Landing Zone). Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
- Học Landing Signal Officer (LSO).
- Học phi cơ attack aircraft yểm trợ không địa.
- Học lớp đáp bụng (crash) khi phi cơ bị trục trặc, hoặc đáp khẩn cấp. Lúc máy bay cất cánh từ Hàng Không Mẫu Hạm, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, để đáp Hàng Không Mẫu Hạm. Học đáp khẩn cấp (giả máy tắt) từ cao độ cao (simulated high altitude emergency), vòng đáp ở các sân bay phụ (outlying fields) & đáp hạ cánh phụ (full flap landing) sao cho an toàn.
- Học cách rời tàu. Học cách thoát ra khỏi lòng máy bay khi lâm nguy. Học Abandon Ship Drill (bỏ tàu khi bị chìm), biết hành xử khi phi cơ bị lật.
- Học an ninh phi hành áp dụng trên tàu (carrier safety), trắc nghiệm lý thuyết về vòng đáp trên tàu.
- Học các bộ phận trợ phi (flight support) trên Hàng Không Mẫu Hạm: hệ thống kính chiếu trên tàu (operation of the mirror landing system).
- Học các cơ chế, tốc độ, sử dụng chân đáp, cánh phụ, móc đuôi tailhook (performance characteristics of the aircraft).
- Học độ chúi (glidepath) của cận tiến vòng chót (final approach) trên Hàng Không Mẫu Hạm.
- Học Landing Signal Officer (LSO).
- Học sử dụng cờ màu (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands)
- Flight Deck Officer (FDO).
- Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
- Cách bảo trì phi cơ. Học Engineering & Flight Characteristics bao nhiêu G’s, hỏng bánh ở tốc độ nào, vòng đáp touch-and-go (chạm bánh-bay lại).
- Học pre-solo (tiền đơn phi) khóa sinh sử dụng bộ phận điều chỉnh phi cơ khi bay bình phi, làm vòng đáp và kỹ thuật đáp. Học khi gặp sự khó khăn khẩn cấp, thì phải giữ bình tĩnh, giữ an toàn (good airmanship and safety).
- Học lướt qua về cơ khí viễn hành loại Chinook lo về: kỷ thuật kiểm soát máy móc, bơm xăng, dầu, nhớt, sữa chữa nhẹ.
- Tập đáp phi cơ theo kính chiếu trên đất liền MFCLP (Mirror Field Carrier Landing Practice), trên tàu chiến hạm (như căn cứ Không-quân ở biển).
- Aviation Science: điều khiển các bộ phận của phi cơ.
- Engineering: có môn Động-cơ-nổ và Động-cơ phản-lực.
- Cockpit Procedures - Cockpit (phòng lái). Có link trainer (phòng lái giả). Các bộ phận ở phi cơ. Các đồng hồ phi kế lúc mở máy, đang bay, khi khẩn cấp. V.v...
- Aerodynamics (khí động học), áp dụng cho phi cơ và bom đạn khi sử dụng.
- Navigation (không hành) trong đó có Celestial Navigation nhắm hướng bằng vị trí các sao trên trời, cách sử dụng các phi cụ.
- Không hành. (Navigation) & Celestial Navigation nhắm hướng từ các sao trên trời, & xử dụng các phi cụ.
- Khóa sinh Kỹ thuật không phi hành (aviation ground officers).
- Có người chờ khóa học bên Hải-quân Mỹ (US NAVY) khai giảng. Hoặc có người đi học các nơi chuyên môn mình ưa thích, tuỳ thích chọn lựa khác... như lớp Weather and Meteorology. Thời tiết và Khí tượng. Các khóa Không Phi Hành thường là:
- Kiểm Soát Không Lưu (Air Traffic Control-ATC): họ sẽ làm việc tại các đài kiểm soát (tower) của phi trường. Điều khiển phi cơ cất cánh, hạ cánh. Thông báo dự đoán thời tiết.
- Weapons Controller-WC: Hỗ-Trợ Không Hành (Air support).
- Điều-Hành Không-Chiến (Air Defense): hướng dẫn bằng Radar, tại Tyndall AFB Florida, (điều nầy hoàn toàn không liên quan gì đến kiểm soát vũ khí).
- Họ là Sĩ Quan Điều Không, sẽ phục vụ tại các Đài Kiểm Báo như: Panama (Sơn Trà-Đà Nẵng). Paris (Tân sơn Nhứt). Pyramid (Ban Mê Thuột). Peacock (Pleiku). Paddy (Cần Thơ).
- Sĩ quan WC là hỗ trợ không hành (air support), điều hành không chiến (air defense), được gọi là đều hành không-lưu. Họ làm việc tại các trung tâm và đài radar.
- Riêng khóa sinh không-lưu là Air Traffice Control, thì họ làm việc tại các Tower, được gọi là sĩ quan kiểm soát không lưu.
*
Các kỹ sư Hải Quân sáng tạo ra hệ thống Rainbow tinh vi, tuyệt vời để cho mình phân biệt rõ về các loại xăng. Ví dụ như:
- Xăng màu tím: để dùng dành tiêng cho phi cơ phản lực.
- Xăng màu xanh lá cây: để dùng cho phi cơ cánh quạt một động cơ.
- Xăng màu vàng: để dùng cho phi cơ cánh quạt nhiều động cơ.
- Người mặc áo giáp nỉ màu vàng: chịu trách nhiệm khi phi cơ cất cánh, hạ cánh. Hướng dẫn phi cơ di chuyển (Yellow Shirts: Aircraff Handlers).
- Người mặc áo giáp nỉ màu trắng: điều khiển phi cơ hạ cánh. (Việc hạ cánh trên tàu nhanh hơn trên phi đạo gấp 2 hoặc 3 lần).
- Người mặc áo giáp xanh: Nhân viên bảo trì thiết bị, có bổn phận móc phi cơ vô giàn phóng & chịu trách nhiệm ngăn ngừa tai nạn. (Green Shirts Equipment Opeators).
- Người mặc áo giáp nâu: nhân viên cơ khí, có nhiệm vụ coi sóc phi cơ trên đường băng. (Brown Shirts: Plane Captains).
- Người mặc áo giáp tím: nhân viên tiếp nhiên liệu cho phi cơ (Purple Shirts: Fuel Technicians).
- Người mặc áo giáp đỏ: nhân viên lo vũ khí, đạn dược... (Red Shirts: Weapons Handlers).
- Học sử dụng màu cờ (colored flags), ván (cloth paddles) và gậy đèn (lighted wands).
- Hệ thống đèn hạ cánh optical landing system (OLS) meatball.
- Ánh đèn màu di chuyển chớp tắt, được gọi là Meatball, gồm 12 màu xanh, 9 màu vàng, 12 màu đỏ:
- Tín hiệu đèn đỏ: tránh phi công va chạm khi đáp, phi cơ phải giữ góc tiếp xúc với đường băng khoảng 15 đến 18 giây.
- Tín hiệu đèn xanh: Phi cơ tiếp xúc với đường băng 3,5/o.
- Tín hiệu đèn vàng: chớp chớp theo dõi phi cơ lên xuống, hoặc phi cơ bị chệch ra khỏi các góc, không đúng với đường băng.
- LSO tín hiệu màu đỏ: Give Up: là báo phi cơ bay quá cao, hoặc quá thấp.
Xem những điều căn bản cần thiết đó, học hỏi rồi thực tập, ví dụ ở khu trục cơ A1-E Skyraider có speed brakes ở hai bên hông, một dive brake ở dưới bụng, một tail hook ở sau đuôi, dùng để đáp Hàng Không Mẫu Hạm.
Sau thời gian dài chuyên cần học và tập, sinh viên sĩ quan Không-quân bay solo nhiều lần:
- Bay đủ kiễu. Đủ cách.
- Bay bình thường.
- Bay đêm.
- Bay không hành (bay từ thành phố nầy, đến ba bốn thành phố khác, trong một vòng tròn).
- Bay hợp đoàn hai chiếc.
- Bốn chiếc. V.v...
***
Kính thưa qúy vị khả kính,
Viết dài dòng về ít trích đoạn từ chương trình huấn luyện chuyên môn bay bổng “Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt”… riêng tôi quả thật rất khó khăn & không khỏi lẩm cẩm, thiếu sót, lú lẫn và quên. Vẫn biết rằng ngòi viết là thứ vũ khí sắt bén, có thể đâm lủng tờ giấy, có bản lãnh chân chính & sung mãn về sự trầm lặng nghiền ngẫm suy tư nơi trí tuệ, để ghi lại những điều cần thiết và hữu ích, cũng như nói lên những nguyện vọng ước mơ thầm kín, (ví dụ tôi muốn ghi lại những chiến tích hào hùng rực rỡ vinh quang, chân tín của qúy vị nói riêng (& QLVNCH nói chung), để lưu dấu trong quân sử VNCH, chứng thực cho thế giới có nhận định trung thực & đứng đắn về nhân cách cùng phẩm giá cao quý của đại đa số quân nhân VNCH, nhất là để thế hệ hậu duệ chúng ta mai sau được biết chính xác tỏ tường, về một thời oanh liệt vàng son từ ông cha thân yêu cuả các con cháu ấy, chẳng hạn).
Tôi trộm nghĩ điều đó khiến cho mình cảm thấy hạnh phúc, có khi hơn là tôi dùng cây kiếm, cung tên hoặc gươm dao, để mưu cầu những điều gì khác. Thuở xưa tôi trau dồi văn học, ngôn ngữ... trên quyển tập, trên máy đánh chữ lọc cọc gõ mỗ cò từng trang. Ngày nay may mắn sống trong đất nước giàu sang, đầy đủ tiện nghi ở thời đại văn minh tân tiến, tôi có thể tự do học hỏi nơi qúy vị (qua điều sai sót về mình). Nhờ qúy vị, tôi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm, ngỏ hầu chu toàn ý nguyện, thành công điều khác ở tương lai rất nhanh khi dùng computer, internet xem tin tức, chuyện trò (chat) phương tiện giao dịch, cho tôi có dịp học hỏi, nghiêng cứu những điều cần biết rất thiết thực & bổ ích, nhờ đó tôi được trau dồi tư tưởng, mở rộng kiến thức, nâng cao tâm hồn trên mọi lãnh vực.
Tôi không buồn hay hờn tủi, thắc mắc gì về ít sai sót, lẫn quên, khi cách đây hơn bốn mươi năm, bạn tôi (anh Lữ Phi Hành) đã kể sơ sài về việc "lãng du vào không trung" cho nghe, tôi ghi nhớ. Ngỏ hầu ngày nay tôi viết lại, dù chưa thể chính xác. Vì, ngay cả ai ai khi được thực sự thụ huấn bên Không-quân (USAF), cho dù là phi công điêu luyện, sành sỏi, từng trải, nhiều kinh nghiệm, đầy bản lãnh từ ngày xa xưa… Thì ngày nay, bây giờ… chưa chắc họ đã nhớ rõ ràng tường tận từng chi tiết nhỏ nhặt. Đó là chuyện bình thường. Phải không, thưa qúy vị?
Tôi cũng thế, đôi khi tôi không thể nhớ nỗi, và quên lẫn. Vậy, mong qúy vị rộng lượng bao dung, nhất là cần chỉ giáo cho mấy điều (mà bạn tôi, hoặc tôi) đã thiếu sót. Dạ thưa vâng! Tôi chỉ xin lui cui lụi hụi đi lượm lặt, dò dẫm “nhặt nhạnh xí”, (như lời anh Lương nêu trên). Tiện thể tôi cám ơn anh Lương, mong anh & quý vị thân kính tha lỗi cho, (vì cái tội ưa lượm ấy ạ)… Tác giả Tình Hoài Hương cảm ơn, rất vui, & biết ơn qúy anh (có tên ghi sau): Trước tiên, tôi chân thành cám ơn các nhiếp ảnh gia đã đăng những tấm hình quá đẹp trên internet, cho tôi chiêm ngưỡng & mạn phép copy right vô bài viết của mình; ngỏ hầu phong phú hóa hình ảnh sống động, độc đáo, đầy nghệ thuật, tài đức của quý vị.
* Cũng tiện thể, một lần nữa tôi cám ơn người chỉ đi chung một đoạn ngắn [“bạn đường" Lữ Phi Hành; (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ”, nên bạn ấy xin đề nghị dấu tên)]. * Nhất là tôi mạn phép qúy anh Không-quân: TQD – DVH – DHB – TVP – TCB – PH – NPVĐ -SVSQ… - Trần Lương - Hoàng Hùng – Lưu Vong - Hùng Nguyễn - Lê Vinh – Hùng Phan, Tùng Á Trương, v.v... ưu ái an ủi, nhắc nhở, chia sẻ, động viên, giúp tôi có ít chi-tiết cập-nhật cần bổ túc, đồng thời ân cần khích lệ tôi hoàn thành bài viết.
Tình Hoài Hương biết ơn quý vị đã cho tôi có chút cảm tác, ngỏ hầu tôi có thể viết lại câu chuyện đời Hải-quân/Không Quân oai dũng, thi vị, thân thiện & đầy huấn nhục; được tóm tắt & đúc kết ít phần chính trong chương trình huấn luyện “Phi Hành” (cả nghiã bóng lẫn nghiã đen -cuả “tựa đề” câu chuyện và... “tên người”- …). Truyện dài về phương pháp “Huấn luyện Phi Hành” khép lại, chấm hết từ đây ./.
Kính chúc quý vị luôn an vui hạnh phúc, như ý... và bình lặng trong tâm hồn.
Tình thân & quý mến,
Kính
Tình Hoài Hương
June 23 - 2019

muahong
07-23-2019, 07:54 AM
Thưa quý niên trưởng .
Một trong những nữ lưu của Hội Quán Phi Dũng mà tôi đặc biệt thích thú , khâm phục là tác giả Tình Hoài Hương .
Tình Hoài Hương có một sức viết rất khỏe , không những văn xuôi mà còn có những vần thơ bất hủ và luôn có bài mới cho mọi người thưởng lãm . Đặc biệt , trong hầu hết các tác phẩm đều có bóng dáng người lính QLVNCH oai hùng , gần gũi , thân thương . Xin cám ơn và rất mong được đón nhận thêm những tác phẩm có giá trị của chị như thời gian vừa qua .

Tinh Hoai Huong
08-04-2019, 05:47 AM
Kính thưa qúy vị khả kính,
Viết dài dòng về ít trích đoạn từ chương trình huấn luyện chuyên môn bay bổng “Lãng Du Vào Không Gian Lả Lướt”… riêng tôi quả thật rất khó khăn & không khỏi lẩm cẩm, thiếu sót, lú lẫn và quên. Vẫn biết rằng ngòi viết là thứ vũ khí sắt bén, có thể đâm lủng tờ giấy, có bản lãnh chân chính & sung mãn về sự trầm lặng nghiền ngẫm suy tư nơi trí tuệ, để ghi lại những điều cần thiết và hữu ích, cũng như nói lên những nguyện vọng ước mơ thầm kín, (ví dụ tôi muốn ghi lại những chiến tích hào hùng rực rỡ vinh quang, chân tín của qúy vị nói riêng (& QLVNCH nói chung), để lưu dấu trong quân sử VNCH, chứng thực cho thế giới có nhận định trung thực & đứng đắn về nhân cách cùng phẩm giá cao quý của đại đa số quân nhân VNCH, nhất là để thế hệ hậu duệ chúng ta mai sau được biết chính xác tỏ tường, về một thời oanh liệt vàng son từ ông cha thân yêu cuả các con cháu ấy, chẳng hạn).
Tôi trộm nghĩ điều đó khiến cho mình cảm thấy hạnh phúc, có khi hơn là tôi dùng cây kiếm, cung tên hoặc gươm dao, để mưu cầu những điều gì khác. Thuở xưa tôi trau dồi văn học, ngôn ngữ... trên quyển tập, trên máy đánh chữ lọc cọc gõ mỗ cò từng trang. Ngày nay may mắn sống trong đất nước giàu sang, đầy đủ tiện nghi ở thời đại văn minh tân tiến, tôi có thể tự do học hỏi nơi qúy vị (qua điều sai sót về mình). Nhờ qúy vị, tôi trưởng thành, có nhiều kinh nghiệm, ngỏ hầu chu toàn ý nguyện, thành công điều khác ở tương lai rất nhanh khi dùng computer, internet xem tin tức, chuyện trò (chat) phương tiện giao dịch, cho tôi có dịp học hỏi, nghiêng cứu những điều cần biết rất thiết thực & bổ ích, nhờ đó tôi được trau dồi tư tưởng, mở rộng kiến thức, nâng cao tâm hồn trên mọi lãnh vực.
Tôi không buồn hay hờn tủi, thắc mắc gì về ít sai sót, lẫn quên, khi cách đây hơn bốn mươi năm, bạn tôi (anh Lữ Phi Hành) đã kể sơ sài về việc "lãng du vào không trung" cho nghe, tôi ghi nhớ. Ngỏ hầu ngày nay tôi viết lại, dù chưa thể chính xác. Vì, ngay cả ai ai khi được thực sự thụ huấn bên Không-quân (USAF), cho dù là phi công điêu luyện, sành sỏi, từng trải, nhiều kinh nghiệm, đầy bản lãnh từ ngày xa xưa… Thì ngày nay, bây giờ… chưa chắc họ đã nhớ rõ ràng tường tận từng chi tiết nhỏ nhặt. Đó là chuyện bình thường. Phải không, thưa qúy vị?
Tôi cũng thế, đôi khi tôi không thể nhớ nỗi, và quên lẫn. Vậy, mong qúy vị rộng lượng bao dung, nhất là cần chỉ giáo cho mấy điều (mà bạn tôi, hoặc tôi) đã thiếu sót. Dạ thưa vâng! Tôi chỉ xin lui cui lụi hụi đi lượm lặt, dò dẫm “nhặt nhạnh xí”, (như lời anh Lương nêu trên). Tiện thể tôi cám ơn anh Lương, mong anh & quý vị thân kính tha lỗi cho, (vì cái tội ưa lượm ấy ạ)… Tác giả Tình Hoài Hương cảm ơn, rất vui, & biết ơn qúy anh (có tên ghi sau): Trước tiên, tôi chân thành cám ơn các nhiếp ảnh gia đã đăng những tấm hình quá đẹp trên internet, cho tôi chiêm ngưỡng & mạn phép copy right vô bài viết của mình; ngỏ hầu phong phú hóa hình ảnh sống động, độc đáo, đầy nghệ thuật, tài đức của quý vị.
* Cũng tiện thể, một lần nữa tôi cám ơn người chỉ đi chung một đoạn ngắn [“bạn đường" Lữ Phi Hành; (bởi vì bạn ấy không hề ưa đi Hoa Kỳ ở, mà bạn ấy chỉ thích sống chết với “thành hồ”, nên bạn ấy xin đề nghị dấu tên)]. * Nhất là tôi mạn phép qúy anh Không-quân: TQD – DVH – DHB – TVP – TCB – PH – NPVĐ -SVSQ… - Trần Lương - Hoàng Hùng – Lưu Vong - Hùng Nguyễn - Lê Vinh – Hùng Phan, Tùng Á Trương, v.v... ưu ái an ủi, nhắc nhở, chia sẻ, động viên, giúp tôi có ít chi-tiết cập-nhật cần bổ túc, đồng thời ân cần khích lệ tôi hoàn thành bài viết.
Tình Hoài Hương biết ơn quý vị đã cho tôi có chút cảm tác, ngỏ hầu tôi có thể viết lại câu chuyện đời Hải-quân/Không Quân oai dũng, thi vị, thân thiện & đầy huấn nhục; được tóm tắt & đúc kết ít phần chính trong chương trình huấn luyện “Phi Hành” (cả nghiã bóng lẫn nghiã đen -cuả “tựa đề” câu chuyện và... “tên người”- …).
Truyện dài về phương pháp “Huấn luyện Phi Hành” khép lại, chấm hết từ đây ./.
Kính chúc quý vị luôn an vui hạnh phúc, như ý... và bình lặng trong tâm hồn.
Tình thân & quý mến,
Kính
Tình Hoài Hương
June 23 - 2019


Thưa quý niên trưởng .
Một trong những nữ lưu của Hội Quán Phi Dũng mà tôi đặc biệt thích thú , khâm phục là tác giả Tình Hoài Hương .
Tình Hoài Hương có một sức viết rất khỏe , không những văn xuôi mà còn có những vần thơ bất hủ và luôn có bài mới cho mọi người thưởng lãm . Đặc biệt , trong hầu hết các tác phẩm đều có bóng dáng người lính QLVNCH oai hùng , gần gũi , thân thương . Xin cám ơn và rất mong được đón nhận thêm những tác phẩm có giá trị của chị như thời gian vừa qua .

https://hoiquanphidung.com/uploadpics/pics2018/1564896306-50 b8.jpg
***
Tình Hoài Hương cảm động và hân hạnh lắm... khi đọc những hàng chữ ân tình, thân hữu, khéo mô tả và ưu ái khích lệ từ anh muahong. Tôi rất cảm ơn anh Mưa Hồng, cùng một số qúy vị độc giả đã PM (hoặc E-mail) trong tâm tình chia sẻ, khuyến khích & nâng đỡ tôi trên mọi lãnh vực.
Dạ vâng! để không phụ lòng anh muahong, và... quý vị, Tình Hoài Hương xin cố gắng viết một truyện dài khác, cũng miêu tả về "tình anh lính chiến" ạ. Mời anh muahong & qúy vị độc giả đón xem nhé.
Kính chúc anh muahong và qúy độc giả luôn an vui, trọn vẹn hạnh phúc và như ý.
Thân quý,
THH