PDA

View Full Version : Hòai Nam : Những ca khúc ngọai quốc lời Việt (1)- Dẫn Nhập



saomai
10-10-2014, 06:04 PM
<p><p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image00212.jpg"><img class="aligncenter" style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image002_thumb12.jpg" alt="clip_image002" width="382" height="255" border="0" /></a></strong></p>
<p><em>( Giới thiệu : Bài này mở đầu cho một lọat bài viết về những ca khúc ngọai quốc bất hủ đã được đặt lời Việt và phổ biến trong giới yêu nhạc Việt Nam từ những năm 1950s đến nay của nhà báo Hòai Nam, một tên tuổi đã từng được người yêu nhạc trong và ngòai nước biết tới qua chương trình biên sọan “ 70 năm tình ca trong tân nhạc Việt Nam “. Ngòai phần nội dung dưới dạng text, chúng tôi có kèm theo phần phụ lục dưới dạng Audio những bản nhạc được nói đến trong bài. Xin trân trọng giới thiệu đến quý độc gỉa. T.Vấn &amp; Bạn Hữu ).</em></p>
<p>Mặc dù chưa bao giờ được một hàn lâm viện nào trên thế chính thức nhìn nhận, hiện nay hầu như mọi người đều đồng ý về danh sách “7 nền nghệ thuật của nhân loại”, gồm: kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, vũ, thi ca, và điện ảnh.</p>
<p>Danh sách sáu nền nghệ thuật đầu tiên do triết gia Đức Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) đề xướng vào đầu thế kỷ thứ 19; còn nghệ thuật thứ bảy – tức điện ảnh – do nhà phê bình nghệ thuật Pháp gốc Ý Ricciotto Canudo đề nghị vào đầu thế kỷ thứ 20, qua tập khảo luận “Le Manifeste des Sept Arts” (Danh sách bảy nền nghệ thuật).</p>
<p>Trong số bảy nền nghệ thuật ấy, âm nhạc là bộ môn phổ biến nhất, điều này có lẽ khỏi cần chứng minh. Và nếu nói đó là bộ môn phong phú, đa dạng nhất, cũng không mấy người phản đối.</p>
<p>Tuy nhiên âm nhạc, cũng như các bộ môn nghệ thuật khác, trong khi thường được mô tả là “không biên giới”, theo suy nghĩ của chúng tôi, “có cách trở”. Với âm nhạc, cách trở ấy là xu hướng, trình độ, cảm quan thưởng thức của các thành phần xã hội khác nhau, và riêng với các ca khúc, cách trở còn là ngôn ngữ.</p>
<p>Việc đặt lời Việt cho các nhạc khúc bất hủ, các ca khúc ngoại quốc nổi tiếng, chính là một hình thức hóa giải những cách trở ấy. Nếu không kể các ca khúc “nhạc tây lời ta” trong giai đoạn hình thành của nền tân nhạc Việt Nam vào giữa thập niên 1930 mà phần lớn nay đã thất truyền, thì các nhạc khúc, ca khúc ngoại quốc lời Việt hiện đang được yêu chuộng, bắt đầu xuất hiện vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960.</p>
<p>Loại bài này có mục đích giới thiệu một số ca khúc điển hình trong số nói trên. Chúng tôi nhấn mạnh hai chữ “giới thiệu” bởi bản thân không phải là một nhà phê bình, mà chỉ là một người thưởng thức làm công việc của DJ (disc jockey). Có khác chăng, là niềm vui khi làm công việc này, bởi hy vọng sẽ có thêm những tâm hồn đồng điệu trong giới thưởng ngoạn.</p>
<p>Những ca khúc ấy được chọn lọc từ một khoảng thời gian trải dài ba, bốn thế kỷ, từ buổi ban đầu cho tới thời hiện đại của âm nhạc, vì thế bài thứ nhất trong loạt bài của chúng tôi sẽ viết sơ qua về nền nhạc cổ điển, như mở một cánh cửa bước vào thế giới âm nhạc tây phương.</p>
<p><strong><em>Ngũ đại tiền bối</em></strong></p>
<p>Một cách tổng quát, nền nhạc cổ điển tây phương (Classical Musics) là khoảng thời gian từ năm 1550 tới năm 1900, được hình thành vào thời Phục Hưng (Renaissance, từ thế kỷ thứ 14 tới thế kỷ thứ 16); và phát triển mạnh vào cuối thế kỷ thứ 17 đầu thế kỷ thứ 18.</p>
<p>Một cách chi tiết hơn, nền nhạc cổ điển ấy được chia ra làm ba thời kỳ – thời kỳ Baroque, thời kỳ Vàng son, và thời kỳ Lãng mạn.</p>
<p>Trước hết nói về thời kỳ Baroque.</p>
<p>Tại Ý và các nước Tây Âu khác như Anh, Pháp, Đức, Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha…, giai đoạn hình thành và bước đầu phát triển của nền nhạc cổ điển được gọi là thời kỳ Baroque. “Baroque” nói chung là hình thái văn chương, hội họa, và âm nhạc mạnh dạn, tươi sáng, mà Giáo hội Công giáo đã đề xướng sau Công đồng Trento (Council of Trent), nhóm họp vào giữa thế kỷ thứ 16.</p>
<p>Năm tên tuổi lớn nhất của giai đoạn phát triển nền nhạc cổ điển – mà chúng tôi gọi là “Ngũ đại tiền bối” – gồm ba vị người Ý và hai vị người Đức, đều thuộc thời kỳ Baroque.</p>
<p>Vào khoảng thời gian này, từ giữa thế kỷ thứ 16 tới giữa thế kỷ thứ 17, Ý và Đức-Áo được xem là hai cái nôi của âm nhạc, nhưng cả về hình thức lẫn nội dung đều khác nhau. Ở Ý, nhạc cụ phổ biến nhất là vĩ cầm, một loại đàn dây có khả năng thể hiện nhiều loại nhạc buồn vui khác nhau, phục vụ mọi tầng lớp xã hội, mà nhà nhạc sĩ có thể đem theo bên mình trên khắp mọi nẻo đường. Trong khi ở Đức-Áo, ngày ấy còn gọi là Holy Roman Empire – gồm các quốc gia Đức, Áo, Ba-lan, Tiệp-khắc ngày nay – nhạc cụ chính gồm đàn đại phong cầm, tức organ, trong các thánh đường, và đàn harpichord – tiền thân của dương cầm, cho nên các sáng tác của các nhà soạn nhạc cũng thường đóng khung trong khuôn khổ Thiên chúa giáo và phạm vi giới quý tộc.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0043.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image004_thumb3.jpg" alt="clip_image004" width="269" height="355" border="0" /></a></p>
<p><strong>Arcangelo Corelli (1653-1713)</strong></p>
<p>“Ngũ đại tiền bối”, theo thứ tự ra chào đời, trước hết là Arcangelo Corelli. Ông sinh năm 1653, là nhà soạn nhạc và nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng nhất của thời kỳ Baroque. Corelli được ghi nhận là nhạc sĩ đầu tiên đã có công biến cây vĩ cầm từ một nhạc cụ trong dàn nhạc thành một nhạc cụ trình diễn đơn lẻ.</p>
<p>Với cây đàn trên vai, từ năm 19 tuổi, ông đã bôn ba khắp nơi, tới tận Đức biểu diễn trong các cung đình, và rất được các ông hoàng bà chúa ái mộ. Corelli được xem là vị đại tiền bối của các thế hệ nhạc sĩ vĩ cầm ở Ý.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0062.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image006_thumb2.jpg" alt="clip_image006" width="260" height="326" border="0" /></a></p>
<p><strong>Antonio Vivaldi (1678-1741)</strong></p>
<p>Vị đại tiền bối người Ý kế tiếp là Antonio Vivaldi, ra chào đời tại Cộng hòa Venice năm 1678, sau Arcangelo Corelli một thế hệ.</p>
<p>Cuộc đời của vị linh mục kiêm nhạc sĩ tài hoa này khá ly kỳ và đầy huyền thoại: ông vừa lọt lòng mẹ thì xảy ra một trận động đất lớn ở Venice, nhưng vì con trai quá yếu ớt, èo uột, không biết có sống được hay không, cho nên ngay sau đó, bất chấp động đất, bà mẹ đã cho người đưa con tới nhà thờ để rửa tội, và hứa rằng nếu con mình sống được thì sẽ “dâng cho Chúa”, nghĩa là lớn lên sẽ đi tu làm linh mục.</p>
<p>Ông bố Giovanni Vivaldi của Antonio là một người thợ cạo kiêm nhạc sĩ vĩ cầm, bắt đầu dạy đàn cho con trai từ năm cậu lên 3 tuổi. Sau đó, vì Antonio tỏ ra có năng khiếu đặc biệt về vĩ cầm, ông Giovanni Vivaldi đã bỏ hẳn nghề hớt tóc, để cùng con trai đi biểu diễn dạo ở khắp nơi, và trở nên giàu có.</p>
<p>Nhưng bà mẹ vẫn không quên lời thề hứa năm xưa. Khi Antonio Vivaldi lên 15 tuổi, bà cho cậu đi tu, và 10 năm sau, trở thành linh mục. Tuy nhiên, vì Antonio Vivaldi vốn ốm yếu từ thuở lọt lòng mẹ – mà ngày ấy người ta cho rằng cậu bị suyễn, nhưng ngày nay, y học chỉ coi đó là một chứng tức ngực bẩm sinh – ít lâu sau khi trở thành linh mục, ông đã được miễn hẳn công việc dâng thánh lễ mỗi ngày, và dần dần về sau, ông không còn làm bất cứ công việc gì có liên quan tới chức vụ linh mục nữa, mặc dù suốt đời ông vẫn tuân giữ mọi lề luật của cuộc sống linh mục.</p>
<p>Tháng 9 năm 1703, sau khi thụ phong linh mục, Antonio Vivaldi được bổ nhiệm làm thầy giáo dạy vĩ cầm tại Pio Ospedale della Pietà – tức Cô nhi viện Tình thương, một trong bốn cô nhi viện của thành Venice, nơi ông sẽ phục vụ trong suốt 30 năm liên tục.</p>
<p>Tại cô nhi viện, ngoài công việc dạy vĩ cầm, Antonio Vivaldi còn dạy nhạc lý và dạy hát, vì thế bên cạnh các bản độc tấu, song tấu, tứ tấu cho vĩ cầm, ông còn sáng tác thánh ca, các vở ca nhạc kịch opera…</p>
<p>Dưới sự hướng dẫn của Antonio Vivaldi, dàn nhạc và ban hợp xướng của Cô nhi viện Tình thương đã nổi tiếng khắp Cộng hòa Venice, nhờ đó không ít cô bé mồ côi sau này đã trở thành mệnh phụ!</p>
<p>Về phần Antonio Vivaldi, trong thời gian 30 năm sống và làm việc tại đây, ông đã để lại cho đời 40 vở opera, 60 bản thánh ca, và trên 500 sáng tác cho các loại nhạc cụ.</p>
<p>Một trong những tác phẩm bất hủ của Antonio Vivaldi là bản tứ tấu dành cho vĩ vầm (violin concerti) có tựa đề “Bốn mùa” (The Four Seasons) –</p>
<p><strong><em>Phụ lục: Audio (1)- VIVALDI: The Four Seasons, Spring</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/01-Vivaldi-Four-Seasons.mp3"><strong><em>Phụ lục: Audio (1)- VIVALDI: The Four Seasons, Spring</em></strong></a></p>
<p>Có thể nói “Bốn mùa” là bản tứ tấu dành cho vĩ cầm nổi tiếng nhất, được ưa chuộng nhất từ xưa tới nay, của một nhà soạn nhạc thuộc thế hệ đầu tiên, nhưng không bao giờ bị xem là xưa cũ.</p>
<p>Chỉ có điều đáng buồn là vào những năm cuối đời, Antonio Vivaldi đã không được thỏa nguyện.</p>
<p>Nguyên sau 30 năm sống và làm việc tại Cô nhi viện Tình thương, Antonio Vivaldi được gặp gỡ Hoàng đế Charles đệ Lục của Đế quốc Áo, khi ông này tới thăm viếng Venice, và tham dự buổi trình diễn một vở opera của Vivaldi.</p>
<p>Vị hoàng đế rất thích thú, và ngỏ ý muốn đỡ đầu cho Antonio Vivaldi trong việc phổ biến thể loại ca nhạc kịch này tại kinh đô Vienne của Áo. Nhưng ít lâu sau khi Antonio Vivaldi khăn gói tới thành Vienne, Hoàng đế Charles đệ Lục băng hà. Không có mạnh thường quân tài trợ, giúp đỡ, Antonio Vivaldi sống trong nghèo khổ và chết trong cô đơn nơi đất khách quê người năm 1741.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0081.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image008_thumb1.jpg" alt="clip_image008" width="247" height="247" border="0" /></a></p>
<p><strong>Domenico Scarlatti (1685-1757)</strong></p>
<p>Vị đại tiền bối người Ý thứ ba là Domenico Scarlatti, sinh năm 1685, kém Vivaldi 7 tuổi. Điều trùng hợp lý thú là hai vị đại tiền bối người Đức mà chúng tôi sẽ đề cập tới là George Frideric Handel và Johann Sebastian Bach, cũng ra chào đời vào năm 1685.</p>
<p>Ông bố của Domenico Scarlatti là Alessandro Scarlatti, một nhà soạn nhạc kiêm thày dạy nhạc thời danh ở Napoli, tức Vương quốc Naples, sớm nhận ra tài năng thiên phú nơi con trai, nên đã ra sức chỉ dạy. Năm mới 16 tuổi, Domenico Scarlatti được trao phó công việc soạn nhạc và chơi đàn đại phong cầm trong ngôi thánh đường ở hoàng cung. Năm 20 tuổi, Domenico Scarlatti bắt đầu công việc soạn các vở oprera theo yêu cầu của các ông hoàng bà chúa.</p>
<p>Ông thường được mời sang kinh đô của Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, và Anh quốc để dựng các vở opera của mình; và từ năm 1719, sống luôn ở Tây-ban-nha, Bồ-đào-nha, để làm nhạc sư trong hai triều đình này. Domenico Scarlatti qua đời tại Madrid vào tuổi 71.</p>
<p>Về sự nghiệp âm nhạc, chỉ tính thể loại sonata, tức “tấu khúc”, viết cho dương cầm, Scarlatti đã để lại cho hậu thế 555 bản. Trong số những nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng sau này chịu ảnh hưởng của Scarlatti, có Johannes Brahms và Frédéric Chopin.</p>
<p>* * *</p>
<p>Tiếp theo, viết về hai vị đại tiền bối người Đức: George Frideric Handel và Johann Sebastian Bach.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0101.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image010_thumb1.jpg" alt="clip_image010" width="237" height="279" border="0" /></a></p>
<p><strong>George Frideric Handel (1685-1759)</strong></p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0121.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image012_thumb1.jpg" alt="clip_image012" width="235" height="291" border="0" /></a></strong></p>
<p><strong>Johann Sebastian Bach (1685-1750)</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Một cách chính xác, phải gọi Handel là một công dân Anh gốc Đức. Ông ra chào đời năm 1685 tại Brandenburg, ngày ấy thuộc đế quốc Phổ (Prussia). Cha ông là một y sĩ trong triều đình, chỉ muốn con trai trở thành trạng sư, ngành nghề được nể trọng nhất trong xã hội thời bấy giờ.</p>
<p>Nhưng Handel lại chỉ mê âm nhạc. Bị cha nghiêm cấm tiếp xúc với các vị thầy dạy nhạc, vào năm 12 tuổi, Handel đã tự tay tháo gỡ một cây đàn harpichord, rồi khuân lên căn gác sát mái nhà, ráp lại để tự tập dợt vào những lúc ông bố vắng nhà.</p>
<p>Năm 16 tuổi, Handel có dịp biểu diễn cho một vị công tước trong triều, được ông này hết lời khen ngợi, và can thiệp với ông bố y sĩ cho phép Handel theo đuổi âm nhạc. Sau khi thọ giáo một vị tu sĩ người Đức, Handel sang Ý học hỏi thêm, trước khi sang Anh quốc sinh sống và trở thành công dân Anh.</p>
<p>Handel là tác giả của nhiều vở opera, các bản hòa tấu và hợp xướng nổi tiếng. Hai nhà soạn nhạc lừng danh sau này, tác giả của những bản giao hưởng bất hủ của nền nhạc cổ điển là Mozart và Beethoven đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của Handel.</p>
<p>Một trong những tác phẩm nổi tiếng và phổ biến nhất của Handel là bản đại hợp xướng Messiad (Đấng Tiên Tri), trong đó có tiểu khúc “For Unto Us a Child Is Born” – một bản không thể thiếu trong các buổi trình diễn thánh ca Giáng Sinh (Christmas Carols) ở các quốc gia tây phương.</p>
<p><strong><em>Phụ lục: Audio (2)- HANDEL: For Unto Us a Child Is Born</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/02-Handel-For-Unto-Us-A-Child-Is-Born.mp3"><strong><em>Phụ lục: Audio (2)- HANDEL: For Unto Us a Child Is Born</em></strong></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>* * *</p>
<p>Cuối cùng viết về Johann Sebastian Bach. Một cách ngắn gọn, có thể viết Johann Sebastian Bach chính là núi Thái Sơn của nền nhạc cổ điển tây phương.</p>
<p>Ông được hậu thế xem là một nhà soạn nhạc vĩ đại, cho cả các ban đại hòa tấu lẫn các ban đại hợp xướng, và là nhạc sĩ đại phong cầm (organ) kiêm vĩ cầm tài giỏi nhất. Các sáng tác của ông đã trở thành khuôn mẫu và thay đổi cả nền âm nhạc ở Âu châu thời bấy giờ, và cách sử dụng vĩ cầm của ông cũng được xem là tiêu chuẩn để các thế hệ nối tiếp cố gắng đạt tới.</p>
<p>Johann Sebastian Bach ra chào đời năm 1685 trong một đại gia đình âm nhạc, mà hiện nay, ngoài Johann Sebastian, lịch sử âm nhạc còn ghi lại nhiều người khác cùng mang họ Bach.</p>
<p>Năm 1750, Johann Sebastian Bach bất ngờ lâm trọng bệnh, các bác sĩ nghi ngờ ông bị viêm phổi, và sau một cuộc giải phẫu thất bại, ông qua đời vào tuổi 65.</p>
<p>Johann Sebastian Bach đã để lại ảnh hưởng mạnh mẽ nơi các thế hệ nhạc sĩ đi sau. Riêng Mozart, Beethoven, Schumann, và Mendensohn đều sử dụng khuôn thức sáng tác của ông.</p>
<p>Chỉ tính các ca khúc viết về tôn giáo của Johann Sebastian Bach đã lên tới 200 bản.</p>
<p>Một trong những nhạc khúc soạn cho đại phong cầm rất quen thuộc và nổi tiếng của Johann Sebastian Bach là bản “Toccata and Fugue cung Ré thứ”, thường được sử dụng làm nhạc khúc cho nghi lễ khai mạc và bế mạc các buổi lễ tốt nghiệp tại các trường có truyền thống âm nhạc.</p>
<p><strong><em>Phụ lục: Audio (3)- BACH: Toccata and Fugue</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/03-Bach-Toccata-Fugue-In-D-Minor-BWV-565-Excerpt.mp3"><strong><em>Phụ lục: Audio (3)- BACH: Toccata and Fugue</em></strong></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Sau này, trong đĩa nhạc “Voyager Golden Record”, gồm 27 sáng tác cũ mới, được thực hiện riêng cho các phi hành gia trên phi thuyền Voyager đem theo để thưởng thức trong chuyến bay vào không gian, đã có tới 3 bản của Johann Sebastian Bach.</p>
<p><strong><em>Phụ lục: Audio (4)- BACH: Zion Hort Die Wachter Singen</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/04-Bach-Zion-Hort-Die-Wachter-Singen1.mp3"><strong><em>Phụ lục: Audio (4)- BACH: Zion Hort Die Wachter Singen</em></strong></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>* * *</p>
<p>Khởi đầu cùng với sự nghiệp của “Ngũ đại tiền bối” trong thời kỳ Baroque, nền nhạc cổ điển tây phương sẽ đạt tới đỉnh cao với Mozart, Beethoven… của thời kỳ vàng son, trước khi bước vào thời kỳ lãng mạn với Schubert, Chopin, Brahms… Những tên tuổi cùng với tác phẩm sẽ được chúng tôi lần lượt điểm qua trong loạt bài này.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>PHỤ LỤC (Audio):</strong></p>
<p>(1) VIVALDI: The Four Seasons, Spring</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/01-Vivaldi-Four-Seasons.mp3">01- Vivaldi – Four Seasons</a></p>
<p>(2) HANDEL: For Unto Us a Child Is Born</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/02-Handel-For-Unto-Us-A-Child-Is-Born.mp3">02- Handel – For Unto Us A Child Is Born</a></p>
<p>(3) BACH: Toccata and Fugue</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/03-Bach-Toccata-Fugue-In-D-Minor-BWV-565-Excerpt.mp3">03 – Bach- Toccata &amp; Fugue In D Minor, BWV 565 (Excerpt)</a></p>
<p>(4) BACH: Zion Hort Die Wachter Singen</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/04-Bach-Zion-Hort-Die-Wachter-Singen1.mp3">04 – Bach- Zion Hort Die Wachter Singen</a></p>
<p><strong>Hoài Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2012</p>
</p>

saomai
10-10-2014, 06:08 PM
<p><p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image00229.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image002_thumb29.jpg" alt="clip_image002" width="276" height="332" border="0" /></a></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>Ludwig van Beethoven</strong><strong> (1770-1827)</strong></p>
<p>Sau thời kỳ phát triển vào thế kỷ thứ 16, 17, với “ngũ đại tiền bối” Corelli, Vivaldi, Scarlatti, Handel và Bach, bước sang thế kỷ thứ 18, nền nhạc cổ điển tây phương đã đạt tới đỉnh cao, với danh sư Haydn của Áo và hai thiên tài Mozart (Áo), Beethoven (Đức).</p>
<p>Một cách chính thức, nền nhạc cổ điển tây phương (Classical Musics) được chia ra làm ba thời kỳ (era, hoặc period) là Baroque era, Classical era, và Romantic era.</p>
<p>“Baroque era” là thời kỳ phát triển, chúng tôi đã trình bày trong bài dẫn nhập, còn “Classical era”, tạm dịch là “thời kỳ cổ điển”. Theo sự phân chia của các nhạc sử gia, “Classical era” là thời gian từ năm 1750 tới 1830. Việc sử dụng chữ “Classical” để gọi MỘT THỜI KỲ trong nền nhạc cũng được gọi là “Classical”, đã gây nhức đầu cho nhiều người, kể cả người tây phương, vì thế trừ những trường hợp bắt buộc, người ta thường sử dụng hai chữ “thời kỳ vàng son” (Golden era) một cách bán chính thức thay cho “thời kỳ cổ điển”.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0033.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image003_thumb3.jpg" alt="clip_image003" width="281" height="356" border="0" /></a></p>
<p><strong>Joseph Haydn</strong><strong> (1732-1809)</strong></p>
<p>Tên tuổi nổi tiếng thứ nhất của thời kỳ vàng son là Joseph Haydn. Đúng ra, tên của ông bằng tiếng Áo là Franz Joseph Hayden, nhưng vì người Đức gọi ông là Joseph Haydn, cho nên hậu thế cũng gọi theo. Sinh năm 1732 và mất năm 1809, Joseph Haydn được xem là “Cha đẻ của nhạc giao hưởng” (Father of the Symphony), “Cha đẻ của tứ tấu đàn dây” (Father of the String Quartet). Ngoài ra ông còn có công lớn trong việc phát triển thể loại tam tấu “piano trio”, gồm dương cầm, vĩ cầm và cello.</p>
<p>Bước sang thời hiện đại, các sáng tác của Joseph Haydn ngày càng ít được phổ biến, nhưng vào những năm cuối thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ thứ 19, ông là nhà soạn nhạc được ái mộ nhất ở Âu châu.</p>
<p>Joseph Haydn có người em trai cũng là một nhà soạn nhạc nổi tiếng, Michael Haydn. Đồng thời, ông còn là bạn già của Mozart và sư phụ của Beethoven.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image0048.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image004_thumb8.jpg" alt="clip_image004" width="268" height="294" border="0" /></a></p>
<p><strong>Wolfgang Amadeus Mozart</strong><strong> (1756-1791)</strong></p>
<p>Tới đây viết về thiên tài Wolfgang Amadeus Mozart. Ông sinh năm 1756, sau Haydn một phần tư thế kỷ, nhưng lại qua đời trước vị danh sư 18 năm! Mozart được hậu thế xem là nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất và tạo nhiều ảnh hưởng nhất của thời kỳ vàng son trong nền nhạc cổ điển. Bên cạnh đó, ông còn là một nhạc sĩ dương cầm xuất chúng.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (1)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/01-Mozart.mp3">“Elvira Madigan” – Piano Concerto No. 21, MOZART</a></p>
<p>Mozart qua đời tại thành Vienne khi mới 35 tuổi, nhưng đã để lại một sự nghiệp vĩ đại, gồm trên 600 tác phẩm thuộc đủ các thể loại: giao hưởng, đại hòa tấu, thính phòng, opera, hợp xướng, hòa tấu, và độc tấu cho nhiều loại nhạc cụ khác nhau.</p>
<p>Chỉ tính thể loại giao hưởng, Mozart đã viết 41 bản có đánh số thứ tự từ 1 tới 41, và ít nhất là 10 bản không đánh số.</p>
<p>Về thể loại “serénade” (dạ khúc), Mozart viết tới 13 bản, mà bản quen thuộc nhất, sống ở xã hội tây phương, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng nghe qua ít nhất một lần trong đời. Đó là bản Serénade số 13, cung Sol trưởng, viết cho ban nhạc thính phòng, có tựa đề bằng tiếng Đức là “Eine Kleine Nachtmusik”, nghĩa là “tiểu dạ khúc”.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (2)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/02-Mozart1.wma">02- Mozart</a></p>
<p>Nhận xét về Mozart, Joseph Haydn đã viết như sau: “<em>Đây là một tài năng mà có lẽ trong vòng 100 năm sắp tới, không thể tìm ra một người thứ hai”.</em></p>
<p>Về phần Beethoven, chính thiên tài âm nhạc này đã nhìn nhận những sáng tác của mình trong thời gian đầu là <em>” viết dưới cái bóng của Mozart!</em><em>”.</em></p>
<p>* * *</p>
<p>Nói về Beethoven, một số tác giả đã xưng tụng: trong nền nhạc cổ điển tây phương có ba chữ “B” lớn: BACH của thời kỳ phát triển, BEETHOVEN của thời kỳ vàng son; và BRAHMS của thời kỳ lãng mạn.</p>
<p>Thực ra, nếu chỉ xét tính cách đa dạng, phong phú của các sáng tác, Beethoven không thể sánh với Mozart. Nhưng với không ít người yêu nhạc, các sáng tác của Beethoven lại độc đáo hơn. Bên cạnh đó, ông còn được xem là người đã khởi xướng một sự chuyển đổi từ khuynh hướng cổ điển sang khuynh hướng lãng mạn, và đã để lại ảnh hưởng sâu đậm nơi các tài danh của thời kỳ lãng mạn như Schubert, Mendelssohn, Liszt, Wagner…</p>
<p>Ludwig van Beethoven ra chào đời ngày 16 tháng 12 năm 1770, tại thành phố Bonn, vương quốc Cologne, ngày nay thuộc Tây Đức.</p>
<p>Beethoven là một dòng họ của âm nhạc. Ông nội của Ludwig van Beethoven từng giữ chức Giám đốc âm nhạc trong triều đình Cologne, cha của ông là ca sĩ tenor trong ban nhạc nói trên, ngoài ra cha ông còn dạy dương cầm và vĩ cầm để có thêm nguồn thu nhập cho gia đình.</p>
<p>Năm lên 5 tuổi, Beethoven bắt đầu được cha dạy nhạc, và qua năm sau, cùng một lúc đã được 3 nhạc sĩ khác – đồng nghiệp của cha hoặc họ hàng, kèm dạy 4 loại nhạc cụ: đại phong cầm, dương cầm, vĩ cầm và trung vĩ cầm (viola).</p>
<p>Năm 7 tuổi, Beethoven bắt đầu trình diễn trước công chúng. Năm 13 tuổi, Beethoven sáng tác những bản nhạc đầu tiên, gồm 1 bản cho đại phong cầm, và 3 bản cho dương cầm.</p>
<p>Năm 17 tuổi, nghe danh Mozart, Beethoven rời Bonn tới thành Vienne để xin bái sư. Nghe Beethoven đàn thử, Mozart hết lời khen ngợi. Nhưng chỉ 3 tuần lễ sau đó, được tin mẹ đau nặng, Beethoven phải bỏ Vienne trở về Bonn. Ít lâu sau, mẹ ông qua đời; cha ông trước đó vốn đã có tật nghiện rượu, nay càng nghiện nặng hơn, và Beethoven đã phải trở thành người kiếm tiền về để nuôi hai em trai.</p>
<p>Trong thời gian 5 năm sau khi mẹ chết, công việc chính của Beethoven là qua sự giới thiệu của bạn bè, làm người dạy nhạc cho con cái các nhà quý tộc.</p>
<p>Năm 1792, Beethoven lại bỏ Bonn để tới Vienne tìm đường tiến thân. Khi ấy, Mozart đã qua đời, nên Beethoven vừa thọ giáo danh sư Joseph Haydn về nhạc lý, vừa trình diễn dương cầm tại phòng khách của các nhà quý tộc, và trở nên nổi tiếng. Không còn phải bận tâm về sinh kế, tài năng thiên phú nơi Beethoven bắt đầu phát triển.</p>
<p><strong>(Phụ lục: Audio (3)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/03-Beethoven.mp3"><strong>(Phụ lục: Audio (3) </strong></a></p>
<p>* * *</p>
<p>Như chúng tôi đã trình bày ở trên, xét về tính cách đa dạng, phong phú của các sáng tác, Beethoven không thể sánh với Mozart. Thế nhưng những người ái mộ Beethoven cũng có quyền đặt một câu hỏi ngược lại: nếu Mozart cũng bị điếc vào tuổi 26, 27 như Beethoven, liệu sau đó Mozart có còn khả năng sáng tác như Beethoven hay không? Không ai có thể trả lời!</p>
<p>Nguyên từ năm 1796, hai tai của Beethoven bắt đầu mất dần khả năng nghe, gây nhiều khó khăn trong việc trình diễn và giao tiếp hàng ngày. Nhưng khả năng sáng tác thì không hề bị suy giảm. Cũng nên biết tất cả mọi bản giao hưởng, và hầu hết các “piano concerto” của Beethoven đều được ông sáng tác từ năm 1801 trở về sau. Có nghĩa khi sáng tác, Beethoven đã sử dụng trí tưởng tượng nhiều hơn là thính giác.</p>
<p>Người ta kể lại rằng, trong buổi trình diễn bản giao hưởng số 9 của ông – bản giao hưởng được xưng tụng là hay nhất của nền nhạc cổ điển – khi bản nhạc chấm dứt, không nghe thấy tiếng vỗ tay, ông vô cùng thất vọng. Tới khi quay xuống phía cử tọa, nhìn thấy mọi người đang vỗ tay nhiệt liệt, ông đã khóc. Vừa khóc vì thành công của bản giao hưởng sau cùng của mình, vừa khóc vì sực nhớ lại mình đã bị điếc hoàn toàn.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trong tổng số 9 bản giao hưởng của Beethoven, các bản số 3, số 5, và số 9 nổi tiếng nhất.</p>
<p>Bản số 3 nổi tiếng vì được Beethoven đề tặng Napoléon Bonaparte nhưng sau đó lại đổi ý. Nguyên vào thời kỳ hỗn loạn sau cuộc Cách mạng Pháp 1789, tướng Bonaparte từ Ai-cập trở về ổn định tình hình và lên làm Đệ nhất Tổng tài (First Consul) của nền Cộng hòa Pháp.</p>
<p>Với Beethoven và những người có tư tưởng cấp tiến, chống chế độ quân chủ chuyên chế, thì Bonaparte là một người hùng. Vì thế, mặc dù được ông Hoàng Franz Joseph Maximillian Lobkowitz đề nghị trả một số tiền khá lớn để đề tặng bản giao hưởng số 3 cho ông ta, Beethoven vẫn quyết định đề tặng “free” cho Tướng Bonaparte.</p>
<p>Nghe kể lại, sau khi được tin Bonaparte dẹp bỏ chế độ cộng hòa và tự xưng hoàng đế – tức Nã-phá-luân đệ Nhất, Beethoven đã đùng đùng nổi giận, tiến tới bàn làm việc và xét nát trang đầu của bản giao hưởng trên có ghi lời đề tặng vị tướng anh hùng!</p>
<p>Còn bản giao hưởng số 9 thì được xưng tụng là bản giao hưởng hay nhất của nền nhạc cổ điển. Tuy nhiên, bản này khá “cao”, muốn thưởng thức hay trình diễn cũng đều phải có trình độ tương đối cao.</p>
<p>Còn nhớ vào cuối thập niên 1980, khi chế độ cộng sản Trung Hoa “trình làng” dàn nhạc giao hưởng thành phố Bắc Kinh, để chứng tỏ mình đã đủ trình độ quốc tế, dàn nhạc này đã trình diễn bản giao hưởng số 9 của Beethoven.</p>
<p>Tuy nhiên, với người yêu nhạc cổ điển nói chung – tức là thuộc đủ mọi trình độ, thì bản giao hưởng số 5 của ông mới chính là bản phổ biến nhất, được ưa chuộng nhất, được nhiều dàn nhạc trình diễn nhất. Điểm độc đáo của bản giao hưởng số 5 là chỉ cần qua 4 nốt nhạc đầu tiên, Beethoven đã cho thấy ông là một thiên tài, và các nhà phê bình đã xưng tụng đó là bốn nốt nhạc tuyệt vời nhất trong cả nền nhạc cổ điển.</p>
<p>(<strong>Phụ lục: Audio (4)</strong></p>
<p><strong></strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/04-Beethoven-Symp-5.wma">(<strong>Phụ lục: Audio (4)</strong></a></p>
<p>* * *</p>
<p>Sự nghiệp âm nhạc của Beethoven lạ thường như thế nào, thì cuộc sống tình cảm của ông cũng lạ lùng như thế. Khác với đa số nghệ sĩ cùng thời, thường biết yêu rất sớm, hoặc ít ra cũng có một nàng thơ (muse) để tìm nguồn cảm hứng, chẳng hạn Chopin vào năm mới 16 tuổi, riêng Beethoven mãi tới năm 30 tuổi, mới rung động lần đầu tiên trước một người con gái, dẫn đưa tới một chuyện tình éo le, sẽ theo ông suốt một đời.</p>
<p>Nguyên vào giữa năm 1799, Beethoven được mời dạy dương cầm cho hai cô con gái của Nữ bá tước Anna Brunsvik. Mặc dù thời gian dạy đàn cho các cô chưa đầy một tháng, giữa Beethoven và cô chị Joséphine đã nảy sinh một tình cảm đặc biệt. Nhưng lúc đó, Joséphine đã được hứa gả cho ông Bá tước già Josef Deym, và mấy tháng sau về làm vợ ông. Từ đó, Beethoven thường lui tới nhà vị bá tước, khi thì dạy đàn cho Joséphine, khi thì trình diễn trong các dịp tiệc tùng do hai vợ chồng Bá tước tổ chức.</p>
<p>Mặc dù sau này người ta được biết Joséphine không tìm được hạnh phúc trong cuộc hôn nhân sắp đặt và quá chênh lệch tuổi tác ấy, nàng cũng sinh năm một, lần lượt cho ra chào đời bốn người con. Chỉ tới khi Bá tước Josef Deym qua đời sau 5 năm chung sống, chuyện tình giữa Joséphine và Beethoven mới trở nên thắm thiết.</p>
<p>Điều oái ăm là 4 năm trước đó, tức năm 1800, chính chị em Joséphine lại đã giới thiệu Beethoven với tiểu thư Giulietta Guicciardi. Chuyện tình của Beethoven với Giulietta đã được chính ông kể lại trong lá thư viết cho một người bạn thân vào năm 1801.</p>
<p>Tuy nhiên, cuộc nhân duyên giữa Beethoven và Giulietta Guicciardi đã không thành vì bị ông bố của nàng kịch liệt phản đối, bởi ông cho rằng một người xuất thân từ hàng thứ dân như Beethoven không xứng với cô con gái cành vàng lá ngọc của ông.</p>
<p>Hai năm sau, Giulietta lấy Bá tước Wenzel Robert von Gallenberg. Mười chín năm sau, cuộc hôn nhân tan vỡ, Giulietta đề nghị Beethoven nối lại tình xưa nhưng ông đã lạnh lùng từ chối.</p>
<p>Nhưng dù không thành, chuyện tình của Beethoven với Giulietta Guicciardi cũng đã để lại cho đời một nhạc khúc bất hủ, mà ông đã đề tặng nàng khi tình còn đẹp. Đó là bản sonata số 14, soạn cho dương cầm, có tựa đề là “Ánh trăng” – tức “Clair de Lune” trong tiếng Pháp, “Moonlight” trong tiếng Anh.</p>
<p>Bản này, cùng với bản “Fantaisie Impromtu” của Chopin mà chúng tôi sẽ giới thiệu trong nay mai – một bản êm đềm chậm rãi, một bản réo rắt dồn dập, là hai bản cổ điển được những người đàn dương cầm ưa chuộng nhất.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (5)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/05-Beethoven-Moonlight.mp3"><strong>Phụ lục: Audio (5)</strong></a></p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với mối tình đầu của Beethoven, năm 1804, Bá tước Josef Deym qua đời, Joséphine trở thành góa phụ. Thế là 5 năm tình cũ, giờ đây mới được thỏa nguyện. Nhưng Joséphine chỉ muốn làm người tình của Beethoven chứ không muốn chung sống chính thức như vợ chồng. Theo lời kể lại của những người biết rõ câu chuyện, ngày ấy Beethoven đã tha thiết ngỏ lời cầu hôn, nhưng bị Joséphine khước từ.</p>
<p>Để rồi 3 năm sau, 1807, Joséphine đã phải nuốt lệ chấm dứt hẳn với Beethoven. Nàng đem bổn phận của một người mẹ với bốn con thơ dại làm lý do để viện dẫn, nhưng người ngoài thì hiểu nguyên nhân chính là vì Joséphine thuộc dòng dõi quý tộc, còn Beethoven xuất thân chốn dân dã, nàng cần giữ thanh danh vì tương lai của các con.</p>
<p>Ngoài Joséphine Deym và Giulietta Guicciardi, còn có thêm một bóng hồng đặc biệt khác trong đời Beethoven – mà hậu thế tin rằng đã được ông đề tặng nhạc khúc bất hủ “Fur Elise”.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image005.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/clip_image005_thumb.jpg" alt="clip_image005" width="286" height="355" border="0" /></a></p>
<p><strong>Thérèse Malfatti</strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Bóng hồng ấy là Thérèse Malfatti, một nữ nhạc sĩ dương cầm ở thành Vienne, vừa là bạn vừa là học trò của Beethoven, kém ông 22 tuổi.</p>
<p>Thérèse là con gái của một thương gia giàu có, sau này được triều đình Áo phong tước. Nàng và cô em gái Anna rất yêu nhạc; năm 1811, Anna kết hôn với Ignaz von Gleichenstein, một người bạn trẻ của Beethoven.</p>
<p>Về phần Thérèse, trước đó 1 năm, tức 1810, đã được Beethoven ngỏ lời nhưng nàng khước từ. Có điều lạ là tuy từ chối lời cầu hôn của Beethoven, Thérèse vẫn duy trì một “mối tình văn nghệ” với nhà nhạc sĩ mãi cho tới năm 1816, khi nàng trở thành vợ của một nhà quý tộc kiêm chính khách người Áo.</p>
<p>Gần một nửa thế kỷ sau, vào năm 1865, tức là 38 năm sau ngày Beethoven qua đời, và Thérèse cũng đã yên giấc nghìn thu được 14 năm, nhạc sĩ Ludwig Nohl mới khám phá ra trong số di sản về âm nhạc mà bà để lại cho người thừa kế, có bản thảo viết tay tựa đề “Fur Elise” của Beethoven, đề tặng Thérèse ngày 27 tháng Tư năm 1810 – tức là thời gian Beethoven ngỏ lời với Thérèse. Ludwig Nohl liền xin sao chép bản thảo này và 2 năm sau (1867) cho xuất bản.</p>
<p>Có điều đáng nói là từ đó cho tới nay, không một ai được nhìn thấy bản thảo nguyên thủy của Beethoven đề tặng Thérèse. Nghĩa là nếu bản thảo ấy có thực, nó đã bị thất lạc vĩnh viễn.</p>
<p>Tạm thời tin vào tất cả những gì nhạc sĩ Ludwig Nohl kể lại, một câu hỏi cũng phải được đặt ra: tại sao tựa đề nhạc khúc ấy lại là “Fur Elise” – có nghĩa là “cho nàng Elise”.</p>
<p>Elise là ai?</p>
<p>Vì “Elise” là một cách gọi thân mật của “Elisabeth”, cho nên có giả thuyết cho rằng Beethoven viết nhạc khúc này để tặng Elisabeth Rockel, một nữ ca sĩ giọng soprano nổi tiếng của Đức đương thời, và cũng là một người bạn trẻ của Beethoven; nếu thế, tại sao bản này lại được ông đề tặng cho Thérèse Malfatti?!</p>
<p>Không ai có câu trả lời, để rồi lâu lâu lại có thêm một giả thuyết, một huyền thoại mới. Giả thuyết ra vẻ ly kỳ nhất cho rằng chính người thừa kế của Thérèse Malfatti đã giả chữ viết và chữ ký của Beethoven để ghi lời đề tặng “tưởng tượng” ấy (cho Thérèse) lên bản thảo.</p>
<p>Gần đây nhất, trong luận án tiến sĩ âm nhạc của mình, nhà nhạc học người Ý Luca Chiantore còn đi xa hơn khi cho rằng, bản thảo “Fur Elise” mà Thérèse Malfatti để lại cho người thừa kế, không phải là bản thảo nguyên thủy của Beethoven, mà là do người khác sao chép lại.</p>
<p>Nhưng nói cho cùng, dù Beethoven sáng tác bản “Fur Elise” để tặng nàng ca sĩ trẻ Elisabeth Rockel hay tặng người tình Thérèse Malfatti, hoặc chẳng tặng ai cả, giá trị để đời của nhạc khúc ấy cũng như sự yêu thích của người thường ngoạn, cũng không thay đổi.</p>
<p>Cũng xin viết thêm, “Fur Elise” thuộc thể loại “bagatelle”, có nguồn gốc từ Pháp, là những nhạc khúc ngắn, đơn giản, vui tươi, thường được viết cho dương cầm.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (6)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/06-Beethoven-Fur-Elise.mp3"><strong>Phụ lục: Audio (6)</strong></a></p>
<p>* * *</p>
<p>Ludwig van Beethoven qua đời ngày 26 tháng 3 năm 1827, hưởng dương 56 tuổi. Đúng vào lúc ông tắt thở, một cơn giông tố sấm sét chưa từng thấy đã ập xuống thành Vienne. Kết quả giảo nghiệm cho thấy Beethoven chết vì xơ gan, có lẽ do hậu quả của việc uống rượu quá độ trong những năm cuối đời.</p>
<p>Hơn 20.000 người dân thành Vienne đã tiễn đưa Beethoven tới nơi an nghỉ sau cùng. Trong số những người khiêng quan tài của ông có Franz Schubert, tác giả hai bản Ave Maria và Dạ Khúc bất hủ. Để rồi một năm sau, chính Schubert cũng qua đời, và yên nghỉ bên cạnh Beethoven trong nghĩa trang Wahring ở ngoại ô thành Vienne.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với bản “Fur Elise”. Bản này được Beethoven soạn cho dương cầm, nhưng vì được quá nhiều người yêu chuộng, sau này đã được soạn hợp âm cho cả tây-ban-cầm, mà hầu như những ai chơi đàn ghi-ta classic cũng đều nhuần nhuyễn!</p>
<p>Tới năm 1959, “Fur Elise” được đặt lời bằng tiếng Pháp với tựa đề “Tout l’amour” – Trọn tình em trao anh – và được nữ danh ca Dalida trình bày theo thể điệu Mambo, đã trở thành ca khúc ngoại quốc được ưa chuộng bậc nhất trong suốt mấy năm liền tại Hòn ngọc viễn đông.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (7) </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/07-Dalida-tout-lamour.mp3"><strong>Phụ lục: Audio (7)</strong></a></p>
<p>Về sau, ca khúc này đã được đặt lời Việt với tựa đề “Khi tình yêu tới”, và được Kiều Nga trình bày thể điệu New Wave.</p>
<p>Sinh thời, Beethoven được mô tả là người rất khó tính. Tuy nhiên có lẽ giờ này dưới suối vàng, ông cũng mỉm cười bao dung, thậm chí mãn nguyện, trước việc một tác phẩm cổ điển của mình lại được cả thế hệ trẻ ngày nay yêu chuộng.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (8)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/08-kieu-Nga-Khi-tinh-yeu-toi.mp3"><strong>Phụ lục: Audio (8)</strong></a></p>
<p>Nhưng vinh dự lớn nhất trong những vinh sự dành cho Ludwig van Beethoven phải là việc một đoạn trong bản giao hưởng số 9 của ông đã được sử dụng làm nhạc thiều chung cho cả Âu Châu (European anthem).</p>
<p>Đó là đoạn thứ tư và cũng là phần kết của bản giao hưởng này, có tựa đề là “Ode to Joy” (Bài hoan ca).</p>
<p>Vào năm 1985, các vị nguyên thủ quốc gia thuộc Cộng Đồng Âu Châu (European Community – tới năm 1993 trở thành Liên Hiệp Âu Châu, European Union) đã quyết định chọn bản “Ode to Joy”, với ý nghĩa: Tự do, Hòa bình và Đoàn kết.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (9)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/09-Beethoven-Symp-9.mp3"><strong>Phụ lục: Audio (9)</strong></a></p>
<p><strong>PHỤ LỤC:</strong></p>
<p>(1) “Elvira Madigan” – Piano Concerto No. 21, MOZART</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/01-Mozart.mp3" target="_blank">(1) “Elvira Madigan” – Piano Concerto No. 21, MOZART</a></p>
<p>2) “Eine kleine Nachtmusik”, MOZAR</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/02-Mozart1.wma" target="_blank">(2) “Eine kleine Nachtmusik”, MOZART</a></p>
<p>(3) “The Tempest” – Piano Sonata No. 17, BEETHOVEN</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/03-Beethoven.mp3">03- Beethoven</a></p>
<p>(4) Symphony No. 5, part I, BEETHOVEN</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/04-Beethoven-Symp-5.wma">04- Beethoven Symp 5</a></p>
<p>(5) “Moonlight” – Piano Sonata No. 14, BEETHOVEN )</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/05-Beethoven-Moonlight.mp3">05- Beethoven Moonlight</a></p>
<p>(6) “Fur Elise”- Bagatelle, BEETHOVEN</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/06-Beethoven-Fur-Elise.mp3">06- Beethoven Fur Elise</a></p>
<p>(7) “Tout l’amour”, DALIDA</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/07-Dalida-tout-lamour.mp3">07- Dalida tout lamour</a></p>
<p>(8) “Khi tình yêu tới”, KIỀU NGA</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/08-kieu-Nga-Khi-tinh-yeu-toi.mp3">08- kieu Nga Khi tinh yeu toi</a></p>
<p>(9) “Ode to Joy”, Symphony No.9, BEETHOVEN</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/09-Beethoven-Symp-9.mp3">09- Beethoven Symp 9</a></p>
<p><strong>Hoài Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>© T.Vấn 2012</p>
</p>

saomai
10-10-2014, 06:23 PM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1412965307.JPG
http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/01/08-kieu-Nga-Khi-tinh-yeu-toi.mp3

saomai
10-13-2014, 07:27 AM
<p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image00211.jpg"><img style="background-image: none; margin: 0px 20px 15px 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; float: left; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image002_thumb11.jpg" alt="clip_image002" width="212" height="309" align="left" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>Franz Schubert.</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p>Franz Schubert là nhà soạn nhạc nổi tiếng nhất của đầu thời kỳ lãng mạn (Romantic era) trong nền nhạc cổ điển tây phương. Tác giả của bản Serénade bất hủ, ca khúc Ave Maria để đời, và bản Giao hưởng Dang dở (Symphonie Inachevée) đầy huyền thoại.</p>
<p>Franz Schubert cũng là người chết trẻ nhất. Nếu hậu thế đã phải tiếc thương một Chopin qua đời vào tuổi 39, một Mozart vào tuổi 35, thì lại càng phải xót xa cho Schubert, vì ông mất năm mới 31 tuổi!</p>
<p>Thế nhưng, nếu nói về số lượng, Schubert lại đứng đầu các tác giả nhạc cổ điển với trên 1000 tác phẩm, gồm khoảng 600 ca khúc, 9 bản giao hưởng, 6 lễ nhạc Công giáo, 5 vở opera, 21 bản sonata, 31 bản thính phòng, cùng nhiều sáng tác ngẫu hứng, và các bản độc tấu dành cho dương cầm.</p>
<p>Phần lớn tác phẩm của Schubert chỉ được biết tới và đón nhận sau khi ông đã qua đời. Nguyên nhân chính là lúc còn sống, ông không có nhiều cơ hội phổ biến rộng rãi các sáng tác của mình, mà thường chỉ giới hạn trong vòng bạn bè thân quen, và một số người ái mộ. Chỉ sau khi Schubert mất, các nhạc sĩ bạn, hoặc thuộc hệ kế tiếp, như Franz Liszt, Robert Schuman, Felix Mendelssohn, mới bỏ công thu thập và phổ biến các sáng tác để đời của ông.</p>
<p>Franz Peter Schubert ra chào đời ngày 31 tháng 1 năm 1797 tại Alsergrund, một vùng ngoại ô của thành Vienne, kinh đô Áo quốc. Cha ông, Franz Theodor Schubert, mở một trường học – vừa dạy chữ vừa dạy nhạc – tại Quận Lichtental, nơi mà các con trai của ông lần lượt trở thành giáo viên.</p>
<p>Mặc dù không phải là một nhạc sĩ nổi tiếng, cũng không xuất thân từ một nhạc viện nào, nhưng Franz Theodor Schubert rất đông học trò. Năm lên 5 tuổi, Franz (Peter) Schubert bắt đầu được cha dạy vĩ cầm, và anh trai Ignaz dạy dương cầm.</p>
<p>Năm lên 7, Schubert được ông Michael Holzer, nhạc sĩ đại phong cầm kiêm ca đoàn trưởng của nhà thờ địa phương thu nhận làm học trò.</p>
<p>Năm 17 tuổi, Franz Schubert nối gót hai anh trai Ferdinand và Ignaz trở thành giáo viên tại trường học của thân phụ, đồng thời gia đình Schubert cũng đủ tay đàn để thành lập một ban tứ tấu đàn dây (string quartet), trong đó Ferdinand và Ignaz chơi vĩ cầm, Franz “con” chơi trung vĩ cầm (viola), còn Franz “bố” chơi cello. Các sáng tác đầu tay của Franz Schubert chính là các bản viết cho ban tứ tấu gia đình.</p>
<p>[Chú thích: mặc dù đàn dây (string instrument) gồm cả đàn ghi-ta, banjo, mandolin, ukulele, hạc cầm (harp), double bass..., nhưng riêng trong nhạc cổ điển, chữ "string quartet" (tứ tấu đàn dây) phải được hiểu là 4 cây đàn thuộc họ vĩ cầm (bowed string instrument), gồm: 2 vĩ cầm (violin), 1 trung vĩ cầm (viola), và 1 cello]</p>
<p>Cũng vào năm 17 tuổi (1814), Franz Schubert chính thức tỏ tình với cô bạn gái Thérèse Grob, 16 tuổi.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image003.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image003_thumb.jpg" alt="clip_image003" width="310" height="370" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>Thérèse Grob</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p>Nguyên Thérèse và người em trai Heinrich là con của chủ nhân một hãng dệt lụa ở gần nhà Schubert. Hai gia đình cùng đi lễ ở nhà thờ Lichtental, nơi Therèse là giọng soprano chính của ca đoàn.</p>
<p>Năm đó (1814), thánh đường Lichtental kỷ niệm đệ bách chu niên, Franz Schubert được trao trách nhiệm soạn lễ nhạc (Mass), và đích thân điều khiển dàn nhạc cùng ca đoàn, trong đó Thérèse Grob hát solo phần soprano.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0042.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image004_thumb2.jpg" alt="clip_image004" width="255" height="376" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>Thánh đường </em></strong><strong><em>Lichtental</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p>Từ đó, Thérèse được cha mẹ cho phép tự do lui tới gia đình Schubert để đàn hát với anh em Franz, và không quên dắt theo cậu em trai Heinrich của nàng, cũng là một tài năng trẻ về cả dương cầm lẫn vĩ cầm.</p>
<p>Nhưng cuộc tình đẹp của hai người chỉ kéo dài được 3 năm. Không phải lòng người đổi thay mà vì luật lệ khắc nghiệt về hôn nhân của đế quốc Áo thời bấy giờ. Theo đó, tất cả mọi nam công dân Áo muốn lấy vợ phải làm đơn, và phải chứng minh có đủ khả năng tài chánh để nuôi vợ con thì mới được phép kết hôn.</p>
<p>Biết rằng dạy nhạc tại trường học của thân phụ không thể xem là một “công việc vững chắc”, tháng Tư năm 1816, Franz Schubert nộp đơn xin làm thầy giáo dạy nhạc tại Trường sư phạm ở Ljubljana (ngày nay là thủ đô của Slovenia, ngày đó là một thành phố thuộc đế quốc Áo), nhưng đơn bị bác.</p>
<p>Chán nản, tháng 11 năm ấy, Franz Schubert quyết định “trả tự do” cho Thérèse. Chàng nhờ Heinrich, cậu em của Thérèse, trao cho nàng một tập 17 tình khúc sáng tác riêng cho nàng trong thời gian hai người yêu nhau, để làm kỷ vật. Bốn năm sau, Thérèse lấy chồng. Tập ca khúc ấy trở thành gia bảo của dòng họ Grob, và tới thế kỷ thứ 20 đã được phổ biến với tên gọi “Thérèse Grob Songbook”.</p>
<p>Sau khi bị bác đơn xin dạy nhạc tại trường sư phạm, dẫn đưa tới việc chấm dứt mối tình đầu, Franz Schubert bỏ nhà, bỏ luôn công việc dạy nhạc tại trường học của cha để tới sống với Schober, một cậu “học trò” đồng lứa tuổi.</p>
<p>Nguyên Schober là con nhà khá giả, sống với bà mẹ trong một ngôi nhà rộng lớn. Cậu rất quý phục Schubert và từ lâu đã ngỏ ý mời vị thầy trẻ về sống tại nhà mình.</p>
<p>Thời gian đầu, có lẽ vì tự ái, Schubert vừa sáng tác vừa nhận học trò để có thu nhập riêng, nhưng về sau, ông đã ngưng nhận học trò để dành hết thì giờ cho công việc sáng tác.</p>
<p>Schubert ghi lại trong nhật ký của mình: “Mỗi ngày, tôi bắt đầu sáng tác từ sáng sớm, không ngừng nghỉ, xong bản này tôi bắt tay ngay vào việc viết bản khác!”</p>
<p>Cũng trong năm 1816, vào tuổi 19, bên cạnh việc viết ca khúc, Schubert bắt đầu sáng tác các bản hòa tấu quy mô và các bản hợp xướng. Tuy nhiên tất cả mọi tác phẩm của ông đã không được xuất bản, mà chỉ được bạn bè và người ái mộ chép tay để phổ biến cho nhau.</p>
<p>Qua năm 1817, may mắn đã tới với Schubert khi ông được giới thiệu với Johan Michael Vogl, đệ nhất danh ca giọng nam trung (baritone) của thành Vienne, hơn Schubert 20 tuổi. Chính nhờ danh tiếng và nghệ thuật trình bày của Johan Michael Vogl mà các ca khúc của Schubert bắt đầu được giới một điệu biết tới.</p>
<p>“Ca khúc” nói tới ở đây, tiếng Đức gọi là “lieder”, là những bài hát lãng mạn được phổ từ thơ, hoặc có lời hát như thơ, mang nhiều giá trị văn chương, rất được ưa chuộng vào thế kỷ thứ 19.</p>
<p>Trong số trên dưới 600 “lieder” của Schubert, nổi tiếng nhất phải là bản “Ave Maria”.</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em> Phụ lục: Audio (1) Ave Maria (Schubert), ANDREA BOCELLI</em></strong><strong><em> ).</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p01-Track-131.mp3">p01- Track 13(1)</a></p>
<p>Việc hậu thế gọi đây là bản “Ave Maria của Franz Schubert” xét tới nơi tới chốn là thiếu chính xác. Bởi vì ca khúc nguyên thủy của Schubert có tựa khác, và lời hát khác.</p>
<p>Ngày ấy, nguồn cảm hứng đã tới với Schubert khi tập thơ Lady of the Lake – Đức Bà của Hồ nước – của thi hào Tô-cách-lan Sir Walter Scott được dịch sang tiếng Đức. Nhân vật chính trong tập thơ này, nữ anh hùng Ellens Douglas, trong thời gian trốn tránh quân thù bên bờ hồ, đã cầu nguyện Đức trinh nữ Maria bằng những lời thơ.</p>
<p>Schubert vốn là người rất sùng đạo, đã phổ những lời thơ ấy thành các ca khúc, trong đó bản nổi tiếng nhất có tựa tiếng Đức là “Ellens dritter Gesang” (Ellens’ Third song – Bài hát thứ ba của Ellens).</p>
<p>Điều này đã được xác định qua lá thư của Franz Schubert gửi cho cha mẹ, báo tin về sự thành công của ca khúc.</p>
<p>Về sau, vì lời thơ (phổ nhạc) bắt đầu bằng hai tiếng “Ave Maria”, một, hay nhiều “thiên tài ẩn danh” nào đó đã lấy lời kinh “Ave Maria” bằng tiếng La-tinh (người Công giáo Việt Nam gọi là kinh “Kính Mừng”) thay thế lời hát nguyên thủy bằng tiếng Đức, để rồi dần dần hầu như ai cũng gọi đây là bản “Ave Maria của Schubert”, với mục đích phân biệt với một bản “Ave Maria” nổi tiếng khác, nhạc của Johann Sebastian Bach, lời của Charles Gounod.</p>
<p>Chỉ có những thính giả có tinh thần hoài cổ và yêu thơ mới tìm nghe bản “Ave Maria của Schubert” với lời hát nguyên thủy, tức Ellens’ Third Song – Bài hát thứ ba của Ellens.</p>
<p>Trước năm 1975 tại miền Nam VN, bản “Ave Maria của Schubert” đã được ít nhất hai nhạc sĩ đặt lời Việt, là Phạm Duy và Nguyễn Văn Đông. Điểm khác biệt chính là trong khi Phạm Duy dịch sát lời kinh, thì Nguyễn Văn Đông lại “Việt hóa” bằng cách lồng cuộc chiến tang tóc, cùng những khát vọng thanh bình vào lời hát.</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em>Phụ lục: Audio (2) Ave Maria – Schubert/Nguyễn Văn Đông – Thái Thanh </em></strong><strong><em>).</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p02-Ave-Maria-Thai-thanh.mp3">p02-Ave Maria – Thai thanh</a></p>
<p>Sau năm 1975, trong CD “Kỷ niệm vàng son” thực hiện với mục đích gây quỹ từ thiện, Lê Dung, người nữ danh ca có giọng soprano cao vút, đã trình bày bản Ave Maria của Schubert với lời hát bằng tiếng Pháp, và gây ấn tượng mạnh nơi người yêu nhạc.</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em> Phụ lục: Audio (3) Ave Maria – Schubert/ lời Pháp/ Lê Dung</em></strong><strong><em>).</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/03-Track-8.mp3">03- Track 8</a></p>
<p>* * *</p>
<p>Với hậu thế nói chung, 3 tác phẩm nổi tiếng nhất của Franz Schubert phải là: (1) bản “Ave Maria” đã nhắc tới ở trên, (2) bản Sérénade, tức Dạ khúc, và (3) bản Giao hưởng số 8, thường được gọi là Unfinished Symphony (tiếng Anh), hoặc Symphonie Inachevée (tiếng Pháp), nghĩa là bản “Giao hưởng Dở dang” – mà một số người đã “thi vị hóa”, cho rằng bản này đã được Schubert viết cho một “mối tình dang dở”!</p>
<p>Nguyên vào mùa hè năm 1818, tức là 2 năm sau khi chấm dứt mối tình đầu với Thérèse Grob, Franz Schubert được mời tới lâu đài của Bá tước Johann Karl Eszterhazy ở Hung-gia-lợi, để dạy cho hai cô con gái của ông – Marie và Karoline – đàn dương cầm và hát.</p>
<p>Theo các tác giả viết tiểu sử Franz Schubert, đây là khoảng thời gian hiếm hoi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, nhà nhạc sĩ được thoải mái cả về lẫn vật chất lẫn tinh thần: đã “việc nhẹ lương hậu” còn được gần gũi nàng Karoline ngây thơ xinh đẹp. Từ gần gũi tiến tới say mê. Tuy nhiên, chỉ say mê chứ không mảy may hy vọng, bởi vì tuy còn nhỏ, Karoline đã đường đường là nữ bá tước – một vị nữ bá tước của dòng họ Eszterhazy – một dòng họ quý tộc nổi tiếng từ thời trung cổ, có nhiều lãnh địa ở khắp đế quốc Áo – Hung.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0061.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image006_thumb1.jpg" alt="clip_image006" width="367" height="250" border="0" /></a></p>
<p>Cho nên, tình yêu của chàng nhạc sĩ nghèo 21 tuổi là tình đơn phương, tình tuyệt vọng, và đã trở thành đề tài cho một thi phẩm của thi sĩ Bauerfeld, một bạn thân của Schubert.</p>
<p>Về phần Schubert, sau khi từ Hung-gia-lợi trở về Áo, chàng đã sáng tác bản song tấu dương cầm “Fantaisie cung Fa thứ”, đề tặng “Nữ bá tước Karoline Eszterhazy”. Chấm hết chuyện tình!</p>
<p>Nhưng cũng chính vì chuyện tình đơn phương của Franz Schubert dành cho Karoline Eszterhazy mà người đời đã thi vị hóa cái tựa bản “Giao hưởng Dở dang” của nhà nhạc sĩ, cho rằng chữ “dở dang” ở đây là ám chỉ chuyện tình “dang dở” ấy!</p>
<p>Nhưng trên thực tế, “dở dang” ở đây chỉ có nghĩa đen, là viết dở dang, vì một nguyên nhân khó hiểu nào đó chứ không phải vì Schubert không có thì giờ, bằng chứng là sau khi bỏ dở bản này, ông đã bắt tay vào việc viết, và hoàn tất bản giao hưởng số 9!</p>
<p>Bản “Giao hưởng Dở dang”, tức bản số 8, được Franz Schubert bắt đầu viết vào năm 1822, tức là 6 năm trước khi qua đời. Thông thường, một bản giao hưởng gồm có 4 phần – tức “movement”. Schubert viết xong phần 1 và 2 thì ngưng. Mãi tới sau khi ông qua đời, người ta mới tìm thấy đoạn đầu của phần 3 và bố cục của phần 4.</p>
<p>Gần 200 năm sau, cũng không một ai có thể trả lời câu hỏi: tại sao Schubert lại bỏ dở bản giao hưởng này? Càng đáng tiếc hơn nữa, là qua thưởng thức phần 1 và 2, người yêu nhạc cổ điển đều đồng ý với nhau rằng: nếu hoàn tất, đây sẽ là bản giao hưởng hay nhất của Schubert.</p>
<p>Về sau, nhiều tổ chức văn hóa đã cho tổ chức những cuộc thi sáng tác để điền khuyết những phần còn thiếu. Tuy nhiên, tất cả mọi sáng tác đoạt giải đều bị giới thưởng thức nhạc cổ điển cho là không xứng hợp. Vì thế, có lẽ nghìn năm sau, bản “Giao hưởng Dở dang” vẫn còn… dang dở!</p>
<p>Như vậy, trong số 3 tác phẩm nổi tiếng nhất của Franz Schubert, bản “Ave Maria” đã bị đổi tựa và lời hát nguyên thủy, bản Giao hưởng số 8 thì viết dở dang, có thể nói chỉ có bản Sérénade – Dạ khúc, là trọn vẹn.</p>
<p>Điều thú vị nhất về Sérénade là bản này chỉ là một sáng tác ngẫu hứng, được Schubert viết trong một quán cà-phê!</p>
<p>Tuy nhiên, trước khi viết về giai thoại này, cũng xin có đôi dòng về chữ “sérénade” trong nhạc cổ điển tây phương.</p>
<p>“Sérénade” là tiếng Pháp (tiếng Anh viết là “serenade”), bắt nguồn từ tiếng Ý “serenata”. Theo các nhà ngữ học, “serenata” có nguồn gốc từ chữ “sereno”, trong tiếng Ý có nghĩa là thanh tịnh – peaceful.</p>
<p>“Serenata” có từ thời trung cổ, và được định nghĩa là thể loại ca khúc êm dịu, được một anh chàng si tình nào đó, đứng trước nhà người đẹp, hướng lên cửa sổ, hay ban-công của phòng nàng mà hát để tỏ tình – như chàng Romeo đã tỏ tình với nàng Juliet trong kịch cổ điển của Shakespeare.</p>
<p>Về sau, tới thời kỳ lãng mạn của nhạc cổ điển, đa số các nhà soạn nhạc đã sử dụng chữ “sérénade” của Pháp thay vì “serenata” của Ý, đồng thời nội dung cũng như hình thức của “sérénade” đã được nới rộng.</p>
<p>Về nội dung, “sérénade” có thể để tặng người yêu, bạn thân, hay một người nào đó ngang hàng, hoặc vai vế thấp hơn, mà mình quý mến.</p>
<p>Về hình thức, “sérénade” có thể là một ca khúc êm đềm, một nhạc khúc đơn giản – như trường hợp bản Sérénade của Schubert, cũng có thể là một bản giao hưởng ngắn – như trường hợp bản Sérénade của Mozart có tựa đề “Eine Kleine Nachtmusik” (Tiểu dạ khúc) mà chúng tôi đã nhắc tới trong bài trước. Với ý nghĩa, nội dung ấy, sérénade thường được trình diễn lúc chiều tối.</p>
<p>Theo Von Hellbourn, một người bạn thân và cũng là người viết tiểu sử Schubert, thì bản Sérénade đã được nhạc sĩ sáng tác năm 1826, 2 năm trước khi qua đời.</p>
<p>Hôm ấy là một buổi chiều Chủ Nhật êm ả trong công viên Zum Biersack của thành Vienne. Sau một cuộc đi dạo, Schubert và các bạn vào quán cà-phê ngoài trời trong công viên. Tại đây, một người bạn của Schubert đang ngủ gục, với cuốn sách đặt trên bàn. Schubert tiến tới cầm cuốn sách lên, lật trang và vô tình đọc được một câu thơ, liền buột miệng: “Ước gì có được một tờ giấy viết nhạc” – tức giấy có kẻ hàng sẵn để ghi nốt nhạc.</p>
<p>Nghe Schubert nói thế, một người bạn nhanh trí lấy một tờ hóa đơn tính tiền, kẻ vội những hàng viết nhạc lên mặt sau, rồi đưa cho Schubert.</p>
<p>Ngay trong buổi chiều hôm ấy, Franz Schubert đã để lại cho hậu thế bản sérénade bất hủ. <strong></strong></p>
<p><strong>(</strong><strong><em>Phụ lục: Audio (4) Sérénade – Schubert – hòa tấu</em></strong><strong><em>)</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p04-serenade.mp3">p04-serenade</a></p>
<p>Trước năm 1975, bản Sérénade của Schubert đã được Phạm Duy lời Việt với tựa “Dạ khúc”.</p>
<p><strong>(</strong><strong><em>Phụ lục: Audio (5) Dạ khúc – Lệ Thu</em></strong><strong> </strong><strong>).</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p05-Da-Khuc-Le-Thu.mp3">p05- – Da Khuc-Le Thu</a></p>
<p>* * *</p>
<p>Năm 1928, tình trạng sức khỏe của Schubert ngày càng trở nên đáng ngại, với các triệu chứng giống như bệnh thương hàn. Mùa hè năm ấy, bạn bè của nhạc sĩ đã thỉnh được quan ngự y Ersnt Rinna, một vị danh y đương thời, tới chẩn đoán, và được ông cho biết Schubert sẽ không qua khỏi mùa đông này.</p>
<p>Thật vậy, tới đầu tháng 11, Schubert bị liệt giường, nhức đầu, lên cơn sốt và nôn mửa liên tục. Tới ngày 19 tháng 11 năm 1828, ông qua đời tại căn gác của người em trai ở thành Vienne, khi mới 31 tuổi.</p>
<p>So với các nhạc sĩ lừng danh khác của nền nhạc cổ điển, Franz Schubert không chỉ chết trẻ nhất, mà còn sống lận đận nhất. Cả đời, ông chưa bao giờ tìm được một việc làm chính thức, chưa bao giờ có một chỗ ở riêng cho mình, và thường phải sống nhờ vào trợ cấp của cha mẹ, sự giúp đỡ của bạn bè; và cuối cùng, nhà nhạc sĩ ấy cũng không có được một người tình đưa tiễn ông về nơi an nghỉ sau cùng.</p>
<p>Theo ước nguyện, Franz Schubert được mai táng bên cạnh mộ của Beethoven – người mà ông hằng tôn sùng – trong nghĩa trang Wahring ở ngoại ô thành Vienne.</p>
<p>Sáu mươi năm sau, tức năm 1888, Schubert và Beethoven được cải táng, đưa về Nghĩa trang trung ương Zentralfriedhof, nơi có mộ phần của hai nhà soạn nhạc lừng danh khác: Johann Strauss, tác giả bản Le Beau Danube Bleu, tức Dòng sông xanh, và Johannes Brahms, tác giả bản Célèbres Valses, tức Mối tình xa xưa.</p>
<p>Năm 1925, để chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày Franz Schubert qua đời, chính quyền thành Vienne đã cho cải biến nghĩa trang cũ ở làng Wahring thành “Công viên tưởng niệm Franz Schubert”. Huyệt mộ ngày trước nay được đánh dấu bằng một pho tượng bán thân của ông. Còn tại ngôi mộ mới của ông ở nội thành, thi sĩ Franz Grillparzer đã ghi lên mộ bia hàng chữ:</p>
<p><em>“Nơi đây, âm nhạc đã vùi chôn một kho tàng, và biết bao ước vọng”. </em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>* * *</p>
<p><strong><em>Viết thêm về “AVE MARIA” </em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Nếu không kể những bản Ave Maria mang tính cách thuần tôn giáo, người ta được biết có ít nhất là ba bản Ave Maria của “người đời”, trong đó nổi tiếng nhất là “Ave Maria của Schubert” (đã nhắc tới trong bài) và “Ave Maria của Bach/Gounod”.</p>
<p>Bản Ave Maria của Bach/Gounod ra đời năm 1859 (34 năm sau bản Ave Maria của Schubert – tức “Ellens’ Third Song”). Ngày ấy, nhà soạn nhạc người Pháp Charles Gounod đã lấy một khúc nhạc của Johan Sebastian Bach viết trước đó 137 năm, sửa đổi lại cho phù hợp, rồi lồng lời kinh “Ave Maria” bằng tiếng La-tinh vào.</p>
<p>Kết quả, hậu thế đã có thêm một bản Ave Maria bất hủ.</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em>Phụ lục: Audio (6)</em></strong><strong><em>- </em></strong><strong><em>Ave Maria (Bach/Gounod) – Andrea Bocelli</em></strong><strong><em> )</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p06-Ave-Maria-BachGounod-Andrea-Bocelli.mp3" target="_blank">p06-Ave Maria BachGounod – Andrea Bocelli</a></p>
<p>Với những người thưởng thức nhạc cổ điển có trình độ cao, nét nhạc của bản “Ave Maria của Bach/Gounod” được đánh giá là trang trọng, thanh thoát hơn, vì mang âm hưởng của thời kỳ tiền cổ điển, tức Baroque era, trong khi bản “Ave Maria của Schubert”, sáng tác vào đầu thời kỳ lãng mạn, thì dễ nghe, dễ cảm, và dễ hát hơn hơn.</p>
<p>Vì thế, nếu tính chung tất cả mọi thành phần nghe nhạc và hát nhạc cổ điển thuộc mọi trình độ, bản “Ave Maria của Schubert” được xem là phổ biến hơn.</p>
<p>Vào thuở xa xưa, bản Ave Maria của Bach/Gounod thường được hát trong hôn lễ, còn bản Ave Maria của Schubert thường được hát trong tang lễ. Nhưng càng về sau càng có nhiều người sử dụng Ave Maria của Schubert trong hôn lễ; và hiện nay, theo một danh sách 10 ca khúc được ưa chuộng nhất trong hôn lễ được phổ biến trên Internet, Ave Maria của Schubert đứng hạng nhất, còn Ave Maria của Bach/Gounod đứng hạng tư.</p>
<p>Nhưng dù sử dụng bản Ave Maria của Schubert hay Ave Maria của Bach/Gounod, cũng cần biết quy tắc của Thiên chúa giáo (Công giáo, Tin lành, hay bất cứ hệ phái nào có tổ chức nghi thức hôn phối trong thánh đường).</p>
<p>Thông thường, một lễ cưới trong thánh đường gồm có 3 phần: (1) Prosession (cô dâu từ cuối nhà thờ tiến lên) – (2) Ceremony (buổi lễ hôn phối) – (3) Resession (đôi tân hôn rời vị trí).</p>
<p>Theo đúng quy tắc, bản Ave Maria chỉ được hát TRONG BUỔI LỄ vào một khoảng thời gian im lặng nào đó SAU KHI nghi thức hôn phối đã được cử hành. Còn trong phần Prosession (cô dâu tiến lên), đã có những khúc nhạc dành riêng, được soạn theo nhịp bước của cô dâu, và trong phần Resession (đôi tân hôn rời vị trí) thì sử dụng những nhạc khúc, ca khúc viết về sự vui mừng, mà một trong những bản phổ biến nhất, ý nghĩa nhất là “Ode to Joy” của Beethoven.</p>
<p>Trường hợp muốn du di, có thể sử dụng bản Ave Maria cho phần Prosession, nhưng dứt khoát không thể sử dụng cho phần Resession, bởi vì Ave Maria là một bài kinh (kinh Kính Mừng), không thể sử dụng như một ca khúc “mãn tuồng”!</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em>Phụ lục: Audio (7) </em></strong><strong><em>-</em></strong><strong><em> Ave Maria (Bach/Gounod/Dương Thụ) – (Mỹ Linh)</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p07-Ava-Maria-My-Linh.mp3">p07- Ava Maria – My Linh</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>PHỤ LỤC:</strong></p>
<p><strong><em>(1) Ave Maria (Schubert), ANDREA BOCELLI</em></strong><strong><em> ).</em></strong></p>
<p>(1) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p01-Track-131.mp3" target="_blank">Ave Maria (Schubert) – Andrea Bocelli- </a></p>
<p><strong><em>(2) Ave Maria – Schubert/Nguyễn Văn Đông – Thái Thanh </em></strong><strong><em>).</em></strong></p>
<p>(2) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p02-Ave-Maria-Thai-thanh.mp3" target="_blank">Ave Maria (Schubert/Nguyễn Văn Đông) – Thái Thanh</a></p>
<p><strong><em>(3) Ave Maria – Schubert/ lời Pháp/ Lê Dung).</em></strong></p>
<p>(3) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/03-Track-8.mp3" target="_blank">Ave Maria (Schubert – lời Pháp) – Lê Dung- </a></p>
<p><strong><em>(4) Sérénade – Schubert – hòa tấu)</em></strong></p>
<p>(4) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p04-serenade.mp3" target="_blank">Sérénade (Schubert) – hòa tấu</a></p>
<p><strong><em>(5) Dạ khúc – Lệ Thu</em> ).</strong></p>
<p>(5) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p05-Da-Khuc-Le-Thu.mp3" target="_blank">Dạ khúc(Schubert/Phạm Duy) -Lệ Thu</a></p>
<p><strong><em>(6)- Ave Maria (Bach/Gounod) – Andrea Bocelli )</em></strong></p>
<p>(6) <a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p06-Ave-Maria-BachGounod-Andrea-Bocelli.mp3" target="_blank">Ave Maria (Bach/Gounod) – Andrea Bocelli – </a></p>
<p><strong><em>(7) – Ave Maria (Bach/Gounod/Dương Thụ) – (Mỹ Linh)</em></strong></p>
<p>(7)<a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/p07-Ava-Maria-My-Linh.mp3" target="_blank"> Ave Maria (Bach/Gounod/Dương Thụ) – (Mỹ Linh)</a></p>
<p><strong>Hoài Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2012</p>



http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1413186620.jpg
<BR>http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1413185146.mp3
Sérénade (Dạ Khúc ) - Thái Thanh



http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1413262449.jpg
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1413262504.mp3
Dạ Khúc Serenade - Mai Hương

saomai
10-16-2014, 07:15 AM
<p><p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image00221.jpg"><img style="background-image: none; margin: 0px 20px 15px 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; float: left; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image002_thumb21.jpg" alt="clip_image002" width="210" height="277" align="left" border="0" /></a></em></strong></p>
<p><strong><em>FRÉDÉRIC CHOPIN (1810-1849)</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p>Với người yêu nhạc cổ điển nói chung, Chopin là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất của thời kỳ lãng mạn, được xưng tụng là “thi sĩ làm thơ bằng dương cầm” (the poet of piano). Với giới nhạc sĩ dương cầm nói riêng, Chopin là đỉnh cao để mọi người ngưỡng vọng, mà không bao giờ với tới.</p>
<p>Ngôn ngữ âm nhạc gọi Chopin là một “virtuoso” – tiếng Ý có nghĩa là một nhạc sĩ hay ca sĩ đã đạt tới tuyệt kỹ. Xét theo định nghĩa ấy một cách đúng đắn, tổng số “virtuoso pianist” từ trước tới nay chưa đủ để đếm trên 5 đầu ngón tay, bởi sau Chopin, chỉ có 3 người khác, là Franz Liszt, Arhur Rubinstein và Sergei Rachmaninoff.</p>
<p>Chopin tên họ đầy đủ là Frédéric Francois Chopin, mang hai dòng máu Pháp – Ba-lan, ra chào đời ngày 1 tháng 3 năm 1810 tại làng Zelazowa Wola, thuộc Đại công quốc Warsaw (tức thủ đô Warsaw của Ba-lan ngày nay).</p>
<p>Cha của Frédéric Chopin, ông Nicolas Chopin, sinh trưởng ở Lorraine, Pháp, nhưng tới năm 16 tuổi, theo một gia đình quý tộc gốc Ba-lan mà ông từng giúp việc, tới sống ở Warsaw. Tại đây, Nicolas Chopin làm nghề dạy tiếng Pháp cho giới quý tộc. Sau khi kết hôn với một cô gái Ba-lan, ông tham gia cuộc kháng chiến chống lại ách đô hộ của đế quốc Nga, với sự hậu thuẫn của người Pháp.</p>
<p>Khi cậu bé Frédéric Chopin bắt đầu có trí khôn thì Hoàng đế Nã-phá-luân đệ Nhất đã phải thoái vị, hòa bình trở lại trên đất nước Ba-lan, nhưng vẫn dưới ách đô hộ của đế quốc Nga.</p>
<p>Tuy nhiên, nếu bỏ qua yếu tố chính trị, có thể nói Frédéric Chopin đã có một tuổi niên thiếu được nhiều ưu đãi. Nhờ ông bố Nicolas làm giáo sư Pháp văn tại trường Warsaw Lyceum – trường trung học dành con trai của các danh gia vọng tộc – cả gia đình Chopin được cư ngụ trong ký túc xá của trường (ngày nay là cơ sở của Đại học Warsaw).</p>
<p>Bên cạnh nghề giáo, ông Nicolas Chopin còn là một nhạc sĩ thổi sáo và đàn vĩ cầm, bà vợ Justina thì chơi dương cầm và dạy đàn cho các nam sinh nội trú. Frédéric Chopin lớn lên trong bầu không khí tràn ngập tiếng nhạc ấy, đặc biệt là tiếng dương cầm của bà mẹ.</p>
<p>Có thể nói, Frédéric Chopin là một sự kết hợp giữa thiên tài và bản tính đa sầu đa cảm. Khi mới lên 5 tuổi, có lần nghe mẹ đàn, Frédéric Chopin đã khóc nức nở. Tuy nhiên, người đầu tiên dạy dương cầm cho Frédéric Chopin không phải là bà mẹ mà là cô chị cả Louise.</p>
<p>Năm lên 6 tuổi, Chopin đã có khả năng đàn lại những khúc nhạc đã nghe, và có khi còn phối hợp, biến đổi để tạo thành một nhạc khúc mới, ngay trên phím đàn chứ không cần viết thành dòng nhạc!</p>
<p>Tới năm 7 tuổi, Chopin trình diễn lần đầu tiên trước công chúng, và lập tức đã được giới thượng ngoạn so sánh với hai thần đồng đi trước, là Beethoven và Mozart.</p>
<p>Cũng vào năm 7 tuổi, Chopin sáng tác hai nhạc khúc đầu tiên, đó là 2 bản Polonaises – tức thể điệu luân vũ dân gian của Ba-lan.</p>
<p>* * *</p>
<p>Năm Chopin 11 tuổi, khi Sa hoàng Alexander đệ Nhất tới Warsaw để khai mạc quốc hội Ba-lan, cậu đã được trình diễn trước vị hoàng đế. Tới năm 15 tuổi, Chopin đã được mọi người xưng tụng là nhạc sĩ dương cầm hay nhất ở thành Warsaw.</p>
<p>Năm 16 tuổi, Chopin được vào Nhạc viện Warsaw, và được nhạc sư Josef Elsner nổi tiếng của Ba-lan hướng dẫn trong thời gian 3 năm về hai bộ môn nhạc lý và sáng tác.</p>
<p>Sau này, trong thư từ trao đổi với bạn bè, Chopin đã tiết lộ “nàng thơ” (muse) đầu tiên của ông không ai khác hơn là cô bạn học xinh đẹp Konstancja Gladkowska, về sau trở thành nữ ca sĩ của Nhà hát Opera Warsaw. Những rung động thầm kín đầu đời ấy – về tâm hồn cũng như thể xác – của chàng trai 17 tuổi đã được Chopin biến thành dòng nhạc trong hàng chục nhạc khúc soạn cho dương cầm.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0048.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image004_thumb7.jpg" alt="clip_image004" width="387" height="276" border="0" /></a></p>
<p><strong>Konstancja Gladkowska (1810-1889)</strong></p>
<p>Tháng 8 năm 1829, ba tuần lễ sau khi tốt nghiệp Nhạc viện Warsaw, Chopin được mời sang trình diễn ở thành Vienne, kinh đô nước Áo, và cũng là thủ đô âm nhạc của cả thế giới.</p>
<p>Trở về Warsaw, vào cuối năm 1829 đầu năm 1830, tại Nhà hát Quốc gia, Chopin đã trình tấu hai bản Piano Concerto số 1 và số 2 nổi tiếng của ông, sáng tác vào tuổi 19 – cái tuổi mà trước kia, Beethoven và Mozart còn đang theo thầy.</p>
<p>Cũng vào đầu năm 1830, Chopin bắt đầu viết những bản Études để đời. Chữ “étude” nguyên là tiếng Pháp, có nghĩa là “học tập”, tức “study” trong tiếng Anh. Trong phạm vi âm nhạc, “études” là những khúc nhạc được soạn với dụng ý để các nhạc sĩ tương lai luyện tập kỹ năng. Vì thế, thể loại études thường chú trọng tới kỹ thuật nhiều hơn là nghệ thuật.</p>
<p>Nhưng riêng Chopin, trong số 27 bản études của ông, có khá nhiều bản đã trở thành những nhạc khúc để đời, chẳng hạn bản Étude số 3 của Opus 10 (“Opus”, viết tắt là “Op”, có nghĩa là “Tuyển tập”), mà về sau được hậu thế đặt tên là Tristesse, tiếng Pháp có nghĩa là Nỗi Sầu.</p>
<p>Bên cạnh đó, Chopin cũng nổi tiếng với những sáng tác ngẫu hứng, tức “impromtu”, là những sáng tác không có chủ định trước, mà dòng nhạc, nét nhạc, hồn nhạc chợt đến theo nguồn cảm hứng. Một trong những sáng tác ngẫu hứng nổi tiếng của Chopin là bản “Fantaisie Impromtu”.</p>
<p><strong></strong><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (1)</strong><strong>- </strong><strong>Fantaisie Impromtu</strong><strong></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/01-Fantaisie-Impromtu.mp3">01-Fantaisie Impromtu</a></p>
<p>* * *</p>
<p>Đầu tháng 10 năm 1830, chàng nhạc sĩ 20 tuổi rời Warsaw để lên đường chinh phục Âu châu.</p>
<p>Khi ra đi Chopin đeo trên tay một cái nhẫn cho cô bạn Konstancja Gladkowska xinh đẹp ở Nhạc viện Warsaw ngày nào, nay trở thành nữ ca sĩ của Nhà hát Opera Warsaw, tặng chàng thay lời giã biệt; đồng thời Chopin còn cầm trên tay cái chén bằng bạc, đựng một nắm đất của quê hương.</p>
<p>Không biết đây có phải là một cái điềm hay không, chỉ biết sau đó, Chopin đã không bao giờ trở lại cố hương! Bởi vì chỉ hơn 3 tuần sau, khi Chopin đang ở thành Vienne, cuộc nổi dậy của nhân dân Ba-lan chống lại ách nô lệ của đế quốc Nga bùng nổ. Tháng 9 năm 1831, trên đường từ Vienne tới kinh thành ánh sáng Paris, được hung tin cuộc nổi dậy đã bị quân Nga dẹp tan, Chopin đã thề sẽ không bao giờ trở lại, một khi trên quê hương còn bóng quân thù!</p>
<p>Tại Paris, trong thời gian đầu, Chopin chỉ trình tấu dương cầm trong phòng khách của các biệt thự của giới quý tộc, hoặc các nhà tài phiệt yêu nhạc.</p>
<p>Tuy nhiên, kể cả sau khi đã nổi tiếng ở Paris, Chopin cũng rất ít khi trình diễn tại các hí viện, bởi ông cho rằng cách đàn của mình thích hợp với khung cảnh của nhạc thính phòng hơn. Cho nên về sau, mỗi năm Chopin chỉ trình diễn một buổi duy nhất cho công chúng ở hí viện Salle Pleytel, một rạp hát chỉ có 300 ghế ngồi.</p>
<p>Ngoài buổi trình diễn nói trên, Chopin chỉ đàn tại các phòng khách tư gia, các buổi họp mặt văn nghệ sĩ với số thính giả không quá 30 người. Tuy nhiên, khung cảnh mà ông ưa thích nhất vẫn là phòng khách trong căn apartment nhỏ hẹp mà ông thuê mướn.</p>
<p>Năm 1835, Chopin tới Carlsbad, một thị trấn cổ kính ở Đức để gặp lại cha mẹ – và cũng là lần gặp gỡ cuối cùng. Trên đường trở lại Paris, khi đi qua vùng Saxony, Chopin được tái ngộ một số đồng hương Ba-lan đang sống lưu vong tại đây, trong đó có gia đình Công tước Wodzinski với ái nữ Maria. Năm năm về trước ở Warsaw, Maria còn là một cô bé con 11 tuổi, nay cô đã dậy thì, xinh đẹp, thông minh, với một tâm hồn nghệ sĩ.</p>
<p>Bằng đó thứ đã khiến trái tim chàng nhạc sĩ 25 tuổi rung động, và được Maria đáp lại. Qua năm 1836, sau khi cùng gia đình Wodzinski nghỉ hè tại Dresden (Đức), Chopin ngỏ lời cầu hôn. Dĩ nhiên, Maria nhận lời, nhưng mẹ nàng chỉ chấp thuận trên nguyên tắc, nghĩa là cho hai người đình hôn rồi để đó, viện lý do Maria mới 17 tuổi, nhưng thực ra là vì tình trạng sức khỏe của Chopin.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0066.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image006_thumb6.jpg" alt="clip_image006" width="390" height="278" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>Maria Wodzinska</em></strong><strong><em> (1819-1896)</em></strong></p>
<p>Cũng nên biết, trong khoảng thời gian 2 năm 1835-1936, sức khỏe của Chopin trở nên tồi tệ tới mức có tin đồn ông đã chết.</p>
<p>Cuộc nhân duyên bất thành giữa Frédéric Chopin và Maria Wodzinska không bao giờ được tiết lộ ra ngoài, mãi tới sau khi ông qua đời, người ra mới khám phá ra những lá thư của Maria và mẹ nàng, nữ Công tước Wodzinska, viết cho Chopin, được ông cất trong một phong bì lớn, với lời ghi chú bằng tiếng Ba-lan ở bên ngoài: “Nỗi sầu thảm của đời tôi”.</p>
<p>Chuyện tình buồn ấy đã để lại cho hậu thế 9 tác phẩm, gồm có: Bản luân vũ biệt ly (Farewell Waltz), viết khi Chopin giã biệt Maria, và bản Étude số 2, Opus 25, viết sau khi trở về Paris, được ông gọi là “chân dung tâm hồn của Maria”; tiếp theo là 7 ca khúc phổ từ thơ của 3 thi sĩ Ba-lan thuộc trường phái lãng mạn. Bảy ca khúc này được Chopin gửi riêng cho Matia, còn Bản luân vũ biệt ly và bản Étude số 2, Opus 25, chỉ được khám phá sau khi Chopin qua đời.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio ( 2) </strong><strong>-</strong><strong> Farewell Waltz (Chopin) – classical guitar</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/02-Farewell-Waltz-Francis-Goya.mp3">02- Farewell Waltz – Francis Goya</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0083.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image008_thumb3.jpg" alt="clip_image008" width="273" height="297" border="0" /></a></em></strong></p>
<p><strong><em>Delfina Potocka</em></strong><strong><em> (1805-1877)</em></strong></p>
<p>Sau Maria Wodzinska, đã xuất hiện một nàng thơ “ngắn hạn” trong đời Chopin, đó là nữ Bá tước Delfina Potocka, người đã được ông đề tặng bản Étude số 1, Opus 64, tức bản “Minute Waltz” nổi tiếng, còn có tựa tiếng Pháp là “Valse du petit chien” – Bản valse của con chó con.</p>
<p><strong>(</strong><strong>Phụ lục: Audio (3)</strong><strong>-</strong><strong> Minute Waltz (Chopin) – piano</strong><strong></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/03-Minute-Waltz-Le-Nhat-Quang-NCT-8478254969.mp3">03- Minute Waltz – Le Nhat Quang [NCT 8478254969]</a></p>
<p>* * *</p>
<p>Cũng trong năm 1836, năm chia tay Maria Wodzinska, Chopin đã gặp người tình lớn nhất của đời mình. Trong một party do nữ Bá tước Marie d’Agoult, tình nhân của nhà soạn nhạc Frank Liszt, tổ chức, Chopin được giới thiệu với người đàn bà nổi tiếng nhất, tai tiếng nhất kinh thành ánh sáng thời bấy giờ. Đó là nhà hoạt động cho nữ quyền Amantine Dupin, tức nữ Nam tước Dudevant, nhưng lại thích được mọi người gọi bằng bút hiệu của mình: nữ văn sĩ George Sand!</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0102.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image010_thumb2.jpg" alt="clip_image010" width="283" height="365" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>nữ văn sĩ George Sand</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p>Khi ấy, Chopin mới 26 tuổi và đang thất tình Maria Wodzinska, còn Amantine Dupin 32, đã trải qua một đời chồng và hơn nửa tá mối tình lớn nhỏ với các thi, văn, nhạc sĩ nổi tiếng, như Jules Sandau, Alfred de Musset, Charle Didier, Pierre-Francois Bocage…</p>
<p>Amantine Dupin vốn thuộc hoàng tộc Bourbon, có họ với vua Louis 16 nhưng lại là người có đầu óc cấp tiến. Năm 19 tuổi, Amantine kết hôn với Nam tước Casimir Dudevant, được một trai một gái.</p>
<p>Đầu năm 1831, vào tuổi 26, Amantine bỏ chồng để bắt đầu một cuộc “nổi loạn tình cảm” kéo dài 5 năm. Đầu tiên là văn sĩ Jules Sandau, người đã hướng dẫn Amantine trong bước đầu sự nghiệp văn chương, và chọn cho nàng bút hiệu “George Sand”.</p>
<p>Chỉ 2 năm sau, George Sand đã tạo được tên tuổi riêng cho mình, và được nhìn nhận là nhà văn nữ có tầm vóc đầu tiên của nền văn học Pháp. Bên cạnh các tác phẩm, George Sand còn nổi tiếng với tác phong bụi đời như dân du mục Bohémien, ăn mặc như đàn ông, hút thuốc lá ở nơi công cộng, cặp kè thân mật cả với người cùng tính phái, trong đó có nữ diễn viên Marie Dorval.</p>
<p>Có lẽ trong số nhân tình của George Sand, thi sĩ kiêm văn sĩ Alfred de Musset là người duy nhất ca tụng nữ tính nơi con người nàng. Ông viết:</p>
<p>“Theo tôi, George Sand là phụ nữ có nhiều nữ tính nhất!”</p>
<p>Nhưng riêng Chopin thì khi gặp George Sand lần đầu đã phải sợ hãi. Ông viết cho một người bạn:</p>
<p>“George Sand quả là một phụ nữ đáng kinh hãi. Nhưng cô ta có phải là một người đàn bà thực sự hay không? Sao tôi nghi quá!”</p>
<p>Nhưng George Sand thì đã mê Chopin ngay trong lần đầu gặp gỡ ấy, và đã bỏ chàng tình nhân đang cặp kè để theo đuổi nhà nhạc sĩ. Trong lá thư dài 32 trang gửi một một người bạn thân, George Sand đã viết thẳng ra rằng mình đã lợi dụng cơ hội Chopin đang cô đơn tuyệt vọng sau khi chia tay Maria Wodzinska để chinh phục chàng nhạc sĩ trẻ.</p>
<p>Kết quả, tới giữa năm 1838, cả thành phố Paris đã biết chuyện Chopin và George Sand cặp kè thân mật. Bước sang năm 1839, Chopin bắt đầu chung sống với George Sand, và sống chung với hai đứa con của nàng.</p>
<p>Cuộc tình của hai người kéo dài được 10 năm; nhưng trong những năm cuối, George Sand được mô tả là một cô y tá nuôi bệnh hơn là một người tình, bởi vì tình trạng sức khỏe của Chopin ngày càng tồi tệ. Cuối cùng, hai người lặng lẽ chia tay vào năm 1847.</p>
<p>Bá tước Wojciech Grzymala, một người bạn thân đã theo dõi từ đầu tới cuối cuộc tình 10 năm giữa Chopin và George Sand, sau này kể lại:</p>
<p>“Nếu Chopin không bất hạnh đến nỗi gặp George Sand, người đàn bà đã đầu độc cả cuộc đời của ông, thì ông cũng sống thọ như Cherubini vậy!”</p>
<p>Cũng nên biết, nhà soạn nhạc lão thành Cherubini, một người bạn thân của Chopin, sống thọ 81 tuổi!</p>
<p>* * *</p>
<p>Tháng Tư năm 1849, cuộc cách mạng mà sau này người cộng sản gọi là “Công Xã Paris” nổ ra, Chopin bỏ sang Anh quốc, sống ở lâu đài của Công nương Jane Stirling, cùng với người chị góa của Công nương. Jane Stirling là một học trò cũ và cũng là một người sùng mộ Chopin, đã ngỏ ý làm mai chị mình cho ông, nhưng Chopin đã từ chối, bởi vì với bệnh tật trong người, ông cho rằng mình không có quyền đón nhận hảo ý của người học trò cũ.</p>
<p>Cuối tháng 11 năm 1948, khi tình hình ở Pháp đã ổn định, Chopin trở về Paris với hai bàn tay trắng. Bước sang đầu năm 1849, khi cảm thấy mình đã kiệt lực, Chopin nhắn tin về Ba-lan, mong có một người thân ruột thịt sang Paris để ở bên cạnh lúc ông trút hơi thở sau cùng, bởi ông không muốn chết cô đơn. Lúc ấy, cha ông đã qua đời được 5 năm, cô em gái Émlia thì đã chết sớm vào tuổi 14, chỉ còn lại bà mẹ Justina và cô chị Louise, người đầu tiên đã dạy Chopin đàn dương cầm.</p>
<p>Nhưng sau khi Louise tới Paris vào tháng 6 năm 1849, mướn một căn apartment thật đẹp, tràn ngập ánh sáng ở quảng trường Vendôme, đưa em trai tới chỗ ở mới, thì Chopin ra vẻ hồi phục. Nhưng thực ra, đó chỉ là ánh lửa bùng lên lần cuối trước khi tắt lịm.</p>
<p>Rạng ngày 17 tháng 9 năm 1849, khi chuông nhà thờ Thánh nữ Madeleine ở gần đó đổ 2 tiếng, Frédéric Chopin trút hơi thở cuối cùng.</p>
<p>Nhiều người tin rằng Chopin chết vì lao phổi, giống như cha ông và cô em gái Émilia. Tuy nhiên, cho tới nay tất cả vẫn chỉ là giả thuyết. Gần đây nhất, năm 2005, các nhà y học đã xin phép khai quật mộ phần của Chopin để tìm hiểu hư thực, nhưng trước sự phản đối của người ái mộ, đơn xin đã bị bác.</p>
<p>Theo di chúc của Chopin, trái tim ông được lấy ra khỏi thi thể, ướp trong rượu, bỏ vào một bình đựng cốt đưa về Warsaw, đặt trong một thân cột của Thánh đường Thập giá – tức Holy Cross Church – nơi mà ngày xưa cậu bé Frédéric Chopin cùng cha mẹ, chị em thường dự lễ mỗi sáng Chủ Nhật.</p>
<p>Thi hài của ông được an táng trong Nghĩa trang Père Lachaise nổi tiếng của kinh thành Paris.</p>
<p>Hơn 3000 người đã đi theo quan tài của ông, trong số đó có họa sĩ Eugène Delacroix, nhà soạn nhạc Frank Liszt, văn hào Victor Hugo…, nhưng nữ văn sĩ George Sand thì biệt tăm!</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image0122.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/clip_image012_thumb2.jpg" alt="clip_image012" width="229" height="305" border="0" /></a></p>
<p><strong><em>Mộ phần của Chopin</em></strong><strong><em> ở Paris</em></strong></p>
<p>Mộ phần của Chopin là một trong những tác phẩm để đời của điêu khắc gia nổi tiếng đương thời Jean-Baptiste Auguste Clésinger. Mặt tiền là chân dung nổi của Chopin, phía trên là pho tượng nữ thần Euterpe đang gục khóc trên cây đàn lia (lyre) bị gẫy. Theo huyền thoại Hy-lạp, Euterpe là một trong 9 người con gái của thần Zeus (Jupiter) với nữ thần Mnemosyne. Mỗi người con là thần của một bộ môn nghệ thuật, Euterpe là thần âm nhạc.</p>
<p>* * *</p>
<p>Frédéric Chopin qua đời khi mới 39 tuổi, nhưng sự nghiệp sáng tác trải dài suốt 32 năm, đã để lại cho đời trên 230 tác phẩm lớn nhỏ – những tác phẩm phản ánh cuộc đời buồn nhiều hơn vui của chính ông. Trong số đó, nổi tiếng nhất, phổ biến nhất cũng là một nhạc khúc buồn: bản Étude số 3 trong Opus số 10, mà về sau đã được hậu thế đặt tên là Tristesse, tiếng Pháp có nghĩa là Nỗi Sầu (Sadness).</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em>Phụ lục: Audio (4, 5, 6)</em></strong><strong><em> </em></strong></p>
<p><strong><em></em></strong><strong>(4)Tristesse (Chopin) – piano</strong><strong>;</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/04-Tristesse-Richard-Clayderman.mp3">04- Tristesse – Richard Clayderman</a></p>
<p><strong></strong><strong>(5)Tristesse (Chopin) – violin</strong><strong>; </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/05-Etude-no3-in-E-Sadness-Chopin-Andre-Rieu.mp3">05- Etude no3 in E Sadness – Chopin – Andre Rieu</a></p>
<p><strong></strong><strong>(6)Tristesse (Chopin)- José Carreras </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/06-Chopin__Tristesse.mp3">06- Chopin__Tristesse</a></p>
<p>Tristesse đã được ít nhất ba tác giả Việt Nam đặt lời hát: Anh Ngọc với tựa Nhạc buồn, Phạm Duy với tựa Sầu Chopin, và Nguyễn Lê với tựa Nỗi buồn.</p>
<p><strong><em>(</em></strong><strong><em>Phụ lục: Audio (7, 8)</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p><strong><em>(7) </em></strong><strong>Nhạc buồn Chopin ( Lời Việt : Anh Ngọc)- Mai Hương </strong><strong>; </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/07-Nhac-buon-Tristesse-LV-Anh-Ngoc-1996-Mai-Huong.mp3">07- Nhac buon (Tristesse – LV Anh Ngoc) 1996 – Mai Huong</a></p>
<p><strong></strong><strong>(8)Nỗi buồn Chopin (Lời Việt : Nguyễn Lê)- Quang Dũng</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/08-Noi-buon-Tristesse-LV-Nguyen-Le-Quang-Dung.mp3">08- Noi buon (Tristesse – LV Nguyen Le) – Quang Dung</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>PHỤ LỤC:</strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>(1) Fantaisie Impromtu (Chopin) – piano</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/01-Fantaisie-Impromtu.mp3">01-Fantaisie Impromtu</a></p>
<p>(2) Farewell Waltz (Chopin) – classical guitar</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/02-Farewell-Waltz-Francis-Goya.mp3">02- Farewell Waltz – Francis Goya</a></p>
<p>(3) Minute Waltz (Chopin) – piano</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/03-Minute-Waltz-Le-Nhat-Quang-NCT-8478254969.mp3">03- Minute Waltz – Le Nhat Quang [NCT 8478254969]</a></p>
<p>(4) Tristesse (Chopin) – piano</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/04-Tristesse-Richard-Clayderman.mp3">04- Tristesse – Richard Clayderman</a></p>
<p>(5) Tristesse (Chopin) – violin</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/05-Etude-no3-in-E-Sadness-Chopin-Andre-Rieu.mp3">05- Etude no3 in E Sadness – Chopin – Andre Rieu</a></p>
<p>(6) Tristesse (Chopin)- José Carreras</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/06-Chopin__Tristesse.mp3">06- Chopin__Tristesse</a></p>
<p>(7) Nhạc buồn Chopin (Anh Ngọc) – Mai Hương</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/07-Nhac-buon-Tristesse-LV-Anh-Ngoc-1996-Mai-Huong.mp3">07- Nhac buon (Tristesse – LV Anh Ngoc) 1996 – Mai Huong</a></p>
<p>(8) Nỗi buồn Chopin (Nguyễn Lê) – Quang Dũng</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/08-Noi-buon-Tristesse-LV-Nguyen-Le-Quang-Dung.mp3">08- Noi buon (Tristesse – LV Nguyen Le) – Quang Dung</a></p>
<p><strong>Hòai Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2012</p>
</p>

saomai
10-16-2014, 07:34 AM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1413444421.jpg

http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/02/07-Nhac-buon-Tristesse-LV-Anh-Ngoc-1996-Mai-Huong.mp3
Nhạc Buồn - Lời Việt Anh Ngọc - Mai Hương

saomai
10-24-2014, 07:11 AM
<div class="title">Ho&agrave;i Nam : Những ca kh&uacute;c ngọai quốc lời Việt (5)- C&eacute;l&egrave;bre Valse (Mối t&igrave;nh xa xưa)- JOHANNES BRAHMS</div>

<p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image002.gif"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image002_thumb.gif" alt="clip_image002" width="258" height="326" border="0" /></a></p>
<p><strong>JOHANNES BRAHMS (1833-1897)</strong></p>
<p>Johannes Brahms là một trong những nhà soạn nhạc hàng đầu của thời kỳ lãng mạn (Romantic era), được hậu thế liệt vào bộ “ba chữ B vĩ đại” – tức ba nhà soạn nhạc lừng danh của ba thời kỳ khác nhau mà tên họ bắt đầu bằng mẫu tự B – gồm Johann Sebastian BACH (thời kỳ Baroque), Ludwig van BEETHOVEN (thời kỳ Cổ điển – tức thời kỳ Vàng son), và Johannes BRAHMS (thời kỳ Lãng mạn). Cả ba đều là người Đức.</p>
<p>Brahms vừa nổi tiếng với việc tôn trọng quy tắc truyền thống tới mức khó tính với chính mình (chẳng hạn tiêu hủy những sáng tác mà ông cho là không “chỉnh”), vừa được ái mộ với những tác phẩm đầy chất sáng tạo, vừa bị xem là “khác người” với một cuộc sống cá nhân lạ thường.</p>
<p>Về truyền thống, Johannes Brahms luôn luôn theo đúng những khuôn thước của Bach (thời kỳ Baroque), và của Haydn, Mozart, Beethoven (thời kỳ Cổ điển). Riêng về nhạc giao hưởng, ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Beethoven – thiên tài mà ông sùng mộ. Trong nhà ông, có một pho tượng bán thân của Beethoven, nhìn xuống ngay vị trí mà ông thường ngồi sáng tác.</p>
<p>Ảnh hưởng của Beethoven mạnh đến nỗi khi Bản giao hưởng số 1 của Brahms được trình diễn ra mắt tại thành Vienne, giới thưởng ngoạn đã xưng tụng đây là “Bản giao hưởng số 10 của Beethoven”! (Nhắc lại: Beethoven sáng tác tổng cộng 9 bản giao hưởng)</p>
<p>Tuy nhiên, dù nổi tiếng với những tác phẩm cổ điển quy mô, Johannes Brahms lại thành công về mặt tài chánh cũng như được dân gian biết tới nhiều hơn qua những nhạc khúc, ca khúc ngắn, mà điển hình là tập Vũ khúc Hung-gia-lợi (Hungarian Dances).</p>
<p><strong>Phụ lục: Audio (1)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/01-Hungarian-dance-No.5-Brahms-Paul-Mauriat.mp3">01- Hungarian dance No.5 (Brahms) – Paul Mauriat</a></p>
<p>Johannes Brahms sinh năm 1833 tại hải cảng Hamburg, Đức quốc. Cha ông, Johann Jakob Brahms, là một nhạc sĩ nghèo, sinh trưởng tại Dithmarschen, một vùng quê có truyền thống văn hóa lâu đời. Năm 18 tuổi, Johann Jakob di dân tới Hamburg với ước mộng trở thành một nhạc sĩ tên tuổi và giàu có. Nhưng khi tới gần, ánh đèn đô thị không đẹp như nhìn từ xa!</p>
<p>Mặc dù có khả năng sử dụng nhuần nhuyễn nhiều loại nhạc cụ khác nhau, Johann Jakob đã chỉ được mướn chơi đàn double-bass (tức contrabass, đại hồ cầm) và kèn French horn (kèn đồng, hình dạng như “tù và”).</p>
<p>Năm 24 tuổi, Johann Jakob kết hôn với cô thợ may Johanna Henrika Christiane Nissen, một cô “gái già” hơn chàng tới 17 tuổi. Hai người có với nhau 3 con – hai trai một gái, Johannes Brahms là trưởng nam.</p>
<p>Sau nhiều năm sống ở khu ổ chuột gần bến tàu, gia đình dọn tới một căn nhà nhỏ ở ngoại ô Dammtorwall. Johannes Brahms được thân phụ dạy nhạc từ lúc bắt đầu có trí khôn, và tới năm 7 tuổi, vì tỏ ra có năng khiếu đặc biệt về dương cầm, đã được cho thọ giáo một vị danh sư ở Hamburg.</p>
<p>Năm 11 tuổi, Johannes Brahms bắt đầu sáng tác và trình diễn trước công chúng. Hai chữ “công chúng” nói tới ở đây mang ý nghĩa không được trang trọng cho lắm. Vì gia cảnh nghèo túng, Johannes Brahms phải nhận trình diễn tại các quán rượu bình dân có khiêu vũ, cũng như trong các động điếm ở khu bến tàu. Trong lúc Johannes Brahms đàn, các cô gái điếm thường tới bên cạnh vuốt ve, sờ soạng cậu bé xinh trai trắng trẻo (mà ngày nay, ta gọi là “sexual abuse”).</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image0044.jpg"><img style="background-image: none; margin: 0px; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0pt none;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image004_thumb4.jpg" alt="clip_image004" width="300" height="400" border="0" /></a></p>
<p><strong>Johannes Brahms – Hình chụp năm 20 tuổi</strong></p>
<p>Theo các nhà viết tiểu sử Johannes Brahms, qua lời kể lại của các nhân chứng cũng như tiết lộ của bản thân nhạc sĩ, việc phải trải qua “những kinh nghiệm hãi hùng” này đã ám ảnh ông suốt đời, ảnh hưởng tiêu cực tới việc giao tiếp, đánh giá phụ nữ, mà hậu quả là ông đã sống độc thân cho tới cuối đời!</p>
<p>Bắt đầu sáng tác và trình diễn từ năm lên 11, nhưng phải đợi tới năm 19 tuổi, tài nghệ của Johannes Brahms mới được đông đảo người yêu nhạc cũng như các đồng nghiệp biết tới, khi chàng trẻ tuổi được đệm dương cầm cho nhạc sĩ vĩ cầm Eduard Reménji nổi tiếng của Hung-gia-lợi, trong chuyến lưu diễn kéo dài hai tháng ở Đức.</p>
<p>Từ đó, Johannes Brahms bắt đầu một cuộc sống giang hồ phiêu lãng, gặp gỡ, giao kết với nhiều nhà soạn nhạc và nhạc sĩ nổi tiếng đương thời. Khi tới Hanover, Johannes Brahms được gặp Joseph Joachim, cũng người Hung-gia-lợi, vốn được xưng tụng là một trong những nhạc sĩ vĩ cầm tạo ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ thứ 19. Bên cạnh đó, Joseph Joachim còn là một nhà soạn nhạc, một nhạc trưởng, và thày dạy nhạc. Về sau, Joseph Joachim đã cùng Johannes Brahms hợp soạn nhiều nhạc khúc nổi tiếng.</p>
<p>Chính Joseph Joachim đã viết thư giới thiệu Johannes Brahms với cặp vợ chồng nghệ sĩ lừng danh Robert và Clara Schumann ở Dusseldorf, khởi đầu cho một quan hệ tình cảm bí ẩn và lạ lùng nhất trong làng nhạc cổ điển tây phương.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image0052.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image005_thumb2.jpg" alt="clip_image005" width="300" height="229" border="0" /></a></p>
<p><strong>Robert Schumann (1810-1856)</strong></p>
<p>Robert Schumann (1810-1856),- ra chào đời và sống cùng thời với Frédéric Chopin – là một nhà soạn nhạc người Đức nổi tiếng bậc nhất của thời kỳ Lãng mạn, đặc biệt là các sáng tác dành cho dương cầm.</p>
<p>Là con trai của một nhà văn uy tín kiêm nhà xuất bản giàu có, nhưng Robert Schumann lại say mê và có khiếu về âm nhạc, bắt đầu sáng tác từ năm 7 tuổi. Tuy nhiên, trước khi mất sớm, cha của ông đã để lại di chúc buộc ông phải ăn học trở thành một trạng sư thì mới được hưởng gia tài. Vì thế năm 1826, vào tuổi 16, Robert Schumann tới Munich để theo học ngành luật. Nhưng qua năm sau, mọi việc đã thay đổi khi chàng gặp cô bé mồ côi mẹ Clara Weik, 8 tuổi, con gái của Friedrich Weik, vị thầy dạy nhạc nổi tiếng bậc nhất ở Munich thời bấy giờ.</p>
<p>Nguyên Clara Weik và Robert Schumann cùng được mời tới trình diễn dương cầm tại tư thất một vị bác sĩ tên tuổi trong một buổi gây quỹ cho bệnh viện nhi đồng. Vừa thán phục vừa thích thú trước tài nghệ của Clara, Robert Schumann đã thuyết phục được bà mẹ cho chàng rời trường luật để theo đuổi âm nhạc. Thế là Robert Schumann trở thành học trò của Friedrich Weik, và vị thầy này đã đoan chắc Robert Schumann sẽ trở thành “danh thủ dương cầm số 1 của cả Âu châu”. Thế nhưng chẳng bao sau đó, Robert Schumann bị chấn thương một cánh tay, và đã phải bỏ mộng trở thành nhạc sĩ dương cầm để chuyển sang sáng tác.</p>
<p>Cùng thời gian này (1830), cô bé Clara 11 tuổi được thân phụ đưa đi lưu diễn một vòng các kinh thành ở Âu châu, và đã gây một tiếng vang lớn – nếu không muốn nói là “chấn động”. Tại Bá-linh, Clara đã được văn hào Johann Wolfgang van Goethe, núi Thái Sơn của nền văn học Đức, lúc ấy đã 82 tuổi, trao tặng một huân chương kèm theo tấm chân dung của ông với lời ghi “Tặng nhạc sĩ thiên tài Clara Wieck”.</p>
<p>Khi tới kinh thành ánh sáng Paris, Clara đã được danh thủ vĩ cầm kiêm nhà soạn nhạc Niccolo Paganini của Ý (1782-1840) tình nguyện đệm vĩ cầm cho cô bé!</p>
<p>Sau khi kết thúc chuyến lưu diễn kéo dài 3 năm, trở về Munich thì Clara đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, và chẳng bao lâu sau, cô được Robert Schumann tỏ tình.</p>
<p>Nhưng mối tình của hai người đã không được ông bố Friedrich Weik của Clara chấp thuận, và đôi tình nhân đã phải chờ đợi 6 năm trời cho tới khi Clara đủ 21 tuổi, có toàn quyền tự do kết hôn. Chính trong thời gian chờ đợi ấy, Robert Schumann đã sáng tác những tình khúc nổi tiếng.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image007.gif"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image007_thumb.gif" alt="clip_image007" width="300" height="419" border="0" /></a></p>
<p><strong>Clara Schumann</strong></p>
<p>Về phần Clara, vào năm 18 tuổi đã được mời sang trình diễn ở thành Vienne, kinh đô Áo và cũng là thủ đô âm nhạc thế giới. Trong suốt 3 tháng trời, tất cả mọi buổi trình diễn của Clara đều không còn một ghế trống. Cô được hai vị danh sư nổi tiếng về dương cầm là Frédéric Chopin và Franz Liszt hết lời ca tụng.</p>
<p>Tháng 3 năm 1838, Clara được triều đình Áo trao tặng danh hiệu “Royal and Imperial Chamber Virtuoso” (Danh cầm thượng thặng nhạc thính phòng), danh dự cao nhất về âm nhạc của đế quốc Áo.</p>
<p>* * *</p>
<p>Ngày 12 tháng 9 năm 1940, Robert Schumann, 30 tuổi, và Clara Wieck, 21, tổ chức kết hôn. Thế nhưng, vì Clara ra chào đời ngày 13 tháng 9 năm 1819, nếu xét cho tới nơi tới chốn, cô còn thiếu 1 ngày nữa mới đủ 21 tuổi. Thế là ông bố Friedrich Weik đưa nội vụ ra tòa, nhưng cuối cùng công lý đã đứng về phía hai kẻ yêu nhau. Sau đó Robert và Clara Schumann đưa nhau về Dusseldorf xây tổ ấm.</p>
<p>Cho tới ngày nay, Robert và Clara Schumann vẫn được xem là cặp vợ chồng tài hoa lý tưởng nhất của nền nhạc cổ điển. Mặc dù lần lượt cho ra chào đời 8 đứa con và nuôi dạy nên người (trừ đứa con út chết khi còn là hài nhi), Clara Schumann vẫn tiếp tục sáng tác và trình diễn ở Đức cũng như các quốc gia Âu châu khác. Nhờ đó, các sáng tác của Robert Schumann mới được phổ biến rộng rãi.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với Johannes Brahms, năm 1853, ngay sau khi được Joseph Joachim giới thiệu, vợ chồng Robert Schumann đã nhận ra tài năng xuất chúng nơi chàng nhạc sĩ 20 tuổi, đón nhận và xem như một người thân trong gia đình. Với Johannes Brahms, đây là diễm phúc lớn nhất đời chàng, vì Robert và Clara Schumann là hai bậc thầy mà chàng hằng ngưỡng mộ.</p>
<p>Cũng vào khoảng thời gian này, chứng trầm cảm nơi Robert Schumann đã biến thành khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Cuối năm ấy, Robert Schumann tự tử hụt, và qua tháng 1 năm 1854, ông đã tự nguyện vào sống trong một viện tâm thần ở gần Bonn. Từ đó, Johannes Brahms giữ vai trò liên lạc giữa hai vợ chồng, và trở thành nguồn an ủi về tinh thần cho Clara cùng với 7 đứa con thơ dại của nàng.</p>
<p>Năm 1856, Robert Schumann qua đời. Được hung tin, Johannes Brahms đã tạm “dừng bước giang hồ”, quay về Dusseldorf để chăm sóc, lo lắng cho mẹ con Clara, và trở thành “người đàn ông trong gia đình”!</p>
<p>Trong thời gian suốt 2 năm liên tục, Johannes Brahms sống trong một căn gác ở phía trên nhà của gia đình Schumann, ngưng hoàn toàn công việc sáng tác cũng như trình diễn, để dành trọn thời giờ giúp Clara ổn định cuộc sống, thậm chí đảm trách cả việc trông nom 7 đứa con của Clara mỗi khi nàng đi lưu diễn.</p>
<p>Sau 2 năm nói trên, Johannes Brahms chia thời gian ra làm ba, khi thì sống ở Dusseldorf, khi thì sống ở Hamburg, nơi có ban nữ hợp xướng do ông thành lập và điều khiển, khi thì sống ở Tiểu vương quốc Lippe (ngày nay là vùng North Rhine-Westphalia của Đức quốc), nơi ông là nhạc sư và nhạc trưởng của triều đình.</p>
<p>Tình cảm giữa chàng nhạc sĩ trẻ và vị “sư tỷ” hơn chàng 14 tuổi, người đương thời ai cũng biết. Nhưng có điều là ngày ấy, không mấy người tin rằng giữa Johannes Brahms và Clara Schumann có quan hệ xác thịt.</p>
<p>Tuy nhiên hậu thế lại có người đặt câu hỏi: nếu không có gì cần giữ bí mật, tại sao vào cuối đời, Johannes Brahms và Clara Schumann lại thiêu hủy hầu hết trong số hàng trăm lá thư hai người đã viết cho nhau?</p>
<p>Từ đó, không ít người tin rằng giữa Johannes Brahms và Clara Schumann đã có quan hệ thân mật kín đáo. Nhưng dù sao, tất cả cũng chỉ là giả thuyết, và với những người yêu nhạc cổ điển nói chung, cho tới ngày nay, quan hệ tình cảm giữa Johannes Brahms và Clara Schumann vẫn được xem bí mật lớn nhất.</p>
<p>Quan hệ tình cảm ấy, cùng với mối tình đẹp và cuộc hôn nhân trước đó của Clara với Robert Schumann, cũng như đoạn kết bi thảm của vị nhạc sư tài danh này, đã trở thành đề tài cho vô số phim ảnh, trong số đó nổi tiếng nhất là 3 cuốn phim sau đây:</p>
<p>- Song of Love (1947) của Hoa Kỳ, với Katharine Hepburn trong vai Clara. Cuốn phim chỉ được đánh giá vào hạng trung bình, nhưng nếu nhắm mắt lại để thưởng thức phần đệm piano của danh cầm Arthur Rubinstein thì không còn gì tuyệt vời cho bằng.</p>
<p>- Spring Symphony (1983) của Đức, với Nastassja Kinski trong vai Clara. Cuốn phim này vừa gây tranh luận vì mức độ “tiểu thuyết hóa” vừa được yêu thích vì lột tả được cả rung động của trái tim lẫn đam mê nghệ thuật nơi các nhân vật chính (chưa kể còn có một cảnh khỏa thân của “cô đào chuyên khỏa thân” Nastassja Kinski).</p>
<p>- Geliebte Clara (2008) của Đức, do Martina Gedek thủ vai Clara. Cuốn phim này được đánh giá là “cuốn tiểu sử chính xác nhất của người nữ nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất của nền nhạc cổ điển”.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image009.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image009_thumb.jpg" alt="clip_image009" width="300" height="200" border="0" /></a></p>
<p><strong>Clara, Brahms, Schumann trong phim Geliebte Clara</strong></p>
<p>Ngoài ra, “chuyện tình” giữa cậu em Johannes Brahms và đàn chị Clara Schumann còn tạo cảm hứng cho nữ văn sĩ Francoise Sagan của Pháp viết cuốn tiểu thuyết lãng mạn “Aimez-vous Brahms?” (Anh có yêu nhạc Brahms không?), xuất bản năm 1959, kể về quan hệ tình cảm giữa một phụ nữ đã có chồng và một chàng trẻ tuổi độc thân. Tới năm 1961, “Aimez-vous Brahms?” đã được dựng thành phim với tựa đề tiếng Anh “Goodbye Again”, với một thành phần diễn viên quốc tế: Ingrid Bergman (Thụy-điển), Anthony Perkins (Mỹ), Yves Montand, Michèle Mercier (Pháp)…</p>
<p>Tại Đại hội Điện ảnh Quốc tế ở Cannes (Pháp) năm 1961, phim “Goodbye Again” đã được đề nghị tranh giải Cành Cọ Vàng (Palme d’Or), riêng Anthony Perkins đã đoạt giải nam diễn viên xuất sắc nhất.</p>
<p>Đây cũng là một cuốn phim của người yêu nhạc cổ điển, bởi trong phần nhạc phim có “trích đoạn” của các bản Giao hưởng số 1 và số 3 của Brahms; đặc biệt một khúc nhạc trong bản Giao hưởng số 3 đã được đặt lời hát để sử dụng làm ca khúc chủ đề của cuốn phim: “Say No More, It’s Goodbye”.</p>
<p>* * *</p>
<p>Cũng giống như Beethoven, Brahms sống độc thân suốt đời, có khác chăng là trong khi Beethoven trải qua một mối tình không đoạn kết với Joséphine Deym (góa phụ của Bá tước Josef Deym), một mối tình không thành với tiểu thư Giulietta Guicciardi, và một mối tình văn nghệ với tiểu thư Thérèse Malfatti, thì Brahms không có một mối tình nào khác ngoài Clara Schumann – nếu quả thực đây là một “chuyện tình”!</p>
<p>Theo nhạc sử gia JEFFREY DANE, có hai nguyên nhân chính đưa tới việc Johannes Brahms sống độc thân suốt đời. Thứ nhất, nỗi kinh sợ và kinh tởm các cô gái điếm ở khu bến tàu Hamburg ngày còn thơ dại, vẫn tiếp tục ám ảnh ông. Thứ hai, tình cảm Clara Schumann dành cho Johannes Brahms, ít ra cũng là trong thời gian đầu, có pha lẫn tình mẫu tử, khiến ông liên tưởng tới bà mẹ Johanna yêu quý của mình, cũng hơn cha ông tới 17 tuổi, vì thế Johannes Brahms trân quý, và dành trọn trái tim của mình cho Clara Schumann.</p>
<p>Jeffrey Dane viết: “Hai người có thể không ‘gần nhau’ (sexual relationship) nhưng họ ‘bên nhau’ suốt đời!”</p>
<p>Ngoài Clara Schumann, bóng hồng duy nhất có liên quan tới Johannes Brahms là BERTHA FABER – người mà ông đã viết tặng bản Wiegenlied (thường được hậu thế gọi là Brahms’ Lullaby – Bài hát ru của Brahms) nhân dịp nàng sinh con trai đầu lòng.</p>
<p>Bertha Faber, có tên con gái là Bertha Porubszky, nguyên là một nữ ca sĩ và là một người bạn của Johannes Brahms từ khi hai người còn sống ở Hamburg. Về sau, Bertha kết hôn với kỹ nghệ gia Arthur Faber ở thành Vienne.</p>
<p>Thế nhưng, tình bạn này cũng đã được một số người thêu dệt thành “mối tình đầu bất thành” của Johannes Brahms; theo đó, vì không quên được người yêu xưa, sau này ông đã sáng tác bản Wiegenlied để nàng… ru con! Đây là một bản valse chậm, với lời hát do chính ông đặt, trừ đoạn đầu lấy ý từ một bài ru dân gian có tựa tiếng Đức là “Guten Abend, Gut Nacht” (Good Evening, Good Night).</p>
<p><strong>Phụ lục: Audio (2) </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/02-Wiegenlied-Bai-hat-ru-cua-Brahms-Victoria-De-Los-Angeles.mp3">02-Wiegenlied (Bai hat ru cua Brahms) – Victoria De Los Angeles</a></p>
<p>Tuy nhiên, theo các nhà viết tiểu sử Johannes Brahms, “mối tình đầu bất thành” giữa Brahms và Bertha Faber hoàn toàn là sản phẩm của óc tưởng tượng. Nhưng tin hay không tin vào giai thoại này, người ta cũng phải nhìn nhận bản “Brahms’ Lullaby”, tức Bài hát ru của Brahms (Wiegenlied, No. 4 Op. 49,) đã trở thành bài hát ru phổ biến nhất kim cổ, đến nỗi nhạc sử gia Jeffrey Dane đã phải viết: “Nếu nhắc tới Leonardo Da Vinci, người ta nghĩ ngay tới họa phẩm Mona Lisa, nhắc tới Jule Verne, người ta nghĩ ngay tới cuốn “20 Nghìn dặm dưới đáy biển”, thì nhắc tới Johannes Brahms, người ta nghĩ ngay tới bản Ru con!”</p>
<p><strong>Phụ lục: Audio</strong></p>
<p><strong> (3)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/03-Brahms-Lullaby-Guitar.mp3">03-Brahms’ Lullaby – Guitar</a></p>
<p><strong>(4) </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/04-Celine_Dion_-_Brahms_Lullaby.mp3">04-Celine_Dion_-_Brahms_Lullaby</a></p>
<p><strong>(5)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/05-Brahms-Hat-ru-Brahms-Hien-Thuc.mp3">05-Brahms – Hat ru Brahms – Hien Thuc</a></p>
<p>Brahms không chỉ giống Beethoven ở điểm sống độc thân suốt đời, mà còn giống Beethoven về tính tình, sở thích: yêu thiên nhiên, lạnh lùng với con người, nhưng rất tốt bụng.</p>
<p>Sau khi tới sống ở thành Vienne, ông thường tản bộ cả buổi trong những khu rừng ở ngoại ô. Túi ông lúc nào cũng có sẵn kẹo để phân phát cho trẻ em. Được triều đình Áo trọng dụng, và đạt thành công đáng kể về mặt tài chánh, nhưng Brahms vẫn sống đạm bạc trong một căn apartment nhỏ, mặc quần áo cũ nát, thường mang vớ rách, và rất ít khi cạo râu.</p>
<p>Tiền bạc làm ra, một phần ông giúp đỡ thân nhân bạn bè, phần còn lại ông sử dụng để trợ giúp các đàn em, các mầm non âm nhạc, trong số đó có những người sau này thành danh, chẳng hạn nhà soạn nhạc gốc Tiệp nổi tiếng Antonin Dvorak.</p>
<p>Năm 1895, Johannes Brahms bị ung thư tuyến giáp trạng. Năm sau, 1896, Clara Schumann qua đời; phần vì buồn sầu, phần vì suy nhược, qua năm 1897, vào ngày 3 tháng 4, ông trút hơi thở cuối cùng, thọ 64 tuổi.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image011.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image011" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/clip_image011_thumb.jpg" alt="clip_image011" width="300" height="400" border="0" /></a></p>
<p><strong>Mộ phần của Johannes Brahms ở thành Vienne</strong></p>
<p>Johannes Brahms được an táng trong Nghĩa trang trung ương (Zentralfriehof) của thành Vienne, cũng là nơi an giấc nghìn thu của Beethoven, Schubert, và Johann Strauss – một người bạn thân của Brahms, tác giả bản Le Beau Danube Bleu (tức Blue Danube, Dòng sông xanh) bất hủ.</p>
<p>Hai năm sau (1899), Johannes Brahms được truy tặng danh hiệu “Công dân danh dự của Hamburg” – vinh dự mà phải đợi một nửa thế kỷ sau (năm 1948), mới có người thứ hai được hưởng.</p>
<p>Một trong những chi tiết thú vị về Brahms không thể không nhắc tới là việc ông là nhà soạn nhạc nổi tiếng đầu tiên “thu đĩa nhạc”.</p>
<p>Nguyên vào năm 1889, nhà sáng chế “máy hát” Thomas Edison của Mỹ đã cử một cộng sự viên tới thành Vienne để mời Brahms thu đĩa, và ông đã độc tấu dương cầm một đoạn trong bản Vũ khúc Hung-gia-lợi (Hungarian Dance) số 1.</p>
<p>Vì ngày ấy kỹ thuật còn thô sơ, nay nghe lại đĩa hát này, người ta thấy nhiễu âm (noise) còn lớn hơn cả tiếng đàn. Nhưng dù sao, đây cũng là một sự kiện lịch sử.</p>
<p>Cuối cùng, nói về nhạc khúc “Célèbre Valse” nổi tiếng của Brahms. Một cách chính xác, đây là bản valse số 15 trong tuyển tập 39 (No.15 Op 39) của Brahms soạn cho dương cầm, được ông đặt tựa là “Germania”. Tuy nhiên về sau, vì bản valse này quá nổi tiếng, người Pháp đã gọi là “Célèbre Valse” (bản valse lừng danh), hoặc chi tiết hơn, là “Célèbre Valse de Brahms”.</p>
<p><strong>Phụ lục: Audio </strong></p>
<p><strong>(6) </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/06-Celebre-Valse-Waltz-in-Ab-Major-Brahms-Piano.mp3">06-Celebre Valse – Waltz in Ab Major Brahms (Piano)</a></p>
<p><strong>(7)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/07-Celebre-Valse-hoatau.mp3">07-Celebre Valse – hoatau</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Tới thập niên 1940′s, bản này đã được J. Larue đặt lời bằng tiếng Pháp với tựa “Loin de ton ceur” (Cách lòng), và được thu vào đĩa nhựa với tiếng hát của Tino Rossi.</p>
<p>Tại miền nam Việt Nam, trước năm 1975, bản “Célèbre Valse” được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa “Mối tình xa xưa”, và đã được các nữ danh ca Thái Thanh, Mai Hương, Lệ Thu trình bày.</p>
<p><strong>Phụ lục: Audio </strong></p>
<p><strong>(8) </strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/08-Celebre-Valse-Thai-Thanh.mp3">08-Celebre Valse – Thai Thanh</a></p>
<p><strong>(9)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/09-Le-Thu-Mot-Inh-Xa-Xua222.mp3">09 – Le Thu – Mot Inh Xa Xua(2)(2)(2)</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>PHỤ LỤC:</strong></p>
<p>(1) Hungarian Dance No. 5 – Paul Mauriat Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/01-Hungarian-dance-No.5-Brahms-Paul-Mauriat.mp3" target="_blank">(1) Hungarian Dance No. 5 – Paul Mauriat Orchestra</a></p>
<p>(2) Brahms’ Lullaby – Victoria de Los Angeles</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/02-Wiegenlied-Bai-hat-ru-cua-Brahms-Victoria-De-Los-Angeles.mp3" target="_blank">(2) Brahms’ Lullaby – Victoria de Los Angeles</a></p>
<p>(3) Brahms’ Lullaby – Guitar</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/03-Brahms-Lullaby-Guitar.mp3" target="_blank">(3) Brahms’ Lullaby – Guitar</a></p>
<p>(4) Brahms’ Lullaby- Celine Dion</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/04-Celine_Dion_-_Brahms_Lullaby.mp3" target="_blank">(4) Brahms’ Lullaby- Celine Dion</a></p>
<p>(5) Brahms’ Lullaby (lời Việt) – Hiền Thục</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/05-Brahms-Hat-ru-Brahms-Hien-Thuc.mp3" target="_blank">(5) Brahms’ Lullaby (lời Việt) – Hiền Thục</a></p>
<p>(6) Célèbre Valse – Piano</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/06-Celebre-Valse-Waltz-in-Ab-Major-Brahms-Piano.mp3" target="_blank">(6) Célèbre Valse – Piano</a></p>
<p>(7) Célèbre Valse – Violin</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/07-Celebre-Valse-hoatau.mp3" target="_blank">(7) Célèbre Valse – Violin</a></p>
<p>(8) Mối tình xa xưa – Thái Thanh</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/08-Celebre-Valse-Thai-Thanh.mp3" target="_blank">(8) Mối tình xa xưa – Thái Thanh</a></p>
<p>(9) Mối tình xa xưa – Lệ Thu</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/03/09-Le-Thu-Mot-Inh-Xa-Xua222.mp3" target="_blank">(9) Mối tình xa xưa – Lệ Thu</a></p>
<p><strong>Hòai Nam</strong></p>

saomai
10-24-2014, 07:17 AM
<BR><BR>
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414134792.jpg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414134907.mp3
Célèbre Valse (Mối tình xa xưa) Mai Hương

saomai
10-27-2014, 07:33 AM
<p><p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image0026.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image002_thumb6.jpg" alt="clip_image002" width="209" height="305" border="0" /></a></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>Johann Strauss II (1825-1899)</strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Blue Danube</em></strong><strong> (Dòng Sông Xanh), STRAUSS – <em>Waves of the Danube</em> (Sóng Nước Biếc), IVANOVICI </strong><strong></strong></p>
<p>Trong bài kỳ trước, chúng tôi đã viết về bản <em>Célèbre Valse</em> của Johannes Brahms. Kỳ này xin được viết về hai bản “<em>valse” </em>nổi tiếng khác, mà một trong hai tác giả cũng chính là bạn thân của Brahms: <strong>Johann Strauss II</strong>, người đã để lại cho hậu thế bản <em>Blue Danube </em>bất hủ<em> </em>(tựa tiếng Pháp: <em>Le Beau Danube Bleu, </em>tựa <em></em>tiếng Việt:<em> Dòng Sông Xanh</em>), và được tặng danh hiệu “Ông vua của điệu valse” (The Waltz King).</p>
<p>Trước khi viết về bản <em>Blue Danube</em>, thiết tưởng cũng nên có đôi hàng về thể điệu nhạc valse và thể điệu khiêu vũ valse.</p>
<p>“Valse” (tiếng Pháp, còn tiếng Anh viết là “waltz”) là điệu nhạc được viết theo nhịp 3/4 (đôi khi 3/8 hoặc 3/2), nhấn mạnh ở phách thứ nhất. Đây là điệu nhạc phổ biến nhất trong nền nhạc cổ điển cũng như nhạc dân gian ở các nước Âu châu, và đặc biệt sau này ở Hoa Kỳ.</p>
<p>Một trong những nguyên nhân khiến thể điệu nhạc valse được phổ biến là vì nhịp của nó có thể rất chậm, có thể vừa phải, mà cũng có thể thật nhanh; chậm thì êm ái khoan thai, chẳng hạn bản <em>Célèbre Valse</em>, nhanh vừa thì dặt dìu lả lướt, như bản <em>One Day</em>, thật nhanh thì vui tươi sống động, như bản<em> Blue Danube.</em></p>
<p>Còn nói về thể điệu khiêu vũ, valse đã được ghi nhận là điệu “khiêu vũ ballroom” (<em>ballroom dance) </em>đầu tiên trên thế giới (<em>ballroom dance </em>được định nghĩa là “hình thức khiêu vũ với nhiều cặp tham gia, và tuân theo những nguyên tắc, quy luật chung của điệu khiêu vũ đó”).</p>
<p>Điệu khiêu vũ valse bắt đầu được phổ biến tại Đức vào giữa thế kỷ thứ 18, gọi là “Waltzer”, được biến cải từ điệu vũ “Lander” của dân du mục Bohemian. Tới đầu thế kỷ thứ 19, các chàng lính viễn chinh của Nã-phá-luân đệ Nhất khi trở về Pháp, đã mang theo điệu nhảy này, rồi từ Paris, valse được du nhập sang Anh Quốc, sau đó vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ.</p>
<p>Tới thập niên 1830, người Mỹ đã sáng tạo một điệu khiêu vũ mới để nhảy theo nhịp valse chậm, và được phổ biến một cách mau chóng. Đó là thể điệu “American Waltz”, còn được gọi là “American Slow Waltz”, hoặc đơn giản hơn là điệu “Boston”, tên thành phố xuất xứ của điệu khiêu vũ này.</p>
<p>Còn tại Âu châu, trong những năm đầu thế kỷ thứ 19, điệu khiêu vũ valse vẫn chưa mấy phổ biến trong giới thượng lưu, quý tộc, chưa kể còn bị các nhà đạo đức và những người có đầu óc bảo thủ kịch liệt đả kích, vì khi nhảy điệu này, một bàn tay của người đàn ông phải ôm lấy cái eo của người phụ nữ – một sự “tiếp xúc thể xác” không thể chấp nhận ở nơi chốn công cộng!</p>
<p>Hai người có công đầu trong việc phổ biến, và đưa điệu valse vào cung điện của các ông hoàng bà chúa là hai công dân Áo <strong>Joseph Lanner </strong>(1801-1843) và <strong>Johann Strauss I</strong> (1804 – 1849).</p>
<p>Joseph Lanner là một nhà soạn nhạc chuyên biệt cho các điệu vũ; ông đã cải biến valse từ một điệu nhạc, điệu vũ dân gian đơn giản thành một một điệu nhạc lôi cuốn, một điệu vũ lả lướt, cầu kỳ, rất được các thành phần thượng lưu trong xã hội ưa chuộng.</p>
<p>Trong khi Joseph Lanner có công cải biến, thì Johann Strauss I, một nhạc trưởng nổi tiếng của thời kỳ Lãng mạn (Romantic era), có công phổ biến.</p>
<p>Tới khoảng năm 1830, thể loại nhạc valse và điệu nhảy valse với nhịp thật nhanh do Joseph Lanner và Johann Strauss I khởi xướng bắt đầu làm mưa gió khắp nơi, và được gọi là <em>Valse Viennoise</em> (tiếng Pháp, còn tiếng Anh là <em>Viennese Waltz</em>), mà người Việt chúng ta thường gọi là <em>Luân vũ thành Viên</em>.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1) </em></strong><em>Tales of the Vienna Woods </em>(hòa tấu)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/01-Tales-Of-The-Vienna-Woods-Mantovani.mp3">01-Tales Of The Vienna Woods – Mantovani</a></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image0043.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image004_thumb3.jpg" alt="clip_image004" width="311" height="367" border="0" /></a></p>
<p><strong>Johann Strauss I</strong> (1804 – 1849).</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Johann Strauss I – còn được gọi là Johann Strauss Sr., hoặc Johann Strauss “Cha” – chính là thân phụ của <strong>Johann Strauss II</strong>, tức Johann Strauss Jr., hoặc Johann Strauss “Con” – tác giả của bản <em>Blue Danube – Dòng Sông Xanh</em> bất hủ.</p>
<p>Ngoài Johann Strauss “đệ Nhất” và Johann Strauss “đệ Nhị” nói trên, dòng họ Strauss còn có một tên tuổi khác đi liền với thể loại <em>Luân vũ thành Viên </em>là Johann Strauss “đệ Tam”, (tức Johann Strauss III), cháu gọi Johann Strauss “đệ Nhị” bằng “chú”.</p>
<p>Tuy nhiên, với hậu thế, mỗi khi nhắc tới cái tên “Johann Strauss” là mọi người nghĩ ngay tới Johann Strauss II (đệ Nhị), tức Johann Strauss “Con” – người được xưng tụng là <em>Ông vua của điệu luân vũ</em> (Waltz King).</p>
<p>Johann Strauss II ra chào đời năm 1825 tại thành Vienne, kinh đô đế quốc Áo và cũng là thủ đô âm nhạc của thế giới. Cậu bé yêu âm nhạc ngay từ ngày bắt đầu có trí khôn, nhưng cha cậu – tức Johann Strauss I – khi ấy đã là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng nổi tiếng, chỉ muốn trưởng nam của mình học hành để trở thành một vị giám đốc ngân hàng. Bởi thế, Johann Strauss II đã phải lén lút học vĩ cầm với Franz Amon, một nhạc sĩ trong ban nhạc của ông bố. Một ngày nọ, ông bố bất thần về nhà, nghe được tiếng con trai đang tập kéo vĩ cầm, thế là Johann Strauss “Con” bị một trận đòn nên thân. Khi bà mẹ can gián, Johann Strauss “Cha” đã trả lời rằng ông phải quất roi cho tới khi “con quỷ âm nhạc” ra khỏi người cậu bé!</p>
<p>Sau này, khi Johann Strauss II đã nổi tiếng, không ít người đã suy diễn: sở dĩ ngày trước Johann Strauss I cấm cản Johann Strauss II theo đuổi âm nhạc chỉ vì ông ta đã nhận ra tài năng thiên phú nơi cậu trưởng nam, nếu để cậu theo cùng một “nghề” thì chắc chắn sẽ xảy ra cảnh “con hơn cha”! Viết một cách đơn giản là Johann Strauss “Cha” ganh tị với Johann Strauss “Con”!</p>
<p>Tuy nhiên, theo các tác giả viết tiểu sử dòng họ Strauss thì Johann Strauss “Cha” cấm cản Johann Strauss “Con” theo đuổi âm nhạc chỉ vì ông không muốn con trai bước vào cái nghề cơ cực, bạc bẽo mà ông đang làm!</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với tuổi niên thiếu của Johann Strauss II, cái “rủi” của bà mẹ lại là cái “may” cho cậu bé. Nguyên vào năm Johann 14, 15 tuổi, ông bố khó tính (nhưng đa tình) của cậu đã bị cô nhân tình trẻ Emilie Trampusch ra tối hậu thư: một là bỏ nhà tới chung sống với cô ta, hai là chấm dứt!</p>
<p>Dĩ nhiên, Johann Strauss “Cha” đã nghe theo tiếng gọi của ái tình! Nhờ vậy, Johann Strauss “Con” mới được tự do theo đuổi âm nhạc với sự khuyến khích của bà mẹ.</p>
<p>Từ đó, Johann Strauss II theo học lý thuyết về hòa âm và đối điểm với Giáo sư Joachim Hoffmann, và thực tập hòa âm với nhà soạn nhạc Joseph Drechsler. Về vĩ cầm, cậu được nhạc sĩ Anton Kollmann của Nhà hát Cung đình thành Vienne (Vienna Court Opera) chỉ dạy.</p>
<p>Với sự đỡ đầu và giấy giới thiệu của ba vị thầy nói trên, vào năm 19 tuổi, Johann Strauss II, lúc ấy đã là một nhạc sĩ vĩ cầm xuất chúng, làm đơn xin giới hữu trách thành Vienne cấp giấy phép hành nghề. Thoạt tiên, Johann Strauss II thành lập một ban hòa tấu nho nhỏ để trình diễn các sáng tác của mình, cũng như các tác phẩm nổi tiếng của các nhà soạn nhạc khác, tại quán rượu (tavern) <em>Zur Stadt Belgrad.</em></p>
<p>Mặc dù nhận biết và cảm phục tài nghệ của Johann Strauss “Con”, nhưng vì uy thế của Johann Strauss “Cha”, đã không có chủ nhân hí viện nào ở thành Vienne dám mời ban hòa tấu của Johann Strauss “Con” tới trình diễn, trừ Dommayer’s Casino ở quận 13.</p>
<p>Ngay sau lần trình diễn các sáng tác đầu tay của mình trong buổi ra mắt giới mộ điệu tại Dommayer’s Casino vào tháng 10 năm 1844, Johann Strauss II đã được các nhà phê bình không tiếc lời ca tụng, và khẳng định “con hơn cha”!</p>
<p>Tuy nhiên cũng phải đợi 5 năm sau (1849), sau khi thân phụ đột ngột qua đời vì bệnh thương hàn vào tuổi 45, Johann Strauss II mới được hoàn toàn tự do, thoải mái thi thố hết tài năng. Ông sát nhập ban nhạc của mình và ban nhạc của bố thành một dàn hòa tấu đại quy mô để đi lưu diễn, và nổi tiếng một cách mau chóng, không chỉ ở Đế quốc Áo – Hung, mà còn được mời sang Đức, Ba-lan, và tới tận kinh thành Petersburg của đế quốc Nga, nơi mà ông được mời trở lại trình diễn hàng năm trong suốt 10 năm, từ 1856 tới 1865.</p>
<p>Cuối thập niên 1870, Johann Strauss được mời sang trình diễn tại Hoa Kỳ. Tại đại hội âm nhạc Boston Festival, ông đã được mời điều khiển dàn đại hòa tấu và ban đại hợp xướng gồm trên 1000 người, có tên là “Monster Concert”, để trình bày các sáng tác của ông, trong đó có bản <em>Blue Danube</em>, sáng tác năm 1867.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2)</em></strong><em> Blue Danube </em>(hòa tấu)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/02-Blue-Danube-Johann-Strauss-.mp3">02-Blue Danube – Johann Strauss [</a></p>
<p>* * *</p>
<p>Về cuộc sống tình cảm cá nhân, Johann Strauss kết hôn tương đối khá muộn (năm đã 37 tuổi) nhưng lại có tới ba đời vợ. Lần thứ nhất với nữ ca sĩ Jetty Treffz vào năm 1862. Mười sáu năm sau, Jetty qua đời vì bạo bệnh, Johann Strauss bước thêm bước nữa với nữ diễn viên Angelika Dittrich. Tuy nhiên, chẳng những hai tâm hồn đã không “đồng điệu”, Angelika lại còn có tật vô ý tứ, thiếu kín đáo, nên chỉ hơn 1 năm sau, Johann Strauss xin ly dị.</p>
<p>Sau đó, Johann Strauss chắp nối với Adele Deutsch, góa phụ trẻ của ông Hoàng Von Meyszner. Cuộc hôn nhân thứ ba này tuy không được Giáo hội Công giáo thừa nhận (vì người vợ trước – Angelika – vẫn còn sống), nhưng lại là cuộc hôn nhân hạnh phúc, tốt đẹp nhất của Johann Strauss. Chính nhờ sự khuyến khích, nâng đỡ tinh thần của Adele mà tài năng, óc sáng tạo của Johann Strauss đã được phát huy tới mức tối đa trong những năm cuối đời.</p>
<p>Về phần các đồng nghiệp, một trong những người ngưỡng phục Johann Strauss là <strong>Johannes Brahms</strong>. Mặc dù hai người hai khuynh hướng sáng tác khác biệt, họ rất quý mến nhau.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image0061.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image006_thumb1.jpg" alt="clip_image006" width="311" height="363" border="0" /></a></p>
<p><Johann Strauss strong>Johannes Brahms </strong><strong></strong><strong>và</strong><strong> </strong><strong></strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Trong cả tiểu sử của Johannes Brahms lẫn Johann Strauss đều ghi lại giai thoại thú vị sau đây:</p>
<p>Một ngày nọ, bà vợ Adele của Johann Strauss có dịp gặp Johannes Brahms và xin ông ký tên trên “cái quạt xin chữ ký” của mình.</p>
<p>Cũng nên biết vào thời ấy, giới phụ nữ quý tộc có cái “mốt” sưu tầm chữ ký của các nhà soạn nhạc tên tuổi, và theo thông lệ, nhà soạn nhạc bao giờ cũng ghi lên đó vài khuôn nhạc trích từ một tác phẩm nổi tiếng của mình, rồi mới ký tên. Vì thế, các bà các cô luôn luôn thủ sẵn một cái quạt giấy gọi là “quạt xin chữ ký” để chờ cơ hội.</p>
<p>Nhưng Johannes Brahms, khi được bà vợ Adele của Johann Strauss xin chữ ký, thay vì ghi nhạc của mình, ông lại ghi mấy khuôn nhạc trích từ bản <em>Blue Danube</em> của Johann Strauss, rồi viết ở phía dưới “Thật đáng tiếc, đây KHÔNG PHẢI là sáng tác của Johannes Brahms” (<em>Unfortunately, NOT by Johannes Brahms</em>)<em> </em>rồi ký tên… <em>“Johannes Brahms</em>”!</p>
<p>* * *</p>
<p>Về mặt sáng tác, Johann Strauss viết trên 500 tác phẩm đủ loại, trong đó có nhiều vở ca nhạc kịch ngắn (operetta) và những bản vũ ballet. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất vẫn là thể loại Luân vũ thành Viên, trong đó có bản <em>Blue Danube</em>.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image008.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image008_thumb.jpg" alt="clip_image008" width="311" height="208" border="0" /></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Cho tới nay, <em>Blue Danube</em> vẫn được ghi nhận là bản hòa tấu phổ biến nhất của nhân loại, nhưng xưa kia nó lại ra đời dưới hình thức một ca khúc.</p>
<p>Johann Strauss viết phần nhạc của bản này vào năm 1866, được thi sĩ Joseph Vey đặt lời, và đã được Ban đại hợp xướng thành Vienne trình diễn lần đầu năm 1867.</p>
<p>Hiện nay, <em>Blue Danube</em> (hòa tấu) được xem như “quốc thiều bán chính thức” của Áo quốc. Vào các đêm giao thừa dương lịch, đúng 12 giờ đêm, trong khi các nơi khác trên thế giới người ta hát, hoặc hòa tấu bản “Auld Lang Syne” (Au Revoir), thì tại Áo, theo luật định, tất cả các đài phát thanh, đài truyền hình sẽ đồng loạt phát đi bản <em>Blue Danube.</em></p>
<p>Ngoài <em>Blue Danube</em>, Johann Strauss còn viết nhiều bản <em>Luân vũ thành Viên</em> bất hủ khác, như <em>Tales from the Vienna Woods</em> (1868), <em>Roses from the South</em> (1880),<em>Voices of Spring</em> (1883), và <em>Emperor Waltz </em>(1889) nhân dịp Hoàng đế Franz Josef của Áo công du nước Đức quốc.<strong><em></em></strong></p>
<p>Ngày nay, các buổi hòa nhạc tân niên theo truyền thống tại thủ đô Áo quốc, do dàn đại hòa tấu Vienna Philharmonic Orchestra trình diễn, luôn luôn được mở đầu bằng bản<em>Voices of Spring, </em>và kết thúc với<em> Blue Danube.</em></p>
<p><strong>Phụ lục (3)<em> </em></strong><em>Voices of Spring</em> (hòa tấu)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/03-voices-of-spring-waltz.mp3">03-voices of spring waltz</a></p>
<p>Riêng bản <em>Blue Danube</em>, ngày ấy do ảnh hưởng sâu đậm của ngôn ngữ và văn hóa Pháp tại Việt Nam, đã được phổ biến tại Hòn ngọc Viễn đông dưới tựa tiếng Pháp là <em>Le Beau Danube Bleu </em>(Dòng sông Danube xanh, đẹp).<em> </em>Sau đó<em> </em>đã được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tựa <em>Dòng Sông Xanh</em>.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image010.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image010_thumb.jpg" alt="clip_image010" width="311" height="218" border="0" /></a></p>
<p><strong>Dòng Danube xanh lơ</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Theo ký ức của chúng tôi, vào những năm giữa thập niên 1960, “thần đồng” Thiên Hương đã hát bản này rất đạt. “Thiên Hương” nhắc tới ở đây là cô em út của ba chị em ca sĩ Hồng Thiện, Đăng Lan, Đặng Đức Hiếu, chứ không phải “nữ ca sĩ Thiên Hương” (Tôn Nữ Thị Thiên Hương) sau này thành danh ở Pháp với cái tên nửa Anh nửa…Tàu “Tiny Yong”.</p>
<p>Rất tiếc, mặc dù có một giọng thiên phú cao vút, Thiên Hương cũng giống như bà chị cả Hồng Thiện, chỉ ca hát tài tử. Cho nên trước năm 1975, trong số các nữ ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam, hình như chỉ có Thái Thanh – người có một giọng cao vút – thu băng ca khúc bất hủ này.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4) </em></strong><em>Dòng Sông Xanh </em>(Thái Thanh)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/04-Dong-song-xanh.mp3">04 – Dong song xanh</a></p>
<p>Johann Strauss II qua đời tại thành Vienne năm 1899, thọ 73 tuổi. Theo di chúc, ông được an táng bên cạnh Johannes Brahms, qua đời trước ông 2 năm, tại Nghĩa trang Trung ương (Zentrafriedhof) thành Vienne, cũng là nơi an giấc nghìn thu của Beethoven, Schubert, và… Johann Strauss I – ông bố ngày xưa đã thất bại trong cố gắng tống khứ “con quỷ âm nhạc” ra khỏi người cậu trưởng nam!</p>
<p>Mộ bia của Johann Strauss II là một công trình điêu khắc tuyệt vời. Phía trên là chân dung nổi của ông, rồi tới các thiên thần đàn hát, và phía dưới là tượng nữ thần âm nhạc với cây đàn lia (lyre).</p>
<p>Ba mươi mốt năm sau (1930), Adele Deutsch (người vợ sau cùng của Johann Strauss II) qua đời và được an táng chung một huyệt mộ với chồng.</p>
<p>Ngoài bia mộ, còn có pho tượng mạ vàng nổi tiếng của <em>Ông vua Luân vũ</em> (Waltz King) đang kéo vĩ cầm, đặt tại công viên Stadpark của thành Vienne.</p>
<p>* * *</p>
<p>Tới đây, chúng tôi viết về bản valse nổi tiếng thứ nhì trên thế giới, cũng viết về dòng sông Danube. Đó là bản <em>Waves of the Danube </em>(tiếng Pháp:<em> Flots du Danube </em>– Những con sóng trên sông Danube), được nhạc sĩ Phạm Đình Chương đặt tựa tiếng Việt là <em>Sóng Nước Biếc.</em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image012.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image012_thumb.jpg" alt="clip_image012" width="311" height="222" border="0" /></a></em><strong>osif Ivanovici</strong><strong> (</strong><strong>1845 </strong><strong>–</strong><strong> 1902</strong><strong>)</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Tác giả của bản valse này là <strong>Iosif Ivanovici, </strong>một nhà soạn nhạc kiêm trưởng ban nhạc nổi tiếng của Romania (Lỗ-mã-ni). Ông sinh năm 1845 và mất năm 1902.</p>
<p>Ivanovici tự học nhạc từ nhỏ, khởi đầu với cây sáo được tặng làm quà sinh nhật. Sau khi gia nhập Trung Đoàn 6 Lục Quân, ông học thổi kèn clarinet. Tuy tự mò mẫm nhưng nhờ có khiếu, Ivanovici đã trở thành tay kèn số 1 của Trung Đoàn. Từ đó, ông đã được nhạc sư Emil Lehr, một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất của hậu bán thế kỷ 19, chỉ dạy thêm.</p>
<p>Sau khi xuất ngũ, Ivanovici thành lập một ban nhạc để đi lưu diễn khắp nơi. Năm 1900, Ivanovici được trao chức vụ Trưởng ngành Quân nhạc Romania, và giữ chức vụ này cho tới khi qua đời.</p>
<p>Mặc dù sự nghiệp của Ivanovici gồm trên 350 nhạc khúc viết cho các điệu vũ, được 6 nhà xuất bản trên thế giới ấn hành, nhưng chỉ cần một bản <em>Waves of the Danube </em>cũng đã đủ để ông lưu danh kim cổ.</p>
<p>Với người yêu nhạc, một khi nhắc tới <em>Blue Danube</em>, không thể không nhắc tới <em>Waves of the Danube; </em>đến nỗi không ít người đã lầm tưởng hai sáng tác này là của cùng một tác giả (Johann Strauss)!</p>
<p>Johann Strauss và Iosif Ivanovici – một người ở đầu sông, một người ở cuối sông, cùng viết về một dòng sông – dòng sông đã gắn liền với sự hình thành và lịch sử thăng trầm của hàng chục quốc gia Âu Châu, đã ăn sâu vào tâm tư tình cảm của bao thế hệ – dòng sông mà Nã-phá-luân đệ Nhất đã xưng tụng là “vua của các dòng sông” (the king of rivers).</p>
<p>Bắt nguồn từ rừng Hắc Lâm (Black Forest) ở Đức và đổ ra biển Hắc Hải (Black Sea) qua cửa Thiết Môn (Iron Gate) ở biên giới Romania-Serbia, Danube là dòng sông giới tuyến của 10 quốc Âu châu, gồm Đức, Áo, Slovakia (trước kia thuộc Liên Bang Tiệp Khắc), Hung-gia-lợi, Croatia, Ukraine, Bảo-gia-lợi, Moldavia, Romania, và Serbia.</p>
<p>Với chiều dài gần 3.000 cây số, sông Danube chảy qua hàng trăm lâu đài, thành quách, tu viện, thánh đường cổ kính, 14 thành phố thơ mộng, trong đó có 4 kinh đô: Vienne (Áo), Bratislava (Slovakia), Budapest (Hung-gia-lợi), và Belgrade (Serbia).</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image013.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image013" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/clip_image013_thumb.jpg" alt="clip_image013" width="311" height="203" border="0" /></a></p>
<p><strong>Black Forest – Thượng nguồn sông Danube</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Một trong những điểm khác biệt giữa hai bản valse nổi tiếng viết về dòng sông này là: khi chảy qua thành Vienne, dòng sông còn êm trôi cho nên nét nhạc của bản <em>Blue Danube</em> cũng êm đềm, dìu dặt; sau gần 2 nghìn dặm, gần tới cửa Thiết Môn ở biên giới Serbia-Romania thì cuồn cuộn sóng, cho nên tiếng nhạc của <em>Waves of the Danube </em>cũng réo rắt, dồn dập theo…</p>
<p><em>Waves of the Danube </em>được xuất bản lần đầu vào năm 1880, với lời đề tặng của Ivanovici cho Emma Gebauer, vợ của nhà xuất bản nhạc Constantin Gebauer ở Bucharest, thủ đô Romania.</p>
<p>Năm 1886, <em>Waves of the Danube </em>được nhà soạn nhạc Emile Waldteufel soạn hòa âm cho dàn đại hòa tấu, và tới năm 1889 tham dự cuộc thi hành khúc (march) tại Hội chợ quốc tế Paris (Paris Exposition) với tựa tiếng Pháp <em>Flots du Danube</em>, đoạt giải nhất trong số 116 nhạc khúc dự tranh, và lập tức trở thành một hiện tượng tại Kinh thành Ánh sáng.</p>
<p>Mấy năm sau (1896), khi hãng đĩa hát Pathé của Pháp được thành lập, bản <em>Flots du Danube</em> dưới dạng hành khúc (march), do dàn nhạc của Vệ binh Cộng hòa Paris (Garde Républicaine de Paris) hòa tấu, đã được thu vào “đĩa 120 vòng”, là loại đĩa hát xưa nhất, trước khi có đĩa 78, 45 và 33 vòng.</p>
<p><strong>Phụ lục (5) </strong><em>Flots du Danube </em>(Garde Républicaine de Paris, 1896)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/05-les-flots-du-Danube.mp3">05-les flots du Danube</a></p>
<p><strong>Phụ lục (6) </strong><em>Waves of the Danube </em>(André Rieu, 2011<strong>)</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/06-waves-of-danube-andre-rieu.mp3">06-waves of danube-andre-rieu</a></p>
<p>Cũng trong 1896, <em>Waves of the Danube </em>được xuất bản tại Hoa Kỳ, và sau đó trở thành bản valse được ưa chuộng nhất tại quốc gia này, thường được gọi một cách đơn giản là <em>“Danube Waves Waltz”.</em></p>
<p>Bước sang thế kỷ thứ 20, tới năm 1946, <em>Danube Waves Waltz</em> được nhà soạn nhạc Saul Chaplin cải biến phần nhạc và đặt lời với tựa <em>“The Anniversary Song”</em> do nam ca sĩ Al Jolson thu đĩa. Vì thế, <em>The Anniversary Song </em>đã được người Mỹ xem là “của riêng”, được nằm trong danh sách “di sản” tại Thư viện Quốc gia Hoa Kỳ, và trở thành ca khúc không thể thiếu trong những dịp kỷ niệm ngày cưới, được hầu hết các danh ca như Bing Crosby, Rosemary Clooney, Frank Sinatra, Andy Williams… thu đĩa.</p>
<p><em><strong>Phụ lục (7) </strong>Anniversary Song </em>(Andy Williams)<em></em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/07-Anniversary-Song-Andy-Williams.mp3">07-Anniversary Song – Andy Williams</a></p>
<p>Nhân tiện cũng xin lưu ý độc giả ở Hoa Kỳ không nên lẫn lộn <em>The Anniversary Song</em> (mở đầu bằng câu: <em>Oh, how we danced on the night we were wed…</em>) với một ca khúc khác cũng của Mỹ có tựa là <em>The Anniversary Waltz</em>.</p>
<p>Trở lại với nhạc khúc <em>Waves of the Danube</em> nguyên thủy, đây là một bản hiếm hoi của thời kỳ Lãng mạn mà về sau được cả tới những ban nhạc “rock” khai thác. Trong số này, độc đáo nhất phải kể tới bản do ban hòa tấu Takeshi Terauchi &amp; The Bunnys của Nhật trình bày. <strong>Takeshi Terauchi</strong> là một tay đàn ghi-ta điện nổi tiếng thế giới trong lĩnh vực sử dụng kỹ thuật điện tử để đem lại cho cây ghi-ta điện những âm thanh độc đáo, lạ thường.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (8) </em></strong><em>Danube Waves Waltz</em> (Takeshi Terauchi &amp; The Bunnys)<em></em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/08-Danube_Wave_Waltz.mp3">08-Danube_Wave_Waltz</a></p>
<p>Riêng tại Việt Nam xưa kia, <em>Waves of the Danube</em> đã được giới yêu nhạc ngoại quốc biết tới với tựa tiếng Pháp <em>Flots du Danube, và </em>tới cuối<em> </em>thập niên 1950 đã được nhạc sĩ Phạm Đình Chương đặt lời Việt với tựa <em>Sóng Nước Biếc</em>.<em> </em><em></em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (9) </em></strong><em>Sóng Nước Biếc – </em>Hải Lý<em> </em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/09-Les-Flots-du-Danube.mp3">09– Les Flots du Danube</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>PHỤ LỤC:</em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>(1) Tales of the Vienna Woods </em></strong><em>– </em>Mantovani Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/01-Tales-Of-The-Vienna-Woods-Mantovani.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/01-Tales-Of-The-Vienna-Woods-Mantovani.mp3</a></p>
<p><strong><em>(2)</em></strong><em> <strong>Blue Danube </strong>(original version)<strong> </strong>- </em>Vienna Philharmonic Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/02-Blue-Danube-Johann-Strauss-.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/02-Blue-Danube-Johann-Strauss-.mp3</a></p>
<p><strong><em>(3) Voices of Spring </em></strong><em>(original version)<strong> </strong>– </em>Vienna Philharmonic Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/03-voices-of-spring-waltz.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/03-voices-of-spring-waltz.mp3</a></p>
<p><strong><em>(4) Dòng Sông Xanh </em></strong><em>(Phạm Duy) – </em>Thái Thanh</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/04-Dong-song-xanh.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/04-Dong-song-xanh.mp3</a></p>
<p><strong><em>(5)</em></strong><strong> <em>Flots du Danube</em></strong><em> </em>- Garde Républicaine de Paris (1896)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/05-les-flots-du-Danube.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/05-les-flots-du-Danube.mp3</a></p>
<p><strong><em>(6)</em></strong><strong> <em>Waves of the Danube </em></strong><em>- </em>André Rieu<strong> </strong>(2011<strong>)<em> </em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/06-waves-of-danube-andre-rieu.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/06-waves-of-danube-andre-rieu.mp3</a></p>
<p><strong><em>(7) Anniversary Song -</em></strong><strong> </strong>Andy Williams</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/07-Anniversary-Song-Andy-Williams.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/07-Anniversary-Song-Andy-Williams.mp3</a></p>
<p><strong><em>(8) Danube Waves Waltz</em></strong><strong> – </strong>Takeshi Terauchi &amp; The Bunnys<em></em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/08-Danube_Wave_Waltz.mp3">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/08-Danube_Wave_Waltz.mp3</a></p>
<p><em>(<strong>9) Sóng Nước Biếc </strong>(Phạm Đình Chương) – </em>Hải Lý</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/09-Les-Flots-du-Danube.mp3" target="_blank">http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/04/09-Les-Flots-du-Danube.mp3</a></p>
<p><strong>Hoài Nam</strong></p>


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414397654.jpg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1414397750.mp3
Sóng Nước Biếc - Thái Thanh

saomai
11-07-2014, 08:08 AM
<p><p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image0021.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: block; float: none; margin-left: auto; margin-right: auto; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image002_thumb1.jpg" alt="clip_image002" width="260" height="362" border="0" /></a></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p align="center"><strong>Ernesto De Curtis</strong> (1875-1937)<strong></strong></p>
<p>Sau phần dẫn nhập và giới thiệu một số sáng tác để đời của các nhà soạn nhạc lừng danh ở Đức, Áo, Ba-lan và Đông Âu trong nền nhạc cổ điển, bắt đầu từ bài này, chúng tôi mời quý độc giả cùng xuôi về phương Nam để thưởng thức những ca khúc nổi tiếng của các nhà soạn nhạc Ý, Tây-ban-nha và Mỹ La-tinh.</p>
<p>Trước hết là bản <em>Torna a Surriento </em>(tựa tiếng Anh: <em>Come Back to Sorrento</em>, tựa tiếng Việt: <em>Trở về mái nhà xưa</em>) của hai anh em người Ý <strong>Ernesto De Curtis</strong> (1875-1937) và <strong>Giovanni Battista </strong>(gọi tắt là<strong> </strong>Giambattista)<strong> De Curtis</strong> (1860-1926).</p>
<p>Viết một cách chi tiết hơn,<em>Torna a Surriento </em>là một ca khúc được Ernesto phổ từ một bài thơ có cùng tựa của Giambattista. Tuy nhiên hiện nay, nếu không kể ở Ý, hầu như tất cả mọi ấn bản được lưu hành chỉ ghi tên tác giả là Ernesto De Curtis.</p>
<p>Trong số này, có người (Việt) còn lầm lẫn một cách tai hại khi viết: “…<em>tác giả là Ernesto De Curtis, <strong>còn được gọi là Giambattista</strong>”!</em></p>
<p>Tìm hiểu tới nơi tới chốn, chúng ta sẽ thấy nếu không có bài thơ của Giambattista, hoặc ông không yêu cầu Ernesto phổ nhạc, đã không có ca khúc bất hủ này. Có thể nói, <em>Torna a Surriento </em>là một sự phối hợp tuyệt vời giữa những rung động trong lời thơ của Giambattista và nét nhạc của Ernesto.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image0041.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: block; float: none; margin-left: auto; margin-right: auto; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image004_thumb1.jpg" alt="clip_image004" width="260" height="350" border="0" /></a></p>
<p align="center"><strong>Giovanni Battista De Curtis</strong> (1860-1926)</p>
<p>* * *</p>
<p><em>Torna a Surriento </em>là một<em> </em>ca khúc thuộc thể loại “ca khúc xứ Naples” – tức “Neapolitan songs”.</p>
<p>Naples (tiếng Ý là Napoli) được xem là cái nôi của nền ca nhạc hiện đại của Ý, khởi đầu vào cuối thời kỳ lãng mạn với những ca khúc thiết tha, trữ tình, mà lời hát được phát âm theo thổ âm đặc biệt của vùng Naples, chẳng hạn chữ <em>”sorrento”</em> phát âm thành <em>“surriento”.</em></p>
<p>Ngoài bản<em> Torna a Surriento, </em>người Ý<em> </em>còn có nhiều “ca khúc xứ Naples” nổi tiếng quốc tế khác, chẳng hạn bản <em>O Sole Mio</em> (Mặt trời của tôi), một ca khúc quen thuộc qua tiếng hát của hầu hết danh ca tenor trên thế giới. Về sau, bản <em>O Sole Mio</em> còn được người Mỹ đặt lời bằng tiếng Anh với tựa <em>It’s Now or Never</em>, và trở thành một trong những ca khúc “nhãn hiệu cầu chứng” của Ông vua nhạc rock Elvis Presley.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1)</em></strong><em> O Sole Mio, </em>Luciano Pavarotti.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/01-O-sole-mio-Luciano-Pavarotti-1.mp3">01-O sole mio – Luciano Pavarotti-1</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (2)</em></strong><em> It’s Now or Never, </em>Elvis Presley</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/02-Its-Now-Or-Never-Elvis-Presley-Nh-c-Anh222.mp3">02-Its Now Or Never – Elvis Presley Nh c Anh(2)(2)(2)</a></p>
<p>Hai anh em Giambattista và Ernesto De Curtis sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở Naples – nguyên là một vương quốc ngày nước Ý chưa thống nhất; cha là “họa sĩ fresco” tên tuổi Giuseppe De Curtis, và ông cố là nhà soạn nhạc nổi tiếng Saverio Mercadante.</p>
<p>Giambattista sinh năm 1860, còn Ernesto ra chào đời sau đó 15 năm. Với người Ý nói chung, Giambattista nổi tiếng hơn Ernesto, bởi vì trong khi Ernesto chỉ là một nhà soạn nhạc và viết ca khúc, thì Giambattista vừa viết ca khúc, soạn ca kịch, vừa sáng tác thơ văn, vừa điêu khắc, vừa vẽ tranh, đặc biệt là tranh “fresco”, nhờ được thân phụ huấn luyện, đào tạo từ nhỏ.</p>
<p>[<strong><em>Chú thích</em></strong>: “fresco” là một hình thức vẽ tranh đặc thù của thời Trung cổ và thời Phục hưng. Đó là kỹ thuật và nghệ thuật vẽ trên vữa (plaster) chưa kịp khô của các bức tường hoặc trần nhà, với mục đích giữ cho lâu bền.</p>
<p>Nhà nguyện Sistine (Sistine Chapel) ở Rome là nơi tập trung những bức “fresco” nổi tiếng nhất: trên trần là tranh của danh sư Michelangelo, và trên tường là các tác phẩm của Botticelli cùng nhiều họa sĩ thời danh khác.</p>
<p>Cái khó khăn nhất trong việc vẽ “fresco” là một khi đã vẽ, không thể sửa đổi các chi tiết. Bức họa lừng danh “Bữa tiệc ly” (<em>The Last Supper</em>) của thiên tài <strong>Leonardo Da Vinci</strong> – mà một số người gọi là “fresco” - tuy cũng được vẽ trên tường phòng ăn của tu viện Santa Maria delle Grazie ở Milan, nhưng thực ra không phải “fresco” vì được vẽ trên tường đá, cho nên đã bị hư thoái trầm trọng (tróc sơn) ít lâu sau khi ông qua đời.</p>
<p>Cũng may cho hậu thế, vào khoảng năm 1520 (hơn 20 năm sau ngày bức họa được hoàn tất), <strong>Giovanni Pietro Rizzoli</strong> (có tên nghệ sĩ là <strong>Giampietrino</strong>), một người phụ tá của Leonardo Da Vinci, thấy được nguy cơ hư thoái của bức họa, nên đã vẽ lại bằng sơn dầu (oil on canvas) với cùng một kích thước (một bề 4.5 mét, một bề 8.7 mét) và với một mức chính xác tuyệt vời. Nhờ đó, gần 5 thế kỷ sau, khi bức họa <em>The Last Supper</em> nguyên thủy của Leonardo Da Vinci được trùng tu toàn phần - một công việc kéo dài 20 năm (từ 1978 tới 1998), người ta mới có “mẫu” để vẽ lại những phần đã bị tróc trên bức họa nguyên thủy.</p>
<p>Ngày nay, bức họa <em>The Last Supper</em> (vẽ lại) của Giampietrino thuộc quyền sở hữu của Hàn lâm viện Nghệ thuật Vương quốc Anh (Royal Academy of Arts) ở Luân-đôn.</p>
<p>* * *</p>
<p>Cũng nhờ tài vẽ tranh “fresco” mà Giambattista De Curtis được ông Thị trưởng Guglielmo Tramontano của Sorrento trọng đãi.</p>
<p align="center"><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image006.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image006_thumb.jpg" alt="clip_image006" width="260" height="194" border="0" /></a></p>
<p align="center"><strong>T</strong><strong>hị trấn cổ kính</strong><strong> </strong><strong>Sorrento</strong><strong></strong></p>
<p>Sorrento là một thị trấn cổ kính ở tỉnh Campania, miền Nam nước Ý, cư dân chỉ vào khoảng 16,500 người. Với những di tích lịch sử từ thời Đế quốc La-mã, khung cảnh thơ mộng hữu tình, nằm bên vịnh Sorrento xanh biếc của Địa Trung Hải, gần Naples, núi lửa Vesuvius và thành phố Pompeii đã bị núi này chôn vùi dưới lòng biển, Sorrento đã trở thành một địa danh du lịch nổi tiếng, và nơi nghỉ mát lý tưởng.</p>
<p>Gia đình De Curtis là chỗ quen thân với ông Thị trưởng Tramontano của Sorrento, kiêm chủ nhân khách sạn nghỉ mát <em>Grand Hotel</em> nổi tiếng của thị trấn; và Giambattista đã được ông mời phụ trách việc trang trí, vẽ những bức “fresco” trên tường khách sạn; về sau, Giambattista còn vẽ nhiều bức tranh trên vải để trưng bày tại đây.</p>
<p>Sự trọng đãi của ông Thị trưởng Tramontano cùng với khung cảnh thơ mộng hữu tình, khí hậu lý tưởng của Sorrento đã khiến Giambattista De Curtis xem thành phố này như quê hương thứ hai; trong suốt 20 năm liên tục, năm nào ông cũng tới sống ở Sorrento trong 6 tháng hè, ngụ tại <em>Grand Hotel, </em>để vẽ, làm thơ, sáng tác ca khúc, và... xuất hiện bên cạnh những bông hoa biết nói đẹp nhất – cho tới khi lập gia đình vào tuổi 50 với tiểu thư Carolina Scognamiglio - sau 20 đính hôn!</p>
<p>* * *</p>
<p>Về phần cậu em Ernesto De Curtis, tuy không “bách nghệ tinh” và đào hoa như ông anh Giambattista, nhưng lại là một danh thủ dương cầm và nhà soạn nhạc, soạn ca khúc chuyên nghiệp, tốt nghiệp Nhạc viện San Pietro ở Naples.</p>
<p>Bình thường, Giambattista hay viết ca khúc chung với nhà soạn nhạc Vincenzo Valente (1855–1921), một người bạn vong niên, chỉ thỉnh thoảng mới viết chung với cậu em Ernesto, trong đó bản <em>Torna a Surriento.</em></p>
<p>Theo lời truyền tụng, nguyên nhân ra đời của bản<em> Torna a Surriento </em>là chuyến viếng thăm thị trấn Sorrento của Thủ tướng Ý Giuseppe Zanardelli vào năm 1902. Dĩ nhiên, ngài Thủ tướng cư ngụ tại <em>Grand Hotel</em>. Vì thế ông Thị trưởng Tramontano đã yêu cầu hai anh em De Curtis sáng tác một “ca khúc xứ Naples” để đón mừng. Thế là Giambattista làm bài thơ <em>Torna a Surriento </em>rồi đưa cho Ernesto phổ nhạc.</p>
<p>Tuy nhiên, một số tài liệu được khám phá gần đây cho thấy ca khúc này đã được hai anh em sáng tác vào năm 1894, tức là 8 năm trước ngày Thủ tướng Zanardelli viếng thăm Sorrento; như vậy việc ca khúc này được xuất bản vào năm 1902 – năm có chuyến viếng thăm của Thủ tướng Ý, chỉ là một sự vô tình trùng hợp. Thế nhưng cho tới nay, không ít tác giả khi viết về lai lịch ca khúc <em>Torna a Surriento, </em>vẫn cố tình “phớt lờ”<em> </em>khám phá nói trên, không ngoài mục đích duy trì tính cách thú vị của những thêu dệt đáng yêu, và vô hại ấy!</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Luciano Pavarotti</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/03-Torna-Suriento-Luciano-Pavarotti.mp3">03-Torna Suriento - Luciano Pavarotti</a></p>
<p>Lời hát trong <em>Torna a Surriento </em>(Hãy trở lại Sorrento), là lời trách móc một chàng trai đang bỏ Sorrento ra đi, bỏ lại biển xanh với những cổ vật dưới đáy, và trên mặt nước những nàng nhân ngư đang đắm đuối nhìn theo, bỏ lại những khu vườn thân thương vương thoảng mùi hoa cam dịu dàng..., cùng với lời nhắn nhủ “Hãy trở lại Sorrento!”</p>
<p>Ngay sau khi được đăng ký bản quyền quốc tế vào năm 1905, <em>Torna a Surriento </em>đã trở thành một “hiện tượng”, được ưa chuộng và phổ biến khắp nơi, đặc biệt là tại Hoa Kỳ, nơi mà người di dân Ý còn mang nặng tình hoài hương.</p>
<p>Từ đó tới nay, hầu như không một danh ca nào của phương tây mà không hát bản này; riêng Dean Martin, một danh ca Mỹ gốc Ý, đã thu đĩa tới 3 ấn bản khác nhau: nguyên tác tiếng Ý<em> Torna a Surriento</em>, bản dịch sang tiếng Anh với tựa <em>Come Back to Sorrento</em>, và một bản lời Anh khác có tựa <em>Take Me in your Arms</em>.</p>
<p>Về sau, hai tác giả Doc Pomus và Mort Shuman còn soạn lại phần nhạc và đặt lời hát với tựa <em>Surrender </em>cho Ông vua nhạc rock Elvis Presley thu đĩa.</p>
<p>Bên cạnh đó, nét nhạc của Ernesto de Curtis trong <em>Torna a Surriento </em>cũng có một sức thu hút lạ thường, và đã được nhiều dàn nhạc cổ điển và bán cổ điển trình tấu.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Mantovani Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/04-Come-Back-To-Sorrento-Mantovani.mp3">04-Come Back To Sorrento - Mantovani</a></p>
<p>Có thể nói, nếu cần một nhạc khúc, ca khúc quốc tế để diễn tả nỗi buồn xa xứ, sự hoài niệm quê xưa, thì <em>Torna a Surriento </em>phải được xem là nhạc khúc, ca khúc điển hình nhất.</p>
<p>Thật vậy, người nghe nhạc ở khắp năm châu, không phải ai cũng biết, hoặc bỏ công tìm hiểu thị trấn Sorrento nằm ở đâu, thơ mộng tới mức nào, nhưng sao qua nghe ca khúc này, hầu như mỗi người đều thấy trong đó hình ảnh một nơi chốn riêng đầy ắp những kỷ niệm thân thương của chính mình.</p>
<p>Riêng tại Việt Nam, theo ký ức của nhạc sĩ Thanh Trang, nhạc sĩ kiêm ca sĩ <strong>Mạnh Phát</strong> trong Nam là người đầu tiên đặt lời Việt cho bản <em>Torna a Surriento </em>với tựa đề “Trở về mái nhà xưa”; lời hát tuy đơn sơ nhưng rất thấm thía.</p>
<p>Còn ở ngoài miền Bắc, vào khoảng năm 1949-1950, nhạc sĩ Phạm Duy cũng đặt lời Việt cho <em>Torna a Surriento</em>, và cũng với tựa đề “Trở về mái nhà xưa”.</p>
<p>Ông viết trong hồi ký:</p>
<p><em>“Bản ca nổi danh của nước Ý là COME BACK TO SORRENTO cũng được tôi soạn lời Việt với cái tên TRỞ VỀ MÁI NHÀ XƯA tại Chợ Neo, Thanh Hoá. Lời ca nói lên phần nào sự mệt mỏi của con người trong kháng chiến, mơ tới ngày được trở về với cái bình thường của mình. Bài này có thêm chút không khí Bồ Tùng Linh vì tôi là người Á Ðông: </em></p>
<p><em><br />
Về đây khi mái tóc còn xanh xanh<br />
Về đây với mầu gió ngày lang thang<br />
Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng<br />
Ôi lãng du quay về điêu tàn.<br />
Về đây nghe tiếng hú hồn mê oan.<br />
Về đây lắng trầm khúc nhạc truy hoan.<br />
Về đây nhé ! Cắm xong chiếc thuyền hồn<br />
Ôi thoáng nghe dây lòng tiếc đờn.<br />
Mái tóc nhà lưu luyến vạt trăng xanh.<br />
Nếu mưa về yêu lấy hạt long lanh.<br />
Chờ mong nắng cho tươi đời xuân xanh.<br />
Người xa vắng biết đâu nấm nhà buồn<br />
Ðốt ánh đèn in bóng vào rêu xanh.<br />
Sẽ thấy cười tan vỡ hồn đêm thanh.<br />
Và nghe thấy kiếp xưa bước nhẹ về<br />
Ðang khóc than trên đường não nề.<br />
Ðâu tiếng đàn ngoài hiên mưa ?<br />
Và đâu bướm tơ, vui cùng mùa ?<br />
Một mùa Xuân mới, mắt êm nắng hào hoa.<br />
(Thôi nhé đừng hoài âm xưa<br />
Giọt mưa đã gieo trên thềm nhà<br />
Người ngồi im bóng, lắng nghe tháng ngày qua)</em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (5)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em> ,Trần Thái Hòa &amp; Ngọc Hạ</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/05-Tro-Ve-Mai-Nha-Xua-Tran-Thai-Hoa-Ngoc-Ha.mp3">05-Tro Ve Mai Nha Xua - Tran Thai Hoa - Ngoc Ha</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (6)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em>, hòa tấu đàn bầu</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/06-Tro-ve-Surriento-Come-Back-To-Surriento-Torna-a-Surriento-Hoa-tau-Dan-bau.mp3">06-Tro ve Surriento Come Back To Surriento - Torna a Surriento - Hoa tau Dan bau</a></p>
<p align="center"><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image007.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: inline; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image007_thumb.jpg" alt="clip_image007" width="260" height="347" border="0" /></a></p>
<p align="center"><strong>Enrico Toselli</strong> (1883-1926)</p>
<p>Ca khúc thứ hai của Ý chúng tôi giới thiệu trong bài này là bản <em>Serenata </em>của tác giả <strong>Enrico Toselli</strong> (1883-1926) với lời hát của <strong>Alfredo Silvestri</strong>.</p>
<p>Với nhiều người yêu nhạc cổ điển, khi nói tới những bản “serenata” nổi tiếng của Ý, thì bản <em>La Serenata </em>của <strong>Francesco Paolo Tosti</strong> (1846-1916), ra chào đời trước Enrico Toselli 37 năm, được đánh giá cao hơn. Tuy nhiên, nếu nói về tính cách phổ biến, bản <em>Serenata của </em>Enrico Toselli được nhiều thành phần thính giả biết tới và ưa chuộng hơn; một phần vì giai điệu êm tai, nét nhạc dung dị, một phần vì đời tư sôi nổi của tác giả - tức cuộc hôn nhân của ông với <strong>Nữ đại công tước Louise</strong> – một mệnh phụ nổi tiếng và gây tranh luận vào thời đó, không thua gì Công nương Diana của thế kỷ 20.</p>
<p>* * *</p>
<p>Enrico Toselli ra chào đời tại Florence năm 1883, ngay từ nhỏ đã tỏ ra có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc. Được thọ giáo các danh sư về dương cầm và sáng tác, năm 16 tuổi Enrico Toselli đã sáng tác bản <em>Serenata </em><em>bất hủ</em><em> </em><em>(sẽ đề cập tới ở phần sau)</em><em> </em>đồng thời nổi tiếng với tài đàn dương cầm, không chỉ trình diễn ở Ý mà còn được mời tới các kinh thành ở khắp Âu châu, tới tận cố đô Alexandria của Ai-cập, và cả Bắc Mỹ.</p>
<p>Thế nhưng đang nổi tiếng với tiếng đàn, năm 1907, tại thủ đô Anh quốc, vào tuổi 24, Enrico Toselli đã “dừng bước giang hồ” để kết hôn với một thiếu phụ 7 con, hơn chàng 13 tuổi. Thiếu phụ ấy chính là Nữ đại công tước Louise, tức Công chúa Louise xứ Tuscany, vợ cũ của Đông cung Thái tử Frederick xứ Saxony, người sau này trở thành vua Frederick đệ Tam của vương quốc này.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image009.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: block; float: none; margin-left: auto; margin-right: auto; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image009_thumb.jpg" alt="clip_image009" width="260" height="407" border="0" /></a></p>
<p align="center"><strong>Nữ đại công tước Louise</strong></p>
<p>Cũng nên biết vào đầu thế kỷ thứ 19, sau khi chinh phục Âu châu, Hoàng đế Nã-phá-luân đệ Nhất của Pháp đã cho giải thể đế quốc Holy Roman Empire, chia thành nhiều vương quốc nhỏ, như Saxony (ngày nay là Vương quốc Bỉ), Tuscany (miền bắc nước Đức ngày nay)... Sau khi Nã-phá-luân bị đại bại trước liên quân Âu châu, các vương quốc này trực thuộc đế quốc Áo – Hung.</p>
<p>Louise thuộc dòng tộc Bourbon của Pháp, con gái vua Ferdinand IV xứ Tuscany, được hoàng đế Áo Franz Josef phong tước “Nữ đại công tước Áo quốc” (Archduchess of Austria). Đây là tước cao nhất dành cho nữ giới trong đế quốc Áo; trước kia Hoàng hậu Marie-Antoinette (vợ vua Louis 16) và Hoàng hậu Marie-Louise (vợ của Nã-phá-luân đệ Nhất) cũng được phong tước này.</p>
<p>Năm 21 tuổi, Louise kết hôn với Đông cung Thái tử Frederick của vương quốc Saxony, người sau này trở thành vua Frederick đệ Tam. Trong cương vị một hoàng hậu tương lai (Crown Princess), Louise rất được thần dân Saxony yêu mến, nhưng lại bị ông bố chồng - vua George xứ Saxony, ghét cay ghét đắng, một phần vì nàng có đầu óc cấp tiến, không chịu tuân thủ các nghi lễ, thủ tục trong triều, một phần vì bị nhà chồng lên án là lả lơi, thiếu đứng đắn.</p>
<p>Cuối năm 1902, khi đang mang thai đứa con thứ 7, Louise khám phá ra việc ông bố chồng đang âm mưu nhốt mình vào viện tâm thần Sonnestein Mental Asylum suốt đời, nàng đã nhờ người anh trai giúp mình trốn khỏi kinh đô Dresden, bỏ lại 6 đứa con dại.</p>
<p>Qua đầu năm 1903, vua George xứ Saxony đã ban sắc lệnh chấm dứt cuộc hôn nhân giữa con trai, tức Đông cung Thái tử Frederick, và Louise, tước bỏ tước hiệu <em>“Her Imperial and Royal Highness, Crown Princess of Saxony” </em>của nàng.<em></em></p>
<p>Sau đó, có một khoảng thời gian Louise chung sống với André Giron, nguyên là thầy giáo dạy Pháp văn của các con, và tới năm 1907, kết hôn với Enrico Toselli tại Luân-đôn. Chỉ tới khi ấy, Louise mới bị Hoàng đế Áo tước bỏ tước hiệu “Nữ Đại công tước Áo quốc” do ông phong trước đây.</p>
<p>Ngày ấy, và cả cho tới nay, việc “Công chúa Louise xứ Saxony bỏ chồng” đã được các sử gia xem là vụ “xì-căng-đan vương giả” lớn nhất từ nhiều thế kỷ qua, khởi đầu cho một “cuộc cách mạng trong các cung đình”.</p>
<p>* * *</p>
<p>Qua năm sau (1908), Louise cho ra chào đời cậu con trai Carlo Emanuele Toselli; tuy nhiên cuộc hôn nhân giữa nàng công chúa và chàng nhạc sĩ được mô tả là không hạnh phúc, và hai người ly dị sau 4 năm chung sống.</p>
<p>Sau khi ly dị, Toselli về sống tại Florence, vừa sáng tác vừa dạy nhạc, thỉnh thoảng mới trình diễn dương cầm cho giới mộ điệu.</p>
<p>Điều đáng tiếc cho người yêu nhạc là Toselli lại có cả tài cầm bút: sau thành công của loạt bài viết về chuyện tình và cuộc hôn nhân giữa ông và Louise, Toselli đã dành quá nhiều thì giờ cho việc viết cuốn hồi ký rất ăn khách, có tựa tiếng Pháp là <em>Mari d’altesse: 4 ans de mariage avec Louise de Toscane, ex-princesse de Saxe</em>. (Trèo cao: 4 năm làm chồng Louise xứ Tuscany, cựu Công chúa xứ Saxony) do Albin Michel Éditeur, Paris, xuất bản năm 1912.</p>
<p>[Tuy nhiên, với các sử gia, đây lại là một việc “không đáng tiếc” chút nào. Bởi vì cùng với cuốn hồi ký của Louise (<strong>My own Story</strong>, Louise of Tuscany, Former Crown Princess of Saxony) xuất bản tại Luân-đôn năm 1911, cuốn hồi ký của Enrico Toselli được xem là một sử liệu hiếm quý về những diễn biến chính trị trong buổi hoàng hôn của các triều đại đế quốc ở Âu Châu]</p>
<p>Vì thế, so với tài năng thiên phú, sự nghiệp âm nhạc Enrico Toselli để lại cho đời phải được xem là quá khiêm nhượng, chỉ gồm 2 vở opera ngắn (operetta) và mấy chục ca khúc, nhạc khúc, trong đó có bản <em>Serenata</em> bất hủ, sáng tác năm 16 tuổi.</p>
<p>Chữ “serenata” (tiếng Pháp là “sérénade”) trong nền nhạc cổ điển, chúng tôi đã giải thích một cách chi tiết trong bài nói về bản <em>Sérénade</em> (Dạ Khúc) của Schubert, cho nên ở đây chỉ xin nhắc sơ lại:</p>
<p>“Serenata” phát xuất từ Ý vào thời Trung cổ, nguyên là thể loại ca khúc êm dịu được “chàng” sử dụng để tỏ tình với “nàng”.</p>
<p>Về sau, tới thời nhạc cổ điển, nội dung cũng như hình thức của “serenata” đã được nới rộng (không nhất thiết phải có lời hát mà có khi chỉ viết cho nhạc cụ), nhưng căn bản vẫn là nhẹ nhàng, êm ái, thiết tha, thường được trình diễn vào lúc chiều tối, tức “mộ khúc”, hoặc “dạ khúc”.</p>
<p>“Serenata” là hình thức sáng tác rất phổ biến trong nền nhạc cổ điển, hầu như nhà soạn nhạc nào cũng viết một vài bản (riêng Mozart viết tới 13 bản), cho nên khi đề cập tới một bản “serenata” (hay “sérénade”) nào đó, người ta phải nói rõ là của tác giả nào, thậm chí có khi còn ghi số thứ tự của tác phẩm và tuyển tập (opus).</p>
<p>Tuy nhiên, để khỏi mất công dài dòng và tránh nhức đầu cho người nghe nhạc, hiện nay người ta gọi 4 bản “serenata” (sérénade) phổ biến nhất trong nền nhạc cổ điển một cách đơn giản như sau:</p>
<p>1- Sérénade số 13 của Mozart là <strong><em>“Eine Kleine Nachtmusik”</em></strong><em> </em>(tiếng Đức có nghĩa là “Tiểu dạ khúc”), cũng là tựa đề mà chính Mozart đã đặt cho bản “sérénade” này.</p>
<p>2- Sérénade của Schubert là <strong><em>“Sérénade de Schubert”</em></strong></p>
<p>3- Serenata của Tosti là <strong><em>“La Serenata”</em></strong></p>
<p>4- Serenata của Toselli (đề cập tới trong bài viết này) là <em><strong>Serenata “Rimpianto”</strong></em><em> </em><em>(Bản nhạc chiều luyến tiếc). </em></p>
<p><em>Riêng với thính giả tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, mà phần lớn chỉ biết tới 2 bản </em>của Schubert và Toselli, người ta đã đơn giản tới mức tối đa: bản của Schubert thì gọi là <em>“Sérénade”, </em>còn bản của Toselli là “<em>Serenata”.</em><em></em></p>
<p>Khi đặt tựa tiếng Việt, nhạc sĩ Phạm Duy cũng rất ngắn gọn: <em>“Sérénade” </em>thành “<em>Dạ khúc”, </em>“<em>Serenata” </em><em>thành “</em><em>Chiều tà”.</em><em></em></p>
<p><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image010.jpg"><img style="background-image: none; padding-left: 0px; padding-right: 0px; display: block; float: none; margin-left: auto; margin-right: auto; padding-top: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/clip_image010_thumb.jpg" alt="clip_image010" width="260" height="173" border="0" /></a></em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><em>Bản </em><em>Serenata </em><em>được </em>Toselli sáng tác vào năm 16 tuổi, dưới tựa <strong><em>“Serenata for Violin and Piano”</em> </strong>(No.1, Op. 6) với lời hát của Alfredo Silvestri<strong> </strong>(rất tiếc, chúng tôi không tìm thấy bất cứ tài liệu nào viết về tác giả này).</p>
<p>Vì nội dung lời hát là sự luyến tiếc những kỷ niệm đẹp, những hạnh phúc ngọt ngào của mối tình tuổi thanh xuân rực rỡ nay đã mất, cho nên người Ý còn gọi bản <em>Serenata </em><em>của </em>Toselli là <em>Serenata</em> <em>“R<em>impianto’ .</em></em></p>
<p><em>Trong tiếng Ý </em>“<em>Rimpianto” </em><em>có nghĩa là “sự hoài niệm, luyến tiếc”.</em></p>
<p><em>Sự tài tình của </em>Toselli là đã khiến <em>người yêu nhạc, hoặc nghe nhạc cổ điển có chút trình độ và tâm hồn, chỉ cần nghe phần nhạc cũng có thể đoán ra phần nào nội dung lời hát. Đặc biệt là những đoạn viết cho vĩ cầm – khi thiết tha, khi lên tới tận cùng đau đớn, để rồi cuối cùng trầm lắng, buông xuôi, ngậm ngùi trước những gì đã qua, đã mất… </em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(violin), Andre Rieu </em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/07-Serenata-Andre-Rieu.mp3">07-Serenata – Andre Rieu</a></p>
<p><em>Mặc dù được </em>Toselli <em>viết chủ yếu cho vĩ cầm và dương cầm, bản </em><em>Serenata</em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>còn được nhiều dàn nhạc, hay nhạc sĩ, ca sĩ trình bày dưới những hình thức khác nhau, chẳng hạn ca sĩ + dương cầm + ban hòa tấu, hoặc đàn mandolin…</em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (8)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(mandolin + guitar)</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/08-Serenade.Toselli-Tony-Flores-Paul-Hostetter.mp3">08-Serenade.Toselli-Tony Flores -Paul Hostetter</a></p>
<p><em>Tại Việt Nam trước kia, </em><em>Serenata</em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>đã được Phạm Duy</em><em> </em><em>đặt lời Việt với tựa “Chiều Tà” – được nhiều người đánh giá là một trong những bản lời Việt (cho ca khúc ngoại quốc) hay nhất của ông.</em><strong><em> </em></strong></p>
<p><strong><em>Phụ lục (9)</em></strong><em> <em>Chiều Tà</em></em><em>, Khánh Hà</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/09-Chieu-ta-Serenata-LV-Pham-Duy-Khanh-Ha-NCT-4872906221.mp3">09-Chieu ta (Serenata – LV Pham Duy) – Khanh Ha [NCT 4872906221]</a></p>
<p><em><strong>Phụ lục (10): </strong>Chiều Tà (Phạm Duy), Thái Thanh (trước 1975)</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/10-Chieu-Ta-Serenata-Thai-Thanh-pre1975.mp3">10-Chieu Ta Serenata – Thai Thanh pre1975</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Lắng trầm tiếng chiều ngân</p>
<p>Nhạc dặt dìu ái ân</p>
<p>Người ơi ! Nhớ mãi cung đàn</p>
<p>Năm tháng phai tàn</p>
<p>Duyên kiếp vẫn còn lỡ làng.</p>
<p>Ðã quên hết sầu chưa</p>
<p>Lời này là tiếng xưa</p>
<p>Quỳ dâng dưới nắng phai mờ</p>
<p>Bên gối ơ thờ</p>
<p>Ôi tiếng tơ tình mong chờ.</p>
<p>Chiều êm êm đưa duyên về người</p>
<p>Ðàn triền miên nắn tiếng sầu đời</p>
<p>Người hỡi !</p>
<p>Ðến bên tôi nghe lời xao xuyến</p>
<p>Như chuyện thần tiên</p>
<p>Niềm mơ xưa là đó</p>
<p>Cho ta nâng niu lời ca</p>
<p>Chiều mơ không gian</p>
<p>Hờ hững cõi Thiên Ðàng</p>
<p>Thuyền trôi bến sông xa đừng chờ</p>
<p>Xin hãy lắng nghe bao lời thơ… chiều tà</p>
<p>Nhạc chiều của chúng ta</p>
<p>Là câu ân ái muôn đời</p>
<p>Bóng đã xế rồi</p>
<p>Hãy nép trong lòng cõi đời</p>
<p><em>Tình Yêu mãi mãi…<strong> </strong></em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><em><strong>PHỤ LỤC:</strong></em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1)</em></strong><em> O Sole Mio, </em>Luciano Pavarotti</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/01-O-sole-mio-Luciano-Pavarotti-1.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (1)</em></strong><em> O Sole Mio, </em>Luciano Pavarotti</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (2)</em></strong><em> It’s Now or Never, </em>Elvis Presley</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/02-Its-Now-Or-Never-Elvis-Presley-Nh-c-Anh222.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (2)</em></strong><em> It’s Now or Never, </em>Elvis Presley</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (3)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Luciano Pavarotti</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/03-Torna-Suriento-Luciano-Pavarotti.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (3)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Luciano Pavarotti</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (4)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Mantovani Orchestra</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/04-Come-Back-To-Sorrento-Mantovani.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (4)</em></strong><em> Torna a Surriento, </em>Mantovani Orchestra</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (5)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em> (Phạm Duy), Trần Thái Hòa &amp; Ngọc Hạ</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/05-Tro-Ve-Mai-Nha-Xua-Tran-Thai-Hoa-Ngoc-Ha.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (5)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em> (Phạm Duy), Trần Thái Hòa &amp; Ngọc Hạ</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (6)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em>, hòa tấu đàn bầu</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/06-Tro-ve-Surriento-Come-Back-To-Surriento-Torna-a-Surriento-Hoa-tau-Dan-bau.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (6)</em></strong><em> Trở về mái nhà xưa</em>, hòa tấu đàn bầu</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(violin), Andre Rieu </em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/07-Serenata-Andre-Rieu.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (7)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(violin), Andre Rieu</em></a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (8)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(mandolin + guitar)</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/08-Serenade.Toselli-Tony-Flores-Paul-Hostetter.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (8)</em></strong><em> <em>Serenata</em></em> ‘<em>R<em>impianto’ </em></em><em>(mandolin + guitar)</em></a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (9)</em></strong><em> <em>Chiều Tà</em></em><em> (Phạm Duy), Khánh Hà</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/09-Chieu-ta-Serenata-LV-Pham-Duy-Khanh-Ha-NCT-4872906221.mp3" target="_blank"><strong><em>Phụ lục (9)</em></strong><em> <em>Chiều Tà</em></em><em> (Phạm Duy), Khánh Hà</em></a></p>
<p><em><strong>Phụ lục (10): </strong>Chiều Tà (Phạm Duy), Thái Thanh (trước 1975)</em><em></em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/10-Chieu-Ta-Serenata-Thai-Thanh-pre1975.mp3" target="_blank"><em><strong>Phụ lục (10): </strong>Chiều Tà (Phạm Duy), Thái Thanh (trước 1975)</em></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>Hòai Nam</strong></p>

saomai
11-07-2014, 08:11 AM
<BR><BR><iframe width="640" height="360" src="//www.youtube.com/embed/N7mKqh1k_hY?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Trở Về Mái Nhà Xưa - Trần Thái Hoà & Ngọc Hạ

saomai
11-07-2014, 08:15 AM
<BR><BR><BR>http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1415348012.jpg

http://t-van.net/wp-content/uploads/2012/05/10-Chieu-Ta-Serenata-Thai-Thanh-pre1975.mp3

saomai
11-19-2014, 06:34 AM
<p><h6><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image00127.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image001" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image001_thumb27.jpg" alt="clip_image001" width="354" height="355" border="0" /></a></h6>
<p>Kỳ này, chúng tôi viết về một ca khúc của Hung-gia-lợi được nhiều người xem là buồn nhất thế kỷ, thường được gọi là “ca khúc tuyệt mạng” vì bị quy trách đã gây ra hàng trăm vụ tự tử trong hai thập niên 1930 – 40, và cả sau này, đó là bản <em>Sombre Dimanche</em>, tựa tiếng Pháp, tức <em>Gloomy Sunday</em>, tựa tiếng Anh, được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa <em>Chủ Nhật Buồn</em>, và Nam Lộc với tựa <em>Chủ Nhật Xám</em>.</p>
<p>Ngày nay, Sombre Dimanche được ghi là của hai tác giả: nhạc sĩ dương cầm kiêm nhà soạn nhạc <strong>Rezco Seress</strong> và thi sĩ <strong>Laszlo Javor</strong>, tuy nhiên lúc đầu nó chỉ là một sáng tác của riêng Rezco Seress, viết tại Paris vào cuối năm 1932, có tựa tiếng Hung là <em>Vége a világnak</em> (End of the World).</p>
<p>Là một nhạc sĩ dương cầm, Rezco Seress soạn nhạc khúc này chủ yếu là cho dương cầm, xen lẫn những đoạn có lời hát (chorus). Thời gian này, Hung-gia-lợi đang bị tác hại trầm trọng bởi cuộc Đại khủng hoảng (Great Depression) và đứng trước nguy cơ bành trướng của chủ nghĩa phát-xít, cho nên lời hát của Rezco Seress, một người gốc Do-thái, là lời nguyện cầu Thượng đế đoái thương những con người khốn khổ trong một thế giới hiện đại xấu xa và đầy bất công.</p>
<p>Khỏi cần giải thích, có lẽ quý độc giả cũng có thể đoán khúc nhạc này “không ăn tiền”. Thực vậy, đã không có nhà xuất bản nhạc nào chịu nhận công việc ấn hành. Một người nhận xét:</p>
<p>“Không phải vì đây là một ca khúc buồn, mà vì nó gợi tưởng một sự tuyệt vọng tới mức khiếp đảm. Tôi cho rằng một ca khúc như thế chẳng đem lại lợi ích cho bất cứ ai”.</p>
<p>Giữa năm 1933, Rezco Seress tự xuất bản <em>Vége a világnak </em>(End of the World). Tới cuối năm ấy, thi sĩ Laszlo Javor đã đặt lời khác cho bản này, và xuất bản dưới tựa <em>Szomorú vasárnap </em>(Sad Sunday).</p>
<p>Thời gian này, Laszlo Javor vừa bị vị hôn thê chia tay, và nỗi buồn ấy đã khiến ông viết những lời hát bi ai sầu thảm, kể về tâm sự của một người yêu trong tuyệt vọng, và tới khi chết vẫn còn hẹn gặp lại nhau nơi chốn tuyền đài.</p>
<p><em>[Hiện nay, một số bài viết của các tác giả trong nước cũng như hải ngoại được phổ biến trên Internet đã “gán” chuyện tình bi thảm của Laszlo Javor cho Rezco Seress. Đây là một trường hợp “tam sao thất bổn” không thể chấp nhận. Ngoài ra, người ta còn thêu dệt nhiều huyền thoại về trường hợp ra đời của bản Vége a világnak (End of the World). Thậm chí có người còn viết rằng Rezco Seress không hề biết một nốt nhạc, đàn dương cầm chỉ bằng hai ngón tay “mổ cò”, và sáng tác bằng cách huýt gió rồi nhờ người khác ghi thành dòng nhạc]</em></p>
<p>Lời hát của bản<em> Szomorú vasárnap </em>(Sad Sunday)<em> </em>được dịch sang Anh ngữ như sau:<em> </em></p>
<p>“On a sad Sunday with a hundred white flowers, I awaited for you my dear with a church prayer, That dream chasing Sunday morning, The chariot of my sadness returned without you,</p>
<p>Ever since then, Sundays are always sad, tears are my drink bread is my sorrow… Sad Sunday.</p>
<p><em>Last Sunday dear please come along, There will even be priest, coffin, catafalque, hearse-cloth. Even then flowers will be awaiting you, Flowers and coffin under blossoming trees my journey shall be the last, My eyes will be open, so that I can see you one more time, Don’t be frightened from my eyes as I’m blessing you even in my death… Last Sunday.”</em></p>
<p><em>* * *</em></p>
<p>Sad Sunday (lời tiếng Hung) được nam danh ca Pal Kalmar thu đĩa vào năm 1935, và lập tức được đông đảo thính giả ưa chuộng, nhưng đồng thời cũng đưa tới hàng trăm vụ tự tử, trong số đó có cả vị hôn thê cũ của Laszlo Javor. Theo lời kể lại, cô nằm chết trên giường, bên cạnh xác cô là ca khúc nổi tiếng của nhà thơ mà cô đã phụ tình. Ngoài ra, trong số những người tự tử nói trên, cũng có nhiều người cầm bản nhạc ấy mà gieo mình xuống dòng sông Danube.</p>
<p>Trước sự kiện này, nhà cầm quyền Hung-gia-lợi đã phải ra lệnh cấm trình diễn bản Sad Sunday ở những nơi công cộng. Tuy nhiên, theo các nhà tâm lý xã hội, lúc đó là thời gian xảy ra cuộc Đại khủng hoảng kinh tế thập niên 1930 và Thế chiến thứ hai sắp bùng nổ, tâm trạng chán chường sợ hãi ấy là nguyên nhân chính đưa tới gia tăng tự tử, chứ không nhất thiết phải nghe Sad Sunday, người ta mới đi tìm cái chết!</p>
<p>Nhưng hình như không mấy ai để ý tới điều đó, và chỉ trong một thời gian rất ngắn, bài hát được mệnh danh là “ca khúc Hung-gia-lợi gây tự tử” (Hungarian suicide song) ấy đã phổ biến khắp thế giới, được đặt lời hát bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, và tất cả đều có nội dung nói về cái chết của một người bị thất tình.</p>
<p>Ngay trong năm 1935, bản tiếng Nga với tựa đề <em>Mratschnoje Woskresenje</em> (Gloomy Sunday) được nam ca sĩ Pyotr Leschenko thu đĩa. Cũng trong năm 1935, bản tiếng Pháp của Jean Mazère và Francois-Eugène Gonda có tựa <em>Sombre Dimanche</em> được nữ danh ca Damia thu vào đĩa nhựa.</p>
<p><strong>Sombre Dimanche:</strong><br />
<em>Sombre dimanche </em></p>
<p><em>Les bras tout chargés de fleurs</em></p>
<p><em>Je suis entrée dans notre chambre, le cœur las<br />
Car je savais déjà que tu ne viendrais pas<br />
Et j’ai chanté des mots d’amour et de douleur<br />
Je suis restée toute seule et j’ai pleuré tout bas<br />
En écoutant hurler la plainte des frimas<br />
Sombre dimanche </em></p>
<p><em>Je mourrai un dimanche où j’aurai trop souffert<br />
Alors tu reviendras mais je serai partie<br />
Des cierges brûleront comme un ardent espoir<br />
Et pour toi, sans effort, mes yeux seront ouverts<br />
N’aie pas peur, mon amour, s’ils ne peuvent te voir<br />
Ils te diront que je t’aimais plus que ma vie<br />
Sombre dimanche<br />
</em></p>
<p>Qua năm 1936, bản tiếng Nhật với tựa đề <em>Kurai Nichiyobi</em> (Dark Sunday) được thu đĩa qua giọng hát của Noriko Awaya, nữ danh ca được mệnh danh là “Queen of Blues” của quần đảo Phù Tang.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image00310.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image003_thumb9.jpg" alt="clip_image003" width="354" height="456" border="0" /></a></p>
<p align="center"><strong>Billie Holiday</strong></p>
<p>Riêng lời hát bằng tiếng Anh có khá nhiều bản. Tại Hoa Kỳ, bản phổ biến nhất là <em>Gloomy Sunday</em> của Sam M. Lewis, xuất bản năm 1936 và được Bob Allen thu đĩa cùng năm. Nhưng phải đợi tới năm 1941, sau khi <em>Gloomy Sunday</em> được “Nữ hoàng nhạc Soul” <strong>Billie Holiday</strong> thu đĩa, ca khúc này mới thực sự được ưa chuộng và làm mưa gió không chỉ tại Hoa Kỳ mà còn ở các quốc gia nói tiếng Anh khác. Trên các ấn bản và đĩa nhạc đều có ghi hàng chữ “Hungarian suicide song”.</p>
<h4>Gloomy Sunday</h4>
<p><em>Sunday is gloomy, my hours are slumberless </em></p>
<p><em>Dearest, the shadows I live with are numberless</em></p>
<p><em>Little white flowers will never awaken you</em></p>
<p><em>Not where the black coach of sorrow has taken you</em><em><br />
</em><em>Angels have no thoughts of ever returning you</em></p>
<p><em>Wouldn’t they be angry if I thought of joining you?</em></p>
<p><em>Gloomy Sunday</em><em><br />
</em><em>Gloomy is Sunday, with shadows I spend it all</em></p>
<p><em>My heart and I have decided to end it all</em></p>
<p><em>Soon there’ll be candles and prayers that are said I know</em></p>
<p><em>But let them not weep, let them know that I’m glad to go</em><em><br />
</em><em>Death is no dream, for in death I’m caressin’ you</em></p>
<p><em>With the last breath of my soul, I’ll be blessin’ you</em></p>
<p><em>Gloomy Sunday</em><em><br />
</em><em>Dreaming, I was only dreaming</em></p>
<p><em>I wake and I find you asleep in the deep of my heart here</em></p>
<p><em>Darling I hope that my dream never haunted you</em></p>
<p><em>My heart is tellin’ you how much I wanted you</em></p>
<p><em>Gloomy Sunday</em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>1</em></strong><strong><em>): Gloomy Sunday</em></strong><strong>, Billie Holiday</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/05-Billie_Holiday_and_Ken_Burns_Jazz_-_Gloomy_Sunday.mp3">05-Billie_Holiday_and_Ken_Burns_Jazz_-_Gloomy_Sunday</a></p>
<p>Qua nghe, đọc lời hát trên, chúng ta thấy Sam M. Lewis đã viết thêm đoạn thứ ba, cho biết cái chết của người yêu chỉ là những gì xảy ra trong giấc mơ, với mục đích để ca khúc này bớt phần bi thảm.</p>
<p>Tuy nhiên, theo lời đồn trong dân gian, vẫn có nhiều người tự tử khi nghe ca khúc lời Anh này.</p>
<p>Vì không thể kiểm chứng những huyền thoại, chúng tôi chỉ xin ghi lại một số sự việc có thật liên quan tới ca khúc đã được mệnh danh là “ca khúc tuyệt mạng” ấy:</p>
<p>- Bắt đầu từ thời gian Đệ nhị Thế chiến, Đài BBC đã cấm phát ca khúc Gloomy Sunday trên các làn sóng điện của đài (chỉ được phát nhạc không lời). Sáu mươi năm sau (năm 2002) lệnh cấm này mới được bãi bỏ.</p>
<p>- Tác giả của Gloomy Sunday, tức nhạc sĩ Rezso Seress, sau một đời đau khổ, đói nghèo dưới bàn tay Đức Quốc Xã rồi tới chế độ cộng sản Hung-gia-lợi, cùng với bệnh tật của bản thân, vào đầu năm 1968, ít ngày sau sinh nhật thứ 69 của mình, đã nhảy lầu tự tử nhưng không chết; được đưa vào bệnh viện, ông lấy dây tự xiết cổ mới chết được. Hôm ấy là một ngày Chủ Nhật.</p>
<p>- Năm 1982, ban nhạc trẻ The Associates của Tô-cách-lan thu đĩa bản Gloomy Sunday và nổi tiếng quốc tế. Mười lăm năm sau (1997), Billy MacKenzie, nam ca sĩ chính của ban nhạc này tự tử chết.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>* * *</strong><strong></strong></p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0054.jpg"><img style="background-image: none; float: left; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin: 0px 20px 10px 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image005_thumb4.jpg" alt="clip_image005" width="254" height="365" align="left" border="0" /></a></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>Về điện ảnh, đã có nhiều cuốn phim lấy cốt truyện là “tình sử” của Gloomy Sunday, hoặc vay mượn nội dung hay tựa đề của ca khúc. Trong số này, đáng kể nhất có:</p>
<p>- Phim <em>Sombre Dimanche</em> của Pháp, thực hiện năm 1948.</p>
<p>- Phim <em>Ein Lied von Liebe und Tod</em> (Gloomy Sunday – A Song of Love and Death), tựa tiếng Đức, hay<em> Szomorú vasárnap</em>, tựa tiếng Hung, một sản phẩm hỗn hợp Đức – Hung), thực hiện năm 1999.</p>
<p>- Phim <em>The Kovak Box</em> của Tây-ban-nha, thực hiện năm 2005, là một cuốn phim nghẹt thở, lấy bối cảnh hòn đảo du lịch Mallorca nổi tiếng thơ mộng ở Địa Trung Hải, truyện phim kể về sự kiện lạ: người nào tới đảo này cũng đều bị nhiễm một loại virus từ máy computer, từ đó hễ nghe bản Gloomy Sunday liền tự tử!</p>
<p>- Phim <em>Densen Uta</em> (Infectious Song) của Nhật Bản, thực hiện năm 2007, cũng là một cuốn phim kinh dị, truyện phim kể về một nữ sinh trung học và một nữ ký giả cùng nhau điều tra về tác động xúi giục tự tử của một ca khúc bí mật: về sau cả hai người đều tự tử.</p>
<p>* * *</p>
<p><em>Sombre Dimanche </em>cũng là một trong những ca khúc ngoại quốc được Phạm Duy đặt lời Việt sớm nhất, với tựa Chủ Nhật Buồn, vào khoảng đầu thập niên 1950. Lời Việt này được phỏng theo bản tiếng Pháp <em>Sombre Dimanche</em> (1935) của Jean Mazère và Francois-Eugène Gonda.</p>
<h4><span style="font-weight: bold;">Chủ Nhật Buồn</span></h4>
<p><em>Chủ nhật buồn, đi lê thê<br />
Cầm một vòng hoa đê mê.<br />
Bước chân về với gian nhà,<br />
Với trái tim cùng nặng nề.<br />
Xót xa gì ? Oán thương gì ?<br />
Ðã biết nuôi hương chia ly.<br />
Chót say mê đã yêu thì<br />
Dẫu vô duyên còn nặng thề.<br />
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,<br />
Mặc lệ tràn câu thiên thu.<br />
Gió hiên ngoài nhắc một loài<br />
Dế dun hoài du thương du.<br />
Du hỡi du hời !<br />
. . . . . .<br />
Chủ nhật buồn, tôi im hơi<br />
Vì đợi chờ không nguôi ngoai.<br />
Bước chân người nhớ thương tôi,<br />
Ðến với tôi thì muộn rồi !<br />
Trước quan tài, khói hương mờ<br />
Bốc lên như vạn ngàn lời.<br />
Dẫu qua đời, mắt tôi cười<br />
Vẫn đăm chiêu nhìn về người.<br />
Hồn lìa rồi, nhưng em ơi,<br />
Tình còn nồng đôi con ngươi,<br />
Nhắc cho ai biết cuối đời<br />
Có một người yêu không thôi<br />
Du hỡi du hời !</em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>2</em></strong><strong><em>): Chủ nhật buồn, Khánh Ly (trước 1975)</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/06-ChunhatbuonGloomySunday-KhanhLy.mp3">06-ChunhatbuonGloomySunday-KhanhLy</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>3</em></strong><strong><em>): Chủ nhật buồn, Lệ Thu (sau 1975)</em></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/07-Le-Thu-Chu-Nhat-Buon232.mp3">07- Le Thu – Chu Nhat Buon(2)(3)(2)</a></p>
<p>Sau này, Trịnh Công Sơn đã nhắc tới mấy chữ “chủ nhật buồn” ít nhất là hai lần trong các sáng tác của ông. Đó là bản Lời Buồn Thánh – <em>Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu…</em>, và bản Tuổi Đá Buồn – <em>Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang, từng ngón tay buồn em mang em mang, đi về giáo đường, ngày chủ nhật buồn…</em></p>
<p>Không hiểu họ Trịnh đã lấy cảm hứng từ bản Chủ Nhật Buồn của họ Phạm, hay vì tâm trạng khắc khoải của chính ông, của cả một thế hệ yêu trong lo âu, sống trong khắc khoải của một thời tao loạn, chết chóc và phân ly. Chỉ biết một điều là về sau, cả hai nhà nhạc sĩ đều qua đời vào một “chủ nhật buồn”: Trịnh Công Sơn, Chủ nhật 1/4/2001, và Phạm Duy, Chủ nhật 27/1/2013.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với bản Gloomy Sunday lời Anh của Sam M. Lewis, tới năm 1996, đã được <strong>Sarah McLachlan, </strong>nữ danh ca gốc Gia-nã-đại với một giọng bán kim (mezzo-soprano) truyền cảm, thu đĩa dưới hình thức du ca (folk) và đạt thành công rực rỡ. (Video: Gloomy Sunday – Sarah McLachlan – YouYube)</p>
<p>Năm 2000, Gloomy Sunday lại được hiện đại hóa thêm một lần nữa qua giọng soprano của nữ danh ca Anh <strong>Sarah Brightman, </strong>thu đĩa dưới một hình thức hoàn toàn mới lạ trong album có tên là “La Luna” (The Moon) của cô.</p>
<p>Sarah Brightman, mà chúng tôi đã có lần nhắc tới khi viết về bản Besame Mucho, xuất thân là một ca sĩ chuyên hát nhạc cổ điển với giọng soprano cao vút. Tới thập niên 1990, cùng với một số danh ca chuyên hát nhạc cổ điển khác, Sarah đã hát cả thể loại nhạc “pop” theo cách hát riêng của mình. Từ chuyên môn của âm nhạc gọi Sarah Brightman và những ca sĩ này là “classical crossover singer”.</p>
<p>Album “La Luna” của Sarah Brightman không chỉ trở thành một trong những album nhạc cổ điển bán chạy nhất trong thập niên 2000, mà còn có công tái giới thiệu “ca khúc tuyệt mạng” Gloomy Sunday tới thế hệ trẻ. Cũng với mục đích đó, nhạc sĩ Nam Lộc đã đặt lời Việt mới cho Gloomy Sunday với tựa Chủ Nhật Xám, và đã được Nguyễn Hồng Nhung &amp; Thùy Hương trình bày trong video số 56 của Trung Tâm Asia, phát hành năm 2008.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>4</em></strong><strong><em>): Gloomy Sunday</em></strong><strong> , Sarah Brightman </strong><strong></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/08-GloomySunday-SarahBrightman.mp3">08-GloomySunday-SarahBrightman</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>5</em></strong><strong><em>): Chủ Nhật Xám, </em></strong><strong>Nguyễn Hồng Nhung &amp;</strong></p>
<p><strong>Thùy Hương</strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/09-ChunhatxamGlommySunday-LVNamLoc_NguyenHongNhung.mp3">09-ChunhatxamGlommySunday-LVNamLoc_NguyenHongNhung</a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (</em></strong><strong><em>6</em></strong><strong><em>):</em></strong> <strong><em>Gloomy Sunday, </em>Piano</strong><strong></strong></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/10-SombreDimanche-GloomySundayChunsa.mp3">10-SombreDimanche-GloomySundayChunsa</a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>Hòai Nam</strong></p>

saomai
11-19-2014, 06:38 AM
<BR><BR>
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/gloomysunday_1416378821.jpg

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/09-ChunhatxamGlommySunday-LVNamLoc_NguyenHongNhung.mp3
Chúa Nhật Xám (Sombre Dimanche) Lời Việt : Nam Lộc

saomai
11-29-2014, 07:25 AM
DONNA DONNA – ca khúc dân gian của người Do-thái lưu vong




<p></p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image00228.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image002_thumb27.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="407" width="354"></a></p>
<p>Theo phác họa ban đầu, chương trình “Những ca khúc ngoại quốc lời Việt” của chúng tôi sẽ khởi đầu với thời kỳ nhạc cổ điển, tiếp đến là thời kỳ hiện đại, sau đó tới một số ca khúc dân gian điển hình, rồi tới những ca khúc nổi tiếng trong phim ảnh, và cuối cùng là một số ca khúc được ưa chuộng sau năm 1975.</p>
<p>Hiện nay, chúng ta đã bước vào thời kỳ hiện đại, và trong mấy kỳ vừa qua, chúng tôi đã giới thiệu những ca khúc điển hình của tiền bán thế kỷ thứ 20. Theo dự trù, tiếp theo sẽ là những ca khúc của thời nhạc Pop (thập niên 1950), nhạc Rock (thập niên 1960), tuy nhiên khi nhìn lại thời điểm xuất hiện của những ca khúc dân gian sẽ được giới thiệu, chúng tôi nhận thấy hầu hết đã được phổ biến và ưa chuộng trước thời nhạc Pop. Vì thế, để dòng nhạc chảy xuôi theo dòng thời gian, chúng tôi sẽ gửi đến bạn đọc các ca khúc dân gian ấy trước khi giới thiệu các ca khúc của thời nhạc Pop.</p>
<p>Ca khúc dân gian đầu tiên chúng tôi giới thiệu là một ca khúc của người Do-thái lưu vong, sau khi được nữ ca sĩ du ca Joan Baez của Mỹ hát lời bằng tiếng Anh và Claude Francois hát bằng tiếng Pháp, đã trở nên nổi tiếng quốc tế. Riêng tại Việt Nam, trước năm 1975, Donna Donna đã được Tuấn Dũng đặt lời Việt với tựa “Tiếc Thương”, và sau này được ca nhạc sĩ du ca Trần Tiến dịch lời hát bằng tiếng Pháp sang tiếng Việt, tuy nhiên vẫn giữ nguyên tựa “Donna Donna”.</p>
<p>Donna Donna có tựa đề nguyên thủy là “Dana Dana”, trích từ vở ca kịch “Esterke” của người Do-thái lưu vong sống ở Hoa Kỳ (diễn trong 2 năm 1940, 1941), viết bằng tiếng Yiddish.</p>
<p>[Yiddish là ngôn ngữ của một bộ phận lớn người Do-thái vong quốc, bắt đầu hình thành vào thế kỷ thứ 10 tại vùng sông Rhine (Rhineland, Đức), rồi phát triển sang Trung Âu và Đông Âu, nơi có nhiều người Do-thái sống lưu vong. Về mặt cấu tạo, Yiddish là sự phối hợp giữa thổ ngữ của người Đức ở khu vực sông Rhine với tiếng Do-thái cổ và tiếng Slavic. Tới thế kỷ thứ 18, Yiddish trở thành ngôn ngữ chính thức của nhiều cộng đồng Do-thái ở Bắc Âu, Đông Âu. Hiện nay, Yiddish chỉ còn được gần 2 triệu người Do-thái hải ngoại sử dụng như ngôn ngữ chính thức, và khoảng 12 triệu người khác sử dụng như ngôn ngữ thứ hai]</p>
<p>Tác giả của vở ca kịch “Esterke” là nhà soạn kịch Aaron Zeitlin và nhạc sĩ Sholom Secunda; nội dung vở kịch nói về số phận bi thảm của người Do-thái đang bị Đức Quốc Xã tàn sát trong các trại tập trung.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0039.jpg"><img style="background-image: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image003_thumb8.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="244" width="158"></a><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image005.gif"><img style="background-image: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin: 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image005_thumb.gif" alt="clip_image005" border="0" height="244" width="151"></a></p>
<p><strong>Nhà soạn kịch Aaron Zeitlin và nhạc sĩ Sholom Secunda</strong></p>
<p>Cho tới nay, vẫn chưa có một sự giải thích thống nhất về tựa đề nguyên thủy “Dana Dana”; tuy nhiên theo đa số, có lẽ chữ “Dana” ở đây là rút gọn của chữ “Adonai”, có nghĩa là “Thượng đế” trong tiếng Do-thái cổ. Sự giải thích này ra vẻ hợp lý, bởi vì trong điệp khúc, lời hát đã lập đi lập lại “Dana Dana Dana Dana…” như một khúc vãn ca tuyệt vọng.</p>
<p>Lời hát của “Dana Dana” kể một câu truyện mà chúng tôi cho là gần giống truyện ngụ ngôn “Mỗi người một số phận” (Chacun son sort) của Pháp mà chúng ta đã đọc từ thời tiểu học. Khác biệt đáng kể chỉ là trong truyện “Mỗi người một số phận”, con vật bị chủ đem ra chợ bán cho người ta giết thịt là một con lợn, còn trong bản “Dana Dana”, con vật xấu số ấy là một con bê.</p>
<p>Trên đường đi tới chợ, con bê luôn miệng than thở cho số phận bi thảm của mình, và so bì với con chim sẻ đang tung cánh bay trên bầu trời, và gió thì cứ cười đùa lả lơi trước sự nghiệt ngã, bất công ấy.</p>
<p>Thấy con bê cứ than thân trách phận, người chủ bực mình bảo nó:</p>
<p>“Tại sao mày sinh ra làm con bê làm gì cho người ta giết thịt? Sao không sinh ra làm con chim sẻ để tung cánh trên bầu trời tự do?!”</p>
<p>Tự trong câu nói của người nông dân đã vô tình hàm chứa một nghịch lý trong nhân sinh mà không ai có khả năng giải thích thỏa đáng: tại sao cùng sinh ra trên cõi đời này, trong khi có những người, hoặc nói rộng ra là những dân tộc, phải chịu quá nhiều thua thiệt, đau khổ triền miên, thì những người khác, những dân tộc khác lại sung sướng, hạnh phúc ấm no từ thế hệ này sang thế hệ khác?!</p>
<p>Chính vì không giải thích được, người Do-thái lưu vong chỉ biết vãn than với Thượng đế “Dana Dana Dana Dana…”. Và ca khúc này đã mau chóng trở thành một bài hát dân gian phổ biến trong các cộng đồng Do-thái lưu vong.</p>
<p>Sau đó, nhạc sĩ Sholom Secunda đã dịch lời bản Dana Dana từ tiếng Yiddish sang tiếng Anh với tựa Donna Donna.</p>
<p><em>[Mặc dù trong lời hát bằng tiếng Anh, chữ “dana” được chuyển âm thành “<strong>dona</strong>”, nhưng hầu như tất cả mọi ấn phẩm bằng tiếng Anh đều viết tựa của ca khúc là “<strong>Donna</strong>” (2 mẫu tự “n”) mà không có một sự giải thích nào]</em></p>
<p>Cũng xin viết thêm, tên của ca khúc chúng tôi đang đề cập tới là “Donna Donna”, xin đừng lẫn lộn với <strong>“Donna”</strong>, một ca khúc của nam ca nhạc sĩ Mỹ Ritchie Valens, do anh viết và thu đĩa năm 1958, để tặng người yêu thời trung học là nàng Donna Ludwig, và đã lên tới hạng 2 toàn quốc Hoa Kỳ.</p>
<p>Tới thập niên 1960, bản “Donna” này đã được nam ca sĩ Anh Cliff Richard (Cliff Richard &amp; The Shadows) thu đĩa.</p>
<p>Ritchie Valens cũng là người đã thu đĩa bản dân ca <strong>“La Bamba”</strong> của Mễ-tây-cơ, giúp nó trở thành một ca khúc nổi tiếng quốc tế.</p>
<p>* * *<strong><em></em></strong></p>
<p>Nhưng bản Donna Donna lời Anh của Sholom Secunda không mấy phổ biến, phải đợi tới giữa thập niên 1950, sau khi hai tác giả Arthur Kevess và Teddi Schwartz dịch lần thứ hai thì Donna Donna mới được nhiều người biết tới, và vào năm 1960, đã lên “top” qua sự trình bày của Nữ hoàng du ca Mỹ quốc Joan Baez.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0068.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image006_thumb8.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="354" width="354"></a></p>
<h3>Donna Donna</h3>
<p><em>On a wagon bound for market<br>
There’s a calf with a mournful eye.<br>
High above him there’s a swallow<br>
Winging swiftly through the sky.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>How the winds are laughing<br>
They laugh with all their might<br>
Laugh and laugh the whole day through<br>
And half the summer’s night.</em></p>
<p><em>Dona, dona, dona, dona,<br>
Dona, dona, dona, do,<br>
Dona, dona, dona, dona,<br>
Dona, dona, dona, do.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>“Stop complaining,” said the farmer,<br>
“Who told you a calf to be?<br>
Why don’t you have wings to fly with </em></p>
<p><em>Like the swallow so proud and free?” </em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>How the winds are laughing …</em></p>
<p><em>Calves are easily bound and slaughtered<br>
Never knowing the reason why.<br>
But whoever treasures freedom,<br>
Like the swallow has learned to fly.</em></p>
<p><em>Dona, dona, dona, dona,<br>
Dona, dona, dona, do,<br>
Dona, dona, dona, dona,<br>
Dona, dona, dona, do.</em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1): Donna Donna, </em></strong><strong>Joan Baez</strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2FDonnaDonna-JoanBaez.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_c olors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p>Viết thêm về Joan Baez:</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0086.jpg"><img style="background-image: none; float: left; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin: 0px 20px 10px 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image008_thumb6.jpg" alt="clip_image008" align="left" border="0" height="244" width="179"></a></p>
<p>Joan Baez sinh năm 1941, là một nữ ca nhạc sĩ du ca Mỹ gốc Mễ-tây-cơ, có tài đàn guitar và một giọng hát thiên phú từ nhỏ. Ngày ấy, Joan Baez cùng với <strong>Bob Dylan</strong> thường được giới sinh viên phản chiến ở Sài Gòn so sánh với cặp Trịnh Công Sơn – Khánh Ly.</p>
<p>Joan Baez không chỉ có công quảng bá các sáng tác của Bob Dylan mà còn được các thành phần phản chiến quốc tế suy tôn làm thần tượng với bản nhạc thiều phản chiến “We Shall Overcome” và bản du ca phản chiến “Blowing in the wind”, một sáng tác để đời của Bob Dylan (video: Blowing in the wind – YouTube)</p>
<p>Joan Baez là một trong những nghệ sĩ Mỹ tham gia tích cực vào phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam, không thua gì cô đào Jane “Hanoi” Fonda. Tháng 12 năm 1972, Joan Baez cùng một đoàn phản chiến sang Hà Nội đúng vào thời gian xảy ra cuộc oanh tạc kéo dài 11 ngày đêm của các pháo đài bay B-52 của Không Lực Hoa Kỳ (người Mỹ gọi là The Christmas Bombing).</p>
<p>Tháng 5 năm 1975, sau khi cộng sản chiếm miền Nam, Joan Baez đã hát bản “The War Is Over” trong cuộc xuống đường liên hoan của các thành phần phản chiến thiên tả tổ chức ở thành phố Nữu Ước.</p>
<p>Nhưng khác với một Jane Fonda phản chiến một cách xuẩn động, mù quáng, ít lâu sau khi Sài Gòn đổi chủ, Joan Baez đã công khai chỉ trích những vi phạm nhân quyền của chế độ CSVN, đặc biệt là hành động trả thù đối với quân nhân công chức của chế độ cũ. Năm 1979, Joan Baez đã vận động lấy chữ ký của nhiều nhân vật uy tín, và vào ngày 30 tháng 5, mua nguyên một trang quảng cáo trên bốn nhật báo lớn ở Hoa Kỳ, để đăng một bài dài tố cáo sự tàn ác của chế độ CSVN (nguồn tham khảo: (1) Joan Baez starts protest on repression by Hanoi”. The New York Times. May 30, 1979. p. A14), (2) A Voice To Sing With… – A Memoir by Joan Baez)</p>
<p>* * *</p>
<p>Sau Joan Baez, Donna Donna (lời Anh) còn được nhiều danh ca khác trình bày, và cũng đều lên “top”, như Donovan, cựu thần đồng Patty Duke ở Mỹ, Julie Roger, Mary Hopkin ở Anh…</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2): Donna Donna, </em></strong><strong>Julie Roger </strong><strong></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2F02-DonnaDonna-JulieRoger.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b _colors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=fals e" name="flashvars"></object><strong>&nbsp;</strong><strong></strong></p>
<p>Donna Donna được dịch hoặc đặt lời hát mới bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, và trở thành một ca khúc dân gian được ưa chuộng khắp nơi trên thế giới, đặc biệt ở Đức, Pháp, Nga, Nhật.</p>
<p>Tại Pháp, Donna Donna được ca nhạc sĩ Claude Francois đặt lời bằng tiếng Pháp với nội dung hoàn toàn khác với ca khúc nguyên thủy.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0108.jpg"><img style="background-image: none; float: left; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin: 0px 20px 10px 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image010_thumb8.jpg" alt="clip_image010" align="left" border="0" height="244" width="244"></a></p>
<p>Nhắc tới Claude Francois, quý độc giả yêu nhạc Pháp thuộc lứa tuổi “baby boomers” (ra chào đời sau Đệ nhị Thế chiến) hẳn còn nhớ anh là một tên tuổi được ái mộ hàng đầu ở Pháp và các quốc gia nói tiếng Pháp, có lẽ chỉ đứng sau Johnny Halliday. Chúng tôi sẽ có dịp viết thêm về Claude Francois trong tương lai khi giới thiệu bản Comme d’habitude – ca khúc đã được Paul Anka đặt lời tiếng Anh với tựa My Way, và trở thành ca khúc “nhãn hiệu cầu chứng” của Frank Sinatra.</p>
<p>Claude Francois là một người đa tài, vừa sáng tác vừa trình diễn, đặt biệt là những ca khúc ngoại quốc thịnh hành do anh đặt lời Pháp, trong đó có bản Donna Donna.</p>
<p>Lời hát do Claude Francois đặt nghe như một bài hát ru, kể chuyện một cậu bé sống đầy đủ, hạnh phúc trong một ngôi nhà to đẹp, nhưng trong lòng lúc nào cũng khao khát sớm được trở thành người lớn; thấy vậy bà mẹ thường vừa bẹo má cậu vừa nói: “Rồi đây, con sẽ nuối tiếc những ngày ấu thơ”.</p>
<p>Năm tháng trôi qua, cậu bé ngày xưa ấy nay đã trở thành một người đàn ông mỏi mòn, xác xơ, tơi tả sau khi trải qua bao nỗi bất hạnh trên đường đời – tình phụ, đói khổ, thất bại, bơ vơ…, và chợt nhớ lại lời mẹ ngày xưa:</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3): Donna Donna, </em></strong><strong>Claude Francois</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2F06-Track-6.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_colors=4 5c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<h6><strong>Donna Donna</strong></h6>
<p><em>Il était une fois un petit garçon<br>
Qui vivait dans une grande maison<br>
Sa vie n’était que joie et bonheur<br>
Et pourtant au fond de son cœur<br>
Il voulait devenir grand<br>
Rêvait d’être un homme.<br>
Chaque soir il y pensait<br>
Quand sa maman le berçait:</em></p>
<p><em><br>
Donna Donna Donna Donna<br>
Tu regretteras le temps<br>
Donna Donna Donna Donna<br>
Où tu étais un enfant…</em></p>
<p><em>* </em></p>
<p><em>Puis il a grandi, puis il est parti<br>
et il a découvert la vie<br>
Les amours déçues, la faim et la peur et souvent au fond de son cœur<br>
Il revoyait son enfance<br>
Rêvait d’autrefois<br>
Tristement il y pensait<br>
et il se souvenait:<br>
Donna Donna Donna Donna<br>
Tu regretteras le temps<br>
Donna Donna Donna Donna<br>
Où tu étais un enfant…</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p>Parfois je pense à ce petit garçon,<br>
Ce petit garçon que j’étais.</p>
<p><strong>Video:</strong> Dorothée &amp; Hélène ~ Dona Dona (Rock’n Roll Show 1993) YouTube</p>
<p>Trước năm 1975, Donna Donna<em> </em>lời Pháp do Claude Francois thu đĩa đã trở thành một trong những ca khúc Pháp được ưa chuộng nhất tại miền Nam Việt Nam. Vào thời gian “trăm hoa đua nở” trong phong trào đặt lời Việt cho các ca khúc ngoại quốc thịnh hành (đầu thập niên 1970), Donna Donna<em> </em>đã được <strong>Tuấn Dũng</strong> đặt lời Việt với tựa Tiếc Thương.</p>
<p>Nội dung của Tiếc Thương là lời một người con trai khóc thương người yêu vừa từ giã cõi đời. Sau khi được ban hợp ca Mây Trắng của Lê Hựu Hà (thành lập sau khi ban Phượng Hoàng tan rã) thu băng, Tiếc Thương đã trở thành một ca khúc “thời trang” (mà có người còn gọi là nhạc “sến”) phổ biến bậc nhất ở miền Nam VN.</p>
<h5><em>Tiếc Thương</em></h5>
<p><em>Ánh đèn vàng hiu hắt, khói trầm cay đôi mắt.<br>
Em nằm đó sao thôi cười thôi nói?<br>
Dáng buồn còn vương nét. Mắt huyền giờ đã khép.<br>
Em nằm đó như đang mơ mộng gì.</em></p>
<p><em>*<br>
Em theo mây bay quên cuộc đời, đời đầy nghĩa thương đau.<br>
Mây đưa em bay đi tìm trời, và nơi đó em có nhớ tôi.<br>
Em ơi em ơi em, hỡi người yêu dấu!<br>
Sao em yêu vội sớm ra đi. Em ơi em ơi em, hỡi người yêu dấu!<br>
Đau lòng thay phút giây xa rời.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tiếng đàn ai buông lơi, tiếng đàn như tiếng khóc<br>
rung từng phím tơ não nùng ai oán.<br>
Khiến lòng tôi thổn thức, khiến lòng tôi ray rức.</em></p>
<p><em>Môi mặn đắng nước mắt thương tiếc nàng. </em></p>
<p><em>*<br>
Em theo mây bay quên tình người,<br>
người đầy những dối gian.<br>
Mây đưa em bay đi về trời, và nơi đó em có nhớ tôi.<br>
Em ơi em ơi em, hỡi người yêu dấu!<br>
Sao đôi ta vội sớm chia ly!<br>
Em ơi em ơi em, hỡi người yêu dấu!<br>
Thế rồi tôi mất em suốt đời!<strong> </strong></em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4): Tiếc Thương, </em></strong><strong>Như Quỳnh</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2F07-Nhu-Quynh-Tiec-Thuong-Donna-Donna.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_colo rs=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p>Ngày ấy tại Sài Gòn, nhiều người từng nghe quen bản Donna Donna lời Pháp đã không hài lòng cho lắm, nếu không muốn nói là bất mãn trước bản lời Việt của Tuấn Dũng. Nguyên nhân chính không phải vì lời hát khá tầm thường mà vì ý nghĩa cũng như tác động của nó: trong khi Donna Donna đem lại cho người nghe những rung cảm nhẹ nhàng, man mác, thì Tiếc Thương lại gợi tưởng những bi lụy thảm sầu – một cách khá ngô nghê, gượng ép.</p>
<p>Gần đây, Donna Donna lời Pháp đã được nhạc sĩ <strong>Trần Tiến</strong> ở trong nước dịch sang lời Việt. Chúng tôi viết “dịch sang lời Việt” chứ không viết “đặt lời Việt” bởi vì trên thực tế, Trần Tiến đã phỏng dịch một cách tuyệt vời bằng sự rung động của một người viết và hát du ca nổi tiếng. Nhưng có một chữ mà Trần Tiến không thể dịch, hoặc không muốn dịch, đó là “Donna Donna”. Rất có thể anh cho rằng “Donna Donna” trong bản lời Pháp đã trở thành tiếng ru quốc tế, không cần dịch và không nên dịch, cho nên anh đã giữ nguyên tựa “Donna Donna” của ca khúc và những lời ru “Donna Donna…” trong toàn bài.</p>
<h3>Donna Donna</h3>
<p><em>Mái nhà xưa yêu dấu, bức tường rêu phong cũ<br>
nơi cậu bé qua những ngày thơ ấu.<br>
Muốn mình mau khôn lớn. Giữa đùa là yên ấm,<br>
em ngồi ước mơ bước chân giang hồ.<br>
Mơ bay theo cánh chim ngang trời, biển xa núi chơi vơi.<br>
Mơ bay đi khát khao cuộc đời. Một đêm nhớ tiếng ai ru hời:<br>
Donna Donna Donna ngủ đi nhé.<br>
Ngoài trời đường nhiều gió tuyết rơi.<br>
Donna Donna Donna ngủ đi nhé.<br>
Hãy nằm trong cánh tay của mẹ.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Có một người đàn ông, trước thềm nhà rêu phong<br>
bỗng ngồi khóc nhớ những ngày thơ ấu.<br>
Sống đời bao cay đắng, tóc bạc phai mưa nắng.<br>
Tay đành trắng những giấc mơ thơ dại.<br>
Đi qua bao núi sông gập ghềnh.<br>
Cuộc tình mãi lênh đênh.<br>
Đi qua bao tháng năm vô tình, một đêm nhớ tiếng ru mẹ hiền:<br>
Donna Donna Donna ngủ đi nhé.<br>
Ngoài trời đường nhiều gió tuyết rơi.<br>
Donna Donna Donna ngủ đi nhé,<br>
Hãy nằm trong cánh tay của mẹ</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Oo-ooh-oo…<br>
Giờ này người đã khuất xa tôi</em></p>
<p><em>Oo-ooh-oo…<br>
Uớc ngàn năm bé trong tay người.</em><em></em></p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0126.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image012_thumb6.jpg" alt="clip_image012" border="0" height="353" width="354"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (5): Donna Donna, </em></strong><strong>Tam Ca áo Trắng<em> </em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2FDonna-Donna-Tam-Ca-Ao-Trang-NCT-6855860693.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b _colors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=fals e" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>Phụ lục (6): Donna Donna, </em></strong><strong>Hòa tấu (Jazz) </strong><strong></strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2FDonnaDonna-HoaTau.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_col ors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7): Donna Donna </em></strong><strong>(guitar) Vô Thường</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2013%2F05%2FDonnaDonna-VoThuong.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_c olors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>HOÀI NAM</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2013</p>

saomai
11-29-2014, 08:07 AM
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/donna donna_1417248067.jpg

http://k007.kiwi6.com/hotlink/cpym9p35p5/Tam_Ca_Ao_Trang_-_Donna_Donna.mp3
Donna Donna - Lời Việt Trần Tiến - Tam Ca Áo Trắng

saomai
01-07-2015, 06:53 AM
<div class="title">Hoài Nam: NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT(18)- SCARBOROUGH FAIR (Giàn thiên lý đã xa) – Ca khúc truyền thống Anh quốc</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><h6><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image00124.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image001" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image001_thumb24.jpg" alt="clip_image001" border="0" height="438" width="304"></a></h6>
<p>Tiếp tục giới thiệu những ca khúc dân gian điển hình, kỳ này chúng tôi viết về bản Scarborough Fair, một ca khúc truyền thống lãng mạn (traditional ballad) của Anh quốc, hay viết một cách chính xác hơn, là của vùng Yorkshire ở miền Bắc hòn đảo Anh-cát-lợi.</p>
<p>Trước năm 1975, ca khúc này đã được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa Giàn thiên lý đã xa, dịch từ lời Pháp có tựa Chèvrefeuille que tu es loin.</p>
<p>Scarborough Fair nguyên là tên gọi hội chợ thường niên ở thành phố cảng Scarborough, vùng Yorkshire, có từ thời Trung Cổ. Đây không chỉ là hội chợ lớn nhất của Anh quốc, mà còn của cả Âu Châu thời bấy giờ, thu hút giới doanh nhân và nghệ nhân từ các quốc gia ở tận Bắc Âu, vùng biển Baltic và Trung Cận Đông.</p>
<p>Scarborough Fair được chính thức khai sinh bởi sắc lệnh của vua Henri đệ Tam, ban hành ngày 22 tháng 1 năm 1253, theo đó hội chợ sẽ kéo dài 45 ngày, từ Lễ Đức Trinh Nữ Maria lên trời (Feast of the Assumption of the Blessed Virgin Mary) cho tới Lễ kính Thánh Mi-ca-e (Feast of St Michael); tính theo lịch Công giáo La-mã hiện nay là từ ngày 15 tháng 8 tới ngày 29 tháng 9.</p>
<p>Sau 5 thế kỷ, do sự cạnh tranh của các hội chợ quốc tế khác, Scarborough Fair chính thức chấm dứt hoạt động vào năm 1788 (ngày nay chỉ còn những sinh hoạt “diễn lại” để thu hút du khách), nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng mãi trong dân gian Anh-cát-lợi, Tô-cách-lan, Ái-nhĩ-lan. Trong dư âm ấy, có khúc hát dân gian Scarborough Fair. (Video: Scarborough Fair – Celtic Woman live performance HD – YouTube)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0037.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image003_thumb6.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="257" width="354"></a></p>
<p><strong>Phụ lục (1): Scarborough Fair, Celtic Woman</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/01-ScarboroughFair-CelticWoman.mp3&amp;titles= &amp;artists=01-ScarboroughFair-CelticWoman&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0x E5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack= 0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;right bghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover =0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0 xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Nội dung ca khúc là lời một chàng trai đã từng sống ở Scarborough và yêu một cô gái ở nơi ấy. Nay anh nhờ mọi người (những người đang nghe chàng hát) khi tới hội chợ hãy nhắn với cô gái rằng: nếu cô thực hiện được những công việc “không thể thực hiện” do chàng đưa ra, chẳng hạn, may cho chàng cái áo sơ-mi không có một đường kim mũi chỉ, rồi giặt cái áo ấy dưới một cái giếng khô…, chàng sẽ mở rộng vòng tay đón cô trở lại.</p>
<p>Theo thời gian, lời hát của ca khúc này được dân gian biến cải tùy theo địa phương, và tính cho tới cuối thế kỷ thứ 18, đã có hàng chục lời hát khác nhau, trong đó có lời hát dưới dạng đối đáp của một đôi nam nữ: nàng ra điều kiện ngược lại là chàng phải thực hiện được những công việc “không thể thực hiện” do nàng đưa ra, thì nàng mới may cho chàng cái áo không có đường kim mũi chỉ kia.</p>
<p><strong>SCARBOROUGH FAIR (ấn bản 1889)</strong></p>
<p>(1) NAM:</p>
<p><em>Are you going to Scarborough Fair?</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Remember me to one who lives there,</em></p>
<p><em>She was once a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell her to make me a cambric shirt,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Without a seam or needlework,</em></p>
<p><em>She will be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell her to wash it in yonder dry well,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Where never spring water or rain ever fell,</em></p>
<p><em>She will be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell her to dry it on yonder grey thorn,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Which never bore blossom since Adam was born,</em></p>
<p><em>She will be a true love of mine.</em></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>(2) NỮ:</p>
<p><em>Now he has asked me questions three,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme; </em></p>
<p><em>I hope he’ll answer as many for me</em></p>
<p><em>Before he shall be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell him to buy me an acre of land,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Betwixt the salt water and the sea sand,</em></p>
<p><em>Then he shall be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell him to plough it with a ram’s horn,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>And sow it all over with one pepper corn,</em></p>
<p><em>And he shall be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Tell him to shear it with a sickle of leather,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>And bind it up with a peacock feather.</em></p>
<p><em>And he shall be a true love of mine.</em></p>
<p><em>Tell him to thrash it on yonder wall,</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>And never let one corn of it fall,</em></p>
<p><em>Then he shall be a true love of mine.</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>When he has done and finished his work.</em></p>
<p><em>Parsley, sage, rosemary, and thyme;</em></p>
<p><em>Oh, tell him to come and he’ll have his shirt,</em></p>
<p><em>And he shall be a true love of mine.</em></p>
<p>Trong trường hợp chỉ hát lời (1), tùy theo người hát là nam hay nữ, những chữ “she”, “her” sẽ được đổi thành “he”, “him”.</p>
<p>Riêng câu “<em>Parsley, sage, rosemary, and thyme” </em>(ngò tây, ngải thơm, hương thảo, húng tây) được lập lại trong mỗi phiên khúc, với đa số thính giả trên thế giới thì thật khó hiểu, phải là người Anh, Tô-cách-lan, Ái-nhĩ-lan mới biết rằng vào thời xa xưa, bốn giống rau thơm này tượng trưng cho những đức tính của người con gái, và trong trường hợp của ca khúc Scarborough Fair, trang mạng Askville của Amazon giải thích: <em>“they symbolize virtues the singer wishes his true love to have, in order to make it possible for her to come back again.”</em></p>
<p>Nói cách khác, ngày xưa người Anh sánh phụ nữ với rau thơm (herbs) cũng tương tự như ngày nay họ ví đàn bà con gái như những bông hồng vậy.</p>
<p>Lần đầu tiên Scarborough Fair được phổ biến không dưới hình thức một ca khúc dân gian là vào năm 1941, khi giai điệu của Scarborough Fair được sử dụng làm nhạc nền cho cuốn phim <em>Man Hunt</em> của đạo diễn Mỹ Fritz Lang. Tới năm 1955, hai ca sĩ kiêm diễn viên Mỹ nhưng sinh sống tại Pháp là Gordon Heath và Lee Payant, lúc đó đang làm chủ phòng trà ca nhạc <em>Rive Gauche</em> ở Paris, là hai nghệ sĩ đầu tiên thu đĩa bản Scarborough Fair.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0052.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image005_thumb2.jpg" alt="clip_image005" border="0" height="348" width="354"></a></p>
<p>Tuy nhiên phải đợi 11 năm sau (1966), sau khi được đôi song ca Simon &amp; Garfunkel của Mỹ soạn hòa âm, thu đĩa và phổ biến trong album lấy tên là <em>Parsley, sage, rosemary, and thyme</em>, Scarborough Fair mới nổi tiếng quốc tế.</p>
<p>Nói về Simon &amp; Garfunkel, tính cho tới nay, vẫn được ghi nhận là đôi song ca tài ba nhất, được ái mộ nhất, bán ra nhiều đĩa nhất, đoạt nhiều giải thưởng nhất, được trao tặng nhiều vinh dự nhất trong lịch sử âm nhạc.</p>
<p>Simon &amp; Garfunkel gồm hai thành viên <strong>Paul Simon</strong> và <strong>Arthur “Art” Garfunkel</strong>, cả hai đều sinh năm 1941 và cùng là ca nhạc sĩ (piano, guitar), nhà soạn nhạc, nhà viết ca khúc; riêng Art Garfunkel còn là một thi sĩ, và sau khi chuyển sang đóng phim, đã được xướng danh giải Trái Cầu Vàng (Golden Globe) về diễn xuất.</p>
<p>Chính thức thành lập năm 1964 và chia tay nhau năm 1970 (sau đó thỉnh thoảng lại tái hợp để trình diễn), Simon &amp; Garfunkel có vô số ca khúc được lên “top”, trong đó được ưa chuộng nhất phải là ba bản <em>The Sound of Silence </em>(1964),<em> Scarborough Fair/Canticle </em>(1966), và<em> Bridge over Troubled Water</em> (1969).</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2):</em> <em>The Sound of Silence</em>, Simon &amp; Garfunkel</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/02-The-Sound-Of-Silence222.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-The Sound Of Silence(2)(2)(2)&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp; bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;volt rack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp; rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticon hover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;trac ker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Riêng bản<em> Scarborough Fair/Canticle </em>không chỉ được ưa chuộng mà còn gây tranh luận.</p>
<p>Thứ nhất, nhân dịp sang Luân-đôn vào năm 1965, Paul Simon được gặp gỡ đồng nghiệp <strong>Martin Carthy</strong>. Martin Carthy, cùng tuổi với Paul Simon, là ca nhạc sĩ có công lớn nhất trong việc khôi phục, quảng bá các ca khúc dân gian truyền thống của Anh nơi thế hệ trẻ, trong số đó có bản <em>Scarborough Fair. </em>Paul Simon trở về Hoa Kỳ mang theo ca khúc dân gian này, cùng với Art Garfunkel soạn hòa âm, rồi phối hợp với ca khúc <em>Canticle</em> của anh viết từ năm 1963, để cho ra đời bản <em>Scarborough Fair/Canticle. </em>Việc trên các ấn bản của ca khúc này chỉ ghi: ca khúc truyền thống của Anh, hòa âm của Paul Simon và Art Garfunkel, mà không hề nhắc tới tên tuổi của Martin Carthy đã bị nhiều người cho là một sự vô tình đáng trách.</p>
<p>Thứ hai, việc Paul Simon cho xen lẫn lời hát của ca khúc phản chiến <em>Canticle </em>vào một ca khúc dân gian lãng mạn đã gây bất mãn nơi một số thành phần thính giả không nhỏ.</p>
<p><strong><em>Lời hát của Canticle:</em></strong></p>
<p><em>On the side of a hill in the deep forest green<br>
Tracing a sparrow on snow-crested ground<br>
Blankets and bedclothes a child of the mountains<br>
Sleeps unaware of the clarion call<br>
On the side of a hill, a sprinkling of leaves<br>
Washed is the ground with so many tears<br>
A soldier cleans and polishes a gun<br>
War bellows, blazing in scarlet battalions<br>
Generals order their soldiers to kill<br>
And to fight for a cause they’ve long ago forgotten.</em></p>
<p>Nhưng không một ai có thể phủ nhận chính nhờ hòa âm và nghệ thuật song ca của Simon &amp; Garfunkel mà <em>Scarborough Fair</em> mới được hàng trăm triệu người trên thế giới biết tới, và ưa chuộng.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3):</em></strong><strong> <em>Scarborough Fair</em>/<em>Canticle,</em> Simon &amp; Garfunkel</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/03-Scarborough-Fair-Canticle22.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-Scarborough Fair-Canticle(2)(2)&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg =0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltra ck=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;ri ghtbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonho ver=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracke r=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Từ ngày ấy<em> </em>(1966) tới nay, <em>Scarborough Fair </em>đã được rất nhiều ca sĩ nổi tiếng thu đĩa; lẽ dĩ nhiên là chỉ hát lời của ca khúc dân gian nguyên thủy chứ không hát thêm lời của bản <em>Canticle.</em></p>
<p><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0065.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image006_thumb5.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="237" width="354"></a></em></p>
<p align="center"><strong>Gregorian Band</strong><strong></strong></p>
<p>Trong số ấy, chúng tôi chọn gửi tới quý độc giả hai đĩa – một vì tính cách phổ biến, một vì tính cách độc đáo. Đĩa phổ biến là của <strong>Sarah Brightman</strong>, nữ danh ca giọng soprano nổi tiếng của Anh mà chúng tôi đã đôi lần nhắc tới trong loạt bài này; còn đĩa độc đáo là của ban hợp ca <strong>Gregorian Band </strong>của Đức, hát theo hình thức vãn ca của Thiên chúa giáo.</p>
<p>[“Vãn ca”, còn được gọi là “bình ca”, tức “gregorian chant”, hoặc chỉ ngắn gọn là “gregorian” – được gọi theo tên nhà lãnh đạo Giáo hội Công giáo đã đề xướng thể loại thánh ca này là Đức Giáo hoàng Gregory I (540-604). Tới hậu bán thế kỷ thứ 20, “vãn ca” đã vượt khỏi khuôn viên giáo đường, và ban hợp ca nổi tiếng nhất trong việc ứng ụng hình thức hát thánh ca này vào nền nhạc pop chính là ban Gregorian Band, gồm 9 thành viên, thường được xưng tụng là Masters of Chants]</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4):</em></strong><strong> <em>Scarborough Fair,</em> Sarah Brightman</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/04-Sarah-Brightman-Scarborough-Fair.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-Sarah Brightman – Scarborough Fair&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (5):</em></strong><strong> <em>Scarborough Fair</em>, Gregorian Band</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/05-scarboroughfair-gregorian.mp3&amp;titles= &amp;artists=05-scarboroughfair-gregorian&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Tương tự trường hợp bản Donna Donna chúng tôi đã giới thiệu trong bài kỳ trước, bản Scarborough Fair cũng được đặt lời hát bằng tiếng Pháp với nội dung hoàn toàn khác, và cũng được ưa chuộng không thua gì nguyên tác.</p>
<p>Tác giả lời hát tiếng Pháp của Scarborough Fair là nhà soạn ca khúc và viết lời hát nổi tiếng <strong>Pierre Delanoe</strong> (1918-2006). Ông từng viết, hoặc viết chung hàng chục ca khúc cho các ca sĩ hàng đầu của Pháp, từ thế hệ trước như Édith Piaf, André Claveau, Gilbert Bécaud, Charles Aznavour cho tới đám trẻ như Johnny Halliday, Sylvie Vartan, Mireille Mathieu, Michel Sardou…</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image007.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image007_thumb.jpg" alt="clip_image007" border="0" height="521" width="354"></a></p>
<p align="center"><strong>Pierre Delanoe</strong> (1918-2006).</p>
<p>Năm 1958, ca khúc <em>Dors, mon amour</em> (Hãy yên giấc, người tình ta ơi) ông viết cho André Claveau tham dự cuộc thi ca khúc Âu Châu Eurovision đã đoạt giải nhất.</p>
<p>Trong số những bản nổi tiếng quốc tế của ông có <em>Et maintenant </em>và <em>Je t’appartiens. Et maintenant </em>sau này được đặt lời Anh với tựa<em> What Now My Love</em>, được rất nhiều ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng trình bày, như Frank Sinatra, Barbra Streisand, Elvis Presley, The Supremes, Sonny &amp; Cher, Herb Alpert &amp; the Tijuana Brass, The Temptations…; còn <em>Je t’appartiens </em>được đặt lời Anh với tựa<em> Let’s It Be Me</em>, được The Everly Brothers, Bob Dylan, Willie Nelson, Tom Jones, Nina Simone… thu đĩa.</p>
<p>Năm 1967, ngay sau khi bản <em>Scarborough Fair/Canticle</em> do Simon &amp; Garfunkel thu đĩa trở nên nổi tiếng quốc tế, Pierre Delanoe đã đặt lời Pháp cho ca khúc này với tựa <em>Chèvrefeuille que tu es loin.</em></p>
<p>Sự tài tình của Pierre Delanoe là trong khi đặt lời hát mới với một nội dung khác hẳn, ông không chỉ duy trì được tính cách “dân gian” của ca khúc mà còn đem lại cho người nghe một cảm giác bâng khuâng trước câu chuyện nửa thực nửa hư, tương tự những gì mà ca khúc <em>Scarborough Fair</em> đã đem lại cho thính giả ở các xứ nói tiếng Anh.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image009.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image009_thumb.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="242" width="354"></a></p>
<div align="center">
<pre><strong>C</strong><strong>hèvrefeuille (“honeysuckle” trong tiếng Anh, “hoa kim ngân” trong tiếng Việt)</strong><strong></strong></pre>
</div>
<pre><em><strong>CHÈVREFEUILLE QUE TU ES LOIN&nbsp;&nbsp;&nbsp; </strong></em></pre>
<p><em>Pauvre garçon qui pense au pays</em></p>
<p><em>Chèvrefeuille que tu es loin</em></p>
<p><em>Pauvre garçon que l’amour oublie</em></p>
<p><em>Un peu plus à chaque matin</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Veux-tu ma belle tailler pour moi</em></p>
<p><em>Chèvrefeuille que tu es loin</em></p>
<p><em>Une chemise dans les draps</em></p>
<p><em>Où naguère nous dormions si bien</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Veux-tu me trouver un arpent de terre</em></p>
<p><em>Chèvrefeuille que tu es loin</em></p>
<p><em>Tout près de l’église au bord de la mer</em><em></em></p>
<p><em>Pour chanter mon dernier refrain</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Maintenant je sais que c’est la fin du soleil</em></p>
<p><em>Chèvrefeuille que tu es loin</em></p>
<p><em>Et je voudrais que ce soit toi ma belle</em></p>
<p><em>Qui m’enterre de tes propres mains</em></p>
<p><em>*</em></p>
<p><em>Pauvre garçon qui pense au pays</em></p>
<p><em>Chèvrefeuille que tu es loin</em></p>
<p><em>Pauvre garçon que l’amour oublie</em></p>
<p><em>Un peu plus à chaque matin</em><em> </em></p>
<p>Điểm nổi bật nhất trong lời hát của Pierre Delanoe là câu thứ nhì – <em>Chèvrefeuille que tu es loin</em> – không chỉ được lập lại trong mỗi phiên khúc mà còn được sử dụng làm tựa đề ca khúc.</p>
<p>Đó là về hình thức, còn về ý nghĩa, “chèvrefeuille” (“honeysuckle” trong tiếng Anh, “hoa kim ngân” trong tiếng Việt) là một trong những loài hoa leo phổ biến và thông dụng nhất ở các miền quê Âu châu, đặc biệt ở Pháp, nơi nó được trồng để đem lại cảnh sắc và hương thơm dịu dàng, để ướp trà, bánh kẹo, và cất nước hoa, v.v…</p>
<p><strong><em>Phụ lục (6): Chèvrefeuille que tu es loin, </em></strong><strong>Nana Mouskouri </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/06-ChevrefeuilleQueTuEsLoin.mp3&amp;titles= &amp;artists=06-ChevrefeuilleQueTuEsLoin&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;he ight=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333 333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0 xB4B4B4&amp;rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;r ighticonhover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFF FFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, khi bản <em>Scarborough Fair/Canticle</em> của Simon &amp; Garfunkel lên Top vào năm 1967/68, đã được giới trẻ nồng nhiệt đón nhận, thường là nghe qua làn sóng điện của đài phát thanh FM hoặc xem đài truyền hình quân đội Hoa Kỳ; một phần vì tỷ lệ người Việt đủ trình độ Anh ngữ để thưởng thức các ca khúc của Anh – Mỹ đã khá cao, một phần vì hòa âm độc đáo và nghệ thuật song ca siêu đẳng của Simon &amp; Garfunkel.</p>
<p>Qua đầu thập niên 1970, sau khi <em>Chèvrefeuille que tu es loin</em> (<em>Scarborough Fair </em>lời Pháp) được phổ biến tại Hòn Ngọc Viễn Đông, Phạm Duy mới đặt lời Việt với tựa <em>Giàn thiên lý đã xa.</em></p>
<p>Có thể nói đây là một bản dịch rất sát nghĩa, trừ mấy chữ “giàn thiên lý” và “thằng bé”, “đứa bé”.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0105.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image010_thumb5.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="266" width="354"></a></p>
<p align="center"><strong>Hoa Thiên Lý</strong></p>
<p>Chèvrefeuille dịch sang tiếng Việt là hoa kim ngân (Hán Việt: kim ngân hoa), có tên khoa học là <em>Lonicera, </em>thuộc họ<em> Caprifoliaceae</em>, còn hoa thiên lý có tên khoa học là <em>Telosma cordata, thuộc họ Apocynaceae, </em>là hai chủng loại hoàn toàn khác biệt. Thế nhưng nếu xét về mức độ phổ biến cũng như hình ảnh của nó trong dân gian ở Pháp và ở Việt Nam thì hai loài hoa này lại có nhiều điểm tương đồng.</p>
<p>Hiện nay ở Việt Nam, trồng hoa thiên lý đã trở thành một kỹ nghệ, và người ta đã chế biến thành hàng chục món ăn món nhậu bằng hoa thiên lý, từ trong gia đình cho tới nhà hàng “cao cấp”. Nhưng trước năm 1975, việc trồng thiên lý còn hoàn toàn mang tính cách gia đình. Theo đa số sách vở, việc trồng hoa thiên lý bắt đầu phổ biến từ miền Bắc. Chúng tôi vẫn còn nhớ ở quê xưa Nam Định, hầu như nhà nào cũng có một giàn thiên lý trước nhà, trước ngõ, vừa cho cảnh quan thêm đẹp mắt, vừa cho bóng mát vừa tỏa hương thơm.</p>
<p>Thiên lý thơm ngát, mùi hương thật dễ chịu và đáng yêu, cho nên các cô gái chưa chồng thường sử dụng để ủ quần áo, còn chàng trai nào “điệu” một chút thì mỗi khi ra đường không quên bỏ một chùm hoa vào túi áo sơ-mi!</p>
<p>Dĩ nhiên, ngày ấy chúng tôi cũng biết rằng hoa thiên lý có thể ăn được, chẳng thế mà ca dao đã có câu:</p>
<p><em>Thương chồng nấu cháo le le </em></p>
<p><em>Nấu canh hoa lý, nấu chè hạt sen </em></p>
<p>Tuy nhiên, với đa số thính giả yêu nhạc ngày ấy, chúng tôi tin rằng khi nghe ca khúc <em>Giàn thiên lý đã xa</em>, sẽ liên tưởng tới hình ảnh thân thương và mùi hương muôn thuở của giàn thiên lý trước nhà trước ngõ, hơn là nghĩ tới bát canh hoa lý của người vợ nấu riêng cho chồng.</p>
<p>Thành thử việc Phạm Duy thay hoa kim ngân bằng hoa thiên lý là đã “Việt hóa” ca khúc <em>Chèvrefeuille que tu es loin</em> một cách hết sức tài tình và đầy ý nghĩa.</p>
<p>Thế nhưng tới khi ông dịch mấy chữ <em>“pauvre</em> <em>garçon</em>” thành “tội nghiệp thằng bé” thì chúng tôi cho rằng chỉ đáng phục một nửa; đó là chữ “pauvre” (tội nghiệp), còn “<em>garçon</em>” mà dịch thành “thằng bé, đứa bé” thì không ổn.</p>
<p>Theo văn mạch (context) trong ca khúc lời Pháp nguyên thủy, chữ “garçon” ở đây có nghĩa là một người con trai đã khôn lớn, đã tới tuổi biết yêu. Đó cũng là chữ “garçon” trong bản <em>“Tous les garçons et les filles”</em> nổi tiếng của nữ ca sĩ Françoise Hardy:</p>
<p><em>Tous les garçons et les filles de mon age</em></p>
<p>Se promenent dans la rue deux par deux</p>
<p>Tous les garçons et les filles de mon age</p>
<p>Savent bien ce que c’est d’etre heureux</p>
<p>Et les yeux dans les yeux</p>
<p>Et la main dans la main</p>
<p>Ils s’en vont amoureux</p>
<p>Sans peur du lendemain…</p>
<p>Chữ “thằng bé, đứa bé” ở đây để dịch chữ “petit garçon” trong bản Donna Donna (<em>Il était une fois un <strong>petit garçon</strong></em><em> </em><em>qui vivait dans une grande maison) </em>thì đúng hơn.</p>
<p>Việc Phạm Duy dịch “garçon” thành “thằng bé, đứa bé” có thể khiến những người không biết nguyên bản tiếng Pháp, hoặc không hiểu tiếng Pháp, hiểu lầm rằng đây là một đứa bé yêu một cô gái lớn tuổi hơn mình, như trường hợp bản “Diana” của Paul Anka (<em>I’m so young and you’re so old – This, darling, I’ve been told…</em>)</p>
<p>Thế nhưng, theo cung bậc của bản <em>Scarborough Fair/Chèvrefeuille que tu es loin</em> và vần bằng trắc trong tiếng Việt, không dịch “garçon” thành “thằng bé, đứa bé” thì sử dụng chữ gì cho xứng hợp? Câu hỏi ấy, trong hơn 40 năm qua, cứ mỗi lần nghe lại bản <em>Chèvrefeuille que tu es loin</em> – <em>Giàn thiên lý đã xa</em>, chúng tôi lại cố nặn óc tìm một lời giải đáp, để rồi cuối cùng chịu thua.</p>
<p>Thành thử, theo sự hiểu biết của chúng tôi, ít nhất cũng là cho tới nay, muốn hát, muốn nghe lời Việt của bản <em>Chèvrefeuille que tu es loin</em>, người ta không có lựa chọn nào khác hơn là <em>Giàn thiên lý đã xa</em> của Phạm Duy.</p>
<p><strong><em>Giàn thiên lý đã xa</em></strong><strong> </strong></p>
<p><em>Tội nghiệp thằng bé cứ nhớ thương mãi quê nhà.</em></p>
<p>Giàn thiên lý đã xa, đã rời xa.</p>
<p>Đứa bé lỡ yêu, đã lỡ yêu cô em rồi.</p>
<p>Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi.</p>
<p>Này, này nàng hỡi, nhớ may áo cho người.</p>
<p>Giàn thiên lý đã xa tít mù khơi.</p>
<p>Tấm áo cắt ngay đã cắt trên khăn mượt mà.</p>
<p>Là chiếc chăn đắp chung những ngày qua.</p>
<p>Tìm một miếng đất cho gã si tình.</p>
<p>Giàn thiên lý đã xa mãi ngàn xăm</p>
<p>Miếng đất cắt hoang, miếng đất ngay bên giáo đường.</p>
<p>Biển sẽ ru tiếng hát bên trùng dương.</p>
<p>Giờ đã đến lúc tan ánh mặt trời.</p>
<p>Giàn thiên lý đã xa mãi người ơi.</p>
<p>Lấp đất hố tôi, lấp nối đôi tay cô nàng.</p>
<p>Thì hãy chôn trái tim non buồn tênh.<em> </em></p>
<p>Trước năm 1975, Thanh Lan – Nữ hoàng nhạc Pháp của Sài Gòn – là người đầu tiên hát hai bản<em> Chèvrefeuille que tu es loin </em>và <em>Giàn thiên lý đã xa. </em>Tuy nhiên, vì chất lượng âm thanh của băng nhạc cũ quá kém, chúng tôi xin kết thúc bài này với bản lời Việt qua tiếng hát của Ngọc Hương.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0123.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image012_thumb3.jpg" alt="clip_image012" border="0" height="211" width="354"></a></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7): Giàn thiên lý đã xa, </em></strong><strong>Ngọc Hương </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/07-GianThienLyDaXa-NgocHuong.mp3&amp;titles= &amp;artists=07-GianThienLyDaXa-NgocHuong&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (8): Scarborough Fair </em></strong><strong>(guitar) </strong><strong></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_8" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/08-Scarboroughfairguitar.mp3&amp;titles= &amp;artists=08-Scarboroughfairguitar&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;heigh t=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333 &amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4 B4B4&amp;rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righ ticonhover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF &amp;tracker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Hoài Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2013</p>

saomai
01-07-2015, 07:05 AM
<BR><BR>
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/gianthienlydaxa_1420613898.jpg

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/05/07-GianThienLyDaXa-NgocHuong.mp3

saomai
02-07-2015, 07:59 AM
ONE DAY (Khúc hát thanh xuân), STRAUSS & HAMMERSTEIN


<p></p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image00229.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image002_thumb28.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="353" width="354"></a></p>
<p>Trong bài kỳ này và kỳ tới, chúng tôi xin giới thiệu hai ca khúc nổi tiếng của thập niên 1930 – một thật vui, một rất buồn. Bản vui là <em>One Day When We Were Young</em>, được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa <em>Khúc hát thanh xuân</em>; bản buồn là <em>Sombre Dimanche</em>, được ông đặt tựa <em>Chủ Nhật Buồn</em>, và Nam Lộc với tựa <em>Chủ Nhật Xám</em>.</p>
<p>Trước hết nói về bản One Day When We Were Young. Như chúng tôi đã trình bày trước đây, theo sự phân chia của các nhà nhạc sử, thời kỳ hiện đại của âm nhạc tây phương nói chung, được bắt đầu cùng với thế kỷ 20. Trong lĩnh vực sáng tác ca khúc cũng thế, những ca khúc đầu tiên của nền nhạc hiện đại (modern songs), như các bản Serenata (Chiều tà), Torna a Surriento (Về mái nhà xưa), La Cumparsita (Vũ nữ thân gầy)… đều được sáng tác vào những năm đầu thế kỷ thứ 20.</p>
<p>Tuy nhiên bên cạnh đó, cũng có những trường hợp đặc biệt. Chẳng hạn bản La Paloma (Cánh buồm xa xưa), vốn được xem là ca khúc đầu tiên của nền nhạc hiện đại, đã được Sebastian Yradier viết vào năm 1863.</p>
<p>Bản One Day When We Were Young cũng là một trường hợp đặc biệt: phần nhạc của nó đã được viết vào năm 1885, tức là thời kỳ lãng mạn trong nền nhạc cổ điển. Vì thế, trong hồi ký của mình, Phạm Duy đã gọi One Day When We Were Young là nhạc cổ điển (có lẽ ý ông muốn nói tới nhạc chứ không kể tới lời hát).</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0048.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image004_thumb8.jpg" alt="clip_image004" border="0" height="379" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Johann Strauss II</strong></p>
<p>Cho tới nay, One Day When We Were Young vẫn được xem là một trong những ca khúc theo thể điệu valse quen thuộc và được ưa chuộng nhất thế giới. Điều đó cũng không có gì khó hiểu, bởi tác giả của bản One Day When We Were Young nguyên thủy không ai khác hơn là <strong>Johann Strauss II</strong> (đệ Nhị), “Ông vua điệu luân vũ thành Viên”, người đã để lại cho hậu thế bản valse bất hủ Le Beau Danube Bleu (Blue Danube – Dòng Sông Xanh).</p>
<p>One Day When We Were Young – thường được gọi tắt là “One Day” – nguyên là một khúc hát trong cảnh 2 của vở operetta (opera ngắn) số 10 của Johann Strauss II viết vào năm 1885; đó là vở <em>Gypsy Baron</em> (Vị nam tước bụi đời). Trong nguyên tác, khúc hát này có tựa là “Who tied the knot?” (Ai đã kết hôn?).</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image006.gif"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image006_thumb.gif" alt="clip_image006" border="0" height="402" width="304"></a></p>
<p>Như chúng tôi đã trình bày trong bài nói về bản Dòng Sông Xanh, giữa hai cha con cùng là nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng nổi tiếng – tức Johann Strauss I và Johann Strauss II – có một sự xung khắc kịch liệt, nhất là của ông bố đối với con trai. Tình trạng này bắt nguồn từ việc ông bố chỉ muốn con trai trở thành trạng sư trong khi cậu lại say mê âm nhạc, tiếp theo là việc ông bố bỏ vợ con để xây tổ ấm với một cô đào trẻ.</p>
<p>Về sau, khi ông con Johann Strauss II đã nổi tiếng, sự kình chống càng trở nên gay gắt vì cạnh tranh nghề nghiệp. Hí viện nào đã từng mời ông con trình diễn thì ông bố không bao giờ thèm đặt chân tới. Sự kình chống giữa hai cha con Johann Strauss đã trở thành giai thoại thú vị trong làng nhạc đương thời cũng như đám hậu sinh. Bước sang thế kỷ thứ 20, một nhóm nhà soạn nhạc và ca kịch của Áo đã dựa vào giai thoại này cùng với các sáng tác Johann Strauss II để thực hiện một vở ca nhạc kịch có tựa đề <em>Waltzer aus Wien</em> (Waltzes from Vienna – Những bản luân vũ thành Viên), trình diễn ra mắt tại hí viện Stadttheater ngày 30 tháng 10 năm 1930.</p>
<p>Bốn năm sau (1934), vở này kịch này được dựng lại tại Nhà hát Trung ương ở Broadway, thủ đô kịch nghệ của Hoa Kỳ, với tựa tiếng Anh <em>The Great Waltz</em> – Bản luân vũ để đời.</p>
<p>“Bản luân vũ để đời” ở đây chính là bản “Who tied the knot?” trong vở “Gypsy Baron’” của Johann Strauss II đã nói tới ở đoạn trên.</p>
<p>Vở The Great Waltz đã đạt thành công rực rỡ với 289 xuất diễn liên tục. Năm 1938, vở ca kịch này đã được hãng phim MGM đưa lên màn bạc, giữ nguyên tựa The Great Waltz nhưng với lời hát mới do <strong>Oscar Hammerstein II</strong> đặt.</p>
<p>Tới năm 1949, hai nhà soạn nhạc nổi tiếng của Mỹ là Robert Wright và George Forrest đã phóng tác nhạc và lời hát trong vở operetta “Gypsy Baron” nguyên thủy của Johann Strauss II thành một vở The Great Waltz khác, để diễn tại nhà hát Los Angeles Civic Light Opera.</p>
<p>Vở này đã được đưa lên sân khấu West End ở Luân-đôn năm 1970 với 605 xuất diễn liên tục. Năm 1972, vở The Great Waltz thứ hai này cũng được đưa lên màn bạc.</p>
<p>Như vậy, chỉ tính lời hát bằng tiếng Anh, bản “Who tied the knot?” trong vở “Gypsy Baron” nguyên thủy của Johann Strauss II đã có ba lời hát khác nhau, và lời hát hiện nay chúng ta thường nghe qua băng, đĩa hát – One Day When We Were Young – là lời hát do Oscar Hammerstein II soạn cho cuốn phim The Great Waltz năm 1938.</p>
<p><em>One day when we were young</em></p>
<p><em>That wonderful morning in May</em></p>
<p><em>You told me you loved me</em></p>
<p><em>When we were young one day</em></p>
<p><em>&nbsp;</em></p>
<p><em>Sweet songs of spring were sung</em></p>
<p><em>And music was never so gay</em></p>
<p><em>You told me you loved me</em></p>
<p><em>When we were young one day</em></p>
<p><em>&nbsp;</em></p>
<p><em>You told me you loved me</em></p>
<p><em>And held me close to your heart</em></p>
<p><em>We laughed then, we cried then</em></p>
<p><em>Then came the ti-ime to part</em></p>
<p><em>&nbsp;</em></p>
<p><em>When songs of spring are sung</em></p>
<p><em>Remember that morning in May</em></p>
<p><em>Remember you loved me</em></p>
<p><em>When we were young one day</em></p>
<p><em>&nbsp;</em></p>
<p><em>We laughed then, we cried then</em></p>
<p><em>Then came the ti-ime to par-art</em></p>
<p><em>When songs of spring are sung</em></p>
<p><em>Remember that morning in May</em></p>
<p><em>Remember you loved me</em></p>
<p><em>When we were young one day…</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0087.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image008_thumb7.jpg" alt="clip_image008" border="0" height="375" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Oscar Hammerstein II (1895-1960)</strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp; Oscar Hammerstein II (1895-1960) là nhà sản xuất kịch nghệ, đạo diễn sân khấu và nhà viết lời hát hàng đầu của Hoa Kỳ trong khoảng thời gian trải dài 40 năm từ sau thế chiến thứ nhất cho tới cuối thập niên 1950.</p>
<p>Ông đã đoạt 8 giải Tony (kịch nghệ) và 2 giải Oscar (cho ca khúc viết cho phim). Tổng cộng, ông đã viết lời cho 850 ca khúc, trong đó ngoài bản One Day… không thể không nhắc tới các khúc hát trong vở <em>The Sound of Music</em> (do Richard Rodgers viết nhạc), trình diễn ra mắt trên sân khấu Broadway năm 1959 (9 tháng trước khi ông qua đời vì ung thư), và trở thành vở ca nhạc kịch (musical) được diễn đi diễn lại nhiều lần nhất trong lịch sử.</p>
<p>Năm 1965, The Sound of Music được hãng 20<sup>th</sup>Century Fox đưa lên màn bạc với nữ diễn viên Anh (Dame) Julie Andrews thủ vai nữ chính. Cuốn phim đã đoạt 5 giải thưởng Oscar, trong đó có Oscar cho phim hay nhất trong năm (Best Picture) và đã “hạ bệ” phim Cuốn theo chiều gió (Gone With the Wind) để trở thành cuốn phim có số thu cao nhất lịch sử điện ảnh. Hiện nay, The Sound of Music vẫn còn đứng hạng 5 trong danh sách.</p>
<p>Trở lại với cuốn phim The Great Waltz năm 1938, bản One Day… trong phim đã được đệ nhất nữ danh ca soprano đương thời kiêm diễn viên <strong>Miliza Korjus</strong> trình bày (video: <em>One Day When We Were Young – The Great Waltz – YouTube</em>)</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0109.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image010_thumb9.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="380" width="304"></a></p>
<p align="center">&nbsp;<strong>Miliza Korjus (1909-1980)</strong><strong></strong></p>
<p>Miliza Korjus (1909-1980) xuất thân dòng dõi quý tộc mang ba dòng máu Estonia + Lithuania + Ba-lan. Sau khi kết hôn với một bác sĩ người Đức, Miliza Korjus được Nhà hát Opera Quốc gia Bá-linh (Berlin State Opera) mời cộng tác, và từ đó đã được xưng tụng là Con họa mi thành Bá-linh (Berlin Nightingale) và nổi tiếng khắp Âu châu. Năm 1938, Miliza Korjus được mời sang kinh đô điện ảnh Hồ-ly-vọng để thủ một vai phụ (và hát bản One Day…) trong phim The Great Waltz, và đã được xướng danh tranh giải Oscar cho nữ diễn viên vai phụ xuất sắc nhất.</p>
<p>Cùng thời gian, hãng đĩa hát RCA Victor của Mỹ đã cho phát&nbsp; hành đĩa One Day… do Miliza Korjus hát trọn bài dài 3 phút rưỡi (trong phim, cảnh Miliza Korjus hát dài chưa đầy 2 phút), tuy nhiên chất lượng âm thanh và độ trung thực (fidelity) của đĩa hát này bị chê là quá kém.</p>
<p>Một năm sau, One Day… đã được nữ danh ca Anh (Dame) <strong>Gracie Fileds</strong> (1898 – 1979) trình bày, và rất được người Anh ưa chuộng, nhất là tại các đơn vị quân đội Hoàng gia Anh nơi bà tới trình diễn trong thời gian Đệ nhị Thế chiến.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image0112.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image011" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image011_thumb2.jpg" alt="clip_image011" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Rất tiếc, vì những rối loạn do chiến tranh gây ra, bản chính (master) do Gracie Fileds hát, lưu giữ trong phòng thu âm đã bị thất lạc, cho nên sau này người ta phải “copy từ copy”, cho nên chất lượng âm thanh và độ trung thực cũng không khá gì hơn đĩa của Miliza Korjus (video: <em>Gracie Fileds – One Day When We Were Young 1939 – YouTube</em>)</p>
<p>Trong số những bản One Day… hiện đang được phổ biến “free” trên Internet, được ưa thích nhất là bản trình bày dưới hình thức song ca nữ của trang mạng <em>beemp3.com</em>. Độc giả nào thường download nhạc từ Internet có lẽ cũng biết <em>beemp3.com</em><em> </em><em>&nbsp;</em>là một trang mạng uy tín, thế nhưng riêng trong trường hợp của bản One Day… này, chỉ thấy ghi nguồn cung cấp chứ không thấy ghi tên ca sĩ trình bày.</p>
<p>Nghe phần nhạc đệm, chúng tôi tin rằng bản này được thu đĩa vào khoảng thập niên 1950, hoặc sớm hơn.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1): One Day When We Were Young </em></strong><strong>(song ca nữ – khuyết danh)</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/01-OneDay-1.mp3&amp;titles= &amp;artists=01-OneDay-1&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;lef tbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;v olslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x 999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp; loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;bo rder=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Trong số những danh ca thuộc thế hệ mới nhất hát bản One Day…, có thể nói đĩa hát của nữ ca sĩ gốc Hoa <strong>Jane Zhang</strong> (tiếng Hoa: <em>Zhang Liangying</em>, phiên âm Hán Việt là <em>Trương Lương Dĩnh</em>) hiện đang được ưa chuộng nhất.</p>
<p>Jane Zhang sinh năm 1984 tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Năm 2005, cô tham dự cuộc thi Super Girl, là cuộc thi ca nhạc thường niên lớn nhất ở Trung Quốc, do hệ thống truyền hình vệ tinh Hồ Nam (Hunan Satelite Television) tổ chức. Tuy chỉ đứng hạng ba, nhưng Jane Zhang lại được khán thính giả ái mộ nhất, bởi vì cô không chỉ có khuôn mặt xinh đẹp khả ái, thân hình lý tưởng, đôi mắt thu hút, có khả năng hát bằng tiếng Quảng Đông, Quan Thoại, tiếng Anh và Tây-ban-nha (Jane Zhang tốt nghiệp khoa ngoại ngữ tại Đại học Tứ Xuyên) mà còn có một giọng soprano cao vút, được truyền thông Hoa ngữ xưng tụng là “giọng hát thiên thần”.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image013.gif"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image013" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/07/clip_image013_thumb.gif" alt="clip_image013" border="0" height="244" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Jane Zhang</strong></p>
<p>Giọng hát của Jane Zhang đạt tới bậc cao nhất mà con người có thể đạt được, mà từ chuyên môn trong âm nhạc gọi là “whistle register”.</p>
<p>Chính vì thế, Jane Zhang đã thành công rực rỡ khi trình bày những ca khúc đòi hỏi chất giọng cao vút của Mariah Carey, Christina Aguilera, như <em>Hero, I Still Believe, Beautiful</em>…, và cả bản <em>Don’t Cry for Me Argentina</em> bất hủ trong vở ca nhạc kịch Evita. Jane Zhang cũng là nữ ca sĩ Á đông duy nhất được mời lên talk-show của Oprah Winfrey.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2): One Day When We Were Young, </em></strong><strong>Jane Zhang </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/02-OneDayWhenWeWereYoung.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-OneDayWhenWeWereYoung&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;heigh t=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333 &amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4 B4B4&amp;rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righ ticonhover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF &amp;tracker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>One Day When We Were Young được Phạm Duy đặt lời Việt vào năm 1942 với tựa Khúc Hát Thanh Xuân. Trong hồi ký của mình, ông viết:</p>
<p>… Tôi khởi sự soạn lời ca tiếng Việt để hát với nhạc Âu Mỹ khi tôi vừa bước vào tuổi 15, 20. Khi đó, ở Việt Nam, phong trào cải lương, cải cách trong văn học nghệ thuật đã ra đời. Thơ Mới đã có mặt với những thi phẩm của Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu v.v…, đồng thời Cải Lương Nam Kỳ cũng đang dần dà xâm chiếm sân khấu của Chèo Cổ, Tuồng Cổ… Về Âm Nhạc, để thay thế cho nhạc cổ, qua những bài ta theo điệu Tây của các nghệ sĩ Năm Châu, Tư Chơi… một nền nhạc mới đang trong thời kỳ chuẩn bị (Nhạc Cải Cách) để sẽ tiến tới thời kỳ thành hình (Tân Nhạc)…</p>
<p>Trong khi các nghệ sĩ kể trên chọn nhạc bình dân Pháp để soạn lời thì tôi chọn nhạc cổ điển Âu Tây để ca hát. Loại nhạc valse của Johann Strauss tuy là nhạc cổ điển nhưng có bài được phổ biến dưới hình thức ca khúc phổ thông. Ngoài bài valse bất hủ là LE BEAU DANUBE BLEU, Johann Strauss có một bài valse khác cũng được nhiều người biết đến là bài WHEN WE WERE YOUNG. Tôi soạn lời ca tiếng Việt để hát chơi trong đám bạn bè. Ðây cũng là lúc tôi phổ nhạc bài thơ CÔ HÁI MƠ của Nguyễn Bính tại Hưng Yên sau khi thôi học tại Trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Hà Nội…</p>
<p>(Cô Hái Mơ là sáng tác đầu tay của Phạm Duy – chú thích của Hoài Nam)</p>
<p>KHÚC HÁT THANH XUÂN</p>
<p><em>Ngày ấy khi Xuân ra đời </em></p>
<p>Một trời bình minh có lũ chim vui</p>
<p>Có lứa đôi, yêu nhau rồi</p>
<p>Hẹn rằng còn mãi không nguôi</p>
<p>Nhạc lắng hương xuân bồi hồi</p>
<p>Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi</p>
<p>Nói với nhau, yêu nhau rồi</p>
<p>Một ngày còn mới tươi môi.</p>
<p>Rồi nắm tay cùng nói vui</p>
<p>Những câu êm êm không rời vai.</p>
<p>Rồi lả lơi, hình dáng ai</p>
<p>Khuất xa biến vào nẻo khơi.</p>
<p>Từ đó khi xuân tái hồi</p>
<p>Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.</p>
<p>Nhớ tới câu thương yêu người</p>
<p><em>Một ngày tuổi mới đôi mươi.</em></p>
<p>So sánh bản lời Việt của Phạm Duy với bản lời Anh của Oscar Hammerstein II, tuy không thể gọi là một bản dịch, chúng ta thấy nội dung cũng tương tự, đó là những hoài niệm về tuổi thanh xuân, ngày hai người yêu nhau, thề hứa, rồi chia tay, nhưng vẫn mãi mãi là những kỷ niệm đẹp của đời người.</p>
<p>Trước và sau năm 1975, Khúc Hát Thanh Xuân đã được rất nhiều ca sĩ trình bày, như Thái Thanh, Hà Thanh, Mai Hương, Quỳnh Giao, Thanh Lan, Thái Hiền, Hương Lan, Phương Hồng Quế, Ái Vân, Hồng Nhung, Trần Thu Hà, Ngọc Hạ, Thu Phương…</p>
<p>Sau đây chúng tôi xin gửi tới độc giả hai bản điển hình nhất do các tiếng hát của Thái Hiền (hát theo thể điệu valse nguyên thủy) và Trần Thu Hà (theo thể nhạc Blues).</p>
<p><strong><em>- Phụ lục (3):</em></strong><strong> <em>Khúc Hát Thanh Xuân,</em> Thái Hiền </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/03-khuc-hat-thanh-xuan-TH.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-khuc hat thanh xuan – TH&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;le ftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp; volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0 x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF &amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;b order=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>- <em>Phụ lục (4): </em><em>Khúc Hát Thanh Xuân</em>, Trần Thu Hà</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/04/04-KhucHatThanhXuan-TranThuHa.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-KhucHatThanhXuan-TranThuHa&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Hòai Nam</strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2013</p>


Khúc Hát Thanh Xuân - Thái Hiền

<iframe width="853" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/0_voRKTZ3sk" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

saomai
03-07-2015, 07:39 AM
<div class="title">Hoài Nam : NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT (21)- SHINA NO YORU (China Night – Chiều Tô Châu) – Takeoka &amp; Saijo</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><p style="text-align: center;"><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/ShinaNoYoru.jpg"><img class="aligncenter size-full wp-image-14242" title="ShinaNoYoru" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/ShinaNoYoru.jpg" alt="" height="348" width="414"></a></p>
<p>Tiếp tục giới thiệu những ca khúc dân gian, hoặc mang âm hưởng đặc thù dân tộc nổi tiếng quốc tế, kỳ này chúng tôi viết về bản <em>Shina No Yoru</em> (China Night) – một bài hát của Nhật viết về cảnh đẹp &amp; người đẹp của Trung Hoa về đêm, nhưng lại bị Hán tộc tẩy chay, trong khi người Mỹ, nhất là các chiến binh Mỹ tham chiến tại Triều Tiên và Việt Nam, rất ưa chuộng. Trước năm 1975, Shina No Yoru đã được một tác giả đặt lời Việt với tựa <em>Chiều Tô Châu.</em></p>
<p>Chúng tôi chọn bản Shina No Yoru để giới thiệu tới độc giả TV&amp;BH vì đây từng là ca khúc phổ biến nhất của Nhật trong hai thập niên 1940, 1950, trong nước cũng như trên trường quốc tế. Còn nguyên nhân tại sao nó lại bị Hán tộc tẩy chay, xin được đề cập tới ở một phần sau.</p>
<p>Shina No Yoru tiếng Nhật có nghĩa “Đêm Trung Hoa”, do Nobuyuki Takeoka viết nhạc và Yaso Saijo đặt lời, được nữ danh ca kiêm diễn viên Hamako Wanatabe (1910-1999) thu đĩa lần đầu tiên vào năm 1938, do hãng đĩa Columbia Japan phát hành.</p>
<p>Video:</p>
<h3><strong><a href="http://www.youtube.com/watch?v=liUwexnf0BQ">HAMAKO WATANABE – SHINA NO YORU YOUTUBE</a></strong></h3>
<p>Lời hát bằng tiếng Nhật được ca nhạc sĩ du ca Mỹ Sonny James dịch sang tiếng Anh như sau:</p>
<p>CHINA NIGHT</p>
<p><em>What a night in China,<br>
What a night in China<br>
Harbor lights,<br>
Deep purple night,<br>
Ah, ship,<br>
The dreamship<br>
I can’t forget<br>
The sound of the Kokyu.<br>
Ah, China night,<br>
A dream night.<br>
What a night in China,<br>
What a night in China,<br>
Over the willow window,<br>
A ramp was shaking,<br>
Chinese lady<br>
Was there like a bird,<br>
Singing love songs,<br>
Sad sounding love songs<br>
Ah, China night,<br>
A dream night.<br>
</em><br>
<em>What a night in China,<br>
What a night in China,<br>
I was waiting in the parapet<br>
There was this girl in a rain<br>
The rouge on her cheeks<br>
Like flowers were in bloom,<br>
Forever, I will remember<br>
Even after we separated,<br>
Ah, China night,<br>
A dream night. </em></p>
<p>Thành phố cảng được nhắc tới trong ca khúc này là Thượng Hải.</p>
<p>Qua lời hát được dịch sang tiếng Anh, chúng ta thấy Shina No Yoru là một tình khúc đẹp, dịu dàng, hoàn toàn không có màu sắc chính trị hoặc dụng ý tuyên truyền.</p>
<p>Về phần nhạc, cùng với tiết tấu mà chỉ cần nghe một đoạn, người ta có thể nhận ra đây là một ca khúc của Nhật Bản, người thưởng ngoạn không thể không chú ý tới tiếng đàn “kokyu” (<em>I can’t forget the sound of the Kokyu…).</em></p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image0038.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image003_thumb6.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="198" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Đàn kokyu</strong></p>
<p>Tương tự “đàn nhị” (còn gọi là “đàn cò”) của Việt Nam, đàn “kokyu” của người Nhật là một biến thể của của đàn “nhị hồ” của người Trung Hoa; khác biệt chính là trong khi nhị hồ và đàn nhị chỉ có 2 dây, thì kokyu có tới 3, hoặc 4 dây.</p>
<p>Đặc điểm chung của cả ba cây đàn này là tiếng đàn rất não nùng, ai oán.</p>
<p>Trong số truyện ngắn của văn sĩ Nhật nổi tiếng quốc tế <strong>Satou Haruo</strong>, có truyện <em>Minoru-san no Kokyu</em> (Cây đàn kokyu của Minoru) kể về anh công nhân trẻ Minoru ra ngoại quốc làm việc trong một xưởng đóng hộp thực phẩm để lấy tiền gửi về giúp đỡ gia đình. Nhớ nhà, anh lấy cái hộp thiếc chế thành cây đàn kokyu để giải khuây. Không may, Minoru bị lây bệnh ho lao và bị trả về nước (ngày ấy, ho lao – tức TB – còn bị xem là một chứng nan y).</p>
<p>Về quê nhà, anh bị mọi người, kể cả người thân ruột thịt, xa lánh, phải sống cách biệt. Người bạn duy nhất còn lại bên mình là cây đàn kokyu. Trong nỗi cô đơn, niềm chua xót, tiếng đàn của Minoru ngày càng có hồn, ngày càng thu hút. Mọi người đều say mê tiếng đàn của anh. Dĩ nhiên, nghe từ xa xa…</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=JV2b-_a8Pto"><span style="font-weight: bold;">Hana (Kokyu) YouTube</span></a></em></h3>
<p>Hamako Wanatabe là người đầu tiên thu đĩa bản<strong><em> </em></strong>Shina No Yoru, nhưng về sau ca khúc này lại gắn liền với tên tuổi của <strong>Li Xianglan</strong>, được cô hát trong cuốn phim có cùng tựa do cô thủ vai nữ chính – một cuốn phim được quốc tế ca tụng nhưng lại bị Trung Hoa tẩy chay, lên án!</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image0059.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image005_thumb8.jpg" alt="clip_image005" border="0" height="204" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Một cảnh trong phim </strong><strong>Shina No Yoru</strong><strong> (1940)</strong></p>
<p>Cuốn phim Shina No Yoru (<em>China Nights</em>, có chữ “s”, còn được gọi là <em>Shanghai Nights</em> – Đêm Thượng Hải), do hãng phim Manchuria Films Productions thực hiện năm 1940, Osamu Fushimizu đạo diễn (thời gian này Manchuria, tức Mãn Châu, đã tách rời khỏi Trung Hoa để trở thành một quốc gia do Nhật bảo hộ). Cuốn phim Shina No Yoru, với chủ đề “tình yêu không biên giới chủng tộc”, nằm trong loạt phim tuyên truyền cho tình “hữu nghị Nhật – Trung”, cốt truyện kể về một cô gái mồ côi sống ngoài đường phố Thượng Hải được một sĩ quan hàng hải Nhật có lòng nhân đạo cứu vớt, dẫn đưa tới một chuyện tình thật đẹp.</p>
<p>Nhưng dưới mắt người dân Trung Hoa thời bấy giờ, không thể có việc một người Nhật có lòng nhân đạo. Nỗi kinh hoàng của Cuộc thảm sát Nam Kinh năm 1937 vẫn còn in hằn trong đầu óc họ.</p>
<p><em>[Cuộc thảm sát Nam Kinh – The Nanking Massacre, còn được gọi là the Rape of Nanking, xảy ra vào ngày 13 tháng 12 năm 1937, ngày thủ đô Nam Kinh của Cộng Hòa Trung Hoa bị rơi vào tay quân Nhật. Theo bách khoa tự điển Wikipedia và tài liệu hiện được lưu giữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (The Library of Congress), ngày ấy, trong khoảng thời gian gần một tháng, đã có từ 200.000 tới 340.000 người Trung Hoa bị quân Nhật tàn sát, và trên 20.000 phụ nữ bị cưỡng hiếp. Sau này, các nhân chứng sống kể lại trước Tòa án Quân sự Quốc tế Viễn Đông rằng việc hành quyết tập thể, hôi của và lùng bắt phụ nữ được tiến</em> <em>hành một cách quy mô theo kế hoạch, để không một khu vực nào bị bỏ sót, không một người nào kịp thoát thân. Các phụ nữ xấu số – từ bé gái cho tới bà cụ già – sau khi bị cưỡng hiếp tập thể đa số đã bị giết một cách cực kỳ man rợ.</em></p>
<p><em>Sau này, phía Nhật Bản nhìn nhận có 142.000 binh lính và thường dân Trung Hoa chết, nhưng không bao giờ nhắc nhở tới các vụ cưỡng hiếp, tương tự việc họ không bao giờ nhìn nhận đã cưỡng ép hàng trăm nghìn phụ nữ Hàn Quốc phục vụ nhu cầu tình dục của Quân đội Thiên hoàng, mà họ gọi là “comfort women”.</em></p>
<p><em>Độc giả nào “cứng bóng vía” muốn tìm hiểu về Cuộc thảm sát Nam Kinh kèm theo những hình ảnh kinh hoàng, có thể mở trang Google với từ khóa “The Nanking Massacre”, hay “The Rape of Nanking”] </em></p>
<p>Khổ nỗi, cuốn phim Shina No Yoru, với tình tiết ly kỳ hấp dẫn và ngoại cảnh tuyệt đẹp của Thượng Hải, lại được các nhà bình phim ca tụng và khán giả ưa thích. Trong phim này, Li Xianglan thủ vai cô gái mồ côi và hát bản Shina No Yoru. Li Xianglan có một giọng hát cao vút đầy nghệ thuật diễn tả, mà từ chuyên môn gọi là “coloratura soprano”.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><a href="http://www.youtube.com/watch?v=bsJBbp_vrfs"><span style="font-weight: bold;"><em>China Night Shina no yoru – Li Xianglan YouTube</em></span></a></h3>
<p>Với đại đa số khán thính giả, độc giả người Việt, cái tên “Li Xianglan” có thể xa lạ, nhưng nếu viết tên phiên âm Hán Việt <strong>Lý Hương Lan</strong>, chắn hẳn nhiều bậc cao niên cũng còn nhớ. Cũng thế, giới mộ điệu ở Âu Mỹ có thể không biết Li Xianglan là ai, nhưng nếu nhắc tới nghệ danh bằng tiếng Anh + tiếng Nhật <strong>Shirley Yamaguchi</strong> thì hầu như ai cũng biết. Còn tại Nhật, vị nữ lưu này lại được biết tới, và kính trọng, qua phương danh <strong>Yoshiko Otaka</strong>,<strong> </strong>một trong những bóng hồng đầu tiên trong Thượng viện Nhật bản.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image00625.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image006_thumb25.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="364" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Shirley Yamaguchi</strong><strong> (</strong><strong>Li Xianglan</strong><strong>)</strong></p>
<p>Tính cho tới nay, cuộc đời ly kỳ của Shirley Yamaguchi, một phụ nữ có tới gần 10 cái tên khác nhau, đã được đưa lên màn bạc, màn ảnh truyền hình, sân khấu ca kịch nhiều lần, và gần đây trở thành nguồn cảm hứng, chất liệu cho cuốn tiểu thuyết <em>Người tình Trung Hoa</em> (The China Lover, 2008) của nhà văn Ian Buruma.</p>
<p>Shirley Yamaguchi tên thật là <strong>Yoshiko Yamaguchi</strong>, sinh năm 1920 tại Mãn Châu, nơi cha cô, ông Fumio Yamaguchi, làm việc trong Công ty Hỏa xa Nam Mãn Châu. Khuôn mặt của Yoshiko phảng phất những nét tây phương là thừa hưởng từ ông nội, vốn mang trong người 1/4 máu Âu châu.</p>
<p>Lớn lên trong một môi trường mà mọi người đều nói tiếng Quan thoại, Yoshiko trở thành một cô gái “Hoa” nhiều hơn là “Nhật”, một phần vì cũng cha cô kết nghĩa huynh đệ với hai người Trung Hoa có tiếng tăm, một người họ Lý (Li), một người họ Phan (Pan). Theo phong tục, Yoshiko trở thành nghĩa nữ của hai nhà nói tên, và được đặt tên bằng tiếng Hoa là Li Xianglan (Lý Hương Lan) và Pan Shuhua (Phan Thục Hoa).</p>
<p>Yoshiko học hát nhạc cổ điển với Madame Podresov, một ca sĩ giọng soprano người Ý kết hôn với một nhà quý tộc Nga. Sau đó, Yoshiko tới Bắc Kinh sống dưới sự bao bọc của gia đình họ Pan, sử dụng tên Pan Shuhua, trau dồi thêm tiếng Quan thoại và theo đuổi nghệ thuật ca kịch cổ điển.</p>
<p>Tới khi đóng cuốn phim đầu tiên vào tuổi 18 (năm 1938), Yoshiko bắt đầu lấy Li Xianglan làm nghệ danh.</p>
<p>Từ đó cho tới khi cuộc chiến tranh Trung – Nhật chấm dứt, Li Xianglan, với khả năng song ngữ Hoa – Nhật, đã được người Nhật tận dụng tài nghệ trong việc tuyên truyền cho “tình hữu nghị” Nhật – Trung; về phần người dân Trung Hoa, hầu như không ai biết Li Xianglan là người Nhật, và cô đã được xếp hạng 5 trong danh sách 7 minh tinh ca nhạc (seven great singing stars) của Trung Hoa trong thập niên 1940.</p>
<p>Chính vì thế, sau khi Li Xianglan đóng vai chính trong cuốn phim Shina No Yoru (và hát ca khúc này trong phim), nàng đã bị lên án là kẻ phản quốc. Tất cả mọi bài hát nổi tiếng của Li Xianglan, trong đó có hai bản <em>Shina No Yoru</em> (China Night – Đêm Trung Hoa) và <em>Suzhou Serenade</em> (Tô Châu Dạ Khúc) đều bị cấm ở cả vùng Dân quốc (phe Tưởng Giới Thạch) lẫn vùng Cộng sản (phe Mao Trạch Đông).</p>
<p>Sau khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt, Li Xianglan bị nhà cầm quyền Trung Hoa (phe Dân quốc) bắt giữ và đưa ra tòa xét xử, với cái án tử hình cầm chắc trong tay. Chỉ tới khi người Nhật xác nhận Li Xianglan là một con cháu Thái Dương Thần Nữ với tên thật là Yoshiko Yamaguchi, nàng mới được thả, và trục xuất khỏi Trung Hoa. Lúc này, trước mắt người dân Trung Hoa, người nữ nghệ sĩ tài hoa trước kia bị họ lên án là “kẻ phản quốc” đã lộ nguyên hình là một “nữ điệp viên Nhật” đội lốt nghệ sĩ Trung Hoa để thi hành công tác địch vận – một cáo buộc mà Yoshiko Yamaguchi luôn luôn bác bỏ. Sau này, vào đầu thập niên 1950, Yoshiko đã chính thức lên tiếng xin lỗi người dân Trung Hoa về việc đã vô tình để phát-xít Nhật lợi dụng trong việc tuyên truyền trong thời gian Đệ nhị Thế chiến; nhưng tự bản thân Yochiko cũng biết: khi nào người dân Trung Hoa chưa quên được tội ác của quân Nhật, họ còn thù ghét mình!</p>
<p>Trở về Nhật năm 1946, Yoshiko Yamaguchi đã mau chóng tạo được tên tuổi trong làng điện ảnh xứ Phù Tang, trong đó có những cuốn phim đóng dưới quyền đạo diễn thiên tài <strong>Akira Kurosawa</strong> (có lẽ khán giả ở Sài Gòn ngày ấy chưa quên những tác phẩm để đời của ông, như <em>Bảy chàng võ sĩ đạo, Lã-sanh-môn</em>…).</p>
<p>Bước qua thập niên 1950, Yoshiko Yamaguchi sang Hoa Kỳ lập nghiệp dưới nghệ danh mới <strong>Shirley Yamaguchi, </strong>và tạo được tên tuổi ở cả kinh đô điện ảnh Hồ-ly-vọng lẫn thủ đô kịch nghệ Broadway. Năm 1951, tại Hoa Kỳ, Yoshiko kết hôn với điêu khắc gia Mỹ gốc Nhật Isamu Noguchi, nhưng chỉ chung sống được 5 năm.</p>
<p>Từ giữa thập niên 1950, Yoshiko đã hồi sinh nghệ danh tiếng Hoa “Li Xianglan” qua nhiều cuốn phim của điện ảnh Hương Cảng.</p>
<p>Năm 1958, Yoshiko Yamaguchi từ giã màn bạc vào tuổi mới 38, và bước thêm bước nữa với ông Hiroshi Otaka, một nhà ngoại giao Nhật làm việc ở Miến Điện; từ đó bà lấy tên theo họ chồng <strong>Yoshiko Otaka</strong> (hai người chung sống cho tới khi ông qua đời vào năm 2001).</p>
<p>Cũng trong năm 1958, Yoshiko Otaka trở về Nhật, thường xuyên xuất hiện trong các talk-show, và tới năm 1969, chủ xướng chương trình thời sự quốc tế <em>Sanji no anata</em> (The Three O’Clock You), chú trọng tới hai cuộc chiến ở Trung Đông và Việt Nam.</p>
<p>Năm 1974, Yoshiko Otaka được bầu vào Thượng viện của Quốc hội Nhật, và phục vụ liên tục 18 năm (3 nhiệm kỳ).</p>
<p>Năm 1993, bà được Nhật Hoàng trao tặng huân chương <em>Order of the Sacred Treasure</em>, là huân chương cao quý thứ nhì của Hoàng gia Nhật, chỉ đứng sau huân chương <em>Order of the Rising Sun</em>.</p>
<p>Hiện nay, mặc dù đã 93 tuổi, Yoshiko Otaka vẫn còn đảm trách chức vụ Phó Chủ tịch Quỹ Phụ Nữ Á Châu (Asian Women’s Fund)</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với thập niên 1940 và bản Shina No Yoru, sau khi được Yoshiko Otaka – tức <strong>Li Xianglan </strong>ngày ấy – hát trong cuốn phim có cùng tựa do cô thủ vai nữ chính, đã trở thành một hiện tượng, không chỉ là ca khúc phổ biến nhất ở Nhật, ở Trung Hoa (mặc dù nhà cầm quyền đã ra lệnh cấm) mà còn ở Đại Hàn, nơi mà nghệ danh Li Xianglan được “Hàn hóa” thành <strong>Ri Koran.</strong></p>
<p>Cũng chính tại bán đảo Triều Tiên, nơi quân đội Liên Hiệp Quốc tới chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của quân cộng sản Bắc Hàn và Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa (Trung Cộng) vào đầu thập niên 1950, Shina No Yoru do “Ri Koran” hát đã trở thành ca khúc được các binh sĩ Mỹ (chủ lực của đạo quân LHQ) ưa chuộng tới mức hầu như ai cũng thuộc lòng, cho dù không hiểu lời hát bằng tiếng Nhật nói gì!</p>
<p>Theo hồi ký của một số cựu quân nhân Mỹ tham chiến tại bán đảo Triều Tiên, ngày ấy mấy chữ “Shina No Yoru” đã được họ hát thành<strong><em>“She Has No Yoyo”.</em></strong></p>
<p>[Mẫu tự “r” trong chữ “yoru” khi phát âm một cách nhẹ nhàng, chẳng hạn khi hát, nghe gần giống như mẫu tự “y”]</p>
<p>Hiện nay, mở trang <em>Shina No Yoru – YouTube</em>, chúng ta sẽ đọc được nhiều câu chuyện cảm động, kỷ niệm êm đềm liên quan tới ca khúc này và nhân vật “Li Xianglan – Shirley Yamaguchi”. Chẳng hạn:</p>
<p><em>My dad, God bless him, was among those who heard her sing and so loved this song that he sang it as a lullaby to his “kids” for over forty years. Here it is fully restored and in digital stereo for you and yours to enjoy, and make sure Grand-dad gets to hear it!</em></p>
<p>Hoặc:</p>
<p><em>This song (the Shirley Yamaguchi version) is being played at my grandfather’s funeral tomorrow. He served in the USAF and was in Japan during the Korean War. He was singing this song up until a week before he died. Unfortunately, he had no idea what this song was called, and believed the lyrics were, “she aint got no yo yo.” I was ecstatic when I found the song he had sung all those years since the service. I’m just really sorry I couldn’t have found it for him earlier. RIP Papaw.</em></p>
<p>Như chúng tôi đã trình bày ở phần đầu, Hamako Wanatabe là người đầu tiên thu đĩa bản<strong><em> </em></strong>Shina No Yoru, và tới năm 1940, ca khúc này đã gắn liền với tên tuổi của Li Xianglan (tức Shirley Yamaguchi, Yoshiko Otaka,<strong> </strong>Ri Koran…) nhưng tính cho tới nay, người hát đạt nhất, và được ưa chuộng nhất phải là <strong>Misora Hibari</strong> (1937-1989), nữ diễn viên, nữ danh ca nhạc dân tộc cổ điển (“enka” trong tiếng Nhật) nổi tiếng nhất của xứ hoa anh đào.</p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image00816.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image008_thumb16.jpg" alt="clip_image008" border="0" height="311" width="304"></a></strong></p>
<p>Khi còn sống, Misora Hibari đã thu đĩa trên 1.200 ca khúc và bán được 68 triệu đĩa. Sau khi bà bất ngờ qua đời vì viêm phổi vào tuổi 52, tới năm 2001, con số ấy đã lên tới trên 80 triệu.</p>

<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/63mZal2YNO0?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
<p>Riêng với thế hệ trẻ, Shina No Yoru do nam thần tượng<strong> </strong>điện ảnh &amp; ca nhạc<strong> Kyu Sakamoto </strong>(1941 – 1985)<strong> </strong>thu đĩa có lẽ là bản được ưa chuộng nhất.</p>
<p>Kyu Sakamoto, tên thật là Hisashi Oshima, là ca sĩ ngoại quốc đầu tiên có ca khúc được đứng No.1 trong danh sách nhạc trẻ của bảng xếp hạng toàn quốc Hoa Kỳ (Billboard Hot Hit 100, năm 1963).</p>
<p>Kyu Sakamoto tử nạn vào tuổi 43 trên chuyến bay Japan Airlines Flight 123 năm 1985 – cho tới nay vẫn được ghi nhận là tai nạn phi cơ khủng khiếp nhất (một phi cơ) trong lịch sử hàng không quốc tế, với số người chết chỉ đứng sau tai nạn do hai chiếc Boeing 747 đụng vào nhau ở phi cảng Tenerife trên đảo Canary Islands vào năm 1977.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image0091.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image009_thumb1.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="300" width="304"></a></p>

<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/kaqBIDuQFrA?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
<p>Trở lại với bản Shina No Yoru do Sonny James dịch sang tiếng Anh với tựa China Night. Sonny James tên thật là James Hugh Loden, sinh năm 1929, hiện đã về hưu, là một ca sĩ kiêm nhà viết ca khúc dân ca (country music) hàng đầu của Mỹ, được tặng biệt hiệu “The Southern Gentleman”.</p>
<p>Cho tới nay, chúng tôi vẫn chưa tìm được phần audio (MP3) của bản Shina No Yoru – China Night lời tiếng Anh do Sonny James hát, nên xin gửi tới độc giả video clip “<a href="http://www.youtube.com/watch?v=3YH4MtrahLA">Japanese Farewell – 3 Songs</a>” gồm (1) Shina No Yoru – China Night do Sonny James trình bày, (2) Japanese Farewell (Sayonara) do ban nhạc Martin Denny hòa tấu, và (3) Japanese Farewell (Sayonara) do Mark Dinning trình bày.</p>
<p>Cũng xin được nhắc lại, Sayonara là một cuốn phim thời hậu chiến nổi tiếngbậc nhất của Mỹ với sự hợp tác của Nhật, thực hiện năm 1957, nói về mối tình đẹp, và đầy trắc trở vì thành kiến, giữa một chàng phi công Mỹ (Marlon Brando thủ vai) trú đóng tại Kobe và một nữ nghệ sĩ người Nhật (Miiko Taka thủ vai).</p>
<p>Bản <em>Shina No Yoru – China Night</em> trong video clip nói trên được Sonny James trình bày vào năm 1964 sau khi sang Nhật để học cách hát dân ca nghệ thuật (enka) của quần đảo Phù Tang.</p>
<p><strong>Video: </strong></p>
<h3><a href="http://www.youtube.com/watch?v=3YH4MtrahLA"><em>Japanese Farewell – 3 Songs – YouTube</em></a></h3>
<p>Hơn 10 năm sau khi trở thành ca khúc được các chiến binh Mỹ tham chiến tại Triều Tiên ưa chuộng nhất, Shina No Yoru đã theo gót đoàn chinh nhân tới miền Nam Việt Nam. Nhờ hai yếu tố: một số không nhỏ quân nhân Mỹ tham chiến tại tại Việt Nam trước kia đã từng phục vụ tại Triều Tiên, và tài nghệ của “ba chị em họ Kim” (Kim Sisters) – ban tam ca nổi tiếng quốc tế của Nam Hàn trong suốt ba thập niên 1950, 60, và 70.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image01015.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/08/clip_image010_thumb15.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="265" width="354"></a></p>
<p align="center"><strong>Kim Sisters trình diễn tại Qui Nhơn (1967)</strong></p>
<p>Tên gọi là “Kim Sisters” nhưng thực ra chỉ có hai chị em ruột Sue và Aija họ Kim, còn người em họ bạn dì Mia thì họ Lý (Lee). Ông bố của Sue và Aija là nhạc trưởng dàn nhạc cổ điển, bà mẹ là nữ ca sĩ nổi tiếng nhất xứ trước khi cuộc chiến bùng nổ. Cha của Mia cũng là một nhạc sĩ. Cho nên cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi ngoài tài ca hát, cả ba còn sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ khác nhau.</p>
<p>“Sự nghiệp” của Kim Sisters bắt đầu rất sớm, khi cả ba mới trên dưới 10 tuổi. Nguyên vào năm 1953, sau một cuộc giao tranh giữa hai phe quốc – cộng, ngôi nhà của họ Kim bị bình địa. Được sự khuyến khích của mẹ và dì, Sue, Aija và Mia bắt đầu trình diễn giúp vui cho các binh sĩ Mỹ. “Thù lao” cho các cô là những phong chocolate và bia; các cô đem về cho mẹ mang ra chợ đổi lấy thực phẩm.</p>
<p>Vốn liếng ban đầu của các cô chỉ có hai ca khúc nhạc đồng quê &amp; cao-bồi của Mỹ (country-western) là bản <em>Ole Buttermilk Sky</em> và bản <em>Candy and Coke</em>. Về sau, nhờ học thuộc lòng các bản rock-and-roll từ các đĩa hát do binh sĩ Mỹ cho mượn, “show” của ba cô bé ngày phong phú.</p>
<p>Khi mãn hạn phục vụ trở về quê nhà, các binh sĩ Mỹ đã loan truyền về tài nghệ của ba thần đồng Hàn quốc, và tới tai ông bầu ca nhạc Tom Ball. Tom Ball bay sang Hán thành (Seoul) tìm gặp, và sau khi được chứng kiến tài nghệ của ba cô, đã thuyết phục được gia đình để ông ta đem sang Hoa Kỳ.</p>
<p>Năm 1959, <em>Kim Sisters</em> – tên do Tom Ball đặt – lúc đó đã trở thành ba thiếu nữ xinh đẹp, trình diễn ra mắt tại khách sạn Thunderbird Hotel ở La Vegas, tiểu bang Nevada. Các buổi diễn ngày đông khán giả, khiến Tom Ball phải dời địa điểm sang casino Stardust. Tại đây, Kim Sisters đã lọt vào mắt xanh Ed Sullivan, chủ xướng show truyền hình “Ed Sullivan Show” nổi tiếng nhất của Mỹ trong hai thập niên 1950 1960 (năm 1964, khi “Tứ Quái” The Beatles của Anh sang Hoa Kỳ trình diễn lần đầu, cũng phải lên “Ed Sullivan Show” để được giới thiệu với dân Mỹ).</p>
<p>Tổng cộng trước sau, Kim Sisters đã trình diễn trên “Ed Sullivan Show” 22 lần.</p>
<p>Sau khi Hoa Kỳ đổ quân lên miền nam Việt Nam, từ năm 1967, Kim Sisters nhiều lần sang trình diễn giúp vui cho đoàn quân viễn chinh, trong đó có những cấp chỉ huy trước đây từng tham chiến tại Triều tiên. Dĩ nhiên, bản tủ của các cô chính là <em>Shina No Yoru</em>. Khi trình diễn, các cô luôn luôn mặc “xường xám” xẻ đùi thật cao, khiến các chàng G.I. phải mê mẩn.</p>

<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/jFXb20bvhhI?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
<p>Ký ức và sự hiểu biết của chúng tôi về thời gian và hoàn cảnh phổ biến bản Shina No Yoru trong làng tân nhạc Việt Nam hầu như là một con số không. Thậm chí cả đến tên tác giả lời Việt của bản Shina No Yoru có tựa là “Chiều Tô Châu”, chúng tôi cũng không nhớ. Một số người cho là Phạm Duy, nhưng qua nhận xét phần nhạc ngữ, chúng tôi không tin như thế; hơn nữa, trong hồi ký, tiểu sử của họ Phạm được phổ biến trên Internet, phần nói về ca khúc, nhạc khúc ngoại quốc được ông đặt lời Việt, không hề nhắc tới Chiều Tô Châu.</p>

<p>Ra hải ngoại, năm 1991, Chiều Tô Châu được Khánh Ly hát trong CD Làng Văn 97 có tựa đề “Tưởng Rằng Đã Quên” gồm 10 ca khúc chọn lọc. Rất tiếc, ở bìa sau của CD, người thực hiện cũng chỉ ghi “Chiều Tô Châu – Shina No Yoru – Nhạc Nhật”, chứ không ghi tên tác giả lời Việt.</p>
<p><strong>Chiều Tô Châu</strong></p>
<p><em>Ánh chiều chập chờn khuất xa<br>
Khói lam ngất ngây khắp muôn nơi<br>
Lướt qua ngàn cây.<br>
Ngoài thôn xa tiếng tiêu dịu dàng<br>
Dăm bé yêu đánh trâu về làng<br>
Gánh nặng là đà ngoài đê<br>
Vài thôn nữ đang cười vui.<br>
Đường thấm tình quê .<br>
Hoa ngát hương đua nhau<br>
Tô đời tươi thắm cho<br>
Khắp muôn loài nguồn sống<br>
Ánh nắng rơi rơi khắp thôn.<br>
Khắp miền rộn ràng niềm vui.</em><em></em></p>
<p>Những người cho rằng Phạm Duy là tác giả lời Việt của bản Chiều Tô Châu rất có thể đã suy diễn từ câu hát “…<em>sống trong lòng người đẹp Tô Châu, hay là chết bên dòng (bờ) sông Danube…</em>” trong bản <em>Bên Cầu Biên Giới</em> của ông.</p>
<p>Tô Châu được Phạm Duy nhắc tới trong bản <em>Bên Cầu Biên Giới</em> là thành phố Tô Châu (Suzhou) ở tỉnh Giang Tô, Trung Hoa. Tô Châu được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, hiện nay cùng với Bắc kinh, Hàng Châu, và Quế Lâm được xem là bốn thành phố cổ kính và đẹp nhất ở Trung Hoa. Ngoài “lụa Tô Châu”, thành phố này còn nổi tiếng với những ngôi chùa cổ, những khu vườn kiểng, và vì một phần thành phố được xây dựng trên sông nước với hơn 1600 cây cầu đá còn sử dụng được, tương tự như cố đô Saint Petersburg của Nga, cho nên Tô Châu đã được người tây phương xưng tụng là “thành Venice của Trung Hoa”.</p>
<p>[Nhân tiện cũng xin phép lạm bàn về câu hát “.<em>..sống trong lòng người đẹp Tô Châu …</em>”. Không hiểu Phạm Duy đã tới Tô Châu và “sống trong lòng” một người đẹp của thành phố thơ mộng này, hay ông chỉ tưởng tượng để ví von. Chỉ có điều là nếu nói về con gái đẹp ở Trung Hoa, trước tiên phải nhắc tới Hàng Châu (Hangzhou), nơi xuất thân của đại đa số cung tần mỹ nữ xưa kia được tuyển vào cung để hầu hạ các đấng thiên tử]</p>
<p>Trở lại với tựa lời Việt “Chiều Tô Châu”, trong khi chờ một sự giải thích chính thức (nếu có), chúng tôi tạm thời đưa ra hai cách giải thích như sau: (1) Tô Châu ở đây là Tô Châu bên Tàu, đã được nhắc tới trong bản Tô Châu Dạ Khúc (Suzhou Serenade), một ca khúc nổi tiếng khác của Li Xianglan; (2) Tô Châu, một địa danh ở vùng Hà Tiên của miền nam Việt Nam.</p>
<p>Trong hai cách giải thích trên, chúng tôi cho rằng với những câu như “<em>Dăm bé yêu đánh trâu về làng, Gánh nặng là đà ngoài đê, Vài thôn nữ đang cười vui…</em>” trong lời hát, Tô Châu ở đây là Tô Châu của Việt Nam có lẽ đúng hơn.</p>

<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/g9KfzHHkV30?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

<BR><BR>
<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/6MNCif0dAAU?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
SHINA NO YORU - Hoà Tấu

<p><strong>HOÀI NAM </strong></p>

saomai
04-14-2015, 06:12 AM
500 MILES (Tiễn Em Lần Cuối), HEDY WEST</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><p>&nbsp;</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image00111.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image001" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image001_thumb9.jpg" alt="clip_image001" border="0" height="302" width="304"></a></p>
<p>Tiếp tục giới thiệu những ca khúc được ưa chuộng nhất trong nền nhạc phổ thông của Hoa Kỳ, kỳ này chúng tôi viết về bản <em>500 Miles</em>, còn được gọi một cách chi tiết hơn là <em>500 Miles Away from Home, </em>hoặc <em>Railroaders’ Lament. </em>Trước năm 1975, <em>500 Miles</em> đã được Trường Kỳ đặt lời Việt với tựa <em>Tiễn Em Lần Cuối</em>.</p>
<p>Xét về cấu trúc nhạc, <em>500 Miles</em> là một bản đơn điệu tới mức khó có bản nhạc nào đơn điệu hơn, từ đầu chí cuối chỉ có hai dòng nhạc được lập đi lập lại, thế nhưng đã trở thành một trong những ca khúc phổ biến nhất, được ưa chuộng nhất của thời kỳ phục hưng dân ca Hoa Kỳ (American folk music revival).</p>
<p>Về lời hát, ca khúc gồm bốn điệp khúc, là lời than thở của một lãng tử xa nhà, không dám trở về vì cạn túi và thất bại trên đường đời… <em>Not a shirt on my back, not a penny to my name…</em></p>
<p><em><br>
</em><strong>Phụ lục 1: <em>500 Miles, </em>Peter, Paul and Mary</strong></p>
<p><span style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1"></span></p>
<p><em>500 Miles</em> là một sáng tác của nữ ca nhạc sĩ Hedy West (1938-2005), một trong ba nữ ca nhạc sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ phục hưng dân ca Hoa Kỳ; hai người kia là <strong>Joan Baez</strong> (sinh năm 1941, chúng tôi đã nhắc tới trong bài viết về bản <em>Donna Donna</em>), và <strong>Judy Collins</strong> (sinh năm 1939, chúng tôi sẽ nhắc tới khi viết về bản <em>Both Sides, Now</em>).</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image0032.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image003_thumb2.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Hedy West tên thật là Hedwig Grace West, ra chào đời tại Cartersville, một vùng núi ở miền nam tiểu bang Georgia, với dòng nhạc dân ca vùng núi Appalachia chảy sẵn trong huyết quản.</p>
<p><em>[</em><em><strong>Appalachian folk</strong></em><em> là nền nhạc dân ca truyền thống của vùng núi Appalachia (Appalachian Mountains), gồm các tiểu bang Kentucky, Tennessee, Virginia, Maryland, West Virginia, North Carolina, và một phần của các tiểu bang Georgia, South Carolina, Pennsylvania, và Ohio; nơi mà mỗi gia đình cư dân (gốc Anh-cát-lợi, Tô-cách-lan và Ái-nhĩ-lan) có thể xem là một ban nhạc nho nhỏ. Nền nhạc “Country music” của Hoa Kỳ chính là sự kết hợp giữa</em><em><strong> </strong></em><em>“</em><em>Appalachian folk”</em><em> và </em>“<em>Western music” (nhạc cao-bồi ViễnTây)]</em></p>
<p>Ông bố của Hedy West, Don West, là một thi sĩ kiêm nhà hoạt động văn hóa, từng làm giám đốc <em>Appalachian South Folklife Center ở West Virginia, và</em> đồng sáng lập Highlander Folk Music School ở Tennessee. Ông cậu (great-uncle) Augustus Mulkey là nhạc sĩ vĩ cầm, và bà nội Lillie Mulkey West là người chơi đàn banjo.</p>
<p>Ngay từ tuổi niên thiếu, Hedy West đã bắt đầu đàn hát tại các folk festival ở Georgia cũng như các tiểu bang kế cận. Năm 16 tuổi, Hedy West đã đoạt một giải ca hát tại Nashville, Tennessee.</p>
<p>Sau khi tốt nghiệp trung học, Hedy theo học tại Western Carolina Teachers College với ý định trở thành cô giáo, nhưng tới năm 1959, cô đã bỏ dở để lên New York, theo học nhạc tại Mannes College và kịch nghệ tại Columbia University.</p>
<p>Thời gian Hedy West tới New York cũng là lúc phong trào phục hưng dân ca đang phát triển mạnh, và khu nghệ sĩ Grennwich Village đã trở thành môi trường cho cô gái miền Nam sáng tác và trình diễn dân ca.</p>
<p>Tới giữa năm 1961, Hedy West đã nổi tiếng khắp tiểu bang, với tiếng đàn guitar và banjo, với giọng hát được xưng tụng là hay nhất trong số các nữ ca sĩ hát dân ca đương thời, và với những ca khúc do chính cô sáng tác, trong đó có bản <em>500 Miles</em>.</p>
<p>Về sau, Hedy West cho biết <em>500 Miles</em> không phải là một sáng tác hoàn toàn của mình, mà về giai điệu cô đã sử dụng một số đoạn còn nhớ được từ một nhạc khúc xưa kia ông cậu Augustus Mulkey thường đàn vĩ cầm, còn lời hát là gom góp từ những ca khúc mà bà nội Lillie thường hát cho cô nghe từ những ngày ấu thơ ở Georgia.</p>
<p><strong><em>500 Miles</em></strong><strong> </strong></p>
<p><em>If you miss the train I’m on,<br>
you will know that I am gone,<br>
you can hear the whistle blow a hundred miles.<br>
A hundred miles, a hundred miles,<br>
a hundred miles, a hundred miles,<br>
you can hear the whistle blow a hundred miles.<br>
Lord, I’m one, Lord, I’m two, Lord,<br>
I’m three, Lord, I’m four, Lord,<br>
I’m five hundred miles a way from home.<br>
Away from home, away from home,<br>
away from home, away from home,<br>
Lord, I’m five hundred miles away from home.<br>
Not a shirt on my back,<br>
not a penny to my name.<br>
Lord, I can’t go back home this-a way.<br>
This-a way, this-a way,<br>
this-a way, this-a way,<br>
Lord, I can’t go back home this-a way.<br>
If you miss the train I’m on,<br>
you will know that I am gone,<br>
you can hear the whistle blow a hundred miles.<br>
A hundred miles, a hundred miles,<br>
a hundred miles, a hundred miles,<br>
you can hear the whistle blow a hundred miles.</em></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em>500 Miles By Hedy West</em></strong></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=rwnNdqpCF8Q">www.youtube.com/watch?v=rwnNdqpCF8Q</a></cite></p>
<p>Nội dung các ca khúc cũng như tiếng hát của Hedy West được mô tả là tuyệt đối trung thành với dân ca vùng núi <em>Appalachia. Viết cách khác</em>, thế hệ trẻ và những người ưa chuộng dân ca đương đại chưa chắc đã thưởng thức được những sáng tác và tiếng hát của Hedy West. Vì thế, mặc dù được xưng tụng là một trong những nữ ca sĩ hay nhất của thời kỳ phục hưng dân ca, và được trao tặng những vinh dự cao quý nhất, trong sự nghiệp kéo dài 45 năm (1960-2005), Hedy West thường chỉ trình diễn “sống” (live) cho thành phần khán giả chọn lọc, và thu hai album mang tính cách bảo tồn nền dân ca hơn là với mục đích thương mại.</p>
<p>Hedy West qua đời vì ung thư năm 2005.</p>
<p>Theo các nhà viết tiểu sử Hedy West, ngày ấy có nhiều ông chủ hãng đĩa đã khuyên, thậm chí áp lực, bà chuyển hướng theo dân ca đương đại để bán đĩa hát, nhưng bà dứt khoát từ chối. Vì thế cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ca khúc <em>500 Miles </em>của Hedy West lại không do bà mà do ban tam ca <strong>The Journeymen</strong> thu đĩa đầu tiên.</p>
<p>The Journeymen gồm ba thành viên John Phillips, Scott McKenzie, và Dick Weissman. Sau khi chia tay nhau vào giữa thập niên 1960, John Phillips đứng ra thành lập ban <em>The Mama’s and the Papa’s</em> (nổi tiếng với các bản <em>Monday Monday, California Dreaming</em>…), Scott McKenzie thì theo đuổi sự nghiệp đơn ca, đạt thành công rực rỡ với bản <em>San Francisco</em> (<em>Be Sure to Wear Flowers in Your Hair</em>), còn Dick Weissman trở thành nhà sản xuất đĩa nhạc.</p>
<p>Lúc ấy, năm 1961, <em>The Journeymen</em> không phải là một ban nhạc folk nổi tiếng, cho nên đĩa <em>500 Miles </em>của họ cũng chẳng mấy người biết tới. Qua đầu năm 1962, khi album <em>College Concert </em>của ban tam ca <strong>Kingston Trio</strong> phát hành, người ta được biết ban này đã từng hát “live” <em>500 Miles </em>trong khuôn viên đại học.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image0051.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image005_thumb1.jpg" alt="clip_image005" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Phải đợi tới giữa năm, khi album đầu tay của ban tam ca nổi tiếng <strong>Peter, Paul and Mary</strong> trong đó có bản <em>500 Miles </em>lên No.1 trong bảng xếp hạng, <em>500 Miles </em>mới trở thành ca khúc được nhiều người ưa chuộng; rồi chỉ trong một thời ngắn sau đó, qua sự trình bày của hàng chục ca sĩ nổi tiếng, như Bobby Bare, Elvis Presley, Johnny Rivers, The Brothers Four, Joan Baez, Rosanne Cash (con gái Johnny Cash)… của Mỹ, ban tứ ca The Seekers của Úc, v.v…,<em> 500 Miles </em>đã trở thành ca khúc dân ca Hoa Kỳ nổi tiếng và được ưa chuộng bậc nhất thế giới. Riêng giới trẻ ở Sài Gòn trước năm 1975, <em>500 Miles </em>do đôi song ca Peter and Gordon của Anh quốc thu đĩa là bản phổ biến nhất.</p>
<p><strong>Phụ lục 2: <em>500 Miles, </em>The Brothers Four </strong></p>
<p><span style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2"></span></p>
<p><strong>Phụ lục 3: <em>500 Miles, </em></strong><strong>Peter &amp; Gordon </strong></p>
<p><span style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3"></span></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em>Joan Baez – 500 Miles – YouTube</em></strong></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=B_K6z3HiRAs">www.<strong>youtube</strong>.com/watch?v=B_K6z3HiRAs</a></cite></p>
<p><strong><em>Rosanne Cash: 500 miles – YouTube</em></strong></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=Q_XgghFZt1o">www.<strong>youtube</strong>.com/watch?v=Q_XgghFZt1o</a> </cite></p>
<p><strong><em>The Seekers – Five Hundred Miles</em></strong><em> – </em><strong><em>YouTube</em></strong></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=W0QR93SlMzA">www.<strong>youtube</strong>.com/watch?v=W0QR93SlMzA</a></cite></p>
<p>Về phiên bản lời ngoại quốc, <em>500 Miles</em> đã được đặt lời bằng hàng chục ngôn ngữ khác nhau, trong đó có tiếng Việt, Hoa, Nhật, Đức, Đan-mạch, Pháp… Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới phiên bản lời Pháp và lời Việt.</p>
<p>Phiên bản lời Pháp của Jacques Plante có tựa <em>J’entends Siffler Le Train</em> (Anh nghe tiếng xe lửa hú còi). Tuy cùng có “xe lửa” trong nội dung, chủ đề của phiên bản lời Pháp hoàn toàn khác với nguyên bản lời Anh: thay vì diễn tả nỗi nhớ nhà của một khách giang hồ như trong <em>500 Miles</em>, lời hát của <em>J’entends Siffler Le Train </em>lại<em> </em>nói về tâm trạng của một chàng trai từ xa xa nghe thấy tiếng còi tàu của chuyến xe lửa sẽ đưa người yêu của chàng ra đi không trở lại.</p>
<h3><span style="font-weight: bold;">J’entends Siffler Le Train </span><em><br>
</em><em></em><em></em></h3>
<p><em>J´ai pensé qu´il valait mieux</em></p>
<p><em>Nous quitter sans un adieu.</em></p>
<p><em>Je n´aurais pas eu le cœur de te revoir…</em></p>
<p><em>Mais j´entends siffler le train,</em></p>
<p><em>Mais j´entends siffler le train,</em></p>
<p><em>Que c´est triste un train qui siffle dans le soir…</em></p>
<p><em>Je pouvais t´imaginer, toute seule, abandonnée</em></p>
<p><em>Sur le quai, dans la cohue des “au revoir”.</em></p>
<p><em>Et j´entends siffler le train,</em></p>
<p><em>Et j´entends siffler le train,</em></p>
<p><em>Que c´est triste un train qui siffle dans le soir…</em></p>
<p><em>J´ai failli courir vers toi, j´ai failli crier vers toi.</em></p>
<p><em>C´est à peine si j´ai pu me retenir!</em></p>
<p><em>Que c´est loin où tu t´en vas,</em></p>
<p><em>Que c´est loin où tu t´en vas,</em></p>
<p><em>Auras-tu jamais le temps de revenir?</em></p>
<p><em>J´ai pensé qu´il valait mieux</em></p>
<p><em>Nous quitter sans un adieu,</em></p>
<p><em>Mais je sens que maintenant tout est fini!</em></p>
<p><em>Et j´entends siffler ce train,</em></p>
<p><em>Et j´entends siffler ce train,</em></p>
<p><em>J´entendrai siffler ce train toute ma vie</em></p>
<p><em>J´entendrai siffler ce train toute ma vie</em></p>
<p>Đọc qua lời hát của <em>J’entends Siffler Le Train</em>, độc giả nào có chút vốn liếng tiếng Pháp sẽ nhận ra ngay tính cách ủy mị, có thể nói là khá “cải lương”, và hơi cường điệu!</p>
<p>Nào là “Anh nghĩ rằng tốt hơn hết chúng mình chia tay nhau mà không phải nói lời vĩnh biệt, bởi anh không có đủ can đảm nhìn em ra đi…”</p>
<p>Nào là “Nhưng anh có thể tưởng tượng em ra đi đơn côi, nơi sân ga huyên náo với những cảnh tạm biệt…’</p>
<p>Nào là<em> “</em>Anh nghe thấy tiếng còi tàu của chuyến xe lửa đưa em ra đi, và tiếng còi tàu ấy sẽ theo anh một đời…”</p>
<p>Nhưng bên cạnh đó, có lẽ đa số độc giả cũng đồng ý với chúng tôi, ủy mị, “cải lương”, và cường điệu lại chính là ba yếu tố ăn khách của các ca khúc phổ thông ở bất cứ quốc gia nào.</p>
<p><em>J’entends Siffler Le Train</em> là ca khúc đã giới thiệu tiếng hát <strong>Richard Anthony</strong> tới thính giả yêu nhạc Pháp khắp nơi trên thế giới. Richard Anthony ở đây là người đã đặt lời và thu đĩa bản <em>Dis à Laura, </em>tức <em>Tell Laura I Love Her – Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>đã được chúng tôi nhắc tới trong một kỳ trước.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image0071.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image007_thumb1.jpg" alt="clip_image007" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Nói tới Richard Anthony, không thể không nhắc tới chi tiết thú vị là nam ca sĩ Pháp đã thu đĩa trên 600 ca khúc và bán ra gần 50 triệu đĩa hát này lại không có một chút máu Gô-loa nào trong huyết quản!</p>
<p>Richard Anthony tên thật là Ricardo Anthony Btesh, ra chào đời vào năm 1938 tại Cairo, thủ đô Ai-cập; ông bố Edgar Btesh gốc Syria, là một doanh gia ngành dệt vải ở Ai-cập, bà mẹ Margaret là ái nữ của Đại sứ Anh quốc tại Iraq.</p>
<p>Do nghề nghiệp của ông bố, Ricardo Anthony sống tuổi niên thiếu lần lượt ở Ai-cập, Á-căn-đình, và Anh quốc, nơi cậu được theo học trường nổi tiếng Brighton College, rồi tới năm 13 tuổi (1951) sang Pháp học ở Lycée Janson de Sailly.</p>
<p>Sau khi tốt nghiệp trung học, Ricardo Anthony theo học ngành luật. Tới khi cha mẹ dời sang Milan, Ý, Ricardo Anthony ở lại Paris với cô bạn học Michelle, người sau này trở thành đời vợ thứ nhất của chàng. Sau đó Ricardo Anthony bỏ học, vừa làm đại diện thương mại cho các hãng sản xuất tủ lạnh, vừa thực tập kèn saxophone trong các quán nhạc jazz.</p>
<p>Năm 1958, với kiến thức về nền nhạc phổ thông Anh quốc, cộng với khả năng nói được 5 ngôn ngữ, Ricardo Anthony quyết định chuyển sang lĩnh vực ca hát với cái tên nghệ sĩ “Richard Anthony”. Hai đĩa hát đầu tiên của Richard Anthony (hát tiếng Anh) do hãng Columbia phát hành là <em>You Are My Destiny</em> của Paul Anka và <em>Peggy Sue</em> của Buddy Holly đã không được người yêu nhạc chú ý, nhưng đĩa thứ ba, bản <em>Nouvelle Vague</em> (Đợt Sóng Mới), nguyên là bản <em>Three Cool Cats</em> của ban tứ ca Mỹ The Coasters được Richard Anthony đặt lời Pháp, đã thành công rực rỡ.</p>
<p>Tiếp theo là những ca khúc nổi tiếng khác thu đĩa tại Luân-đôn hoặc Paris, trong đó có bản <em>J’entends Siffler Le Train</em> (500 Miles), đứng No.1 trong danh sách đĩa hát bán chạy nhất suốt 22 tuần lễ.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong>Richard Anthony – Et j’entends siffler le train</strong></p>
<p><cite>&nbsp;<a href="http://www.youtube.com/watch?v=W_UbNicrWXk"><em>www.youtube.com/watch?v=W_UbNicrWXk</em></a></cite></p>
<p><strong>Phụ lục 4: <em>J’entends Siffler Le Train</em>, Richard Anthony </strong></p>
<p><span style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4"></span></p>
<p>Trong sự nghiệp ca hát của mình, Richard Anthony có 16 đĩa đứng No.1 trong danh sách đĩa hát bán chạy nhất tổng cộng 21 lần; nghĩa là có những đĩa hát đứng No.1 hai lần. Tính cho tới nay, chưa có một ca sĩ Pháp nào khác đạt được kỷ lục này.</p>
<p>Richard Anthony cũng là một trong số hiếm hoi ca sĩ Pháp có đĩa hát đứng No.1 tại ngoại quốc: Ý, Đức, Bồ-đào-nha, Tây-ban-nha, Thụy-sĩ, Bỉ, Á-căn-đình, Chí-lợi, và Iran.</p>
<p>Tới đây, chúng tôi xin phép được “lạc đề” để viết một điều thú vị khác liên quan tới Richard Anthony: bản <em>J’entends Siffler Le Train</em> trong khi làm say mê hàng triệu người yêu nhạc Pháp, lại không phải đĩa hát có số bán cao nhất của ông, mà là bản <strong><em>Aranjuez, mon amour</em></strong><em>, </em>nguyên là<em> </em>bản hòa tấu <strong><em>Concerto de Aranjuez</em></strong><em> </em>được đặt lời hát.</p>
<p>Cái tựa <em>“Concerto de Aranjuez”</em> có thể xa lạ với một số độc giả, nhưng riêng những người đàn tây-ban-cầm cổ điển (classic guitar) ắt phải biết tới. Đây là bản concerto nổi tiếng bậc nhất trong nền nhạc cổ điển của Tây-ban-nha, trong đó tiếng tây-ban-cầm là chính yếu.</p>
<p>Tác giả của <em>Concerto de Aranjuez</em> là Joaquin Rodrigo Vidre (1901-1991), một nhà quý tộc (1<sup>st</sup> Marquis of the Gardens of Aranjuez) và nhà soạn nhạc nổi tiếng kiêm danh thủ dương cầm, được biết tới với nghệ danh <strong>Joaquin Rodrigo</strong>.</p>
<p>Bản <em>Concerto de Aranjuez</em> được Joaquin Rodrigo lấy cảm hứng từ cảnh sắc trong khuôn viên và nội thất của lâu đài Gardens of Aranjuez ở thị trấn Aranjuez, Tây-ban-nha. Bản concerto này gồm ba phần (movements): <em>Allegro con spirito</em>, <em>Adagio </em>và <em>Allegro gentile</em>, trong đó, phần thứ hai (Adagio, chậm rãi êm ái) dành cho “kèn co” và tây-ban-cầm là phần được ưa chuộng nhất.</p>
<p>[<strong>Kèn co</strong>: tức “cor anglais” nguyên là tiếng Pháp đã được quốc tế hóa; người Mỹ gọi là “English horn”]</p>
<p>Trong số CD, DVD <em>Concerto de Aranjuez – Adagio, </em>bản do danh cầm gốc Úc <strong>John Williams</strong> hợp tấu cùng dàn nhạc thành phố Sevilla, Tây-ban-nha, vào năm 1993, là một trong những bản phổ biến nhất.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em>John Williams </em></strong><strong><em>- J. Rodrigo – Adagio from Concierto de Aranjuez</em></strong><cite> </cite></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=PbNV9AwFFc8">www.youtube.com/watch?v=PbNV9AwFFc8</a></cite><cite></cite></p>
<p>Tới năm 1967, Guy Bontempelli, một nhạc sĩ trẻ của Pháp đã đặt lời hát cho <em>Concerto de Aranjuez – Adagio </em>với tựa<em> “Aranjuez, mon amour”, </em>được<em> </em>Richard Anthony thu đĩa, và trở thành một hiện tượng. Từ đó tới nay, <em>“Aranjuez, mon amour” </em>(lời Pháp) và<em> “Aranjuez, con tu amor” </em>(lời<em> </em>Tây-ban-nha) đã trở thành ca khúc “ăn khách” của hầu hết ca danh ca hát nhạc cổ điển, chẳng hạn Luciano Pavarotti, Andrea Bocelli của Ý, Jose Carreras, Paloma San Basilio của Tây-ban-nha, Demis Roussos, Nana Mouskouri của Hy-lạp, Sarah Brightman của Anh…</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong>Andrea Bocelli – En Aranjuez con tu amor</strong></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=-sVAWII9hTU">www.youtube.com/watch?v=-sVAWII9hTU</a></cite></p>
<p>Riêng Richard Anthony, ngày ấy đã bán được trên 5 triệu đĩa (lời Pháp và<em> </em>Tây-ban-nha), đứng No.1 tại Pháp, Bỉ, Thụy-sĩ,<em> </em>Tây-ban-nha, và nhiều quốc gia Nam Mỹ.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với bản <em>500 Miles</em>, trước năm 1975 đã được Trường Kỳ đặt lời Việt với tựa <em>Tiễn Em Lần Cuối.</em> Vì ngày ấy, trong giới nghe nhạc ngoại quốc ở miền nam VN, phiên bản lời Pháp <em>J’entends Siffler Le Train </em>phổ biến hơn là ca khúc nguyên thủy <em>500 Miles, </em>chúng tôi cho rằng<em> </em>Trường Kỳ đã lấy cảm hứng từ phiên bản lời Pháp, và bi thảm hóa bằng cách thay “xe lửa” bằng “xe tang”.</p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image0091.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image009_thumb1.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="374" width="404"></a></em></strong></p>
<p><strong><em>Tiễn Em Lần Cuối</em></strong><strong><em> </em></strong></p>
<p><em>Trời lạnh giá bước chân buồn bã</em><br>
<em>Đưa hồn em tới nơi xa vời</em><br>
<em>Đoàn xe tang tiễn đưa em về </em><br>
<em>vùng trời xa xôi.</em></p>
<p><em>Một ngày nào có mắt em rực rỡ</em><br>
<em>Môi hồng tươi, tóc xanh mây trời</em><br>
<em>Nụ hôn xưa ngất ngây tuyệt vời</em><br>
<em>Ngập ngừng xôn xao.</em><br>
<em>Thầm lặng bước, tim hồi nhớ</em><br>
<em>Vang lời kinh chứa chan u buồn</em><br>
<em>Hàng cây khô hắt hiu bên đường</em><br>
<em>Lặng nhìn bơ vơ.</em><br>
<em>Và còn gì nữa, mắt em vội khép</em><br>
<em>Thế thôi còn đâu, mắt em phai mầu</em><br>
<em>Nụ hôn xưa lấp sâu trong mơ</em><br>
<em>Chìm vào hư vô.</em><br>
<em>Rồi ngày còn đó bóng em đã khuất</em><br>
<em>Bóng đêm còn đây có anh u sầu</em><br>
<em>Mộng về em chốn cao Thiên đàng</em><br>
<em>Ngàn đời chia xa.</em><br>
Chúng tôi không nhớ trước năm 1975 đã có ca sĩ nào thu băng bản <em>Tiễn Em Lần Cuối</em> hay chưa. Sau khi ra hải ngoại, trong CD “Liên Khúc Tình Yêu 1” với ba tiếng hát Trung Hành, Ngọc Lan và Kiều Nga, Ngọc Lan đã hát hai đoạn lời Việt khác hẳn bản của Trường Kỳ, như sau:</p>
<p><em>Người tình hỡi nếu trên đường phố<br>
Có anh từng khuya đón đưa em về<br>
Giọt mưa rơi sẽ không não nề<br>
Mình càng đam mê…<br>
Người tình hỡi những đêm lặng lẽ<br>
Dưới trăng vàng khuya có đôi môi kề<br>
Nghìn trăng sao với em vui đùa<br>
Kể chuyện tình anh nghe… </em></p>
<p>Theo thông tin trên các trang mạng, tựa đề của bản này là <strong><em>“Người tình ngàn dặm”</em></strong> nhưng không ghi tên tác giả, và cũng không ai được biết chỉ có hai đoạn trên hay còn nữa?</p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image0103.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/03/clip_image010_thumb2.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="423" width="254"></a></strong></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em>Người tình ngàn dặm-Ngọc Lan – YouTube</em></strong><cite></cite></p>
<p><cite> </cite><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=NJ6G-YvnDFY">www.<strong>youtube</strong>.com/watch?v=NJ6G-YvnDFY</a></cite></p>
<p>Riêng bản <em>T</em><em>iễn Em Lần Cuối</em> (lời của Trường Kỳ) về sau đã được Trung Hành thu vào CD. Sau khi Ngọc Lan qua đời vào năm 2001, những người ái mộ cô đã sử dụng bản này đưa lên YouTube để bày tỏ lòng tiếc thương.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em>TIEN EM LAN CUOI (500 MILES) – A TRIBUTE TO CA SI NGOC LAN</em></strong><cite> </cite></p>
<p><cite><a href="http://www.youtube.com/watch?v=BvVV1hvwQ2E">www.youtube.com/watch?v=BvVV1hvwQ2E</a>

KiwiTeTua
04-16-2015, 07:47 PM
Sáng nay nắng hồng, gió mát, ăn chè táo xọn, chợt nhớ đến saomai....... :icon_tongue:

Bài đọc sưu tầm công phu, nhạc đính kèm có giá trị..... Nhưng đọc xong hết bài, đứng dậy đi xiểng niểng, mắt mờ, tay chân run rẩy, muốn chít luôn...... :icon_banana:


Mèn ơi ! tiếc cái gì ! đem Maggi về rủi đổ bể thì có mà khóc tiếng Tây !!!:smile1:

Maggi Arome Saveur hiện nay có bán ở hầu hết các chợ dưới Cali , ở SJ thầy đến Van 's bakery mua chai có dấu hiệu cầu chứng Nestle' chai to giá US$ 17.00 (khoảng 15 EUR), nếu không tìm được thầy cho hay, tui email cho Thầy 1 chai ăn Tết:04:

Gần đây Cotsco có bán Maggi nắp màu vàng, có ghi Switzerland đàng hoàng , đọc một hồi thấy " product of China !!

Thầy hay đi Cotsco, coi chừng nghe Thầy, thấy rẻ mua về nhậu là không có ai post nhạc cũng hơi kẹt nghen :)
PS: Bửa kia, tui mua chai Maggi "Arome Saveur" ở tiệm Vân đến $20, đâu có $17 đâu? :sunrang:


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/maggi_1429220624.jpg

saomai
04-17-2015, 06:51 AM
Bài đọc sưu tầm công phu, nhạc đính kèm có giá trị..... Nhưng đọc xong hết bài, đứng dậy đi xiểng niểng, mắt mờ, tay chân run rẩy, muốn chít luôn...... :icon_banana:


Giá trị ở chỗ đó á Thầy :04:




PS: Bửa kia, tui mua chai Maggi "Arome Saveur" ở tiệm Vân đến $20, đâu có $17 đâu? :sunrang:


http://hoiquanphidung.com/userupload/img/maggi_1429220624.jpg

Bán cho nhà giàu ngu chi mà bán rẻ :04:

saomai
05-13-2015, 05:30 AM
<div class="title">Hoài Nam : NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT (22)
MEIGUI MEGUI WO AI NI (Rose Rose I Love You – Cánh Hồng Trung Quốc) – Chen Gexin</div>
<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image0014.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image001" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image001_thumb3.jpg" alt="clip_image001" border="0" height="346" width="354"></a></p>
<p>Trong bài kỳ trước, chúng tôi đã gửi tới độc giả TV&amp;BH bản <em>Shina No Yoru</em> (China Night – Chiều Tô Châu), một bài hát nổi tiếng của Nhật bị Hán tộc tẩy chay, nhưng lại được người Mỹ ưa chuộng, kỳ này chúng tôi viết về một ca khúc của Trung Hoa nhờ được một người Anh đặt lời, một người Mỹ hát mà trở nên nổi tiếng quốc tế, đó là bản <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em>, có tựa tiếng Anh là <em>Rose Rose I Love You</em>, trước năm 1975 được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa <em>Cánh Hồng Trung Quốc. </em></p>
<p>Trước khi viết về tác phẩm, xin viết về tác giả: Chen Gexin (1914-1961), một nhà viết ca khúc nổi tiếng của Trung Hoa. Cuộc đời và số phận của Chen Gexin có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời đắng cay và số phận hẩm hiu của nhà soạn nhạc Nga <strong>Boris Fomin</strong>, tác giả ca khúc <em>Dorogoj Dlinnoyu </em><em>(Those Were The Days – Tình ca du mục – Như lá thu vàng) </em>mà chúng tôi đã giới thiệu trước đây. Chỉ có một điểm khác biệt là câu chuyện của nhà họ Trần (Chen) ra vẻ có hậu hơn.</p>
<p>Chen Gexin xuất thân từ một danh gia vọng tộc đã khánh tận. Ra chào đời và lớn lên ở Thượng Hải, cùng với say mê âm nhạc, chàng phải dạy học để kiếm sống. Mang một phần máu Ấn-độ trong người, Chen Gexin được mô tả là một người rất điển trai, tính tình đáng mến, và có tâm hồn nghệ sĩ. Nghệ sĩ thì phải có “nàng thơ” (muse); nàng thơ của Chen Gexin là cô nữ sinh viên <strong>Jin Jiaoli</strong>, một tiểu thư cành vàng lá ngọc, hoa khôi của Đại học Thượng Hải. Bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình, Jin Jiaoli quyết định trao thân gửi phận cho chàng giáo viên 20 tuổi với hai bàn tay trắng. Một túp lều tranh hai trái tim vàng!</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image0031.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image003_thumb.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="337" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Chen Gexin</strong><strong> </strong><strong>(1914-1961)</strong><strong></strong></p>
<p>Năm 1941, thời gian quân Nhật chiếm đóng Trung Hoa, Chen Gexin bị bắt giam về tội sáng tác những bài ca ái quốc. Khi thế chiến thứ hai chấm dứt (1945), Chen được thả, rồi đưa gia đình tới sống ở Hương Cảng.</p>
<p>Tại đây, tài năng âm nhạc của Chen Gexin có điều kiện và môi trường để phát triển, nhờ đó cuộc sống tinh thần, vật chất của gia đình cũng ngày càng tốt đẹp hơn, cho tới một ngày nọ, khi Chen Gexin lại một lần nữa theo tiếng gọi của… lòng ái quốc, đưa vợ con trở về Thượng Hải để “góp phần xây dựng đất nước”!</p>
<p>Lúc đó là năm 1950, sau khi lực lượng dân quốc của Tưởng Giới Thạch thua chạy ra đảo Đài Loan, Mao Trạch Đông thâu tóm Hoa lục, thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, mở ra một kỷ nguyên được gọi là “Tân Trung Hoa”, kêu gọi người Hoa ở khắp nơi trên thế giới trở về cùng nhau xây dựng một nước Trung Hoa mới.</p>
<p>Bảy năm sau (1957), khi nhiệt huyết, lạc quan, hy vọng đã hoàn toàn biến mất trong lòng Chen Gexin, thì cũng là lúc ông bị chế độ liệt vào thành phần hữu huynh, bị đưa tới một trại “lao cải” ở tỉnh An Huy, và bốn năm sau (1961), chết vì kiệt sức. Khi ấy Chen Gexin mới 47 tuổi.</p>
<p><em>[LAO CẢI (laogai) là viết tắt của “lao động cải tạo” (laodong gaizao), dịch sang tiếng Anh là “</em><em>reform through labor<strong>”, </strong>thường được truyền thông tây phương gọi một cách ngắn gọn là “forced labor” (lao động cưỡng bách). Hình thức trại “lao cải” này khi được áp dụng tại Việt Nam đã được đổi tên thành trại “học tập cải tạo”, tiếng Anh gọi là “re-education camp”]</em></p>
<p>Một năm sau, Jin Jiaoli mới nhận được hung tin, lặn lội tới An Huy để cải táng, đưa xương cốt chồng về Thượng Hải. Theo lời người thân, sở dĩ Jin Jiaoli có đủ nghị lực để tiếp tục sống là nhờ âm nhạc – hơn 200 ca khúc của chồng và tác phẩm để đời của con trai.</p>
<p>Tới đây, nhân viết về ca khúc <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni (Rose Rose I Love You) </em>nổi tiếng của ông bố Chen Gexin, chúng tôi cũng xin phép đi ra ngoài đề để viết về tác phẩm bất hủ của trưởng nam <strong>Chen Gang</strong> (Trần Cương), đó là hợp tấu khúc dành cho vĩ cầm có tựa đề <strong><em>“Hồ điệp Tình nhân”</em></strong> (<em>Butterfly Lovers’ Violin Concerto</em>), nhạc khúc cổ điển mà cho tới nay vẫn được xưng tụng là tác phẩm tiêu biểu nhất của nền nhạc giao hưởng Trung Quốc.</p>
<p>“Hồ điệp Tình nhân” nhắc tới ở đây là cặp Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài. Vì hầu như độc giả nào cũng đều biết chuyện tình Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, thường được người tây phương gọi là “Romeo &amp; Juliet của phương đông”, chúng tôi xin miễn kể lại, mà chỉ nhắc tới cảnh cuối cùng, qua đó cặp Lương Chúc đã được hậu thế gọi là “Hồ điệp Tình nhân”:</p>
<p>Sau khi Lương Sơn Bá lâm trọng bệnh và qua đời, vào ngày Chúc Anh Đài phải lấy Mã Văn Tài theo sự sắp đặt của gia đình, khi đoàn đón dâu đi ngang qua mộ Lương Sơn Bá, một trận cuồng phong nổi lên ngăn cản đoàn đi tiếp. Chúc Anh Đài rời kiệu hoa đến trước mộ Lương Sơn Bá để cúng tế. Một tiếng sét đánh long trời, mộ phần Lương Sơn Bá bỗng mở ra; không một chút do dự, Chúc Anh Đài bước vào, cửa mộ đóng lại, và từ phía trong, một đôi bướm bay ra, quấn quít bên nhau, cùng bay về chân trời tự do, hạnh phúc.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image005.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image005_thumb.jpg" alt="clip_image005" border="0" height="378" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Chen Gang</strong><strong></strong></p>
<p>Chen Gang sinh năm 1935 tại Thượng Hải, có năng khiếu về âm nhạc nên được cha (Chen Gexin) truyền thụ từ nhỏ. Sau khi cùng gia đình sang Hương Cảng rồi lại trở về Thượng Hải, năm 1955, Chen Gang được thu nhận vào Thượng Hải Nhạc Viện (Shanghai Conservatory of Music), trường nhạc nổi tiếng nhất của Trung Hoa thời bấy giờ.</p>
<p>Năm 1958, khi đang học năm thứ ba tại nhạc viện, Chen Gang nhận được chỉ thị viết một bản hòa tấu cổ điển để trình diễn ra mắt vào năm sau, nhân dịp kỷ niệm đệ thập chu niên ngày thành tập “Tân Trung Hoa”, tức nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Kết quả là bản hợp tấu khúc “Hồ điệp Tình nhân” dành cho vĩ cầm (Butterfly Lovers’ Violin Concerto), còn được gọi là <em>“Lương Chúc tiểu đề cầm hiệp tấu khúc”</em>.</p>
<p>Điều lạ lùng là Chen Gang đã viết tác phẩm tuyệt vời này – với sự cộng tác của He Zhanhao (Hà Chiêm Hào) – trong khoảng thời gian tuyệt vọng nhất của gia đình mình. Cha thì đã bị bắt đi lao động cải tạo ở tỉnh An Huy từ năm 1957, người em trai kế Chen Keng, một sinh viên xuất sắc tại Phục Đán Đại Học (Fudan University, nổi tiếng nhất của Thượng Hải) thì mới bị cưỡng bách tới làm lao động trong một trại nuôi heo ở tận tỉnh Giang Tây, bà mẹ Jin Jiaoli xuất thân là một tiểu thư cành vàng lá ngọc, liễu yếu đào tơ, nay phải bươn chải để kiếm sống, nuôi bản thân mình, cô con gái Chen Xiao Li, và Chen Dong, người con trai út sẽ không bao giờ được thấy mặt cha.</p>
<p>Cho nên chỉ có thể giải thích chính nỗi thống khổ, đau đớn, tuyệt vọng từ đáy lòng đã trở thành chất liệu cho Chen Gang viết hợp tấu khúc bất tử dài gần 30 phút này, để gửi gấm những gì không thể viết ra thành chữ, nói ra thành lời: đó là mưu cầu hạnh phúc và khát vọng tự do – tự do như như đôi bướm Lương Chúc trong huyền thoại.</p>
<p>Giá trị và vị trí của <em>Butterfly Lovers’ Violin Concerto, </em>tức <em>Lương Chúc tiểu đề cầm hiệp tấu khúc</em>, trong nền âm nhạc hiện đại, ở Trung Quốc cũng như hải ngoại, đã được thể hiện, chứng minh qua những tác phẩm thuộc nhiều thể loại đặt nền tảng trên nhạc khúc này. Ngoài bốn cuốn phim điện ảnh, một vở opera của Hương Cảng, một vở ballet của Mỹ (<em>Butterfly Lovers</em>, do Nhạc viện North Carolina trình diễn lần đầu năm năm 1982), Butterfly Lovers’ Violin Concerto còn được giới yêu nhạc cổ điển xem là một sự phối hợp tài tình giữa hình thức “concerto” của tây phương với giai điệu của đông phương.</p>
<p>Có thể nói, sự tài tình ấy đã được thể hiện tới mức tuyệt vời qua tiếng vĩ cầm của <strong>Lu Si-qing</strong>, mà nhân đây chúng tôi xin giới thiệu video phần một của Butterfly Lovers’ Violin Concerto do danh cầm này trình tấu cùng Dàn nhạc giao hưởng Vienna tại Golden Hall của thủ đô âm nhạc thế giới.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=hVwaPb4xyg0"><span style="font-weight: bold;">Butterfly Lovers Violin Concerto 1st – Lu Si-qing – YouTube</span></a></em></h3>
<p>Trở lại với năm 1959, “Lương Chúc tiểu đề cầm hiệp tấu khúc” đã nổi tiếng ngay sau khi được trình diễn lần đầu trong dịp kỷ niệm đệ thập chu niên ngày quốc khánh của Trung Cộng. Giai điệu của nó được các đài phát thanh truyền đi khắp nước, tới tận trại “lao cải” ở tỉnh An Huy, nơi ông bố Chen Gexin đang lao động khổ sai.</p>
<p>Không cần phải viết ra, chúng ta cũng có thể tưởng tượng nỗi xúc động của Chen Gexin trước tài năng của người trưởng nam mà ông đã đặt nhiều kỳ vọng. Ông xin Ban giám đốc trại cho phép Chen Gang gửi cho mình một bản sao của “Lương Chúc tiểu đề cầm hiệp tấu khúc” để ông được đọc tận mắt những dòng nhạc bất hủ của con trai. Tiếc thay, cho tới khi Chen Gexin chết vì kiệt sức vào hai năm sau đó (1961), ông vẫn không được thỏa nguyện.</p>
<p>Về phần Chen Gang sau này trở thành Giáo sư tại Thượng Hải Nhạc Viện, nơi xuất thân của ông.</p>
<p>* * *</p>
<p>Tới đây, xin đi vào đề tài chính: ca khúc <em>Rose Rose I Love You </em>(<em>Cánh Hồng Trung Quốc). </em></p>
<p>Trong tổng số khoảng 200 ca khúc Chen Gexin viết trong hai thập niên 1930-1940 dưới nhiều bút hiệu khác nhau, với người yêu nhạc đương thời, <em>Rose Rose I Love You</em> không phải là ca khúc được ưa chuộng nhất. Hai bản phổ biến nhất của Chen Gexin phải là <em>Shanghai at Night </em>và <em>Wishing You Happiness and Prosperity</em> (tựa nguyên thủy là <em>Gongxi gongxi</em>, phiên âm Hán Việt là “cung hỉ, cung hỉ”, có nghĩa là Congratulations).</p>
<p>Còn <em>Rose Rose I Love You </em>có tựa nguyên thủy là<em> Meigui Meigui Wo Ai Ni</em>,<em> </em>cũng có khi viết là<em> Mei Kwei Mei Kwei Wo Ai Ni</em>, phiên âm Hán Việt là “Mai Quế Mai Quế Ngộ Ái Nị” (người Tàu gọi hoa hồng là “mai quế”).</p>
<p><em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> được liệt vào thể loại ca khúc thời đại (shidaiqu: thời đại ca) và được nữ danh ca <strong>Yao Lee</strong> (Diêu Lý) trình bày năm 1940 tại Thượng Hải để làm nhạc phân cảnh cho cuốn phim <em>Singing Girl</em>, và qua năm 1941 được hãng đĩa EMI-Pathé phát hành.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image007.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image007_thumb.jpg" alt="clip_image007" border="0" height="280" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Yao Lee</strong><strong></strong></p>
<p>Cũng nên biết, Yao Lee (đôi khi còn được viết thành Yao Li, hoặc Yiu Lei) nổi tiếng cùng thời với <strong>Li Xianglan</strong> (Lý Hương Lan) – người hát bản <em>Shina No Yoru</em> mà chúng tôi đã giới thiệu trong bài kỳ trước. Yao Lee được mệnh danh là “silvery voice”, cùng với Li Xianglan được nằm trong danh sách 7 đại minh tinh ca nhạc của Trung Hoa trong thập niên 1940. Sau khi quân cộng sản chiếm Hoa Lục, Yao Lee sang Hương Cảng hành nghề, và được mệnh danh là “Patti Page của Hương Cảng” vì giọng hát ngọt ngào của bà.</p>
<p>Nguyên nhân khiến <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> tới thập niên 1950 bỗng trở thành ca khúc thời đại của Trung Hoa phổ biến nhất trong tập thể Hán tộc cũng như với người ngoại quốc, khá tình cờ, độc đáo.</p>
<p>Chuyện bắt đầu với ca, nhạc, kịch sĩ kiêm chủ xướng (host) chương trình phát thanh Úc gốc Anh <strong>Wilfrid Thomas</strong> (1904-1991).</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image009.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image009_thumb.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="403" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Wilfrid Thomas</strong><strong> </strong><strong></strong></p>
<p>Ra chào đời tại xứ Wales thuộc vương quốc Anh, theo gia đình di dân sang Úc từ nhỏ, Wilfrid Thomas có một giọng nam trung-trầm (bass-baritone) thiên phú, lẫn khiếu đàn dương cầm. Năm 14 tuổi, vì gia cảnh khó khăn, Wilfrid Thomas phải làm công việc lặt vặt trong các văn phòng để trả tiền học đàn, hát.</p>
<p>Năm 18 tuổi, khi ban hợp xướng Westminster Glee Singers nổi tiếng của Anh sang Úc lưu diễn, Wilfrid Thomas được mời đảm trách phần giọng trầm (bass). Năm 20 tuổi, Wilfrid Thomas được đài phát thanh 2FC (nay là đài ABC – đài phát thanh quốc gia) ở Sydney thu nhận, không chỉ làm công việc của một xướng ngôn viên mà còn đàn dương cầm, ca hát và đóng thoại kịch.</p>
<p>Năm 26 tuổi (1930), khi ban hợp xướng Westminster Glee Singers trở lại Úc, Wilfrid Thomas bỏ công việc ở đài phát thanh để cùng đi lưu diễn, và tới cuối năm đó, theo họ về Anh quốc. Từ đó cho tới đầu thập niên 1950, Wilfrid Thomas vừa ca hát vừa làm DJ (người giới thiệu nhạc), vừa cộng tác với chương trình thoại kịch của đài BBC, vừa… đi giang hồ.</p>
<p>Chính trong thời gian đi giang hồ, đầu năm 1951, khi tới Hương Cảng, Wilfrid Thomas đã được nghe ca khúc <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> do Yao Lee thu đĩa năm 1940, và tìm mua cho bằng được tại một tiệm bán đĩa hát cũ trong một đường hẻm.</p>
<p>Sau khi được Wilfrid Thomas đem về Anh quốc, ai nghe bản <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> cũng thích, và nhà xuất bản nhạc Chappell Music đã đề nghị Wilfrid Thomas đặt lời bằng tiếng Anh cho ca khúc này. Kết quả, người ta đã có một ca khúc với nội dung hoàn toàn khác với ca khúc nguyên thủy (bằng tiếng quan thoại), ngoại trừ tựa đề <em>Rose Rose I Love You </em>được dịch nguyên văn từ <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni (</em> Mai Quế Mai Quế Ngộ Ái Nị)<em></em></p>
<p>Để quý độc giả có thể so sánh, chúng tôi xin ghi ra bản dịch Anh ngữ của bài hát nguyên thủy, và bản lời Anh do Wilfrid Thomas đặt.</p>
<p><strong>Lời dịch từ </strong><strong><em>Meigui Meigui Wo Ai Ni:</em></strong><strong> </strong></p>
<p><em>Rose, Rose, so stunning!<br>
Rose, Rose, so ravishing!<br>
You open in late summer on tip of a branch,<br>
Rose, Rose, I love you!</em></p>
<p><em>Rose, Rose, you touch me deeply,<br>
Rose, Rose, my love is true.<br>
You open in late summer beside the thorns,<br>
Rose, Rose, I love you!</em></p>
<p><em>I pledge my heart, my tender love,<br>
Your pure brilliance radiates the whole world.<br>
I pledge my heart, my tender love,<br>
Your pure radiance illuminates the world.</em></p>
<p><em>Rose, Rose, so stunning!<br>
Rose, Rose, so ravishing!<br>
Opens in late summer on tip of a branch,<br>
Rose, Rose, I love you! </em></p>
<p><em>Rose, Rose, your limbs so slender,<br>
Rose, Rose, your thorns so sharp.<br>
Today stormy rains may ravage you,<br>
Bruising your limbs and graceful body.</em></p>
<p><em>Rose, Rose, your heart is hard.<br>
Rose, Rose, your thorns are sharp.<br>
In future stormy rains may ravage you,<br>
May crush your mellow fruit.</em></p>
<p><strong>Lời hát “</strong><strong><em>Rose, Rose I Love You” </em></strong><strong>của Wilfrid Thomas:</strong></p>
<p><em>Rose, Rose I love you with an aching heart.<br>
What is your future, now we have to part?<br>
Standing on the jetty as the steamer moves away,<br>
Flower of Malaya, I cannot stay.<br>
Make way, oh, make way for my Eastern Rose.<br>
Men crowd in dozens everywhere she goes.<br>
In her rickshaw on the street or in a cabaret,<br>
“Please make way for Rose,” you can hear them say.<br>
All my life I shall remember,<br>
Oriental music and you in my arms.<br>
Perfumed flowers in your tresses,<br>
Lotus-scented breezes and swaying palms.<br>
Rose, Rose I love you with your almond eyes.<br>
Fragrant and slender ‘neath tropical sky.<br>
I must cross the seas again and never see you more.<br>
Way back to my home on a distant shore.<br>
(All my life I shall remember,)<br>
</em><em>(Oriental music and you in my arms.)<br>
(Perfumed flowers in your tresses,)<br>
(Lotus-scented breezes and swaying palms.)<br>
</em><em>Rose, Rose I leave you, my ship is in the bay.<br>
Kiss me farewell now, there’s nothin’ to say.<br>
East is East and West is West, our worlds are far apart.<br>
I must leave you now but I leave my heart.<br>
Rose, Rose I love you with an aching heart.<br>
What is your future, now we have to part?<br>
Standing on the jetty as the steamer moves away,<br>
Flower of Malaya, I cannot stay.<br>
(Rose, Rose I love you, I cannot stay.)</em></p>
<p>Như độc giả có thể thấy, khác biệt cơ bản giữa hai lời hát là trong khi <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>ví von một “bóng hồng Thượng Hải” nào đó với hoa hồng, thì <em>Rose Rose I Love You</em> là lời thở than tiếc nuối của một chàng lính Anh phải từ giã bán đảo Mã-lai, để lại người đẹp phương đông tên Rose mà chàng gọi là “<em>Flower of Malaya”.</em></p>
<p>Một trong những cái tài tình của Wilfrid Thomas là ông đã dựa theo cách phát âm của “<em>Meigui Meigui” </em>để biến nó thành <em>“make way make way” </em>trong tiếng Anh<em> (Make way, oh make way for this Eastern rose).</em></p>
<p>Nhưng tại sao Wilfrid Thomas lại biến “bông hồng Thượng Hải” trong ca khúc nguyên thủy thành “bông hồng Mã-lai” trong ca khúc lời Anh?</p>
<p>Bởi “bông hồng Mã-lai” được nhắc tới ở đây là một nhân vật có thật: <strong>Rose Chan</strong>, một nữ vũ công sexy diễm tình nổi tiếng bậc nhất bán đảo Mã-lai, thần tượng nhục thể của hầu hết các chàng lính Anh lính Mỹ đồn trú tại Mã-lai và Tân-gia-ba sau đệ nhị thế chiến.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image011.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image011" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image011_thumb.jpg" alt="clip_image011" border="0" height="411" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Rose Chan</strong><strong></strong></p>
<p>Đầu năm 1951,<em> Rose Rose I Love You </em>được nam ca sĩ <strong>Frankie Laine</strong> của Mỹ thu đĩa, do hãng đĩa Columbia phát hành. Nhắc tới Frankie Laine, có lẽ thính giả ở Sài Gòn năm xưa chưa quên giọng hát của chàng qua hai ca khúc nổi tiếng trong hai cuốn phim cao-bồi bất hủ: <em>Do Not Forsake Me, Oh My Darling</em> (phim High Noon) và <em>Gunfight at the O.K. Corral</em> (phim Gunfight at the O.K. Corral).</p>
<p>Vừa được tung ra,<em> Rose Rose I Love You </em>đã mau chóng trở thành một hiện tượng, lên tới hạng 3 trên bản xếp hạng toàn quốc Hoa Kỳ (Billboard), và cho tới nay, vẫn được ghi nhận là bài hát (có nguồn gốc) Trung Hoa duy nhất được lên bảng xếp hạng này.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image013.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image013" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image013_thumb.jpg" alt="clip_image013" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>&nbsp;</p>
<p align="center"><strong>Frankie Laine</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (1): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Frankie Laine</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/01-Rose-Rose-I-love-you-Frankie-Laine-Nh-c-Anh-cnriver222.mp3&amp;titles= &amp;artists=01-Rose Rose I love you – Frankie Laine Nh c Anh cnriver(2)(2)(2)&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp; bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;volt rack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp; rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticon hover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;trac ker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Cũng trong năm 1951, có hai ca sĩ nổi tiếng khác của Mỹ thu đĩa <em>Rose Rose I Love You </em>và đều lên bảng xếp hạng,<em> </em>là Billy Morrow (hãng đĩa RCA, hạng 8) và Gordon Jenkins (hãng đĩa Decca, hạng 21).</p>
<p>Trước sự ăn khách của <em>Rose Rose I Love You, </em>tới cuối năm 1951, hãng đĩa Columbia đã cho phát hành ở Mỹ ca khúc nguyên thủy <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>do Yao Lee thu đĩa tại Thượng Hải năm 1940. Nhưng không hiểu vì nguyên nhân gì, trên đĩa hát này, hãng Columbia đổi tên “Yao Lee” thành “Miss Hue Lee”.</p>
<p>Trong khi đó tại Anh quốc, một tác giả khác là John Turner đã đặt lời khác cho <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>với tựa <em>“May Kway”. </em>Năm 1950,<em> </em>bản này được nữ danh ca Petula Clark thu đĩa và lên tới hạng 16 trên bảng xếp hạng của Anh quốc.</p>
<h4><span style="font-weight: bold;">Video:</span></h4>
<h3><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=mNFoU29mRYY"><span style="font-weight: bold;">Petula Clark May Kway YouTube</span></a></em><em></em></h3>
<p>Có một chi tiết lý thú (và hơi đáng buồn) liên quan tới tác quyền của <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>là khi viết ca khúc này<em>, </em>Chen Gexin<em> </em>đã sử dụng một trong nhiều bút hiệu khác của ông là<em> <strong>“</strong></em><strong>Lin Mei”</strong>; cho nên sau khi bản <em>Rose Rose I Love You </em>trở nên ăn khách mà không ai được biết đích xác Lin Mei là ai, hiện đang sống ở đâu (nhắc lại: lúc đó Chen Gexin đã đưa gia đình từ Hương Cảng trở về Thượng Hải để “góp phần xây dựng đất nước”), nhà xuất bản nhạc Chappell Music đã mở một trương mục để cất giữ tiền tác quyền của “tác giả hay các tác giả ca khúc do Miss Hue Lee hát, rất có thể hiện đang sống ở một nơi nào đó tại Hoa Lục”.</p>
<p>Hiện nay, các thông tin liên quan tới <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni – Rose Rose I Love You </em>chỉ cho biết sau khi Chen Gexin chết vì kiệt sức trong trại “lao cải”, người con trai út của ông là Chen Dong khi sang Hoa Kỳ tu nghiệp, đã gặp gỡ Frankie Laine, và đôi bên duy trì một quan hệ thân hữu; còn về số tiền tác quyền của bản <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>do Chappell Music gửi trong ngân hàng, không nghe nói có được trao lại cho con cháu của tác giả hay không.</p>
<p>Nhưng thiết nghĩ chỉ nội việc <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>trở thành ca khúc Trung Hoa nổi tiếng quốc tế, cũng đã đủ để Chen Gexin ngậm cười nơi chín suối – chưa kể tới vị trí trang trọng mà nền nhạc giao hưởng đã dành cho <em>Butterfly Lovers’ Violin Concerto</em>, tức Lương Chúc tiểu đề cầm hiệp tấu khúc, của trưởng nam Chen Gang.</p>
<p>Kể từ ngày <em>Rose Rose I Love You </em>được Frankie Laine thu vào đĩa nhựa cho tới nay, ca khúc này – lời Anh hoặc lời Hoa – đã được hàng chục ca sĩ nổi tiếng thu đĩa, được hát trong nhiều cuốn phim; chỉ có điều hơi ngược đời là phải đợi sau khi <em>Rose Rose I Love You</em> trở thành một hiện tượng tại phương tây, <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni </em>mới được ưa chuộng (tới mức độ hiện nay) tại phương đông.</p>
<p>Một trong những ca sĩ đầu tiên của Á châu thu đĩa bản<em> Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> lời Hoa là nam thần tượng điện ảnh &amp; ca nhạc vắn số <strong>Kyu Sakamayo</strong> (1941-1985) của Nhật, cũng là người hát bản <em>Shina No Yoru</em> mà chúng tôi đã giới thiệu trong bài kỳ trước.</p>
<p>Người kế tiếp là kỳ nữ (cũng vắn số) <strong>Anita Mui </strong>(1963-2003, tên Hán Việt: Mai Diễm Phương), hát trong cuốn phim <em>Kỳ tích</em> (Miracles) do nàng thủ vai chính bên cạnh Jackie Chan (Thành Long) năm 1988.</p>
<p>Gầy đây nhất, <em>Meigui Meigui Wo Ai Ni</em> đã được trình bày qua tiếng hát (và tiếng đàn guitar) của <strong>Joanna Wang</strong> (Wang Ruolin: Vương Nhược Lâm), nữ ca nhạc sĩ trẻ tài hoa nổi tiếng bậc nhất hiện nay của Đài Loan, rất được ái mộ tại Đông Nam Á, Nhật Bản, và cả Hoa Kỳ.</p>
<p>Ra chào đời tại Đài Bắc năm 1988 nhưng lớn lên ở Los Angeles, Joanna Wang đã được hấp thụ tinh hoa của nền nhạc jazz, pop, và cả du ca (folk) của tây phương. Cô có khả năng chơi đàn guitar, dương cầm, sáng tác và hát bằng tiếng Anh, Hoa, Nhật.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image015.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image015" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image015_thumb.jpg" alt="clip_image015" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Joanna Wang</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (2): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Anita Mui </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/02-RoseRoseILoveYou-AnitaMui.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-RoseRoseILoveYou-AnitaMui&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (3): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Joanna Wang </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/03-RoseILoveYou-JoannaWang.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-RoseILoveYou-JoannaWang&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE 5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0 xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightb ghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover= 0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0x DDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Mặc dù không được biết một cách đích xác, chúng tôi cũng tin rằng bản <em>Rose Rose I Love You</em> được du nhập vào Việt Nam sau khi ca khúc này được Frankie Laine thu vào đĩa nhựa (năm 1951), và được phổ biến dưới hình thức hòa tấu, thường là đàn guitar với ban nhạc nhẹ.</p>
<p>Như một số độc giả có thể còn nhớ, tại miền nam Việt nam, từ giữa thập niên 1950 trở đi, bản <em>Rose Rose I Love You</em> qua tiếng đàn guitar đã trở thành “nhạc khúc cầu chứng”, làm nhạc đệm cho các màn ảo thuật trên sân khấu hoặc trong các gánh xiếc.</p>
<p><strong><em>- Phụ lục (4): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Vô Thường<em> </em>(guitar) </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/04-canh-hong-tq.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-canh hong tq&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;le ftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp; volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0 x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF &amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;b order=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Trước năm 1975,<em> Rose Rose I Love You</em> được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa Cánh hồng Trung Quốc, dịch từ tựa đề không chính thức “China Rose” của ca khúc này.</p>
<p>Cũng nên biết, bản <em>Rose Rose I Love You</em> có hai tựa đề không chính thức bằng tiếng Anh là “Shanghai Rose” và “China Rose”. Nói là không chính thức bởi vì trong danh mục các ca khúc quốc tế, không hề có ca khúc “Shanghai Rose”, còn “China Rose” nếu có thêm mẫu tự “s” ở phía sau (China Roses) là tên một ca khúc của nữ ca nhạc sĩ Enya của Anh quốc.</p>
<p>Trong các tự điển Anh, Pháp ngữ cũng như định nghĩa trên Internet, “China Rose” không có nghĩa là “hoa hồng Trung Quốc” mà là tên của một chủng loại dâm bụt (Hibiscus ‘China Rose’, hoặc Hibicus ‘Rose de Chine’)</p>
<p><strong><em>Cánh hồng Trung Quốc – PHẠM DUY</em></strong></p>
<p><em>Kìa một nàng Trung Hoa </em><br>
<em>Răng trắng tinh như là ngà</em><br>
<em>Nụ cười tươi như hoa thắm</em><br>
<em>Cô em tha thướt lượt là</em><br>
<em>Lòng tôi thêm vấn vương</em><br>
<em>Những khi chiều tà nhìn cánh chim qua</em><br>
<em>Mộng được như đôi chim bay tới chân trời xa.</em><br>
<em>* * *</em><br>
<em>Cớ sao những chiều ngắm mây lững lờ</em><br>
<em>Nàng Trung Hoa đắm chìm trong mơ, như thẫn thờ</em><br>
<em>Cớ sao cô buồn, cớ sao cô sầu</em><br>
<em>Sầu vì cô nhớ bờ sông Dương</em><br>
<em>Sầu vì đau thương ?</em><br>
<em>* * *</em><br>
<em>Kìa nàng Trung Hoa xinh</em><br>
<em>Đôi mắt em như hạt huyền</em><br>
<em>Nàng nhìn tôi không nói</em><br>
<em>Khiến tôi lo lắng ưu phiền</em><br>
<em>Lòng tôi như bóng trăng</em><br>
<em>Sẽ soi bên nàng trong giấc mơ tiên</em><br>
<em>Để lòng cô say mê mãi khúc ca triền miên.</em></p>
<p>Theo bài viết của một tác giả trong nước, Phạm Duy đặt lời Việt cho bản Cánh hồng Trung Quốc vào đầu thập niên 1940, tuy nhiên theo danh sách ca khúc Phạm Duy trên Wikipedia, và cũng là theo ký ức của chúng tôi, ông làm công việc này vào đầu thập niên 1970, thời gian ông đặt lời Việt cho gần một trăm ca khúc ngoại quốc thuộc đủ mọi thể loại<em> – </em>bán cổ điển, nhạc pop, nhạc rock, dân ca, v.v…<em> </em></p>
<p>Cũng theo ký ức của chúng tôi, ngày ấy Thanh Lan là một trong những ca sĩ đầu tiên thu băng Cánh hồng Trung Quốc. Nhưng ca sĩ hát đạt nhất có lẽ là Kiều Nga, người mà giọng hát cứ “trẻ mãi không già”, rất thích hợp với giai điệu vui tươi và lời hát dí dỏm của ca khúc lời Việt.</p>
<p>Sau năm 1975, Cánh hồng Trung Quốc ngày càng được ưa chuộng, trong nước cũng như ở hải ngoại, được nhiều ca sĩ thu đĩa, như Kim Anh, Mạnh Đình, Thái Doanh Doanh…, và đặc biệt là tiếng hát trẻ con của Thu Ngọc trong CD ca nhạc thiếu nhi “Búp Bê Bằng Bông”, với lời hát của một tác giả khác nhắm vào đối tượng thiếu nhi, nghe thì vui tai nhưng không được ý nghĩa như trong bản lời Việt của Phạm Duy.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image016.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image016" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/clip_image016_thumb.jpg" alt="clip_image016" border="0" height="205" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Kiều Nga</strong><strong></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>- Phụ lục (5): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Thanh Lan </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/05-CanhHongTrungQuoc-ThanhLan_38meh.mp3&amp;titles= &amp;artists=05-CanhHongTrungQuoc-ThanhLan_38meh&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg =0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltra ck=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;ri ghtbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonho ver=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracke r=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (6): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Kiều Nga</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/06-kieu-nga.mp3&amp;titles= &amp;artists=06-kieu nga&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (7): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Thu Ngọc</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/07-thu-ngoc.mp3&amp;titles= &amp;artists=07-thu ngoc&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>HOÀI NAM </strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>- Phụ lục (1): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Frankie Laine</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_8" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/01-Rose-Rose-I-love-you-Frankie-Laine-Nh-c-Anh-cnriver222.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (1): Rose Rose I Love You Frankie Laine&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5 &amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2 F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghove r=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFF FFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDD D&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (2): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Anita Mui </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_9" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/02-RoseRoseILoveYou-AnitaMui.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (2): Rose Rose I Love You Anita Mui &amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;left bg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;vo lslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x9 99999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp;l oader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;bor der=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (3): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Joanna Wang </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_10" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/03-RoseILoveYou-JoannaWang.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (3): Rose Rose I Love You Joanna Wang &amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;left bg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;vo lslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x9 99999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp;l oader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;bor der=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (4): Rose Rose I Love You, </em></strong><strong>Vô Thường<em> </em>(guitar) </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_11" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/04-canh-hong-tq.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (4): Rose Rose I Love You Vô Thường (guitar) &amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;left bg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;vo lslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x9 99999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp;l oader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;bor der=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (5): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Thanh Lan </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_12" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/05-CanhHongTrungQuoc-ThanhLan_38meh.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (5): Cánh hồng Trung Quốc Thanh Lan &amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;left bg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;vo lslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x9 99999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp;l oader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;bor der=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (6): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Kiều Nga</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_13" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2013/09/06-kieu-nga.mp3&amp;titles= &amp;artists=- Phụ lục (6): Cánh hồng Trung Quốc Kiều Nga&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>- Phụ lục (7): Cánh hồng Trung Quốc, </em></strong><strong>Thu Ngọc</strong></p>
<p>

saomai
06-09-2015, 06:52 AM
TENNESSEE WALTZ (Điệu Luân Vũ Dang Dở) – Stewart & King
Hòai-Nam


http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image002_thumb14.jpg

Kỳ này, trong bài cuối cùng về những ca khúc dân gian nổi tiếng quốc tế được đặt lời Việt, chúng tôi xin gửi tới độc giả một trong những bản “country music” (nhạc đồng quê) phổ biến nhất, được ưa chuộng nhất của Hoa Kỳ, đó là bản Tennessee Waltz, trước năm 1975 đã được một số tác giả đặt lời Việt dưới các tựa Điệu luân vũ dang dở, Điệu buồn, và Tình mong manh.

Có thể viết trong số các quốc gia phương tây, Hoa Kỳ thuộc hàng “trẻ” nhất – lập quốc cách đây mới hơn 200 năm – nhưng lại có một nền nhạc dân gian phong phú bậc nhất. Có ba nguyên nhân chính: tính cách đa dạng của nguồn gốc cư dân – tiến trình lập quốc đầy huyền thoại – và những ưu đãi của thiên nhiên đã tạo thuận lợi cho sự phát triển nền nghệ thuật dân gian, trong đó có ca nhạc.

Tính cách đa dạng ấy nằm ngay trong danh xưng mà người Trung Hoa đã dịch từ chữ “United States of America”: Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi xin nhấn mạnh: nguyên văn trong tiếng Hán là “Hiệp Chúng Quốc” chứ không phải “Hiệp Chủng Quốc” như phần lớn người Việt hiện đang sử dụng sai. “Chúng” ở đây là “people”, còn “chủng” là “races”.

Chính vì tính cách phong phú của nền nhạc dân gian Hoa Kỳ (American folk music), ít ra cũng phải mất đến 5, 7 kỳ mới có thể điểm qua đầy đủ các thể loại, như bluegrass, western music, country music, gospel, old time music, jud bands, Appalachian folk, blues, Cajun, Native American music… của cư dân gốc Âu châu, Phi châu, Mễ-tây-cơ, và người da đỏ địa phương. Cho nên trong phạm vi bài này, nhân viết về ca khúc Tennessee Waltz, chúng tôi chỉ đề cập tới country music (nhạc đồng quê).

Nhưng trước khi đề cập tới country music cũng phải viết sơ qua về Western music (nhạc cao-bồi Viễn tây) bởi vì một nửa nguồn gốc của country music là từ Western music mà ra.

Western music được viết bởi, và viết về những người tới định cư tại miền Viễn tây của Hoa Kỳ và Gia-nã-đại. Thể loại ca khúc này chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhạc dân gian Anh-cát-lợi, Tô-cách-lan và Ái-nhĩ-lan, với nội dung ca tụng cuộc sống giang hồ của các chàng cao-bồi (cowboy), từ những rặng núi đá hùng vĩ cho tới những thảo nguyên bất tận.

Như những người thích xem phim cao-bồi Viễn tây (Western movies) còn nhớ, vào thời vàng son của thể loại phim này (đầu thập niên 1950 tới đầu thập niên 1960), theo thông lệ gần như một sự bắt buộc, trong mỗi cuốn phim phải có ít nhất một nhạc khúc, ca khúc liên quan tới cốt truyện thì mới “đúng điệu phim cao-bồi Viễn tây”, chẳng hạn trong các phim High Noon (1952), Gunfight at OK Carol (1957), Rio Bravo (1959), The Magnificent Seven (1960), The Alamo (1960)…

Về sau, tới thời “cao-bồi Texas”, Western music trở nên phong phú hơn do chịu ảnh hưởng nhạc dân gian của người Mễ-tây-cơ sống tại các tiểu bang tây nam Hoa Kỳ mà nhạc cụ chính là cây đàn guitar.

Ca khúc “cao-bồi Texas” điển hình nhất là bản El Paso, cho tới nay vẫn luôn luôn đứng đầu danh sách ca khúc Western music được ưa chộng nhất. El Paso là một sáng tác của ca nhạc sĩ nổi tiếng Marty Robbins (1925-1982), do chính ông thu đĩa năm 1959, và đã đoạt giải âm nhạc Grammy năm 1961 dành cho thể loại “nhạc cao-bồi Viễn tây và nhạc đồng quê” (Western music & country music).



http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image003_thumb1.jpg

Nội dung bản El Paso – còn có tựa không chính thức là “Feleena” – là lời tự thuật của một chàng cao-bồi, trước kia đem lòng yêu Feleena, một vũ nữ Mễ-tây-cơ đầy sức mê hoặc của quán rượu Rosa’s Cantina ở thành phố El Paso, tiểu bang Texas. Khi có một tay cao-bồi khác tán tỉnh Feleena, chàng ta đã thách thức đấu súng, bắn gục đối thủ, rồi lên ngựa đào thoát, nhưng từ đó trong lòng luôn mang nặng nỗi ân hận chỉ vì một cô gái lẳng lơ, mà mình giết một mạng người.

Phụ lục (1): El Paso, Marty Robbins
http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/01-ElPaso-MartyRobbins.mp3

Tới đây, nói về country music, một thể loại ca khúc dân gian xuất phát từ các tiểu bang miền nam của Hoa Kỳ, đa số là các tiểu bang nông nghiệp. Về hình thức, country music là một biến thể của Western music phối hợp với Appalachian folk, tức nền nhạc dân gian truyền thống của vùng núi Appalachian Mountains, gồm các tiểu bang Kentucky, Tennessee, Virginia, Maryland, West Virginia, North Carolina, và một phần của các tiểu bang Georgia, South Carolina, Pennsylvania, và Ohio.

Country music được hình thành vào thập niên 1920 tại Atlanta, thủ phủ của tiểu bang Georgia và cũng là một trung tâm văn hóa của miền nam Hoa Kỳ. Georgia, với những cánh đồng trồng bông vải (cotton) bất tận, đã thu hút di dân từ các tiểu bang vùng núi Appalachian Mountains, những người không chỉ cống hiến sức lao động mà còn đem theo cả nền nhạc dân gian truyền thống của họ. Thời gian đầu, country music bị gọi một cách không mấy trân trọng là “hillbilly music”.

Theo Giáo sư Tiến sĩ Sử học Anthony Harkins của Đại học Western Kentucky, tác giả cuốn Hillbilly: A Cultural History of an American Icon, chữ “hillbilly” là từ chữ “Hill-Billie” mà ra. “Hill-Billie” nguyên là tiếng lóng, xuất hiện lần đầu tiên trên giấy trắng mực đen vào năm 1900 trong một bài viết trên tờ New York Journal, được định nghĩa một cách lý thú và… dễ nể như sau:

“Một Hill-Billie là một nam công dân da trắng tự do và ngang tàng ở tiểu bang Alabama, sống ở trên các ngọn đồi, muốn ăn mặc ra sao thì mặc, muốn nói năng như thế nào thì nói, uống rượu whiskey bất cứ lúc nào anh ta có được, và rút súng ra bắn bất cứ lúc nào anh ta nổi hứng!”

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image0052.jpg

Mãi tới thập niên 1940, chữ “country music” mới được chính thức sử dụng để thay thế chữ “hillbilly music”. Và từ đó, “country music” đã dần dần trở thành thể loại nhạc dân gian phổ biến nhất, được ưa chuộng nhất trong quảng đại quần chúng Mỹ, và với người ngoại quốc, thường được xem là đặc trưng của nền nhạc dân gian Hoa Kỳ.

Theo bách khoa tự điển Wikilepdia, thống kê năm 2009 cho thấy tại Hoa Kỳ, “country music” là thể loại ca khúc được nghe nhiều nhất từ các đài phát thanh trong giờ cao điểm lưu thông buổi chiều, và đứng hạng nhì trong giờ cao điểm buổi sáng.

Hiện nay, mặc dù tại giải âm nhạc Grammy của Hoa Kỳ, tên gọi của giải thưởng vẫn là “Western music & country music” (nhạc cao-bồi Viễn tây và nhạc đồng quê) nhưng trên thực tế, ngày nay “Western music” đã không còn được xem là một thể loại riêng biệt nữa, mà chỉ là một phần trong nền nhạc “modern country music” (nhạc đồng quê hiện đại).

Gọi là “hiện đại” bởi vì từ hình thức tới nội dung đã được hiện đại hóa để thu hút mọi thành phần đối tượng. Về hình thức, ngoài những nhạc cụ truyền thống như violin, banjo, guitar thùng, khẩu cầm (harmonica), còn có thêm guitar điện, guitar bass, hạ-uy-cầm, trống, kèn…; về nội dung, không còn chỉ là những ca khúc “kể truyện” cuộc sống ở đồng quê hay kiếp sống phiêu bạt của các chàng cao-bồi, mà còn là những ca khúc tình cảm.

Và quan trọng không kém là cách hát, thay vì hát “giọng mũi” đúng điệu country music truyền thống (Bob Dylan là một điển hình), các sĩ đã hát theo một phong cách mới, dễ nghe, êm ái, ngọt ngào hơn, tương tự như cách hát những ca khúc phổ thông (popular songs).

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu ba ca khúc điển hình của nền nhạc modern country music, là các bản Detroit City (1962), Stand By Your Man (1968), và The Most Beautiful Girl (1973).

Detroit City – còn có tựa khác là “I Wanna Go Home”, là một sáng tác của Danny Dill và Ted Tillis, nội dung là lời thở than của một công nhân gốc miền Nam lên miền Bắc để kiếm sống, đêm nằm nhớ thương quê nhà và mơ tưởng tới những người thân yêu.

Năm 1962, Detroit City được nam ca sĩ dân ca Billy Grammer thu đĩa dưới tựa “I Wanna Go Home”, đứng hạng 18 trong Top 50 country music. Nhưng phải đợi qua năm 1963, sau khi được nam ca sĩ Bobby Bare thu đĩa, Detroit City mới thực sự trở thành “ca khúc country music của thập niên”, đứng hạng tư trên bảng xếp hạng toàn quốc Hoa Kỳ (Billboard), và đem lại cho chàng ca sĩ trẻ giải Grammy 1963 dành cho thể loại “Western music & country music”.

Video:
Bobby Bare – Detroit City (with lyrics)


<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/3yKesnaFYUw?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Tới năm 1967, Detroit City được nam ca sĩ gốc Anh Tom Jones thu đĩa, và lên tới hạng 8 trên bảng xếp hạng tại Anh quốc. Ba năm sau (1970), Detroit City được nam danh ca Dean Martin của Mỹ thu đĩa và đã lên tới hạng nhất (Billboard) trong thể loại nhạc nhẹ.

Thời gian chiến tranh Việt Nam, Detroit City cũng là ca khúc phổ biến nhất trong lực lượng Hoa Kỳ đóng tại miền nam Việt Nam. Nguyên nhân rất dễ hiểu: câu hát “I Wanna Go Home”!

Ngày ấy, bất cứ ban nhạc trẻ Việt Nam hay Phi-luật-tân nào chơi cho các club Mỹ cũng đều phải thuộc bản này vì chắc chắn sẽ bị yêu cầu. Và khi chàng ca sĩ của ban nhạc hát tới câu “I Wanna Go Home”, toàn thể các chàng lính viễn chinh ở dưới đồng loạt hát theo “I Wanna Go Home”!

Tiếp theo, nói về bản Stand By Your Man, ca khúc được nhiều người cho là hay nhất của nền nhạc country. Stand By Your Man là một sáng tác của nữ ca sĩ kiêm nhà viết ca khúc Tammy Wynette (1942–1998), người được xưng tụng là “Đệ nhất Phu nhân của nhạc country” (First Lady of Country Music). Trong hai thập niên 1960, 1970, Tammy Wynette đã có tới 23 bản đứng No.1, trong số đó có Stand By Your Man, thu đĩa năm 1968.

Stand By Your Man không chỉ lên No.1 tại Hoa Kỳ mà còn tại nhiều quốc gia Âu Châu, trong đó có Anh quốc và Hòa-lan. Năm 2010, ca khúc này được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ liệt vào danh sách đĩa hát di sản quốc gia (National Recording Registry). Cho tới nay, Stand By Your Man vẫn đang đứng No.1 trong danh sách Top 100 Country Music Songs của hệ thống truyền hình CMT (Country Music Television).

Thế nhưng, cũng có những người không thích, thậm chí lên án bản Stand By Your Man, đó là các thành phần phụ nữ cấp tiến, các nhà tranh đấu cho nữ quyền (feminists), bởi vì họ cho rằng Stand By Your Man có nội dung tiêu cực, hạ thấp vị trí của người đàn bà trong tương quan tình cảm nam nữ.

Sau này, Stand By Your Man còn bị liên hệ với thói trăng hoa của “Willie” – nickname mà các nhà báo đã đặt cho ông tổng thống “băm lăm” Bill (William) Clinton của Mỹ.

Nguyên vào thời gian tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất, vị cựu Thống đốc Arkansas đã bị cô ca sĩ Gennifer Flowers tố cáo đã bỏ rơi cô một cách tàn nhẫn sau 7 năm “thân mật”. Khi phu nhân Hillary Clinton lên chương trình truyền hình 60 Minutes, được hỏi về lập trường và thái độ của bà trước việc ông chồng bị tố cáo ăn vụng, Hillary trả lời đại khái cứ để cho ông ấy “đỡ đòn” một mình, bởi vì “tôi không phải là loại đàn bà yếu đuối luôn luôn về phe với người đàn ông của mình như Tammy Wynette” (some little woman standing by her man like Tammy Wynette).

Vì lời khích bác Hillary Clinton, Tammy Wynette đã phải “than thở’ trên đài phát thanh NPR (National Public Radio):

“Thật khó lòng tin rằng ca khúc mà tôi chỉ mất 20 phút để viết, lại phải bỏ ra 2, 3 chục năm để bảo vệ”.


Tiếp theo, nói về bản The Most Beautiful Girl của hai tác giả Norris Wilson, Rory Michael Bourke, với phần hòa âm độc đáo của nhạc trưởng Bill Sherrill – người trước đó đã soạn hòa âm cho bản Stand By Your Man.

The Most Beautiful Girl được viết vào năm 1968 và được một vài ca sĩ thu đĩa, tuy nhiên phải đợi tới năm 1973, sau khi được ca sĩ country Charlie Rich (1932–1995) thu đĩa, The Most Beautiful Girl mới lên tới đỉnh cao của nó. Cũng qua ca khúc này, Charlie Rich đã đoạt nhiều giải thưởng, trong đó có giải nam ca sĩ nhạc country hay nhất trong năm 1973, và giải Grammy cho nam ca sĩ hay nhất trong năm 1974 (tính tất cả mọi thể loại).

Tại Hoa Kỳ, The Most Beautiful Girl do Charlie Rich thu đĩa đã cùng một lúc đứng No.1 trên cả ba bảng xếp hạng toàn quốc (Billboard): Hot 100, Hot Country Singles, và Easy Listening (nhạc nhẹ).

Tại Gia-nã-đại, đĩa hát The Most Beautiful Girl của Charlie Rich cũng đứng No.1 trên cả ba danh sách Country Tracks, Top Singles, và Adult Contemporary (tương đương Easy Listening của Mỹ).

Tại Âu châu, đĩa hát này đã đứng No.1 ở Bỉ, No.2 ở Anh và Ái-nhĩ-lan, No.3 ở Hòa-lan, No.5 ở Đan-mạch, No.8 ở Na-uy, No.10 ở Pháp, No.14 ở Đức; còn tại Úc, đứng No.7.



Chúng tôi tin rằng qua thưởng thức ba ca khúc Detroit City, Stand By Your Man, và The Most Beautiful Girl , cho dù không yêu nhạc ngoại quốc mấy, hoặc không có được những hiểu biết căn bản về nhạc country của Mỹ, ít ra độc giả cũng thấy thích thú, hoặc có thể rung cảm trước giai điệu, âm điệu đặc thù của thể loại ca khúc dân gian hiện được xem là phổ biến nhất thế giới.

Và sau đây, chúng tôi xin đi vào đề tài chính: ca khúc Tennessee Waltz. Nếu lược qua những danh sách các ca khúc country được ưa chuộng nhất xưa nay, nhiều khi thứ hạng của Tennessee Waltz còn thấp hơn ba ca khúc đã đề cập tới ở trên, tuy nhiên vì Tennessee Waltz vừa là một ca khúc country vừa là một ca khúc popular cho nên có sức thu hút mọi thành phần thính giả, tại Hoa Kỳ cũng như ở ngoại quốc.

Trước khi đề cập tới nội dung ca khúc, xin nói về cái tựa: Tennessee Waltz. Tại sao lại là Tennessee chứ không phải là một tiểu bang nào khác? Tại sao lại là điệu luân vũ (waltz, valse) phát xuất từ Âu châu chứ không phải “fox trot” hay “square dance”, là hai thể điệu được hình thành tại Hoa Kỳ?

Như chúng tôi đã trình bày trong bài nói về hai nhạc khúc soạn theo thể điệu waltz nổi tiếng nhất thế giới là Dòng Sông Xanh (Blue Danube) và Sóng Nước Biếc (The Waves of Danube), người Mỹ không chỉ đặc biệt yêu thích hai bản waltz này, mà trước đó, waltz đã là điệu nhảy phổ biến ở Hoa Kỳ hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới – trừ thành Vienna, quê hương của thể điệu waltz nguyên thủy, tức “Viennese Waltz”.

Waltz được người Anh du nhập vào Hoa Kỳ rất sớm, có thể là trong thập niên 1810, hoặc 1820. Nguyên sau khi được giới thiệu tới công chúng vào thập niên 1780 và trở thành điệu nhảy thời thượng ở thành Vienna, bước sang đầu thế kỷ thứ 19, waltz đã chinh phục Anh quốc; và tới năm 1812, đã được vũ trường Almack’s sang trọng nhất của thủ đô Luân-đôn chính thức chấp thuận. Tuy nhiên, người Anh có tiếng là bảo thủ, cho nên tới năm 1825, định nghĩa trong tự điển Oxford vẫn còn gọi waltz là một vũ điệu “thác loạn, vô luân” do tư thế ôm sát nhau của cặp nam nữ.

Cũng vì tư thế ôm sát nhau ấy mà sau khi được du nhập vào Hoa Kỳ, waltz đã bị các vị Thừa sai ở California cấm tín đồ nhảy với nhau (lệnh cấm này chỉ được bãi bỏ vào năm 1834). Cùng khoảng thời gian này, một điệu nhảy waltz với nhịp chậm hơn được hình thành tại Boston, thủ phủ tiểu bang Massachusetts, và tới cuối thế kỷ thứ 19, đã được chính thức mang tên gọi “American Waltz”, hoặc “American Slow Waltz”, có khi còn được gọi là “Boston Waltz”, hoặc ngắn gọn hơn, là “Boston”, do xuất xứ của điệu nhảy này.

Khác biệt chính giữa American Waltz và Viennese Waltz không chỉ là American Waltz có nhịp chậm hơn mà còn là khi nhảy American Waltz, cặp nam nữ cách rời nhau nhiều hơn là ôm sát.

Theo một số tác giả, American Waltz đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới “International Style Waltz” (còn gọi là “English Waltz”), và cùng với Viennese Waltz, International Style Waltz, được xem là ba thể điệu waltz phổ biến nhất thế giới hiện nay.

Nhưng American Waltz nói tới ở trên, tức Boston Waltz là một thể điệu “ballroom”, tức là mang tính cách formal, dành cho giới trung lưu, người thành thị, không phổ biến nơi đa số dân quê.

Theo các tác giả Mỹ, trong các vũ hội ở đồng quê hiện nay, tuy vẫn còn những người khiêu vũ theo điệu Boston, nhưng chỉ là một số rất ít, còn đại đa số thì nhảy “waltz đồng quê Viễn tây” (Country Western Waltz), là thể điệu waltz đơn giản và vui nhộn hơn.

Nguồn gốc của Country Western Waltz là “Spanish Waltz”. Khởi đầu, vì bị các vị Thừa sai cấm nhảy “Viennese Waltz” (nam nữ ôm sát nhau), các tín đồ Công giáo ở California, đại đa số có nguồn gốc Tây-ban-nha (Hispanic, Latino), đành phải nhảy đỡ “Spanish Waltz”, một vũ điệu tập thể trong đó các cặp chỉ cầm tay nhau và di chuyển theo một vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ.

Về sau, “Spanish Waltz” được một số địa phương cải biến, dần dần trở thành một thể điệu đặc thù của địa phương mình, chẳng hạn West Texas waltz, Tennessee waltz…, tất cả được gọi chung là Country Western Waltz, hoặc Country & Western Waltz.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image007_thumb.jpg
Hý Viện Ryman ở Nashville, tiểu bang Tennessee

Nếu có dịp tìm hiểu về Country Western Waltz của Hoa Kỳ, chúng ta sẽ thấy có nhiều bản waltz của các địa phương khác nhau, chẳng hạn Kentucky Waltz, Missouri Waltz, Tennessee Waltz…, nhưng tại sao bản Tennessee Waltz lại được phổ biến và yêu chuộng một cách đặc biệt đến thế?

Theo đa số tác giả và cá nhân chúng tôi, nhờ ba yếu tố sau đây: nét nhạc, lời ca, và tiếng hát.

Trước hết nói về nét nhạc. “Nhạc” ở đây là “nhạc đồng quê hiện đại” (modern country music) mà chúng tôi đã nhắc tới ở một đoạn trên. Mà cái nôi của modern country music chính là Nashville, thủ phủ tiểu bang Tennessee.

Với những người thích uống rượu whiskey Mỹ (bourbon) thì nhắc tới tiểu bang Tennessee là họ sẽ nghĩ ngay tới nhãn rượu Jack Daniel’s bán chạy nhất thế giới; với những người thích du lịch thì sẽ nghĩ tới công viên quốc gia Great Smoky Mountains National Park nổi tiếng; còn với những người yêu nhạc, nhắc tới Tennessee là nhắc tới nhạc blues, rock and roll, và country.

Memphis, thành phố lớn nhất của Tennessee, là cái nôi của blues và rock and roll, nơi có bảo tàng viện Memphis Rock N’ Soul Museum, là nơi khởi nghiệp của Elvis Presley, và dĩ nhiên không thể không nhắc tới trang viên Graceland, nơi an giấc nghìn thu của “ông vua nhạc rock”, mỗi năm thu hút hàng triệu khách “hành hương” tới thăm mộ.

Còn Nashville, thủ phủ tiểu bang, thành phố lớn thứ nhì của Tennessee, là cái nôi của “modern country music”, nơi đặt bảo tàng viện và danh vọng sảnh của country music (Country Music Hall of Fame and Museum), nơi có nhà hát cổ kính Ryman Auditorium – vốn được xưng tụng là “Mother Church of Country Music”, địa điểm tổ chức liên hoan Country Music Festival hàng năm, và nhà hát nổi tiếng Grand Ole Opry, nơi mỗi tuần đều có buổi trình diễn country music của các ca sĩ thời danh.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image009_thumb.gifhttp://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image010_thumb2.jpg

Pee Wee King (1914-2000) Redd Stewart (1923-2003)

Ca khúc Tennessee Waltz, được viết vào năm 1946, là một trong những ca khúc đầu tiên của “modern country music”, nhạc của Pee Wee King (1914-2000), lời của Redd Stewart (1923-2003).

Trường hợp ra đời của Tennessee Waltz cũng khá đặc biệt. Thời gian này, Pee Wee King đang là trưởng ban nhạc Golden West Cowboys, còn Redd Stewart là ca sĩ chính trong ban. Hôm ấy, cả ban đang ngồi trên xe limousine tới rạp Grand Ole Opry để trình diễn, thì từ máy radio phát ra bản “Kentucky Waltz”, một sáng tác mới thuộc thể loại “bluegrass” của Bill Monroe.

[Bill Monroe (1911-1996), ca sĩ kiêm tay đàn mandoline kiêm nhà viết ca khúc nổi tiếng, cha đẻ của thể loại “bluegrass” trong nền nhạc dân gian của Hoa Kỳ. Định nghĩa một cách ngắn gọn, “bluegrass” là nhạc dân gian truyền thống của di dân gốc Anh-cát-lợi, Tô-cách-lan, Ái-nhĩ-lan, và xứ Wales, phối hợp với ảnh hưởng của nhạc Mỹ da đen (African-American) và nhạc jazz. “Kentucky Waltz” là đĩa hát thành công nhất của Bill Monroe, lên tới hạng ba toàn quốc]

Nghe bản Kentucky Waltz của Bill Monroe, Pee Wee King và Redd Stewart bảo nhau tại sao mình không sáng tác một ca khúc mang tựa đề “Tennessee Waltz”, và họ đã thực hiện ngay. Trên xe không có giấy, Redd Stewart phải viết lời hát trên một cái hộp diêm (matchbox – chắc hẳn ngày ấy cái hộp diêm phải lớn lắm!) trong khi Pee Wee King thì miệng “là lá la” thành dòng nhạc.

Lời hát của Tennessee Waltz là lời tự thuật của nhân vật chính (cô gái hay chàng trai), nhớ về một ngày xa xưa, cùng người yêu tham dự một vũ hội Tennessee Waltz, bất ngờ gặp lại một người bạn cũ, giới thiệu bạn với người yêu, để rồi bị bạn cướp mất người yêu ngay trong lúc hai người cùng nhau khiêu vũ theo điệu Tennessee Waltz tuyệt vời!

Tennessee Waltz
I was dancin’ with my darlin’ to the Tennessee Waltz
When an old friend I happened to see
I introduced her to my loved one and while they were dancin’
My friend stole my sweetheart from me

I remember the night and the Tennessee Waltz
Now I know just how much I have lost
Yes, I lost my little darlin’ the night they were playing
The beautiful Tennessee Waltz

I remember the night and the Tennessee Waltz
Now I know just how much I have lost
Yes, I lost my little darlin’ the night they were playing
The beautiful Tennessee Waltz

Oh, the beautiful Tennessee Waltz.

Thiết nghĩ không cần giỏi tiếng Anh cho lắm, quý độc giả cũng có thể nhận thấy lời hát của bảnTennessee Waltz rất đơn sơ, giản dị. Nhưng cũng chính vì sự đơn sơ, giản dị ấy, cộng thêm tính cách lãng mạn cường điệu tới mức phi lý – chỉ nhảy với nhau một bản luân vũ mà đã yêu nhau ngay – đã khiến lời hát có sức thu hút đặc biệt.

Yếu tố thứ ba khiến Tennessee Waltz được yêu chuộng tới mức ấy chính là tiếng hát của Patti Page; và theo chúng tôi đây là yếu tố quan trọng nhất.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image012_thumb1.jpg

Patti Page (1927-2013)

Thực vậy, sau khi Pee Wee King và Redd Stewart viết Tennessee Waltz vào năm 1946, tới cuối năm 1947, ban nhạc Golden West Cowboys của hai ông đã thu đĩa ca khúc này, đồng thời nam ca sĩ Cowboy Copas, nguyên là một thành viên của Golden West Cowboys cũng thu một đĩa riêng. Qua năm 1948, cả hai đều lên Top 10 C&W (Country & Western), đĩa của Golden West Cowboys đứng hạng 3, còn đĩa của Cowby Copas đứng hạng 6.

Phải đợi tới năm 1950, sau khi được Patti Page thu đĩa, Tennessee Waltz mới trở thành ca khúc được đủ mọi thành phần thính giả ở Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới yêu thích.

Patti Page (1927-2013) tên thật là Clara Ann Fowler, là nữ ca sĩ có số đĩa hát bán ra nhiều nhất trong thập niên 1950, và tính tới nay, tổng số đã lên trên 100 triệu.

Điều đáng nói nhất là Patti Page không được liệt vào hàng ngũ ca sĩ hát nhạc country mà chỉ là một ca sĩ hát nhạc Pop (popular) hát những ca khúc country theo cách hát riêng của mình. Chính vì thế, nhiều đĩa hát của Patti Page đã đứng trên bảng xếp hạng của cả nhạc Pop lẫn nhạc country – trong đó bản thành công nhất chính là Tennessee Waltz.

Muốn biết tại sao Clara Ann Fowler lại có nghệ danh “Patti Page”, phải trở lại với thuở hàn vi của người nữ ca sĩ sau này được nhiều nhà phê bình xưng tụng là nữ ca sĩ nhạc Pop số 1 của thế kỷ thứ 20.

Clara Ann Fowler ra chào đời tại một vùng quê ở tiểu bang Oklahoma, trong một gia đình nghèo và đông con. Ông bố là một công nhân đường sắt, tới mùa thu hoạch bông (cotton), bà mẹ và mấy cô chị phải ra đồng làm mướn mà vẫn không đủ sống; nhiều khi, căn nhà của gia đình bị cúp điện vì không trả nổi “bill”!

Clara Ann Fowler tốt nghiệp trung học vào năm 18 tuổi (1945) và nhờ có năng khiếu hát, may mắn được thu nhận làm ca sĩ trong một chương trình ca nhạc dài 15 phút trên đài phát thanh KTUL ở Tulsa, Oklahoma. Chương trình này do hãng sữa “Page Milk Company” bảo trợ, cho nên người phụ trách đã lấy tên hãng sữa này để đặt cho Clara Ann Fowler nghệ danh “Patti Page” (Patti là viết tắt của “Patricia”, có nghĩa cổ xưa là “một phụ nữ quý tộc”).

Chưa đầy một năm sau (1946), Jack Rael, một tay kèn saxophone kiêm trưởng ban nhạc “Jimmy Joy Band” tới Tulsa để trình diễn một buổi duy nhất, và may mắn lại đến với Patti Page khi ông này nghe được tiếng hát của cô trên đài phát thanh qua chương trình 15 phút ấy.

Patti Page theo Jimmy Joy Band đi lưu diễn khắp nơi, và qua năm 1947, khi tới trình diễn tại Chicago, được hãng đĩa Mercury khám phá và ký hợp đồng. Jack Rael liền rời ban nhạc để đảm trách việc soạn hòa âm kiêm ông bầu cho Patti Page.

Sau một số thành công tương đối, tới đầu năm 1950, Patti Page đã có đĩa đầu tiên bán được trên 1 triệu đĩa – trong tổng số 15 đĩa bán được trên 1 triệu trong thời gian 15 năm liên tục (1950-1965).

Trong tổng số 15 đĩa bán được trên 1 triệu ấy, Tennessee Waltz đã trở thành ca khúc cầu chứng của Patti Page. Thực ra, Patti Page không hề có ý định thu đĩa bản Tennessee Waltz mà chỉ làm theo đề nghị của ông bầu Jack Rael, đồng thời cũng vì ông bố của Patti rất thích ca khúc này.

Khi đã quyết định thu đĩa bản Tennessee Waltz để đưa vào mặt B của đĩa hát sẽ tung ra vào mùa Giáng Sinh 1950 có tựa đề “Boogie Woogie Santa Claus”, Patti Page rất phân vân giữa hai lựa chọn: hát một mình hay hát với giọng phụ họa (hát bè) của người khác.

Cuối cùng, không hiểu do không tin tưởng người khác hay vì muốn đi tiên phong trong việc sử dụng kỹ thuật “ghép giọng” (overdubbing technique) lúc đó mới được ứng dụng, Patti Page đã thu âm Tennessee Waltz ba lần với ba giọng hát khác nhau (của chính mình): hát solo, hát giọng chính, và hát giọng phụ (hát bè), để thực hiện thành hai đĩa, một đĩa hát solo, một đĩa hát bè gồm giọng chính và giọng phụ ghép lại. Kết quả, sau khi nghe thử, Patti Page đã chọn đĩa hát bè để tung ra thị trường.

Phụ lục (2): Tennessee Waltz, Patti Page
http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/02-TennesseeWaltz-PattiPage.mp3

[Kỹ thuật “ghép giọng” do nhả sản xuất nhạc Mitch Miller (1911-2010) khởi xướng, lúc đầu không được mấy người quan tâm, nhưng sau khi được Patti Page ứng dụng một cách tuyệt vời qua bản Tennessee Waltz, đã trở nên rất phổ biến. Đĩa hát ghép giọng nổi tiếng nhất trong thời gian gần đây là Unforgettable, ca khúc đi liền với giọng hát trầm ấm của Nat King Cole (1919-1965), thu đĩa lần đầu năm 1951, và tới năm 1961 thu lại với kỹ thuật “stereo”. Ba mươi năm sau (1991), tiếng hát của Nat King Cole trong đĩa stereo ấy được “lấy” ra để “ghép” với tiếng hát của cô con gái Natalie Cole. Kết quả, bản Unforgettable do hai cha con “song ca” đã đoạt 3 giải Grammy năm 1992: Ca khúc trong năm, Đĩa nhạc trong năm, và Ca sĩ hát hay nhất (thể loại nhạc Pop)].

Video:

Natalie Cole LIVE – Unforgettable
<iframe width="640" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/MKCyUe4syc4?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Trở lại với bản Tennessee Waltz do Patti Page thu đĩa cuối năm 1950, mặc dù chỉ là ca khúc mặt B (side B) của một đĩa hát có chủ đề chính là Giáng Sinh, ngay sau khi được tung ra thị trường (tháng 11/1950) đã lên ngay bảng xếp hạng toàn quốc (Billboard) của cả thể loại nhạc Pop lẫn nhạc country. Tới ngày 30/12/1950, Tennessee Waltz đã lên No.1 trong danh sách nhạc Pop, và ở vị trí này trong suốt 13 tuần lễ liên tục. Trong khi đó, trong bảng xếp hạng nhạc country, Tennessee Waltz chỉ lên tới No.2.

Từ đó, sau thành công của Patti Page, đã có nhiều ca sĩ khác hát các ca khúc country theo cách hát nhạc Pop, và đều đạt thành công, ít nhất cũng là về mặt thương mại.

Đĩa hát Tennessee Waltz của Patti Page không chỉ đứng No.1 tại Hoa Kỳ mà còn ở nhiều quốc gia khác trên thế giới. Riêng tại Nhật Bản, vào năm 1974, Tennessee Waltz đã được ghi nhận là đĩa hát có số bán cao nhất từ trước tới nay.

Thành công vượt bực của Patti Page cũng đưa tới một kỷ lục khác cho bản Tennessee Waltz: đây ca khúc được các ca sĩ hay ban nhạc (của Mỹ, Gia-nã-đại, Anh) hát lại nhiều nhất từ xưa tới nay, trong đó thành công nhất là đĩa của nữ danh ca Anne Murray (Gia-nã-đại), hát theo cách hát của Patti Page, và nữ danh ca ca sĩ Alma Cogan (Anh quốc), hát theo thể điệu rock bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Đĩa tiếng Anh của Alma Cogan đã lên No.1 trong năm tuần lễ liên tiếp tại Thụy-điển, đứng trong Top 10 ở nhiều quốc gia Âu châu khác; còn đĩa hát bằng tiếng Đức thì lên tới hạng 10 tại quốc gia này.

Video:
My Choice 160 – Anne Murray – Tennessee Waltz

<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/JzzFj5oVj14?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Alma Cogan – The Tennessee Waltz – YouTube
<iframe width="480" height="360" src="https://www.youtube.com/embed/aTBPgA3PSnA?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Năm 1965, Quốc Hội tiểu bang Tennessee đã ra nghị quyết chọn Tennessee Waltz làm ca khúc chính thức thứ 5 của tiểu bang. Cũng nên biết đại đa số (48) tiểu bang của Mỹ đều có 1 hoặc 2 ca khúc chính thức (state official song); riêng hai tiểu bang Massachusetts và New Hampshire có 8 bản, còn Tennessee thì có tới 9 bản (tính cho tới nay)!

Năm 1997, Patti Page được ghi danh vào Âm nhạc Danh vọng sảnh (Music Hall of Fame) của tiểu bang Oklahoma. Bà qua đời vào tháng 1/2013, thọ 85 tuổi. Qua tháng 2, tại giải âm nhạc Grammy lần thứ 55, bà được truy tặng giải Grammy cho sự nghiệp (Lifetime Achievement Award). Nhân dịp này, nữ ca sĩ Kelly Clarkson đã trình bày bản Tennessee Waltz để tưởng nhớ vị tiền bối đã đi vào huyền thoại.

Phụ lục (3): Tennessee Waltz (jazz), hòa tấu
http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/03-tennessee-waltz-hoatau.mp3

Phụ lục (4): Tennessee Waltz (new wave), The Shadows
http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/04-TennesseeWaltz-Shadows.mp3

Một trong số những giai thoại về Tennessee Waltz là ca khúc nổi tiếng này đã được lấy để đặt tên cho một chiến dịch chống tham nhũng tại Tennessee. Như những độc giả cư ngụ tại Hoa Kỳ có thể còn nhớ, vào năm 2004, trước tệ nạn tham nhũng hối lộ lan tràn ở Tennessee, cảnh sát liên bang (FBI) đã mở một chiến dịch bí mật lấy tên là “Operation Tennessee Waltz”, qua đó một số nhân viên của FBI đã đóng vai “cò mồi” để dụ các bậc phụ mẫu chi dân có máu tham. Kết quả, khi “bản luân vũ Tennessee” chấm dứt vào năm 2006, đã có hàng chục chính trị gia các cấp, gồm thượng nghị sĩ, dân biểu Quốc Hội, viên chức chính quyền tiểu bang, bị bắt, truy tố và lãnh án với những số tiền hối lộ có khi lên tới 150.000 Mỹ kim từ tay các… nhân viên FBI!

* * *

Tại miền nam Việt Nam trước năm 1975, theo ký ức của chúng tôi, bản Tennessee Waltz được phổ biến khá muộn, có lẽ vào khoảng giữa thập niên 1960, qua các làn sóng điện của đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Đồng thời, vì giới yêu nhạc ngoại quốc tại Việt Nam ngày ấy cũng không mấy quen thuộc với nhạc country và thể loại waltz chậm vừa của Mỹ, cho Tennessee Waltz đã không được phổ biến, yêu chuộng cho bằng các bản waltz có nhịp nhanh hơn, như One Day (When We Were Young), The Last Waltz, Delilah, v.v…

Vào khoảng cuối thập niên 1960 đầu 1970, Tennessee Waltz được nhạc sĩ Y Vân đặt lời Việt với tựa Tình Mỏng Manh. Sau đó là Trường Kỳ với tựa Điệu Buồn. Đồng thời cũng trong phong trào đặt lời Việt cho các ca khúc ngoại quốc vào những năm đầu thập niên 1970, một tác giả khác (mà chúng tôi không có cơ hội, phương tiện tìm hiểu) đã đặt lời Việt với tựa Điệu luân vũ dang dở.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image014_thumb.jpg

Trước năm 1975, Tình Mỏng Manh của Y Vân đã được Duy Trác trình bày trong băng nhạc Mây Hồng 4, chủ đề “20 Bản Tình Ca Bất Tử”; trong băng nhạc này, Duy Trác hát theo nhịp thật chậm, tức nhịp của điệu Boston. Điệu Buồn của Trường Kỳ thì chúng tôi không nhớ do ca sĩ nào thu băng. Còn Điệu luân vũ dang dở thì được Vy Vân trình bày dưới hình thức song ngữ.

Ngày ấy, Vy Vân là một trong những nữ ca sĩ hát nhạc ngoại quốc hay nhất của Hòn ngọc Viễn đông; những ca khúc ngoại quốc lời Việt thường được Vy Vân hát cả lời tiếng Việt lẫn lời Anh hay Pháp, trong số đó, theo nhận xét của chúng tôi, đạt nhất phải là bản You don’t have to say you love me – Không cần nói anh yêu (lời Việt của Phạm Duy).

Vy Vân cũng là giọng ca chính trong ban tam ca nữ The Apple Three, còn hai “trái táo” Tuyết Hương, Tuyết Dung thì chủ yếu chỉ để “làm kiểng”. Sau khi The Apple Three tan rã vào năm 1973, Vy Vân tiếp tục hát một mình. Nữ ca sĩ Phi Phi tại hải ngoại sau này chính là ái nữ của Vy Vân.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/clip_image015_thumb.jpg

Vy Vân

Chỉ có điều đáng tiếc là cả bản Tình Mỏng Manh do Duy Trác hát lẫn bản Điệu luân vũ dang dở do Vy Vân trình bày, được phổ biến trên Internet hiện nay có chất lượng âm thanh rất kém, nhưng chúng tôi cũng xin được gửi tới độc giả như một nhắc nhớ về những ngày tháng cũ.

Cũng trong tinh thần hoài niệm ấy, chúng tôi xin ghi lại lời Việt do Trường Kỳ đặt, để tưởng nhớ một đồng nghiệp tài hoa đã vĩnh viễn ra đi.

Điệu buồn – Tennessee Waltz

Lời Việt: Trường Kỳ

Nghìn âm thanh cũ, buồn như mưa lũ
Đàn buông lên tiếng tơ trùng
Nghe thoáng xa vời có riêng tôi vu vi

Đèn lung linh sáng hồn như xa vắng
Buồn như vô cớ vương trong lòng
Ai đây cùng nghe cung buồn với tôi

Buồn không duyên cớ thế thôi
Biết nhớ nhung chi bây giờ
Lòng không biết hôm nay vì cớ sao buồn

Buồn dâng khi sáng, buồn len trong tối
Buồn dâng lên khúc u ca trầm
Trong tâm hồn nghe cung buồn thiết tha.

Phụ lục (5): Tình Mỏng Manh , Duy Trác
http://t-van.net/wp-content/uploads/2013/10/05-Tinh-Mong-Manh-Tennessee-Waltz-DuyTrac-Y-Van.mp3

Phụ lục (6): Điệu luân vũ dang dở, Vy Vân
http://hoiquanphidung.com/userupload/img/06-DieuluanvudangdoTennesseeWaltz-V_kzeu_1433833738.mp3



Hoài Nam

saomai
06-23-2015, 07:27 AM
<div class="title">Hoài Nam : NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT(27)- GREENFIELDS (Đồng Xanh), Gilkyson, Dehr &amp; Miller – YELLOW BIRD (Chỉ là giấc mơ qua), ca khúc truyền thống Haiti</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image00219.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image002_thumb14.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="303" width="304"></a></p>
<p>Những năm giữa thập niên 1960, người yêu nhạc ngoại quốc ở Sài Gòn có lẽ không ai là không biết tới bản <em>Greenfields </em>do ban tứ ca <strong>The Brothers Four </strong>trình bày. Đây là một trong những ca khúc được ưa chuộng nhất trong nền nhạc phổ thông của Hoa Kỳ. Trước và sau năm 1975, <em>Greenfields </em>đã được khá nhiều tác giả đặt lời Việt, trong số ấy, theo cảm quan, nhận xét của riêng chúng tôi, bản của <strong>Lê Hựu Hà</strong> đạt nhất, được ưa chuộng nhất.</p>
<p>Mặc dù<em> </em>đi liền với tên tuổi của The Brothers Four, ban tứ ca nổi tiếng nhất của thể loại “folk songs”, nhưng bốn chàng ca nhạc sĩ này không phải tác giả, cũng không phải những người đầu tiên thu đĩa bản <em>Greenfields.</em></p>
<p><em>Greenfields </em>nguyên<em> </em>là một sáng tác của ba ca nhạc sĩ<em> </em>Terry Gilkyson, Richard Dehr và Frank Miller, trình diễn dưới nghệ danh “Terry Gilkyson and The Easy Riders”. <em>Greenfields </em>được ba người viết và thu đĩa năm 1956, nhưng đã không gây được tiếng vang. Phải đợi gần 4 năm sau, khi được The Brothers Four<strong> </strong>soạn hòa âm lại và thu đĩa, <em>Greenfields </em>mới lên tới hạng 2, và đứng trong Top 40 suốt 20 tuần lễ liên tục.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image0045.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image004_thumb2.jpg" alt="clip_image004" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>The Brothers Four nguyên là bốn chàng sinh viên của Đại học tiểu bang Washington, cùng gia nhập câu lạc bộ sinh viên “Phi Gamma Delta”, trong đó mọi người coi nhau như huynh đệ cho nên khi cùng nhau hợp thành một ban tứ ca vào năm 1956, họ đã lấy tên là “The Brothers Four”.</p>
<p>Lúc đó là thời kỳ phục hưng của nền nhạc folk, trường đại học nào cũng có các nhóm tam ca, tứ ca, trình diễn tại các câu lạc bộ sinh viên, trong số đó The Brothers Four nổi bật nhờ tài chơi đàn, nghệ thuật hòa âm phối khí, và quan trọng hơn cả là nghệ thuật hợp ca, với hai giọng nam trung (baritone), một giọng nam cao (tenor), và một giọng trầm (bass).</p>
<p>Năm 1957, The Brothers Four được hội quán Colony Club ở thành phố Seattle biết tiếng, mời tới trình diễn thường xuyên, với thù lao chủ yếu là những ly bia!</p>
<p>Năm 1959, được sự khuyến khích của nhiều người, The Brothers Four quyết định bỏ dở việc học hành, xuôi Nam tìm đường tiến thân. Tại San Francisco, họ may mắn được một ông bầu giới thiệu với hãng đĩa Colombia Records và được mời ký hợp đồng ngay.</p>
<p>Qua đầu năm 1960, đĩa single thứ hai của The Brothers Four là bản <em>Greenfields</em> đã lên tới hạng 2 toàn quốc, và album đầu tay của họ trong đó có ca khúc này đã đứng trong Top 20 những album bán chạy nhất.</p>
<p>Chỉ trong một thời gian ngắn, The Brothers Four đã trở thành tên tuổi lẫy lừng bậc nhất trong nền nhạc folk đương đại (những năm cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960).</p>
<p>* * *</p>
<p><em>Greenfields</em> là một ca khúc có lời hát rất lãng mạn, đầy chất thơ, kể về tâm trạng của một người nhớ lại cánh đồng xanh tươi và những tháng ngày hạnh phúc xưa cũ, mà nay trước mắt chỉ còn là đồng hoang khô cằn vì người yêu đã ra đi, trong lòng thầm mong ngày gặp lại nhau, cho cánh đồng xanh trở lại…</p>
<p><strong><em>Greenfields</em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p><em>Once there were green fields kissed by the sun<br>
Once there were valleys where rivers used to run<br>
Once there were blue skies with white clouds high above<br>
Once they were part of an everlasting love<br>
We were the lovers who strolled through green fields</em></p>
<p><em>Green fields are gone now, parched by the sun<br>
Gone from the valleys where rivers used to run<br>
Gone with the cold wind that swept into my heart<br>
Gone with the lovers who let their dreams depart<br>
Where are the green fields that we used to roam?</em></p>
<p><em>I’ll never know what made you run away<br>
How can I keep searching when dark clouds hide the day<br>
I only know there’s nothing here for me<br>
Nothing in this wide world, left for me to see</em></p>
<p><em>But I’ll keep on waiting till you return<br>
I’ll keep on waiting until the day you learn<br>
You can’t be happy while your heart’s on the roam<br>
You can’t be happy until you bring it home<br>
Home to the green fields and me once again.</em></p>
<p><strong>Phụ lục 1:<em> </em></strong><strong><em>Greenfields – </em></strong><strong>The Brothers Four</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/01-Greenfield-Brothers-Four.mp3&amp;titles= &amp;artists=01 – Greenfield – Brothers Four&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Chỉ nội trong năm 1960, <em>Greenfields</em> do The Brothers Four thu âm đã bán được hơn 1 triệu đĩa, đem lại cho ban tứ ca này đĩa vàng đầu tiên, và cũng là thành công lớn nhất trong sự nghiệp ca hát của họ. Trong giải âm nhạc Grammy năm 1961, The Brothers Four đã được xướng danh tranh giải “Nghệ sĩ mới nổi xuất sắc nhất”.</p>
<p>Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam ngày ấy, do ảnh hưởng văn hóa của cựu “mẫu quốc” Pháp, với không ít người dân vẫn chọn Pháp Văn làm sinh ngữ chính, <em>Greenfields </em>được biết tới và yêu chuộng qua phiên bản tiếng Pháp <em>Verte Campagne</em>, trước khi bản <em>Greenfields</em> do The Brothers Four trình bày được du nhập vào Việt Nam.</p>
<p><em>Verte Campagne</em> do R.Varnay và R.Mamoudy đặt lời, được ban hợp ca <strong>Les Compagnons de la Chanson</strong> thu đĩa vào mùa thu năm 1960.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image0063.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image006_thumb1.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Tương tự trường hợp của The Brothers Four, Les Compagnons de la Chanson (Nhóm đồng hành của ca khúc) nguyên là một ban hợp ca địa phương, thành lập năm 1946 tại Lyon, Pháp. Năm 1952, họ tới Paris và may mắn được gặp nữ danh ca huyền thoại <strong>Édith Piaf</strong> (chúng tôi đã giới thiệu trong bài viết về bản <a href="http://t-van.net/?p=11411" target="_blank"><em>La Vie en Rose</em></a>), được bà mời hát chung bản <em>Les Trois Cloches</em> (Ba cái chuông) và vụt nổi tiếng.</p>
<p><em>[Les Trois Cloches về sau được đặt lời Anh với tựa The Three Bells, do ban tam ca The Browns (ba anh chị em nhà Brown) thu đĩa năm 1959, được xướng danh giải Grammy “Ca khúc hay nhất trong năm” và bán ra trên 1 triệu đĩa]</em></p>
<p>Trong sự nghiệp của mình, Les Compagnons de la Chanson đã thu trên 350 đĩa hát, mỗi năm trình diễn khoảng 300 xuất, xuất cuối cùng vào năm 1985.</p>
<p>Nội dung phiên bản tiếng Pháp của Varnay &amp; Mamoudy có phần khác với ca khúc nguyên thủy, chỉ giữ lại phần hoài niệm chốn xưa khi cùng với người yêu dạo bước trên những cánh đồng xanh êm ả, phần còn lại kể về những phồn hoa đô hội nơi thành phố, tương phản với cảnh đồng quê êm đềm trong quá khứ.</p>
<p><strong>Verte Campagne</strong></p>
<p><em>Verte campagne / Où je suis né</em><br>
<em>Douce campagne / De mes jeunes années</em><br>
<em>La ville pleure / Et ses larmes de pluie</em><br>
<em>Dansent et meurent / Sur mon coeur qui s’ennuie</em><br>
<em>Et moi, je rêve de toi, oh mon amie</em><em>.</em><em></em></p>
<p><em>Verte campagne / Que tu es loin</em><br>
<em>Douce campagne / De mon premier chagrin</em><br>
<em>Le temps s’efface / Pour moi, rien n’a changé</em><br>
<em>Deux bras m’enlacent / Parmi les champs de blé</em><br>
<em>Et moi, je rêve de toi, oh! mon amour.</em></p>
<p><em>Là, dans la ville toutes ces mains tendues<br>
M’offrent des fleurs et des fruits inconnus<br>
Et moi, je vais le long des rues perdues<br>
Un air de guitare me parle de toi.</em></p>
<p><em>Verte campagne / Où je suis né</em><br>
<em>Douce campagne / De mes jeunes années</em><br>
<em>La ville chante / Eparpille sa joie</em><br>
<em>La ville chante / Mais je ne l’entends pas</em><br>
<em>Et moi, je rêve de toi, mon amour</em><br>
<em>Et moi, je rêve de toi, mon amour</em><em>…</em><em></em></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><strong><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=OpFGQy2ClhQ" target="_blank">Verte Campagne * Les Compagnons de la Chanson – YouTube</a></em></strong></p>
<p>Về phiên bản lời Việt của <em>Greenfields</em>, theo sự hiểu biết của chúng tôi, cố nhạc sĩ Y Vân là người viết đầu tiên, với tựa <em>Cánh Đồng Xanh</em>, và được ban hợp ca Sao Băng trình bày trong băng nhạc “20 Bản Tình Ca Bất Tử”, nhạc ngoại quốc do Y Vân hoặc Phạm Duy đặt lời, phát hành cuối thập niên 1960 (hoặc đầu thập niên 1970).</p>
<p>Còn phiên bản của Lê Hựu Hà có tựa <em>Đồng Xanh</em> được anh viết vào khoảng năm 1973-1974.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image0071.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image007_thumb.jpg" alt="clip_image007" border="0" height="347" width="254"></a></p>
<p align="center"><strong>Lê Hựu Hà (1946-2003)</strong><strong></strong></p>
<p>Lê Hựu Hà (1946-2003) là một trong những nhạc sĩ tiên phong của nền nhạc trẻ Việt Nam. Anh và nhạc sĩ bạn <strong>Nguyễn Trung Cang</strong> (1947-1985) nguyên là hai thành viên của ban nhạc trẻ Hải Âu, thành lập năm 1963, được giới mộ điệu biết tới qua Đại hội Nhạc trẻ 1965 tổ chức tại Trường Trung học Taberd.</p>
<p>Cuối thập niên 1960, sau khi ca sĩ chính của ban là Thanh Lan tung cánh bay cao hơn xa hơn, ban Hải Âu tan rã, Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang cùng nhau thành lập ban Phượng Hoàng vào năm 1970, được xem ban nhạc trẻ Việt Nam đầu tiên – “nhạc trẻ Việt Nam” đúng nghĩa: nhạc Việt, lời Việt.</p>
<p>Những ca khúc lời Việt với giai điệu, tiết tấu của nhạc trẻ Tây phương hiện đại do hai người sáng tác như <em>Tôi muốn, Thương nhau ngày mưa, Bước tình hồng, Yêu em, Hãy nhìn xuống chân…</em> được trình bày qua tiếng hát Elvis Phương với hòa âm phối khí độc đáo của ban Phượng Hoàng đã chinh phục cả một thế hệ trẻ.</p>
<p>Rất tiếc, sau 3 năm, Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang chia tay, ban Phượng Hoàng chấm dứt tồn tại. Tuy nhiên, tương tự trường hợp ban The Beatles của Anh quốc, sau khi tan rã, hai cựu thành viên chủ lực là John Lennon và Paul McCartney vẫn tiếp tục viết những ca khúc để đời, Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang cũng tiếp tục sáng tác riêng rẽ. Hai trong số những ca khúc nổi tiếng của Lê Hựu Hà viết sau khi chia tay Nguyễn Trung Cang là <em>Hãy ngước mặt nhìn đời </em>và<em> Đôi khi ta muốn khóc</em>. Bên cạnh đó, trong phong trào Việt hóa các ca khúc ngoại quốc nổi tiếng, Lê Hựu Hà đã đặt lời Việt cho nhiều ca khúc, trong số đó có bản <em>Greenfields</em> với tựa <em>Đồng Xanh</em>.</p>
<p>Như chúng tôi đã từng đưa ra nhận xét trong chương trình “<a href="http://t-van.net/?author=14" target="_blank">70 Năm tình ca trong tân nhạc Việt Nam</a>”, phần nói về thời kỳ nhạc trẻ, sự tương phản giữa tư duy và cung cách sáng tác của Nguyễn Trung Cang và của Lê Hựu Hà có thể so sánh với John Lennon và Paul McCartney của ban The Beatles: trong khi lời hát trong các ca khúc của Nguyễn Trung Cang thường bi quan yếm thế, giai điệu phức tạp, tiết tấu cầu kỳ, thì lời hát của Lê Hựu Hà đơn sơ, giai điệu êm đềm, tiết tấu dung dị nhẹ nhàng hơn.</p>
<p>Cho nên Lê Hựu Hà thường chọn những ca khúc ngoại quốc nhẹ nhàng êm đềm như <em>Greenfields</em><em>, Yesterday </em>để đặt lời Việt. Nhất là bản<em> Greenfields</em>, một bản rất thích hợp với khuynh hướng và cảm quan nghe nhạc của người Việt.</p>
<p>Có thể viết mà không sợ quá lời, nếu chỉ so sánh lời hát giữa phiên bản và ca khúc nguyên thủy, bản <em>Đồng Xanh</em> của Lê Hựu Hà “trung thành” hơn hẳn bản <em>Verte Campagne</em> của Varnay &amp; Mamoudy. Bởi Lê Hựu Hà vừa trình bày được những hình ảnh trong nội dung ca khúc nguyên thủy vừa truyền đạt được ý chính của toàn bài hát, mà không bị gượng ép về ngôn từ.</p>
<p><strong><em>Đồng Xanh</em></strong></p>
<p><em>Đồng xanh là chốn đây / Thiên đàng cỏ cây<br>
Chìm trong bầy thú hoang / Vui đùa trong nắng hây<br>
Đây những con suối vắng / Đang phơi mình bên lùm cây<br>
Đây những dòng nước mát / Khẽ trôi êm về thung lũng<br>
Và những đôi nhân tình đang lắng hồn dưới mây chiều</em></p>
<p><em>Đồng xanh giờ vắng đi / Với trời lãng quên<br>
Còn đâu bầy thú hoang / Đã vui đùa trong nắng êm<br>
Đâu những bờ suối vắng / Phơi mình bên lùm cây<br>
Đâu những dòng nước mát / Khẽ trôi êm về thung lũng<br>
Và những đôi nhân tình nay đã lìa chốn xưa rồi</em></p>
<p><em>Ta yêu đồng xanh / Như đã yêu từng con người<br>
Ta thương đôi tình nhân kia / Như gió thương làn mây trời<br>
Nhưng sao giờ đây / Nào thấy ai chung quanh ta<br>
Đất trời như bãi tha ma / Trên đồng hoang khô cháy</em></p>
<p><em>Giờ ta còn đứng đây / Giữa trời hắt hiu<br>
Đời không còn chút vui / Đã khô cằn trong trái tim<br>
Sao ta còn đứng mãi / Như người tình mong chờ ai<br>
Sao ta còn đứng mãi / Lắng nghe tâm hồn tê tái<br>
Và đã bao lâu rồi ta đứng chờ giữa cánh đồng.</em></p>
<p>Trước năm 1975, <em>Đồng Xanh</em> được thu băng lần đầu tiên qua nghệ thuật trình bày của ban hợp ca Mây Trắng do Lê Hựu Hà thành lập sau khi ban Phượng Hoàng tan rã. Rất tiếc, ấn bản được phổ biến trên Internet hiện nay có chất lượng âm thanh rất kém.</p>
<p>Trong số các ca sĩ thu đĩa bản <em>Đồng Xanh</em> sau năm 1975 tại hải ngoại, có thể nói Duy Quang hát đạt nhất. Bởi giọng của Duy Quang là giọng trầm, sở trường Duy Quang là hát nhạc êm, và dĩ nhiên không thể không nói tới trình độ nghệ thuật của một ca sĩ chân truyền, cộng với khả năng phát âm tiếng Việt chuẩn xác.</p>
<p><strong>Phụ lục 2: </strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>ban Mây Trắng</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/02-DongxanhGreenFields-LVLeHuuHa.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-DongxanhGreenFields-LVLeHuuHa&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Phụ lục 3:<em> </em></strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>Duy Quang</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/03-dong-xanh-duy-quang.mp3&amp;titles= &amp;artists=03 – dong xanh – duy quang&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5 &amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2 F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghove r=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFF FFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDD D&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Phụ lục 4:<em> </em></strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>Vô Thường (guitar)</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/04-Greenfield-VoThuong_.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-Greenfield-VoThuong_&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Sau <em>Greenfields,</em> một ca khúc khác do The Brothers Four thu đĩa ngày ấy cũng rất được thính giả yêu nhạc ngoại quốc ở Sài Gòn ưa chuộng là bản <em>Yellow Bird</em>, được Nam Lộc (và Trường Kỳ?) đặt lời Việt với tựa <em>Chỉ là giấc mơ qua</em>.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image009.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image009_thumb.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="379" width="254"></a></p>
<p>Khoảng đầu thập niên 1960, khi được nghe bản này do ban nhạc Arthur Lyman hòa tấu, chúng tôi cứ ngỡ đây là một bản nhạc có gốc gác đảo Hạ-uy-di (Hawaii), bởi giai điệu và âm hưởng đặc thù Hạ-uy-di trong đó. Về sau có cơ hội tìm hiểu mới biết mình vừa sai vừa… đúng: đây là một ca khúc truyền thống của đảo quốc Haiti (một cựu thuộc địa của Pháp trong vùng biển Caribbean) chứ không phải của đảo Hạ-uy-di (ở Thái bình dương), nhưng đã được ban Arthur Lyman cải biến thành một nhạc khúc mang giai điệu và âm hưởng Hạ-uy-di.</p>
<p>Ca khúc nguyên thủy của Haiti có tựa đề <em>Choucoune</em>, do nhạc sĩ dương cầm <strong>Michel Mauléart Monton</strong>, một người có cha Haiti và mẹ Mỹ, phổ từ bài thơ có cùng tựa của thi sĩ Haiti <strong>Oswald Durand</strong> vào năm 1883.</p>
<p>Bài thơ được viết bằng tiếng Haiti, tức “Créole” – là phối hợp của ba ngôn ngữ Pháp, Tây-ban-nha và Phi Châu, nội dung ca tụng nhan sắc của một phụ nữ Haiti có biệt danh là “<em>Choucoune”.</em></p>
<p>Được được trình diễn lần đầu tiên ở thủ đô Port-au-Prince vào năm 1893, về sau <em>Choucoune </em>đã trở thành một trong những ca khúc truyền thống phổ biến nhất trên hòn đảo này. Năm 1949, trong các buổi liên hoan kỷ niệm 200 năm lập quốc của Haiti, <em>Choucoune </em>đã được sử dụng như một ca khúc chính thức sau quốc ca.<em> </em></p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image011.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image011" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image011_thumb.jpg" alt="clip_image011" border="0" height="304" width="304"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Video: </em></strong></p>
<p><strong><em><span style="text-decoration: underline;"><a href="http://www.youtube.com/watch?v=l8qyNsx9qXY">Choucoune (Ti Zwezo) Haitian Folk Song “Yellow Bird” – YouTube</a></span></em></strong></p>
<h3><a href="http://www.youtube.com/watch?v=gg1WSKIvdBw" target="_blank"><em><span id="yui_3_7_2_1_1393606020219_3151" style="font-family: VNI-Times;">Celia Cruz / Martha Jean-Claude &amp; Sonora Matancera – Choucoune – YouTube</span></em></a></h3>
<p>&nbsp;</p>
<p>Năm 1957, cặp vợ chồng nhạc sĩ kiêm nhà viết ca khúc nổi tiếng Alan và Marilyn Bergman của Mỹ đã đặt lời Anh cho bản <em>Choucoune</em> với tựa <em>“Yellow Bird”.</em> Nội dung lời hát trong nguyên bản tiếng Haiti và phiên bản tiếng Anh hoàn toàn khác nhau; riêng tựa đề <em>Yellow Bird</em>, Alan và Marilyn Bergman được gợi ý từ chữ “ti zwero” (little birds) trong điệp khúc của ca khúc nguyên bản; từ đó, một số người còn gọi ca khúc này là bản <em>Ti Zwero</em>.</p>
<p>Vào khoảng thời gian nói trên, thể điệu “Calypso” sôi động của vùng biển Caribbean đang được xem là thời thượng, cho nên hầu hết các ca sĩ, ban nhạc đã trình bày <em>Yellow Bird</em> theo thể điệu “Calypso”.</p>
<p>Tuy nhiên, đĩa <em>Yellow Bird</em> thành công nhất lại là một đĩa mang giai điệu và âm hưởng Hạ-uy-di, do ban Arthur Lyman Group thu đĩa năm 1961, như chúng tôi đã viết ở một đoạn trên.</p>
<p><strong>Arthur Lyman</strong> (1932 – 2002) ra chào đời tại Hạ-uy-di, mẹ là người bản địa, cha mang 4 dòng máu Hạ-uy-di, Pháp, Bỉ, và Trung Hoa. Arthur Lyman được xem là một trong những nhạc sĩ chơi đàn <strong>marimba </strong>hay nhất từ trước tới nay (“marimba” là một loại đàn gõ tương tự đàn “xylophone”, nhưng làm hoàn toàn bằng gỗ, nên có thanh âm trầm ấm hơn).</p>
<p>Mùa hè năm 1961, bản <em>Yellow Bird</em> do Arthur Lyman Band thu đĩa đã lên tới hạng 4 tính tất cả các thể loại (Billboard Hot 100) và hạng 2 trong danh sách nhạc nhẹ (Easy Listening) tại Hoa Kỳ.</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image013.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image013" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image013_thumb.jpg" alt="clip_image013" border="0" height="254" width="254"></a></strong></p>
<p align="center"><strong>Arthur Lyman Group</strong><strong></strong></p>
<p align="center"><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image015.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image015" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image015_thumb.jpg" alt="clip_image015" border="0" height="231" width="304"></a></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=pAGKfaTZakQ&amp;feature=kp"><strong>Arthur Lyman Group – YELLOW BIRD – YouTube</strong></a></p>
<p>Trong khi đó tại các quốc gia Mỹ la-tinh nói chung, vùng biển Caribbean nói riêng, <em>Yellow Bird</em> lại rất phổ biến và được ưa chuộng qua sự trình tấu của các nhạc sĩ sử dụng “steel drums” (trống thép), còn được gọi là “steel pans”.</p>
<p>Nhạc cụ độc đáo này xuất phát từ Cộng hòa Trinidad and Tobago, là những cái trống bằng thép, mặt trống chia thành nhiều ô tròn hoặc bán nguyệt, khi được gõ lên, mỗi ô sẽ tạo ra âm thanh trầm bổng khác nhau.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=vR7FF-Gw-Hs"><strong>Yellow Bird (Haitian Folk Song) YouTube</strong></a></p>
<p>Riêng những người đàn guitar, có lẽ ai cũng biết tới, và yêu thích bản <em>Yellow Bird</em> qua nghệ thuật trình bày của danh cầm Mỹ <strong>Chet Atkins</strong> (1924-2001), người đã có công khai sáng một thể loại nhạc “country music” êm dịu hơn, thường được gọi là “Nashville sound” (Nashville, thuộc tiểu bang Tennessee, là thủ đô của country music và folk music của Hoa Kỳ).</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=dPg3eJcjuYU"><strong>Chet Atkins – Yellow Bird (Instrumental) – YouTube</strong></a></p>
<p>Về các đĩa <em>Yellow Bird </em>do các ca sĩ hoặc ban hợp ca của Mỹ trình bày, được ưa chuộng nhất tại miền nam Việt Nam trước năm 1975 chính là đĩa của The Brothers Four.</p>
<p><strong>Phụ lục 5:<em> </em></strong><strong><em>Yellow Bird</em></strong><strong> <em>– </em>The Brothers Four</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/05-YellowBird-BrothersFour.mp3&amp;titles= &amp;artists=05-YellowBird-BrothersFour&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0 xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack =0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;righ tbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhove r=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker= 0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Yellow Bird</em></strong><strong> </strong></p>
<p><em>Yellow bird, up high in banana tree<br>
Yellow bird, you sit all alone like me.<br>
Did your lady friend, leave your nest again<br>
That is very sad, make me feel so bad<br>
You can fly away, in the sky away<br>
You’re more lucky than me.<br>
I also had a pretty girl, she’s not with me today<br>
They’re all the same those pretty girls<br>
Take tenderness, then they fly away.</em></p>
<p><em>Yellow bird, up high in banana tree<br>
Yellow bird, you sit all alone like me.</em></p>
<p><em>Let her fly away, in the sky away<br>
Pick a town and soon, take from night to noon<br>
Black and yellow you, like banana too<br>
They might pick you someday.<br>
Wish that I was a yellow bird<br>
I’d fly away with you<br>
But I am not a yellow bird<br>
So here I sit, nothing else to do.<br>
Yellow bird, Yellow bird…<br>
</em></p>
<p>Trước năm 1975,<em>Yellow Bird</em> đã được Nam Lộc (có tài liệu ghi là Trường Kỳ, hoặc Nam Lộc &amp; Trường Kỳ) đặt lời Việt với tựa <em>Chỉ là giấc mơ qua</em>.</p>
<p><strong><em>Chỉ là giấc mơ qua</em></strong><strong></strong></p>
<p><em>Như làn mây, tình yêu thôi, giờ đây lững lờ<br>
Như làn gió, tình yêu thôi, giờ đây hững hờ.<br>
Rồi một lần xa cách là một đời than trách<br>
Rồi cuộc tình bay mất và một người đi khuất<br>
Tình chỉ còn cay đắng để chỉ còn xa vắng<br>
Để chỉ còn nắng vương cuối đường.</em></p>
<p><em>Thương người thương, ngàn xưa ơi, ngàn sau nét cười </em><br>
<em>Vương sầu vương, đường xưa nay giờ đâu bóng người. </em><br>
<em>Tình nhiệm màu tan vỡ lòng chỉ còn nhung nhớ </em><br>
<em>Giờ một mình quên lãng lạnh lùng theo năm tháng </em><br>
<em>Dù một lần em đã mềm lòng như chiếc lá </em><br>
<em>Là một lần xóa mối duyên đầu.</em></p>
<p><em>Em nhớ ngày, anh đón em góc trường </em><br>
<em>E ấp, thẹn thùng, vấn vương </em><br>
<em>Em nhớ ngày, anh đón em cuối đường </em><br>
<em>Dù đường lan vết nắng, nắng vẫn lung linh màu.</em></p>
<p><em>Thôi giờ đây, còn đâu ngọt ngào đôi má hồng </em><br>
<em>Thôi giờ đây, tìm đâu đây mùi hương ngất ngây. </em><br>
<em>Ngày tàn dần như khói chiều buồn dần muôn lối </em><br>
<em>Một mình lang thang tới miền cỏ hoang nắng chói </em><br>
<em>Ngày nào ta chung lối nhẹ nhàng đan tóc rối </em><br>
<em>Chỉ còn là giấc mơ qua rồi.</em></p>
<p>Trong khi nguyên tác <em>Choucoune</em> có nội dung ca tụng nhan sắc của một giai nhân thì <em>Yellow Bird</em> lại viết về nỗi sầu lẻ bóng, còn <em>Chỉ là giấc mơ qua </em>thì tiếc nhớ mối duyên đầu! Tuy nhiên, cả hai ca khúc hát lên, nghe cũng chỉ thấy bâng khuâng, man mác. Có lẽ vì nét nhạc đẹp cho nên nỗi buồn cũng nên thơ?!</p>
<p><strong>Phụ lục 6:<em> Chỉ là giấc mơ qua,</em></strong><strong><em> </em></strong><strong>Thanh Lan</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/06-Chi-La-Giac-Mo-Qua-Thanh-Lan.mp3&amp;titles= &amp;artists=06-Chi La Giac Mo Qua – Thanh Lan&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Phụ lục 7:<em> Chỉ là giấc mơ qua,</em></strong><strong><em> </em></strong><strong>Kiều Nga</strong><strong><em> </em></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/07-Chi-La-Giac-Mo-Qua-Kieu-Nga.mp3&amp;titles= &amp;artists=07-Chi La Giac Mo Qua – Kieu Nga&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Hoài Nam</em></strong></p>
<h2></h2>
<h2>&nbsp;<strong>Phụ lục</strong></h2>
<p><strong>Phụ lục 1:<em> </em></strong><strong><em>Greenfields – </em></strong><strong>The Brothers Four</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_8" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F01-Greenfield-Brothers-Four.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_color s=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_9" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/01-Greenfield-Brothers-Four.mp3&amp;titles= &amp;artists=The Brothers Four&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 2: </strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>Ban Mây Trắng</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_10" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F02-DongxanhGreenFields-LVLeHuuHa.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_ colors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_11" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/02-DongxanhGreenFields-LVLeHuuHa.mp3&amp;titles= &amp;artists=Ban Mây Trắng&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5 E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2 F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgho ver=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xF FFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDD DDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 3:<em> </em></strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>Duy Quang</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_12" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F03-dong-xanh-duy-quang.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_colo rs=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_13" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/03-dong-xanh-duy-quang.mp3&amp;titles= &amp;artists=Duy Quang&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5 &amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2 F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghove r=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFF FFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDD D&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 4:<em> </em></strong><strong><em>Đồng Xanh – </em></strong><strong>Vô Thường (guitar)</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_14" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F04-Greenfield-VoThuong_.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_ colors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_15" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/04-Greenfield-VoThuong_.mp3&amp;titles= &amp;artists=Vô Thường (guitar)&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 5:<em> </em></strong><strong><em>Yellow Bird</em></strong><strong> <em>– </em>The Brothers Four</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_16" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F05-YellowBird-BrothersFour.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666 &amp;b_colors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=fa lse" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_17" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/05-YellowBird-BrothersFour.mp3&amp;titles= &amp;artists= – The Brothers Four&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 6:<em> Chỉ là giấc mơ qua,</em></strong><strong><em> </em></strong><strong>Thanh Lan</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_18" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F02%2F06-Chi-La-Giac-Mo-Qua-Thanh-Lan.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_colors =45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_19" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/06-Chi-La-Giac-Mo-Qua-Thanh-Lan.mp3&amp;titles= &amp;artists=Thanh Lan&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></strong></p>
<p><strong>Phụ lục 7:<em> Chỉ là giấc mơ qua,</em></strong><strong><em> </em></strong><strong>Kiều Nga</strong><strong><em> </em></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_20" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/07-Chi-La-Giac-Mo-Qua-Kieu-Nga.mp3&amp;titles= &amp;artists=Phụ lục 7: Chỉ là giấc mơ qua Kiều Nga&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>&nbsp;</p>
<p>©T.Vấn 2014</p>

saomai
07-30-2015, 07:36 AM
<div class="title">Hoài Nam :NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT(25) – ONLY YOU (Chỉ cần có anh trong đời), SMOKE GETS IN YOUR EYES (Khói thuốc làm lệ rơi) – THE PLATTERS</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image0025.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image002_thumb4.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="335" width="254"></a></strong></p>
<p>Kỳ này, trước khi bước vào việc giới thiệu những ca khúc ngoại quốc phổ thông nổi tiếng được đặt lời Việt, chúng tôi xin trình bày về việc thay đổi thứ tự những phần còn lại. Trước đây, chúng tôi dự tính sẽ giới thiệu những ca khúc phổ thông nổi tiếng được đặt lời Việt trước năm 1975, tiếp theo là những ca khúc nổi tiếng trong phim (movie songs) hoặc trích từ nhạc phim (soundtracks) được đặt lời Việt, và sau cùng là những ca khúc phổ thông được đặt lời Việt sau năm 1975. Tuy nhiên, khi bắt tay vào việc, chúng tôi nhận thấy chẳng những việc đặt lời Việt cho các ca khúc phổ thông nổi tiếng trước năm 1975 đã không luôn luôn theo thứ tự thời gian phổ biến của ca khúc ngoại quốc, mà còn có những ca khúc nổi tiếng từ thập niên 1950, 1960… mãi tới sau 1975 mới được đặt lời Việt.</p>
<p>Vì thế, chúng tôi quyết định xuôi dòng thời gian một cách liên tục; nghĩa là sẽ giới thiệu tất cả mọi ca khúc phổ thông nổi tiếng được đặt lời Việt từ trước năm 1975 cho tới nay, theo thứ tự phổ biến của các ca khúc nguyên thủy, và phần sau cùng của loạt bài sẽ những ca khúc nổi tiếng trong phim, hoặc trích từ nhạc phim.</p>
<p>Bên cạnh đó, vì những nguyên nhân khách quan (nhà xuất bản, cơ sở thực hiện, phát hành băng, đĩa nhạc, các trang mạng âm nhạc…), không ít ca khúc ngoại quốc phổ thông được đặt lời Việt đã không hề ghi tên tác giả lời Việt; gặp trường hợp này, chúng tôi đành phải ghi tác giả “khuyết danh”, và gửi lời cáo lỗi tới các vị ấy.</p>
<p>* * *</p>
<p>Hai trong số những ca khúc ngoại quốc phổ thông được phổ biến sớm nhất tại miền Nam Việt Nam, vào khoảng cuối thập niên 1950, là <em>Only You </em>và<em> Smoke Gets in Your Eyes </em>do ban <strong>The Platters</strong> trình bày.</p>
<p>The Platters được thành lập năm 1953 tại Los Angeles, và cho tới nay vẫn tiếp tục trình diễn với những thành viên mới; tuy nhiên với đa số người yêu nhạc, chỉ có The Platters của hai thập niên 1950, 1960 mới là The Platters “chính hiệu con nai vàng”. Một cách chính xác, là The Platters của khoảng thời gian từ năm 1955 – năm họ thu đĩa <em>Only You</em>, bản đầu tiên lên Top 10, cho tới năm 1969, khi Herb Redd, “thành viên sáng lập” cuối cùng rời bỏ ban này.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image0042.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image004_thumb1.jpg" alt="clip_image004" border="0" height="254" width="254"></a></p>
<p>The Platters của thập niên 1950 gồm 5 thành viên Mỹ gốc Phi châu, trong đó <strong>Tony Williams</strong> hát giọng tenor chính, và giọng phụ <strong>Zola Taylor</strong> là bóng hồng duy nhất.</p>
<p>The Platters chuyên hát nhạc “rhythm and blues” (R&amp;B), và được ghi nhận là ban hợp ca thành công nhất trong thời kỳ đầu của “rock-and-roll”.</p>
<p>Như chúng tôi đã trình bày trong bài kỳ trước, “rock and roll” được hình thành tại Hoa Kỳ vào thập niên 1940, và phát triển mạnh trong thập niên 1950, là sự phối hợp của ba thể loại: “rhythm and blues” (R&amp;B) của người Mỹ gốc Phi châu, western music và country music.</p>
<p>Trong ba thể loại nói trên, country music là thể loại được nhiều người ưa chuộng nhất (có lẽ vì đa số dân Mỹ là người gốc Âu châu), nhưng nếu xét về cả giai điệu lẫn lời hát, R&amp;B là thể loại phong phú nhất.</p>
<p>Trong hơn 20 thể loại của nền nhạc phổ thông ở Hoa Kỳ, jazz được xem là thể loại “cao” nhất, nhưng cũng vì thế, số lượng người thưởng thức bị giới hạn; kế tiếp là R&amp;B (rhythm and blues), vốn được xem biến thể của nhạc blues. Trong khi những thể loại khác có lúc thịnh lúc suy, thì R&amp;B chưa bao giờ đi xuống, mà sau ¾ thế kỷ vẫn tiếp tục là một trong những thể loại quan trọng nhất tại giải âm nhạc Grammy, được ưa chuộng nhất đối với mọi thành phần nghe nhạc. Hiện nay, nếu lướt qua các danh sách ca khúc sống mãi với thời gian, chúng ta sẽ thấy một phần không nhỏ thuộc thể loại R&amp;B. Từ <em>What’d I Say </em>(Ray Charles, 1959) tới<em> My Girl </em>(The Temptations, 1964),<em> Respect </em>(Aretha Franklin, 1967), từ<em> Hello </em>(Lionel Richie, 1983) tới<em> Hero </em>(Mariah Carey, 1993), từ<em> Unbreak My Heart </em>(Toni Braxton, 1996) tới <em>I Will Always Love You</em> (Whitney Houston, 1999)…</p>
<p>Tại Anh quốc, R&amp;B cũng trở thành một thể loại phổ biến, điển hình là các ca khúc của các ban The Rolling Stones, The Animals, The Who…</p>
<p><strong>Video: </strong></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=aLQrY4WdAic" target="_blank"><strong><em>Lionel Richie – Hello – YouTube – 1984</em></strong></a></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=ZOj1urHtu4Y" target="_blank"><strong><em>Unbreak My Heart – Toni Braxton LYRICS – YouTube</em></strong></a></p>
<p><a href="http://nlyrics.com/Whitney_Houston/I_Will_Always_Love_You_Lyrics" target="_blank"><strong><em>Whitney Houston – I Will Always Love You – Lyrics -YouTube</em></strong></a><strong><em></em></strong></p>
<p>Trở lại với The Platters, ca khúc đầu tiên của họ được vào Top 10 của bảng xếp hạng toàn quốc của tạp chí Billboard là bản <em>Only You (And You Alone)</em>, một sáng tác của nhà viết ca khúc <strong>Buck Ram</strong> (1907-1991), cũng là ông bầu của The Platters.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image006.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image006_thumb.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="289" width="254"></a></p>
<p align="center"><strong>Buck Ram</strong> (1907-1991)</p>
<p>Được tung ra vào tháng 7 năm 1955, <em>Only You</em> đã lên No.1 trong bảng xếp hạng thể loại R&amp;B, và No.5 của mọi thể loại (Billboard Hot 100). Tại Anh, Only You lên tới hạng 5, và tại Úc, hạng 19.</p>
<p><strong><em>Only you<br>
</em></strong><em>Only you<br>
can make this world seem right<br>
Only you<br>
can make the darkness bright<br>
Only you and you alone<br>
can thrill me like you do<br>
and fill my heart with love for only you</em></p>
<p><em>Only you<br>
can make this change in me<br>
For it’s true<br>
you are my destiny<br>
When you hold my hand, I understand<br>
the magic that you do<br>
You’re my dream come true<br>
my one and only you, only you</em></p>
<p><em>Only you and you alone<br>
can thrill me like you do<br>
and fill my heart with love for only you</em></p>
<p><em>Only you<br>
can make this change in me<br>
For it’s true<br>
you are my destiny<br>
When you hold my hand, i understand<br>
the magic that you do do<br>
You’re my dream come true<br>
my one my one my one and only you</em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (1): Only You, </em></strong><strong>The Platters</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/01-The-Platter-Only-You.mp3&amp;titles= &amp;artists=01 – The Platter – Only You&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Bốn tháng sau, The Platters đạt thành công rực rỡ hơn nữa với bản <em>The Great Pretender</em>, cũng do Buck Ram sáng tác. Tại Hoa Kỳ, <em>The Great Pretender</em><em> </em>đứng No.1 trong cả bảng xếp hạng thể loại R&amp;B lẫn bảng xếp hạng mọi thể loại. Ca khúc này cũng đứng No.1 ở Úc, còn tại Anh quốc, đứng No.5.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><strong><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=5PlrbPVYuPg"><span style="color: #0000ff;">The Platters – The Great Pretender – HD (1955)</span></a></em></strong></h3>
<p>Đứng No.1 liên tục trong 11 tuần lễ ở Hoa Kỳ, <em>The Great Pretender</em> được xem là thành công lớn nhất trong sự nghiệp của The Platters (hiện nay,<em>The Great Pretender</em> đang đứng hạng 360 trong danh sách “500 Greatest Songs of All Time” của tạp chí ca nhạc Rolling Stone, và luôn luôn nằm trong danh sách 50 ca khúc hay nhất của thể loại R&amp;B), nhưng với giới yêu nhạc phổ thông, càng về sau, <em>Only You</em> càng được ưa chuộng và phổ biến hơn; được nhiều ca sĩ Mỹ và ngoại quốc thu đĩa, và được hát trong hàng chục cuốn phim (nhưng có điều… thú vị là trong cuốn phim hài kịch tình cảm có tựa là <em>Only You</em> (1994), lại không có ca khúc <em>Only You</em>).</p>
<p>Tại Việt Nam, <em>Only You</em> được Phạm Duy đặt lời Việt với tựa <em>Chỉ Cần Có Anh Trong Đời</em>, và được thu âm với tiếng hát Khánh Hà.</p>
<p><em><strong>Chỉ Cần Có Anh Trong Đời</strong></em></p>
<p><em>Người tình đó, chỉ cần có em trong đời<br>
Có em, là đời chói chan ân tình<br>
Dựa vào nhau, dựa vào vai mềm<br>
Mới biết hết bao sướng vui<br>
Sưởi ấm tim ta, bằng tình, tình nồng lứa đôi<br>
Có em mới làm anh biết câu yêu người<br>
Biết bao sướng vui, trời đã nối duyên tơ mình<br>
Bàn tay nắm, bàn tay, chân bước thênh thang<br>
Đường tình mặn mà thơm ngát<br>
Người là mơ, đã thực là một người tình đó thôi.</em></p>
<p>(Hiện nay, trên các trang mạng âm nhạc trong nước còn có một ca khúc khác, cũng mang tựa đề <em>Chỉ Cần Có Anh Trong Đời</em>, và trong số các ca sĩ trình bày cũng có cả Khánh Hà, nhưng không ghi tên tác giả, và nhạc &amp; lời hát hoàn toàn khác với <em>Chỉ Cần Có Anh Trong Đời</em> của Phạm Duy)</p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image008.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image008_thumb.jpg" alt="clip_image008" border="0" height="380" width="254"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2): Chỉ Cần Có Anh Trong Đời </em></strong><strong>(Phạm Duy), Khánh Hà</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/02-CHI-CAN-CO-ANH-TRONG-DOI.mp3&amp;titles= &amp;artists=02- CHI CAN CO ANH TRONG DOI&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Qua năm 1956, The Platters được mời xuất hiện trong cuốn phim ca nhạc đầu tiên của thể loại “rock and roll” có tựa đề <em>Rock Around the Clock, </em>và đã trình bày hai ca khúc<em> Only You </em>và <em>The Great Pretender</em> trong phim này.</p>
<p>Hai năm sau, The Platters đã đạt thêm hai thành tích để đời khác: tháng 4 năm 1958, ca khúc <em>Twilight Time</em> của họ đứng No.1 trong cả bảng xếp hạng thể loại R&amp;B lẫn bảng xếp hạng mọi thể loại, đồng thời đứng No.1 ở Úc, No.3 tại Anh; và tới tháng 10 cùng năm, ca khúc <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> do họ thu đĩa đã đứng No.3 trong bảng xếp hạng thể loại R&amp;B, No.1 trong bảng xếp hạng mọi thể loại, và đứng No.1 ở cả Úc lẫn Anh quốc.</p>
<p>Vì ngày ấy, bản<em> Twilight Time </em>không mấy phổ biến tại Việt Nam, trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới<em> Smoke Gets in Your Eyes.</em></p>
<p>The Platters không phải những ca sĩ đầu tiên thu đĩa <em>Smoke Gets in Your Eyes. </em></p>
<p>Nguyên đây là một nhạc khúc vũ thiết hài trong vở ca nhạc kịch <em>Show Boat</em> (1927) của nhà soạn nhạc <strong>Jerome Kern</strong> (1885-1945). Tới năm 1933, nhạc khúc này được <strong>Otto Harbach</strong> (1873-1963) đặt lời hát với tựa <em>Smoke Gets in Your Eyes </em>để sử dụng trong vở ca kịch <em>Roberta</em>.</p>
<p align="center"><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image010.jpg"><img style="background-image: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image010_thumb.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="226" width="236"></a></em></strong> <strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image012.jpg"><img style="background-image: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin: 0px; display: inline; padding-right: 0px; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image012_thumb.jpg" alt="clip_image012" border="0" height="225" width="177"></a></em></strong></p>
<p align="center"><strong>Jerome Kern</strong> (1885-1945) <strong>Otto Harbach</strong> (1873-1963)<strong><em></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Smoke Gets in Your Eyes </em></strong><strong><em></em></strong></p>
<p><em>They asked me how I knew<br>
My true love was true<br>
Oh, I of course replied<br>
Something here inside cannot be denied<br>
They said someday you’ll find<br>
All who love are blind<br>
Oh, when your heart’s on fire<br>
You must realize<br>
Smoke gets in your eyes<br>
So I chaffed them and I gaily laughed<br>
To think they could doubt my love<br>
Yet today my love has flown away<br>
I am without my love<br>
Now laughing friends deride<br>
Tears I can not hide<br>
Oh, so I smile and say<br>
When a lovely flame dies<br>
Smoke gets in your eyes<br>
Smoke gets in your eyes </em></p>
<p>Qua năm 1934, <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> được dàn nhạc jazz Paul Whiteman thu đĩa, và đứng No.1 trên bảng xếp hạng nhạc phổ thông. Năm 1935, vở <em>Roberta </em>được hãng phim RKO đưa lên màn bạc với nữ diễn viên kiêm danh ca <strong>Irene Dunne</strong> (1898-1990), và cặp diễn viên vũ huyền thoại <strong>Fred Astaire &amp; Ginger Rogers</strong>. Cuốn phim thành công rực rỡ, và lẽ dĩ nhiên, hai cảnh “ăn tiền” nhất trong phim là cảnh Irene hát bản <em>Smoke Gets in Your Eyes</em>, và cảnh Fred Astaire &amp; Ginger Rogers vũ theo nhạc khúc này.</p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image014.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image014" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image014_thumb.jpg" alt="clip_image014" border="0" height="374" width="254"></a></strong></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><strong><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=gkQU-VQkhGw"><span style="color: #0000ff;">Irene Dunne – Smoke Gets in Your Eyes – YouTube</span></a></em></strong></h3>
<p>Năm 1941, sau khi được nhạc trưởng kiêm nhạc sĩ dương cầm Teddy Wilson soạn hòa âm và thu đĩa, <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> trở thành một nhạc khúc rất được giới đàn dương cầm ưa chuộng.</p>
<p>Tới năm 1946, <em>Smoke Gets in Your Eyes </em>được Nat King Cole thu đĩa; thời gian này, Nat King Cole còn đang hát và đàn dương cầm trong các ban nhạc jazz, cho nên đĩa <em>Smoke Gets in Your Eyes </em>của ông cũng không phổ biến cho lắm trong giới nghe nhạc phổ thông.</p>
<p>Năm 1952, vở <em>Roberta </em>được đưa lên màn bạc lần thứ hai, lần này do hãng phim MGM thực hiện, với tựa đề mới là <em>Lovely to Look At</em> (để tránh rắc rối về bản quyền với hãng RKO). Vai chính được trao cho <strong>Kathryn Grayson</strong> (1922-2010), một nữ diễn viên có giọng opera soprano rất truyền cảm; tuy nhiên, so với cuốn phim thứ nhất (<em>Roberta</em>), <em>Lovely to Look At</em> chỉ thành công tương đối.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<p><a href="http://www.youtube.com/watch?v=GtcRPG6nmXo&amp;list=PLD2EBE6B6AD7CC30B&amp;index= 6" target="_blank"><strong><em>Smoke Gets in Your Eyes Kathryn Grayson – YouTube</em></strong></a></p>
<p>Phải đợi tới năm 1958, qua nghệ thuật trình bày của The Platters, <em>Smoke Gets in Your Eyes </em>mới thực sự trở thành một ca khúc phổ thông với số đĩa hát bán ra hàng triệu.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3): Smoke Gets in Your Eyes, The Platters</em></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/03-Smoke-Gets-In-Your-EyesThe-Platters.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-Smoke Gets In Your EyesThe Platters&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Về mức độ phổ biến tại miền nam Việt Nam trước đây, so với những ca khúc ngoại quốc lời Anh cùng thời của Doris Day, Connie Francis, Elvis Presley, Neil Sedaka, Paul Anka, và ngay cả với bản <em>Only You</em> của The Platters trước đó, <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> đã không được nhiều người biết tới.</p>
<p>Theo suy nghĩ của chúng tôi, có hai nguyên nhân. Thứ nhất, mặc dù được người Anh người Mỹ liệt vào hàng ca khúc phổ thông (popular song), <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> do The Platters thu đĩa vẫn ít nhiều mang âm hưởng nhạc jazz, thể loại tương đối hơi “cao” và mới lạ so với trình độ thưởng thức của đa số thính giả Việt Nam. Thứ hai, vì trình độ Anh ngữ giới hạn, hoặc vì không có cơ hội đọc nguyên văn lời hát, người nghe đã không thấu đáo ý nghĩa của ca khúc vốn được xưng tụng là một trong những ca khúc có lời hát hay nhất từ trước tới nay.</p>
<p>Nhưng với những ai thưởng thức được thể loại nhạc jazz thì chỉ cần nghe qua giai điệu của <em>Smoke Gets in Your Eyes</em> sẽ ưa thích ngay, và nếu hiểu được cả lời hát, càng cảm thấy thú vị hơn.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4): Smoke Gets in Your Eyes, </em></strong><strong>Nana Mouskouri</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/04-Smoke-Gets-in-your-eyes-Nana-Mouskouri.mp3&amp;titles= &amp;artists=04 – Smoke Gets in your eyes – Nana Mouskouri&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><em>Smoke Gets in Your Eyes</em> được nhạc sĩ Lữ Liên, thân phụ của các ca sĩ Tuấn Ngọc, Khánh Hà… đặt lời Việt với tựa <em>K<strong>hói Thuốc Làm Lệ Rơi</strong></em><strong>.</strong></p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image016.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image016" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/clip_image016_thumb.jpg" alt="clip_image016" border="0" height="197" width="254"></a></strong></p>
<p><strong><em>Khói Thuốc Làm Lệ Rơi</em></strong></p>
<p><em>Ta tuy chớm yêu lầm lỗi<br>
Bởi trách nhau hờn dỗi<br>
Khiến cho tình chia phôi<br>
Vắng nhau về chung lối<br>
Bóng anh đã xa vời<br>
Xưa tình đến như một sớm<br>
Mình bỗng nhiên mù quáng<br>
Trái tim lửa tình yêu<br>
Nhớ nhung hồn khô héo<br>
Khói thuốc làm lệ rơi<br>
Tình nồng thắm, tình yêu ta thầm mê đắm<br>
Vững tin người mình yêu trăm năm<br>
Rồi một sớm tả tơi nghe hồn tan vỡ<br>
Xót xa tình vỗ cánh bay<br>
Bỗng ngày chợt mắt vương niềm đau<br>
Bạn thấy ta vội dấu<br>
Giữa khi đời còn tươi<br>
Nhớ thương lòng còn vương vấn<br>
Khói thuốc làm lệ rơi </em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (5): Khói thuốc làm lệ rơi (Lữ Liên), Khánh Hà </em></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/05-KHOI-THUOC-LAM-LE-ROI.mp3&amp;titles= &amp;artists=05 – KHOI THUOC LAM LE ROI&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Sau hết, chúng tôi xin có đôi lời bàn “trà dư tửu hậu” về bản lời Anh nguyên tác và bản lời Việt của Lữ Liên. Xin nhấn mạnh: “bàn” chứ không “bình”!</p>
<p>Cho dù bản thân chỉ là người nghe nhạc chứ không viết nhạc, chúng tôi cũng có thể nhận ra một điều: đặt lời Việt cho một ca khúc, nhạc khúc ngoại quốc, nhất là của Âu Mỹ, khó hơn đặt lời cho một bản nhạc Việt; và giữa việc đặt lời Việt cho một ca khúc ngoại quốc và một nhạc khúc ngoại quốc, thì đặt lời cho một ca khúc khó hơn.</p>
<p>Khó, bởi vì muốn đặt lời Việt cho đạt, trước hết phải có trình độ ngoại ngữ tương đối để hiểu được nội dung ca khúc ngoại quốc ấy. Nhưng chỉ hiểu mà thôi thì chưa đủ, cần phải có sự rung cảm, và sau cùng, phải có khả năng đặt lời Việt sao cho không chỉ xuôi tai mà còn chuyển đạt được tâm tình của tác giả ca khúc nguyên thủy.</p>
<p>Thành công điển hình là các bản <em>Về mái nhà xưa</em> (Come Back to Sorrento), <em>Giàn thiên lý đã xa </em>(Chèvrefeuilles que tu es loin) của Phạm Duy, <em>Lá mùa thu</em> <em>(Les Feuilles Mortes)</em> của Nguyễn Đình Toàn, <em><em>Dòng sông tuổi nhỏ</em></em><em> (La Maritza) của Vũ Xuân Hùng</em>, <em>Donna</em> (Donna) của Trần Tiến, v.v…</p>
<p>Tuy nhiên về sau này, không phải tất cả mọi ca khúc “nhạc ngoại quốc lời Việt” đều được đặt lời theo nguyên tắc nói trên, mà có những bản được đặt lời Việt với nội dung hoàn toàn khác hẳn, chẳng hạn bản <em>Trưng Vương khung cửa mùa thu</em> (Tell Laura I Love Her) của Nam Lộc, có những bản chỉ lấy một vài ý trong ca khúc nguyên thủy, mà thí dụ điển hình chính là bản <em>K<strong>hói Thuốc Làm Lệ Rơi</strong></em><strong> (</strong>Smoke Gets in Your Eyes) của Lữ Liên.</p>
<p>Thú thật, ngày ấy bản thân chúng tôi chỉ nghe thoáng qua chứ chưa có dịp đọc tận mắt lời hát nguyên thủy bằng tiếng Anh, nên khi nghe Khánh Hà hát:</p>
<p><em>…Bỗng ngày chợt mắt vương niềm đau<br>
Bạn thấy ta vội dấu<br>
Giữa khi đời còn tươi<br>
Nhớ thương lòng còn vương vấn<br>
Khói thuốc làm lệ rơi </em></p>
<p>thì cho rằng cô gái khóc vì bị tình phụ, nhưng khi được bạn hỏi đã trả lời “<em>Khói thuốc làm lệ rơi”!</em></p>
<p>Tới khi được đọc nguyên văn lời hát tiếng Anh, mới biết cô gái không cay mắt vì khói thuốc mà vì khói …từ trong tim:</p>
<p>Trước đây, khi được bạn bè cảnh giác “tất cả những ai đang yêu đều mù quáng, bởi khi lửa tình cháy trong tim, bạn phải biết, khói bốc lên làm mờ đôi mắt” (<em>All who love are blind – Oh, when your heart’s on fire – You must realize – Smoke gets in your eyes), </em>cô chỉ cười.<br>
<em><br>
</em>Nay tình bỏ ra đi, bị bạn bè chế nhạo vì những giọt nước mắt đọng trên mi, cô mỉm cười đáp lại “khi một ngọn lửa tình đẹp vụt tắt, khói bay lên đôi mắt (<em>When a lovely flame dies – Smoke gets in your eyes) </em>làm lệ rơi.<em></em></p>
<p>Theo cảm quan của riêng chúng tôi, phân nửa cái hay của lời hát nằm trong hai câu cuối ấy: khi một cuộc tình đẹp tan vỡ, người ta tiếc nhớ, nhưng không bao giờ ân hận.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (6): <strong>Smoke</strong></em></strong><em> <strong>Gets in Your Eyes </strong></em><strong>(Piano),<em> </em>Richard Clayderman</strong><strong></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/06-SmokeGetsInYourEyes-RichardClayderm_.mp3&amp;titles= &amp;artists=06-SmokeGetsInYourEyes-RichardClayderm_&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp; bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;volt rack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp; rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticon hover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;trac ker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7): Smoke Gets in Your Eyes </em></strong><strong>(Guitar) </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/01/07-SmokeGetsInYourEyes-VariousArtist.mp3&amp;titles= &amp;artists=07-SmokeGetsInYourEyes-VariousArtist&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg= 0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrac k=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rig htbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhov er=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker =0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Hoài Nam<em> </em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>

saomai
09-11-2015, 06:13 AM
NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT(26)-TELL LAURA I LOVE HER (Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu) – Barry &amp; Raleigh</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><h6><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image0021.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image002_thumb1.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="337" width="254"></a></h6>
<p>Tiếp tục giới thiệu những ca khúc ngoại quốc phổ thông nổi tiếng được đặt lời Việt, kỳ này chúng tôi viết về bản <em>Tell Laura I Love Her</em>, trước năm 1975 được <strong>Nam Lộc</strong> đặt lời Việt với tựa <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu.</em></p>
<p><em>Tell Laura I Love Her</em> và <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>không chỉ có nội dung khác hẳn nhau mà còn mang lại cho người nghe những cảm xúc hoàn toàn trái ngược: một bi thương sầu thảm, một bâng khuâng thơ mộng.</p>
<p>Nội dung của <em>Tell Laura I Love Her</em>, một sáng tác của hai nhà viết ca khúc Jeff Barry và Ben Raleigh, là một thảm kịch tuổi “teen” thời đại:</p>
<p>Laura và Tommy là đôi tình nhân trẻ. Tuy còn rất trẻ, nhưng Tommy đã mong muốn xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Để có tiền mua cho Laura cái nhẫn cưới, Tommy quyết định tham gia cuộc đua xe hơi với giải thưởng 1.000 đô-la. Trước khi tới trường đua, Tommy điện thoại cho Laura nhưng không gặp, đành nhờ bà mẹ của nàng nhắn lại: <em>Tell Laura I Love Her!…</em></p>
<p>Trong cuộc đua, xe của Tommy bị lật và bốc cháy; khi nhân viên cấp cứu tới nơi, họ chỉ kịp nghe được câu nói cuối cùng của Tommy trước khi tắt thở: <em>Tell Laura I Love Her!…</em></p>
<p>Rồi một mình trong giáo đường thanh vắng, cầu nguyện cho linh hồn người yêu, Laura vẫn có thể nghe văng vẳng tiếng Tommy: <em>Tell Laura I Love Her!</em></p>
<h6><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image0041.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image004" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image004_thumb1.jpg" alt="clip_image004" border="0" height="304" width="304"></a></em></h6>
<p><em><strong>Tell Laura I love her</strong></em></p>
<p><em>Laura and Tommy were lovers<br>
He wanted to give her everything<br>
Flowers, presents,<br>
But most of all, a wedding ring</em></p>
<p><em>He saw a sign for a stock car race<br>
A thousand dollar prize it read<br>
He couldn’t get Laura on the phone<br>
So to her mother, Tommy said</em></p>
<p><em>Tell Laura I love her<br>
Tell Laura I need her<br>
Tell Laura I may be late<br>
I’ve something to do, that cannot wait</em></p>
<p><em>He drove his car to the racing grounds<br>
He was the youngest driver there<br>
The crowed roared as they started the race<br>
Around the track they drove at a deadly pace</em></p>
<p><em>No one knows what happened that day<br>
Or how his car overturned in flames<br>
But as they pulled him from the twisted wreck<br>
With his dying breath, they heard him say</em></p>
<p><em>Tell Laura I love her<br>
Tell Laura I need her<br>
Tell Laura not to cry<br>
My love for her will never die</em></p>
<p><em>Now in the chapel where Laura prays<br>
For her poor Tommy, who passed away<br>
It was just for Laura he lived and died<br>
Alone in the chapel she can hear him cry</em></p>
<p><em>Tell Laura I love her<br>
Tell Laura I need her<br>
Tell Laura not to cry<br>
My love for her will never die</em></p>
<p><em>Tell Laura I love her<br>
Tell Laura I need her<br>
Tell Laura not to cry<br>
My love for her will never die.</em></p>
<p><em>Tell Laura I Love Her </em>được nam ca sĩ <strong>Ray Peterson</strong> thu đĩa, hãng RCA Victor phát hành vào tháng 7 năm 1960, mặc dù bị nhiều đài phát thanh tẩy chay vì tính cách bi thảm của nội dung, tới tháng 8, ca khúc này đã lên tới hạng 7 trên bảng xếp hạng toàn quốc cho mọi thể loại (Billboard Hot 100).</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1): Tell Laura I love her, </em></strong><strong>Ray Peterson </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/01-Tell-laura-I-love-her-Ray-Peterson.mp3&amp;titles= &amp;artists=01-Tell laura I love her – Ray Peterson&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Trước thành công của <em>Tell Laura I Love Her </em>tại Hoa Kỳ, hãng đĩa Decca của Anh lập tức thương lượng với hãng RCA Victor để được độc quyền phát hành tại Anh quốc. Chỉ tới khi đợt đĩa nhựa thứ nhất gồm 25.000 ấn bản đã được thực hiện, hãng Decca mới nhận ra điều mà họ gọi là “tính cách quá sức tầm thường và vô vị đối với cảm quan của người Anh” trong lời hát; và quyết định tiêu hủy toàn bộ số đĩa hát nói trên!</p>
<p>Nhưng “cương luân nghề nghiệp” (tạm gọi như thế) của những người đứng đầu hãng đĩa Decca lại trở thành dịp may hiếm có cho hãng đĩa EMI (cũng của Anh): EMI liền mua ngay tác quyền <em>Tell Laura I Love Her, </em>trao cho<em> </em>ca sĩ Anh <strong>Ricky Valance</strong> thu đĩa, và tung ra thị trường vào tháng 9 năm 1960. Kết quả: <em>Tell Laura I Love Her</em> đã đứng nhất trên bảng xếp hạng ở Anh quốc trong ba tuần lễ liên tiếp, nhưng lại bị hệ thống truyền thanh BBC liệt vào danh sách những ca khúc bị cấm.</p>
<p>Nguyên nhân BBC cấm <em>Tell Laura I Love Her </em>ra vẻ thực tế hơn nguyên nhân của hãng Decca khi cho tiêu hủy 25.000 đĩa nhựa: ca khúc này sẽ khích động giới trẻ lái xe bạt mạng hơn, trong khi số tai nạn lưu thông gây tử vong nơi giới này hiện đã gia tăng tới mức báo động!</p>
<p>[Truyền thông Anh Mỹ liệt <em>Tell Laura I Love Her </em>vào loại “teen tragedy songs”, hoặc “death rock ballads”, rất thịnh hành trong khoảng thời gian từ giữa thập niên 1950 tới đầu thập niên 1960; những ca khúc có tác dụng phủ hào quang lên những cái chết trẻ, nhất là chết vì lái xe bạt mạng, mà nổi tiếng nhất là cái chết vào tuổi 24 của thần tượng điện ảnh <strong>James Dean</strong> (1931-1955), khi anh lái chiếc xe thể thao Porsche 550 Spyder trên đường tới Salinas, Califorinia để tham dự một cuộc đua.</p>
<p>Các “teen tragedy songs”, “death rock ballads” nổi tiếng nhất vào khoảng thời gian này, ngoài<em> Tell Laura I Love Her</em> còn có <em>Endless Sleep</em> (1958), <em>Teen Angel</em> (1959), <em>Last Kiss</em> (1962), <em>Laurie</em> <em>(Strange Things Happen</em>, 1964)…, tất cả đều có lời hát viết về những cái chết trẻ. Tại Hoa Kỳ, cho dù không có lệnh cấm chính thức như ở Anh quốc, đa số các đài phát thanh ở miền Đông (East Coast) vốn có tiếng bảo thủ, nề nếp hơn miền Tây, đã từ chối phát những ca khúc này trên làn sóng điện]</p>
<p>* * *</p>
<p>Tuy nhiên, lệnh cấm của BBC ra vẻ đã không ảnh hưởng gì tới thành công của bản <em>Tell Laura I Love Her </em>do Ricky Valance thu đĩa. Ngoài thứ hạng No.1 ở Anh với trên một triệu đĩa được bán ra trong năm 1960, đĩa hát này còn đứng trong Top 10 tại 13 quốc gia khác, và bán được tổng cộng 7 triệu đĩa – một con số kỷ lục vào thời đó.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image006.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image006" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image006_thumb.jpg" alt="clip_image006" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Ricky Valance, nguyên là một cựu quân nhân trong Không lực Hoàng gia Anh mới ký hợp đồng với hãng đĩa Decca được mấy tháng, bỗng một sớm một chiều nổi tiếng quốc tế, trở thành ca sĩ gốc xứ Wales (Welsh) thứ hai có đĩa hát lên No.1. Người trước đó là (Dame) Shirley Bassey, sau này được khán giả của loạt phim điệp viên 007 James Bond biết tới qua các ca khúc trong phim, như <em>Goldfinger</em> (1964), <em>Diamonds Are Forever</em> (1971), <em>Moonraker</em> (1979)…</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2): Tell Laura I Love Her, </em></strong><strong>Ricky Valance</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/02-Ricky-Valance-Tell-Laura-I-Love-Her.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-Ricky Valance – Tell Laura I Love Her&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>VIẾT THÊM: Cho tới nay, ít ra cũng là trên Internet, vẫn còn rất nhiều người Mỹ lầm tưởng Ricky Valance chính là nam ca nhạc sĩ <strong>Ritchie Valens</strong> của Mỹ, và có đến hơn ba phần tư trang mạng khi nhắc tới ca khúc <em>Tell Laura I Love Her </em>đã viết là do Ritchie Valens thu đĩa!</p>
<p>Ritchie Valens tên thật là Richard Steven Valenzuela, sinh năm 1941 (kém Ricky Valance hai tuổi), là ca nhạc sĩ (guitar) và nhà viết ca khúc gốc Mỹ la-tinh đầu tiên của nền nhạc rock and roll, tử nạn phi cơ vào tuổi 18. Trong sự nghiệp kéo dài chưa đầy tám tháng, Ritchie Valens đã để lại hai ca khúc nổi tiếng là <em>Donna</em>, viết cho cô bạn gái Donna (không phải bản <em>Donna Donna</em> của Joan Baez đã nhắc tới trong loạt bài này) và <em>La Bamba (The Dance)</em>, cải biến từ một ca khúc dân gian Mễ-tây-cơ.</p>
<p>Ngày 3 tháng 2 năm 1959, chiếc phi cơ nhỏ trên đó có Ritchie Valens và hai nhạc sĩ bạn Buddy Holly, J.P. Richardson đã đâm vào núi ở tiểu bang Iowa, cả ba người và viên phi công tử nạn. Năm 1972, trong ca khúc <em>American Pie</em> (đứng No.1 nhiều tuần lễ) sáng tác để tưởng niệm ba đàn anh vắn số, ca nhạc sĩ Don McLean đã gọi ngày này “The Day the Music Died”. Năm 1987, cuốn phim <em>La Bamba</em>, nói về cuộc đời và sự nghiệp ngắn ngủi của Ritchie Valens, do nam diễn viên Lou Diamond Phillips thủ vai chính, đã được đón nhận nồng nhiệt và đoạt nhiều giải thưởng quan trọng.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=9M55Qg6KGE4" target="_blank"><span style="font-weight: bold;">Ritchie Valens – La Bamba – YouTube</span></a></em></h3>
<p>Trở lại với ca khúc <em>Tell Laura I Love Her</em> do Ray Peterson và Ricky Valance thu đĩa, sau đó đã được nhiều ca sĩ thời danh của Mỹ thu đĩa, trong đó có Paul Anka, Ricky Nelson, Johnny T. Angel…</p>
<p>Về các phiên bản ngoại quốc, có tiếng Đức (<em>Das Ende Der Liebe</em>), tiếng Ý (<em>Ditte a Laura che l’amo</em>), tiếng Tây-ban-nha (<em>La Historia de Tommy</em>), còn tiếng Pháp thì có hai bản, một của Richard Anthony với tựa <em>Dis à Laura</em>, một của Frank Michael với tựa <em>Dis-lui que je l’aime</em>.</p>
<p><strong><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image008.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image008_thumb.jpg" alt="clip_image008" border="0" height="304" width="304"></a></strong></p>
<p><strong>Richard Anthony</strong>, sinh năm 1938, là ca sĩ Pháp nổi tiếng với những ca khúc ngoại quốc do ông đặt lời Pháp. Đầu thập niên 1960, Richard Anthony đã làm say mê hàng triệu người yêu nhạc Pháp với bản <em>J’entends Siffler Le Train</em> nguyên là ca khúc <em>500 Miles</em> của Mỹ (chúng tôi sẽ trở lại với <em>500 Miles</em> trong một bài sau). <em>Dis à Laura (Tell Laura I Love Her) </em>được ông thu đĩa năm 1961.</p>
<p><strong>Dis à Laura</strong></p>
<p><em>Viens, mon ami le geôlier<br>
A toi, je vais tout raconter<br>
Demain très tôt, au petit jour<br>
J’aurai mon tour, j’aurai mon tour<br>
Et je dirai adieu à la vie<br>
Pour lui payer bien des folies<br>
Si par hasard tu la vois<br>
Va saluer Laura pour moi</em></p>
<p><em>Dis-lui que je l’aime </em><br>
<em>D’un amour trop grand pour son coeur </em><br>
<em>Et que je pars sans un pleur </em><br>
<em>Dis-lui tout cela, dis-le-lui pour moi</em></p>
<p><em>Laura bravait le monde entier </em><br>
<em>Pour ses désirs d’enfant gâtée </em><br>
<em>Ses yeux, son corps au long des jours </em><br>
<em>Chantaient l’amour, chantaient l’amour </em><br>
<em>Je l’ai tenue dans mes bras, serrée </em><br>
<em>Pour la garder j’ai tout renié </em><br>
<em>Et quand Laura m’a trahi </em><br>
<em>Notre roman s’est mal fini</em></p>
<p><em>Dis-lui que je l’aime </em><br>
<em>D’un amour plus fort que la mort </em><br>
<em>Et pour chasser ses remords </em><br>
<em>Dis-lui tout cela </em><br>
<em>Dis-le-lui pour moi</em></p>
<p><em>Pour moi, Laura était trop jolie </em><br>
<em>Un soir, j’ai tué par jalousie </em><br>
<em>Et je pourrais, sans regret </em><br>
<em>Pour un baiser, recommencer</em></p>
<p><em>Dis-lui que je l’aime </em><br>
<em>Qu’il lui faut oublier mon nom </em><br>
<em>Et m’accorder son pardon </em><br>
<em>Dis-lui tout cela, dis-le-lui pour moi</em></p>
<p><strong>Video:</strong><strong></strong></p>
<h3><span style="font-weight: bold;"><a href="http://www.youtube.com/watch?v=504BUaqRbN4" target="_blank">Richard Anthony – Dis à Laura – YouTube</a></span></h3>
<p>Bản <em>Dites-lui que je l’aime của </em>Frank Michael (sinh năm 1953) thu đĩa hai thập niên sau đó không có lời hát bi lụy mà nói về một cuộc ra đi… có hẹn ngày về. Có lẽ vì thế, các cô nữ sinh Trưng Vương (chúng tôi đoán như thế) đã sử dụng lời hát của bản này để đưa lên YouTube (từ khóa: <em>Dites-lui Que Je L’aime – Frank Michael – Trung Vuong Khung Cua Mua Thu – YouTube</em>)</p>
<p><strong><em><br>
</em></strong><strong>Dites-lui que je l’aime </strong></p>
<p><em>L’amour parfois se flétrit et s’endort<br>
Mais de ces cendres peut renaitre encore<br>
Un bonheur oublie, qu’il tenait tant à lui donner<br>
Sur sa guitare il a composé<br>
Une chanson son il lui disait<br>
Son espoir de la retrouver<br>
Et cette histoire à tous il l’a chantée</em></p>
<p><em>Dites-lui que je l’aime </em><br>
<em>Mais que je dois partir </em><br>
<em>Un jour je reviendrai </em><br>
<em>Et ce jour je pourrai encore l’aimer</em></p>
<p><em>Depuis ce jour la chance lui sourit </em><br>
<em>De part le monde chacun l’applaudit </em><br>
<em>Mais dans sa vie plus rien ne comptait </em><br>
<em>Car c’est toujours à elle qu’il pensait </em><br>
<em>Roulant trop vite vers elle dans la nuit </em><br>
<em>Dans un tournant le destin le surprit </em><br>
<em>Et quand à l’aube on le retrouva </em><br>
<em>Jusqu’au dernier mot à tous il murmura</em></p>
<p><em>Dites-lui que je l’aime </em><br>
<em>Cachez-lui que je souffre </em><br>
<em>Un jour je reviendrai </em><br>
<em>Et ce jour je pourrai encore l’aimer</em></p>
<p><em>Aujourd’hui elle est seule </em><br>
<em>Mais elle ne peut l’oublier </em><br>
<em>Car sa voix est toujours là </em><br>
<em>Et par ce disque toujours il lui dira</em></p>
<p><em>Dites-lui que je l’aime </em><br>
<em>Mais que je dois partir </em><br>
<em>Un jour je reviendrai </em><br>
<em>Et ce jour je pourrai </em><br>
<em>Encore l’aimer </em><br>
<em>Dites-lui que je l’aime…</em></p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><span style="font-weight: bold;"><a href="https://www.youtube.com/watch?v=B5p2HuiUvh4" target="_blank">Frank Michael – Dites-lui que je l’aime – La vidéo – YouTube</a></span></h3>
<p>Về mức độ phổ biến của bản Tell Laura I Love Her tại Á Đông, chúng tôi còn nhớ trong một tài liệu đọc được ở đâu đó, tác giả (không phải người Việt) đã viết đại khái: tại Á châu, Tell Laura I Love Her chỉ được đặt lời hát bằng ba ngôn ngữ: tiếng Nhật, tiếng Hoa, và tiếng Việt. Nếu quả đúng như thế, người Việt cũng nên hãnh diện về trình độ thưởng thức nhạc ngoại quốc của mình.</p>
<p>Tell Laura I Love Her tiếng Nhật, chúng tôi không biết tựa đề và nội dung, chỉ biết được nam ca sĩ kiêm diễn viên điện ảnh <strong>Takeshi Kaneshiro</strong> trình bày; còn bản lời Hoa (tiếng phổ thông), chúng tôi cũng không biết tựa đề lẫn nội dung; trước năm 1975, ca khúc này đã được trình bày qua giọng hát trầm ấm của đệ nhất danh ca Tân-gia-ba <strong>Fu Su Yin</strong> (tên tiếng Anh là Henri Fu).</p>
<p>Tới thời disco, Tell Laura I Love Her lời Hoa được nữ diễn viên kiêm ca sĩ <strong>Mimi Chu</strong> (tức Chu Mi Mi, phiên âm Hán Việt: Chu Mễ Mễ) của Hương Cảng thu đĩa năm 1980, trở thành bản disco thịnh hành bậc nhất ở những xứ nói tiếng Hoa.</p>
<p>Hơn 10 năm sau, tới lượt nam ca sĩ kiêm diễn viên <strong>Jincheng Wu</strong> (Kim Thành Vũ) hát bằng cả tiếng Hoa lẫn tiếng Anh. Điều thú vị là Jincheng Wu ở đây chính là nam diễn viên kiêm ca sĩ Nhật <strong>Takeshi Kaneshiro</strong> đã nhắc tới ở trên.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image010.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image010" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image010_thumb.jpg" alt="clip_image010" border="0" height="244" width="304"></a></p>
<p>Takeshi Kaneshiro là một tên tuổi lớn của điện ảnh Á Châu, vào năm 2003 đã được tạp chí Time của Mỹ gọi là “Johnny Depp của Á châu”.</p>
<p>Ra chào đời tại Đài-bắc năm 1972, cha là người đảo Okinawa (thuộc Nhật Bản), mẹ là người Đài-loan, Takeshi Kaneshiro mang hai quốc tịch, dưới hai tên Jincheng Wu và Takeshi Kaneshiro. Sau bậc trung học, Takeshi Kaneshiro vừa theo học trường Taipei American School với mục đích trau dồi Anh ngữ, vừa bắt đầu đóng những màn quảng cáo có ca hát trên truyền hình, và tới năm 1992 được hãng đĩa EMI ký hợp đồng. Năm 1993, Takeshi Kaneshiro bắt đầu đóng phim, và đạt thành công lớn ở cả Đài-loan, Nhật Bản, Hương Cảng lẫn Hoa Lục.</p>
<p>Hai cuốn phim nổi tiếng trong thời gian gần đây của Takeshi Kaneshiro là <em>House of Flying Daggers</em> (Thập Diện Mai Phục) năm 2004 của đạo diễn Zhang Zimou (Trương Nghệ Mưu), đóng chung với Andy Lau (Lưu Đức Hòa) và Zhang Ziyi (Chương Tử Di), và bộ phim <em>Red Cliff</em> (Đại Chiến Xích Bích) năm 2008 của đạo diễn John Wu (Ngô Vũ Sâm), trong đó Takeshi Kaneshiro thủ vai quân sư Gia Cát Lượng của nhà Thục Hán, còn Tony Leung (Lương Triều Vĩ) thủ vai Đô đốc Chu Du của Đông Ngô.</p>
<h4>Video:</h4>
<h3><em><span style="font-weight: bold;"><a href="https://www.youtube.com/watch?v=ckkTf0TGDcI" target="_blank">SU YIN “Tell Laura I Love Her ” 196X YouTube</a></span></em><em></em></h3>
<h4><em><a href="http://www.youtube.com/watch?v=aEY70mJh4Nc" target="_blank">Chu Mimi Tell Laura I Love Her 1980 – YouTube</a> </em></h4>
<h3><em><span style="font-weight: bold;"><a href="http://www.youtube.com/watch?v=U-963Jf0eZE" target="_blank">Tell Laura I Love Her ” 1994 Takeshi Kaneshiro – YouTube</a> </span></em><em></em></h3>
<h4></h4>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image012.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image012" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image012_thumb.jpg" alt="clip_image012" border="0" height="341" width="304"></a></p>
<p>Tại miền nam Việt Nam trước đây, so với những ca khúc phổ thông khác của Mỹ được phổ biến vào đầu thập niên 1960, như <em>Diana, You Are My Destiny </em>của Paul Anka,<em> Oh! Carol, You Means Everything to Me </em>của Neil Sedaka,<em> It’s Now or Never </em>của Elvis Presley…, <em>Tell Laura I Love Her</em> không mấy thịnh hành; nguyên nhân có thể vì trình độ tiếng Anh giới hạn của người nghe, có thể vì lời hát kém phần thơ mộng, cũng có thể vì giai điệu không có sức thu hút bằng những ca khúc kể trên. Vì thế, vào khoảng năm 1973, khi nhạc sĩ Nam Lộc đặt lời Việt với tựa đề “Trưng Vương Khu Cửa Mùa Thu”, đã không mấy người biết đây là một ca khúc ngoại quốc được đặt lời Việt.</p>
<p>Nhà báo Trường Kỳ kể lại:</p>
<p><em>…Điểm đặc biệt trong cách viết lời Việt của Nam Lộc là nghệ thuật dùng chữ khéo léo khiến người nghe quên hẳn nguồn gốc ngoại quốc của nhạc phẩm đã được hoàn toàn Việt Hoá như chủ trương của phong trào Việt Hoá Nhạc Trẻ. Điển hình là nhạc phẩm “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”.</em></p>
<p><em>Nếu ai không am hiểu và theo dõi nhạc ngoại quốc sẽ cho rằng đó là một nhạc phẩm thuần túy Việt Nam. Thật ra đó là nhạc phẩm “Tell Laura I Love Her” với giai điệu rất phù hợp và ăn ý với lời ca bằng tiếng Việt, hoàn toàn khác biệt với nội dung. “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” được Nam Lộc coi là nhạc phẩm ưng ý nhất của anh suốt thời gian hoạt động trong phong trào nhạc trẻ lúc còn ở Việt Nam.<br>
Về trường hợp viết lời “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, Nam Lộc cho biết đã lấy ý từ tên một đặc san do các nữ sinh Trưng Vương thực hiện vào đầu thập niên 70. Tính chất lãng mạn và mềm mại của tên đặc san đã khơi dậy tâm hồn nghệ sĩ nơi anh, một cựu học sinh</em> <em>Chu Văn An, với những mối tình thơ mộng cùng những hẹn hò của</em><em> </em><em>tuổi học trò. </em></p>
<p>(Trích<em> <strong>“NAM LỘC: Con người văn nghệ và con người xã hội”</strong></em><strong> </strong>– Tivi Tuần-san)</p>
<p>Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của Trường Kỳ, và trong phạm vi bài này chỉ nêu thêm một chi tiết thú vị: ở Sài Gòn, thành phố của các tà áo trắng “Trưng Vương<em> – </em>Khung Cửa Mùa Thu”<em> </em>không hề có… mùa thu!</p>
<p>Viết ra điều này, chúng tôi không chủ ý bài bác, mà ngược lại, chỉ muốn đề cao trí tưởng phong phú của các cô nữ sinh Trưng Vương nói riêng, các thi, văn, nhạc sĩ viết về mùa thu ở một nơi chốn chỉ có mưa nắng hai mùa nói chung.</p>
<p>* * *</p>
<p>Theo các nhà khí hậu học, lãnh thổ Việt Nam được chia ra làm hai vùng khí hậu chính:</p>
<p><em>- Miền khí hậu phía Bắc</em>: bao gồm lãnh thổ phía bắc dãy Hoành Sơn (tỉnh Hà Tĩnh) và Bắc Bộ, có khí hậu “cận nhiệt đới” với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông rõ rệt.</p>
<p><em>- Miền khí hậu phía Nam</em>: gồm lãnh thổ Trung Bộ từ phía Nam dãy Hoành Sơn và Nam Bộ, có khí hậu nhiệt đới với hai mùa: mùa khô và mùa mưa.</p>
<p>Suy ra, <em>Nhìn những mùa thu đi, Chiếc lá thu phai, Gọi tên bốn mùa</em> của Trịnh Công Sơn, <em>Mùa thu mây ngàn</em> của Từ Công Phụng, <em>Mùa thu cho em</em> của Ngô Thụy Miên, <em>Mùa thu trong mưa</em> của Trường Sa, v.v…, đều là những mùa thu đến trong trí tưởng; riêng mùa thu trong bản <em>Thu Ca</em> của Phạm Mạnh Cương có thể gọi là một mùa thu hồi tưởng (những ngày ông ra Hà Nội dạy học).</p>
<p>Còn nhớ năm 1993, Trịnh Công Sơn ra Hà Nội thăm Văn Cao; trong bút ký của mình, họ Trịnh đã so sánh cái ảm đạm của mùa thu Hà Nội với nỗi cô đơn của Văn Cao một mình ngồi uống rượu suốt mấy chục năm trường.</p>
<p>Mùa thu của Hà Hội buồn lắm. Đó là thu trong <em>Buồn tàn thu, Thu cô liêu</em> của Văn Cao, <em>Giọt mưa thu, Đêm thu, Con thuyền không bến</em> của Đặng Thế Phong…</p>
<p>Còn những mùa thu trong <em>Thu quyến rũ, Gửi gió cho mây ngàn bay, Chuyển bến, Lá đổ muôn chiều, Tà áo xanh</em>… của Đoàn Chuẩn, có lẽ đã được “công tử thành phố Cảng” thi vị hóa, hoặc thu trong <em>Thu Vàng</em> của Cung Tiến đã được cậu học trò 15 tuổi (vào năm 1953) ấy tô điểm thêm.</p>
<p>* * *</p>
<p>Trở lại với “<em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, </em>trong số các trường nữ trung học của Hòn ngọc Viễn đông năm xưa, Trưng Vương nằm ở một vị trí yên tĩnh nhất, thơ mộng nhất, ngay cạnh thảo cầm viên Sài Gòn đầy hoa bướm, trên con đường rợp bóng me xanh…</p>
<p>Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Ngô Thụy Miên, Trường Sa chỉ cần trí tưởng mà sáng tác được những ca khúc để đời về mùa thu, thì cô (hoặc các cô) nữ sinh Trưng Vương áo trắng nào đó, dù “tim chưa nghe qua rung một lần”, cũng chỉ cần một thoáng mơ mộng, nhìn qua khung cửa, bỗng thấy mùa thu.</p>
<p><strong>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu</strong></p>
<p><em>Tim em chưa nghe rung qua một lần<br>
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần<br>
Tình trần mong manh<br>
Như lá me xanh<br>
Ngơ ngác rơi nhanh </em></p>
<p><em>Thu giăng heo may cho bóng cây lạnh đầy </em><br>
<em>Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày </em><br>
<em>Những ngày đợi chờ </em><br>
<em>Trong nắng vu vơ </em><br>
<em>Trong mắt ngây thơ</em></p>
<p><em>Nhớ khói xưa lạc vấn vương </em><br>
<em>Cho hơi ấm lên môi người </em><br>
<em>Lùa sương kín nhẹ vây ngập trường </em><br>
<em>Làm mây yêu thương </em><br>
<em>Vương trong hồn em</em></p>
<p><em>Người cho em nghe quen môi hôn ngọt mềm </em><br>
<em>Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng </em><br>
<em>Từng chiều cùng người </em><br>
<em>Về trong cơn mưa bay </em><br>
<em>Nghe thương nhớ tràn đầy </em><br>
<em>Lên đôi mắt thật gầy</em></p>
<p><em>Trưng vương hôm nay mây vẫn giăng đầy trời </em><br>
<em>Công viên năm xưa hoa vẫn rơi tuyệt vời </em><br>
<em>Bóng người thì mịt mùng </em><br>
<em>Từng hàng me rung rung </em><br>
<em>Trong cơn gió lạnh lùng </em><br>
<em>Trong nắng ngại ngùng</em></p>
<p><em>Nắng vẫn vương nhẹ gót chân<br>
Trưng vương vắng xa anh dần<br>
Mùa thu đã qua một lần<br>
Chợt nghe bâng khuâng<br>
Lá rơi đầy sân. </em></p>
<p>Dù không thể có con số chính xác, chúng tôi cũng tin rằng trong số những ca khúc nhạc ngoại quốc lời Việt của thời kỳ “Việt hóa nhạc trẻ” ở miền nam Việt Nam, <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>là bản được nhiều ca sĩ trình bày nhất, được thính giả ưa chuộng nhất.</p>
<p>Trước năm 1975, <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>được thu vào băng nhựa lần đầu tiên với tiếng hát thật dễ thương của Thanh Lan.</p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image014.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image014" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image014_thumb.jpg" alt="clip_image014" border="0" height="252" width="304"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3): Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, </em></strong><strong>Thanh Lan</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/03-TrungVuongkhungcuamuathu-ThanhLan.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-TrungVuongkhungcuamuathu-ThanhLan&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Rất tiếc, <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>do Thanh Lan hát chưa kịp phổ biến rộng rãi thì xảy ra biến cố 30 tháng Tư. Mấy năm sau tại hải ngoại, “<em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” </em>đã trở thành một trong những ca khúc “cầu chứng” của Ngọc Lan.</p>
<p>Ở đây, chúng tôi không làm công việc so sánh các giọng hát, mà chỉ nhấn mạnh tới tính cách phù hợp giữa lời hát đầy bâng khuâng với tiếng hát mong manh buồn của người nữ danh ca vắn số.</p>
<p><em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>qua tiếng hát Ngọc Lan đã trở thành một trong những ca khúc nhạc ngoại quốc lời Việt được ưa chuộng nhất tại hải ngoại cũng như ở quê nhà, đặc biệt là giới nữ sinh trong nước, vốn thiếu thốn những ca khúc tình cảm nhẹ nhàng, trong sáng trong bối cảnh xã hội xô bồ yêu cuồng sống vội thời “mở cửa”!</p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image016.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image016" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image016_thumb.jpg" alt="clip_image016" border="0" height="401" width="304"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4): Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, </em></strong><strong>Ngọc Lan</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/04-Trung-Vuong-Khung-C-a-Mua-Thu-Ng-c-Lan.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-Trung Vuong Khung C a Mua Thu – Ng c Lan&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;l eftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2 &amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover= 0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFFF F&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp; border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Khoảng 20 năm sau, <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>đã được Trần Thu Hà hát với một phong cách mới. Trần Thu Hà là một nữ ca sĩ trong nước có thực tài và lối diễn tả rất đa dạng, dù hát du ca với (chú) Trần Tiến hay hát nhạc jazz theo tiếng đệm dương cầm của Nguyễn Ánh 9, cô luôn thể hiện được tính cách nghệ thuật và phong cách riêng của mình. Hiện nay, số người nghe <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>của Trần Thu Hà trên các trang mạng trong nước đã nhiều hơn gấp đôi so với bản của Ngọc Lan. Điều này cũng dễ hiểu, bởi thế hệ trẻ hiện nay lớn lên cùng với tiếng hát Trần Thu Hà chứ không phải tiếng hát Ngọc Lan.</p>
<p>Hơn bốn mươi năm về trước, khi đặt lời Việt cho<em> Tell Laura I Love Her, </em>có lẽ Nam Lộc cũng không thể ngờ <em>Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu </em>sẽ thành công tới mức ấy, và rồi đây chắc hẳn vẫn tiếp tục được giới nữ sinh yêu thích. Cho dù ở khung cửa Trưng Vương, chưa bao giờ, và sẽ chẳng bao giờ có mùa thu!<strong><em> </em></strong></p>
<p><strong><em><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image017.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image017" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/clip_image017_thumb.jpg" alt="clip_image017" border="0" height="252" width="304"></a></em></strong></p>
<p>&nbsp;</p>
<p><strong><em>Phụ lục (5): Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, </em></strong><strong>Trần Thu Hà</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/05-TrungVuongkhungcuamuathuTellLaur.mp3&amp;titles= &amp;artists=05-TrungVuongkhungcuamuathuTellLaur&amp;autostart=no&amp;widt h=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;leftic on=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;r ightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover=0x999999&amp;righticon=0x 333333&amp;righticonhover=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;tra ck=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text= 0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (6): Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, </em></strong><strong>Thanh Trúc</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/06-TrungVuongKhungCuaMuaThu-ThanhTruc.mp3&amp;titles= &amp;artists=06-TrungVuongKhungCuaMuaThu-ThanhTruc&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5 E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0x F2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbg hover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0 xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xD DDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7): Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu, </em></strong><strong>Như Quỳnh</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/02/07-TrungVuongKhungCuaMuaThu-NhuQuynh.mp3&amp;titles= &amp;artists=07-TrungVuongKhungCuaMuaThu-NhuQuynh&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E 5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF 2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbgh over=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0x FFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDD DDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>HOÀI NAM </strong>

saomai
10-06-2015, 07:27 AM
IF YOU GO AWAY (Ne Me Quitte Pas – Người Yêu Nếu Ra đi) – Jacques Brel &amp; Rod McKuen</div>


<!-- calls for the Post Author of the Article -->
<div class="author"><a href="http://t-van.net/?author=29" title="Posts by Hòai-Nam" rel="author">Hòai-Nam</a> </div>


<p></p><h6><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image00217.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image002" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image002_thumb15.jpg" alt="clip_image002" border="0" height="306" width="354"></a><strong></strong></h6>
<p>Tiếp tục giới thiệu những ca khúc được ưa chuộng trong nền nhạc phổ thông quốc tế, kỳ này chúng tôi viết về bản If You Go Away, trước năm 1975, được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tựa Người Yêu Nếu Ra Đi.</p>
<p>If You Go Away được xem là một trong những tình khúc bất hủ của hậu bán thế kỷ thứ 20, và riêng với những người yêu thích nhạc jazz, đây là một ca khúc, nhạc khúc điển hình nhất của nhạc jazz hiện đại (modern jazz), nghĩa là dễ nghe, dễ cảm.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (1): If You Go Away</em></strong><strong> – Giovanni Marradi (piano) </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_1" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/01-IfYouGoAway-GiovanniMarradi.mp3&amp;titles= &amp;artists=01-IfYouGoAway-GiovanniMarradi&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;b g=0xE5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltr ack=0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;r ightbghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonh over=0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;track er=0xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Cho tới nay, If You Go Away đã được hàng trăm danh ca quốc tế thuộc đủ mọi thế hệ thu đĩa, nhưng không phải bất cứ thính giả nào, nhất là giới trẻ, cũng biết If You Go Away nguyên là một ca khúc của Pháp có tựa đề <strong><em>Ne Me Quitte Pas </em></strong>(Xin Đừng Bỏ Anh).</p>
<p>Ne Me Quitte Pas là một giai thoại về một tác giả đầy huyền thoại: nhà viết ca khúc kiêm ca sĩ Pháp gốc Bỉ <strong>Jacques Brel</strong>.</p>
<p>Trước khi viết về tác phẩm, xin được viết về tác giả.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0034.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image003" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image003_thumb3.jpg" alt="clip_image003" border="0" height="304" width="304"></a></p>
<p>Jacques Brel (1929-1978) không chỉ là một nhà viết ca khúc kiêm ca sĩ, mà còn là diễn viên kịch nghệ, diễn viên điện ảnh, nhà viết kịch bản sân khấu và kịch bản phim, kiêm đạo diễn tài ba bậc nhất của Pháp. Jacques Brel đã thủ vai chính trong 10 cuốn phim, và đạo diễn hai phim, trong đó có <em>Le Far West</em>, được xướng danh tranh giải Cành Cọ Vàng (Palme d’Or) tại Đại hội Điện ảnh Quốc tế Cannes (Pháp) năm 1973. Bên cạnh đó, do chịu ảnh hưởng của bà mẹ, Jacques Brel còn là một nhà hảo tâm trong lĩnh vực từ thiện, nhân đạo. Tuy nhiên trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ chú trọng với sự nghiệp sáng tác và ca hát của Jacques Brel.</p>
<p>Cũng cần viết thêm, trước năm 1975, giới thưởng ngoạn ở Hòn Ngọc Viễn Đông không biết nhiều về các ca khúc của Jacques Brel là vì với những người đã quen nghe Tino Rossi, Yves Montand, Charles Anavour, những ca khúc này hơi mới lạ, trong khi lại khá “cao” đối với giới trẻ yêu nhạc Pháp tại miền Nam lúc bấy giờ. Đồng thời, cũng vì cách hát “vũ bão” (violent) của Jacques Brel, không phải ai cũng có thể thưởng thức.</p>
<p>Cho tới nay, Jacques Brel vẫn được xem là ca nhạc sĩ lớn nhất xuất thân từ Vương quốc Bỉ, và là một trong những ca sĩ hát tiếng Pháp có số đĩa bán nhiều nhất (25 triệu), và qua mặt cả đệ nhất nữ danh ca Pháp Édith Piaf về số đĩa hát bán ra sau khi đã qua đời – trung bình 200.000 đĩa mỗi năm.</p>
<p>* * *</p>
<p>Jacques Brel, tên đầy đủ là <strong>Jacques Romain Georges Brel</strong>, ra chào đời tại Brussels, thủ đô Vương quốc Bỉ, trong một gia đình Công giáo trung lưu bảo thủ, nói tiếng Pháp (phần lớn người Bỉ nói tiếng Pháp, trừ những người ở vùng Flanders nói tiếng Flemish, vốn là tiếng Hòa-lan được địa phương hóa). Cùng với anh trai, Jacques Brel được cho theo học trường đạo nổi tiếng, nhưng không hiểu vì biếng học hay tư chất kém thông minh, Jacques Brel bị mô tả là một trong học sinh dốt nhất, dốt về rất cả mọi môn, trừ thơ văn và kịch nghệ; cậu là một trong những học sinh đã đứng ra thành lập Saint-Louis College Drama Club.</p>
<p>Năm 15 tuổi, Jacques Brel bắt đầu chơi guitar, và qua năm sau khởi sự sáng tác kịch bản cho nhóm kịch của mình. Nhưng bằng đó thứ cũng không đủ giữ Jacques Brel ở lại ghế nhà trường. Năm 1947, vào tuổi 18, Jacques Brel bỏ học, tới làm việc tại xưởng sản xuất thùng các-tông của ông bố – dĩ nhiên là làm việc trong văn phòng.</p>
<p>Để quên đi những nhàm chán trong công việc hàng ngày, Jacques Brel gia nhập <em>La Franche Cordée, </em>một tổ chức nhân đạo của giới trẻ Công giáo. Năm 1949, Jacques Brel trở thành người lãnh đạo <em>La Franche Cordée</em> và đã dựng nhiều vở kịch để tổ chức trình diễn gây quỹ, trong đó có vở <em>Le Petit Prince</em> của Saint Exupéry.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0052.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image005" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image005_thumb2.jpg" alt="clip_image005" border="0" height="361" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Jacques Brel</strong> và <strong>Thérèse Michielsen</strong></p>
<p>Thời gian hoạt động trong<em> La Franche Cordée, </em>Jacques Brel gặp gỡ <strong>Thérèse Michielsen</strong> – thường được gọi một cách thân mật là “Miche”. Tháng 6, 1950, hai người kết hôn, và cuối năm sau, bé gái Chantal ra chào đời.</p>
<p>Qua năm 1952, Jacques Brel bắt đầu sáng tác ca khúc và tự mình trình bày trong các buổi xum họp mang tính cách gia đình, cũng như tại các quán nhạc (cabaret) ở Brussels. Trong khi cả gia đình và hầu hết bạn bè không ai “enjoy” được những ca khúc với lời hát cay đắng và phong cách trình diễn “đau khổ, quằn quại” của Jacques Brel, thì ông Jacques Cannetti, Giám đốc nghệ thuật của hãng đĩa Philips Records, sau khi tình cờ được nghe Jacques Brel trình diễn trong quán nhạc La Rose Noire ở Brussels vào đầu năm 1953, đã ký hợp đồng thu đĩa và mời chàng sang Kinh thành Ánh sáng.</p>
<p>Bấp chấp sự phản đối của gia đình, sau khi Miche sanh cô con gái thứ hai, France, vào tháng 7, tới mùa thu năm ấy, Jacques Brel đưa vợ con sang Paris. Thời gian đầu, Jacques Brel kiếm sống bằng nghề dạy đàn guitar và đàn hát trong các quán nhạc.</p>
<p>Đầu năm 1954, Jacques Brel tham gia cuộc thi viết ca khúc Grand Prix de la Chanson với kết quả thật thảm hại: đứng hạng 27 trong số 28 tác giả dự thi. Nhưng ở đời mấy ai học được chữ ngờ, Juliette Gréco, nữ minh tinh kiêm ca sĩ nổi tiếng bậc nhất của Pháp thời bấy giờ, lại chọn một ca khúc của Jacques Brel, bản <em>Le Diable</em>, đưa vào chương trình trình diễn của mình tại đại hí viện Olympia, và sau đó thu đĩa. Nhờ vậy tên tuổi của Jacques Brel mới được giới thưởng ngoạn biết tới. Tháng 7 năm đó, Jacques Brel được trình diễn tại Olympia, và tới cuối năm, hãng đĩa Philips Records cho phát hành album đầu tay của chàng – <em>Jacques Brel et ses Chansons</em>. Đường danh vọng của chàng ca nhạc sĩ bắt đầu từ đây.</p>
<p>Từ đó cho tới năm 1958, Jacques Brel thu thêm hai album nữa, và liên tục đi lưu diễn trên toàn quốc Pháp, cũng như ở Gia-nã-đại và Nam Phi.</p>
<p>Đầu năm 1962, Jacques Brel bỏ hãng đĩa Philips Records để ký hợp đồng với hãng đĩa Barckay Records, và 10 năm tiếp theo đó là thời gian thành công rực rỡ nhất trong sự nghiệp của Jacques Brel, về sáng tác cũng như ca hát.</p>
<p>Về sáng tác, Jacques Brel được xưng tụng là bậc thầy của ca khúc hiện đại Pháp (master of modern “chanson”), và tuy thường chỉ hát bằng tiếng Pháp và Flemish, ông đã tạo một ảnh hưởng lớn nơi các ca nhạc sĩ ở các xứ nói tiếng Anh, như David Bowie, Marc Almond (Anh quốc), Alex Harvey (Tô-cách-lan), Leonard Cohen (Gia-nã-đại), <strong>Rod McKuen</strong> (Mỹ)…</p>
<p>Tại Hoa Kỳ, những ca khúc của Jacques Brel được Rod McKuen đặt lời Anh, đã được nhiều ca sĩ hàng đầu thu đĩa, như Ray Charles, Judy Collins, John Denver, ban Kingston Trio, Nina Simone, Frank Sinatra, Andy Williams…</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0072.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image007" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image007_thumb2.jpg" alt="clip_image007" border="0" height="307" width="304"></a></p>
<p>Rod McKuen chính là chàng ca nhạc sĩ tài hoa kiêm thi sĩ đã viết lời Anh <em>If You go Away</em> cho ca khúc <em>Ne Me Quitte Pas</em> của Jacques Brel mà chúng tôi sẽ đề cập tới ở phần sau. Một ca khúc khác của Jacques Brel được Rod McKuen đặt lời Anh cũng đã trở nên nổi tiếng quốc tế là bản <em>Le Moribond</em> (Seasons in the Sun), trước năm 1975 đã được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt dưới tựa <em>Những Mùa Nắng Đẹp</em>.</p>
<p>Bên cạnh những sáng tác của riêng mình, Jacques Brel còn “phóng tác” những nhạc khúc cổ điển, những ca khúc truyền thống quốc tế và đặt lời Pháp. Một trong những ca khúc ấy chính là bản <em>Amtersdam</em>, với giai điệu lấy từ ca khúc truyền thống <em>Lady Green Sleeves</em> của Anh quốc mà chúng tôi mới giới thiệu trong một kỳ trước.</p>
<p>Lời hát của <em>Amsterdam</em> được xem như một tuyệt tác của Jacques Brel, gần như một bài thơ với nội dung buồn thảm, tả cảnh những thủy thủ xa nhà lên bờ giải khuây ở hải cảng Amtersdam.</p>
<p>Jacques Brel không bao giờ thu đĩa bản <em>Amtersdam</em> bởi ông cho rằng bốn bức tường của phòng thu âm không đủ tạo cảm hứng cho ông hát, cho nên ông chỉ hát trong các buổi trình diễn sống (live), và lần nào cũng khiến khán giả phải rơi lệ. Lời hát của <em>Amsterdam</em> đã được dịch, hoặc phóng tác qua nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó có ít nhất hai phiên bản tiếng Anh, một của Rod McKuen, một của David Bowie.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><strong><a href="https://www.youtube.com/watch?v=11PIXoqJvcY" target="_blank">Amsterdam – Jacques Brel (English Subtitles).avi – YouTube</a></strong></h3>
<p>Thời gian từ đầu năm 1964 tới giữa năm 1966, Jacques Brel liên tục trình diễn ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ, Anh Quốc và tới tận các đảo Madagascar, Réunion, Mauritius ở Ấn-độ dương. Tuy nhiên tới tháng 8, 1966, cảm thấy sức khỏe không còn cho phép, Jacques Brel quyết định từ giã ánh đèn màu. Nhưng cũng không phải là một việc dễ dàng: theo yêu cầu của người ái mộ, ông đã phải trình diễn “lần cuối cùng” suốt ba tuần liền ở đại hí viện Olympia ở Paris, rồi trở về cố hương trình diễn tại hí viện Palais des Beaux-Arts ở Brussels.</p>
<p>Cuối tháng 11, 1966, Jacques Brel sang Luân-đôn trình diễn tại Royal Albert Hall để từ giã khán giả Anh, và sau cùng, vào đầu tháng 12, trở lại Hoa Kỳ trình diễn tại Carnegie Hall ở Nữu Ước.</p>
<p>Trở về Pháp, mặc dù vẫn tiếp tục sáng tác và thu đĩa, Jacques Brel bắt đầu chú trọng tới bộ môn điện ảnh, và dành nhiều thời gian cho hai thú tiêu khiển: lái máy bay nhỏ và dong thuyền buồm tới các hải đảo xa xôi.</p>
<p>Ngày 9 tháng 10 năm 1978, sau 4 năm bị ung thư phổi, Jacques Brel qua đời tại một bệnh viện ở Paris, hưởng 49 tuổi. Thi hài ông được đưa về an táng trong nghĩa trang Calvary Cemetery trên đảo Hiva Oa thuộc quần đảo Marquesas (Les Marquises), French Polynesia, ở nam Thái Bình Dương, nơi mà ông đã sống những tháng ngày cuối đời bên cạnh người tình trẻ là nữ diễn viên <strong>Maddly Bamy</strong>.</p>
<p>Cách mộ ông vài bước là mộ của họa sĩ kiêm điêu khắc gia Pháp lừng danh <strong>Paul Gaugin</strong> (1848-1903), người đã từng chung sống và có con với một phụ nữ địa phương trước khi qua đời tại hòn đảo này vào tuổi 54 – nghe nói là vì “overdose” bạch phiến.</p>
<p>* * *</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0082.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image008" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image008_thumb1.jpg" alt="clip_image008" border="0" height="250" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Jacques Brel </strong>và <strong>Maddly Bamy</strong></p>
<p>Nhân nhắc tới “người tình trẻ Maddly Bamy”, thiết tưởng cũng nên có đôi hàng về cuộc đời ái tình của Jacques Brel, mà hệ lụy của một trong những mối tình ấy đã khiến ông cảm tác tình khúc bất hủ <em>Ne Me Quitte Pas</em>.</p>
<p>Ngược dòng thời gian, năm 1950, vào tuổi 21, Jacques Brel kết hôn với Miche (Thérèse Michielsen), cô bạn gái trong tổ chức thiện nguyện Công giáo <em>La Franche Cordée, </em>và cuộc hôn nhân ấy, ít nhất cũng là trên giấy tờ, bền cho tới khi ông về bên kia thế giới.</p>
<p>Kể cả khi Jacques Brel đã cặp kè hoặc chung sống với người khác, Miche vẫn là “Bà Jacques Brel”. Năm 1962, khi đứng ra thành lập hãng đĩa của riêng mình – <em>Éditions Musicales Pouchenel – </em>Jacques Brel đã để Miche làm giám đốc. Đầu năm 1973, biết mình không còn sống được bao lâu nữa, Jacques Brel làm di chúc để lại toàn bộ tài sản cho vợ.</p>
<p>Nhưng trong khi trọn “nghĩa” vợ chồng, Jacques Brel lại có lắm “tình” riêng. Jacques Brel không điển trai như Alain Delon, nhưng chàng có sức thu hút đặc biệt, trước ống kính máy quay phim, trên sân khấu ca nhạc cũng như ở đời thường.</p>
<p>Tháng 2, 1958, khi đã nổi tiếng, vì phải đi lưu diễn quanh năm, Jacques Brel quyết định đưa Miche và hai bé gái Chantal, France về Bỉ sống với gia đình. Lúc ấy, Miche đang mang thai, và tới tháng 8 cho ra chào đời cô con gái thứ ba, Isabelle.</p>
<p>Jacques Brel ở lại Paris, chàng mướn một căn phòng nhỏ gần quảng trường Place de Clichy, nơi hiếm họa chàng mới trở về đặt lưng, bởi mỗi khi không phải đi lưu diễn, Jacques Brel thường “đóng đô” tại apartement của cô nhân tình<strong> Suzanne Gabriello</strong> ở khu nghệ sĩ Montmartre.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0093.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image009" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image009_thumb2.jpg" alt="clip_image009" border="0" height="404" width="304"></a></p>
<p align="center"><strong>Suzanne Gabriello (1932-1992)</strong></p>
<p>Suzanne Gabriello (1932-1992), biệt hiệu “Zizou”, là một nữ diễn viên kiêm ca sĩ Pháp, con gái của nam diễn viên André Gabriello.</p>
<p>Năm 1953, khi Jacques Brel mới chân ướt chân ráo tới Paris, Suzanne Gabriello đã đường đường là một người giới thiệu chương trình (MC) tại đại hí viện Olympia, và qua năm 1954 đã tận tình lăng-xê Jacques Brel khi chàng được xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu hí viện này. Năm 1955, hai người bắt đầu cặp kè thân mật và chia tay nhau năm 1959. (Chúng tôi sẽ trở lại với đoạn kết chuyện tình Jacques – Suzanne ở một phần sau)</p>
<p>Hai năm sau khi chia tay Suzanne Gabriello, Jacques Brel bắt đầu cuộc tình với <strong>Sylvie Rivet</strong> – cuộc tình mà tác giả Olivier Todd, người viết tiểu sử Jacques Brel, đã gọi là “cuộc hôn nhân thứ hai” (deuxième mariage) mặc dù Jacques Brel và Miche chưa bao giờ ly dị.</p>
<p>Viết một cách chính xác, Jacques Brel đã từng đề nghị ly dị, nhưng Miche dứt khoái từ chối. Miche nói với chồng:</p>
<p>“Người ta yêu nhiều người là chuyện thường. Anh đang sống với Sylvie, được ngày nào biết ngày ấy thôi. Nhưng anh và em, chúng ta là của nhau suốt đời.”</p>
<p>Sylvie Rivet, kém Jacques Brel ba tuổi, nguyên là đại diện báo chí của hãng đĩa Philips Records, xinh đẹp, đằm thắm, tóc nâu, mắt xanh ve (green). Từ năm 1961 tới năm 1970, hai người sống với nhau trong một biệt thự thơ mộng ở Roquebrune Cap-Martin nhìn ra sóng nước Địa Trung Hải. Chính trong thời gian này, Jacques Brel đã sáng tác nhiều ca khúc để đời của mình, như <em>Amsterdam, Mathilde, Jacky, Les Bonbons</em>, v.v…</p>
<p>Sylvie Rivet sống suốt đời không chồng không con, qua đời năm 2002.</p>
<p>Sau khi Sylvie Rivet chia tay Jacques Brel vào năm 1970, bóng hồng thay thế không phải ai xa lạ mà chính là <strong>Marianne</strong>, một người bạn của Sylvie Rivet. Marianne (các tài liệu không ghi họ của bà) là một phụ nữ yêu chuộng thể thao, tự do và tự lập, sống với con trai nhỏ ở một vùng ngoại ô xa Paris, cho nên hai người rất ít khi gặp gỡ. Nhưng chính vì ít nên càng sôi nổi!</p>
<p>Qua năm 1972, trong thời gian thủ một vai chính trong cuốn phim “hài kịch anh chị” <em>L’aventure c’est l’aventure</em>, Jacques Brel gặp gỡ nữ vũ công kiêm diễn viên trẻ <strong>Maddly Bamy</strong>, kém chàng 14 tuổi.</p>
<p>Maddly Bamy ra chào đời tại đảo Guadeloupe (thuộc Pháp) ở vùng biển Caribbean, mang hai dòng máu Pháp – Phi châu. Cùng gia đình sang Paris từ lúc 10 tuổi, Maddly Bamy bắt đầu xuất hiện trên màn bạc và màn ảnh truyền hình từ năm 20 tuổi, đồng thời trở thành một vũ công trong ban vũ Les Claudettes của <strong>Claude Francois</strong> (người đã đặt lời cho bản <em>Donna Donna</em>)</p>
<p>[<strong>Les</strong> <strong>Claudettes </strong>được ghi nhận là ban vũ phụ diễn “hiện đại” đầu tiên của Pháp, với trang phục tươi mát, vũ điệu sống động, để tạo thêm sức thu hút cho ca sĩ chính]</p>
<p>Vai trò nổi tiếng nhất của Maddly Bamy trên màn bạc là vai <em>Madly </em>trong cuốn phim có cùng tựa sản xuất năm 1969, bên cạnh hai tên tuổi lớn của điện ảnh Pháp là Alain Delon và Mireille Darc.</p>
<p>Thế là cùng một lúc (năm 1972-1973), Jacques Brel có tới ba người đàn bà: một người vợ không chung sống và hai người tình part-time!</p>
<p>Đầu năm 1973, cảm thấy mình đã quá yếu, Jacques Brel làm di chúc để lại toàn bộ tài sản cho vợ, rồi thu đĩa hát cuối cùng (<em>L’enfance </em>- Tuổi ấu thơ) để lấy tiền tặng cho quỹ trẻ em tàn tật, đồng thời đóng cuốn phim chót trong số 10 cuốn phim của ông. Mùa hè năm ấy, cùng với ba cô con gái và năm người bạn thân, Jacques Brel tham gia chuyến thực tập hải hành kéo dài 2 tháng ở Đại Tây Dương trên tàu huấn luyện<em> Le Korrig</em>.</p>
<p>Trở về, Jacques Brel mua chiếc <em>Askoy II</em>, một thuyền buồm dài 19 mét, trọng tải 42 tấn, và rủ Marianne theo mình trong chuyến vòng quanh thế giới dự trù kéo dài 3 năm. Nhưng giữa người tình và đứa con trai nhỏ, Marianne đã quyết định chọn con. Jacques Brel bèn rủ Maddly Bamy, và cô đã từ bỏ tất cả để theo ông.</p>
<p>Tháng 7, 1974, Jacques Brel, cô con gái thứ hai (France) và Maddly Bamy cùng rời bến.</p>
<p>Tới tháng 10, trong thời gian cập đảo Canary Islands, ngoài khơi Morocco, khi đi khám bác sĩ, Jacques Brel được cho biết ông bị ung thư ở lá phổi bên trái. Tháng 11, Jacques Brel được đưa khẩn cấp về Brussels để giải phẫu ung thư; tại đây các bác sĩ cho biết ung thư của ông đã lan rộng. Biết mình giờ của mình sắp điểm, Jacques Brel ra một thông báo xin được chết trong an bình, và chết trong cô đơn.</p>
<p>Nhưng Maddly Bamy đã quyết định ở lại bên ông cho tới giờ phút cuối.</p>
<p>Trở lại trên chiếc Askoy II, Jacques Brel vượt Đại Tây Dương, dong buồm quanh vùng đảo West Indies cho tới tháng 7, 1975, rồi băng qua kinh đào Panama, sang Thái Bình Dương.</p>
<p>Sau 2 tháng du hành qua các vùng đảo thơ mộng, tới tháng 11 năm đó, Jacques Brel và Maddly Bamy quyết định thả neo, sống trên chiếc Askoy II ngoài khơi đảo Hiva Oa, quần đảo Marquesas, thuộc French Polynesia ở nam Thái Bình Dương.</p>
<p>Tháng 6 năm 1976, Jacques Brel quyết định bán chiếc thuyền buồm rồi cùng Maddly Bamy mướn một căn nhà nhỏ ở thị trấn biển Atuona, trên đảo Hiva Oa. Qua tháng 7, Jacques Brel tái đăng ký bằng lái máy bay của mình rồi mua một chiếc phi cơ nhỏ 2 động cơ, đặt tên là <em>Jojo</em> (biệt hiệu của một người bạn đã khuất).</p>
<p>Ngoài những chuyến bay tới đảo Tahiti cùng với Maddly Bamy, chiếc Jojo còn được Jacques Brel sử dụng trong việc tiếp tế thuốc men, thực phẩm cho thổ dân ở những đảo nhỏ trong vùng.</p>
<p>Năm 1977, Jacques Brel cùng Maddly Bamy âm thầm trở về Paris để thu đĩa những ca khúc ông viết ở đảo Hiva Oa thành một album lấy tựa <em>Les Marquises</em>. Tuy âm thầm, nhưng do truyền miệng, hàng triệu người ái mộ cũng biết và đặt mua trước. Ngày 17, tháng 11, 1977, khi album <em>Les Marquises</em> được tưng bừng phát hành trên toàn quốc Pháp, Jacques Brel và Maddly Bamy đã ngồi trên phi cơ, lặng lẽ bay về đảo Hiva Oa.</p>
<p>Tới giữa năm 1978, tình hình sức khỏe của Jacques Brel trở nên tồi tệ. Ông được đưa về Pháp, nhưng với ung thư đã ở vào thời kỳ cuối, các bác sĩ bó tay. Sau gần bốn tháng an dưỡng tại miền Nam nước Pháp, Jacques Brel được đưa về Paris và trút hơi thở cuối cùng trong bệnh viện ngày 9 tháng 10, 1978.</p>
<p>Như đã viết ở phần đầu, thi hài ông được đưa về an táng trong nghĩa trang Calvary Cemetery trên đảo Hiva Oa. Có điều hơi khác thường nhưng không khiến ai ngạc nhiên, là trên bia mộ bằng đá tạc chân dung Jacques Brel, người ta đã không quên tạc cả chân dung Maddly Bamy đang âu yếm tựa cằm lên vai ông.</p>
<p>Từ đó, mộ phần của Jacques Brel, cùng với mộ phần của họa sĩ kiêm điêu khắc gia Paul Gaugin, đã trở thành nơi hành hương của người ái mộ. Căn nhà ven biển nơi Jacques Brel và Maddly Bamy đã sống, cùng với chiếc phi cơ Jojo được trưng bày phía trước, đã trở thành di sản được bảo vệ.</p>
<p>Sau khi Jacques Brel qua đời, quan hệ giữa gia đình người quá cố – bà vợ Miche, 3 cô con gái Chantal, France, Isabelle – với Maddly Bamy được mô tả là rất tốt đẹp. Cũng từ đó, Maddly Bamy thu mình vào bóng tối, tìm quên qua việc viết sách – 10 cuốn, tính cho tới nay.</p>
<p>* * *</p>
<p>Tới đây, chúng tôi xin đi vào đề tài chính: ca khúc <em>Ne Me Quitte Pas, </em>tức đoạn kết cay đắng của cuộc tình<em> </em>Jacques Brel – Suzanne Gabriello.</p>
<p>Trở lại thời gian đầu năm 1958, sau khi Jacques Brel đưa vợ con trở về Bỉ sống với gia đình, chàng chung sống không chính thức với Suzanne “Zizou” Gabriello tại apartement của nàng; ít lâu sau, nàng… có thai.</p>
<p>Là một tên tuổi nổi tiếng trong làng ca nhạc Pháp, “Zizou” không chấp nhận việc có một đứa con không cha, nên yêu cầu Jacques Brel phải công khai nhìn nhận mình là “tác giả”. Jacques Brel từ chối cho nên Suzanne đã phải phá thai, và… đá chàng ra khỏi cửa!</p>
<p>Jacques Brel ân hận, hối tiếc, nhưng đã quá muộn. Một ngày nọ, ngồi trong quán rượu Au Rêve (Mộng Mơ) dưới chân đồi Montmartre, nơi mà chàng có thể nhìn thấy apartement của Suzanne trên con dốc đối diện, Jacques Brel viết bản <em>Ne Me Quitte Pas.</em></p>
<p>Nội dung của <em>Ne Me Quitte Pas </em>(Xin Đừng bỏ Anh) là những lời khẩn khoản, van xin nguời yêu đừng bỏ ra đi, và hứa hẹn những gì đẹp đẽ nhất – đẹp tới mức xưa nay chưa hề có, và mai hậu cũng sẽ chẳng có bao giờ. Thế nhưng, như đoạn kết của ca khúc cho biết, người yêu vẫn nhất quyết ra đi.</p>
<p>Cho dù <em>Ne Me Quitte Pas </em>đã được liệt vào hàng “love song classic” (tình khúc để đời), nhưng trong cuộc phỏng vấn sau cùng, Jacques Brel vẫn không nhìn nhận đây là một “tình khúc” mà chỉ xem đó như một ca khúc viết về sự đểu giả và hèn nhát của đàn ông.</p>
<p>Về phần Suzanne “Zizou” Gabriello, về sau lập gia đình với đạo diễn kịch nghệ Guy Lauzin, được một con gái, và qua đời vì ung thư vào tuổi 60, năm 1992.</p>
<p>Ít lâu trước khi qua đời, khi được phỏng vấn, bà đã khiêm nhượng không nhận “vinh dự” mình là đối tượng trong ca khúc <em>Ne Me Quitte Pas, </em>và nói rằng ca khúc này được Jacques Brel viết cho nữ giới một cách chung chung.</p>
<p>Thế nhưng với hậu thế, tình khúc để đời <em>Ne Me Quitte Pas </em>được Jacques Brel viết riêng cho Suzanne “Zizou” Gabriello là một khẳng định, bởi hầu như lần nào hát bản này, Jacques Brel cũng khóc!</p>
<p><em>Ne Me Quitte Pas </em>được Jacques Brel trình bày lần đầu tiên và thu đĩa vào tháng 9, 1959.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (2): </em></strong><strong><em>Ne Me Quitte Pas </em></strong><strong>– </strong><strong>Jacques Brel</strong><strong></strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_2" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/02-Ne-me-quitte-pas-Jacques-Brel.mp3&amp;titles= &amp;artists=02-Ne me quitte pas – Jacques Brel&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong>Video: </strong></p>
<h3><span style="font-weight: bold;"><a href=https://www.youtube.com/watch?v=Prmq5EMsW2Q>Jacques Brel-Ne me quitte pas (Eng. Subtitles) – YouTube</a></span></h3>
<p>Trong số các nghệ sĩ nổi tiếng quốc tế hát bản <em>Ne Me Quitte Pas, </em>đầu tiên phải kể tới nữ minh tinh điện ảnh kiêm ca sĩ cabaret gốc Đức Marlene Dietrich, thu đĩa năm 1964; sau đó là đệ nhất nữ danh ca Pháp Édith Piaf, và có lần bà đã cùng tác giả song ca bản này.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><a href="http://www.youtube.com/watch?v=slHjkszSAKs" target="_blank">Édith Piaf – Ne me quitte pas – YouTube</a></h3>
<p>Năm 1965, sau khi nữ danh ca Mỹ Nina Simone thu đĩa<em> Ne Me Quitte Pas, </em>ca khúc này đã được ca nhạc sĩ kiêm thi sĩ Mỹ Rod McKuen dịch sang lời Anh với tựa If You Go Away, được nữ ca sĩ Mỹ <strong>Damita Jo</strong> thu đĩa, đứng hạng 10 trong bảng xếp hạng toàn quốc.</p>
<p><a href="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image0112.jpg"><img style="background-image: none; float: none; padding-top: 0px; padding-left: 0px; margin-left: auto; display: block; padding-right: 0px; margin-right: auto; border: 0px;" title="clip_image011" src="http://t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/clip_image011_thumb2.jpg" alt="clip_image011" border="0" height="295" width="304"></a></p>
<p><strong><em>If You Go Away </em></strong></p>
<p><em>If you go away on the summer day<br>
Then you might as well take the sun away<br>
All the birds that flew in the summer sky</em></p>
<p><em>When our love was new and our hearts were high<br>
When the day was young and the night was long<br>
And the moon stood still for the night birds song</em></p>
<p><em>If you go away, if you go away<br>
If you go away, if you go away</em></p>
<p><em>But if you stay, Ill make you a day<br>
Like no day has been, or will be again<br>
Well sail the sun, well ride on the rain</em></p>
<p><em>Well talk to the trees, worship the wind<br>
Then if you go, Ill understand<br>
Leave me just enough love to fill up my hand</em></p>
<p><em>If you go away, if you go away<br>
If you go away, if you go away</em></p>
<p><em>If you go away, as I know you must<br>
Therell be nothing left in the world to trust<br>
Just an empty room, full of empty space</em></p>
<p><em>Like the empty look I see on your face<br>
Id have been the shadow of your dog<br>
If I thought it might have kept me by your side</em></p>
<p><em>If you go away, if you go away<br>
If you go away, please, dont go away</em></p>
<p>So sánh giữa lời hát tiếng Pháp và tiếng Anh, trước hết xét về ý nghĩa, trong khi Ne Me Quitte Pas cho biết người yêu đã, hoặc đang bỏ ra đi, thì trong If You Go Away, đây chỉ là những lo âu trong trí tưởng của một người đang sống trong hạnh phúc yêu đương:</p>
<p><em>If you go away</em>… thì những gì bi thảm nhất sẽ xảy ra cho cuộc tình mình, nhưng <em>If you stay</em>… thì những gì đẹp nhất sẽ đến với đôi ta.</p>
<p>Còn xét về giá trị văn chương, nghệ thuật, lời hát của If You Go Away hay hơn lời hát của Ne Me Quitte Pas cũng là một điều dễ hiểu: tác giả Rod McKuen là một thi sĩ!</p>
<p><strong><em>Phụ lục (3): If You Go Away</em></strong><strong> – Damita Jo </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_3" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/03-If-You-Go-Away-Damita-Jo-1961.mp3&amp;titles= &amp;artists=03-If You Go Away-Damita Jo 1961&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Trong năm 1967, đã có nhiều ca sĩ nổi tiếng quốc tế khác thu đĩa If You Go Away, như nữ ca sĩ dân ca Mỹ Brenda Lee, nữ danh ca Anh Shirley Bassey, nam ca sĩ Mỹ Jack Jones, ban hợp ca Úc The Seekers, nữ danh ca gốc Anh <strong>Dusty Springfield</strong>, người nổi tiếng quốc tế trước đó với bản <em>You Don’t Have to Say You love Me</em> (Không cần nói anh yêu).</p>
<p>Đặc biệt, Dusty Springfield đã hát cả lời tiếng Anh lẫn lời tiếng Pháp, một việc mà về sau đã trở nên khá phổ biến.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (4): If You Go Away</em></strong><strong> – Celine Dion </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_4" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/04-NeMeQuittePas-CelineDion_.mp3&amp;titles= &amp;artists=04-NeMeQuittePas-CelineDion_&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0x E5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack= 0xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;right bghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover =0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0 xDDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Năm 1968, If You Go Away đã được nam ca sĩ dân ca Mỹ Glenn Campbell thu đĩa, đồng thời Brenda Lee cũng thu đĩa lần thứ hai tại Nashville, thủ đô dân ca Hoa Kỳ. Nhưng nổi bật trong khoảng thời gian này phải là If You Go Away qua giọng hát và phong cách trình bày của nam ca sĩ Anh Tom Jones.</p>
<p><strong><em>Phụ lục (5): If You Go Away </em></strong><strong>– Tom Jones</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_5" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/05-if-you-go-away-tom-jones.mp3&amp;titles= &amp;artists=05 – if you go away tom jones&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5 &amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2 F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghove r=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFF FFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDD D&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p>Nếu tính mức độ phổ biến sau khi được đặt lời tiếng Anh, có lẽ Ne Me Quitte Pas (If You Go Away) chỉ đứng sau Les Feuilles Mortes (Autumn Leaves), ca khúc nổi tiếng nhất của Pháp mà chúng tôi đã giới thiệu trước đây.</p>
<p>Hàng trăm ca sĩ nổi tiếng thuộc ba thế hệ nối tiếp khắp nơi trên thế giới đã thu đĩa Ne Me Quitte Pas (If You Go Away); chưa kể các dàn nhạc, các danh cầm piano, guitar, các tay saxophone…</p>
<p>Tại Hoa Kỳ, từ đầu thập niên 1970 tới nay, có Ray Charles, Franks Sinatra của thế hệ trước, tiếp theo là những “baby boomers” như Barbra Streisand, Neil Diamond, John Denver, rồi tới những thần tượng trẻ Alison Moyet, Belinda Carlise, Madonna, Cyndi Lauper, và cả ban nhạc rock Nirvana, với tiếng hát của Kurt Cobain (ít lâu trước khi anh tự tử bằng cách bắn vào đầu do ảnh hưởng của ma túy).</p>
<p>Chỉ tính riêng If You Go Away do Cyndi Lauper hát vào cuối thập niên 1980, đã bán được trên 4 triệu đĩa.</p>
<p>Tại những miền đất khác, có Shirley Bassey, David Bowie, Sting của Anh, Terry Jacks, Céline Dion của Gia-nã-đại, Julio Iglesias của Tây-ban-nha, Maysa Matarazzo của Ba-tây, Violetta Villas của Ba-lan, Dahlia Lavi của Do-thái…</p>
<p>If You Go Away cũng được hai nữ danh ca nhạc jazz Helen Merrill của Anh và Patricia Kass của Đức thu đĩa, và đạt thành công rực rỡ.</p>
<p><strong>Video:</strong></p>
<h3><span style="font-weight: bold;"><a href="http://www.youtube.com/watch?v=aawXhhxKolk" target="_blank">Patricia Kaas – If You Go Away.wmv – YouTube</a></span></h3>
<p>If You Go Away được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt với tựa “Người yêu nếu ra đi” vào khoảng năm 1973, thời kỳ “Việt hóa” nhạc trẻ tại miền Nam VN. Nếu chúng tôi nhớ không lầm, Cathy Huệ là người đầu tiên thu băng ca khúc này trong băng nhạc “Tình Ca Nhạc Trẻ”.</p>
<p>Sau năm 1975, “Người yêu nếu ra đi” đã trở thành một trong những ca khúc ngoại quốc lời Việt được các ca sĩ có trình độ, ở hải ngoại cũng như trong nước, ưa chuộng nhất. Trong số đó có Ngọc Lan, Tuấn Ngọc, Lâm Nhật Tiến, Nguyên Khang, Trần hái Hòa, Quang Minh, Bảo Thy…</p>
<p><strong>Người Yêu Nếu Ra Đi</strong></p>
<p><em>Người yêu nếu ra đi, một hôm nắng lên cao<br>
Xin hãy mang đi theo, cả mây trắng trong veo<br>
Lời chim hót mang đi, cùng tia nắng xôn xao<br>
Ngày ta mới yêu nhau, tình ta mới dâng cao<br>
Ngày sao thấy đi mau, và đêm vắng đêm sâu<br>
Trăng sáng như nâng niu, loài chim hót đêm thâu<br>
Người yêu nếu ra đi<br>
Người yêu nếu chia lìa<br>
Người yêu nếu ra đi<br>
Người mà không đi, người tình tôi còn đó<br>
Sẽ thấy tôi còn đây, yêu nhau như ngày qua<br>
Cùng vừng dương lên, cùng làn mây lả lướt<br>
Nói với lá cây tôi, đêm như xưa đầy vơi<br>
Chìm vào làn môi, nụ cười không từ chối<br>
Nói với mắt môi ai, duyên tình mãi không phai<br>
Người mà xa vắng, tôi sẽ khóc thầm<br>
Làn nước mắt tuôn tràn, cuộc tình đã tan<br>
Người yêu nếu chia lìa<br>
Người yêu nếu chia lìa<br>
Người yêu nếu chia lìa<br>
Người yêu chớ ra đi… </em></p>
<p><em>Người yêu nếu ra đi, người yêu sẽ ra đi<br>
Xin trái đất lang thang, đừng quay nữa nghe không<br>
Để có lẽ thương tâm, người yêu sẽ quay chân<br>
Người có biết con tim, rồi tim sẽ êm êm<br>
Ngừng nghe tiếng trăm năm, người yêu đã xa xăm<br>
Tôi chết êm trong đêm, chờ nghe tiếng yêu vang<br>
Người yêu nếu ra đi<br>
Người yêu nếu chia lìa<br>
Người yêu nếu ra đi…</em></p>
<p><strong><em>Phụ lục (6): </em></strong><strong><em>Người yêu nếu ra đi – </em></strong><strong>Ngọc Lan</strong></p>
<p><strong><em><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_6" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F06%2F06-NguoiYeuNeuRaDi-NgocLan.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_co lors=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><br>
</em></strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>Phụ lục (7): </em></strong><strong><em>Người yêu nếu ra đi – </em></strong><strong>Tuấn Ngọc </strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_7" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/xspf/player.swf" class="audio-link-player inline-player" type="application/x-shockwave-flash" height="17" width="17"><param value="transparent" name="wmode"><param value="song_url=http%3A%2F%2Ft-van.net%2Fwp-content%2Fuploads%2F2014%2F06%2F07-nguoi-yeu-neu-ra-di-tuan-ngoc.mp3&amp;b_bgcolor=cccccc&amp;b_fgcolor=666666&amp;b_color s=45c9a3,ffffff,fffffff,16ca8d&amp;autoplay=false" name="flashvars"></object><strong><br>
</strong><strong></strong></p>
<p><strong><em>Phụ lục (8): </em></strong><strong><em>Người yêu nếu ra đi – </em></strong><strong>Quang Minh</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_8" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/08-nguoi-yeu-neu-ra-di-quang-minh.mp3&amp;titles= &amp;artists=08-nguoi yeu neu ra di -quang minh&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE5E5E5&amp; leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0xF2F2F 2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightbghover =0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover=0xFFFF FF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0xDDDDDD &amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Phụ lục (9): If You Go Away</em></strong><strong> – (saxophone)</strong></p>
<p><object style="visibility: visible;" id="flash_container_audio_link_player_9" data="http://t-van.net/wp-content/plugins/audio-link-player/1pixelout/player.swf" class="audio-link-player single-line-player" type="application/x-shockwave-flash" height="24" width="200"><param value="transparent" name="wmode"><param value="soundFile=http%3A//t-van.net/wp-content/uploads/2014/06/09-IfYouGoAway-HoaTauSaxo.mp3&amp;titles= &amp;artists=09-IfYouGoAway-HoaTauSaxo&amp;autostart=no&amp;width=200&amp;height=24&amp;bg=0xE 5E5E5&amp;leftbg=0xCCCCCC&amp;lefticon=0x333333&amp;voltrack=0 xF2F2F2&amp;volslider=0x666666&amp;rightbg=0xB4B4B4&amp;rightb ghover=0x999999&amp;righticon=0x333333&amp;righticonhover= 0xFFFFFF&amp;loader=0x28f0cc&amp;track=0xFFFFFF&amp;tracker=0x DDDDDD&amp;border=0xCCCCCC&amp;text=0x333333" name="flashvars"></object></p>
<p><strong><em>Hoài Nam</em>

saomai
11-13-2015, 06:43 AM
Domino (Khúc Nhạc Muôn Đời – Hội Mùa Hoa)
Hòai-Nam


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image002_thumb9.jpg

Ca khúc thứ nhất trong phần “Nhạc Pháp” chúng tôi gửi tới độc giả là bản Domino, một ca khúc nổi tiếng của Pháp theo thể loại “valse musette” của hai tác giả Louis Ferrari và Jacques Plante, trước năm 1975 được tác giả Hương Huyền Trinh đặt lời Việt với tựa Khúc Nhạc Muôn Đời , và sau này là Phạm Lê Phan với tựa Hội Mùa Hoa.

Trước hết xin được viết về hai tác giả của nguyên tác: Louis Ferrari, người soạn nhạc, và Jacques Plante, người đặt lời.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image004_thumb1.jpg
Louis Ferrari (1910–1988)

Louis Ferrari (1910–1988) là một nhạc sĩ phong cầm (accordéon) kiêm nhà soạn nhạc gốc Ý, sang Paris lập nghiệp vào đầu thập niên 1930. Tại Kinh thành Ánh sáng, ông thành lập ban nhạc Louis Ferrari et Son Ensemble để trình diễn tại các câu lạc bộ. Sở trường của Louis Ferrari là “musette”.

Trước năm 1975, tại miền Nam VN, nhiều người trong chúng ta thường nghe nói tới một đặc trưng của nền nhạc dân gian Pháp, đó là “valse musette”, thường được hiểu một cách đơn giản là “valse nhanh độc tấu bằng đàn accordéon dành cho giới bình dân”. Một trong những ca khúc nổi tiếng và quen thuộc thường được trình bày dưới hình thức valse musette là bản Sous le ciel de Paris (Dưới bầu trời Paris) của nữ danh ca Édith Piaf.

Video:
<a href="https://www.youtube.com/watch?v=IEP33Zi3a5E" target="_blank">Sous le ciel de Paris (valse musette)</a>
Sous le ciel de Paris (valse musette)

Trước khi viết về valse musette, xin có đôi dòng về “musette”, một từ trong tiếng Pháp khi được sử dụng trong lĩnh vực âm nhạc, không thể dịch sang bất cứ một ngôn ngữ nào khác. Các tự điển tiếng Anh định nghĩa musette một cách dài dòng là “French cafe music for accordion” (nhạc Pháp chơi trong các quán cà-phê bằng phong cầm).

Nguyên thủy, musette được viết một cách đầy đủ là “musette de cour”, là tên gọi một loại “kèn có túi hơi” – cùng một họ với “bagpipe” của người Tô-cách-lan – xuất hiện tại Pháp vào cuối thế kỷ thứ 16, rất thịnh hành vào thời kỳ “baroque” cho nên còn được gọi là “baroque musette”. Tiếng kèn musette được mô tả tương tự kèn oboe, nhưng khác lạ (exotic), độc đáo.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image006_thumb1.jpg

musette de cour

Hai chữ “de cour” (của triều đình) trong tên gọi cho biết musette là một nhạc cụ dành cho giới quý tộc, trưởng giả, thường được sử dụng trong nhạc thính phòng.

Thế kỷ thứ 17 là khoảng thời gian thịnh hành nhất của musette, tuy nhiên sau cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, cùng với ngày tàn của dòng tộc Bourbon, nó đã bị “thất sủng” một cách mau chóng, trong khi các loại kèn có túi hơi (bagpipe) đơn giản hơn của giới bình dân vẫn phổ biến, trong đó có kèn “cabrette” của người vùng Auvergne, ở trung nam nước Pháp.

Người dân Auvergne – tiếng Pháp gọi là “Auvergnat” – có truyền thống… mở quán; vào thế kỷ thứ 19, hầu hết các quán cà-phê, quán rượu bình dân tại các Quận 4, 11, 12, 19 của thủ đô Paris đều do người gốc Auvergne làm chủ, nơi người ta thường nhảy điệu “bourrée” (một điệu nhảy phát xuất từ Auvergne) theo tiếng kèn cabrette. Vì người dân Paris đã quen với tên gọi musette (do chữ “musette de cour” đã nhắc tới ở trên) cho nên họ gọi cabrette là musette.

Tới thập niên 1880, do tính cách phổ biến của cây đàn accordéon, tiếng kèn musette dần dần được thay tế bằng tiếng đàn accordéon, trước tiên là ở Quận 19, nơi tập trung những tay đàn accordéon Pháp, Ý tài ba nhất, rồi lan rộng khắp Paris; đồng thời người ta không chỉ nhảy “bourrée” mà còn nhảy nhiều thể điệu khác như valse, tango, paso…

Thể loại nhạc và sinh hoạt khiêu vũ bình dân này được gọi là “bal musette”, mặc dù cái kèn “musette” đã vắng bóng. Từ những năm cuối thế kỷ thứ 19, “bal musette” đã thu hút một số không nhỏ trong giới thượng lưu Pháp, những người muốn tìm cảm giác mạnh qua việc hòa nhập vào sinh hoạt giải trí của giới bình dân – nghèo khổ, sống hết mình, không bị ràng buộc, không cần biết đến ngày mai.

Bước sang thế kỷ thứ 20, bal musette càng được nhiều người ưa chuộng và tới năm 1945 đã trở thành hình thức khiêu vũ phổ biến nhất ở Pháp, vì những bước nhảy dễ hơn, nhanh hơn, gợi cảm hơn, cũng như không đòi hỏi một vũ trường rộng lớn.

Trong số ba thể điệu phổ biến nhất của bal musette là paso musette, tango musette và valse musette, tại Việt Nam ngày ấy, valse musette được ưa chuộng nhất.

So với “valse viennoise” (điệu luân vũ thành Viên), valse musette có bước nhảy trẻ trung hơn, thân thể của đôi nam nữ sát nhau hơn, người nữ quay thường xuyên hơn, trong đó “đỉnh cao” là quay tít (tiếng Pháp gọi là “la toupie” – con quay, con vụ).

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/OAWcTQDQ8kw?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Roger Chenault et Chantal Salviac dansent une valse musette avec la toupie

Trở lại với Louis Ferrari, ông sáng tác không nhiều, nhưng chỉ cần một bản Domnino, viết năm 1950, cũng đủ để lưu danh muôn thưở. Domino được Jacques Plante đặt lời hát.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image008_thumb.jpg

Jacques Plante (1920-2003)

Jacques Plante (1920-2003), mà chúng tôi đã từng nhắc tới khi viết về các ca khúc La Bohème (của Charles Aznavour), Chariot (của Petula Clark) do ông đặt lời, là một thi sĩ kiêm nhà viết lời hát tài ba và nổi tiếng bậc nhất của Pháp; ông đã đặt lời hát cho hàng trăm ca khúc, từ những tình khúc êm đềm của Tino Rossi, Yves Montand, Édith Piaf… tới những ca khúc thời trang do Dalida, Claude François, Christophe, Sheila… thu đĩa.

Nội dung ca khúc Domino khá dài, là lời một người bị phụ tình, trong tiết xuân huy hoàng, chạnh lòng nhớ thương người yêu bội bạc đã ra đi, mời gọi trở về và hứa sẽ tha thứ tất cả…

DOMINO

Le printemps chante en moi, Dominique,

Le soleil s’est fait beau,

J’ai le cœur comme un’ boite à musique

J’ai besoin de toi,

De tes mains sur moi,

De ton corps doux et chaud,

J’ai envie d’être aimée Domino

Méfie-toi, mon amour, je t’ai trop pardonné

J’ai perdu plus de nuits que tu m’en as données



Bien plus d’heures

A attendre, qu’à te prendre sur mon cœur,

Il se peut qu’à mon tour je te fasse du mal,

Tu m’en as fait toi-même et ça t’est bien égal,

Tu t’amuses de mes peines, et je m’use de t’aimer.



Domino Domino

Le printemps chante en moi, Dominique,

Le soleil s’est fait beau,

J’ai le cœur comme un’ boite à musique

J’ai besoin de toi,

De tes mains sur moi,

De ton corps doux et chaud,

J’ai envie d’être aimée Domino.

Il est une pensée que je ne souffre pas

C’est qu’on puisse me prendre ma place en tes bras,

Je supporte bien des choses, mais à force c’en est trop…

Et qu’une autre ait l’idée de me voler mon bien,

Je ne donne pas cher de ses jours et des tiens,

Je regarde qui t’entoure prends bien garde mon amour.



Domino Domino

J’ai bien tort de me mettre en colère,

Avec toi, Domino,

Je sais trop qu’il n’y a rien à faire,

T’as le cœur léger,

Tu ne peux changer,

Mais je t’aime, que veux-tu ?

Je ne peux pas changer, moi non plus,

Domino, Domino,

Je pardonne toujours, mais reviens,

Domino, Domino,

Et je ne te dirai plus rien.

Domino được nam danh ca Pháp André Claveau thu đĩa năm 1950.

André Claveau (1911-2003) nổi tiếng sau Tino Rossi một thập niên, trong số những ca khúc nổi tiếng do ông thu đĩa, ngoài Domino, sau này còn có Dors, mon amour (Hãy ngủ đi em), ca khúc đoạt giải Eurovision (Ca khúc Âu châu) năm 1958.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image009_thumb.jpg

Cũng trong năm 1950, sau André Claveau, Domino đã được hai nữ danh ca Pháp đương thời là Lucienne Delyle (1917-1962) và Patachou (1918-2015) thu đĩa. Từ đó, trong suốt thập niên 1950, Domino đã trở thành ca khúc Pháp phổ biến và được ưa chuộng bậc nhất ở Âu châu.

Tới thời kỳ “yé-yé” (thời “nhạc trẻ”), bản Domino với lời hát rút ngắn, được cô bé Danièle Vidal (sinh năm 1952) thu đĩa, cũng rất được thế hệ sinh sau đẻ muộn ưa thích.

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/RosJptqJuvo?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Domino – Andre Claveau (1950)

Phụ lục (1): Domino, Lucienne Delyle


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/01-Domino-Domino.mp3

Phụ lục (2): Domino, Danièle Vidal


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/02-Daniele-Vidal-Domino-Daniele-Vidal.mp3
Qua năm 1951, Domino được tác giả Mỹ Don Raye (1909-1985) đặt lời bằng tiếng Anh, và được hai nam danh ca Tony Martin và Bing Crosby thu đĩa cùng một thời gian. Ngày 26/10/1951, cả hai đĩa của Tony Martin và Bing Crosby cùng được lọt vào danh sách Best Seller của tạp chí Billboard Magazine; đĩa của Tony Martin ở trong danh sách này 12 tuần lễ, lên tới hạng 9, còn đĩa của Bing Crosby ở trong danh sách 6 tuần lễ, và lên tới hạng 15.

Cũng trong năm 1951, nữ danh ca Doris Day, người sau này nổi tiếng quốc tế với ca khúc Que Sera, Sera, đã thu đĩa Domino. Sau này, trong số các ca sĩ thu đĩa Domino còn có cả nam danh ca Andy Williams.

Domino
Domino, you’re a devil designed to torment me,
When your heart must know that I love you so,
Tell me why, tell me why, why do you make me cry, Domino,

Domino, Domino, won’t you tell me you’ll never desert me?
Domino, Domino, if you stay I don’t care how you hurt me,
Fate has made you so, you can’t change, I know,
You can’t change, though you try, but then neither can I, Domino,

Just one look in your eyes and I melt with desire,
Just a touch of your hands and I burst into fire,
And my whole world fills with music when I’m lost in your embrace,

But I know that you’re fickle and I’m not misled,
Each attractive new face that you see turns your head,
And it scares me that tomorrow, someone else may take my place,

Domino, Domino, you’re an angel that heaven has sent me,
Domino, Domino, you’re a devil designed to torment me,
When your heart must know that I love you so,
Tell me why, tell me why, why do you make me cry, Domino,

Domino, Domino, I’ll forgive anything that you do,
Domino, Domino, nothing matters if I have you. clip_image011

Video:
<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/J4SIywWRj-Y?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Tony Martin – Domino (1951)

Domino (lời Pháp) được phổ biến, yêu chuộng tại Việt Nam, và được tác giả Hương Huyền Trinh đặt lời Việt ngay trong thập niên 1950.

Hương Huyền Trinh tên thật là Ngô Thị Ngọc Báu, cô ruột của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên (Ngô Quang Bình), sinh tại Hải Phòng vào khoảng cuối thập niên 1930, và di cư vào Nam năm 1954.

Xuất thân từ một gia đình có truyền thống văn học và yêu nhạc, ngoài công việc sáng tác ca khúc và đặt lời Việt cho ca khúc ngoại quốc, bà còn làm thơ dưới bút hiệu Hoài Hương (nhớ Hải Phòng quê xưa?)

Một trong những ca khúc nổi tiếng của Hương Huyền Trinh là bản Hương Nắng Huy Hoàng, thường được trình bày dưới hình thức hợp ca. Về ca khúc ngoại quốc được bà đặt lời Việt, có lẽ trước năm 1975 ở miền Nam VN, ai cũng đã từng nghe qua hai bản “valse musette” Lòng Người Ly Hương (La Complainte des Infidèles) và Khúc Nhạc Muôn Đời (Domino).

Trước hết, xin viết về bản Lòng Người Ly Hương. Ca khúc nguyên tác có tựa đề La Complainte des Infidèles (Sự than phiền của những kẻ ngoại tình), trích trong cuốn phim tình cảm hài kịch La Maison Bonnadieu (1951), do Danielle Darieux, nữ ca sĩ kiêm diễn viên tài sắc bậc nhất của Pháp thời bấy giờ thủ vai chính.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image013_thumb.jpg

Danielle Darrieux

Ca khúc La Complainte des Infidèles do Georges Van Parys viết nhạc, Carlo Rim (cũng là đạo diễn của cuốn phim) đặt lời. Người hát ca khúc này trong phim là nam ca sĩ kiêm diễn viên Marcel Mouloudji, thủ vai một người hát dạo trong phim.

Tuy nhiên, với không ít người ái mộ Danielle Darieux, trong đó có khán thính giả Việt Nam chuộng phim Pháp, yêu nhạc Pháp, bản La Complainte des Infidèles do Danielle Darieux thu đĩa sau đó (năm 1952) được ưa chuộng hơn.

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/qlJ9v0s6h1U?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Danielle Darrieux ” la complainte des infidèles ” 1952

Tương tự trường hợp “Tell Laura I Love Her / Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu” của Nam Lộc sau này, phiên bản lời Việt của Hương Huyền Trinh cũng không dính dáng gì tới nguyên tác, bà chỉ mượn dòng nhạc của La Complainte des Infidèles để gửi gấm tâm sự của một kẻ ly hương – một cách tuyệt vời, đến độ nhiều người cứ ngỡ đây là một ca khúc nhạc Việt Nam 100%!

Lòng Người Ly Hương

Chiều thu ấy khi ngàn lá khô lìa cây bay lướt theo làn gió
Rời quê hương ra đi, vương lệ ướt đôi hàng mi
Từ đây nhé đi ngàn hướng, xa rời bóng quê yêu vương sầu thương
Thôi từ đây ly hương, sống kiếp muôn vạn nẻo đường

Mái nhà xưa ôi nay còn đâu
Cánh đồng xanh đã khuất sau hàng dâu
Làng quê xưa ánh trăng quê vàng hắt hiu đã
Mờ xóa theo lệ rơi lúc nắng chiều

Biết ngày nao quay về làng xưa
Thấy ngày thơ những lúc chuông chiều đưa
Nhìn bầy chim lướt bay ngang trời sáng trong sáo
Diều thướt tha nhẹ vương theo mơ màng

* * *

Tìm nơi đâu bóng quê xưa, làng thân mến yêu đã xa mờ
Hẹn mai đây ánh dương lên, trở về sống lại phút thần tiên.

Phụ lục (3): Lòng Người Ly Hương, Thái Thanh (trước 1975)

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/03-LongNguoiLyHuong-ThaiThanh.mp3

Ngày ấy, vì được Thái Thanh trình bày đầu tiên, và cũng là người hát đạt nhất, không ít thính giả đã cho đây là một sáng tác của… Phạm Duy!

* * *


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image015_thumb.jpg

Khánh Ly, Lệ Thu và Thái Thanh

Cùng khoảng thời gian (giữa thập niên 1950), Hương Huyền Trinh đã đặt lời Việt cho bản Domino với tựa Khúc Nhạc Muôn Đời.

Tương tự Lòng Người Ly Hương, lời hát của Khúc Nhạc Muôn Đời đẹp tựa một bài thơ.

Nếu bị bắt buộc làm công việc so sánh hai ca khúc, chúng tôi chịu thua, cùng lắm cũng chỉ có thể đưa ra một sự khác biệt: Lòng Người Ly Hương đẹp và buồn u uất, Khúc Nhạc Muôn Đời đẹp và buồn man mác.

Khúc nhạc muôn đời

Trăng đã lên, trăng đã lên,
Hương ngát thơm bao u huyền vườn thu thiết tha.
Trăng sáng soi trên lá hoa,
Dâng nhớ bao câu mong chờ nhạc xưa đã qua.

Xa xôi rồi nhớ thương,
Ai mong chờ vấn vương.
Riêng có ta tim xót xa,
Luyến thương bao khúc ca xưa đã phai nhòa.

Bạn lòng ơi, đã bao đêm thức trông trăng sáng long lanh,
Nhìn dòng sông nước trong xanh cuốn trôi nhanh giữa đêm thanh.
Sông mong chờ nhớ bao khúc nhạc thắm,
Nay đâu còn nữa, đã quá xa.

Và từ đây, mỗi khi nghe khúc ca xưa lúc gió mưa,
Thì lòng ta thấy xót xa nhớ thiết tha phút đã qua.
Ðã phai nhòa hết, hoa xưa tàn hết,
Nhưng ngàn thu mãi trong tim ta…

Thu đã qua, bao lá hoa
Theo gió bay, bay quây quần rụng theo gió đưa.
Mây vẫn xanh, trăng vẫn thanh,
Nhưng thấy đâu khúc ca đẹp nhạc êm thắm tươi.

Ai xa vời có hay,
Bao nhiêu ngày gió bay.
Bao lá khô, theo gió thu,
Rớt trên đôi mắt đôi môi khóc mong chờ…

Nhớ thắm thiết thương ngàn kiếp.
Khắc bên tôi bao khúc nhạc vàng đêm nao.
Gió cuốn gió lá vàng úa.
Nhưng ai đâu có thấu được lòng ta…

Ngày ấy, Thái Thanh cũng là người đầu tiên hát Khúc Nhạc Muôn Đời, và theo cảm quan của cá nhân, chúng tôi cũng cho rằng tính tới nay, Thái Thanh vẫn là người hát đạt nhất.

Phụ lục (4): Khúc Nhạc Muôn Đời, Thái Thanh (trước 1975)
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/04-Domino-ThaiThanh.mp3
Sau năm 1975 tại hải ngoại, Khúc Nhạc Muôn Đời đã được nhiều ca sĩ thu đĩa, trong đó có Khánh Ly, trình bày trong CD “Trong tay anh đêm nay”, gồm những ca khúc nổi tiếng theo thể điệu valse.

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/V3xie0n51S0?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Khánh Ly – Domino (Bản tiếng Việt)




http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/clip_image016_thumb.jpg

Thu Minh

Sau năm 1975 ở trong nước, đã có một số tác giả đặt lời Việt mới cho Domino; phổ biến nhất là phiên bản có tựa Hội Mùa Hoa của Phạm Lê Phan.

Hội Mùa Hoa
Ta tới đây, vui với nhau,
nghe nắng xuân reo tưng bừng trên muôn đóa hoa
Xiêm áo bay, theo tiếng ca,
ôi tóc em xanh vương dài như mây thướt tha.
Nghe tâm hồn đắm say, dâng men tình ngất ngây.
Tung bước vui, tay nắm tay,
mến thương trao ái ân nồng cháy trong hồn.


Đều nhịp múa cất tiếng reo, câu hân hoan đem tin yêu
Vào hội vui má môi em đắm say theo bước chân ngà.
Em yêu kiều gió, dâng hương tình tiếng chim
reo mừng chúng ta hát vang.
Nụ cười sáng lấp lánh vui dâng cao tay tung muôn hoa
Chập chờn bay áo em tươi ánh xuân vui
Bướm ong say sưa men tình
chúng ta quay đều, mắt vui trời sao, dáng em kiêu sa.
Domino (ta tới đây)
Domino (vui với nhau)
nghe nắng xuân reo tưng bừng trên muôn đóa hoa.
Xiêm áo bay, theo tiếng ca, ôi tóc em xanh vương dài như mây thướt tha.


Nghe tâm hồn đắm say, dâng men tình ngất ngây.
Tung bước vui, tay nắm tay,
mến thương trao ái ân nồng cháy trong hồn.
Tiếng hát nuôi, cung đàn ấm.
Luyến lưu trao hương ân tình mê say đó.
Cất tiếng hát, vui trần thế,
múa ca lên vang suốt mùa ….hội hoa.

Phụ lục (5): Hội Mùa Hoa, Thu Minh

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/11/05-Domino-ThuMinh.mp3

Hoài Nam

saomai
11-20-2015, 09:19 AM
MY WAY (Dòng Đời – Đường Đời), Claude François & Jacques Revaux, Paul Anka
Hoài-Nam


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image0015.jpg

Tiếp tục giới thiệu những ca khúc điển hình trong nền nhạc phổ thông được đặt lời Việt, kỳ này chúng tôi viết về bản My Way, được Nam Lộc đặt lời Việt với tựa Dòng Đời, và hai tác giả Nguyễn Đăng Hưng & Lê Ngọc Dũng với tựa Đường Đời.

My Way có xuất xứ khá giống bản Seasons in the Sun đã được giới thiệu trong kỳ trước: cả hai đều là ca khúc nguyên tác tiếng Pháp được các công dân Mỹ và Gia-nã-đại đặt lời Anh và thu đĩa; có khác chăng chỉ là trong khi Seasons in the Sun được nhạc sĩ Mỹ đặt lời, ca sĩ Gia-nã-đại thu đĩa thì My Way được nhạc sĩ Gia-nã-đại đặt lời, ca sĩ Mỹ thu đĩa.

[Theo thứ tự thời gian phát hành đĩa nhạc, lẽ ra chúng tôi phải viết về MY WAY (1969) trước SEASONS IN THE SUN (1974). Thành thật cáo lỗi cùng quý độc giả về sơ xuất này]

My Way nguyên là bản Comme d’habitude của hai tác giả Pháp Claude François và Jacques Revaux, được Paul Anka đặt lời Anh, và Frank Sinatra thu đĩa cuối năm 1968. Mặc dù chỉ lên tới hạng 6 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, My Way đã trở thành ca khúc “cầu chứng” của chàng ca sĩ Mỹ có biệt hiệu “Ol’ Blue Eyes”, và cho tới nay vẫn đứng hạng nhì trong danh sách những ca khúc của mọi thời đại được nhiều ca sĩ thu đĩa nhất, chỉ sau bản Yesterday của ban The Beatles.

Trước hết, xin có đôi dòng về tác giả nguyên tác tiếng Pháp: Claude François và Jaques Revaux.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/Jacques-Revaux_thumb.png
Jacques Revaux


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image003_thumb.jpg
France Gall và Claude François

Jacques Revaux, sinh năm 1940, là một nhà viết ca khúc người Pháp. Ngoài bản Comme d’habitude viết chung với Claude François, ông còn là tác giả nhiều ca khúc ăn khách của nam ca sĩ Pháp Michel Sardou. Jacques Revaux cũng là người đồng sáng lập hãng đĩa Tremma Records, ngày nay là một chi nhánh của hãng đĩa Universal Music France.

Về phần Claude François (1939-1978) mà chúng tôi đã nhắc tới trong bài viết về ca khúc Donna Donna được anh đặt lời Pháp, là một trong những tên tuổi được ái mộ nhất tại Pháp và các quốc gia nói tiếng Pháp trong hai thập niên 1960, 1970, chỉ đứng sau Johnny Halliday.

Claude François ra chào đời tại Ai-cập, là con trai độc nhất trong một gia đình trung lưu gồm hai chị em. Cha cậu là một người gốc Pháp, làm quản đốc trong Công ty kênh đào Suez của Anh-Pháp, mẹ cậu, một người gốc Ý yêu nhạc cổ điển nên đã cho cậu học dương cầm và vĩ cầm từ nhỏ, tuy nhiên cậu chỉ say mê đánh trống!

Năm 1956, xảy ra vụ khủng hoảng kinh đào Suez (Ai-cập quốc hữu hóa kinh đào này), ông bố đưa gia đình chạy về Monaco, rồi lâm bệnh không thể làm việc. Là người con trai duy nhất trong gia đình, tuy mới 17 tuổi, Claude François phải tìm việc làm: ban ngày làm thư ký ngân hàng, ban đêm chơi trống trong ban nhạc tại các khách sạn ở vùng nghỉ mát French Riviera (Côte d’Azur) bên bờ Địa trung hải.

Thỉnh thoảng, Claude François cũng hát cho vui, không ngờ cái giọng mũi của chàng lại được nhiều người cho là độc đáo, và được mời hát thường trực tại một khách sạn ở thị trấn nghỉ mát Juan-les-Pin. Với số người ái mộ ngày đông, ít lâu sau, Claude François đã được mời trình diễn tại các hộp đêm sang trọng trong vùng, và qua năm 1957 quyết định bỏ hẳn nghề thư ký ngân hàng để chọn nghiệp cầm ca, bất chấp sự phản đối kịch liệt của ông bố.

Năm 1959, trong thời gian trình diễn tại Monte Carlo (tiểu vương quốc Monaco), kinh đô cờ bạc của Âu châu, Claude François gặp gỡ Janet Woollacott, một vũ công gốc Anh xinh đẹp, và qua năm 1960, hai người kết hôn.

Cũng tại Monte Carlo, Claude François được nhiều người khuyên lên Paris thử thời vận, và chàng nghe theo. Lúc đó, năm 1960, thể loại “rock and roll” của Mỹ bắt đầu làm mưa gió tại Âu châu, Claude François vừa hát cho một ban nhạc nọ để kiếm sống vừa dành dụm tiền bạc để tự thu đĩa một số ca khúc “thời trang” của Mỹ do chàng đặt lời Pháp. Đĩa thứ nhất, The Twist, thất bại thê thảm, nhưng đĩa thứ hai, Made to Love (Girls Girls Girls), thu cuối năm 1962, thành công ngoài sức tưởng tượng.

Trong khi nguyên tác Made to Love (Girls Girls Girls) do Everly Brothers thu đĩa chỉ lên tới hạng 14 trong Billboard Hot 100 ở Hoa Kỳ thì phiên bản lời Pháp của Claude François với tựa Belles Belles Belles đã lên No.1 tại Pháp, bán được trên 2 triệu đĩa, và một sớm một chiều biến chàng thành một thần tượng trẻ.

Chỉ có điều đáng tiếc là cô vợ Janet Woollacott hơi thiếu kiên nhẫn: hai tuần trước khi Belles Belles Belles được phát hành, nàng đã bỏ chồng để đi theo Gilbert Bécaud, đệ nhất danh ca của Pháp đương thời.

[Gilbert Bécaud (1927-2001), xuất thân là một nhạc sĩ dương cầm được nữ danh ca Édith Piaf khám phá, sau trở thành danh ca kiêm diễn viên kiêm nhà soạn nhạc và nhà viết ca khúc nổi tiếng. Một trong những ca khúc nổi tiếng quốc tế của Gilbert Bécaud là “Et Maintenant”, được đặt lời Anh với tựa “What Now My Love”]

Niềm cay đắng bị vợ bỏ sau đó đã được Claude François gửi gấm qua ca khúc Je Sais (Anh biết) năm 1964.

Cũng trong năm 1964, Claude François bắt đầu cặp với France Gall, cô bé 17 tuổi mà qua năm 1965 sẽ đoạt giải Eurovision (giải Ca khúc Âu châu) với bản Poupée de cire Poupée de son (lời Việt: Búp bê không tình yêu).

Tuy nhiên, mối tình được xem là lý tưởng trong làng ca nhạc Pháp ấy lại không suôn sẻ, có lẽ do hai người không hợp tính nhau. Năm 1967, Claude François vừa hoàn tất thủ tục ly dị cô vợ Janet Woollacott xong thì người tình France Gall cũng bỏ ra đi. Claude François sáng tác ca khúc Comme d’habitude (As usual – Như thường lệ) thay cho lời giải thích về nguyên nhân tan vỡ của cuộc tình: sống bên nhau nhưng không còn những khao khát, say mê, quan tâm, tận tụy, mong chờ… Mỗi ngày, cuộc sống nhàm chán ấy diễn ra, …như thường lệ!


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image005_thumb.jpg

Phụ lục (1): Comme d’habitude, Claude François
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/01-comme-dahabitude.mp3

Năm 1968, trong thời gian nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp, Paul Anka nghe được bản Comme d’habitude qua làn sóng điện, thấy “âm điệu hay hay” (lời Paul Anka) liền bay lên Paris gặp các tác giả để thương lượng tác quyền.

Vì Paul Anka chỉ muốn sử dụng phần nhạc, các tác giả đã lấy tượng trưng 1 đô-la Mỹ kèm theo điều kiện: trong tương lai, một khi Paul Anka sử dụng phần nhạc này vào bất cứ việc gì mang tính cách thương mại, các tác giả sẽ được chia tiền lời.

Qua tay Paul Anka, mấy tháng sau, Comme d’habitude trở thành My Way.

Tới đây, xin viết về Paul Anka. Tính cho tới nay, Paul Anka vẫn được xem là nghệ sĩ lớn nhất gốc Gia-nã-đại (ông nhập tịch Mỹ năm 1990), thành công trong cả lĩnh vực ca nhạc lẫn điện ảnh, truyền hình.

Sinh năm 1941 tại Gia-nã-đại, cha mẹ là di dân gốc Lebanese và Syrian, tới năm 16 tuổi, Paul Anka đã nổi tiếng khắp thế giới với bản Diana do chàng sáng tác và thu đĩa, đứng No.1 tại Gia-nã-đại, Hoa Kỳ, Anh Quốc, Úc-đại-lợi… mà chúng tôi đã giới thiệu trước đây. Tiếp theo là các bản Lonely Boy, Put Your Head on My Shoulder, Having My Baby…

Năm 1962, Paul Anka bắt đầu sự nghiệp diễn xuất với một vai trong cuốn phim vĩ đại The Longest Day, kể về cuộc đổ bộ của Đồng Minh lên vùng Normandy, Pháp quốc, trong Đệ nhị Thế chiến; đồng thời viết và hát ca khúc có cùng tựa trong cuốn phim này.

Video:

<iframe width="853" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/hpaTwpWt8BQ?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
The Longest Day by Paul Anka

Về những ca khúc Paul Anka viết cho các nghệ sĩ bạn thu đĩa, trước My Way có She’s a Lady, ca khúc đã đem lại đĩa vàng cho nam ca sĩ Anh Tom Jones. Bước sang thập niên 1980, Paul Anka đã viết chung với Michael Jackson ít nhất hai ca khúc: This Is It và Love Never Felt Soo Good.

Sức thu hút của những ca khúc do Paul Anka sáng tác không chỉ ở giai điệu mà còn qua lời hát: đơn giản, dễ hiểu, tác động mạnh nơi đối tượng thưởng thức. Xin lấy bản Papa do Paul Anka viết và thu đĩa năm 1974 làm thí dụ điển hình.
Papa

Everyday my papa would work
To try to make ends meet
To see that we would eat
Keep those shoes upon my feet
Every night my papa would take me
And tuck me in my bed
Kiss me on my head
After all my prayers were said
And there were years
Of sadness and of tears
Through it all
Together we were strong
We were strong
Times were rough
But Papa he was tough
Mama stood beside him all along
Growing up with them was easy
The time had flew on by
The years began to fly
They aged and so did I
And I could tell
That mama she wasn’t well
Papa knew and deep down so did she
So did she
When she died
Papa broke down and he cried
And all he could say was, “God, why her? Take me!”
Everyday he sat there sleeping in a rocking chair
He never went upstais
Because she wasn’t there
Then one day my Papa said,
“Son, I’m proud of how you’ve grown”
He said, “Go out and make it on your own.
Don’t worry. I’m O.K. alone.”
He said, “There are things that you must do”
He said, “There’s places you must see”
And his eyes were sad as he
As he said goodbye to me
Every time I kess my children
Papa’s words ring true
He said, “Children live through you.
Let them grow! They’ll leave you, too”
I remember every word Papa used to say
I kiss my kids and pray
That they’ll think of me
Oh how I pray
They will think of me
That way
Someday

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image007_thumb.jpg

Phụ lục (2): Papa, Anka Paul
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/02-PAPA-Paul-Anka-NCT-6596982196.mp3

Video:
<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/mMumDBAed_Q?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Lê Toàn – Cha Tôi (Papa)

Ít lâu sau cuộc thương lượng tác quyền Comme d’habitude, Paul Anka có dịp ăn tối với Frank Sinatra, hiện diện còn có vài “Bố già”. Trong bữa ăn, Frank Sinatra, khi ấy mới hơn 52 tuổi, nói: “Tôi sắp giải nghệ đây. Tôi mệt mỏi lắm rồi”.

Câu nói của Frank Sinatra đã ám ảnh Paul Anka; và đêm hôm ấy anh quyết định đặt lời Anh cho bản Comme d’habitude với chủ đề “the end is near” để Frank Sinatra thu đĩa. Kết quả là ca khúc My Way, nội dung là lời một người đàn ông luống tuổi cảm khái hồi tưởng lại đời mình, không một chút ân hận nuối tiếc về việc mình đã sống như thế nào, bởi ông đã sống một cuộc đời thật trọn vẹn, và tất cả những gì ông đã làm, đều làm theo ý mình, theo cung cách riêng của mình.

Sau này, trước thành công của My Way do Frank Sinatra thu đĩa, ông bầu và chủ hãng đĩa của Paul Anka đã không tiếc lời chê chàng… ngu: một ca khúc hay như thế mà không chịu thu đĩa lại giao cho người khác. Paul Anka trả lời:

“Ca khúc này tôi viết về Frank (Sinatra) và chỉ để Frank thu đĩa chứ không nhắm bất cứ một ca sĩ nào khác!”

Muốn biết tại sao Paul Anka lại viết My Way riêng cho Frank Sinatra, xin có đôi hàng về con người, đường đời và sự nghiệp của chàng ca sĩ có biệt hiệu “Ol’ Blue Eyes”.

Frank Sinatra tên thật là Francis Albert Sinatra, ra chào đời ngày 12/12/1915 tại Hoboken, New Jersey, cha mẹ là di dân gốc Ý theo Công giáo. Năm 15 tuổi, Frank Sinatra bỏ học, lúc đầu đi bỏ báo, về sau làm thợ tán đinh (riveting). Vừa đi làm, Frank Sinatra vừa tập tành ca hát. Năm 20 tuổi, Frank gia nhập ban tứ ca The Hoboken Four.

Sau khi đoạt giải nhất của Major Bowes Amateur Hour, phát sóng trên hai hệ thống NBC và CBS, The Hoboken Four được ký một hợp đồng 6 tháng trình diễn trên sân khấu và đài phát thanh toàn quốc. Một năm sau, Frank Sinatra rời ban The Hoboken Four để hát cho nhiều ban nhạc nổi tiếng khác nhau, được lọt vào Top 10 của Billboard tổng cộng 23 lần.

Năm 1943, Frank Sinatra quyết định tách ra hát solo, ký hợp đồng với hãng Columbia Records, và từ đó tên tuổi của ông lên vùn vụt, qua những ca khúc bất hủ như White Christmas, You’ll Never Walk Alone, More, I Can’t Stop Loving You, The Girl from Ipanema, Strangers in the Night, v.v…

Frank Sinatra thu phục được cả thính giả yêu nhạc jazz lẫn thính giả thích nhạc pop. Ông được các nhà phê bình tặng biệt hiệu “The Voice” vì hội đủ cả bốn yếu tố: giọng hát đặc biệt, kỹ thuật hát, nghệ thuật hát, và cảm xúc thực sự khi trình diễn.

Lấy bản Strangers in the Night làm thí dụ điển hình. Phần nhạc của ca khúc này nguyên là một nhạc khúc có tựa đề là “Beddy Bye”, trích trong phần nhạc đệm của cuốn phim hài kịch A Man Could Get Killed, do nhạc sĩ gốc Đức Bert Laempfert soạn. Nhận xét một cách tổng quát, phần nhạc đệm của cuốn phim này cũng không có gì nổi bật, nhưng sau khi nhạc khúc “Beddy Bye” được hai nhà viết ca khúc của Mỹ là Charles Singleton, Eddie Snyder đặt lời hát với tựa Strangers in the Night, Ernie Freeman soạn hòa âm phối khí, và được Frank Sinatra thu đĩa, đã trở thành một khuôn mẫu điển hình nhất của nền nhạc nhẹ (easy listening).

Strangers in the Night đứng No.1 trên cả bảng xếp hạng Easy Listening lẫn Billboard Hot 100 (tính mọi thể loại), đồng thời cũng lên No.1 tại Anh quốc. Album Strangers in the Night (trong đó có ca khúc này) đã trở thành album bán chạy nhất trong sự nghiệp đơn ca của Frank Sinatra.

Trong giải âm nhạc Grammy năm 1967, Strangers in the Night đã

mang lại cho Frank Sinatra hai giải thưởng Nam ca sĩ trong năm và Đĩa nhạc trong năm, đồng thời cũng đem giải Grammy về hòa âm phối khí cho nhạc trưởng Ernie Freeman.

Chính qua bản Strangers in the Night, Frank Sinatra đã được nhà phê bình âm nhạc đương đại uy tín bậc nhất (biệt hiệu “Dean of American Rock Critics”) Robert Christgau xưng tụng là “ca sĩ số một của thế kỷ 20”.

Phụ lục (3): Strangers in the Night, Frank Sinatra

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/03-StrangersInTheNight-FrankSinatra.mp3

Về diễn xuất, khởi nghiệp từ năm 1944, Frank Sinatra đã xuất hiện trong gần 50 cuốn phim điện ảnh và vô số show truyền hình, trong đó đáng kể nhất phải là vai anh binh nhì Angelo Maggio du côn nhưng chí tình với bạn trong phim From Here to Eternity (1953), ngày ấy chiếu ở Sài Gòn dưới tựa tiếng Pháp Tant qu’il y aura des hommes, tựa tiếng Việt là Thói Đời; vai trò này đã đem lại cho Frank Sinatra giải Oscar diễn xuất trong vai phụ.

Trong sự nghiệp của mình, ngoài 13 giải âm nhạc Grammy, Frank Sinatra đã được trao tặng tổng cộng giải 4 Oscar (diễn xuất, soạn nhạc, và hát), 2 giải truyền hình Emmy, 3 giải Trái Cầu Vàng, và nhiều giải thưởng quan trọng khác.

Về phương diện quốc gia, năm 1983, Frank Sinatra được trao tặng giải Kennedy Center Honors dành cho những nghệ sĩ trọn đời cống hiến cho nền văn hóa Mỹ; năm 1985, giải Presidential Medal of Freedom do Tổng thống Reagan trao tặng; và năm 1997, giải Congressional Gold Medal của Quốc hội Hoa Kỳ.

Frank Sinatra còn được xem là nghệ sĩ có thế lực nhất ở Hoa Kỳ do những giao kết của mình. Ông là lãnh tụ của nhóm “Rat Pack”, còn gọi là “đảng Frankie”, quy tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Dean Martin, Sammy Davis Jnr., Peter Lawford (em rể TT Kennedy), Angie Dickinson… Nhóm này thường liên kết trong việc trình diễn và đóng phim; trong số đó có cuốn phim nổi tiếng Ocean’s 11 (tựa tiếng Việt: 11 Tên trộm ở Las Vegas) năm 1960, sau này được George Clooney và Brad Pitt thực hiện lại cũng rất ăn khách.

Nhiều người tin rằng trong cuộc tranh cử Tổng thống năm 1960, ảnh hưởng của “đảng Frankie” đã góp một phần không nhỏ vào chiến thắng của ông John F. Kennedy trước đối thủ Richard Nixon của đảng Cộng Hòa!

Thế nhưng tới năm 1970, mặc dù vẫn giữ đảng tịch Dân Chủ, Frank Sinatra bắt đầu thay đổi lập trường chính trị qua việc ủng hộ ông Ronald Reagan của đảng Cộng Hòa tái tranh cử chức Thống đốc California. Tháng 7 năm 1972, sau một đời ủng hộ các ứng cử viên tổng thống Dân Chủ, Frank Sinatra đã bỏ rơi Thượng nghị sĩ George McGovern vì lập trường thiên tả của ông ta, để quay sang ủng hộ ưng cử viên Richard Nixon của đảng Cộng Hòa.

Ông nói với cô con gái út Tina, người đang hết lòng vận cho TNS McGovern: “Càng thêm tuổi đời, người ta càng trở nên bảo thủ”.

Từ đó, Frank Sinatra trở thành người của Cộng Hòa.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image008_thumb1.jpg
Tổng thống Ronald Reagan, Frank Sinatra và Nancy Reagan



* * *

Nhưng Frank Sinatra không chỉ giao kết với các chính khách, với các nhà lãnh đạo, mà còn quan hệ cả với các “Bố già Mafia” (xin nhắc lại: Frank Sinatra là người gốc Ý).

Nhiều người tin rằng nhân vật John “Johnny” Fontane trong bộ truyện “The Godfather” (Bố già) của văn sĩ Mario Puzo chính là Frank Sinatra ở ngoài đời.

[Trong bộ truyện “The Godfather”, Johnny Fontane là một nam ca sĩ kiêm diễn viên, con đỡ đầu của Bố già Vito Corleone. Vì thế, ngoài việc giúp vốn cho Johnny Fontane mở một hãng phim riêng, gia đình Mafia này còn nhiều lần sử dụng áp lực, thậm chí bạo lực, để Johnny được trao tặng các giải thưởng, trong đó có giải thưởng điện ảnh Oscar. Khi bộ truyện này được đạo diễn kiêm nhà sản xuất phim Mỹ gốc Ý Francis Ford Coppola dựng thành phim vào năm 1972, vì những “nguyên nhân tế nhị” , Johnny Fontane đã trở thành một nhân vật thứ yếu, và không còn nhiều điểm giống Frank Sinatra như trong bộ truyện nữa]

Về phần văn sĩ Mario Puzo, trước những tin đồn nhân vật Johnny Fontane chính là Frank Sinatra, ông chưa bao giờ lên tiếng xác nhận, nhưng cũng chưa bao giờ… phủ nhận!

Riêng FBI cho biết họ có lưu trữ những tài liệu về quan hệ giữa Frank Sinatra và các bố già Mafia, nhưng không tiết lộ gì thêm.

[Năm 1998, trước yêu cầu của công luận chiếu theo đạo luật Freedom of Information Act, FBI đã phải công bố 2.403 trang tài liệu về Frank Sinatra mà họ lưu trữ. Qua những gì được công bố, người ta có thể kết luận Frank Sinatra đã có quan hệ cá nhân với một số “Bố già” Mafia, nhưng không liên đới trong các hoạt động của giới này. Ngược lại, theo nội dung một lá thư của ông Clyde Tolson, người từng giữ chức Phụ tá Giám đốc FBI, trong cuộc điều tra của nhà chức trách về sự thâm nhập của Mafia vào kỹ nghệ giải trí trong thập niên 1950, Frank Sinatra còn tình nguyện làm mật báo viên (informer) cho FBI]

Về tính tình, Frank Sinatra cũng được mô tả là một con người khác thường. Với thế hệ đàn em, trong khi ca tụng (và thu đĩa) ca khúc Something của The Beatles (do George Harrison sáng tác) là “một trong những tình khúc hay nhất xưa nay” thì khi gặp ban The Rolling Stones trong thang máy, ông đã quay mặt đi chỗ khác.

Với các phóng viên, ông thường dành cho họ nhiều ác cảm. Frank Sinatra cũng bị nhiều người hầu bàn xem là “hung thần”; có lần về thăm Ý, ông đã xé nát một tờ giấy bạc 5000 lire (tiền Ý) trước mặt họ!… Và còn nhiều hành động khác của Frank Sinatra khiến ông bị xem là một con người ngang tàng, phách lối.

Nhưng bên cạnh đó, không ai có thể phủ nhận việc Frank Sinatra sống rất có tình, ít nhất cũng là với bè bạn, với những người đàn bà đã đi qua đời mình.

Lấy thí dụ trường hợp nữ minh tinh Ava Gardner.

Ava Gardner (1922-1990), từng được xưng tụng là người đàn bà đẹp nhất thế giới, và hiện nay vẫn nằm trong danh sách 25 nữ minh tinh tài sắc nhất xưa nay, là đời vợ thứ hai của Frank Sinatra (ông là đời chồng thứ ba của bà).

Viết một cách chính xác, Frank Sinatra đã bỏ người vợ đầu tiên (Nancy Barbato) để đi theo Ava Gardner, một “mỹ nhân chết người” (femme fatale) thời bấy giờ. Ava Gardner cũng nổi tiếng là một phụ nữ “khác người”, cho nên cuộc hôn nhân (không con cái) kéo dài 6 năm (1951-1957) giữa hai thần tượng hàng đầu thời bấy giờ đã được mô tả vừa là thiên đường vừa là địa ngục, chưa kể việc bị Giáo hội Công giáo kịch liệt lên án.

Tới đầu thập niên 1970, Ava Gardner bị khủng hoảng tinh thần, bỏ sang Anh sống buông thả, cặp với một tay đấu bò người Tây-ban-nha, rồi sang Úc sống (theo báo Úc, có khi bà say rượu, ngủ cả với tài xế tắc-xi!). Năm 1974, Frank Sinatra (lúc đó đang chung sống với đời vợ thứ tư, Barbara Marx) đã sang Úc trình diễn cốt để gặp vợ cũ, thuyết phục bà trở về Mỹ. Chính trong chuyến đi này, Frank Sinatra đã gây thù chuốc oán với giới truyền thông Úc khi ông mô tả các nữ phóng viên cứ bám theo ông giống như “gái đĩ” (hookers)!

Những năm cuối thập niên 1980, khi Ava Gardner đau yếu và phá sản, chính Frank Sinatra đã “xin phép” bà vợ cũ chằn ăn cho mình được chi trả mọi phí tổn thuốc men, viện phí cho tới ngày bà qua đời.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image010_thumb1.jpg
Frank Sinatra và Ava Gardner.

* * *

Bằng đó chất liệu đã quá đủ để Paul Anka viết My Way, viết về Frank Sinatra, viết cho Frank Sinatra.

My Way

And now, the end is near;
And so I face the final curtain.
My friend, I’ll say it clear,
I’ll state my case, of which I’m certain.

I’ve lived a life that’s full.
I’ve traveled each and every highway;
And more, much more than this,
I did it my way.

Regrets, I’ve had a few;
But then again, too few to mention.
I did what I had to do
And saw it through without exemption.

I planned each charted course;
Each careful step along the byway,
And more, much more than this,
I did it my way.

Yes, there were times, I’m sure you knew
When I bit off more than I could chew.
But through it all, when there was doubt,
I ate it up and spit it out.
I faced it all and I stood tall;
And did it my way.

I’ve loved, I’ve laughed and cried.
I’ve had my fill; my share of losing.
And now, as tears subside,
I find it all so amusing.

To think I did all that;
And may I say – not in a shy way,
“Oh no, oh no not me,
I did it my way”.

For what is a man, what has he got?
If not himself, then he has naught.
To say the things he truly feels;
And not the words of one who kneels.
The record shows I took the blows –
And did it my way!

Sau này, tháng 5 năm 1998, khi hay tin Frank Sinatra qua đời, Tổng thống Bill Clinton đã bày tỏ lòng thương tiếc, ngưỡng mộ, và mượn câu hát cuối trong bản My Way để kết luận: He did it. He did it his way!

Phụ lục (4): My Way, Frank Sinatra

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/04-My-Way-Frank-Sinatra-.mp3




http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/clip_image012_thumb1.jpg

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/5AVOpNR2PIs?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Frank Sinatra – “My Way”

Frank Sinatra thu đĩa My Way vào tháng 12/1968 và phát hành đầu năm 1969 trong album có cùng tựa. Nếu chỉ xét về số đĩa hát bán ra cũng như thứ hạng trên các bảng xếp hạng, My Way không thể sánh với Strangers in the Night thu đĩa trước đó 2 năm. My Way chỉ đứng No.2 trên bảng xếp hạng Easy Listening và hạng 27 trong danh sách Billboard Hot 100. Tại Anh quốc, My Way tuy tạo kỷ lục nằm trong Top 40 suốt 75 tuần lễ liên tục, cũng chỉ lên tới hạng 5 là cao nhất.

Thế nhưng với người yêu nhạc khắp nơi trên thế giới, My Way đã được xem là ca khúc mang dấu ấn (signature song) của “Ol’ Blue Eyes”.

Sau này, trong số hàng trăm ca sĩ nổi tiếng thu đĩa My Way, chỉ có một người duy nhất qua mặt Frank Sinatra – nhưng cũng chỉ qua mặt sau khi chết, và nhờ cái chết. Đó là “ông vua nhạc rock” Elvis Presley.

Ngày còn sống, Elvis Presley chưa bao giờ thu đĩa My Way mà chỉ hát “live” trong các buổi trình diễn hoặc show truyền hình, và trước mỗi lần hát, Elvis luôn luôn nói đây là một ca khúc nổi tiếng của Frank Sinatra mà anh yêu thích.

Tháng 9 năm 1977, vài tuần lễ sau khi Elvis Presley chết đột ngột, người ta mới lấy phần âm thanh trong show “Elvis In Concert” chiếu trên CBS-TV trước đó hơn hai tháng, thu vào đĩa hát để phát hành.

Kết quả, My Way của Elvis Presley đã đứng hạng 22 trên bảng Billboard Hot 100 (của Frank Sinatra đứng hạng 27), No.2 trên bảng Billboard Country, và No.1 trên bảng Cash Box Country Singles.

Phụ lục (5): My Way, Elvis Presley


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/05-my-way-elvis.mp3

Video:

<iframe width="853" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/Zf-fORxQvW0?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Elvis Presley ~ My Way (BEAUTIFUL VERSION)

Trở lại với Frank Sinatra, có thể nói, lúc đầu, My Way đã được ông xem như lời từ biệt khán thính giả; năm 1971, ông ngưng tất cả mọi hoạt động về ca nhạc.

Nhưng niềm đam mê ca hát nơi cậu bé bỏ học năm 15 tuổi ngày nào vẫn còn đó: 2 năm sau, “Ol’ Blue Eyes” đổi ý, tiếp tục trình diễn trở lại, thu thêm nhiều album, và đạt thêm nhiều thành công, trong đó đáng kể nhất là bản New York, New York, trích trong cuốn phim có cùng tựa, nằm trong album Triology: Past Present Future (1980).

Frank Sinatra tiếp tục lưu diễn khắp nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới cho tới năm 1996, năm ông bị nhập viện mấy lần vì lên cơn đau tim.

Năm 1998, sau một cơn đau tim nặng, Frank Sinatra qua đời ngày 14 tháng 5, hưởng thọ 82 tuổi. Đêm hôm đó, hệ thống đèn chiếu sáng trên tòa nhà Empire State Building ở New York City đã được đổi sang màu xanh blue, và đèn đường ở Las Vegas đã được giảm độ sáng để tưởng niệm ông.

Tang lễ của Frank Sinatra được cử hành theo nghi thức Công giáo trang trọng nhất tại Thánh đường Good Shepherd ở Beverly Hills, Los Angeles (ông đã “làm hòa với Chúa” – nguyên văn lời ông – vào những năm cuối đời) với hơn 400 nghệ sĩ và hàng nghìn người ái mộ tham dự.

Ông được an táng bên cạnh cha mẹ; trong những thứ mà thân nhân chôn theo ông có kẹo ngậm Life Savers vị “cherry”, chocolate hiệu “Tootsie Rolls”, một chai rượu bourbon Jack Daniel’s, một gói thuốc lá hiệu Camel, một cái hộp quẹt Zippo…

* * *

Sau khi Frank Sinatra qua đời, My Way càng trở nên nổi tiếng, càng có thêm nhiều giai thoại.

Tại Anh quốc, My Way đã trở thành ca khúc được sử dụng nhiều nhất trang các tang lễ.

Tại Đức, trong lần duyệt binh cuối cùng trước lễ bàn giao chức vụ Thủ tướng cho bà Angela Merkel, ông Gerhard Schroder đã sử dụng bản My Way.

My Way còn được đưa vào… chính trường, đó là “Học thuyết Sinatra” (Sinatra Doctrine) với ý nghĩa dí dỏm, vui đùa. Người đầu tiên sử dụng chữ “Sinatra Doctrine” là phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Liên Xô Gennadi Gerasimov, để đối lại “Học thuyết Brezhnev” (Brezhnev Doctrine).

Như những độc giả từng quan tâm theo dõi tình hình chính trị Liên Xô từ thập niên 1960 trở về sau còn nhớ, sau khi lật đổ Tổng Bí thư Đảng CS Liên Xô Nikita Khrushchev và thanh trừng các thành phần “xét lại” vào năm 1964, tân Tổng Bí thư Leonid Brezhnev đã cho xiết chặt sự kìm kẹp đối với các nước cộng sản Đông Âu, tức các quốc gia trong Khối Varsovie (Warsaw Pact); đường lối chính sách này được gọi là “Học thuyết Brezhnev” (Brezhnev Doctrine). Hậu quả, mùa xuân 1968, xe tăng Liên Xô đã tiến vào Prague nghiền nát cuộc nổi dậy của sinh viên Tiệp Khắc…

Nhưng mọi sự đã thay đổi sau khi ông Mikhail Gorbachev lên nắm giữ chức Tổng Bí thư.

Ngày 25 tháng 10 năm 1989, ông Gennadi Gerasimov xuất hiện trên chương trình truyền Good Morning America để tham gia cuộc thảo luận về bài diễn văn quan trọng của Ngoại trưởng Liên Xô Eduard Shevardnadze đọc hai ngày trước đó, nhìn nhận và tôn trọng quyền tự quyết của tất cả mọi quốc gia trên thế giới.

Trong cuộc thảo luận này, ông Gennadi Gerasimov đã phát biểu:

“Ngày nay chúng ta đã có học thuyết Frank Sinatra. Ông ấy có ca khúc ‘Tôi đã làm theo đường lối của tôi’ (I Did It My Way). Như vậy, mọi quốc gia trên thế giới đều có quyền chọn một con đường riêng cho mình”.

Khi được hỏi: có phải điều này có nghĩa là Liên Xô chấp nhận việc các quốc gia Đông Âu từ bỏ chế độ cộng sản, vị phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Liên Xô đã trả lời:

“Đó là một điều chắc chắn…, thể chế chính trị của một quốc gia phải do chính người dân sống ở đó quyết định.”

* * *

Gần đây nhất, trong cuộc triển lãm xe hơi quốc tế Geneva Motor Show năm 2013, hãng xe Volkswagen của Đức đã sử dụng ca khúc My Way do Frank Sintra hát trong phần quảng cáo cho kiểu xe Volkswagen Golf GTI Mk7 nổi tiếng của họ cùng với hàng chữ “Often copied, never equalled”; họ giải thích như sau: cũng giống như ca khúc My Way của Frank Sintra, kiểu xe này thường bị nhái lại, nhưng không bao giờ có thể tương đương!

Cuối cùng, viết về bản My Way chúng tôi không thể không nhắc tới một hiện tượng xã hội được gọi là “My Way killings” ở Phi-luật-tân, một quốc gia nói tiếng Anh, nơi mà ca khúc này rất được các nam công dân ưa chuộng, đặc biệt là trong các quán karaoke, nơi giới anh chị thường lên hát và… bắn lộn!

Theo tờ New York Times, cho tới nay người ta cũng chưa thống nhất ý kiến với nhau về nguyên nhân đưa tới hiện tượng xã hội này. Phải chăng vì ý nghĩa “ngang tàng” trong lời hát của My Way, tay anh chị lên hát bị xem là có ý “khiêu khích” đối thủ cho nên mới xảy ra bắn lộn? Hay chẳng qua chỉ vì trong các quán karaoke ở Phi-luật-tân thường xảy ra bắn lộn, và My Way là ca khúc được hát nhiều nhất ở nơi đó, cho nên một người đang hát, hoặc vừa hát xong thì xảy ra bắn lộn chỉ là một sự vô tình trùng hợp?

Nhưng riêng nguyên nhân bị bắn vì hát dở thì đã được chứng minh. Theo trang mạng Wikipedia, vào ngày 29 tháng 5 năm 2007, một thanh niên 29 tuổi đang hát My Way trong một quán karaoke ở San Mateo, tỉnh Rizal, thì bị nhân viên bảo vệ an ninh (security guard) của quán bắn chết tại chỗ. Sau khi bị bắt, nhân viên này khai với cảnh sát rằng anh thanh niên kia hát bản My Way quá dở, vừa trật “tông” vừa sai nhịp, nhân viên này đã mấy lần yêu cầu anh ta ngưng hát nhưng anh ta không chịu, bèn rút súng P.38 bắn chết.

Theo thông tấn xã Anh Reuters, trong những năm trước đó đã xảy ra nhiều vụ bắn chết người liên quan tới My Way, vì thế sau khi xảy thêm vụ năm 2007, đa số các quán karaoke ở thủ đô Manila đã loại bỏ My Way ra khỏi danh sách ca khúc; đồng thời các thanh niên “nhà lành” cũng không mấy người dám hát My Way ở nơi công cộng nữa.

[Trước năm 2007, qua đọc báo Úc chúng tôi cũng được biết một vụ bị bắn chết rất đáng buồn ở Phi-luật-tân chỉ vì hát My Way không “đạt”. Rất đáng buồn bởi nó không xảy ra trong quán karaoke mà trong một đám cưới tại gia. Thủ phạm là một tân khách mê bản My Way do Frank Sinatra hát]

* * *

Trở lại với My Way và Frank Sinatra, vào năm 1993, ông đĩa thu đĩa ca khúc này thêm một lần nữa, hát chung với nam danh ca tenor Ý Luciano Pavarotti trong album Duets, gồm 13 ca khúc do ông hát chung với các ca sĩ thuộc thế hệ đàn em, trở thành album có số bán cao nhất trong sự nghiệp của ông.

Phụ lục (6): My Way, Frank Sinatra & Luciani Pavarotti

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/06-My-way-Luciano-Pavarotti.mp3

Ngày 22 tháng 7 năm 1996, nhân dịp tới trình diễn tại Hoa Kỳ, The Three Tenors (Luciano Pavarotti, Placido Domingo, Jose Carreras) đã hát bản My Way tại vận động trường New York Giants ở East Rutherford, New Jersey. Ngồi hàng ghế đầu có Frank Sinatra, cựu Tổng thống George H. Bush và phu nhân Barbara.

Sau khi The Three Tenors hát xong, Frank Sinatra đã đứng dậy vỗ tay, miệng nói “Bravo!”

Đây là lần cuối cùng, Frank Sinatra xuất hiện trước ống kính truyền hình.

Video:

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/B6q4f8DzrCE?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
The 3 Tenors – My Way

Trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam, My Way của Frank Sinatra không nằm trong số những ca khúc ngoại quốc được ưa chuộng nhiều. Theo suy nghĩ của chúng tôi, nguyên nhân có thể vì lớp thính giả lớn tuổi thích nhạc tình cảm êm dịu đa số học tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Anh, cho nên ít người hiểu hết lời hát; ngược lại, đám trẻ, trong đó có bản thân chúng tôi, hiểu được lời hát thì lại không cảm nhận được ý nghĩa trong đó, bởi đường đời mới đi phân nửa, chưa thấy “…the end is near”, chưa chuẩn bị “…face the final curtain”.

Ra hải ngoại, My Way được Nam Lộc đặt lời Việt với tựa Dòng Đời, và được Nguyên Khang thu đĩa. Nhận xét theo cảm quan cá nhân, chúng tôi cho rằng cả tác giả lời Việt lẫn ca sĩ trình bày đều rất đạt!

Dòng Đời (Nam Lộc)

Đời tôi và bao nổi trôi
Vùi trong thời gian dần khuất nơi chân trời
Bạn ơi buồn vui sầu bi
Tình đến rồi đi
Có những lần ướt mi
Rồi bao hào quang chói chan ở trên thế gian
Tôi cũng tường bước qua biết bao và có biết bao đời tôi đã bước qua
Giờ đây nhìn tháng ngày qua
Đời lững lờ trôi đôi lúc tôi sai lầm
Dù cho dù tôi chỉ mong được mang niềm vui đến với cùng thế nhân
Bạn ơi thời gian vút qua nếu có lầm lỗi chi xin mong được thứ tha
Biết bao và có biết bao điều xin hãy thứ tha
Nhìn lại thời gian bước chân dọc ngang
Cuộc đời cho tôi đắng cay lầm than
Nhiều khi cố nuốt nhiều lúc lặng im
Để nghe tiếng nói đến từ trái tim
Dù bao thách đố vẫn đứng hiên ngang
Đường tôi vẫn cứ đi
Tình yêu niềm vui sầu rơi
Tràn dâng đầy vơi khi thắng khi thua người
Và khi lệ không còn rơi
Đời như cuộc chơi cứ ngỡ đùa giỡn thôi
Giờ đây dù ai có khen có trách gì nữa đi
Cũng xin được khắc ghi
Với tôi chẳng hối tiếc chi đường tôi vẫn cứ đi
Dòng đời trôi qua biết bao đổi thay
Nhưng tôi vẫn mãi vẫn luôn là tôi
Vì tôi đã sống với chính con tim
Dù cho phút cuối có đến với tôi
Thì xin nhắm mắt theo áng mây trôi
Đời như chiếc lá rơi…
Đường tôi đã bước qua…

Phụ lục (7): Dòng Đời, Nguyên Khang
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/07-dong-doi-nguyen-khang.mp3
Ngoài ra, còn có phiên bản lời Việt của hai tác giả Nguyễn Đăng Hưng – Lê Ngọc Dũng với tựa đề Đường Đời. Mặc dù cũng có chữ “đời” nhưng nội dung không liên quan gì tới nguyên tác My Way, mà viết về một kiếp sống buồn; lời hát buồn và đẹp, cho nên rất thích hợp với các giọng nữ.
Đường Đời

(Nguyễn Đăng Hưng – Lê Ngọc Dũng)

Đời tôi buồn như dòng sông
Sầu như mùa Đông không biết đôi môi cười.
Người ơi dòng sông ngừng trôi
Chờ nghe mùa Đông hát tình khúc xưa.
Tình ơi đừng theo gió đưa khuất vào chốn xưa
Như chưa từng nhớ mong.
Nhớ ai nhìn khói thuốc bay và làm chiếc lá rơi
Đời tôi từng giây phút nổi trôi
Vùi trong thời gian mang những cơn u buồn.
Buồn ơi này ta chào mi
Đừng đem biệt ly cất từng bước đi.
Và khi buồn lên ướt mi
Thắm từng nét môi còn mơ gì đến tôi.
Đến khi nhớ thương ai
buồn tìm bên những phút giây.
Một ngày được mang cánh chim thời gian
Một đời tôi đi khắp nơi dọc ngang
Và tôi sẽ tới một cánh rừng hoang
Làm quen với lũ bướm vàng ngẩn ngơ.
Nằm mơ dưới nắng chiều lững lờ đưa
Vời tôi đến chốn xưa.
Đời qua, đời lững lờ qua
Tình cũng mờ xa như lá Thu rơi đầy.
Giờ đây hàng cây ngày xưa
Buồn nghe chiều mưa hát lời tiễn đưa.
Người ơi mù trong bóng đêm
Dưới trời lãng quên, chơi vơi một cánh dơi.
Và tôi, cùng với đắng cay rồi như khói thuốc bay.
Một ngày được như đám mây Thu
Một đời tôi xin lãng du từ đây.
Và tôi sẽ trốn vào mãi rừng cây
Chờ giây phút cuối đến cùng với tôi.
Rồi xin nhắm mắt buông hết đầy vơi
Buồn theo chiếc lá rơi.

Phụ lục (8): Đường Đời, Ngọc Lan

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/08-DuongDoi-NgocLan_3xh9s_hq.mp3

Phụ lục (9): Đường Đời, Khánh Hà

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/08/09-duonh-doi-khanh-ha.mp3

Hoài Nam

©T.Vấn 2015

saomai
12-11-2015, 06:49 AM
Hoài Nam: NHỮNG CA KHÚC NGOẠI QUỐC LỜI VIỆT(44) – WOMAN IN LOVE (Khi Nàng Yêu), Barry & Robin Gibb



http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image002_thumb16.jpg

Ca khúc cuối cùng chúng tôi gửi tới độc giả trong phần giới thiệu những ca khúc phổ thông điển hình được đặt lời Việt là bản Woman in Love, một sáng tác của hai anh em Barry và Robin Gibb do Barbra Streisand thu đĩa, được Anh Bằng (?) đặt lời Việt với tựa Khi nàng yêu, và Phạm Duy với tựa Đi tìm tình yêu.

Được tung ra vào năm 1980, Woman in Love đã đứng No.1 tại Hoa Kỳ, Anh Quốc, Ái-nhĩ-lan, Gia-nã-đại, Úc-đại-lợi, Ý-đại-lợi, Tây-ban-nha, Pháp, Đức, Áo, Thụy-điển, Thụy-sĩ, Hòa-lan, Na-uy… Cho tới nay, Woman in Love vẫn được ghi nhận là đĩa single bán chạy nhất trong sự nghiệp của Barbra Streisand.

Trước hết, xin được viết về tác giả: Barry và Robin Gibb, hai thành viên trong ban nhạc Bee Gees của Anh quốc – ban nhạc pop & rock chỉ đứng sau ban Beatles, về số đĩa bán ra cũng như mức độ phổ biến của các khúc do họ sáng tác.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image003_thumb2.jpg
Bee Gees (hình chụp năm 1960)

Bee Gees gồm ba anh em ruột: Barry (sinh năm 1946) và cặp song sinh Robin, Maurice (sinh năm 1949). Ra chào đời tại đảo Isle of Man, lớn lên ở Manchester trong một gia đình nghệ sĩ: ông bố Hugh Gibb là tay trống kiêm trưởng ban nhạc khiêu vũ Hugh Gibb Band, bà mẹ Barbara xuất thân là một vũ công kiêm ca sĩ.

Năm 1955, tức là khi mới 9 tuổi và đang học tiểu học, Barry Gibb đã cùng với hai người bạn Paul Frost và Kenny Horrocks, thành lập ban nhạc rock The Rattlesnakes, trong đó Barry đàn guitar và hát, Robin và Maurice hát, Paul Frost chơi trống, Kenny Horrocks đàn bass.

Tháng 5/1958, Paul Frost và Kenny Horrocks bỏ đi để thành lập một ban khác. Cuối năm đó, ba anh em cùng người chị Lesley, cậu út Andy mới sanh được cha mẹ đưa sang Úc lập nghiệp tại vùng Redcliffe, gần thủ phủ Brisbane của tiểu bang Queensland. Tại đây, ba anh em vừa đi học tại trường tiểu học Humpybong State School vừa ca hát (vẫn với danh xưng The Rattlesnakes) để kiếm tiền tiêu vặt.

Năm 1960, The Rattlesnakes được Bill Goode, một nhà tổ chức các cuộc đua xe cho trình diễn xen giữa các cuộc đua tại trường đua xe hơi Redcliffe Speedway, sân khấu là cái sàn phía sau của một chiếc xe truck chạy vòng vòng, và thù lao là tiền khán giả ném xuống.

Thời gian này, The Rattlesnakes được Bill Goode đổi tên thành “The BG”. Hai mẫu tự BG là viết tắt tên Barry Gibb, về sau “The BG” đổi thành “The Bee Gees”.

[Theo lời truyền tụng trong dân gian, “BG” là viết tắt của “Brothers Gibb”, nhưng tiểu sử chính thức của The Bee Gees đã khẳng định “BG” là viết tắt tên người anh cả Barry Gibb]

Cũng trong năm 1960, Bee Gees được trình diễn lần đầu tiên trên truyền hình, sau đó được mướn trình diễn thường trực tại các trung tâm nghỉ mát ở vùng biển Queensland. Thời gian này, Barry Gibb bắt đầu sáng tác, và tới năm 1963, được nam ca nhạc sĩ Col Joyce nổi tiếng của Úc giới thiệu với hãng đĩa Festival Records.

Năm 1965, Bee Gees tung ra album đầu tiên có tựa “The Bee Gees Sing and Play 14 Barry Gibb Songs”, nhưng không gây được tiếng vang.

Qua năm 1966, ông bố Hugh Gibb khuyên các con trở về Anh quốc bởi “Miệt Dưới” (Downunder, nước Úc) không phải nơi khởi nghiệp lý tưởng cho các mầm non. Trước khi các con lên đường, Hugh Gibb đã gửi một số băng thu (demos) các ca khúc của Bee Gees cho Brian Epstein (1934-1967), người đã có công tạo tên tuổi cho ban Beatles; nhưng vì quá bận rộn, Brian Epstein đã trao những cuộn băng này cho anh bạn Robert Stigwood.

Có thể nói đây là sự sắp đặt của định mệnh, bởi qua năm 1967, Brian Epstein bất thần qua đời vào tuổi 32, nếu trước đó ông không trao “demos” của Bee Gees cho Robert Stigwood, không hiểu ba anh em nhà Gibb sẽ có cơ hội được giới thiệu tới khán thính giả Anh quốc hay không?!

Robert Stigwood, sinh năm 1934 tại Úc nhưng từ năm 1954 đã sang Anh lập nghiệp. Ông được xem là một ông bầu ca nhạc và nhà sản xuất thành công nhất trong những năm cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970, với hai ban Cream và Bee Gees, với hai vở ca nhạc kịch “hippy” bất hủ Hair và Jesus Christ Superstar, với cuốn phim Saturday Night Fever ăn khách nhất của thời disco…

Chỉ sau một lần nghe Bee Gees hát thử (audition) vào tháng 2/1967, Robert Stigwood đã cho họ ký hợp đồng 5 năm với hãng đĩa Polydor Records của Anh mà ông phụ trách việc sản xuất đĩa nhạc. Sau này Robert Stigwood hồi tưởng: ngay trong buổi gặp gỡ đầu tiên ấy, ông đã tiên đoán rồi đây Bee Gees sẽ trở thành ban nhạc pop & rock tạo ảnh hưởng không thua gì ban Beatles.

Sau khi cho tăng cường thêm hai nghệ sĩ Úc – tay trống Colin Petersen và tay guitar Vince Melouney – để có một ban nhạc 5 người, Robert Stigwood bắt tay ngay vào việc thực hiện album đầu tiên của Bee Gees (ở Anh quốc): Bee Gees 1st.

Giữa tháng 4/1967, Robert Stigwood tung ra đĩa single đầu tiên trích trong album này: New York Mining Disaster 1941. Vì Bee Gees chưa có một chút tên tuổi, Robert Stigwood đã nảy sáng kiến chỉ ghi tên ca khúc trên nhãn đĩa chứ không ghi tác giả cũng như ca sĩ, rồi gửi cho các đài phát thanh. Kết quả, một số người phụ trách chọn nhạc (DJ) đã cho rằng đây là một ca khúc mới của ban Beatles, và cho phát đi phát lại trên làn sóng điện, khiến New York Mining Disaster 1941 được lọt vào Top 20 ở cả Anh quốc lẫn Hoa Kỳ.

Đĩa single thứ hai của Bee Gees, To Love Somebody, không cần phải “ngụy trang” nữa, và lần đầu tiên, tên tuổi của Bee Gees đã xuất hiện trên Top 10 ở Gia-nã-đại, Úc, Hòa-lan, Bỉ; riêng tại Hoa Kỳ, To Love Somebody lên tới hạng 17 trong Billboard Hot 100.

Bản kế tiếp là bản Holiday, lên tới hạng 16 tại Hoa Kỳ. Cùng thời gian, album Bee Gees 1st được phát hành, đứng hạng 7 tại Hoa Kỳ và hạng 8 tại Anh quốc.

Giữa năm 1967, Bee Gees sang New York trình diễn – chuyến lưu diễn đã để lại một sáng tác để đời: bản Massachusetts.

Nguyên nhân đưa tới việc ba anh em Barry, Robin, Maurice Gibb viết bản Massachusetts chính là thành công của bản San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair).

Như chúng tôi đã viết trong một bài trước đây, San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair) do John Phillips của ban Mamas & the Papas sáng tác, Scott McKenzie thu đĩa, tung ra vào tháng 5/1967 để quảng cáo cho đại hội nhạc trẻ ngoài trời Montery International Pop Music Festival tổ chức một tháng sau đó, và đã trở thành “nhạc thiều” bán chính thức của phong trào phản kháng văn hóa trong thập niên 1960 (the counterculture movement of the 1960s).

Chính sự kiện các hippies trên khắp nước Mỹ kéo nhau về San Francisco (miền Tây) đã gợi ý cho ba anh em Barry, Robin, Maurice sáng tác bản Massachusetts trong lúc ngoạn cảnh New York City bằng tàu thủy. Nội dung ca khúc là lời kể của một chàng hippy ở Massachusetts (miền Đông) hăm hở tới San Francisco, nhưng tới nơi lại nhớ nhà – nơi mà “đèn điện tắt hết” vì mọi người đã bỏ sang San Francisco; cho nên trong ấn bản phát hành tại Anh quốc, bản Massachusetts được mang một cái tựa dài hơn: Massachusetts (The Lights Went Out in).

Một điều lý thú là khi đặt bút viết bản Massachusetts , anh em Bee Gees mới chân ướt chân ráo tới New York City, thành phố duy nhất mà họ trình diễn trong chuyến lưu diễn đầu tiên tại Hoa Kỳ; tức là họ chưa hề đặt chân tới Massachusetts. Trong một cuộc phỏng vấn sau này, Barry Gibb cho biết sở dĩ họ chọn Massachusetts thay vì chọn một tiểu bang miền Đông khác chỉ vì “chữ Massachusetts nghe hay hay, là lạ”.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image005_thumb.jpg
Robin, Maurice và Bary Gibb

Bản Massachusetts do Robin Gibb hát giọng chính, phát hành năm 1968 trong album thứ hai của Bee Gees. Robin Gibb có một giọng hát trong và rung (vibrato) rất độc đáo, thường đảm trách vai trò ca sĩ chính trong thời gian đầu – những năm cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970. Bary hát giọng phụ và đàn guitar, Maurice hát giọng phụ và đảm trách piano, organ, bộ gõ, guitar

-Phụ lục (1): Massachusetts, The Bee Gees
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/01-Massachusetts.mp3

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/WhGbWCH6IPE?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
Massachusetts đứng No.1 ở Anh, Úc, hạng 11 ở Hoa Kỳ, bán được tổng cộng trên 5 triệu đĩa, trở thành một trong những đĩa single (45rpm) bán chạy nhất của Bee Gees.

Tuy nhiên, với người yêu nhạc trẻ ngoại quốc ở miền Nam VN trước năm 1975, ca khúc đầu tiên của Bee Gees được biết tới và yêu chuộng là bản I Started a Joke, một ca khúc trong album thứ ba của họ, phát hành cuối năm 1968, cũng do Robin Gibb hát giọng chính, ngày ấy được Trường Kỳ đặt lời Việt với tựa Mùa đông em đi.


-Phụ lục (2): I Started a Joke, Bee Gees
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/02-I-Started-A-Joke-Bee-Gees.mp3


Phụ lục (3): Mùa đông em đi, Duy Quang (trước 1975)
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/03-MuadongemdiIstartedajoke.mp3

Barry Gibb, người anh cả, thì có một giọng “R&B falcetto” độc đáo (R&B: giọng diễn tả; falcetto: giọng the thé, cao hơn giọng bình thường một bát độ – octave), thích hợp với những ca khúc mang âm hưởng R&B hoặc disco trong thập niên 1970, 1980.


Phụ lục (4): Stayin’ Alive , Bee Gees
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/04-Staying-alive.mp3

Barry Gibb, người anh cả, thì có một giọng “R&B falcetto” độc đáo (R&B: giọng diễn tả; falcetto: giọng the thé, cao hơn giọng bình thường một bát độ – octave), thích hợp với những ca khúc mang âm hưởng R&B hoặc disco trong thập niên 1970, 1980.

Phụ lục (5): How Deep Is Your Love, The Bee Gees
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/05-how-deep-is-your-love.mp3


<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/XpqqjU7u5Yc?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

How Deep Is Your Love được sử dụng làm tình khúc chính trong phim Saturday Night Fever (1977), cuốn phim ca nhạc bất hủ của thời disco, gồm những ca khúc do Bee Gees sáng tác, và cũng là cuốn phim đã giới thiệu chàng kép trẻ John Travolta tới khán giả.

Rất nhiều ca khúc của Bee Gees viết riêng cho các ca sĩ nổi tiếng khác đã được lên Top, điển hình là:

– Woman in Love (1980), viết cho Barbra Streisand, đứng No.1 trên cả hai bảng xếp hạng Adult Contemporary (Easy Listening) lẫn Billboard Hot 100 ở Mỹ, và hàng chục quốc gia khác trên thế giới.

– Heatbreaker (1982), viết cho Dionne Warwick, đứng No.1 trên bảng xếp hạng Adult Contemporary ở Mỹ và No.2 ở Anh quốc. Album có cùng tựa của Dionne Warwick với đa số ca khúc do Bee Gees sáng tác đã lên tới No.3 ở Anh, và đoạt đĩa vàng ở Mỹ.

– Islands in the Stream (1983) viết cho cặp nam nữ ca sĩ nhạc country Kenny Rogers & Dolly Parton, đứng No.1 trên cả ba bảng xếp hạng Billboard Hot 100, Adult Contemporary, và Country ở Mỹ.

– Chain Reaction (1985) viết cho Diana Ross, trích trong album Eaten Alive gồm những sáng tác của Bee Gees, đứng No.1 tại Anh và Úc.
Phụ lục (6): Islands in the Stream, Kenny Rogers & Dolly Parton
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/06-Islands-in-the-stream-Kenny-Rogers-and-Dolly-Part.mp3
Tới đây, xin có đôi dòng về Barbra Streisand, người hát bản Woman in Love.

Sinh năm 1942, cho tới nay Barbra Streisand vẫn được xem là nữ nghệ sĩ thành công nhất trong cả hai lĩnh vực ca nhạc và điện ảnh. Barbra Streisand là một trong số hiếm hoi nghệ sĩ đoạt cả 4 đại giải của Hoa Kỳ: Oscar (điện ảnh), Grammy (âm nhạc), Emmy (truyền hình), và Tony (kịch nghệ).

Người nào yêu cả ca nhạc lẫn nghệ thuật thứ bảy không thể không biết tới những cuốn phim để đời của Barbra Streisand, như Funny Girl (1968), The Way We Were (1973), A Star Is Born (1976), Gentl (1983)…

Riêng trong lĩnh vực ca nhạc, tính cho tới nay Barbra Streisand đã đoạt tổng cộng 8 giải Grammy, bán ra tổng cộng 245 triệu đĩa hát (72.5 triệu tại Hoa Kỳ), tức là đã qua mặt Bee Gees, được ghi nhận là nữ ca sĩ có số đĩa bán cao nhất, và là nữ ca sĩ duy nhất nằm trong Top 10, được xưng tụng là Mother of All Contemprary Pop Divas, hoặc ngắn gọn hơn, Queen of The Divas.

Ba nguyên nhân chính khiến Barbra Streisand thành công tới mức ấy là: giọng hát độc đáo – nghệ thuật diễn tả – và hát được nhiều thể loại: bán cổ điển, ca kịch, jazz, pop, thậm chí cả disco!

Trước đây chúng tôi đã có lần giới thiệu bản The Shadow of Your Smile, một ca khúc bất hủ thuộc thể loại jazz qua tiếng hát Barbra Streisand, sau đây xin giới thiệu bản Memory, ca khúc chính trong vở ca nhạc kịch Cats của Andrew Lloyd Webber, sau khi được Barbra Streisand thu đĩa (1981) đã trở thành một trong những ca khúc có gốc sân khấu (theatrical songs) được ưa chộng nhất xưa nay.


Phụ lục (7): Memory, Barbra Streisand
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/07-Memory-Babra.mp3


Đầu năm 1980, Barbra Streisand nhờ Barry Gibb giúp mình thực hiện một album mới, kết quả là album có tựa đề “Guilty”, gồm 9 ca khúc trong đó có 4 bản do ba anh em Bee Gees viết chung, 5 bản còn lại do Barry viết với Robin, trong đó có Woman in Love.

Album “Guilty” đứng No.1 ở cả Hoa Kỳ lẫn Anh quốc, riêng bản Woman in Love đã trở thành đĩa single bán chạy nhất trong sự nghiệp ca hát của Barbra Streisand, đứng No.1 tại Hoa Kỳ (3 tuần liên tiếp trong Billboard Hot 100, 5 tuần liền trong Adult Contemporary Chart), Anh quốc, Gia-nã-đại, Ái-nhĩ-lan, Úc, Pháp (No.1 của cả năm), Tây-ban-nha, Tây Đức, Hòa-lan, Thụy-điển, Thụy-sĩ.

Với thính giả lớn tuổi, quen nghe những ca khúc thuộc thể loại bán cổ điển, jazz, blues, Woman in Love có thể không mang giá trị nghệ thuật cao cho bằng 5 ca khúc khác của Barbra Streisand cũng lên No.1.

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image007_thumb.jpg



Chính Barbra Streisand đã gián tiếp xác nhận điều đó, và để chứng tỏ mình không chiều theo thị hiếu của khán giả, trong suốt hơn 30 năm trời, Barbra Streisand chưa bao giờ hát “live” bản này trên sân khấu. Mãi tới gần đây, trong chuyến lưu diễn Âu châu năm 2013, Barbra Streisand mới hát Woman in Love một vài lần theo lời yêu cầu của khán giả.

Thế nhưng, đa số người ái mộ Barbra Streisand đều thuộc lớp tuổi “baby boomers” trở về sau, và với những thế hệ này, Woman in Love phải được xem là một trong những ca khúc ăn khách nhất của thời đại, một sự phối hợp tuyệt vời giữa tiếng hát đầy ma lực của Barbra Streisand và sức thu hút của nét nhạc Bee Gees, những nét nhạc độc đáo không thể lẫn lộn với bất cứ nhạc của một ai khác.

Woman in Love

Life is a moment in space
When the dream is gone, it’s a lonelier place
I kiss the morning goodbye
But down inside, you know we never know why

The road is narrow and long
When eyes meet eyes and the feeling is strong
I turn away from the wall
I stumble and fall, but I give you it all

I am a woman in love
And I’d do anything to get you into my world and hold you within
It’s a right, I defend, over and over again
What do I do?

With you eternally mine
In love there is no measure of time
We planned it all at the start
That you and I live in each other’s heart

We may be oceans away
You feel my love, I hear what you say
No truth is ever a lie
I stumble and fall, but I give you it all

I am a woman in love
And I’d do anything to get you into my world and hold you within
It’s a right, I defend, over and over again
What do I do?

Ohh, I am a woman in love and I’m talking to you
I know how you feel, what a woman can do
It’s a right, I defend, over and over again

I am a woman in love
And I’d do anything to get you into my world and hold you within
It’s a right, I defend, over and over again

Tới đây, cũng xin đề cập tới một giai thoại thiếu chính xác về bản Woman in Love do Barbra Streisand thu đĩa: khoảng giữa bài hát, khi lập lại câu “I stumble and fall – But I give you it all”, Barbra đã ngân chữ “all’’ dài tới 10 giây đồng hồ; và được các DJ (disc jokey – người phụ trách chọn nhạc trên đài phát thanh) ghi nhận là “đoạn ngân dài nhất trong một ca khúc đứng No.1” tính cho tới lúc đó; và phải đợi 12 năm sau, mới bị bản I Will Always Love You do Whitney Houston hát trong phim The Bodyguard (1992) qua mặt.

Nhưng trên thực tế, trước đó, đã có tới 3 ca khúc đứng No.1 có đoạn ngân dài hơn Woman in Love, đó là các bản Lovely Day của Bill Withers, All Out Of Love của ban Air Supply, và Dim All The Lights của Donna Summer.

Tuy nhiên, theo nhận xét của chúng tôi, và có lẽ của nhiều người khác, cho dù không dài nhất, tiếng ngân, và nghệ thuật ngân của Barbra Streisand trong bản Woman in Love phải được xem là phân nửa cái hay trong ca khúc để đời này.

Phụ lục (7b): Woman in Love, Barbra Streisand
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/07b-Woman-In-Love-Barbra-Streisand.mp3

Năm 1980, ngay sau khi Woman in Love do Barbra Streisand thu đĩa làm mưa gió khắp nơi trên thế giới, ca khúc này đã được đặt lời bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, trong đó sớm nhất là tiếng Pháp, Đức, Ba-lan, Hy-lạp. Trong bài này, chúng tôi chỉ đề cập tới phiên bản tiếng Pháp tựa đề Une Femme amoureuse do Eddy Marnay đặt lời, Mireille Mathieu thu đĩa.

Tên tuổi của Eddy Marnay và Mireille Mathieu từng được chúng tôi giới thiệu trong loạt bài này, ở đây chỉ xin nhắc sơ lại.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image009_thumb.jpg
Eddy Marnay (1920-2003)

Eddy Marnay (1920-2003) là một nhà viết ca khúc nổi tiếng bậc nhất của Pháp; trong số hơn 4000 ca khúc của ông (viết trọn vẹn hoặc chỉ đặt lời) có hai bản nhạc ngoại quốc lời Pháp rất nổi tiếng là Je N’ai Rien Appris (nguyên tác: Both Sides Now), và Une Femme amoureuse (nguyên tác: Woman in Love).

Tới thập niên 1980, Eddy Marnay đã viết nhiều ca khúc giúp lăng-xê mầm non Céline Dion của Gia-nã-đại, trong đó có bản La Voix du Bon Dieu, ca khúc đã giúp Céline được hãng đĩa CBS Records ký hợp đồng.

Còn Mireille Mathieu, sinh năm 1946, là một nữ ca sĩ huyền thoại của Pháp, thành công với cả những ca khúc bán cổ điển lẫn phổ thông, thường được xưng tụng là “Édith Piaf thứ hai của Pháp”. Tính cho tới nay, Mireille Mathieu đã thu đĩa trên 1.200 ca khúc bằng 11 ngôn ngữ khác nhau, và bán được 122 triệu đĩa. Tương tự bản La Dernière Valse (nguyên tác: The Last Watz) năm 1967, bản Une Femme amoureuse (Woman in Love) do Mireille Mathieu thu đĩa năm 1980 đã được ưa chuộng không chỉ tại các quốc gia nói tiếng Pháp mà còn ở nhiều nơi nói tiếng Anh.

Une Femme Amoureuse

Le temps qui court comme un fou

Aujourd’hui voilà qu’il s’arrête sur nous
Tu me regardes et qui sait si tu me vois
Mais moi je ne vois que toi
Je n’ai plus qu’une question
Tes yeux, mes yeux
Et je chante ton nom
Si quelqu’un d’autre venait
Je l’éloignerais et je me défendrais
Je suis une femme amoureuse
Et je brûle d’envie de dresser autour de toi
Les murs de ma vie
C’est mon droit de t’aimer
Et de vouloir te garder
Par dessus tout
Hier, aujourd’hui, demain
Font un seul jour quand tu prends ma main
C’est comme un plan fabuleux tracé là-haut
Pour l’amour de nous deux

Qu’on soit ensemble longtemps
Ou séparés par des océans
Si un danger survenait
Je l’éloignerais et je me défendrais

Je suis une femme amoureuse
Et je brûle d’envie de dresser autour de toi
Les murs de ma vie
C’est mon droit de t’aimer
Et de vouloir te garder
Par dessus tout
Je suis une femme amoureuse
Et je te parle clair, et tu dois savoir
Ce qu’une femme peut faire
C’est mon droit de t’aimer
Et de vouloir te garder
Je suis une femme amoureuse
Et je brûle d’envie de dresser autour de toi
Les murs de ma vie
C’est mon droit de t’aimer
Et de vouloir te garder
Et de vouloir te garder

http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image011_thumb.jpg

Phụ lục (8): Une Femme amoureuse, Mireille Mathieu
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/08-Une-Femme-Amoureuse.mp3

<iframe width="640" height="480" src="https://www.youtube.com/embed/RWRrcjrJLWM?rel=0" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>

Tại Việt Nam, sau khi văn nghệ được “cởi trói” phần nào vào những năm cuối thập niên 1980, Woman in Love đã trở thành một trong những ca khúc ngoại quốc phổ biến và được yêu chuộng nhất. Riêng tại hải ngoại, theo sự hiểu biết của chúng tôi, đã ít nhất hai phiên bản lời Việt của Woman in Love : Khi nàng yêu (cuối thập niên 1980) và Đi tìm tình yêu (cuối thập niên 1990).

Tác giả của Khi nàng yêu được ghi tên Internet có khi là Lê Minh Bằng, có lúc lại là Anh Bằng. Như chúng ta đều biết, “Lê Minh Bằng” là bút hiệu của bộ ba nhạc sĩ Lê Dinh – Minh Kỳ – Anh Bằng. Sau tháng Tư năm 1975, Minh Kỳ, nguyên là một đại úy cảnh sát của Việt Nam Cộng Hòa, bị chế độ mới bắt đi học tập cải tạo và đã thiệt mạng trong trại vì lựu đạn nổ ngày 31 tháng 8 năm đó.


http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/clip_image012_thumb.jpg
nhạc sĩ Anh Bằng

Ra hải ngoại, nhạc sĩ Lê Dinh sống ở Gia-nã-đại, chúng tôi đã được đọc nhiều hồi ức về nền tân nhạc Việt Nam của ông, nhưng không nghe nói ông có những sáng tác mới, trong khi nhạc sĩ Anh Bằng định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục sáng tác, thường là phổ nhạc các bài thơ hoặc đặt lời Việt cho các ca khúc ngoại quốc nổi tiếng. Vì thế, chúng tôi cho rằng ghi tên tác giả của Khi nàng yêu là “Anh Bằng” có lẽ hợp lý hơn “Lê Minh Bằng”.

Còn phiên bản lời Việt “Đi tìm tình yêu” chắc chắn là của Phạm Duy. Điều này đã được chính ông xác nhận trong hồi ký “Ngàn Lời Ca”của mình.

Năm 1989, Khi nàng yêu đã được Ngọc Hương trình bày trong CD Dạ Vũ 004 (1989) của Trung Tâm ASIA cùng với lời hát trong nguyên tác (Woman in Love).

Ít lâu sau, Ngọc Lan cũng thu đĩa Khi nàng yêu cùng với lời hát tiếng Pháp (Une Femme amoureuse).

Riêng phiên bản lời Việt Đi tìm tình yêu của Phạm Duy thì được Khánh Hà thu đĩa cùng với lời hát tiếng Anh.

Khi nàng yêu

Kiếp sống sẽ cô đơn muôn vàn,

Trái đất kia hoang tàn,

nếu những mơ ước không còn

Đôi khi em mong muốn xa vời, người mình yêu,

nhưng đau thêm khi cố quên người.

Thế giới vắng không gian u buồn

Nếu hai tâm hồn, nước mắt ân ái soi mòn

Em cho anh như anh khát khao, Tình yêu anh thấm sâu,

Còn gì cho thêm nữa đâu ?

Em như trăm ngàn thân cô gái

Sẽ sống muôn cách trên đời

Sao cho anh và em chung lối,

Đi về ta có đôi, Người yêu hỡi, em còn đây,

Mắt môi và trái tim còn đây. Buồn như lá thu.

Với những phút yêu anh vô cùng

Vẫn ghi trong lòng thấm như đóa hoa hồng

Ngờ rằng tình nồng thắm ban đầu,

Mình gần nhau nên yêu thương khó phai màu.

Nhớ tiếng nói năm xưa anh thề,

“Có nhau trong đời, phút giây cũng không rời,”

Nhưng con tim kia anh đã thay,

Tình yêu kia khói mây, Và lời anh theo gió bay.

Ôi bao nhiêu lần em muốn nói

Nói với anh những giấc mộng,

Ngày nào mình ngập tràn hạnh phúc

Sao bây giờ ta mất nhau..

Đành chôn kín mối tình em,

Nhớ thương hình bóng anh ngàn năm.

Còn gì nữa đâu?

Phụ lục (9): Khi nàng yêu (Woman in Love), Ngọc Hương
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/09-Khi-Nang-Yeu-Woman-In-Love-ngoc-huong.mp3

Phụ lục (10): Khi nàng yêu (Une Femme amoureuse), Ngọc Lan
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/10-WomanInLove-NgocLan_4hzaz.mp3

Phụ lục (11): Woman in Love (Đi tìm tình yêu), Khánh Hà
http://t-van.net/wp-content/uploads/2015/09/11-DiTimTinhYeu-KhanhHa.mp3




Hoài Nam

Nguyen Huu Thien
02-27-2016, 09:58 PM
Mời đọc thêm bài viết của Hoài Nam: "Xuân Điềm, Xuân Lạ, và cây đàn Tô-bia" trên HQPD

Nguyen Huu Thien
07-08-2016, 12:17 AM
Quý chiến hữu và độc giả yêu nhạc có thể tìm đọc (và nghe) những bài viết cũ cũng như mới nhất của tác giả Hoài Nam trên website văn học "T.Vấn & Bạn Hữu" (t-van.net)

NHT