PDA

View Full Version : Phía sau cuộc chiến



Longhai
06-27-2014, 05:52 AM
Phía sau cuộc chiến


Song Vũ


- Song Vũ là bút hiệu của Trung tá Ngô văn Xuân, xuất thân Khóa 17 Trường VB Đà Lạt, năm 1963.

- Từng đảm nhiệm các chức vụ : Đại đội trưởng 11 Trinh sát Sư đoàn 7 BB. Tiểu đoàn trưởng 2/44; Trưởng phòng 3 Sư đoàn 23; Trung đoàn trưởng Trung đoàn 44 Sư đoàn 23BB. Ba lần bị thương tại mặt trận.

- Ra trại “cải tạo” tháng 2/1988. Đến Hoa Kỳ theo diện HO, tháng 4 năm 1992. Định cư tại Thành phố Campbell, Bắc Cali từ đó đến nay.

***

Những ngày cuối năm 1990 tình hình ra đi theo diện HO, con lai và ODP rộ lên. Cả Sài Gòn nhốn nháo kẻ đi người ở. Thậm chí nơi chỗ ông Năm nơi tôi đang ở ké cũng ồn ào đồn đãi. Một hôm ông Năm bảo tôi :

- " Sao cậu không về mà lo giấy tờ ra đi ?"

Tôi bảo :

- “ Tôi có đứa cháu gái lo dùm rồi. Giấy tờ bây giờ toàn là giấy giả mà tôi thì chẳng quen biết ai làm mấy thứ đó."

Ông Năm cười buồn :

- “Đất nước mình chưa bao giờ sống thực với mình. Muốn sống phải sống theo một đời sống khác. Chiến tranh làm cho con người bộc lộ hết tính cách động vật của mình. Những thứ nhân nghĩa trở nên xa xỉ, phù phiếm hết. Bây giờ chiến tranh chấm dứt, tưởng có cơ may tìm về lại được bản chất con người của mình thì bỗng đâu cái thú tính bị dồn nén kìm hãm bấy lâu nơi con người thắng cuộc lại hung hăng còn hơn trước ! Người chiến thắng và người bại trận đều có chung một dòng máu, một giống nòi. Tiếc thay kẻ thắng quên bẵng điều ấy, họ ngông nghênh hợm hĩnh quá lâu và hầu như không thể tỉnh lại được nữa. Sự u mê hay sáng suốt có thể có giới hạn của nó nhưng hình như u mê thường kéo dài lâu hơn nhiều lần sự sáng suốt.”

Ông Năm đôi lúc nói với tôi Dân tộc này bị trời hành. Chiến tranh giành giựt, căm thù và phân ly phản trắc là cách thế nó tồn tại. Từ ngày lập quốc nó đã thế, trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn thế. Lịch sử không dạy cho nó bài học nào tử tế bởi vì kẻ cầm quyền luôn viết sử theo ý tư riêng của mình. Những chiến công hiển hách luôn được thổi phồng lên tới mức hoang đường ngược lại những thất bại được che đậy tới mức kiếm không ra. Từ ngày những người lãnh đạo tin vào chủ thuyết không tưởng Cộng sản, lịch sử càng tệ hại hơn. Không ai còn muốn đọc sử và nghiên cứu sử để tìm ra một cách xử thế khôn ngoan cần thiết mà sống.

Ông Năm dặn dò tôi mỗi khi đi khỏi nhà, nếu không có ông thì gởi nhà cho hàng xóm. Một căn lều cũng trống hoang tuếch toác còn tệ hơn nhà ông Năm. Chủ căn nhà là một Thương binh chế độ cũ, cụt một chân ngang đầu gối. Anh ta lầm lì ít nói nên có tên là Ba lì. Tên thật chẳng ai biết và nói cho cùng, ở cái xứ khỉ ho cò gáy này có tên hay không đâu có quan hệ gì. Tôi để ý quan sát, có nhiều ngày chính tôi, ông Năm và Ba Lì chỉ toàn nói trống không mà ai cũng hiểu. Họa hoằn vợ của Ba Lì, khi nói chuyện với ông Năm hoặc tôi mới nói đến tên của chúng tôi thôi. Cả hai vợ chồng Ba Lì sống bằng nghề làm rẫy và đốt than qua ngày. Được cái không có con cái gì nên cách sống của họ cũng không cơ cực lắm. Trồng gì ăn nấy, có tiền bán than thì vác về ít ký gạo, khi không có gạo, luộc bắp, khoai sắn ăn thay cơm… Thỉnh thoảng tôi về Sài gòn trở lên có ít tiền nhờ vợ Ba Lì mua cá hoặc thịt ba rọi về cùng lít rượu nếp than tại chợ ngã ba Quốc lộ về bù khú cũng cảm thấy quá hạnh phúc.

Tôi cứ hai ba tháng khi rảnh chuyện làm vườn cuốc đất trồng trọt lại thu xếp về Sài Gòn một lần vài ngày nghe ngóng tin tức. Cho đến sau Tết năm 90, tôi mới nói với ông Năm tôi muốn về ít tháng để xem thu xếp vụ ra đi HO của tôi ra sao. Ông Năm bảo :

- “Ừ, chú về mà lo cho xong đi. Tôi nghĩ tuổi của chú cho dù bầm dập cách mấy vẫn còn có cơ ngoi lên được mà sống với đời. Buông trôi không phải là cách hay. Quẫy đạp cũng thế. Thuận theo trời mà sống có nghĩa là tùy theo nước lớn nước ròng mà chèo ghe.“

Tôi lặng im ngồi nghe ông nói những lời chân tình. Tôi nói :

- “Đời tôi không biết như thế có kể như là xong chưa ?"

Ông Năm quay lại :

- “ Xong là xong thế nào. Còn thở là còn chưa xong đâu, thậm chí nhắm mắt xuôi tay vẫn còn chưa thể gọi là xong !”

Tôi cười buồn :

- “ Nhắm mắt xuôi tay thì xong chứ còn chưa sao được ? "

Ông Năm bảo :

- “Nhắm mắt xuôi tay là phía phận riêng mình."

Tôi nói chưa xong là vì những hệ lụy sau khi cái mình tưởng là xong kia nó vẫn còn níu kéo người liên hệ chung quanh tiếp tục không xong.

- Chú có nhìn viên sỏi ném xuống hồ không ? Những vòng nước tỏa lan từ nó vẫn có tác động ít nhiều tới những con trùng phiêu sinh đang sống trên mặt nước hồ. Chú có thấy những ông lãnh tụ đang nằm phơi trong lồng kiếng tại các lăng tẩm tân thời không ? Họ chết từ lâu rồi mà nào đã xong ?!”

Tôi im lặng không nói nữa. Hôm sau tôi khăn gói lên đường. Ba Lì từ phía bên hông nhà hỏi sang :

- “Bao giờ ông Thày lên lại ?"

Tôi bảo :

- “Không biết, khi nào nhớ mấy người thì lại lên ! "

Ba lì cười :

- “Tôi sợ ông Thày quên tụi này thôi.”

Tôi bảo “Quên sao được,” rồi đi.

Sau khi tôi thu xếp xong mọi thứ tôi lên thăm ông Năm lần cuối. Số tiền anh Ba tôi gởi về cho tôi để lo thủ tục giấy tờ cũng còn dư hơn một triệu. Tôi ghé qua chợ mua ít đồ nhậu, hơn chục ký gạo, ít ký khô, đậu phọng và mè tất cả bỏ vào chiếc sac nhà binh khệ nệ vừa đi vừa nghỉ đến chỗ ông Năm. Ông Năm đón tôi khi thấy tôi trở về từ xa, cách nhà ông cả trăm thước. Tôi bỏ túi đồ, lau mồ hôi rồi nói với ông Năm :

- “Chiều nay mình ăn nhậu một bữa nghe ông. "

Ông Năm cười :

- “Chắc có tin vui rồi, phải không ?"

Tôi gật gật đầu. Nghe tiếng ồn ào bên này, vợ chồng Ba Lì từ bên nhà chạy sang lên tiếng :

- “Ông Thày mới lên, sao có tin gì vui không ? Chắc là kỳ này có tin vui rồi phải không ?...”

Ông Năm bảo :

- “Vợ chồng bay chiều nay phụ một tay làm bữa nhậu coi.”

Ba Lì sốt sắng :

- “Để tụi con, ông Năm.”

Tôi lấy bộ đồ sạch, cầm theo cục xà bông thơm Cô Ba đi ra phía suối tắm giặt thay đồ. Bữa cơm chiều thật vui và xôm tụ. Ngoài dĩa gỏi bông chuối trộn khô sặc nướng xé nhỏ còn dĩa thịt ba rọi luộc, cơm gạo trắng không độn nghi ngút khói nhìn là thấy phát thèm. Ông Năm, tôi và vợ chồng Ba Lì ngồi vừa ăn vừa nói chuyện rổn rảng đủ mọi thứ tin tức ngoài đời. Tôi thông báo cho ông Năm biết tháng Ba năm tới tôi sẽ đi gặp phái đoàn Hoa Kỳ để được phỏng vấn. Ông Năm tợp nốt phần còn lại của ly rượi nếp cẩm bảo :

- “Mừng cho chú. Tôi vẫn nói người xưa có câu bĩ cực, thới lai mà, đúng không ?"

Ba lì chêm ngang :

- “Ông ơi, còn đời con đây này bĩ cả đời rồi đâu có gì mà thới lai hả ông ?"

Ông Năm bảo :

- “Chả biết đâu được, cứ chờ xem. "

Cuộc vui nào rồi cũng tàn. Khi mâm cơm sạch sẽ món ăn, vợ Ba Lì dọn dẹp rồi xin phép ra về cùng chồng. Thực ra gọi là nhậu nhưng cả bốn ngưòi uống có một lít nếp than nên chẳng có ai được gọi là say. Tôi tửu lượng kém nhất trong đám cũng chỉ mới cảm thấy hơi ngà ngà lâng lâng. Ông Năm có vẻ tỉnh queo, sau khi xoa chân đập đập vài cái, ông lên tấm ván gỗ nằm quạt muỗi phe phẩy. Tôi trải tấm vải mưa vào góc nhà, căng mùng nằm. Cả hai chúng tôi chẳng ai nói vói ai một lời. Hình như trong lòng mỗi người đều đang nghĩ tới một ngày chia tay sắp tới. Cổ nhân bảo ở lâu mới biết đêm dài, thấm thoắt tôi lên ăn nhờ ở đậu ông Năm tính ra cũng đã gần hai năm. Chúng tôi đã có với nhau biết bao buồn vui và những kỷ niệm không quên. Ý nghĩa của từ ngữ “chia xẻ” là chính xác giữa chúng tôi. Niềm vui thỉnh thoảng mới có nhưng cực nhọc và nỗi buồn thì vô vàn. Đã có lúc tôi bỏ ý định trở về Thành phố và muốn sống mãi ở đây với ông Năm như một người thân. Rồi cũng chính ông là người đã khuyên tôi bỏ đi những ý nghĩ ấy. Ông thường tâm sự,

- “Đời sống con người ngắn ngủi lắm. Đưọc sinh ra dưới sinh mệnh con người là một ân sủng của ông trời. Hãy sống cho trọn vẹn kiếp sống ấy đừng bỏ phí nó. Thòi gian là thứ duy nhất chỉ đi có một chiều. Nó không có chiều ngược lại. Đừng quan tâm đến những thành bại hay đắc thất mà nên quan tâm tới mình có từng sống thực với con ngưòi của mình hay chưa. Mỗi con người là một riêng lẻ độc đáo phân biệt. Đừng sống hộ ai và cũng đừng nhờ ai sống thế cho mình.

Hạnh phúc là điều phù du ảo ảnh. Đừng mưu cầu tìm nó, bởi vì tìm sẽ không bao giờ thấy. Nó chỉ hiện hình khi ta dừng lại, quên hẳn nó đi. Trong phút giây hiếm hoi của đời sống thường nhật, khi nào bất chợt nhìn thấy bóng dáng mình trong tấm gương soi có ngưòi đối diện đang mỉm cười với ta, lúc đó hạnh phúc xuất hiện.”

Ông Năm đã nói tôi nghe bao nhiêu điều khiến tôi phải suy nghĩ và trằn trọc. Hình như trong ông là cả một pho sách quý đời thường. Mọi lý thuyết đối với ông chỉ là mớ dẽ rách không hơn, ý tưởng trong sách không thông qua thực tế kiểm nghiệm là vô dụng và thừa thãi có độc. Sau khi đưa nó vào thực tế để sàng lọc và thử thách nó sẽ hiện ra là quý kim hay đất mùn. Thực tình tôi không biết rõ kho tàng tri thức của ông có là do từ đâu nhưng tôi biết chắc một điều ông hẳn phải là một con mọt sách khi còn trẻ. Trong những câu chuyện chúng tôi trao đổi ông hé lộ nhiều điều trong sách vở của nhiều vị Học giả Đông Tây. Nhưng rồi cũng chính ông khi thì phủ quyết, lúc mở rộng những tư tưởng ấy ra mạch sống đời thưòng. Ông không tư hữu vật gì. Căn chòi ông đang có do chính tay ông tạo nên khi theo đoàn người di dời khỏi Sài gòn lên đây lập khu Kinh tế mới hồi năm 1977.

Cuộc sống của ông bình dị và phóng khoáng như một nhà tu hành đắc đạo. Lúc nào ông cũng như nhàn tảng thơ thới vui chơi bên cuộc đời. Những việc ông làm thường là giúp cho ngưòi chung quanh ông. Bắt mạch, cắt thuốc, bấm huyệt, những lời khuyên cho người chán đời, cơm gạo cho những ai cơ nhỡ cần giúp… ông chẳng từ chối ai điều gì trong tầm tay ông có thể làm được. Không ai biết rõ dĩ vãng của ông, với ông chỉ có thực tại. Ông bảo :

- “Sống là đang sống chứ không phải đã hoặc sẽ sống.”

Có lần tôi hỏi ông mai mốt ông già ai sẽ là người chăm nom cho ông ? Ông cười tươi :

- “Đến lúc đó mới biết chứ bây giờ làm sao mà biết ? "

Buổi sáng ngày cuối tuần khi tôi thức giấc, ông Năm đã lên rừng hái thuốc. Tôi ra vườn lấy cuốc vun gốc mấy cây ớt, giây bí, bầu tôi trồng trước đó. Ba Lì hỏi với sang :

- “Bao giờ ông Thày về lại Sài Gòn ?"

Tôi nói :

- “ Chắc mai mốt."

Ba Lì bảo :

-“ Biết ông Thày bấy lâu, giờ ông đi buồn quá. "

Tôi im lặng không trả lời. Ba Lì là một Hạ sĩ Địa phương quân Tiểu khu Bình Long. Cuối năm 1974 khi Tiểu khu bị tấn công Ba Lì lúc đó mới 21, bị thương vào chân nằm lạc trong rừng khi theo đoàn quân di tản ra khỏi Tỉnh, Bị đói mấy ngày, vết thương nhiễm độc, lên cơn sốt li bì, đang lúc thập tử nhất sinh thì có đám xe be vào lấy gỗ phát giác mang ra. Vào Quân y viện cưa mất chân trái. Nằm chưa lành vết thương thì Sài gòn thất thủ, bị đuổi ra đường, gia đình thân nhân từ Quảng Tín cũng mất liên lạc luôn. Đang lúc ngặt nghèo đã có lúc Ba Lì định tự sát nhưng rồi không hiểu sao lại thôi. Có lần tâm sự hắn bảo :

- “Chết cũng khó lắm ông Thày ạ. Tôi có lần nhảy xuống sông Đồng Nai rồi bỗng dưng nổi lên bơi ào ào vào bờ ! Từ đó tôi mới nghiệm ra khi muốn thực sự dứt bỏ cuộc sống này phải tìm tới một cách nào đó mà mình không có cơ hội để làm ngược lại ý định đó được. Chỉ có thế mới có thể chết được thôi.”

Tôi bật cười thầm nghĩ, chẳng bù cho thời gian trước đây khi còn chiến tranh, cái chết dễ như dỡn đùa, không muốn chết nó cũng cứ ào tới, nó dễ tới mức không thể phân biệt được đâu là ranh giới giữa chết và sống. Cái sống lúc ấy không có gì để chắc. Ba Lì trở về Sài Gòn sống lang thang với vết thương chưa lành hẳn. Rồi như một phép lạ, vết thương lành lại từ từ trong cái đói triền miên và cách sống dơ bẩn lang thang đầu đường xó chợ. Rồi bỗng một hôm, đang ngủ dưới chân cầu, hắn được công an cảnh sát đánh thức, lùa lên xe tải chở đổ xuống khu vực này. Hắn sống vật vờ nương dựa vào những người cùng cảnh ngộ cất chòi, cuốc đất trồng khoai trồng bắp. Lúc đầu còn nhờ vào số lương thực cung cấp trong thời gian đầu. Thời gian vừa đúng ba tháng, chính quyền thành phố cũng ngưng không lên thăm dân tình nữa. Mùa thu hoạch bắp và khoai mì đầu tiên là lý do họ cho là đã hết trách nhiệm. Rồi cặp vợ chồng hàng xóm gặp nạn. Tư Thắng vào rừng kiếm củi đốt than bị cây đè bị thương gẫy cả chục xương sườn, ói máu đầy người. Ba Lì và vợ Tư Thắng cùng một số người lân cận khác kéo Tư Thắng ra khỏi khu vực bị nạn. Trên đường khiêng ra Ngã Ba Quốc lộ chờ xe chở đi cấp cứu thì Tư Thắng qua đời. Thời gian cũng không lâu sau đó, một số cư dân tản lạc đi dần, Ba Lì và vợ Tư Thắng rổ rá cạp lại, dựa nhau mà sống. Họ là hàng xóm lân cận nhất của ông Năm. Khi tôi lên ở ké chòi ông Năm, Ba Lì có qua hỏi chuyện. Được biết tôi là cựu Sĩ quan, Ba Lì từ đó kêu tôi là “Ông Thày”.

Thực ra từ này khá thông dụng trong Quân ngũ chúng tôi. Thay vì gọi nhau bằng Cấp bậc, trong chỗ quen thuộc, tiếng Sư phụ và đệ tử làm cho tình chiến hữu thêm thân mật và thú vị hơn. Tôi nhớ hồi mới ra trường, khi nhận chức vụ Đại đội phó Chiến tranh Chính trị, Trung úy Đại đội trưởng bảo tôi : “Anh nói Trung sĩ nhất thường vụ lựa cho anh một người au-d’os.” Tôi hơi ngạc nhiên không hiểu ý. Trung úy Đại đội trưởng giải nghĩa :

- “Mỗi Sĩ quan phải có một người giúp việc, chú lính này mang giúp ít đồ dùng quần áo và lương khô khi hành quân và giúp việc lặt vặt."

Thực ra cũng chẳng đợi tôi ra lệnh, viên Trung sĩ Thường vụ Đại đội ngay buổi chiều hôm ấy đã dẫn đến trình diện tôi một Binh sĩ Quân dịch có tên là Thể, và báo cho tôi biết từ lúc ấy Thể sẽ giúp tôi mang bớt những vật dụng và lo cơm nước cho tôi.

Trong đơn vị lúc đó, những chú lính giúp việc này có một danh xưng rất kỳ cục : “Tà lọt”. Tôi cũng chẳng hiểu gốc rễ của từ này có từ đâu nhưng mỗi lần nghe tôi thấy lại có cảm giác kỳ kỳ. Rồi thời gian trôi qua mau, tôi không nhớ là bao lâu sau đó, tiếng Tà lọt được thay bằng tiếng “Đệ tử và sư phụ” nghe có vẻ thú vị và thân mật hơn nhiều. Từ đó, những chú lính giúp việc thường gọi cấp Chỉ huy của mình là "ông Thày” dễ nghe hơn. Tình chiến hữu Huynh đệ nẩy sinh dần thường khiến cho mối tương giao đệ tử, ông thày ngày càng thân thiết hơn theo thời gian. Thường thì chú lính này vừa kiêm vai trò chăm sóc vừa là người lính cận vệ bảo vệ khi giao chiến, hành quân. Trong chiến tranh tôi đã có dịp nhiều lần chứng kiến những cảnh tượng cảm động giữa tình cảm thày, trò này. Và ngay chính bản thân, tôi cũng đã bao phen cảm nhận được sự thân thương thày trò ấy. Thậm chí, tình Chiến hữu đôi khi còn kéo dài rất lâu ngay cả sau này khi các đệ tử được giải ngũ và sau khi mất nước vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 nữa.

Tôi nấn ná ở chơi với ông Năm cho đến sau Tết năm 90. Ông Năm thúc dục tôi mấy lần trở về Sài Gòn để theo dõi và chuẩn bị cho việc ra đi của tôi. Sau cùng tôi nghĩ, chắc cũng đến lúc phải trở lại Sài Gòn xem tình hình ra sao. Hôm đó là ngày mười một; ông Năm nói :

- “Hết mồng rồi, đi thôi.”

Tôi cũng không biết rõ lý do tại sao tôi có cảm nhận lần này ra về tôi có khi sẽ không gặp lại ông nữa. Tôi mơ hồ cảm nhận thế thôi. Lúc tiễn chân tôi ra khỏi xóm ông Năm dặn dò:

- “Trong Phật đạo có nói tới 4 nỗi khổ của đời người. Đó là Sinh Lão Bệnh Tử, cầu bất đắc, ái ly biệt, oán tương hội.“ Đời sống như một dòng nước chảy miên man không ngừng nghỉ. Tương hội rồi ly biệt là chuyện thường tình. Đừng để lòng xao động về những thứ tình thường của đời sống làm mất đi cái tâm yên tịnh của mình. Có rồi mất để rôì biết đâu lại có một cái mới khác không chừng. Họa phúc, may rủi cũng tùy thuộc vào chính người cảm nhận.

Tôi chia tay ông Năm trong bịn rịn hơn bất kỳ cuộc chia tay nào đã có trước đó. Cuộc sống nơi đây phẳng lặng bình an mộc mạc quá khiến tôi tự vấn lòng mình không biết có nên dời bỏ nơi đây để đi tìm một cuộc sống khác hay không ? Chiếc ba lô trên vai tuy nhẹ tênh mà sao tôi vẫn cứ muốn vất bỏ nó, tôi thực sự không muốn mang theo bất kỳ một loại hành trang nào. Tôi bỗng dưng bất ngờ quay lại chỗ ông Năm đang đứng, bỏ ba lô xuống chân, tôi bảo “Tôi không muốn mang theo cái gì hết.” Cho dù tôi biết trong đó ngoài chiếc mùng cá nhân có vá vài chỗ, một miếng vải nhựa màu xanh để làm chiếu ngủ và một chiếc mền Nylon vằn vện của Quân đội đã quá cũ - Tất cả là của cải tôi còn sau cuộc chiến - Những thứ vật dụng này đã theo chân tôi chu du suốt thời gian tù đầy từ Miền Nam ra tới Miền Bắc. Tôi nói với ông Năm :

- “Tôi chẳng có gì quý giá cả ngoại trừ những thứ vật dụng lỉnh kỉnh này. Tôi muốn để lại cho ông dùng.”

Ông Năm cười bảo :

- “Tùy chú thôi.” Rồi không biết ông nghĩ sao, tiếp lời : “Dĩ vãng và kỷ niệm luôn buộc chân con người để ngăn không cho nó bước ra khỏi nỗi dằn vặt của mình.”

Tôi gật đầu quay đi rảo bước một mạch không nhìn trở lại. Khi ra tới ngã ba giữa Quốc lộ và Tỉnh lộ, nơi có vài chục nóc gia xiêu vẹo hình thành nên khu chợ, tôi ghé chân vào quán bà cụ bán nước chè xanh tôi thường ghé mỗi lần lên xuống đây. Gần như chẳng đợi tôi buông lời yêu cầu, bà cụ với chiếc gáo dừa, lật chiếc bát sành úp trên trõng tre rót một bát nước chè tươi đầy cho tôi.

Chiếc xe đò xộc xệch chạy bằng than củi phun khói phì phì như xe lửa lắc lư đậu sát góc chợ. Vài người lên xe, phần lớn là những người đi thăm nuôi tù ở một trại gần đấy. Ngọn núi Chứa Chan về chiều úa vàng trong hoàng hôn. Quang cảnh nơi đây thật buồn. Tôi lên xe ngồi kế bên một chị phụ nữ có dẫn theo đứa con gái còm cõi và một chiếc túi dỏ tre trống rỗng. Chắc hẳn chiếc giỏ này là giỏ mang quà cho người chồng đang còn trong trại. Khuôn mặt chị đanh lại xơ xác và không cảm xúc. Cuộc sống cơ cực khó khăn khốn nạn quá, tất cả đã lấy mất đi tuổi thanh xuân và những thi vị của đời sống. Ngoại trừ mấy lời than van của vài ba nguời khách về cuộc sống khó khăn, phần còn lại im lặng. Mọi người đang lặng lẽ sống. Chừng gần một tiếng chờ đợi, cuối cùng chiếc xe cũng gần đầy khách. Những người thăm nuôi cuối cùng cũng đã ra về. Bác tài xế ra lệnh hành khách lên xe. Chiếc xe ì ạch chạy ra khỏi con đường đất leo lên Quốc lộ hướng về sài Gòn. Tôi im lặng trong suốt cuộc hành trình gần ba tiếng đồng hồ này.

Chính tôi cũng không hiểu tại sao thời gian gần đây tôi hờ hững với tất cả mọi chuyện chung quanh mình. Không biết đó có phải là triệu chứng của tuổi tác hay chỉ là một hiện tượng tâm lý thuần túy. Dù lý do nào, tôi cũng vẫn thấy tôi khác hẳn tôi cách đây ít lâu. Tôi thường ngẫm nghĩ, tự chia cuộc đời mình ra làm nhiều giai đoạn. Lúc tuổi trẻ, còn ở với mẹ cha, tôi vô tư hồn nhiên sống trong vòng tay thân thương của gia đình. Tôi cũng từng ấp ủ bao nhiêu là ước mơ hoài bão. Mong sao sau này khi lớn lên, như bố tôi gợi ý, phải trở thành một Bác sĩ. Mẹ tôi đơn giản hơn, chỉ mong sao tôi sống cho lưong thiện là được. Mẹ thường nói :

- “Thuyền to, sóng to; cứ làm ngưòi dân có công ăn việc làm, vui thú cùng vợ con là tốt nhất. Mọi đua chen vất vả chẳng ích gì, cơm ba chén, quần áo mặc cả ngày, giầu có hay quyền qúy cao sang cũng chỉ chừng nấy.”

Những lúc như thế bố tôi thường chen ngang :

- “Bà chỉ làm cho nó nhụt chí nam nhi !"

Khi đi học tôi thích đọc những câu thơ hào sảng khí phách của Nguyễn công Trứ nhiều hơn là những bài thơ tình ủy mị của các Thi sĩ thời thơ mới sau này. Rồi học xong Trung học, vào Đại học Khoa học ngồi chưa nóng chỗ thì cuộc chiến bùng lên như củi khô gặp gió. Những cuộc xuống đường, bạo động làm tôi chán ngán. Bố tôi bảo :

- “Cứ đà này, đất nước sẽ mất.”

Bố tôi giải ngũ vì đáo hạn tuổi vào năm 1967. Ông trở về nhà trong tâm trạng bất an thưòng trực. Nghỉ hưu được hơn một năm, một người bạn thân mở cây xăng ở Bình Dương nhờ ông lên cai quản. Từ đó mẹ tôi và tôi sống tại Sài gòn. Chị Hai đi lấy chồng là một Giáo sư trung học, chính chị cũng là một Giáo viên dạy Việt văn. Gia đình chị sinh sống tại Thủ Đức. Anh Ba tôi học xong Kỹ sư Phú Thọ ra trường một thời gian bị gọi nhập ngũ rồi lập gia đình, chuyển ngành sang Công binh Kiến tạo cũng ra ở riêng. Căn nhà trước đây chật chội vì đông người bây giờ bỗng nhiên rộng rãi hẳn lên. Mẹ bảo bao giờ tôi cưới vợ, phải đưa vợ con về sống bên cạnh bà, còn nếu không, đi đâu bà theo đó để chăm lo cho tôi. Tôi cười bảo con chẳng thèm lấy vợ, con ở vậy nuôi mẹ. Mẹ cười :

- “Để xem út của mẹ giữ được lời hứa bao lâu” Rồi bà nói tiếp : “Chỉ sợ mai mốt đây gặp đứa ưng mắt, ôm nhau đi bỏ mẹ một mình thôi !’”

Tôi vốn không bảnh trai hoặc ăn nói có duyên gì nên cũng ít bạn gái ngay cả khi tôi còn đi học. Bạn thân dăm đứa cùng lớp cũng tản đi dần vì hoàn cảnh của đất nước. Đứa du học ngoại quốc, đứa đi lính, đứa đi làm công chức, đứa bỏ dở học vào bưng... Cô bạn gái duy nhất tôi có là một cô gái trong xóm gần nhà. Cô học dưới tôi hai lớp. Ông thân sinh ra cô cũng là một Đại úy già cùng trạc tuổi với bố tôi. Tuy hai ông không thân nhau vì ở những đơn vị khác nhau nhưng tình hàng xóm láng giềng cũng thường chào hỏi, qua lại. Bà mẹ cô là một người ngoan đạo. Gia đình gồm hai cô con gái, cô chị cả lấy một Sĩ quan Thiết giáp làm việc ở Gò Vấp. Cô em học xong Trung học đệ Nhất cấp thì ở nhà giúp cụ bà buôn bán. Cụ bà có một xạp vải nhỏ ở chợ Trương Minh Giảng. Lúc trước còn khoẻ mạnh, cụ tự lo một mình. Sau này từ khi cô chị đi lấy chồng, sức khoẻ của cụ cũng yếu dần nên cô em quyết định thôi học phụ mẹ.

Tôi cũng được mẹ tôi dợm ý với cô em. Lúc đầu khi chưa đi lính tôi cũng ừ à cho qua chuyện. Nói thực lòng, ngoài quen biết và xã giao, tôi vốn chỉ coi cô như một cô em gái, hoặc cố gắng lắm thì là một tình bạn nam nữ vậy thôi. Năm 1968 khi vào trường Sĩ quan, mải mê với việc học, tôi quên luôn cô bạn cùng xóm. Mẹ tôi thình thoảng trong những bức thư viết cho tôi cũng đánh tiếng hỏi xem ý kiến tôi ra sao. Tôi trả lời cụ theo kiểu hoãn binh :

- “Thì cứ để từ từ rồi tính, ít nhất cũng chờ con học xong ra trường.”

Tôi ra trường năm 1970. Cuộc đời run rủi khiến tôi từ một Sĩ quan Chiến tranh Chính trị bỗng dưng trở thành một anh chàng Sĩ quan Bộ binh tác chiến chuyên nghiệp ! Từ đó cuộc sống lang thang theo đơn vị làm tôi chẳng còn kịp suy nghĩ về một gia đình cho bản thân.

Trong cuộc chiến tranh, con người ta sống trọn vẹn với bản năng động vật của mình nhất. Chém giết, chết chóc, thù hận… không thể làm tròn đi những gai góc của cuộc sống vốn dĩ đã quá sắc cạnh. Những vết thương trên cơ thể cho dù có thể làm đau đớn thân xác nhưng rồi thời gian có thể làm nguôi ngoai đi nhưng những vết thương trong lòng, trong tim thì không ngừng rỉ máu khi nó đã bị tổn thương. Những vết xẹo tâm linh làm chết đi những giây thần kinh cảm xúc cả một đời người. Tôi chai lì và lạnh lùng đến mức có lúc mẹ bảo mẹ nhận không ra thằng út của mẹ ngây thơ và trong sáng ngày nào.

Chiến tranh đã hủy diệt thế hệ chúng tôi. Có người bảo lịch sử của một Dân tộc thường chuyển dịch theo một chu kỳ Sinh trụ hoại diệt. Từng thời kỳ ấy, các thế hệ thanh niên được sinh ra phải chấp nhận thân phận của mình. Thế hệ của chúng tôi là thế hệ bị hủy diệt. Nếu không bi diệt trong chiến đấu ngoài xa trường thì bị diệt khi thoát chết trở lại hậu phương. Kẻ thắng hay người bại cũng khốn nạn như nhau. Thậm chí những người may mắn sống bên ngoài cuộc chiến ấy tưởng đã được yên thân mà sống nhưng rồi họ cảm thấy họ cũng lầm. Cả một đất nước điêu tàn trong chiến tranh. Bom đạn và mìn bẫy không chỉ hủy đi sinh mạng con người. Nó hủy luôn cả tài nguyên thiên nhiên và tâm hồn những ngưòi từng sống trong xã hội, đất nước ấy nữa.

Dân tộc tôi mất đi những cảm nhận bình thường. Tất cả mọi người sống trong nghịch thường đã quen thành nếp. Con người trở nên tàn bạo dữ tợn hẳn lên. Những cuộc chiến tranh liên tục trong hơn nửa thế kỷ đã làm méo mó con người. Tôi đã thoát ra khỏi cuộc chiến trong tâm thái và hình dạng như thế.

Tôi về tới Sài Gòn lúc buổi chiều chập choạng. Từ ngã tư Hàng Xanh tôi đón xe ôm về nhà. Từng đoàn người di chuyển lặng lẽ trên đủ mọi loại phương tiện chạy lao xao trên đường. Cả Thành phố vàng vọt xanh xao như người nằm chờ định bệnh. Rồi mai mốt đây tôi sẽ bỏ xứ này mà đi. Nghĩ đến điều ấy tôi chợt thấy nhói đau trong lòng. Nhưng làm sao hơn được. Tôi sinh ra, lớn lên trong đất nước này, như ông Năm thường nói với tôi : " Đất nước trời hành ".



22/03/12
Song Vũ

Longhai
06-29-2014, 01:16 AM
Nói chuyện với Nhà văn Song Vũ


Nguyễn Mạnh Trinh


Viết hồi ký về chiến tranh của mình qua mấy chục năm hồi tưởng có lẽ không phải là một công việc dễ dàng. Làm sao để trong văn phong trong ngôn ngữ có chất lửa của đời sống dù đã mấy chục năm trôi qua vẫn nhen nhúm không tàn bếp lửa tâm tư. Hồi ký chiến tranh, có phải là lời tâm sự của chung cả một thế hệ bị đẩy vào lò lửa chém giết của một cuộc chiến tràn đầy bi kịch. Thế hệ ấy có chung mẫu số: đi học, đi lính, đi tù và đi lưu vong xứ người. Những người lính rất nhân bản từ suy nghĩ đã phải đối mặt với nỗi chết và hằng ngày chứng kiến bao nhiêu đồng đội hy sinh. Họ đã viết bút ký, không phải chỉ là nỗi niềm chính mình mà còn là của những chứng nhân của những anh hùng vô danh và có danh viết lên những trang lịch sử hào hùng.

Đọc bút ký “Sau Cơn Binh Lửa” của tác giả Song Vũ, thấy rõ được nỗi niềm mang theo từng trang sách. Ông viết : “Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày càng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên đó thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ của chúng tôi, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải… thực sự là gì ? Hoặc chẳng là gì hết ? Những băn khoăn đó là cảm hứng cho tôi hoàn tất một số bút ký tiếp theo có mặt trong cuốn sách này…”

Cuốn sách kể lại cuộc đời của chính Tác giả, từ lúc vào Quân trường đến khi ra đơn vị, rồi qua bao nhiêu chiến trường với binh nghiệp thăng trầm. Khi Cộng sản chiếm miền Nam, ông đi tù như những đồng đội khác được trở về gia đình nhưng vẫn còn trong nhà giam lớn của chế độ. Sau đó đi định cư sang Mỹ làm lại cuộc đời. Ông kể chuyện chân thành nhưng hấp dẫn và sức sống như ngọn lửa luôn bừng cháy trong tâm.

Nhà văn Song Vũ, tên khai sinh là Ngô Văn Xuân, sinh năm 1940 tại Hải Phòng. Tốt nghiệp khóa 17 trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam. Trong 13 năm binh nghiệp ông đều ở các đơn vị tác chiến và trải qua hầu hết các chức vụ Chỉ huy từ cấp Trung đội đến cấp Trung đoàn trừ những thời gian theo học các khóa Tham mưu hoặc dưỡng thương. Cấp bậc sau cùng Trung tá và chức vụ sau cùng là Trung đoàn Trưởng Trung Đoàn 44/ Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Đơn vị này là một đơn vị ưu tú của QLVNCH tạo ra nhiều chiến tích lẫy lừng và góp công lớn vào chiến thắng giữ vững thành phố Kon Tum trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 ở Tây Nguyên. Ông sống chết với đơn vị cho tới giây phút cuối cùng của cuộc chiến. Ông đã bị thương 3 lần tại mặt trận. Và khi miền Nam thất thủ ông đã bị 13 năm tù Cộng sản. Trong thời gian tù tội ông đã bị nhiều cơn bệnh thập tử nhất sinh nhưng thoát qua được nhờ sự đùm bọc của những bạn tù cũng như niềm tin vào đấng linh thiêng phù hộ…

Sau đây là nội dung cuộc nói chuyện về tác phẩm của ông :

Nguyễn Mạnh Trinh : Thưa nhà văn Song Vũ, ông có chủ đích nào khi viết tập bút ký này ? Có phải với tư cách một chứng nhân lịch sử ?

Nhà văn Song Vũ : Vâng, sau khi qua định cư tại Hoa Kỳ vào tháng Tư năm 1992, phải chuyển đổi cả môi trường sinh hoạt lẫn môi trường văn hóa, thời gian đầu vì bận thích ứng với cuộc sống mới nên tôi không có thời gian để ghi chép lại những điều mình cảm nhận được. Nhưng sau ba bốn năm khi đã quen dần với công việc, năm 1996 tôi bắt đầu viết hai bài bút ký về hai trận đánh của đơn vị chúng tôi trong các năm 1972 và 1975 tại chiến trường Kontum và Ban Mê Thuột. Trong cả hai bài này tôi đều viết với tư cách một chứng nhân, một người đã thực sự tham gia trận đánh rất đặc biệt trong giai đoạn lịch sử của Dân tộc.

Hỏi : Viết hồi ký phải có một trí nhớ tốt. Động lực nào giúp anh nhớ được những chuyện xảy ra đã gần 50 năm như vậy? Và đó chắc phải là những biến cố đặc biệt ?

Đáp : Tôi thực sự không cho mình là người có trí nhớ tốt, nhưng như anh biết, tục ngữ Việt Nam có câu “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Những điều tôi nhớ được đều là những kỷ niệm rất khó quên, đúng hơn là dễ nhớ. Thêm vào đó, thỉnh thoảng gặp lại đồng đội chiến hữu hoặc đọc được những bài viết của một người quen nói tới các kỷ niệm đó, lại càng làm cho tôi không thể quên các biến cố này.

Hỏi : Trong bút ký, có xen lẫn vào tâm sự của các nhân vật khác. Có phải anh muốn diễn tả tâm tư không phải của riêng anh mà là cả tâm sự của một thế hệ ?

Đáp : Trong cuộc sống thường nhật, tôi chiêm nghiệm ra một điều ngoài những nét tư riêng đặc thù của từng cá nhân, thế hệ chúng tôi đã trải qua cuộc chiến tranh có quá nhiều điểm giống nhau trong những suy nghĩ, những mong ước. Đặc biệt trong khoảng thời gian sống trong lao tù Cộng sản, tôi đã gặp trao đổi trò chuyện với khá nhiều người ở những độ tuổi ngang bằng hoặc trẻ hơn tôi chút ít tôi đã bắt gặp ở đó một sự tương đồng rất lạ lùng thành ra khi viết lại những điều này thực tâm tôi nghĩ rằng tôi viết không phải chỉ cho riêng tôi mà là cho cả các chiến hữu của thế hệ chúng tôi nữa.

Hỏi : Tại sao đời sống ở xứ Tự do như Hoa Kỳ lại gợi cho anh những suy tư để cầm bút ? Có phải là tác động của “Sau cơn binh lửa” từ cuộc chiến vừa qua ?

Đáp : Tôi nghĩ rằng đời sống tự do ở nơi đây là điều kiện cần, và những trải nghiệm của cá nhân tôi trong cuộc chiến là điều kiện đủ để giúp tôi ghi lên giấy những tâm tư tình cảm của mình.

Hỏi : Anh nhận định thế nào về cuộc chiến Việt Nam lúc trước 1975 và hiện giờ? Có thay đổi nào theo thời gian trong nhận thức ấy?

Đáp : Cuộc chiến tranh Việt Nam trước năm 1975 là một cuộc chiến tranh tự vệ của Nhân dân Miền Nam chống lại cuộc xâm lăng của Cộng Sản Miền Bắc bằng vũ khí và bom đạn. Cuộc chiến ấy đã chấm dứt vào ngày 30/4/1975. Giờ đây mở ra một cuộc chiến khác, cuộc chiến giải trừ Chủ nghĩa Cộng Sản ngoại lai do những người Cộng Sản Việt Nam du nhập từ nước ngoài - nguyên nhân chính tạo nên mọi thảm họa cho cả Dân tộc chúng ta hiện nay. Tại thời điểm hiện tại sau khi Trung Cộng đưa giàn khoan HĐ 981 vào lãnh hải của Việt Nam, Trung Cộng đã bộc lộ rõ âm mưu thôn tính đất nước chúng ta, cuộc chiến lại trở nên phức tạp hơn nhiều. Chúng ta cùng một lúc chống lại hai kẻ thù : chống Cộng sản để có cơ hội thực hiện đoàn kết Dân tộc và chống Trung Cộng để bảo vệ đất nước.

Hỏi : Có sự gần gũi nào giữa hai tác phẩm “All Quiet on The Western Front” của Erich Maria Remarque và “Sau Cơn Binh Lửa” của anh khi mượn lời của Remarque : “Cuốn sách chỉ đơn giản là nói về một thế hệ những con người, cho dù đã thoát ra khỏi lằn tên mũi đạn cũng đã bị hủy diệt mất rồi ”?

Đáp : Thú thật, trong thập niên 70 Erich Maria Remarque là một tác giả tôi rất thích đọc. Đặc biệt là hai cuốn : Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh và cuốn kia là Một Thời Để Yêu và Một Thời Để Chết. Qua hai tác phẩm này, tôi thấy Remarque mô tả rất nhiều điều tương đồng với những trải nghiệm của tôi trong cuộc chiến vừa qua. Và điều thú vị khác là có rất nhiều ý tưởng và suy nghĩ tinh tế của ông khiến tôi thích thú và khâm phục. Nói một cách khái quát, tôi đã học được nhiều điều từ các tác phẩm của Remarque. Chỉ có điều, sau khi thoát ra khỏi cuộc chiến, cho dù thế hệ của ông có bị hủy diệt theo nghĩa đen hay nghĩa bóng thì dân tộc của ông cũng tìm lại được một cuộc sống bình thường hạnh phúc trở lại, còn dân tộc chúng ta thì không, sự hủy diệt đã được trải đều lên cả kẻ bại trận lẫn người thắng, dĩ nhiên ngoại trừ một số ít cán bộ Cộng sản chóp bu đã hưởng lợi từ kết quả sau cùng khi ngưng tiếng súng.

Hỏi : Trong khi chiến đấu anh có một tin tưởng nào về cuộc chiến thắng sắp đến ? Hay là linh cảm của một người bi quan khi nhìn vào thực tế ?

Đáp : Trong suốt những năm tháng lăn lộn trên Chiến trường ở cả hai vùng 4 và 2 chiến thuật, thú thực tôi có một khoảng thời gian trong các năm 70 và 71 sau cuộc tấn công tự sát của các lực lượng Cộng sản trong Tết Mậu Thân 1968, thời gian này là khoảng thời gian duy nhất tôi đã hy vọng chúng ta có thể đạt tới chiến thắng hoặc ít nhất cũng có thể đạt được một nền hòa bình khả dĩ có thể chấp nhận được. Nhưng sau khi quân đội Miền Bắc tung lực lượng chính qui của họ vào Miền Nam để tổ chức các cuộc tấn công quy mô trên cả ba vùng chiến thuật 1,2,3 trong năm 1972. Rồi sau đó là quyết tâm của người Mỹ muốn rút chân ra khỏi cuộc chiến. Tôi bắt đầu nghi ngờ về một chiến thắng sau cùng của chúng ta. Đặc biệt là những xáo trộn chính trị diễn ra hằng ngày tại Thủ đô lại càng củng cố thêm những suy nghĩ bi quan của tôi.

Hỏi : Anh hay nhắc đến Trường Mẹ và các Sĩ quan xuất thân Võ Bị. Vậy có một thiên vị nào trong khi Chỉ huy với các Sĩ quan xuất thân từ những Quân trường khác nhau ?

Đáp : Hoàn toàn không, sở dĩ tôi hay nhắc tới ngôi trường Mẹ vì một lý do đơn giản. Đó là ngôi trường đã thay đổi tôi từ một học sinh trở thành một người lính. Thêm vào đó những kỷ niệm cùng bạn đồng môn đồng khóa là những kỷ niệm rất đặc biệt khó quên. Chắc anh cũng đã thấy trong cuốn bút ký Sau Cơn Binh Lửa của tôi những nhân vật anh hùng tôi nêu ra như Đại tá Nguyễn Mạnh Tường là người xuất thân khóa 5 Thủ Đức, Đại tá Võ Ân khóa 12 Thủ Đức, Trung tá Không quân Phạm Văn Thặng cũng là một tấm gương chiến đấu anh hùng khác mà tôi thực sự ngưỡng mộ trong sự đánh giá của tôi.

Hỏi : Có phải truyền thống Võ Bị và lời của Thầy Trần Ngọc Huyến Chỉ huy trưởng vẫn còn đến bây giờ với cả khóa 17 Võ Bị Đà Lạt và cá nhân anh ?

Đáp : Đúng như vậy thưa anh. Thầy Trần Ngọc Huyến là một trong những người thầy theo đúng nghĩa của danh xưng này. Thầy là người sống có lý tưởng đầy đủ khả năng lãnh đạo và nhiệt huyết muốn xây dựng một đội quân có lý tưởng quốc gia. Riêng cá nhân tôi, tôi không bao giờ quên lời thầy dạy trong một bài Dẫn Đạo Chỉ Huy : “Mỗi người trong chúng ta phải chọn cho mình một lý tưởng để sống, lý tưởng ấy nó quan trọng giống như chiếc la bàn cho con tàu đang di chuyển trên biển. Riêng thầy đã chọn phương châm : “Chẳng thà để người ghét chứ không để chúng khinh”. Và thầy đã giữ đúng phương châm này.

Hỏi : Tình chiến hữu và yêu thương đồng đội có phải là động lực để anh viết những trang bút ký này ? Và là nỗi day dứt ám ảnh suốt cuộc đời anh ?

Đáp : Tôi có thể trả lời một cách ngắn gọn : Nếu tôi không có những giúp đỡ đùm bọc của đồng đội và chiến hữu chắc chắn tôi đã không thể có mặt ở đây ngày hôm nay để tiếp chuyện với anh.

Hỏi : Anh đã làm việc và gần gũi với nhiều vị Tướng lãnh của QLVNCH. Vị Tướng nào mà anh cho là giỏi nhất và vị nào anh cho rằng ít năng lực theo nhận định cá nhân của mình ?

Đáp: Câu hỏi này thật sự đối với tôi là một câu hỏi rất khó trả lời cho thỏa đáng. Lý do là chúng ta thực sự không có một tiêu chuẩn chung nào để đánh giá một vị Tướng nào là giỏi nhất, giỏi nhì… Theo tôi nghĩ, trải qua một số Tướng lãnh tôi đã phục vụ dưới quyền ở hai sư đoàn 7 và 23, tôi nhận thấy từng vị đều có những sở trường sở đoản của mình. Còn nói vị Tướng nào khiến tôi tâm phục và khẩu phục về cả ba phương diện năng lực, tư cách và đạo đức, tôi có thể trả lời ngay đó là Trung tướng Nguyễn Viết Thanh, nguyên Tư lệnh Quân đoàn 4, đồng thời cũng là vị Tư lệnh Sư đoàn 7 BB khi tôi là Đại đội trưởng Trinh sát 11 dưới quyền của ông.

Hỏi : Anh đã phục vụ tại hai Sư đoàn 7 và 23 trong hai thời kỳ liên tiếp nhau. Ở Sư đoàn nào anh cảm thấy chiến trường phù hợp với khả năng của mình ?

Đáp : Thú thực tôi thấy chiến trường nào cũng khó nuốt như nhau. Là một Quân nhân tôi nghĩ mỗi người phải tự tìm cách thích nghi với môi trường hoạt động của mình. Khi còn ở Sư đoàn 7, suốt ngày lội nước lội sình, tôi có lúc nghĩ mình không hợp với môi trường tác chiến này nhưng sau hai ba năm hoạt động, tôi thành quen. Đến khi đổi ra Sư đoàn 23, suốt ngày leo đèo lội suối, tôi lại thầm nghĩ chắc mình chịu không nổi. Nhưng rồi hai ba năm sau lại lội riết thành quen.

Hỏi : Trong bút ký về cuộc đời Đại tá Nguyễn Mạnh Tường, anh có nói rằng mình cũng bị “đầy ải” như vị đại bàng gẫy cánh này. Xin anh nói một chút về những thăng trầm binh nghiệp ấy ?

Đáp : Đó là một kỷ niệm giữa Thiếu tướng Trương Quang Ân với tôi vào khoảng tháng 8 năm 1968. Nguyên do như thế này : Sau trận đánh Tết Mậu Thân năm 1968, lúc đó tôi là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2/11 Sư đoàn 7, Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh là Tư lệnh Sư đoàn 7 lúc đó cho tôi đi học khóa Tham mưu Trung cấp tại Đà Lạt. Còn chừng một tuần lễ trước ngày mãn khóa thì xảy ra một sự việc : Thiếu tá Nguyễn Văn Tạo khóa 16 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng của tôi bị tử thương trong một lần đặc công VC tấn công nội tuyến khi Tiểu đoàn về nghỉ quân tại căn cứ Đồng Tâm Mỹ Tho. Trung tá Trần Công Tiến là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 11 lúc đó đánh điện cho tôi hay là ngay sau khi mãn khóa về trình diện ngay Bộ Chỉ Huy Trung đoàn để nhận nhiệm vụ thay thế Thiếu tá Tạo và chấn chỉnh lại Tiểu đoàn. Cùng lúc, Thiếu tướng Trương Quang Ân Tư lệnh Sư đoàn 23 cũng làm phiếu trình BTTM xin bổ sung 4 sĩ quan TĐT để ra thay thế các vị TĐT mà theo tướng Ân đánh giá là thiếu khả năng chỉ huy. BTTM ra lệnh cho Phòng TQT của Sư đoàn lên trường CH & TM để tuyển chọn. Tôi còn nhớ rất rõ là Trung tá Nam trưởng phòng TQT/SĐ lên trường và chọn 4 người trong đó gồm Đại úy Thâm nguyên là một TĐT của Sư đoàn 22 được đề cử đi học, Đại úy Nguyễn Minh Quan một bạn cùng khóa 17 Võ bị với tôi, Đại úy Dũng trưởng ban 2 Sư đoàn 1 BB và tôi. Sau đó vì lý do chuyên môn Đại úy Dũng được miễn, chỉ còn lại ba người. Tôi ra đáo nhậm Sư đoàn 23 trong tâm trạng không vui vì hai lý do, mẹ tôi đang bịnh phổi rất cần tôi thăm nom, và lý do khác tôi thực tâm muốn được trở về làm việc ở đơn vị cũ, một chiến trường tôi đã quen thuộc. Trong khi trình diện tướng Ân, tôi cũng phải nói ngay, Tướng Ân là một trong những Tướng lãnh có tài và nổi tiếng là nghiêm. Khi tôi trình diện tại Văn phòng của ông với tờ sự vụ lệnh cấp đi từ BTTM cho tôi có đề rõ là bổ sung cán bộ TĐT theo phiếu trình của Sư đoàn 23. Tôi còn nhớ lời mở đầu khi gặp tôi, sau khi xem qua phần lý lịch của tôi, ông nói : “Tôi muốn có những cán bộ có khả năng Chỉ huy chứ không muốn có những Sĩ quan từ đơn vị khác tới để cướp cơm chim của lính” và ông hỏi tôi có muốn trình bày nguyện vọng của mình. Không hiểu sao tôi lại tự ái. Người bạn cùng khóa với tôi là Đại úy Dương Đức Sơ lúc đưa tôi lên trình diện ông có dặn tôi trước đó là đừng có ý kiến ý cò gì là êm xuôi. Lúc đó tôi quá ấm ức vì bị ngộ nhận là đã tình nguyện xin về sư đoàn này để cướp cơm chim của một ai đó nên nói : “Thưa Thiếu tướng việc tôi được điều động ra đây là do quyết định của BTTM chứ không phải tôi tình nguyện ra để cướp cơm chim của ai cả ? Nếu Thiếu tướng không tin, Trung tá Nam có thể xác nhận cho tôi điều này, tôi đã hai lần xin gặp ông để yêu cầu ông bỏ tên tôi ra khỏi danh sách đề nghị xin thuyên chuyển ra Sư đoàn 23 để tôi trở về đơn vị cũ nhưng không được”. Tướng Ân nổi giận, lệnh cho Đại úy Sơ đưa tôi ra khỏi phòng ngay và thay vì về đảm nhiệm chức vụ TĐT như các bạn tôi về Sư đoàn cùng một lượt, tôi cầm tờ SVL với lời ghi : Tùy theo năng lực đề nghị chức vụ…

Hỏi : Anh đã viết rất thực và phác họa được chân dung những vị Trung đoàn trưởng tài ba như Đại tá Nguyễn Hữu Thông, Đại tá Võ Ân,… Có phải anh đã viết với cả tấm lòng trân trọng của mình ?

Đáp : Vâng đúng như thế. Có thể nói chung rằng tất cả những người tôi nêu tên trong cuốn bút ký này đều đã được tôi viết trong sự trân trọng và lòng cảm phục chân tình.

Hỏi : Viết về những đồng đội, nhất là những người đã chết, có phải là những nén nhang tưởng niệm và những kỷ niệm đã day dứt anh suốt đời về những người đã chia sẻ gian nguy với mình ?

Đáp : Đúng như vậy. Tôi luôn nghĩ rằng những quân nhân trong QLVNCH đã nằm xuống trên Quê hương trong cuộc chiến vừa qua đều là những người đáng ngưỡng mộ và rất cần được các thế hệ sau này biết đến và ghi công lao của họ.

Hỏi : Có người nói Quân lực VNCH chiến đấu mà không có chiến thuật chiến lược nào rõ ràng và thích hợp. Với anh, một Sĩ quan cao cấp, thì nhận xét này có chính xác không ?

Đáp : Theo tôi, chiến thuật thì có, còn chiến lược thì chúng ta bị chi phối rất nặng nề bởi đồng minh Hoa Kỳ, thành ra chúng ta thường bị động hoặc không có đối sách thích ứng cho cuộc chiến. Tôi đơn cử hai ví dụ cụ thể :

A/ Giải bài toán giữa phòng thủ diện địa và việc hành quân lưu động chống lại các cuộc tấn công đồn bót làng xóm của các lực lượng cơ động tỉnh và miền của Cộng sản (Nếu căng lực lượng ra phòng thủ qua hệ thống đồn bót, chúng ta không đủ lực lượng lưu động tác chiến; còn ngược lại nếu thành lập các đơn vị cơ động tìm diệt địch thì chúng ta phải chấp nhận bỏ, không canh giữ một khoảng trống lãnh thổ địa phương để địch thao túng).

B/ Giải bài toán tiêu diệt các mật khu và các căn cứ địa của địch nằm sâu trong lãnh thổ Kampuchea và Lào bằng các sách lược phối hợp giữa ngoại giao và quốc phòng hữu hiệu, hệ quả là các lực lượng Cộng sản luôn có một hậu phương vững chắc để bổ sung và tái tổ chức lại đơn vị của họ sau các tổn thất.

Hỏi : Anh đã có niềm tin vào Tôn giáo như trong bút ký “Ông Phật Dược Sư của Tôi”. Có phải đó là phát xuất từ bản năng tự tồn tại của con người hay do một cơ duyên nào linh thiêng hơn run rủi ?

Đáp : Tôi đã đến với tôn giáo trong sự tuyệt vọng cùng cực. Và trong khoảnh khắc ấy tôi đã tìm ra cơ may sống còn cho mình. Rồi sau khi sống còn, tôi càng củng cố thêm cho niềm tin tôn giáo của tôi.

Hỏi : Chuyện Quốc Thánh hiển linh ở hậu cứ BMT có phải là có những đấng thần linh phù hộ cho những người lính chiến đấu ? Xin anh kể lại câu chuyện này ?

Đáp : Tôi phải xin nói trước điều này : câu chuyện tôi sắp kể là một câu chuyện có thật và hiện còn rất nhiều người biết chuyện. Cụ thể là Trung tá Điều Ngọc Chuy, nguyên Trưởng phòng 2 SĐ23 BB, Trung tá Đặng Nguyên Phả, nguyên CHT Pháo Binh SĐ23 BB. Đại úy Nguyễn Văn Miêng, Sĩ quan Tình báo SĐ 23 BB…

Câu chuyện liên quan đến việc thả các toán Viễn thám của Đại đội 23 Trinh Sát nhằm phát hiện, theo dõi các việc chuyển quân, tiếp tế của địch. Một toán Viễn thám gồm khoảng từ 5 đến 7 người tùy theo quân số của đơn vị gồm một Trưởng toán là Sĩ quan hoặc Hạ sĩ quan, một hiệu thính viên và 4 hay 5 toán viên.

Thời gian xảy ra câu chuyện là vào khoảng tháng Tư năm 1974 tại chiến trường Bắc Kontum. Lúc này tôi là Trưởng phòng hành quân Sư đoàn phối hợp cùng phòng 2 sư đoàn để thả các toán Viễn thám. Trong một lần chúng tôi thả một toán Viễn thám gồm 7 người vào khu vực khoảng 20 cây số Tây bắc Kontum. Trong lúc di chuyển tới vị trí quan sát thì toán này bị địch phát hiện truy đuổi. Toán đành phải bỏ vị trí phân tán để vượt thoát. Từ sau báo cáo cuối cùng chúng tôi nhận được là toán Viễn thám này là bị địch truy bắt và có một số bị thương, từ đó chúng tôi không còn liên lạc với toán nữa. Hung tin này đã làm xôn xao gia đình những Binh sĩ trong khu vực Trại gia binh của Đại đội Trinh Sát. Thời gian kéo dài tới hai ngày sau thì Đại úy Miêng nhận được báo cáo từ hậu cứ của ĐĐ 23 TS cho biết có vị xưng danh là Quốc Thánh nhập cơ vào một Hạ sĩ có tên là Tâm, hiện là một Binh sĩ từng bị thương và vì lý do sức khỏe được cho làm thợ may và sửa quần áo tại hậu cứ. Quốc Thánh cho biết toán này hiện có 3 người bị thương và ngài sẽ dẫn dắt họ trở về an toàn. Riêng phần hành của chúng tôi không mấy ai tin vào những điều có vẻ huyền bí này nên vẫn tiếp tục thay nhau bay lên vùng tìm kiếm để hy vọng đón họ trở về bình an trong suốt 3 ngày liên tiếp từ sau khi có tin toán chạm địch. Cho tới trưa ngày thứ tư, lần lượt một nhóm 3 người về lại được khu Trung Nghĩa gồm Chuẩn úy Hòa trưởng toán bị thương ở tay và chú em Truyền tin bị thương ở bả vai. Sau đó ít giờ chúng tôi lại nhận được báo cáo của toán tiền đồn của Trung đoàn 53 cho biết có 4 Binh sĩ trong toán Viễn Thám trở về trong đó có một Binh sĩ bị thương nhẹ. Quốc Thánh đã nói rất chính xác sự việc…

Hỏi : Anh kể chuyện tù ngục có vẻ bình thản và hình như ít phẫn hận căm thù. Điều gì khiến anh có tâm tư như vậy ?

Đáp : Một phần có lẽ xuất phát từ suy nghĩ của cá nhân tôi khi cho rằng sự chịu hình phạt ngục tù chính là một phần lỗi do chính mình gây nên, sau đó trong thời gian lao tù Cộng sản tôi lại phát hiện thêm một điều khác nữa, rằng người bại cũng như kẻ thắng đều bất hạnh như nhau, rồi mở rộng ra cả Dân tộc, sau cuộc chiến cả nước đều lâm vào khốn khổ - dĩ nhiên ngoại trừ một số ít các Cán bộ cao cấp và thành phần phe cánh của họ. Từ đó tôi bình tâm suy nghĩ và ghi chép lại sự việc một cách thanh thản hơn.

Hỏi : Trong tác phẩm có hai bút ký viết theo tâm sự của người lính khác trẻ hơn anh và cũng giãi bày cuộc đời những người lính lưu lạc sang xứ người phải nỗ lực để sống còn và làm lại đời sống cho mình và gia đình mình ?

Đáp : Tôi đã gặp gỡ khá nhiều bạn tù, bạn chiến đấu trong cuộc sống mới ở nơi đây. Qua tiếp xúc với họ khiến cho tôi có thêm đề tài để viết các bút ký này. Dụng ý của tôi là muốn thể hiện những tâm tư tình cảm của các nhân vật này đồng thời cố gắng nói ra một điều do tôi cảm nhận được từ các bạn hữu của mình. Điều đó là hình như trong cuộc sống của họ vẫn luôn chứa đựng một khoảng trống nào đó không thể lấp đầy được…


Nguyễn Mạnh Trinh