PDA

View Full Version : Người lính làm thơ mang bút hiệu Trạch Gầm



dnchau
06-27-2014, 05:01 AM
NGƯỜI LÍNH LÀM THƠ MANG BÚT HIỆU TRẠCH GẦM

ĐINH LÂM THANH


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1403988258.jpg
Nhà thơ Trạch Gầm

Tôi yêu Trạch Gầm cả Thơ lẫn con Người. Những gì anh viết, chính là niềm đau của một người lính phải tức tưởi buông súng đầu hàng, chính là uất hận của một kẻ phải bỏ nước ra đi sau những năm tháng tù đày và cũng chính là nỗi xót xa đối với đồng đội đã một thời gắn bó với anh. Tôi yêu con người, vì anh thật xứng đáng một cấp chỉ huy, tuy sống dưới chế độ tự do nhưng không bao giờ anh quên những người bạn sống chết với nhau đã nằm xuống hay còn kẹt lại ở quê nhà. Đời binh nghiệp của anh thật khiêm nhượng với vài ba ‘mai vàng’ dừng lại trên vai, nhưng trong lồng ngực của anh, mãi mãi là một trái tim vĩ đại mà anh đã trân trọng dành cho đồng đội đã hy sinh cho màu cờ tổ quốc và những phế nhân còn sống sót dưới chế độ cộng sản.

Anh xứng đáng ngửng mặt lên khi nhìn lại những cấp chỉ huy lớn, những ‘vì sao’ đã rụng xuống ‘boong’ tàu của hạm đội Mỹ trước giờ mất nước! Rồi 34 năm nay họ đã làm được gì cho đồng đội, thương binh, cô nhi quả phụ cũng như cho quê hương và dân tộc! Và cứ mỗi năm, vẫn áo mũ chỉnh tề nhắc lại chiến công một thời vang bóng. Nhưng có mấy vị nhớ đến thuộc cấp của mình là những người đã hy sinh xương máu để đem lại những huy chương hiển hách trước ngực cũng như những ngôi sao lấp lánh trên cổ áo!

Nhắc đến Trạch Gầm là nói đến con người của tình cảm, luôn nặng tình với quê hương, ray rứt cho cuộc chiến và ấm ức vì đầu hàng… tất cả những trăn trở đó đều chất chứa trong thơ của anh. Đọc thơ Trạch Gầm độc giả nhận ra ngay trong con người anh là một khối tình gắn bó thiết tha với đồng đội, là ân sâu nghĩa nặng đối với bạn bè, là những người đã nằm xuống hay bị lãng quên dưới chế độ cộng sản.

Cách đây hai năm, tôi gặp Trạch Gầm trong một ngày nắng ấm tại quán café Tip-Top trên đường Westminster, Sàigòn nhỏ, Cali. Anh đọc cho nghe bài thơ ‘Lời Trước Nghĩa Trang’. Chưa dứt bốn câu đầu, anh đã bật khóc và làm tôi phải khóc theo trước ngạc nhiên của số thân hữu bạn bè. Thật khó tưởng tượng nổi, hai người đàn ông 65 và 71 tuổi đã khóc như một đứa trẻ khi nhắc đến những người bạn đã nằm xuống. Rồi hình ảnh Trạch Gầm với những giọt nước mắt bên tách càfé vẫn ngày đêm ám ảnh và gây xúc động mỗi khi tôi cầm cuốn Vụn Vặt trong tay.

Những lời thơ viết về tình đồng đội của anh đã kéo ký ức tôi trở lại quảng đời dĩ vãng mà trong thời Mậu Thân 1968, tôi đã sống trọn vẹn với những người lính thuộc trung đội tác chiến tại vùng rừng núi Quảng Đức. Những người bạn nầy đã ra đi nhưng họ vẫn sống mãi bên tôi và phù hộ cho tôi còn sót đến ngày hôm nay. Tôi xin mượn mấy câu thơ của Trạch Gầm để tưởng niệm những người lính đã nằm xuống:

Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mầy nhìn thấy đau thương
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương
(Lời trước nghĩa trang)

Cũng từ bài thơ nầy Trạch Gầm gởi đến với những người đã nằm xuống chân dung của anh trong những ngày tháng vô vị nơi quê người.

Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết
Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
Còn tao bây giờ sống cũng như không
(Lời trước nghĩa trang)

Kỷ niệm để đời với Trạch Gầm là tuyển tập Vụn Vặt, cuốn thơ vừa lấy từ nhà in chưa ráo mực, anh đã biếu tôi và từ ngày đó đến nay tôi vẫn chưa đọc xong. Mỗi lần cầm cuốn thơ lên vừa nghiền ngẫm vài giòng thì tôi bị cuốn vào tâm trạng của tác giả…đau buồn cho vận nước, xót xa vì cuộc chiến và tiếc thương những người bất hạnh, rồi nước mắt tôi cũng xóa mờ những giòng chữ. Đa số thi nhân thường mượn các đề tài tình yêu nam nữ để tìm nguồn cảm hứng sáng tác nhưng trên 100 bài thơ trong tuyển tập Vụn Vặt, Trạch Gầm đã dành gần như đa số bài để nói về những gắn bó về tình huynh đệ, tình cảm của người trai thời chiến và để tưởng niệm đến đồng đội đã ra đi…

Những ai đã sống chết với đồng đội, đã cùng băng rừng lội suối, ngày đêm truy lùng địch thì mới cảm thông được tình thương gắn bó với nhau. Cuộc đời người lính chiến không có gì quý hơn ngoài chiếc ba lô độc nhất trên người, tấm ‘pông-sô’ thay mái ấm gia đình và việc kết nghĩa anh em đồng đội như tình thân ruột thịt. Họ là những người trai thời chinh chiến, hiến dâng cuộc đời cho tổ quốc non sông, thương tật, sống chết không biết sẽ đến bất chợt bao giờ. Đối với họ trên đầu là tổ quốc, trước mặt là kẻ thù, hai bên là đồng đội và sau lưng là chiếc ‘băng-ca’ hay cổ quan tài đang chờ sẵn ! Hãy nghe Trạch Gầm viết về số mệnh:

Một thoáng theo mây rơi dài nước mắt
Khóc nỗi bạn bè…lưu lạc bốn phương
Thằng mất thằng còn – Nổi trôi vận nước
Giọt ngắn giọt dài ướt đẫm quê hương
(Vụn Vặt)

Những ai đã qua đoạn đường gian khổ với những lúc hành quân, lội sông, bằng rừng, vượt núi trong rét mướt, trong đói khát, trong gian khổ, ngày đuổi giặc, chiếm mục tiêu, đêm ngủ ngồi ngay tại hố cá nhân để chờ địch thì mới thấm thía được những cảnh

‘Bi-đông’ nước bùn chia sẻ
Gói mì nhai vội chuyền tay
Chuyển nhau điếu thuốc cháy dở
Sống chết biết giờ nào hay
(Cho nhau, Thơ DinhLamThanh)

Để rồi từ đó những người con yêu quý khắp mọi nẻo đường đất nước đã trở thành anh em ruột thịt một nhà. ‘Pông-sô’cùng ngủ, cơm chung nón sắt, nước một bi-đông, miếng khô chia đôi thì việc đùm bọc sống chết với nhau vẫn là một cái gì thiêng liêng của những người khoác chiếc áo trận.

Em còn chia xẻ cùng anh
Nỗi xót xa tự ngọn ngành đau thương
Vẫy tay giã biệt chiến trường
Một ngày cũng đủ cô đơn suốt đời
(Hỏi)

Đối với bạn bè còn sống, Trach Gầm đã giải bày tâm sự về những năm tháng nơi đất khách quê người:

Mầy hỏi tao bây giờ sống ra sao
Cơm áo tha phương có phải nghẹn ngào
Gần mười năm tù còn in trong trí
Hay…cháy rồi giữa đất rộng trời cao…

Tao gởi về mầy một trang giấy trắng
Thật lao đao mầy cứ tự vẽ vời
Nơi tha phương trăm hội đoàn yêu nước
Tao ngu ngơ…không biết khóc hay cười
(Trả lời)

Rồi những đêm mưa vùng Cali, anh trăn trở như hổ nhớ rừng:

Mầy nhìn mưa mầy nhớ gì không hở ?
Tao nhìn mưa tao cứ mãi nhớ rừng
Rừng của quê hương những ngày khói lửa
Tao, bao năm dài cặm cụi hành quân

Mầy nhìn mưa…mầy nhớ gì không nhỉ
Tao nhìn mưa…Tao nhớ quá bạn bè.
(Từ cơn mưa dài)

Và cái ‘đau’ của anh vẫn vây quanh cuộc sống:

Tao bây giờ không tiền mua rượu uống
Mà vẫn say…say ngút với nỗi buồn
Nhìn thiên hạ tranh nhau quyền yêu nước
Mấy chục năm ròng – Nước vẫn tang thương!
(Nói với bạn bè)

Mầy có tin không quê hương đã mất
Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
Đâu thuở quân trường đâu thời huấn nhục
Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay

Một lũ đàn anh tan hàng cuốn gói
Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi
Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ

Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt Mẹ
Cũng chẳng đủ lời tâm sự cùng Cha
Đành đến thăm mày những thằng đã chết
Ngày…quê hương còn lắm nỗi thiết tha
(Lời trước nghĩa trang)

Ít thấy anh đề cập đến tình yêu đôi lứa cũng như những mộng mơ tuổi trẻ, mà nếu có, anh cũng mượn những mối tình vụn vặt để nói về thân phận đau thương đất nước cũng như những mất mát thời chiến tranh:

Anh có mẹ gì đâu mà để tặng
Một món quà sinh nhật cho em
Gặp gỡ thôi…dăm ba lần thất hẹn
Còn nhớ ngày anh còn tỉnh…chưa điên

Là thằng lính cứ rày đây mai đó
Có nhớ thương, cũng đỏ mắt phố phường
Chiếc võng tòn teng ôm đời chinh chiến
Có em vật vờ đở bớt cô đơn
(Quà sinh nhật cho người yêu)

Viết về Trạch Gầm mà không nhắc đến những chữ Đ.M. trong thơ của anh thì thật thiếu sót. Một vài người cho rằng nghe không được êm tai qua hai bài thơ :
Đọc thơ mầy…

Đ. M, tao buồn muốn khóc
Tao chẳng còn là tao, tao chẳng nên người
Mấy chục năm rồi tao lạc lõng chơi vơi
Dù trước đó
Tao có triệu anh em chung màu áo trận
Tàn cuộc chiến…
Hình hài tao nguyên vẹn
Mười năm tù xem tựa giấc chiêm bao
Tao còn tay còn chân. Còn nỗi tự hào
Chỉ tội cái…mang ước mơ lần lựa
Cứ chờ đợi Ai cho tao nhúm lửa
Nơi tha phương tao hốt toàn tro tàn
Tro bụi từ quá khứ vinh quang
Đến nỗi đầu óc tao ung què, tao chẳng hề hay biết

Đọc thơ mầy
Đ. M. tao buồn muốn chết
Nơi quê hương mầy hào khí ngút trời
Nơi tha phương…Tao cũng có lắm người
Yêu nước thật thà, thật thà yêu nước
Rắn không đầu, mạnh thằng nào nấy thét
Ngày cứ tàn, đất nước cứ tan thương
Hai chữ tự do sấp ngửa đoạn trường…
Tao ôm chặt lội qua ngày khốn đốn
Mầy cần súng mà tao không có súng
Nỗi nghẹn ngào nầy mới chết mẹ tao
Cám ơn mầy
…Ừ thì cũng dù sao
Nhờ mầy thét Trăm hồn sông núi thức
(Đến cùng Nguyễn Cung Thương)

Những ai đã sống đời quân ngũ, sống chết với đồng đội thì mới cảm nhận hai chữ Đ.M thoát ra từ miệng của người lính. Đối với người Miền Nam, hai chữ nầy không có nghĩa là một câu chưởi thô tục mà trong thân tình giữa bạn bè thường được xử dụng một cách thân thương. Tôi còn nhớ rõ câu nói của một đệ tử cũng như người bạn, người em theo sát tôi trong các cuộc hành quân. Một đêm trong rừng Quãng Đức, anh vén tấm ‘pông-sô’ chui vào hỏi tôi:

- Đ.M. ông thầy húp canh không ?”
Tôi hỏi lại :
- Đ.M. canh gì đó mầy ?”
- Thì Đ.M ! Canh nước mưa với bột ngọt chớ có gì nữa !”
‘Ca’ (ly bằng nhôm của lính) canh nóng thật ngon, chỉ có nước mưa pha với bột ngọt nhưng tôi thấy ấm bụng và cái mặn mà đang chạy vào tim phổi ruột gan, không biết vì bột ngọt hay chữ Đ.M. thân thương nằm trong chén canh của người lính !

Nhưng một trường hợp khác, Trạch Gầm lại xữ dụng hai chữ Đ.M, để chưởi cha bọn cộng sản. Tôi biết anh không còn ngôn ngữ nào để diễn tả nỗi uất hận trong lòng, dù hai chữ Đ.M. nầy thật đúng nghĩa và hợp thời nhưng vẫn chưa lột hết ý nghĩa để chưởi bọn bán nước cướp của, hại dân hại nước, đem giang sơn bán cho Tàu cộng:

Đ.. má, cho tao chưởi mầy một tiếng
Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
Đảng của mầy, chết mẹ… đảng tào lao

Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
Cầm súng làm gì… chẵng lẽ hiếp dân
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Lại rụng rời … trước tai ách ngoại xâm

Mầy vỗ ngực. Anh hùng đầy trước ngỏ
Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin
Môi liền răng à thì ra vậy đó
Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh

Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
Hà cớ gì…. mầy hèn đến thế sao

Chuyện mầy làm Toàn Dân đau như thiến
Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
Cứ đà nầy… chết tiệt còn sướng hơn

Đàn gảy tai trâu…. xem chừng vô ích
Giờ mầy nghe tao chưởi còn hơn không.
(Cho tao chửi mầy một tiếng)

Tôi tin rằng những độc giả nào đã đọc thơ Trạch Gầm cũng sẽ Yêu Trạch Gầm như tôi vậy.

ĐINH LÂM THANH
Paris

dieuanhl
06-28-2014, 08:27 AM
Cũng là một trong số những người yêu thích thơ của nhà thơ Trạch Gầm ..xin có đôi dòng về tiểu sử của nhà thơ mà tôi ái mộ ..

Nhà thơ Trạch Gầm tên thật là Nguyễn Đức Trạch , sinh năm 1942 tại Saigon ..Là Cựu học sinh Võ Trường Toản..khóa 21 Trường BB TĐ , là con trai thứ ba trong một gia đình có 9 anh chị em , 4 trai 5 gái , trên nhà thơ Trạch Gầm là 2 chị gái , như vậy nhà thơ là con trai trưởng nam trong gia đình có Bác ruột là nhà báo Bút Trà Nguyễn Đức Nhuận , cha là nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy và mẹ là Nữ văn sĩ bút danh là bà Tùng Long ( Lê thị Bạch Vân ) bà từng là giáo sư dạy Pháp Văn , Việt Văn cho các trường Les Lauries , Tân Thạnh , Đạt Đức..em trai kế là nhà văn Nguyễn Đức Lập ( Nam Cali ) , em trai út Nguyễn Đức Thông là nhà văn Nguyễn Đông Thức ( Saigon )..Cho dù chiến tranh phải xếp bút nghiên tòng quân nhập ngũ nhưng dòng máu thơ văn truyền thống gia đình , nhà thơ không ngừng sáng tác những vần thơ hay ..

Ngày 26 tháng 4 năm 2006 , hay tin thân mẫu qua đời mà anh không về được để tiễn đưa người mẹ hiền về cõi thiên thu ! Anh viết bài thơ Lời gởi mẹ :

Bây giờ trong cõi hư vô ấy
Mẹ thảnh thơi rồi… có phải không?
Giã từ đất nước bao hệ lụy
Bỏ nỗi lo toan ngập cả lòng

Rảnh rồi, Mẹ đến thăm đâu nhỉ
Theo gót trăng vàng về phố xưa
Con phố Hội An ngày thơ trẻ
Yên bình, Mẹ nhặt lại ước mơ

Tam Quan dâng mẹ bao niềm nhớ
Rợp bóng dừa xanh ngát cuộc đời
Đường quê tặng mẹ từng hơi thở
Trang sách vỡ lòng… gói niềm vui

Một lũ con thơ … đeo đẳng mẹ
Chợ Gò Mỹ Thịnh giữa đồng chua
Trường Sơn gồng gánh bao cơn bão
Mẹ có sá gì giữa nắng mưa

Phú Nhuận đèn vàng soi trang sách
Nuôi con mẹ bày bán văn chương
Ngày ngày nhìn lũ con khôn lớn
Mẹ đổi nhọc nhằn… lấy tình thương

Vài nơi… ắt mẹ rồi sẽ đến
Cảnh chiến trường xưa quá chạnh lòng
Nơi con cày giữa trời khói lửa
Dấu buồn mẹ khép kín rưng rưng

Một thằng Lôi Hổ, thằng Thám Kích
Mẹ nhẩm thuộc từng mỗi địa danh
Bạn con bao đứa mẹ biết mặt
Gục xuống – tuổi đời xanh quá xanh

Bây giờ trong cõi hư vô ấy
Mẹ thảnh thơi rồi có phải không
Giọt sầu mất nước giờ hóa đá
Mây nước Quê hương cũng lạc dòng

Trạch Gầm

Hoanghac
06-28-2014, 09:08 AM
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1403946220.jpg


Có một người làm thơ đã cảm khái khi đọc xong tập thơ Trạch Gầm Thức dậy đi – cõi mộng ta

Cuộc binh lửa chợt vỡ òa nỗi riêng
Dấu giày trận đã trăm miền
Trăng cổ sử vẫn còn nghiêng tháng ngày
Tưởng thời súng khoác trên vai
Mịt mù khói lửa dặm dài bước chân
Mấy chục năm chuyện phù vân
Giở trang thơ chợt tần ngần nỗi xưa…

Thơ Trạch Gầm. Là quặng nguyên sinh cuộc sống hôi hổi hơi ấm nhân sinh. Thơ tha thiết bởi những nỗi niềm ấp ủ. Dù rằng, cuộc chiến đã qua mấy chục năm, nhưng trong ký ức, vẫn đầy ắp tâm sự. Trong ngôn ngữ, có hào sảng chiến sĩ. Trong vần điệu tràn dâng chất chứa tấm tình. Một người lính, sống lại thời binh lửa mình. Một người bạn, nhớ về đồng đội cũ, người còn kẻ mất, trong thơ đồng vọng nỗi nhớ thương. Thơ Trạch Gầm, thơ của thời chiến tranh đọc trong thời hậu chiến, như dong tay trở về thời đại cũ, năm tháng xưa. Thời gian đã qua, đã coi như mất biệt trong cuộc sống nhưng vẫn còn hiện hữu trong những người cảm khái giữa từng trang thơ. Có chút lành lạnh của đất trời len vào trong vần điệu tưởng tượng đến những ngậm ngùi thiên cổ, những giấc mơ của một thời thanh xuân đã tàn phai. Thơ không nuối tiếc nhưng đầy tràn cơn bão nội tâm dằn vặt.

Là người tù sau ngày bại trận, tuy cam chịu số phận nhưng vẫn ngang tàng không đánh mất tư cách chính mình. Ở Hoàng Liên Sơn, vẫn ngất ngưởng tâm tư , vẫn thơ vút cao lên trên thân phận. Thơ như một xác định chỗ đứng:

Lội suối băng rừng bao ngày mài miệt
Có mỗi quê hương ta đánh mất rồi
Nghe lời nhọc nhằn ta buông tay súng
Đứng giữa quê Cha ta khóc đã đời
Bây giờ nơi đây đất trời mù mịt
Ta tròng vào ta trăm tội vô duyên
Ngươi lải nhải đi- giáo điều mù tịt
Ta vẫn là ta… nỗi nhớ triền miên
Ta “kể” tội ra ta cười muốn chết
Ngươi như thất thần có phải vậy không?
Đúng là ta mà, ta dân Thám Kích
Đã từng rượt ngươi mờ mịt núi sông
Ta chỉ buồn ta , ta là dân Việt
Hoàng Liên Sơn này đáng lẽ của ta
Ngươi nói trăm điều: một điều không biết
Ngươi là thá gì mà… cải tạo Ta?

Những câu thơ, rồi những bài thơ, in đậm nét trong tôi những ấn tượng. Chia sẻ, có. Cảm xúc, có. Tôi hình tượng ra con đường mà thế hệ chúng tôi đã đi. Làm lính, làm người tù binh, làm người lưu lạc tha phương, chúng tôi hình như cùng nhau một mẫu số chung của dân tộc, của đất nước. Có khi chúng tôi mượn thi ca để nói lên nỗi niềm của riêng mình nhưng là đồng vọng của số đông cùng cảnh ngộ. Thơ có khi là một cách thế để sống còn, để qua đi những cơn bão giông thời thế. Tô Thức ngày xưa trong Nam Hành Tiền Tập Tự đã từng ví von rằng ông chỉ viết khi có những điều chất chứa trong tim trong óc nếu không viết ra như một giải tỏa tâm linh thì không thể nào chịu nổi. Không biết tôi có nghĩ quá không khi cũng cho rằng thơ của Trạch Gầm, lời của Trạch Gầm, thậm chí cả đến những tiếng chửi thề bộc trực trong diễn tả, cũng là kết quả của những điều tâm sự chất chứa trong tâm trong óc đến nỗi nếu không làm thơ viết ra thì cũng không thể chịu đựng nổi…

Nguyễn Mạnh Trinh
(http://vietmunich.blogspot.it/)