PDA

View Full Version : Ngày ba mươi ngẫm lại



Longhai
03-31-2014, 12:38 AM
Ngày ba mươi ngẫm lại


Cố Nhân


Ngày 30 tháng 4 năm 1975, bộ đội Bắc Việt chịu để cho Đại Tướng Dương Văn Minh lên đài phát thanh kêu gọi Binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa "Hãy bình tĩnh ngưng nổ súng và đâu ở đó". Như vậy là Thủ đô Sài Gòn đã đầu hàng, làm tiêu tan luôn Việt Nam Cộng Hòa và bêu nhục cả Hoa Thịnh Đốn. Trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ sau đó, Sài Gòn đã bị đổi danh xưng là Thành phố Hồ Chí Minh. Việc Thủ đô đầu hàng và người ta vội vàng cho nó một tên gọi khác, là một chỉ dấu cuối cùng cho thấy sự thất bại của chánh sách Hoa Kỳ ở Đông Nam Á.

Đối với Hoa Kỳ, ngày 30.4.1975 sẽ được ghi nhớ đời đời xuyên qua hình ảnh của hằng hà sa số trực thăng Mỹ, bay bất kể thời điểm, nhưng di tản tốt đẹp, bay bổng an toàn, tương phản với nỗi sợ hãi bám chặt vào hàng hàng lớp lớp người Việt Nam hiền hòa, bị phó mặc cho số phận. Báo chí và truyền thông đưa ra hàng trăm cảnh tượng đau lòng, nào là thuyền con chật ních lính tráng và thân nhân, nào là vô số những con người cố gắng chen chân tìm đường đi vào bên trong vòng thành của Tòa đại sứ Hoa Kỳ, nào là những đứa trẻ thơ được trao qua đầu rào kẽm gai, phó thác cho những bàn tay đón nhận xa lạ, với hy vọng của người ở lại để cho hậu duệ của mình được đi vào một tương lai bất định.

Sài Gòn rã ngũ, tan hàng với một tốc độ sửng sờ ! Sau mấy mươi năm chiến đấu chống lại lực lượng Cộng sản, Quân đội Nam Việt Nam đã tan rã, trong vòng chỉ mấy tuần lễ, do thao tác của Bộ đội từ miền Bắc, một khối người ồ ạt, không làm sao hãm lại được và càng không thể chận đứng.

Trong gần ba mươi năm chiến tranh, Hà Nội đã đánh bại được Pháp và Nam Việt Nam trên chiến trường và "hất cẳng" Mỹ qua bàn hội đàm. Chế độ Cộng sản tỏ ra điêu luyện trong việc khai thác và lèo lái dư luận Mỹ. Thí dụ như Hà Nội đã biến đổi được sự thảm bại của họ trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 thành một thắng lợi đầy tính tuyên truyền kỳ lạ, một thắng lợi chung cuộc "bứng" Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến đó.

Hơn nữa, qua trận Mậu Thân, quân Bắc Việt thiệt mất khoảng năm mươi ngàn và trong chiến dịch "Mùa Hè Đỏ Lửa" năm 1972, họ cũng đã "nướng" hết ngần ấy quân, với tham vọng lật đổ miền Nam. Vậy là, lực lượng Võ trang Nhân dân Bắc Việt cần phải có thời gian để dưỡng quân và bổ sung.

Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của Nam Việt Nam, lợi dụng thời gian Hà Nội chỉnh đốn đội ngũ và trang bị trở lại, nới rộng quyền kiểm soát đất đai, nếu tình hình cho phép. Kết quả là Quân lực Nam Việt Nam phải dàn mỏng ra trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, vì vậy cho nên, vào cuối năm 1974, đã tạo kẽ hở cho địch tấn công. Tình hình đó lại trở nên tồi tệ hơn nữa với việc Hoa Kỳ giảm bớt viện trợ, cùng với một tình trạng lạm phát gia tăng trầm trọng và, như là một hệ lụy, với tệ nạn tham ô nhũng lạm trắng trợn.

Hiệp định "Chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình Paris" ký kết năm 1973 đưa đến việc Mỹ rút quân gần hết vào đầu năm 1973. Mùa Thu năm 1974, tập đoàn lãnh đạo Hà Nội quyết định một chương trình hai năm nhằm xâm chiếm miền Nam và thống nhứt đất nước, dưới quyền cai trị của Cộng sản. Dưới tên gọi "Tổng công kích, Tổng khởi nghĩa", chương trình này hoạch định một lô tấn công Quân sự quan trọng trong năm 1975 để kích thích nhơn dân Nam Việt Nam nổi dậy và tạo nên một chiến thắng dứt khoát vào năm 1976.

Bắc Việt theo dõi rất sát những xáo trộn trên chính trường Hoa Kỳ, từ khi ông Nixon từ chức hồi tháng Tám năm 1974, nên muốn thừa cơ hội thử lửa một phen. Tháng Giêng 1975, họ tiến chiếm tỉnh Phước Long, nằm sát Biên giới Cam Bốt. Các đơn vị Chánh quy Bắc Việt, với sự hợp đồng của du kích địa phương, đã đánh bật lực lượng trú phòng trong vòng ba tuần lễ. Trên 3.000 Quân sĩ Nam Việt Nam bị hy sinh và bị bắt. Chiến cụ và Quân dụng đáng giá bạc triệu bị mất vào tay đối phương. Dẫu cho Phước Long không có một tầm quan trọng nào đặc biệt về Quân sự hay Kinh tế, nhưng đó là tỉnh đầu tiên mà Bắc Việt chiếm được kể từ năm 1972, một Tỉnh chỉ cách Thủ đô Sài Gòn có 80 dặm.

Biến cố, dứt khoát có vẻ cốt tử đó, rất ít được truyền thông Mỹ nói tới. Hoa Thịnh Đốn có cam kết là sẽ "Phản ứng lại bằng lực lượng Quân sự mạnh mẽ" để đánh trả bất kỳ sự vi phạm nào của Bắc Việt đối với hiệp định 1973. Vậy mà, cuối cùng Hoa Kỳ chẳng nhúc nhích gì hết. Thế là Hà Nội cứ yên chí làm tới.

Khá quái gở là ông Thiệu chẳng có chút gì nản lòng. Vì ông ấy tiếp tục tin tưởng ở những lời hứa của Nixon, dẫu cho Nixon đã bị bắt buộc phải từ chức vì vụ tai tiếng Watergate. Và có thể ông ấy cứ tiếp tục tin tưởng vào những lời hứa đó, gần như đến lúc cuối cùng, nên cứ thắc mắc là "Chừng nào B-52 mới trở lại đây ?"

Đến tháng 3 năm 1975, Hà Nội lại tấn công nghiêm trọng hơn. Trong hai năm đã qua, bộ đội Bắc Việt đã trì chí đưa vào miền Nam nhiều trọng pháo, hỏa tiễn đất đối không và tăng Liên Xô không kể xiết, cùng với 100.000 Bộ đội còn sung sức. Hiệp định Paris có đồng ý cho trên 80.000 quân Chánh quy Bắc Việt ở lại miền Nam, nay như vậy thì con số đó đã tăng lên 200.000.

Lúc bấy giờ, Quân số của Cộng sản ở trong Nam - quân chánh quy và quân du kích - gần cả triệu người, dẫu cho đã bị thiệt hại nhiều trong thập niên vừa qua. Những đơn vị Bộ binh do Võ Nguyên Giáp thành lập chủ yếu là nặng về trang bị võ khí cá nhân, nhẹ về tiếp vận hoặc yểm trợ cho cá nhân. Trái lại, Quân đội Nam Việt Nam được rập theo mô hình Quân đội Mỹ. Quân số Nam Việt Nam gồm có khoảng 750.000 người, trong đó chỉ có 150.000 là lính chiến đấu. Họ được trang bị đầy đủ, nhưng yểm trợ kém, mặc dầu đàng sau họ là cả một bộ máy tiếp vận khổng lồ.

Năm 1973, tướng Giáp mắc phải chứng bịnh nhiễm bạch huyết cầu nên phải tạm thời trao quyền chỉ huy cho Văn Tiến Dũng, một Tướng bốn sao khác của Bắc Việt. Dũng đã âm thầm và len lỏi đưa lực lượng chiến đấu vào Nam để thiết lập Tổng hành dinh ở Lộc Ninh, cách Sài Gòn khoảng 75 dặm về hướng Bắc. Công cuộc chuẩn bị khá công phu, có cả việc thiết lập đường ống dẫn dầu và một mạng lưới điện thoại không phương tiện điện tử nào xâm nhập được. Dũng đưa ra chiến thuật cốt sao ít bị tổn thất bởi hỏa lực ồ ạt mà quân đội Nam Việt Nam đã quen sử dụng, theo đường lối cố vấn của Mỹ. Rủi thay cho Quân đội Nam Việt Nam là tiếp tế đạn dược cho họ không đạt yêu cầu vì lúc nào cũng tiêu thụ quá mức, trong khi chi viện của Mỹ lại bị giảm bớt.

Tướng Dũng đi đến Lộc Ninh qua đường mòn Hồ Chí Minh, lúc bấy giờ tuy tên gọi là đường mòn nhưng đã được mở rộng ra hai tuyến, có trải đá, với những nhánh đường đi đến cách Sài Gòn lối 30 dặm. Mục tiêu ban đầu của Dũng là Ban Mê Thuột, một Thành phố của Cao Nguyên miền Trung và Tỉnh lỵ của Darlac. Thành phố này là điểm mấu chốt trong hệ thống phòng ngự của Quân đội Nam Việt Nam. Nếu chiếm được Ban Mê Thuột thì Cộng quân có thể lấy đó làm điểm xuất phát để cắt Nam Việt Nam ra làm đôi.

Dùng kế nghi binh, quân Cộng sản tiến đánh sơ sài hai tỉnh cực Bắc của Nam Việt Nam. Dẫu là hai tỉnh nhỏ thôi nhưng cũng làm cho dân chúng phải xao xuyến tinh thần, nên gần 50.000 dân chạy giặc phải di tản, làm xôn xao cả xóm làng, ảnh hưởng dây chuyền tác động đến những trận đánh kế tiếp.

Quân miền Bắc cắt đứt giao thông trên những mạch đường dẫn vào Thị xã nên đã cô lập được Ban Mê Thuột. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, ba Sư đoàn Chánh quy Bắc Việt, có tăng yểm trợ, đánh úp Ban Mê Thuột, dưới sự bảo vệ của hai Trung đoàn tăng cường của Sư Đoàn 23. Dầu cho tương quan lực lượng không đồng đều nhưng quân phòng ngự cũng đánh trả hăng hái, nhưng rốt cuộc quân của Dũng cũng chiếm được Tỉnh lỵ ngày 12.3.1975. Chính Ban Mê Thuột là đầu mối của hiện tượng chẳng lành, càng ngày càng hủy hoại tinh thần của Nam Việt Nam. Nhiều Sĩ quan Quân đội lấy trực thăng chở thân nhân họ hàng bỏ chạy xuống phía Nam. Cuối cùng, Tướng Phú cũng bỏ chạy.

Những đoàn người bắt đầu bỏ nhà cửa vườn tược chạy trốn, đông nghẹt đường lớn và ngõ ngách, ồ ạt kéo nhau dồn ra biển, làm nghẽn cả bến tàu, tìm phương tiện xuôi Nam. Không phải chỉ những người có dây mơ rễ má với Hoa Kỳ hay với Quân đội Nam Việt Nam mới bỏ chạy mà đám đông quần chúng, không có lý do gì để sợ Bộ đội Bắc Việt trả thù, cũng chạy đi. Có lẽ họ bị ám ảnh bởi chuyện Di cư hồi 1954. Nên chi họ cứ bỏ của chạy lấy người vì hoảng sợ Cộng sản.

Đoàn người chạy giặc còn có một đặc tính khác đem lại hậu quả tai hại cho tinh thần kháng cự của Nam Việt Nam. Quân sĩ Nam Việt Nam, trong giờ phút đó, chiến đấu mà lòng không yên nên khi rời bỏ chiến tuyến còn phải đi tìm vợ con thân quyến để đưa đến chỗ an toàn. Đó cũng là phản xạ tự nhiên của con người trước hiểm nguy của chiến tranh, nhưng buồn thay tình huống đó lại làm tan rả nhanh chóng khả năng chống trả của miền Nam.

Tổng Thống Thiệu thì nghĩ rằng mục tiêu tấn công của Dũng có lẽ là Pleiku. Ông hoảng sợ khi được tin Ban Mê Thuột thất thủ nên ngày 14.3.75, đã kín đáo ra lệnh rút lực lượng Nam Việt Nam ra khỏi vùng Cao Nguyên. Thật là một sự sai lầm tai hại lạ thường vì chẳng có kế hoạch triệt thoái gì hết và lệnh rút bỏ đã khiến cho quân lính phải trà trộn vào làn sóng người tỵ nạn, miên man trong dòng chảy khốn khổ đầy đau thương và nước mắt.

Đoàn người chạy giặc này không giống với những toán người di tản hồi Thế Chiến II. Những người bỏ trốn Cộng sản ở Việt Nam vận dụng đủ mọi thứ phương tiện chuyên chở, nào là xe đò, xe tăng, xe tải, Thiết vận xa, xe tư nhân, đủ hết. Bất cứ phương tiện gì chạy bằng bánh xe là cứ nối nhau kế tiếp, đầu liền đuôi, dọc trên Đường 7B. Xe cộ đầy ắp lính tráng còn chất thêm người trong gia đình, từ bé thơ nằm ngữa trên tay chí đến ông già bà cả trong nhà, kẻ ngồi trên mui, người đeo bên hông xe, trông giống như xe đò chở khách quá tải. Nhiều người trật tay té xuống đường là bị xe đàng sau cán nát thây.

Hàng ngàn người khác, không có phương tiện cơ giới phải chạy giặc bằng đôi chân, mang theo đồ tế nhuyễn của riêng tư, thật thảm thương. Qua mười lăm hôm, ngày nắng, đêm lạnh, không có thức ăn, chẳng một giọt nước uống. Đường sá rơi rải đầy người bị bỏ lại, trẻ con, người già yếu, kẻ thương tật ốm đau... "Bộ đội Bác Hồ" của Sư Đoàn 320 nã súng và bắn đạn Pháo binh vào đám đông tỵ nạn đang tìm đường chạy ra biển, làm bia cho đạn thù, giết chết dân thường trăm này qua ngàn khác. Pháo cộng sản nã đạn vào xe và người chạy nạn gần như trực xạ, làm tung toé xác chết, thây ma lên các cành cây bên đường và máu người tưới đỏ đất !

Đây là một cách tàn sát dã man lạ kỳ. Không phải như ở Kosovo - với một niềm hận thù Dân tộc lâu đời đưa đến một vụ gọi là thanh lọc chủng tộc, hạ sát cũng mấy ngàn người - vụ tàn sát này của Cộng sản Việt Nam là giữa những con người cùng máu mủ, cùng một màu da với nhau. Tính ra cũng phải khoảng 40.000 người nằm xuống, chết đi tức tưởi trên đường chạy trốn lửa đạn. Tình huống càng tồi tệ hơn, khi quân lính Nam Việt Nam tức giận. Cảnh tượng đau lòng càng xót xa hơn nữa, khi đoàn người di tản kia đến được bến tàu rồi, người ngợm rã rời, chết được còn sướng hơn, thì những người đồng bào ruột thịt, không còn biết "Bầu ơi thương lấy bí cùng", nặng tay "chém đẹp" khi bán món ăn, thức uống.

Trước tình hình đó, tướng Dũng đốt giai đoạn, thừa thắng xông lên, đưa quân lên mạn Bắc, đánh chiếm Pleiku và Kontum ngày 18 tháng 3. Thế là Quân đội Việt Nam Cộng Hòa rã tan như băng giá gặp nắng, rút lui nhanh hơn Bộ đội miền Bắc chiến thắng đuổi theo. Như chừng bỏ ngõ để mời địch tiến vào.

Cuộc đầu hàng chiến lược hối hả và thiếu suy nghĩ của ông Thiệu ở Cao Nguyên đã làm cho Nam Việt Nam mất đi sáu Tỉnh và cả một Sư đoàn quân chánh quy. Hàng tỷ đô la Quân và Chiến cụ bỏ lại cho địch quân.

Thế rồi, những nhà lãnh đạo Nam Việt Nam bèn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", ông ứng bà hành đưa ra chánh sách phòng ngự da beo. Mấy quan "Đỉnh cao trí tuệ" cho lệnh tập trung nỗ lực cố thủ vài ba Thị trấn Duyên hải, như Đà Nẵng, Huế cũng như Sài Gòn và Châu thổ sông Mê Kông. Ông Thiệu, nổi tiếng là nhà chính trị lỗi lạc cừ khôi mà lại có một suy nghĩ gần như trẻ con. Ông đinh ninh rằng cầm cự được ở những điểm chiến lược đó có thể tạo điều kiện cho Hoa Kỳ có thời gian mà huy động lực lượng Quân sự để rồi một lần nữa bắt buộc Bắc Việt phải thương thảo.

Cuộc tấn công tỉnh Quảng Trị hồi cuối tháng Ba 1972 của lực lượng Quân sự Bắc Việt đã tạo ra một lượng người lánh nạn đáng kể. Ở Thị xã Huế, thiên hạ càng thêm kinh hoàng. Thành phố này đã phải chịu đựng tổn thất nặng nề từ cuộc tấn công Mậu Thân 1968, trong 25 ngày chiếm đóng của Cộng quân. Qua trận "Mùa Hè Đỏ Lửa", Thành phố này lại phải hy sinh thêm 20.000 thường dân nữa. Một phen nữa, lính tráng và dân chúng lại nhập vào nhau thành một đoàn người chạy nạn đao binh dồn xuống Đà Nẵng. Ngày 23.3, tin đồn cộng với binh lính bỏ ngũ, lại thêm Việt Cộng tuyên truyền kích động làm cho việc phòng ngự Huế trở thành bất lực. Cố đô đành rơi rụng vào ngày 24.3.

Trong khi Cộng quân nã pháo vào Huế và những nẻo đường ra vào cố đô thì những lực lượng khác bao vây Đà Nẵng, đã có hàng triệu người tỵ nạn dồn về, khiến cho những xác người bị đạn pháo, bị xe đụng và bị đám đông chen lấn chèn ép phải nằm lại đầy đường phố. Hàng ngàn người tìm cách vượt thoát bằng đường biển, chạy trốn bằng bất cứ phương tiện nào nổi trên mặt nước và vì vậy nên cũng có vô số người chết chìm.

Từ Đà Nẵng, người ta bắt đầu mở cầu Không vận, cho thấy trước rằng rồi đây Sài Gòn sẽ có xáo trộn và những trường hợp khủng khiếp. Edward J. Daly, Chủ tịch hãng Hàng không "World Airways", bất chấp lệnh lạc của Đại sứ Hoa Kỳ, Graham A. Martin, đưa 2 chiếc Boeing 727 ra Đà Nẵng và đích thân bay trên chiếc thứ nhất. Sau khi hạ cánh, phi cơ của ông đã bị đám đông hàng ngàn người đổ tới chực leo lên. Cuối cùng máy bay cũng phải dồn đống với 270 người. Có một nhóm quân nhân súng ống hẳn hòi cũng leo lên, chớ chẳng phải chỉ là dân thường mà ông dự tính di tản. Chiếc 727 cất cánh giữa tiếng súng bắn theo và một quả lựu đạn đã nổ tung, làm hỏng một bộ phận nhỏ của cánh bay. Trên tuyến cất cánh, phi cơ chạm phải hàng rào và một chiếc xe ô tô, sau đó cũng cố gắng lảo đảo bay lên. Người ta liều mạng chui chật trong ổ dành cho bánh máy bay nên đã có một người bị đè bẹp chết tươi khi bánh xe rút vào.

May mắn thay, chiếc 727 bị thương tích và bánh đáp không rút vào được cũng về tới Tân Sơn Nhứt và cố gắng hạ cánh an toàn. Hình ảnh ghê rợn của bàn chân người chết còn lủng lẳng ở cửa ổ bánh đáp đã nói lên nỗi đau thương của chuyến bay. Mỉa mai thay, cái chết của một người đã cứu sống được bốn người khác, cũng nằm trong ổ bánh đáp đó nhưng còn sống sót vì cái xác chết kia đã ngăn cản không cho bánh đáp xếp vào trọn vẹn, nên phi cơ cứ cẳng chân lòng thòng mà bay từ Đà Nẳng đến Tân Sơn Nhứt. Về sau, khi những chi tiết về chuyến bay quá tải và bị hư hỏng mà vẫn cất cánh được gởi về hãng làm máy bay Boeing để nghiên cứu thì kết quả cho biết là lẽ ra phi cơ không làm sao bay được. Thế nhưng, đôi lúc tình hình cứu nguy khẩn cấp cũng vượt khỏi lý lẽ của điều kiện an toàn.

Điều bất hạnh qua di tản đường biển ở Huế lại tái diễn ở Đà Nẵng, nhưng trên một quy mô rộng lớn hơn, vì thiên hạ dẫm nhau đến chết để tranh giành lên tàu lớn hơn. Trên hai triệu người đã dồn đống ở Đà Nẵng, nhưng chỉ có 50.000 người chạy thoát được bằng đường biển. Từ giai đoạn này, một tình hình quen thuộc lại diễn ra là kỷ luật trật tự không còn nữa và bắt đầu cướp bóc lan tràn. Không còn đánh trả trong trật tự nữa vậy là dân thường chạy giặc phải ở giữa đường tên mũi đạn chồng chéo nhau của Quân đội hai bên Nam Bắc.

Bộ đội Cộng sản tiến vào Đà Nẵng ngày 29.3, Qui Nhơn thất thủ ngày 31 và Nha Trang lọt vào vòng tay của địch ngày 3.4. Trận đánh ở Nha Trang chỉ kéo dài có ba tiếng đồng hồ. Tài nguyên phong phú của Vịnh Cam Ranh rơi vào tay Cộng sản cùng ngày, sau không đầy 30 phút chạm súng. Những Thành phố Duyên hải khác rồi ra cũng chạy theo cung cách thay ngôi đổi chủ như vậy thôi. Phi trường Phù Cát mất đi, để lại cho Cộng sản trên sáu mươi phi cơ trong tình trạng còn khả dụng.

Trong cơn hỗn loạn đó, miền Nam đã mất đi hàng tỷ Mỹ kim chiến cụ. Trong thời chiến tranh Việt Nam, ai có đến hoặc rời Đà Nẵng hay Cam Ranh bằng máy bay có lẽ nhớ được hàng ngàn mẫu chất chứa vật dụng tiếp liệu được sắp xếp cùng khắp trên sân bay. Kho tiếp liệu khổng lồ đó đã rơi vào tay Cộng sản.

Ngỡ ngàng trước đà chiến thắng quá nhanh chóng như vậy, Hà Nội cũng bắt đầu "tự biên, tự diễn", không còn theo được tuồng lớp đã vạch sẵn. Họ quyết tâm đánh chiếm miền Nam, thế nào cho kịp để dâng lên Bác của họ làm quà sinh nhựt ngày 19 tháng Năm. Tướng Dũng gọi hành động quân sự đó là "Chiến dịch Hồ Chí Minh" và công bố cho toàn quân của chiến dịch khẩu hiệu mới : "Thần tốc, táo bạo và gan dạ hơn nữa".

Như muốn đáp ứng được yêu cầu đó, đầu tháng Tư, lực lượng Bắc Việt đã kiểm soát được mấy tuyến giao thông quanh Sài Gòn và bắt đầu pháo vào căn cứ Biên Hòa. Một trận đánh bắt đầu ngày 9 tháng Tư ở Xuân Lộc, trên Quốc lộ 1, chỉ cách Sài Gòn có 37 dặm về hướng Đông Bắc.

Lực lượng Nam Việt Nam chiến đấu rất hay trong vòng mười lăm ngày ác liệt. Tiêu biểu nhất là Sư Đoàn 18, một đơn vị trước kia thường mang tiếng chẳng mấy tốt đẹp. Trong cuộc chiến đấu đó, dù tỷ lệ tổn thất lên đến 30%, Sư Đoàn 18 vẫn tiếp tục đánh trả Cộng quân. Dẫu cho không có quân tăng viện và phải đối đầu với Quân đoàn 4 của Bắc Việt. Trong trận đánh đó, lực lượng Không Quân còn lại của Nam Việt Nam tiến hành trận đánh cuối cùng đầy hiệu quả của họ, với loại bom chùm đặc biệt, 15.000 cân Anh và miễng bom bay sát ngọn cỏ, và cả loại bom hơi ngộp CBU-55B.

Ở nơi khác trong vùng, ngày 12 tháng Tư, Hoa Kỳ di tản 276 người Mỹ ra khỏi Nam Vang, thủ đô Cam Bốt, trong chiến dịch mang tên "Eagle Pull" (Đại bàng bay đi). Hành động đó cho Hà Nội hiểu rằng đừng lo sợ Mỹ can thiệp ở Nam Việt Nam. Điều không ai hiểu nổi là trong chín ngày vừa qua, ông Thiệu cứ bám chặt niềm hy vọng là Mỹ sẽ can thiệp. Thế rồi, ngày 21.4.75, ông lên đài Truyền hình Quốc gia tuyên bố từ chức, trao quyền hành lại cho ông Trần Văn Hương, già nua và yếu đuối.

Xuân Lộc chịu thua ngày 23.4.1975, vậy là chỉ còn chút ít phương tiện để ngăn chận hoặc để trì hoãn đà tiến của Cộng sản hướng vào Sài Gòn. Cũng ngày hôm đó, qua bài diễn văn đọc ở trường Ddại học Tulane (Tiểu bang Louisiana), Tổng Thống Gerald Ford tuyên bố rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam "Đã hết rồi, đối với Hoa Kỳ". Lời tuyên bố của Tổng thống được cử tọa đứng lên vỗ tay tán thưởng.

Ông Trần Văn Hương, Tổng thống vừa được trao quyền, lại chuyển trách nhiệm cho Đại Tướng Dương Văn Minh. Cấp lãnh đạo Nam Việt Nam dường như chẳng còn chọn lựa nào khác nên đi đến một kết luận lạ đời, cho rằng Cộng sản có thể thương thuyết với Dương Văn Minh. Một kết luận xa rời thực tế và lúc bấy giờ quân Chánh quy Bắc Việt và Chiến xa của họ đã bao vây Thủ đô Sài Gòn, một Thành phố lại đâm ra sợ hãi hoang mang.

Xưa kia được tiếng là "Hòn ngọc Viễn Đông", Thành phố Thủ đô này của Nam Việt Nam đã mất đi phần nào vẻ hào nhoáng của thời thực dân Pháp, sau những năm dài chinh chiến. Dân chúng không mấy tin tưởng ở Chánh phủ. Mặc dầu có một số viên chức làm việc đứng đắn, nhưng cũng có khá nhiều nhơn vật cao cấp không những tham ô nhũng lạm mà còn bất tài nữa. Không phải là một Chánh phủ có khả năng gây niềm hứng khởi để người ta chiến đấu đến cùng, nhưng lại là một Chánh phủ mà Hoa Kỳ phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng. Đồng thời cũng là một chánh phủ mà đại sứ quán Hoa Kỳ phải bắt buộc họ làm việc, càng lâu càng tốt để di tản tối đa người Mỹ và người Nam Việt Nam trung thành.

Ông Đại Sứ Martin đã cố gắng hỗ trợ ông Thiệu, tìm cách xin thêm quân viện và giúp đỡ tài chánh. Ông đại sứ tận tình cố gắng, nhưng hành động như vậy, ông đã làm cho kế hoạch di tản người Mỹ và những người Nam Việt Nam có liên hệ Chính quyền Sài Gòn bị chậm đi, đến nỗi không còn kịp nữa.

Cũng may là đã di tản được hai chuyến và việc di tản chuyến thứ ba bắt đầu giao cho những nhà chuyên môn phụ trách. Chuyến đầu trong đợt này, dưới tên gọi "Operation Babylift" (Chiến dịch chuyên chở trẻ em), kéo dài từ 4 đến 14 tháng Tư và đã đưa được 2.600 trẻ em Việt Nam sang Hoa Kỳ để làm con nuôi. Chiến dịch này, ngay chuyến bay đầu tiên ngày 4.4.75 đã bị tai nạn thảm thương.

Chiếc máy bay vận tải C-5A cất cánh xong và leo lên cao 23.000 bộ thì có một tiếng nổ do giảm áp suất, làm bay mất một mảng lớn cửa phía sau, cắt đứt những sợi dây cáp của bộ phận nâng và điều khiển đuôi. Người phi công phải vận dụng phương tiện thay thế để lèo lái phi cơ. Ông cho máy bay quày trở lại phi đạo Tân Sơn Nhứt và cho hạ cánh bắt buộc. Máy bay chở 382 người, 206 người bị mất mạng, hầu hết là trẻ con.

Tất cả những chuyến bay kế tiếp đều an toàn. Chiến dịch "Babylift" về sau bị phê phán vì đã công khai hóa để lấy tiếng và vì chọn lựa trẻ em theo những tiêu chuẩn lệch lạc. Cuối cùng, chiến dịch đó cũng được coi như một nỗ lực đầy thiện chí của Hoa Kỳ muốn làm việc thiện trong hoàn cảnh khó khăn.

Chuyến di tản thứ nhì được tiến hành âm thầm trong nhiều ngày, nhờ có những phương tiện Không vận Dân sự và Quân sự và hầu như bằng đường thủy. Khoảng 57.700 người được di tản bằng phi cơ thường, và 73.000 bằng tàu biển. Khoảng 5.000 người Mỹ được đưa ra khỏi Việt Nam, cùng với nhiều người nước ngoài. Người Việt Nam được di tản phần lớn là những thành phần mà liên hệ của họ với Chính phủ hoặc với Hoa Kỳ có thể làm cho họ gặp nguy cơ với Cộng sản.

Có nhiều trường hợp cho thấy lòng can đảm cá nhân, như Francis Terry McNamara, Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Cần Thơ. Bất chấp nguy hiểm cho bản thân, ông trưng dụng một chiếc tàu đổ bộ đưa hàng trăm người Việt Nam đến nơi an toàn trên sông Hậu Giang, bất chấp mưa to gió lớn, bất kể Hải Quân Nam Việt Nam hay Bắc Việt gì hết.

Đại Sứ Martin có lẽ đã quá bận rộn nên quên mình và quên cả lợi ích của nhân viên mình. Ông không chịu cho di tản trước mà đợi đến ngày 29.4.75. Tân Sơn Nhứt đã bị phi tuần A-37 do tên phi công phản bội, Nguyễn Thành Trung, hướng dẫn bắn phá. Trước đó, Trung đã lái chiếc F-5 ném bom xuống Dinh Độc Lập. Thế rồi, hỏa tiễn và đạn pháo 130 ly của Bắc Việt đua nhau bắn phá đường bay Tân Sơn Nhứt. Trong khi hỏa tiễn đất đối không SA-7 hoạt động ráo riết ở vòng ngoài.

Cuối cùng, sau khi đã đích thân quan sát, ông Đại Sứ mới chịu nhìn nhận rằng Tân Sơn Nhứt không còn khả dụng cho phi cơ thông thường nữa. Ông đành lòng cho phát động chiến dịch "Frequent Wind" (Từng cơn gió). Chiến dịch này để di tản người từ Sài Gòn bằng trực thăng xuất phát từ Defense Attaché Office - DAO (Cơ quan trợ lực quân sự) ở Tân Sơn Nhứt và từ khu Sứ quán. Khoảng 6.236 người được bốc đưa đi đến nơi an toàn, dù cho bị Cộng sản bắn quấy rối khá nhiều. Thế nhưng, có dư luận cho rằng khu vực DAO và cuộc di tản ở đó dường như được Cộng sản cố tình để yên.

Ở tòa Đại sứ, trực thăng to lớn sử dụng bãi đáp nằm bên trong vòng rào, trong khi trực thăng nhỏ bốc người từ sân thượng. Dầu cho ít thời gian và bãi đáp không thích hợp, nhưng những phi hành đoàn thi hành công tác vô cùng chính xác và tốt đẹp.

Hai ngày 29 và 30.4.75, đã có 662 chuyến bay không vận của Quân đội Hoa Kỳ đã được thực hiện giữa Sài Gòn và những Chiến hạm lảng vảng ngoài khơi, cách đó 80 hải lý. Mười chiếc HHCH-53 của Không Quân đã bay 82 phi vụ, trong khi 61 chiếc CH-46 và CH-53 của Thủy Quân Lục Chiến bay 556 phi xuất. Cầu không vận đó đã được 325 phi xuất của máy bay Thủy Quân Lục Chiến, Hải Quân và Không Quân Huê Kỳ yểm trợ.

"Air America", một đội máy bay của CIA cũng góp phần vào và đã bay 1.000 phi xuất trong tháng trước. Phi công của "Air America" đã tận tình một cách đặc biệt, với sự hy sinh quên mình mà những người gọi là "Lính đánh thuê" không bao giờ có được.

Tất cả chấm dứt vào ngày 30 tháng 4. Hồi 04g58 sáng, một chiếc trực thăng CH-46, với danh hiệu "Lady Ace 09", đưa ông Đại Sứ Martin từ sân thượng của sứ quán bay ra hạm đội. Lúc 07g53 sáng, chiếc trực thăng cuối cùng cất cánh, chở nhân viên Thủy Quân Lục Chiến bảo vệ Sứ quán. Chiếc trực thăng này bỏ lại nhiều người Việt Nam (từ 250 đến 400 người) đã được hứa là sẽ đưa đi. Họ chỉ bị bỏ rơi một cách thô bạo thế thôi. Đó là trường hợp cuối cùng trong một loạt những trường hợp phản bội của Huê Kỳ ở Việt Nam.

Còn có nhiều trường hợp di tản khác nữa, di tản không chuẩn bị và hoàn toàn hỗn loạn. Chiếc trực thăng Việt Nam nào cũng đầy cứng người và trông như đàn ong bay ra những chiếc tàu của Hạm Đội 7 đang chờ đợi ngoài khơi. Những chiếc trực thăng đó được phép đáp xuống, những người có súng bị tước lột và đưa đi nơi khác. Rồi những chiếc trực thăng bị ném xuống biển, nhường chỗ cho chiếc đến sau. Ít ra có 45 chiếc bị vứt đi như vậy, nhiều chiếc khác được cất đi để sử dụng sau này.

Những loại máy bay khác của Nam Việt Nam chạy sang Thái Lan, đáp loạn xị trên đủ loại sân bay. Người Mỹ ở những nơi đó lúc bấy giờ nay còn nhớ ra rằng họ đã thấy hàng đoàn phi cơ đủ loại đáp xuống, chiếc nào cũng đầy ắp người.

Ở Hoa Thạnh Đốn, người ta vội vàng thành lập những nhóm công tác đặc biệt. Những người có thẩm quyền ở Hoa Thịnh Đốn nhanh chóng lập nên những trung tâm phụ trách người tỵ nạn ở Trại binh Chaffee (Tiểu bang Arkansas), Trại binh Indiantown Gap (Tiểu bang Pensilvania) và căn cứ Không Quân Englin (Tiểu bang Florida). Trong vòng mấy ngày sau khi Sài Gòn thất thủ, người ta đã đưa đến Hoa Kỳ 675.000 người tỵ nạn.

Ngày 30 tháng 4, một chiếc xe tăng mang số 843 sơn màu trắng to lớn tông sập cổng dinh Tổng thống Nam Việt Nam. Ông Tổng thống cuối cùng của Nam Việt Nam, Đại tướng Dương Văn Minh, cho Cộng sản biết rằng ông chờ đợi để đầu hàng. Nhưng những người Cộng sản nói là ông có còn nắm giữ được gì nữa đâu mà đầu hàng bàn giao.

Thế nhưng, đến 15g30, những người Bắc Việt chiến thắng hơi lắng dịu xuống chút ít. Suy đi, nghĩ lại, họ chịu để cho nhà lãnh đạo hành pháp cuối cùng của Nam Việt Nam lên đài Truyền thanh phát đi lời phát biểu đau đớn, chỉ có hai câu ngắn gọn để ra lệnh đầu hàng. Như vậy là một hoàn cảnh đen tối khác lại bao trùm xuống Nhân dân, đã một thời mang tên gọi Nam Việt Nam.



Cố Nhân