loibangTQLC
03-24-2009, 08:44 PM
VỠ MẢNH TINH CẦU…
(Gọi là để tưởng nhớ những vì sao Không Quân)
Đào Vũ Anh Hùng
Đó là buổi sáng trời rất đẹp của ngày 26-2, năm 1962.
Tôi đạp xe từ Phú Nhuận lên nhà sách Khai Trí tìm mua vài quyển Toán, chạy ngang dinh Độc Lập. Khi vừa qua khỏi ngã tư Hồng Thập Tự – Công Lý, bỗng giật bắn mình, nghe phủ ào qua đầu một tiếng gầm xé thinh không cực lớn và thật gần, ngay trên những ngọn cây sao cao vút bên vệ đường. Tôi thật không biết chuyện gì xảy ra, kinh hoảng đâm xe lủi vào lề, nhảy xuống. Tôi đứng dưới một gốc sao nhìn lên trời, nơi vừa giáng xuống tiếng gầm như trời xập và tim đập loạn.
Loáng thoáng qua vòm cây, tôi thấy một chiếc máy bay khu trục xé gió bay rất thấp phía sông Saigon hướng về dinh Độc Lập. Nó vút lên cao, nghiêng đôi cánh sắt, lượn gắt một vòng nữa rồi quay lại… Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, hết hồn quẳng vội chiếc xe, ngồi bệt xuống đất, nép vào gốc cây nhìn lên cái bụng sơn trắng của chiếc phi cơ với những trái bom thon dài sáng bạc được nhả ra, loang loáng lướt qua vòm cây, rơi xéo xuống cánh trái dinh ông Diệm. Rồi tiếng nổ, khói bụi bốc lên. Súng phòng không từ trong dinh và từ phía bến Bạch Đằng ròn rã nổ lụp bụp trên trời từng cụm khói đuổi theo con chim sắt. Tôi thấy thêm một chiếc khác bay cao và bay xa hơn, phía bến Bạch Đằng, cũng đang bị săn đuổi, chao liệng như chim hâu len lách giữa những cụm khói nở hoa đen trên nền trời xanh ngọc bích.
Buổi sáng lịch sử, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh kích dinh Độc Lập tôi tình cờ chứng kiến từ phút giây đầu. Trước đó, năm 60, cũng chính ngay cổng dinh Độc Lập, tôi đã chứng kiến cuộc nổi dậy ngắn ngủi của quân Dù do các trung tá Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Triệu Hồng chủ xướng và thất bại, người thì chết, người phải lưu vong.
Năm cuối cùng của chế độ nhà Ngô, tôi ở trong Tổng Hội Sinh Viên Saigon, tham gia phong trào tranh đấu Phật Giáo, bị mật vụ của Dương Văn Hiếu thuộc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam cho đến ngày cách mạng 1-11-63, có lẽ vì ảnh hưởng tinh thần Quốc-Cử và vì không khí đấu tranh sôi bùng nhiệt huyết tuổi hai mươi. Sau này tôi gia nhập Không Quân, không biết có phải vì hình ảnh hai chiếc khu trục sáng ngày hôm đó, cùng những cái tên tôi cho rằng rất đẹp và hùng can dự vào những biến cố làm đổi thay lịch sử – tên tuổi những phi công Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Minh Đường… hay hình ảnh ông Kỳ trong bộ đồ bay đen với huy hiệu Thần Phong in trên bìa báo Paris Match đã ảnh hưởng sâu đậm đến quyết định tương lai của tôi. Những người danh tiếng trên, tôi chỉ không biết phi công Huỳnh Minh Đường. Còn các nhân vật Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, tôi biết là do chơi với Tâm, Phúc, em ông Cử, với Phạm Phú Đê, em ông Quốc, và Phó Quốc Uy, em vợ tướng Tiên.
Tôi vốn yêu những mái tóc trung niên bạc mà đẹp, có nét giang hồ từng trải, hào hoa nghệ sĩ như mái tóc Phan Phụng Tiên, Hoàng Hải Thủy, hay tướng Nguyễn Văn Hiếu… Nên khi gặp tướng Tiên lần đầu, tôi thấy rất gần gũi, bởi mái tóc bạc của ông, và bởi ông là một trong những người hùng tham gia cuộc đảo chính hụt ngày nào. Lúc đó là năm 73, ông làm tư lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân và tôi được biệt phái về Saigon, đặc trách thành lập Biệt đội Trực Thăng Dạ Thám bảo vệ vòng đai thủ đô và các vùng phụ cận, sau mùa Hè đỏ lửa 1972.
Thời gian đó, Việt Cộng mở chiến dịch vừa đánh vừa đàm song song với hòa hội Paris. Saigon là mục tiêu của những cuộc pháo kích để khủng bố và gây tiếng vang. Tôi thành lập biệt đội Night Hawk, đêm đêm bay những phi vụ tuần thám, rọi đèn củ soát những nơi nghi ngờ có đặc công Việt cộng xâm nhập hay xạ kích vào những “trận địa pháo” do địch đặt súng cối hay hỏa tiễn nhắm vào Saigon từ các vùng ven đô như Tân Bình, Vĩnh Lộc, Nhà Bè, Thủ Đức, Gia Định, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhơn Trạch, Gò Vấp, vv… Tôi được chỉ định trông coi Biệt Đội Trực Thăng Dạ Thám vì trước đó, đã thành công trong nhiệm vụ thành lập Biệt Đội Trực Thăng Võ Trang yểm trợ Đặc Khu Rừng Sát, hộ tống các giang thuyền Hải Quân, áp tải tàu bè, các thương thuyền di chuyển trên sông Lòng Tảo từ Saigon ra Vũng Tàu và ngược lại, can thiệp ngăn chặn các cuộc phục kích của Việt cộng…
Biệt Đội thuộc quân số Sư Đoàn 3 KQ ở Biên Hòa nhưng nhận lệnh chỉ huy và điều động của nhiều cấp bộ khác nhau: Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô (Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ), Bộ Tư lệnh Không Quân (Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó). Phòng Đặc Trách Trực Thăng BTL/KQ. Sư Đoàn 3 KQ và Không Đoàn 33 Chiến Thuật có nhiệm vụ yểm trợ Biệt đội. Vị thế của tôi rất tế nhị và phức tạp giữa các cơ cấu quyền lực đó. Chiều chiều chúng tôi đem phi cơ vào Tân Sơn Nhất, đêm bay, sáng hôm sau đem tầu về trả Biên Hòa.
Cũng vì mỗi đêm phải vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi được cho một phòng trực với đầy đủ tiện nghi, máy lạnh, giường nệm… Tôi lên gặp Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, xin cho Biệt đội mỗi tháng mười ngàn đồng mua cà phê, nước ngọt để các phi hành đoàn giải khát. Ông ký giấy cho liền và hỏi, “Mười ngàn đủ không?” Rồi không đợi tôi trả lời, ông nói luôn, “Tôi biết trực thăng các cậu khổ bỏ sừ!”. Tôi cười, nói một câu cám ơn, chào rồi ra về.
Tướng Tiên lấy bà Hoàn - Phó Thị Ngọc Hoàn - chị ruột của một người bạn rất thân của tôi, Phó Quốc Uy, cũng là em cố Đại tá Phó Quốc Chụ, một trong số 9 sĩ quan bị trực thăng Mỹ “bắn lầm” ngày 1-6-98 sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, trước cửa trường Phước Đức, số 266 đường Khổng Tử, Chợ Lớn, có sáu vị Đại tá QLVNCH tử thương. Năm 82, vợ chồng Uy vượt biển đến định cư ở Orlando, chỗ Chuẩn tướng Tiên và Trung tá Phó Quốc Dũng tự Dũng “Mù” (vì ông đeo kính cận hạng nặng), thuộc Khối Yểm Trợ Hành Quân SĐ5KQ, tôi kéo cả nhà qua thăm. Đó là lần tôi gặp lại tướng Phan Phụng Tiên kể từ sau ngày rời Biệt đội Night Hawk đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu rồi trở lại Phi đoàn. Anh em nói chuyện xưa, nói đến những ngày cuối cùng, đến giây phút cuối cùng rời bỏ Saigon. Chính lúc đó tôi mới biết chỉ chút xíu nữa tôi có thể cũng kẹt ở lại hoặc bị bắn rớt ngay sáng ngày 29-4, bên hông Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, khi tôi hẹn tướng Kỳ để tôi bay về đón vợ con rồi trở lại Nhà Bè trong vòng 30 phút, rồi sẽ đưa anh em xuống Cần Thơ theo lời ông dặn…
Tướng Tiên nói:
- Sáng hôm đó, anh ngồi trong phòng Hành quân với ông Lành. Phòng Thủ gọi máy báo có chiếc trực thăng đáp sân Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc. Ông Lành nói, đừng để pilot gây ra “panic”. Cả anh lẫn ông Lành đều nghĩ thằng quản lý Câu lạc bộ đem máy bay về đón vợ con nó. Ông Lành ra lệnh cho Phòng Thủ hãy bắt giữ phi hành đoàn lại, không cho cất cánh, nếu trái lệnh, cứ bắn hạ…
Tôi thú vị với những điều ông vừa kể:
- Anh biết không, chính em lái chiếc phi cơ đó, đáp xuống Huỳnh Hữu Bạc.
Ông cười:
- Cậu hên dấy! Anh thấy ông Lành rất serious.
Sau này tôi còn xuống Orlando thăm ông lần thứ nhì. Ông vẫn “kỹ” như ngày xưa, trong nhà không có lấy một hạt bụi. Hồ tắm che lưới, lá cây không rớt được xuống hồ. Chị Hoàn ghé tai tôi:
- Anh ấy không cho chị nấu nướng trong nhà. Chị phải đặt một cái bếp ở garage, em thấy có khổ không?
Cái nhà đó là của vợ chồng Tuấn để cho bố mẹ ở. Vợ chồng Tuấn-Vân ở Dallas vì Tuấn làm việc tại đây. Trong lúc chuyện trò, ông kể cho tôi nghe chuyện ông bị thổ ra hàng chậu máu, phải qua Pháp tĩnh dưỡng sau khi bán cái cửa tiệm buôn vỏ xe hơi ở Cali.
- Anh già rồi, trong người không được khỏe. Không ngờ đến cái tuổi này mình xuống sức quá.
Ông bà Tiên về chơi Dallas hai lần, ở nhà Tuấn. Tôi vẫn thường qua ăn cơm với ông, đem sách truyện cho ông đọc, dẫn ông đi thăm bạn bè hoặc hai anh em tha thẩn trong khu thương xá, nói với nhau đủ thứ chuyện, nhất là chuyện Không Quân. Ông có vẻ thích Dallas, muốn về Dallas và hẹn nếu bán được cái nhà ở Orlando cho cháu Tuấn, sẽ dọn lên trên này.
Nhưng ông vĩnh viễn không bao giờ trở lại thành phố Dallas nữa. Ông bà Tiên về ở với vợ chồng ông Dũng Mù, là anh vợ và cũng là bạn thiếu thời của ông Tiên. Lần này đúng là ông “ngã” xuống, theo nghĩa bóng. Và rồi tối thứ Bảy 21-11-95, ông “ngã xuống” thật, theo nghĩa đen, sau bữa ăn vui vẻ ở nhà cháu Uyển, con gái vợ chồng Uy-Thảo, “Bác Tiên ăn hết bát mì lớn, chuyện trò mãi với chúng cháu tới gần nửa đêm, rất vui vẻ, không có một triệu chứng gì… Bác về, vào phòng tắm, ngã, đi luôn…”
Nghe tin ông chết đường đột. Tôi điếng lặng đi một lúc… Cuối tháng 9-95, tôi qua San Francisco, gặp Tuấn trong đám cưới con trai lớn của Uy-Thảo lấy cháu Quỳnh Anh, ái nữ của ông Hiệp Cồ, trưởng trường Quân sự ngày xưa. Tôi hỏi thăm tình trạng sức khỏe tướng Tiên. Tuấn nói, “Bố cháu dạo này cũng khỏe.” Tôi nghe, không mấy yên tâm vì ông về Dallas lần trước, có vẻ mệt mỏi, khá mệt mỏi. Ông không còn nhậm lẹ, ngại gió máy, quấn cái khăn phu-la quanh cổ và thỉnh thoảng ho húng hắng. Ông có dáng của một người đã về già, dù rằng mắt còn sáng, gương mặt còn rắn rỏi. Dáng của một con hổ nhớ rừng, trầm mặc, u hoài tưởng tiếc thời oanh liệt.
*
* *
Thời gian trông coi Biệt đội Night Hawk, tôi gặp tướng Tiên có vài lần. Nhưng với tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó Không Quân thì tôi gặp thường hơn và có cơ hội hiểu tính tình ông nhiều hơn. Trước đây, tôi chỉ được nghe biết về ông qua những “huyền thoại”. Hoặc thỉnh thoảng về Bộ Tư lệnh, ghé Câu lạc bộ uống nước với Thế Phong hay Phạm Hồ, thấy ông hay ngồi trầm ngâm một mình một bàn, gói kín, lầm lì khắc khổ trong bộ treillis với ngôi sao thêu chỉ đen trên cổ áo rất khó nhận ra cấp bậc.
Như đã nói, tướng Lành trách nhiệm giám trợ Biệt đội Night Hawk do tôi chỉ huy. Ông liên lạc hàng ngày với Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, theo dõi hoạt động của Biệt đội và giải quyết các vấn đề trên cấp Tư lệnh. Nhưng thực ra, ông không phải giải quyết gì vì tôi hàng tuần họp và giải quyết trực tiếp với BTL/BKTĐ hoặc với Khối Đặc Trách Trực Thăng của Đại tá Trần Minh Thiện.
Là Biệt đội trưởng, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy và điều động hoa tiêu, hàng ngày theo dõi các phi vụ, giải quyết các trở ngại hay các vấn đề liên quan đến công tác hành quân, dự các phiên họp hoặc thuyết trình Quân báo, báo cáo phi xuất với Không đoàn 33, với phòng Đặc trách Trực thăng, Bộ Tư lệnh KQ, Biệt khu Thủ đô, và Không đoàn 43 Chiến Thuật. Cương vị tôi hết sức tế nhị và phức tạp, chắc chắn không thể tránh được những đụng chạm với các đơn vị bạn. Biết thế nào cũng có chuyện xảy ra, nên tôi hết sức giữ gìn và kêu gọi hoa tiêu phải tuyệt đối tôn trọng kỷ luật phi hành, tôn trọng các tiêu lệnh hành quân và an phi. Tôi buộc hoa tiêu phải ghi tất cả mọi sự việc, mọi biến cố xảy ra trong đêm, thật đầy đủ chi tiết và các diễn tiến trong sổ Nhật ký Hành quân, phòng khi dùng đến.
Quả nhiên, những điều lo xa không phải vô ích. Trong một cuộc họp hàng tháng tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, dưới sự chủ tọa của Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ, các sĩ quan đại diện đơn vị của Tiểu khu Gia Định, các Chi khu, các đơn vị biệt lập… Khi giải thích lý do tại sao quân bạn bị bắn lầm, tọa độ xạ kích cho sai, phi cơ cất cánh trễ giờ, bay ra ngoài địa giới, chỉ điểm pháo binh không chính xác, vv… tất cả đều quy lỗi về phía phi hành đoàn. Những lời cáo buộc đều mang tính cách chung chung, không ai đưa ra một bằng chứng cụ thể nào, rõ ràng là muốn trút bỏ trách nhiệm lên Không Quân một cách khơi khơi, theo kiểu “khẩu thuyết vô bằng!”…
Tôi lên bục thuyết trình sau cùng, với sổ Nhật ký Hành quân trong tay. Tôi cảm ơn các sĩ quan bạn về những điều họ vừa cho biết, xin lỗi và nhận trách nhiệm tất cả những “bê bối”, những lỗi lầm lớn nhỏ đó, nếu quả thực do hoa tiêu gây ra. Tôi trình bầy tất cả những sự việc được ghi nhận trên giấy trắng mực đen, những sự kiện có thật, không một lời biện minh, để mọi người dự họp toàn quyền thẩm định mức độ xác thực và giá trị mỗi biến cố.
Tôi lật từng trang giấy, đọc to và rõ ràng những việc vụ xảy ra, với tên tuổi của từng vị sĩ quan “ngồi thùng”, đi theo trực thăng dạ thám (mà chúng tôi gọi đùa là phi vụ “soi ếch”), với cấp bậc, số quân, đơn vị, tọa độ cùng đầy đủ chi tiết sự việc xảy ra trong đêm:
- Ngày….., Trung úy….., số quân….. lên tầu yêu cầu muốn bay đi đâu thì bay, hết giờ cứ việc bay về, để ông nằm ngủ.
- Ngày….., Thiếu úy….., số quân….. không biết coi bản đồ, hỏi, được cho biết là sĩ quan Ban 1, đi thế ông sĩ quan Ban 3 “bận công việc” không đi bay được.
- Ngày….., Đại úy….., số quân….. dắt theo một cô gái, năn nỉ xin cho đi bay cùng, để xem “Saigon By Night” ra thế nào?
- Ngày….., Đại úy….., số quân….. lên tầu ói mửa đầy sàn vì say rượu. Phi hành đoàn phải hủy bỏ phi vụ bởi không người thay thế.
- Ngày….., Chi khu….., Phi cơ xuống đón sĩ quan tháp tùng, bị trong đồn bắn lên không cho đáp vì “Máy bay làm ồn không ngủ được!”, vv… và vv…
Sau phần thuyết trình của tôi, cử tọa im phăng phắc. Không khí ngột ngạt thấy rõ. Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ không nói một lời. Ông cám ơn tôi và cho giải tán buổi họp ngay lập tức. Thiếu tá Phong Già, sĩ quan Liên lạc KQ tại BKTĐ chạy theo níu lấy tôi nhăn nhó:
- Ông làm mạnh quá, kẹt tôi!
Tôi cười:
- Nếu họ không đổ rác lên đầu Không Quân, tôi bao giờ đem những chuyện ấy ra nói công khai? Ông cần xăng nhớt đã đành, nhưng đây là vấn đề danh dự của Không Quân…
Các người anh em không có chuyện báo cáo trong cuộc họp, đã đem ra nói khơi khơi làm quà cho ông tướng mà không ý thức như thế là bôi bác danh dự chúng tôi, những thằng Không Quân “chân không tới đất, cật chẳng tới trời”!
Ngay sáng hôm sau, Đại tá Trần Minh Thiện gọi tôi vào Bộ Tư lệnh Không Quân trình diện. Vừa thấy tôi, ông cười, hỏi:
- Anh biết tôi cho đòi anh vô đây có chuyện chi không?
Tôi nhìn vị chỉ huy trưởng cũ hiền như Bụt của mình ngày xưa, nói tỉnh:
- Đại tá phạt tôi vì chuyện bên Biệt khu Thủ đô ngày hôm qua chứ gì?
- Anh làm gì mà phạt? Mấy ông cố vấn Mỹ đi họp về khen anh lắm đó! Thôi, vào đây.
Tôi theo ông bước qua một phòng làm việc khác trong Khối Đặc trách. Đó là văn phòng của một Đại tá Cố vấn Mỹ. Tôi đứng nghiêm chào. Ông Đại tá đứng dậy, bước vòng qua bàn bắt tay tôi. Ông cho biết sáng hôm qua có dự cuộc họp ở BKTĐ, chứng kiến cuộc trần thuyết của tôi. Ông có headset nghe thông dịch nên hiểu tất cả, về, nói chuyện với Đại tá Thiện. Ông khen tôi thẳng thắn dám nói sự thật và tặng tôi mấy thùng bia Budweiser đem về cho Biệt đội để tỏ lòng yêu mến.
Tướng Lành cũng biết chuyện này. Môt hôm gặp tôi trong Câu Lạc Bộ, ông hỏi, “Mấy thùng bia các anh uống hết chưa?” Đó là lần đầu tiên tôi thấy ông cười vui một cách rộng rãi. Vì biết ban ngày tôi không đi bay, ông yêu cầu tôi huấn luyện ông bay trực thăng một tuần vài giờ. Trong tất cả những phi vụ huấn luyện đó, lần nào cũng có đàn anh Lưu Văn Trâm thuộc phòng Đặc trách đi theo.
Tôi thường đưa tướng Lành đi bay tập ở những nơi gần Saigon và có an ninh, như vùng Thủ Đức hay Chi khu Nhà Bè. Ông Trâm ngồi thùng, mỗi lần thấy tôi để tướng Lành đáp vào các “confined area” - một trảng cỏ có cây cao chung quanh hoặc bãi đáp nhỏ hẹp có rào giây kẽm gai – ông Trâm có vẻ nhột, ngồi sau cứ thấp thỏm, sợ ra mặt, lén vỗ vai tôi, ra hiệu bảo tôi nắm cần lái, đỡ cho ông tướng. Tôi biết đàn anh Lưu Văn Trâm sợ là phải. Nó giống như cảm giác một người lái Honda chở một người ngồi sau. Anh ngồi lái muốn phóng lạng thế nào cũng không sợ vì mình kiểm soát dược mình, nhưng anh ngồi sau thì teo bu-di, la chói lói… Tôi cố tình muốn trêu ông Trâm, để tướng Lành muốn bay thế nào thì bay, đáp sao thì đáp. Tôi đốt điếu thuốc, hút phì phèo và gếch chân lên thành cửa cockpit ngắm trời mây cho ông Trâm lộn ruột chơi, nhất là những lúc tướng Lành vô cận tiến đáp rụt rè vào cái ô nhỏ xíu rào kẽm gai ở Nhà Bè.
Tướng Lành rất tỉnh. Ông bay vững hơn Đại tá Tường “Mực” và không nói nhiều, không đòi… uýnh “thầy” như ông Tường, mỗi khi bay ẩu, bị “thầy” chụp cần lái. Đi bay huấn luyện cho Đại tá Tường, ai cũng ớn. Mấy ông Staffs các Phi đoàn Trực thăng ở Biên Hòa, từ ông Lai, Cửu, Luân, Ức, Vân, Lộc, Trọng… ông nào cũng “né”. Cuối cùng họ “bán cái”, đùn cho tôi. Ông Lai dụ tôi:
- Tôi biết ở đây chỉ có anh là Đại tá Tường không dám “uýnh” vì ổng nể anh hơn tụi tui. Trực thăng mà ổng làm như khu trục, bay ào ào ghê thấy bà. Mình chụp cần lái, ổng cung tay thúc cùi chỏ, “Bộ mày chê tao không biết bay sao mà làm tàng?”. Tụi tui thằng nào cũng rầu thúi ruột. Còn anh, tôi “bảo đảm” ông Tường không dám đụng tới anh đâu!
Chẳng hiểu tôi nghe bùi tai hay tò mò muốn biết xếp lớn dữ cỡ nào, bèn nhận lời. Buổi sáng xách nón bay ra phi đạo, check tàu xong, tôi ngồi nghe nhạc đợi xếp. Phi vụ huấn luyện ghi 8:30 giờ cất cánh. Gần 9 giờ vẫn chưa thấy xếp ra. Tôi gọi máy xin hủy bỏ phi vụ. Cậu sĩ quan trực hốt hoảng yêu cầu tôi đợi thêm vài phút.
Mười phút sau xe Jeep đưa ông Tường ra phi đạo. Thấy ông, tôi giả vờ cầm nón bay leo xuống, nói:
- Trời đất!... Sao Đại tá giờ này mới ra? Tôi gọi Đồng Nai hủy bỏ phi vụ rồi.
- Rồi!... Cái gì mà càm ràm, bầy đặt làm khó tôi?
Đoạn ông cười lớn:
- Ủa, mà sao hôm nay anh bay? Bộ mấy thằng kia tụi nó ghét tôi lắm sao?
- Ghét thì không ai dám ghét nhưng ông “uýnh” đau quá, họ sợ.
- Cha! Ngon lành ha? Vậy chớ anh không sợ sao?
- Sợ chứ. Bởi thế tôi phải nói trước với Đại tá, tôi nhỏ con, ông làm ơn tha cho đừng đánh, tội nghiệp. Ông đánh là tôi bỏ bay, đi thưa cảnh sát liền một khi…!
Đại tá Tường cười khà khà:
- Thưa cảnh sát, uýnh theo cảnh sát. Mấy thằng kia khôn tổ mẹ. Tôi mà dám đánh anh? Đứa nào nói vậy?
Có lẽ tôi là người duy nhất bay huấn luyện cho ông Tường Mực mà không bị đánh. Trái lại, ông còn có vẻ thích đi bay với tôi để nói chuyện lăng nhăng.
Đại tá Nguyễn Văn Tường và Đại tá Trần Minh Thiện có lẽ là sĩ quan cao cấp Không Quân chết sớm nhất ở Mỹ, từ năm 76, 77. Tướng Lành chết bởi bệng ung thư xương năm 82 ở San Jose.
*
* *
San Jose, có hai ông tướng Không Quân đã ra đi. Đó là Thiếu tướng Võ Xuân Lành và rồi Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính. Tướng Tính là Tư lệnh Sư đoàn 3 KQ, tôi làm việc dưới quyền ông. Phải nói, đời tôi có diễm phúc được làm việc dưới quyền hai vị sĩ quan chỉ huy ngành tác chiến mà hiền hậu dễ thương như những ông thánh. Đó là Đại tá Trần Minh Thiện, ông “Thánh Denis”, và Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, người hiền trong những cấp chỉ huy hiền số một của Không Quân.
Tôi du học về, chọn Phi đoàn 215 ở Nha Trang, lúc đó mới rời vào từ Đà Nẵng được vài tháng, do Thiếu tá Thiện làm Phi Đoàn Trưởng. Tôi đeo lon Chuẩn úy vào trình diện, thấy ông người Nam, có nụ cười hết sức nhân hậu, cũng yên tâm. Lúc đó Phi đoàn còn bay H-34, to con, kềnh càng, và… bẩn phát sợ. Bên trường bay, phi cơ Mỹ sạch như lau, nên khi nhìn thấy máy bay của Việt Nam cũ kỹ già nua, dầu mỡ, bùn đất dính bệt từ càng cho tới nóc, tôi thật nản. Người bay ckeck-ride cho tôi đầu tiên là Thiếu tá Thiện. Ông dẫn tôi ra bãi đậu, thấy tôi đeo găng mà còn rón rén sợ bẩn, ông cười, leo lên làm tiền phi. Tôi leo theo ông, chỉ sợ trượt chân té gãy cổ! Ông chỉ một cái ống trên nóc phi cơ, hỏi tôi:
- Cái này tiếng Mỹ kêu bằng gì?
Hồi đó phi cơ lèo tèo mươi chiếc, hư hỏng nằm ụ đến một nửa, bay hành quân còn chưa đủ, lấy đâu mà huấn luyện, nên bỏ lâu không bay dễ quên và lựng bựng. Tôi nhìn cái ống cong cong chìa ra đằng trước, biết nó là cái ống lấy áp xuất gió cho đồng hồ phi tốc nhưng lú lẫn, bị hỏi bất chợt, không tài nào nhớ ra tiếng Mỹ là gì, ấp úng trả lời:
- Thưa, là cái “Pi-Tốt”
Nói xong tôi mới biết mình cả quỷnh. Thiếu tá Thiện cười diềm đạm:
- Nó là cái Pivot chứ, quên rồi sao?
Lúc xuống đất kiểm soát thân tàu, ông lại khảo tôi mục khác:
- Anh biết trực thăng có cái bánh đuôi dùng để làm gì không?
- Dạ, để… đáp!
Bánh xe của phi cơ là để đáp thì đúng quá rồi, ai mà không biết. Nhưng ông Thiện hỏi tôi câu đó là hỏi về một công dụng khác chứ đâu phải để nghe tôi trả lời một câu bà già trẻ con cũng biết, cần gì phải là Pilot?
Ông nói:
- Cái bánh đuôi là để mấy ông Pilot… đái!
Sau này tôi mới biết là ông không hề nói rỡn về công dụng của cái bánh đuôi! Để Pilot đái và để… chó ghếch chân lên đái!
(Gọi là để tưởng nhớ những vì sao Không Quân)
Đào Vũ Anh Hùng
Đó là buổi sáng trời rất đẹp của ngày 26-2, năm 1962.
Tôi đạp xe từ Phú Nhuận lên nhà sách Khai Trí tìm mua vài quyển Toán, chạy ngang dinh Độc Lập. Khi vừa qua khỏi ngã tư Hồng Thập Tự – Công Lý, bỗng giật bắn mình, nghe phủ ào qua đầu một tiếng gầm xé thinh không cực lớn và thật gần, ngay trên những ngọn cây sao cao vút bên vệ đường. Tôi thật không biết chuyện gì xảy ra, kinh hoảng đâm xe lủi vào lề, nhảy xuống. Tôi đứng dưới một gốc sao nhìn lên trời, nơi vừa giáng xuống tiếng gầm như trời xập và tim đập loạn.
Loáng thoáng qua vòm cây, tôi thấy một chiếc máy bay khu trục xé gió bay rất thấp phía sông Saigon hướng về dinh Độc Lập. Nó vút lên cao, nghiêng đôi cánh sắt, lượn gắt một vòng nữa rồi quay lại… Tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, hết hồn quẳng vội chiếc xe, ngồi bệt xuống đất, nép vào gốc cây nhìn lên cái bụng sơn trắng của chiếc phi cơ với những trái bom thon dài sáng bạc được nhả ra, loang loáng lướt qua vòm cây, rơi xéo xuống cánh trái dinh ông Diệm. Rồi tiếng nổ, khói bụi bốc lên. Súng phòng không từ trong dinh và từ phía bến Bạch Đằng ròn rã nổ lụp bụp trên trời từng cụm khói đuổi theo con chim sắt. Tôi thấy thêm một chiếc khác bay cao và bay xa hơn, phía bến Bạch Đằng, cũng đang bị săn đuổi, chao liệng như chim hâu len lách giữa những cụm khói nở hoa đen trên nền trời xanh ngọc bích.
Buổi sáng lịch sử, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử oanh kích dinh Độc Lập tôi tình cờ chứng kiến từ phút giây đầu. Trước đó, năm 60, cũng chính ngay cổng dinh Độc Lập, tôi đã chứng kiến cuộc nổi dậy ngắn ngủi của quân Dù do các trung tá Nguyễn Chánh Thi, Nguyễn Triệu Hồng chủ xướng và thất bại, người thì chết, người phải lưu vong.
Năm cuối cùng của chế độ nhà Ngô, tôi ở trong Tổng Hội Sinh Viên Saigon, tham gia phong trào tranh đấu Phật Giáo, bị mật vụ của Dương Văn Hiếu thuộc Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giam cho đến ngày cách mạng 1-11-63, có lẽ vì ảnh hưởng tinh thần Quốc-Cử và vì không khí đấu tranh sôi bùng nhiệt huyết tuổi hai mươi. Sau này tôi gia nhập Không Quân, không biết có phải vì hình ảnh hai chiếc khu trục sáng ngày hôm đó, cùng những cái tên tôi cho rằng rất đẹp và hùng can dự vào những biến cố làm đổi thay lịch sử – tên tuổi những phi công Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, Huỳnh Minh Đường… hay hình ảnh ông Kỳ trong bộ đồ bay đen với huy hiệu Thần Phong in trên bìa báo Paris Match đã ảnh hưởng sâu đậm đến quyết định tương lai của tôi. Những người danh tiếng trên, tôi chỉ không biết phi công Huỳnh Minh Đường. Còn các nhân vật Nguyễn Văn Cử, Phạm Phú Quốc, Phan Phụng Tiên, tôi biết là do chơi với Tâm, Phúc, em ông Cử, với Phạm Phú Đê, em ông Quốc, và Phó Quốc Uy, em vợ tướng Tiên.
Tôi vốn yêu những mái tóc trung niên bạc mà đẹp, có nét giang hồ từng trải, hào hoa nghệ sĩ như mái tóc Phan Phụng Tiên, Hoàng Hải Thủy, hay tướng Nguyễn Văn Hiếu… Nên khi gặp tướng Tiên lần đầu, tôi thấy rất gần gũi, bởi mái tóc bạc của ông, và bởi ông là một trong những người hùng tham gia cuộc đảo chính hụt ngày nào. Lúc đó là năm 73, ông làm tư lệnh Sư Đoàn 5 Không Quân và tôi được biệt phái về Saigon, đặc trách thành lập Biệt đội Trực Thăng Dạ Thám bảo vệ vòng đai thủ đô và các vùng phụ cận, sau mùa Hè đỏ lửa 1972.
Thời gian đó, Việt Cộng mở chiến dịch vừa đánh vừa đàm song song với hòa hội Paris. Saigon là mục tiêu của những cuộc pháo kích để khủng bố và gây tiếng vang. Tôi thành lập biệt đội Night Hawk, đêm đêm bay những phi vụ tuần thám, rọi đèn củ soát những nơi nghi ngờ có đặc công Việt cộng xâm nhập hay xạ kích vào những “trận địa pháo” do địch đặt súng cối hay hỏa tiễn nhắm vào Saigon từ các vùng ven đô như Tân Bình, Vĩnh Lộc, Nhà Bè, Thủ Đức, Gia Định, Thủ Thiêm, Hóc Môn, Bình Chánh, Nhơn Trạch, Gò Vấp, vv… Tôi được chỉ định trông coi Biệt Đội Trực Thăng Dạ Thám vì trước đó, đã thành công trong nhiệm vụ thành lập Biệt Đội Trực Thăng Võ Trang yểm trợ Đặc Khu Rừng Sát, hộ tống các giang thuyền Hải Quân, áp tải tàu bè, các thương thuyền di chuyển trên sông Lòng Tảo từ Saigon ra Vũng Tàu và ngược lại, can thiệp ngăn chặn các cuộc phục kích của Việt cộng…
Biệt Đội thuộc quân số Sư Đoàn 3 KQ ở Biên Hòa nhưng nhận lệnh chỉ huy và điều động của nhiều cấp bộ khác nhau: Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô (Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ), Bộ Tư lệnh Không Quân (Thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó). Phòng Đặc Trách Trực Thăng BTL/KQ. Sư Đoàn 3 KQ và Không Đoàn 33 Chiến Thuật có nhiệm vụ yểm trợ Biệt đội. Vị thế của tôi rất tế nhị và phức tạp giữa các cơ cấu quyền lực đó. Chiều chiều chúng tôi đem phi cơ vào Tân Sơn Nhất, đêm bay, sáng hôm sau đem tầu về trả Biên Hòa.
Cũng vì mỗi đêm phải vào Tân Sơn Nhất, chúng tôi được cho một phòng trực với đầy đủ tiện nghi, máy lạnh, giường nệm… Tôi lên gặp Chuẩn tướng Phan Phụng Tiên, xin cho Biệt đội mỗi tháng mười ngàn đồng mua cà phê, nước ngọt để các phi hành đoàn giải khát. Ông ký giấy cho liền và hỏi, “Mười ngàn đủ không?” Rồi không đợi tôi trả lời, ông nói luôn, “Tôi biết trực thăng các cậu khổ bỏ sừ!”. Tôi cười, nói một câu cám ơn, chào rồi ra về.
Tướng Tiên lấy bà Hoàn - Phó Thị Ngọc Hoàn - chị ruột của một người bạn rất thân của tôi, Phó Quốc Uy, cũng là em cố Đại tá Phó Quốc Chụ, một trong số 9 sĩ quan bị trực thăng Mỹ “bắn lầm” ngày 1-6-98 sau cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, trước cửa trường Phước Đức, số 266 đường Khổng Tử, Chợ Lớn, có sáu vị Đại tá QLVNCH tử thương. Năm 82, vợ chồng Uy vượt biển đến định cư ở Orlando, chỗ Chuẩn tướng Tiên và Trung tá Phó Quốc Dũng tự Dũng “Mù” (vì ông đeo kính cận hạng nặng), thuộc Khối Yểm Trợ Hành Quân SĐ5KQ, tôi kéo cả nhà qua thăm. Đó là lần tôi gặp lại tướng Phan Phụng Tiên kể từ sau ngày rời Biệt đội Night Hawk đi học khóa Chỉ Huy Tham Mưu rồi trở lại Phi đoàn. Anh em nói chuyện xưa, nói đến những ngày cuối cùng, đến giây phút cuối cùng rời bỏ Saigon. Chính lúc đó tôi mới biết chỉ chút xíu nữa tôi có thể cũng kẹt ở lại hoặc bị bắn rớt ngay sáng ngày 29-4, bên hông Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc, khi tôi hẹn tướng Kỳ để tôi bay về đón vợ con rồi trở lại Nhà Bè trong vòng 30 phút, rồi sẽ đưa anh em xuống Cần Thơ theo lời ông dặn…
Tướng Tiên nói:
- Sáng hôm đó, anh ngồi trong phòng Hành quân với ông Lành. Phòng Thủ gọi máy báo có chiếc trực thăng đáp sân Câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc. Ông Lành nói, đừng để pilot gây ra “panic”. Cả anh lẫn ông Lành đều nghĩ thằng quản lý Câu lạc bộ đem máy bay về đón vợ con nó. Ông Lành ra lệnh cho Phòng Thủ hãy bắt giữ phi hành đoàn lại, không cho cất cánh, nếu trái lệnh, cứ bắn hạ…
Tôi thú vị với những điều ông vừa kể:
- Anh biết không, chính em lái chiếc phi cơ đó, đáp xuống Huỳnh Hữu Bạc.
Ông cười:
- Cậu hên dấy! Anh thấy ông Lành rất serious.
Sau này tôi còn xuống Orlando thăm ông lần thứ nhì. Ông vẫn “kỹ” như ngày xưa, trong nhà không có lấy một hạt bụi. Hồ tắm che lưới, lá cây không rớt được xuống hồ. Chị Hoàn ghé tai tôi:
- Anh ấy không cho chị nấu nướng trong nhà. Chị phải đặt một cái bếp ở garage, em thấy có khổ không?
Cái nhà đó là của vợ chồng Tuấn để cho bố mẹ ở. Vợ chồng Tuấn-Vân ở Dallas vì Tuấn làm việc tại đây. Trong lúc chuyện trò, ông kể cho tôi nghe chuyện ông bị thổ ra hàng chậu máu, phải qua Pháp tĩnh dưỡng sau khi bán cái cửa tiệm buôn vỏ xe hơi ở Cali.
- Anh già rồi, trong người không được khỏe. Không ngờ đến cái tuổi này mình xuống sức quá.
Ông bà Tiên về chơi Dallas hai lần, ở nhà Tuấn. Tôi vẫn thường qua ăn cơm với ông, đem sách truyện cho ông đọc, dẫn ông đi thăm bạn bè hoặc hai anh em tha thẩn trong khu thương xá, nói với nhau đủ thứ chuyện, nhất là chuyện Không Quân. Ông có vẻ thích Dallas, muốn về Dallas và hẹn nếu bán được cái nhà ở Orlando cho cháu Tuấn, sẽ dọn lên trên này.
Nhưng ông vĩnh viễn không bao giờ trở lại thành phố Dallas nữa. Ông bà Tiên về ở với vợ chồng ông Dũng Mù, là anh vợ và cũng là bạn thiếu thời của ông Tiên. Lần này đúng là ông “ngã” xuống, theo nghĩa bóng. Và rồi tối thứ Bảy 21-11-95, ông “ngã xuống” thật, theo nghĩa đen, sau bữa ăn vui vẻ ở nhà cháu Uyển, con gái vợ chồng Uy-Thảo, “Bác Tiên ăn hết bát mì lớn, chuyện trò mãi với chúng cháu tới gần nửa đêm, rất vui vẻ, không có một triệu chứng gì… Bác về, vào phòng tắm, ngã, đi luôn…”
Nghe tin ông chết đường đột. Tôi điếng lặng đi một lúc… Cuối tháng 9-95, tôi qua San Francisco, gặp Tuấn trong đám cưới con trai lớn của Uy-Thảo lấy cháu Quỳnh Anh, ái nữ của ông Hiệp Cồ, trưởng trường Quân sự ngày xưa. Tôi hỏi thăm tình trạng sức khỏe tướng Tiên. Tuấn nói, “Bố cháu dạo này cũng khỏe.” Tôi nghe, không mấy yên tâm vì ông về Dallas lần trước, có vẻ mệt mỏi, khá mệt mỏi. Ông không còn nhậm lẹ, ngại gió máy, quấn cái khăn phu-la quanh cổ và thỉnh thoảng ho húng hắng. Ông có dáng của một người đã về già, dù rằng mắt còn sáng, gương mặt còn rắn rỏi. Dáng của một con hổ nhớ rừng, trầm mặc, u hoài tưởng tiếc thời oanh liệt.
*
* *
Thời gian trông coi Biệt đội Night Hawk, tôi gặp tướng Tiên có vài lần. Nhưng với tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh phó Không Quân thì tôi gặp thường hơn và có cơ hội hiểu tính tình ông nhiều hơn. Trước đây, tôi chỉ được nghe biết về ông qua những “huyền thoại”. Hoặc thỉnh thoảng về Bộ Tư lệnh, ghé Câu lạc bộ uống nước với Thế Phong hay Phạm Hồ, thấy ông hay ngồi trầm ngâm một mình một bàn, gói kín, lầm lì khắc khổ trong bộ treillis với ngôi sao thêu chỉ đen trên cổ áo rất khó nhận ra cấp bậc.
Như đã nói, tướng Lành trách nhiệm giám trợ Biệt đội Night Hawk do tôi chỉ huy. Ông liên lạc hàng ngày với Bộ Tư lệnh Biệt Khu Thủ Đô, theo dõi hoạt động của Biệt đội và giải quyết các vấn đề trên cấp Tư lệnh. Nhưng thực ra, ông không phải giải quyết gì vì tôi hàng tuần họp và giải quyết trực tiếp với BTL/BKTĐ hoặc với Khối Đặc Trách Trực Thăng của Đại tá Trần Minh Thiện.
Là Biệt đội trưởng, tôi có nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy và điều động hoa tiêu, hàng ngày theo dõi các phi vụ, giải quyết các trở ngại hay các vấn đề liên quan đến công tác hành quân, dự các phiên họp hoặc thuyết trình Quân báo, báo cáo phi xuất với Không đoàn 33, với phòng Đặc trách Trực thăng, Bộ Tư lệnh KQ, Biệt khu Thủ đô, và Không đoàn 43 Chiến Thuật. Cương vị tôi hết sức tế nhị và phức tạp, chắc chắn không thể tránh được những đụng chạm với các đơn vị bạn. Biết thế nào cũng có chuyện xảy ra, nên tôi hết sức giữ gìn và kêu gọi hoa tiêu phải tuyệt đối tôn trọng kỷ luật phi hành, tôn trọng các tiêu lệnh hành quân và an phi. Tôi buộc hoa tiêu phải ghi tất cả mọi sự việc, mọi biến cố xảy ra trong đêm, thật đầy đủ chi tiết và các diễn tiến trong sổ Nhật ký Hành quân, phòng khi dùng đến.
Quả nhiên, những điều lo xa không phải vô ích. Trong một cuộc họp hàng tháng tại Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô, dưới sự chủ tọa của Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ, các sĩ quan đại diện đơn vị của Tiểu khu Gia Định, các Chi khu, các đơn vị biệt lập… Khi giải thích lý do tại sao quân bạn bị bắn lầm, tọa độ xạ kích cho sai, phi cơ cất cánh trễ giờ, bay ra ngoài địa giới, chỉ điểm pháo binh không chính xác, vv… tất cả đều quy lỗi về phía phi hành đoàn. Những lời cáo buộc đều mang tính cách chung chung, không ai đưa ra một bằng chứng cụ thể nào, rõ ràng là muốn trút bỏ trách nhiệm lên Không Quân một cách khơi khơi, theo kiểu “khẩu thuyết vô bằng!”…
Tôi lên bục thuyết trình sau cùng, với sổ Nhật ký Hành quân trong tay. Tôi cảm ơn các sĩ quan bạn về những điều họ vừa cho biết, xin lỗi và nhận trách nhiệm tất cả những “bê bối”, những lỗi lầm lớn nhỏ đó, nếu quả thực do hoa tiêu gây ra. Tôi trình bầy tất cả những sự việc được ghi nhận trên giấy trắng mực đen, những sự kiện có thật, không một lời biện minh, để mọi người dự họp toàn quyền thẩm định mức độ xác thực và giá trị mỗi biến cố.
Tôi lật từng trang giấy, đọc to và rõ ràng những việc vụ xảy ra, với tên tuổi của từng vị sĩ quan “ngồi thùng”, đi theo trực thăng dạ thám (mà chúng tôi gọi đùa là phi vụ “soi ếch”), với cấp bậc, số quân, đơn vị, tọa độ cùng đầy đủ chi tiết sự việc xảy ra trong đêm:
- Ngày….., Trung úy….., số quân….. lên tầu yêu cầu muốn bay đi đâu thì bay, hết giờ cứ việc bay về, để ông nằm ngủ.
- Ngày….., Thiếu úy….., số quân….. không biết coi bản đồ, hỏi, được cho biết là sĩ quan Ban 1, đi thế ông sĩ quan Ban 3 “bận công việc” không đi bay được.
- Ngày….., Đại úy….., số quân….. dắt theo một cô gái, năn nỉ xin cho đi bay cùng, để xem “Saigon By Night” ra thế nào?
- Ngày….., Đại úy….., số quân….. lên tầu ói mửa đầy sàn vì say rượu. Phi hành đoàn phải hủy bỏ phi vụ bởi không người thay thế.
- Ngày….., Chi khu….., Phi cơ xuống đón sĩ quan tháp tùng, bị trong đồn bắn lên không cho đáp vì “Máy bay làm ồn không ngủ được!”, vv… và vv…
Sau phần thuyết trình của tôi, cử tọa im phăng phắc. Không khí ngột ngạt thấy rõ. Chuẩn tướng Lý Bá Hỷ không nói một lời. Ông cám ơn tôi và cho giải tán buổi họp ngay lập tức. Thiếu tá Phong Già, sĩ quan Liên lạc KQ tại BKTĐ chạy theo níu lấy tôi nhăn nhó:
- Ông làm mạnh quá, kẹt tôi!
Tôi cười:
- Nếu họ không đổ rác lên đầu Không Quân, tôi bao giờ đem những chuyện ấy ra nói công khai? Ông cần xăng nhớt đã đành, nhưng đây là vấn đề danh dự của Không Quân…
Các người anh em không có chuyện báo cáo trong cuộc họp, đã đem ra nói khơi khơi làm quà cho ông tướng mà không ý thức như thế là bôi bác danh dự chúng tôi, những thằng Không Quân “chân không tới đất, cật chẳng tới trời”!
Ngay sáng hôm sau, Đại tá Trần Minh Thiện gọi tôi vào Bộ Tư lệnh Không Quân trình diện. Vừa thấy tôi, ông cười, hỏi:
- Anh biết tôi cho đòi anh vô đây có chuyện chi không?
Tôi nhìn vị chỉ huy trưởng cũ hiền như Bụt của mình ngày xưa, nói tỉnh:
- Đại tá phạt tôi vì chuyện bên Biệt khu Thủ đô ngày hôm qua chứ gì?
- Anh làm gì mà phạt? Mấy ông cố vấn Mỹ đi họp về khen anh lắm đó! Thôi, vào đây.
Tôi theo ông bước qua một phòng làm việc khác trong Khối Đặc trách. Đó là văn phòng của một Đại tá Cố vấn Mỹ. Tôi đứng nghiêm chào. Ông Đại tá đứng dậy, bước vòng qua bàn bắt tay tôi. Ông cho biết sáng hôm qua có dự cuộc họp ở BKTĐ, chứng kiến cuộc trần thuyết của tôi. Ông có headset nghe thông dịch nên hiểu tất cả, về, nói chuyện với Đại tá Thiện. Ông khen tôi thẳng thắn dám nói sự thật và tặng tôi mấy thùng bia Budweiser đem về cho Biệt đội để tỏ lòng yêu mến.
Tướng Lành cũng biết chuyện này. Môt hôm gặp tôi trong Câu Lạc Bộ, ông hỏi, “Mấy thùng bia các anh uống hết chưa?” Đó là lần đầu tiên tôi thấy ông cười vui một cách rộng rãi. Vì biết ban ngày tôi không đi bay, ông yêu cầu tôi huấn luyện ông bay trực thăng một tuần vài giờ. Trong tất cả những phi vụ huấn luyện đó, lần nào cũng có đàn anh Lưu Văn Trâm thuộc phòng Đặc trách đi theo.
Tôi thường đưa tướng Lành đi bay tập ở những nơi gần Saigon và có an ninh, như vùng Thủ Đức hay Chi khu Nhà Bè. Ông Trâm ngồi thùng, mỗi lần thấy tôi để tướng Lành đáp vào các “confined area” - một trảng cỏ có cây cao chung quanh hoặc bãi đáp nhỏ hẹp có rào giây kẽm gai – ông Trâm có vẻ nhột, ngồi sau cứ thấp thỏm, sợ ra mặt, lén vỗ vai tôi, ra hiệu bảo tôi nắm cần lái, đỡ cho ông tướng. Tôi biết đàn anh Lưu Văn Trâm sợ là phải. Nó giống như cảm giác một người lái Honda chở một người ngồi sau. Anh ngồi lái muốn phóng lạng thế nào cũng không sợ vì mình kiểm soát dược mình, nhưng anh ngồi sau thì teo bu-di, la chói lói… Tôi cố tình muốn trêu ông Trâm, để tướng Lành muốn bay thế nào thì bay, đáp sao thì đáp. Tôi đốt điếu thuốc, hút phì phèo và gếch chân lên thành cửa cockpit ngắm trời mây cho ông Trâm lộn ruột chơi, nhất là những lúc tướng Lành vô cận tiến đáp rụt rè vào cái ô nhỏ xíu rào kẽm gai ở Nhà Bè.
Tướng Lành rất tỉnh. Ông bay vững hơn Đại tá Tường “Mực” và không nói nhiều, không đòi… uýnh “thầy” như ông Tường, mỗi khi bay ẩu, bị “thầy” chụp cần lái. Đi bay huấn luyện cho Đại tá Tường, ai cũng ớn. Mấy ông Staffs các Phi đoàn Trực thăng ở Biên Hòa, từ ông Lai, Cửu, Luân, Ức, Vân, Lộc, Trọng… ông nào cũng “né”. Cuối cùng họ “bán cái”, đùn cho tôi. Ông Lai dụ tôi:
- Tôi biết ở đây chỉ có anh là Đại tá Tường không dám “uýnh” vì ổng nể anh hơn tụi tui. Trực thăng mà ổng làm như khu trục, bay ào ào ghê thấy bà. Mình chụp cần lái, ổng cung tay thúc cùi chỏ, “Bộ mày chê tao không biết bay sao mà làm tàng?”. Tụi tui thằng nào cũng rầu thúi ruột. Còn anh, tôi “bảo đảm” ông Tường không dám đụng tới anh đâu!
Chẳng hiểu tôi nghe bùi tai hay tò mò muốn biết xếp lớn dữ cỡ nào, bèn nhận lời. Buổi sáng xách nón bay ra phi đạo, check tàu xong, tôi ngồi nghe nhạc đợi xếp. Phi vụ huấn luyện ghi 8:30 giờ cất cánh. Gần 9 giờ vẫn chưa thấy xếp ra. Tôi gọi máy xin hủy bỏ phi vụ. Cậu sĩ quan trực hốt hoảng yêu cầu tôi đợi thêm vài phút.
Mười phút sau xe Jeep đưa ông Tường ra phi đạo. Thấy ông, tôi giả vờ cầm nón bay leo xuống, nói:
- Trời đất!... Sao Đại tá giờ này mới ra? Tôi gọi Đồng Nai hủy bỏ phi vụ rồi.
- Rồi!... Cái gì mà càm ràm, bầy đặt làm khó tôi?
Đoạn ông cười lớn:
- Ủa, mà sao hôm nay anh bay? Bộ mấy thằng kia tụi nó ghét tôi lắm sao?
- Ghét thì không ai dám ghét nhưng ông “uýnh” đau quá, họ sợ.
- Cha! Ngon lành ha? Vậy chớ anh không sợ sao?
- Sợ chứ. Bởi thế tôi phải nói trước với Đại tá, tôi nhỏ con, ông làm ơn tha cho đừng đánh, tội nghiệp. Ông đánh là tôi bỏ bay, đi thưa cảnh sát liền một khi…!
Đại tá Tường cười khà khà:
- Thưa cảnh sát, uýnh theo cảnh sát. Mấy thằng kia khôn tổ mẹ. Tôi mà dám đánh anh? Đứa nào nói vậy?
Có lẽ tôi là người duy nhất bay huấn luyện cho ông Tường Mực mà không bị đánh. Trái lại, ông còn có vẻ thích đi bay với tôi để nói chuyện lăng nhăng.
Đại tá Nguyễn Văn Tường và Đại tá Trần Minh Thiện có lẽ là sĩ quan cao cấp Không Quân chết sớm nhất ở Mỹ, từ năm 76, 77. Tướng Lành chết bởi bệng ung thư xương năm 82 ở San Jose.
*
* *
San Jose, có hai ông tướng Không Quân đã ra đi. Đó là Thiếu tướng Võ Xuân Lành và rồi Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính. Tướng Tính là Tư lệnh Sư đoàn 3 KQ, tôi làm việc dưới quyền ông. Phải nói, đời tôi có diễm phúc được làm việc dưới quyền hai vị sĩ quan chỉ huy ngành tác chiến mà hiền hậu dễ thương như những ông thánh. Đó là Đại tá Trần Minh Thiện, ông “Thánh Denis”, và Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, người hiền trong những cấp chỉ huy hiền số một của Không Quân.
Tôi du học về, chọn Phi đoàn 215 ở Nha Trang, lúc đó mới rời vào từ Đà Nẵng được vài tháng, do Thiếu tá Thiện làm Phi Đoàn Trưởng. Tôi đeo lon Chuẩn úy vào trình diện, thấy ông người Nam, có nụ cười hết sức nhân hậu, cũng yên tâm. Lúc đó Phi đoàn còn bay H-34, to con, kềnh càng, và… bẩn phát sợ. Bên trường bay, phi cơ Mỹ sạch như lau, nên khi nhìn thấy máy bay của Việt Nam cũ kỹ già nua, dầu mỡ, bùn đất dính bệt từ càng cho tới nóc, tôi thật nản. Người bay ckeck-ride cho tôi đầu tiên là Thiếu tá Thiện. Ông dẫn tôi ra bãi đậu, thấy tôi đeo găng mà còn rón rén sợ bẩn, ông cười, leo lên làm tiền phi. Tôi leo theo ông, chỉ sợ trượt chân té gãy cổ! Ông chỉ một cái ống trên nóc phi cơ, hỏi tôi:
- Cái này tiếng Mỹ kêu bằng gì?
Hồi đó phi cơ lèo tèo mươi chiếc, hư hỏng nằm ụ đến một nửa, bay hành quân còn chưa đủ, lấy đâu mà huấn luyện, nên bỏ lâu không bay dễ quên và lựng bựng. Tôi nhìn cái ống cong cong chìa ra đằng trước, biết nó là cái ống lấy áp xuất gió cho đồng hồ phi tốc nhưng lú lẫn, bị hỏi bất chợt, không tài nào nhớ ra tiếng Mỹ là gì, ấp úng trả lời:
- Thưa, là cái “Pi-Tốt”
Nói xong tôi mới biết mình cả quỷnh. Thiếu tá Thiện cười diềm đạm:
- Nó là cái Pivot chứ, quên rồi sao?
Lúc xuống đất kiểm soát thân tàu, ông lại khảo tôi mục khác:
- Anh biết trực thăng có cái bánh đuôi dùng để làm gì không?
- Dạ, để… đáp!
Bánh xe của phi cơ là để đáp thì đúng quá rồi, ai mà không biết. Nhưng ông Thiện hỏi tôi câu đó là hỏi về một công dụng khác chứ đâu phải để nghe tôi trả lời một câu bà già trẻ con cũng biết, cần gì phải là Pilot?
Ông nói:
- Cái bánh đuôi là để mấy ông Pilot… đái!
Sau này tôi mới biết là ông không hề nói rỡn về công dụng của cái bánh đuôi! Để Pilot đái và để… chó ghếch chân lên đái!