PDA

View Full Version : Trận cuối trong đời lính của tôi



Longhai
03-03-2014, 11:57 AM
Trận cuối trong đời lính của tôi



CSVSQ Nguyễn Văn Quan


Sáng ngày 17 tháng 3 năm 1975, tôi và Đại Đội 3 trừ bị của Tiểu Đòan Thần Sói tỉnh Phan Rang đang ở quận An Phước tỉnh Phan Rang, do Trung Tá Vận chỉ huy. Trong đồn quận An Phước lúc đó có 1 Pháo đội của Sư Đoàn 2 còn sót lại khi họ di tản tới Phan Rang, một số Sĩ quan và Binh sĩ của Lữ Đoàn 3 Dù và Liên Đoàn 6 Biệt Động Quân. Họ đã băng rừng trong đêm từ phi trừơng Phan Rang đi đến sáng thì tới quận An Phước. Trung Tá Vận thuyết phục họ ở lại để chống Việt cộng đang chuẩn bị tiến về quận An Phước trước khi về tỉnh Phan Thiết. Họ cũng cho biết Phi trường Phan Rang đã thất thủ tối hôm qua, có lẽ Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi Tư lệnh Tiền phương vùng II và Chuẩn Tướng Sang Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân đã bị bắt ở Ninh Chữ, còn Pilot thì lái máy bay F5 hay A 37 và trực thăng đã bay về phi trường Biên Hòa.

Sau khi được tái bố trí vị trí phòng thủ, lính Dù phòng thủ mặt Bắc, Biệt Động Quân phía Tây Nam, còn Đại Đội tôi ở Tây Bắc. Sáng ngày, chúng tôi còn được uống Càfê cốc của lính pha và ăn điểm tâm lần cuối. Khoảng 9 giờ sáng, chúng tôi nghe toán tiền sát báo tin việt cộng đang chuyển Bộ binh đi xuống Quốc lộ 1 bằng loại Motolova của chúng, nghe như thế Đại Úy Pháo Đội Trưởng của Sư Đoàn 2 Bộ Binh cho hạ nòng đại bác 105 ly và 155 ly để bắn trực xạ.

Nửa tiếng sau, có 2 chiếc Motolova chở bọn Chính quy Việt cộng ngồi trên xe chạy ngang nhiên trên Quốc lộ 1 như chỗ không người, từ đồn An Phước chỉ cách Quốc lộ 1 khỏang 100 Km đường chim bay cho nên khi Motolova của chúng chạy gần tới đồn An Phước thì Đại Úy Pháo Đội Trưởng ra lệnh bắn trực xạ về hướng 2 chiếc Motolova, sau tiếng nổ của đạn đại bác chúng tôi thấy 2 chiếc xe Motolova tung hẳn lên trời rất rõ ràng. Sau khi 2 chiếc đầu bị bắn thì mấy chiếc sau ngừng lại và thối lui, vì quá xa nên chúng tôi không thể dùng M16 hoặc các súng khác để bắn chúng được, (Viện trợ bị cắt, đạn dược cũng như những thứ cần thiết phải tiết kiệm tối đa, không được dùng bừa bãi như xưa) sự việc xảy ra rất thành công đã làm Binh sĩ và Sĩ quan phấn khởi lắm. (Sau ngày 19 tháng 6 năm 1975, khi tôi đi ngang qua nơi đó, thấy gần bên vệ đường Việt cộng chôn đồng bọn chúng rất sơ sài, chỉ cắm nhánh cây để tên họ và đắp nắm mồ sơ sài cho kẻ sinh Bắc tử Nam).

Gần 2 giờ sau, chúng tôi nghe tiếng xe tăng T54 gầm rú vang đất trời rồi từng chiếc nó xếp hàng ngang trên cánh đồng ruộng. Trung Tá Vận kêu gọi phi pháo từ Biên Hòa hoặc Phan Thiết nhưng không có ai trả lời cả (Nếu chúng ta có đủ phi pháo như năm 1972 thì chiến xa việt cộng dàn hàng ngang trên cánh đồng như thế nầy là món mồi ngon cho F5 hay A37). Lạ một điều là xe tăng T54 không bắn một trái đại bác nào, nếu nó bắn, thì mấy chục chiếc xe tăng T54 nhả đạn, thì giờ nầy tôi không còn ở đây mà thuật câu chuyện này. Ban đầu chúng tôi còn đếm 1, 2, 3, 4... chiếc sau khi nó giàn hàng ngang xong, thì nó chạy tới ủi quận An Phước chúng tôi. Đại Úy Pháo Đội Trưởng ra lịnh đại bác bắn trực xạ, chúng tôi nghe tiếng đạn nổ mà sao chiến xa không bốc cháy, “Đụ má nó”, Đại úy Pháo đội trưởng ra lịnh bắn lần nữa, nhưng xe tăng vẫn chạy, binh sĩ phòng phủ bắt đầu hỏang sợ vì thấy tăng T54 đến mà không thấy máy bay yểm trợ cho chiến trường. Họ sợ bỏ chạy cả vô nhà dân, loay quay chỉ còn mấy Sĩ quan Nhảy dù và Biệt động Quân ngồi lại bàn bạc với nhau định bỏ vô núi Tam giác sắt của tỉnh Phan Thiết. (Sau nầy tôi tìm hiểu những cán bộ Việt cộng thì họ được lệnh không bắn, chỉ đi vô tiếp thu mà thôi, nghe buồn cười không !).

Bấy chừ, tôi nản chí quá không biết làm sao, tính tự sát cho rồi sợ lọt vào tay bọn việt cộng cũng chết, nhưng thằng đệ tử nói : “Thiếu úy ơi ! Thiếu úy chết như vậy không ai chôn Thiếu úy đâu, Thiếu úy hãy vô nhà dân xin áo quần thường mặc rồi tìm cách về Sài Gòn gặp lại cha mẹ vợ con rồi chết”. Mấy đứa lính đẩy tôi vô nhà dân xin áo quần thường dân cho tôi mặc, rồi tụi nó dắt tôi đi ngược về xóm Cà Ná, cho tôi trú ẩn vài ngày, sau đó họ hùn chút ít tiền cho tôi làm lộ phí về Sài Gòn. (Tiểu đòan tôi có một số lính ở hậu cứ được phát lương tháng 3, còn bọn tôi đang ở trong rừng nên ban Quân lương không phát được, vợ con lính lên ban Quân lương lãnh thay chồng, chỉ có bọn Sĩ quan chúng tôi đang trong vùng hành quân và độc thân nên chẳng có tên nào có tiền).

Ngày 19 tháng 4 năm 1975, tôi bắt đầu rời Cà Ná và theo Quốc lộ 1 để về Sài Gòn. Dọc trên Quốc lộ 1, Binh sĩ đông không thể nào đếm, đủ mọi Quân Binh chủng, nhưng chẳng thấy ai mang lon Sĩ quan cả. Bọn du kích nếu thấy ai mang lon Sĩ quan, chúng liền bắt đưa vào rừng bắn chết ngay. Chúng tôi không sợ bọn chính quy bởi vì chúng không làm gì nếu không mang súng, chỉ sợ tụi du kích bắt hoảng mà thôi.

Đoạn đường 350 km tôi phải đi trong 12 ngày mới về tới Sài gòn. Có thể nói con đường Quốc lộ 1 nầy được gọi là đại lộ kinh hòang thứ 2 (Sau đại lộ kinh hoàng của mùa hè đỏ lửa ở Quảng Trị năm 1972).

Trong 11 ngày trên đường về Nam, tôi đã thấy bao nhiêu là xác chết nằm dọc theo Quốc lộ 1, dân có, lính có, trẻ nhỏ có, đàn bà phụ nữ... Họ chết đủ kiểu, có người chết thảm như xe tăng cán qua giống như con khô mực ép dài lê thê, thịt xương nát vụn từng đọan, không ai chôn, mùi thúi nồng nặc. Thật tình mà nói, tôi cũng không biết làm sao tôi về tới Sài Gòn được nữa, chỉ biết đi và đi, giống như xác chết biết đi thôi.

Về tới Sài gòn là mùng 1 tháng Năm 1975. Cả nhà tôi đều vui mừng khi thấy tôi, cả nhà cứ tưởng tôi đã tử trận ở Phan Rang rồi.

Hôm nay viết lại đọan đường nầy, trận đánh nầy mà còn tưởng như là mới hôm nào, kinh khủng thật, may mà tôi còn sống cho tới ngày hôm nay.

Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát, xin cho mọi người chết trong những ngày đó được siêu sinh tịnh độ.

A Di Đà Phật.



Viết xong ngày 26 tháng 3 năm 2011

CSVSQ Nguyễn Văn Quan