PDA

View Full Version : Ngày Về



Longhai
01-06-2014, 08:06 AM
Ngày Về

MX Nguyễn Ngọc Minh


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1389120325.png

Khi sinh ra ai cũng mong muốn có một cuộc đời an nhàn sung sướng. Nhưng người dân Quê hương tôi hầu như không ai có được một cuộc đời lành lặn. Sự thống trị của ngoại bang, chiến tranh chia cắt làm tan nát biết bao nhiêu gia đình người dân hiền lành vô tội. Có lẽ chúng ta chỉ còn lại những mảnh đời không lành lặn, được chắp vá với nhau qua những chặng đường đời. Hôm nay xin được kể cho các bạn nghe về những mảnh đời dang dở đó.

***

Đoàn tàu chưa dừng hẳn chúng tôi đã nhảy xuống khỏi lan can ở toa cuối cùng, chạy vội vã vào trú mưa dưới mái nhà ga. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy đã hơn 11 giờ khuya trên chiếc đồng hồ treo tường. Ánh đèn vàng vọt, ga vắng người, chỉ có một số hành khách lên xuống các toa vào đêm hôm khuya khoắt như thế này. Hùng, Huy, Thành và tôi cố tìm trong ga một vài hàng bán thức ăn, để dằn cơn đói mà từ chiều tới giờ vì chống chọi với cái lạnh và các nỗi lo sợ vây quanh mà anh em chúng tôi đã quên mất.

Ba giờ chiều hôm đó anh Thuyên đưa anh Hùng, Ngọc và tôi đến sân ga Huế. Các người bạn tù ở Huế đã hướng dẫn chúng tôi bọc vòng sân ga để vào theo ngõ các đường rầy.

Đồng Sỹ Tường nói với tôi :

- Cất tiền để đi đường ăn. Tù...! Tội gì phải mua vé ! Vé tàu Thống Nhất cũng không tới phiên mi, Công nhân viên còn phải đợi cả tháng.

Tôi thấy Miễn ngồi trên chiếc xe đạp, trong một góc, nhìn chúng tôi cười, vẫy tay hỏi thăm, chúc xuôi Nam mạnh giỏi. Có chừng hơn mười người bạn ở Huế ra ga đưa tiễn chúng tôi.

Một người bạn nói “Dự báo thời tiết cho biết, có mưa giông cấp 5, cấp 6 tối nay. Tụi mi ráng đi cho kịp, không thì kẹt lại đó".

Một anh khác thêm vào : "Tụi mi chia ra mỗi thằng lên một toa, kiếm một góc nào đó chui vào, ráng chờ cho tới khi nào tàu chuyển bánh thì yên".

Quay qua nhìn Hùng, thấy khuôn mặt lo lắng của anh tôi cảm thấy không yên.

Thường thì cảnh tiễn đưa ở sân ga bao giờ cũng rất là buồn. Buồn vì cảnh kẻ ở người đi... Nhưng anh em bạn tù chúng tôi thì ngược lại, họ không mong chúng tôi ở lại mà lại mong cho chúng tôi đi khuất mặt để về với gia đình đang mong đợi trong Nam.

"Những chiếc khăn hồng lất phất bay,
Những bàn tay vẫy những bàn tay,
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt..."

Chưa bao giờ trong cuộc đời tôi lại có một buổi chia tay lý tưởng như vậy ! Chia tay nhưng vui, chia tay nhưng không có nước mắt mà chỉ có nụ cười đưa tiễn.

Hơn bốn giờ chiều loa phóng thanh thông báo tàu Thống Nhất 2 sẽ đến ga lúc 4 giờ 30 phút. Tôi cảm thấy nóng ruột. Quay qua thì Ngọc đã lủi đi một góc nào rồi, theo đúng sự cố vấn của các bạn tù Huế. Hùng gương mặt rầu rĩ, lo lắng hỏi tôi :

- Sao đây Minh ?

- Tàu đến mình cứ leo đại lên toa rồi tính sau.

Khoảng gần 4 giờ 30, còi tàu hú vang ở khúc quanh khuất tầm mắt cuối đường rầy, và chẳng bao lâu đoàn xe lửa Thống Nhất xuất hiện. Đoàn tàu trông có vẻ mới mẻ, đẹp mắt, khác với những đoàn tàu cũ kỹ mà tôi đã nhìn chán mắt ở ga Saigon mỗi ngày tôi đi đến trường Trương Minh Ký thuở xưa.

Hai chị em tôi thường đi tắt xuyên qua ga Saigon, rút ngắn được một khoảng đường hơn cây số. Tôi thích những hòn than đá nhặt được trên đường rầy, chúng đen mượt và óng ánh dưới nắng như những hòn ngọc đen.

Tàu dừng hẳn. Các cửa toa được mở ra. Sau khi các hành khách xuống xong thì các hành khách mới lên tàu. Anh em chúng tôi bắt đầu chia nhau leo vào các toa. Thật là số “Giẫm phải ổ kiến lửa", tôi chui vào đúng ngay cái toa dành cho các anh bộ đội đi công tác. Vừa không có chỗ trống, lại trông thấy tôi lạ, có lẽ vẫn còn hình ảnh của người bên kia chiến tuyến nên các anh ấy la ầm lên :

- Anh này ở đâu vào đây thế?

Hai cô soát vé nghe thế tiến lại, hỏi vé tàu và mời tôi đi xuống.

Chân vừa chạm đất thì thấy Hùng hốt hoảng chạy tới, hai anh em chúng tôi lại leo lên toa xe kế. Hình như đã được báo động, các cô soát vé lại chận chúng tôi và mời xuống lần nữa.

Thất vọng nhưng vẫn bình tĩnh, tôi kéo Hùng chạy về phía toa cuối cùng, nhưng chúng tôi dã bị chận lại ngay cửa toa.

"Bất Quá Tam", ba bận không được, tôi không nhảy lên xe nữa mà ngồi tính kế.

- Hùng à ! Đợi xe bắt đầu chạy mình nhảy lên. Tôi nói với anh cùng với một cái gật đầu cảm thông và khích lệ.

Hơn 5 giờ chiều, còi hụ, đoàn xe bắt đầu chuyển bánh. Thế là tôi nhanh chân nhảy ngay lên một toa gần đó, Hùng cũng bám theo tôi.

Tôi nhớ mãi cô gái soát vé la toáng lên :

- Các anh có xuống không...?

Cô ta cung tay làm như chuẩn bị xô anh em chúng tôi xuống. Lặng người một giây, tôi suy nghĩ thật nhanh... Quay mình nhảy khỏi toa tàu, Hùng cũng nhảy theo tôi. Đoàn tàu Thống Nhất 2 rời ga xe lửa Huế...

Nhớ lời một anh bạn tù nói với chúng tôi ban chiều "Tụi mi xui. Tụi mi tới sớm một chút đi tàu Thống Nhất 1, tàu Saigon dễ hơn. Tàu ni tàu Hà Nội". Thì ra có bốn chuyến tàu Thống Nhất. Tàu số lẻ 1 và 3 xuất phát từ Saigon, hầu hết Nhân viên trên tàu người Nam. Tàu số chẵn 2 và 4 xuất phát từ Hà Nội, thảo nào toàn là dân Bắc.

Đoàn tàu bắt đầu tăng tốc độ. Tôi nghe tiếng Đồng Sỹ Tường hét lớn "Nhảy lên ! Nhảy đại lên !". Quay người lại thì toa cuối cùng cũng vừa trờ tới nhưng cửa toa tàu đã đóng kín, tôi nhảy đại lên, bám vào lan can sắt, nghiêng người lại kéo Hùng cũng vừa nhảy bám theo sau. Tiếp theo Hùng là Thành và Huy, hai người không biết ở đâu lại xuất hiện bất ngờ, tôi và Hùng nép qua một bên để Thành và Huy có chỗ đu vào.
Chúng tôi vừa đặt chân xuống lan can thì tiếng còi tàu vừa chấm dứt, tàu bắt đầu lao về phía trước với tốc độ nhanh hơn. Bốn anh em tù chúng tôi, những người khách cuối cùng, những người khách không được chấp nhận của đoàn tàu Thống Nhất 2 vừa rời ga Huế. Nhìn ngược về phía sân ga, các bạn tôi vẫy vẫy tay tiễn đưa, xa dần, xa dần mà trong lòng còn nhiều xúc động...

Hơn một giờ sau đoàn tàu chạy qua Vinh Hiền. Nhìn về hướng Đông tôi nhớ đến ngày 26/3/75 tại cửa Tư Hiền, nơi anh em chúng tôi chấm dứt chặng đời Binh nghiệp, để bắt đầu cuộc đời tù đày.

Trời nhá nhem tối, những đám mây đen từ biển kéo vào vần vũ và cơn bão bắt đầu đổ bộ. Mưa tầm tã khi đoàn tàu gần đến Lăng Cô, chân đèo Hải Vân, trời tối mù mịt, chắc vào khoảng gần 7 giờ tối. Thành lôi ra tấm Poncho, hai chúng tôi trùm lấy cho nhau giữ hơi ấm. Hùng và Huy cũng lấy ra những tấm ni lông, chúng tôi nép vào nhau để chống chọi cơn bão và những hạt mưa tới tấp quất lên người.

Đoàn tàu ì ạch leo đèo Hải Vân dưới mưa bão. Có những khúc quanh gắt, tàu chạy chậm hẳn lại. Tôi nghe những tiếng móc sắt mà những tài xế đoàn tàu thả xuống để bám đường rail “cọc, cạch, cọc, cạch, cọc, cạch ...” Những tiếng sắt va chạm trong đêm làm cho tôi tưởng nhớ đến một đoạn thơ, thật là hợp lúc nhưng không hợp tình.

“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có gì vương vấn trong hơi máy
Những chiếc toa, đầy nặng khổ đau”.

Không biết chiếc toa cuối cùng đầy nặng khổ đau này có thông cảm cho bốn người khách bất đắc dĩ đã gửi thêm sức nặng lên mình nó không nhỉ ?

Nhìn về hướng biển, làng Lăng Cô dưới chân đèo chìm trong màn mưa bắt đầu nặng hạt, xa xa lờ mờ vài ngọn đèn leo lét, mưa bão như thế này mà kéo dài vài ngày thì làm sao các ngư dân ra khơi để kiếm ăn. Khoảng tám giờ tối đoàn tàu chui qua một đường hầm dài, từ đó trở đi chúng tôi không còn thấy gì ngoài ngoài màn mưa và sương mù dày đặc từ các hốc núi bốc ra.

Càng lên cao tàu càng chậm dần, có những lúc tàu như dừng lại. Tiếng máy hú rền lên trong đêm, nhìn về phía trước những đóm lửa từ đầu máy phun lên không gian mờ mịt, tôi cảm thấy lạnh người...

Những ngày còn bé tôi thích nghe người lớn kể chuyện ma, hai chân rút lên giường, lấy chăn hay bất cứ một mảnh vải nào trùm lấy cho đừng cảm thấy lạnh. Có những đêm quá khuya, mẹ tôi mắng “Thằng này có đi ngủ không, mai còn đi học”. Trèo lên gác, chui vào mùng, chụp vội cái chăn để trùm kín người từ đầu đến chân mặc dù trời không lạnh lắm, co người lại tôi thầm nghĩ “Trùm kín thế này chắc ma không nhìn thấy mình đâu, nhưng nếu ma kéo chăn ra thì làm sao ?”. Nghĩ thế tôi càng co người lại.

Nhìn theo ánh đèn xe lửa xuyên màn mưa và sương mù dày đặc, tôi chợt nhớ đến câu chuyện “Bóng Người Trong Sương Mù” trong tập truyện ngắn “Anh Phải Sống” của Khái Hưng và Nhất Linh. Tôi rụt đầu vào Poncho, không muốn nhìn và nghe thấy những âm thanh ma quái vang lên trong đêm với bóng người trắng trong sương mù, vẫy vẫy đôi tay kêu gọi con tàu “Dừng lại ! Dừng lại ! Dừng lại !”. Bên cạnh tôi Thành vẫn còn lầm bầm chửi “Mẹ mầy, con mẹ Bắc Kỳ !”

Ngày đơn vị dừng chân ở chợ Sải, Triệu Phong, tôi quen Thành. Mỗi lần không vừa ý một người bạn miền Trung thì anh lại nói “Mẹ mầy, thằng Nẫu !”. Không vừa ý ai Bắc Kỳ thì “Tao nói rồi, cái thằng rau muống !", nhưng chưa nghe anh than van về "Giá sống" bao giờ. Có điều là nói hay chửi xong anh lại cười xòa chứ không như lần này, anh lầm bầm cả buổi tối...

Bên bờ sông Vĩnh Định, chợt thức giấc một đêm khuya, tôi thấy Lên, người hiệu thính viên, chồm người ra khỏi võng chụp lấy cái đèn pin dã chiến, làm băng pin PRC-25, bóng đèn được bọc bằng giấy bạc bao thuốc lá. Anh hối hả vặn lên, có lẽ quá vội vàng, anh lộn giây, đèn lóe sáng rồi tắt lịm. Chồm qua phía chiếc Radio, Lên chụp lấy, vặn thật lớn giữa đêm khuya. Tôi bực mình hỏi :

- Mày làm cái gì vậy Lên ?

Lên im lặng không trả lời. Tôi gắt :

- Tắt đi, làm gì mà mầy mở Radio giờ này !

Anh vặn tắt Radio rồi chúi đầu vào trong cái võng. Lần đó chúng tôi qua đêm tại căn bếp của một ngôi nhà ba gian đã bị sập vì đạn pháo bên bờ sông Vĩnh Định. Tôi và Lên mắc võng vào những cây cột nhà bếp, đâu chân vào nhau, chiếc máy truyền tin dựa vào cây cột ở chân võng. Sáng hôm sau tôi hỏi Lên :

- Làm gì mà mày bật đèn, bật Radio giữa khuya vậy ?

- Em thấy ma.

- Ở đâu ?

Đưa tay chỉ về phía ngôi nhà chính đổ nát không ai dọn dẹp, cả ngôi nhà ba gian sập hoàn toàn trên nền nhà...

- Mày thấy như thế nào ?

- Một cô gái tóc thề, mắt sáng như đèn, nhìn chòng chọc vào em với gương mặt giận dữ.

- Thiệt không mậy ?

- Em nói thiệt.

Quay qua anh Xê và những người lính trong ban chỉ huy, tôi nói thật gọn :

- Mình dời nhà.

Lần khác, Trung đội tôi làm tiền đồn cho Đại đội sau ngày ngưng bắn ở La Vang Thượng trong một ngôi làng nhỏ tên là Như Lệ. Những ngày mưa dầm ướt át, ngồi bó gối nhìn quanh, buồn muốn khóc. Thảo nào làng lại chẳng có tên là "Như Lệ".

Khi bàn giao tiền đồn, chúng tôi vét lại giao thông hào, Hạ Sĩ Tâm nhìn thấy một xương sọ người và một đôi dép râu. Tinh nghịch anh đặt chiếc xương sọ lên bờ giao thông hào rồi lấy đôi dép râu gác trên đầu chiếc xương sọ, miệng nói "Sinh Bắc Tử Nam".

Tối hôm đó Tâm lên cơn điên lồng lộn như bị ai đấm đá dữ dội, chúng tôi phải trói anh lại, và đang đêm cho hai người lính dẫn anh vào Đại đội gặp Trung Sĩ Nhất Trần Ngâm, người Việt gốc Miên vùng 4. Anh Ngâm dùng roi dâu quất vào người Tâm, Tâm quằn quại trên mặt đất. Hôm sau Tâm được đưa ra điều trị tại Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, vài tháng sau được trả về đơn vị anh vẫn chưa tỉnh trí.

Trong đời lính tôi đã gặp quá nhiều chuyện ma quỉ như thế này rồi; đêm nay dưới cơn mưa bão trên đèo Hải Vân, tôi không muốn nhìn thấy thêm một lần nữa.

Tôi quay qua chọc Thành, hy vọng anh em chúng tôi có những tràng cười để qua cơn chịu đựng. "Ai biểu mày là giá sống làm chi ! Nếu mày là rau muống, chắc mày đã bỏ thây trên đường mòn Hồ Chí Minh rồi". Chúng tôi cười khúc khích, cảm thấy thương cho những người "Sinh Bắc Tử Nam !".

Gần mười giờ khuya đoàn tàu bắt đầu đổ dốc. Anh em chúng tôi thật căng thẳng ở những khúc quanh gắt. Bám chặt vào lan can tàu, anh em chúng tôi níu lấy nhau, nghe tiếng bánh sắt nghiến trên đường rail, nhìn những tia lửa bắn ra do sức ma sát của những bánh sắt trên đường tàu trong đêm mù sương, có lẽ các bạn tôi cũng như tôi đang thầm cầu nguyện cho con tàu bình an đến Đà Nẵng.

Nhớ lại cảnh anh em chúng tôi đi Roller Coaster trên đèo Hải Vân năm xưa mà trong lòng còn kinh sợ, khác hẳn với cảnh Roller Coaster ở Magic Mountain hoặc Disneyland bên này, hét lên vì cảm giác và thích thú.
Nửa khuya hôm đó tàu rời ga Đà Nẵng mang theo bốn anh em chúng tôi, những hành khách không ngủ; thật tình thì không dám ngủ, sợ lơi tay bỏ mạng dọc đường. Thành thì cứ tiếp tục "Mẹ mày ! Con quỉ Bắc Kỳ".

Trời vừa sáng tỏ thì đoàn tàu chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Tò mò, chúng tôi rời lan can tàu đi dần về các toa trước để hỏi thăm tình hình, thì ra tàu hỏng máy. Chúng tôi mừng thầm và tự an ủi, “Nếu tàu hỏng máy lúc leo đèo Hải Vân, có lẽ anh em chúng tôi đã nằm vương vãi đâu đó dọc Lăng Cô”.

Nhìn qua cửa sổ một toa xe, tôi trông thấy Quý, một bạn tù trước cùng học ở Khoa Học Saigon. Anh học Lý Hóa Vạn Vật, còn tôi Toán Lý. Tôi gọi Quý và gửi cái ba lô đẫm nước mưa của tôi, để được dễ dàng xoay xở. Sau này về Saigon, đến nhà anh nhận lại "gia tài tù" thì nó đã được giặt, phơi khô và xếp cẩn thận lại rồi.

Đoàn tàu Thống Nhất 2 nằm chịu trận giữa đường chờ sửa chữa. Chúng tôi nhờ các bạn may mắn hơn đã ở yên trong các toa mua hộ thức ăn dằn bụng.

Khoảng 2 giờ chiều đoàn tàu chợ Đà Nẵng - Qui Nhơn xuất hiện. Chúng tôi rời lan can tàu Thống Nhất 2 để nhảy lên các toa của đoàn tàu chợ Qui Nhơn. Đoàn tàu chợ không có cửa như tàu tốc hành Thống Nhất. Kiếm một góc toa chúng tôi ngồi xuống nghỉ mệt sau gần một ngày đêm căng thẳng và không được nghỉ ngơi.

Ì à ì ạch dọc đường, ghé các ga, cuối cùng đoàn tàu cũng về đến ga Diêu Trì, Qui Nhơn khi trời vừa sẩm tối. Tàu chưa dừng, loa phóng thanh đã oang oang thông báo : “Hành khách có vé xếp hàng bên trái, hành khách không có vé xếp hàng bên phải, ai không có vé phải mua vé phạt 100%”. Giá vé Đà Nẵng - Qui Nhơn 26$, ai không có vé phải trả 52$. Tính thầm số tiền còn lại trên người, thì nếu phải mua vé chỉ một lần này thôi đã quá nửa số tiền anh em chúng tôi được phát là 95$ tiền vé xe lửa về Saigon và 7$ tiền ăn dọc đường.

Nhìn về phía cổng ra vào của nhà ga. Tôi trông thấy một người lính Công an đang đứng gác. Kéo các bạn ra khỏi hàng, vừa đi về phía cổng tôi vừa nói "Công an giữ mình thì bây giờ công an thả mình". Tới trước mặt anh công an, tôi mở lời :

- Chào cán bộ.

- Gì thế ! Các anh muốn gì thế ?

Giọng nói miền Bắc, có lẽ anh là một Công an thuộc ngành Hỏa xa được điều động vào làm việc trong Nam.

- Thưa cán bộ, anh em chúng tôi học tập cải tạo được thả từ Huế. Gần một tuần nay, chúng tôi đi đường không còn đủ tiền, xin cán bộ cho ra Qui Nhơn gặp người quen mượn tiền về quê. Tôi trình bày hoàn cảnh và xin được cho ra khỏi ga.

- Có thật anh hết tiền không nào ?

- Thật mà cán bộ. Tôi bị kẹt ở Huế cả tuần, chờ tàu Thống Nhất mà không mua được vé nên tiêu hết tiền.

- Còn anh này ? Anh công an quay qua hỏi Thành.

- Tui cũng vậy ! Cán bộ không tin cứ xét, không nghe nó lầm bầm "Mẹ mày Bắc Kỳ" nữa !

May phước anh Công an không hỏi Hùng và Huy. Hai anh chàng này chả bao giờ dám nói láo.

- Các anh nói dối là các anh chết với tôi đấy nhé !

Có lẽ thông cảm hoàn cảnh, anh đưa chúng tôi ra cổng và nói với nhân viên gác cổng :

- Cho các anh này ra.

"Thương người là tính bẩm sinh của dân tôi"

Sau khi ra khỏi ga, chúng tôi kiếm một hàng bánh mì nhét đầy bụng rồi ghé đến một vòi nước công cộng uống cho thật no.

Đêm hôm đó bốn anh em chúng tôi nằm ôm nhau ngủ say như chết trên một vỉa hè của Thành phố Qui Nhơn bỏ mặc dòng người qua lại.

Tờ mờ sáng nghe Thành hét lên :
- Đm ! Thằng nào rọc túi tao rồi.

Chiếc áo Jacket sờn vai cũ kỹ của Thành bị rọc ở một góc túi, thiệt là hết nói “Ăn xin gặp ăn trộm”.

Chúng tôi kéo đến vòi nước công cộng để rửa mặt rồi trở lại ga Qui Nhơn với hy vọng có tàu xuôi Nam.

Tôi chợt nhớ tới Phan Văn Châu với lời nhắn trước khi được thả ở Cồn Tiên, nhét vào tay tôi tấm giấy xếp nhỏ và nói "Chừng nào về, trên đường xuôi Nam, đến Qui Nhơn, nhớ ghé nhà tao".

Châu cùng học với tôi ở Khoa Học, tôi hỏi nó kỷ niệm nào nhớ nhất khi lần đầu vào Saigon. "Chiếc xích lô máy", Châu trả lời. "Tao vừa xuống xe đò thì một chiếc xích lô máy trờ tới, tao leo lên để đến địa chỉ người quen, thiệt là xanh máu mặt. Tao thấy nó chạy như đâm vô đít người ta, rồi lạng qua lạng lại. Ngồi trên xe tao né qua trái, rồi né qua phải; thằng cha tài xế vừa lái xe vừa nhìn tao, vừa cười sằng sặc. Khỏi có lần thứ nhì !".

Đêm cuối ở trại, trước khi ra về, trao cho tôi chiếc ba-lô mà gia đình nó đem ra kỳ thăm viếng trước đó, Châu nói:

- Ê Minh, hồi chưa quen mày, tao ghét mày lắm !

- Còn bây giờ thì thù tao chớ gì ?

- Không, tao thấy mày chơi với bạn thiệt tình ...

"Xin lỗi bạn nhe Châu, tờ giấy xếp tư còn nằm trong đáy bóp nhưng tôi không dám lôi ra, không muốn đến làm phiền bạn. Giờ này bạn ở đâu ? Cho gửi lời thăm hỏi !".

Ga Qui nhơn đông nghẹt người nhưng bảng Thông báo cho biết không có xe lửa rời ga ngày hôm đó. Chờ đến 9 giờ sáng cũng không có gì thay đổi. Chúng tôi hỏi thăm đường sá và kéo nhau ra bến xe đò. Khi đến nơi thì chỉ còn vài chuyến cuối cùng, chẳng có bán vé gì cả, muốn đi thì cứ móc túi ra trả 55$ một người. Nóng lòng muốn về anh em chúng tôi phải bấm bụng lấy tiền mua vé.

Vượt đèo Cù Mông, vượt cầu Đà Rằng xe phom phom xuôi Nam. Khoảng ba giờ chiều xe đến đèo Rù Rì. Nhìn về phía trại lính trên đèo bị bỏ hoang phế, lại nhớ đến thời gian sau ngày đi chiến dịch chúng tôi được về trú đóng ở đây, rồi thì đến ngõ vào Trung tâm Huấn luyện Đồng Đế, nơi đã rèn luyện chúng tôi thành một người lính. Ngày nhập trại chúng tôi chỉ vào tượng đồng đen của người lính trước cổng nói đùa :

"Chừng nào phơi nắng đen như thế này thì mình ra trường..."

Trên ngọn đồi sau trường không còn bức tượng người lính ở đó nữa, dù sao cũng hơn là họ đổi cái nón sắt của anh thành cái nón cối. Mỗi chiều hoàng hôn nhìn lên tượng người lính trắng và ngọn đồi in hình trên bầu trời thì sẽ thấy câu thơ mà ai đã từng ở trường Đồng Đế phải biết :

"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh."

Xuống xe ở Nha Trang gần bốn giờ chiều, đường phố ướt át và mát rượi sau cơn mưa. Gần sáu năm rồi sau ngày thống nhất đất nước, Nha Trang trông có vẻ tàn tạ, những tấm bảng bích chương, quảng cáo, cổ động vẽ hình các công nhân, bộ đội và các khẩu hiệu "Lao động là vinh quang" mà khi còn ở trong tù anh em chúng tôi thường đùa là "Lao động là vất vả, nằm ngả là vinh quang" trông có vẻ lạc lõng làm sao ấy. Gần sáu năm rồi mà chúng tôi chẳng được nghe thêm một bài hát hoặc một bài thơ mới về cái Thành phố miền biển đáng yêu này.

Có lẽ văn nhân, nghệ sĩ đã bỏ bút, bỏ đàn để cầm cày, cầm cuốc đi kiếm ăn rồi, còn ai mà mơ về “Nha Trang là miền quê hương cát trắng, Ai qua không ghi vào lòng một niềm luyến tiếc bâng khuâng”, luyến tiếc gì trong khi bụng không có một hột cơm.

Chúng tôi đi lần về ga xe lửa, gần đến ga thì thấy Ngọc và Hiệp đi về phía chúng tôi.

"Tiên sư mày, giờ này sao còn ở đây. Ông tưởng mày về đến Saigon rồi." Tôi nhìn Hiệp miệng nói lớn. Nó trả lời "Mẹ, nhớ Nha Trang quá ghé lại thăm".

Hiệp cùng học Khoa Học với tôi, gia đình ở Hố Nai, Biên Hòa.

Hiệp kể : “Tao với một thằng bạn, không phải thằng Ngọc này, leo lên tàu Thống Nhất 1 tại Huế lúc ba giờ chiều. Xe đã chạy rồi, hai con nhỏ soát vé vào hỏi vé, hai thằng tao gốc Bùi Chu, Phát Diệm nói giọng Bắc đặc, thế là tụi nó đuổi chúng tao ra lan can. Xe leo lưng chừng đèo Hải Vân thì mưa bão ập vào. Hai thằng tao ướt như chuột lột, tụi tao ngồi rủa "Hai con quỉ ác độc". Một lúc sau nghe bên trong có tiếng nói chuyện qua lại, cửa sổ mở ra và một con nhỏ soát vé ló đầu ra hỏi :

- Có phải hai anh là tù cải tạo không ?

- Vâng, tụi tôi là tù cải tạo được thả ra ở Bình Điền. Tao trả lời.

Thế là cửa mở rộng, hai nàng tiên kiều diễm lách ra để hai tụi tao vào.

Những người dân miền Nam trong toa nhường chỗ cho tụi tao ngồi, người thì đưa khăn lau, người thì đưa nước uống, có người còn đi mua thức ăn cho tụi tao. Khi tới Nha Trang tao xuống ga, họ ngăn cản, nói là nên đi luôn vì một lần đi là một lần khó khăn. Tao nói là còn một chuyện nợ nần tình cảm ở Nha Trang nên phải xuống để giải quyết. Thằng bạn kia hãi quá không dám xuống."

Còn thằng Ngọc kể : "Ở Huế tao lủi vô một góc, nhìn kỹ không có động tĩnh, tao leo lên toa của những người dân buôn, tao xề xuống chỗ của một bà quấn khăn người miền Nam. Biết tao là tù cải tạo, bà để yên cho tao ngồi. Tàu chạy, tụi nó đến soát vé và đòi tiền phạt, những người dân buôn miền Nam chung tiền góp cho tao, thấy thế nó làm ngơ, thế là tao có thêm ít tiền."

- Thế thì mày xuống đây làm gì, không đi về luôn cho êm chuyện.

- Nhớ Nha Trang quá, sẵn dịp đi ngang ghé lại thăm, hồi tưởng lại quãng đời quá khứ, không biết còn có dịp trở lại nữa không...

Sáu đứa chúng tôi tạt vào một quán nước bên đường, ngồi ăn uống qua loa và nghỉ mệt. Thực sự thì chỉ có bốn đứa tôi cần nghỉ mệt, hai thằng kia có mệt gì mà nghỉ.

Anh chủ quán nghe chúng tôi kể chuyện đường về đâm ra thông cảm, đem tặng cho chúng tôi hai xị rượu thuốc và một ít mồi lai rai.

Rời quán chúng tôi đi dạo vòng quanh Thành phố để nhớ lại những địa điểm mà một thời đã hằn dấu trong cuộc đời chúng tôi, những người lữ khách.

Trở về ga thì trời đã tối hẳn, chúng tôi tìm một góc trống ngồi nghỉ chuẩn bị cho ngày mai. Ngọc lôi cây đàn ra, cây đàn đã làm cho tôi và nó bị kiểm điểm nhiều lần về tội hát nhạc vàng. Đêm hôm đó nơi sân ga, nước mắt lưng tròng tôi ngồi hát bài "Nha Trang ngày về" của Phạm Duy. Hùng càng làm cho không khí thêm se lạnh với bài "Đêm Đông" của Nguyễn Văn Thương. Chung quanh chúng tôi khoảng năm mươi người lữ khách ngồi quây quần im lặng thưởng thức, không một tiếng vỗ tay, không một lời tán thưởng. Hiệp, Ngọc và Thành thay phiên đàn cho chúng tôi hát gần hai tiếng đồng hồ.

Anh công an gác ga đi qua đứng nhìn chúng tôi rồi yên lặng bỏ đi. Có lẽ anh đến một góc nào đó trong sân ga để cảm thấy rằng, anh cũng như chúng tôi, tất cả đều là những lữ khách trên chính quê hương Việt Nam đã tàn tạ vì chiến tranh, chia rẽ, hận thù...

Chúng tôi bị thức giấc bởi những tiếng náo động của những người đi buôn tràn vào sân ga sớm lúc 5 giờ sáng. Theo dòng người chúng tôi vòng ra ngoài rồi theo ngả các đường rầy để leo lên đoàn tàu chợ Nha Trang - Saigon. Hùng không muốn mạo hiểm một lần nữa nên xếp hàng mua vé. Còn năm thằng chúng tôi leo lên xe ngồi trước. Khoảng 7 giờ sáng hành khách có mua vé được lên xe. Thì ra những người dân buôn đã chọn trước những chỗ tốt rồi.

8 giờ sáng tàu rời sân ga, chạy đến Cam Ranh thì Nhân viên soát vé tàu vào toa của chúng tôi. Trước đó, khi biết chúng tôi là tù cải tạo những người dân buôn vội vàng nhét những bao hàng dưới chỗ ngồi chúng tôi ngồi. Anh Nhân viên soát vé sau khi coi xong giấy tờ của tôi thì nói "Chúc mừng các anh, chúc các anh may mắn !" rồi bỏ đi. Anh độ chừng hơn 30 tuổi, chắc cũng có thời là Chiến binh miền Nam.

Tàu ghé qua các ga Mường Mán, Hàm Tân, Long Khánh và nhiều ga khác nữa mà tôi không nhớ tên, lòng lâng lâng nghĩ đến lúc về tới nhà chắc bố mẹ tôi ngạc nhiên lắm. "Tam thập nhi lập", bố mẹ tôi đã già, tôi không có dịp phụng dưỡng mà còn là một gánh nặng cho gia đình.

Chúng tôi lót lòng bằng các thức ăn mua trên xe lửa hoặc ở các ga dọc đường. Tôi không cảm thấy đói, mệt gì cả vì nỗi vui mừng sum họp với gia đình đã xóa mất đi rồi.

Đoàn tàu đến Thủ Đức thì trời đã hoàng hôn, song song với đường tàu từ Thủ Đức về Bình Triệu là Quốc Lộ 1. Con đường tôi đã đi lại rất nhiều lần từ thời Trung Học, những ngày đi chơi ở Thủ Đức, Biên Hòa, Lái Thiêu... Tôi còn nhớ những khúc quanh trên đoạn đường này.

Gần đến Bình Triệu xe lửa từ từ chậm lại. Tôi thấy các người dân đi buôn bắt đầu quăng hàng hóa xuống đường. Dọc theo đường là các xe Honda ôm, xích lô, ba gác, ba bánh gắn máy chờ đón để chở đi những hàng hóa mà dân buôn sợ phải đóng thuế khi vào đến ga.

Tôi hỏi một thanh niên trẻ đứng cạnh cửa :

- Chừng nào thì đến ga Saigon ?

- Ga Saigon giải tỏa rồi, tàu chỉ đến ga Bình Triệu mà thôi.

- Thế thì chúng tôi xuống đâu ?

- Các anh xuống đây tốt nhất, đi xe ôm hoặc xe xích lô về Saigon.

Anh em chúng tôi bắt đầu nhảy ra khỏi tàu, Ngọc, Hiệp, Thành, Huy và tôi.

Chân vừa chạm đất tự nhiên đôi dòng lệ vui mừng trào ra. Tôi đã thật sự đặt chân đến Saigon, nơi mà gần 30 năm trước tôi được sinh ra ở nhà thương Từ Dũ. Nơi mà bố và các anh chị đã đến đón mẹ và tôi ngày ra đời, cũng là nơi mà tôi đã theo bố đến đón mẹ và các em tôi sau này. Nhớ đến ngôi nhà mà tôi đã được dưỡng nuôi từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, tôi đột nhiên xúc động.

Bài nhạc "Ngày về" của Hoàng Quý chợt thoát ra từ cửa miệng.

"Tung cánh chim tìm về tổ ấm,
Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm,
Nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày qua..."

Chúng tôi 5 đứa nhảy lên một chiếc xe ba bánh gắn máy để đi về Saigon. Xe quẹo trái ở ngã tư Bình Triệu. Từ trên dốc cầu Bình Triệu nhìn về phía Saigon, những hàng đèn sáng rực càng rực sáng hơn lên trong lòng tôi.

"Saigon đẹp lắm Saigon ơi, Saigon ơi !"

Ở cuối con đường này là nhà tôi, gia đình tôi đang chờ đợi...

Những cánh chim tha phương sẽ bay về tổ cũ và mái ấm gia đình, sẽ hàn gắn lại những vết thương đời, chiến tranh, tù tội, xóa đi các vết chàm đã khắc sâu vào thể xác cũng như tâm hồn những niềm đau âm ỉ không nguôi.

Tối hôm đó Hùng về thẳng nhà người em gái ở Phú Nhuận, Huy theo Thành đến trọ nhà người bà con ở Phú Thọ Hòa, Hiệp và Ngọc ở lại nhà tôi qua đêm. Sáng sớm hôm sau Hiệp về Hố Nai - Biên Hòa, Ngọc về Bình Tuy. Hai ngày sau đó Thành về Mỹ Tho, Huy về Vĩnh Bình.

Anh em chúng tôi không gặp lại nhau từ đó. Bây giờ Hiệp ở Santa Ana, Hùng ở San Jose, California, Thành ở Chicago, Illinois. Chỉ buồn cho Ngọc, Ngọc vẫn chưa dứt nợ súng đạn, đã qua đời sau một cuộc đọ súng với cướp khi đang làm việc trong một tiệm Liquor ở Texas. Huy quyết định ở lại Việt Nam chỉ với một ý nghĩ đơn giản "Xin chọn nơi chôn nhau cắt rốn, làm nơi gửi nắm xương tàn".

Còn tôi, ngồi đây với những mảnh đời dở dang được viết ra trên giấy...


MX Nguyễn Ngọc Minh

Nguyễn Trãi B363
Tiểu Đoàn 7 TQLC