PDA

View Full Version : Thằng "Cối Minh"



Longhai
12-12-2013, 10:36 PM
Thằng “Cối Minh”


Đoàn Trọng Hiếu



Viết để tưởng nhớ đến Hạ Sĩ Thái Văn Minh - Người lính dưới quyền thân thương của tôi.

(Ngôn ngữ trong đoạn Hồi ký này không hàm ý quan liêu mà chỉ nói lên cái tình của những người cùng gian khổ sống với nhau. Nếu thay đổi cách xưng hô nó sẽ mất đi cái tình mà người viết luôn trân trọng. Mong quý độc giả lượng thứ)


Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu


***

Sau trận giải tỏa căn cứ Alfa do TĐ 30 BĐQ trấn giữ tại vùng Mimôt bên lãnh thổ Kampuchia tháng 9/1971, Đại úy Trương Thanh Minh, Đại đội trưởng ĐĐ4/52 BĐQ bị thương và rời khỏi Tiểu đoàn đi làm Phường trưởng ở Sài Gòn. Tôi được chỉ định sang thay thế ông nắm Đại đội này. Sau khi gặp gỡ các Sĩ quan, và Hạ sĩ quan của Đại đội để làm quen mặc dù chúng tôi cũng chẳng xa lạ gì nhau, thì Trung sĩ I Thóc, Thường vụ Đại đội, gọi hai người lính đang dứng lấp ló ngoài cửa hầm.

- Ê, vào đi tụi bay.

Sau khi hai người lính giơ tay chào, ông chỉ tay vào một người mang lon Hạ sĩ nói tiếp :

- Thằng này là Tào Khén tức “tào lao” nó lo cơm nước cho Thiếu úy, còn thằng này là Binh nhất “Cối Minh” nó làm ‘tà lọt” cho Đại úy Minh. Nếu Thiếu úy đồng ý thì giữ nó lại.

Tôi chỉ vào cái thùng gỗ đựng đạn pháo binh 105 ly trước kia giờ được dùng để làm cái ghế bảo họ ngồi. Tôi hỏi thăm qua về gia đình của Trung sĩ I Thóc vì tôi đã biết ông từ lâu, ngày mới ra trường còn đang chờ ở Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân để đươc phân bổ đi đơn vị. Tôi đã gặp ông cũng vừa học xong khóa Hạ sĩ quan đặc biệt. Sau đó, chúng tôi cùng về TĐ52BĐQ, cùng chung Trung đội 2 thuộc Đại đội 4. Ông làm Tiểu đội trưởng cho tôi. Sau đó tôi thuyên chuyển qua nhiều Đại đội. Giờ sau gần 3 năm quay trở lại, ông đã thăng cấp Trung sĩ I và làm Thường vụ Đại đội. Thóc quê ở Sađéc người cao lớn vạm vỡ, tính tình hòa nhã uống rượu như hũ chìm. Cũng chính ông là người đã khích tướng tôi là “Biệt Động Quân thì phải lỳ một lam”. Để rồi từ một nắp Biđông, tôi cũng đã trở thành tay nhậu có hạng, ba người xoay tua có thể cưa đổ 2 cái Biđông. Hai vợ chồng ông lấy nhau từ khi ông còn là Binh nhất ở tiểu đoàn 35 nhưng đến nay vẫn chưa có con, được biết ông đã mang vợ về ở trong Khu gia binh của Đại đội. Có ông làm Thường vụ tôi cũng an tâm nhất là đối với một Thiếu úy non chọet như tôi giờ phải đảm nhiệm một chức vụ quá lớn đối với khả năng và cấp bậc của mình. Quay sang hai người lính tôi hỏi :

- Thế còn Tào Khén mày quê ở đâu ? Có vợ con gì không ?

Với một giọng tàu lai, nó cho biết nhà nó ở gần sân bắn Bình Thới. Hồi Tết Mậu Thân, thấy lính BĐQ “oánh” ngon lành quá xá, nên sau Tết nó tình nguyện vào lính. Khi ra đơn vị, lúc đó Trung úy Ngô Văn Niếu làm Đại đội trưởng giữ nó ỏ lại Ban chỉ huy và lo cơm nước cho ông. Giờ nó có vợ, và có một con, nên cũng an phận không muốn ra ngoài các Trung đội nữa. Sau khi nghe Tào Khén nói xong, tôi quay qua hỏi thằng Minh mấy câu. Sở dĩ vậy vì nó là người sẽ đi sát cạnh tôi, lo cho tôi từ miếng ăn giấc ngủ cũng như an toàn của tôi.

- Ê, Minh mày mấy tuổi ?

- Dạ, 18, Thiếu úy.

- Vậy là mày đăng lính năm 17. Sớm quá he há. Ở đâu mày ?

- Dạ, Bến Cát.

- Bộ mày có theo Việt cộng trước đây hay sao mà lại gọi mày là “Cối Minh”.

- Dạ, hổng có Thiếu úy.

Nghe tôi hỏi đến đây ông Thóc xen vào :

- Hồi mới về Đại đội nó ở khẩu đội súng cối. Lúc đó nó còn nhóc con lắm, đi hành quân nó vác không nổi cái Balô, 2 cấp số đạn 4, quả lựu đạn cộng thêm 2 trái 60. Nhiều lúc tôi phải vác phụ nó. Tưởng nó đào ngũ hồi đó. Ai dè nó ráng ở lại rồi chịu cơm nhà binh nên giờ mới ngon cơm như vậy. Sau Đại úy Minh lấy nó làm “tà lọt”. Tôi phải gọi nó là thằng “Cối Minh” để tránh trùng tên với ổng nghe nó kỳ quá.

- Thôi vậy được rồi ! Ông vẫn sắp xếp gác sách cho cả hai đứa chúng nó, nghe chưa ? Còn thằng Minh, balô của tao thì tao mang. Nhớ luôn bỏ trong đó một bộ đồ với bịch gạo xấy, lỡ có gì tao còn có cái ăn cái mặc. Trong balô có cà phê, mày ra làm một ca mang vào đây thầy trò mình uống.

Tôi đã có thói quen từ ngày làm Trung đội trưởng, lúc nào cũng balô trên vai và kè kè theo khẩu M16 với hai băng đạn được quấn dính vào nhau. Có nó tôi tự tin hơn mỗi khi chạm địch, và sau này nó cũng đã cứu tôi “Một bàn thua trông thấy” trong lần giải tỏa QLI tại đồi chuối Hưng Lộc Dầu Giây cuối tháng 7/72. Tôi hỏi thêm Trung sĩ Thóc về tình hình đơn vị, về một số Cán bộ Hạ sĩ quan mà tôi chưa biết, còn lại hầu hết tôi đã biết khi tôi còn làm Trung đội trưởng ở Đại đội này. Thành phần Sĩ quan ngoài tôi ra thì chỉ có duy nhất Thiếu úy Vũ Văn Nghị là Đại đội phó kiêm Trung đội trưởng Trung đội 3. Còn hai Trung đội còn lại do Trung sĩ I Tứ nắm Trung đội 1, và Trung sĩ I Lữ nắm Trung đội 2. Sau trận Dambe vào tháng 4/71 mà Tiểu đoàn chúng tôi có tham dự trên lãnh thổ Kampuchia, cũng giống như các đơn vị BĐQ tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 trên lãnh thổ Hạ Lào, hầu hết các đơn vị quân số hao hụt chưa bổ sung kịp. Tuy nhiên, sang đầu 72, thì khả năng tham chiến của các Đại đội đã khá hơn, trung bình khoảng 80 người. Số Sĩ quan và Hạ sĩ quan cũng được bổ sung thêm. Mặc dù cũng mới chỉ bằng 2/3 bảng cấp số, nhưng như vậy cũng tạm đủ để việc đánh đấm áp dụng có bài bản hơn, có công có thủ để có thể hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Không như những ngày mới hành quân sang Kampuchia tháng 3/70, quân số Đại đội chẳng bao giờ có được trên 60 người, lúc đụng trận trước mặt là địch, còn trái phải sau lưng cũng chỉ có một mình ta. Đôi khi hành quân chung với các đơn vị Nhẩy Dù, TQLC, thấy họ được trang bị đầy đủ cả về quân số cũng như hỏa lực cơ hữu và yểm trợ mà tôi phát thèm.

Trở lại với thằng “Cối Minh”, sau những ngày tháng gần nhau nó tỏ ra là một thằng em thật thà trung hậu, lo cho tôi từ miếng ăn đến giấc ngủ, từ những ca cà phê đến những điếu Bastos xanh luôn được thủ sẵn trước lúc hành quân. Những khi hành quân lưu động, nó luôn cùng Hạnh và Thường trọc lo đào hầm hố chu đáo. Dạo này, tôi còn thấy nó đào hầm hố cho Hạ sĩ I Bắc Kỳ Vấn, hỏi ra thì biết nó đang theo đuổi con Lệ đứa con gái lớn của ông. Với số lương BI khoảng hơn 12.000 đồng vậy mà nó cũng chí thú tháng nào cũng gởi ông Trung sĩ I Vịnh, Hạ sĩ quan tiếp liệu Đại đội, giữ giùm nó 5000$ để mẹ nó lên hậu cứ lãnh và cho con bé 2000$.

Một hôm tôi làm bộ hỏi nó :

- Ê nè Minh ! Mày tính lấy con Lệ, thiệt hả mày ? Mày có hình nó đưa tao coi có gì tao nói với ông Vấn cho.

Nó vừa nói vừa lôi trong bóp tấm hình con nhỏ được bọc Plastic cho khỏi ướt :

- Dạ, nhưng mà ổng khó tính quá, sai làm hết cái này đến cái kia. Đ… tía, lại còn hay chửi nữa, chịu đời hổng thấu. Nói thiệt với Thiếu úy, tui lỡ thương nó rồi chứ biết ổng như vầy thà ở giá sướng hơn.

Nhìn trong hình con bé cũng sạch nước cản, trắng trẻo, con mắt có đưôi thật lẳng lơ, nhưng ngay khóe mắt nơi sống mũi lại có một nốt ruồi. Thấy cái tướng có biểu hiện khộng hay nhưng tôi cũng nói để nó vui :

- Thì ổng cũng phải lên mặt tía vợ với mày. Chớ mày tưởng bộ đẻ con gái ra để cho không mày chắc ? Ê, mà con nhỏ mấy tuổi rồi mày ? - Dạ! Mười sáu, Thiếu úy.

- Nó mới mười sáu, đừng có làm gì nó nghe thằng ông nội ! Để chừng năm nữa tao nói với ổng cho.

Thế rồi sau những ngày tử thủ Bình Long, Tiểu đoàn về hành quân giải tỏa Bình Ba, Bình Giả; rồi đến Hưng Lộc, Dầu Giây. Tuy chúng tôi quanh quẩn gần hậu cứ tại Hố Nai, nhưng không còn dịp xả trại như trước nữa, mà chỉ thay nhau đi phép thường niên. Lúc này, đại đội được tăng cường cho Liên đoàn 81 Biệt Cách Dù. Gần ba tháng đơn vị thường xuyên ứng chiến để tiếp cứu cho các toán nhảy trong vùng chiến khu D, và sau cùng là trận đụng độ với một C thuộc đoàn 429 đặc công tại rừng Cò Mi khi chúng rút lui khỏi mặt trận Búng, Lái Thiêu. Sau đó, đơn vị lại trở lên Bình Long. Suốt thời gian này “tía con” nó có vẻ khá thân thiện với nhau, không còn nghe nó than phiền về ông “tía vợ “ nó nữa.


***

Đầu năm 1973, lúc này nó đã mang lon Hạ sĩ. Muốn cho nó tiến thân, nhân có khóa CC1 Quân y, tôi bèn gởi nó đi học mặc dầu nó không muốn, tôi phải khích nó :

- Đ.m, mày phải đi học để còn về “giựt le” với con Lệ chứ. Không lẽ mày làm “tà lọt” cho tao hoài sao ?

Sau 3 tháng nó trở về thì đơn vị đã chuyển xuống Chơn Thành. Tôi phân bổ nó về làm Y tá cho Trung đội 2 của Chuẩn úy Châu. Tuy nhiên, làm như nó vẫn không muốn rời khỏi nhiệm vụ cũ, cứ rảnh là lại quanh quẩn bên tôi. Nó dặn thằng Cư “tà lọt” mới là mày phải thế này, mày phải thế nọ, cà phê thì phải pha thật đậm bỏ ít đường thôi.v…v. Nhiều lúc, thằng Cư cảm thấy khó chịu càu nhàu :

- Đ…tía, mày làm như là tao hổng biết lo cho Trung úy chắc. Mày hãy lo cho ông già vợ mày đi, tao thấy độ rày ổng thân với thằng Hạnh lắm.

Đúng như lời thằng Cư nói, dạo này tôi thấy thằng “Cối Minh” nhìn thằng Hạnh với con mắt khang khác không còn thân thiện như xưa. Nó cũng không còn thân thiện với ông Bắc Kỳ Vấn nữa, tôi hỏi nó tại sao vậy nó chỉ trả lời :

- Đ… tía ! Con ngựa đó nó theo thằng Hạnh. Nó đá tôi rồi, ông thày.

So về nét bảnh bao thì thằng Hạnh cũng chẳng hơn gì thằng Minh, nhưng về ăn nói thì dù sao nó cũng là “Dân uống nước máy” nên có phần tỉnh hơn, chứ không như thằng Minh là “Dân uống nước ruộng” nhà quê chơn chất thật thà. Hơn nữa, bố thằng Hạnh là ông Thượng sĩ Hanh, thuộc Đại đội Hành chánh công vụ cùng ở chung trong Khu gia binh. Bà Hạnh đã chấm con Lệ cho thằng Hạnh. Bà thường lân la ra ngôi chợ Bùi Chu nơi bà Vấn bán xôi mỗi buổi sáng để trò chuyện. Dần dà, hai gia đình đã trở nên thân quen đi lại với nhau. Con Lệ thì dường như cũng đã lạt lẽo với thằng Minh để ngả về thằng “Trung úy” Hạnh, thằng đệ tử mang máy nội bộ của tôi. Sở dĩ tôi gọi nó là “Thằng trung úy” vì dường như mỗi khi về phép nó thường cùng Trung sĩ Tắc y tá và thằng Đời, thằng Hùng bên Đại đội 3, mang lon Trung úy đi chơi ở Sài Gòn. Có một lần cuối năm 71, lúc tôi còn Thiếu úy khi vừa sang nắm ĐĐ4, Tiểu đoàn về hậu cứ và được xả trại 3 ngày. Tôi đang lang thang cùng bà xã trên đường Lê Lợi, tạt vào Mai Hương định ăn kem, thì gặp bốn ông Trung úy của tôi đang ngồi ở bàn trong. Thấy tôi, chúng nó vội đứng dậy chào, tôi bèn chào lại. Để cho tụi nó tự nhiên, tôi nói :

- May quá gặp mấy Trung úy. Thiếu tá nói nếu gặp mấy Trung úy thì mời về họp hành quân tối nay.

Ghé tai Tr/s Tắc tôi nói nhỏ :

- Đ…m, cứ thoải mái. Đối với tao không sao, dặn tụi nó đừng làm gì bậy bạ để bị mấy thằng “ Cu Xê” vồ, nghe không ? Nhớ chiều 6 giờ, ra xe tao đợi tại tượng đài Thủy Quân Lục Chiến, đêm nay đi rồi.

Nói xong, tôi cùng bà xã quay ra không quên chào chúng nó với một nụ cười thật thông cảm. Đời lính là thế đó, quanh năm xuôi ngược hành quân, được nghỉ dăm ba ngày phép, “giựt le” một tí cũng chẳng “Chết thằng Tây nào”.

Mất con Lệ, thằng “cối Minh” buồn thấy rõ. Nó ở lỳ ngoài tiền đồn vì không muốn vào trong này lại thấy mặt thằng Hạnh và ông Vấn. Con Lệ có gởi Trung sĩ Vịnh hơn chục ngàn trả lại một phần số tiền thằng Minh đã cho nó, nhưng nó ra vẻ “Quân tử tàu” không nhận lại.

Hơn nửa năm sau, lúc Đại đội đóng quân ở Nha Bích trên đường đi Đồng Xoài, nó lại quen với một con bé bán quán cóc gần chợ Chơn Thành. Mẹ nó có gởi Trung sĩ Vịnh mang lên ít cau trầu trà quả nhờ tôi đứng ra làm đám hỏi cho nó.

Sau đám hỏi ít hôm không may cho nó, nó bang phải một trái lựu đạn gài. Khi quay người chạy lại phía sau, đầu nó đập vào một cành cây lớn té dội ngược lại. Không còn kịp gượng lại nữa, trái lựu đạn đã cướp đi mạng sống của nó, thằng “Cối Minh” người tà lọt thân thương của tôi trong suốt gần 3 năm tại Đại đội 4/52 Biệt Động Quân.


***

Giờ đây tuổi đời đã ngoài sáu bó, ngồi nhớ lại đơn vị cũ chiến trường xưa, không sao tránh khỏi ngậm ngùi thương cảm, những giọt nước mắt lại lăn tràn trên hai gò má đã nhăn nheo vì một đời khổ hận. Tôi vẫn khóc, và hôm nay lại khóc. Khóc cho những thằng bạn, thằng em, đã hy sinh trong cuộc chiến. Khóc cho những thằng đang sống đọa đày vất vưởng nơi quê nhà. Và khóc cho những thằng như tôi ước vọng chưa thành đời mãi long đong nơi đất khách quê người…

New Mexico một chiều Đông
tháng 1/2010 nhớ về KBC 3506/4


Mũ Nâu Đoàn Trọng Hiếu

TH-72G
12-14-2013, 01:47 PM
Trung Sĩ I Vịnh đây:

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387081066.jpg

Tôi tham-dự một trận đánh nhớ đời tại Lương-Hòa Thượng, thuộc huyện Đức-Hòa, Long-An. Vào O700H không nhớ ngày, nằm trong thời-gian tháng 12 năm 1964, Tiểu-đoàn được Giang-Đoàn 22 đưa hết binh-sĩ của đơn-vị qua bên kia sông Vàm-Cỏ Đông, Tiểu-Đoàn-Trưởng ra lệnh cho tất cả bốn Đại đội, mỗi Đại-đội một cánh quân di-chuyển trong rẩy mía đường, song song theo con sông Vàm-Cỏ-Đông về hướng tây huyện Đức-Hòa. Như mọi ngày tôi cũng mang một túi xách cứu thương đựng đầy những gói băng-bó cá-nhân để cấp-cứu cho thương binh khi lâm trận, tay cầm khẩu súng Carbin lên đạn sẳn, đi theo Ban chỉ-huy Trung-Đội 1 Đại-Đội 4.

Đơn-vị di chuyển được một cây số thì nghe có tiếng súng AK trong các đám mía đường bắn ra, tôi trông thấy binh-sĩ của Đại-đội 3 đã có hai người bị thương y-tá đang băng-bó, tiến xa một quảng nữa, thì nghe anh mang máy truyền-tin PRC 25 của Trung-đội báo lại cho Trung- đội-trưởng, lệnh của Đại-bàng cho biết cánh quân Đại-đội 3 đang đụng-độ rất nặng, đã có số binh-sĩ bị thương và tử trận. Đơn-vị chúng tôi đi cánh quân sát bờ sông, nhìn thấy trực thăng đáp xuống tản thương, Trung-đội-trưởng ra lệnh binh-sĩ đề cao cảnh-giác, sẳn-sàng chiến-đấu, tôi vừa đi theo ban chỉ-huy Trung-đội nhìn kỹ phía trước bên trái bên phải từ sáng đến gần trưa chẳng thấy một bóng dáng VC nào mà nổ súng cho phí đạn.

Khi cánh quân cùng Ban Chỉ-huy của Trung-đội tôi tiến đến sát con rạch nằm chận ngang phía trước mặt. Tai tôi nghe một phát súng bên kia rạch bắn qua rất gần, trúng phải đầu anh lính mang máy truyền-tin Trung-đội vở sọ ngã nhào chết liền tại chỗ. Tôi thấy đã chết nên không băng-bó. Ông Trung-đội-trưởng, cấp-bậc Chuẩn-uý mới về đơn-vị mang khẩu súng Colt 45 đầu đội mủ nâu đi ngóc-ngách bị một phát súng, đạn xuyên qua trước trán hơi sâu, té ngữa máu ra đầm-đìa. Tôi chạy lại bên ông ngồi xuống xé băng để bó vết thương cho ông ấy. Rồi tai tôi nghe bỏm một cái sát mé rạch gần chỗ tôi đang ngồi, nổ ầm lên một tiếng điếc cả tai bùn nước khói bắn lên tung-toé phủ cả một vùng. Tôi tưởng là đã chết theo các bạn rồi, khi hoàn hồn nghe đầu gối hơi đau nhói, biết mình mới bị thương chưa chết vẫn còn đi cà-nhót được.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387077633.jpg

Tôi đi lùi về phía sau gặp được TS1 Hớn tôi cho anh hay, anh lính truyền tin đã chết, Trung-đội-trưởng có lẽ cũng chết vì đã bị thương thủng trán quá nặng. TS1 Hớn là Trung-đội-phó từ lâu sống chung trong ban Chỉ-huy Trung-đội bạn chơi thân với nhau, ông ấy choàng vai tôi dìu lui phía sau cả hai trăm mét thì thấy một số binh-sĩ bị thương và tử trận được cứu ra khỏi làn đạn giao-chiến, nằm ngồi la-liệt chờ trực-thăng cứu thương đến di-tản. Tôi ngồi xuống đây với anh em tự tay băng bó rịt lại vết thương cho kỹ, cở năm phút nghe có tiếng trực-thăng đến bốc hết số binh-sĩ bị thương và tử trận rồi cất cánh bay lên ra khỏi trận-địa. Từ đây tôi mới hú hồn thở phào một cái nhẹ nhỏm, biết chắc mình đã được bạn bè cứu mạng.

Về đến Tổng-Y-Viện-Cộng-Hòa Saigòn, đầu gối của tôi bị sưng to nhức nhối không thể đi lại được nữa. Y-tá đưa tôi vào phòng mỗ. Bác-sĩ gây mê mổ lấy mãnh đạn trên đầu gối ra để nằm trong phòng lạnh một đêm, ngày sau đưa ra ngoài điều-trị được ba ngày thì bó bột từ bắp đùi cho đến bàn chân. Thế là cái chân phải của tôi to-tướng, trắng-lốp, nặng-trịch, ngay-chò, chẳng duỗi ra co vào được nữa. Bệnh-viện cho ký nhận một cặp tó để chống nạnh di-chuyển khi cần. Nằm tại đây được năm ngày sau có một số anh em bạn lính cùng đơn-vị chơi thân với nhau ghé thăm. Họ được may-mắn sống sót mạnh-khỏe bình-an, rủ nhau sáu anh em đến thăm tôi tại bệnh-viện.

Họ kể chuyện lại cho tôi nghe, trực-thăng tải thương chuyến của mầy là cuối cùng. Sau nầy VC xung-phong đánh tan-tành cả Tiểu-đoàn. Bộ-Chỉ-huy Tiểu-đoàn chết sạch, đứt liên-lạc. Các Đại-đội bị thương và chết hết phân nửa. Ai bị thương nhẹ chạy được may ra còn sống, ai bị thương nặng đi không được là chết hết. Trung-đội-trưởng, Tiểu-đoàn-trưởng đã bỏ xác tại trận. Sau khi đứt liên-lạc với Tiểu-Đòan tan-rã hàng-ngũ chạy tán-loạn. Tụi tau chạy lui ra xuống bờ sông nhờ Giang-Thuyền cũa Tiểu-Khu Long-An cứu mạng bốc hết anh em còn sống sót đổ hết qua bên kia sông mới còn có ngày hôm nay đến thăm mày.

Tôi nghe các bạn kể xong câu chuyện, hú hồn hú vía nói với các bạn, mạng của tau còn hên chưa tới số, nếu bị thương trễ năm mười phút sau là đã bỏ mạng sa-trường rồi, còn đâu nữa mà các bạn tới thăm. Mấy anh em chuyện-trò qua lại gần một giờ đồng hồ, các bạn chúc tôi điều trị chóng bình-phục rồi từ-giả ra về. Anh em cho hay số còn lại đang an-dưỡng tại Quân-đoàn III Biên-Hòa chờ bổ-sung quân-số.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387028688.png

Tôi nằm Bệnh-viện Bác-sĩ cho uống thuốc viên 10 ngày thì cho xuất Viện về điều-trị tại gia 29 ngày tái khám. Về nhà xa quá trong khi người còn thương tích, về nhà sợ cha mẹ vợ con buồn. Hồi ấy Hậu-trạm Tiểu-doàn vẫn còn ở Long-An, tôi được nhận giấy xuất viện về thẳng Hậu-trạm trình-diện nghỉ-ngơi tại đây cho đến ngày tái khám nhập viện lại, Bác-sĩ cho cắt bột vết thương cũng lành, nhưng chân vẫn còn ngay-chò, chưa co vào duỗi ra được, Bác-sĩ cho nghỉ tiếp 29 ngày nữa để tập thể-dục cho cái chân trở lại bình-thường mới đi làm việc.

Tôi nhận được giấy xuất viện lần thứ hai cũng được nghỉ dài ngày, mừng quá về lại đơn-vị xin đổi giấy phép nghỉ tại gia. Lúc nầy mặc áo quần thường dân đi xe khách về Huế, lần nầy về làng ấp chiến-lược đã bị phá huỷ tan-tành, ban ngày thì của quốc-gia, ban đêm của Việt Cộng, chỉ viếng về nhà ban ngày một vài tiếng đồng hồ thăm cha mẹ vợ và các em rồi vào Lăng-Cô ở lại nhà bác cho đến ngày hết phép từ-giả ra đi.

Vào đến Long-An đi vô doanh trại thấy trống rỗng chẳng còn ai, hỏi ra mới biết Tiền-trạm và gia-đình binh-sĩ đã di-chuyển hết về Biên-Hòa.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387088229.jpg

(trích Hồi ký Phan Vịnh, đại đội 4/52 BĐQ)

TH-72G
12-14-2013, 02:18 PM
GIANG ĐOÀN 22 XUNG PHONG CỨU BẠN
Nguyễn Sỹ Anh, San Diego, 10/14/1999.
Viết về một trận đánh để đời và cũng để vinh danh và cảm ơn Giang Đoàn 22 Xung Phong đã xả thân cứu bạn.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387081235.jpg

Năm 1964, tiểu đoàn 52 Biệt Động Quân được Quân đoàn 3 tăng phái cho Sư doàn 25 Bộ Binh. Tôi xin lược qua thành phần chỉ huy của Tiểu Đoàn, Vị Tiểu-đoàn-Trưởng là Đại-Úy Nguyên. Đ/Đ1 dưới quyền chỉ huy của Trung-Úy Tha; Đ/Đ2 của Trung-Úy Ấn, cả hai vị này đều thuộc khóa 18 Đà Lạt; Đ/Đ3 của Trung-Úy Thúy, khóa 13 Thủ Đức; còn người viết bài này là đại-đội-trưởng Đ/Đ4, khóa 12 Thủ Đức.

Tiểu Đoàn được lệnh đóng quân tại Lương Hòa thuộc mật khu Lý-văn-Mạnh. Lương Hòa là một xóm đạo, được chia làm hai: LH thượng và LH hạ. Dân chúng phần lớn theo đạo Công Giáo và chuyên về trồng Thơm (dứa). Đ/Úy TĐT cũng theo đạo, nên Tiều Đoàn rất được sự thương yêu của dân chúng và của Đức Cha sở tại.

Một ngày đẹp thời của tháng 12 năm 1964, Tiểu Đoàn được Giang Đoàn 22 XP chở qua sông. Đại đội 4 được chở đi trước để chiếm đầu cầu và giử bãi ủi cho những đợt đổ quân kế tiếp. Tiếp theo là đại đội 1 và Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Đến phiên là Đại đội 2, và sau chót là đại đội 3.

Tiểu đoàn được chia làm 2 cánh quân, cánh A do Đại Úy Tiểu đoàn Trưởng chỉ huy Đ/Đ1 và Đ/Đ2, cánh này di chuyển cách bờ sông 1 km. Còn cánh B gồm có Đ/Đ3 và Đ/Đ4 cánh này đi cặp bờ sông để giử sườn bên phải của cánh A.

Đúng 7 giờ, Tiểu Đoàn vượt tuyến xuất phát, tiến chiếm các mục tiêu ấn định. Sau khi xuất phát được 20 phút thì cánh B bắt đầu chạm địch. Tôi và Tr/Úy Thúy đã liên lạc hàng ngang rất chặt chẽ, và chúng tôi liền dùng chiến thuật ‘tốc chiến tốc thắng’ của binh chủng để hóa giải, ngay lần chạm súng đầu tiên chúng tôi đã hạ 3 ‘vịt con’ (VC) tịch thủ vũ khí cá nhân. Đ/Úy Nguyên gọi máy khen ngợi và truyền lệnh cho tụi tôi cố gắng tiến tới mục tiêu đã định, với sự cẩn thận tối-đa để tránh thiệt hại cho đơn vị. Cánh B bị chạm địch liên tục tuy không nặng, nhưng cản trở bước tiến của chúng tôi. Tới trưa, cánh B đã tổng kết hạ hơn 10 tên địch, và tịch thu 9 vũ khí cá nhân + 1 trung liên. Cánh A không đụng và tiến quân từ từ, để giử hông bên trái của cánh B.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387081362.jpg

Quá xế trưa, cánh B tiến tới một con sông, bề ngang độ 15 mét, có một cây cầu khỉ bắc ngang. hai đại đội căng hàng ngang chiếm bờ sông. Đại dội 3 và 4 phái hai lính khinh-binh tìm cách vượt sông để làm đầu cầu. Các khinh-binh này không thể dùng cầu, mà phải lội sông, nhưng họ mới bước xuống bờ sông thì đã bị hỏa-lực rất mạnh của bọn vịt con đốn ngã (tử thương). Chúng tôi ước tính với hỏa lực đó thì đối phương, ít nhất cũng cỡ tiểu đoàn. Từ giờ phút đo, cánh A bắt đầu chạm địch và bị pháo nặng, BCH Tiểu Đoàn và đại đội 1 gặp tổn thất nặng, trong khi cánh B tụi tôi bị cầm chân tại chổ. Bọn vịt con (Việt cộng) rất khôn ngoan, tụi nó tấn công mạnh và cố tràn ngập bộ chỉ huy. Cánh B tìm mọi cách để tới tăng cường cho cánh A nhưng không thể rút ra được, mỗi lần cố rời khỏi bờ sông là cánh B lại bị tổn thất thêm, vì ngay tại bờ sông có con rạch khá sâu, co thể làm chổ ẩn núp.

Sau một hồi quần thảo, cánh A bị tràn ngập. Đại Úy Nguyên liền ra lệnh cho cánh A “zulu” ra phía bờ sông để gặp với cánh B. Riêng vị Tiểu Đoàn Trưởng này đã hy-sinh nằm lại cản hậu, để các đứa con của mình rút lui an toàn tính mạng. Đại Úy Nguyên và Trung Úy Tha, hai vị này đã đền nợ nước. Cánh A rút tới đâu, thì bọn vịt con cứ theo bén gót hầu tiêu diệt bọn tôi vừa tránh được phi pháo của ta, tập kích chúng. Cánh A rút lui nguy nan vừa tác chiến, bị hy sinh khá nhiều. Sau đó cánh B cũng phải tìm cách rút theo, vừa để yểm trợ cho cánh A, vừa cùng cánh A phối hợp để tìm cách phản công hay phòng thủ.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387077541.png

Cái không may cho Biệt Động Quân là bọn vịt con lấy được một máy Không Lục (máy liên lạc với Không Quân và Pháo Binh). Chúng dùng máy này, lừa Không Quân oanh kích ngay bờ sông và gài Pháo Binh tác xạ ngay tọa độ của BĐQ đang chiếm giử. Đích thân tôi phải bấm nút Combinet của máy truyền tin riêng, để tụi nó không xử dụng gian kế được. Sau đó tôi phải dùng máy nội bộ, yêu cầu đổi tần số Không Lục khác, để liên lạc nhau với hai đơn vị yểm trợ nói trên. Thêm một điểm may mắn nữa cho tôi, là trên chiếc trực thăng chỉ huy còn có vị phụ tá của anh tôi, tại phòng 3 Sư Đoàn đang theo dõi sát trận chiến, cho nên ông ta nhận ra tiếng nói của tôi, và kể từ giây phút đó, ông ấy chỉ theo lời yêu cầu của riêng tôi mà thôi.

Sau khi liên lạc, BCH Sư Đoàn đã cho 5 phi tuần Phản Lực đến. Tôi xin thả bom cách bờ sông 150 mét để cản bước tiến của tụi đặc công trinh sát địch, đang bám sát. Sau 5 phi tuần Phản Lực, liền có đoàn Cobra đến tác xạ bằng hỏa-tiển. Địch thấy bom và hỏa tiển thì tụi cộng con lại càng cố bám sát tụi tôi hơn, để né tránh phi pháo. Tình hình trở nên tồi tệ và nguy ngập ghê. Chúng tôi đã ra tới bờ sông và không còn con đường nào rút lui, cho nên bằng mọi cách phải chiến đấu, với hy vọng Sư Đoàn sẽ đem đơn vị tiếp-cứu.

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387076684.jpg

Biệt Động Quân đang trong cơn thất vọng thì được vị cứu tinh xuất hiện, bằng từng tràng đạn đại liên 30 và 50 ...bay ngang đầu, bay đến chỗ tụi cộng con đang chiếm đóng ... hàng tràng tiếng nổ “long trời” của súng cối 81 ly, chặn ngang trước mắt chúng tôi, đã cản được bước tiến của bọn Cộng phỉ ác ôn. Tất cả chúng tôi cũng quay đầu lại để thấy đàn Kình Ngư đang lội tới chỗ chúng tôi. Đàn Kình Ngư này đến có mặt, với một hỏa lực hữu-hiệu kinh người. Hỏa lực đó đã đè bẹp sự điên cuồng của cộng quân, làm bọn chúng không tiến lên nữa. Kết quả rất tốt đẹp, đoàn Kình Ngư đã ủi bãi để rước chúng tôi an toàn tính mạng. Biệt Động Quân đã được Hải Đoàn 22 Xung Phong xã thân cứu nguy, trong giờ phút hiểm nghèo nhất.

Giờ đây trên đất lạ xứ người và đã hơn 35 năm qua đi, tôi vẫn còn nghĩ đến Hải Đoàn 22 Xung Phong. Xin gửi đến các bạn lời cám ơn chân thành. Hy vọng một ngày nào đó, tôi sẽ được gặp lại những người bạn cùng chiến tuyến, trên mảnh đất tạm dung này, để chúng ta cùng kể lại nhửng kỷ niệm khó quên trong đời quân ngũ.

Nguyễn Sỹ Anh
http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387076330.jpg

http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1387075960.jpg