PDA

View Full Version : Phi Vụ Cuối Cùng



Longhai
11-18-2013, 10:30 PM
Phi Vụ Cuối Cùng


Võ Công Liêm

“Where am I ? What am I doing ? Why ?”
(Leo Tolstoy)


Suốt ngày, Brenda lo lắng, bồn chồn, nàng chuẩn bị những thứ cần thiết cho tối hôm nay. Bó hồng thắm được cắm trong bình pha lê, cặp đèn cầy trắng gắn trên chân đèn bạc bóng láng, một vài chai rượu mạnh và khai vị được giàn trải trên bàn phủ khăn màu hạt dẻ trông bắt mắt. Đó là những phẩm vật mà nàng không thể thiếu được, ngoài chiếc bánh sanh nhật lớn hơn mọi khi. Cái bàn gổ sáu ghế,chạm trổ công phu theo dạng thức cổ điển Tây-Ban-Nha nằm giữa phòng ăn, trông sang trọng. Brenda tỏ ra hài lòng với sự bài trí của mình.

Nàng đứng trước gương soi, cầm trong tay chiếc áo màu lam ngọc, đắp lên người ngắm nghía, thấy không vừa ý lấy áo khác mặt ngay vào, màu hồng phấn dệt bằng lụa Mouslin trông rực sáng với nước da trắng sửa của nàng. Brenda mĩm cười tự mãn .

Ngồi ở ghế bành, nàng đưa mắt nhìn quanh nhà, ngong ngóng chờ điện thoại reo.- Hơn 6 giờ chiều mà chưa nghe Joe gọi về hay có điều gì gì xẩy ra cho chàng ? Nàng sợ ! Brenda nhìn cái bánh sanh nhật nằm âm thầm trong khay bạc, lòng nàng háo hức chờ đợi, bởi đây là ngày trọng đại đối với nàng. Cũng là lể sanh nhật đầu tiên sau hơn hai năm làm vợ Joe…Nàng khoanh tay đứng tựa cửa, mắt nhìn ra ngoài mông lung. Khung trời nhỏ lại, mây đục kéo đến, gió chặt ngang những hàng cây đứng bên đường, ngọn đèn ngoài lộ lung linh cháy không đủ sức tỏa sáng với bóng đêm đến gần. Nàng cảm thấy ớn lạnh, vòng tay ôm lấy mình, nàng đưa tay xốc luống tóc mới chải ở tiệm chiều nay, màu tóc vàng hoe, óng mượt, tóc, da có một ít chất Nga-La-Tư trong máu cho nên nàng có cái nét đẹp sương phụ Hoàng gia, Brenda thoa nhẹ mùi dầu thơm hàng hiệu Elizabeth Eden lên mình, hương thơm quyến rũ. Brenda dành tất cả đặc biệt, lễ nghi để đón chồng về phép sau một thời gian xa vắng. Nàng hồi tưởng những tháng ngày âu yếm bên cạnh Joe, đang mơ màng, hình dung người anh hùng trở về, nàng nghe tiếng xe đổ bên kia đường, chiếc Falcon SE bốn cửa màu xanh cứt ngựa, thoáng thấy như chồng mình về; nàng tươi hẳn ra. Ra khỏi xe nàng thấy hai người lính Hải quân trong bộ Quân phục thẳng nếp tiến vào nhà, nàng không nhận ra chồng mình đi cùng. Brenda tư lự. Hai người lính chào nàng theo cung cách nhà binh, nói năng hòa nhã, đưa phong thư trắng cho Brenda. Nàng bóc thư ra đọc, gương mặt nàng rũ xuống, đượm nét buồn tuyệt vọng. Nàng nói trong nườc mắt.- Có chắc, Joe không có mệnh hệ gì ? Nàng hỏi khẽ.- Chúng tôi, hy vọng là không có điều đó xẩy ra. Có tin tức gì mới chúng tôi báo cho bà hay. Hai người lính quay gót ra xe. Brenda đau khổ; ngồi thịch xuống ghế ôm mặt khóc một mình. Nàng rơi vào vược thẳm, chới với giữa khoảng trống. Những hiện vật xung quanh nàng trở nên vô vị. Căn nhà biến thành hoang phế, thiếu sinh khí. Brenda vật xuống giường, phấn son đi theo với nỗi buồn. Nàng ôm chiếc gối của chồng vào long, ứa từng giọt nước mắt, trong tay cầm xâu chuỗi nguyện cầu và lịm dần trong giấc ngủ …

Hạm đội bảy Enterprise còn mê ngủ giữa bãi xanh của Đại dương, mặt nước êm không gợn song, dự báo thời tiết cho biết buổi sáng trời nóng từ 20 đến 25c, gió nhẹ cấp hai, cấp ba, chiều có mưa rào một vài nơi dọc Duyên hải miền Trung Bắc Việtnam. Đám hải âu bay lượn cuối đuôi tàu trông thái bình. Tiếng động cơ khí rì rào nghe khó chịu như người mắt chứng suyển khò khè qua hơi thở, thỉnh thoảng ré lên nghe tê não như loài thú hoang giữa sa mạc. Trên sân bay vài tên lính thuỷ da đen mình trần, cúi đầu chùi quét phi đạo. Mặt trời ló ra khỏi đám mây, quẹt những tia sáng như gương vào pháo đài nổi đang bềnh bồng du mình nhẹ nhàng, màu xám xanh của con tàu trải mình giữa trời xanh mây nước, đuôi tàu nhả bọt trắng xóa mang theo hơi thở của đại dương. Những càn cẩu đưa mình ra giữa trời xê dịch chậm rãi, những cuộn giây cáp chạy quằn quèo trên sàn bay tợ những con rắn khổng lồ, không biết họ làm gì. Những phóng pháo cơ lần lượt kéo ra sân, miệng hầm mở rộng người ta thấy nhú lên chiếc F4.Tiếng loa vang, một vài lính chạy qua lại trên sàn tàu. Một ngày bắt đầu, của một sáng mai cuối Thu, căn cứ nổi đang trường mình vượt sóng. Đại dương bao la, hạm đội trông lớn lao, vĩ đại dưới mắt người nhưng dưới mắt của biển con tàu trở nên nhỏ bé.

Joe ra khỏi Mess-hall, sau buổi ăn sáng, tay cầm cốc sửa trắng bước chậm rãi về cabin của mình. Chàng nhìn những gói qùa gói sẳn, nằm ngoan chờ Joe đưa về quê mẹ. Nơi hiền thục, mỏi mòn chờ đợi. Trong căn phòng nhỏ hẹp, vách sắt, chiếc giường treo được thả xuống, ở đầu nằm có chiếc bàn nhỏ, trên bàn đặt một cây đèn, rọi xuống tấm hình chụp của Joe và Brenda ngày cưới; Joe trong bộ đại lể Sĩ quan Hải quân, cụng đầu cười bên vợ. Nhiều lúc chàng nhìn tấm ảnh mà ứa nước mắt. Joe nhớ vợ mà không biết than thở cùng ai. Dấu kín trong tim. - Mới đây mà đã hơn hai năm từ ngày cưới Brenda; nhanh thật ! Joe nghĩ về nàng; nhưng với chàng thời gian mong đợi laị đi chậm. Joe thực hiện xong phi vụ nầy là đi phép về gặp vợ. Ngồi trong lòng thủy hạm; Joe hình dung những ngày xưa thân ái bên nhau, nhớ nụ hôn đầu đời với Brenda ở Palm Spring, đêm dạ vũ khoản đãi tân Sĩ quan ra trường. Những hình ảnh đó luôn luôn đóng cứng trong trí tưởng của Joe. Những thư Brenda gởi từ hậu phương là kỷ vật của Joe, mỗi khi ngả lưng hay nhàn rổi lấy thư Brenda ra đọc, mỗi lần như thế mắt Joe nhắm nghiền, nghĩ xa vời.

Đến trình diện phòng Hành quân Hạm đội 7 có Thiếu tướng tư lệnh Hạm đội; Duke Copperfield. Đại tá Pat Holloway, Chỉ huy trưởng Chỉ huy hành quân. Thiếu tá John Stevenson, Trưởng phòng điều hành quân phối. Sau hai năm sáu tháng ra trường Võ bị Sĩ quan Hải quân, Joe biệt phái phục vụ trên Chiến hạm Enterprices, nằm ngoài khơi Thái Bình Dương, Joe O’Brien gắn lon Đại úy. Trưởng đội Phi hành đoàn oanh tạc chiến đấu vùng địa đầu giới tuyến từ Vĩ tuyến 17 đến Vinh. Trong phòng Tham mưu chiến lược rộng lớn ở giữa đặt cái bàn hình bầu dục màu nâu sậm láng nước với mười hai chiếc ghế bành bọc da đen, trên bàn đầy giấy tờ, bản đồ hành quân, hình chụp, nhiều báo cáo chiến sự. Bản đồ khu Quân sự, khu phi Quân sự được trải rộng lên bàn. Mấy cái đầu hói cụng vào nhau dưới ngọn đèn cực sáng, chiếu thẳng vào những khuôn mặt đầu sỏ chiến tranh, họ gạch những chấm tọa độ, đánh dấu bằng kim gắm lên bản Blue-print, họ bàn thảo ngọn ngành những khu đóng quân, chuyển quân, cầu cống, trạm súng phòng không và thời gian phi tác; Tướng một sao nhìn qua Joe dặn dò những vị trí cần thiết nhất là những chốt đặt súng cao xạ tầm xa của địch trong phi vụ sắp tới.

Sau khi họp xong; Joe chuẩn bị ra khỏi phòng họp, John gọi giựt Joe, mỉm cười cầu tài. - Sau phi vụ này anh đi phép ? Giấy tờ xong cả chứ ? Tôi có thể giúp gì anh ? Joe cười, đóng cửa bước ra ngoài đi vội về phòng.

Ngoài trời những cơn gió mạnh thổi tạt vào thân tàu, làm con tàu rùng mình, những tiếng rít của động cơ di chuyển trên tàu nghe ào ạt như tiếng sấm động, một vài cụm khói nhả ra từ ống khói lớn, mùi dầu đốt, mùi cháy khô đưa lên mũi một hơi thở khó chịu dưới ngọn nắng vùng nhiệt đới, pha vào đó những tiếng nổ lớn đánh rầm giữa sàn tàu, biển lặng trở nên huyên náo. Bầy hải âu bay vào đất liền trả lại biển cho con tàu số 7.Trời vào trưa, nắng gắt, không khí khô, trên sân tàu đang chờ gió. Gió không về; đám lính làm việc bên ngoài phơi trần chống nắng. Joe tựa tay trên bong tàu nhìn trời, suy nghĩ vẩn vơ, đột nhiên, chàng quay đầu nhìn khắp nơi như muốn nhận diện tiếng ai goị mình. - Joe… Joe, anh vào đây với em kẻo lạnh. Vào đây ! Xung quanh bong tàu chỉ còn mình Joe đứng với nắng gió chẳng có ma nào ở gần chàng. Joe đuổi ám ảnh, để trở về với thực tại.

Ký nhận biên bản Hành quân, Joe đến phòng Quân trang để nhận thêm những thứ cần thiết khác mang theo trong chuyến bay, kể cả vài thỏi Sô-cô-la, ít Snacks phòng khi buồn miệng. Viên Trung sĩ Quân nhu trao tận tay cho Joe. - Thưa đại úy, đây là mấy thứ cần mang theo, máy liên lạc truyền tin, địa bàn, súng tín hiệu, hộp thuốc cấp cứu…xin ông nhớ cho. Joe ngúc ngắt đầu đoạn gắn vào người những thứ trực tiếp, chàng đưa tay sờ vào túi quần hai bên chân coi lai mấy bản đồ đã in. Cùng đi với Joe có ba phi tiêu khác, trông họ hào hùng trong bộ đồ bay màu xám xanh. John Stevenson đến bắt tay từng người và căn dặn về sứ mạng đã giao. Mike bạn đồng hành vổ vào vai Joe. - Ráng hoàn thành nhiệm vụ trước khi về gặp vợ. Chúc may mắn. Joe nhếch mép cười cám ơn .

Brenda tung cửa chạy vội ra ngoài, tóc nàng bay theo gió, hớt hải gọi tên chồng khi thấy chàng xách hành lý và qùa tặng tiến vào nhà. Quá mừng ! nàng phóng người lên hôn Joe, vừa hôn nàng vừa lẩm bẩm trong miệng như trẻ con nũng với mẹ, Joe tung những thứ trên tay xuống thềm, xốc nàng lên đôi tay vạm vỡ, bế nàng vào nhà, nàng ôm chặt lấy cổ Joe, đầu úp vào ngực chàng, dưới chân Joe con chó cưng của Brenda vẫy đuôi mừng. Không gian lúc ấy mờ đục dưới chân mây. Joe thả nhẹ xuống giường, hôn ríu rít, anh luồng tay vào người nàng, mơn trớn; xa vợ lâu ngày, tất phải đòi hỏi nhu cầu thể xác. Brenda hiểu điều ấy.- Joe, anh kiên nhẩn, ăn uống xong, mình còn nhiều chuyện để kể, tối lên giường rồi hẳn hay. Ngọn bạch lạp cháy rực rỡ; đưa ly cụng vào nhau họ cười nói hạnh phúc, đang vui bên nhau Joe rời tay nàng đi vào cõi xa mờ… Brenda khiếp ! rùng mình thức giấc giữa đêm về sáng, nàng ngồi chổm dậy, chiếc khăn trải giường đổ xuống sàn, bộ đồ ngủ lụa màu vỏ trứng gà nhàu nát trông nàng mệt mỏi, tiều tụy. Brenda gục đầu trên hai gối chân.Tóc nàng đổ xuống, bên ngoài trời lờ mờ sang. Nàng hình dung laị cơn "mộng du” hay cơn mộng dữ, nàng lý luận giấc mơ của mình giữa hư và thực. Brenda nghĩ đây là một linh cảm báo hiệu cho nhau. Nàng tin có hiện tượng hay mình quá nhớ Joe mà tưởng như thế. Trạng thái nàng lơ lững.

Đại úy Joe O’Brien, ra sân bay. Gió tạt vào thân tàu ào ạt, thổi xát vào đài kiểm soát phi đạo, những lá cờ treo đánh phập giữa lưng trời, mấy giàn ra đa quạt qua quạt lại đùa với gió. Trên sàn bay hai chiếc Phantom F4 nằm cuối đuôi tàu chờ mệnh lệnh. Joe và Mike bước ra sân, gió thổi vào tóc vào áo bay lồng lộng. Joe bước lên thành cầu của F4, nhún người vào lòng tàu, nai nịt, đội nón bay, nhìn vào những đồng hồ trước mặt, kiểm tra toàn bộ hệ thống điều khiển trên Phantom, cho máy nổ, F4 rống lên, phụt hơi nóng ra sau, rung toàn thân, chàng bấm nút, nắp trần kính khoá chặt, mặt Joe núp sau nón bay, trước mặt nón là cái vòi dưỡng khí trông như quái nhân từ một hành tinh khác, nhìn xuống lòng sàn ,người lính da đen phất cờ hiệu, người lính khác đưa hai tay lên cao với đèn chớp, rút chốt an toàn. F4 trường mình ra giữa phi đạo, nhận tín hiệu từ tháp điều hành Không vận, chàng bình tâm, đẩy cần lái, mở tầm nhiệt cực độ, con tàu bung ra như sổ lồng, búng mạnh, giây lát sau F4 nhấc mình bay ra khỏi sàn tàu. Phantom F4 vỗ cánh bay vào vùng trời xanh thẳm để lại một làn khói trắng sau đuôi như vẫy tay chào.

Con tàu Joe cầm lái trực chỉ hướng Tây Bắc Việt nam, vun vút trong mây, cắm đầu đuổi với thời gian, bung mình 180 độ cao, những đám mây xám chạm mặt con tàu, F4 vẫn bay, tung hoành giữa vùng trời lửa đạn. Joe đưa mắt nhìn vào đồng hồ thời tiết, nhiệt độ trung bình, bên ngoài 68 độ F. Joe đọc lại bảng thời tiết trước khi bước lên tàu, chiều xuống nhiệt độ giảm có thể chuyển sang mưa và gió nhưng Joe hy vọng về trước khi thời tiết thay đổi. F4 lao đầu xuống thấp, bỏ lại tần mây cho đến khi phát hiện vị trí dưới đất, rồi lại phóng lên cao, rồi lại đảo xuống thấp, Joe đã nhận ra những vị trí chiến lược của địch dưới mặt đất, lần nầy phi tiêu lấy trớn, phóng nhanh, bấm cơ bẩm, hỏa tiển phóng ra, Joe ngoảnh đầu nhìn xuống những cụm lửa bốc lên cao, quay đầu trở lại thả cho hết bom dự trử trước khi chụp không ảnh. Mất kiểm soát F4 bị trúng đạn phòng không ở đuôi sau, dưới đất những ổ phòng không ngẩn cổ cao nhả đạn, lửa đạn xé rách không gian. Con Ma F4 say với cuộc chiến, quên mình đang nằm trong họng súng của địch quân. Phantom trúng đạn đầy mình. Joe choáng váng mặt mày, gồng mình vượt ra khỏi tầm pháo, thấy yếu thế, Con Ma biến thành ngọn lửa, quay cuồng, hú những tiếng kêu kinh hoàng. Đèn đỏ báo động, toàn bộ cơ quan của Con Ma F4 mất lực, kim đồng hồ quay ụp xuống, vô phương, Joe vội vã bấm nút, lực ghế bay ra khỏi lòng tàu, dù bung nương theo gió. Joe nghe tiếng nổ dưới đất biết con mình chết. Joe đau lòng nhắm mắt lại.

Mưa gió, đưa dù bay xa tầm kích của địch, dù hạ xuống thấp lùa theo con gió tuột nhanh hơn, Joe đáp xuống rừng cây, dù và người treo trên cành, hắn dốc toàn sức kéo dù, những giây dù vướng gãy từng nhánh cây, sợ gây tiếng động cho nên Joe khéo tay cuốn gọn dù, trời tiếp tục rải những hạt mưa lên mình Joe, chân trái đâm thủng thịt bắp đùi bởi một cành nhọn, xé toạt quần, máu chảy đẩm, thấm cả bên ngoài. Mưa giăng đầy khu rừng, bốn bề lặng câm. Joe không biết mình đang ở vị trí nào ? Tối tăm mặt mày. Chàng ép mình dưới gốc cây, dõi mắt nhìn ra khoảng xa và lóng tai nghe ngóng. Joe nhận ra trước mặt mình là một lối mòn, rẽ hai bên là bờ cỏ. Chàng nằm bất động; bỗng nghe tiếng kẽo kẹt, Joe nghe bước chân người. Hắn khiếp ! Joe nén hơi thở; chờ phản ứng, chàng đưa tay sờ vào vỏ súng, cây Magnum lên cơ bẩm, cầm sẳn trong tay, mắt chàng đăm đăm nhìn không chớp, tợ như cáo rình mồi. Tiếng chân đi chậm lại, hắn không nhận ra quân hay dân. Người con gái thả gánh xuống, đứng lại; quan sát, bởi nàng nhận ra mùi hơi lạ trong không khí khác hơn mọi khi nàng đi qua, khứu giác nàng thật bén nhạy. Nàng rà vào những chỗ khả nghi, đưa mắt nhìn cây AK 47 nằm trên gánh củi khô, nàng an tâm, bước lần tới, bất giác phát hiện một thây người nằm bất động. Nàng hoảng; tiến thối lưỡng nan, nàng ôm miệng che tiếng thở trong họng; nàng không thể quay đầu bước lui chụp lấy cây AK.- Chậm trở tay; hắn có thể bắn ta ngay ! Nàng nghĩ nhanh trong đầu, và biết đó là thằng giặc lái Mỹ. Nàng đứng khựng, nhìn thẳng vào mặt nó xem chừng. Joe nhét súng vào bụng khi biết đó là đứa gái. Joe nhìn nàng như khẩn cầu, đôi mắt xanh của Joe diụ lại, lết một chân đến gần nàng, máu ở chân chảy nhiều hơn, hắn chỉ vào vết thương, nàng hiểu ý, nàng ở trong tình huống khó xử. - Hay mình nhanh chân chạy thoát, khấp báo cho Dân quân Tự vệ. Mình sẽ trở nên anh hùng chống Mỹ cứu nước. Nếu không kịp thời, thì tánh mạng mình sẽ ra sao ? Và ai là người chăm sóc cha nàng. Nàng lưỡng lự, hắn nhìn vào nàng như lời kêu cứu, tha thiết. Nàng trở về với lòng nhân đạo của người phụ nữ, đến gần đưa tay đở tên lính Mỹ đứng dậy, nàng thấy được gương mặt nó không phải để căm thù như nàng tưởng. Mắt Joe nói cám ơn.

Nàng quá nhỏ so với một thân thể đồ sộ như Joe, nàng cố hết sức mình dìu Joe đi trong mưa, tay hắn cầm cây nạn chống, đi chậm rãi bên nàng về cuối xóm. Rất may cho cả hai là không một ai phát hiện điều nầy. Đưa Joe xuống hầm trú bom vừa là nơi chứa củi khô. Trên hầm ụ đất cao, cỏ dại mọc đầy. Bên trong đóng cừ tre bao quanh; một chõng tre, vài chai lọ nằm lăn lóc choáng cả lối đi, cây đèn bão khô dầu treo lơ lững ở cửa ra vào. Joe vật người xuống chõng. Nàng vội quay gót ra ngoài. Viên hoa tiêu chiến bại nằm thừ người độc thoại với bóng tối trước mặt, rút người như mèo ướt nước. Trông thảm ! tên giặc lái chưa hồi tâm, còn phập phồng lo sợ. - Nàng thuộc thành phần gì trong xã hội này ? Một lương dân hay rồi sẽ trói ta lại dẫn đi tù ? Joe nghĩ lung bung, vết thương nhức lên chàng nhăn mặt đau. Nghiến răng dựa lưng vào vách đất ngủ thiếp.

Mai nói nhỏ vào tai cha. Lý Cầu kinh khiếp! - Sao không đi báo xã đội, thôn đội. Mai bóp miệng ông lại, nói khẽ .- Thằng giặc lái bị thương, không đi được, máu chảy nhiều, nó cầu cứu. Nói xong; nàng chạy trở lại nơi đã cứu Joe, dọn sạch những dấu tích, vơ vét những gì còn sót lại. Mai cuốn nhanh dù, xếp lại, nàng bắt gặp cái la-bàn cạnh đó. Mai xóa dấu chân, dấu giày, phủ lá khô. Kiểm tra trước khi rút về nhà. Mai nghe tiếng chó sủa cuối xóm. Nàng nhanh chân vừa chạy vừa suy nghĩ.- Nếu phát giác được thì nguy đến tính mạng, kể cả sinh linh cha nàng. Đã lỡ cho lỡ luôn, không khéo chết cả đám, tai họa đổ đầu, thật khó giải cho Mai.

Nàng ngồi đun nước, đun khoai luộc; giờ này Lý Cầu đói lắm. Ngọn lửa cháy soi gương mặt Mai. Đôi mắt nàng lo sợ thấy rõ. Nàng cúi xuống thổi lửa, nghe ngóng bên ngoài. Nàng mang nước và hai củ khoai xuống hầm cho giặc lái, nàng quẹt diêm thắp nến, xoa muối, đắp gừng lên vết thương rịt chặc.- Ăn xong tắt đèn, đừng rục rịch mà người ta nghe. Có tiểu đái cũng phải cẩn trọng. Họ phát hiện là chết cả đám; nghe rõ không. Hắn hiểu ý nàng nói; đó là mầu nhiệm của thượng đế ban phát giữa ngôn ngữ khác biệt bằng sự truyền thông của mắt và điệu bộ của con người. Hắn gật đầu tỏ ra hiểu ý Mai nói. Nàng bỏ hắn lại với hầm trú ẩn.

Mai dậy sớm bữa nay, ra sân nghe ngóng, trời mờ sáng, những hàng cây xung quanh nhà còn mê ngủ. Giữa khoảnh đất này chỉ có mình nhà mai nằm ở đó, chung quanh là nương rẫy bỏ hoang. Cảnh vật đìu hiu. Mai đem thức ăn cho cha và dặn dò…Lý Cầu mù mắt cách đây ba năm cho nên mọi sinh hoạt trong nhà mình Mai cán nán. Nhu yếu phẩm được cung cấp theo diện Dân quân Tự vệ thôn; bên cạnh đó nhờ sự giúp đở kín đáo của Trọng. Trọng chỉ huy Đội trưởng đội Nhân dân tự vệ thôn Ô.

Mây trôi mênh mông, trời cuối thu gió heo lạnh, cây cỏ đổi màu. Thôn Ô; quạnh vắng nhà Lý Cầu ít khách vãng lai. Lý Cầu ngồi đờ người, mắt mở mà đâu có thấy trăng cuội gì, lâu lâu đánh tiếng như thăm chừng, rồi lại đưa tay vò đầu, vuốt chùm râu thưa. Ông thèm một điếu thuốc cuốn. Nuốt nước bọt, đôi long mắt đưa qua đưa lại, miệng lẩm bẩm.- Nghe giặc lái nằm trong hầm trú, sao mà êm thế nhỉ ? Hay là chết vì đói, hay là bị giải đi rồi ? Ông nghĩ đến Mai. Ông khiếp ! - Con nhỏ nầy cả gan làm chuyện quốc cấm. Ông cho đó là việc làm hết sức phiêu lưu, ông không muốn nghĩ tới. Gió bên ngoài reo, bụi tre là đà đưa cành, chim ríu rít kêu từng chặp. Ông cảm thấy lạnh, giờ này đã vào chiều.

Một thanh niên tầm vóc lực lưỡng, mặc bộ đồ đen bạc màu, chân đi dép râu dính đầy bùn xô cổng tre đi vào, đứng nhìn quanh khu đất nhà Mai, nhìn vào bụi rậm, rão ra vại nước nằm cạnh bờ dứa rồi đi thẳng tới hầm trú, dòm vào tối om, đầy củi khô chất đống bít cả miệng hầm. Hắn đứng lại nghe ngóng. Thấy êm; cất tiếng gọi Mai. Không nghe ai trả lời như mọi khi hắn đến, giây lát, nghe tiếng Lý Cầu ấm ớ. Hắn bước vào. -Mai đi đâu; mà giờ này chưa đánh thổi gì cả ? Hắn đến gần Lý Cầu nhét trong tay ông nắm thuốc lá khô. - Cậu ngồi xơi nước; con Mai xuống chợ chắc cũng sắp về. Hắn chả trả lời và cũng chẳng mở miệng nói điều gì về thằng giặc lái, giặc chèo; ngồi im. Lý Cầu ve thuốc hút. Hắn chuẩn bị quay gót thì nghe rục rịch ngoài sân, dướng mắt nhìn, thấy Mai gánh củi đi vào. Hắn bước ra sân; gương mặt đanh lại, khô như lát sắn phơi nắng. Mai gục đầu chào.- Anh Trọng, anh mới đến chơi, ăn uống gì chưa ? Em nấu ít quả ngô anh ăn nhá ! Trọng theo Mai đi vào bếp. Mai cười nói hồn nhiên, để che lấp nỗi lo của mình.- Trên huyện báo cáo cho biết; ta vừa bắn hạ “Con Ma” 4 , thằng giặc lái Mỹ, chưa biết cụ thể nó sống chết ra sao ? Mai nghe kể; chỉ lắc đầu không nói. Trọng nhìn vào đống củi khô, cây AK nằm yên trên gánh.- Em cũng nên đề cao cảnh giác, Mỹ Ngụy lúc này đánh phá dữ dội. Vì vậy cần phải bảo vệ chặt. Mai trao chén chè cho Trọng. Hắn đưa mắt nhìn Mai với cái nhìn thầm yêu trộm nhớ. Giữa hai người chưa hề tỏ bày, cả hai đồng quan điểm và thường hay lẻn đi lễ ở nhà thờ cha Vĩnh .

Nhiều lần trò chuyện với nhau, Trọng thường hay dò ý, xem Mai có phát biểu tình cảm của nàng đối với Trọng. Chàng bắt gặp Mai liếc mắt đưa tình và mỉm cười. Mai gái nông thôn, tuổi trứng nước, tóc xõa bờ vai bao bọc gương mặt trái soan, má lúng đồng tiền. Nhìn kỹ Mai đẹp, cái đẹp mê ngủ. Trọng nhận xét về Mai từng góc cạnh, nàng còn là người con chí hiếu đối với bậc sinh thành. Trọng cảm thấy dễ yêu. Ngoài ra Mai là người khéo ăn nói và kín đáo, vì vậy Trọng tin tưởng nàng.

Ngô chín, nàng đưa cho cha và Trọng, Lý Cầu chộp ngay cạp chẳng phải mời ai. Đêm xuống sâu, Trọng muốn phát biểu điều gì với Mai, ngập ngừng rồi lại thôi. - Anh uống thêm bát nước nữa nhá ! Trọng khoát tay; nhìn mông lung.- Cụ nhà dạo này khỏe không anh ? Mai hỏi. Hai người ngồi dưới ngọn đèn, không nói. Bên ngoài cảnh đêm u uất. Trọng đứng dậy ra về. Mai đưa Trọng ra cổng, nàng lắng tai nghe lời dặn của Trọng. Chàng khuất vào vũng tối, trên cao đầy đặc sao trời.

Mai cuộn hai qủa ngô vào ngọn lá chuối, chén nước chè, đem phần ăn xuống cho người Mỹ cô đơn. Joe vui mừng đón nhận.

Joe chỉ vào người.- Tôi tên Joe O’Brien. Quê tôi ở California, vợ tôi Brenda, tôi chưa có con. Hắn ngừng nói chờ xem thái độ của Mai. Nàng ngơ ngáo như nai tơ, chẳng hiểu thằng Mỹ nói gì, dương mắt nhìn Joe. - Cô tên gì ? Mai đứng bất động, lãnh đạm, hắn biết nàng không hiểu, rút viết và giấy từ túi áo kẻ tên hắn trên giấy, tay viết miệng đọc.- Hắn tên Rô, cá rô. Mai thấy cái tên thằng Mỹ nầy dễ đọc dễ nhớ. Joe đưa giấy mực cho Mai viết tên mình. - Lý Mai, Mai. Joe đọc lẩm bẩm trong miệng ‘Le-mei’. Nàng đưa cho Joe hai trái chuối và chén cháo, nàng chỉ vào vết thương của Joe, hắn ngúc ngắc cái đầu tỏ ý không đau.

Mai cúi xuống thăm vết thương, hắn thấy Thánh giá bạc đeo ở cổ Mai. Joe cảm thấy an tâm phần nào. Từ đó, Joe cầu nguyện liên tục.

Được trú ẩn đã ba ngày, vết thương khô dần, hắn đứng dậy tập đi, cho thân thể co giãn. Đoạn ngồi xuống kiểm tra những thứ cần thiết mà Joe mang theo trong chuyến bay. Joe ngồi ôm đầu, xoáy quanh phi vụ cuối cùng của mình, nghĩ về một sự vượt thoát. Hình ảnh Brenda trở về, càng nghĩ về nàng, Joe càng lo lắng số phận của mình, hắn như con thú rình rập bởi thợ săn. Hắn thấy đời hắn nằm giữa chốn phong ba bão táp. Bốn bề bủa vây, liệu có đủ tiềm năng ứng xử. Joe đối diện với bóng tối, với địa ngục, hoá thân vật tế thần giữa rừng hoang. Hắn chới với trước mọi vấn đề, thả mình lên chõng tre, ngồi nghe đất thở.

Trời cuối tháng mười tối đen như mực. Trọng đạp xe đến nhà Mai. Nàng vừa ra khỏi hầm trú, thì nhận ra Trọng đến ở đầu ngõ. Mai nhanh chân, đón Trọng với đôi lời thăm hỏi. - Anh đến có việc gì không ? Trọng dựng xe, cười nói.- Chẳng có gì làm; anh lại thăm em. Mai cười, nụ cười cảm thông, hai người đi thẳng xuống bếp. Giờ này Lý Cầu đã lên giường.Trọng ngồi trên cái thùng gổ cạnh bếp lửa. Mai đun nước.- Có nghe tin gì về thằng giặc lái không ? Mai hỏi. Trọng trả lời nhát gừng.- Sống, chết thế nào cũng tìm thấy thôi. Mai lo lắng, nhiều lần muốn nói cho Trọng hay, nhưng sợ vạ lây. Bởi hai hôm trước thôn đội đã lùng bố khắp nơi, nàng e có ngày phát hiện. Nàng giấu sự nguy hiểm này. - Hình như, Trọng biết mà chàng chưa nói thì phải ? Mai có cảm giác đó. Nàng đâm ra nghi ngờ. Trọng hớp chén nước chè nóng, mắt liếc nhìn Mai, đôi mắt chàng che dấu điều gì. Trọng đến thăm Mai trong đêm tối mịt mùng, ắt có vấn đề, hắn muốn báo ngầm cho Mai là hắn biết mọi hành tung của Mai. Trọng bộ đội chuyên ngành, cựu Thám báo trong đơn vị tiền phương trước khi về nhận nhiệm sở mới, chức năng đội trưởng đội Dân quân thôn Ô. Tất phải biết mọi sinh hoạt trong thôn qua từng hộ khẩu. Trọng hẳn phải có con mắt rình rập, đánh hơi, hắn bén nhạy trong khâu này. Trọng ít khi kể cho Mai về những hoạt động trong lãnh vực nghề nghiệp của mình.

Đêm xuống sâu, gió chặt nghe vun vút, những lùm cây xào xạt xô vào nhau. Trên không nhìn xuống những mái nhà như những nấm mồ ngủ yên. Người lính Hải quân Mỹ, chắc giờ này đã ngủ êm. Cái sợ lớn lao cho Mai, mỗi khi Joe ngủ mang theo tiếng ngáy ào ạt, tim Mai muốn bung ra. Nói chuyện với Trọng mà hồn Mai cứ bay lạc xuống hầm trú, lỡ có điều gì không may xãy ra giữa lúc đang có Trọng. - Em nghe anh nói gì không ? Mai cười khất, đánh trống lảng.- Anh uống thêm chè nhá ! nước còn xanh, không mất ngủ đâu. Trọng khoát tay ra hiệu, chàng muốn hỏi Mai về việc cưới hỏi nhưng xét chưa thuận lợi lúc này. Thấy Trọng ấp úng, nàng sợ chàng động đến thằng giặc lái. Thúc bách quá, Trọng buột miệng hỏi Mai.- Em em có thương anh không ? Mai ngạc nhiên câu hỏi của Trọng, từ ngày gặp Trọng trong dịp bầu bán đoàn Thanh niên tiên tiến thuộc thôn Ô. Hai người hợp ý nhau và Mai nhìn Trọng như người anh cả; chưa bao giờ thấy Trọng sỗ sàng trong lời ăn tiếng nói với Mai và chưa thấy dấu hiệu gì là Trọng yêu Mai cả. Không trả lời câu hỏi của Trọng.- Bà cụ dạo nầy thế nào ? Cụ có khoẻ không ? Em nhiều chuyện làm, chưa có dịp đến thăm cụ. Anh chuyển lời dùm em. Tuy nhiên Mai rung động trước câu hỏi của Trọng. - Anh xem về kẻo cụ ở nhà trông. Đưa chén nước chè cho Trọng uống, mắt Mai nhấp nháy, ngực nàng rung rung trước gió tình. Trọng cầm tay Mai, tay chạm vào tay. Cả hai bồi hồi, chàng định cầm lên hôn, vội vàng thả xuống, quay lưng ra về.

Joe ra khỏi hầm trú ẩn, lúc ấy vào nửa đêm. Trước khi đi, hắn thu xếp cẩn thận. Buộc lại giày, đội nón bay, xét lại những thứ cần phải xử dụng đêm nay; máy truyền tin cầm tay, súng hỏa châu, địa bàn tất cả đầy đủ trước khi bước vào bóng đêm.

Mai, Lý Cầu chìm trong giấc ngủ, cảnh quang bên ngoài trở nên tĩnh vật, mờ hơi sương. Nhiều đêm hoặc những khi đầu sáng, hắn bỏ hầm trú, ra ngoài quan sát địa hình và đặc địa bàn nhắm hướng giữa lúc không gian im vắng, nhờ đó Joe biết được sinh họat xung quanh nhà Lý Cầu, hắn nắm vị trí ở đây, vì vậy đêm nay chàng xuất phát như dự tính. Hành trình từ nhà Mai đụng bờ biển mất thời gian từ 25 phút đến 30 phút giờ đường. Joe tính toán kỹ chuyến vượt biển này và phải thực hiện sớm trước khi trời vỡ sáng. Mất gần nửa tiếng đồng hồ mới bắt liên lạc được tuần dương hạm; thuộc Đệ thất hạm. Joe chờ đợi, mắt dớn dát nhìn tứ phía, sương phủ dày, trải rộng khắp mặt biển, gió nhẹ và biển êm. Hắn cảm thấy lạnh. Joe khẩn trương từng giây phút. Hắn làm dấu Thánh,cầu nguyện. Lúc ấy kim đồng hồ chỉ 2 giờ sáng. Hắn nghe tiếng động cơ trực thăng. Joe mừng quá quên cả hiểm nguy, tiếng động cơ mỗi lúc mỗi gần, tiếng gầm của trực thăng như sấm động, náo cả khung trời. Joe nhận rõ, bắn hỏa châu để lấy tín hiệu.

Nhận lệnh cấp báo của Đại tá Holloway; Phi hành đoàn trực chỉ hướng Tây Bắc, giải cứu O’Brien. Bốn chiếc trực thăng võ trang, tung hoành nghênh chiến lục địa Việt nam; dẫn đầu hai chiến đấu cơ có tầm cở AH-64 Apache với 8 hỏa tiển Hellfire cộng thêm hai giàn cánh hỏa tiển 19, hai nòng Đại liên trước và sau lưng tàu. Hai chiếc khác UH-1 Cobra, gắn Đại liên và hỏa tiển điạ không, mỗi chiếc có hai xạ thủ Đại liên. Phát hiện được tín hiệu, máy bay đảo thấp gần kề mặt biển, hai chiếc UH-1 thả giây cứu, sẳn sàng nhả đạn. Joe kinh khiếp, phóng mình trên bờ cát mịn, bán sống bán chết đuổi theo nước và người, bốn trực thăng chiến đấu quần quanh tọa độ, mặt biển xoáy những đường kính lớn .Hắn vừa chạy vừa ngoảnh đầu lui nhìn. Giặc lái trở thành chấm đen giữa hai lằn đạn. Bốn con khủng long chờ chực đớp mồi; chỉ cần một tiếng nổ phát ra cả thôn Ô chìm trong biển lửa và cả thôn dân nhuộm máu.

O’Brien lao vào sóng, quậy với sóng chưa vói thấu giây cứu, dồi dã nhiều lượt; may cho viên Sĩ quan Hải quân chụp được giây, đu đưa giữa tầm đạn, máy bay kéo Joe ra xa, ba chiếc khác còn hầm hừ chưa chịu bay, họ biết trên bờ xa, Dân quân đang chỉa súng về hướng họ, tuyệt nhiên không nghe một tiếng nổ bên phía Bắc Việt.

Bờ bãi thôn Ô dân quân, bộ độ võ trang đầy đủ, dễ dàng chống lại những người khách không mời. Đối, bộ đội phục viên, ứ gan không chịu được sự ngang ngạnh của địch quân, nâng súng lên tầm mắt, đưa tay vào cơ bẩm. Trọng đứng cạnh bên, gạt phăng tay súng của Đối.- Không cần phải làm thế ! nó “cút” là nó sợ ta, nó thua ta. Ta thắng ! Giết nó, bắt sống nó không phải là việc khó đối với chúng ta. Trước mắt; mình phải đảm bảo hoà bình cho thôn Ô, không tắm máu vì một thằng Mỹ. Chúng ta chứng minh sự xâm lược trái phép của bọn chúng và tỏ cho thế giới biết lòng nhân ái,vị tha của dân tộc ta. Họ lắng nghe Trọng lý giải thiệt hơn; nhất trí quay về đơn vị. Đối thả súng xuống, đứng bên cạnh Đối có Trọng, Lý thị Mai tay cầm cây AK trông gương mặt còn khiếp sợ. Nàng nhìn Trọng. Bây giờ, Mai nhìn thấy được tâm hồn Trọng, một chiến sĩ có tâm huyết, một anh hùng cứu nguy dân tộc.

Sau khi vãng hồi, tất cả lặng lẽ ra về. Người ta thấy Trọng và Mai đi bên nhau ở cuối thôn Ô.

Hai mươi lăm năm sau Joe O’Brien và vợ là Brenda Melakosky về thăm Việt nam. Joe muốn thấy lại nơi vào sinh ra tử. Những đau thương mà con người phải gánh chịu bởi chiến tranh. Nạn nhân đau đớn nhất là hai miền dân tộc Việt nam.

Joe tìm ra vùng đất nơi mình gãy cánh đại bàng. Cảnh quang thôn Ô thay đổi hoàn toàn, nhà cửa mọc lên, tạo bộ mặt mới. Họ đã đi thăm xóm làng cũ và cố tìm laị kỷ niệm xưa; ở đó có Mai. Qua gần hết ngày; họ vào một căn hộ gần bờ ruộng cạn, ghé vào thăm. Joe nhìn người đàn bà tóc hoa râm, gương mặt phúc hậu, có nụ cười kín đáo. Cựu lính Hải quân mơ hồ không biết thực hư, chàng nghi ngờ cho chính mình, thấy ở ngực bà có đeo thánh giá bạc, Joe hồi tưởng cách mấy mươi năm trước, hình như Joe đã thấy.- Are you Lemei ? Cô Lý Mai phải không ? Mai cúi đầu mỉm cười. Brenda cười dịu dàng, cầm lấy tay Mai ngỏ lời cám ơn đã cứu chồng bà. Người đàn ông râu tóc bạc mời hai vợ chồng Joe uống nước chè xanh, họ thấy vị nước lạ miệng mà ngon. Bà Trọng chỉ tay vào chồng.- Đây là chồng tôi; cựu bí thư thôn Ô. Người thông ngôn nói với họ. Vợ chồng Joe đón lấy tay Trọng, trong tình cảm nghiã huynh.- Ông Trọng; đêm trực thăng cứu tôi, ông có đó không ? Joe hỏi. Trọng nhìn Joe O’Brien không nói. Ông đứng dậy vói tay hạ khung ảnh xuống chỉ cho Joe và Brenda xem bằng khen tuyên dương anh hùng do Nhà nước cấp vào những năm tháng đó. Họ nhìn vào mặt Joe khâm phục và cảm động tình cảm của ông bà Trọng. Trước khi giã từ thôn Ô, họ không quên để lại quà lưu niệm cho ông bà Trọng.

Trời vào Xuân, năm Thìn, dân thôn Ô tổ chức lể hội đón Xuân, những tiếng hát vang lên giữa bầu trời trong xanh, những tà áo khoe màu thướt tha trong nắng gió đầu mùa. Ở đàng xa người ta thấy ông bà Trọng cầm tay mấy đứa cháu tiến về hướng nhà thờ. Tiếng chuông đổ báo một ngày đầu năm mới.


Võ Công Liêm
(Cuối 30.4.2008. chestermere.ab.ca)