PDA

View Full Version : Ngô Đình Diệm, Qua Suy Nghĩ Của Một Hậu Sinh



Longhai
11-01-2013, 08:09 AM
Ngô Đình Diệm, Qua Suy Nghĩ Của Một Hậu Sinh

Chu Tất Tiến


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1383482956.PNG

Khi biến cố 1963 xẩy ra, cũng như những người cùng thời vừa mới xong bậc Trung Học, còn đang phân vân trước tương lai, tôi không có một ý thức gì về chính trị, chỉ biết ngơ ngác nhìn những sự kiện thay đổi dồn dập xẩy ra chung quanh mà không biết phản ứng như thế nào.

Có lần đang lang thang gần khu chợ Bến Thành, chợt thấy tiếng chân dồn dập, tiếng người gọi nhau í ới, tôi nhìn lại thì thấy một nhóm chừng hơn hai chục thanh niên nam nữ áo trắng học sinh chạy xớn xác tản ra khắp ngã đường, tay vẫn còn cầm vài cái biểu ngữ nhầu nát. Cũng có lần, tôi chứng kiến một cuộc biểu tình ngồi trên đường Lê Lợi gồm mấy vị tu sĩ Phật Giáo và nhiều người thanh niên khác. Cảnh sát bao vòng tròn trong im lặng, không có hành động gì, trong khi đó thì một bà trung niên cầm loa tay hô khẩu hiệu um trời. Hò la một lúc thì bà tiến đến gần một anh cảnh sát, giật mũ anh ném xuống đất. Người cảnh sát lẳng lặng cúi xuống nhặt, phủ bụi, và đội lại lên đầu. Rồi thời gian sau, chán những cuộc biểu tình, xuống đường lan rộng làm rối loạn sinh hoạt cả thành phố, tôi bỏ đi khỏi thành phố, xuống miền Tây làm việc cho qua một thời khủng hoảng.

Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị giết, tôi xúc động và buồn bã vì trong ký ức non trẻ của tôi, bài hát “Ai bao năm từng lê gót nơi quê người” mà tôi thường hát trước giờ vào học vẫn âm hưởng trong tôi, và hình ảnh vị Tổng Thống hiền hòa nhìn nghiêng trong một khung hình bầu dục hiện lên trên màn hình trước giờ chiếu phim trong các rạp xi-nê đã hiện diện trong tôi như hình ảnh một anh hùng dân tộc, người đã cứu chúng tôi ra khỏi miền Bắc Cộng Sản, đã cho chúng tôi an cư trên miền đất mới đầy Tự Do và no ấm.

Khi trở về Saigon, tôi thấy không khí ngột ngạt dễ sợ. Trong khu tôi ở, thỉnh thoảng có nhiều người lạ mặt đeo kính đen lảng vảng, và nếu tôi có buột mồm hỏi về chuyện đảo chánh hồi trước, thì người bên cạnh vội “suỵt” tôi, không cho nói nữa. Không khí Saigon hồi đó rất căng thẳng, nhất là tại các khu Bắc Kỳ di cư như Tân Sơn Nhất, Gò Vấp, Xóm Mới... đâu đâu cũng có những kẻ đeo kính đen đi chầm chậm trên các ngõ hẻm, liếc ngang liếc dọc… Trong khi đó, thì nhật báo Saigon lại phát tài với những bài chửi chế độ cũ tan nát. Nhiều chuyện dài kể về thâm cung bí sử của họ Ngô. Tôi nhớ có đọc nhiều câu chuyện kể y như thật về cách làm tình của Bà Nhu với Tướng Đôn, với những cận vệ của bà, và với Đại Sứ Mỹ. Những tường thuật thật lâm ly, làm người đọc có cảm tưởng là tác giả đang nằm dưới gầm giường bà Nhu nên chứng kiến thật rõ những cử chỉ, lời nói dâm đãng của bà, không sót một chi tiết nào. Lại có chuyện ông Diệm và bà em dâu tình tứ với nhau, chuyện ông Diệm đi chơi bời mặc dầu ông Diệm là đồng tính luyến ái… Có một tờ báo nào đã viết ông Diệm bị hoạn! Kinh hoàng nhất là chuyện ông Diệm giết người không gớm tay, từng lê máy chém đi khắp nơi, gặp đâu chém đấy, cả ngàn mạng vô tội ! Nhưng người đao phủ đáng gờm nhất chính là ông Cẩn. Theo bài báo, thì đằng sau nhà ông Cẩn có một vườn cam, mà dưới mỗi gốc cam là xác một Phật Tử, do đó, cam của ông Cẩn ngọt lạ lùng! Rồi những hầm nhốt người bất đồng chính kiến, hầm giam dưới lòng đất của Thảo Cầm Viên đầy đầu lâu, xương cốt…

Cứ theo mấy tờ báo Loạn thời đó, thì quả thật, gia đình họ Ngô là những kẻ tử thù của Dân Tộc, cần phải tru di tam tộc ! Điều lạ lùng, là cá nhân tôi, khi đọc những bài báo láo lếu đó, lại dửng dưng như không, và còn nghĩ ngược lại nữa. Tôi khinh ghét những tác giả đó. Có lẽ vì sự thổi phồng quá đáng đã gây nên phản ứng ngược với những ai có chút suy nghĩ.

Rồi thời gian trôi qua... Tôi chứng kiến những vụ lật đổ nhau, tranh dành chức chưởng, gây nên xáo trộn nặng nề về kinh tế. Mới hôm trước còn là Thủ Tướng, Quốc Trưởng, Quốc Vụ Khanh, Bộ Trưởng... mà ngày hôm sau đã ra tòa, hoăc bị đẩy đi xa. Đất nước xáo trộn kinh hoàng. Sài gòn cứ chứng kiến những cuộc xuống đường lộn xộn như những kẻ chạy đèn trên sân khấu Hồ Quảng. Căng thẳng nhất là lần học sinh, sinh viên đòi Nguyễn Khánh phải bỏ Hiến Chương Vũng Tầu cho ông ta đời đời kiếp kiếp làm Vua. Hôm đó, tôi có tham dự, và thấy rõ Nguyễn Khánh, với bộ râu dê, cầm tờ Hiến Chương vừa cười vừa xé trước mặt Sinh viên. Từ lâu, tôi vẫn khinh bỉ nhân vật này, vì đã nghe kể một lần ông ta tổ chức nhẩy đầm ở truồng tại Đà Lạt, bị bà vợ lên bắt gặp, Nguyễn Khánh vù lên máy bay bỏ chạy.

Và biết bao sự kiện thanh toán lẫn nhau, Tôn Giáo tấn công lẫn nhau... làm cho dân chúng chán nản tột cùng. Riêng tôi, thì thất vọng não nề, khi biết Việt Cộng đã nhân cơ hội Tướng Tá giành giật chức vụ, bỏ ngỏ mặt trận, xóa Ấp Chiến Lược, nên đồng loạt tấn công những trận lớn, công đồn đả viện, với vũ khí nặng làm quân Cộng Hòa lao đao. Đài phát thanh báo tin chiến trường, với những bản báo cáo đếm xác ta, xác địch, mỗi ngày đưa ra một con số lớn hơn..

Từ những sự kiện như thế, trí óc ngây thơ với chính trị của một thanh niên mới lớn đã dần dần trở thành dầy dạn. Tôi tự lắp ráp lại những sự việc xẩy ra từ 1954 đến 1963, rồi giai đoạn kế tiếp, để nhận ra rằng chính Tổng Thống Diệm mới thực sự là một Anh Hùng Dân Tộc, người đã bị bức tử bởi bầy tôi hèn hạ, tham tiền, chối thầy, giết chủ. Nhớ lại những ngày chiến dịch Bình Xuyên, hình ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm ôm Đại Tá Dương Văn Minh rồi thăng cấp tại mặt trận, hình ảnh Tổng Thống thảo luận trên phóng đồ hành quân mà Nguyễn Khánh đứng cung kính nghe lệnh, tự dưng, tôi muốn phẫn nộ vì tâm địa phản trắc của con người.

Nếu không có Ngô Đình Diệm, thì Đỗ Mậu vẫn chỉ là tên lính khố vàng, Minh, Khánh vẫn là những tên lính Tây… Nếu không có Ngô Đình Diệm, thì sòng bài khổng lồ Đại Thế Giới vẫn còn là nơi giết hại bao gia đình, các khu Bình Khang vẫn đầy dẫy trong Saigon, nơi điếm đĩ, ma cô lượn lờ như những thây ma đầy phố. Đêm đêm, các chủ nhà hàng, tiệm ăn, tiệm buôn vẫn phập phồng lo sợ chờ tiếng gõ cửa của tay chân bộ hạ Bẩy Viễn, Bình Xuyên, với cái đinh 10 phân trong tay, đòi tiền mãi lộ, nếu không muốn cái đinh dài kia xuyên qua óc. Những tên chỉ huy Cảnh Sát lại là những tên cướp có quyền uy thấu trời, có sòng bài, ổ đĩ riêng mà không quyền lực nào dám đụng tới. Các Tướng chỉ huy quân đội đa số là “bồi Tây”, nói tiếng Việt không rành, miệng ngậm xì gà, tay chống ba toong, bụng đầy bơ Tây, không có chút tinh thần Việt Nam nào. Và tại miền Tây, những chúa tể hùng cứ một phương, Năm Lửa, Ba Cụt, Nguyễn Bình… là những ông Con Trời, đặt ra luật lệ riêng, bắt dân phục vụ như nô lệ. Miền Nam ruộng thẳng cánh cò bay vẫn còn những tên Hương Quản, Hương Cả… có quyền hành hạ dân như chó, ngựa…

Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một tay trác tuyệt, đã đương đầu một lúc với hàng vạn thù trong, giặc ngoài. Một mặt thì lo dẹp loạn Sứ Quân, thâu hồi quyền lực vào Chính phủ Trung ương để vãn hồi trật tự quốc gia, mặt khác lo an sinh cho dân chúng, cải tổ hệ thống tiền tệ, thuế khóa, xây dựng một nền văn hóa Dân Tộc, hỗ trợ cho các chương trình Bình Dân Giáo Dục, dậy chữ và dậy nghề, thêm chương trình Công Dân Giáo Dục vào học đường để dân chúng cùng tiến bộ, văn minh. Quan trọng nhất là cải tiến Trường Hành Chánh do Tây Thực dân xây dựng từ 1952, biến thành Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để đào tạo môt lớp viên chức đầu Tỉnh, đầu Quận, và các Trưởng Ty mọi ngành theo quỹ đạo Việt Nam, thay đổi các viên chức từng quen với lề lối Tây cổ điển bằng các chuyên viên tốt nghiệp từ Mỹ về. Từ đó, người dân không còn sợ công chức hơn cha mẹ nữa. Với hệ thống hành chánh mới cải tổ, thủ tục hành chánh đã giúp dân chúng thỏa mãn mọi nhu cầu trong đời sống hàng ngày một cách tốt đẹp.

Về phương diện Quân đội, cũng thay dần lớp “Quan Sáu, Quan Năm, Quan Tư, Quan Ba, Quan Hai, Quan Một” bằng Đại Tá, Trung Tá, Thiếu Tá… và cấp Úy, chỉ huy các Hạ Sĩ Quan và Binh sĩ theo đường lối mới. Tinh thần quân đội lên cao, cho nên cuộc chiến chống Cộng, bảo vệ Tự Do đã dần dần tiến tới thành công. Việt Cộng dần dần bị chính sách Ấp Chiến Lược làm cho tan rã. Chúng phải rút dần vào rừng sâu, núi thẳm, không có tiếp trợ từ dân chúng. Nếu không có ngày đảo chính 1963, có lẽ chỉ vài năm sau, Việt Nam đã thống nhất với thế thượng phong về phía Việt Nam Cộng Hòa.

Cũng trong tình thế đó, Tổng Thống Diệm không quên ra sức củng cố các liên lạc ngoại giao với nước ngoài, để được toàn thế giới công nhận. Cờ Việt Nam Cộng Hòa bay khắp nơi. Tổng Thống Diệm đi đến đâu cũng được tiếp đón với nghi lễ cao nhất dành cho quốc khách. Sinh hoạt xã hội cũng tiến bộ. Tham nhũng bị bài trừ. Các sinh hoạt vũ trường, hủ hóa cũng bị giới hạn tối đa. Dân chúng sống trong tinh thần Dân Chủ, Văn Minh rất thoải mái.

Dưới chế độ Ngô đình Diệm, với chủ trương Hữu Sản Hóa dân chúng, đời sống dân miền Nam thật thanh bình. Chương trình Hữu sản Hóa Taxi đã biến bao dân làm thuê thành chủ chiếc xe Taxi của mình mà không phải làm trâu ngựa cho chủ. Những chiếc xe Taxi Renault cũ kỹ nhả khói um trời được thay thế bằng loạt Dauphine xinh xắn.

Song song với việc hữu sản hóa công nhân, thì chương trình Người Cầy Có Ruộng đã giúp bao thợ cấy trở thành người chủ của miếng ruộng của mình. Chính phủ đã bỏ tiền ra cho các nông dân được mua 3 mẫu đất rồi trả góp khiến cho chế độ tá điền, cầy thuê bị bãi bỏ dần. Các Khu Trù Mật đã lần lượt ra đời, mang lại cơm no áo ấm cho dân nghèo. Một khi mà nông thôn ổn định, thì thành phố phát triển nhanh hơn.

Tôi nhớ những năm 54-63, chị tôi làm công chức, anh tôi từ Thiếu Úy lên Trung Úy, đóng ở Long Xuyên, mẹ tôi đi buôn bán nhỏ, mà gia đình chúng tôi sống thoải mái, đầy đủ tiện nghi, không bao giờ nghe phàn nàn về vật giá, muốn ăn phở, uống bia thì ra tiệm lúc nào cũng được. Ngoài ra, mẹ tôi còn để dành được khá nhiều, tiền anh tôi gửi về thì cất để dành đám cưới cho anh. Đó là những ngày huy hoàng nhất cho miền Nam, kể cả hơn một triệu người Bắc di cư đã dần dần có cơ ngơi đầy đủ như ở quê nhà.

Trong những ngày bận rộn vô cùng ấy, Tổng Thống Diệm lại vẫn đi thăm dân chúng, hỏi thăm từng người xem đời sống có khá không. Ông rất ghét những kẻ xu nịnh lấy điểm, chỉ biết dàn cảnh lấy lòng cấp trên. Có lần, ông đến một khu trù mật, thấy trồng chuối đầy hai bên đường, nhưng lá chuối thì héo. Ông tiến thẳng đến, cầm hai tay lắc lắc thân chuối, thấy nhẹ, ông nhổ ngay lên. Hóa ra, tay tỉnh trưởng xu nịnh ra lệnh cho trồng gấp rút chuối để lấy lòng Tổng Thống, không ngờ ông phát giác ra được, tay tỉnh trưởng mất chức ngay. Tính ông rất thẳng. Nghe kể lại là có lần ông ra Vũng Tầu, nghỉ ngơi ở Bạch Dinh Vũng Tầu, nhìn qua cửa sổ về phía biển, thấy một rừng mai do Bảo Đại trồng rất đẹp nhưng lại chắn tầm nhìn ra biển. Ông chỉ cười nói “Rừng mai này che mất tầm nhìn ra biển”. Tay Thị Trưởng Vũng Tầu nghe thấy, muốn lấy điểm với Tổng Thống, nên ra lệnh chặt hết rừng mai. Lần sau, khi Tổng Thống đến nghỉ ở Bạch Dinh thì không thấy rừng mai nữa. Ông tìm hiểu và biết được lý do, nên nổi cơn thịnh nộ, gọi Thị Trưởng, và khi thấy tay nịnh bợ kia vừa bước vào, Tổng Thống chụp ngay cái gạt tàn thuốc ném vào mặt và quát: “Ai cho mi phá cái di tích lịch sử đó?”. Dĩ nhiên, sau đó, thì có Thị Trưởng mới, nhưng rừng hoa mai mãi mãi không còn.

Cũng theo Nhật Ký Đỗ Thọ, tùy viên (Phật Giáo) của Tổng Thống, thì trong một lần kinh lý Trà Vinh, trước khi máy bay đáp xuống phi trường, Tổng Thống đột nhiên thấy trưng toàn cờ Công Giáo! Ông cũng nổi giận ghê gớm, cầm gậy đập ầm ầm xuống sàn phi cơ và nói: “Ai cho nó trưng cờ Công Giáo? Tỉnh này toàn là Phật Giáo mà?” Rồi ông ra lệnh cho máy bay bay vòng vòng chờ dẹp hết cờ Công Giáo đi, ông mới chịu cho đáp xuống. Tay Tỉnh Trưởng nịnh bợ đó dĩ nhiên là chịu một phen mắng mỏ, nếu không có Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục năn nỉ, nhận lỗi là đã ra lệnh cho Tỉnh Trưởng thi hành, thì ông Tỉnh đó đã bay chức.

Hồi đó, có một số cấp Tá vì muốn nịnh Tổng Thống nên đã cải đạo sang Công Giáo, những tưởng phen này thăng chức. Nhưng rồi, nghe nói, những vị đó đã uổng công, vì Tổng Thống có tính ghét ai nịnh bợ, nên không chiếu cố đến ai mới vào đạo Công Giáo cả. Khi biết tin một vị linh mục thân thiết với Tổng Thống đã lợi dụng sự quen biết này mà lớn lối với các cấp Sĩ Quan khác, Tổng Thống đã ra lịnh cấm ông linh mục này vào dinh cho đến khi vị linh mục này năn nỉ, xin lỗi và hứa không tái phạm nữa, ông mới được phép vào, nhưng cũng chỉ trong phạm vi giới hạn.


http://hoiquanphidung.com/upload/img/HQPD_1383483034.gif

Cũng vì tính tình liêm khiết, cương trực đó, cũng như sự tận tình phục vụ đất nước mà Tổng Thống Diệm đã được thế giới kính nể. Tổng Thống Eishenhower đã gọi ông là “Miracle Man” và đã đón tiếp ông, một lãnh tụ Á Châu nhỏ bé, tận phi cơ. Khi Tổng Thống Diệm đi xe hơi vào thủ đô, ông đã được đón tiếp bằng hàng triệu triệu những bông hoa giấy từ mọi Bin-đinh, cửa hàng của thủ đô Hoa Kỳ. Điều muốn nói là tính ông ngay thẳng, không sợ người bạn Khổng Lồ và cũng là Ân Nhân của mình, nên mỗi khi bắt tay người Mỹ, ông cứ để thẳng tay xuống, bắt người Mỹ cao kều kia phải cúi đầu trước ông. Nhiều tấm hình chụp các chính khách Hoa Kỳ cúi thấp người trước một ông Tổng Thống thấp bé vẫn còn lưu trữ tại Quốc Hội Mỹ. Việc ông chịu ơn người Mỹ nhưng không chấp nhận Mỹ đóng vai trò “cha, chú” của mình đã thể hiện trong nhiều cơ hội, nhất là việc ông không chịu cho Mỹ đổ quân vào Việt Nam ào ạt. Theo suy nghĩ của ông đã được nói với các cộng sự viên, thì một khi người Mỹ cho lính vào ào ạt, thì Việt Nam sẽ mất đi chính nghĩa chống Cộng. Do đó, ông luôn cự tuyệt việc Mỹ yêu cầu cho đổ quân thêm vào, chỉ cho có một số lượng giới hạn các cố vấn quân, dân sự Mỹ mà thôi. Điều đó làm cho Kenedy tức giận, và đã cho soạn chính sách “thay ngựa giữa dòng”, nhưng Đại Sứ Mỹ Frederick Nolting cương quyết không chịu, vì sau một thời gian làm việc với Tổng Thống Diệm, Đại Sứ Nolting đã nhận thấy ông Diệm là người yêu nước thật sự đáng kính. Khi bị Nhà Trắng ép buộc, Nolting đã từ chức, và Kenedy lập tức cử ngay một chuyên viên đảo chính là Cabot Lodge sang để tính chuyện lật đổ Diệm. Âm mưu này, Tổng Thống Diệm biết rõ, nhưng không sợ. Tôi còn nhớ đã nghe thấy trong một lần họp Quốc Hội Lưỡng Viện, có sự hiện diện của Cabot Lodge, Tổng Thống Diệm đã đọc một bài diễn văn dài, đại khái nói là “Có một người bạn của chúng ta ở bên kia bờ đại dương xa lắc, nhưng lại cứ muốn lèo lái chúng ta theo ý của bạn đó. Chúng ta cương quyết không để cho chuyện đó xẩy ra…”

Nghe tới đó, Cabot Lodge hậm hực đứng dậy và ra về. Cabot đã từng thử thách Tổng Thống Diệm bằng cách yêu cầu Tổng Thống đến phi trường Tân Sơn Nhất tiễn đưa 6 thi hài lính Mỹ chết trận về nước. Tổng Thống từ chối, nói “Sinh mạng của người Mỹ đáng quý, nhưng vì tôi không đến tiễn đưa linh cữu của các Binh sĩ của tôi được, thì tại sao tôi lại phải tiễn đưa hài cốt lính Mỹ về nước?” Cabot đòi phải có Ngoại Trưởng Việt thay thế. Tổng Thống không nhận lời và cũng không từ chối. Khi Cabot đứng chờ ở phi trường rất lâu mà không thấy ai đại diện Việt Nam đến, ông ta nổi nóng, đọc một bài diễn văn dài, đổ tội cho Việt Nam là vô ơn, bạc bẽo. Từ đó, mà Cabot mới tiến hành gấp rút việc đảo chánh Tổng Thống Diệm, để thực hiện việc đổ quân tràn lan vào Việt Nam. Theo cuốn “The Ambassador” viết dưới tên một nhà văn Mỹ lạ, mà người ta biết là tên hiệu của Cabot Lodge, vì đó là cuốn tự thuật lại vai trò của một Đại Sứ Mỹ trong suốt quá trình đảo chính Tổng Thống Diệm, thì tác giả cho biết, “Diệm là người liêm khiết, sống thanh bần, và món xa xỉ duy nhât mà Diệm xài là một điếu xì gà, ngoài ra, ông chỉ nằm giường phản gỗ không có nệm, đầu giường có một bàn quỳ đọc kinh, trên tưởng có treo một hình Thánh Giá đơn sơ. Diệm không thích ăn uống linh đình, món ăn mà Diệm vẫn hay ăn thường là món cá kho Huế và rau cải mà thôi”. Cuốn này cũng kể lại sự liên hệ giữa Tổng Thống và cô em dâu rât khô khan. Có lần Tổng Thống đã đuổi bà Nhu ra khỏi cuộc họp, và nói “Chỗ này không phải là chỗ của thím!”, bà Nhu phải len lén đi ra vì bà vẫn luôn kính sợ Tổng Thống và chưa bao giờ dám trái lệnh anh chồng.

Cũng trong cuốn này, Đại Sứ Mỹ đã tưởng trình lên Kenedy những điều căng thẳng giữa Tổng Thống Diệm và người Mỹ, nhất là sau sự việc Phật Giáo miền Trung có bàn tay của CIA nhúng vào mà Diệm vẫn khăng khăng không chịu nước lép với Mỹ, rồi Đại Sứ đã xin chỉ thị sau cùng. Sau khi biết chắc rằng không thể lung lạc được Diệm, Bạch Cung đã gửi bức điện vẻn vẹn có mấy chữ nhưng lại là lưỡi dao của đao phủ thủ, kết thúc tính mạng của một gia đình Tổng Thống cũng như số phận của dân Việt: “Nuôi một con chim mà nó không hót theo ý chủ, thì nuôi để làm gì” (What was the use of raising a bird that did not sing as the owner ordered ?”) Nhận được lệnh này, Cabot Lodge đã bật đèn xanh cho nhóm tướng lãnh ham tiền làm phản và Tổng Thống Diệm đã bị giết chỉ vì tính cương trực của một người yêu nước, hoàn toàn không phải bị giết vì vụ Phật Giáo. Theo Cụ Cao Xuân Vỹ, tính yêu nước và tinh thần dân tộc đã theo Tổng Thống Diệm đến giây phút cuối. Khi bọn phản tướng tấn công vào dinh, Cụ Cao Xuân Vỹ đã đề nghị Tổng Thống ra lệnh cho những đơn vị trung thành tấn công bọn phản, nhưng Tổng Thống cương quyết không chịu. Tổng Thống quát : “Lấy Quân đội dẹp Quân đội thì còn chính nghĩa gì ?” Cụ Vỹ nài nỉ, “nếu không dẹp bọn phản, thì không lẽ để tụi nó giết mình sao?” Tổng Thống quát lần này to hơn: “Chết thì đã sao?”

Và như thế, một vị anh hùng Dân Tộc đã ngã xuống, cho Tổ Quốc tồn vinh. Điều đau lòng nhất chắc Tổng Thống Diệm mang đi khi ông lìa trần là mối lo Cộng Sản thôn tính miền Nam. Trước ngày đảo chánh chừng một tháng, ông đã nói với các tướng lãnh ở Tổng Tham Mưu rằng “chế độ này còn nhiều khuyết điểm, nhưng nếu sụp đổ, thì miền Nam chắc chắn sẽ mất vào tay Cộng Sản”. Điều đó, quả thực đã xẩy ra như lời tiên liệu. Sau khi Tổng Thống Diệm mất, miền Nam rơi vào tình trạng hỗn quân, loạn quan, rồi chế độ độc tài, tham nhũng của Thiệu ra đời, lệ thuộc hoàn toàn vào viện trợ của ngoại bang, cho nên khi quân ngoại quốc và Mỹ rút đi, thì nước Việt hoàn toàn bị nhuộm đỏ. Giờ đây lại sắp mất vào tay Trung Cộng. Dân Việt Nam đã hơn 4000 năm kiêu hùng với những chiến công lừng danh thế giới, bây giờ chỉ còn là nhóm thỏ con bên cạnh những con thú ăn thịt đồng loại là Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đang khúm núm dâng thỏ cho con cọp đói Trung Cộng. Mối nhục này biết đến thế hệ nào mới trả được? Thật đau lòng cho lịch sử Việt Nam. Nhân ngày giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm sắp đến, chúng tôi, những người Việt Nam biết ơn Người, xin kính dâng lên Người một đóa hoa lòng, nguyện xin Đấng Tối Cao cho linh hồn Người Anh Hùng Dân Tộc được yên nghỉ ngàn thu.



Chu Tất Tiến
26 tháng 10 năm 2013

TAM73F
11-08-2013, 11:23 AM
Mời xem Cựu GS Huỳnh Văn Lang nói về Cựu Tổng Thống Ngô Đình Diệm: Cái hay và ý nghỉa của Cựu Diệm làm ...

<iframe width="640" height="360" src="//www.youtube-nocookie.com/embed/I4DzhG6Jvwc" frameborder="0" allowfullscreen></iframe>
----------------------------

Sau đây là bài diển văn của Cựu Diệm

Nhân dân không còn cam phận: Diễn văn của Tổng Thống Diệm trước quốc hội Hoa Kỳ ngày 7 tháng 5, 1957..

Ngô Đình Diệm - Nhân dân không còn cam phận

Trần Quốc Việt dịch

Lời người dịch: Nhận lời mời của Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm sang thăm Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 5, 1957. Ông được tiếp đón trọng thể và đầy đủ danh dự dành cho bậc thượng khách của chính phủ Hoa Kỳ. Thành công của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong công cuộc xây dựng nước Việt Nam Cộng Hòa còn non trẻ, đặc biệt trong việc tái định cư thành công hơn 800 ngàn người tỵ nạn từ miền Bắc, đều được các báo uy tín hàng đầu của Mỹ coi là "phép lạ". Tổng Thống Hoa Kỳ Eisenhower đã đích thân ra đón ông tại phi trường, và vợ chồng Tổng Thống Eisenhower đã dự tiệc chiêu đãi được tổ chức tại Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Washington.

Trong thời gian thăm viếng Hoa Kỳ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã có vinh dự phát biểu trước lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ. Bài diễn văn của ông "tuy ngắn nhưng đầy xúc động" đã nhận được nhiều tràng pháo tay hoan hô của các vị dân biểu Mỹ.

Bài diễn văn đã được đăng toàn văn trên tờ báo New York Times vào ngày hôm sau. Toàn bộ tựa đề và các tiêu đề là của tờ báo này. Những phần trong ngoặc là từ biên bản của Quốc Hội Hoa Kỳ. Và người dịch chân thành cảm ơn Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ đã gởi cho biên bản về bài diễn văn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Ngô Đình Diệm
Nhân Dân Không Còn Cam Phận

Trần Quốc Việt (Danlambao) dịch

Thật là một vinh dự hiếm có cho tôi khi hôm nay có cơ hội phát biểu với quý vị. Phát biểu với quý vị trong tòa nhà Quốc Hội này, nơi đã hun đúc nên số phận của một trong những quốc gia lớn trên thế giới.

Tôi tự hào mang đến quý vị dân biểu lỗi lạc của nước Cộng Hòa Hoa Kỳ cao quý những lời chúc huynh đệ tốt đẹp nhất từ nhân dân Việt Nam. Tôi cũng mang đến đây sự bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam về sự giúp đỡ tinh thần và vật chất của nhân dân Hoa Kỳ. Nhân dân chúng tôi nhận thức được tầm quan trọng rất lớn lẫn ý nghĩa sâu sắc của sự trợ giúp này.

Kể từ khi kết thúc cuộc chiến tranh vừa qua, khi Châu Á phá tung xiềng xích, lương tâm của thế giới cuối cùng đã bừng tỉnh trước sự phát triển sâu sắc và tất yếu- sự ra đời của Châu Á độc lập. Từ đấy, nhận thức này đã đưa đến sự lên án bằng những lời lẽ cụ thể nhất chế độ bóc lột cũ mà, trong quá khứ, đã chi phối quan hệ giữa Đông và Tây.

Hiện nay thay thế vào đấy là những nỗ lực bền bỉ nhằm xác lập phương thức hợp tác quốc tế mới, thích hợp hơn với những nhu cầu thực sự của thế giới và với triết lý mới của Châu Á.

Chính cuộc chiến đấu giành độc lập, chính ý thức càng ngày càng sâu sắc của các dân tộc thuộc địa rằng nguồn gốc của sự nghèo khổ của họ là sự cản trở một cách có hệ thống sự phát triễn kỹ thuật, cùng với tinh thần dân tộc và xã hội ngày càng cao, tất cả đã kết hợp lại để tạo ra sự thay đổi toàn diện sâu sắc trong tâm trạng Châu Á và tất cả điều này đã cho dân chúng Châu Á sự năng động không thể nào cưỡng lại được.

Nhân dân không còn cam phận.

Nhân dân Châu Á - vốn đã tủi nhục từ lâu trong nguyện vọng dân tộc của mình, nhân phẩm của họ đã bị tổn thương - giờ đây không còn cam phận và thụ động như trong quá khứ. Hiện giờ họ háo hức bồn chồn. Họ khao khát giảm bớt sự lạc hậu quá lớn về kỹ thuật. Họ đòi hỏi mạnh mẽ sự phát triễn kinh tế cấp bách và nhanh chóng, nền tảng tốt đẹp duy nhất cho sự độc lập chính trị dân chủ.

Các nhà lãnh đạo Châu Á - dù ý thức hệ của họ là gì chăng nữa- tất cả đều đối mặt với sự cấp bách bi kịch của những vấn đề xã hội và kinh tế. Dưới áp lực mạnh mẽ của nhân dân mình, họ buộc lòng chấp nhận kế hoạch kinh tế. Kế hoạch như thế nhất định gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng.

Chính vì lý do này chủ đề chính của các cuộc tranh luận chính trị trong nước ở các quốc gia Châu Á đều tập trung vào mức độ kế hoạch cần thiết, phương pháp cần phải có để tạo ra những kết quả thực tế cấp bách.

Phải chăng mọi thứ nên được kế hoạch? Hay sự kế hoạch chỉ nên giới hạn vào các khu vực thiết yếu? Phải chăng nên chấp nhận những phương pháp dân chủ hay những phương pháp toàn trị tàn bạo?

Chính trong cuộc tranh luận này ở tại nhiều nước không may bị ảnh hưởng bởi những lời hứa hẹn giả dối nhưng quyến rũ của chủ nghĩa Phát xít và chủ nghĩa cộng sản những nỗ lực đang nhằm gìn giữ nền dân chủ tự do qua viện trợ từ các nước công nghiệp Tây phương đóng vai trò rất quan trọng. Vì danh dự của con người, Hoa Kỳ đã đóng góp quan trọng nhất vào mục đích này.

Kính thưa quý vị trong Quốc Hội, qua những điểm chính và khái quát chung, những điều này là những vấn đề các nước Châu Á đang đối mặt. Những điều này là những mục tiêu phải đạt được và là những phương cách phải được đề xuất.
Những điều này cũng là những áp lực và cám dỗ trong nước mà các nhà lãnh đạo Châu Á đối mặt.
Khu vực nhạy cảm

Ở lục địa Châu Á rộng lớn, Việt Nam nhận thức mình ở khu vực nhạy cảm nhất. Mặc dù Việt Nam đối mặt với những vấn đề chung của các nước Châu Á khác, nhưng do vị trí địa lý chính trị nhạy cảm của mình những vấn đề của Việt Nam nghiêm trọng hơn rất nhiều.

Nằm ở một trong những điểm tiếp cận chiến lược những nguyên liệu quan trọng của Đông Nam Á - sở hữu những nguyên liệu này mang tính chất rất quyết định - bị cản trở phát triễn bởi một trăm năm đô hộ nước ngoài, bị cạn kiệt bởi mười lăm năm chiến tranh và tàn phá, nửa miền Bắc của lãnh thổ Việt Nam lại rơi vào tay Cộng sản, Việt Nam tự do hiện ở trong hoàn cảnh bị đe dọa và nghiêm trọng hơn các nước Châu Á khác.

Bằng sự hy sinh to lớn của con người và nhờ vào viện trợ từ nhân dân Mỹ hào phóng, trong thời gian kỷ lục, Việt Nam tự do đã khắc phục thành công những hỗn loạn do chiến tranh và Hiệp Định Geneva tạo ra. Sự kiến thiết và ổn định quốc gia mà đã đạt được ấy đã giúp hội nhập hơn 860.000 người tỵ nạn vào nền kinh tế của 11 triệu người khác ở Việt Nam Tự Do và đã giúp thông qua những cải cách chính trị và kinh tế quan trọng.

Tuy nhiên, vào lúc tất cả Châu Á đang chuyển từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, vào thời điểm khi tất cả các vấn đề quan trọng đều nảy sinh cùng một lúc đối với các nhà lãnh đạo và đều dường như đòi hỏi giải quyết cấp bách, vào lúc khi tất cả đều phải được thực hiện trong bầu không khí căng thẳng cách mạng ngày càng cao, hơn các quốc gia khác, Việt Nam càng thấy cần thiết phải thông qua một số nguyên tắc, đường lối chỉ đạo hành động nào đấy, không chỉ để bảo vệ mình khỏi những cám dỗ toàn trị mà còn, trước hết, để giúp cho mình đạt được độc lập thay vì hỗn loạn, để bảo vệ hòa bình mà không hy sinh độc lập, để đạt được tiến bộ kinh tế mà không hy sinh các quyền tự do của con người.

Trích dẫn học thuyết năm 1956

Chính vì những lý do này - dựa vào các cội nguồn văn hóa Châu Á, và trong truyền thống dân chủ Việt Nam của chúng tôi - tôi đã có danh dự định rõ học thuyết này trong thông điệp đọc trước Quốc Hội Lập Hiến vào ngày 17 tháng 4 năm 1956. Tôi xin mạn phép trích dẫn từ thông điệp ấy những đoạn ý nghĩa nhất, vì chúng tạo thành nền tảng của Hiến Pháp chúng tôi.

Tôi trích:
"Trong hoàn cảnh những lực lượng trấn áp vật chất và chính trị quá mạnh thường xuyên đe dọa chúng ta, chúng ta cảm thấy, hơn các dân tộc khác, nhu cầu rất quan trọng đặt cuộc sống chính trị của chúng ta trên một nền tảng vững chắc và thúc đẩy một cách rất chính xác những bước kế tiếp trong hành động của mình theo những đường lối mà sẽ chắc chắn tạo ra mức độ tiến bộ dân chủ lớn nhất.

(Vỗ tay.)
"Điều này chỉ có thể là duy linh, đường lối ấy con người theo đuổi trong hiện thực mật thiết của họ cũng như trong cuộc sống cộng đồng của họ, trong nghề nghiệp của họ cũng như trong sự theo đuổi tự do sự hoàn thiện trí tuệ, đạo đức, và tinh thần.

"Vì thế, chúng ta khẳng định niềm tin của mình vào giá trị tuyệt đối của con người-nhân phẩm của họ có trước xã hội và số phận của họ lớn hơn thời gian.

(Vỗ tay.)
"Chúng ta khẳng định mục đích chính đáng duy nhất của nhà nước là bảo vệ quyền tồn tại, quyền phát triễn tự do cuộc sống trí tuệ, đạo đức và tinh thần căn bản của con người.

"Chúng ta khẳng định dân chủ không phải là hạnh phúc vật chất cũng không phải là quyền lực tối cao của thành viên. Dân chủ về cơ bản là một nỗ lực trường tồn nhằm tìm ra những phương tiện chính trị đúng để đảm bào cho tất cả mọi công dân quyền phát triễn tự do và quyền sáng kiến, trách nhiệm, và cuộc sống tinh thần cao nhất."

(Vỗ tay.)
Chủ đề phát triển
Chúng tôi tin chắc rằng với những nguyên tắc chỉ đạo này như là chủ đề trọng tâm cho sự phát triển các thể chế chính trị của mình, Việt Nam sẽ có thể tạo ra chế độ chính trị và kinh tế mà không phải là một hệ thống đóng kín nhưng là hệ thống mở, càng ngày càng mở rộng cho đến khi nào hệ thống đạt đến các phương diện tự do của con người.

Việt Nam Cộng Hòa, nền cộng hòa non trẻ nhất ở Châu Á, chẳng bao lâu nữa sẽ tròn hai tuổi. Nền cộng hòa của chúng tôi sinh ra từ trong vô vàn đau khổ. Nền cộng hòa ấy đang can đảm đương đầu với cuộc cạnh tranh kinh tế với những người cộng sản, cho dù hoàn cảnh khó khăn và nghiêm trọng, mà mỗi ngày lại càng trở nên phức tạp hơn.

Việt Nam, tuy nhiên, có lý do chính đáng để tin tưởng và hy vọng. Nhân dân Việt Nam thông minh, tháo vát và can đảm. Họ cũng có thêm được sức mạnh nhờ sự giúp đỡ vật chất và tinh thần họ nhận được từ thế giới tự do, đặc biệt sự giúp đỡ từ nhân dân Mỹ.

Trong hoàn cảnh căng thẳng quốc tế và áp lực cộng sản ở Đông Nam Á ngày càng gia tăng tôi không thể nào lập lại biết bao nhiêu lần cho đủ lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân Việt Nam trước sự giúp đỡ của Mỹ và nhân dân Việt Nam ý thức rất cao về tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc, và số lượng của sự giúp đỡ này.

Quả thực, chưa bao giờ lúc nào trong lịch sử những cuộc xung đột phát sinh giữa các dân tộc lại quan hệ cấp bách như thế đến nền văn minh như những cuộc xung đột ngày nay.

Sự đóng góp kịp thời của Hoa Kỳ. Chính qua những đóng góp kịp thời và đầy đủ cho sự kiến thiết cuộc sống kinh tế và kỹ thuật của chúng tôi-nhờ đấy tạo ra mức sống cao hơn-thế giới tự do, dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ, đang khẳng định sự thành công của hệ thống hợp tác quốc tế mới. Hành động này đã góp phần bảo vệ Đông Nam Á và ngăn cản những nguyên liệu trong vùng này không rơi vào tay Cộng sản.

Mặc dù nền kinh tế chúng tôi bị thiệt hại nặng nề do chiến tranh, tàn phá, và chủ nghĩa thực dân, nhưng bây giờ nhân dân Việt Nam đang tăng gia đóng góp vào quốc gia mình. Cách đây vài tháng Quốc Hội Lập hiến đã bỏ phiếu thông qua nhiều thuế mới và cao hơn nhằm mang lại thu nhập cần thiết cho ngân sách quốc gia. Mới đây sắc lịnh quân dịch quốc gia đã được ban hành và cách đây hai tháng chúng tôi đã đưa ra bản tuyên bố toàn diện về chính sách nhằm mục đích khích lệ đầu tư tư nhân từ nước ngoài.

Chính trên bình diện đạo đức cao cả này chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn sự giúp đỡ rộng rãi và quên mình mà chúng tôi đã nhận được từ nhân dân Hoa Kỳ. Chính trên cũng bình diện này quyền lợi của Việt Nam hoàn toàn giống với quyền lợi của nhân dân thế giới tự do.

(Vỗ tay.)
Chính trên bình diện này cuộc chiến đấu của các bạn và cuộc chiến đấu của chúng tôi đều chỉ là một và giống nhau. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản.

(Vỗ tay.)
Chính trong niềm xác tín này và chính trong sự ghi nhớ sâu sắc và không bao giờ phai nhạt trong lòng về việc nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ đã theo dõi những nỗ lực của chúng tôi với tất cả sự thấu hiểu cảm thông chí tình tôi xin kết thúc, và lần nữa tôi cảm ơn Tổng Thống, Chủ tịch Hạ Viện và quý vị trong Quốc Hội về vinh dự đã dành cho tôi và cảm ơn quý vị đã ân cần lắng nghe.

(Mọi người đứng lên vỗ tay.)

Trần Quốc Việt dịch


TAM73F sưu-tầm