PDA

View Full Version : Bên Trời Hoa Chầu Nở



Longhai
10-14-2013, 10:43 PM
Bên Trời Hoa Chầu Nở


Hồ Minh Dũng


Trong tù, anh Hoàng Vân chỉ làm một việc duy nhất : đổ phân người.

Tuy công viêc gọi là thấp hèn, cũng qua một cuộc họp bình chọn cam go của anh em đồng cảnh ngộ, có sự phê chuẩn của cán bộ quản giáo.

Với anh em, anh là người đàng hoàng, mạnh khỏe, nỗ lực trong mọi công tác, không nề hà lánh nặng tìm nhẹ, nín thở qua sông. Với quản giáo, anh là phạm nhân chưa có một biểu hiện đáng ngờ vực, trong những lá thư gửi về thăm vợ con ở Sài Gòn, khi kiểm duyệt, vẫn thấy anh có quyết tâm học tập, tha thiết một ngày về đoàn viên. Hơn thế, anh có một người cô ruột là cán bộ cao cấp trong ngành nông nghiệp. Giao cho anh công việc “tự giác” nầy là tạm... ổn.

Trại giam Vĩnh Quang do bộ Nội Vụ quản lý, nằm nép mình dưới sườn đồi hẻo lánh. Quanh năm có sương mù bao phủ. Cảnh sắc lúc nào cũng tiêu điều, buồn bã. Ngoài chính trị phạm tiếp nhận từ các trại Quân đội sau năm 1975, còn giam giữ hàng trăm tội phạm hình sự nhiều nơi gom về. Họ toàn là những con người xác xơ, ngơ ngáo bị hoàn cảnh lùa vào con đường hoạn nạn, sống khắc khoải, lưng chừng giữa biên giới thiện ác, không biết đời mình rồi sẽ kết thúc ra sao. Nhưng họ bày tỏ mối thân thiện ngay khi đám Sĩ quan chế độ cũ lúc sa cơ đến đây, có thể là rước bớt hay chia bớt cho họ những điều hiểm nghèo, ác liệt, lại có thêm những người bạn đồng hành hào phóng, đa tài. Cục diện đã thay đổi, nhưng âm hưởng hào quang ngày nào vẫn còn đó.

Khi Hoàng Vân đẩy thùng phi phân người ngang qua trước cửa khu giam biệt lập, có hàng chục người già trẻ, ló đầu ra đón mừng hồ hởi, có kẻ quăng ra cho anh một bao thuốc lào Vĩnh Bảo, có kẻ liệng cho anh vài điếu thuốc lá Sông Cầu... gọi là chút tình nghĩa bất phân ly lúc chim lồng cá chậu. Có kẻ, không kềm được nỗi ấm ức lâu ngày, cất tiếng : “Đại bàng miền Nam ơi, cánh mới sụm thôi, chưa gãy lìa đâu nhé. To gan lên, sau cơn mưa trời lại sáng choang đó.”

Người khác, mái tóc đã hoa râm, nồng nhiệt chen vào : “Một mai kia, trời có lật, đất có nghiêng về phía mình, các anh đi trước, có chúng tôi theo sau, nhé.”

Về sau, khi có lệnh ban giám thị cấm không cho ra đứng cửa liên hệ nữa, bọn họ lại đục thủng bức tường gạch một lỗ vừa cái đầu người chui ra, chờ anh đi qua, thập thò bắn tiếng : “May tạm cái khẩu trang bịt mũi miệng. Ở đây tọa bệnh, chỉ có ông trời cứu.”

Một đứa khác, mặt còn non choẹt, đứng tên vai bạn, nhú đầu lên khỏi bức tường, nói theo : “Hôm nào chị trong ra, nhớ cho bọn bên nầy gửi lời thăm và có chi cho hưởng chút xái, đừng quên nghe anh.”

Công việc của anh làm không lấy gì phức tạp. Chiều hôm trước đã có trực buồng các đội lấy phân trong cầu tiêu ra đổ vào thùng để bên hông hội trường, chỉ cần cán bộ an ninh trại khám qua coi có kẻ nào liều mạng chui vào đó để trốn trại không, là giao cho anh, anh chỉ việc cầm hai cái cần xe cải tiến có bốn bánh bằng gỗ đẩy đi.

Phân người tù, trong một chế độ ăn uống khắc nghiệt, chia sẻ rất mật thiết với “Hoàn cảnh đất nước đang gặp nhiều khó khăn vì tàn dư của chế độ cũ để lại” không lấy gì phức tạp, không gây vất vả nhiều cho anh, chỉ có cái việc hủy nó đi mới nan giải.

Trước đây, khi người tù hình sự đảm trách, chỉ việc đẩy xe ra khỏi đồi chè trục xuống là xong, vài giờ sau từng bầy chim mỏ nhọn lông đen, không biết từ đâu kéo về cắn xé, giành giật kêu chí chóe. Từ khi phái đoàn công an tỉnh sở tại về điều nghiên, thấy khu ruộng lúa phía trước trại còi cọt, không đủ thóc gạo cải thiện bữa ăn cho đám vợ con cán bộ ở khu gia binh bên hông trại, nên đưa ra nhiều kế hoạch cụ thể, trong ấy có phương pháp cổ điển, đốt phân người thành tro rải xuống ruộng. Hoàng Vân là người tù duy nhất được mang theo hộp quẹt trong túi để làm nhiệm vụ đó.

Công việc nầy về sau gây cho anh nhiều vất vả, vốn tính kiên nhẫn, chịu đựng bền bỉ anh cũng lắm phen chùn bước. Nếu phân người được phơi phóng vài ba hôm thì khỏi mất thì giờ nhen nhóm. Nhưng phơi như thế lại mất hai người tù canh chim, biết đâu họ lợi dụng kẽ hở nầy để “khước từ” cải tạo. Mà đâu có phải chỉ có chim ban ngày, ban đêm còn có biết bao sinh vật cần đến cặn bã nầy, lớn như chồn cáo, nhỏ như bọ hung, bọ rầy...

Hôm nhóm bếp đầu tiên, cán bộ quản giáo ân cần nói với anh : “Điều cốt nhất là phải ngồi trên gió, nghe anh Vân. Hơi độc của khói nầy được ban nghiên cứu nông nghiệp trung ương đánh giá là, có tác dụng làm tổn thương hệ thống thần kinh động vật khi tiếp cận, giống như chất hóa học màu da cam mà đế quốc Mỹ đã sử dụng ở chiến trường. Phân người, xét cho cùng, không có gì đáng ngại, ngoài chất độc hữu cơ của nó. Xã hội mới, không đánh giá hồ đồ việc làm của từng cá nhân, coi trọng thực chất hơn là từ ngữ bề ngoài. Ráng lên anh Vân, mùa đông đến, trời năng mưa, khí hậu ẩm ướt lại cần thiện chí của anh. Kỳ họp đến, tôi sẽ đạo đạt lên ban giám thị cho anh hưởng mức ăn A, lại bồi dưỡng thêm cho anh mỗi tuần nửa ký sắn tươi đã vạt sạch đầu đuôi, hay hai trăm gam sắn khô chưa ngâm nước. Lúc nào vợ ra, tôi sẽ trình lên ‘khung’ cho anh ra thăm bốn mươi tám tiếng, nhé.”

Khi nhận số sắn thêm nầy, Hoàng Vân đem hết cho anh em trong đội đang đói kiệt sức. Còn anh, một cơ thể to lớn, làm việc cực nhọc cũng cần yểm trợ, thì đã có bếp lửa bên cạnh, chỉ đi một vòng giữa đồi núi trung du nầy là có củ mài, gốc chuối rừng, rau dệu, rau tàu bay, bắc gô lên là xong.

Điều làm cho anh khó xử bộc phát sau nầy là, phải tìm ra một phương cách hợp tình hợp lý để đối xử với đám vợ con trong khu gia đình tập thể, thường ra đây la cà, vòi vĩnh xin một ít tro phân về bón hoa màu.

Lúc nào ra, họ cũng vác bộ mặt rầu rầu như vừa rời khỏi đám tang, kèm theo những lời thành khẩn, dịu ngọt, o bế. Có chị mang biếu anh vài viên thuốc ký ninh phòng khi sốt rét, có bác nhân dịp lên lễ đền Hùng đem về tặng anh một vài viên cuội nhẵn bóng gọi là món quà tưởng nhớ tiền nhân. Có anh, trước đây trong đội phòng không, nay điều về coi tù mang đến tặng một miếng inox bằng bàn tay lấy từ thân máy bay B52 bắn rớt, để anh chạm khắc làm vật kỷ niệm ở tù. Đáng nhớ nhất là có mấy em bé bỏ học đến mách nhỏ vào tai anh, nghe thiên hạ bàn tán xôn xao về các lực lượng Phục Quốc trong Nam nổi lên như kiến cỏ và tình nguyện mang thư anh ra tận huyện lỵ bỏ vào thùng thư bưu điện, anh muốn viết gì cho vợ con thì tha hồ.
Khu gia đình cán bộ nầy có riêng một mảnh đất nằm thoai thoải bên bờ suối. Họ trồng đủ các thứ cây: mướp, cà, xu hào, đậu, ớt, gừng, giềng, sả, hành tỏi... Sở dĩ được tốt tươi quanh năm là nhờ anh du di trong một mức độ vừa phải, nếu cán bộ nào phát hiện ra thì anh cũng có lý do biện bạch.

Không phải ai cũng đem theo vợ con đến ở đây, nên chuyện chia rẽ trong nội bộ xẩy ra thường ngày, có khi ngờ vực đến sự cống hiến hy sinh của những người đã có bốn, năm mươi năm tuổi đảng. Nghiệt thay, có những mất mát vô lý mà lực lượng vệ binh rình hoài không bắt gặp được. Thân sắn chưa trỗ nạng ba, khoai lang chưa ra hoa đã đào trốc gốc, cuốc xẻng để ngoài “lô” không cánh mà bay, mấy cái thùng gánh nước tưới cây đội hàn gò chưa làm xong cũng không còn, thậm chí mấy chĩnh nước mắm, mấy thùng mỡ lợn dành cho bếp tù, đêm khuya cũng có kẻ leo tường vào cạy cửa lấy hết.

Trong một xã hội chưa xây dựng lại “Bằng mười ngày xưa” thì những hiện tượng ấy có thể xí xóa bỏ qua. Đằng này, khu vực trại giam, trên danh nghĩa cải tà quy chánh, thì chuyện ấy khó coi, tựa hồ như vạch áo cho người xem lưng, nên ban giám thị phải tập trung toàn trại viên lên hội trường làm việc.

Ông giám thị vận dụng hết sở trường nghề nghiệp, nói : “Gần đây, có những sự vụ việc xẩy ra ngoài ý muốn, chúng tôi đã cho mời chuyên viên trên về điều tra và có kết luận rằng, những dấu chân của những kẻ bất chính đó luôn đi về phía mặt trời lặn, rồi mất tích trong dãy núi đá vôi. Rất có thể, không ai khác hơn là cháu chắt mấy đời của bọn ngụy quân, ngụy quyền trước năm 1954 còn lại chưa gột bỏ hết cái thói ăn bám xã hội đấy. Nhưng, với sự cảnh giác cao độ của quần chng, với quyền lực sắt thép của đảng, trước sau gì chúng tôi cũng tóm cổ thôi.”

Chờ cho hết tiếng vỗ tay của đám vệ binh cò mồi ngồi phía sau, ông giám thị tiếp : “Tôi nói thật với các anh, chỉ riêng tù chính trị thôi nhé, các anh còn nhớ gì trong lịch sử cổ đại Trung Quốc không, chính cái thằng cha Lưu Bang nước mắt cá sấu kia, trên đường bôn ba lập nên nhà Hán, cũng có lần chui vô nhà một người con gái tên Thích Cơ định trộm gà ăn thịt. Kẻ mà sử sách thường gọi là tráng sĩ thề qua sông Dịch không về, cũng ăn cắp của người hàng xóm cái... mái chèo. Các anh có biết ai không ? Kinh Kha đấy.”

Ngừng lại, ngó quanh hội trường, thấy đám hình sự đứa ngủ gật, đứa ngáp, đứa gãi ghẻ ngứa, ông giám thị vỗ bàn : “Ê, chỏng tai lên mà nghe nào. Trưa nay tất cả các anh được ăn nguyên con trâu nặng gần hai trăm rưỡi ký. Lần nầy, trại không bán bộ da cho dân phơi khô làm mặt trống, mà hầm nhừ cho các anh ăn luôn.”
Đem miếng ăn ra nhử, nhưng đám người phờ phạc vẫn ngồi im như tượng, giám thị lắc đầu, tiếp : “Tôi biết các anh đang cần gì, tiêu chuẩn đảng nuôi cũng không đến nỗi nào, hiềm vì lòng dạ con người thường có khuynh hướng ngả về phía tiêu cực, là nguyên nhân chính phát sinh ra những túi tham vô đáy, khi bộ não không nhận thức được thì hệ thống tiêu hóa hùa theo mà khống chế, từ đó mọc ra những gai, rễ níu kéo trì trệ, khó tiến bộ để về với gia đình được. Các anh có biết con rùa treo trên ngọn cây cao, không ăn uống chi mà bao nhiêu lâu mới chịu chết không ?”

Một câu hỏi như thế, dĩ nhiên phía dưới không có tiếng đáp lại. Thân thể họ đã kiệt, lượng máu trong người chỉ bơm thấu được một phần cơ bắp, mắt mờ, tai lãng, nghe lời ông giám thị cũng như vịt nghe sấm. Cuối cùng, ông giám thị cũng không chờ câu trả lời ấy nữa, kết thúc buổi nói chuyện bằng cách động viên: “Bắt đầu từ nay cho đến khi cĩ lệnh mới, mỗi tuần, trưa chủ nhật, các anh được ăn mỗi người một bát cơm trắng. Khi có sự chiếu cố nầy, tuyệt đối cấm không được chụm năm chụm ba đánh cờ tướng ăn thua bằng cách bôi lọ nồi vào mặt đấy. Mặt tù, bôi thêm thứ đen điu ấy vào, trông không giống ai. Kẻ bất tuân sẽ biệt giam vô hạn định, nhớ chưa. Hết.”

Sau buổi lên hội trường, cán bộ quản giáo gọi riêng Hoàng Vân ra đầu hồi, dặn nhỏ : “Dù thế nào đi nữa, anh cũng kín miệng để bảo vệ danh dự chúng tôi. Vạn sự bất như bần, giai do đều phát xuất từ sự thiếu thốn. Không ai muốn bôi tro trát trấu vào mặt. Công tâm mà nói, nếu anh không khôn khéo cho ít nhiều tro phân thì cái rẫy bên bờ suối kia, cây cỏ cú cũng không trồi đầu lên nổi, đừng nói chi chuyện hoa với màu. Tôi đại diện những người anh giúp, cám ơn anh nhiều, nhiều lắm nhé.”

Cũng nhờ anh Vân mà nội quy trong đội được nới lỏng đôi chút, hàng tháng những lá thư gửi về gia đình cũng kiểm duyệt qua loa, ngày chủ nhật hay ngày lễ được nổi lửa “cải thiện” sớm hơn năm mười phút. Có ai đó, trong nỗi nhớ thương không dằn được, cất lên vài câu “nhạc vàng” cũng không sao. Đi thu hoạch, có ai nhai trộm một mẩu sắn sống chỉ rầy rà vài tiếng. Khi ra ngoài chặt tre về đan đát có ai trúng gió cũng được phép vào nhà dân xin dầu hôi bôi để cạo. Tóm lại, như lời một vị Đại tá, cựu Tỉnh trưởng đã vui : một người đổ phân cả đội được nhờ.

Một hôm Hoàng Vân đang lúi húi nhóm lửa để đốt phân thì một cô gái đến, vui vẻ nói chuyện, như đã từng quen biết : “Anh tù miền Nam nè, em nghe đâu trong đó các anh thèm chất ngọt quá, khi đánh răng nuốt luôn cả kem, phải không ?”

Câu hỏi khởi đầu trên đôi môi chúm chím, hiền từ, làm Vân bật cười : “Phải.”

Cô gái ngồi xuống cạnh anh, buông tiếp một tràng câu hỏi : “Nghe các anh cạo râu bằng mẻ chai, phải không ?”

“Phải.”

“Giường chiếu các anh ngủ, rệp bò lổm ngổm, không tài nào đếm xuể à ?”

“Phải.”

“Móng tay dài, các anh dùng răng cắn phải không ?”

“Không dùng răng thì dùng gì ?”

“Còn móng chân ?”

“Cũng thế.”

“Nghe người ta kể, khi ăn bắp, các anh cẩn thận đếm từng hột mới bỏ vo miệng nhai, làm chi thế cho mất thì giờ ?”

“Để không đi bữa ăn.”

Cô gái không còn giữ nét vui tươi nữa, tỏ vẻ ngao ngán : “Em còn nghe các anh ăn cả ốc sên, cóc, ễnh ương, chàng hiu, bọ cạp, bọ xít, cào cào, cuốn chiếu, đuông, rắn mai, thằn lằn, mối, kiến, sâu róm nữa, phải không ?”

“Con gì ăn được thì ăn, trừ bọ hung.”

“Phải, bọ hung nhớp, đừng thèm ăn. Thế có ai ăn rít ?”

“Không.”

“Vì sao thế anh?”

“Vì tìm không ra.”

Cô gái lại cười bày hai hàm trắng ngà. Nụ cười làm nét mặt cô ngây thơ thêm. Lát sau cô hỏi tiếp : “Vì sao lại lạ đời thế anh nhỉ ?”

“Vì chúng tôi là tù, tù bỏ đói.”

Cô gái như chợt tỉnh, đưa đôi mắt buồn thiu nhìn qua mấy ngọn đồi đầy hoa chẩu nở. Màu hoa trắng xóa bít kín chân trời. Những áng mây phía sau hoa cũng trắng xóa. Rồi cô chặc lưỡi : “Hèn gì ai cũng ngán ở tù. Em ở tận ngoài mỏ than Quảng Ninh kia, vào đây thăm người chị lấy chồng công an coi tù đây. Trong làng em, cũng có mấy người đi tù, họ đi luôn, không thấy về. Hồi còn đi học, em học môn vạn vật, được biết không phải loài vật nào cũng ăn được, như gan cóc tía, mật kỳ đà chẳng hạn, các anh đừng xem thường mà bỏ mạng. Cũng may mà ở núi đồi, con cá nóc không bơi lên được, không thì các anh ăn phải, chết hết còn gì ?”

“Cô em đừng lo, các anh còn sống nhăn đây. Có chết, thì không phải chết vì... ăn bậy.”

Cô gái hiểu ý : “Biết thế rồi, nhưng cũng phải ráng mà sống chứ. Em nghe họ đồn, vợ các anh trong Nam đi lấy chồng hết phải không ?”

“Có ít thôi, bằng chứng là ngày nào cũng có những người lặn lội ra đây thăm chồng.”

“Con cái các anh có người đi bươi những đống rác ?

“Con không cha, đói thì đi đâu cũng đi, miễn là không đi giết người, cướp của.”

Đăm chiêu một hồi lâu, cô gái lại hỏi, giọng buồn bã: “Khi anh chị yêu nhau, có nghĩ đến ngày xa nhau, khi anh đã xa lâu như thế nầy rồi, có thương chị ấy không ?”

Hoàng Vân khẽ cười : “Đã gọi là yêu nhau, lúc gần cũng như lúc xa, đều như nhau.”

“Thế mà người ta cứ nói, các anh và cả các chị nữa, đều là hạng bạc tình. À, anh nè, bây giờ thì người ta nói con dơi sinh chuột, chuột đẻ ra trứng, trứng nở ra chồn hương còn được nữa là. Riêng bản thân em, dù có đem xuống vịnh Hạ Long trấn nước, cũng không tin con vượn sinh ra người. Tổ tiên mình hẳn phải cao sang, sao nhăn nhó như khỉ được, tính chi nước cờ, buồn quá, phải không anh ? Thôi em vào, chị em cho em mang lon đỗ lạc rang nầy ra biếu anh ăn đỡ buồn. Mai em về quê rồi. Chắc là tết nầy lại lên. Hẹn gặp anh lần sau nhé.” Đi một quãng, cô lại quay lui, nói : “Chuyến sau, thế nào em cũng biếu anh cây dao nhíp để cắt móng tay, móng chân. Mỗi lần cúi xuống cắn móng chân coi chừng gãy cổ, nghe anh.”

Cuối mùa Đông năm ấy, Hoàng Vân lâm bệnh. Cán bộ trại cũng như anh em cùng cảnh ngộ không ai biết anh bệnh gì. Khi không còn sức để gánh vác công việc nữa thì mức ăn của anh trụt xuống hạng B tức khắc, dù ban giám thị trại biết anh có nhiều cố gắng, nay đau ốm, đối xử như thế là bất nhẫn, nhưng điều quan trọng hơn là, cảnh tỉnh cho người khác biết, trong xã hội mới, dứt khoát có làm có ăn, không làm thì nhịn, chẳng thiên vị, ưu đãi cho bất cứ ai.

Trong những ngày ấy thì bà cô từ Hà Nội lên thăm. Nhờ sự chiếu cố đặc biệt của ban giám thị trại, anh được ngồi lên chiếc xe cải tiến trước dùng riêng cho anh chở phân, để hai người tù hình sự đẩy ra thăm cô.

Vừa trông thấy người đàn bà ngồi trong phòng tiếp tân, anh cố ngẩng đầu cao, cất tiếng gọi : “Cô !”

Người đàn bà quay lại, hỏi cán bộ phụ trách thăm nuôi : “Người ngồi trên xe là thân nhân của tôi ?”

Cán bộ chưa kịp trả lời, từ ngoài hành lang, anh lại ráng sức : “Cháu đây, cô ơi !”

Rời khỏi chỗ ngồi, người đàn bà châm chạp đi về phía anh, tỏ vẻ ngạc nhiên : “Cậu là Nguyễn Hoàng

Vân đây à. Sao nhận ra tôi ?”

“Thấy cô giống bố cháu như đúc.”

Vừa nói hết câu, anh khóc rống lên. Một hồi, anh nín bặt, rồi lại khóc thút thít như đứa trẻ thất lạc lâu ngày được gặp mẹ.

Đây là lần đầu tiên kể từ khi vào tù anh khóc.

Năm 1954, anh mới lên sáu tuổi theo cha anh di cư vào Nam, cô đi chiến khu.

Khi anh còn trong quân ngũ, mỗi lần về phép thăm cha, ông đều nhắc, đại khái, sau nầy nếu giải phóng được miền Bắc, nhớ ghé số nhà nầy..., phố nầy...,đó là nơi tổ tiên trú ngụ đ bao đời. Anh chị em bố người nào nét mặt cũng hao hao giống nhau, dễ nhận ra thôi. Nay cha đã ra người thiên cổ, không ngờ gặp cô ở chốn nầy. Anh khóc vì chuyện đời trớ trêu.

Vốn là người từng trải, rất hiểu nỗi lòng tù nhân lúc nầy, người cô an ủi : “Đừng khóc, cháu. Gặp được cô là điều may. Ít ra, cháu cũng có một người cùng máu mủ đến thăm trong tình cảnh nầy. Nếu cô đoán không nhầm, chắc có một lúc nào đó, thâm tâm cháu cũng nghĩ rằng, đời cháu với một quá khứ của mình, coi như đã hết, chẳng còn ai ngó ngàng đến. Người ta nói, một giọt máu đào hơn ao nước lã, đối với cô, không phải ao, mà… hồ, đầm. Cha cháu qua đời, cô không gặp mặt. Cô còn nhớ, hồi thơ ấu, hai anh em thường dắt nhau ra con đê Yên Phụ ngắm chiều xuống bên kia sông Hồng. Bầu trời trước mắt ngày ấy mây quấn quít bên nhau, đẹp làm sao cháu ơi. Trong mấy anh chị em, cha cháu thương cô nhất. Cháu cũng có nét giống cha, có điều gầy rạc, xanh xao quá. Hồi mới giải phóng, cô vào tiếp thu cơ sở ở thành phố Hồ Chí Minh có ghé nhà, lúc đó cháu đã tập trung cải tạo rồi. Tội nghiệp vợ cháu, đặt hết niềm tin nơi cô, nhờ cô đứng ra bảo lãnh cho cháu được sớm về. Cháu dâu có ngờ đâu rằng, đối với cách mạng, ai gieo thì nấy gặt, một mình. Vợ cháu cũng có tặng cô một cái đài ba băng, loại Nhật Bản ít hao pin, nay cô còn nghe tốt. Vừa mới đây, vợ cháu có viết thư ra thăm cô và gửi kèm theo tấm ngân phiếu, nhờ cô mua một vài thứ cho cháu ăn tết. Ra năm rộng tháng dài, vợ cháu sẽ ra thăm, chắc là đem theo cả mấy đứa con.”

Hoàng Vân bối rối nhìn cô, lúc lâu mới nói được : “Thuở sinh thời cha cháu thường nhắc đến cô. Cha cháu nói hồi học tiểu học, cô có khiếu vẽ, vẽ hoa sữa, trái sấu giống như đúc.”

“Ừ, lớn lên cô chẳng vẽ vời gì được, mà có theo nghề hội họa chăng nữa, suốt đời cũng chỉ ra góc đường ăn cơm tấm và ở nhà tập thể với chuột đó thôi. Thế cháu bệnh gì mà phải có hai người dìu. Bại hả ?”

“Cháu cũng chẳng biết bệnh gì.”

“Chắc thiếu thốn dồn dập rồi sinh bệnh, có quà nầy cháu cứ bồi dưỡng một thời gian sẽ bình phục. Các vị lãnh đạo cao cấp trong đảng ai cũng có một thời bị tù, lâm trọng bệnh mà về sau không hề hấn gì. Riêng cô đây, hồi đi kháng chiến, khi không xáng xuống bệnh, hai chân sưng vù như cột nhà, tưởng liệt suốt đời, thế mà cũng lành ráo.”

Rồi bà ghé vào tai anh, khẽ nói : “Như thế nầy cũng là may rồi đó cháu. Nhổ cỏ mà không nhổ tận gốc là người ta mong có ngày để cho mặt đất bớt vẻ tiêu điều. Lịch sử nhân loại còn sờ sờ đó, chắc cháu cũng đã nắm, bất cứ một phe thua nào cũng bị phe thắng tàn sát, Tây Sơn với Chúa Trịnh, nhà Nguyễn với Tây Sơn cũng thế thôi, có người bị xẻo từng miếng thịt, lóc từng khúc xương, có người bị cột vào bốn chân voi xé xác, có người bị xẻo mũi, cắt tai, đâm thủng mắt dắt đi bêu ngoài đường. Nay đảng không làm thế, nhưng dĩ nhiên là chịu chế độ uốn nắn khắt khe, thậm chí có khi vô cùng khắc bạc. Cháu nên xác định vị trí của mình, nghe đâu, trước cháu ở trong binh chủng gì ghê gớm lắm, chỗ nào có đối phương thì xông ào tới, coi cái chết nhẹ như lông. Vậy thì nay chiến bại, như thế nầy, cũng không oan ức gì. Cháu nghe lời cô nói có lý không ?”

Suy nghĩ một hồi, Hoàng Vân nói : “Nhưng cháu có cái lý của cháu. Cháu không buồn vì chuyện mình bị tù, nhưng buồn vì cháu không giữ được nơi mình phải giữ. Cháu phải ở vào cái thế chịu bó tay đầu hàng, rồi đâm đầu vô tù, trong khi cháu và đồng đội còn sức và nhiệt huyết để chiến đấu, thế thôi.”

“Cô hiểu. Nhưng sự việc đã xẩy ra rồi, chấp nhận nó là điều tối cần. Coi như ách giữa đàng quàng vào cổ.”

Không muốn đả động đến chuyện chính trị nữa, người cô quay lại gọi cán bộ đang đứng nhìn trời nhìn đất ngoài hành lang vào, hỏi : “Thế đồng chí quản lý phạm nhân, có biết cháu tôi bệnh gì không ?”

“Thưa, tôi không phải quản giáo, chỉ thuần phụ trách thăm nuôi.”

Sau, Hoàng Vân hỏi thêm : “Dượng và các em có khỏe không. Cô lên thăm cháu bằng phương tiện gì ?”

“Dượng về hưu rồi, các em đã thành gia thất. Cô đi xe đò lên Bến Phà Trang, từ đó vào đây bằng xe trâu. Ngồi trên xe trâu mệt, nhưng có cái thú là được lắc lư, thấy mình chông chênh giữa núi đồi cũng vui, lại giúp mình có dịp hồi tưởng lại thời xuân xanh bay nhảy đã qua. Mỗi lần đi công tác bằng xe con, nhanh, sướng hơn, nhưng cũng có cái giá phải trả : tiếng động cơ ồn ào làm liên tưởng đến những ngày Hà Nội bị rải thảm bom, lòng không yên. Cháu biết năm nay cô mấy tuổi không ? Sáu mươi hai rồi đấy, thua cha cháu ba tuổi. Nếu cha cháu ở lại, giác ngộ đi theo tiếng gọi của bác Hồ thì cũng làm ông nầy ông nọ như ai. Số mạng cháu lại khác đi, có khi ngược lại, ngược một trăm tám chục độ với hoàn cảnh nầy, nghĩa là bản thân cô lại nương tựa vào cháu không chừng.”

“Sao tóc cô không có sợi nào bạc hết ?”

Giữa tình huống nầy, một câu hỏi như thế làm bà cô bật cười : “Còn làm việc, còn đi đây đi đó, chứ cháu. Đàn bà mà tóc bạc coi như hết thời. Cổ nhân nói, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu (*), đúng lắm. Nên cô phải nhuộm, dù tốn kém, mất thì giờ, không hợp với trào lưu về nguồn, nhưng thà thế còn hơn. Đây là những thứ cô mua đúng trong thư vợ cháu dặn, vừa vặn số tiền vợ cháu gửi ra. Còn gói nầy, cô tặng riêng cháu, gần hai ký cám lứt loại tốt trộn với đường đen, chính tay cô thức gần suốt đêm rang cho cháu đấy, nhớ giữ cẩn thận mà ăn dần. Có thể nói, đây là thứ thuốc tiên chữa bá bệnh. Sau nầy cháu được tha, cô có ý kiến, không nên ở Thành phố, đem vợ con lên Định Quán mà sinh sống, cô nghe miệt ấy có rất nhiều gỗ qúy, vợ chồng cô gần hết đời, trong nhà không có nổi một bộ bàn ghế bằng cẩm lai, gụ, để nở mặt mày với thiên hạ.”

Ngừng lại để lấy thêm hơi, bà cô tiếp : “Khi nào nhận được giấy tha, cháu nhớ về Hà Nội thăm cô, địa chỉ cô ghi sẵn đây. Đây không phải nhà cô mà nhà một người bạn, cô sẽ dặn họ trước. Cô với cháu là tình thâm ruột thịt, chính kiến có thể châm chước san bằng được, nhưng dượng là người dưng, biết cháu không đồng lý tưởng, sợ không niềm nở hay hai bên có những lời lẽ khiêu khích nhau, mất đoàn kết.” “Cám ơn cô, cháu hiểu rồi.”

“Thế trong trại cháu làm gì ?”

“Thưa cô, cháu chuyên khâu hủy phân...”

Bà cô quắc mắt, ngạc nhiên : “Phân gì thế ?”

“ Dạ... bò.”

“Bò của trại hay dân?”

“Trại nuôi mấy con, vỗ béo, Tết nầy làm thịt.”

“Ừ, tốt thôi. Bò là loài ăn cỏ nhai lại, phân của chúng không ngại. Chỉ sợ phân người. Ở trong ngành nông nghiệp lâu, cô biết rất rõ. Trong các động vật, phân người và loài khỉ vượn là đáng sợ nhất, vì cơ cấu đường ruột non, ruột già cầu kỳ, khúc chiết, làm cho chất cặn bã thoát chậm và xử lý qua nhiều dạng phức tạp trước khi thành phân thuần túy. Thôi, hết giờ thăm cháu rồi. Cô về. Cháu nhớ lấy mấy miếng đường lẻ cho hai em tù dìu cháu nhé. Ra năm, vợ con cháu ra thăm, nếu rảnh, cô cùng lên thăm luôn, bằng không cô cũng làm cho cháu vài ký cám rang nữa. Ngày về ghé thăm cô, ở lại chơi vài bữa, cô sẽ đem cháu ra hồ Hoàn Kiếm chơi, thuê thợ chụp chung vài tấm ảnh màu. À, cháu Vân nầy, khi nãy cô nói với cháu mà chưa hết ý, cô nhuộm tóc không phải là cưa sừng làm nghé đâu nhé. Cưa, là một động tác thời nào cũng…đau, cô không ngu gì.”

Rồi người cô nắm lấy bàn tay lạnh buốt của anh : “Cô đi đây. Cháu ho nhiều thế, coi chừng hai lá phổi.”

Chờ bóng cô khất sau màn hoa chẩu trắng đục, Hoàng Vân quay lại, nhờ hai bạn tù hình sự dìu lên xe. Anh lại bật khóc, lần nầy khóc vì trong đời, anh đã có lần nói dối, mà lại nói dối với cô ruột mình. Mấy ngày sau bệnh tình Hoàng Vân đã đến hồi nguy kịch, hết cơ cứu vãn, ban giám thị trại mới điều xe hơi quân đội chở ra Bệnh viện Thị xã Vĩnh Yên. Từ đó anh đi biệt không về nữa !...



Hồ Minh Dũng

___________

(*) Đừng để cho người đời thấy lúc đầu bạc.