PDA

View Full Version : Vo Nguyên Giap được chết



luuvong
10-04-2013, 05:07 PM
http://www.telegraph.co.uk/news/obituaries/10356972/General-Vo-Nguyen-Giap.html

http://www.washingtonpost.com/world/vo-nguyen-giap-dies/2013/10/04/9fa4639e-2d02-11e3-8ade-a1f23cda135e_gallery.html



Đến hôm nay, Võ nguyên Giáp mới được chết . !

levannhan
10-05-2013, 02:39 AM
"Bao giờ Đồng cạn, Hồ khô
Chinh rơi, Giáp thủng cơ đồ mới yên"

Anh hùng hào kiệt vì đời cứu nước
Hiền nhân quân tử vì nghĩa khí quên mình

Kính chào đoàn kết và quyết thắng trong tình YÊU NƯỚC THƯƠNG DÂN .

anhoaip
10-05-2013, 03:40 AM
Ngày xưa Đại tướng cầm quân
Ngày nay Đại tướng cầm quần chị em
http://4.bp.blogspot.com/-d8C38OlIQuc/UOoNCgncFjI/AAAAAAAAJLU/i4pXNrrqGJI/s640/vo+nguyen+giap.jpg

TAM73F
10-09-2013, 09:15 PM
Sự Thật Về Tướng Giáp: " Đừng Bốc Phét Nữa ! "



Thoạt đầu tôi định chỉ viết một lời bình sau khi đọc “Thời thanh niên sôi nổi” của chị Đoan Trang trên ĐCV, nhưng e rằng sẽ không đủ ý, đành viết bài này vậy.

Tôi là một gã Bắc kỳ. Từ lớp vỡ lòng đến đại học tôi được học dưới cái gọi là “mái trường XHCN”. Anh tôi là một bộ đội phục viên. Cháu ruột là đại tá trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh đang tại chức. Tôi đi nghĩa vụ quân sự 3 năm, mang quân hàm trung úy, chức đại đội phó, có tham gia một vài trận đánh ở chiến trường Campuchia.

Dài dòng một chút để các bạn hiểu: tôi không liên hệ gì đến Việt Nam Cộng Hòa. Tôi không hận thù, không chống cộng. Tôi chỉ muốn được chia sẻ chút suy nghĩ của mình trước những thậm từ mà thiên hạ đang sử dụng để tung hô tướng Giáp: “mãi mãi là một biểu tượng sống động của trí tuệ”; “Thiên tài quân sự”; “Đại trí, đại nhân, đại dũng”; “Vị tướng huyền thoại”; “Nhà quân sự lỗi lạc nhất của mọi thời đại”; “Một nhân cách lớn”.

Có thiệt vậy không?

Những Điều Tận Mắt

Khoảng đầu năm 1983, ông Giáp đến thăm một trường đại học. Khi đó ông đã thôi chức Bộ trưởng quốc phòng, đang là Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Tôi thấy ông vẫn mặc quân phục, mang quân hàm đại tướng. Bọn sinh viên chúng tôi đang ở tuổi trên dưới 20, rất ngưỡng mộ ông, kéo đến nghe ông nói chuyện. Không ngờ những bài phát biểu của ông rất nhạt, chung chung, vô thưởng vô phạt, với những sáo ngữ mòn cũ, giáo điều thường thấy trong các nghị quyết của chi bộ, chi đoàn như là Đảng ta, nhân dân ta anh hùng, quân đội ta anh dũng, thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ, quyết tâm, vượt mức, lập thành tích, quán triệt, phát huy,…

Không có gì sắc sảo, mới lạ. Màng nhĩ của tụi tôi bấy giờ đã khá quen với những ý tưởng và ngôn từ của các giáo sư đại học thời Tây còn lại, hoặc những vị cỡ như Bùi Tín nói về thời sự quốc tế, Trần Quốc Vượng nói về Hà nội học, hay Xuân Diệu bình thơ. Vì thế nghe tướng Giáp nói xong chúng tôi thất vọng quá. Sau này tôi lại thấy mỗi khi đi thăm các cơ sở, ông Giáp đều bắt đầu lời phát biểu kiểu như: Thay mặt đ/c Lê Duẩn uỷ viên BCT tổng bí thư…, đ/c Trường Chinh ủy viên BCT chủ tịch hội đồng nhà nước…, đ/c Phạm Văn Đồng ủy viên BCT, chủ tịch hội đồng chính phủ, và các đ/c khác trong trung ương… tôi xin gởi lời thăm đến các đồng chí…

Thì ra ở đâu ông cũng ăn nói na ná như nhau.

Ngày 30 – 4 -1995, kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam. Năm chẵn, nên tổ chức rất hoành tráng ở t/p HCM. Truyền hình Mỹ chiếu trực tiếp lễ duyệt binh, có phần phỏng vấn tướng Giáp và tướng Westmoreland. Ý họ là để cho hai vị tướng đã từng đối đầu ở chiến trường có dịp trò chuyện với nhau. Sau lời phát biểu khá khiêm tốn của tướng Westmoreland, đến lượt tướng Giáp – ông nói đại ý rằng chúng tôi vô cùng tự hào vì Việt Nam là một thuộc địa nhỏ bé nhưng đã đánh thắng được hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Một thiên tài quân sự, một chính khách lỗi lạc, một nhà ngoại giao tài ba, mà lại phát biểu như vậy sao. Tôi tự hỏi.

Từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò

Ngày 22-11-1944, ông Giáp cùng với 34 chiến sĩ đã qua một cơn chuyển dạ đớn đau, rồi sinh hạ QĐNDVN duới gốc đa Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Đến tháng 5-1948, tức 3 năm rưỡi sau, ông Giáp được ông Hồ Chí Minh phong cho chức Đại tướng. Khi ấy ông Giáp mới 37 tuổi. Riêng điều này thì “huyền thoại” thiệt. Cả thế giới đến nay mới xuất hiện hai đại tướng được phong vượt 17 cấp bậc như thế! Ông Giáp ở Bắc Việt Nam, và Kim Jong-un ở Bắc Triều Tiên! Từ đó người ta gọi ông Giáp là “tướng Giáp”. Ông giữ những chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh QĐNDVN cho đến năm 1982.

Vào cuối thâp kỷ 60, trước và sau khi ông Hồ chết, nội bộ ĐCSVN xảy ra “Vụ Án Xét Lại Chống Đảng” do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phát động. Ông Giáp trở thành đích ngắm của vụ án, nhưng ông lại không bị đánh trực tiếp, mà đòn hiểm lại nhằm vào những người đồng chí trung thành của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ: Thượng tướng Chu Văn Tấn tư lệnh Quân Khu Việt Bắc, Thiếu tướng Đặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần, Tướng Lê Liêm một ủy viên đảng ủy, Trung tướng Trần Độ chỉ huy đại đoàn 312, mũi tấn công chính vào sở chỉ huy Pháp, và là người tiếp nhận sự đầu hàng của tướng de Castries, Đại tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến, Đại tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính , và nhiều người khác nữa. Tất cả bị vu cáo cùng một tội “chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài”. Điều trớ trêu là tướng Giáp biết rõ là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, hoặc có một động thái nào để bảo vệ, hay giúp đỡ những người bạn cũ đang bị đối xử rất tàn ác.

Đại hội Đảng V – 1982, ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị, mất chức bộ trưởng bộ quốc phòng, và được “phân công” về làm trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Thực chất đây là một vụ cách chức, hay nói trắng ra là ông Lê Đức Thọ đã hạ nhục ông Giáp một cách không thương tiếc. Ông Giáp vẫn không có một hành động gì dù nhỏ nhất như là từ chức, xin về hưu để tỏ thái độ, và giữ gìn khí tiết của một người làm tướng. Ông tỏ ra như một đứa con ngoan vâng lời cha mẹ. Dân Bắc kỳ phải ngán ngẩm mà than rằng:


“Xưa làm bộ trưởng quốc phòng
Nay làm bộ trưởng đặt vòng tránh thai”

Hay:

“Bác Hồ nằm ở trong lăng,
Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng, giật mình
Rằng giờ chúng nó linh tinh
Tuổi tên của mình chúng ném xuống ao
Ao nào thì có ra ao
Cái tròn cái méo, cái nào cũng sâu
Hỏi rằng tướng Giáp đi đâu
Dạ thưa tướng Giáp… lo khâu đặt vòng.”


Một bài vè khác thì chẳng còn úp mở gì:


“Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Ngày xưa đại tướng công đồn
Ngày nay đại tướng công l… chị em.”



Khi hai ông Duẩn – Thọ về thăm Bác, tưởng rằng vòng kim cô trên đầu tướng Giáp sẽ được gỡ ra. Nhưng không, nó còn bị siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới: Đỗ Mười – Lê Đức Anh (được biết đến là MA, viết tắt từ Mười – Anh). MA đã giáng một đòn trực tiếp vào ông Giáp với một bản cáo trạng gồm 8 tội danh:

1. Ông Giáp từng là con nuôi của chánh sở mật thám Đông Dương, Louis Marty.
2. Ông Giáp cầm đầu vụ án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958.
3. Ông Giáp bán bí mật quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov.
4. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch.
5. Ông Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ.
6. Tết Mậu Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn.
7. Ông Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B (chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường miền Nam trước 1975).
8. Ông Giáp đã có vợ, nhưng lại ăn nằm với một phụ nữ đã có chồng. Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy đàn piano.

Đỗ Mười kết luận phải khai trừ ông Giáp ra khỏi ĐCSVN. Lê Đức Anh nương tay hơn, chỉ gạt ông Giáp ra khỏi ghế “ủy viên trung ương” – một vị trí an ủi mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn còn bố thí cho ông.

Người ta ví von rằng trận đòn mà MA đánh ông Giáp cũng giống như trận đòn mà Đặng Trần Thường đánh Ngô Thì Nhậm ở Quốc Tử Giám cách đây 200 năm. MA đánh Giáp bằng những tội danh rất hiểm. Thường đánh Nhậm bằng roi tẩm thuốc độc. Nhậm đau lắm nhưng vẫn đối đáp khí khái, ăn miếng trả miếng, bảo vệ được thanh danh, để lại tiếng thơm cho đời sau. Còn tướng Giáp thì vẫn nhũn như con chi chi, nhịn nhục, không dám nói năng gì. Có phải lòng kiêu hãnh của một vị đại tướng đã thành gỗ đá, không bao giờ bị thương tổn?

Có người lại bảo ông Giáp phục kích, chờ cơ hội. Đúng, ông Giáp đã chờ cho đến khi cả hai ông MA đã vào tuổi 90, sức khỏe cạn, quyền lực hết, không còn ảnh hưởng nhiều đến phong cảnh chính trị Việt nam thì ông Giáp mới dám mở miệng để đòi lại danh dự. Tiếc thay, tướng Giáp chỉ đòi công lý cho cá nhân ông, còn những đồng đội trung thành của ông ở Điện Biên Phủ ông chẳng hề bận tâm.

Dân Hà nội thì đàm tiếu rằng con đường tòng chính của tướng Giáp đầy gian nan vất vả, ông đã hành quân qua một chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò. Cây Đa Nhà Bò là một trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc, Hà Nội, dành cho những phụ nữ thuộc giới bình dân, chuyên đỡ đẻ, nạo phá thai, khám phụ khoa, thông vòi trứng, hút điều hòa kinh nguyệt, điều trị rong kinh huyết trắng. (Ngẫm ra, dân Hà Thành thâm thiệt!)

Viết về tướng Giáp mà không phân tích một trận đánh do ông chỉ huy, thì rất là thiếu sót. Tôi quyết định chọn trận đánh cuối cùng trong cuộc đời cầm quân của ông. Đó là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu giữa hai người anh em cùng ý thức hệ cộng sản: Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐND) do tướng Giáp chỉ huy và Hồng Quân Trung Hoa (HQTH) do tướng Dương Đắc Chí là tư lệnh.

Cuộc chiến Việt – Trung tháng 2-1979.

QĐND hoàn toàn bị bất ngờ:

Để trừng phạt Việt nam, HQTH đã sử dụng 10 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn độc lập, bao gồm 300.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối, hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay phía sau.

Các nguồn tin phương Tây nhận định rằng HQTH đã mất từ 60 đến 90 ngày để đưa quân vào các vị trí tập kết sẵn sàng cho các mũi tấn công. Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp trung đoàn, hay các tổ trinh sát đặc biệt cũng nhận ra được ý đồ, và ngày giờ khai hỏa của đối phương, nói gì đến tình báo chiến lược.

Mờ sáng ngày 17-2-1979, HQTH tấn công trên toàn tuyến biên giới dài 1.400 Km, trải rộng trong một khoảng không gian gồm 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.

Việt nam hoàn toàn không hay biết gì. Khi HQTH tràn qua biên giới, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng và đại tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, đang thăm viếng xứ Cao Miên. Dân chúng không được thông báo trước, trẻ em, người già, và phụ nữ có thai, không kịp di tản ra khỏi vùng chiến địa. HQTH đã tạo ra được một yếu tố bất ngờ đến ngọan mục. Không hiểu tướng Giáp biện minh thế nào cho việc không hay biết gì về giờ nổ súng của đối phương.

Thất bại về tình báo và nhận định tình hình:

Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan , Malaysia và Singapore. Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia. Đặng đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông, phải dạy cho chúng một bài học. Có lẽ vì lời của Đặng quá khiếm nhã, báo chí Trung Quốc chỉ dùng nửa sau của câu nói.

Ngày 28-1-1979, Đặng thăm Mỹ, và tuyên bố “Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi”, “ Trung Quốc kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt Nam”. Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ. Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì thì một cuộc chiến giữa hai nước cộng sản sẽ nổ ra.

Sau 3 ngày thăm Mỹ, Đặng đến Nhật. Tại đây, Đặng vẫn giọng điệu hung hăng “để trừng phạt Việt nam, dù có gặp những nguy hiểm cũng phải hành động”; “không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền”, “Đối phó với loại người vô ơn như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả”. Các nhà ngoại giao Nhật ngạc nhiên vì lời lẽ và thái độ phi ngoại giao của Đặng.

Cũng khoảng thời gian này, TASS – hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa tin một lực lượng rất lớn quân đội Trung Quốc đang áp sát biên giới Việt–Trung.

Từ Nhật về, Đặng chỉ thị tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc chiến một tháng với Ấn Độ (1962); không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi trên duới 50 cây số từ biên giới.

Bằng chứng Đặng sẽ trừng phạt Việt nam đã rõ như ban ngày, nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam tin rằng Trung Quốc là một nước XHCN anh em, và nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, sẽ không ủng hộ chiến tranh. Trung Quốc sẽ không tấn công, hoặc nếu có thì chỉ từ cấp sư đoàn đổ lại.

Thiếu tin tình báo, nhận định và phân tích tình hình sai, không nắm được thời điểm nổ súng, thời gian, không gian, và quy mô chiến dịch của đối phương, đã dẫn đến việc tướng Giáp không hề bố trí những quân đoàn chủ lực dọc biên giới. Tất cả phó thác cho dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, và một vài trung đoàn độc lập.

Một thất bại về chiến thuật:

Kế hoạch hành quân của Trung Quốc chia làm 3 giai đoạn.

Giai đoạn 1: từ 17-2 đến 25-2, phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam, làm chủ thị xã Cao Bằng, Lào Cai, và hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, để mở đường cho cuộc tấn công vào Lạng Sơn.

Giai đoạn 2: từ 26-2 đến 5-3, chiếm được thành phố Lạng Sơn, và hai thị trấn Sa Pa va Phong Thổ.

Giai đoạn 3: từ 5-3 đến 16-3, bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới, trước khi rút về.

Ngày 21 tháng 2, khi chiến dịch đang diễn ra rất ác liệt, tuần dương hạm Sverdlov và khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã tiến về bờ biển Việt nam. Cầu hàng không của Liên Xô giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria đã chở vũ khí tới Hà Nội.

Trước tình hình đó ngày 23-2-1979, Đặng sợ Liên Xô nhúng tay, nên lên tiếng về “cuộc chiến sẽ giới hạn trong vòng 50 km , và sẽ rút quân trong 10 ngày tới. Rõ ràng Trung Quốc không có ý định tấn công vào Hà nội. Họ chỉ ba hoa rằng “ăn sáng ở Lạng Sơn và ăn tối ở Hà Nội.”

Việt Nam lại tin rằng cuộc chiến sẽ kéo dài, và Hà nội sẽ bị tấn công. Từ nhận định sai lầm này mà dẫn đến việc dồn hết công sức, và tâm trí vào việc xây dựng “Phòng Tuyến Sông Cầu”, để cố thủ Hà nôi. 7 tỉnh biên giới gần như bị bỏ ngỏ, phải tự chiến đấu trong tuyệt vọng, tự gánh vác lấy sức nặng của cuộc chiến, không được chi viện. Trận chiến tại Đồng Đăng là một thí dụ:

Đồng Đăng là một thị xã nằm sát biên giới Việt-Trung, cách thành phố Lạng Sơn 14 Km về phía Đông Nam. Trận đánh bắt đầu sáng 17-2 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, thuộc sư đoàn Sao Vàng, QĐND. Phía Trung Quốc dùng 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh, (Tương quan lực lượng là khoảng 10 đánh 1). Pháo đài Đồng Đăng tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã, (Pháo đài này được Pháp xây dựng rất kiên cố, vì ở đây đã diễn ra khá nhiều va chạm đẫm máu giữa Pháp và nhà Thanh trước đây). Việt nam chỉ có 2 tiểu đoàn trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không hề được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được 22 ngày đêm. Cuối cùng HQTH cũng đã làm chủ được khu vực bên ngoài Pháo Đài, nhưng Trung Quốc không gọi được đối phương cố thủ bên trong ra đầu hàng. Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, phun chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn. Khi chiếm được Pháo đài Đồng Đăng, HQTH đã dùng 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống cố thủ này.

Việt Nam lúc đó đã có ít nhất 5 sư đoàn đang ở miền Bắc, trong đó có sư 308 – là một sư đoàn thiện chiến đã từng đánh ở Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Nếu 5 sư đoàn này được tham chiến vào buổi bình minh của cuộc chiến thì tình thế sẽ hoàn toàn có lợi cho phía QĐND. HQTH không thể tiến sâu vào lãnh thổ VN, không thể làm chủ được thời gian, không thể đạt được những những mục tiêu như họ muốn, và họ sẽ không có lý do gì để tuyên bố là “Chiến Thắng”. Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật mà tướng Giáp và bộ tổng tham mưu của QĐND phải chịu trách nhiệm.

Một kết thúc mập mờ dẫn đến một sai lầm chiến lược:

Sau những ngày chiến đấu ngoan cường nhưng đơn độc của sư đoàn Sao Vàng trước một đối phương áp đảo về số lượng và hỏa lực, ngày 4-3-1979, Lạng Sơn thất thủ.

Sáng 5-3, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của cuộc trừng phạt, chiến thắng vẻ vang, và quyết định rút quân.

Cùng ngày 5-3, Việt nam phát lệnh “Tổng Động Viên”. Những quân đoàn chủ lực của QĐND có xe tăng, pháo binh, và không quân từ chiến trường Campuchia trở về, cùng với một địa hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng miền Bắc, Việt Nam đã vào vị trí vây hãm HQTH. Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc phản kích, mà phần thắng sẽ thuộc về tay QĐND.

Nhưng tiếc thay, Việt Nam lại tuyên bố “Thiện Chí Hòa Bình”, rằng truyền thống ông cha ta… rằng lòng cao thượng… rằng lòng nhân đạo của dân tộc ta …, Việt Nam sẽ để cho HQTH rút quân an toàn.

Sự thực trên đường rút quân, HQTH vẫn chém giết, vơ vét, và phá hoại. Vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại Đổng Chú, huyện Hòa An, Cao Bằng là một thí dụ. HQTH đã dùng búa, dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, 20 trẻ em, và 2 người đàn ông, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối. HQTH có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở, chiếm giữ những điểm cao quan trọng, và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên đường rút lui.

QĐND đã không tổ chức những trận đánh cấp tập, vu hồi, tạt sườn trên đường rút quân của HQTH. Kết thúc cuộc chiến một cách mập mờ, nửa vời, đánh rắn giữa khúc, nửa nạc nửa mỡ. HQTH coi thường ý chí và kinh nghiệm chiến đấu của QĐND, và còn mỉa mai rằng chưa được “vuốt râu cọp”. Họ không tôn trọng danh tiếng của một đạo quân thiện chiến.

Quyết định “Thiện Chí Hòa Bình” của Việt Nam hình như là một thái độ thủ hòa, nhưng hòa vào một thế vô cùng bất lợi. Từ đó, trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới, Trung Quốc luôn ở thế kẻ cả, áp đảo, và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ. Đây là hệ luỵ từ sai lầm mang tính chiến lược do tướng Giáp và Bộ tổng tham mưu gây ra.

“Anh Đặng”

Đặng Tiểu Bình là người đã phát động cuộc chiến đẫm máu, man rợ, gây ra bao nhiêu đau thương và dẫn đến những hệ lụy cho đất nước Việt Nam nhiều năm sau đó. Đặng đã từng gọi lãnh đạo của Việt Nam là “những thằng du côn của phương Đông”, “lũ tiểu bá”, “đám vô ơn, bội bạc”. Thế mà 10 năm sau, khi những vết thương trên thân mình Tổ Quốc vẫn còn đang chảy máu, ngày 3-9-1990, ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng bí mật đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, hy vọng được yết kiến Đặng Tiểu Bình. Đặng không gặp, để cho hai đàn em Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp. Cả ba ông Linh, Mười, Đồng rất tiếc vì đã không gặp được “anh Đặng”. Ông Võ Văn Kiệt ở nhà cũng tiếc hùi hụi, phàn nàn rằng “nếu có anh Đặng, thì anh Tô (Đồng) mới nên đi. ”

Kẻ tử thù của của nhân dân Việt nam, nay được các nhà lãnh đạo Việt Nam gọi bằng “ANH” thân thiết qúa.

Cũng khoảng thời gian đó, tướng Giáp đến thăm Trung Quốc, và xin được gặp tướng Dương Đắc Chí – tổng tư lệnh trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam năm 1979. Nhưng Dương tướng quân từ chối, nói: “Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ vẫn còn chưa xanh cỏ!”

Chỉ vài thông tin để các bạn thấy được cái gọi là “Đại trí, Đại nhân, Đại dũng” của những lãnh tụ cộng sản Việt Nam, trong đó có Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
(Trong bài này tôi có tham khảo tài liệu của các tác giả Bùi Tín, Trần Quang Cơ, Trần Vũ, và Bharat Raksha và trang mạng Talawas. Tôi cảm ơn các tác giả kể trên).

Tháng 3, 2011

Trần Hồng Tâm

lethucthang
10-16-2013, 05:04 AM
Cảm ơn sụ nhân Đinh của Anh. Tam 73F. Đến hôm nay 16/10. Ở. V. N. : dư âm về lễ tang ô. Giáp còn dư âm , Trong đám. C. S già , trẻ tôi nghe ai khen và Tôn như thần , thánh , mấy ngày tang lễ . Từ. Tổ. Dân. Phố đến các. Cấp đều cùng. Bàn tán . Vừa xem. T. V. Vừa. Tổ. Chức. Hùn tiên. Ăn. Nhậu lu bù , lây cớ. Tiễn. Đưa , ? Quả La. Một. Trò ,,, ( tôi không có đanh từ để. Nói ) Có người. Biết. Nhận Định. Thì. Nói. ". Xong. Cái. Đám. Tang. Nầy. Rồi. Thì. Hàng. Loạt. Ông. Bị. Kiểm. Điểm. ". Vì Thái. Thượng. Hoàng. Đỗ. Muời. Còn. Sống. Mà. Các Vị.Tôn. Sùng. Giáp. Làm Đ. M. Nóng cả. Máu ! (. Trong các. Đoan. Thâm. Viếng Lễ. Tang Bà. Cụ. Giáp. Đề Nghị. Không. Tiếp. Đoàn Liên. Hiệp. Phụ. Nữ. T. Ư. Vì Ngại. Chuyện. Một. Thời gắng bó. Vơi. Các chị em K. H. Sinh. Đẻ ? )

TAM73F
10-17-2013, 09:47 AM
Một bài điếu văn vỉnh biet **** Võ Nguyên Giáp.

bởi: Cựu Bộ Đôi Trần Hồng Tâm từ: Việt Nam
11.10.2013 18:27
Vĩnh biệt huyền thoại.

Nhìn dòng người xếp hàng chờ viếng Ông trên đường phố Hà Nội, gợi tôi nhớ đến hình ảnh người dân Bắc Hàn than khóc trong tuyết lạnh trên đường phố Bình Nhưỡng để chia tay với vị lãnh tụ kính yêu Kim Chính Nhật.

Tôi lớn lên ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Đến tuổi đi bộ thì cuộc nội chiến đẫm máu Bắc – Nam kết thúc. Nhưng bất hạnh thay, chiến tranh vẫn không buông tha đất nước này. Thế hệ chúng tôi phải tham dự vào một cuộc chiến kế tiếp nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam. Đảng gọi chúng tôi là “Quân tình nguyện”. Thế giới gọi chúng tôi là “Quân xâm lược”. Bốn năm trong đội quân do Ông chỉ huy, là khoảng thời gian đủ dài để tôi suy ngẫm về sự tàn bạo của chiến tranh và những trò đùa trên số phận con người.

Với tôi, cái lòng chảo Điện Biên chỉ là một vạc dầu oan nghiệt u mê, ấu trĩ, cuồng tín. Tôi sẽ gọi Ông là thánh nếu ông giành độc lập mà không cần phải có một Điện Biên Phủ hung tàn. Nhìn sang những quốc gia lân cận Ấn Độ, Miến Điện, Malasia, Singapor, Indonesia, người ta cũng giành độc lập mà không cần nhiều xương máu như Ông.

Bao nhiêu thế hệ trai làng quê tôi ra đi không trở lại. Có gia đình chết đến tám người con trai. Tuổi thơ của tôi ngập ngụa trong sợ hãi đớn đau, oán giận, khóc than. Nỗi kinh hoàng cứ ập đến mỗi gia đình hằng đêm khi nghe tin người thân của mình đã chết.Tôi căm ghét chiến tranh. Nhưng chiến tranh lại cứ liên miên.“Năm năm, mười năm, hai mươi năm, hoặc lâu hơn nữa…” Đất nước hoang tàn. Còn đâu là đời người, còn đâu là nòi giống.

Diễn văn nhận chức của Tổng Thống Obama có nhắc đến Khe Sanh như một niềm tự hào về sự chiến đấu ngoan cường và lòng quả cảm của người Mỹ. Tết Mậu Thân là môt bằng chứng Ông đã thất bại trong trận đánh đẫm máu này. Người Mỹ đã nhận ra sự tàn khốc của cuộc chiến. Họ hy sinh lòng kiêu hãnh để cứu vớt mạng người. Đó là một quyết định khôn ngoan và nhân đạo. Lòng nhân đạo không chỉ giành cho những công dân Mỹ, mà cho cả chúng ta. Nếu nước Mỹ không làm như vậy, thì có lẽ tôi đã không còn ngồi đây viết những dòng này và cái chế độ mà Ông phục vụ chắc cũng đã tiêu tan từ đời kiếp nào!

Tôi đã học, đọc nhiều về thiên tài quân sự của Ông, nhưng có một câu hỏi đến nay tôi vẫn không tìm thấy câu trả lời. Năm giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, người Tầu đã dùng đến 15 quân đoàn, tấn công ồ ạt trên toàn tuyến biên giới có chiều dài khoảng 1500 km, xấp xỉ với khoảng cách từ Hà Nội đến Sài Gòn, nhưng Ông không hay biết gì. Phải chăng đó là một sỉ nhục của ngành tình báo do Ông lãnh đạo.

Qua sự việc này chúng tôi mới thấy rõ được đích thực "thiên tài quân sự" của Ông Tổng Tư Lệnh Giáp!

Ông rời quân ngũ, rời trận mạc đã lâu, vậy mà càng về già Ông càng hay mặc quân phục rất chỉnh tề, thậm chí nằm trên giường bệnh cũng mang quân hàm. Cả nước này, ai không biết Ông là tướng. Nhìn lon đại tướng bốn sao ông mang trên vai áo, nhìn những huân chương ông mang đầy ngực, tôi thấy hơi lố bịch và tàn nhẫn. Bởi những huân huy chương kia đồng nghĩa với giết chóc, máu lửa, tử khí, oan hồn.

Năm triệu người thiệt mạng để Ông khai sinh ra một chính quyền. Nhưng chính quyền của Ông lại tồi tệ hơn những chính quyền mà Ông đã khai tử. Liệu vong linh của những người đã chết có cho Ông được bình yên nơi chín suối.

Nhiều người rất mãn nguyện và nở mày nở mặt vì đám tang của Ông được đảng tổ chức trọng thị. Từng sợi tóc của Ông được chẻ làm tư để ca ngợi. Quan tài của Ông lung linh qua những khải hoàn môn. Nhưng những người dân nước Việt được ông giải phóng vẫn đang vùng vẫy trong lầm than, oan ức, bất công, tủi nhục, đói nghèo.

Tôi đốt nén nhang vĩnh biệt Ông với tình người và Vĩnh Biệt những chiến công thật ra chỉ là huyền thoại.


-----------------oooooooo---------------


Nên xóa đảng cộng sản đi

Tuesday, October 15, 2013 6:40:27 PM



Ngô Nhân Dụng


Ma chê, cưới trách, các cụ dạy không sai. Sau khi ông Võ Nguyên Giáp đã mồ yên mả đẹp, dân Hà Nội bắt đầu bàn tán. Tại sao chính quyền lại ra lệnh ngưng treo cờ rủ ngay buổi trưa bữa hạ huyệt, mà không đợi đến tối? Buổi tối là lúc người ta thường làm lễ “hạ cờ.” Ðó là lúc ngưng không treo cờ rủ; sáng hôm sau sẽ kéo lên tới ngọn cột cờ, không còn dấu hiệu để tang nữa.

Tại sao lại ngưng “để tang” giữa ngày, mà không đợi thêm dăm, sáu giờ nữa, cho hợp nghi lễ? Nếu tin bói toán, có thể đổ tại các nhà chiêm tinh. Chắc có ông thầy bói nào đó gieo quẻ Mai Hoa, phán rằng nếu treo cờ để tang ông Võ Nguyên Giáp quá giờ Ngọ thì ông Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng có thể bị tai nạn! Tai nạn gì? Ðồng bào ta bàn nhau: Tai nạn Lý Khắc Cường. Ông thủ tướng Trung Cộng ghé Hà Nội trên đường bay về Bắc Kinh. Ông lại đến Phú Bài vào đúng buổi trưa; trong ngày chôn cất ông Giáp. Không lẽ lại đón một vị quốc khách bằng lá cờ treo rủ, nửa chừng? Lý Khắc Cường cũng sợ bị xui xẻo y như Nguyễn Tấn Dũng vậy. Cho nên Sứ Quán Trung Quốc phải lập tức yêu cầu kéo các lá cờ lên tới ngọn. Chấm dứt cờ rủ!

Chắc ông Võ Nguyên Giáp cũng chẳng biết gì nữa, về chuyện họ ngưng để tang ông vào giờ Ngọ. Ông cũng không biết Sứ Quán Trung Cộng không hề đến viếng tang ông, dù trụ sở của họ ở rất gần nhà ông. Khi nhiều người thắc mắc, sứ quán trả lời rằng họ có viếng tang. Nhưng viếng tang ở Sài Gòn. Xác người ta quàn ở Hà Nội, cáo phó ghi địa chỉ rõ ràng. Vậy mà lại đem vòng hoa đến viếng ở Sài Gòn!

Có thể giải thích hành động này. Nếu viếng tang ở Hà Nội thì ông đại sứ phải tới. Còn ở Sài Gòn thì một viên chức thấp hơn tới cũng được. Bắc Kinh muốn chứng tỏ đối với họ ông Giáp không đáng được thăm viếng ở cấp đại sứ; cho một tổng lãnh sự hay cấp thấp hơn viếng là đủ rồi.

Bây giờ thì người ta lại nhớ: Các cố vấn quân sự Trung Cộng, như Vi Quốc Thanh, Trần Canh, đều coi thường ông Giáp.

Họ viết rõ ràng trong hồi ký của họ. Trong đám các lãnh tụ cộng sản đợt đầu, 1945, 46 ở nước ta, ông Võ Nguyên Giáp là người ít bị mang tiếng thân Trung Cộng, so với Hồ Chí Minh hay Trường Chinh. Hành động đáng nói sau cùng của ông Giáp là phản đối vụ cho Trung Cộng khai thác Bô xít. Các đồng chí Bắc Kinh không bao giờ tha thứ.

Nhiều đảng viên cộng sản ở trong nước đã bầy tỏ lòng quý mến đối với ông Võ Nguyên Giáp; chính vì họ thấy Trung Cộng ghét ông. Có lẽ cách tốt nhất để tiếp tục tỏ lòng quý mến ông là họ nên vận động xóa bỏ cái đảng cộng sản đi.

Trong đời ông, mối nhục lớn nhất của Võ Nguyên Giáp là ông hoàn toàn bất lực khi các tướng, tá đàn em bị tù đầy. Họ bị trù ếm chỉ vì họ từng thân tín đối với ông. Ngoảnh mặt làm ngơ khi các đàn em bị hành hạ, đó là một nỗi nhục. Ông Võ Nguyên Giáp còn bị các đối thủ làm nhục công khai, khi bắt ông đứng chỉ huy chiến dịch ngừa thai. Thà rằng như Ðặng Tiểu Bình, bị hạ xuống làm công nhân nhà máy; hay Lưu Thiếu Kỳ, bị bắt đi chăn cừu, còn đỡ nhục hơn.

Tại sao Võ Nguyên Giáp lại chấp nhận để người ta làm nhục như vậy?

Vì ông là một đảng viên cộng sản tốt. Một đảng viên tốt thì chấp hành, tuân phục bất cứ việc gì mà “đảng” bảo phải làm.

Ðảng cộng sản đã xóa bỏ nhân cách của các đảng viên. Họ không được phép có tư cách riêng, danh dự riêng, cũng như các tình cảm hay quyền lợi riêng. Võ Nguyên Giáp có thể tự biện minh mình đóng đúng vai trò đảng viên, không có gì hối hận.

Một điều mà ông ta, cũng như nhiều đảng viên cộng sản khác, không tự hỏi, là cái đảng cộng sản mà họ đã tuyên thệ gia nhập, có còn là một đảng cộng sản hay không? Họ không dám đặt câu hỏi này, vì mở miệng ra là sẽ mất hết các quyền lợi dành cho các đảng viên; có thể chết nữa.

Nhưng ai cũng biết, hiện nay ở Trung Quốc và ở Việt Nam không còn đảng cộng sản nào nữa. Khi thu nhận các nhà kinh doanh tư vào đảng, và công nhận quyền kinh doanh của các đảng viên cộng sản, Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng như Ðảng Cộng Sản Trung Quốc không còn là “cộng sản” nữa. Các vị lãnh đạo hai đảng này cố biện minh bằng các lý luận, như “Ðảng phải là đại biểu của lực lượng sản xuất tiến bộ nhất” (lý thuyết Giang Trạch Dân;) hoặc phải “giải phóng sức sản xuất” (Dự thảo Báo cáo chính trị, đảng Cộng Sản Việt Nam). Các lý thuyết trên bao hàm một nhận xét thực tế: Trong xã hội Trung Hoa hay Việt Nam hiện nay, giai cấp tư sản đang thành hình là lực lượng sản xuất tiến bộ nhất.

Vai trị tiền phong của giai cấp tư sản cũng được Karl Marx đề cao, khi ông quan sát sự chuyển biến từ thời kỳ phong kiến sang kinh tế tư bản. Các quyết định thay đổi của hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam chỉ thể hiện diễn biến mà Marx mô tả: Chế độ phong kiến chuyển dần sang chế độ tư bản. Xã hội Trung Hoa và Việt Nam hiện nay vẫn còn đầy di sản của thời phong kiến do Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn lập nên, cần phải dẹp bỏ thì mới tiến bộ được.

Chúng ta vẫn phải đặt thêm một câu hỏi, là: Tại sao quý vị lãnh đạo trong các đảng Cộng Sản ở Trung Hoa và ở Việt Nam không thành thật một lần trong đời, trong đời sống cá nhân cũng như đời sống đảng viên, bằng cách tuyên bố thẳng rằng họ thôi, ngưng, stop, từ nay không theo đuổi chủ nghĩa Mác Lê nin nữa?

Khi một đảng chính trị tự đặt mình vào tình trạng phải tự mâu thuẫn với chính mình (mâu thuẫn giữa cương lĩnh, lý thuyết, với hành động thực tế), thì sẽ làm hư hỏng cả giềng mối tinh thần của cả quốc gia. Khi một ông vua hay một đảng cầm quyền nói một đằng, làm một nẻo, thì chữ TÍN không còn được coi trọng nữa. Không lấy chữ TÍN làm căn bản trong các mối tương quan, trong mọi giao tế xã hội, thì sẽ không còn một hệ thống đạo đức. Hơn thế nữa, cũng không thể phát triển tinh thần tôn trọng luật pháp, là nền tảng của mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị trong thế giới hiện đại. Tái lập chữ TÍN trong xã hội là điều quan trọng và đáng theo đuổi hơn là thực hiện bất cứ một chủ nghĩa mơ hồ và không tưởng nào.Về mặt chính trị, ở hai nước Trung Quốc và Việt Nam, chế độ toàn trị (totalitarian) đã biến dần sang một chế độ độc tài (authoritarian) bình thường. Guồng máy của đảng và nhà nước không còn kiểm soát được tất cả đời sống xã hội nữa. Xã hội đã tách rời khỏi chế độ. Giới lãnh đạo đảng đã nhận thức được giới hạn của quyền lực mà họ đang nắm. Ðời sống mỗi cá nhân không còn hoàn toàn tùy thuộc vào đảng và nhà nước nữa.

Nhưng giới lãnh đạo đảng cộng sản không còn khả năng kìm hãm các biến chuyển, vì chính họ đang bước vào một cuộc phiêu lưu mới, không biết sẽ hướng vào đâu. Tại Ba Lan, Tiệp, Slovack, Hungary, những đảng cộng sản ở đó có góp phần chủ động thúc đẩy cuộc “cách mạng nhung” để thiết lập thể chế mới, khi đó chính họ phải rời khỏi chính quyền. Nhờ thay đổi toàn diện và nhanh chóng, sau hai mươi năm kinh tế các nước này đã tiến rất nhanh. Các đảng viên cộng sản cũ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, họ có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn các đảng phái mới, họ có thể trở lại nắm quyền hnh dưới ngọn cờ khác. Ở Trung Quốc và Việt Nam thì không. Giới lãnh đạo cộng sản không dám rút khỏi chính quyền, tự mò mẫm con đường đổi mới từng bước một, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng đảng Cộng Sản Việt Nam thì còn dè dặt hơn, đợi Trung Quốc thí nghiệm cái gì trước rồi mới theo.

Nhưng có những vấn đề mà chính đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không giải quyết nổi. Một vấn đề lớn là guồng máy quản lý xã hội cũ vốn được vạch ra để cai trị trong một hoàn cảnh đơn giản, có cấp bậc trên dưới rõ ràng. Guồng máy này không còn thích hợp để cai quản một xã hội phức tạp; các tương quan cũ bị đứt, bị vỡ, và các tương quan mới đã nẩy sinh. Tương quan cũ dựa trên hệ cấp quyền hành, bây giờ thêm tương quan dựa trên tiền bạc, lợi lộc. Ðảng cộng sản không dám xóa bỏ hệ cấp quyền hành, nhưng vẫn phải công nhận hệ thống duy lợi. Hệ cấp quyền hành dựa trên đảng, trên tương quan quyền lực cá nhân. Hệ thống duy lợi dựa trên tiền, nhưng không có các luật lệ ràng buộc như trong các nước tư bản lâu đời. Hai mạng lưới đó chồng chéo lên nhau, tất nhiên đẻ ra tham nhũng. Ðó là một hiện tượng làm uy tín của đảng cầm quyền bị ở Trung Quốc và Việt Nam suy sụp.

Một hiện tượng khác là hệ quả của nền kinh tế tư bản phi luật pháp là tình trạng bất công về lợi tức, thu nhập và tài sản ngày càng cao và càng hiển nhiên. Không những bất công trong thu nhập, trong tài sản, mà hệ cấp quyền hành của đảng còn tạo ra cảnh bất công trong cơ hội sống và kiếm ăn nữa. Trong khi ý thức hệ được tuyên dương vẫn đề cao một xã hội bình đẳng, trong thực tế thì chính chế độ này lại nuôi dưỡng cảnh bất bình đẳng. Niềm tin của chính các đảng viên, ngay cả giới lãnh đạo đảng, cũng hao mòn.

Hiện nay, cuộc đổi mới kinh tế thúc đẩy tinh thần duy lợi và vị kỷ. Khơi dậy những điều xấu xa đó không khó gì cả. Chỉ cần buông thả ra là lòng tham, óc vị kỷ sẽ tự phát triển. Không có đạo đức để kiềm chế, cũng thiếu cả luật pháp để ràng buộc, nền luân lý bị đổ vỡ.

Trong lịch sử loài người, óc duy lợi và tính ích kỷ luôn luôn phải kèm theo một hệ thống các quy tắc luân lý hoặc giáo lý kiềm chế. Kinh tế tư bản phát sinh trong những xã hội đã có một nền luân lý cổ truyền, và chính các truyền thống tôn giáo giúp kiềm chế óc duy lợi, ích kỷ, để lái động lực tìm lợi lộc, hướng chúng vào các giá trị tinh thần. Khi kinh tế tư bản được thả lỏng trong một xã hội mất nền tảng, đạo lý đang tan rã, thì những điều xấu xa nhất của lối làm ăn đó tha hồ nẩy nở và tung hoành. Ðó là hoàn cảnh nước ta và Trung Quốc bây giờ.

Nói một đằng làm một nẻo, tất cả ý thức hệ cộng sản đã phá sản, không còn ai tin nữa, kể cả các đảng viên. Ðó là bị kịch của cả dân tộc. Muốn lập lại chữ TÍN trong xã hội Việt Nam bây giờ, chính những người có trách nhiệm, tức là giới lãnh đạo đảng Cộng Sản, phải nói thẳng, nói thành thật với mọi người: Từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ðiều đó không có gì xấu, không có gì phải che đậy và trì hoãn. Vì chính họ đã không còn chủ nghĩa cộng sản tin nữa!

Ông Võ Nguyên Giáp sống như một đảng viên cộng sản gương mẫu suốt đời: Luôn luôn tuân thủ, chấp hành các quyết định của đảng. Cái đảng đó đã làm ông mất tư cách, mất cả danh dự. Chỉ vì ông đã học tập và thể hiện “đạo đức cách mạng” do Hồ Chí Minh dạy: Không có thứ đạo đức nào cao bằng tinh thần kỷ luật của đảng viên. Những người còn giữ lòng quý trọng ông nên giúp ông làm một việc mà chính ông không làm được: Xóa bỏ đảng cộng sản. Nó không những tiếp tục giết chết nhân cách của các đảng viên khác, mà còn làm bại hoại của nền đạo lý của dân tộc!


__._,_.___

TH-72G
10-19-2013, 09:00 AM
Câu trả lời đã được đảng và nhà nước CSVN nói lên tất cả... bằng ngôn ngữ VẸT LỪA, đám con nhà tông của bọn VẸM LÁO thời kháng chiến.

Nói tới Võ Nguyên Giáp thì phải nghĩ tới chiến thắng Điện Biên Phủ, nghĩ tới Điện Biên Phủ thì phải nhớ tới các anh hùng liệt sĩ đã làm nên chiến thắng như Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng, Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lổ châu
mai, Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo…

Nhưng suốt một tuần làm đám tang cho tướng Giáp người ta đã say sưa ca ngợi, phong thần, phong thánh cho vị đại tướng mà không hề nhắc tới những anh hùng liệt sĩ Điện Biên này. Có chăng là nhắc tới ông Phàng Vàng Sao, một chiến sĩ người Mông trong chiến dịch giải phóng Tây Bắc, nay còn sống đang từ Sơn La về Hà Nội biểu tình đỏi trả đất cũng đến viếng di ảnh đại tướng Giáp.

Vì sao vậy? Có phải vì câu nói hớ hênh của anh hùng Tô Vĩnh Diện trước khi tắt thở: “Đ. M. thằng nào xô tao” làm cả đám anh hùng bị vạ lây? Hay người ta không muốn những người đồng chí đồng đội cúa các anh hùng Điện Biên như ông Phàng Vàng Sao kể ra rằng anh Tô Vĩnh Diện đã lấy thân mình chèn khẩu pháo 105 mm M101A1 howitzer của Mỹ mới cáu chỉ chưa bắn phát nào?

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382173049.jpg

Lịch sử cho thấy:

_ Trong thế chiến thứ 2, quân đồng minh do tướng Eisenhower của Mỹ cầm đầu đã tổn thất hơn 2 triệu lính để đánh đuổi quân phát xít Đức ra khỏi châu Âu, tái chiếm và chia đôi nước Đức tại Bá Linh.

_ Đến tháng Bảy năm 1953, quân Mỹ và Liên Hiệp Quốc đã tổn thất hơn 2 trăm nghìn lính để đuổi quân phát xít Nhật, hồng quân Nga Hoa ra khỏi bán đảo Triều Tiên, và chia đôi đất nước này tại vĩ tuyến 38.

_ Đến tháng 5 năm 1954, không quân Mỹ đã tổn thất 2 phi công là James B. McGovern, Wallace A. Buford... và 23.000 sinh mạng lính Việt Minh của đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ đã làm công cụ để hất cẳng người Pháp ra khỏi Đông Dương, chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, đưa Việt Nam vào một trật tự mới theo chiến lược Domino của McArthur.
Sau đó, Cộng sản Bắc Việt phải tổn thất hơn 4 triệu binh lính trong một trận chiến khác kéo dài hơn 10.000 ngày mới chiếm được miến Nam, đuổi được người Mỹ ra khỏi Việt Nam mà không được Mỹ bồi hoàn một cắc chiến phí.

Như thế ai dám bảo là quân Việt Cộng của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ? Nhưng làm thế nào để người Mỹ tạo nên những chiến tích lẫy lừng như vậy, xin mời đọc: DIEN BIEN PHU, by Rebecca Grant.
(http://www.airforcemag.com/MagazineArchive/Pages/2004/August%202004/0804dien.aspx)

Cú lừa đảo Điện Biên lịch sử này được tạm chia thành 3 bước:

_ Bước đầu: Mỹ nhá cạnh sức mạnh nguyên tử và không quân để người Pháp dựa vào đó mà đưa quân vào thung lũng Điện Biên Phủ là vùng núi đồi xa xôi cách trở chỉ có thể tiếp tế bằng đường hàng không…

Trích dịch: <<… Chỉ vài tháng trước, trong một bài phát biểu nổi tiếng trong tháng 1 năm 1954, Ngoại trưởng John Foster Dulles đã công bố khái niệm mới về "trả đũa quy mô lớn." Với cụm từ đó, Dulles bắn tiếng là Hoa Kỳ sẽ không chạy đua võ trang với cộng sản từng chiếc xe tăng, từng khẩu súng, hoặc từng người lính. Thay vào đó, Mỹ, khi phải đối mặt với sự xâm lược, sẽ " trả đũa ngay lập tức bằng mọi phương tiện và tại các chiến địa đã chọn trước."
Hàm ý rõ ràng là Hoa Kỳ đã sẵn sàng sử dụng vũ khí hạt nhân.>>

_Bước hai: Khi quân Pháp sa lầy ở Điện Biên thì Mỹ cắt giảm yểm trợ không vận:

Trích dịch: <<… Lúc đầu Pháp yêu cầu 25 máy bay ném bom B-26 và 400 lính Không quân Hoa Kỳ để bảo trì số máy bay này. Kế hoạch là sử dụng B-26 để bắn phá và ném bom vào vị trí Việt Minh… Eisenhower chỉ gửi 10 chiếc B -26 và 200 lính không quân Mỹ để vận hành. Ông cũng ra điều kiện là họ sẽ được rút khỏi Việt Nam và về nhà trước ngày 15 tháng sáu năm 1954 .

Radford, quan chức quân sự hàng đầu của Mỹ, đã đưa ra giải pháp hạt nhân làm nền tảng cho ý kiến của mình. Các loại pháo đài bay B-29, B-36 và B-47 của Mỹ có thể thực hiện một cuộc tấn công hạt nhân, như các tàu sân bay từ Hạm đội Bảy trong một chiến dịch có tên là Vulture. Tổng thống Eisenhower, người thích làm việc trực tiếp với các cấp trưởng của ông về các vấn đề quân sự, chắc chắn biết về những lựa chọn JCS .

Các tài liệu được giải mật xác nhận rằng Chiến dịch Kền kền được coi là nghiêm túc và rằng nó đã có chỗ cho cả hai loại vũ khí thông thường và hạch nhân. Trong thực tế, Pháp rõ ràng đã nghĩ kế hoạch này sẽ được "triển khai", thế mà nó lại…”êm” luôn.>>

_ Bước cuối: Khi quân Pháp cầu cứu, tổng thống Mỹ bảo chờ chấp thuận của Quốc Hội:

Trích dịch: <<…Thời điểm quyết định đến vào cuối tháng Tư. Ngày 24 tháng tư, Dulles nói với Eisenhower rằng Paris đã yêu cầu Hạm đội 7 yểm trợ trên không cho đội quân cứu viện của Pháp gửi từ Lào tới Điện Biên Phủ. Dulles điện tín lại rằng Mỹ không thể hành động mà không được Quốc hội phê chuẩn_ “Sự phê chuẩn” mà Eisenhower đã biết từ những thăm dò trước đó là sẽ... không bao giờ có >>

Trên đây là sự thật phủ phàng của chiến thắng Điện Biên Phủ. Anh Tô Vĩnh Diện nếu không bị bọn chính ủy VM xô vào bánh xe đại bác Mỹ mà còn sống đến bây giờ, ắt hẳn cũng như người cựu chiến sĩ Điện Biên Phàng Vàng Sao là la cà ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng với tấm biểu ngữ đeo trước ngực:

“Đ. M thằng nào cướp đất tao đem bán cho Tàu.”

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382173163.jpg

(trích Dân Làm Báo)

TH-72G
10-19-2013, 09:31 AM
http://danoan2012.blogspot.com/2013/10/ong-phang-sao-vang-bi-bat-coc.html
Thứ bảy, ngày 19 tháng mười năm 2013

Thông tin nhận được vào lúc 10h45′ tối nay, Ông Phàng Sao Vàng bị bắt mang đi đâu không rõ.
Ông Phàng Sao Vàng sinh năm 1936 người H’Mông ở bản Suối Vạch, xã Kim Bon, huyện Phù Yên tỉnh Sơn La là dân oan thường trực ở Vườn hoa Mai Xuân Thưởng – Lý Tự Trọng nhiều năm nay để khiếu kiện. Tôi biết ông lần đầu tại phòng tiếp dân, một cơ sở khác của Tòa án tối cao ở 262 Đội Cấn từ năm 2008, sau đó gặp lại ông nhiều lần ở Vườn hoa Lý Tự Trọng.
Theo đơn của ông ngày 28/8/2013 thì vụ việc của ông đã “kéo dài 20 năm, 5 tạ đơn, 5 kg dấu đỏ”
Ông cũng là nhân vật được báo giới nhiều lần nhắc đến trong đám tang ông Võ Nguyên Giáp với tư cách là chiến sĩ phục vụ trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiều tối nay, 18/10, vào lúc 5 giờ chiều, khi đến Vườn hoa Lý Tự Trọng để giúp đồng bào H’Mông, ông có đến gặp chúng tôi tiếp tục kể về tình cảnh oan khuất của ông và trao cho chúng tôi các lá đơn mà ông đã gửi đi nhiều nơi.

http://hoiquanphidung.com/uploadhinh/hqpd4/HQPD_1382174740.jpg
Ông Phàng Sao Vàng (đội mũ vải) trước lều bạt của bà con H’Mông. (Bạt che mưa do chúng tôi vừa mang đến giúp bà con). Ảnh chụp lúc 5 giờ chiều nay, 18/10).

Chúng tôi sẽ tiếp tục gửi thông tin tới bạn đọc.
18/10/2013
NTT
--------------

NHỜI BÌNH CỦA MAO XI TUNG:

_ Phải chăng Việt Cộng và Trung Cộng đang cố bịt miệng những nhân chứng của 'chiến thắng Lèo' Điện Biên Phủ?

phitrang
10-19-2013, 04:36 PM
Hội cựu tù binh và lưu đày ở Đông Dương của Pháp vừa ra thông cáo trên trang mạng của mình chỉ trích Ngoại trưởng Laurent Fabius về lời đánh giá Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi nghe tin ông Giáp mất.

Hôm 5/10, một ngày sau khi có tin ông Võ Nguyên Giáp qua đời, ông Fabius đã có lời chia buồn, trong đó nói: “Tôi rất xúc động khi nhận được tin Tướng Giáp qua đời. Đây là một người Việt Nam yêu nước vĩ đại, được tất cả người dân Việt Nam yêu quý và kính trọng với vai trò nổi bật và sáng lập của ông trong công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc".

“Khi mà Pháp và Việt Nam đã trở thành đối tác chiến lược, hôm nay tôi trân trọng những ký ức về một con người phi thường và gửi đến lời chia buồn sâu sắc đến gia đình ông và nhân dân Việt Nam.”

Đánh giá này đã bị Hội cựu tù binh Đông Dương chỉ trích trong thông cáo ra hôm 17/10, hiện vẫn trên trang chính của website http://www.anapi.asso.fr

Thông cáo nói Hội cựu tù binh và lưu đày ở Đông Dương "sốc khi nghe lời tán dương" của Ngoại trưởng Fabius, rằng Tướng Giáp là "một người phi thường".

Bản thông cáo nói không thể tách vai trò nhà chiến thuật quân sự với vai trò chính trị gia của ông Giáp, khi ông đã giữ các chức Bộ trưởng Bộ Ṇôi vụ và Bộ trưởng Quốc phòng.

"Ông [Võ Nguyên Giáp] phải chịu trách nhiệm về các điều kiện giam giữ phi nhân đạo đối với các chiến binh Pháp, tù nhân của Việt Minh mà trong số 36.979 người thì 26.225 người chết trong trại, tức tỷ lệ tử vong là 71%."

Thông cáo cũng nói những người sống sót và các quả phụ "không thể hiểu nổi" tại sao một bộ trưởng của Pháp lại có thể ca ngợi phẩm chất của người đã gây thiệt hại to lớn như vậy cho quân đội Pháp và nước Pháp.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người đã làm thất bại tham vọng tại Đông Dương của Pháp, với trận đánh Điện Biên Phủ lẫy lừng năm 1954.

(Trích BBC Việt ngử)