Tn07
04-21-2013, 10:36 PM
Trận chiến cuối cùng
Kha Lăng Đa
Tôi đi biệt phái cho đặc khu Phú Quốc trong thời điểm cận kề ngày Quốc Hận 30/4/75. Trong chuyến ra đảo kỳ này lòng tôi rối như tơ vò chớ không phấn chấn như những lần trước vì dịch di tản đã lan tràn. Chúng tôi phải bay yểm trợ cho quân bạn trên nhiều mặt trận.
Ngoài nhiệm vụ được đơn vị giao phó tôi còn phải thi hành lệnh của “bà xã”, đi tìm nhạc gia và nhạc mẫu của tôi ở các trại tập trung trên đảo Phú Quốc. Ông bà nhạc của tôi coi như bị mất liên lạc từ khi Việt Cộng chiếm Quảng Ngãi. Không biết ông bà có đi di tản hay không. Bà xã tôi lo buồn, khóc ngày, khóc đêm, khiến tôi càng thêm bối rối. Sau những phi vụ, tôi đã đi khắp các trại tập trung để tìm ba má vợ của tôi trong đám người di tản từ miền Trung vào nhưng tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Danh sách đồng bào di tản của các trại, tôi đã dò nhiều lần nhưng không thấy tên ông bà nhạc của tôi đâu cả. Tôi lại lo âu, không biết phải nói với vợ tôi như thế nào cho nàng an tâm. Chắc tôi sẽ nói với vợ tôi rằng ông bà nhạc còn kẹt lại ngoài Trung chớ không có di tản vào Nam. Chắc nàng lại sẽ khóc nữa khi nghe tôi nói. Thôi thì đành chịu như vậy chớ biết tính sao.
Đúng là thân nam nhi gánh nặng tình nhà, nợ nước! Đang lúc bị xấc bấc sang bang thì đặc khu Phú Quốc chuyển lệnh cho tôi và Minh sang Dương Đông để bay yểm trợ giải vây cho đồn Cửa Cạn cách Dương Đông khoảng 8 dặm về phía Tây Bắc. Thiếu tá Rê, đơn vị trưởng của Liên Đoàn Địa Phương Quân đồn trú ở đầu phi trường Dương Đông ra đón chúng tôi vào trại khi chúng tôi vừa hạ cánh.
Những lần trước ra đảo, Thiếu tá Rê đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu bằng những buổi tiệc sau giờ làm việc với hải vị đặc biệt của Phú Quốc như hải sâm, biên mai và tôm, cá. Lần này, vẫn với tiệc nhậu rượu thịt ê hề nhưng tôi và Minh không dám uống nhiều vì ngày nào cũng phải bay 2 vụ COB (Combat Observation) để giải vây cho “đứa con” của Rê đang bị kẹt trong đồn Cửa Cạn.
Tôi không biết ai đã thiết lập đồn Cửa Cạn nằm ở vị trí vô cùng thất lợi cho quân bạn. Đồn nằm dưới thung lũng hình cánh cung mà dây cung là bờ biển với một nghĩa địa có nhiều mồ mả bằng đá dọc theo ven cát trắng. Đồn lại tiếp cận triền núi, bên ngoài đồn là một thôn xóm nhỏ trên 50 nóc nhà. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện trấn giữ một nơi hiểm yếu mà quên đi yếu tố chiêán thuật thì chắc chắn đơn vị trong đồn sẽ nắm phần thất bại vì Viêät Cộng có thể nằm trên cao dập xuống. Đồn sẽ dễ dàng bị triệt hạ.
Ngày đầu tiên tôi đã điều chỉnh pháo binh tác xạ vào các vị trí của Việt Cộng đang áp đảo đồn. Thôn xóm cách đôàn khoảng môät cây số cũng là mục tiêu cho pháo dập. Theo chiến thuật của cuôäc hành quân thì sau khi tôi gọi Pháo Binh bắn tối đa vào vị trí Viêät Côäng đặt pháo ở lưng chừng núi, bắn tan nát cả thôn xóm, bắn dọn đường dọc theo nghĩa địa trên bờ biêån, thì tàu của Hải Quân sẽ đổ một lực lượng Địa Phương Quân lên bờ biển để bắt tay với đơn vị trong đồn. Tính đến giữa phi vụ thứ hai trong ngày đầu tiên, tôi đã gọi Pháo Binh bắn hơn 300 quả đạn 155 li. Vậy mà lúc tàu trực chỉ bờ biển để đổ quân thì pháo của Việt Cộng từ lưng chừng núi bắn ra biển từng chuỗi đạn, nước văng tung tóe khiến đoàn tàu phải quay lui để tránh tầm đạn địch. Thế là kế hoạch đổ quân trong ngày đầu kể như thất bại.
Vị trí pháo của Việt Cộng tôi đã xác định được tọa độ, nhưng nếu “bọn chuột” núp trong hốc đá thì khó mà hạ được. Tôi đã gọi Pháo Binh bắn vào mục tiêu này mấy chục quả đạn 155 li, nhưng vô hiệu quả. Nếu có được 2 phi tuần A37 oanh kích, may ra thanh toán được khẩu pháo yêu quỉ này nhưng tôi gọi về Trung Tâm Hành Quân Không Trợ IV để xin khu trục thì hiện trong đất liền A37 phải bay yểm trợ cho nhiều nơi đang bị đè nặng bởi áp lực của Việt Cộng. Trước khi rời vùng hành quân tôi gọi Pháo Binh bắn quanh đồn để xác định điểm hỏa tập cho đơn vị bị bao vây để khi đêm về, Việt Cộng xuất hiện ở các điểm ấy, họ sẽ gọi Pháo Binh bắn hiệu quả.
Sau khi hạ cánh, Thiếu tá Rê chở chúng tôi ra phố ăn cơm chiều. Ra tới bờ biển, tôi thấy một đám người, đa số là phụ nữ và trẻ con đứng ngơ ngác nhìn cột khói ở phía trận chiến gần đồn Cửa Cạn. Một thiếu phụ tay ẵm con thơ, tay dẫn một bé gái mặt mày lem luốc, bạo dạn đến hỏi tôi:
- Trên đó có sao không Đại úy. Chồng em đang kẹt bên đó.
Nói tới đây nàng mếu máo muốn khóc. Tôi trấn an người thiếu phụ đáng thương ấy:
- Xin chị đừng lo âu, chúng tôi sẽ giải tỏa được đồn Cửa Cạn và chồng chị sẽ về an lành!
- Cám ơn Đại úy!
Trong bữa cơm chiều hôm đó tôi không ăn được chén cơm thứ hai vì lòng ray rứt, ưu tư. Rê lại đặt tin tưởng vào tôi và Minh một lần nữa:
- Ngày mai hai ông ráng cứu giùm “đứa con” của mình. Nó bị vây hơn nửa tháng nay rồi. Theo hai ông nghĩ có cách nào hay hơn không?
Tôi ôn tồn nói:
- Ngày mai tôi sẽ cố gắng xin khu trục ra oanh kích vị trí pháo. Còn việc đổ quân tôi đề nghị đổ thêm một vị trí nữa ở phía Đông nghĩa địa, bởi vì khi tàu Hải Quân chạy thẳng vào bờ biển như sáng nay bị thất bại, thì còn cánh quân ở phía Đông có thể tiến chiếm nghĩa địa để bắt đầu cầu cho cánh quân thứ nhất sẽ đổ bộ lại lần thứ hai khi khu trục đã oanh kích vị trí đặt pháo của Việt cộng.
Mắt Rê sáng rực niềm tin tưởng. Anh vỗ vai tôi:
- Đêm nay tôi sẽ trình với Đại tá Đặc Khu Trưởng khai triển chiến thuật như anh vừa đề nghị. Tôi sẽ xin Pháo Binh thỏa mãn tối đa cho anh khi cần thiết.
Minh góp ý:
- Dứt điểm được khẩu pháo thì kể như dễ dàng thanh toán lực lượng Việt Cộng quanh đồn. Cánh quân nằm án ngữ dọc theo bờ biển lợi dụng mồ mả làm công sự ẩn nấp và cộng thêm một số giao thông hào. Tôi tin rằng khi tàu đổ quân, Việt Cộng sẽ nhóng lên để tập trung hỏa lực về hướng đoàn tàu. Khi đó tụi tôi sẽ bắn đạn VT nổ chụp lên đầu chúng. Nếu triệt được pháo địch thì hai cánh quân ta sẽ đổ theo ý kiến của anh Lịch sẽ không có gì trở ngại. Nếu như triệt không được vị trí pháo của địch thì 2 cánh quân đổ cùng một lúc có thể lên bờ được một cánh vì pháo địch chỉ có một vị trí, chúng khó bắn chính xác vào hai mục tiêu cùng một lúc.
Sáng sớm hôm sau, Thiếu tá Rê đã chở chúng tôi ra phố ăn sáng để chuẩn bị cất cánh. Tôi và Minh đã trang bị 6 quả rocket nổ, 2 quả rocket khói trước khi thi hành phi vụ. Đến vùng hành quân tôi mở máy FM liên lạc với cánh quân trong đồn và được biết đêm qua pháo giặc vẫn tiếp tục pháo vào đồn khiến 3 người bị thương. Địch mở 2 đợt tấn công nhưng nhờ điểm hỏa tập, đồn đã gọi Pháo Binh ta bắn hiệu quả nhiều tràng khiến chúng phải rút lui để lại nhiều xác chết phơi trên bờ rào kẽm gai.
Chúng tôi quan sát nhiều vùng quanh đồn, dọc theo bờ biển và thôn xóm. Để dò la phản ứng của địch, chúng tôi bay thấp dọc theo nghĩa địa thấy lấm tấm bóng địch ngồi dưới giao thông hào và ngồi dựa những mồ mả xây bằng đá. Lên cao để chờ giờ phối hợp kế hoạch, tôi liên lạc với 2 đơn vị đang ở vị thế sẵn sàng đổ quân, liên lạc với đài kiểm báo Paddy xin khu trục. May mắn thay tôi được Trung Tâm Hành Quân Không Trợ IV cho một phi tuần A37 danh hiệu Thần Báo.
Tôi gọi Pháo Binh bắn chuẩn địch chính xác ngay trên nghĩa địa và yêu cầu họ giữ yếu tố để tôi sẽ gọi bắn hiệu quả bằng đạn nổ chụp VT khi tàu đổ bộ. Sáu quả rocket chúng tôi đã bắn hội tụ vào vị trí pháo của địch. Đến giờ TOT, Thần Báo vào vùng hành quân, tôi yêu cầu họ đánh chính xác từng quả bom vào mục tiêu ở lưng chừng núi. Tám quả bom GP500 đã cày nát cây cối trên mục tiêu. Lòng tôi tràn trề hy vọng vị trí pháo của địch bị tiêu hủy. Sau khi khu trục cơ A37 rời vùng, tôi gọi 2 đoàn tàu bắt đầu chạy vào bờ rồi gọi Pháo Binh bắn liên tục nhiều tràng hiệu quả với đạn VT (Variable Time) trên mục tiêu nghĩa địa dọc theo bờ biển. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Hai đoàn tàu càng vào gần bờ biển hơn nhưng không thấy pháo địch bắn ra nữa. Tôi vỗ tay reo qua máy “intercom”:
- Mình đánh trúng thằng pháo Việt Cộng rồi Minh ơi!
Minh cười như hát:
- Chết mẹ nó rồi! Chết mẹ nó rồi!
Khi đoàn tàu gần sát bờ biển, tôi gọi Pháo Binh ngưng tác xạ.
Hai đơn vị đổ bộ đánh thế gọng kềm tiến chiếm bờ biển. Pháo địch vẫn im lặng. Cấp chỉ huy của hai cánh quân báo cho chúng tôi biết địch bị pháo nổ chụp chết 45 tên. Quân ta thu được 11 AK, 3 B40, 1 thượng liên Đông Đức.
Chúng tôi vui mừng dậm chân xuống sàn tàu ầm ầm và bay thấp trên đầu quân bạn để chào mừng chiến thắng. Đến khi quân đổ bộ vào đến đồn thì chúng tôi rời vùng hành quân.
Thiếu tá Rê ra phi trường đón chúng tôi với gương mặt rạng rỡ. Chiếc L19 vừa vào bến đậu, Rê đã chạy ra nắm tay chúng tôi nói, cười rối rít:
- Bây giờ mình có quyền nhậu chớ.
Tôi và Minh cười, nói:
- OK! OK!
Thế là hôm ấy chúng tôi cùng Rê và vài sĩ quan khác đã nhậu một chầu say lúy túy. Trước khi vào trại, tôi chợt nhớ tới hình ảnh người vợ bồng con nhìn ra phía đồn Cửa Cạn ngày hôm qua với tâm trạng lo âu, thấp thỏm. Tôi nói với Rê:
- Ghé tiệm bánh cho mình mua ít bánh ngọt.
Rê cười chế nhạo:
- Dân nhậu mà ăn ngọt à?
- Ậy mà!
Mua hộp bánh ngọt xong, tôi bảo Rê lái xe ra bờ biển. Cột khói ở hướng đồn Cửa Cạn đang bốc cao. Trên bờ biển có nhiều người đứng nhìn về phía Cửa Cạn với khuôn mặt đầy vẻ hoang mang lo lắng. Tôi cố tìm lại người thiếu phụ bồng con và dẫn một bé gái ngày hôm qua. Đúng như tôi ước đoán. Nàng đang dẫn đứa bé gái mũi dãi lòng thòng đang đứng nhìn về phía Tây Bắc với sự lo âu. Tôi gọi:
- Chị ơi! hãy dẫn cháu nhỏ lại đây!
Tôi trao hộp bánh cho đứa bé gái rồi nói:
- Đồn Cửa Cạn đã được giải toả, ba con sắp về với mẹ cháu và cháu rồi đó.
Gương mặt thiếu phụ bỗng tươi như hoa nở. Nàng run run nói:
- Vậy hả Đại úy, cám ơn Đại úy nhé.
Nàng bảo bé gái:
- Con cúi đầu cám ơn bác cho bánh đi con.
Đứa bé ngoan ngoãn làm theo lời mẹ. Nàng cúi chào chúng tôi rồi bồng đứa bé bước nhanh trên hè phố.
Hai cái huy chương anh dũng bội tinh của đặc khu ân thưởng cho tôi và Minh chưa kịp đeo thì đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Minh theo bằng hữu lái trực thăng qua Thái Lan rồi sang Mỹ. Tôi bận bịu gia đình ở lại nên sa vào ngục tù Cộng Sản. Rê đã theo tàu Hải Quân ra Hàng Không Mẫu Hạm của Mỹ. Bây giờ không biết những người bạn thân yêu này đang ở đâu. Tôi mong có dịp gặp lại họ nơi miền “Đất hứa Tự Do”để mời nhau những ly rượu đậm tình “huynh đệ chi binh” và nhắc nhở lại những kỷ niệm ngày xưa .
Kha Lăng Đa
Kha Lăng Đa
Tôi đi biệt phái cho đặc khu Phú Quốc trong thời điểm cận kề ngày Quốc Hận 30/4/75. Trong chuyến ra đảo kỳ này lòng tôi rối như tơ vò chớ không phấn chấn như những lần trước vì dịch di tản đã lan tràn. Chúng tôi phải bay yểm trợ cho quân bạn trên nhiều mặt trận.
Ngoài nhiệm vụ được đơn vị giao phó tôi còn phải thi hành lệnh của “bà xã”, đi tìm nhạc gia và nhạc mẫu của tôi ở các trại tập trung trên đảo Phú Quốc. Ông bà nhạc của tôi coi như bị mất liên lạc từ khi Việt Cộng chiếm Quảng Ngãi. Không biết ông bà có đi di tản hay không. Bà xã tôi lo buồn, khóc ngày, khóc đêm, khiến tôi càng thêm bối rối. Sau những phi vụ, tôi đã đi khắp các trại tập trung để tìm ba má vợ của tôi trong đám người di tản từ miền Trung vào nhưng tôi hoàn toàn tuyệt vọng. Danh sách đồng bào di tản của các trại, tôi đã dò nhiều lần nhưng không thấy tên ông bà nhạc của tôi đâu cả. Tôi lại lo âu, không biết phải nói với vợ tôi như thế nào cho nàng an tâm. Chắc tôi sẽ nói với vợ tôi rằng ông bà nhạc còn kẹt lại ngoài Trung chớ không có di tản vào Nam. Chắc nàng lại sẽ khóc nữa khi nghe tôi nói. Thôi thì đành chịu như vậy chớ biết tính sao.
Đúng là thân nam nhi gánh nặng tình nhà, nợ nước! Đang lúc bị xấc bấc sang bang thì đặc khu Phú Quốc chuyển lệnh cho tôi và Minh sang Dương Đông để bay yểm trợ giải vây cho đồn Cửa Cạn cách Dương Đông khoảng 8 dặm về phía Tây Bắc. Thiếu tá Rê, đơn vị trưởng của Liên Đoàn Địa Phương Quân đồn trú ở đầu phi trường Dương Đông ra đón chúng tôi vào trại khi chúng tôi vừa hạ cánh.
Những lần trước ra đảo, Thiếu tá Rê đã tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu bằng những buổi tiệc sau giờ làm việc với hải vị đặc biệt của Phú Quốc như hải sâm, biên mai và tôm, cá. Lần này, vẫn với tiệc nhậu rượu thịt ê hề nhưng tôi và Minh không dám uống nhiều vì ngày nào cũng phải bay 2 vụ COB (Combat Observation) để giải vây cho “đứa con” của Rê đang bị kẹt trong đồn Cửa Cạn.
Tôi không biết ai đã thiết lập đồn Cửa Cạn nằm ở vị trí vô cùng thất lợi cho quân bạn. Đồn nằm dưới thung lũng hình cánh cung mà dây cung là bờ biển với một nghĩa địa có nhiều mồ mả bằng đá dọc theo ven cát trắng. Đồn lại tiếp cận triền núi, bên ngoài đồn là một thôn xóm nhỏ trên 50 nóc nhà. Nếu chỉ nghĩ đến chuyện trấn giữ một nơi hiểm yếu mà quên đi yếu tố chiêán thuật thì chắc chắn đơn vị trong đồn sẽ nắm phần thất bại vì Viêät Cộng có thể nằm trên cao dập xuống. Đồn sẽ dễ dàng bị triệt hạ.
Ngày đầu tiên tôi đã điều chỉnh pháo binh tác xạ vào các vị trí của Việt Cộng đang áp đảo đồn. Thôn xóm cách đôàn khoảng môät cây số cũng là mục tiêu cho pháo dập. Theo chiến thuật của cuôäc hành quân thì sau khi tôi gọi Pháo Binh bắn tối đa vào vị trí Viêät Côäng đặt pháo ở lưng chừng núi, bắn tan nát cả thôn xóm, bắn dọn đường dọc theo nghĩa địa trên bờ biêån, thì tàu của Hải Quân sẽ đổ một lực lượng Địa Phương Quân lên bờ biển để bắt tay với đơn vị trong đồn. Tính đến giữa phi vụ thứ hai trong ngày đầu tiên, tôi đã gọi Pháo Binh bắn hơn 300 quả đạn 155 li. Vậy mà lúc tàu trực chỉ bờ biển để đổ quân thì pháo của Việt Cộng từ lưng chừng núi bắn ra biển từng chuỗi đạn, nước văng tung tóe khiến đoàn tàu phải quay lui để tránh tầm đạn địch. Thế là kế hoạch đổ quân trong ngày đầu kể như thất bại.
Vị trí pháo của Việt Cộng tôi đã xác định được tọa độ, nhưng nếu “bọn chuột” núp trong hốc đá thì khó mà hạ được. Tôi đã gọi Pháo Binh bắn vào mục tiêu này mấy chục quả đạn 155 li, nhưng vô hiệu quả. Nếu có được 2 phi tuần A37 oanh kích, may ra thanh toán được khẩu pháo yêu quỉ này nhưng tôi gọi về Trung Tâm Hành Quân Không Trợ IV để xin khu trục thì hiện trong đất liền A37 phải bay yểm trợ cho nhiều nơi đang bị đè nặng bởi áp lực của Việt Cộng. Trước khi rời vùng hành quân tôi gọi Pháo Binh bắn quanh đồn để xác định điểm hỏa tập cho đơn vị bị bao vây để khi đêm về, Việt Cộng xuất hiện ở các điểm ấy, họ sẽ gọi Pháo Binh bắn hiệu quả.
Sau khi hạ cánh, Thiếu tá Rê chở chúng tôi ra phố ăn cơm chiều. Ra tới bờ biển, tôi thấy một đám người, đa số là phụ nữ và trẻ con đứng ngơ ngác nhìn cột khói ở phía trận chiến gần đồn Cửa Cạn. Một thiếu phụ tay ẵm con thơ, tay dẫn một bé gái mặt mày lem luốc, bạo dạn đến hỏi tôi:
- Trên đó có sao không Đại úy. Chồng em đang kẹt bên đó.
Nói tới đây nàng mếu máo muốn khóc. Tôi trấn an người thiếu phụ đáng thương ấy:
- Xin chị đừng lo âu, chúng tôi sẽ giải tỏa được đồn Cửa Cạn và chồng chị sẽ về an lành!
- Cám ơn Đại úy!
Trong bữa cơm chiều hôm đó tôi không ăn được chén cơm thứ hai vì lòng ray rứt, ưu tư. Rê lại đặt tin tưởng vào tôi và Minh một lần nữa:
- Ngày mai hai ông ráng cứu giùm “đứa con” của mình. Nó bị vây hơn nửa tháng nay rồi. Theo hai ông nghĩ có cách nào hay hơn không?
Tôi ôn tồn nói:
- Ngày mai tôi sẽ cố gắng xin khu trục ra oanh kích vị trí pháo. Còn việc đổ quân tôi đề nghị đổ thêm một vị trí nữa ở phía Đông nghĩa địa, bởi vì khi tàu Hải Quân chạy thẳng vào bờ biển như sáng nay bị thất bại, thì còn cánh quân ở phía Đông có thể tiến chiếm nghĩa địa để bắt đầu cầu cho cánh quân thứ nhất sẽ đổ bộ lại lần thứ hai khi khu trục đã oanh kích vị trí đặt pháo của Việt cộng.
Mắt Rê sáng rực niềm tin tưởng. Anh vỗ vai tôi:
- Đêm nay tôi sẽ trình với Đại tá Đặc Khu Trưởng khai triển chiến thuật như anh vừa đề nghị. Tôi sẽ xin Pháo Binh thỏa mãn tối đa cho anh khi cần thiết.
Minh góp ý:
- Dứt điểm được khẩu pháo thì kể như dễ dàng thanh toán lực lượng Việt Cộng quanh đồn. Cánh quân nằm án ngữ dọc theo bờ biển lợi dụng mồ mả làm công sự ẩn nấp và cộng thêm một số giao thông hào. Tôi tin rằng khi tàu đổ quân, Việt Cộng sẽ nhóng lên để tập trung hỏa lực về hướng đoàn tàu. Khi đó tụi tôi sẽ bắn đạn VT nổ chụp lên đầu chúng. Nếu triệt được pháo địch thì hai cánh quân ta sẽ đổ theo ý kiến của anh Lịch sẽ không có gì trở ngại. Nếu như triệt không được vị trí pháo của địch thì 2 cánh quân đổ cùng một lúc có thể lên bờ được một cánh vì pháo địch chỉ có một vị trí, chúng khó bắn chính xác vào hai mục tiêu cùng một lúc.
Sáng sớm hôm sau, Thiếu tá Rê đã chở chúng tôi ra phố ăn sáng để chuẩn bị cất cánh. Tôi và Minh đã trang bị 6 quả rocket nổ, 2 quả rocket khói trước khi thi hành phi vụ. Đến vùng hành quân tôi mở máy FM liên lạc với cánh quân trong đồn và được biết đêm qua pháo giặc vẫn tiếp tục pháo vào đồn khiến 3 người bị thương. Địch mở 2 đợt tấn công nhưng nhờ điểm hỏa tập, đồn đã gọi Pháo Binh ta bắn hiệu quả nhiều tràng khiến chúng phải rút lui để lại nhiều xác chết phơi trên bờ rào kẽm gai.
Chúng tôi quan sát nhiều vùng quanh đồn, dọc theo bờ biển và thôn xóm. Để dò la phản ứng của địch, chúng tôi bay thấp dọc theo nghĩa địa thấy lấm tấm bóng địch ngồi dưới giao thông hào và ngồi dựa những mồ mả xây bằng đá. Lên cao để chờ giờ phối hợp kế hoạch, tôi liên lạc với 2 đơn vị đang ở vị thế sẵn sàng đổ quân, liên lạc với đài kiểm báo Paddy xin khu trục. May mắn thay tôi được Trung Tâm Hành Quân Không Trợ IV cho một phi tuần A37 danh hiệu Thần Báo.
Tôi gọi Pháo Binh bắn chuẩn địch chính xác ngay trên nghĩa địa và yêu cầu họ giữ yếu tố để tôi sẽ gọi bắn hiệu quả bằng đạn nổ chụp VT khi tàu đổ bộ. Sáu quả rocket chúng tôi đã bắn hội tụ vào vị trí pháo của địch. Đến giờ TOT, Thần Báo vào vùng hành quân, tôi yêu cầu họ đánh chính xác từng quả bom vào mục tiêu ở lưng chừng núi. Tám quả bom GP500 đã cày nát cây cối trên mục tiêu. Lòng tôi tràn trề hy vọng vị trí pháo của địch bị tiêu hủy. Sau khi khu trục cơ A37 rời vùng, tôi gọi 2 đoàn tàu bắt đầu chạy vào bờ rồi gọi Pháo Binh bắn liên tục nhiều tràng hiệu quả với đạn VT (Variable Time) trên mục tiêu nghĩa địa dọc theo bờ biển. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Hai đoàn tàu càng vào gần bờ biển hơn nhưng không thấy pháo địch bắn ra nữa. Tôi vỗ tay reo qua máy “intercom”:
- Mình đánh trúng thằng pháo Việt Cộng rồi Minh ơi!
Minh cười như hát:
- Chết mẹ nó rồi! Chết mẹ nó rồi!
Khi đoàn tàu gần sát bờ biển, tôi gọi Pháo Binh ngưng tác xạ.
Hai đơn vị đổ bộ đánh thế gọng kềm tiến chiếm bờ biển. Pháo địch vẫn im lặng. Cấp chỉ huy của hai cánh quân báo cho chúng tôi biết địch bị pháo nổ chụp chết 45 tên. Quân ta thu được 11 AK, 3 B40, 1 thượng liên Đông Đức.
Chúng tôi vui mừng dậm chân xuống sàn tàu ầm ầm và bay thấp trên đầu quân bạn để chào mừng chiến thắng. Đến khi quân đổ bộ vào đến đồn thì chúng tôi rời vùng hành quân.
Thiếu tá Rê ra phi trường đón chúng tôi với gương mặt rạng rỡ. Chiếc L19 vừa vào bến đậu, Rê đã chạy ra nắm tay chúng tôi nói, cười rối rít:
- Bây giờ mình có quyền nhậu chớ.
Tôi và Minh cười, nói:
- OK! OK!
Thế là hôm ấy chúng tôi cùng Rê và vài sĩ quan khác đã nhậu một chầu say lúy túy. Trước khi vào trại, tôi chợt nhớ tới hình ảnh người vợ bồng con nhìn ra phía đồn Cửa Cạn ngày hôm qua với tâm trạng lo âu, thấp thỏm. Tôi nói với Rê:
- Ghé tiệm bánh cho mình mua ít bánh ngọt.
Rê cười chế nhạo:
- Dân nhậu mà ăn ngọt à?
- Ậy mà!
Mua hộp bánh ngọt xong, tôi bảo Rê lái xe ra bờ biển. Cột khói ở hướng đồn Cửa Cạn đang bốc cao. Trên bờ biển có nhiều người đứng nhìn về phía Cửa Cạn với khuôn mặt đầy vẻ hoang mang lo lắng. Tôi cố tìm lại người thiếu phụ bồng con và dẫn một bé gái ngày hôm qua. Đúng như tôi ước đoán. Nàng đang dẫn đứa bé gái mũi dãi lòng thòng đang đứng nhìn về phía Tây Bắc với sự lo âu. Tôi gọi:
- Chị ơi! hãy dẫn cháu nhỏ lại đây!
Tôi trao hộp bánh cho đứa bé gái rồi nói:
- Đồn Cửa Cạn đã được giải toả, ba con sắp về với mẹ cháu và cháu rồi đó.
Gương mặt thiếu phụ bỗng tươi như hoa nở. Nàng run run nói:
- Vậy hả Đại úy, cám ơn Đại úy nhé.
Nàng bảo bé gái:
- Con cúi đầu cám ơn bác cho bánh đi con.
Đứa bé ngoan ngoãn làm theo lời mẹ. Nàng cúi chào chúng tôi rồi bồng đứa bé bước nhanh trên hè phố.
Hai cái huy chương anh dũng bội tinh của đặc khu ân thưởng cho tôi và Minh chưa kịp đeo thì đất nước rơi vào tay Cộng Sản. Minh theo bằng hữu lái trực thăng qua Thái Lan rồi sang Mỹ. Tôi bận bịu gia đình ở lại nên sa vào ngục tù Cộng Sản. Rê đã theo tàu Hải Quân ra Hàng Không Mẫu Hạm của Mỹ. Bây giờ không biết những người bạn thân yêu này đang ở đâu. Tôi mong có dịp gặp lại họ nơi miền “Đất hứa Tự Do”để mời nhau những ly rượu đậm tình “huynh đệ chi binh” và nhắc nhở lại những kỷ niệm ngày xưa .
Kha Lăng Đa