PDA

View Full Version : Tôi không đi Mỹ !



Longhai
03-02-2013, 08:38 PM
Tôi không đi Mỹ !


Nguyễn Khắp Nơi


Vào dịp Tết Mậu Thân, tôi chỉ mới lên bốn, không thể nhớ nổi bất cứ chuyện gì đã xẩy ra cho gia đình của tôi. Ráng lắm, tôi cũng chỉ nhớ là có một ngày nào đó, ba mẹ tôi có đưa cả nhà tới nhà bác hai Phước, nhà bác hai lúc đó có rất đông người tới, và bà nội có thắt lên đầu tôi một miếng khăn mầu trắng, vậy thôi.

Đến năm 1971, khi tôi được bẩy tuổi, tới phiên nhà tôi cũng có rất đông người tới và bà nội cũng lại thắt lên đầu tôi một miếng khăn mầu trắng.

Lần này thì tôi đã đủ khôn lớn để biết rằng: Ba tôi đã chết. Người ta đưa ba tôi về trong cái quan tài đặt ở ngay phòng khách.

Chú Lý là em của ba tôi, cũng là người thường hay nói chuyện với tôi, kể cho tôi nghe:

“Ba của con là lính Thiết Giáp, đi đánh Việt cộng ở chiến trường Hạ Lào, và đã chêt ở đó. Chính chú đã đi trực thăng qua tận Hạ Lào lãnh xác của ba về đó.”

Mặc dù đã đủ lớn để biết là ba tôi chết, nhưng tôi vẫn chưa cảm thấy cái chết của ba tôi ảnh hưởng như thế nào với mẹ và các anh em tôi, mãi cho đến khi thấy mẹ tôi cứ khóc hoài, và ba tôi không về dẫn anh em tôi đi chơi nữa, tôi mới nhận biết sự thiếu vắng của ba tôi. Mẹ tôi đã phải đi làm để nuôi sống ba anh em tôi, mỗi sáng, bà chất anh em tôi lên xe, chở lại nhà bà nội để chúng tôi ở đó rồi mới đi làm. Chúng tôi được bà nội cho ăn uống, đưa đi học và đón về, đến tối, mẹ tôi mới đem chúng tôi về cho tắm rửa, học hành rồi đi ngủ.

Có một đêm, tôi trằn trọc không ngủ được, tôi ngồi dậy đi vào bếp tìm ly uống nước. Tôi đang định trở về giường thì nghe tiếng khóc nho nhỏ ở trên phòng khách, tôi ngạc nhiên nhón gót đi lên xem có chuyện gì? Đèn đã tắt hết nhưng qua ánh sáng ở bên ngoài rọi vào, tôi thấy mẹ tôi vẫn còn thức, hai vai của mẹ rung lên. Tôi bước tới ôm lấy mẹ, mới thấy mẹ đang cầm những tấm hình của ba tôi mà khóc. Mẹ nói với tôi:

“Mẹ nhớ ba . . ”

Lúc đó, tôi mới cảm thấy sự thiếu vắng của ba tôi.Ba đã ra đi vĩnh viễn, không còn trở về với chúng tôi nữa. Tôi ôm chặt lấy mẹ mà nói :

“Con cũng nhớ ba . . ”

Hai mẹ con cùng khóc với nhau.

Đến năm 1975, tôi vừa tròn mười một tuổi, mới chập chững bước chân vào trường trung học, thì một biến cố lớn nữa đã xẩy đến cho gia đình tôi.

Khắp nơi, súng nổ thật nhiều và ngoài đường không còn những người lính mặc quần áo giống như ba tôi, như bác hai Phước, như chú Lý nữa, mà là những người lính mặc quần áo bèo nhèo, đầu đội cái nón nhựa mầu xanh lục thật là kỳ cục và lại mang dép cao su mầu đen có hai quai tréo nhau, mà trong đời tôi, tôi chưa từng bao giờ thấy ai mặc những thứ như thế này bao giờ.

Những người lính này chiếm đóng khắp mọi nơi, trường học của tôi phải đóng cửa, mẹ tôi cũng không được đi làm nữa. Mẹ đóng chặt cửa, mấy mẹ con ở riết trong nhà, không dám đi đâu hết.

Buổi chiều, bác Hai chạy xe Honda qua nhà tôi, bác hấp tấp nói nhỏ với mẹ tôi:

“Việt cộng đã chiếm miền Nam rồi.Tổng Thống mình đầu hàng rồi.”

Mẹ tôi đứng xững nhìn bác Hai:

“ Mình phải làm gì bây giờ đây hả chị Hai ?”

Bác Hai nhìn mẹ tôi, quay đầu nhìn đám anh em chúng tôi rồi lắc đầu:

“Ai mà biết phải làm cái gì? Tui nghe mấy người chạy từ Đà Nẵng về, nói rằng đám Việt cộng rất là hung dữ, cấm không cho buôn bán, tịch thu hết sách vở đem đi đốt, rồi bắt hết những người lính mình nhốt vào những căn cứ của tụi nó ở trong rừng, bỏ đó cho chết đói, còn đàn bà con nít như tụi mình thì bắt bỏ nhà đi vô rừng trồng khoai trồng bắp hết.”

Mẹ nhìn anh em chúng tôi, mếu máo :

- “Mấy đứa con em . . .tụi nó còn nhỏ quá, đâu có biết làm cái gì đâu! Làm sao mà biết trồng khoai trồng mì? Bỏ tụi nó vô rừng là chết chắc . . .Chú Lý đã về nhà chưa, chị Hai ?”

- "Chú Lý mới về tới nhà, chú nói phải kiếm đường vượt biên cho thật gấp, chứ để trễ thế nào tụi nó cũng bắt chú."

Tôi muốn xin mẹ đi gặp chú, nhưng tôi thấy mẹ tôi đang lo buồn, nên tôi không dám xin.Mấy bữa sau, khi chúng tôi đang ngồi trong nhà thì chú Tư Lý chở bà nội tới nhà tôi chơi.có cả bác Hai nữa. Tôi mừng rỡ ôm lấy chú, mỗi lần nhìn thấy chú, tôi có cảm tưởng như ba tôi đã về với tôi, vì chú Lý giống ba tôi lắm. Chú không vui vẻ nói chuyện với tôi như những lần trước, mà chỉ cười buồn ôm tôi rồi hai chú cháu cùng đi vào nhà. Nói chuyện một hồi thì chú Lý nói với mẹ tôi:

"Chị Ba, đám Việt cộng ra lệnh cho tụi em phải trình diện đi học tập vào ngày mai, nên em tới đây chào chị đặng ngày mai đi cho sớm."

Mẹ tôi ngồi làm thinh, nhìn qua bà nội, rồi lại nhìn qua chú Tư:

"Tụi nó có nói đi học tập mấy ngày hay không, chú Tư?"

Chú Tư Lý buồn bã trả lời:

"Bọn nó không nói rõ bao nhiêu ngày, chỉ nói đem theo đồ ăn cho ba ngày, vây thôi. Nên em không biết là học ba ngày hay là bao nhiêu ngày."

Bất chợt, chú Lý quay qua nắm lấy hai vai tôi, nghiêm trang nói :

"Chú đi rồi, ở nhà chỉ còn có mình con là con trai lớn trong nhà (các anh con bác Hai Phước đã đi du học ở bên Pháp hết rồi ), con phải ráng sống mà chăm lo cho bà nội, cho bác Hai và cho má, nghe không con !"

Cả nhà rơi nước mắt khi nghe chú Lý nói. Chú Lý ngồi xuống, cũng khóc theo. Tôi không biết sự việc quan trọng ra sao, nhưng nghe chú nói phải ráng sống, thì cũng vừa khóc vừa hứa với chú :

"Con sẽ ráng sống để lo cho bà Nội, cho bác Hai và cho Mẹ. Chú cũng phải ráng sống mà về lo cho bà nội, nha chú !"

Kể từ ngày chú Lý ra trình diện để đi học tập cho tới nay, đã hơn một tháng rồi, mà tôi vẫn chưa thấy chú được về. Tôi theo mẹ để hỏi, mẹ tôi buồn bã ngồi xuống ôm lấy hai vai tôi mà nói:

"Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm."

Tôi không hiểu hết câu nói của mẹ, chỉ loáng thoáng hiểu rằng, không bao giờ tin tưởng Việt cộng, vì họ nói đường này nhưng lại làm theo con đường khác.

Một hôm, khi chúng tôi đang chơi dỡn ở trong nhà thì có tiếng gõ cửa, mẹ đang lo nấu cơm phía sau nhà, tôi chạy xuống cho mẹ hay. Mẹ tôi chưa kịp rửa tay thì đám người này đã đập cửa ầm ầm rất là dữ tợn tưởng chừng như cánh cửa muốn xúc ra rớt xuống đất. Tôi vội vàng chạy tới mở chốt cửa . . .

Trước mặt tôi là một đám thanh niên mang băng đỏ trên cánh tay, mặt mày hung hãn. Một tên cầm súng chĩa vào tôi, trợn mắt hỏi:

“Chủ nhà đâu ? Tại sao có giải phóng tới gõ cửa mà không mở ? Muốn chống đối hả ?”

Tôi sợ quá, thụt lui lại, hét lên :

“Mẹ ơi . . “

Mẹ tôi từ sau nhà chạy vuột lên, nắm chặt lấy tôi, hoảng hốt trả lời :

“Tôi . . .tôi là chủ nhà đây . . .Tôi xin lỗi . . .vì đang nấu cơm ở sau nhà . . .Mấy ông kiếm tôi . . .có chuyện gì không . . ?”

Tên cầm súng nạt mẹ tôi :

“Nhân dân đi đâu mà không chịu mở cửa ngay khi giải phóng gõ cửa? Chị ở đằng sau nhà làm gì? Phải phấn đấu mà thành thật khai báo, sẽ được cách mạng khoan hồng.Chị nên biết rằng, ở đâu thì cách mạng cũng có tai mắt hết, không che dấu được đâu."

Tôi thấy mẹ tôi tức giận tới đỏ mặt lên, nhưng rồi mẹ lại nghiêm nét mặt lại mà trả lời tên cầm súng:

"Tôi đang ngồi trong cầu tiêu thì giải phóng tới, nên không thể nào ra tiếp giải phóng ngay được, nhưng con tôi đã mở cửa rồi đó."

Tên cầm súng còn hung hăng hơn nữa:

"Dù có đang làm gì thì làm, khi giải phóng gõ cửa, cũng phải khẩn trương hoàn thành tốt công tác để ra đón tiếp giải phóng, biết chưa ?

Hãy nghe thông báo của Ủy Ban Quân Quản thành phố đây.Tối nay,lúc 7 giờ tối, yêu cầu nhân dân khẩn trương tới họp tổ dân phố ở nhà đồng chí Tổ Trưởng, nhất trí chưa !"

Mẹ tôi chỉ gật đầu chứ không trả lời, đợi cho bọn chúng đi hết mới đóng cửa lại, dắt anh em tôi đi vào trong nhà. Tôi lúc lắc tay gọi mẹ:

"Tối nay mẹ đừng đi họp, để con đi cho."

Mẹ vui vẻ ôm chặt lấy tôi, âu yếm nói:

"Con còn nhỏ mà đã biết lo giúp mẹ, giỏi lắm. Thôi để mẹ nhờ con chuyện khác, còn việc đi họp thì để mẹ lo."

Tôi tự hào nói với mẹ:

"Chú Tư đã nói, chỉ còn một mình con là con trai ở nhà, con phải lo cho mẹ chứ sao."

Mẹ tôi đi họp ra sao, tôi không biết, nhưng khi mẹ về, tôi thấy sắc mặt của mẹ buồn lắm, nên tôi không dám hỏi.Mẹ hối anh em chúng tôi đi ngủ, ngày mai sẽ tính.

Sáng sớm mai, khi anh em chúng tôi còn đang lui cui sửa soạn đi học, mẹ tôi còn đang lo nấu cơm cho cả ngày thì đám lính giải phóng lại tới, lần này không có những tên mang băng đỏ, mà toàn là đám đội nón cối, tên nào cũng cầm súng chĩa ra hai chia nhau đứng từ nhà trên xuống nhà dưới. Chúng tôi đứng chết trân nhìn những họng súng đang chĩa vào mình, không dám cử động. Khi đã đứng đầy hết trong nhà rồi, một tên không mang súng dài (chỉ có khẩu súng ngắn đeo ở bên hông) bước tới trước mặt mẹ tôi, đưa tay vào trong túi da đeo bên hông lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng đọc:

"Căn hộ này là của ngụy quyền cấp phát cho tên ngụy quân Đào B.T

Ủy Ban Quân Quản phải tịch thu căn hộ này để giao lại cho nhân dân quản lý.

Gia đình tên T phải khẩn trương rời khỏi căn hộ này vào sáng sớm ngày mai.

Ban Quản Lý Nhà Đất của Ủy Ban Quân Quản tạm thời tiếp thu căn hộ ngay ngày hôm nay, để đảm bảo tài sản của nhân dân không bị hư hao mất cắp."

Mẹ tôi chới với nhìn tên chỉ huy, hỏi lại:

"Như vậy nghĩa là sao ? Nhà của chúng tôi, tại sao lại đuổi chúng tôi ra khỏi nhà ?
Chúng tôi đi đâu bây giờ ?"

Tên cán bộ quay lưng đi, không thèm nhìn mẹ tôi. Ra tới cửa, y mới quay lại nói bằng một giọng lạnh tanh:

"Căn hộ này là của nhân dân, phải trả lại cho nhân dân. Kể từ bây giờ cho tới sáng sớm ngày mai, chị phải dọn tất cả đồ đạc ra ngoài, đi đâu thì đi, chúng tôi sẽ cấp giấy tạm trú cho chị."

Mẹ tôi khóc ngất xỉu xuống giữa nhà:

"Trời ơi, ông Trời trông xuông mà xem này, bọn chúng đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà, chúng tôi ở đâu bây giờ đây . . .

Anh ơi, anh ở đâu . . .mẹ con em biết đi đâu bây giờ anh ơi . . .anh đã chết rồi . . .Tổ quốc cũng đã mất rồi . . . bây giờ tới căn nhà để ở, chúng nó cũng lấy đi . . "

Tôi chỉ là một đứa bé mới mười một tuổi đầu, nhưng khi nhìn thấy những gương mặt ngu ngơ đằng đằng sát khí, không có một chút tình người nào từ trong ánh mắt của bọn người này, lại thêm những họng súng đen ngòm lạnh tanh đang chĩa vào người tôi, vào mẹ tôi, thì tôi hiểu ngay là không thể nào nói gì thêm với loại người này. Tôi bước tới, ôm lấy mẹ, can đảm nói với mẹ:

"Mẹ ơi, đừng khóc nữa, vô ích . . .con sẽ giúp mẹ thu dọn đồ đạc . . .mình về ở với bà Nội nhe mẹ."

Mẹ tôi chống tay ngồi lên, im lặng nhìn những gương mặt xa lạ mang đầy vẻ hận thù của những tên lính đang đứng chĩa súng vào mẹ. Mẹ nhìn quanh để thấy sự thật một lần nữa, rồi mẹ quay lại nhìn anh em chúng tôi. Cuối cùng, mẹ đứng lên nói với tôi:

"Con cho các em ăn sáng rồi phụ mẹ thu dọn quần áo, giầy dép, mùng mền vào bao. Mẹ lo thu xếp chén dĩa nồi niêu xong chảo . . ."

Các em tôi líu ríu sợ sệt ngồi vào bàn ăn, nhưng không đứa nào đụng chén đụng bát gì cả. Tôi phải hối tới hối lui, đút cho tụi nó ăn, hai đứa em của tôi mới ăn được chút đỉnh. Dọn dẹp từ sáng cho đến chiều, chúng tôi mới gom góp được hết mọi thứ, mẹ nói tôi coi nhà để mẹ đi tới nhà bà nội xin dọn đồ tới và đi muớn xe ba bánh chở đồ.

Xe tới, mẹ chỉ cho mấy người phu xe vào khiêng bộ ghế sa lông, tủ thờ, ván gõ, đi văng và bàn ghế ra, tên Việt cộng mang súng bên hông vội vã chạy tới ngăn cản, không cho khiêng ra, hắn nói với mẹ tôi:

“Tất cả đồ đạc này là của nhân dân, tôi được lệnh bảo quản những thứ đồ đạc này, chị chỉ được quyền đem nồi niêu song chảo quần áo đi mà thôi.”

Mẹ tôi giận quá, la lên :

“Nhà cửa của tôi, mấy ông đã chiếm, bây giờ lại còn muốn lấy cả đồ đạc của gia đình tôi nữa sao? Những đồ này là của hương hoả, do ông cố ông sơ nhà chồng tôi để lại, mấy ông nói là của nhân dân là sao ?”

Tên Việt cộng rút súng ra chĩa vào mẹ tôi, nạt lớn :

“Nhân danh nhân dân, tôi phải bảo quản những đồ đạc này, ai mà đụng tới tài sản của nhân dân sẽ bị xử lý ngay tại chỗ. Các anh kia, đi ra khỏi nơi đây ngay lập tức.”

Mẹ tôi giận quá, chỉ mặt tên Việt cộng, hét lên :

“Đồ ăn cướp !”

Tên Việt cộng đưa khẩu súng lên, chĩa vào đầu mẹ, rít lên:

“Đem quần áo ra khỏi nhà ngay lập tức. Còn cãi bướng, ông bắn bỏ cha mày đấy.”

Ba anh em chúng tôi sợ quá, chạy tới ôm lấy mẹ khóc thê thảm. Mẹ cũng ôm lấy chúng tôi mà khóc theo.

Tên Việt cộng ra lệnh cho bọn lính cầm súng dài thẩy hết những gói quần áo, chén dĩa đồ nấu ăn ra ngoài hè rồi nắm mấy mẹ và anh em tôi mà sô mạnh ra ngoài, đóng cửa lại một cái “Rầm”.

Mẹ bị té chúi nhủi xuống đường, máu chẩy ra đầy mặt mẹ, tôi cũng bị té nhưng vội vàng đứng dậy mếu máo kéo áo lau mặt cho mẹ. Tôi thoáng thấy những nhà hàng xóm chung quanh hé cửa nhìn chúng tôi, nhưng rồi lại đóng cửa lại thật chặt, chỉ có nhà kế bên là mở cửa lớn ra, bác Bẩy từ trong nhà chạy vội ra đỡ mẹ dậy, kéo mẹ vào trong nhà, vừa kéo mẹ, bác vừa nói nhỏ:

“Chị dòm qua nhà em, thấy tụi nó vô, là biết thế nào cũng có chuyện lớn. Cái đám Việt cộng này, cả đất nước mình nó còn chiếm, nói chi căn nhà của mình.Tụi nó tha mạng cho em với xấp nhỏ là được rồi, còn người còn của mà em . . .vô nhà chị, chị lấy nước cho em uống, rồi mình tính.”

Bác Bẩy lấy nước cho mẹ uống, rủa mặt cho mẹ rồi vội vàng ra ngoài lươm mấy bao đồ của chúng tôi mà đem vào nhà, tôi cũng chạy theo phụ với bác. Nhìn thấy chiếc Honda của mẹ, bác Bầy vội vã gạt cần chống, đầy xe vào nhà, nói với mẹ:

“Phước đức Ông Bà, tụi nó còn để cho em chiếc xe này, phải đem đi chỗ khác liền đi, má thằng Hùng.”

Mẹ tôi đã hơi tỉnh, mẹ nói với bác Bẩy :

“Chị cho em gởi đám quần áo này, em chở tụi nhỏ tới nhà bà nội rồi trở lại liền.”

Bác Bẩy nhìn mẹ, ái ngại :

“Em đã khoẻ chưa mà đòi chạy xe ? Mà thôi, chưa khoẻ cũng phải ráng mà lết đi em ơi. Chị cũng phải lo phần chị, chắc cũng sắp bị ăn cướp rồi đó. Anh Bẩy bị bắt từ hồi cuối tháng Tư, hổng biết sống chết ra sao ? Em còn có bà nội mà dựa, chị hông có ai hết, đi đâu bây giờ nữa đây Trời.”

Mẹ chở một lượt ba anh em tôi tới nhà bà nội. Bác Hai Phước cũng có đó rồi, bác mếu máo nói với mẹ:

“Chị cũng bị tụi nó tới cướp hết đuổi ra ngoài đường rồi em ơi . . .Cái thứ cướp ngày đó mà kêu là giải phóng . . ”

Nhà bà nội ngổn ngang đầy những người và đồ đạc. Nội nhìn chúng tôi mà rớt nước mắt :

“Tội nghiệp tụi bay! Ba tụi bay chết rồi mà cái đám ăn cướp này nó cũng không buông, nó phải đi theo nó hốt hết mọi thứ nó mới hả lòng. Thôi, mấy con lo xếp dồ, lo cho tụi nhỏ, còn phần má, má lo mấy thứ này.”

Bà nội vừa nói vừa ôm lấy cái hộp bằng gỗ mun bóng lưỡng thật là đẹp. Đám con nít tụi tôi chạy lại rờ cái hộp, bà nội vừa mở hộp cho tụi tôi xem, vừa nói:

“Đồ này là của bác Hai Phước và của ba tụi bay đó thôi. Mai mốt nội sẽ giao lại cho bay giữ.”

Trong hộp có hai ngăn, một ngăn của bác Hai, một ngăn của ba tôi, chứa đầy hình, huy chương và những miếng dẹp có gắn những bông mai mầu trắng và hai tấm thẻ bài. Nội giải thích cho tụi tôi:

“Cặp lon có ba bông mai trắng là của bác Hai Phước, còn cặp lon có một bông mai trắng là của ba tụi bay.”

Tôi coi kỹ những tấm hình của bác Hai và của ba, đa số là hình chụp đám tang, chỉ có vài tấm là chụp riêng mà thôi. Bác Hai Phước bận đồ bông, có đeo hình con cọp đen ở bên vai trái, còn ba bận đồ trây di mầu xanh lục, mang hình chiếc xe tăng cũng ở bên vai trái.

Tôi vẫn đi học ở trường cũ, bạn bè thì vẫn là đám bạn cũ, nhưng các thầy cô thì đều là những thầy cô từ miền Bắc đem vô, họ tuy cũng là người Việt như tôi, nhưng có giọng nói rất là khác biệt và lúc nào cũng tìm cách chửi bới những người lính như ba tôi và bác Hai là Ngụy Quân, Ngụy Quyền, tay sai cho đế quốc Mỹ. Sáng sớm, trước khi đi học, tôi lo phụ mẹ đem hàng ra chợ bán, tan học, tôi về nhà lo cho các em tắm rửa rồi cùng ngồi học,chỉ cho các em làm bài cũng như làm bài tập của mình. Sau đó, tôi lo vo gạo nấu sẵn nồi cơm rồi ra chợ chờ vãn hàng, gom góp đồ chở về nhà cho mẹ.

Thời gian qua mau, mới đây mà đã hơn bốn năm qua rồi (1979), chú Lý cũng vẫn chưa thấy về. Một bữa đến trường, tôi thấy một số anh ở lớp 11 và 12 không vào lớp học mà đứng xớ rớ bên ngoài phòng Hiệu trưởng, tôi đến nghe ngóng thì các anh cho biết, các anh bị cho nghỉ học để tham gia “ Nghĩa vụ quân sự” qua Căm pu chia đánh giặc. Tôi nhìn kỹ những anh này, tất cả đều là con của lính Cộng Hoà như tôi. Tôi thắc mắc, hỏi lại một anh bạn cùng xóm:

“Em nghe nói, nghĩa vụ quân sự chỉ dành cho các . . .cháu ngoan bác Hồ, còn con của “Nguỵ” không được quyền tham gia. Vậy sao mà mấy anh lại được . . .trúng tuyển nghĩa vụ quân sự?”

Anh Đức cười, nhìn tôi một cách chế nhạo:

“Đừng nghe những gì Cộng sản nói . . .em có biết câu nói của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không? Tụi nó chỉ nói cho đẹp như vậy thôi, nhưng nếu cần chết thì tụi nó đem con của nguỵ ra làm bia đỡ đạn cho chết hết, khỏi phải lo hậu hoạn. Em đừng có lo, tụi anh sẽ không chết đâu, tụi anh cũng có tính với nhau rồi, qua đó sẽ nhân dịp này mà chạy tuốt tới Thái Lan xin tỵ nạn đó thôi. “

Từ khi các anh bạn cùng xóm này ra đi, tôi có nghe là chiến trận ở bên Căm Pu Chia rất lớn, bộ đội chết nhiều lắm.Năm tháng trôi qua thật nhanh, tôi có để ý dòm chừng nhưng không thấy những anh bạn cùng xóm trở về.Tôi cầu chúc cho họ được tới bến bờ tự do, đừng có về cùng với bác Hai Phước, với ba của tôi ở dưới suối vàng. Năm nay tôi đã 16 tuổi rồi, chắc thế nào cũng tới phiên tôi đi nghĩa vụ, chắc chắn tôi sẽ theo gót những anh đi trước để vuợt biên qua Thái Lan.

Tôi không nhớ rõ là ngày nào của tháng 9 năm 1980, chỉ nhớ là buổi chiều hôm đó, khi dọn hàng cho mẹ tôi về nhà, tôi để ý thấy có một người rất là ròm, bận cái áo trắng mang đôi dép ny lông cũ lắm rồi, đang đứng gần cửa nhà tôi mà dòm vào trong nhà. Khi tôi dòm lại thì người này bỏ đi. Tôi nghi đó là đám công an khu vực muốn rình mò điều gì đó trong gia đình tôi, hoặc là đám trộm cướp thấy gia đình tôi buôn bán thì muốn ra tay cướp bóc. Tôi không nói với mẹ nhưng để ý dòm chừng. Khoảng gần đêm, tôi nghe có tiếng gõ cửa, cả nhà tôi đứng tim lo sợ, tôi háy mắt cho hai đứa em, mỗi đứa cầm một khúc cây đứng hai bên cửa rồi mới lên tiếng :

“Ai đó ?”

Ở phía ngoài không nghe động tịnh gì hết . . .Một hồi sau tôi mới lắng nghe được một giọng nói thật là nhỏ:

“Con nè . . .má ơi . . .con là Lý nè . . ”

Bà nội tôi la lên:

“Phải thằng Tư đó hông . . ?”

Tôi suy nghĩ thật mau: Người ở ngoài đó không phải là Công an, vì Công an vô nhà chúng tôi chẳng có gõ cửa bao giờ, và ăn cướp thiệt thì . . .phá cửa vô nhà chứ cũng không gõ cửa. Tôi mau mắn mở bung cánh cửa, ở ngoài bóng tối một bóng người lao vào thật nhanh . . .đúng là cái người mà tôi dòm thấy mới buổi chiều này.

Người này vào tới nhà thì đứng xững dòm bà nội tôi mà khóc:

“Má ơi . . .con là thằng Tư Lý nè . . .”

Bà nội tôi la lên nho nhỏ:

“Con đó hả con . . .Con về rồi đó hả con . . .”

Mẹ tôi hối hả kêu tôi:

“Đóng cửa lại . . đóng cửa cho mau . . ”

Rồi mẹ đưa tay tắt ngay ngọn đèn lớn . .

Thì ra đó là chú Tư Lý của tôi.Chú mừng rỡ ôm lấy bà nội, mẹ tôi và bác Hai Phước cũng chạy lại ôm lấy chú mà khóc rấm rức. Một hồi sau bà nội mới buông chú ra mà hỏi :

“Con được về hồi nào mà không cho mẹ hay đặng mẹ đi đón con cho đỡ cực ?”

Chú Lý nói nhỏ:

“Con trốn về đó má ơi. Tụi nó nhốt con ở tuốt vùng Cổng Trời, gần biên giới Trung Cộng lận. Sẵn dịp tụi nó lo di tản tụi con đi nơi khác, tụi con trốn trại băng qua Lào qua Căm Pu Chia về đây đó má ơi . . .Con về nhà từ hồi chiều, có thấy chú này chở chị Ba Thành vô nhà, nhưng con không biết chú này là ai, nên không dam vô liền, phải chờ tới tối mới dám vô, để đừng có ai thấy.”

Mẹ tôi đang khóc cũng phải cười:

“Chú nào ! Đó là thằng Hùng, cháu của anh đó chớ ai. Hồi nhỏ anh bồng nó hoài mà không dòm ra nó sao?Hùng, con chào chú Tư đi con.”

Tôi lật đật ra dấu cho hai đứa em, cùng nhau khoanh tay cúi đầu chào chú Lý.

Chú Lý ôm lấy tôi cười mếu:

“Trời đất ơi ! Thằng Hùng đó hả ? Con mau lớn quá chừng đi, chú đâu có nhìn ra con !”

Mẹ tôi lấy quần áo của tôi ra, hối chú Tư đi lo đi tắm rửa cho sạch sẽ để mẹ lo dọn đồ ăn ra cho chú ăn. Chú vừa ăn vừa kể chuyện bị đi tù cho bà nội và cả nhà nghe. Cuối cùng, chú nói với mẹ tôi:

“Hồi em đi, thằng Hùng này nói nói với em là “Chú ráng sống mà về lo cho bà nội, nên em mới ráng mà sống đó, bạn bè em tụi nó chết nhiều lắm, chị ơi. Mình không sống với tụi Việt Cộng này được đâu, phải lo vượt biên cho mau.”

Mẹ tôi vui mừng trả lời chú :

“Cũng nhờ lời chú nói mà thằng Hũng cũng ráng sống, ráng phụ với chị mà lo nhà cửa, đáng mặt con trai lớn trong nhà lắm đó. Bà nội với hai chị đây cũng muốn cho nó vượt biên lắm, ngặt em chưa về nên chưa dám quyết định thôi.Bây giờ em về rồi, thì chắc chắn là chị sẽ lo cho hai chú cháu vượt biên cho mau.Em trốn trại, đâu có thể ở đây lâu được.Thằng Hùng cũng đã tới tuổi bị tụi nó thẩy vô nghĩa vụ đi hứng đạn ở Căm Pu Chia rồi, phải vượt biên cho gấp mới mong sống.”

Bà nội quyết định cho chú Thế và tôi đi vượt biên.

Các chú các cậu khác cũng cùng nhau hùng tiền về Cần Thơ, tới nhà người bà con nhờ giới thiệu chỗ quen biết để xin chuyển “hộ khẩu” đóng ghe đánh cá. Trong thời gian đóng ghe, chú Lý tập lái trên một chiếc ghe khác, tập coi địa bàn, còn tôi thì tập cột ghe, tập quăng lưới cho nhuần nhuyễn.

Ghe đóng gần xong là chú Tư về Saigòn đưa bà con xuống Cần Thơ sống cho quen đường quen xá và cũng để sửa soạn ra quân. Lần đánh cá đầu tiên chú Tư gom hết cả nhà bốn chục mạng hết thẩy đưa lên ghe vọt luôn ra biển.

Tôi đã phơi sương phơi nắng gần nửa năm trời, tưởng là đã thành thủy thủ chuyên nghiệp, ai dè mới ra tới cửa biển là tôi bị sóng nhồi té lên té xuống, ói mửa quá trời quá đất. Nằm chèm bẹp dưới sàn ghe, tôi mới nghĩ ra rằng, từ hồi đó tới giờ tôi chỉ tập quanh quẩn trên sông, đâu có sóng gió gì đâu, nay ra tới cửa biển, nơi nước sông đụng nước biển, sóng gió nổi lên ầm ầm, tôi bò còn không vững, nói chi tới quăng dây cột dầm. Tới ngày thứ hai thì ghe đã ra tới hải phận quốc tế, tôi mới đứng vững được chút đỉnh. Chú Tư cho tôi ăn chút cháo, tôi mới có sức mới đi tới đi lui trên ghe. Qua tới ngày thứ ba thì trời yên mây tạnh, gió biển thổi thật là mát, sóng nhẹ nhẹ đẩy con ghe đi tới thật là êm. Tôi ngồi trên ghe ngắm trời ngắm biển ăn uống no nê huởng gió mát tứ bề. Vượt biên kiểu này, có đi lần nữa tôi cũng xin đi.

Tới chiều ngày thứ tư, những thủy thủ chính hiệu có cặp mắt rất là sắc bén đã nhìn thấy đất liền từ phía xa thật xa, tất cả mọi người trên ghe đều vui mừng hớn hở. Tới tối thì đã thấy ánh đèn ở phía xa xa, ai cũng mong cho chóng tới nơi để lên đất liền. Bàn tán một hồi, những người có kinh nghiệm cho biết rằng, không nên đâm ghe vào đất liền buổi đêm, vì đây không phải là nơi ghe thuyền đậu bến, có rất nhiều đá ngầm, lỡ ghe chìm thì chết cả đám, trong khi công lao cực khổ đã tới bến bờ tự do rồi thì chết uổng mạng lắm. Do đó, tất cả các người lớn đồng ý là neo ghe lại, tắt máy ngủ đêm tại chỗ, sáng sớm mai sẽ đi vào đất liền. Chú Tư có ý kiến là cứ để máy ghe chạy, vì máy dầu chạy xuốt ngày đêm không sợ bị nóng máy, nếu tắt đi, lỡ ngày mai máy không nổ thỉ làm sao mà vô bờ. Những người khác lại không đồng ý, vì để máy chạy làm sao mà ngủ? Hơn nữa, tiếng máy sẽ rất lớn và mùi dầu cặn sẽ bay lên đầy ghe, làm sao mà thở. Cuối cùng, mọi người đồng ý tắt máy ghe để ngủ cho ngon. Máy ghe tuy là máy cũ, nhưng đã được . . .làm mới lại rồi, chắc chắn sẽ không có chuyện gì phiền phức, cho dù là máy không nổ, trên ghe cũng có thợ máy để sửa.

Tôi nôn nóng lên bờ để có thể gởi thơ về nhà cho mẹ tôi, cho bà nội, cho bác Hai nên cả đêm không ngủ được. Tới gần sáng tôi mới thiếp đi dược một chút thì chú Tư đã đánh thức tôi dậy ăn bữa ăn cuối cùng trên ghe để sau đó chạy thẳng vào bờ mà chú tính ra vào khoảng buổi chiều mới tới.

Tôi ăn không vô vì không thấy đói bụng, chắc là tại tôi nôn nóng vào bờ quá, nhưng cũng ráng ăn một chén cơm dằn bụng. Tất cả mọi người trên ghe đã ăn xong hết rồi, ai nấy hăm hở chờ nổ máy chạy vào bờ nên hè nhau tìm chỗ ngồi ở trên sàn ghe, trên cabin ghe chứ không ai muốn xuống dưới hầm nữa. Chú thợ máy kêu tôi xuống hầm phụ ông nổ máy ghe, xuống tới nơi, chú lo chăm dầu thêm, tôi lo thăm chừng cái máy bơm nước. Xong xuôi, chú thợ máy bắt đầu quấn dây dựt chạy máy ghe. Chú dựt hai lần . . .ba lần . . .bốn lần . . .năm lần . . .mà máy vẫn không nổ, chú ngừng dựt máy lau mồ hôi chẩy đầy trên mặt. Tôi thấy vậy mới nói để tôi phụ dựt máy thế, tôi dựt cũng mỏi tay mà máy cũng không chịu nổ. Chú thợ máy đổi qua cái máy ghe phụ, cũng không có kết quả, chú trở qua cái máy lớn, lấy chìa khoá ra mở bù long tháo con heo dầu ra thăm chừng : Con heo dầu không bị hư hại gì cả, kim dẫn dầu cũng không bị cong. Chú ráp máy lại qưấn dây dựt tiếp, nhưng máy vẫn không nổ, chú lại phải tháo máy ra mà tìm đầu mối bị hư.

Lúc này ghe đã nhổ neo rồi, nên cứ quay vòng vòng rồi trôi theo những đợt sóng đánh, làm cho việc tháo ráp bù long càng khó hơn. Những người ở trên sàn ghe không thấy ghe nổ máy, bắt đầu đi xuống phòng máy thăm chừng, khi thấy ghe không nổ máy được thì nhốn nháo cả lên, người chỉ cách này, người chỉ cách khác um xùm cả chiếc ghe, chú thợ máy không sửa được máy nổi quạu đuổi hết mọi người lên ghe cho ông có đủ chỗ sửa máy. Tôi ngồi trên bậc thang đầu tiên của hầm máy, nhìn chung quanh, tất cả mọi người không ai còn vẻ hăng hái của lúc sáng sớm nữa, ai nấy tụm năm túm ba nói chuyện về cách thức sửa máy ghe.

Nguyên một ngày trời, con ghe vượt biên của chúng tôi không có cách nào vào bờ, bóng dáng của đất liền cứ từ từ mờ dần trong tầm nhìn của tôi, chẳng ai biết vị trí chiếc ghe hiện đang ở đâu? Đến tối mịt, trong hầm máy đã tăng cường thêm bốn năm người thợ phụ nữa mà vẫn không có cách nào để làm cho hai cái máy ghe nổ trở lại.

Ngày hôm sau, chú Lý đã bàn tính với mọi người đổ dầu ra cái chảo nhỏ, đốt lên để làm hiệu báo cho những chiếc ghe khác ở gần đó tới cứu. Lửa vừa cháy được một chút thì có một số người đòi tắt lửa đi, vì nếu đốt lửa, lỡ bọn hải tặc biết vị trí của mình mà đến cướp thì làm sao mà chống lại được? Chú Tư Lý lúc đó mới móc đồ nghề trong hầm ra cho mọi người thấy : Chú có một khẩu M 16, ba băng đạn và hai trái lựu đạn. Chú bảo đảm với mọi người là nếu có hải tặc, chú sẽ dư sức đối phó, lúc đó mọi người mới yên tâm để chú châm thêm dầu mà đốt lửa cho lớn.

Qua hết một ngày đốt lửa mà cũng chẳng có con ghe nào đến cứu, chú Tư không dám đốt dầu tiếp, vì sợ lỡ hết dầu chạy máy (dù rằng máy ghe chưa chịu nổ). Chú đề nghị xé áo ra làm mồi đốt. Lúc này không có ai phản đối nữa, mà có người lại còn nói rằng, dù là hải tặc có tới đi nữa, miễn là họ sửa dùm máy ghe cho nó nổ lại là được rồi, dù họ có không cướp, trên ghe cũng gom vàng lại mà tặng cho họ.

Qua ngày thứ ba cũng không có chiếc ghe nào tới cứu chiếc ghe của chúng tôi, trên ghe vẫn còn đủ gạo và nước nên mọi người cũng không đến nổi hoảng hốt, nhưng những người lính như chú Tư bắt đầu bàn tán tìm cách này cách kia. Chú thợ máy sửa hoài mà cái máy vẫn không nổ, chú chán ngán bỏ lên sàn ghe buồn bã nhìn chung quanh rồi vô phòng tài công, hỏi con chiếc ghe bây giờ đang ở đâu? Chú Tư cho biết, cứ theo hướng gió, chắc là ghe sẽ bị trôi về . . .Việt Nam.

Chiếc ghe của chúng tôi ngày này qua ngày khác cứ thế mà trôi đi theo những đợt sóng, tới khi vừa hết nước ngọt thì chúng tôi cũng đã nhìn thấy đất liền. Tất cả mọi người ào về phía đất liền chăm chú nhìn, mỗi người nói một câu:

"Có thể là . . . Thái Lan đó . . . chú Tư ráng bẻ lái cho ghe vô đất liền đi."

"Coi chừng là đảo Phú Quốc hay là Côn Sơn đó . . . mình bị gió thổi ngược chiều mà, làm sao tới Thái Lan được !"

Chiếc ghe càng ngày càng trôi dạt vào gần bờ. Khi thấy đủ tầm nhìn, chú Lý đã lấy ông nhòm ra điều chỉnh, im lặng đưa ống kính nhắm vào bờ vừa quan sát vừa nói với mọi người:

"Tôi thấy lá cờ mầu đỏ đang bay. Vậy đó là xứ Cộng sản chứ không phải xứ Thái Lan,vì cờ Thái có ba mầu đỏ trắng và xanh biển. Hãy coi kỹ coi là cờ đỏ này là của nước nào? Không thấy rõ . . . Nhưng mà tôi thấy . . . đám đàn ông bận sà rông . . ."

Chú Lý bỏ ống nhòm xuống, buồn bã nói với mọi người xung quanh:

"Đó là xứ Căm Pu Chia, vì tôi thấy đàn ông bận sà rông chứ không bận quần như dân Thái và dân mình."

Nhiều tiếng thở dài vang lên:

"Trời đất ơi . . . Vượt biên gì kỳ cục vậy . . . tới bờ biển Thái Lan rồi mà lại bị trôi về Việt Nam."

"Ai ra lệnh cho tắt máy ghe để rồi máy bị hư luôn không vô bờ được?"

Chú Tư ra mũi ghe nhìn xuống biển một lúc rồi kêu lớn cho mọi người nghe:

"Cái điệu gió thổi cỡ này, chắc chắn ghe sẽ bị mắc cạn vào đám đá ngầm và bị lũng ghe. Bà con ráng kiếm cách làm phao mà bơi vào bờ . . . chà . . . bờ đá này xa lắm, lại có đám cây đước nữa, nhọn lắm . . . Khó vô lắm nha."

Mọi người bàn tán xôn xao, mỗi người một ý. Có người muốn ở lỳ trên ghe này, tới đâu thì tới. Có người lại muốn nhẩy xuống biển bơi vào bờ. Chú Tư Lý và mấy người cậu của tôi ngồi chùm nhụm một chỗ bàn tán nho nhỏ. Cuối cùng, chú tập họp tất cả mọi người lại mà thông báo:

"Ghe của chúng ta bị hư máy, không sửa được, nên đáng lý là chúng ta tới Thái Lan bình yên thì lại bị gió thổi về Căm Pu Chia và có thể bị thổi trở lại Việt Nam. Những anh em lính Cộng Hòa hãy suy nghĩ cho kỹ, nếu để bị bắt, sẽ không có ngày trở ra đâu. Do đó, nếu muốn, anh em có thể nhân đêm tối bữa nay nhẩy xuống biển lội vô bờ rồi tìm đường bộ đi về Việt Nam. Đàn bà con nít có thể cứ ở lại trên ghe để được gió thổi đưa về Việt Nam, chắc là sẽ không bị bắt đâu. Mà nếu có bị bắt, thì cũng chỉ giữ vài tháng là trả ra ngay thôi. Nhớ đừng có khai tên ai hết, cứ nói những người bạn rủ đi chung, họ đã trốn hết rồi, không biết tên, không nhớ mặt."

Nghe chú Tư nói, mọi người hoảng hốt hết cả lên, tôi còn nhỏ, tuy. . . chưa biết sợ nhưng cũng cảm thấy hoang mang . . .

Một lúc sau, chú Lý đến bên tôi, nói nhỏ:

"Mình vượt biên mà không thoát, xui quá. Chú không thể để cho tụi Việt cộng bắt, do đó, chú và các cậu của con sẽ nhẩy xuống biển mà lội vào trong đất liền rồi kiếm đường về nhà. Cháu có dám . . . nhẩy xuống biển theo chú không?"

Tôi nhìn xuống biển đen ngòm và xâu thẳm, rùng mình nói với chú:

"Con . . . sợ lắm."

Chú Lý nắm lấy vai tôi thông cảm:

"Cháu còn nhỏ lắm, chú không nghĩ cháu có đủ sức lội vào bờ, vì mình còn ở xa bờ lắm. Từ bờ đi vô, còn có đám rừng tràm nữa, con đi không nổi đâu. Thôi, con cứ ở trên ghe với các cô các dì đi, sẽ không bị nguy hiểm gì đâu. Nếu có bị bắt, con còn quá nhỏ, công an không có làm khó dễ con đâu. Con nhớ đừng có khai tên chú và mấy cậu nha con."

Thế là tất cả những đàn ông ở trên ghe (trừ những người không biết lội) đều cùng nhau nhẩy xuống biển lội vào bờ ngay đêm hôm đó.

Cuối cùng, chiếc ghe của chúng tôi cũng trôi về tới Việt Nam. Ghe mắc cạn còn xa bờ nên đám du kích phải đem xuống ra chở mọi người vô bờ.

Khi họ hỏi tôi ở đâu? Đi vượt biên với ai? Tôi khai cha mẹ gởi có một mình tôi đi vượt biên mà thôi, chứ không quen biết ai hết. Còn địa chỉ thì tôi khai địa chỉ của đứa bạn đã cùng cha mẹ vuợt biên từ lâu rồi. Bọn Công an nhốt tôi ba tháng thì thả ra, đưa tiền cho tôi mua vé xe đò về Saigòn.

Tôi về đến nhà, kể lại câu chuyện vượt biên cho bà nội, cho mẹ nghe, ai cũng tiếc cho cuộc vượt biên quá dễ dàng mà cuối cùng lại không thành công, và ráng chờ tin chú Tư Lý. Ba tháng sau đó, chú Lý mới tìm đường về được tới nhà. Cũng may, tính lại, không có ai trong đám chúng tôi bị chết hoặc mất tích hết. Chú Lý cho bà nội hay, chú đã thông thuộc đường lối, chú sẽ đi vượt biên một lần nữa qua ngả Căm Pu Chia tới Thái Lan, nhưng không thể dẫn tôi theo, vì đuờng xá xa xôi, nguy hiểm, tôi thì lại còn nhỏ, khó xay trở mà lại dễ bị bắt.

Một năm sau, bà nội và mẹ lại tìm đường cho tôi vượt biên lần thứ hai. Lần này tôi đi từ U Minh Thượng, và chỉ có mình tôi đi thôi.

Chiếc ghe kỳ này lớn hơn ghe của gia đình tôi lần trước, số người vượt biên cũng đông hơn và tôi không có quen biết ai hết.

Ngay khi tới hải phận quốc tế là ghe của chúng tôi đã gặp ghe đánh cá của Thái Lan rồi. Chiếu ghe đánh cá này lớn lắm, họ chạy cách xa ghe của chúng tôi một đỗi rồi mới xáp lại gần cho nguời qua ghe của chúng tôi làm quen, cho đồ ăn, nước uống rồi hứa đi trước dẫn đường cho chúng tôi tới Thái Lan. Trên ghe, ai cũmg mừng rỡ, tường chừng kỳ vượt biên này thật là may mắn, mới ngày đầu tiên đã coi như thấy đuợc trại tỵ nạn rồi.

Nhưng khi đêm đến, khi chúng tôi đang ngủ thì ghe Thái Lan đã mở đèn sáng trưng, áp sáp lại gần rồi cả đám thủy thủ cầm dao búa nhẩy ào sang ghe của chúng tôi. Dưới ánh đèn, chúng chia đàn ông đàn bà qua hai bên, lục soát thật kỹ từng người, kể cả trẻ em, để tìm vàng dấu trong người. Khi đã lấy hết những gì chúng có thể tìm được, bọn chúng lùa tất cả đàn ông qua ghe của chúng, tống tất cả vào phòng lạnh chứa cá đóng cửa lại nhốt chúng tôi ở trong đó. Nhiệt độ trong phòng lạnh thật là thấp để ướp cá làm cho chúng tôi chịu không thấu, ai cũng lạnh rung lên cầm cập.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, chúng mới mở cửa lùa chúng tôi về ghe, ai nấy bị lạnh thấu xương, đi không muốn nổi, người này dìu người kia mà lần bước đi về. Ai không đi nổi, chúng khiêng liệng đùng đùng xuống sàn ghe, thẩy cho mấy thùng nước cùng đồ ăn khô và mấy can dầu rồi xả máy chạy mất.

Khi về tới ghe thì cảnh tượng đầu tiên mà chúng tôi thấy là những người đàn bà đều nằm la liệt trên sàn ghe, ai cũng có vẻ như bị thương, có người mặc quần áo xốc xếch, có người chỉ còn cái áo trên người, có người chỉ còn cái quần, có người nằm bất động không mặc quần áo gì cả. Đám con nít thì bị nhốt ở duới hầm ghe đang la hét thất thanh đòi mẹ đòi cha . . .

Những người chồng, người cha, người bạn trai của họ chợt hỉểu, cơn tức giận nổi lên bừng bừng làm tan biến hết cả những lạnh giá trên thân thể, họ hốt hoảng chạy đến bên người thân của mình mà săn sóc.

Tiếng khóc tiếng rên la vang lên khắp nơi.

Tôi rùng mình đứng nhìn cảnh tượng xẩy ra mà không thể tưởng tượng được sự tàn nhẫn của con người đối với con người.

Chiếc ghe của chúng tôi vẫn nổ máy, vẫn chạy trên biển, nhưng không một ai trong chúng tôi muốn đi đâu nữa, người tài công cứ để cho chiếc ghe muốn chạy hướng nào thì chạy.

Qua được một ngày êm đẹp, tới buổi sáng hôm sau, khi chiếc ghe của chúng tôi vẫn chưa hoàn hồn sau lần bị cướp đầu tiên thì chiếc ghe đánh cá thứ hai đã xuất hiện. Bừng bừng tức giận, nghẹn ngào đau đớn vì lần bị cướp của hiếp người đầu tiên, tất cả đàn ông trên ghe chúng tôi đều tự tìm võ khí cho mình sẵn sàng chống lại đám cướp biển.

Đám giặc cướp thứ hai này tỏ ra hung tợn hơn đám thứ nhất rất nhiều, từ đằng xa, chúng đã thấy chúng tôi sửa soạn chống cự lại nếu bọn chúng cặp ghe vào, nên chúng dùng chiến thuật khác: Từ đằng xa, chúng cho ghe chạy thật nhanh đụng ngay vào hông ghe của chúng tôi. Tài công của ghe vượt biên thấy vậy ráng hết sức xả ga lách qua bên trái để né, nhưng ghe của chúng tôi chạy chậm, tài công không còn cách nào thoát, đành để chiếc ghe bị đụng một cú như trời giáng, tất cả mọi người đều phải bỏ võ khí mà ôm chặt lấy thuyền để khỏi bị văng khỏi ghe. Chúng tôi chưa kịp lấy lại thăng bằng thì đám giặc cướp đã nhào lên ghe hươi mã tấu chém vào bất kỳ cái gì trước mặt chúng. Máu thịt chẩy đầy trên sàn ghe. Một số đàn ông trên ghe đã đứng vùng lại được, đưa dao chống cự lại, một bên nhất quyết bảo vệ vợ con và mạng sống, bên hải tặc nhất quyết hạ thủ cho bằng được đám người vượt biên để chiếm đoạt tài sản và các phụ nữ trên ghe. Tiếng la hét kêu tiếng khóc vang lên khắp nơi/ Tôi chỉ có một cái mái chèo ở trên tay, cũng cố gắng đánh hết sức mình vào tên giặc cướp trước mặt, tên này không thèm đỡ mà đưa dao chém thẳng vào khúc cây của tôi rồi đá tôi một cái văng vào cabin, đầu tôi bị đập vào khung cửa nghe một cái “Bộp” thật mạnh, tôi ngất xỉu không còn biết gì nữa.

Tôi tỉnh dậy là vì có những giòng nước chẩy lên mặt tôi. Tôi vuốt mắt ngồi lên, nhìn vào tay thấy toàn là máu. Tôi hoảng hồn cố lách mình qua một bên, thân hình người chết lại một lần nữa rơi hẳn vào người tôi. Tôi hét lên kinh hoàng cố đẩy cái xác chết ra khỏi người mà vùng đứng dậy chạy thật nhanh. Trên sàn ghe, xác người nằm la liệt, có xác còn đầu, có xác mất đầu, có những khúc chân, khúc tay văng đầy sàn. Tôi cố gắng không xỉu để nhìn chung quanh xem còn có ai sống sót hay không? Đa số đàn ông đều bị thương, một số bị chết, còn đàn bà, cũng như lần cướp đầu tiên, có người còn quần áo, có người không, nằm rên la thảm thiết.

Tôi cố gắng lết đi tìm người tài công mà không thấy ông ta ở đâu hềt, chắc là thân xác của ông đã nằm trong đám thịt xương trên sàn ghe. Tôi lật một thân người còn cử động lên, đó là người chủ ghe, ông ra dấu nhờ tôi kéo ông ngồi lên và chỉ cái xác người vợ ông nằm cách đó không xa mà rơi nước mắt khóc không ra tiếng. Môt vài người còn sống cố gắng lê lêt đến chỗ chúng tôi để cùng tìm cách đi cứu những người bị thương và những người đàn bà con gái.

Kiểm lại, còn hơn một chục người đàn ông trên ghe, chúng tôi bắt đầu dọn dẹp sàn ghe. Những người chết, chúng tôi lạy mỗi người một lạy rồi xô xác của họ xuống biển, múc nước ở dưới hầm lên mà xối trên sàn cho trôi máu đi. Người bị thương thì chỉ để nằm im đó, xé áo xé quần mà băng bó cho họ thôi chứ đâu có thuốc men gì mà xức, mà uống. Những người đàn bà đã tạm hồi phục, ôm nhau khóc rấm rức, đám con nít sợ hãi chui hết cả vào cabin, không dám khóc, đám đàn ông cũng ngồi chùm nhụm lại với nhau, không ai nói với ai một lời nào. Chiếc ghe không người lái cứ thế mà quay cuồng theo những làn sóng biển đánh liên tiếp lên ghe.

Tôi bó gối ngồi một mình nhìn ra biển cả mông mênh. Lần vượt biên đầu tiên, chú Tư Lý sửa soạn đầy đủ súng đạn nhưng ghe tới Thái Lan thật là an toàn, không hềt gặp bất cứ một tên hải tặc nào, cũng không hề có sóng biển cao vòi vọi, lần vượt biên này hải tặc đâu mà cùng hết mọi hướng, hết bọn này tới bọn khác. Phải chi có chú Tư Lý của tôi ở đây, chỉ cần một mình chú bắn vài phát đạn cảnh cáo với khẩu M16 dũng mãnh của chú, cũng đủ làm cho bọn cướp sợ hãi mà bỏ chạy mất tiêu rồi, vì bọn chúng chỉ có mã tấu dao phay và số đông người mà thôi, chứ không hề có súng đạn gì cả. Với cái điệu cướp của giết người này, với đám hải tặc dầy đặc bao quanh như thế này, tôi không chắc là chiếc ghe của chúng tôi có thể đến đuợc bến bờ tự do. Chỉ cần một đám hải tặc nữa chém giết phá phách như lần này thì đám dân vượt biên chúng tôi sẽ chẳng còn ai sống sót, chiếc ghe nhỏ bé của chúng tôi sẽ tan ra thành mây khói hoặc chìm lỉm xuống biển cả mêng mông. Tôi muốn tìm cách nào để báo tin cho mẹ tôi, cho bà nội, cho bác Hai . . .

Tôi muốn tìm cách nào để nhắn tin cho những người đang có ý định vượt biên như tôi hãy tìm đường khác mà đi, đừng đi qua vùng biển Thái Lan này nữa . . . nhưng tôi làm cách nào để báo tin cho gia đình tôi, cho những người đang sửa soạn vượt biên bây giờ? Tôi nhớ lại có nhiều người đã dùng một cái chai bỏ thơ của mình vào trong đó đóng nắp lại thả trên biển, tôi cũng muốn làm như vậy, nhưng giấy ở đâu ra mà viết? Chai ở đâu ra mà thả ?

Tôi còn quá nhỏ để hiểu tự do là gì? Nhưng nếu mà nói những người trên ghe này đang đi tìm tự do, thì cái giá mà chúng tôi phải trả để tìm được tự do thật là quá khủng khiếp, quá phũ phàng. Có những người đã chết trước khi hưởng được cái tự do mà họ mong muốn, họ đi tìm . . .

Tự Do . . .Ôi . . .Tự Do . . .

Qua được ba ngày yên tĩnh, mặc dù chúng tôi đã thành tâm cầu nguyện, đám hải tặc thứ ba vẫn cứ xuất hiện.

Một, hai người đàn bà can đảm đã đến trước mặt chúng tôi, xin chúng tôi đừng chống lại đám hải tặc nữa, họ đã lỡ bị làm nhục rồi, thì có bị làm nhục một lần nữa cũng đành cam chịu cho số phận phũ phàng, còn hơn là lại nhìn thấy những người thân bị chết thảm. Chưa bao giờ những người đàn ông trên ghe cảm thấy hèn hạ như lúc này, nhưng chúng tôi biết làm gì bây giờ? Trong tay không một tấc sắt mà bọn hải tặc thì dao búa đầy người và lại quá hung tợn!

Bọn cướp đã lên ghe, nhìn chung quanh, nhìn thân thể những người đàn ông đầy những vết dao chém, nhìn những vũng máu khô còn đọng rõ nét trên sàn ghe, chúng biết rằng chiếc ghe chẳng còn gì cho chúng cướp nữa, và những người đàn ông trên ghe cũng chẳng là mối đe dọa nữa, nên đám hải tặc này cứ điềm nhiên bắt những người đàn bà trên ghe, lột quần áo của họ ra mà hiếp họ ngay trước mắt chúng tôi. Nhục quá, chịu không nổi, chúng tôi ào lên lôi chúng ra khỏi những người đàn bà mà xô chúng xuống biển. Một người chồng khi thấy vợ mình sắp bị một tên cướp làm nhục, ông đã hét lên một tiếng phẫn nộ, nhào lại cướp cây mã tấu của tên cướp để bên cạnh mà chém mạnh một dao vào hắn. Bọn cướp biển ùa lại vây kín người chồng mà chém anh ta tơi bời. Những tên còn lại vung mã tấu tấn công chúng tôi, rược chúng tôi chạy quanh ghe nhất định giết hết đám đàn ông đã cản trở chúng. Không còn đường nào thoát, chúng tôi đành phải nhẩy bừa xuống biển thoát thân, bọn hải tặc cười lên sằng sặc, chia nhau đi quanh ghe chém xuống mỗi khi thấy chúng tôi tìm cách leo lên.

Khi rời ghe, bọn hải tặc đã đem theo tất cả những gì chúng có thể lấy được kèm theo bốn cô gái trên ghe.

Chúng tôi vừa phải chống chọi với sóng gió, vừa phải cứu những người không biết bơi, ngơ ngác bất lực nhìn lên những cô gái đáng thương mà không có cách nào bảo vệ cho họ. Những cô gái cũng nhìn lại chúng tôi với ánh mắt thảm sầu thê lương, cùng chia nhau cái số phận của những kẻ khốn nạn bị dồn đến từng cuối cùng của địa ngục. Những ánh mắt này đã ám ảnh tôi cho mãi đến bây giờ tôi vẫn không thể nào quên được.

Ghi chú: Sau này, khi đến được trại tỵ nạn, thân nhân của các cô gái đã nhờ Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế và Cảnh sát Thái Lan đi tìm tông tích những người này, nhưng tìm khắp các xóm chài, các nhà chứa, cũng không tìm được các cô gái này. Có thể họ đã bị giết chết hết cả rồi.

Chúng tôi cố gắng chống chỏi lại với sóng biển, chờ cho bọn hải tặc đi khỏi mới giúp nhau leo lên ghe trở lại. Tinh thần suy xụp kèm theo những hành hạ về thể xác, những người còn lại trên ghe, vì bản năng sinh tồn, cũng đã ráng hết sức binh sinh để điều khiển chiếc ghe, kềm sóng gió, nhắm hướng Thái Lan mà xả máy chạy càng nhanh càng tốt, hy vọng thoát khỏi đám hải tặc dã man tới được bến bờ tự do sớm chừng nào hay chừng nấy. Bọn hải tặc trước khi ra đi, cũng đã làm một hành động coi như thí ân cho chúng tôi một ít đồ ăn và nước uống, nên chúng tôi không bị đói khát, cứ ráng sức mà chống chọi với thiên nhiên.

Nhưng số mạng chiếc ghe của chúng tôi vẫn còn nhiều gian truân lắm.

Chỉ vài ngày sau, chúng tôi lại phải đối đầu với một chiếc ghe hải tặc khác.

Gặp quá nhiều hải tặc rồi, chúng tôi đã trở thành chai đá, bọn hải tặc lên ghe chúng tôi, chúng muốn làm gì thì làm, muốn cướp gì thì cướp, vì chúng tôi đầu còn gì nữa đâu! Khi thấy không còn gì để cướp nữa, bọn chúng đã hè nhau tháo bù long ốc vít gỡ máy ghe của chúng tôi đem đi. Không có máy ghe thì làm sao mà chạy ? Làm sao mà đến bến bờ tự do? Chúng tôi đã hết sức năn nỉ, quỳ lạy bọn chứng muốn làm gì chúng tôi thì làm, miễn là đừng gỡ máy ghe, nhưng bọn hải tặc này làm gì có tình người! Chúng la hét dữ dằn, nắm các bà các cô thẩy ra ngoài rồi dùng dao búa hăm dọa bắt chúng tôi lên trên sàn ghe hết để bọn chúng rảnh tay mà gỡ máy đem đi.

Không còn máy ghe, cũng không có tài công, chiếc ghe của chúng tôi bồng bềnh trên sóng nước trôi trên biển cả mêng mông một cách vô vọng. Sóng biển đánh vào ghe, đẩy chiếc ghe tuốt lên tận cùng mây xanh rồi chúi nhũi xuống biển, tưởng chừng như lôi chúng tôi vào những hang xâu vô tận. Chúng tôi gom tất cả những gì còn lại trên ghe đốt lửa lên để kêu những chiếc ghe ở gần đó tới cứu, nhưng không có chiếc ghe nào tới cứu chúng tôi cả, dù đó là những chiếc ghe của hải tặc.

Đến khi không còn gì để ăn, không còn gì để đốt lên kêu cứu nữa, chúng tôi mới gặp được một chiếc ghe đến gần. Chiếc ghe này cũng chỉ là một trong những chiếc ghe hải tặc đội lốt đánh cá mà thôi. Bọn này lên ghe chúng tôi, đi tới đi lui không còn kiếm được bất cứ món đồ hay người gì nữa, chúng hung hãn đốt luôn chiếc ghe của chúng tôi rồi giận dữ bỏ đi, không cho bất cứ một hột gạo lon nước gì cả. Chúng tôi lại phải dùng tàn lực múc nước biển dập tắt ngọn lửa rồi chỉ còn một cách cuối cùng là tụ nhau lại mà cầu nguyện thượng đế xót thương. Chúng tôi ráng sống bằng cách bắt cá, khi nào trời sắp mưa là chúng tôi phải cởi hết quần áo ra mà dăng trên ghe để hứng nước mưa để uống. cuối cùng, không còn gì để ăn, không còn gì để uống, không còn sức lực đâu mà chối chọi với thiên nhiên, chúng tôi cứ từng người . . . từng người giã từ cõi đời . . . đến phiên tôi . . .

Tôi mơ thấy tôi và những người đàn ông trên ghe đã từ dưới biển bay lên đánh gục đám cướp biển mà cứu các cô gái trở về ghe và đưa họ đến bến bờ tự do an toàn . . .

Tôi lại mơ thấy ba tôi trở về với tôi . . . ông đứng nhấp nhô trên làn sóng bạc mà nói:

"Con đã làm hết sức của con nhưng vẫn không thể nào để cứu các cô gái đáng thương. Con đã sống oai hùng thì hãy chết cho xứng đáng nhe con . . .

Tôi đang chìm dần vào đại dương thì lại thấy chú Tư Lý đang quơ súng chạy lại, chú kêu hãy chờ chú một chút . . . chú bắn mấy băng đạn vào bọn hải tặc, rồi còn ném lựu đạn lên tầu của bọn chúng nữa . . . Tôi chìm dần . . . chìm dần xuống đáy biển . . .


***

Hình như có những tiếng động kỳ lạ vang lên chung quanh tôi . . . Tôi nhớ là khi tôi từ giã cõi đời, chung quanh rất là im lặng . . . nhưng bây giờ lại có những tiêng động chung quanh tôi . . . hình như lại có ai đó nắm lấy cánh tay của tôi chích vào người tôi một chất gì đó mà tôi cảm thấy thật là dễ chịu, tỉnh táo . . .

Tôi không tin rằng tôi vẫn còn sống sót, nên khi nghe được những tiếng động ở xung quanh, tôi cứ nằm im mà suy nghĩ xem mình đang ở thế giới nào?

Đến khi có một bàn tay cầm lấy tay tôi lắc lắc, và một giọng nói vang lên:

“À may quá, em đã tỉnh lại rồi hả?”

Đó là tiếng người !

Chắc là tôi vẫn còn sống !

Tôi từ từ mở mắt ra, nhìn lên . . .

Một guơng mặt phụ nữ hiền hậu đang nắm tay tôi mà bắt mạch cổ tay.

Người đàn bà nhìn tôi cười khuyến khích:

“Em đã tỉnh lại rồi hả? Cám ơn Thượng đế đã cho một người nữa trên chiếc ghe định mạng sống lại.”

Thì ra chiếc ghe của tôi đã trôi dạt vào đến một bến bờ nào đó và tôi là một trong những người trên ghe đã được cứu sống. Tôi yếu ớt cất tiếng hỏi chị y tá:

-“Đây là đâu hả chị ?"

-“Đây là bệnh xá của trại tỵ nạn Songkla, có cả thẩy hai mươi ba người trên ghe được cứu. Em là người thứ năm đã tỉnh lại, những người kia chắc là sắp tỉnh lại rồi đó.”

Khoảng một tuần lễ sau đó, tôi mới hoàn toàn tỉnh táo để được biết rằng, chiếc ghe của chúng tôi cuối cùng đã trôi dạt vào vùng biển của Thái Lan và được dân địa phương kéo vào bờ. Trên ghe, trừ một số đã chết, số còn lại đều bị thương và đều ở trong tình trạng hôn mê vì đói khát và kiệt sức. Tất cả đã được đưa vào bệnh viện của trại để săn sóc vết thương cho ăn uống tĩnh dưỡng chờ cho sống lại. Tính ra, từ khi chiếc ghe khởi hành cho đến khi được vớt, chúng tôi đã ở trên biển cả đúng 30 ngày 31 đêm.

Ở trại được một tháng thì tôi được phái đoàn Mỹ tới phỏng vấn.

Những người Mỹ này đều mặc quần áo thường, tất cả nhân viên đều là Mỹ chứ không có người da vàng tóc đen nào. Điểm đặc biệt của họ là, dù họ là Mỹ trắng hay Mỹ Đen, hầu như tất cả mọi người trong phái đoàn đều nói tiếng Việt rất rành rẽ, cử chỉ và cách ăn nói của họ tạo ra một cái gì đó rất là máy móc và kỷ luật. Tôi nhớ lại những cử chỉ và cách hành xử của ba tôi, tôi cho rằng, những người Mỹ trong phái đoàn này, nếu họ không là lính, họ cũng phải thuộc về một tổ chức nào đó rất kỷ luật và thận trọng về lời ăn tiếng nói, chắc chắn họ không phải là những công chức của Bộ Di Trú như cái tên Phái đoàn Di Trú mà họ đang làm việc.

Sau khi kê khai tên tuổi, chụp hình lăn tay rồi, một người Mỹ trắng phỏng vấn tôi, ông giới thiệu tên ông là Tom, tôi đoán chừng ông trạc tuổi ba tôi, nên tôi gọi ông ta là chú. Chú Tom hỏi tôi:

- “Tại sao em lại đi vượt biên?”

- “Thưa chú Tom,vì con không thể sống ở Việt Nam nữa: Gia đình của con bị đuổi nhà, mẹ con không được đi làm, con bị gọi là thành phần con cháu của nguỵ quân bán nước cho Mỹ, nên không được đi học.”

- "Chú đọc hồ sơ của cháu, ghe vượt biên của cháu bị cướp tới bốn lần, bị hải tặc Thái Lan giết, bắt cóc nhiều người, ghe bị lấy mất máy, trôi dạt khắp nơi, gần như bị chết gần hết mới được cứu. Có đúng như vậy không?"

- "Thưa chú, đúng như vậy. Bọn hải tặc rất là tàn ác, tụi nó đã giết những người đàn ông, hãm hiếp đàn bà và còn bắt đi bốn cô gái. Xin chú làm ơn, nếu có thể được, hãy tìm bắt những tên hải tặc này và giải thoát cho bốn cô gái đó. Họ rất là tội nghiệp."

- "Chú sẽ làm bất cứ những gì chú có thể làm để giúp cho những người tỵ nạn và tìm kiếm những người bị bắt, bị mất tích . . . Ba mẹ cháu có cùng đi vượt biên với cháu hay không?

- "Thưa chú không. Má và em của con còn lại ở Việt Nam. Ba của con đi lính Cộng Hoà, bị tử trận ở Hạ Lào năm 1971. Con có người bác tên là Phước, cũng đã tử trận tại chiến trường Chợ Lớn, trong trận Tổng Công Kích Têt Mậu Thân năm 1968.”

- “Cháu có bất cứ một thứ gì đó để có thể chứng minh cháu là con là con của lính hay không?”

- “Dạ có. Đây là tấm thẻ bài của ba con và đây là tấm thẻ bài của bác của con.”

- “Oh ! Magnificant! Làm sao mà cháu có những thứ này?

- “Trước khi con đi vượt biên, bà nội và mẹ đã đeo vào cổ của con hai tấm thẻ bài này. Bà nội nói rằng:

“Con phải đem theo những thứ này để chứng minh con là con, là cháu của những người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Con phải nói cho tất cả mọi người biết rằng, bác của con, cha của con đã tử trận ở chiến trường, để bảo vệ cho đất nước Việt Nam Cộng Hòa.” Và con hãnh diện đã là cháu, là con của những người lính này.”

- “Ba và bác của con thuộc binh chủng nào ? Chức vụ ra sao?”

- “Ba con là Đại Uý Thiết Giáp, khi tử trận vinh thăng Thiếu Tá. Còn Bác Phước thuộc binh chủng Biệt Động Quân, khi tử trận thăng cấp Đại tá.”

- “Ba của cháu thì chú không quen biết, but I knew colonel Phooc! Chú có biết bác của cháu, hồi còn ở quân đội, bác cũng đã có dịp gặp bác của cháu. Tất cả những người Lính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đều là những quân nhân can đảm, đã phục vụ và chiến đấu hết sức mình cho tổ quốc của họ. I admired them.“

- “Con cám ơn chú đã có nhận xét về ba của con, về bác của con và về những người Lính Việt Nam Cộng Hòa.”

- “Cháu là người con trai còn lại của gia tộc họ Đào, chú có nhiệm vụ phải bảo vệ cháu. Nhân danh Chính Phủ Hoa Kỳ, chú chấp nhận cho cháu được định cư tại Hoa Kỳ.”

- “Cháu cám ơn chú, nhưng cháu . . . muốn được định cư ở Úc Đại Lợi.”

- “Sao cháu lại từ chối ? Đây là một vinh dự cho cháu mà! Cháu có biết rằng biết bao nhiêu người muốn đi Mỹ mà chú không chấp nhận hay không? Thôi, chú cho cháu thời hạn một ngày để suy nghi, ngày mai trở lại đây trả lời cho chú.”

Ngày hôm sau tôi trở lại gặp phái đoàn thì được một người Mỹ khác, trẻ tuổi hơn, phỏng vấn tôi. Người Mỹ này cho biết, phái đoàn hôm qua đã hết nhiệm kỳ, đã trở về Bangkok rồi, ông ta là trưởng phái đoàn mới. Ông ta hỏi tôi:

“Phái đoàn Hoa Kỳ của ông Tom đã chấp nhận cho anh được định cư ở Mỹ. Đáng lý ra, sau khi anh từ chối, ông Tom đã đóng hồ sơ của anh rồi, nhưng vì ông Tom có biết tên tuổi của bác của anh, nên ông đã gia hạn cho anh một ngày để suy nghĩ.

Vậy anh đã suy nghi kỹ chưa?”

- “Tôi cám ơn phái đoàn Hoa Kỳ. Tôi vẫn giữ ý định của tôi :

Tôi không đi Mỹ.

Tôi xin được đi Úc.”

- “Anh có biết rằng, nếu anh từ chối đi Mỹ, hồ sơ của anh có thể sẽ bị phái đoàn Mỹ giữ lại để cứu xét, và thời gian cứu xét này sẽ . . . vô hạn định . . . ?”

- “Tôi hiểu là được phái đoàn Hoa Kỳ chấp thuận cho định cư ở Mỹ là một vinh hạnh, nhưng ở Mỹ tôi không có một người bà con nào hết, thì tôi sống với ai? Xin ông hiểu dùm tôi, tôi có người cậu và đứa em trai đã được định cư ở Úc rồi, nên tôi muốn được qua Úc để xum họp với người thân của tôi.”

- "Tôi thông cảm hoàn cảnh gia đình của anh. Nhưng quyết định của anh căn cứ vào hoàn cảnh cá nhân. Còn ông Tom, ông ta quyết định nhận anh định cư tại Mỹ là căn cứ trên lợi ích quốc gia của Mỹ, Do đó, anh sẽ phải đi Mỹ.”

- “Tôi bỏ xứ ra đi cũng chỉ vì muốn được sống một cuộc sống tự do. Nếu chính phủ Mỹ bắt tôi phải theo quyết định của Mỹ, tức là tước đoạt tự do của tôi, tôi phản đối.

Tôi không đi Mỹ. Xin cho tôi được đi Úc.”

Từ đó, hết ngày này qua ngày khác, biết bao nhiêu phái đoàn của các quốc gia như Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi, Pháp, Thuỵ Sĩ, Na Uy. . . tới phỏng vấn người tỵ nạn, tôi không hề được phái đoàn nào kêu lên phỏng vấn hết. Tôi có lên văn phòng trại tỵ nạn để hỏi về tình trạng của tôi, người trưởng trại đã trả lời :

“Hồ sơ của em bị chính phủ Mỹ . . . xù rồi. Một khi bị xù, phái đoàn Mỹ sẽ giữ hồ sơ của em, không giao lại cho phái đoàn nào khác hết, thì làm sao mà em được phỏng vấn nữa!”

Tôi buồn bã bỏ ra ngoài bãi biển đứng nhìn về phía xa. Tôi không biết nhìn về hướng nào để thấy lại quê hương Việt Nam của tôi, trong đó có mẹ tôi, có bác Phước và có bà Nội . . . Tất cả mọi người đều mong chờ tin tức của tôi. Tôi tưởng rằng mình đã chết trên đường vượt biên, nay đã được cứu sống, nhưng vận mạng đen đủi vẫn còn bao chặt lấy tôi . . . Bao giờ tôi mới được đến bến bờ tự do?

Ông Tom có thể có lý do của ông khi nhận tôi đi Mỹ. Có thể ông nghĩ rằng, tôi là đứa con trai duy nhất còn lại trong gia tộc họ Đào, nên ông muốn bảo vệ tôi. Tại ông không biết rõ đó thôi, các anh con bác Hai Phước cũng đều còn sống như tôi, họ đã đi du học ở Pháp từ lâu lắm rồi, và vẫn còn đang ở xứ đó. Cũng có thể ông nghĩ khác . . . ông cho rằng cái chết của bác Phước của tôi còn có nhiều nghi vấn, nên ông không muốn tôi đi đinh cư ở bất cứ đâu, vì có thể sẽ có ai đó lợi dụng tên tuổi của bác tôi mà tạo nên những bất lợi cho người Mỹ, nên ông ta phải ngăn chặn trước, phải cho tôi vào Mỹ để tôi được yên thân, và chính phủ Mỹ cũng khỏi bị phiền phức.

Ở lâu trong trại tỵ nạn, tôi gia nhập toán cấp cứu tiếp nhận những người tỵ nạn mới đến trại. Đa số những người này đều gặp hải tặc, có người còn mạng sống, có người bị chúng giết chết. Những chiếc ghe khác, nếu không bị hải tặc thì cũng bị sóng gió tang thương. Có những chiếc ghe bị cướp của giết người hay bị bắt ngay từ khi chưa rời khỏi Việt Nam, rất ít ghe tỵ nạn đến đảo được an toàn như lần đầu tiên tôi vượt biên. Nếu tính theo cách tính của tôi, thì trong bốn người vượt biên tới Thái Lan, chỉ có một người tới sống sót tới bờ biển của Tự Do.

Tôi cũng được tin có một số hải tặc Thái Lan bị bắt đưa ra tòa và đã bị phạt tù xứng đáng. Tiếc thay, hình phạt tù đó cũng không thể đưa những người bị chết sống trở lại và những cô gái bị bắt cóc được trả về.

Mãi đến khi trại tỵ nạn Songkla bị đóng cửa vào năm 1983, chuyển hết tất cả người tỵ nạn về trại Sikiew, tôi mới được làm lại hồ sơ mới để chuyển trại.

Tới trại Sikiew, tôi được phái đoàn Úc phỏng vấn ngay. Phái đoàn di trú này, tôi rất ngạc nhiên khi thấy đa số đều là những nhân viên . . . tóc đen da vàng mũi tẹt như tôi. Trong khi làm việc, họ nói chuyện cười đùa với nhau rất là thoải mái, làm cho tôi có cảm tưởng họ sống chung trong một gia đình hơn là một phái đoàn chính phủ. Tôi thích thái độ cởi mở và thân thiện của họ.

Nhân viên phỏng vấn tôi nói tiếng Anh và người thông dịch viên (cũng là người tỵ nạn như tôi) dịch ra tiếng Việt cho tôi hiểu.

Ông cũng hỏi tên tuổi, lý do tôi vượt biên và tại sao tôi muốn xin định cư tại Úc?

Khi tôi nói tới hai cái thẻ bài của ba tôi và của bác Hai tôi, người phỏng vấn hỏi liền:

- “Những tấm thẻ bài đó đâu rồi?”

- “Ông Tom còn giữ, chưa trả lại cho tôi”.

- ”Tiếc quá! Đó là một bằng chứng rất quan trọng. Chắc là họ giữ luôn rồi, nhưng tôi sẽ liên lạc với ông Tom để biết chính xác về tin tức của hai cái thẻ bài này. Gia đình của anh có truyền thống yêu nước mà tôi rất khâm phục. Tôi hy vọng anh giữ được truyền thống đó.”

Kết thúc cuộc phỏng vấn, anh ta nói với tôi qua thông dịch viên:

“Anh thuộc loại mồ côi, nên nếu anh được chấp nhận định cư tại Úc, chúng tôi sẽ phải tìm một gia đình bảo trợ cho anh.”

Tôi cám ơn ông và bước ra khỏi phòng, người thông dịch viên ở lại tiếp tục thông dịch cho những người được phỏng vấn sau tôi. Khi ra tới cửa phòng, tôi thoáng nghe tiếng người phỏng vấn tôi nói . . . tiếng Việt với người thông dịch:

“Câu trả lời của anh Hùng dịch như vầy là chưa hoàn toàn đúng.”

Thì ra họ cũng đều biết nói và viết tiếng Việt của tôi, có đều họ không lộ ra mà thôi.

Một tuần sau, danh sách những người được chấp nhận cho di dân qua Úc được phát ra: Tôi đã được chấp thuận cho định cư tại Úc.

Tôi tới Melbourne vào năm 1983 và sống tại đây từ đó tới nay.

Tôi đã bảo lãnh được mẹ tôi và đứa em trai qua Úc sống với tôi, cả gia đình chúng tôi đoàn tụ sống vui vẻ tại Úc.

Cho tới nay, tôi vẫn hãnh diện vì quyết định xin định cư tại Úc.

Tôi chỉ muốn được chính phủ Hoa Kỳ trả lại tấm thẻ bài của bác tôi, của ba tôi lại cho tôi, vì đó là kỷ vật của gia đình.

Tấm thẻ bài của bác Phước là do bà nội tôi cho mượn, tôi phải trả lại cho gia đình bác Phước đang sống tại Pháp.

Tấm thẻ bài của ba tôi, tôi phải giữ, vì tôi hãnh diện là con của một chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà, đã hy sinh mạng sống của mình cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa, Miền Nam Việt Nam.

Nếu ông Tom đọc được những lời này của tôi, mong rằng ông sẽ trả lại tôi hai tấm thẻ bài thương yêu đó cho gia đình tôi.

NGƯỜI VIỆT CỦA TÔI – GIÒNG HỌ ĐỜI THỨ HAI CỦA NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỦA TÔI - LÀ THẾ ĐẤY.



Nguyễn Khắp Nơi

- (Viết theo lời kể của anh Đào Thế Hùng, con của một người Lính Thiết Giáp, cháu của một chiến sĩ Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà )