Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
X

Góc Truyện Tình HOÀI HƯƠNG...

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Lời Tỏ Tình Ở Góc Đường Thiên Lý…


    Lời Tỏ Tình Ở Góc Đường Thiên Lý…
    Thân tặng anh BĐ & qúy quân nhân QLVNCH đã một thời vang bóng trên quê hương chinh chiến.
    Nhất là vùng: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Mộ Đức, Sa Huỳnh, Minh Long… v.v…
    THH
    ***



    Sau ngày Hiền Hoà hân hạnh đạt danh hiệu rực rỡ: Hoa hậu Cây Mùa Xuân tại Sơn Trà – Đà Nẵng, thì Hoà được mời vào làm việc tại Sư-đoàn 2. Phòng 5. Do đó Hoà quen với Thắng, và khi cả phòng đi công tác lên các vùng điạ đầu giới tuyến, Hoà quen biết thêm nhiều anh chị khác tận miền Quảng Ngãi, Mộ Đức, Sa Huỳnh, Tà Biên, vân vân… Hoà đã quen thân một vị sĩ quan đang trú đóng ở tiền đồn Minh Long xa xôi heo hút, giá lạnh, khói lửa liên miên và buồn vô cùng. Anh ấy là Bửu Đan, tính tình Đan trầm lặng, buồn vui ẩn trong nhiều ý nghĩ sâu sắc, và chắc chắn một điều là Đan... cân nhắc thận trọng khi thổ lộ cùng em qua những trang thư gởi từ chiến trường KBC... nghe dễ thương làm sao: “Anh đã bị em ăn trộm trái tim và khối óc từ lúc anh chính thức biết rằng: anh yêu em rất nhiều và chân thật… Hiền Hòa à ”.

    Thiệt tình! Một người đã bị mất trộm cả khối óc và trái tim trên chiến trường, ấy thế mà vẫn sống can trường và dũng cảm oanh liệt trong binh đao khói lửa! Thế mới lạ. Hoà ngây ngất với niềm vui & nỗi nhớ nhung vời vợi... dù anh & em chưa một lần tay nắm bàn tay nhau. Chi lạ rưá!? Rồi thì… dưới bóng mát ven khu rừng già, phía trước mặt là ruộng lúa mênh mông đã gặt hái. Lúc trước có vài lần Hoà đến nơi nầy thì ruộng lúa rợp trời, thân lúa kết quả đơm bông vàng rực, óng ánh dưới nắng, lúa oằng cong ngọn nằm ngã mình lả lơi lên nhau, trĩu hạt no tròn mum múp trông quá dễ thương. Nhờ màu xanh cây lá bên bìa rừng cành cây không rậm lá, lộ ra khoảng trời xanh êm mát mênh mông, lọt nắng vàng tươi qua kẽ cành đong đưa theo gió rì rào lao xao, mà cảnh vật trong vùng chiến tranh đỡ tiêu điều, hoang vu và cô quạnh biết mấy.

    Một chiều xuân bất ngờ, Đan tìm đến Hoà khi em đọc quyển "Một Lần Gặp Nhau" của Châu Trang Long. Anh đưa hoa sen lên môi hôn, rồi ân cần tặng Hoà cánh sen còn tươi rói làn môi. Có lẽ Đan vừa hái ở đâu đó, cuống hoa và cánh hoa mọng nước, sắc hồng điểm màu trắng nhạt ven cánh. Trông tuyệt diệu dưới ráng chiều dắt vàng chan hòa trên cỏ cây nơi vùng hoang dã.
    Hoa sen ở miền Trung và tại Huế trồng dồi dào nhất. Người ta ưa thích nó về nhiều mặt: Cánh sen ướp với trà uống vào có hương vị thật đặc biệt, trong trà lúc đó có vị chát, vị đắng cuả tim sen, khổ qua. Hoa sen cắm vào lọ chưng bày trên bàn thờ lâu tàn hơn các loài hoa khác. Hạt sen nấu chè thật bùi, hoặc hầm các món ăn, hạt sen còn làm bánh mứt. Thân non làm gỏi ngó sen, lá sen dùng gói hàng. Hầu như sen không bỏ phí đi một thứ gì mà trời đã ban tặng. Sen là loại thực phẩm vừa ngon, vừa đắt, tận dụng, tiện dụng và hiếm quý. Việt Câu Tiễn dâng nàng Tây Thi, cô gái nước Việt sắc nước hương trời, đẹp tuyệt trần sang Tàu triều cống Ngô Phù Sai thâm độc kinh khủng, mục đích làm cho Ngô Vương say mê đắm đuối Tây Thi; khi hoa sen cùng người đẹp Tây Thi xuất thân đến xứ người, thì dân Đế Đô ngàn năm cổ kính đất Thần Kinh càng yêu thích, luyến thương hoài nhớ Tây Thi, nên họ ưa trồng nhiều sen hơn. Thì phải!?

    Hoà sững sờ nhưng mà vui mừng bỏ quyển sách xuống nệm cỏ xanh, hỏi Đan:
    - Ồ. Chào anh. Anh đến… có việc gì gấp không? Anh!

    Đan lắc đầu, anh hóm hỉnh mỉm cười không đáp, anh ngồi xuống bên cạnh Hoà, Đan lấy gói Pallall ra gài điếu thuốc lá lên môi, mồi lửa, Đan chỉ ghiền hút thuốc lá không đầu lọc và uống cà phê đen đậm không đường mà! Anh nheo mắt thở ngụm khói nhỏ, khuôn mặt trầm tư nén bớt vẻ khắc khổ, màu đen trên mái tóc pha màu khói lam, đôi mắt Đan hai mí to đẹp, sáng long lanh nép dưới hàng mi dài dày cong vút rung nhè nhẹ. Vì cặp mắt hai mí to đẹp ấy, mà lần đầu tiên vừa trông thấy anh, Hòa tưởng anh là "lai người Ấn Độ".
    Hoà thắc mắc nhìn Đan mỉm cười, dò hỏi:
    - Sao anh biết em ở đây, mà tìm thấy vậy?
    - Nơi thanh vắng thế nầy hợp với em. Cũng như chỉ có Hoà, mới quyến rũ bước chân hồ hải của anh thôi.
    Đan mỉm cười, nghiêng đầu ung dung ca nho nhỏ: (…) Thư của lính không xanh màu trời như mơ ước đâu em. Thư của lính không thơm nồng hương, không nét hoa đa tình. Thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay. Nhưng thư của lính ghi giữa rừng cây khi nhớ em thật đầy. (1)

    Vẻ thanh lịch của Đan, có thể nói toát ra từ cử chỉ, dáng dấp ung dung, thư thái, vô hình trung tác động đến Hoà. Tim Hoà bỗng nhiên đập rộn ràng trong lồng ngực, vui vui, say say, và mơ mơ. Đan cầm quyển sách của Hoà đang đọc lên. Vô tình phong thư Hoà viết chưa kịp gởi cho Thắng, rơi xuống nệm cỏ giưã hai người. Có một vài giây, trái tim Hoà co xiết cuồng quay dường như ngừng đập. Hoà e dè dõi mắt liếc nhìn từng cử chỉ Đan thế nào, hầu xác định mối liên lạc tương lai, giữa Hoà và..."ba anh bạn, (bạn đúng nghĩa): Phú. Thắng, & Đan". Hoà ấp úng:
    - Anh nầy… có nghĩa là anh... anh trai… của Hoà…
    Đan nhìn phong thư ghi KBC, anh nheo nheo mắt, mỉm mỉm, cười cười, hóm hỉnh rất dễ... ghét:
    - Lính kèn hả? Hay là lính kiểng?
    - O… Ô!... Em không hiểu anh muốn nói gì?
    - ...
    - Vả lại em hỏi điều nầy, anh đừng trợn mắt lên à nha "lính kèn, lính kiểng" là thế nào, anh ha?
    - À, là lính thành phố thổi vào tim em bản tình ca muôn thuở. Là lính cảnh, đưa em đi dạo phố phường trước sự chiêm ngưỡng mến phục của mọi người. Đó em!
    - Ơ... Cái anh nầy.
    - Coi em kìa: sao em bẽn lẽn, rụt rè, ngập ngừng khiếp vậy?
    - Anh không làm việc sao, lại đến nơi nầy?
    - Làm gì nỗi bây giờ? Em!
    - Vậy sao?
    - Anh buồn và nhớ... lạ lùng.

    Tất cả quá khứ thoáng chốc trở về như tia chớp sáng lòa làm choáng ngợp đầu óc Hoà. Chân trời nầy sẽ trở lại rạng rỡ vui tươi, mời mọc, chào đón; Hay thê thảm buồn tênh hơn? Em biết rằng: Tình yêu thật kỳ diệu, nó đang mang hương nồng mới đến. Và, có thể xóa nhòa đi tất cả dĩ vãng ưu phiền lui xa. Hoà chợt nhớ đến chùm hoa “Forget Me Not” màu tím nhạt âm thầm rụt rè khoe sắc trước mùa xuân xưa cũ. “Ai đó” đã cài đoá hoa bẽn lẽn lên mái tóc em?. “Anh ta” nói câu gì ấy nhỉ? Hoà quên bẵng, quên phứt theo tháng ngày mệt nhọc buồn bã cơ khổ niềm nhớ bâng khuâng, lao đao theo chiến cuộc nơi chốn tha phương, ở xứ lạ quê người, rồi sao?

    Hai người nhìn nhau không chớp mắt. Bỗng Hoà phì cười. Tiếng cười trong veo như mạch suối rừng hoang dại. Đan khẽ mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ, anh kín đáo thở dài. Dụi tắt điếu thuốc trên thân cây, rồi vứt đi. Đan nói:
    - Em còn trẻ con không chịu được. Anh nói anh buồn, anh nhớ... Mà em cười ngạo anh. Hở?
    - . . .
    - Ngày đầu tiên, khi anh lội qua sông Nghĩa Phú, là anh mong ước làm quen với em. Em còn nhớ không?
    Hoà nhớ “anh lính ấy” vô cùng. Nhớ đến nỗi em e dè cúi mặt xuống, vì bẽn lẽn, thẹn thùng, bối rối. Anh Đan xoay Hiền Hoà như xoay dế thế kia, Hoà không bối rối sao được chứ. Bởi vì, điều êm ái mới lạ đã xảy ra, rộn ràng mở hội trong trái tim muốn bừng lên hơi thở ngất ngây, say nồng lẫn dịu ngọt, trìu mến lạ thường.

    - Bây giờ cũng vậy. Có khác chăng là ngày ấy anh lội qua sông sâu nước lạnh, dò tìm... Giờ đây, anh băng rừng vượt dốc, để đến bên Hoà. Anh sẵn sàng trả giá cao, để được sống giờ phút êm dịu, ngọt ngào, thi vị, mà anh đã chọn. Em có hiểu không. Hở em?
    - . . .
    - Em... Hoà thấy thế nào?
    - Dạ... Chỉ sợ em không có diễm phúc đạt được ước mơ. Làm sao em biết được, ước mơ nầy sẽ có thật, đến mức độ nào... Anh à.
    - Vấn đề là còn tùy... ở em đó.

    Khu rừng bảng lảng ánh hoàng hôn. Gió thì thào trên đầu ngọn cây phong, như ươm vàng dưới ánh chiều nhợt nhạt buông lơi. Từng bè mây xám đục chen lẫn màu huỳnh tía, rồi ngả sang màu hoàng hôn ven đêm. Bầu trời lấp lánh vì sao hôm và những vì sao lác đác trong cảnh hoang tàn còn tươi nguyên dấu vết. Có một cái gì rờn rợn, lành lạnh, lồ lộ, ơn ớn vàng phai trên bình nguyên đang in lằn đạn tai biến. Hai người thu xếp túi xách, về phố nhỏ ăn cơm. Ráng chiều theo dòng men bia 33 rót vào lòng ly của anh. Hôm nay Đan có vẻ ưu tư hơn mọi ngày. Thỉnh thoảng vầng trán rộng in nếp nhăn. Hoà bắt gặp nhiều lần anh kín đáo thở dài nhè nhẹ. Hoà dè dặt liếc liếc nhìn Đan dò hỏi:
    - Trông anh có vẻ buồn?
    - Một vài tuần nữa thì chúng ta chia tay. Không biết bao giờ mới gặp lại. Anh muốn xin đổi về hậu cứ, không đi tác chiến nữa... để được gần em.

    Hoà không biết trả lời sao cho phải, chỉ lặng lẽ nhìn Đan trìu mến, trên môi Hoà nở nụ cười nguyên vẹn tình nồng. Đan dè dặt xin Hoà tấm ảnh. Hoà được anh tặng lại hai tấm ảnh, Đan kèm theo một phong thư dày, (mà anh đã viết sẵn từ hồi nào không rõ):
    - Lát nữa về trong Đoàn, em hãy đọc nhé.
    - Không. Em đọc ngay... bi giờ kia.

    Tính mở ra đọc thật, nhưng em thấy mặt Đan đỏ bừng, như người uống rượu quá say. Cô quân nhân binh nhì, lính mới tò te vừa nhập ngũ, thấy thương thương anh sĩ quan từng trải, nên Hoà không nở trêu phá anh. Hoà tủm tỉm cười thầm nghĩ: [Một anh chàng phong trần, dũng cảm xông pha ngoài chiến trường, không hề sợ súng đạn "diệt" giữa chốn giang đầu, mà chỉ sợ con muỗi Anopheles (như em) đốt cho bị sốt rét rừng, mà sinh bệnh "tương tư", thì khốn!]. Hoà cất thư Đan vào quyển sách, nơi đã có phong thư Hoà định gởi đi cho bạn.

    Ngồi đối diện với Hoà, Đan chống một tay lên cằm, anh kín đáo nhìn Hoà nói:
    - Em hãy đọc thư anh một lần. Anh mong chúng mình sẽ mang đến cho nhau niềm vui tràn ngập…
    - Em biết nói gì bây giờ?
    - Anh không muốn em nói gì cả, khi em chưa đọc thư anh.

    Hoà nhìn rõ đâu đây trong quá khứ xa xôi nhạt nhòa niềm hạnh phúc, đau khổ, buồn rầu nào, qua bóng dáng “người xưa” lung linh trong khói thuốc vờn bay tản mạn vào không trung. Tuy buổi chiều đầu mùa xuân nhưng không khí cuối đông còn vương sót lại trên đầu cây ngọn cỏ, nên nắng yếu ớt chiếu xiên, hắt lên tường hai cái bóng cuả Hoà và Đan mờ mờ, chập chờn rung rinh, nhúc nhích. Hoà bỗng thấy lòng trào dâng lên nỗi buồn lâng lâng, man mác, lẫn dịu cảm ngọt ngào. Bởi tại đâu? Hay tại tiếng tơ lòng băn khoăn, xao xuyến, vấn vương do dự chút hạnh phúc từ những con sóng xô về, xếp lớp lăn tăn uốn lên uốn xuống, cùng con nước chảy trên giòng đời dạt dào giao động theo từng phím tơ rung?

    Trở về phòng, chưa kịp thay quần áo, Hoà vội vàng ngồi xuống ghế bố, tay run hơn bao lần khi mở thư bạn ra đọc. Hai bàn tay Hoà lạnh toát ra mồ hôi. Trái tim đập thình thịch trong lồng ngực, toàn thân em nóng ran, dường như bị lửa đốt. Hiền Hoà đọc đi đọc lại lá thư màu xanh, có nét chữ nghiêng nghiêng, đều đặn rõ ràng và khá đẹp của Đan. Trong căn phòng ngủ vắng lạnh, em đi đi lại lại nhiều lần. Cuối cùng Hoà ngồi phịch xuống ghế bố, nhắm mắt hồi lâu. Có lẽ cánh thư đầy ắp ân tình trìu mến của Đan vừa qua, là cả một sức mạnh đích thực... làm cán cân tình cảm nghiêng hẳn về một phía, mà trước đó Hoà do dự giữa ngả ba đường: Phú. Đan. Thắng.

    Hoà bối rối, băn khoăn, ray rứt giữa ba hình ảnh đó thật. Nói rằng em "có số đào hoa". Có đúng không!? Nhưng lúc nầy Hoà như cánh hoa rừng vừa chớm nở, không nhiều thì ít, vẫn có hương vị mùa xuân đằm thắm ngọt ngào, quyến rũ, chân thật, dịu êm, mà ai ai cũng trải qua một vài lần: trong thời kỳ mới chớm lớn khôn. Không sững sờ run rẩy sao được! Khi chính Đan viết thư tỏ tình như thế nầy: ... & ... "Nếu Hiền Hoà đồng ý, không từ chối, thì anh về phép vào tháng tới. Anh sẽ bàn tính cùng gia đình xin cưới hỏi Hoà trong dịp Tết năm nay. Em à. Chúng ta sẽ là: Vũng Nắng Ươm Tình nghen:
    Vũng nắng mây vàng hanh.
    Đan trong biển nước xanh.
    Tơ trời bay lác đác.
    Cành lá reo dịu dàng.

    Chiều nhớ thương mơ màng.
    Hoàng hôn ươm hồng hơn.
    Ráng hà gieo bảng lảng.
    Chiếu xuống bàn chân son.

    Da trời áo xanh nhạt.
    Chắp tay xin nguyện cầu.
    Hai ta chung làm một.
    Xây cuộc tình bền lâu.

    Dẫu mai sau bạc đầu.
    Mình thủy chung trước sau.
    Cánh tơ trời có mỏi.
    Dù thời gian qua mau.

    Tình yêu lên tiếng gọi.
    Chiều lặng yên nơi nơi.
    Thời gian ta vẫn đợi.
    Khải hoàn ca tuyệt vời…
    (2)

    Ôi! Thật sự như thế sao? Hoà như con chim bị thương nhốt trong lồng, bỗng nhiên được trả tự do, đâm ra choáng váng ngỡ ngàng, lúng túng, rụt rè do dự nhìn lại ô cửa quá khứ. Hoà quên mình có đôi cánh tung bay, tự do giữa biển trời lồng lộng! Cách xử thế khác nhau của mỗi một người trai đoan chính thân quen, họ đã cho đời sống và tình yêu của Hoà hạnh phúc ít hay nhiều. Hoà đã sống trong âu lo, run sợ, đau khổ do chiến tranh tàn khốc, chết chóc gần kề miệng vực giữa hai lằn đạn diệt vong. Nay Hiền Hoà nhận nơi Đan nụ cười ấm dịu, tha thiết, thân mật, tình yêu đằm thắm, ngọt ngào, êm ái, ngất ngây. Dù giữa Đan và Hoà hề chưa có một lần tay nắm nhẹ bàn tay ân tình trìu mến. Đan chưa hề hôn lên mái tóc phiêu bồng gợn sóng của Hiền Hoà. Nhưng... Hoà hạnh phúc xiết bao!

    Mùa xuân nơi đây không nắng gắt oi nồng từng đợt gió chiều thoảng nhẹ, gợi lên trong lòng Hoà nhiều nhớ nhớ. Thương thương. Mến mến. Rưng rưng. Say say dấu tình hoang dại… Hoà nghĩ nhiều đến Đan, và cảm thấy lòng trầm lắng xuống nỗi xúc động dịu êm, ngọt ngào trong bình yên, đỡ quạnh hiu hay buồn vu vơ biết mấy!
    * * *

    Đan lái chiếc xe jeep dã chiến bạc phếch bụi đỏ đường hành quân chạy chầm chậm, trên quốc lộ 24B ra một bãi biển cách Quảng Ngãi độ chừng 15 km, thuộc vùng Cổ Lũy thôn. Xe lùa bụi đất mù bay dưới hàng thùy dương lộng gió làm nghiêng ngã lá cành. Ba anh lính ngồi đằng sau ghế quay lưng lại phía Hoà, bá vai vít cổ nhau khoái chí vui vẻ cười to. Đại dương bao la rì rào gió biển. Đường thiên lý dường như ở tận chân trời quang rạng những viền chỉ bạc lóng lánh, ngời sáng tít dặm ngàn hải lý. Nắng chiều hây hây thoi thóp và phe phẩy, nhè nhẹ rơi xuống mặt biển hờ hững. Biển ngủ quên trong niềm thống khổ, trên bao mái nhà ưu phiền đớn nghèo nơi quê hương.

    Họ xuống xe, nhàn hạ tản bộ trên bãi cát mịn, độ dốc thoải, phía sau lưng là rừng dương bạt ngàn xanh thẳm. Các anh chọn tảng đá nâu vàng nhô mình ra góc biển. Phía xa, làng chài với những tấm lưới Đăng, lưới Rút, lưới Rồng, lưới Rê, lưới Rẽo, lưới Văng, phơi chằng chịt trên bãi cát vàng. Thấp thoáng xa xa có dăm bảy ụ muối trắng, mấy ngư dân đang lúp xúp làm việc: “Chồng chài. Vợ lưới. Con câu. Thằng rể đóng đáy. Con dâu đi mò”. Bức tranh đồng quê hiền hoà lặng lẽ chất phác, quả là tuyệt vời an phận, mà vui.

    Dưới bãi cát vàng óng, các bạn đang chạy nhảy, nô đùa bơi lội dưới sóng nước. Đan bóc quả cam, tách ra từng múi rồi đưa cho Hoà. Hoà lí nhí nói lời cám ơn, e dè nhón lấy múi cam. Làm như sợ đụng tay chàng trai mà cô em đã phải lòng. Một cảm giác thật êm đềm ấm áp gợn lăn tăn trong lòng anh. Đan nghĩ mãi không ra, quả thật anh ngạc nhiên về chính mình: Anh đã từng trải chuyện yêu đương giữa trai và gái thuở xưa, chứ nào phải anh yêu Hoà là người tình đầu đâu, mà mình vẫn ngại? Tại sao một anh lính phong trần gan lì dũng cảm như Đan, ngồi bên người đẹp cũng có cử chỉ rụt rè, chết nhát, khi diện kiến cùng Hoà? Hay có lẽ tại vì Hoà quá bẽn lẽn, thơ ngây, và xinh đẹp nét tinh khôi, khiến mình e ngại!? Mỉm cười ý nhị, anh lặng nhìn vóc dáng đan thanh của Hoà, Đan đằm thắm nói:
    - Em có chịu về ở Đà Nẵng, chờ đợi anh về thưa chuyện chúng mình với ba me anh không em?

    Cúi đầu gật nhẹ mấy cái, Hoà chịu, chịu đến nỗi hai má hồng thắm hây hây như nhấp men say. Bóng dáng thon gọn, nhưng dường như tâm Hoà chứa đựng cả một lòng đại dương gào sóng xao động mạnh. Mắt Hoà ánh lên tia hy vọng mừng rỡ, nụ cười xinh tươi làm ngời sáng khuôn mặt, nhưng em áy náy:
    - Có điều… sự mong ước và thành tựu, là hai việc khác nhau. Anh Đan à.
    - Anh biết. Anh nói vấn đề là... còn tuỳ ở em thôi.
    - Mai em xin đi lên Tà Noát cho anh coi. Tùy em mà.
    - Bắt đền anh cái gì cũng được. Nhưng cho anh xin. Em đừng đi đâu hết. Em về nhà, chờ anh đôi ba tháng nhe.
    - Không. Em cứ đi.
    - Chà. Em tôi cứng đầu, lì lợm ghê à nha. Anh sợ em rồi đó.

    Biết nói thế nào cho trung thực với lòng Hoà nhỉ! Khi ánh mắt anh thiết tha, nụ cười mời mọc, giọng nói ngọt ngào đầy ắp ân tình, qua cung cách Đan ung dung, điềm đạm, đứng đắn và chân thật đến vậy! Có phải cư xử như thế là anh đang tỏ tình không? Nhưng Đan chẳng làm gì hết. Lạ thật! Sao mà anh ấy đứng đắn quá đi, khiến Hoà cứ tưởng là anh ấy nhút nhát không tha thiết mấy chuyện yêu thương. Anh lính chiến chỉ nói đùa giỡn ngoài miệng cho vui mà thôi. Nào ngờ bây giờ đúng là chuyện thật.
    Ngập ngừng do dự, Đan mở lời:
    - Còn hai ngày nữa là mình chia tay. Việc anh ngỏ ý trước đó... là muốn em có thời gian suy nghĩ, trước khi quyết định việc hôn nhân. Hôm nay, em có thể cho anh biết, để anh liệu, rồi anh sẽ về thưa với ba me vào dịp anh nghỉ phép sắp đến không em?
    - Anh thấy ngôi nhà lai xinh đẹp có tường cao, rào chắn kỹ càng, bên kia đường chứ? Gần kia là căn nhà đất mái tranh xiêu vẹo. Giữa hai nhà, có con đường tráng nhựa rộng thênh thang. Nhà ngói không thể xích lại, ở cạnh chung nhà tranh. Đan à. Anh và Em, có thể bị ngăn cách bởi lý do giản dị, gần như vậy.
    - Em có ý tưởng lạ lùng. Anh yêu em, và tin rằng: Ba me anh hoàn toàn không phản đối. Các cụ tôn trọng sự tự do lựa chọn của anh. Họ không môn đăng hộ đối, (mặc dù thuộc dòng dõi quý tộc). Anh chị, ba cô em gái, cậu em trai của anh, càng không phản đối. Hoà à.
    - Em thấy khó khăn, chứ không giản dị như vậy đâu. Anh và em không cùng tôn giáo. Chắc là không... gia đình anh không chịu em đâu.
    - Điều ấy anh bảo đảm: Không có gì rắc rối.
    - Còn một việc nữa, em thấy không xứng với anh: Hẳn hai bác không thích có con dâu "xướng ca vô loài".

    Đan dụi tắt điếu thuốc nửa ngọn không đầu lọc vào gốc cây, rồi vứt xuống cát. Anh hơi phật ý. Đổi tư thế ngồi đối diện với Hoà, nhìn thẳng Hoà, Đan nói:
    - Ngày chúng mình gặp nhau trên Ô Chai, anh đã nói về việc đó thế nào. Em quên rồi ư? Em không nhớ gì ráo trọi lời anh nói ha? Em ưu phiền đặt nặng vấn đề ấy, khi anh tin yêu em. Hở? Tại sao Hoà?
    - Anh là... Pháo-binh có cánh lá ngọc... giát vàng bay giữa trời. Em vươn tay ra đón anh. Nhưng, muộn mất rồi. Xin ngã mũ kính chào.
    - Đừng đùa dai như vậy. Cưng. Đau khổ lắm. Em nói đàng hoàng cho anh nghe. Em nghĩ sao về đề nghị đó?
    - Em băn khoăn là mình còn quá trẻ, liệu em có mang lại hạnh phúc cho anh? Cho chính mình đi đến bến bờ hạnh phúc dài lâu? Vả lại, em còn xin... lĩnh hội ý kiến của gia đình em nữa.

    Câu chuyện tình tứ ở một góc đường thiên lý, về giấc mộng vàng bên dãy thùy dương rủ bóng kia reo vui men hạnh phúc, vừa hé mở đã phũ phàng đóng ập lại ngay, làm rung khẽ cánh buồm ước mơ chân thật, mê đắm trong lòng mỗi người. Hoà băn khoăn lo lắng. Băn khoăn thật sự. Mười bảy tuổi đầu, hai bàn tay trắng, ít kiến thức khiêm nhường, hạn hẹp. Cuộc sống là con số không vĩ đại, mà có gia đình? Mỉa mai làm sao!
    Phần Đan, anh muốn tiến tới việc hôn nhân, lẽ là anh yêu Hiền Hoà chân thành, Đan mong Hoà sống an ổn bình lặng, anh có quyền lo sợ, săn sóc em về mọi mặt. Anh có đầy đủ mọi yếu tố, dồi dào điều kiện thuận tiện... để xây dựng một gia đình hạnh phúc thật sự.
    Cảm động vô cùng.
    ***


    (1) “Tình Thư cuả Lính”: Trần Thiện Thanh
    (2) Thơ Tình Hoài Hương
    ***

    Tình Hoài Hương
    Last edited by Tinh Hoai Huong; 01-28-2018, 03:25 AM.
    Bút trần nào tả được lưu luyến!
    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
    Tình Hoài Hương

    Comment


    • Dáng Xuân tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt



      Dáng Xuân tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt


      * * Trường "Võ Bị Liên Quân Viễn Đông Đặc Biệt" của Pháp thành lập tháng 7-1946 tại Đà Lạt. Trường Sĩ Quan Hiện Dịch thành lập năm 1948 bắt đầu ở Huế, khóa 1 tháng 12. & Khóa 2 tháng 9-1949 tại Đập Đá.
      * Tháng 4 năm 1949 có một hội-nghị đồng thuận bãi bỏ chế độ thuộc địa (do Pháp cai trị ở nước Việt Nam).
      * Tháng 5 năm 1950 quốc hội Pháp thông qua dự luật: Cho phép thành lập một đội quân Việt Nam.Thế nên bước khởi đầu thì Thủ Hiến Phan Văn Giáo cho một số trường quân đội Việt Nam ra đời.
      * Sau ngày 20-07-1954 khi hiệp định đình chiến ký kết tại Genève, Thụy Sĩ; thì trường Sĩ Quan Việt Nam ở Huế; đã được chuyển lên Đà Lạt, bắt đầu Khóa 3, và gọi là École Militaire Inter-Armes de Dalat. (Sát nhập vào trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp. Ngôi trường Võ Bị Liên Quân Đặc Biệt của Pháp, nay đương nhiên phải trao trả lại cho Việt Nam). Trường chánh thức đổi lại thành Trường Võ Bị Liên Quân (sau khi người Pháp rời Việt Nam năm 1955).
      * Đầu tiên ngôi trường nầy lấy tên là: "Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt". Cuối cùng Trường sĩ quan hiện dịch nầy chính thức đổi tên thành: "Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam" theo sắc Lệnh số 325-QP ngày 10.4.1963.

      Đất và trường rộng mênh mông tọa lạc giữa vùng khu ấp Chi Lăng và khu Thái Phiên. Gần cổng trường là doanh trại sinh viên, khu Văn Học, khu Bộ Chỉ Huy... Cổng trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt Việt Nam còn có tên là cổng "Nam Quan", nơi nầy luôn náo nhiệt trong những ngày Thứ Bảy, Chủ Nhật, ngày hội, ngày lễ... Những lúc ấy tại Cổng Nam Quan trở nên vui vẻ náo nhiệt như ngày hội lớn, hân hoan tưng bừng hơn với những chàng sinh viên sĩ quan phong trần, cùng bao tà áo dài tha thướt e ấp tung bay trong gió lộng. Thỉnh thoảng ở phòng trực trong trường gọi tên sinh viên sĩ quan (được phát ra từ loa phóng thanh vang vang lên), thì sinh viên sĩ quan nào có tên gọi, hớn hở vui vẻ rảo bước ra Cổng Nam Quan: Đấy là nơi "gặp gỡ của tình thương".

      Khu doanh trại sinh viên ở gồm: bốn dãy ba-ti-măng có ba tầng lầu. Mỗi ba-ti-măng có hai đại đội sinh viên sĩ quan cư trú. Hai bên nầy là sân cỏ của Trung Ðoàn. Gần dưới thung lũng là khu vườn luôn luôn đầy hoa đẹp và cây cối xanh tươi, do những sinh viên sĩ quan chung vui tay trong tay góp công sức làm nên, tạo thành một khu vườn thật ngoạn mục.

      Muốn gia nhập vào trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, thanh niên phải có:
      - Học lực tú tài.
      - Có sức khỏe tráng kiện.
      Ban đầu thì sinh viên thụ huấn hai năm (sau nầy trường Võ Bị Đà Lạt đã tăng thời gian cho sinh viên sĩ quan thụ huấn lên bốn năm học). Bao gồm các bộ môn học như: Văn Học. Quân Sự. Thể Chất. Chương trình sinh viên sĩ-quan học gắt gao, rất nặng, ấn định có quy củ rõ ràng.
      Mỗi ngày, sau giờ học đầy căng thẳng trí óc; và sau bữa cơm chiều, là sinh viên có hai giờ: > từ 6 giờ tối đến > 8 giờ tối, thì sinh viên sĩ quan tự do đi những nơi giải trí tùy thích như: Bên trái là Hội-quán sinh viên có nhiều sofa và bàn ghế tươm tất, để cho mọi người ngồi với nhau thoải mái hàn huyên tâm sự; nghe nhạc sống do ban văn nghệ sinh viên sĩ quan đảm nhận, hay tập dượt văn nghệ. Hoặc giả sinh viên sĩ-quan vào Thư-viện đọc sách. Hay có sinh viên khác đi Câu Lạc Bộ ăn uống. Nhóm sinh viên đến Hội-quán thụt bi-da, uống cà-phê. Có người đi tới sân sau để chơi bóng rổ, bóng chuyền, bóng tròn, bóng bàn, vân vân… Sau đó là giờ tự học. Tiếng kèn 10 giờ đêm là giờ báo đi ngủ. Một số sinh viên lo chuẩn bị đi gác. Trường có tám đại đội sẽ luân phiên nhau canh gác mỗi đêm.

      Sinh viên sĩ quan đi bộ leo núi, luyện tập quân sự, chinh phục đỉnh Lâm Viên cao 2.163m, nơi luôn luôn có gió lồng lộng và sương mù che khuất dưới chân núi và rất lạnh giá. Đây là nơi rèn luyện sinh viên sĩ quan dũng cảm kiên cường vượt thắng gian truân và chông gai.
      Khi các sinh viên sĩ quan đi tới đỉnh Lâm Viên học và thực hành xong, họ trở về trường; ấy là lúc chuẩn bị ngày lễ gắn Alpha cho tân khóa sinh. Các cán bộ đến tại phòng của tân khóa sinh để trao: mũ cát kết, đai lưng màu đỏ, thắt lưng đại lễ, đôi găng tay trắng. Tân sinh viên sĩ-quan sẽ đọc lời hứa:
      - Tôn trọng lá cờ của Trung Ðoàn sinh viên sĩ quan. Bảo vệ danh dự cuả Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam: "Tổ Quốc. Danh Dự. Trách Nhiệm".
      ... Thì khoá sinh ấy mới được chấp nhận đúng là sinh viên sĩ-quan của Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Việt Nam.
      ***

      Hôm nay là ngày tất niên của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt - Việt Nam. Tôi cùng Vân, Lan, Tâm, Mai… bao chiếc taxi chạy thẳng vào gần gần ngoài cổng Nam Quan, thăm bạn thân. Đúng lúc đó, tôi gặp Oanh cùng Biên. Hồng cặp tay Đáo. Thúy Mai và Tấn ở Phạn Xá đi ra, (còn gọi là nhà ăn). Chúng tôi hân hoan khôn xiết, nói cười tíu tít biết bao chuyện buồn vui xếp lớp lăn tăn. Chưa dứt câu nầy, bạn đã hỏi câu kia dồn dập. Oanh chỉ vào bạn trai của cô:
      - Oanh (Nguyễn) đã hứa hôn với Biên rồi.
      - Hồng sắp làm đám cưới với Đáo.
      - Cả Lê Oanh và Thuận nữa. Ôi thật là vui quá vui.
      Oanh mở miệng:
      - Nầy, còn Ngân Thụy thì sao?
      Tôi cười buồn:
      - Oanh có bao giờ ghé qua ngỏ nhà thăm tui đâu, mà biết hỉ!
      - Xin lỗi nha. Tại Biên hết đó.
      - Thì phải mà. Bạn có bồ, hổng đi đâu là đúng. Thụy chúc các anh chị sớm thành đạt trong tất cả ý nguyện. Nghen.

      Họ cười tươi, cám ơn tôi với hạnh phúc hân hoan ùa về. Tôi đến điểm hẹn hò với Cảnh. Thấy tôi, anh nở nụ cười hồng rõ tươi, Cảnh hớn hở đón tôi nồng nhiệt lắm. Trên khuôn mặt và ánh mắt Cảnh hiện rõ sự mãn nguyện khi anh giới thiệu tôi với bạn. Cảnh hãnh diện vì có bạn gái xinh tươi, hồn nhiên mộc mạc, duyên dáng không thua những bông hồng biết nói khác trong đêm hội tưng bừng nầy. Cảnh nhẹ nhàng nắm bàn tay tôi nóng hổi, tôi run run như con chim gãy cánh. Nửa ngập ngừng ưng chịu siết tay anh, nửa tôi toan muốn rút tay về. Đây là cái “nắm tay thân tình đầu tiên”, từ khi chúng tôi quen biết nhau. Cảnh tinh ý nhìn thấy sự vô cớ dằng co và trầm mặc nơi tôi, anh kín đáo cố tìm hiểu nguyên nhân vì sao có sự thay đổi kia. Nhưng, tôi sẽ không kể cho Cảnh nghe, (kể cả những người thân yêu ruột thịt) về nỗi buồn đau vô hạn của mình.

      Dù tôi rất muốn ngỏ lời tâm sự với ai đó, hầu vơi đi nỗi niềm dày vò, cay đắng ấy đang bóp thắt trái tim tôi. Sung sướng xiết bao, nếu tôi có thể viết lên trời tất cả suy tư của mình, mà có người khác đọc và thông cảm nhỉ! ít ra trong giai đoạn ngắn ngủi nầy, Cảnh là người xứng đáng nắm bàn tay tôi (đang run rẩy vì… "sương gió & giá rét"?!). Khoảng thời gian quen biết qua, anh có hiểu phần nào về tâm tư, nguyện vọng, tình yêu của tôi không? Cảnh có thể lấp được khoảng trống ráo hoảnh trong tâm hồn rét mướt, mà tôi hằng ngất ngây mong đợi cùng "ai đó" xe mộng tương phùng hay chăng?

      Dọc hai bên đường dẫn lối vào chính điện, và rải rác khắp nơi có những cây thông được trang trí cho mình những "bộ áo" lấp lánh ánh đèn, và "mặc" cho mình những dây kim tuyến, khi gió lùa về thì cành thông và dây kim tuyến đều hoà nhịp lung linh lóng lánh reo vui vi vu, nghe thật hay và trông đẹp ơi là đẹp! Cạnh đó là những sinh viên sĩ quan ứng chiến đứng gác rải rác dưới những chòm cây thông cao ngất và tối đen. Họ đội mũ lưỡi trai, mặc áo jacket, quần treillis màu xanh lá cây sậm, áo quần hồ ủi thẳng nếp, giày đinh cao cổ ôm hai ống quần thon gọn. Họ nhìn thẳng về phía trước đứng nghiêm trang không cử động. Tôi có cảm tưởng họ là những "người máy nhưng... đặc biệt có linh hồn". Trên sân hội, những sinh viên sĩ quan thân hình thẳng tắp, mặc quân phục dạ hội mùa đông, nổi bậc đôi găn tay trắng nõn, gù vai màu đỏ, dây biểu chương màu vàng nghệ pha kim tuyến đỏ, súng dài bồng lên tay, tạo ra âm thanh do sắt thép khua vào nhau, nghe rập ràng đều đặn và chuẩn mực. Súng lại được vài phen kêu lên đều đặn, rập khuôn nhịp nhàng lúc bắt chào, cũng như hạ súng xuống; khi nào có những qúy khách đi vào khu đại lễ.

      Đến giờ khai mạc đại hội, thì buổi lễ long trọng được diễn ra tuần tự từng nghi thức bắt đầu và thủ tục cuối đã xong. Trước mặt các khán đài đang trình diễn các phân binh chủng: Nhảy Dù, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến. Biệt Động Quân. Thiết Giáp. Pháo Binh, xe tăng, thiết giáp, vân vân... diễn hành các xe hoa… Thỉnh thoảng vọt lên trời những ngọn pháo bông đủ màu sắc rực rỡ, đủ hình thể khác nhau. Trông rất đẹp khi có mục biểu diễn nhảy dù tiếp theo. Bao cánh dù hoa bung nở, đủ màu bay lơ lửng trên không trung, lủng lẳng nhiều anh chàng Nhảy Dù lả lướt, bay bướm, trông quá tuyệt vời trên cao tít lưng trời bàng bạc hơi sương, gió rét căm căm cùng tiếng thông rì rào reo vi vu thoảng lại.

      Không Quân Việt Nam Cộng Hòa biểu diễn những đường bay quá điệu nghệ với dáng vẽ oai dũng riêng biệt: Bay solo, bay ba, bay năm… bay vòng cung, bay vút lên và bay lộn ngược đầu… Ôi! Đủ thứ đường bay oai dũng vẽ những hình ảnh lạ mắt, quá tuyệt vời. Sau đuôi phi cơ kéo theo những làn khói dài lê thê, có đủ màu, rồi từng làn khói tỏa rộng trong bầu trời đêm lấp lánh ánh sao. Trông vô cùng hứng khởi, duyên dáng và ngoạn mục hết biết. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên trời cao, mắt họ mở lớn, miệng xuýt xoa trầm trồ vui vẻ không tiếc lời khen ngợi.

      Những hàng ghế ở khu khán đài B kêu răn rắc, suýt gãy dưới sức nặng của khách ngồi xem mê mãi. Giàn quân nhạc sống vang lên rộn ràng, làm huyên náo góc trời u tịch và giá rét. Giàn nhạc đánh những bản nhạc hùng tráng, cùng tiếng hợp xướng, tiếng đơn ca, đồng ca… vang dậy làm cho người đứng tuổi nghĩ nhiều về mình, đồng thời hồi tưởng lại quá khứ oanh liệt vàng son một thuở. Làm cho người vào độ tuổi tráng niên tạm lãng quên phiền nhọc, bực bội, lo toan, để ôn tồn thoải mái, vui vẻ hoà đồng với đám thanh niên trẻ trung tuấn tú, phong lưu hào hoa phong nhã và lịch lãm trong ngày hội lớn.

      Một số sĩ quan lão luyện tuổi tác họ khác nhau tay bắt mặt mừng chào hỏi, họ ung dung đi rải rác từng điểm hội. Đa số đàn ông có khuôn mặt đượm phong trần sương khuya gió chiều, khiến mái tóc lấm tấm muối tiêu và thân thể rắn rỏi hơn. Họ mặc quân phục đại lễ mùa đông trông khác nhau, ai nấy đều lịch lãm oai hùng, phong độ theo mỗi dáng kiểu quân phục của từng binh chủng riêng. Nam nhân có những bộ râu quai hàm, râu mép, kính trắng đạo mạo tô điểm cho vầng trán cao, tạo thành khuôn mặt rắn rỏi thêm phần trí thức và trang trọng. Miệng nhiều ông ngậm thuốc lá thơm, hút xì gà, hay bập bập ống điếu.

      Đó là những cấp lãnh đạo, những cấp chỉ huy có đôi mắt sắc sảo tinh tường. Họ giàu kinh nghiệm, bản lĩnh để hướng dẫn thuộc quyền. Kiểu dáng họ coi ung dung thong dong thư thả pha chút cao ngạo, đôi khi cũng bình dị để hoà đồng vào cuộc vui chung. Họ biệt lập, từng trải về kinh nghiệm chiến trường, và cách điều binh khiển tướng khi xung trận. Bên cạnh bao quân nhân là những mệnh phụ phu nhân kiểu dáng chưng diện quần là áo lụa “đỏm đáng kiêu sa đài các” nom khác người. Cùng phụ huynh của sinh viên sĩ quan đa số thanh lịch, phục sức trông đoan trang mềm mại mà giản dị, không có mấy ai chưng diện loè loẹt hợm hĩnh và lố bịch. Nhìn chung đa số quan khách cao sang, uyển chuyển qua nhiều kiểu cách hợp thời khác nhau.

      Bỗng nhiên một tiếng nổ giòn tan xé màn đêm, nghe như tiếng lọ thủy tinh gián mạnh xuống nền gạch, rồi nhiều tiếng súng cối bắn đi đâu đó, khiến tôi giật nẫy người, nép sát vào lòng Cảnh. Anh nhìn quanh cũng thảng thốt giây lát, vòng tay Cảnh vội ôm qua thân thể tôi lúc nào, không nhớ. Mọi người nồng nhiệt đứng lên đồng loạt vỗ tay cười vang, có nhiều tiếng hét và la to:
      - Ấy dá dà…
      - Tuyệt vời quá!
      - Giao thừa.
      - Tiễn biệt năm cũ, chào mừng năm mới.
      - Chúc mừng năm mới.
      - Mừng xuân đến.
      - Tết Nguyên Đán đến rồi.
      - Happy new year.

      Giờ phút linh thiêng nầy thật trang nghiêm, trân trọng. Họ nhìn lên bầu trời sáng rực pháo bông đủ mọi màu sắc và hình dáng. Ồ! Thì ra bây chừ đúng là giờ giao thừa: Súng lớn bắn đi để đón chào dáng xuân hồng thắm ngự trên vạn vật. Chỉ có rứa mà cũng khiến tôi giật mình mất hồn mất vía, run rẩy à! Chuyện trò râm rang ồn ào náo nhiệt khắp nơi.

      Mươi phút sau thì bắt đầu thủ tục khai hội dạ tiệc trong đại sãnh sang trọng. Những thức ăn bốc khói nóng sốt thơm ngon. Những chú bồi bàn vui vẻ, họ đều mặc quần áo trắng, mang giày đen, đầu đội mũ trắng mang táp dề màu đỏ, một tay họ nâng dĩa thức ăn to giơ lên cao, còn một tay họ để sau lưng, họ cẩn thận đặt những dĩa thức ăn trên những dãy bàn dài phủ khăn trắng có nhiều bình hoa lys . Cuối góc phòng treo lơ lửng một con bê thui vàng rộm còn nóng và toả mùi thơm quá hấp dẫn, một cái bàn dài có những chồng dĩa trắng với những dao, nĩa...

      Đêm dạ vũ tưng bừng và long trọng đã khai mạc. Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt khoản đãi mọi người đến dự tiệc tất niên tống cựu nghinh tân vui vẻ náo nhiệt tưng bừng biết chừng nào. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được diễm phúc đến trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt nầy, để chia vui cùng tất cả mọi người, với lòng cảm mến và trang trọng biết ơn. Chẳng hiểu sau nầy tôi còn có được diễm phúc đi tham dự những buổi lễ long trọng ấm áp tình người như thế nầy nữa, hay không!?

      Chúng tôi dìu nhau đi trong đêm giao thừa rộn ràng những tiếng pháo nổ rền vang khắp mọi nơi. Người người hứng khởi đón chào năm mới vui ơi là vui quá chừng chừng. Lòng tôi vui thích, say say theo cung đàn yêu thương, ngất ngây với nỗi ngọt ngào dịu êm lâng lâng từ đâu ập đến. Một giao thừa và năm mới bắt đầu tuyệt vời nhất đời mình. Dù mai tôi sau có xa ơi là xa trong sự già thật là già cỗi vì phong sương gió bụi, tôi vẫn trân trọng và mãi nhớ về lần đầu tiên tôi vinh dự vô Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, để tiễn năm cũ và hân hoan đón chào năm mới, vui vẻ đón xuân cùng với thế nhân.

      Chúng tôi dìu nhau đi thật chậm giữa khuya chỉ có ánh sao muôn trùng rơi rụng, bên tai tôi vẫn nghe tiếng pháo rộn rã nghinh xuân tưng bừng trong thành phố đang thức thâu đêm. Lòng tôi cảm thấy bình yên vui vẻ kỳ lạ... khi bước chân hai người líu ríu đặt lên từng bậc cấp để vào nhà tôi. Trước thềm năm mới, Cảnh êm đềm trao tặng tôi nụ hôn nho nhỏ phơn phớt trên mái tóc nồng ấm hương xuân đầu năm, rồi anh lại lên taxi trở về trường.

      Tôi cảm thấy hạnh phúc nhè nhẹ len lén lâng lâng đến trong chân tơ kẽ tóc, và đậu lại trong đời sống riêng mình. Tình cảm ấy tuy nhẹ nhàng, đơn sơ, mà trĩu nặng ân tình trìu mến, thiết tha vẫy gọi nhau biết mấy! Niềm vui thật ngọt ngào trong sáng, cùng sự liên đới kỳ diệu của Trời cao giao hoà tuyệt vời với Đất thấp gợi tình, có muôn hoa ngát hương, cỏ cây hoa lá đâm chồi nẩy lộc giữa thiên nhiên cẩm tú. Đà Lạt thoáng mát, thi vị, nên thơ, lãng mạn, mơ mộng, tuyệt diệu ươm mộng xuân tình từ: trên đỉnh Lâm Viên êm đềm rót xuống lòng thế nhân niềm vui chất ngất xiết bao mặn nồng và ấm áp!

      _ * _


      Tình Hoài Hương
      Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-02-2018, 07:48 PM.
      Bút trần nào tả được lưu luyến!
      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
      Tình Hoài Hương

      Comment


      • Năm TUẤT, Nói Chuyện Con Cún Chung Tình



        Năm TUẤT, Nói Chuyện Con Cún Chung Tình


        Ba tôi có một “ngón nghề” tuyệt vời: huấn luyện nuôi dạy chó đưa thư, loại giống chó berger khôn thế nầy:

        1./ Đại cương về cách chọn giống chó: Không chọn giống chó chấm lông ở ngay chính giữa trán, và bị chấm lọ (bất cứ màu gì) ở đuôi, thì ta không nuôi giống ấy. Nhưng phía trên, gần hai mắt ở cạnh lông mày của chó, nếu có hai chấm tròn, lông xoáy (vàng, đen, hoặc trắng… khác với màu lông của thân thể chó), là giống tốt “đốm đầu thì nuôi, nhưng đốm ở đuôi thì thịt”. Đặc điểm cần chọn giống chó tốt: Đuôi chó luôn ở bên trái. Lưỡi chó có đốm đen dài. Bốn chân cứng cáp trên thân hình chó vạm vỡ. Có nghĩa là ngực nở to, nhưng phần bụng "eo" phải thon gọn. Hai tai chó luôn đứng thẳng, chó thính tai nghe rõ (tai chó không cụp qua một bên). Muốn hai lỗ tai chó thẳng đứng và tinh khôn, (vì hai tai chó đứng thẳng, thì nó nghe rất thính) một tuần vài lần, ta nên cho chó ăn trứng gà tươi trộn với phổi bò.

        2./ Chọn giống chó: Nên chọn chó mõ dài. “bạch cẩu hoàng đầu lưng bối nguyệt” = Thân có lông trắng, đầu lông vàng, lưng chó có lông như hình trăng rằm, mắt to đen láy, mũi hồng, lưỡi dài có đốm đen, tứ túc huyền đề. Giống chó nầy đặc biệt rất quý hiếm, ít thấy.

        3./ Thân chó lông màu đen, bốn chân lông màu trắng, giống như ở chân chó mang đôi vớ trắng (tất), gọi là = “hắc cẩu tứ bạch”.
        - Toàn thân chó có màu lông vàng óng ả, gọi là = “hoàng cẩu”.
        - Lông xoáy ở trên lưng chó mọc xuôi từ đầu chạy về đầu đuôi, gọi là = “Bối kiếm cẩu”.

        a./ Ngoài bốn chân chó, có thêm bốn cái móng đeo nhỏ lủng lẳng ở mỗi chân, gọi là = “Tứ túc huyền đề”.
        b./Bốn chân chó, có thêm hai đeo nhỏ ở mỗi chân trước, và một đeo ở mỗi chân sau. Gọi là = “Lục hợp cẩu”.
        c./Bốn chân chó, mỗi chân chó có thêm hai móng đeo nhỏ. Có 8 móng đeo ở bốn chân, gọi là = “bát long cẩu”.
        d./ “Lưỡng cẩu” = là bốn chân chó chỉ có hai móng đeo ở hai chân.

        4./ Ta thân thiện với “chó nhí” từ khi chúng còn nhỏ. – Biết tính nết chó – Đặt tên chó & gọi tên nó mỗi ngày nhiều lần, cho chó quen biết tên của nó - Huấn luyện chó nhí từ việc nhỏ nhất, ví dụ: thường xuyên dạy chó đứng – ngồi – nằm - bắt tay mình – dạy chó ăn, uống khi nào được cho phép – cùng chó đá banh - ném banh, ném lon ra xa, ta và chó đi nhặt về, nhiều lần. Sau đó để chó tự đi nhặt về đưa cho mình. Mỗi lần chó “làm việc giỏi”, ta thưởng cho chó món ăn mà nó ưa thích.

        5./ Sau đó ta dần dần huấn luyện thêm những việc khó hơn, ví dụ: dạy chó giữ nhà. Chó biết phân biệt người thân và khách lạ, (chó thông minh, chính vì thế mà chó ưa sủa rần trời, mỗi khi có người lạ, hoặc nhà có kẻ trộm rình). Dạy chó phân biệt gia súc của nhà mình nuôi, khác với gia súc của hàng xóm. Dẫn chó đi săn bắt: chuột, chim, gà rừng, vân vân… Dạy chó đi nhận thư ở nhà nầy đưa đến nhà khác: Ta cùng chó đi gởi thư ở bưu điện nhiều lần, cho chó quen hơi người lạ ấy, ta gọi tên của ông ấy hoài, cho chó ngưởi mùi người ấy, sẽ quen hơi. Nó biết nơi chỗ cần đến. Sau đó, một mình ta cột thư ở cổ chó, và dẫn chó đến cho người sẽ nhận thư (người mà chó quen hơi biết mặt trước kia), ta vỗ vỗ vào đầu chó, thân thiện vuốt ve và gọi tên chó: “To Bi… hãy để ông (tên X…) mở túi xách ở cổ ra, nhận thư”. Nhiều lần như thế, tất nhiên con chó thông minh, tinh khôn, và hiểu ra ngay.
        Ba tôi kiên nhẫn dạy chó, chim (tận tụy, giống như ba tôi đã kiên cường trong việc chữa trị cho bệnh nhân), nên ba tôi rất thành công trong việc nuôi dạy chim & chó.
        ***

        Lúc rảnh rỗi, khi có thể nhìn về dĩ vãng qua bao lần hồi tưởng òa vỡ cơn vui chất ngất, thì ngày nay trong tôi đã vụt tắt biến nụ cười trên đôi môi khô héo. Từ những đoạn đường quanh co gập ghềnh, với thân phận thấp hèn, nghèo khó, tôi đi tìm miền đất mới mà níu kéo sự sống; cũng làm bùng vỡ trong tim trong óc mình từng cơn phẫn nộ sôi sục trong thể chất yếu đuối. Nhưng tôi trở nên mạnh mẽ, có khí phách ở ý chí, trí óc, và tinh thần quá nôn nao, tôi hằng mong sớm kiếm tìm một cuộc “đào thoát” ra khỏi cảnh đời tăm tối, ủ dột, khi:
        Bần cư náo thị vô nhân vấn.
        Phú tại thâm sơn hữu viễn than.
        (nghèo ở đô thị không ai thăm,
        giàu ở trong núi thẳm, vẫn đi tìm.
        (cd)

        Càng ngày tôi càng tỏ ra ú ớ “đần độn” ngu dốt, cứ tưởng tên “Ngả Năm Chuồng Chó” dị hợm kia, là nơi “chị em ta” ăn chơi sa đọa. Nhưng bây giờ tôi mới hiểu, thật ra nơi đó là một trại huấn luyện “Quân Khuyển” rất độc đáo. Cũng giống như tôi đã nuôi một con chó có bốn mắt, nghĩa là ở nơi hai con mắt thật của nó, lại có hai đốm lông tròn vo, (mà khác màu lông toàn thân của nó). Nó có tứ túc huyền đề. Tôi đặt tên nó là: Jacky (nó là “cháu nội” cuả con Tobi mà ba tôi đã huấn luyện). Jacky cũng có tên Việt mà mấy đứa con tôi rất thương, đã đặt tên là "Ẻm Cún"!

        Con Jacky là nguồn an ủi của kẻ bần cố nông, cả nhà tôi đều rất qúy nó, chân thật thương nó vô cùng! Ngoài giờ đi học, đi làm, đi bán ra, đa số giờ còn lại các con về nhà ôm chó, nựng chó, vuốt ve hun hít, nói chuyện chơi với chó. Chó ra sức vẫy đuôi mừng rỡ, chồm lên liếm mặt người. Con Jacky không cần phải đi thực tập huấn luyện chu đáo ở trại quân khuyển, nó vẫn rất ngoan khôn, thính, giữ nhà thì khỏi chê. Nó biết phân biệt gia súc của nhà tôi nuôi, với gà vịt của hàng xóm rõ ràng. Nếu khi các con tôi vãi lúa ra sân cho gà vịt ăn, mà gà vịt nhà ai chạy tới mỗ, thì con Jacky phân biệt được ngay, nó sủa rân trời để cảnh cáo, sau đó nó nhào vô sân dùng hai chân trước đẫy gà vịt lạ ra liền. Mâm cơm tôi dọn ra để ở dưới nền xi măng, không cần ai coi ngó, vì đã có con Jacky nằm gần manh chiếu mà trông chừng dùm; thì đố có con mèo, con gà con vịt nào dám vô tha mỗ thức ăn mang đi. Cả nhà ăn cơm xong, nó mới chạy tới bên chỗ cái tộ của nó ở góc cửa lớn, con Jacky nằm đó chờ đến phiên mình ăn. Con Jacky khét tiếng tinh khôn ở khu C nầy, không một kẻ cắp ăn trộm nào dám đi ngang qua nhà tôi.

        Jacky biết nghe tiếng chủ sai khiến, con tôi vỗ vỗ vô lưng: bảo nó đi ra quán (từ nhà ra quán xa chừng hai mười ba thước), trông coi quán, thì nó lia lịa ngoắt đuôi chạy đi ra, và nó nằm ngay ở cửa để giữ quán, không một ai dám héo lánh tới gần. Có lần con Jacky và các con tôi nô đùa chạy quanh khu nghĩa trang, chẳng may con Jacky bị sụp té xuống cái giếng khô bỏ hoang lâu năm, nhưng giếng sâu khoảng mười mấy thước. Nó tru hú sủa vang, trong khi các con tôi cuống cuồng mất hồn mất vía, lo lắng lăng xăng chạy lui chạy tới la làng.

        Cả nhà vội vã chạy ra khom lưng cúi nhìn xuống giếng sâu. Con trai lớn là bé Dzũng và bé Huy liền tìm cách leo xuống giếng. Nhưng vì đây là cái giếng khô không có nước, sâu hun hút 16 mét, nên hai bên cỏ dại chằng chịt mọc um tùm. Các con chỉ có thể leo xuống giếng chừng ba thước, thì bị ngộp thở, chịu không nổi, con phải lo bò lên, mặt mày hai con xanh lét! Con Jacky ở dưới đáy giếng sâu nó cào rột rột, hình như các gàu nước rơi từ lâu đã rỉ sét, tạo tiếng khua động leng keng rột rạt. Jacky chồm chồm hai chân trước lên hông giếng, nó cố gắng trèo lên trụt xuống hoài, vẫn tru hú sên siết, thấy thương quá! Sau đó bé Huy chạy vô nhà lấy cái gàu nhôm thường múc nước giếng. Trở ra, con tháo sợi dây dừa làm nút thắt ở mấy đoạn, hai thằng con nằm sấp xuống đất, nó thòng sợi dây dừa dài xuống giếng, con nói với chó mà không ngượng:
        - Ẻm Cún, nghe anh nè: Cắn sợi dây, để anh kéo em lên, nghen.

        Con Jacky chẳng hiểu có biết không, nhưng nó ngoặm vô một đầu sợi dây dừa. Hai thằng con tôi liền từ từ kéo nó lên khoảng chừng nửa cái giếng. Nhưng có lẽ do nó khá nặng, hoặc là con Jacky mỏi miệng hay sao, nó hả mõm ra, liền bị rớt tủm xuống, nghe tiếng “bịch”, với tiếng khua động rổn rảng của những chiếc gàu cũ đã rớt ở đáy giếng, cùng tiếng con Jacky rên la sủa om sòm, do đau đớn nó rít rít kêu la ẵng ẵng hoài...

        Xót ruột và thương nó quá, các con ngồi đó khóc rống lên, một sự... lạ mà tôi chưa từng nghe các con khóc bao giờ! Vẫn không chịu thua, các con cùng nghĩ ra kế khác: Bé Dzũng chạy vô nhà lấy đèn pin đưa cho tôi, con nói mẹ rọi đèn pin xuống giếng. Con đi lấy thêm một sợi dây dừa nữa, làm thành một cái vòng tròn, cột chặt ở mấy nút thắt. Hai con nằm sấp xuống khỏi miệng giếng, Bé Tuấn, bé Hoàng thì ngồi bệt xuống đất mà nắm hai chân mấy đứa anh kia, rị lại (cho hai sợi dây dừa có thể trải thòng sát xuống dáy giếng). Dzũng dụ con Jacky:
        - Jacky nghe anh nói nè: em bước hai chân vô sợi dây đi. Jacky... bước vô.
        Nhưng con chó cứ xoay quanh mà rên rỉ, Jacky sợ hãi không nhìn thấy, không nghe gì hoặc bị ngộp thở chăng! (có lẽ nó bị đau vì cú té từ trên cao xuống khi ngoạm vô sợi dây?), thì một chân sau con chó vướng vô sợi dây của bé Huy đang cầm. Lập tức Huy kéo sợi dây căng lên, cho sợi dây siết vô chân con chó. Mấy anh em reo to:
        - Được rồi. Em giữ chặt sợi dây, không để nó sút ra nghen.
        - Dạ nhớ.
        Bé Dzũng nhắc lại:
        - Jacky... bước hai chân vô sợi dây mau. Jacky.

        Thằng anh Hai nằm soãi dưới đất và chồm đầu xuống giếng chờ... rất lâu khoảng hơn nửa giờ, khi con Jacky loay hoay bước hai chân vô cái vòng xong, thì bé Dzũng và Tuấn lanh tay kéo sợi dây, cho thắt lại ở đoạn ngực của nó. Bé Dzũng bảo con chó:
        - Jacky, im, không nhúc nhích. Anh sẽ kéo em lên nghen.

        Do đã có kinh nghiệm hơn lần đầu, thế là cả bốn anh em đều túm sợi dây dừa, kéo con chó lên khỏi giếng khá nhanh. Lên được khỏi mặt giếng rồi, con Jacky mừng rỡ vừa chạy cà nhắc vừa sủa, vừa rít vang, Jacky chồm lên liếm hết mặt mấy anh em. Đây là sự thật 100% về con chó “tình cảm” và khôn ngoan của nhà tôi. Nó là loại chó săn chuyên nghiệp, chuyên săn bắt chim cút, chim đa đa, cò, ếch, và chuột ngoài đồng, mà đặc biệt nó không hề ăn, con Jacky chỉ tha chim về cho chủ làm thịt; nhờ đó mà thỉnh thoảng trong gia đình tôi có miếng thịt tươi. Cám ơn Jacky.
        ***
        Lúng túng hoài tôi không thể xoay trở đi dâu chút nào, chỉ vì:
        CÁI HỘ khẩu bày, CỐ HẠI dân.
        HỘ KHẨU từ nay HẬU KHỔ dần.
        HỠI HỒ chủ tặc, khi HỒ HỞI.
        ÐỘNG CƠ bốc lột ÐỢ CÔNG nhân.
        CÁN MẠCH nhân quyền, nào CÁCH MẠNG.
        CHỈ TRÙ dân tộc, CHỦ TRÌ bàn.
        THƯỢNG THỜI bán nước, ngay THỜI THƯỢNG.
        CHẤT LƯỢNG bạo quyền, CHƯỚNG LẬT gian.
        (st)

        Một hôm có tên cán bộ Tin đi qua nhà, nghe, thấy, và biết con chó Jacky của chúng tôi nuôi rất khôn ngoan [giống “bẹc-rê” (berger) mà]! Trông tướng tá chó săn ngon lành oai dũng, hắn ta mê tít thò lò con chó. Hắn chui qua hàng dây phơi áo quần ướt đang sà xuống mặt đất. Hắn vờ lảng vảng thăm viếng dân, cho ra vẻ chí tình, thân dân, cán bộ ghé vai gánh đỡ khổ nạn người dân. Đó là ưu việt của xã hội chủ nghĩa í mà. Hắn ta vào năn-nỉ mẹ chồng tôi bán con chó cưng.

        Hòa bình rồi thì phải đem lại nền cộng hòa tự do, công bằng, hạnh phúc, chân lý thật sự cho dân tộc giảm bớt cùng cực, gian truân cay đắng quá đỗi đau thương, hầu như suốt bốn nghìn năm lịch sử; thì tôi cũng nên vui sống tí hòa bình! Chứ sao lại… khổ sở trăm bề; quần mẹ con bà cháu rách như xơ mướp, trong nhà tôi hết sạch tiền mua gạo, mua mắm muối đã hai ba ngày nay. Mẹ tôi vừa mừng vừa gạt nước mắt, trút nửa chén cơm nguội vô cái tộ chó, đổ chút nước muối lỏng bỏng, để dụ khị con chó ăn. Bà run run chìa tay ra lấy hai trăm bạc của ông ta. Các con tôi thì chạy lui chạy tới, lấp ló giật áo bà nội, giằng co bấm béo, cằn nhằn bà nội, con dậm chân dậm cẵng nhăn nhó không chịu để bà bán chó, cháu chẳng thà nhịn đói, chứ nhất định không chịu bán Jacky. Cháu rất thương chó, nên các cháu đâm ra giận hờn bà nội, cả đám các cháu nằm vật ra nền đất mà lảy đảy đập gót chân xuống đất, cháu vừa hỉ mũi rột rột, vừa rống lên la khóc hụ hụ hụ...

        Cán bộ Tin vùng vằng làu bàu trong miệng, tay run run móc túi quần lấy sợi dây lòi tói ra, rình lúc con chó đang cúi mõm vô tộ cơm, ông ta rành nghề vội vã cột cổ con Jacky siết chặt, khóa mõm chó và bỏ vô bao bố, rồi túm gọn miệng bao và cột chặt đầu miệng bao cũng từ ở một đầu sợi dây kia. Cán bộ Tin cẩn thận bưng con chó ra xe hon da, ông cài thật kỹ, đặt chó vào hai đùi trước, ông kẹp chặt bao bố chó, rồi ông ung dung rú xe honda chạy vù đi.

        Mẹ chồng và tôi vội vàng xách hai cái giỏ cói to tướng le te đi chợ. Đúng là “buồn ngủ gặp chiếu manh”. Dù sao cũng mừng rơn trong bụng vì có tiền mua gạo và thức ăn, gia đình sẽ không bị đói rã rời, ít ra cũng có những bữa cháo lót lòng. Tôi phải tính toán so đo chi ly từng chút, dè xẻn kho thịt, kho cá sao cho mằn mặn, chứ nào dám “phung phí”. Hôm nay ăn cho ngon miệng, rồi khi hết tiền chúng tôi không thể “xoáy” đâu ra tiền, sẽ đói meo, thì khốn! Mẹ và tôi khệ nệ tay bưng tay xách vô nhà. Mấy ngày đầu thì các con dỗi hờn không chịu ăn uống gì, chúng chỉ ngồi ở xó nhà rù rì với nhau, ôm nhau mà khóc. Tôi phải năn nĩ dỗ dành và hứa hẹn (lèo) sẽ đi tìm con Jacky về cho chúng hoài.

        Tôi mua đủ thứ: Gạo. Mắm tôm, mắm tép. Rau muống, cà chua, cá khô, một ký cá nục tươi. Tôi sẽ kho nồi cá với củ cải trắng, (do mẹ đi mót hôm qua). Tôi rẽ qua hàng thịt, mà chỉ dám mua nửa kí lô lòng heo tạp nham, nửa ký thịt heo bụng, cho rẽ. Qua ngày thứ ba thì các con tôi do quá đói và mệt lã, quên chuyện giận bà nội bán chó, các cháu mừng rỡ ùa ra đón hai nải chuối trên tay bà. Chuối là loại trái cây rẽ tiền nhất và bổ dưỡng, ấy thế mà hiếm khi các con tôi được thưởng thức. Các con vừa ăn chuối, vừa ngồi bệt xuống nền đất lổm chổm, viết bài, học bài. Bàn học của các con là những cục táp lô nhặt ở ngoài doanh trại hoang phế về. Các con vui vẻ hỏi đố nhau:
        - Anh đố các em nè: Nước gì không có cá. Cây gì không lá. Lửa gì không khói. Bông gì không cành?
        Mãi lâu, tôi nghe bé Tuấn trả lời (Tuấn là con thứ nhì ưa bắt chuồn chuồn trâu, cột sợi chỉ ở đuôi, con ví nó như chiếc máy bay, cho em chơi):
        - Nước giếng không có cá. Cây chết khô thì không còn lá. Con đom đóm có lửa, mà không xịt ra khói. Cây bông tuyết thì không có cành. Phải không anh?
        - Ừa… Em giỏi quá. Hèn chi em cứ đứng nhất lớp Mười hoài.

        Mẹ chồng vội đun bình nước sôi, bà ra sau hè rửa bó trà lá xanh, nấu nước uống. Tôi đặt cái nồi nước to lên bếp lửa, dặn bé Dzũng vừa học, vừa trông chừng giúp mẹ nồi nước. Chờ nước sôi, thì con sẽ gọi tôi, để tôi rang gạo nấu cháo. Tôi lo làm sạch lòng heo. Thịt bụng ba chỉ lèo nhèo, thì tôi xắt nhỏ, để xào thịt với sả, ớt, ruốt, mắm đường; cho thật khô. Món nầy, tôi cất vào cái hủ ni lông to, có dĩa nước lạnh lót dưới đít cho khỏi bị kiến bu, để dành làm món mặn, ăn dần.

        Năm tháng sau, bỗng dưng cán bộ Tin dẫn công an đến nhà, bắt mẹ tôi lên Ấp Dân Thắng tra hỏi. Rồi họ chuyển bà lên Huyện Hóc Môn. Bà “hầu” về hai tội danh:
        - Đã bán chó, mà còn “rình mò”, đi “dụ-dỗ” chó về nhà.
        - Hay bà làm thịt chó, bán rồi?
        Mặc dù chúng tôi chả biết ông ta mang chó đi đâu, nhà cửa ông ở đâu. Thật là oan hơn oan Thị Kính! Họ lục soát căn nhà trống hoác, lục hết đầu trên xóm dưới, chả thấy chó mèo gì! Thế nhưng, muốn gì… thì hạ hồi phân giải sau, “tội AI đó” làm mất chó ở chỗ nào không biết rành rành ra đấy, nhưng tôi phải chạy đôn chạy đáo lên nhóm anh em “da cu Du-Ca-Bè” hồi xưa, mượn tạm một ngàn đồng, để đóng tiền phạt vạ “thế-chân-chó” trước cái đã, cho mẹ già được tại ngoại, để hầu tra sau. Mẹ tôi đi tới cửa quan khóc lóc van vỉ kêu xin “Tòa”, cho tui về với con cháu. Quan tòa hể-hả cười cười, coi như “xí xóa chuyện chó má nha”!
        Thời điểm đó đồng tiền Việt Nam được tính như sau:
        * 1.000$ ! Số tiền khá lớn. Khi hối xuất lúc 1978 bấy giờ là:
        * 103$ Việt Nam, so với ngoại tệ Mỹ là chỉ ăn = 1$ usd
        * 1 bảng Anh là = 130$,64 Việt Nam.
        * 1 quan Pháp là = 12$,64 Việt Nam.
        - Giá vàng 24k = 1 chỉ, từ 13.000$ đến gần 16.000$.
        ***

        Đang quá đau đớn buồn rầu vì chuyện “tiền mất tật mang” oan ơi ông địa, xui xẽo từ đâu ập đến gia đình mình. Bỗng dưng vào buổi đêm hôm khuya khoắt, dưới ngọn đèn dầu leo lét, khi tôi đang lui cui dọn dẹp, bỗng nghe tiếng chó rít rít… tru rú rất quen thuộc, nó cào cào tấm liếp sau lưng nhà. Dè dặt và có chút lo sợ khi mở cửa ra, tôi thấy con Jacky ốm tong ốm teo, gầy nhom nhô bộ xương cách trí lên cao. Nó mừng rỡ, cuống-quít vẫy đuôi chạy quanh nhà.

        Các con tôi đang nằm ngủ trên những “tấm giường táp lô”, nghe tiếng chó sủa lát gừng, các con ú ớ dụi mắt nhìn quanh. Thế rồi chúng liền chồm dậy, đồng loạt ré lên. Các con mừng rỡ ôm chầm lấy chó. Con Jacky rít rít tru hú và chồm lên liếm liếm vào mặt các con. Nó ngoắt đuôi lia lịa, liếm liếm lung tung tới tấp vô mặt vô tay chúng tôi, nó không ngớt rít rít trong cổ họng, đuôi ngắc tới tấp. Con Jacky nhìn ra phiá cửa rít rít và cào cào xuống đất, thì ra… con Jacky muốn kêu “vợ của nó” đang khép nép lấp ló ngoài tấm vách, nó kêu con kia vô nhà “trình diện”. Cả nhà tôi lỏ mắt há hốc miệng ra mà ... “hả”???

        Bỗng nhiên "hai đứa nó" dừng lại ngơ ngáo nhìn quanh, rồi chạy xộc ra cửa. Chúng tôi chưa hết bàng hoàng ngơ ngác nhìn nhau không biết nói gì. Lát sau, “vợ chồng chúng nó" cúp đuôi quỵt quỵt bò bò hai chân trước lết lết vô nhà, như tạ lỗi. Xa xa là bầy cún sáu con lút chút nho nhỏ, ăng-ẳng loăng quăng quờ quạng chạy theo sau con mẹ. Chúng tôi vừa mừng vừa sợ, cùng ngồi hụp xuống quanh bầy chó ốm đói, thấy thảm! Các con vui vẻ ôm bầy cún vào lòng hun hít chụt chụt, con mừng rỡ như tìm lại bạn cố tri. Bầy cún tuy ốm nhom nhưng thơm mùi chó con chi lạ, những cái lưỡi nhỏ thò ra, lông con giống màu lông cha, mẹ... nó, nhưng bóng mướt với những bàn chân mum múp, mềm mại, hồng hồng, coi dễ thương quá chừng!

        Hai hàm răng đi tìm gặp va vô nhau nghe lanh canh lập cập, tôi ngơ ngác lo sợ mà run, vui mừng tột độ làm tôi tịnh khẩu luôn! Tôi vội đi nấu cho bầy cún nồi cháo loãng pha chút muối, tôi đỗ ra cái chảo, luôn tay khuấy cháo, chờ cháo nguội. Tôi vừa để xuống đất, bầy cún xộc vào liếm láp, chỉ trong phút chốc đã hết sạch. Con chó mẹ chạy quanh bầy con, vẫy đuôi lia lịa. Chó cha nằm xuống đứng lên, nước dãi chảy ròng ròng. Tôi đưa tô cháo vào mõm con chó mẹ màu vàng vá những đốm trắng nho nhỏ. Nó chỉ táp táp vài miếng, rồi ve vẫy đuôi, hoan hỉ rít lên, hình như nó muốn nhường phần ăn cho đàn con. Và, nó ve vẫy đuôi rồi chồm lên ngực tôi, như thể hứa sẽ trung thành và biết ơn người chủ mới.

        Bây giờ thì có lẽ tôi đã hiểu: Dạo trước tên cán bộ chạy tới nhà tôi, là do con Jacky đã bỏ nhà ông chủ mới của nó, để “đi theo gái”. Hoặc là nó đã “phụ” ông chủ nầy, khi biết tin “bạn gái của mình” đã mang bầu, hai đứa nó bèn len lén bỏ nhà ông cán bộ ra đi. Ra đi... còn dẫn theo “vợ” đi hoang núp lén ở đâu đó, sống lây lất qua ngày ở đầu dường xó chợ. Chờ cho “mẹ tròn con vuông” khi mấy đứa con nhí đã mở mắt ra thấy đường đi, thì “vợ chồng con cái” dắt díu nhau trở về “mái nhà xưa”, để tạ tội chúng tôi, con Jacky không quên mang những món quà “hồn nhiên đặc biệt” về cho gia đình chủ cũ, nơi mà nó luôn thương nhớ, vì nó là một con chó trung thành và có nghiã, có tình. Cứ nghĩ xa nghĩ gần như thế, và tôi "phiệu ra" về chuyện con Jacky, mà vui!
        Bé Tuấn hỏi:
        - Ông Toà có đến đây bắt bầy cún đi không? Hở mẹ?
        - Mẹ nghĩ là không đâu, con à.
        - Thì mình đã đền cho họ một số bạc quá lớn rồi em.
        - Ổng cán bộ đưa cho nội chỉ hai trăm bạc mua chó, còn mình thì bị mất chó, lại phải đền bạc ngàn, mà em.
        - Nếu bộ đội Tin đến đây gây sự nữa, đòi chó, thì ổng chơi với chuột, chớ chơi với ai?!
        - Lần nầy thì anh không nhịn đâu. Em. Anh cà lơ phất phơ sẽ cầm “chơm, đục”, đi thí cô hồn với tên lừa dân cho coi.
        - Chẳng thà em nhịn đói, chớ không bán chó, để cho ổng lừa mình.
        - À há. Bán chó cho ông ta, thì con Jacky chỉ có nước là:
        Nghe vẻ nghe ve…
        Nghe vè thịt chó.
        Đứa nào chịu khó.
        Nấu nước cạo lông.
        Con chó chút xíu.
        Chín mười thằng ăn.
        Đừng có xỉa răng.
        Sau khi ăn chó.
        Thịt chó ăn tối.
        Mát bụng ngủ ngon.
        (2)
        * * *

        Tôi chỉ biết khắc khoải hy vọng và trông chờ; trông chờ và hy vọng… Ngày nào cũng như ngày nấy... khiến lòng tin yêu hy vọng trông chờ đã trổi dậy trong tất cả khát vọng. Tôi nghĩ hết cách, tìm kế sinh nhai vẫn không ra thể thống gì, sau nhờ ông cậu Cương ở ngoại quốc gởi về cho năm trăm dollars. Tôi trở nghề nuôi heo nái, non một năm sau, heo mẹ “sản-xuất” ra bầy con lít chit kêu ụt ịt, tôi mừng rỡ, mình nuôi năm sáu tháng sau sẽ bán heo con, kiếm tiền độ nhật. Nuôi heo nái là một kỳ công, khổ cực trăm bề, khiến tôi đâm ra giận cá chém thớt. Tôi đổ ụp bao bèo ra giữa sân, vô ý cùi chỏ vung mạnh, đã trúng cạnh bàn táp lô đá, đau điếng. Bực dọc, tôi đưa chân đá mạnh chiếc ghế sắt què chân lặt lìa lặt lọi. Chiếc ghế dập ngược lại, phang ngay vào ống quyển mình sưng vù, bầm tím. Tôi co chân xoay mấy vòng, xuýt xoa, đau điếng.

        Mẹ con tôi vừa lội ngoài mé sông Cầu Bông, vớt bèo ngoài trời nắng chang chang về, mệt rũ người. Tôi ngồi dạng háng giữa lề đường, (nhà nhà cả khu xóm nầy quá chật chội, nên ai ai cũng lấn chiếm của chung ra ngoài lộ, hầu mong có chút sân cỏn con, để xử dụng công việc vặt). Tôi vơ lấy vơ để đống bèo, cứ thế, tôi giáng mạnh con dao phay cùn trên tấm thớt mỏng, tấm thớt nhảy tưng tưng theo từng câu chưởi:
        - Con đường nào cũng dẫn đến La Mã. Nếu vùng La Mã có treo câu: “Không có gì quý hơn độc lập tự do thật” thì hay lắm. Tiếc thay!

        Hàng khẩu hiệu trên, há chăng đã treo đầy trên mọi ngỏ ngách, lại đóng cao trên cột cổng trại tù. Ôi! Mỉa mai thay! Từ ngày có câu nầy, đời sống biết bao người và gia đình tôi bị chà đạp, cướp đoạt, bóc lột hết mọi thứ. Bỗng dưng dân tụt xuống đáy vực, không có gì quí hơn sự trần truồng, trụi lủi ban-sơ như thuở đầu mới lọt lòng mẹ là gì! Ấy thế mà, cuộc đời tôi dù lắm bon chen, trải qua muôn vàn trái trở đắng cay, bầy heo con lọt lòng chưa được ba tuần, qua “cơn gió chướng”, bầy heo rũ nhau ra đi theo tam tứ đại họ hàng ông bà ông vải dòng họ giống heo Yorkshire mất tiêu. Chúng tôi chỉ biết ngồi bên nhau khóc ròng.
        Bà Nga thủ thỉ bên tai tôi:
        - Nói chung mọi người ở hai miền Nam Bắc đều có ruộng vườn, bạn bè thôn xóm; có mái nhà chui ra chui vào ấm áp, có gia đình vợ con anh em như chúng ta. Nhưng mà… Cô cậu có ăn học cao như thế, sao hồi ấy vợ chồng cô không chịu đào tẩu, dzọt lẹ theo thuyền bè mà ra khơi, cho bầy trẻ nó nhờ. Trụ lại làm gì cái nơi thổ tả nầy, không biết!
        - Em đâu có ngờ…
        - Ừa phải! Sao tôi dốt nát quê mùa tệ! Ngay khi đi xếp hàng mua vải vóc, hay thực phẩm, tôi bị lừa. Hàng lậu hàng dỏm từ biên giới vùng chợ trời Tây Ninh chuyển về, mà đám chóp bu cũng bị tráo, bị lừa, nữa là tôi.
        Các con tôi càu nhàu:
        - Bà trưởng Ấp nói mẹ con mình lao động cho tốt, thì ba sẽ về hoài, sao mình cứ xách đồ ăn, đi thăm nuôi ba mãi như vậy, hở mẹ?
        - Ở trường cô giáo cũng nói: Con phải học xuất sắc, tiên tiến, thì ba mau được tha về. Tám chín năm nay, con đứng nhất lớp hoài. Mà sao ba chưa về?

        Lời nói của các con chẳng khác nào như xô nước bẩn tạt vào mặt tôi, tôi giận run cúi đầu im lặng mà vuốt mặt không xuể. Nhưng giận ai? giận gì? Giận mình đã lừa dối các con thơ ư? Tôi chỉ biết ậm-ự, giả lả chờ ngày mai đến! Ngày mai không bao giờ giết chết niềm hy vọng! Dù nỗi đớn đau dày vò, tâm trí lao đao, mệt nhoài, nhức buốt những suy nghĩ nặng trĩu trong đầu mình. Năm bảy tháng có khi hơn cả năm, mẹ con tôi mới có dịp đi thăm Luật một lần. Trong trại tù, con tôi đã hỏi ba:
        - Ba nói ba chỉ đi “cải tạo” hai tuần. Nhưng mấy trăm lần hai tuần, rồi cả chín mười năm nay. Ba mẹ lại nói láo với tụi con: “mai mốt ba về”.
        Tôi nín lặng. Làm sao có thể hứa suông mãi:
        - Ừ. Hãy ngoan, học giỏi con nhé. Ba sắp về mà.
        Đi thăm tù. Đi hoài, chỉ có đi mà không có về. Ồ, mà về, về đâu? Về đâu rồi cũng sẽ... chả ra cái thể thống gì! Thân xác anh chồng bây giờ lúc nóng lúc lạnh, váng vất vật vờ theo cơn sốt rét da vàng cao độ, với giấc mơ hãi hùng trôi lềnh bềnh như con sóng vỗ mạnh. Luật giơ những ngón tay gầy quơ cào chới với vào khoảng không, anh oằn người cố hét lên, để thoát ra khỏi giấc mộng dị kỳ. Thân xác anh vã mồ hôi hột, anh đau rất nặng như bị tảng đá đè lên, hai mắt anh mở không ra, ở trại tù không hề cho một viên thuốc, anh càng chìm lún vào vũng tối mê hoảng mênh mông. Vì:

        Mùa mưa trở lại sao anh không về?
        Hay đã đi rồi là xa mãi mãi?
        Chỉ một lần thôi đi dưới mưa khuya.
        Ai bảo bên nầy thương nhớ bên kia.
        *
        Mùa mưa trở lại anh đi không về.
        Mong tóc anh chừ màu đen vẫn thắm.
        Chập chờn từng đêm nỗi nhớ lê thê.
        Tóc vắt ngang trời mưa đẫm cơn mê.
        *
        Sợi tóc em vương áo anh ngày cũ.
        Màu tóc thật đen, đen đến bây giờ.
        Chờ đã bao lâu, bao mùa mưa lũ.
        Bạc cả cơn mơ lẫn tóc người chờ.
        *
        Giờ thì tóc đen bện cùng tóc trắng.
        Bắc làm sao qua biết mấy sông hồ!
        Mùa mưa trở lại giăng trên lối vắng.
        Ướt cả trong ngoài mà lòng vẫn khô.
        *
        Mùa mưa trở lại anh đi không về.
        Mong tóc anh chừ màu đen vẫn thắm.
        Chập chùng từng đêm, nỗi nhớ lê thê.
        Tóc vắt ngang trời, mưa đẫm cơn mê.
        (2)
        ***

        Mười năm sau… khi Luật ra tù "cải tạo", chúng tôi tằn tiện cố dành dụm ít tiền còm, có mở cái quán bé tẻo teo, chiều dài và rộng chỉ có 3m x 2m, bốn bề quây bằng liếp phên ọp ẹp, trên mái lợp lá dừa che nắng che mưa, quán mở nhờ nơi trước sân đất bất hợp pháp của nhà ông bà Ngôn. Trong quán đặt tấm ván ép, vừa dùng là nơi tối Luật nằm ngủ, để canh giữ quán, cũng là nơi đặt một cái máy may cũ, nhận may quần áo lẹt xẹt, ngỏ hầu kiếm miếng cháo sống lây lất qua ngày. Trước cửa sổ rộng toang hoác treo tòn ten những nhánh chuối, bánh ú, bọc kẹo, bánh đa,... vân vân... Dưới gầm tấm ván ép có đóng hàng kệ dùng để chao, mắm, muối, dầu đậu phụng, ớt, hành, ngò, bột ngọt, linh tinh... Tóm lại quán xá chi nghèo nàn leo teo và trống trơn, thấy thảm. Nhưng chúng tôi cố kiên nhẫn chịu đựng để lây lất sống qua ngày.
        Suy cho cùng, thì gia đình tôi sống trong xã hội chủ nghĩa, thật không có gì quý bằng... nghĩa chó!
        *

        Sau nầy, tình cờ tôi đọc được nhiều bài viết về CHÓ rất hay - Thật tình tôi vẫn nhớ thương và tiếc nuối bầy chó nhà tôi, vì tôi không thể mang chúng nó đi Mỹ cùng gia đình. Đồng thời khi tôi đọc bài viết của: Luật Sư George Graham West đã thắng kiện với bài biện luận được coi là bài diễn văn hay nhất thế kỷ, khiến tôi lại càng nhớ thương con Jacky, vì chúng tôi quý nó vô vàn: Luật Sư George Graham West đã nói:
        ... Thưa quý ngài Hội Thẩm,
        Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này, có thể một ngày nào đó hóa ra kẻ thù và quay ra chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực, rồi ra có thể là một lũ vô ơn. Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gấm hạnh phúc và danh dự, có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi hành động dại một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ.

        Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ rơi ta, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta. Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú qúy, cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh lẫn ốm đau. Nó ngủ trên nền đất lạnh dù gió đông cắt da cắt thịt, hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta, dù không còn thức ăn gì cho nó. Nó canh gác giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng, dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta tán gia bại sản, thân tàn danh liệt, thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời.

        Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư, thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho được làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và khi trò đời hạ màn, thần chết đến rước linh hồn ta đi, để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy, khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ, thì khi ấy vẫn còn bên nấm mộ ta con chó cao thượng của ta, nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở to cảnh giác, chân thành và chân thực ngay khi ta đã chết rồi.
        ***

        Tình Hoài Hương


        (1) - ca dao
        (2) (sưu tầm)
        (3) “Tóc Vắt Ngang Trời” :
        Thơ Lê XuânN. Phổ nhạc: Đoàn Khôi.
        *
        Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-13-2018, 03:13 AM.
        Bút trần nào tả được lưu luyến!
        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
        Tình Hoài Hương

        Comment


        • Tết Mậu Tuất (2018) nhớ về Tết Mậu Thân (1968)




          Tết Mậu Tuất (2018) nhớ về Tết Mậu Thân (1968)


          Muôn ngàn chim én líu lo, xôn xao tưng bừng, ríu rít chao lượn từng đàn đông nghẹt trên mái ngói lầu cao. Từng chòm thông tươi tốt mọc thẳng lên cao vút, xòe táng lá xanh mướt, um tùm, trông cao lớn, phơi phới, mát mẻ lạ thường. Tiết trời quang đãng, trong thanh, ấm dịu, vừa xua tan đêm trừ tịch nơi thành phố Đà Lạt an hòa, thi vị có lắm mộng nhiều mơ. Tự lúc nào không biết gió xuân về mát rượi, khiến tôi cảm thấy trong lòng dâng lên nỗi an thư ngọt ngào lâng lâng, xao xuyến ngất ngây vô vàn. Niềm vui đọng lại trên non ngàn những giọt sương long lanh, rưng rưng nơi cánh hoa anh đào, hoa lan, hoa hồng… và nơi đài hoa mai chúm chím e ấp buổi giao mùa.

          Kể từ ngày 23 tháng Chạp, mọi người nôn nao đưa Ông Táo về Trời, nhờ ông tấu trình với Ngọc Hoàng công việc làm ăn ở trần thế. Thì, ngày xưa ở cung điện hoàng gia vua chúa nước ta, từ nhất phẩm đến cửu phẩm sắp hàng thứ tự trước điện rồng, để làm lễ bái tạ Trời. Đất. Vua, quan, viên chức uy quyền trong triều đình sắp tới hàng dân dã, ai nấy đều làm lễ trừ tịch, tống cựu nghinh tân. Các lễ trong triều thần quan trọng là: Nguyên Đán. Phất thức. Tịch điền rước thần nông. Tế xuân. Du xuân (hưởng: Xuân, Hạ, Thu, Đông). Cúng tam sinh: Trâu (hoặc, bò, dê). Ngoài ra còn có lễ tế cờ: Có ba bài vị gồm: một viên tướng cờ đi đầu. Sáu vị tướng cờ đi giữa. Năm vị thần cờ đi hai bên.

          Toàn dân đón xuân náo nhiệt, tưng bừng vui vẻ, linh đình. Người ta bày hương án, bánh trái hoa quả cúng gia tiên, mâm cổ đầy nhóc trên bàn: nào là xôi, gà, vịt, heo, bánh trái, vân vân... Sau đó họ đi thăm mồ mả. Đi lễ chùa hái lộc đầu năm, thăm đình đài lăng miếu. Dân gian được tự do chơi bài Chòi. Tam cúc. Cờ tướng. Xóc dĩa. Bài tây: xì lát, đánh xì tố, xóc bầu cua, vân vân... Sau ngày hạ cây nêu, thì có lễ hoá vàng, đốt vàng giấy, lúc giấy gần tàn, họ đổ ly rượu cúng vào lò đốt, là chấm dứt ngày Tết.

          Nay thì nghi thức nghinh xuân ấy được đơn giản rất nhiều. Nhưng vẫn theo phong tục cổ truyền Việt Nam, dù bận rộn, đa đoan với muôn vàn công việc chất chồng. Dù cách trở xa xôi đến đâu, thì ba ngày Tết người ta vẫn quay trở về mái nhà xưa, trước tiên mừng ngày trọng đại của cả dân tộc, cùng cúng giỗ thờ kính tổ tiên, sau là ngày sum họp mật thiết rất quan trọng, ngỏ hầu gặp gỡ người thân trong gia đình… tay bắt mặt mừng hân hoan vui vẻ chúc tụng nhau bao ý lành, vui hưởng Tết Nguyên Đán linh thiêng đầm ấm, thong dong đi thăm viếng mọi người. Ngày Tết là ngày hưởng lộc đầu năm, ngày linh thiêng, thế nên ai ai cũng trân trọng, kiêng cữ, không làm điều sai quấy, nói năng bậy bạ.

          Ngày mồng Một Tết, Mậu Thân. Gia đình tôi đi chúc tết ông bà Cương, và bà con thân nhân bên nội ở trong Hà Đông. Ai nấy chúc nhau:
          Năm mới Tết đến
          Rước hên vào nhà
          Quà cáp bao la
          Mọi nhà no đủ

          Vàng bạc đầy hủ
          Gia chủ phát tài
          Già trẻ gái trai
          Sum vầy hạnh phúc

          Cầu tài chúc phúc
          Lộc đến quanh năm
          An khang thịnh vượng.
          Đong cho đầy hạnh phúc

          Gói cho trọn lộc tài
          Giữ cho mãi an khang
          Thắt cho chặt phú quý…
          Cung chúc tân niên,

          Sức khỏe vô biên,
          Thành công liên miên,
          Hạnh phúc triền miên,
          Túi luôn đầy tiền,
          Sung sướng như tiên.
          (*)

          Xế trưa vợ chồng tôi chạy xe lên trên Couvent thăm hai gia đình anh chị Thái, Thiệu, bạn bè xóm làng thân thương, rồi đến khu nhà Bò (Đào Duy Từ), qua bên Nhà Chung gần nhà thờ con gà thăm anh chị bên họ ngoại. Chúng tôi lại ra phố thăm hỏi gia đình anh chi Lê. Đâu đâu pháo cũng nổ dòn: đùng... đùng... đùng... thật vui vẻ rộn rã tưng bừng. Người người hớn hở tay bắt mặt mừng, muôn câu chúc tụng hân hoan ấm nồng luyến thương hoài nhớ. Nhà nhà người nào người nấy tụm lại gây sòng đánh xì phé, đánh chắn, xóc dĩa. Trẻ con chơi lắc bầu cua ở góc hiên nhà. Thanh niên nam nữ và tráng niên lại chúc:
          Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
          Phúc lộc đưa nhau đến từng nhà
          Vài lời cung chúc tân niên mới
          Vạn sự an khang vạn sự lành.

          Đầu xuân năm mới chúc BÌNH AN,
          Chúc luôn TUỔI TRẺ chúc AN KHANG.
          Chúc sang năm mới nhiều TÀI LỘC
          Công thành danh toại chúc VINH QUANG.
          (*)

          Cận khuya chúng tôi mới lò mò trở về nhà. Nhà tôi ở tại ngả Tư Trần Bình Trọng và Mai Hắc Đế, cạnh bên trái hông nhà tôi là khu Dân Y Viện Đà Lạt, ngược về hướng dòng Domain De Marie (là đi xuống trường Đa Nghiã và Khu số Bốn). Trong tận cùng im vắng của đêm trường đầu xuân mát rượi lẫn ngọt ngào hương vị ngày Tết nồng ấm xiết bao!
          Bỗng nhiên tôi nghe từ nơi xa xa đạn réo vù vù trên không trung. Súng lớn súng nhỏ đồng loạt khạc đạn, làm rung chuyển mặt đất, tung tóe lửa dữ dội. Khu đồi Domain de Marie yên tĩnh ở phía bên kia vực thẳm, sau lưng nhà tôi dội lại tiếng gầm thét dị kỳ: xì xì, xẹt xẹt… ùm… ùm…, pằng… pằng…, tạch tạch…, cắt bụp, cắt bụp… xè…! Đạn rạch đêm tối vút vút bay qua bay lại, đan chéo qua chéo lại. Những đóm mắt sáng đục hỏa châu lơ lửng trên không trung nở vàng bầu trời khuya. Trái sáng tụt nhanh xuống mặt đất và tắt đột ngột, trả lại bóng đêm tối thui, như khi nó chưa nở rực ra trên bầu trời khuya quạnh vắng đẫm ướt sương mù. Trong màn đêm đầy sương trắng xoá dày đặc bị xé rách bởi lằn đạn tóe lửa. Mặt đất phả ra làn hơi sương nhút nhát, e dè lởn vởn bay bên mấy bụi cây.

          Ban đầu Lâm ngỡ là mình nằm mơ ngoài trời đốt pháo Tết, nhưng sau khi anh thấy trái sáng rợp trời, súng đạn rạch không khí bay chíu chíu… xịt... xịt, có cả thứ súng “cắt, bụp, xè”; nên anh tỉnh hẳn người. Lâm gọi mẹ, vợ con dậy ngay. Nhanh như chớp, vụt thoáng trong giây lát tôi và Lâm kéo nệm xuống gầm giường, hai chúng tôi lò mò trong bóng tối để giăng mùng cẩn thận, rồi Lâm bế hai đứa con mắt nhắm mắt mở chui vào mùng. Chúng tôi nằm sát bên vách gỗ, đắp kín mền mà tôi vẫn cảm thấy toàn thân lạnh giá vì vã mồ hôi hột, hai hàm răng va vào nhau lụp cụp, tay chân bủn rủn run cầm cập. Tôi sợ hãi gần như nghẹt thở. Súng nổ dập dồn không lúc nào ngơi hung hăng tống vào ngọn đồi thưa, nơi có mấy công xưởng, ty Hiến Binh hồi xưa (nay là chi nhánh của Ty Công An, nằm về phiá tay phải nhà tôi).

          Lâm bấm bấm vô cánh tay tôi, để ngón tay trỏ lên miệng anh, khoèo vào hông tôi và ra dấu cho tôi bò theo. Chúng tôi mò mẫm lồm cồm bò bò từ phòng ngủ ra phòng khách tối. Lâm nhón người nhẹ vén bức màn voan, nhìn ra đường quan sát. Đường phố im lìm vắng lạnh. Nhà nhà đều cửa đóng then cài cẩn thận. Tuy vậy, tôi thấy nhiều tấm màn bên những ngôi nhà ấy khẽ lay động. Hỏa châu đỏ nở rộ trên trời như những đôi mắt hung thần, soi rõ cảnh vật. Trên trời liên tục bừng sáng và hoả châu rơi xuống, chìm lẫn vào bóng đêm.

          Do tôi mãi nhìn đường phố vắng lạnh, thì Lâm vội bụm miệng tôi, anh kéo tay vợ nép vào góc tường. Khi ấy tôi thấy khoảng năm sáu tên đội nón cối, mặc đồ đen, đồ xanh rêu cháo lòng, hay mặc đồ lộn xộn, ống quần rộng thùng thình, lụng thụng cột túm vô mắt cá chân. Tay họ cầm súng, lưng đeo đạn. Quanh thân dắt cành lá, họ cúi đầu lom khom lủi lủi gần sát bên hiên nhà của nhà tôi. Họ mò mò cúi khom lủi chạy đi về phía đồn Công-an trên đồi. Họ đêm thành thạo, hình như họ thích hợp, quen thuộc với bóng tối, hay do ý tất thắng chiếm đoạt, muốn vượt qua trở ngại, hầu đạt đến khát vọng xâm lăng điên cuồng? Tiếng kêu lách tách lạch cạch do súng đạn cặp bên hông va đập vào nhau lộp độp theo mỗi bước đi cử động của họ, tôi nghe rõ, rùng rợn, hoảng sợ mà sởn ốc trâu và ớn lạnh! Chúng tôi đã bật ngữa ra: Việt Cộng đang xâm lăng lãnh thổ Đà Lạt, khiến tôi càng rợn người kinh khủng.
          Giây lát sau tôi nghe ở cửa cổng đồn Công An (rất gần khu nhà dân) có tiếng quát hỏi:
          - Ai đó???... Đứng lại.
          - Đứng lại, không tôi bắn.

          Không trả lời, lập tức đạn nhỏ súng lớn đồng loạt bay vèo vèo Pằng… pằng… pằng… Đùng… Đùng… Đùng… Oằng… Ùm… vút vút bay tới tấp trên đầu người dân. Thành phố Cao Nguyên Lâm Viên truyền cảm xiết bao đã bị xâm lăng, thành phố Đà Lạt nổi danh là thành phố thơ mộng, hiền hoà, một thành phố duyên dáng duy nhất không có đèn xanh đèn đỏ ngăn cản bước chân người, và chận dòng xe lớn nhỏ đều tuần tự nhịp nhàng chuyển động, đã thực sự đã đi vào binh đao, và bùng lên ngọn lửa chiến tranh hung tàn rồi! Đạn nổ lốp đốp, rơi rào rào, loảng xoảng, ào ạt rớt xuống mái tôn nhiều nhà lân cận, nghe sắt và lạnh. Khi chiến cuộc bước vào con đường an cư hòa ái của xứ lạnh hiền hậu nầy, dân cư ngơ ngơ ngáo ngáo và bàng hoàng lo sợ ghê lắm (vì ở nơi nầy yên bình ít khi có chiến tranh).

          Vài phút sau đó trong xóm tôi kêu gọi nhau chui xuống gầm giường, gầm bàn trốn đạn inh ỏi. Tiếng kêu rú khóc la, xen lẫn tiếng súng bắn, mìn nổ thật gần, nghe rợn xương sống, đinh tai nhức óc, tức ngực quá chừng. Ôi lạy Chúa! Trẻ con bên hàng xóm cứ khóc thét toáng lên từng hồi, giống như có người nào ngắt nhéo chúng, hay cắt tay chặt chân chúng nó vậy. Còn đàn ông con trai thì im thin thít. Bây giờ nếu có tiếng la giọng nói của đàn ông, là càng làm người khác lo sợ gấp ngàn lần. Người ta lo sợ sự giao tranh súng đạn ngoài kia, và tiếng đàn ông núp ở trong xó nhà lắm. Có khác nào mấy ông tự tố cáo "lạy ông tui ở bụi nầy". Việt-cộng sẽ chĩa súng vào ngực họ, mà bắt đàn ông thanh niên đi làm bia đỡ đạn, hay bị bắn cái đùng. Thì khốn.

          Khi căn nhà gỗ của bác Thao bị sập một bên, càng khiến cư dân trong khu xóm hoảng hốt la to, kêu rống, hét tướng lên… réo gọi tên nhau, kêu khóc ồn ào huyên náo bội phần. Bảy căn nhà vách ván đơn sơ ở xóm nầy đã đứng chênh vênh bất lợi từ mọi phía, lẻ loi, trống trải, cô độc trong địa bàn giao tranh, không ai có một tấc sắt để tự vệ. Biết lấy gì chống đỡ! Họ vẫn phơi bộ mặt cơ hàn, giơ cái bụng lép xẹp ra trước thời gian ở nơi lằn đạn mũi tên thế! Trốn tránh thế nào được! Khu xóm cao chênh chếch như một cù lao đứng giữa hai lằn đạn thì... có mà chạy trốn lên đằng trời. Chưa việc gì mà! Phải! Phải! Nhưng lạy Chúa! Sao tôi run lẩy bẩy, lo sợ tột cùng, miệng lưỡi co cứng, cổ họng đắng chát, khô khốc, hai bờ môi khô lông lốc dính chặt vào niếu, không một giọt nước miếng, không thốt được một âm!

          Bầu trời đầy sương mù sau sáu giờ sáng bỗng dưng lặng ngắt như tờ, im ắng bao trùm còn đe dọa rùng rợn hơn cả nghe tiếng súng, hoặc có sự chết chóc. Sương mù và bóng tối không đồng loã với bình yên, nó bốc đồng và phản bội con người lúc nào. Chẳng rõ. Bây giờ không còn dòng suối mát, không ao hồ, thác nước thơ mộng đầy quyến rũ mang vẻ duyên dáng nên thơ Đà Lạt với danh lam thắng cảnh xứ hoa đào rồi. Biết đâu sẽ diễn ra “u mê ám chướng chiến tranh”, những lằn đạn chằn chịt theo khói lửa bay về thành phố nổi danh quyến rũ mơ màng! Đạn vèo vèo bay, xoắn tít hình trôn ốc ghim vào lòng đất, khiến địa hình Đà Lạt thi vị trở nên xấu xí, nhăn nhúm, biến dạng lởm chởm hẳn đi. Nhìn thấy nó mình mất cả hồn cả vía, chứ thơ mộng duyên dáng, gợi cảm cái nỗi gì nữa không biết.

          * * *

          Ánh nắng rực rỡ bừng lên, lớp sương mù dày đặc đọng lại trên các cành hoa anh đào, chạy suốt con suối cạn gần khu Domain de Marie mọc đầy lùm dã qùy to lá, nhụy nâu vàng hoa nở dọc theo bờ đất lỡ cuối vườn nhà tôi. Nước rỉ rả chảy xuống hố, rồi uốn lượn quanh co trong nhiều đám sậy nhấp nhô. Một ngày mới lại bắt đầu trong cuộc sống bất trắc âu lo. Phiền muộn. Hãi hùng âm thầm mà đau, đầy băng giá, mang mùi vị tởm lợm chết chóc và chiến chinh. Cái chết đe dọa từng giờ trên đầu mỗi người, ở trong thành phố Đà Lạt nổi tiếng hiền hòa thơ mộng xinh đẹp đang bị vây hãm. Súng đạn khiêu khích từng ngày, từng đêm, từng giờ, tệ mạt hơn là người dân phải chịu đựng những cơn xoáy lốc bốc lửa rít lạnh tê người khôn nguôi. Tim mọi người đập thình thịch không ngừng, không vì trận gió từ đỉnh đồi Lâm Viên thổi về. Mà vì nhiều loạt súng của kẻ xâm lăng đùng đùng đùng… Cắt bụp cắt bụp… Xè xè… và loại súng bắn trả: Pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… vang lên tứ phía liên tục luôn mãi, nhức nhối tai.

          Từ ngày mồng Hai Tết Mậu Thân đến nay, mỗi ngày khoảng ba giờ chiều, bà con cô bác từ các đường: Hoàng Diệu, Trần Bình Trọng, Mai Hắc Đế, Yết Kiêu, Số Bốn, Số Sáu, Hai Bà Trưng, vân vân… lại ùn ùn chạy lên nhà thờ Domain, xin các bà dòng tu cho tạm trú dưới từng hầm. Họ mong tìm đến với nhau cho vơi sợ hãi và quên âu lo. Họ mong xích lại gần nhau tìm chút hơi ấm qua đêm. Sáng sáng họ lại lục tục kéo nhau ra đi, ai về nhà nấy. Từ trên dòng Domain về nhà, tôi nhìn trước ngó sau dáo dác như kẻ trộm. Căn nhà đêm trước bỏ hoang mở toang hoác cửa ngõ, chẳng cần cửa đóng then cài làm chi! Vì đã có súng đạn giữ gìn hộ rồi, chả lo gì mất của cải! Thời buổi nầy, lo giữ gìn bản thân chưa xong, chả an toàn, hơi sức đâu ai thèm đi giữ gìn của chìm của nổi, và hôi của người khác nữa không biết.

          Tôi nấu vội nồi cơm thật lớn cho cả nhà ăn một hoặc hai ngày, rồi thấp thỏm tất tả chạy ra chợ xép ở đường Hoàng Diệu bòn mót đủ thứ đồ uống thức ăn cho có chất rau tươi. Tôi giành giật ở ngoài chợ mua nhặt từng chục trứng vịt, vài bó rau. Thịt, cá, thì mắc như vàng! (còn khu chợ lầu Đà Lạt to lớn là thế, mà nay leo teo mươi hàng rau đậu héo uá, dập nát). Có bao giờ người dân phố núi nghĩ ra: nơi thành phố thơ mộng quyến rũ nầy, lại có bộ mặt độc ác cuả kẻ xâm lăng vô Nam khuấy nhiễu, gây ra chiến tranh, ngỏ hầu người dân tích trữ thực phẩm khô, trong mùa xuân dồi dào nhựa sống chứ!
          Các tay đầu tư thì cất dấu thực phẩm thật kỹ, cửa đóng then cài kín mít. Thỉnh thoảng có vài tiệm buôn lớn chỉ he hé cửa ra, họ “bố thí” nhỏ giọt từng ký gạo cho đồng bào, than ôi mình rớ vào muốn phỏng tay với giá tiền cao cắt cổ kinh khủng. Đại lý gạo Sơn Hà lớn nhất thành phố, tuyệt nhiên không thấy xuất đầu lộ diện, không có một hột gạo nào thoát ra khỏi khe cửa. Người ta đồn tiệm nầy là chỗ “kinh tài” cho Việt Cộng (!?) Ô ô hô... gạo thơm để nuôi dân lành cần cù lam lũ làm ăn, hay “nuôi ong tay áo, nuôi khỉ đốt nhà” hử!?

          Mấy ngày đầu năm mới (trong cuộc chiến Mậu Thân), người ta mang theo vào tầng hầm trú ẩn nào là: bánh chưng, bánh tét, xôi, thịt, cơm gà cá gỏi. Đủ loại mứt, trái cây, hạt dưa, vân vân... Hương vị ba ngày Tết chưa kịp ăn. Nhà nhà đều dư thừa thức ăn ê hề, không thiếu món gì! Sau đó thực phẩm ứ đọng, thiu thối, hư hại sạch. Mọi người hồi hộp lo sợ, băn khoăn ngao ngán, nên chẳng ai nuốt trôi, họ nhịn đói mà khóc, không thể ăn uống bất cứ thứ gì. Họ đem ra đồ ăn vứt sau sườn đồi của nhà thờ Domain cạnh khu trường học, tha hồ cho lũ chuột cống, ruồi bọ tranh nhau lúc nhúc loi nhoi giành ăn.

          Bất kể lúc nào, hễ nghe tiếng súng dồn dập, xa xa, về hướng Cam Ly. Khu Số 6. Khu Số 4. Dòng Chúa Cứu Thế. Lạc Dương…. Là bà con trong xóm tôi tê tái, hoảng hốt, ơi ới gọi nhau, sẵn sàng tay ôm tay xách, cổ đìu lưng cõng con cháu vụt chạy nhanh lên ngôi nhà thờ kiên cố trên đỉnh đồi, cần sự xích lại tương thân tương trợ ấm áp. Chúng tôi mong xích lại gần nhau, tìm chút an tựa, cần sự lân mẫn tự nhiên của người đồng cảnh ngộ. Khoảng ba giờ chiều, người người lục tục kéo nhau đi đến các nơi kiên cố và đông đúc. Tại khu hầm trú thì mỗi gia đình "xí phần" một góc vừa đủ trải vuông chiếu để ngả lưng sơ sài. Trên manh chiếu nương thân, họ dùng làm chỗ ngồi, ngã lưng nằm, cả nhà ăn uống qua loa chén cơm để cầm hơi. Cũng tại trên vuông chiếu nầy, người ta chồng chất đủ thứ lặt vặt cần thiết đã vội vàng mang theo.

          Giống như những ngày hôm trước, sáng sáng tản mác mỗi người về mỗi nhà. Họ gồm đủ mọi thành phần trong xã hội, đủ khuôn mặt già trẻ lớn bé, xấu đẹp, ốm mập, đen trắng. Đặc biệt giữa đa số khuôn mặt bình dân thảng thốt ưu phiền, lo sợ, thì có bảy tám thanh niên thiếu nữ choai choai dé dé xinh tươi ở đâu tập họp lại, ưa náo nhiệt. Trước đó quần áo các cô cậu coi hợp thời trang, họ ung dung lượn quanh hầm, vui vẻ cười nói huyên thuyên, móng tay móng chân các cô đỏ chót. Vài ngày sau tôi dòm họ xộc xệch, túi vải lịu địu máng trên vai có tô thêm đất bùn lem luốc. Họ mệt mỏi cố vơ vét tất cả gia tài nhét trong xách da căng cứng bung hết dây kéo. Họ luôn mang kè kè bên hông, họ không khóc được, vì sự kinh sợ đã kéo dài khá lâu, vượt quá tầm mức chịu đựng của con người. Họ hãi hùng kêu tên nhau, i ỉ thút thít, nước mắt cạn khô, ráo hoảnh, ngơ ngáo bất động thì thôi.

          Riết rồi ngày ngày chung đụng, người ta biết mặt, biết tên nhau, biết biết, quen quen, thân thân, hỏi hỏi, nói nói, ồn ào như vỡ chợ, nhưng nét mặt mọi người mỏi mệt bần thần băn khoăn đầy ngao ngán buồn thiu. Người ta mất ăn từng ngày, mất ngủ từng đêm âu lo tột độ. Sự đông đúc đầy dị hợm bắt đầu tẻ ngắt trong căn phòng chen chúc chật cứng, ngột ngạt như lò hồ quang, thiếu ánh sáng, thiếu không khí, thiếu mọi tiện nghi. Cảnh di tản có đủ thứ chuyện vui buồn. Tin tức nóng bỏng nhất được truyền khẩu trong ngày, trong tuần lan từ đầu nầy đến đầu kia, nhanh như chớp. Không gian và thời gian im lặng tẻ ngắt, đầy ghê rợn suốt buổi trong căn phòng chứa khoảng hơn ba ngàn người. Họ chen chúc ở nơi ngột ngạt, thiếu không khí, thiếu ánh sáng. Đôi lúc trên đầu loé lên tia lửa rạch không khí, bay vù vù trong không gian. Lằn đạn xẹt qua. Hai ba chiếc phi cơ không nhìn thấy rõ bay vút trong bầu trời, qua khung kính trên vòm mái cao. Giây lát sau tiếng rền rú uồm uồm uồm… ghê rợn. Hàng loạt đại bác trút xuống đỉnh đồi, vào khe suối xa xa…

          Tôi xiết bao kinh hoàng lo lắng, và bồn chồn sợ hãi, vì Lâm đi trực về báo tin nhà ba mẹ tôi ở tại một Villa trên số 2 đường Pasteur, đối diện với Tiểu Khu Đà Lạt bị đốt cháy mất ¼. Ngôi nhà đồ sộ nay chỉ còn bức tường gạch (ở mặt trước đường Yersin), và bên mặt tiền phiá phải cuả ngôi nhà về hướng Pasteur) còn mấy hàng cột trơ trẽn (!?). Sau tiếng súng cắt, bụp, xè… thì mọi thứ bị đốt tan tành. Phố xá hỗn độn, khói lửa hừng hực bốc cao, khét lẹt bao ngày chưa dập tắt, kể từ khi cơn binh biến hùng hổ đến vỗ mãi những âm buồn. Nghe mà thật đau đớn bàng hoàng hốt hoảng và lo âu xiết đỗi. Một ngày kia tôi vội vã chạy về nhà. Đứng trên một góc tầng lầu nhà của ba má tôi đã bị sập gần hết một phần tư, trong nhà tối om, vắng tanh, đồ đạc ngổn ngang hư nát. Ba má và anh chị tôi đi đâu hết rồi? Họ có an toàn không?! Tôi lo lắng, bồn chồn, lấp ló thụt thò, dáo dác len lén nhìn sang phía bên kia đại lộ Pasteur, (đối diện nhà ba má tôi là cổng Tiểu Khu Đà Lạt/Tuyên Đức), hai mặt tiền nhà ba má tôi và Tiểu Khu chỉ cách một đại lộ, gần xịt.

          Những anh lính trong doanh trại Tiểu-khu vội vã chạy lui chạy tới, lăng xăng, bồn chồn làm cái gì đó, xem có vẻ cấp bách, cần thiết lắm. Việt Cộng đã dùng bangalore phá một góc rào cuả Tiểu Khu. Một chiếc xe thiết giáp bị trúng ba quả B40 vẫn bốc cháy ngay trên đường Pasteur (sát cuối hông vườn sau nhà ba má tôi). Việt Cộng lẻn vào khu nhà xây gần Viện Pasteur để bắn vào Tiểu-khu. Nhưng xem ra không mấy thiệt hại. Kho Quân Tiếp Vụ bốc cháy, sáng rực cả một góc trại. Ty Cảnh Sát Đà Lạt sát bên nhà thờ Chánh Toà cũng bị hư hỏng nặng. Khẩu đại liên 30 đặt đâu đó, có thể là ở khu Quân Cụ thỉnh thoảng quạt một hồi vài tràng bâng quơ, tôi nghe rát bỏng, sợ hãi và điếc ù hai tai.

          Trên bức rào cuả Tiểu Khu tôi thấy có ba thân thể cháy đen, mà rải rác gần đấy có vài cánh tay, bàn chân lủng lẳng quai dép râu. Những núm ruột người trắng hếu, dài lòng thòng còn lắc lẻo, đung đưa lắc lư vắt trên hàng rào gạch kiêm hàng rào B 40 rung rinh. Ruồi bọ lúc nhúc bu đông đen, rồi vụt ù ù bay lên đáp xuống. Khi ấy có vài người rảo bước liếc nhìn vội vã đi qua. Úi trời ơi! Mùi thúi thì thật hôi ơi là hôi kinh khủng. Khiến tôi bịt hai lỗ mũi, vẫn cảm thấy chịu không nỗi mùi thum thủm thúi hoắt, khiến mình không muốn vẫn nôn ọe ra.
          Có con chó lài hoang ốm tong ốm teo, lông lá lưa thưa nhô cao bộ xương sườn, từ góc đường Yersin + Pasteur nó rón rén lủi đi kiếm ăn, con chó rụt rè ngơ ngác nhìn quanh, nó vội cụp đuôi vô trong háng, cúi đầu cắm cổ chạy đến bên mấy xác Việt Cộng. Nó liếm liếm khúc ống quyển đen thui, và nó dỏng tai hếch mỏ lên... Trời ơi! Khúc ruột chỗ trắng chỗ đen vắt vẻo trên hàng rào gạch đong đưa, bầy ruồi bay lên, lộ ra khúc ruột dài ngoẵng chui thật nhanh vào hai hàm răng con chó gầm gừ nhe ra.

          Tôi sợ dựng tóc gáy, xớn rớn, chao đảo, giao động mạnh, dày vò, và đau đớn cào xé con tim, hãi hùng tột cùng muốn xỉu. Hai đầu gối tôi run rẩy va đập vào nhau lộp cộp, như người mắc bệnh parkinson luôn tiết ra chất dopamine, khiến mình bại hoại rã rời tứ chi, lồng ngực tôi nhô lên hụp xuống sâu hơn. Tôi run bần bật ngồi bệt xuống dưới góc balcon, chẳng hiểu sao tôi cứ ói ra nước, rồi ói ra hoài, toàn thân muốn rệu xuống. Mấy tháng trước bà chị của tôi đã làm thịt chó, chị nấu đủ thứ, nào là: Rựa mận. Nướng. Hon. Thui. Thịt tái chanh. Thịt luộc. Xào lăn, vân vân... Hôm ấy có mấy gia đình anh chị em vui vẻ “xơi” thịt chó thơm phức ngon lành, chúng tôi ăn từ đầu chó tới đuôi chó, thậm chí cả bốn móng cẵng chân giò, xương chó cũng chặt ra làm nồi nước lèo xúp chó hầm ngon nhức nhĩ! Sao lúc ấy tôi chẳng thấy nôn oẹ, sợ hãi như bây giờ!?

          Bỗng dưng tôi sực nhớ tới chuyện rùng rợn ở Tây Tạng, nơi thủ phủ Lhasa đến một vùng hẽo lánh kia, có tục lệ rất kinh dị khủng khiếp. Họ thường làm nghi thức tiễn người chết rùng rợn từ lúc rạng đông: Họ từ tốn lấy dao lóc từng miếng thịt người chết ra miếng nhỏ, rồi để trên những tảng đá cho kênh kênh ăn. Lại có nơi lóc thịt người chết vất xuống nước cho cá ăn. Hoặc họ vạc một phần trên sọ, chẻ sọ người chết ra, dùng sọ người làm chén ăn. Họ nghĩ: hoả táng tốn kém than củi và tăng oxide carbone (CO) thì uổng. Thủy tang hại nguồn nước môi sinh, mất công uống cả xác tro người chết vô bụng. Chi bằng cho loài kênh kênh xực, cá ăn, cho chắc ăn! Do nghĩ như vậy, thịt chó và thịt người chết treo lủng lẵng nơi góc hàng rào kia; khiến tôi càng tởm lợm và nôn ọe ra mật xanh mật vàng!

          Chiến cuộc từ thời kỳ giặc giã đã tàn phá biết nhiêu mà kể xiết trong đất nước nầy, chiến tranh gây hận thù và chết chóc, bao đau khổ người dân còn kẹt lại trong cái thế trên đe dưới búa. Làm gì được lúc con người gây ra chiến tranh thật phi nhân, phi đạo đức. Làm chi được hỉ với con cáo, con hồ, con cọp, con chó sói, thậm chí cả con chó nhà đang nhe hai hàm răng nhọn, hoặc giống như loài bò sát rắn độc?: nếu ta không biết “thời thế thế thời thời phải thế” khôn ngoan trầm tĩnh thu mình dẽo dai chịu đựng! Mặc dù loài vật hung ác, nhưng nó biết đối xử tốt và bênh đỡ đồng loại. Tuy beo, cọp, chó sói: là giống ăn thịt sống chẳng hạng; nhưng đối với đồng loại chúng vẫn hiền lành lui về hang ổ (nơi an tựa ấm áp, thân tình), chúng biết yêu quý hổ con, sói con cuả mình. Càng hơn nưã chúng nhận biết đồng bọn, luôn trấn giữ bảo vệ bè-đàn cuả mình, không để tên “dị chủng” khác chủng loại xâm phạm.

          Nhưng khi có “những kẻ” vượt lằn biên qua vĩ tuyến: táo tợn xâm lăng thành phố thơ mộng, chúng ngang nhiên đặt chân vào miền đất hiền hòa, cẩu thả dùng súng đạn bay vèo vèo, ầm ầm, đùng đùng trút trên đầu nhân thế đang vui hưởng ngày Tết, lúc mọi người tưng bừng nôn nao rước tổ tiên ông bà về chung vui với con cháu, và thưởng lãm dáng xuân huy hoàng êm đềm ngự trị trên thế trần. Thì tôi xin mạn phép cho hỏi:
          - Kẻ đi xâm lăng và xâm phạm tới người khác, tàn ác gây ra cảnh đau thương tang tóc; thì những kẻ ấy thuộc về “hạng gì”?

          Lo lắng rón rén bò bò trên hành lang nhà, và tụt xuống những bậc cấp, tôi tất tả chạy rõ nhanh về nhà mình, vừa chạy vừa thở hồng hộc, khiến tôi mệt kinh khủng! Từ nhà ba má ở đại lộ Pasteur, tôi cắm đầu cắm cổ chạy bán sống bán chết xuống đường Bà Triệu, tới Cầu Bá Hộ Chúc, qua góc Cường Để và vòng ngược lên đường Thành Thái, chạy qua rạp ciné Ngọc Lan. Tôi thở hổn hển, mệt lử ngơ ngác đi ra phố Hòa Bình: Hai chiếc xe jeep (ở khu Hòa Bình) bị Việt Cộng núp đâu đó bắn mấy quả B40, hai xe nầy cháy rụi. Tất nhiên là có người chết thảm rồi. Tiệm Hồng Châu (ở sát bên cây cầu xi măng cuả Chợ Mới) cũng cháy rụi, đen thui. Mấy tiệm lân cận ở quanh khu Hoà Bình, đường Phan Bội Châu cháy khét, khói lửa mịt mù, mùi hôi kỳ lạ tỏa ra cùng khắp. Phố xá buồn thiu, vắng hoe, tan hoang, lạnh lẽo như một thành phố chết.

          Lác đác có mấy bộ hành tất ta tất tưởi, dáo dác lấm lét nhìn quanh, rồi dọt lẹ! Bốn người Thượng già: một người vạm vỡ đóng khố sọc rằn ri. Một đàn ông trung niên thân quàng tấm mền len cũ. Một phụ nữ ở trần giơ bộ ngực no tròn có núm vú đen đen ra giữa lộ thiên, và một thằng bé con khoảng ba tuổi trần truồng, khí trời lạnh đến thế mà hình như họ chẳng thấy lạnh, là sao nhỉ? Họ thường bán hoa lan ở trên góc phố, tôi thấy mấy người lớn đang khóc hụ hụ, họ hỉ mũi sột rột, họ bập bập cần tẩu cong cong như chữ S, mùi thuốc lá hăng hắc nồng nồng phả vào không trung mù khói đen xám, quyện lẫn làn sương núi mờ mờ vật vờ bay bay dưới nắng xuân chan hoà. Ông ta khạc nhổ bãi nước miếng văng xuống đất, coi gọn ơ:
          - Khu Du Sinh trên cuối đường Huyền Trân Công Chúa, đã bị lửa cháy rụi hết, khiến nhà cửa tui tiêu tan. Mất hết! Kể cả gà, chó, ngựa, heo… và con người. Hụ hụ hụ... Các ôn ơi!

          Thì ra họ bị “các con cháu bác” tớI đây bóc lột hết, chứ chả phải họ không biết lạnh! Tôi phiền não chạy riết về đường Minh Mạng, qua hướng Cẩm Đô, leo lên dốc ở nhà xác cạnh nhà thương. Chạy tắt trên đồi cỏ sau bệnh viện để về nhà. Tôi nằm vật ra giường, thở hổn hển, mắt trợn ngược mở trừng trừng nhìn lên trần nhà, ngao ngán thở dài và lo lắng sầu khổ biết bao!
          *

          Tình Hoài Hương

          (*) Sưu tầm đó đây
          Bút trần nào tả được lưu luyến!
          Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
          Tình Hoài Hương

          Comment


          • Cuối Tháng Hai Bi Thương Huyết Lệ



            Cuối Tháng Hai Bi Thương Huyết Lệ


            Mấy con kiến dương, con cánh cam từ đâu bay vù vào tầng hầm đã bị bể những ô kính, chúng liệng đi liệng lại vài vòng, rồi đâm sầm vào vách tường đá, nghe cái "cộp", lớp vỏ cứng bóng láng ánh lên màu xanh biếc, lẫn màu cánh cam lóng lánh xoè ra, che phủ hai cánh bên trong mỏng te rất duyên dáng hài hòa có nhiều sợi gân nổi trên lớp vỏ mềm mại khép dần. Thế rồi chúng loay hoay cố tìm chỗ thoát ra ngoài, nên bò đi bò lại trên vuông cửa bể.
            Tôi chợt nhớ ngày xưa ấy, tôi ưa ngồi dựa lưng vào cây thông chạc hai, chạc ba, tôi đong đưa đôi chân trên cây thông lùn tách chẽ thân ra làm đôi, để rình bắt cho bằng được con cánh cam, và bụm nó ở trong hai bàn tay, khum khum mà nương nhẹ, nâng niu. Lúc ấy tôi ngó lên bầu trời xanh lồng lộng gió, nhìn chiếc máy bay lượn trên cao, tôi hy vọng hão huyền, vui vẻ hát nho nhỏ những bài tình ca, khi hai bàn tay tôi thoăng thoắt đan áo thật đều, sợi len lướt nhanh và thành thạo trên cây kim mà tôi chẳng thèm nhìn.

            Ngày nay, tại tụ điểm lánh nạn có nhiều phi cơ không nhìn thấy rõ vụt bay trên bầu trời, qua khung kính bể dưới vòm mái cao. Thì, câu chuyện hứng khởi về các kỳ công, thành tích của chiến binh giàu kinh nghiệm chiến trường, thường là đề tài bàn thảo đầy hấp dẫn, hứng thú, nuôi dưỡng trong lòng người dân đen niềm sung sướng, hứng khởi và kiêu hãnh khác thường. Chúng tôi đang ăn không ngồi rỗi ở dưới tầng hầm của nhà thờ Domain de Marie nầy. Những chiếc phi cơ thi nhau gào rú trên bầu trời, khẩu minigun sáu nòng có bốn ngàn viên đạn nhấp nháy chỉ vài phút đã khạc lửa ra khỏi nòng đang vút bay đến mục tiêu, khiến lòng tôi càng nôn nao, bồn chồn, cuống quít, lo lắng, sợ hãi xiết bao.

            Đời có lắm chuyện tôi không hiểu, không thể hiểu nỗi. Từ lúc có “bọn giặc đỏ” về, mỗi ngày chúng tôi phải bồng bế con đội nắng mưa mà đi, vì căn hầm của nhà thờ Domain sẽ đóng khoá cửa. Mấy người trong xóm và gia đình tôi cùng nhau đi ngang qua Tiểu-đoàn lính trấn thủ Thị Xã Đà Lạt, tôi ngẩng nhìn anh hiệu thính viên giữ máy truyền tin AN/PRC 25 đang liên lạc giữa Tiểu-đoàn và Đại-đội. Các chiến sĩ có người cài lựu đạn M 26, mang súng colt 45, có người mặc áo poncho ướt đang mở nắp bi đông uống nước, anh vác khẩu M 16. Bên chiến xa M 48 trọng pháo cơ động, mấy quân nhân nằm lăn lóc trên các nẽo đường, dưới ngọn đồi chiếm đóng, trên cành cây còn ngái ngủ. Người choàng áo ca pốt ngồi sưởi lửa trong cái chốt dựng tạm vài hôm nay, mấy anh hong đôi bàn tay sạm nắng trên bếp than hồng, từ những trái thông khô xẹt tia lửa ly ti nổ tí tách. Cành lá thông tươi chất thêm vào lửa, tỏa khói mù mịt và phả ra mùi nhựa thông thơm hăng hắc, nhưng thật dễ chịu. Họ hong lửa mong xua tan bớt gió rét vì cơn mưa trái mùa. Giá lạnh ban mai làm tê cóng người lính phong sương dãi dầu mưa nắng.

            Tôi rất quý mến và kính trọng những người lính không quản ngại gian khổ, vì bản tính chiến sĩ đa số thích phóng khoáng, tự do, hăng hái, nhiệt thành, nhất là trọng danh dự lo bổn phận có trách nhiệm. Thời gian lạnh lùng nghiệt ngã trôi qua, họ không tính bằng gian lao cay cực, khó nhọc, hạnh phúc hay hoài bão, ước vọng. Khi mùa hạ tới, thu đi, đông về, xuân đến... đời chiến sĩ phong sương, dãi dầu nắng gió khuya chiều, không gian bàng quan chả nương nhẹ đôi tay: dù phũ phàng, cay nghiệt, và buốt giá. Niềm nhớ thương da diết mỗi lúc một hao gầy trong đớn đau thầm lặng. Khóe mắt lính choáng đọng huyết lệ bi ai cảnh chiến tranh quyết liệt. Chiến sĩ ấy chấp nhận chết ngoài sa trường vì quê hương, vì dân tộc, thì có sá gì cái lạnh rét run run ngoài da và gió buốt vã vô mặt. Nhưng chiến sĩ ấy đã chết lịm trong lòng, vì cảnh huyết nhục tương tàn thật vô nghĩa trước tiên do bọn khát máu “đều têu” gây ra. Họ phải dấn thân, vì rằng:
            Bất dâng cao sơn, bất tri thiên chi cao.
            Bất lâm thâm cốc, bất tri điạ chi hậu
            (không lên núi cao, không biết trời cao đến mức nào.
            Không xuống hang sâu thì không biết đất dày ra sao)
            (tục ngữ)

            Lần đầu tiên vấp phải sức kháng cự không tương xứng với đối phương, các chiến binh không dám ra tay càn quét cộng quân. Bởi vì, nơi vùng sẽ giao tranh tại khu Số 6 và khu Số 4 nầy, còn kẹt lại khá nhiều người dân vô tội trong tầm tay kềm tỏa. Khiến anh lính chiến có chiếc nón sắt rộng, thỉnh thoảng úp xuống tận sóng mũi, che cả cằm đến nồng ngộp nghẹt thở, hơi mỏi mệt, ngỡ ngàng, và bồn chồn xôn xao bâng khuâng làm sao ấy. Lính nằm ngửa trên đám cỏ bồng chờ đợi quyết định của chính phủ, anh bực tức, vác súng đi lui đi tới, bồn chồn đứng ngồi không yên. Người lính chiến biết nghe đạn xoáy rít bên mang tai ù ù, mà không có mũ sắt đội đầu thì e rằng đời đi đon. Anh biết bổn phận làm trai phải trả nợ núi sông. Lính gồm đủ mọi thành phần phong tục khác nhau, đã sống trên miền đất quê hương khác nhau, với hoàn cảnh gia phong và ước muốn càng khác xa nhau hơn.

            Khung trời Đà Lạt se lạnh giữa lưng núi gom từng phiến mây bạc ùn ùn trôi dưới nắng vàng tươi rói. Mây phơi phới hào phóng bay bay khắp đỉnh đồi thông vẫn reo vi vu, quyện lẫn mùi hương hoa ngâu, hoa lý, hoa lài, hoa bưởi tỏa ra thơm thơm. Gió lồng lộng vỗ vào hàng hiên bên giại nứa sau hè nhà, phối hợp cùng bầy chim én lý lắc ríu rít vút vút bay lên bay xuống. Nắng và gió vô tình lùa tới, thi nhau đẩy khói lửa bốc cao vào cuộc chiến. Cho đến lúc chết vẫn tranh chấp kịch liệt những con đường nhấp nhô trồng nhiều hàng hoa anh đào, hoa xá lị, hoa mimosa óng ả lả lơi uốn khúc, lượn sóng vòng vòng quanh co ven đồi núi Đà Lạt. Khiến ta thèm những đồng bằng ruộng dâu, vườn bông cải su hào, những vườn mận, những đồi trà bạt ngàn đất đai phì nhiêu, cả những luống hoa muôn màu tươi đẹp, bao đồi thông ngút ngàn xanh um bóng mát.
            Thế nên ta phải giành lại những gì đúng thuộc về riêng ta. Lính VNCH lũ lượt kéo nhau lên đây quyết giữ gìn thành phố Đà Lạt nho nhỏ; nhưng nổi tiếng xinh lịch quyến rũ nên thơ, nơi có những ông già bà lão chất phác thật thà, hiền hậu chăm chỉ làm việc. Nơi ươm nhiều mộng đèn sách chuyên cần và hải hồ phong sương của những chàng trai đơn sơ ôn nhu chớm lớn. Những nữ sinh nề nếp ngoan hiền “một dạ hai thưa”... thùy mị và đặc biệt đa số các cô hồn nhiên với… nụ cười duyên nồng nàn chúm chím, với… đôi mắt hồ thu long lanh tia nhìn trìu mến, với… "hai má nở hoa đào” có lúm đồng tiền rất xinh. Những em bé mủm mỉm ngoan ngoãn hiền lành dễ thương, tay chân mềm mại, các em có đôi mắt đen lay láy, hàng mi cong dài lưa thưa như đôi mắt nai, hai má em phúng phính trắng hồng. Nhìn thấy các em bé, không mấy ai mà chẳng có cảm tình với người Đà Lạt.
            ***

            Ngày cuối tháng Hai, cả nhà tôi dù lo lắng sợ hãi trăm bề, nhưng phải lò mò đến chân khu nghĩa trang số 4, vì bị bọn Việt+ lẽn về thành phố quậy phá, nên chúng tôi không thể đi viếng nghiã trang. (Không cứ gì riêng chúng tôi lo sợ, mà phải kể như toàn miền Nam Việt Nam ai nấy đều bàng hoàng thảng thốt lo lắng, khi người dân đang vui vẻ sum họp gia đình để đón Tết). Luật lúi húi đốt hương trầm trên những nấm mồ tổ tiên; nào ngờ có nơi đã phơi ra thi hài lõa lồ lắc lẽo, rửa nát, tanh hôi, sình bủng, không trọn vẹn hình dáng ai rải rác bên vệ đường ở thành phố cao nguyên Lâm Viên, chưa có người kịp nhặt đi chôn. Bỗng nhiên tiếng súng bên kia rau ráu ầm vang nhức nhối nổ thật rát tai, quá kinh thiên động địa, tạo thành một chiến trường bi phẫn, bạt ngàn khói lửa tuông về, chết chóc, rùng rợn, thê thảm sẽ ập đến nữa mà thôi! Chiến tranh ngang nhiên ngốn đi biết bao thanh niên trai tráng, và ông già bà lão trẻ thơ vô tội; kể cả động vật có hai chân, bốn chân, hoặc không có chân nào như giun, rắn... và bất động vật. Bất kể “chủng loại” nào, thế mà “bọn chúng nó” cũng chẳng từ nan. Chiến sự không tốt đẹp gì.

            Phía Việt Nam Cộng Hòa chưa thể ra tay! Nếu có đề phòng trước, không bị bất ngờ, và có quyền quyết định như người xưa “tiền trảm hậu tấu”, vị tất bên phe ở miền Nam chẳng nhường cho “kẻ dị tộc” tràn vô Nam xâm lăng một tất đất. Lẽ nào chính phủ Việt Nam Cộng Hoà để “người lạ phương xa” tự do ra vào tung hoành, tranh phần lãnh thổ của riêng ta, mặc cho nó thao túng!? Vì chính bọn họ đã ngang nhiên vi phạm quy ước hiệp định “The 1954 Geneva Cease-fire Agreements” đã ấn định: chia đôi đất nước Việt Nam ra làm hai phần: miền Bắc – miền Nam tách bạch (riêng rẽ chủ quyền lãnh thổ). Lấy cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17, con sông Gianh làm mốc chuẩn mực. Dù phải chia lìa quê hương, xa nơi chôn nhau cắt rốn - Ngăn cách đôi bờ xót xa, tủi nhục, một sự tủi hờn điếng lặng đớn đau muôn đời khắc in vết chàm, không bao giờ kỳ cọ gột rửa sạch! Chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà vẫn tôn trọng quy ước, tuyệt nhiên không xâm phạm lãnh thổ của ai. Cũng không so đo chịu chút “lép vế” do đã “nhường & nhịn”… là rõ có lòng nhân đạo tuyệt vời ra sao! Ấy vậy mà, những tên “bố tổ cha bác kia” đã làm động mồ động mả, động những ngôi cổ mộ tôn kính từ lăng Nguyễn Hữu Hào xa tít trên triền núi Cam Ly Thượng, chạy dài xuống nghĩa trang… động cả thánh thần muốn yên nghỉ giấc nghìn thu ngoài nghiã trang khu số 4. Ngay trên bàn thờ mọi gia đình cũng bị lật tung, ông bà tổ tiên bị dựng đứng dậy! Nhất là hương hoa đèn nến nghi ngút toả ra tại các chùa chiền linh thiêng, am tự, nhà thờ, nơi đình đám hội hè, mọi nhà cư dân yên ấm vui vẻ ba ngày Tết Nguyên Đán cổ truyền, đâu đâu cũng bị bốc cháy, rụi tàn.

            Thảng thốt. Bàng hoàng tột độ. Thật phi đạo đức! Tôi thương những người chân thật, mềm yếu rụt rè, phần nữa là họ cùng tôi có những nét tương giao đồng cảnh ngộ. Mặc dù sự phòng tránh bom đạn ở trong nhà tôi chẳng chắc chắn chu đáo gì, Luật đã kê ở bốn chân giường lên những cục táp lô, rồi chất bao đất cát ở bốn phiá chung quanh giường đôi, làm thành căn hầm tạm trú. Nền xi măng lạnh lẽo được quét sạch và lau đi lau lại bằng khăn lông vắt khô nước. Tôi trải tấm nệm xuống nền nhà để ngả lưng. Mới bốn giờ chiều mà cả nhà lo chui vô “hầm trú” nầy. Buồn không nói nên lời! Ở thời buổi chiến tranh không biết nghỉ mệt, làm sao bây giờ? Không sáng tối nào mà tôi khỏi thấy đầu đạn mới, mìn cày xới trong vườn hoa trước sân nhà, trong phòng ngủ, phòng ăn. Có nhiều hôm đạn ghim vào nệm, vào gối. Dễ sợ chưa! Đầu đạn ghim vào vách ván thì không kể xiết. Tất cả cửa kính bể nát, tha hồ cho gió lạnh lộng hành rít vù vù, lật tung hết mọi trật tự trong gia đình. Mấy cái phuy chứa đầy nước uống đạn xuyên qua, nước chảy cạn xuống đáy thùng. Sáu bóng đèn điện trong nhà cứ vài hôm bị đạn "xơi tái" đi. Riết rồi trong nhà tôi, ngoài ngỏ, nơi đường cái tối thui, không còn một bóng đèn nào, Đà Lạt bấy giờ gần giống như "thành phố chết" ở nghĩa trang buồn khu số 4. Không ai có thì giờ nghĩ đến chuyện dọn dẹp nhà cửa khang trang tươm tất hơn.

            Thế rồi chúng tôi không thể nằm lì ở nhà, mà phải bồng bế nhau chạy lên khu nhà dòng Domain lánh nạn, vì đạn nổ réo rát tai, tức lồng ngực kinh khủng, cư dân trong thành phố tôi ai ai cũng đi đi về về lánh nạn (người dân ở vùng nào, thì tạm lánh ở những cao ốc an toàn nhất của vùng đó, (ví dụ khu ở nhà Chung, nhà Bò… họ sẽ chạy vô núp trong nhà thờ Chánh Toà). Dưới khu Điạ Dư thì dân vô ngủ nhờ ở trường Grand Lyce’), vân vân... Bảy gia đình ở khu Mai Hắc Đế cuả chúng tôi cư ngụ gần dòng tu Domain de Marie (dòng tu có biệt hiệu là: “dòng Bác Ái của Bà Xơ áo Xanh”, còn có tên là “dòng Nữ Tu Mai Anh”, vì trên khu đồi nầy trồng toàn hoa Mai Anh Đào”). Sau vài ngày sửng sốt bàng hoàng dáo dác lấp ló nhìn nhau; thì mấy ông mồ côi (con nuôi của các Bà Mẹ dòng) không cho “cánh đàn ông ở ngoài Đời” (đây là “từ” mà các con nuôi cuả bà mẹ dòng Domain muốn ám chỉ về: -Những người ngoài đời ấy không phải là con nuôi, con mồ côi “thuộc quyền cai trị” của các bà mẹ dòng tu-). Mấy “ông mồ côi” không cho mấy “ông ở ngoài đời”, vào ngủ nhờ dưới tầng hầm.
            Mấy “tướng mồ côi” nầy được các bà mẹ dòng Domain đi nhặt nhạnh ở đâu đó trong thành phố, hoặc vài nơi: Tỉnh, Thành nào… đã bị cha mẹ họ dã tâm bỏ rơi con. Rồi các bà dòng bác ái ấy cưu mang, ra tay làm phúc, gây đức, lụm khụm tay bồng tay dắt đùm túm tha nhặt mang trẻ không cha mẹ, tứ cố vô thân về nhà dòng, mà nuôi dạy cho nên người hữu dụng. Khi các bà có “cục cưng” thì ôi thôi họ lo nuôi nấng, ấp ủ cho “đàn con côi cút” có cơm ăn áo ấm mặc, học hành tử tế. Dĩ nhiên “các cưng” được các bà cho ăn cơm ngon và không khỏi với… ăn đòn (khi các con ưa quậy tưng trời)! Đàn con nuôi dần dà lớn lên thành nhân, thành tài, các mẹ dòng lại đứng ra dựng vợ gã chồng “hợp tác” cho con mồ côi có tổ ấm riêng. Các bà dòng làm một dãy nhà gỗ, hoặc nhà xây ở tít dưới thung lũng (khu đất rộng trong khuôn viên dòng). Các bà mong họ sống ấm no thoải mái, sanh con đẻ cháu ở đó cho tới già, tới chết. Khi họ lìa đời, mẹ dòng lại bưng họ đi chôn trong một góc tư điền tư thổ xa xa dòng Domain nầy. Đúng là nhà dòng bác ái Mai Anh!

            Trở lại chuyện mấy ông: Mặc dù “mấy ông tướng mồ côi” dư biết bảy gia trưởng “ở ngoài đời” là những cư dân sống đàng hoàng, lương thiện, có công ăn việc làm cố định, có nhà cửa, đồng thời họ là hàng xóm láng giềng thân cận với khu đất dòng Domain. Ngày ngày mấy “tướng gia mồ côi” thường lui tới, ra vào nhà mấy ông “láng giềng bạn dân” ngoài kia; đôi bên vui vẻ la cà tưng bừng ăn nhậu lai rai. Chưa say, không đã, không xỉn, không quên nghêu ngao ca hát, đưa lui đưa tới: “anh hân hoan đưa em về, rồi thì em lại dùng dằng chẳng chịu chia tay, lôi kéo nhau… em đưa anh ra”. Họ “khắng khít” với đàn anh ngoài đời thắm thiết, chả chịu bò lết trở về nhà.
            Thế mà hôm nay lúc bên ngoài súng đạn bay vèo vèo, nhưng “bạn mồ côi ấy” phớt lờ khoá chặt cửa nẽo, bình thản và tàn nhẫn đứng ở trong cửa hầm, vô tư lự nhìn ra nhóm đàn ông ở ngoài cửa. Dù mấy tay đàn ông đứng ở ngoài cửa hết hơi năn nỉ ba ông mồ côi thân quen gác cửa muốn gãy lưỡi, họ vẫn không cho mấy ông ở ngoài trời vào.
            Luật giận run đã chưởi họ một trận. Anh nổi cộc dùng tay không đấm rõ mạnh vào một ô cửa kính, khiến nó bể nát, mảnh kính ghim vô bàn tay Luật, máu tươi chảy ròng ròng. Tôi xanh mặt, ớn lạnh và run lẩy bẩy không thốt nên lời. Luật xỉ tay vào bên trong cửa kính vừa bể, hét to:
            - Không cho chúng tôi vào. Hãy mở cửa cho vợ con tôi ra ngay.
            Bác Hải chống hai tay lên sườn:
            - Ông không sợ lũ hèn nhát chúng mày. Nhớ nhá!
            Báu rung mạnh cánh cửa bể:
            - Bà dòng cho mọi người vào đó ở tạm. Chứ nào phải nơi nầy là của riêng bố tổ ...tổ cha chúng mầy, mà không cho ông vào. Hử?
            - Chúng mầy là loài liu điu, nở ra dòng liu điu, mà cứ tưởng mình là chó sói, nên thị oai ở rừng ha. Có ngon, thì chúng mầy mở cửa ra đây. Sẽ biết tay ta.

            May mà mấy cha nội mồ côi đứng lấp ló ở bên trong hầm. Chứ nếu họ đứng gần cánh cửa bể, thể nào cũng bị Luật thộp ngực áo lôi sát tới ngoài tầng hầm, thì... thể nào họ cũng bị “các ông ngoài đời” thẳng tay "nện, dần, đục, tộn" cho một trận nên thân. Kẹt lại bên trong hầm không ra được, mẹ con tôi thấy cảnh tượng Luật bị máu chảy ruột mềm, thì tôi đã chưởi vu vơ nhoi trời đất. Tôi bắt họ mở cửa lớn cho mấy gia đình chúng tôi (ở chung dưới xóm) đi ra. Nhưng tên giữ chìa khóa cửa lớn đã lủi trốn đi đâu, lúc nào không rõ.
            Đêm đó, bác Hải, Báu và Luật nằm tơ hơ trống huếch trống hoác ngoài trời mà co quắp dưới chân bàn thờ bên hang đá Đức Mẹ, không mền chiếu. Vì có thiết quân luật sau 7giờ tối là không ai được phép đi loạng quạng ra ngoài đường. Trời Đà Lạt lạnh vào khoảng 10/o C. Họ cứng đơ như bị ướp đá. Luật giơ tay vuốt bầy muỗi rơi khỏi khuôn mặt sưng vù, dày cộm, muỗi tha hồ hút máu đông. Họ không còn cảm giác, gần như chết cóng. Dù cuống họng, lưỡi và môi không mấp máy trỗi nhạc, mà hai hàm răng va lộp cộp từng cơn run. Họ thức trắng đêm thì thầm cầu nguyện, mong bình an và cầu trời mau sáng. Nhìn chiến trường bốc lửa từ phía Khu Số 4. Khu Số 6, họ lo sợ kinh khủng!

            Thỉnh thoảng hoả châu đỏ rực bầu trời suốt từ chập tối đến rạng sáng. Cứ mươi lăm phút thì súng lớn từ hướng Bắc câu đi đâu đó vút vút ầm ầm ầm. Súng nhỏ gần gần trong địa bàn thành phố lại nổ từng hồi pằng pằng pằng… Tạch tạch tạch… đùng đùng đùng. Ầm! Oành! Bầu trời rực sáng màu đỏ tía, do trực thăng bay vòng vòng rất gần đỉnh đầu chúng tôi đã khạc ra những tràng lửa đỏ lòm, những tia đạn dài ngoẵng vút vút lao xuống dưới, rồi bầu trời bỗng tối đen như đêm ba mươi. Trong đêm tối mà chứng kiến tận mắt những tia lửa từ nòng súng khạc ra, mới cảm thấy sự vô tri bạo tàn không kém phần oai dũng cuả súng ống lạnh tanh tua tủa bắn ra, để trừ kẻ gian đi xâm lăng. Khói bay toả trên tít tầng mây xám, không trung quyện lẫn màu khói pha sương mù mịt mùng. Mùi hôi theo gió lùa về khét lẹt, chua chua, thum thủm, hôi chịu không nỗi.
            Suốt thời gian chiến cuộc, sau vụ Luật đã đấm bể ô kính cửa ở nhà dòng Domain, dù bàn tay anh băng bó rồi, nhưng máu vẫn rỉ ra, ban ngày Lâm đi làm việc, chiều chiều một mình anh đến nhà bác Chiểu ở đường Phan đình Phùng ngủ nhờ. Khi nào không có phiên trực ở Tiểu khu, choạng vạng tối Luật ghé tạt về nhà thăm chừng mẹ con chút xiú, là đi. Nơi chốn nầy khá hẻo lánh, ai nấy đều cảm thấy sợ.
            * * *

            Hôm nay thì chúng tôi bồng bế nhau lên ngủ nhờ trong dãy hành lang của Dân Y Viện Đà Lạt. Vào bệnh viện ngưởi thấy mùi nồng nồng, hôi hôi, tanh tanh, mùi thuốc sát trùng thật khó chịu, hầu như ai nấy muốn nôn ọe. Nhưng gia đình chúng tôi phải ráng chịu đựng. Mẹ chồng, tôi và hai con trai nằm đất ẩm ướt lạnh lẽo luôn luôn. Các con bị ho, sỗ mũi, nóng lạnh. Nhất là bé Tuấn ọc sữa thường xuyên. Mặc dù tôi đã mặc cho bé Dzũng và bé Tuấn áo lót, áo cánh, hai áo ấm, quần nỉ dày, mũ len, bít tất, mền bông ủ kín cả người. Nhưng các con bé bỏng đã chịu cảnh gió sương, lạnh lẽo quá chừng không thể ấm hơn, vì hiên ngoài lồng lộng gió và sương muối đặc sệt giăng mắc. Tôi quá đổi buồn phiền, thương các con, lo lắng vô cùng. Tôi thương bé Tuấn chưa tròn hai tháng, con nhỏ xíu còn đỏ hỏn mà ngày ngày tôi bế con đi ngủ nhờ ngoài hành lang lạnh lẽo lắm. Sáng sáng tôi lại bế con về nhà, giữa nắng mưa sương gió khuya chiều lạnh buốt xương sống.
            Đêm đêm súng đạn vang rền, tại bệnh viện tôi vẫn chứng kiến quá nhiều cảnh đau đớn, rên siết, chết chóc của người già có, trẻ có, đang mang bệnh tật, kể cả thương binh trào máu tươi. Cảnh nào cũng đau đớn khổ sở, đắng cay như nhau. Tôi cảm thấy sợ kinh khủng khi ngủ gần người bệnh đang dẫy đùng đùng vặn mình chờ chết, ngủ gần nhà xác. Khi nghe tiếng súng, mọi người với phản ứng tự vệ tự nhiên, ai ai cũng ngồi bật dậy, lao xuống đất và chui vào gầm giường, gầm bàn. Trước muôn vàn chinh chiến điêu linh tang tóc, khổ sở đã vỡ bung ra trên mọi miền đất nước thân yêu, không một ai vô tình trong cơn quặn đau thắt ruột lịch sử dân tộc Việt Nam, là nỗi nhục nhã ê chề, đớn đau gớm ghiết, tủi hổ tột cùng. Triệu triệu người từng chứng kiến qua nhiều góc cạnh cuộc đời khác nhau, nơi bề trái lịch sử: Tham tàn, cuồng loạn vụng về núp bóng dưới lớp mây đen u tối nghịt trời, đang tỏa sức sống trên vòm trần kính.

            Thời gian thấm thoát trôi qua… bé Tuấn vừa được ba tháng, con biết lật vào một buổi tối nằm ngủ nhờ ở góc hiên ngoài bệnh viện. Mẹ chồng, tôi và bé Dzũng vui mừng sảng khoái cười la thật to, vỗ tay reo vui hoan hỉ. Đó là niềm vui mừng trong veo, duy nhất có tiếng cười hồn nhiên thoải mái kể từ hôm chạy giặc! Tôi vui mừng hết sức. Tôi cầu mong cho các con hay ăn chóng lớn, gia đình an mạnh một phần. Phần lớn nữa là mong quê hương sớm yên ổn, để chúng tôi và mọi người trở về ngủ dưới căn nhà bé nhỏ đơn sơ, tránh khỏi cảnh ăn đậu ở nhờ nơi đầu đường, xó xỉnh bẩn thỉu và buồn da diết thế nầy. Do vui mừng cười to khi bé Tuấn biết lật, chúng tôi đã quên chuyện đi ngủ nhờ ngoài hành lang bệnh viện, khiến mấy cô y tá trực bệnh viện không hiểu chuyện gì, họ lo sợ mở cửa dáo dác nhìn quanh. Mẹ con bà cháu im bặt, chúng tôi sợ họ bực mình, sẽ đuổi chúng tôi đi không cho tá túc ở xó góc nầy, thì biết trông cậy nương nhờ vào đâu!

            Kẻ xâm lăng thành phố Đà Lạt như thế đã chiếm tới cuối tháng Hai ròng rã trôi qua… Chiến cuộc cứ thế bên thủ bên nằm, đôi khi quân lực Việt Nam Cộng Hoà tiến lên từng bước, từng bước tiến vào cửa ngỏ loạn ly. Dù lính có kế hoạch quy mô, có sách lược điều quân, và nguyên tắc phối hợp hành quân từ lăng kính thuần tuý quân sự. Nói nôm na hơn là sự tranh giành đất đai, quyền lực “với nhau”, việc nầy không phải đỗ lỗi là vì do chiến tranh, hay không chiến tranh! Phía nào không củng cố, không bảo vệ, không cẩn trọng, là mất! Nói một cách thẳng thắng lạnh lùng hơn: nếu không có bổn phận trách nhiệm, mất cảnh giác– thì sẽ mất tất cả! Nhưng bắt buộc quân nhân Việt Nam Cộng Hoà phải uể oải nằm ù lì phơi nắng phơi sương, dầm mưa nướng mình trên đất cỏ, để chờ đợi lệnh trên ban xuống. Lính ngao ngán mỏi mòn chờ đợi… rồi đợi chờ… lệnh tổng tấn công. “Trò đánh giặc” nầy tương tự như “trò chơi đánh bạc”, ta cay cú vì thua mất tiền trong ván bài ấy, do ta không đoán biết trong lòng cuả cái tô úp trên diã đặt ở manh chiếu kia là: chẵn hay lẻ!? Thì khi ta thua, ta phải nghỉ vài ván, để tìm “đối sách”. Tất nhiên người cầm cái tuyệt đối không muốn nghỉ, (nghỉ là đồng nghiã với thua). Họ nghỉ tức là buông mất cơ hội tốt lành vơ vét tiền khi “con bạc” đang say nước cờ đen đỏ!

            Lính nằm dưỡng sức trên đám cỏ bồng cũng thế! Muốn thắng địch quân, người Lính TRUNG, TRÍ, NHÂN, DŨNG không những cần có vũ khí, mà còn cần: Kiên nhẫn, dũng khí và ý chí. Từng đường máu cộm phồng co giật bên mang tai người lính phong sương dãi dầu mưa nắng, có một sự kiên định và vững chãi. Một số Lính Thủy Quân Lục Chiến các vùng khác biệt phái, Bộ-Binh, Biệt Động Quân nằm ép bụng sát đất, họ xã láng cuộc đời trên những thăng trầm đen đỏ số phận, xây dựng tình yêu nơi hoang tàn quê hương đổ nát. Mặc bao mưu toan đen đỏ trong cơn lốc chính trị lịch sử dùng dằng đẩy đưa, đầy cay đắng.
            Về phần dân thị thành Đà Lạt thì bị cô lập mọi mặt, mọi ngã đường ở nơi “khỉ ho cò gáy” chỉ có thông reo triền miên, có một đường “lả lướt lên đào nguyên” thơ và mộng, mà khi muốn về… thành phố, ngộ lỡ như con đường “độc đạo cách trở mấy nhịp cầu bị gãy”, thì kể như thành phố Đà Lạt đã “bế quan”, thì coi như sẽ đói dài dài… vì "ngăn sông cách núi" chẳng có các vựa lúa, xa biển cả đầy cá tôm, không có lối đi tiếp tế lương thực! Cả bầu trời Đà lạt dường như thu gọn lại trong chiếc máy xay sinh tố cũ khô khan kêu cót két, rít rít, ù ù rột rột quay lông lốc, nghe điếc ù cả tai, xốn xang, nghẽn nghẹt buồng tim lá phổi. Ưu điểm của Đà Lạt là thành phố thơ mộng kiều diễm đầy quyến rũ du khách, thành phố núi có không khí trong lành thanh thoáng mát mẻ. Người dân Đà Lạt thân thiện, niềm nở, hiếu khách, vui vẻ an hoà. Yếu điểm của Đà Lạt là chỉ có con đường “độc đạo” -đi và về- một lối quanh co uốn lượn lên chóp đỉnh đào nguyên trong vũng sương mù... Đặc biệt thành phố của tôi mặc dù có ngã ba ngã tư... nhưng không có những cột đèn đường màu vàng màu đỏ màu xanh!

            Bầu trời bao la càng trống trải, trực thăng bay lừ đừ như con chuồn chuồn ốm, dễ làm mục tiêu cho các họng súng cối ở nơi xa xa dựng đứng dưới đất chĩa thẳng lên trời, súng bắn từng phát (nghe dường như về hướng khu Số 6 hay Tùng Lâm thì phải). Suốt hai ngày đêm, loa phóng thanh trên phi cơ chĩa xuống đất, kêu gọi người dân ai còn mắc kẹt giữa hai lằn đạn, hãy cố gắng di tản ra khỏi mục tiêu sẽ quầng thảo. Họ (Việt Cộng) tự động tổ chức nhân sự bị kẹt lại ở đây, thành từng tổ tam tam. Họ vừa xoa, vừa tuyên truyền, vừa đánh đập, để kích động tâm lý trong lòng “kẻ bại”!? Trong khu Số 4, Số 6 đó, đa số dân lành còn bị kẹt lại vô tình làm bình phong, làm mấu chốt đỡ đạn. Họ bắt dân đen khiêng vác đất đá, đào hầm hố trú ẩn, rất cực khổ, ngỏ hầu trốn bom đạn, mà dân bị nhịn ăn. Vã lại ở trong vùng tạm chiếm nầy, làm gì có họp hành chợ búa, không ai có thể mua lương thực ăn uống!

            Trời đổ mưa tầm tã, mưa trái mùa suốt từ trưa tới chiều, hạt mưa xiên xiên to tròn nặng hạt rơi lộp độp trên mái ngói mãi hoài không dứt, gió lồng lộng thổi vun vút theo dọc hai hàng hiên. Non vài giờ sau là cả đỉnh núi Lâm Viên tuyệt diệu xứ hoa đào thơ mộng cũng không được chú ý bằng mỏm đồi khu Số 4. “Khu Số Bốn”! Đại danh ngữ ấy mới thoảng nghe qua thiệt “quê quê”, nhưng đầy nồng ấm ngọt ngào mật thiết tình quê hương, dịu dàng êm ả thân mến, chất phác, mộc mạc, đơn sơ gần gũi như tính ngữ danh xưng. Thân & thương làm sao! Nồng thắm trìu mến dường bao! Ấy thế mà suốt bao ngày qua chiến tranh tàn ác đang bám riết lấy nó. “Kẻ lạ” nhanh như sóc, lủi như chuột chù, chuột hôi len lỏi vào mọi ngóc ngách, họ ở lì trong nhiều nhà. Bắt dân đào hầm hố, len lén trèo qua những hàng rào, lủi sâu vào vườn tượt nhà dân. Họ leo trèo lên cây quả, vụng trộm thập thò rình mò dáo dác dòm ngó, coi rất gian, rù rì to nhỏ, nhìn trước ngó sau, lấm la lấm lét như kẻ cướp cạn. Chiến tranh không tốt đẹp gì. Chưa thể phân định đâu đúng đâu sai, đâu là điều hay lẽ phải. Chưa thể, chứ không phải là không thể. Nhưng chắc chắn một điều chính xác là “bên kia” đã hoàn toàn sai trái luật -do vi phạm hiệp định công ước quốc tế-, họ đã cố tình loang vết nhơ, sóng thần cào cuộn từng dòng máu chảy ruột mềm.

            Trực thăng bay lượn chậm chạp, từ trong lòng phi cơ tung thả vô số truyền đơn xuống đất, che mờ một góc trời miền núi. Thỉnh thoảng có nhiều tiếng súng rời rạc. Ùm… ùm… Ầm ầm… cắt… bụp… xè… rào rạo. Thật chói tai dễ sợ. Thế mà đằng góc trời nầy, mấy chú chuồn chuồn sắt cứ điềm nhiên, tỉnh bơ lượn qua lượn lại trên đầu chúng tôi. Dường như họ coi đó là chuyện nhỏ, chả có gì quan trọng khi cơn binh lửa bừng bừng thổi về! Vì, phi vụ của họ là ủy lạo đồng bào, dùng truyền đơn từ trong lòng phi cơ vừa rải xuống đất, ngỏ hầu chỉ dẫn dân về cách di tản. Ấy là những tấm giấy phép có uy tín, hiệu lực, để mọi người dân còn mắc kẹt trong khu vực Số 4, Số 6, Tùng Lâm... vân vân… bị tạm chiếm, “dân ta” có thể đi ra an toàn khỏi vùng phong tỏa. Đồng thời loa trên trực thăng vẫn kêu gọi “hàng binh” ra đầu thú, thì sẽ được chính phủ Việt Nam Cộng Hoà khoan hồng ưu đãi. Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà luôn khuyên "Vi ci":
            - Hãy buông tha người dân vô tội đi.
            * * *

            Quê hương đầm ấm dịu ngọt đầy chất thơ và nhạc thông trữ tình reo vi vu cuả tôi đó, cũng như nhiều nơi khác trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam đã không thoát khỏi cảnh xâm lược nghịch lý hung tàn của bè lũ Việt+. Khi vấn đề chiến tranh thật sự phức tạp, làm điên đầu các vị nguyên thủ quốc gia. Người khôn ngoan (của người khôn ngoan nhất), bình tĩnh sáng suốt, có lập trường dứt khoát, kiên định, cần giành lại từng tất đất, từng thành phố. Tất nhiên họ nhanh chóng đánh đuổi “bè lũ khát máu” đi khuất dạng (mỉa mai thay người dân da vàng mũi tẹt, đầu đen máu đỏ, sống từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mau), từ phương Bắc họ chuyên mò mẫm đi đêm, xâm phạm qua vĩ tuyến 17, để xâm lăng phần đất của miền Nam Việt Nam. Gây nên cảnh chiến tranh tàn khốc, chém giết, nồi da xáo thịt quá kinh hoàng thế nầy ư!? Dân chúng nhìn chiến cuộc xảy ra rất gần, với vẻ tò mò nhút nhát, hiếu kỳ không chịu nỗi. Phải! Bên muôn nấm mồ tàn rụi hương nhang, là sự gặp gỡ giữa trùng trùng lớp lớp khuôn mặt lạ xa, hiện diện trong cuộc chiến phức tạp quá cay đắng. Lính miền Nam Việt Nam Cộng-hoà mang đến cho ta sự hy vọng và niềm tin tưởng bừng sáng, nụ cười rộng mở, ước mong an bình, thư thái, ôn hòa, từng ngày, từng giờ, lẫn trong chung cuộc sớm kết thúc. Dù chắc chắc cuộc sống không hứa hẹn an thư dễ chịu chút nào.

            Ngoài dãy hành lang của khu bệnh viện Đà Lạt, người người tới tấp tha bùn sình, bê bết đất đỏ bẩn thỉu lê vào trên thềm nhà thương, nền xi măng ướt nhẹp nước mưa bì bỏm, lủng bủng, tanh tanh. Chúng tôi không thể ngủ nhờ ở góc hành lang nầy như mấy ngày qua, nên gia đình tôi đành phải “làm mặt mo” xách chiếu mền lết bết, lội đồi cỏ trũng nước mưa băng qua đường Trần Bình Trọng, để xin vô ngủ nhờ. Vừa chân ướt chân ráo lọt vào được trong khu tầng hầm, tôi mệt mỏi đứng thẫn thờ nhìn quanh. Chưa tìm thấy có chỗ nào còn trống, thì hai cánh cửa lớn kiên cố dẫn vào hội trường sau lưng tôi bị ai đó đóng ập nhanh, khóa chặt. Người giữ chìa khóa đã lủi vào trốn núp trong nhà dòng. Ông ta chẳng bao giờ nở nụ cười thân thiện với người chung quanh, có lẽ do ông nhát hơn cáy! Hoặc không muốn chứa thêm người lạ, sợ "bọn lạ" trà trộn vào ẩn nấp, sẽ thừa cơ hoạt động bí mật chăng?

            Ba khu tầng lầu của nhà dòng Domain: tất cả cửa sổ nhà thờ có những bức ảnh kính màu thủy tinh trang trí hình các thánh xưa tuyệt đẹp, đều vỡ nát, rơi loảng xoảng khắp mọi nơi, rơi xuống tận khu tầng hầm. Từ dưới mặt đất của tầng hầm khu Domain ngó lên hàng cửa kính, (cao khoảng chừng bốn mét), tường đá phẳng lì, không có thể với tay lên hàng cửa sổ nhỏ ở tít chóp trần trên cao. Dù mấy tay đàn ông to lớn kia đã chồng chất hai cái bàn, họ hy vọng trèo lên đó, dáo dác nhìn ngó lung tung ra bên ngoài, thăm chừng. Người ta, nhất là tôi cảm thấy vô cùng hối hận, vì tại sao ta không tìm nơi thuận tiện; hay mình tự đào hầm đào hố ở nhà riêng, mà ẩn nấp cho an toàn? Hoặc trốn núp tại tư gia nhà ai có hầm hào kiên cố. Có phải là hơn không, mà dồn cục một chỗ đông người như kiến thế nầy. Mình tự chui vào cái hầm nhốt người kín bưng, to khổng lồ, chẳng khác chi tự đem thân vô cửa tử.

            Dưới tầng hầm thì người đạo Thiên Chúa đang lâm râm đọc kinh cầu nguyện, sám hối, đấm ngực ăn năn tội thống thiết. Đạo Tin Lành úp mặt trên hai bàn tay, run rẩy đọc kinh thánh. Phật Giáo niệm Phật, tụng kinh cầu khẩn Đức Phật Thích Mô Ni Ca rất chân thành. Cao Đài, Hòa Hảo bi thiết gọi tên Trời Phật, gọi tên các giáo chủ. Trong nguy cơ bị hủy diệt tập thể thì lành ít dữ nhiều, người ta không phân biệt giàu nghèo, đảng phái, tôn giáo. Vì tôn giáo nào cũng khuyên con người hướng thiện, luôn làm lành lánh dữ, chia sẻ, dùm bọc, bác ái, yêu thương. Tôn giáo cũng như gia đình là nền tảng của xã hội: có nề nếp gia phong, có tôn ty trật tự, biết tôn trọng tự do và nhân phẩm. Giờ phút thập tử nhất sinh gần kề cửa tử thần, họ tự động mở rộng vòng tay thân ái, ngỏ hầu chia sẻ, tìm đến với nhau, mong vơi hận sầu, thân thiết ôm chặt nhau, tựa vào nhau vỗ về an ủi. Họ thành tâm khẩn cầu van vái xin bình an rót xuống mọi nơi, nồng nhiệt kêu xin ơn Trên hãy ra tay cứu giúp tất cả mọi người.

            Bây giờ là mười hai giờ trưa, trên trời trực thăng luôn bay lượn ì ầm, loa phóng thanh liên tục gọi đồng bào nhanh chóng tìm nơi ẩn nấp an toàn, vì tụ điểm giao chiến kịch liệt sẽ là chung quanh khu vực nhà thờ Domain de Marie. Ôi Trời ơi! Vậy chết là cái chắc rồi! Non giờ sau… Không thể tưởng tượng nỗi khi lựu đạn ì ì ầm ầm nổ, súng lớn, súng nhỏ rào rạo bay. Đạn vun vút vèo vèo bay xuống, bay lên, bay qua, bay lại: Đùng đùng đùng… Pằng pằng pằng… Róc róc róc… Ùm ùm ùm… Oằng ùm… bay tới tấp trên đỉnh đầu người dân đang ẩn nấp dưới tầng hầm cuả ngôi giáo đường kiên cố, ép lồng ngực mọi người như vỡ tan ra từng mãnh. Ngoài sân nhà thờ đã có tàn quân “Vi ci” nép bên hông trên nhà thờ đang cố tìm đường trốn chạy tháo thân về khu Số Bốn.

            Thỉnh thoảng mấy tay Việt+ chĩa súng lên trời bắn vài chiếc phi cơ trực thăng, bắn lép tép cắt cắt… bụp bụp… xè xè… từng phát súng nhát gừng nổ vu vơ. Qua những trần kính bể tôi thấy rõ trực thăng bay ầm ầm, tràng đại liên tóe lửa nổ rền rất to. Phi cơ lượn qua lượn lại vòng vòng quanh nóc nhà thờ Domain. Những viên xạ thủ đeo mặt nạ mặc áo giáp ngồi trên ghế chiã họng súng xuống đất, khạc từng tràng rocket róc róc róc… xíu xíu… xít xịt… Nghe tiếng đạn nổ ta có thể phân biệt tiếng súng "phe ta", hoặc tiếng súng "kẻ thù". Dù ban ngày mà toé lửa qua họng súng đỏ lòm, đạn vùn vụt bay xuống hông nhà thờ. Vô cùng chát tai rùng rợn kinh khủng!

            Thế là trong tầng hầm người ta đồng loạt nhốn nháo, hỗn độn, bừng bừng dâng cao nỗi lo sợ tột cùng: Già trẻ lớn bé không chừa một ai đều rú to, khóc inh ỏi, kêu cứu, rên rú, hét tướng lên to hết biết. Người ta dồn chặt cứng vào một góc chật như nêm, rồi đùn lại với nhau ở cuối tường hầm nhà đá. Họ dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, bất kể người khác tắt thở, chết ngạt. Vài ngàn người tránh những ô cửa bể, nên dồn cục trong góc kẹt xó vách tường đá cho chắc ăn, họ đè nhau bẹp dí thành một đống, chồng chất lên nhau tại một chỗ. Người ta không còn liêm sĩ, chả cư xử nhã nhặn làm gì. Mặc xác! Người nào đang đứng ở bên ngoài, thì cố dằng kéo người đứng ở giữa ra, để họ chui tọt vào đám đông mà ẩn nấp, cho an toàn chính thân, cần riêng bản thân ta an toàn thôi. Nơi xó xỉnh ngột ngạt tối mờ khói thuốc súng, họ không muốn súng đạn nhìn thấy, chỉ cần súng đạn và Việt-cộng trên kia đừng nhìn thấy mình. Bản năng tự phát cần tự bảo vệ sinh tồn là điều tiên quyết, nếu có ai đối xử với đồng loại tàn nhẫn, có tỏ ra thô lỗ, hỗn loạn đến bàng hoàng, âu đó là tất nhiên, cũng đành. Mặc kệ. Ai ai cũng sợ súng đạn hơn cả mọi thứ trên đời! Là đủ.
            Lạy Trời xin tha thứ. Ấy thế mà súng đạn vô tình cứ bắn càng lúc càng rát bỏng, tai ù ù, điếc đặc. Rồi đạn cay, đạn ói, đạn khói, đạn mữa, khói thuốc súng, lựu đạn hoả mù tuông theo các khung cửa sổ bể tới tấp bay vào dưới tầng hầm. Tại tầng hầm nầy không có người nào có kinh nghiệm trong chiến tranh để hướng dẫn, vã lại giờ nầy không ai chịu nghe ai chỉ huy, mạnh ai nấy bon chen, hầu mong sống còn với đời. Đoàn người tị nạn hỗn độn hết biết (như bầy gà vịt nhốn nháo, bay lung tung, kêu quang quác khi con sói đến cửa chuồng). Nước mắt nước mũi ai ai cũng chảy tùm lum tà la. Họ ói mửa nôn ọe, hỉ mũi sột sột lên đầu lên cổ nhau. Thật kinh khủng và kinh tởm vô cùng.

            Tôi thật giận Luật, vì hôm ấy tự dưng anh nổi sùng đấm bể một ô khung cửa kính làm chi, (khi anh không được mấy ông mồ côi cuả mẹ dòng Bác Ái Mai Anh cho Luật vô trong hầm trú ẩn), anh trét máu cục đông cứng trên miếng kính bể, máu còn đó; vô tình anh đã làm “đầu têu” làm gì, mà bây giờ mọi cửa kính cuả nhà dòng Domain đã vỡ toang, mùi khét cuốn theo chiều gió bay vào, càng hôi kinh khủng vậy!? Cạnh đống đồ đạc ngổn ngang trong tầng hầm có từng dòng máu tươi của ai đó trây trét bừa bãi; cũng do những bàn chân ai đó vừa đạp lên mãnh kính vỡ, họ tha lê lết đi khắp mọi xó, máu tươi loang ra, loang ra... trộn với nước đái và phân trẻ con ị vãi ra bừa bãi. Người ta lớn giọng la hét, tru hú, rú rên, khóc hụ hụ hụ từng cơn. Nghe rùng mình dựng đứng tóc gáy.

            Bỗng cánh cửa chính (khu nhà hầm có hai lớp cửa sắt chắc chắn) là cửa ngoài của khu từng hầm bằng sắt dày cui, vừa bị ai đó gài mìn ở phía bên ngoài, đã nổ tung. Toà nhà thờ đồ sộ rung rinh, tiếng rền rền âm âm nghe rất hãi hùng, mái ngói nhô lên hụp xuống rêm rêm, gầm gừ tha hồ rớt xuống rào rạo, loảng xoảng. Gạch đá vôi vữa rơi rào rào, dường như ngôi nhà đồ sộ đang tự đào hố để chôn vùi tập thể dân lành di trú xuống đáy mồ!? Thế nhưng sao tôi thấy cánh cửa sắt trong lớp thứ hai nầy vẫn chưa chịu bung ra? Cảnh ồn ào huyên náo, càng sôi sục, nhốn nháo cồn cào, náo loạn gấp ngàn lần trước. Kinh khủng! Kinh khủng trầm trọng! Người ta lại dày xéo lên nhau, dẫm đạp lên nhau, lôi kéo, giành giựt chỗ trốn, nên họ húc bừa vào nhau. Họ xô nhau chạy qua bên góc tường phía trái của căn hầm, nơi chưa bị rớt gạch và ngói, có cánh cửa phụ. Cửa hông nầy cũng làm bằng sắt dày kín mít. Tự dưng họ lại ùn ùn kéo nhau chạy qua bên phải. Họ cứ huà nhau chạy qua, rồi ùn ùn chạy lại. Xô nhau chạy theo sau lưng nhau, bất kể đàn bà trẻ con ốm yếu chết ngạt dưới chân. Bất kể tiếng la khóc, gào thét vang lên chát chúa. Tôi nghe thật hãi hùng, rùng rợn như nghe con dê, con heo, con bò, con trâu, con cừu bị chọc tiết, đang trợn mắt le lưỡi, rống rú man dại trong khu lò mổ ở ba toa.

            Gia đình tôi (và mấy gia đình bạn cùng xóm) biết khôn hơn, chúng tôi không chen lấn đến chỗ đông người, nhưng trong lòng cảm thấy rất ân hận, vì mấy mẹ con tôi hôm nay xui rủi làm sao, tự dưng... do nền nhà ở bệnh viện ướt nhẹp, nên chúng tôi lại chui vào ẩn núp trong hầm nầy. Thế mới đau khổ. Chúng tôi ngồi bệt dưới gầm bàn, lỏ hai con mắt ra thật to, miệng há hốc, hai hàm răng va vô nhau lộp cộp, hai đầu gối nhịp nhàng run rẩy, mà thấp thỏm nhìn người đàn ông đang nhảy lên cái bàn khác để đánh trống, tiếng trống dù làm chúng tôi điếc tai nhức óc và choáng váng. Nhưng chúng tôi tránh được cảnh tượng xô đẩy vùi dập nhau đằng kia vô cùng dã man và ác ôn. Đó là người đàn ông trung niên sĩ khí dáng vóc khỏe mạnh, mặc áo sọc xanh, quần tây đen, dù qua nhiều đêm âu lo thức trắng, mái tóc nhuốm bạc. Ông ta thấy cảnh xô xát cuồng nộ thật đáng xấu hổ, nên ông ta bèn nhảy lên mấy cái bàn gỗ chất đầy ghế dựa. Ông ta cầm trên tay một cái vồ, và đánh rất mạnh vào chiếc trống trường học đang treo lơ lửng trên đà ngang. Tiếng trống nghe rất tức ngực và điếc con ráy. Mọi người đứng ở góc tường quay lại, trợn mắt, im bặt, lo sợ rợn tóc gáy, sửng sốt ngó quanh. Họ không biết chuyện gì xảy ra. Ở đâu? Ông ta kêu gọi mọi người cố giữ trật tự, im lặng ngồi xuống tại chỗ, không ồn ào chen lấn. Ông giải thích về sự lâm nguy:
            - Trước khi chui vô đây, tui đã thấy có người chết cháy đen thùi lùi ở trển. Khi qúy ông bà anh chị em ở trong khu hầm trú dồn nén xô đẩy, dẫm đạp lên nhau, ồn ào. Ta không nghe được động tĩnh bên ngoài kia, thì chẳng khác nào: "lạy ông tui ở bụi nầy", sẽ tạo cơ hội thuận tiện cho Việt-cộng đã đứng rải rác trên sân nhà thờ, họ sẽ phá một cánh cửa nữa, là tràn vô đây. Họ sẽ lấy dân làm bình phong mà đỡ đạn. Thì chết hết cả đám.

            Nghe thế, mọi người càng nhốn nháo, xì xào, dáo dác, tiếng ồn ào đồng loạt rộ to. Bỗng im bặt như ngọn đèn dầu phụt tắt trước gió. Mặt mày ai nấy xanh lè, tay chân run rẩy, họ cố bám bíu vào nhau… lết nhè nhẹ đến gần chỗ khuất kín hơn, và im thin thít. Đúng là chỉ cần nghe tên "Việt+" là... là mọi người muốn té đái! Khi đó, tôi nghe bên dãy nhà của các mẹ dòng đọc đoạn kinh lạy cha, rồi nhiều tiếng hát nhạc thánh ca cầu xin bình an vang lên. Sự im lặng bao trùm cả căn hầm kéo dài dường như rất lâu, lâu lắm.

            Ba giờ chiều, trên trời L19 và trực thăng luôn vù vù bay lượn, dưới đất lính Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Thuỷ Quân Lục Chiến mặc quân phục, chân đi giày botte de saut, đầu đội nón sắt, lưng đeo đầy đạn, ngực móc hai quả lựu đạn. Họ mang súng máy lên đạn trên nòng, lăm le chĩa mũi súng về đằng trước, ngón trỏ đặt trong nòng. Đoàn quân nhanh chóng leo lên từ hướng nhà Thương, từ hướng Mai Hắc Đế, đường Hai Bà Trưng và Ngô Quyền. Họ tràn lên khu đồi Domain, chia ra bọc hết toàn diện khuôn viên nhà thờ Domain. Sau cùng họ vào hầm trú đang chứa lương dân, đi một vòng lục soát mọi cửa nẽo, ngỏ ngách, xó xỉnh. Rồi lính giàn ra thành hai hàng ngang, một toán lính khác súng vẫn chỉa về hướng chúng tôi, bạn của họ cấp tốc cứu nguy những người bị thương, chết nghẹt, hoặc đã chết. Họ làm việc gọn gàng và nhanh thoăng thoắt.
            Tất cả dân chúng ở trong căn hầm nầy đều im phăng phắc. Chả bù cho lúc nãy căn hầm ồn ào hơn ong vỡ tổ muốn đinh tai nhức óc. Vị sĩ quan chỉ huy dõng dạc kêu từng gia đình ở trong hầm hãy xếp thành hàng dọc, từ từ từng tốp một, từng người bước chầm chậm ra ở ngoài khu chỗ trống, ngay tại trong tầng hầm của nhà thờ. Khi vị sĩ quan đã đếm tất cả đầu người trong hầm xong, ông ta bảo cánh đàn ông, thanh niên, thiếu nữ, tuần tự đi qua bên góc trái căn hầm. Từng người một riu ríu trình báo giấy tờ tuỳ thân xong, thì làm ơn vui lòng lấy hai tay đan lại, giơ cao để trên đầu, ôm ra sau cổ. Ông già bà lão lụm khụm đàn bà và trẻ con: thì đứng qua bên phía phải, theo hướng chỉ của anh lính phụ tá. Lính yêu cầu những ông bà có con thơ bận rộn ở trong hầm của nhà thờ, sau khi trình diện, từng người một đi ra khỏi tầng hầm của khu nhà thờ Domain.

            Đồng bào đông đúc đi giữa hai hàng quân lính nghiêm trang đứng bồng súng gác ở ngoài sân. Mọi người tay xách tay mang. Tay bế tay bồng. Họ lục tục ríu rít và trật tự kéo nhau ra cửa. Họ chạy xuống ngồi bên cạnh hang đá Đức Mẹ. Hoặc dân bò từ từ xuống chân nhà thờ, lủi nhanh về hướng Cẩm Đô. Họ chạy qua lối bệnh viện Đà Lạt. Một tay bế con trai Tuấn ba tháng tuổi, khuỷu tay tôi lại kẹp chặt cánh tay bé Dzũng lôi con xềnh xệch theo mình!?, ba mẹ con chạy ra ngoài sân sao nhanh đến thế! Quả thật tôi tự khen tôi tài tình khi quắp hai đứa con nhỏ vào lòng, và cả "gánh” thức ăn, đồ dùng nữa. Từ trên dốc đồi cỏ Domain cao gần như thẳng đứng, tôi ngồi thụp xuống, hai chân chuồi thẳng về trước, lết và tuôn xuống như khúc cây tròn.
            Trước khi tuột dốc, đầu tôi trùm khăn, với áo len lông xù, áo manto, nên mới thoạt nhìn ai cũng có thể nghĩ là tôi mập ú tét. Toàn thân tôi toát mồ hôi hột giữa nắng xế oi ả, (nhưng tôi lạnh run vì sợ hãi). Chân tôi mang bít tất, chiếc giày thấp run lẩy bẩy trong cổ chân. Còn chiếc kia bay mất lúc nào không rõ. Tôi mặc cả thảy năm chiếc quần mỏng, bị vướng móc vào thép gai, đã rách toạt ra tự bao giờ không biết. Khi cùng những người khác ngồi yên ổn dưới hang đá, lúc đó tôi cảm thấy đau nhức rần rần ở hai mông. Rờ tay vào, tôi mới biết là mông tôi bị chảy máu khá nhiều. Một bàn chân rơi mất chiếc giày, thì ra lúc nãy tôi đã đạp lên xác chết ở trên sân nhà thờ. Chiếc tất trắng nõn dính đầy máu tươi. Ui trời ơi! Tôi sợ mất hồn, mất vía. Tôi đã thấy hai xác người trợn mắt phơi thây mà. Có một ông co quắp. Một ông nằm ngửa tênh hênh trên vũng máu. Chiếc áo màu cải úa chỗ thâm đỏ, chỗ tím bầm. Khô đọng. Ruồi bu đen nghịt trên thân thể họ. Cạnh đấy có hai cây khiêng bằng tầm dông luồng qua lớp võng vải bố, (loại vải bố của bao gạo). Họ dùng mấy thứ nầy làm đòn tải thương. Có lẽ khi vừa đến đây họ bị đại liên trên trực thăng nả cho, nên chết tươi.

            Bà nội (của các con tôi), mặt mày hốc hác, bà đờ đẫn, mắt đã lạc thần. Bà muốn chết đứng, tay chân bà lắc lư đung đưa run rẩy như cầy sấy. Tay bà ôm bình thủy đựng đầy nước sôi dùng để pha sữa cho cháu, hoặc để trụng mì gói, bà chạy theo đoàn người sơ tán. Chiếc bình thủy vỏ mây mà bà đang ôm trên ngực, bị bể tan, nước sôi chảy ra, hơi nóng bốc lên từ đám cỏ hoa vàng không tên, tàn úa héo dần. Ấy vậy, thật may mắn vì bà không bị phỏng nước sôi. Bà sợ Việt-cộng kinh khủng. Bà đã bỏ quê hương tận ngoài miền Bắc, bỏ làng xóm thân quyến, bà vất hết của cải, bà chạy bán sống thừa chết từ Bắc vào Nam. Bà trốn tránh họ bao năm nay, bà sống hiu hiu mong an vui nhàn hạ đôi chút cho qua kiếp già:
            Tân niên vạn phúc bình an đến.
            Xuân nhật vinh hoa, phú quý lai
            ”, cho khỏi bỏ những ngày lao đao lận đận nơi quê xưa. Bà tưởng thoát nạn, tưởng đã yên ổn tấm thân còm, bà sẽ hạnh phúc nhờ “phước thâm tự hải, lộc cao như sơn”, do ông cha cố tổ của bà ưu ái để lại. Nào ngờ... giờ đây họ đùng đùng xách súng đến bên đít, đuổi bà vắt giò lên cổ mà chạy có cờ! Bà ngồi thụp xuống đất, giống như em bé lên sáu tuổi chơi trò cầu tuột. Bà xoạt hai chân lướt phom phom trên đồi cỏ. Bà bị té nhào hai ba vòng, đầu bù tóc rối xổ ra trải dài lết thết trên đất cỏ. Tôi sợ thắt họng, tưởng bà sẽ bị u đầu bể trán chảy máu, hay ít ra cũng gãy cần cổ, lặt lìa lặt lọi tay chân. Thế mà bà tỉnh bơ không việc gì. Bà chỉ hốt hoảng dáo dác nhìn quanh, đau khổ lo sợ tột cùng, không sao chịu thấu:
            Sông sâu có thể bắc cầu.
            Lòng người nham hiểm, biết đâu mà mò”.
            Vì, “Thà rằng chả biết cho xong.
            Biết ra, như xúc, như đong lấy sầu
            ”.

            Bà than như thế! Tôi phải kính phục bà mẹ chồng vô biên, vì bà thuộc về lớp người từ đầu thế kỷ thứ 19, ở nơi vùng quê Hưng Hiền tận ngoài Yên Mô miền Bắc, thuở xưa ấy mà bà được đi học chữ quốc ngữ thông thạo, đọc chữ làu làu, đúng là mẹ chồng tôi có “văn hay chữ tốt”. Bà nói những câu văn hoa tinh tế. Nhất là bà hát những câu ca đồng dao, quan họ trữ tình luyến nhớ quê hương, thì hay hết biết.
            Nếu không lầm, thì hơn ba tuần sau ngày bé Tuấn biết lật, Quân đoàn II gởi một Tiểu Ðoàn Biệt Ðộng Quân. Tiểu Ðoàn của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tăng cường cho Thị-xã Ðà Lạt, để tiêu diệt tàn quân Việt Cộng ẩn nấp trong Khu Số 4. Khu số 6. Tùng Lâm, v.v… Kể từ sau vụ “càng quét” đó, mọi người đã yên ổn bình an. Toàn dân ở Đà Lạt Tuyên Đức nói chung, và riêng khu xóm cùng gia đình tôi nói riêng trân trọng cám ơn qúy quân nhân quân lực Việt Nam Cộng Hoà. Sau khi bà cháu mẹ con chúng tôi an toàn tuột dốc Domain De Marie nầy, cùng đồng bào trong Thị-Xã Đà Lạt bỏ lại sau lưng những gì quý giá nhất, hầu thoát thân mưu cuộc sống còn. Dù cùng cực đắng cay, lo toan, đớn hèn, đau khổ đối mặt với nỗi cô quạnh muộn phiền bất ngờ không lường trước được, hãi hùng giữa cuộc đời muôn mặt. Nhưng xin cám ơn Trời đã cho thoát khỏi nanh vuốt "cái người" tôi không muốn xác nhận, mà đành phải coi như quân thù.

            Quá khứ rồi sẽ giống như cánh cửa sắt đóng chặt lại sau lưng tôi. Rồi cũng giống như thau nước hứng mưa dột dưới góc nhà vừa bị sập, tôi đã cong cong lưng bưng thau nước đầy sóng sánh bóng mình trong thau, nhanh nhẹn bước ra hiên nhà, tôi hắt mạnh thau nước vào màn mưa đục ngầu, cho nước hoà tan trong mưa, mất hút, như hắt cả hiện tại và tương lai lui về với quá khứ muộn phiền đắng chát chua cay đau xót vô ngần.
            ***

            Tình Hoài Hương
            Last edited by Tinh Hoai Huong; 02-28-2018, 09:20 PM.
            Bút trần nào tả được lưu luyến!
            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
            Tình Hoài Hương

            Comment


            • Từ Tháng Ba & Những Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng


              Từ Tháng Ba & Những Người Đà Lạt Cuối Cùng Vỡ Tổ Tan Hàng


              Con đường dốc đứng bên cạnh rừng đầy lá thông khô được sương chiều rửa sạch, trơn bóng láng mướt ve vuốt đôi chân êm ái mát lạnh khi mình dẫm lên. Khiến Luật muốn ngã lưng nằm trên thảm nhung màu nâu nâu, mượt mà, anh mơ màng nhìn lên trời cao, xao xuyến nghĩ về… đất nước còn, thì người lính có thể là một phần tử của con cờ thí thân trong chiến tranh. Họ gánh trên vai nhiều trọng trách, nhiệm vụ, và bổn phận nặng nề đầy phức tạp; dù biết bao cơ cực lầm than, nhọc nhằn, khổ sở, chua xót, đắng cay, trăm bề o ép. Trước đám sương dày đặc kia là tương lai xa xăm mù mịt, là con đường tiến thân để giành lại, giữ lại từng tất đất, từng ngôi nhà, từng dòng sông... không biết sẽ bắt đầu từ mấu chốt nơi đâu?! Lúc nầy, tình hình chính trị ở miền Nam Việt Nam xoay quanh cơn lốc chính trị dâng cao tột độ lẫn kinh hoàng vô cùng, giống như hai giòng nước ngược đục ngàu xô vào nhau, toé lên thành những cơn triều cường sóng thần dâng cao vút và đảo điên nhất. Họ chẳng thể chí tình thiết tha yêu thương ôm trọn quê hương ở trong lòng, khi Trọng Luật cùng hầu hết quân nhân đã vâng lời nghe lệnh cấp trên ban ra rành rành là:
              - Quân nhân, cán bộ các ban ngành, thanh niên nòng cốt, tuổi trẻ phải ở lại “tử thủ” tại mỗi đơn vị: từ đầu tháng Ba năm 1975 tới giờ phút cuối cùng, (còn ông già bà cả, trẻ con phụ nữ… thì cho di tản ra khỏi Đà Lạt/Tuyên Đức. Gấp).

              Tin như thế loan ra nhiều ngày, nhiều ngày... hầu hết ai ai nghe cũng cả tin chắp bắp và khá an tâm, "chúng ta" cùng vững chí đồng lòng cương quyết trụ ở lại 24/24 giờ nơi những tuyến phòng thủ. Té ra, ôi mà ngờ đâu... có một nhóm người cao cấp đã làm cuộc tình lờ, len lén tình vờ lo cao chạy xa bay chuồn đi từ lâu, (từ khuya rồi anh ơi)! Họ tụ tập dòng dõi và "bay" nhiều lần từ Đà Lạt về Phan Rang, gom thêm "một mớ... rồi dzọt dề" thủ đô Sài Gòn. Có nguồn tin đáng tín cẩn cho Luật hay số ít cao cấp ở Sài Gòn cùng vợ con họ đã dọt đi ra nước ngoài! "Bản thân cao cấp"... và... "vợ con cấp cao" cần bảo vệ an toàn, là cái chắc. Còn vợ con lính là "thứ loại" gì nhỉ?

              Hẳn là đã lâu lắm rồi khi vừa ra "thượng lệnh"; họ chỉ biết rũ bỏ sau lưng sự đau khổ tang thương cùng khó ấy: đành tâm cho người khác âm thầm ở lại chịu trận, gánh gồnh gian nan, khổ đau. Đám sĩ quan hạ giới nầy nào có hay, thì lính tráng binh nhứt, binh nhì bẹt dem cùi bắp làm sao biết! Bây chừ đạn pháo đang nổ dậy khung trời miền núi Lâm Viên! Tưởng chừng như hai phe quốc nội giàn quân ngoài mặt trận đánh nhau một phen chí tử. Thật tình phía Việt Nam Cộng Hoà "đã bị" có lệnh rút lui, bỏ ngỏ, chứ nào có sòng phẳng thẳng thừng đánh đấm gì cho cam. Nếu đường hoàng sòng phẳng quân tử chính nhân, mà oai dũng chơi nhau một trận quyến liệt trên bàn cờ chiến cuộc, thì chưa chắc ai thắng ai à. Tức giận và uất ức điên người.

              Đài phát thanh Đà Lạt dấu nhẹm chuyện các nơi khác lo cho quân đội và dân triệt thoái, đài chỉ phát ra những mục bình thường tẻ nhạt trong chương trình hằng tuần & vớ vẩn, đài phát thanh chẳng hề toan báo một tin tức thời sự nóng bỏng nào! Họ cũng chẳng tiếp vận đài phát thanh Sài Gòn như trước, cho người dân Đà Lạt được nghe. Không hiểu tình cờ thế cuộc ra sao, nên mọi người bình chân như vại lo làm vườn tưới hoa. Lúc biết ra cớ sự, thì nhiều quan, lính và dân không tìm thấy đường đi lối về nơi đâu, họ đi tới thì mắc thác, mắc hồ, đi lui mắc núi, mắc đèo.

              Tai biến đến sau ngày 17 tháng Ba, khi cấp trên ban lệnh tử thủ, khẩu lệnh chỉ rò rỉ ra, tức là láo pháo rỉ tai nhau về việc quân nhân triệt thoái rút bỏ Đà Lạt; họ chỉ biết tin vài giờ rất ngắn ngủi vào phút chót mong manh và hối hả. Từ đó đến nay đã ngót tháng ròng rã rồi, nhưng quân nhân thanh niên tráng niên nầy không hề biết. Vì thế họ đã chưng hửng bàng hoàng, nên trở tay không kịp. Sau ngày 21 tháng Ba năm 1975, Luật và “nhóm tình nghĩa tử thủ bất diệt" quyết giữ gìn quê hương ấy, mới biết tin tức triệt thoái chậm chạp, trể tràng vì bị người ta dấu nhẹm, kín bưng. Chẳng đặng đừng... Luật đến toà Tỉnh Trưởng cùng các đại diện những phái đoàn: quân, cán, chính và cảnh sát nổi, cảnh sát chìm (cảnh sát đặc biệt, xâm nhập), ... đã tham dự buổi họp đặc biệt thượng khẩn:

              Về việc triệt thoái được ấn định phân chia như sau: Tất cả quân nhân, sĩ quan của trường Võ Bị, và sinh viên sĩ quan toàn khoá ở trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam có số lượng người hùng hậu đông đúc, thì họ sẽ chỉ huy ở vòng bên trong, để kẹp cho đồng bào tuần tự đi ở hàng giữa dân là đội ngũ lộn xộn không có súng ống, họ toàn gánh gồnh đồ đạc, cồng kềnh lộn xộn của cải linh tinh...). Nghĩa là trường sĩ quan Võ Bị Đà Lạt sẽ dàn quân dọc hai bên quốc lộ 20, vừa từ từ rút, vừa giữ an ninh và có trật tự, bảo vệ tối đa cho đồng bảo tuần tự đi, bằng mọi giá họ cẩn thận chăm sóc giúp đỡ đồng bào. Dân phải tuân lệnh quân nhân đi về lối Phan Rang, đi Phan Thiết... v.v... Đồng thời trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt là những đoàn người bọc hậu cuối cùng đành phải rời bỏ thành phố. Những cảnh sát và quân nhân ở các binh chủng khác sẽ cặp đi song song một bên với trường Võ Bị ở vòng ngoài xa xa.

              Các cửa ngỏ hậu phương, kho lương thực, ngân hàng, ngân khố, quân trang quân cụ, khu nầy, sở nọ, ty kia mở toang hoang, kể cả nhà thường dân vắng chủ đều bị cướp bóc, đốt phá cháy rụi. Một phần do trước khi ra đi, những người có trách nhiệm với công sở của mình phải hủy diệt hồ sơ mật. Một phần do nhóm tự xưng là “cách mạng 75” khích động kẻ gian thừa nước đục thả câu, chúng mặc sức tha hồ thao túng, càn quét vơ vét tung hoành mọi mặt. Đà Lạt như rắn mất đầu, như đàn gà con mất mẹ. Tất cả mọi tầng lớp di chuyển từ Đà Lạt xuống đèo Ngoạn Mục cao chất ngất và ngoằn ngoèo tới Sông Pha, rồi tới Phan Rang, dưới sự điều khiển của Đại-tá Quỳnh đều nhịp nhàng, ăn khớp, chu đáo, rất có trật tự lớp lang trước sau đều đặn an toàn;
              Cho đến khi xuống quá Phan Rang qua ngã Phan Thiết thì an ninh trật tự không còn toàn vẹn như cũ. Bởi do Quân Đoàn II đã triệt thoái về hướng nầy rất đông, quá đông... Hai bên dân quân từ trên hướng Pleiku, Bamethuot, Kontum về, và hướng Đà Lạt xuống đã bất ngờ... "gặp nhau ở tụ điểm son đồng tâm"... nhiều đến nỗi không thể nào tưởng tượng. Tất cả mọi người đụng nhau tại đây. Khi đó thì quốc lộ chính đã tràn ngập người và người đông lắm, nhiều vô số kể! Hiện trạng bấy giờ đã lộn xộn kinh khủng rất bàng hoàng.

              Thế là "những người Đà Lạt cuối cùng bị vỡ tổ tan hàng" từ đó. Luật coi quân đội là một tổ ấm lý tưởng quan trọng linh thiêng quý giá, vô cùng cần thiết; vì đó là nơi an tựa vững vàng trong đời sống của người trai có lý tưởng có hoài bão có lập trường trong thời loạn. Tổ quốc ấy, dường như Luật muốn ví là một tổ ấm mật thiết, quan trọng không kém gì gia đình riêng mình: đã có mẹ già thân yêu, có vợ hiền con ngoan. Nhưng hôm nay cái tổ ấm quốc gia linh thiêng ấy sụp đỗ rồi chăng? Nghĩ tới điều đó, Luật đã bật khóc, khiến bạn đi cùng xe ái ngại và sửng sốt đăm đăm ngoái nhìn, họ nghĩ thầm:
              - "Có lẽ anh ta đau buồn vì chuyện riêng tư tang gia bối rối gì đây".

              Gần tới vòng ngoài của tỉnh thành Phan Thiết đầy bụi bặm và gió cát thổi vù vù, bỗng có nhiều tràng súng từ đoàn xe sau ria xẹt tới phía hai chiếc xe ngân khố (không biết xe tiền ấy của nơi nào, Tỉnh Kontum, Pleiku, Ba Mê Thuột, hoặc Thị-xã Đà Lạt ?). Xe chở những bao bố tiền to khổng lồ, tiền ơi là tiền rơi kín một góc phố, và bay tá lã theo gió lồng lộng như đàm bươm bướm chập chờn trên không trung. Khi đó thì... không thể nào diễn tả nỗi cảnh kinh dị lúc mọi người khum xuống nhặt tiền dưới cơn mưa chì bão lửa, nơi xe cộ gầm rú đó. Cảnh thương tật, khóc than, thét mắng, đói khát, chết chóc, lẫn trong tiếng súng đạn gầm rú xa gần, khiến mọi người bị hút vào điệu quay chóng mặt, bàng hoàng đến rợn người. Luật ngồi trên xe thấy những pha cướp giật, hò hét, chưởi rủa, đánh đập nhau dã man và trắng trợn ven đường... tùm lum, Luật cảm thấy chua xót đắng cay, nhục là ở chỗ đó. Tệ là ở chỗ đó. Đau quặn thắt lòng ở chỗ khúc ruột thừa.

              Luật cùng sáu anh khác cùng bảo nhau nên thay bộ đồ tác chiến, mặc bộ đồ dân sự vẫn cầm theo mấy hôm nay để dễ bề đi đứng, anh vứt bỏ hết tất cả lon lá mũ mão hành trang rối rắm trên đầu, trên vai. Luật mang đôi giày ba ta cũ, áo lạnh, mấy chục ngàn tiền vợ để trong tủ, một chiếc đồng hồ Omega, chiếc nhẫn cưới, sợi dây chuyền, cái nón thường dân đội đầu, và một khẩu súng lục mang kè kè bên nách, để phòng thân. Nhóm Luật là những người lính chiến đấu dũng cảm cuối cùng đau đớn lột bỏ áo quần lon lá, lìa quân ngũ, bỏ đơn vị, xót xa, chua cay, bàng hoàng ngao ngán tự lo cứu chính bản thân trong cơn biến loạn ngặt nghèo lâm nguy, hấp hối.

              Lúc bây giờ không có người chỉ huy, thì nhóm nầy quan cũng như lính có nhiều ý kiến, ý cò, tự vạch ra cho mình con đường sống mới. Mạnh ai nấy dọt, họ luống cuống, hốt hoảng băng đèo vượt đồi cát chạy tan tác. Không còn cảnh tình đồng đội keo sơn như cá với nước, như cây cần đất, cần rễ bám vào đất cho cây liền cành. Mà thân ai nấy lo, hồn ai nấy giữ, mạnh ai nấy chạy thiếu sống bán chết, tự lo thoát thân. Họ đi chuyền từng đoạn xe đò, xe tải, xe GMC hết xăng, họ chạy bộ chen lấn nhau mà xéo bước, họ thở dồn dập, gò lưng chạy thục mạng từng đoạn ngắn, người chạy đi kẻ chạy lại, người đi lánh cư đông kinh khủng bất ngờ gặp gỡ nhau giữa trùng trùng lớp lớp, trên bước đường chạy loạn những kẻ sống còn mong vượt qua gian nguy khổ ải. Rồi nhóm Luật đã bị lạc mất nhau.

              Ngày chạy bộ với những người dân tay xách tay mang đùm đề vợ con, chân thấp chân cao khổ ải mệt nhoài, đến những nơi lạ cái lạ nước chưa bao giờ anh biết tới. Đêm đêm ngủ với người thoi thóp, nằm với những xác chết cứng đơ giữa đồng không mông quạnh. Luật mong tìm làn hơi ấm bên người lân cận, hầu hổ trợ an ủi tinh thần, nương nhờ lẫn nhau. Nào ngờ, khi hoàn hồn, bừng mở mắt ra ngoảnh nhìn lại sờ mó người bên cạnh, anh mới biết đó chỉ là những thây ma. Luật mệt lả người phải bật dậy ra đi, vì sợ và cảm thấy bơ vơ lạc lõng hơn vì đói, khát.
              Phải! Giữa cảnh màn trời chiếu đất, trong tay những người dân không có một cây que để phòng thân tự vệ. Mà cuộc sống vẫn vô cùng mong manh và hối hả. Con người phút chốc trở thành da bọc xương, bối rối, ngơ ngơ ngáo ngáo, ngố ngố ngờ nghệch. Nhìn họ, anh không khỏi nghẹn ngào bàng hoàng xúc động và cảm thấy họ rất đáng thương. Nhìn thấy đồng bào di tản đông đúc ngược xuôi bần thần như kẻ mất hồn, Luật luôn bồn chồn lo lắng nghĩ tới mẹ, vợ và các con, chẳng biết bây giờ họ ra sao? lưu lạc phương nào rồi! Ngày đêm Luật vẫn cầu nguyện cho gia đình mình, và cả những người đang chạy loạn được bình an toàn vẹn.

              Anh chưa biết mò mò đi đâu, đầu óc trống rỗng và không tri thức giữa những nấm mồ đắp sơ sài tươi màu đất mới. Màn đêm tiếp nối bóng tối và đồng lỏa với mọi tội ác. Đã thế, đêm đêm từng đàn chó hoang ốm đói tong teo gầm gừ cắn xé nhau, tranh giành xương cốt, thi thể thối nát của người di tản nào đó. Thì chó cũng biết đói như con người, càng đói chúng càng ôm quắp thây người mà nhai ngấu nghiến. Luật nghe tiếng kêu rào rạo từ mấy thây ma cứng đơ thum thủm. Bầy chó nhe răng tru hú lên từng hồi hoang dại, dã man, Luật cảm thấy rợn tóc gáy mà nôn oẹ nhớt dãi, khi đối mặt với tận cùng bi thiết thảm sầu, cay cực. Chiến tranh tàn ác đã lột da con người vô cùng trần trụi, thô thiển đến tận xương tủy. Và, những vết thương hoác miệng từ dĩ vãng, hiện tại, có thể trong tương lai… đã để lại trong lòng Luật những vết thương mãi nóng sốt sôi bỏng, bừng bừng nhói buốt rung lên từng cơn quặn lòng, đau khủng khiếp.

              Luật đang nằm thẳng đơ mất hết ý niệm về không gian lẫn thời gian bên mấy người chết kia, quả thật bây giờ trông mình vô cảm vô hồn thiệt giống những xác chết. Giữa lúc khốn đốn đau buồn chán nãn và tuyệt vọng nhất, Luật nghe có tiếng người ngồi trong bóng tối rù rì gì đó, có lẽ họ ở đâu vừa mới đến đây thôi. Luật uể oải hé mở mắt ra nhìn quanh, thì nghe họ nói với nhau:
              - Hai đứa mình vô trong Tiểu Khu, may ra còn có xe chạy về Nha Trang chăng?
              - Ông ơi! biết đâu ở ngoải cũng bị mất rồi.
              - Còn nước còn tát, chưa đi làm sao biết.
              - Nhưng ra Nha Trang... có phải là mình lại đi xa hơn... nữa à?
              - Làm sao bây giờ! Phải đi ra hướng ấy thôi.
              - Ông điên à? từ Phan Thiết về Sài Gòn gần hơn.
              - Không nghe hồi nãy dân họ nói hướng đi Long Khánh gần như tiêu rồi sao!?
              Hai người đó im lặng một lúc, có tiếng nói tiếp:
              - Vậy nên đi Nha Trang, dù sao ở đó cũng có tàu, thuyền, hoặc máy bay. Tôi có bà con ở đó.
              Luật vui mừng như đã gặp đồng hương, anh ngồi bật dậy:
              - Anh bạn nói phải.

              Hai người đàn ông kia sửng sốt giật mình, toan đứng lên vùng chạy, vì họ nghĩ Luật cũng là một xác chết cứng đơ, hoặc ít ra là một người lạ, có thể là "dân cướp cạn" cũng nên. Luật bò bò qua bên kia góc tối trong căn nhà hoang, thì ra anh nhận diện được một người quen sơ giao trong lúc đoàn quân Đà Lạt triệt thoát. Thế là ba người đàn ông chạy vô Tiểu khu, cũng may họ xin đi ké xe GMC ra Nha Trang. Tới Nha Trang, trước tiên Luật ghé qua nhà Oanh, thì anh rất vui mừng được biết mẹ, vợ con mình đã an toàn lên máy bay vô Sài Gòn rồi. Luật hỏi tại sao Oanh và gia đình không di tản? Oanh đã trả lời giống y như nàng đã nói với bạn. "Không thể đi đâu hết vì ở nhà còn ông bà ngoại già hơn 90t, còn cha mẹ và... không biết bỏ nhà cửa mà đi đâu!" Oanh gói cho Luật một bịch xôi đậu xanh to, và chai nước lọc. Luật e ngại cầm mà bùi ngùi bỏ trong túi xách nhỏ.

              Hai ông bạn mới quen đứng bên góc đường Hồng Bàng chờ Luật trong giây lát. Thấy nhau rồi, họ đi từ nhà Oanh ra mé biển chưa đầy năm phút. Thành phố Nha Trang càng đông người kinh khủng. Quan sát khắp nơi, biết tình trạng nầy nếu chờ tàu lớn, hoặc máy bay quân sự hay dân sự gì cũng không xong, nên họ bàn tính với nhau hồi lâu, họ quyết định thuê ghe buôn của thường dân đi vô Vũng Tàu, cho chắc ăn. Ba người đi rảo quanh bãi biển Nha Trang tìm thêm người có thể chung nhau tiền lộ phí, lại rủ thêm được mấy người nữa, kiểm tiền cá nhân rồi, sau đó họ ra xóm Bóng mướn ghe đánh cá nhỏ, ghe nầy đang chuẩn bị chuyển hàng về Bà Rịa hôm nay. Đi Bà Rịa cũng tốt, miễn sao về gần thủ đô là mừng. Mặc cả giá tiền cho tám người đàn ông cũ và mới chung chuyến đi, ai nấy tự động móc tiền túi ra đóng cho chủ ghe xong xuôi, họ mừng rỡ lên ghe. Đúng là may mắn!
              Sợ chủ ghe ra đi bất ngờ, nên không có ai kịp mua gì phòng hờ, may mà có chai nước và bọc xôi đậu xanh chắm muối mè Oanh đưa cho Luật, anh lấy ra chia cho tám người đồng hành, mỗi người chỉ nhón một ít xôi cỡ bằng trái chanh mà e dè ăn ngấu nghiến. Họ còn đói, (nhất là Luật đã chưa có hột cơm nào từ hơn hai ngày qua) và khát kinh khủng, nhưng tám người bó tay chịu trận. Trên ghe bây giờ cộng thêm cha con chủ ghe là ba người, thì có tất cả mười một người đàn ông. Khi ghe đã êm ái bình an ra khỏi cửa biển Nha Trang, và lướt xuôi về hướng Phan Rí cửa, qua Hàm Thuận Bắc, Bình Lâm rồi tới gần Mũi Né khoảng 20 hải lý, thì chủ ghe dỡ chứng trở quẻ, ông ta viện cớ:
              - Tui sợ ngoải cũng lộn xộn, chẳng ai mua hàng, tui muốn quay ghe về Nha Trang.
              Mọi người chưng hửng! Đức, người đi trong nhóm nói:
              - Ông giỡn chơi à! Ông muốn gì?... Nói.
              - Tui không đủ xăng chạy tới bển.
              Tâm cười gằn:
              - Ông muốn chúng tôi đóng thêm tiền, để ông mua thêm xăng chớ gì?
              - Phải.

              Mấy người đàn ông thuê bao ghe nhìn nhau, rất bực tức nhưng "đã lỡ đò rồi"... nên họ hí húi móc tiền ra, kẻ nhiều người ít, gom tất cả thêm 185.000 ngàn đồng nữa, nộp cho chủ ghe. Thế mà tên nầy vẫn không chịu. Bình (là người quen đã đi chung với Luật từ Đà Lạt) định móc thêm tiền ở túi kia, để "dâng" cho tên chủ ghe. Nhưng Luật ngăn lại, thì thầm bằng tiếng Anh với mấy "anh bạn vừa quen":
              - Anh điên à. Từ đây đến Sài Gòn... còn nhiều đoạn phải có tiền chi trả, chớ vàng thì không ai muốn... vì họ sợ vàng giả. Để đó.

              Luật lột đồng hồ Omega, để xuống sàn, anh lấy lại đống tiền vừa để trên sàn ghe, ai nộp bao nhiêu tiền, thì anh đưa trả lại xong xuôi. Luật móc củ súng colt 45 đeo ở nách ra, cầm lên:
              - Chúng tôi mặc cả sòng phẳng và rõ ràng với anh trước khi lên ghe rồi. Chúng tôi đã hào phóng tặng thêm cho anh rất nhiều, nhiều tiền hơn số tiền mà anh đã định giá. Từng ấy... anh chưa hài lòng sao? Thế thì, bây giờ chúng tôi cần số tiền 185.000 nầy để làm lộ phí khi rời khỏi ghe của anh. Vậy, anh có muốn nhận thêm chiếc đồng hồ có sợi dây làm bằng vàng thật 18K hai lượng của tôi. Hay là anh thích nhận khẩu súng lục có những viên đạn thật nầy, mới hả dạ. Hở?

              Tất nhiên... tên "cướp cạn" kia không thể ngờ là trong người Luật còn có "củ súng chết người" đang bị cái áo lạnh che phủ bên ngoài. Hắn lại nhìn lom lom sợi dây chuyền hai lượng vàng y chói lói lấp lánh ánh mặt trời rọi lại, nó đang lung linh lủng lẳng trên ngực trần của Luật, mà thèm... ứa nước miếng.
              Thanh nói như hét:
              - Ông là một thằng hèn hạ, không có tình đồng loại, bộ ông muốn chết tiệt vì hám của hả!
              Đức nhếch mép:
              - Ông hãy cám ơn Trời đã cứu mạng ông, khi ông may mắn gặp những quân nhân như chúng tôi đó.

              Chủ ghe không dám nhìn ai mà cúi cúi liếc liếc, riu ríu len lén run run lượm cái đồng hồ, theo lệnh của Luật:
              - Anh phải cầm lấy chiếc đồng hồ của tôi, giữ làm kỷ niệm, mà nhớ đời. Nha.
              * * *

              Tình Hoài Hương
              Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-14-2018, 05:03 AM.
              Bút trần nào tả được lưu luyến!
              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
              Tình Hoài Hương

              Comment


              • Từ Góc Vàng Phai


                Từ Góc Vàng Phai


                Mặt trời yếu ớt đã tắt hẳn ở phương Tây, bầu trời dìu dịu, vàng ửng, nhàng nhạt. Những cơn gió từ dãy Ngũ Hoành Sơn lùa về ngây ngất và ớn lạnh. Thời gian len lén đến lấy thêm những tháng những ngày nữa trong đời người. Một ngày lặng lẽ tàn, chậm rãi trôi qua không buồn quay đầu nhìn lại, tạo thành dĩ vãng trong cuộc sống. Một năm thầm lặng cô đơn và u buồn lặng lẽ trôi đi trong đời Thương Mười… khi em ở lại quê nhà với ba má khoảng thời gian dài. Sau đó từ Huế, lên xe đò Mười vô Đà Nẵng.

                Chị Huyền mừng rỡ đưa cho em năm lá thư của Nam. Có thư cách đây ba tháng, hai tháng, v.v… Mỗi lá thư đều có hình phong cảnh, đoá hoa ép khô, vài cánh bướm rực rỡ mà ngày tháng đã điểm lên dung nhan thầm lặng nét ưu buồn héo hắt, tàn phai ít nhiều gợn lên trong quá khứ, nay chúng trở thành khác sắc, phôi pha, kém duyên đi. Tuy thế, nhìn kỷ vật đó, em thấy lòng mình vụt bay về khoảng trời xanh trong vắt mênh mông. Kỷ niệm êm ả một thời trẻ dại nào đó xôn xao đắm say cũ do chính em tàn nhẫn bóp chết bất ngờ, vô tội vạ. Hôm nay tình cờ mở lại tần số đúng nhịp tim, gợi về chuỗi ngày cũ quá bâng khuâng, yêu dấu, khiến Mười luyến thương thầm nhớ vô vàn.

                Đôi khi quá nhớ và còn yêu anh say đắm, Mười thầm ước mong: "phải chi mình có đủ tiền xe, tiền ăn ở, đi và về thoải mái. Hoặc nhà anh ở gần bên, thì Mười đã len lén... đến thăm". Lòng dạt dào trìu mến, đối với người cầm bút viết nhiều lá thư, ân cần nồng nhiệt thăm hỏi, lo lắng cho sức khoẻ, tương lai và hạnh phúc của cô. Lá thư sau cùng lời lẽ anh bộc lộ sự ray rứt chân thành, săn sóc, nhưng xa cách buồn bã lời chia biệt. Vì cứ như thư em viết năm cũ, thì anh ngỡ là mình đã có chồng. Những lá thư màu xanh êm êm dìu dịu kia, dường như tỏa ra khắp căn phòng mùi hương kỷ niệm đậm đà đằm thắm, như chứa đựng cả đại dương nhớ nhung âu yếm tình hồng.

                Mười ấp những lá thư cuả Nam vào ngực, nhắm mắt lại hồi lâu, mặc những giọt nước mắt lăn dài trên má. Niềm xúc cảm, rung cảm, thương cảm bùng lên, rồi từ từ lắng dần, lắng dần... dưới đôi hàng lệ âm thầm tuôn chảy tự lúc nào! Được dịp khơi lại đống tro tàn, tìm phiến than hồng héo hon, Mười đã khóc nhiều, cánh cửa ngăn tuyến nước mắt vỡ vụn, bao đau thương buồn nhớ bấy lâu, được dịp tuôn trào. Đầu óc cô là một môi trường đặc biệt, các suy nghĩ xuyên qua đó trở thành hỗn tạp, & mất niềm tin tưởng. Con đường xa thẳm từ Hội An, Đà Nẵng, đi Sài Gòn ngút ngàn hơn chín trăm cây số qua bao núi, đèo, sông, biển; thì tình đôi ta cũng xa xăm ngút ngàn dịu vợi thế thôi. Hạnh phúc bé nhỏ ngắn ngủi vút xa bay, không thể làm tim cô hồi sinh duyên tình ấm nồng trở lại. Thì ra tận đáy lòng Mười vẫn yêu Nam say đắm! Bài ca "Lá thư" của Đoàn Chuẩn Từ Linh có câu nầy Mười rất thích... "Anh quay về đây đốt tờ thư, quên đi niềm ân ái ngàn xưa... Tình người nghệ sỹ phai rồi...
                Tình người nghệ sỹ phai rồi! Nhưng tình em đối với anh chưa tàn phai theo thời gian. Nhất là những buổi chiều trời mưa vần vũ, đầu đường đại lộ Phan Chu Trinh xám ngắt, như cuộc đời của người con gái vẫn nhớ người yêu. Mười nhớ Nam, yêu anh, lòng cô cố gắng gượng để khỏi thổn thức giữa cơn buồn. Nay, chúng ta đã chia xa thật rồi, không còn gì cho nhau, đã hết, dù tình chưa tàn phai, mối tình đã chết đột ngột, đầy vô cớ cất tiếng chào vĩnh biệt, xé rách tấm màn yêu thương dĩ vãng, phai mờ dấu chân kỷ niệm một thời gắn bó nồng say trên lối cũ. Cuộc đời thương đau trôi đi một lần nữa không chứng thực lời anh nói (trong hoàn cảnh tế nhị, đắng cay nầy). Mười không hy vọng có thể đến với anh, đành phải chấm dứt với Nam. Thôi. Đã tự quyết định dứt khoát, thì cố quên đi tình đầu nồng thắm tuổi hoa niên, quên kỷ niệm vàng son một thời non dại. Quên tất cả. Hai ta như hai hố mắt của chiếc gáo dừa lăn lóc ghi khắc lại mối tình sâu xa, một đời gắn bó; nay đã mất vẻ nhìn ấm áp, trìu mến và trân trọng. Sẽ mãi hững hờ, xa xăm... luyến thương thầm nhớ vô vàn mà thôi.
                ***
                Hôm nay gia đình anh chị Thương Huyền đang vui vẻ quây quần bên mâm cơm nóng sốt, thì lúc đó có một em bé trai, trạc độ mười hai mười ba tuổi, em đi vào trước cửa nhà:
                - Cho cháu hỏi thăm nhà cô Thương Mười ở đây, phải không bác?
                Thương Mười vội đứng lên đi ra ngoài sân, mỉm cười trả lời cậu bé:
                - Chị là đây. Có việc gì vậy em?
                - Anh Hoàng Nam gởi cho chị tấm giấy nầy.

                Nhiều lần bị người lạ không quen ưa viết thư ái mộ bằng cách nầy, hoặc gởi thư theo đường bưu điện. Thế nên nhìn em bé, cô mỉm cười ôn tồn:
                - Chị không quen người ấy, em ui.
                - Có anh Hoàng Nam ở ngoài bến xe gởi giấy nầy thiệt đó chị.
                - Trời đất! anh nào ở bến xe?
                - Quen chị... ở bến xe mà. Ớ... Dạ, à … dạ…
                Sự thật Mười quên tiệt “cái họ Hoàng” của Phương Nam, vì em bé không nói anh “Phương Nam”, mà chỉ nói anh Hoàng Nam; nên Mười tưởng là ai khác.
                - Anh ấy nói thân quen chị mà.
                - Trời đất. Cái gì! Ai vậy, hở em?
                - Em không biết.

                Em bé trai vội đưa cho Thương Mười một miếng vỏ của bao thuốc lá Salem, mặt trong của bao thuốc có mấy chữ vắn tắt ghi sau: "anh Hoàng Ph Nam ở Sài Gòn đã ra Huế. Nếu có thể, (Biển Nhớ ơi) cho anh biết tin bằng điện tín. Anh sẽ vào thăm em sau. H P N". Phía dưới bao thuốc là ngày tháng, chữ ký, địa chỉ của Nam ở Huế.

                Trời ơi! Như sét đánh mang tai, cô nhìn đi nhìn lại, nhìn tới nhìn lui chữ viết và chữ ký, đúng là "cố nhân" rồi. Tự nhiên Mười tối tăm mặt mũi, run rẩy như chạm phải dòng điện trong hồ nước buốt giá khiến cô giật bắn người, lảo đảo dựa lưng vào vách nhà, nhìn trừng trừng ra đường xe cộ tấp nập chạy qua lại chạy đông đúc, cô chận hai bàn tay bủn rủn run run lên ngực. Dạo nầy trái tim Mười nhảy lung tung, bất thường quặn thắt trong bờ ngực nhỏ, e sợ mình đau tim thật sự. Mắt như có màn lệ mỏng, cô nào thấy gì, kể cả việc không nhớ cám ơn, hoặc cho em nhỏ vừa trao miếng giấy kia tí tiền, em đã bỏ đi từ lúc nào.

                Chưa bao giờ Mười run rẩy, bàng hoàng, rối rắm, xúc động, kỳ diệu, run rẩy và bối rối lo sợ kinh khủng như bây giờ. Không lầm vào đâu được. Có thể như thế sao? Trời ơi! Thật sao? Anh đã ra Huế, chỉ cách mình ngót một trăm cây số đường xa. Hoàng Phương Nam đã ra Huế. Phải. Anh vừa đến xa xa xa... Mười, một khoảng cách gần gần... thật gần em! Phải! Nhưng... bây giờ Hoàng Phương Nam đã về tìm Mười sao? Quả thật là định mệnh đã chừa cho hai người một kẽ hở, khi từ trên cao ngài đang cúi xuống ưu ái thân thiện ngó chúng mình đó, anh yêu! Mười nhớ Nam nhiều, cô nghĩ đến tháng ngày xa xưa từng yêu nhau say đắm, ngọt ngào, êm đềm hạnh phúc và buồn rầu đau khổ tận cùng. Mười nhớ rõ mồn một từ ngày anh trao tặng mình đóa nhung hồng in môi hôn tươi rói, hơi thở anh nồng nàn lẫn vào những cánh hoa hồng thơm ngát hương, mặc dù cành hoa có đầy gai nhọn đâm vào mấy ngón tay rĩ máu, Mười vẫn không cảm thấy đau. Cũng từ mấy cánh nhung hồng ấy, chị Khánh đã cấm đoán em không được yêu Nam, chị đánh em trong buổi tiệc ly ra sao. Mười nhớ tháng năm sống trong nhà chị Khánh với tình yêu Nam ngọt lịm “lén lút, sợ sệt” nhưng Mười vẫn ôm nỗi nhớ khư khư canh cánh bên lòng. Rồi thì chị buộc em phải bỏ Nam, bỏ học để đi về Huế với ba má. Thế là vô tình Mười bị gián đoạn sự học, chỉ vì em yêu anh! Buồn lắm mà không thể nào thổ lộ cùng ai.

                Mười nhớ thác Cam Ly, Prenn, Liên Khương, Gougah, Pongour, Datalania… vô vàn. Mười nhớ hồ Xuân Hương, hồ Than Thở, hồ Hải Thượng Lãng Ông, nhớ suối Vàng, suối Bạc, suối Cát Tiên, suối Bồng Lai; nỗi nhớ nhung mỏi mòn và bất tận. Mười nhớ buổi chiều nắng ươm vàng trên đồi Cù, vạt cỏ úa dưới chân vụt qua trí mình, gió lạnh thổi lá vàng bay là là xuống hồ Xuân Hương gợn sóng nước lăn tăn, sương mù rơi thật thấp, dày đặc ẩm ướt, làm mờ nhòa thành phố núi mộng mơ. Nơi chốn ấy Mười đã vui, buồn, cười, khóc, như điên dại khi anh chia tay mình, để anh tư lự ray rứt trở về Sài Gòn; và Mười "bị" về Huế, vì bà chị nói anh là:
                - “Hắn là con nhà giàu, lêu lỗng, ham ăn chơi, không lo học hành. Nếu lấy hắn thì đời mi sẽ đau khổ” (!?).

                Từ đó riêng mình âm thầm sống trong ngậm ngùi cô độc, buồn nhớ, xót xa, ray rứt, vì một góc vàng phai theo gió chướng, mất hẳn tình tri ngộ đằm thắm, Mười lặng lẽ chia biệt anh vì một bà chị khó chịu, chuyên lấy “quyền huynh thế phụ” ưa cấm cản em út, bắt em phải vĩnh biệt tình yêu, và đành phải bỏ học. Mười âm thầm chịu đựng bao đau đớn xót xa... dù biết chị hoàn toàn phi lý. Sự chia tay không hề do lỗi từ hai trẻ đã yêu nhau rất chân thật, thanh cao và trong sáng, khiến Nam bàng hoàng sửng sốt! Nhưng khi Mười về ở Huế, rồi ra ở nơi núi rừng Mỹ Chánh “chó ăn đá gà ăn muối” , chỉ có “khỉ ho cò gáy” làm gì có trường Trung Học dạy tiếng Việt, chớ nói chi có trường cuả ông Tây bà đầm! Nhưng cô chẳng hề than phiền với bất cứ người thân nào, nhất là không hề báo cho Nam biết, cũng chẳng cần đỗ lỗi do ai.

                Dù sao, giữa anh và em đã có nhiều sự song hành về tình yêu dài lâu, say đắm, chân thật, thương nhớ nồng say. Tình yêu nẩy lộc không ngừng, chỉ chia xa ở bước ngoặt lớn đột ngột bất ngờ, như con sông chảy mãi đến lúc nào đó, tách rời hai nhánh, bị bỏ quên. Nay bỗng dưng hai nhánh sông tình cờ gặp nhau ở gần cửa biển, không kém phần hào phóng và lãng mạn, tạo thành cơn xoáy cuộn sóng ba đào đầy hoan ca. Dù sao đi chăng nữa thì Mười cần phải gặp lại Nam, dù có vài giờ ngắn ngủi, dù mai nầy Mười đi giữa phong ba bão tố giữa mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, hay mùa đông. Dù sao chăng nữa em phải gặp anh phút chốc, trước khi bước lên con đường đầy khói lửa và bụi đỏ. Mười cần gặp Nam dù bất cứ giá nào, dù mai đây đi Trà Khúc, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Phú hay Tà Biên, ở mãi mãi nơi sơn lâm cùng cốc, cũng được. Phải gặp lại Hoàng Phương Nam! Phải gặp Nam! Lời đó như sự thúc giục, hối hả, cần thiết, khẩn cấp, như nhịp chân dồn dập điệp khúc vang rền: "Phải gặp Nam... Phải gặp Nam".

                Mười nhớ rõ chàng trai đã gieo vào tâm tư mình tình yêu trinh nguyên trong sáng, say đắm và đậm sâu, khiến cô nhớ nhung, đau đớn quá nhiều. Và, Nam đã bị hấp dẫn, dằn vặt, níu kéo, đầy yêu thương nhớ nhung khổ sở vì cô cũng không kém. Thực ra, vết thương lòng chưa lành, Mười tha thiết mong gặp anh, hầu giải bày nỗi niềm đau đớn đang bóp thắt trái tim. Đúng rồi! Mười phải gặp Nam, dù tang thương, cay đắng, chia xa và ưu phiền thắt họng. Dù thách đố đầy nước mắt, phân ly, tuyệt vọng, dù ôm mối hận ngàn đời vì quyết định nầy, thì cô cần gặp anh hơn tất cả, để chân thành nói rõ sự thật nguyên nhân tại sao chị Khánh cấm em không được phép yêu Nam. Tại sao khi ở Mỹ Chánh Mười quyết định chia ly anh. Rồi khi nào Nam vô Đà Nẵng, thì cô sẽ nói lời từ biệt anh đằm thắm, ngọt ngào, minh bạch, thấu hiểu, và chân tình hơn thuở trước. Vì cô nghĩ bây giờ cô đang sống trong một hoàn cảnh tế nhị nhưng phức tạp…

                Đúng là định mệnh éo le, xỏ lá, ba trợn lôi cô ra vui đùa, trêu ghẹo, chớt nhã, nhạo báng; khi Mười bắt đầu quên... Nam; ngỏ hầu cô sẽ vui say duyên mới, dù Mười chưa dứt khoát sẽ đến với người nào, hoặc là cô sẽ thuộc về riêng ai? cô đã bình lặng trong tâm hồn, vui tươi... thì bất ngờ Nam lồ lộ xuất hiện, để nối lại giòng liên lạc, ngỏ hầu tự ràng buộc nhau bởi mối thâm tình từ quá khứ mật thiết, đậm sâu không ai hủy diệt nỗi. Mình yêu Nam thiết tha trên từng trang thư trao gởi, trên khát khao thèm muốn ước nguyện chia sẻ vào giòng đời thấm đẫm hương hoa, hòa với nắng lưng đồi quyện hơi sương giọt từng phiến tơ rung xuống cỏ cây.

                Hạnh phúc được yêu là chuỗi hành trình bóng bẫy dài dằng dặc, lúc nào cũng là bước khởi đầu hy vọng; để đôi ta can trường dấn bước tới tương lai, và tìm ra đích thực tình yêu trong hạnh phúc cuối cùng ngọt ngào! Trong thẳm sâu ký ức và tri thức cuả cô: người con trai văn nhã đó vẫn vẫy gọi em, đầy ắp ân tình, ngọt ngào, thu hút quyến rũ mình dường bao! Mười chấp nhận cái vô thường lớn nhất là: sẽ đơn côi đi tìm, tìm đến người đang thiết tha gọi mời, và trìu mến yêu thương vẫy gọi mình. Mười quyết định chèo chiếc thuyền cũ, thô sơ, mong manh để cỡi trên con sóng đầy phong ba bão táp, vượt thác ghềnh, đồi núi cheo leo, hầu vút vút lướt lướt tới bến mơ... Nếu mai kia… vì lý do bẽ bàng chua xót đắng cay nào, mà hai ta phụ tình nhau… Thôi cũng đành suốt đời ôm mối hận về chín suối vì quyết định nầy. Thế là chỉ trong khoảng khắc thời gian ngắn, Mười chạy vòng qua mé giếng sát bên hông nhà, cô vào nhà bếp, hồi hộp lôi xe đạp ra dựng bên hè. Mười với tay vô song cửa sổ phòng ngủ lấy tiền trong túi xách, tay cô run đến nỗi lúng túng nhét mãi mấy chục bạc, cô mới thấy cái túi áo nằm ở chỗ nào.

                Bức điện thượng khẩn do Mười len lén anh chị gởi đi có mấy chữ: "Vào ngay, Thứ Bảy nầy, em đi xa". Và, khi đã quyết định gặp anh trước ngày Thứ Bảy, thì bỗng nhiên -ngày Thứ Bảy chạy như bay, xa cô kinh khủng- Mười có cảm tưởng hôm nay là Thứ Tư đến Thứ Bảy, nó xa, xa hơn cả mấy năm, xa như ngày xưa vàng phai trong buổi hoàng hôn xa lắc xa lơ. Anh như cánh bướm ươm tình chập chờn bay vào tuổi mộng mơ. Cô bé ngây ngô ấy đâu ngờ rằng cánh bướm trao tình đó đã thổi vào giòng đời mình quá nhiều yêu thương, chua xót, bất ngờ, éo le, đắng cay, đau khổ, tê tái suốt cả cuộc đời. Mười thơ thẩn đạp xe về nhà như người mất hồn, chung quanh cô trở nên mơ hồ, xa lạ, đối trá và thù nghịch đối với niềm vui tuyệt vời trong trí tưởng tượng đa cảm, phong phú nét lãng mạn đa tình của cô bé chớm lớn. Mười hình dung đến nụ cười hoan hỉ, mừng rỡ đến độ nào khi chúng mình bàng hoàng gặp lại nhau.

                Thương Mười lo lắng, buồn phiền ray rứt, suốt đêm thở dài không ngủ, thao thức, trằn trọc mãi. Gần sáng Mười mệt mỏi chợp mắt một lát, mi còn đẫm lệ. Ngày Thứ Năm, cô ngồi bất động ở góc phòng, mặt mày hốc hác, ngơ ngẩn, lo sợ như kẻ mất hồn. Mười dấu kín không cho anh chị Huyền biết chuyện mình đã lén lút đi gởi cho Nam bức điện tín. Ôi! Bức điện tín dễ thương biết ngần nào! Nó là cái gạch nối, là nhịp cầu tri âm mang đến tin lành cho hai người; hay báo hiệu mưa gió giông tố trong đời đây? Nào biết được ra sao! Mười gậm nhấm nỗi muộn phiền, lo lắng muốn cháy lòng, bồn chồn, run rẩy, băn khoăn trăm ngàn câu hỏi, khiến cô mệt nhoài. Mệt kinh khủng! Buổi cơm trưa ngày Thứ Sáu với môi son má phấn, áo quần tươm tất, đầu tóc vén khéo; một điều mà gia đình anh chị không bao giờ thấy khi em nghỉ ở nhà. Họ tưởng em đi ăn cơm khách. Sao Mười làm như vậy? Nam rất ghét đánh phấn, tô môi son mà. Mười nhớ có một lần mình muốn “làm ra cái dáng thanh lịch đài các đỏm đáng” nên có đánh chút phấn, tô nhạt môi hồng, bối tóc cao, em đi chơi với anh. Ngồi trên sân Cù, Hoàng Nam cười trìu mến lấy khăn tay lau hết phấn son trên mặt, anh ung dung thả mái tóc em xỏa dài ra, đằm thắm nói:
                - Da em mịn màng, đã xinh đẹp và dễ thương rồi, em để tự nhiên coi ngộ hơn, nhe em.

                Lúc ba giờ chiều, Mười thay áo quần, đạp xe ra phố đi vòng vòng trên bến Bạch Đằng, quán Bambo nhìn ra hai bờ sông Hàn lặng lờ nước chảy dưới bến Hà Thân, những khoan đò trôi lênh đênh trên sóng nước, kéo theo từng vệt khói dài do họ nấu thổi cơm chiều. Sao Mười thấy lòng phiền muộn, buồn bã, lo lắng, băn khoăn theo những đóm lửa bập bùng trong bếp lò kia quá chừng! Mười ghé tiệm lấy mấy áo dài đã may, rồi vội vàng về nhà. Ruột gan cô bắt đầu nóng rang như lửa đốt, cồn cào, xót xa như có ai lấy cào sắt mà cào vào người. Mười đi ra đi vào, đi tới đi lui, đi lên đi xuống, đi ra sân ngóng nhìn suốt hai hàng phố. Trở vào nhà, rồi lại ra bờ giếng, Mười ngồi dưới gốc me, ngóng về đầu ngả tư Hùng Vương và Phan Chu Trinh. Mười đi đi lại lại trong sự lo lắng, gần như tuyệt vọng. Đứng trước bàn thờ, Mười thành khẩn chắp hai tay lên ngực, với niềm tin tưởng tuyệt đối và hy vọng, cô thì thầm cầu xin Chúa ban cho mình có ước mơ tốt đẹp. Việc cầu xin nầy, đúng hay sai đây?

                Mười thầm xin Thượng Đế đừng giết thêm niềm hy vọng cuối cùng còn đọng lại trên khoé mắt người con gái trước ngưỡng đời hụt hơi nhiều giông tố hôm nay. Mười kính cẩn chấp hai tay trước ngực, ngước nhìn lên bàn thờ xin ơn trên hãy dừng bão tố, thổi về đây những ước mơ tốt đẹp, với niềm tin yêu và hy vọng tràn đầy. Mười vẫn cầu xin, dù niềm hy vọng mong manh dần tắt theo buổi chiều phai nắng. Cô suy nghĩ: "có thể hôm kia trong lúc quá bối rối, run rẩy, bàng hoàng, âu lo, mình đã viết sai địa chỉ, nên bức điện tín kia không đến tay anh chăng!? Ôi bức điện tín oan nghiệt ơi! Giờ đây mi ở nơi nào? Vui lòng giúp ta đến đúng chỗ nha. Ta có viết đúng nơi Nam ở tạm hay không? Ước gì mình có đôi hia bảy dặm vút bay, hoá thân thành cánh chim bằng lướt gió tung mây đi báo tin vui chính xác lúc nầy ha".

                Ngày mai... dù cho trước bình minh rạng rỡ, lóe lên ánh hào quang nơi đường chân trời, hay hoàng hôn phai nắng có dắt phấn thông vàng thấp thoáng dưới hàng cây im mát. Mười phải đi vào vùng trời quê hương khói lửa, bên bụi bờ lau lách mịt mùng, dưới nắng gió khuya chiều nơi cuối núi đầu ghềnh, giữa hai lằn đạn nội thù giao tranh khốc liệt bên con suối bạc, nơi ngàn chốn sơn khê hải hà, nơi gần vùng biên cương quyết chiến một mất một còn. Nơi khói lửa chiến chinh phủ chụp kín góc trời mù mịt tang thương. Hoàng Phương Nam sẽ chẳng bao giờ gặp lại người xưa đâu.

                Mười gần như tuyệt vọng lúc kim đồng hồ treo trên tường chỉ sáu giờ tối. Thời gian chậm chạp trôi qua, niềm hy vọng mong manh tắt dần theo buổi chiều phai nắng trên đỉnh me xanh. Bỗng, có mấy tiếng gõ cửa bên nhà cô Thuận, kèm theo giọng thanh niên hỏi:
                - Xin lỗi bác, làm ơn cho tôi hỏi thăm: có phải nhà cô Thương Mười, ở gần đây?
                Cô Thuận chưa kịp trả lời, Mười quay phắt lại, vội vàng chạy ra mở tung cánh cửa lớn. Hai người sửng sốt, nghẹn ngào, xúc động mất vài phút khi nhìn nhau không chớp mắt. Nam đứng chết trân trước cô em, anh gỡ kính mát ra, thở dài. Chiếc valy da màu xám trĩu nặng hành trang bám bụi đường xa, áo sơ mi màu vàng nhạt, ô ca rô nhỏ, quần tây gabardin, đôi giày da màu trắng. Trải qua năm tháng ray rứt, dằn vật, tức tưởi, lẫn khổ đau vì cuộc tình gãy đổ rất vô cớ, đã rèn luyện, biến đổi anh trở thành một chàng trai trầm lặng thoáng ưu phiền, trên vầng trán anh in vài nếp nhăn, nét rắn rỏi kiên nghị, trầm tỉnh hơn. Chỉ riêng đôi mắt; đôi mắt Hoàng Phương Nam vẫn như xưa, đôi mắt ánh lên ngọn lửa tình long lanh, nồng nhiệt, đôi mắt đó không giống bất cứ ai mà cô đã gặp, đôi mắt ánh lên ngọn lửa trìu mến, thiết tha, không có gì có thể dập tắt được! Ký ức tưởng đã nhạt nhòa, tưởng đã lãng quên theo tháng năm, chợt bừng lên từ đôi mắt, dĩ vãng xa xôi một thời vàng son, trong sáng từ quá khứ đó, là hành trang cuộc sống, tràn đầy ân tình.
                Như sựt tỉnh trong vị trí xác định gia chủ, Mười run rẩy nép mình qua một bên, giọng nói yếu ớt, lạc hẳn đi:
                - Mời anh... vào nhà.

                Mười lảo đảo đi xuống nhà bếp như người say rượu, cô lấy hai cái tách để pha nước trà. Tay cô run rẩy, lập cập, run đến nỗi dĩa và tách va chạm nhau kêu lanh canh, lách cách hoài, những giọt nước sóng sánh văng tứ tung. Đôi bàn tay lạnh giá cố ghì chặt lấy tách trà. Mười lảo đảo lờ đờ, ngu ngơ bưng trà lên phòng khách, cô đặt tách nước trước mặt anh. Cách nhau một cái bàn vuông nho nhỏ, Mười ngồi đó, Nam ngồi đây hoàn toàn im lặng và bất động. Mãi lâu, anh lại thở dài, lấy điếu thuốc Salem gài lên môi, quẹt lửa, anh thả từng ngụm khói lam mong manh, khói thuốc vờn quanh trước mặt hai người. Điếu thuốc thứ hai tàn, lại điếu thuốc thứ ba bắt đầu.

                Mười biết anh rất đau đớn mới hút nhiều thuốc đến thế, hút chết bỏ mà! Nhưng anh không hề rời mắt khỏi khuôn mặt người xưa. Anh nghĩ là Mười đã thay đổi, ít ra là trên má phấn môi son coi “già giặn, tra trắn” kia. Còn Mười chống tay lên cằm, cúi nhìn đăm đăm gói thuốc đặt trên bàn, đầu óc cô hoàn toàn rổng tuếch, tê liệt, hụt hẫng. Mười không thể chịu đựng sự lặng thinh đầy thách đố, sự giận hờn làm kiệt lực, nỗi bi thương tràn lên khóe mắt, làm trào hủ mật đắng lên miệng cô, lời lẽ vì thế cũng đắng cay theo:
                - Anh còn về đây tìm gặp em, làm gì nữa?
                - Em đã thay đổi, không còn như ngày xưa rồi ư?
                - Chuyện ngày xưa. Ôi, ngày xưa...
                - Anh nào... có tội tình gì đâu!
                - Trời! Em quá buồn và đau đớn quá!
                - Chưa biết ai đau đớn, hơn ai.
                - Biết vậy, sao anh về tìm em làm gì?
                - Anh xin lỗi, vì ngỡ rằng em còn nhớ đến anh.
                - Nếu không còn gì, thì sao?
                - Anh muốn trả lại em tất cả thư từ, hình ảnh của chúng mình.
                - Em không có gì trả lại anh. Tình cảm cho đi, chẳng bao giờ đòi lại được.
                - Về phần anh, anh muốn trao trả lại em.
                - Anh trả lầm người rồi. Không phải là kỷ vật của em.
                - Vậy thì giữa anh và em không còn gì để nói nữa. Chào em...

                Câu nói đột ngột của Hoàng Phương Nam, cũng như sự gặp gỡ bất ngờ, làm xót xa, ân hận, quặn thắt lòng Thương Mười xiết bao! Nét diễm kiều, duyên dáng của một hoa hậu trên vùng trời Đà Nẵng biến mất, khiến anh không thể nhận thấy con ong xinh đẹp kia, đã dấu cái nọc độc ở đâu quá đỗi tài tình. Nam xô ghế đứng bật dậy, trong khi cô nhìn thẳng vào mặt anh, nói gần như hét to:
                - Anh ngồi xuống. Không đi đâu hết.

                Sau một lúc lưỡng lự, Nam chậm rãi ngồi phịch xuống ghế, tay chống lên cằm, anh lặng lẽ thở dài, nhìn cô đăm đăm. Có cái gì níu giữ anh chịu khó ngồi lại thế nầy? Có lẽ anh vẫn còn yêu em say đắm. Có lẽ anh còn nhớ nhung, đau khổ, dày vò, ray rứt bởi những nguyên cớ rối rắm, không chút lý do chính đáng? Hết sức phi lý khi cuộc tình hai người quá đẹp (như quỳnh hoa sớm nở lại chóng tàn). Hay có thể, trong anh còn sót lại ít tức tưởi, băn khoăn, ưu phiền, ngại ngần, anh chần chờ muốn ngồi lại, để tìm hiểu cặn kẽ nguyên nhân tại sao một hai Mười đòi giã biệt anh? Nếu anh bỏ đi ngay khi câu chuyện chưa ngả ngũ ra sao, chưa rõ ra môn ra khoai (tại làm sao đang yêu nhau tha thiết, đùng một cái lại vĩnh biệt nhau, không thể có lời từ giã, giống hai người xa lạ), thì ra cái điều... anh trở về đây tìm cô, chỉ vì... chuyện nhỏ mà!
                - Anh tàn nhẫn lắm!

                Sau câu nói trên, như có bàn tay vô hình vừa cất đi khối đá đè lên tuyến nước mắt Mười đã từ lâu ngăn giữ, đè nén lại, cổng đập đau thương đã mở toang cho hàng nước mắt trào lên mi, Mười úp mặt lên đôi cánh tay trần vòng đặt trên bàn. Mười khóc, khóc, khóc... như chưa bao giờ được khóc. Cô biết mình quá vô lý khi nói: “anh tàn nhẫn lắm”!
                - Ủa, vậy chứ anh tàn nhẫn ở điểm nào vậy?
                - . . .
                - Anh có làm gì nên tội trong chuyện tình nầy?
                - . . .
                - Thật là rối rắm.
                - Anh đã đánh cắp trái tim em, và… anh bỏ nó ở nơi nào lâu vậy? Rồi thì do em cãi lệnh chị Khánh, vì em cứ yêu anh, nên em đã bị chị đánh, và bắt em phải về Huế để xa anh. Khiến từ đó đến nay em phải thất học, em mù chữ nè!

                Hoàng Phương Nam ngồi im sững không thốt nên lời vì bật ngưã ra... bây giờ anh mới biết tại sao cô đi về Huế và bặt tin. Nhưng Nam còn thắc mắc phân vân không hiểu anh tàn nhẫn ở chỗ nào trong thời gian chia biệt đã qua? Lúc đó, chị Huyền ở trong phòng đã nghe hết những mẫu đối thoại của hai người. Chị biết rõ chuyện từ ngày cô em theo má về Huế, nên chị chẳng ngạc nhiên khi cậu ta trở về tìm gặp em. Thương em, chị ung dung bước ra phòng khách, Nam vội đứng dậy chào. Chị chào lại Nam, rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai em, vỗ về:
                - Em làm gì mà ồn ào vậy! Việc gì cũng vậy, em hãy từ từ, bình tĩnh nói chuyện. Em vô nhà rửa mặt cho tỉnh táo đi, rồi ra đây. Nào. Đi đi.
                Mười vâng lời chị đứng dậy lui xuống bếp, lấy khăn rửa mặt. Chị ngồi tiếp chuyện Nam khá lâu. Sau đó, chị gọi em lên nhà, ôn tồn nói:
                - Hai em nói chuyện vui vẻ nghen, để chị xuống bếp biểu cái Tí làm cơm.
                Chị mời Nam ở lại dùng cơm tối, nhưng anh nhất định từ chối, xin hẹn dịp khác. Chị cười cười:
                - Không sao! Còn nhiều dịp mà em. Cứ tự nhiên.
                Ngồi vào ghế cũ, cô đã bình tĩnh đôi chút. Thẳng thắng nhìn vào khuôn mặt anh, Mười nhỏ nhẹ:
                - Anh định về đây đòi lại thư từ, hình ảnh của anh. Phải không?

                Nam chống tay lên cằm, đăm đăm nhìn vào khuôn mặt Mười đã xóa hết phấn son. Anh nhẹ lắc đầu, tủm tỉm mỉm nụ cười duyên không nói. Lòng Mười dịu hẳn đi, cô ngẩn người giây lát, nước mắt trào quanh mi, rồi run run nói tiếp:
                - Bây giờ, em không nên lưu giữ kỷ niệm cũ, phải trả lại anh. Là đúng.
                Mười nhớm người toan bước đi, nhưng anh đưa hai tay ra phía trước ôm giữ cánh tay Mười. Lắc đầu quầy quậy, anh vội vàng nói:
                - Thương Mười à! thật ra anh về tìm em, không phải vì lý do đó.
                - Vậy, anh đi tìm em… có việc gì cần báo nữa?
                - Anh tìm em, để thỏa lòng nhớ nhung. Để biết rõ là... anh chẳng còn hy vọng gì. Để khẳng định một điều là em đã có chồng: Niềm đắng cay đã trào lên bờ môi anh. Để bị em xua đuổi.
                - Chưa biết là ai phụ ai. Anh ác thật.
                - Hãy tìm câu nào nặng hơn, để nói cho anh nghe đi. Tuy nhiên, anh không thể biết được: anh đã tàn nhẫn, và ác với em ở điểm nào?

                Bỗng dưng, Mười úp mặt xuống hai tay, òa khóc thật to như trẻ thơ đòi bánh. Nam vòng qua bên mép bàn, anh lặng lẽ đặt tay lên vai em, nhẹ nhàng vuốt mái tóc bồng bềnh quá dài đã xõa trên bàn, tóc phủ kín khuôn mặt. Anh biết Mười rất đau khổ khi gặp lại mình, nhưng Nam không thể hiểu vì sao? Anh lấy chiếc mouchoir trong túi quần, nhẹ nâng cằm Mười lên, từ tốn lau hai hàng lệ tuôn trào ướt đẫm cánh tay trần.
                - Xin lỗi anh. Đừng buồn vì những lời em nói.
                - Có nghĩa là Mười vẫn là... em yêu của anh?
                - Với Hoàng Phương Nam, em còn quá khứ, hiện tại, cả tương lai cuộc đời đang ở phía trước.
                - Ôi! Em Thương Mười cuả anh.

                Đúng lúc nầy, Trúc dừng xe jeep trước sân, cô chạy xộc vào nhà, miệng la ơi ới:
                - Mai tụi mình đi theo phái đoàn ra Quảng Ngãi nè Mười.

                Trúc đứng khựng lại trước mặt Nam. Mười lúng túng đứng dậy, giới thiệu Trúc với anh. Trúc “À” lên một tiếng, cô cười rất xinh. Do Mười đã tâm sự, nên Trúc biết khá rõ về mối tình của hai người. Trúc biết nỗi đớn đau của Mười khi tự ý chia-biệt anh. Trúc thoải mái, líu lo nói chuyện với anh tự nhiên như đã từng quen biết với anh từ thuở nào. Trúc vội, vì sắp hết giờ làm việc, tài xế đang chờ ngoài đường. Trúc nói:
                - Thôi. Anh Nam về tìm bạn là phải. Nên hòa nhau đi. Mười ở nhà kỳ nầy, để mình xin phép anh Phi cho bạn nghỉ một tuần. Nha.
                - Hòa gì nỗi. Mình phải đi làm việc.
                - Đừng có trở chứng lên thế. Nên hòa với anh ấy đi. Bấy lâu nay mi khóc sưng cả mắt vì yêu anh Nam rồi, bộ không biết sao?
                - Ớ, anh Bửu sắp đi đám hỏi mình rồi. Hòa với hiếc gì!
                - Mình tin rằng “cô cậu” vẫn còn yêu nhau da diết. Nhất là giữa mi và anh Bửu chưa có một ràng buộc mật thiết nào, kể cả chưa có một lần tay nắm bàn tay nhau. Vậy mi hãy bỏ cái chuyện lấy chồng lẩm cẩm cù lần và dấm dớ kia đi. Nha.
                - Sao hôm trước chính Trúc bảo với mình: Nên nhận lời lấy anh Bửu đi, hở khỉ!
                - May chứ hôm đó mi mà gật đầu một cái là... “chết lúa tui” rồi!
                Nam hỏi dồn:
                - Em cùng đi với Trúc sao?
                - Đời nào. Trúc cho phép nó ở nhà đó anh.
                Trúc lại cười tít mắt, nói xong Trúc vụt chạy ra ngoài sân. Trúc nhảy lên xe jeep, xe lao đi cuốn theo lớp bụi khói bay theo gió rì rào.
                Nam thì thầm bên tai cô:
                - Em ở nhà, ngày mai đi ra Huế, với anh. Em nhen.

                Mười muốn từ chối lời đề nghị đó. Nhưng, thật là khó chối từ nỗi trước ánh mắt thiết tha, nụ cười khả ái, lời nói chân tình, lôi cuốn của “người ấy”. Trước sự quyến rũ dường bao của Nam, mà tuổi đời, trình độ kiến thức, tri thức, cung cách tao nhã, lịch thiệp, sự cao sang, đều hơn hẳn Mười, người mà cô đã yêu say đắm, yêu rất nhiều, khi người ấy đã y lời hẹn ước năm xư: "Anh sẽ trở về miền Trung, tìm lại em. Dù bất cứ giá nào, dù trước chông gai và thách đố" - như anh đã hứa. Cảm ơn anh yêu. Bởi vì cô muốn: ANH là tất cả riêng EM:
                Em muốn viết tên anh.
                Thân như cây liền cành.
                Tên em tình sim tím.
                Ta chim én song hành.

                Yêu anh người khí phách.
                Tình đôi ta liền mạch.
                Vượt chiếc cầu Bến Ngân
                Qua gian lao thử thách.

                Dù trời xa cách đất.
                Tình yêu mình có thật.
                Gió mưa rừng lặng yên.
                Non cao mây hồng ấp.

                Anh đến trong tâm thức.
                Đôi ta càng náo nức.
                Tình son sao ngập ngừng.
                Nụ hôn đầu rạo rực.

                Buổi giao tình thứ nhất.
                Con tim yêu chất ngất.
                Giờ còn ai cấm nhau.
                Mỗi ngày là trăng mật.

                Đời ta vương hạt bụi.
                Gió mưa chẳng dập vùi.
                Đường tình quyện sớm tối.
                Hoa đời nở đóa vui..

                Trên phiến lá đong đưa.
                Gió thu bay đầu mùa.
                Con tim ta mềm nhũn.
                Tình nồng mộng sớm trưa.
                (*)
                *

                (*) Thơ Tình Hoài Hương

                Tình Hoài Hương
                Last edited by Tinh Hoai Huong; 03-22-2018, 04:02 AM.
                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                Tình Hoài Hương

                Comment


                • Tình... Đời Chất Ngất Niềm Đau



                  Tình... Đời Chất Ngất Niềm Đau


                  Trên con đường hẽm hầm hập nóng và bẩn thỉu, bước tới đụng người bước lui đụng người chen lấn nhau, vì ngay ngoài hiên nhà nầy là chỗ người khác xin ngồi nhờ, để ồn ào náo nhiệt bán mua sát chợ Nghĩa Hoà. Bà cháu mẹ con tôi đùm túm dắt díu nhau trụt xuống hai chiếc xích lô rẽ vô nhà anh chị Tạo (anh cùng cha khác mẹ của chồng tôi). Mọi người ở trong nhà sửng sốt, nhốn nháo giây lát, rồi họ hét lên, ríu rít mừng rỡ chào đón chúng tôi. Chuyện trò xôn xao hỏi han nhau đủ mọi thứ nghe rôm rã. Phút chốc buổi cơm chiều đơn sơ dọn ra.

                  Nhà anh chị Tạo chật như nêm, căn nhà rất tối tăm, lụp xụp, chen chân không lọt trong một chu vi quá hẹp: 3m x 9m, ngoài trời đã nóng trong nhà càng nóng hầm hập, quá khó chịu. Bếp sát bên một cầu tiêu nhỏ xíu đang bị nghẹt ứ cứt đái trôi lềnh bềnh, xông lên mùi hôi kinh khủng. Trong nhà, vợ chồng con cái họ đã là mười hai người. Cộng thêm bảy người em họ là chú Hồng di tản từ Ba Mê Thuột về đây cả tuần. Nay có thêm sáu người chúng tôi về tá túc nữa. Thật đông hết biết. Chúng tôi trải chiếu nằm xếp lớp bên nhau ngổn ngang như cá mòi trên gác xép tối om, thấp lè tè nóng như trong lò lửa. Anh Tạo chia cho bà nội ngủ với chị Tạo ở nhà dưới.

                  Ngay hôm sau gởi cháu cho bà nội trông coi, tôi đi xe bus xuống đường Trần Cao Vân vào trình diện Nha Học Chánh. Giờ cao điểm thì có hàng chục ngàn xe đạp, xe Honda… chạy thành giòng không bao giờ dứt, trên những con đường luôn luôn đông như nêm đến công sở, đến trường học, hay tan trường sở. Trên lề đường chen lấn cả ngàn người đi bộ, với kẻ gồng người gánh bán hàng rong, họ lấn chiếm ra lòng lề đường vô số kể người là người! Trình diện tại phòng Giáo-dục, tại đây tôi gặp lại hầu hết bạn bè ở Đà Lạt. Không ngờ họ lanh tay lẹ chân đến trình diện trước tôi cả tháng, họ hay hơn tôi nhiều.

                  Tôi làm giấy tờ chờ truy lãnh mấy tháng lương tại chỗ. Thế là, ngày ngày tôi phải đến phòng nhân viên trình diện có mặt, và chờ đợi mọi tin tức cập nhật. Nếu ngày nào tôi không đi trình diện, thì coi như tôi bỏ nhiệm sở và bị sa thải. Tôi làm đơn xin về dạy một trường nào đó gần khu Ông Tạ. Nhưng hầu như không ai có thì giờ để lo cho đám giáo chức lao nhao khổng lồ ùn ùn kéo về Sài Gòn lánh cư nầy cả. Tình hình chung trong cư dân Sài Gòn xét ra rất phức tạp, hỗn độn, rối loạn lắm.

                  Mang tiền lương về nhà, tôi liền đưa chị Tạo ba chục ngàn đồng, để đóng góp chung vào với họ tiền chi phí ăn uống. Chúng tôi ở nhà anh chị Tạo chỉ được ba ngày vui vẻ thôi. Mấy đứa con tôi lạ người lạ chỗ, đi ra vấp người đi vô đụng ngưởi, đêm cũng như ngày không biết làm gì, các con cứ đứng quanh quẩn bên bà, liền bị anh Tạo quát mắng la rầy, đuổi chúng đi ra xa bà, không được quấy rầy bà nội. Anh Tạo không biết rằng các con tôi quyến luyến yêu thương bà nội, ưa gần gũi bà nội còn hơn cha mẹ nó. Ở Đà Lạt suốt ngày các cháu chơi đùa với nhau, quanh quẩn bên bà nội, nay họ đuổi chúng đi không cho đứng gần bà nội.

                  Đuổi chúng đi! chúng đi đâu bây giờ! ở trong nhà nóng kinh khủng và chật chội, đứng thôi cũng chạm người khác. Đi ra ngoài hiên nắng và nóng, càng không có chỗ chen chân, những thúng mẹc chất đầy hàng hoá và người bán ngồi trên vĩa hè nhà chị. Anh chị không nghĩ đến điều đó ư? Ở nhà anh Tạo con cái tôi cũng không yên thân. Anh ta bắt tôi phải bế bé Tồ đi xe bus đi trình diện ở Nha Học Chánh đông nghẹt người. Nơi đây chỉ có người lớn, đàn ông đàn bà. Tuyệt nhiên không có một đứa trẻ nào có thể giam mình trong những căn phòng chật cứng người to lớn đi lại. Thế nên, tôi bế con đi trình diện Ty được ba ngày. Hôm sau, tôi đành để bé Tồ ở nhà. Hôm ấy từ Nha Học Vụ trở về nhà, đứa lớn chưa đầy 6 tuổi đón tôi ở ngoài đường:

                  - Mẹ ơi! Ở nhà bé Tồ đói bụng, em đòi ăn cơm. Bác không cho em ăn. Bác lấy roi mây đánh mấy anh em con. Bác nói:
                  - “Tụi bây phải dắt em đi chỗ khác, phải cõng em đi chỗ khác, không được về nhà. Khi nào con mẹ mày về, thì cõng nó về. Nó quấy bà”. Con bị đòn, đau quá mẹ ơi!
                  Trời! Chị Tạo có đứa con mười tháng tuổi, chị vẫn bế nó suốt ngày nằm trên võng, mà hễ ngưng đu đưa võng, là nó khóc thét lên, vì nóng đó. Thì sao? Tôi vạch lưng mấy đứa con ra, quả thật có lằn ngang lằn dọc đỏ bầm trên lưng và mông đít con. Tôi hầm hầm về nhà, ôn tồn hỏi bà nội, me đáp:
                  - Phải. Me tính xới cơm cho bé Tồ ăn trước, vì nó đói. Nhưng bác la me:
                  - “Bà cứ chìu, cho chúng nó hư. Đánh bỏ mẹ chúng nó đi”.

                  Tôi nghe mà vuốt giận chịu nhục, tôi có ý muốn cố ở nhờ trong nhà họ, thì tiện cho việc đi trình diện Nha Học Vụ. Tôi biết anh chị Tạo lòng dạ hẹp hòi, ích kỹ, nhỏ mọn, họ ghen ghét mẹ con tôi (vì mẹ ân cần săn sóc thương yêu các con tôi). Dĩ nhiên là bà nội phải thương các cháu nầy, hơn các cháu con của họ, bà sống với chúng tôi bao năm nay có sự quyến luyến yêu thương nhau. Trong khi vợ chồng họ chẳng chăm sóc yêu thương gì bà mẹ ghẻ, họ không ở với mẹ kế ngày nào. Tại sao ganh ghét lạ vậy? Chỉ một chuyện nhỏ nầy: khi thấy tôi ủi áo dài để đi trình diện, thì hôm sau anh chị dấu cất cái bàn ủi trong tủ, khoá lại, sợ hao tốn điện. Tôi hỏi mượn bàn ủi, chị nói:
                  - “Xím” ủi xong là phải cất đi. Nên mất rồi.
                  Tôi nhìn mấy đứa con anh chị, là biết ngay chị nói dối. Nhưng chị cứ buộc tội là tôi để bàn ủi hớ hênh, nên mất rồi. Nghĩ thật tức cười! Ủi đồ trên gác xép kín như bưng thế nầy, chỉ có vài cửa sổ nhỏ xíu, có lưới mắc cáo và chấn song sắt bọc ngoài dày cui, trên gác không có cửa lớn ra ngoài, trần nhà lợp tôn. Con chuột lủi vô nhà e còn chưa lọt. Còn tên trộm có muốn ăn cắp, ăn trộm... thì phải vào nhà dưới, rồi nó mới leo lên cái thang dựng đứng đặt sát bên chiếc giường rộng, là nơi chị ta nằm đưa võng, cũng là nơi tụ tập thường xuyên không dưới mười người. Tên ăn trộm có giỏi cỡ nào, có tài thánh gì hoá thân mà bay, cũng không thể lọt qua ba bên bốn bề trong nhà!

                  Sau ngày bị vu khống tôi làm mất bàn ủi, thì hôm nào đi trình diện tôi cũng mặc quần áo nhàu nát. Thật xấu hổ cho một giáo chức “chỉnh tề”. Hể tôi đi vắng thì thôi, về nhà là có đủ thứ bực mình: Bác Tạo hết đánh đứa nầy, phạt quỳ đứa nọ, giam đói đứa cháu khác, tôi không ngờ “tình khúc ruột thừa thịt dư” nầy, thua xa gia đình ông bà Niềm, cô Thúy Lan, cô Oanh ngày cũ ở Nha Trang, khiến tôi bực tức không thể nào chịu nỗi. Một buổi trưa trời nóng như thiu đốt, nắng chói chang từ trên xe bus trụt xuống, tôi đã thấy bé Dzũng, bé Huy, bé Tuấn cõng bé Tồ (Hoàng) cùng đứng ở trạm xe. Dưới đất, bé Bi đang ăn củ khoai lang còn dính đất. Sợ mất hồn mất vía, sợ các con đi lạc, hay bị bắt cóc, tôi vội chạy tới bế bé Tồ. Mấy đứa con mặt mày lem luốt, đều khóc:
                  - Bác Tạo đuổi tụi con đi. Bác nói:
                  - “Chúng mày chỉ giống con mẹ mày. Lo cút xéo đi cho rãnh mắt tao”.
                  Con đã trả lời:
                  - Con thì phải giống cha mẹ.
                  Bác Tạo ông liền lấy cái roi da cá đuối treo trên tường, bác quất vào lưng con. Bác nói con dám “trả treo”. Em Tuấn thấy bác đánh con, chạy tới can. Bác cũng quất túi bụi vào em nữa. Hụ hụ hụ...
                  Nói xong, hai con lớn oà khóc và vạch lưng, tụt quần xà lõn ra cho tôi xem. Nào lằn ngang, nào lằn dọc từ trên lưng xuống mông, bầm tím hơn lần con bị bác cho ăn roi vọt trước kia. Bác đánh cháu nhỏ còn hơn tra tấn quân thù.
                  Tôi hỏi bé Tồ:
                  - Tại sao con khóc, để anh bị đòn oan.
                  Con chỉ vào bụng và bập bẹ nói:
                  - ...ói… b…ụng.

                  Tôi giận run và nghĩ: “Yêu nhau yêu cả đường đi. Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng”. Các con quá đói khổ rồi, chẳng lẽ cứ bị khổ sở, đánh đập vô cớ hoài sao. Có lẽ mình nên dời đi chỗ khác sống thì hơn. Tôi ẳm bé Tồ, tay dắt bé Bi về nhà. Các con sợ sệt lẽo đẽo theo sau, len lén núp sau lưng mẹ. Thấy họ, trong lòng tôi tức giận sôi lên. Chẳng thà họ cứ thẳng thắng nói “không cho gia đình tôi ở nhờ”, tôi có lòng tự trọng, sẽ dọn đi ngay. Họ không nên kiếm cớ nầy cớ nọ, mà đánh đập chưởi đuổi chúng tôi đi, làm cái ngữ nầy, ai chịu cho thấu! Tôi đã mất tiền đưa cho họ rộng rãi thoả đáng, ăn ở chưa trót sáu ngày. Chứ có phải chúng tôi ăn chực ở chùa đâu. Chắc họ muốn “vòi” thêm tiền? Họ nghĩ xưa kia gia đình mình nổi tiếng giàu có, mà quả thật trước khi chạy giặc, tôi có xe hơi nhà lầu, hôm nay tôi keo kiệt “trùm sò” không chịu rỉ thêm tiền ra hậu hỉ! Họ đối xử không tốt, quá tệ là đằng khác, thế mà chúng tôi phải mang ơn mang nghĩa.
                  Con cháu mới lên ba lên năm, nếu có lầm lỗi, thì bắt nó nằm xuống, răn dạy nhịp nhịp cái roi vô mông, cũng đủ cho chúng sợ mất hồn mất vía rồi. Tôi cám ơn không hết, chớ cần chi phải lấy cái roi loại da cá đuối mà thẳng tay quất cháu bị đòn vọt đau đớn, như đang tra tấn cháu?! Chỉ vì: “chúng mày giống con mẹ mày”. Con không giống cha giống mẹ, chẳng lẽ giống ông bà hàng xóm à?

                  Về nhà đặt bé Tồ xuống thềm, tôi nói luôn một hơi:
                  - Mấy đứa con em, nếu không đúng, không phải, thì anh chị bắt chúng nó nằm xuống giường mà răn dạy, nếu anh chị dùng bàn tay đánh vài cái vào mông, cũng khiến cháu sợ và đau rồi. Em phục, cám ơn anh chị, không dám nói gì. Nhưng tại sao anh lại lấy cái roi cá đuối quất túi bụi vào lưng, vào cổ cháu vậy? Em hỏi anh: Các cháu có tội gì nặng không, mà anh nỡ lòng hành hạ chúng? Loại roi da cá đuối, nếu ai bị đòn chảy máu, sẽ bị thúi thịt, anh có biết không? Anh chị đánh đập cháu dã man, chỉ vì nó đói, xin ăn cơm. Anh chị coi nè, có được không?

                  Tôi lôi hai đứa: bé Dzũng và bé Tuấn tới trước mặt họ, tôi khóc và vạch lưng, vạch mông, hai cánh tay con lên, cho cả nhà xem. Bà nội lúng túng nói:
                  - Thằng Tồ đói bụng. Bác mày chưa nấu cơm. Tao bế nó dỗ cháu tị, nó nín í mà.
                  Anh Tạo đốp ngay:
                  - Bà không việc gì phải thí dỗ cho chúng hư đốn, quen đi. Quấy không ai chịu nỗi. Lúc nào mặt mũi cũng đỏ kè, sãy sài, khóc nhè mãi. Bố ai chịu nỗi sự ồn ào hư đốn, hử!?
                  Khi đó, tôi không thể nhịn anh ta, tôi vừa khóc vừa gào lên:
                  - “Lời nói không mất tiền mua.
                  Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
                  Ngoài miệng thì nói nam mô.
                  Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm”. Một ngày anh biết say sưa ăn ba bữa đàng hoàng với rượu đế, thức nhắm ngon lành. Có ngày nào anh không ăn nhậu hử! Cháu anh đói, đòi ăn, anh cấm không cho cháu ăn. Là sao!? Anh đừng ác ôn... như đối với quân thù vậy nhen.
                  - Bà về đây là để bà nghỉ ngơi. Không phải làm gì sớt.
                  - Sao anh quá nhỏ mọn vậy? Chẳng lẽ từ xưa đến giờ thấy cháu đói, mà bà không cho cháu ăn. Vã lại, anh chị không nên hẹp hòi vì miếng ăn, tôi đã gởi anh chị tiền cơm nước đàng hoàng, hậu hỉ và đầy đủ. Tôi lầm tưởng mình có bà con ruột thịt, nên về nhà anh chị ở, mong nương tựa lẫn nhau lúc khốn cùng, cho có anh chị, có em, có mẹ có con. Nay anh chị muốn đuổi, thì anh nói. Tôi sẽ đi ngay. Chứ anh chị không được hành hạ các con tôi tàn nhẫn, vô cớ đến thế nha.

                  Nói xong tôi chạy đùng đùng rầm rầm leo lên thang gác vơ quần áo của các con, tộng vào túi vải cũ, tôi hầm hầm kéo xềnh xệch ba túi vải xuống thang gác. Tôi dặn mấy đứa con đứng chờ ngoài hè, rồi chạy ra ngoài ngả ba Ông Tạ, gọi chiếc xe ngựa vô hẽm, xe ngựa đậu trước cửa nhà. Tôi chất đồ, các con liền leo lên xe. Tôi nói với bà nội:
                  - Me cứ ở đây cho khoẻ. Chúng con phải đi, không thể ở đây, để người ta hành hạ tàn nhẫn cháu bà như thế được.
                  Bà nội chưng hửng, ú ớ, ngại ngần, bà không biết tính toán làm sao cho phải phép. Một bên là mẹ ghẻ con chồng, một bên là con dâu cháu nội ruột của bà. Tôi đưa cho bà mười ngàn đồng dằn túi ăn quà vặt. Rồi tôi giận run quay lại, trừng mắt nói với họ, như hét:

                  - Anh chị tưởng là: nếu chúng tôi không có anh chị, thì chúng tôi không có chỗ nương thân, sẽ chết bờ, chết bụi hay sao? Anh chị nè, mẹ hôm nay và sắp tới có ở lại đây, thì me cũng không phải ăn bám, ăn chực cơm canh nhờ ở nhà anh chị đâu. Khi tôi có tiền, thì anh anh chị chị em em ngọt xớt. Bây giờ tôi sa cơ lỡ vận, thì anh chị muốn trở mặt dở dóc đủ điều, tệ mạt, khốn nạn hết chỗ nói. Người dưng thật ra còn tốt hơn anh chị. Anh chị cư xử thua kém gia đình bà Niềm xa lạ ở Nha Trang, họ đối với chúng tôi rất tốt. Không tin, anh cứ hỏi me, thì rõ. Phần mẹ, mẹ cứ yêm tâm ở lại nhà nầy ăn uống thoải mái, vì con đã trả tiền cơm cho nhà mình ăn no cả tháng. Anh chị không phải nuôi me nhá. Sau nầy anh chị đừng kể công là: khi tôi ra đi, đã để mẹ
                  lại, là gánh nặng cho nhà anh chị lo.

                  Vừa nói, tôi giận dữ móc túi quăng ra thêm nắm tiền vung lên trên giường, ngay dưới chân chị Tạo (chị đang nằm ru con trên võng móc ngang giường). Tôi chỉ ném ít tiền lẻ khoảng hai ba ngàn thôi, chứ ngu gì tôi móc cục tiền lương vay trước ba tháng thật to ra quăng vào mặt họ. Bộ điên mà ném tiền hết, để mẹ con tôi lưu lạc bị chết đói! Cứ chưởi một trận cho đã, rồi từ nhau là vừa. Chính tôi cũng không ngờ tại sao tôi trở nên hung dữ đanh đá như thế! Tính nết tôi bình thường biết giữ thể diện, sợ xấu hổ không mấy khi to tiếng. Nhưng nay đụng chuyện “quá độ”, quá trí khôn rồi, thì tôi cóc cần, cóc sợ ai. Có phải do tôi thấy các con đít bị rỉ máu, lưng sưng húp bầm thâm thì… “máu chảy ruột mềm” chăng? Nếu biết tình nghĩa “bà con lạt hơn nước ốc” như thế nầy, chẳng thà chúng tôi ăn ngủ ở đầu đường xó chợ cho xong, chẳng phiền ai, các con không bị hành hạ khổ sở thế nầy. Mỗi khi tôi thò mặt về nhà nầy, thì tôi nghe đủ thứ chuyện đinh tai nhức óc, muốn điên đầu. Nay, tôi đùng đùng túm đồ đạc dẫn các con ra đi họ ngẩn tò te và im phăng phắc. Có lẽ họ không ngờ là tôi dám làm chuyện động trời như thế. Họ cũng mắc cỡ với hàng xóm láng giềng đang bu lại đông đúc xem tuồng chăng?

                  Con ngựa hí vang, nó đứng ngoài trời nắng chang chang, bốn vó nhịp nhàng dậm trên mặt đường kêu lóc cóc. Tôi leo lên xe ngựa, năm mẹ con ra bến xe đi Hóc Môn. Các con tôi hí hửng mừng rỡ reo vui khi lần đầu tiên được ngồi xe ngựa. Cũng như được thoát ra khỏi căn nhà nóng hầm hập, chật chội và nhất là luôn bị bác Tạo của chúng nó trù dập, tra khảo, đánh đòn cháu tươm máu đít, vì những chuyện không nguyên cớ chính xác. Dẫu chúng chưa biết rồi đây miền đất mới sẽ cho chúng ấm no, hay đói lạnh thế nào. Nhưng chúng biết chắc chắn rằng đã thoát ra nơi tột cùng kinh dị, là các con vui mừng rồi.

                  Tôi thương các con lắm! Khi mấy mẹ con trụt xuống xe đò Sài Gòn Hốc Môn, thì tôi thấy hai cháu Sơn, Nhân đang đứng chơi ở ngoài ngả ba trại Lam Sơn (Thành ông Năm). Chúng tôi mừng rỡ ôm nhau mà khóc ở ngoài đường. Tại nhà chị Sáu (chị mẹ goá con côi có năm người con: ba đứa con trai lớn đi lính. Hai đứa nhỏ dưới mười lăm tuổi đi học). Trong nhà nầy có gia đình chú Ri (là em ruột chồng chị, gồm mười hai người từ trên Tây Ninh chạy loạn về đây tá túc. Nay có thêm sáu người chúng tôi, vị chi trong nhà chị Sáu có tất cả là hai mươi bốn người lớn bé đông đúc, ngày đêm chui ra chui vào ở một căn nhà nho nhỏ của trại gia binh.
                  Tối tối mọi người cùng trải chiếu ra nằm la liệt trên nền xi măng đã lau chùi sạch sẽ, hoặc nằm ra ở ngoài mái hiên mà ngủ. Tôi góp tiền với hai gia đình kia đi chợ nấu ăn chung. Mỗi bữa ăn chia ra làm hai mâm to: Một mâm người lớn. Một mâm trẻ nhỏ đông đúc, nhất là bầy con của chú thím Ri lút chút lít chít nheo nhóc la khóc suốt ngày đêm.

                  Mặc dù góp gạo nấu cơm chung, nhưng phần ăn thì họ chia không công bằng. Ví dụ như các con tôi họ xới chén cơm rời rời xôm xốp, nhưng con chú thím Ri thì họ (tự tay thím Ri phân phát) xới chén cơm ém thật chặt xuống đáy chén, ở bên trên họ chêm cho rời rời, và múc nhiều thức ăn cho các con họ thứ nào ngon. Miếng ăn là miếng tồi tàn mà, chấp nhứt làm chi! Tuy biết vậy đầu óc tôi không căng thẳng, mà có phần thảnh thơi được ít ngày. Tôi ăn cơm ngon nhưng luôn mất ngủ, vì kể từ khi rời Đà Lạt di tản đến nay, tôi sống trong cảnh màn trời chiếu đất, nằm lăn lóc ở bụi bờ, không giường nệm êm mền ấm như ở Đà Lạt. Vì thế, khi đặt lưng xuống chiếu là toàn thân đau nhức rần rần. Những đau khổ kể trên, khiến cho tôi nhớ lại thuở còn ở Đà lạt... mà khóc ròng!
                  Mỗi ngày tôi bế con ra ngoài ngả ba Lam-Sơn Hóc-Môn, thì thấy xe GMC từ ngả Trảng Bàng– Tây Ninh chở binh lính đầy nhóc trên xe, xe nườm nượp chạy đi chạy về trên quốc lộ nầy tấp nập. Thỉnh thoảng súng lớn đạn nhỏ từ trong Thành Ông Năm câu đi đâu đó uỳnh uỳnh uỳnh… làm rung động cả góc trời.
                  ***

                  Tôi ở nhà nầy một tuần, thì Luật ở Đà Lạt đã chạy thoát về Sài Gòn, ở nhà anh Tạo hai hôm Luật mới đến nhà chị Sáu, mặt anh hầm hầm coi hung dữ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Dĩ nhiên Luật ghé nhà anh chị Tạo ở Sài Gòn trước, và anh đã nghe họ “tả oán” về mẹ con tôi đủ thứ chuyện xấu, (người ta nói sau lưng mình, dĩ nhiên mình xấu, họ tốt; trước khi Luật nghe vợ con phân bày phải trái). Luật là người đàn ông độc đoán, gia trưởng, kẻ cả, ít khi anh lắng nghe điều hay lẽ phải, anh không nhìn các dữ kiện, mà chỉ nhìn sự kiện đã xảy ra, rồi vội vàng kết luận. Tôi vừa mừng rỡ vừa sợ. Phải! Thú thật là tôi rất sợ chồng. Luật có “cái uy” để anh “trị” tôi. Luật tức giận ngồi phịch xuống sofa, anh nói như hét trước mặt mẹ con chị Sáu, gia đình chú Ri, và mẹ con tôi. Anh khóc hụ hụ:

                  - Em tưởng là tôi bị kẹt lại Đà Lạt, thì tôi không thể thoát đi được, hay tôi đã chết rồi. Em làm kẻ tình lờ không bao giờ gặp lại tôi hay sao!? Nên em lo từ bỏ họ hàng của tôi cho sớm. Hử?

                  Thím Ri tỏ vẻ khoái chí, lết đít xích lại gần Luật để nghe rõ cho biết chuyện riêng tư. Đại loại là thím tưởng giữa tôi và Luật có “sứt mẻ” vợ chồng gì đó. Thím là hạng đàn bà ưa tò le mách lẽo, tọc mạch tò mò nghe ngóng chuyện người khác, ưa đưa chuyện. Chị Sáu thì chưng hửng, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì xảy ra. Nhưng chị tôi ôn tồn, khéo léo an ủi vỗ về Luật:
                  Cây khô nghe sấm nứt chồi.
                  Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương.
                  Cãi nhau là chuyện bình thường.
                  Cãi xong tâm sự trên giường cả đêm. (cd)

                  Khi bình tĩnh đôi chút, Luật từ tốn kể lại chuyện anh chạy nạn từ Đà Lạt về Cam Ranh, Nha Trang, anh đi bộ nhiều ngày rất khổ sở điêu đứng gian truân không tả xiết vô Sài Gòn, những điều rùng rợn không sao tả hết vào giờ phút cuối. Ở lại nhà chị Sáu hai ngày, sau đó Luật thu xếp cho vợ con lên Sài Gòn. Chúng tôi đến ăn ở tạm tại nhà dân biểu Tony Tẻh. Bởi Luật thường đi công tác với ông bà dân biểu Thượng-Viện, Hạ-viện, Nghị-viên, Luật về hội họp. Nói chung, Luật chí tình nhiệt tâm với bạn, không quản ngại bỏ tiền túi ra, bao cho bạn đến bến đến bờ.
                  Nhất là Luật đã chu toàn, ráo riết lo vận động cho anh bạn thiểu số Toneh Tẻh đắc cử dân biểu vào quốc hội, làm tôi mệt lắm. Trong thời gian Toneh Tẻh vận động tranh cử, tôi luôn “hầu bạn” cơm ngon canh ngọt, cá tươi chiên dòn, thịt heo kho trứng vịt, thịt bò lúc lắc, bún bò giò heo, bánh xèo, phá lấu, xôi thập cẩm tự nấu, vân vân... Các thức ăn để trên bàn có lồng bàn đậy kín hẳn hoi, (hoặc chờ họ về mới hâm nóng). Mẹ con tôi ăn cơm trước, họ không bị mẹ con nheo nhóc nầy quậy phá ồn ào. Khi nào “hai ba bốn ông tướng” ấy về, thì họ vui vẻ ung dung rỉ rả ăn uống no say, nói chuyện thời sự, chuyện chiến tranh, chuyện thế giới, kể cả chuyện tiếu lâm.

                  Đôi khi Tẻh ở dưới quê tại Đơn Dương bất ngờ vào nhà tôi nghỉ ngủ. Dù sớm hay muộn, thế mà tôi phải bò dậy ra vườn rượt bắt con gà, (con vịt), vô bếp cắt cổ, mổ bụng con gà (hoặc con vịt), làm thức ăn hầu tiếp bạn của Luật, tôi lo cho bạn vài năm như thế. Gia đình Tẻh nghèo lắm, không thể có tiền đi vận động đây đó xã giao. Thế là Luật đứng ra làm đầu tàu (trong một nhóm bạn thân nhiệt tình lo cho Tẻh đầy đủ hết biết, dĩ nhiên họ cũng có "hậu ý" là khi nào Tẻh đắc cử, thì hy vọng "mình" cũng có chút "hư danh" hoặc "lợi lộc")!
                  Họ lo cho cá nhân Tẻh lên danh phận có chức có quyền đã đành. Ấy thế mà cả gia đình vợ con của Tẻh (đông đúc những mười bốn mạng), thì nhóm Luật xoay xở đi xin tiền các nhà hảo tâm, ân nhân, xin ở trại cưa, chủ đồn điền… đâu đó, hầu cung ứng cho gia đình Tẻh mỗi tháng. Tẻh hứa hẹn chắc chắn khi đắc cử thì anh sẽ… “chu đáo lo cho dân”. Nhiều tháng qua nhóm người nầy (Luật, Ngọc, Minh, Trí, Cương, Tâm), không đi xin ai được, họ cùng nhau ứng tiền túi ra đưa cho Tẻh. Rồi như “thông lệ” cứ đến tháng thì bà vợ của Tẻh đến nhà tôi lấy tiền. Bà chị nói:

                  - Chị ui! Ông Tẻh ra đi, có nói tui đến nhờ bà chị giúp tiền mua cơm gạo. Nhà tui hết sạch mọi thứ rồi.
                  Ông bà Tẻh làm y như tôi là ngân khố, kho gạo, vựa lúa, tôi có bổn-phận-sự, trách-nhiệm-vụ lo cho gia đình họ ấm no!? Nói với chị Tẻh thiểu số nầy hoài, thật mệt. Vì chị ngu ngơ dấm dớ mà khôn vặt không chịu thông cảm, chị cứ đứng ù lì… ù ù cạc cạc ranh ma, ì thộn ra đứng chần dần cả buổi trước cửa, chị không dám hay không chịu vô nhà. Nói nào ngay nhà tôi “nom rất bề thế” ở mặt tiền đường Đoàn Thị Điểm ba tầng lầu đúc bê tông cốt sắt, nền láng gạch bông bóng lưỡng, đầy đủ tiện nghi, rộng 5m sâu (dài) 45m phủ bì, còn dư 10m cho sân sau rợp bóng cây. Chị Tẻh cứ đứng hoài đứng hủy chờ đến khi nào tôi văng tiền, văng gạo (hoặc văng “cái nhu cầu của chị”) ra, thì chị mới chịu đi.
                  Tôi mắc cỡ xấu hổ khi chị đứng hoài ngoài cửa, vì sợ hàng xóm láng giềng tưởng là tôi bị mắc nợ thiếu tiền bà nầy! Lối xóm người quen đi qua nhà tôi, họ ưa thắc mắc cứ tưởng tôi mắc nợ ù lì không chịu trả cho bà ta. Thật là mất mặt của “nợ oan gia” ngàn kiếp vì Luật mê bạn hơn mê vợ con. Chị Tẻh chả hiểu rằng “anh chị Tẻh” đối với riêng tôi không là cái đinh, cái thá gì. Vậy mà, tôi phải cắn môi bặm miệng nghiến răng trèo trẹo để “giao hảo” vì danh dự và “lệnh lạc” của đức ông chồng quá hảo tâm!
                  Có nhiều lần, Luật về nhà nói tôi đưa tiền cho Tẻh “mượn”, để anh ta đi lo công chuyện: áp phe áp phẩy chi chi đó. Vài ba lần đầu, tôi bấm bụng lấy tiền lương của gia đình trích ra đưa cho Tẻh mượn. Nhưng hôm nay, tôi biết là trong tủ chỉ còn đủ tiền đi chợ cho nửa tháng. Nếu đưa cho Tẻh mượn nữa, thì có lẽ nhà mình nhịn đói vào tuần cuối tháng mất (đưa cho Tẻh mượn hoài, coi như chả bao giờ ảnh nhớ trả nợ)̣. Tôi làu bàu:
                  - Làm như nhà mình là kho bạc, hay có tiền núi sao?
                  Tôi không chịu xì tiền ra, thì Luật cự nự, mắng nhiếc tôi:
                  -“Lên chùa thấy bụt muốn tu.
                  Về nhà ngó vợ muốn xù em ngay.
                  Bấy lâu vắng mặt khát khao.
                  Bây giờ thấy mặt muốn cào mặt ra”
                  (1)

                  - Người gì mà ngu lạ, chỉ biết tham tiền, phải thả con tép mới câu được con tôm hùm. Em có tiền là mờ mắt, chả biết giúp người hoạn nạn lâm nguy.
                  Úi cha! trong lòng tôi ức lắm, giận sôi lên. Tôi đi dạy về mệt đừ, vì lo làm cơm và giặt quần áo dưới bếp, nghe anh nói mà hai tai lùng bùng, mắt tóe lửa, giận run. Bỗng dưng ở đâu Luật vất vả mời, rước, cõng, tha “cái nợ đời bạn với bè” về nhà nầy! Đã một thời tôi khốn đốn bơ phờ vì anh Trí mượn tiền của mình ở Cam Ranh, đến nay coi như anh ta xù độ rồi. Luật chưa tởn mà, anh vẫn bận tâm vì bạn, làm điêu đứng vợ con quá sá vậy hổng biết!? Tôi chưa kịp phản ứng, thì Luật nhảy tót một lần hai bậc cấp lên lầu, vào phòng ngủ, anh móc túi quần lấy chìa khoá mở tủ rột rột, Luật gom tiền và hầm hầm đùng đùng bỏ đi một nước. Bạn là trên hết, bạn là số một của đời Luật mà.

                  Tôi đứng dậy vội lau khô tay, lật đật leo lên cầu thang, chạy vô phòng, mở tủ ra kiểm: trong tủ vòng vàng xuyến nhẫn còn nguyên, duy chỉ còn vài ngàn đồng thì có thấm vào đâu so với nửa tháng chợ!? (không kể nếu có những bất trắc, ốm đau, thuốc men, mua sữa cho các con, hay những chi tiêu vặt cần trong gia đình, thì đào đâu ra đây hở trời!?). Tôi khổ hết biết, tức quá tôi đập tay xuống nệm bộp bộp, nằm úp mặt xuống gối, gào lên và bật khóc hù hụ. Luật vẫn luôn vô tình đến cái độ ấy: “Ai lo mặc ai. Ráng mà xoay xở. Ai chết mặc ai. Tiền nầy tao đem cho bạn bỏ túi”. Thật tình là tháng đó mình ên tôi vắt giò lên cổ chạy ngược chạy xuôi, chạy đi mượn tiền cô bạn, mượn anh chị Tư, để bù đắp vào khoảng tiền Luật đã “xoáy” cho bằng được, mà đem đi cho bạn gây dựng sự nghiệp! Tức cành hông, điên tiết. Ấy thế mà tôi không đành “tình vờ bỏ anh”. Vì sao!?:
                  Dao phay kề cổ, máu đổ không màng.
                  Chết thì chịu chết, buông chàng không buông.
                  Phòng loan trải chiếu rộng thình.
                  Lăn qua đụng cái gối tưởng bạn mình, anh ơi!
                  (cd)

                  Nhất là Luật nhiều lần ngọt ngào, đằm thắm nỉ non ngâm những câu thơ trữ tình (vã chăng do tôi mê thơ, mê đàn, mê anh đánh đàn, mê anh hát, và anh đánh trúng yếu điểm tim đen của vợ) từ hồi trẻ dại anh theo bén gót chân tôi, bám riết không hề “xa” nửa bước; Vì:

                  Cho tôi hỏi đàn bà là chi rứa?
                  Là những gì rung động trái tim ta.
                  Làm cho ta cảm thấy nổi da gà.
                  Là gặp gỡ, xốn xang, là tiếng sét...

                  Là hợp “gu” vì cùng chung tính nết (!?)
                  Là âm thầm nhung nhớ lúc chia xa.
                  Là nụ hôn. Ôi rợn cả thịt da.
                  Là ẻo lả vòng tay nhưng rất chắc.
                  (2)

                  Hoặc có nhiều khi Luật đã âu yếm ôm tôi vào lòng hun hít hú hí, khiến tôi “khoái”:
                  Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa.
                  Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều.
                  Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh.
                  Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình... dễ thương
                  (cd).

                  Vậy nên tôi đã "trút hết" vì chồng! Khi Toneh Tẻh đã thành công trên con đường danh vọng rồi, thì anh ta không nhớ những ngày cơ hàn cũ, chẳng nhớ về bạn xưa gì ráo. Tẻh có những “cái ngu lỏi đời đáng sợ” là không nhớ ai đã nhiệt tâm trong những cuộc vận động ráo riết ấy, do ân nhân, thân nhân âm thầm ưu ái đóng góp sức lực, tiền bạc giúp anh? Những người đã hy sinh hạnh phúc, gia đình và có thể nói là cả tính mạng nữa.
                  Tẻh quên hết chuyện nợ nần gia đình vợ con ở Đà Lạt, mặc ai lo gì thì lo. Ra sao thì ra. Tới đâu thì tới. Tony Tẻh ở Sài Gòn làm dân biểu mới chỉ bốn năm tháng đầu, Tẻh đã “quơ” ngay một cô “Ba Tàu tình hờ”, dẫu sao thì cô nầy cũng trắng da dài tóc, mập ú nà ú nần, mắt híp, tươi tắn trẻ trung; (hơn bà vợ Thượng già đen dòn quê mùa cũ mèm của Tẻh). Trong bữa ăn đầu tiên ở nhà hàng Nhất Dạ Đế Vương, Tẻh đã chọc ghẹo nàng tiếp viên:
                  Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
                  Em xinh em hút thuốc lào cũng xinh.
                  Nếu mà không lấy đặng em
                  Anh về đóng cửa cài rèm đi tu
                  (1)
                  Nàng đi học trường Tàu đã đành, lại biết đọc biết viết tiếng Việt kha khá, liền đối đáp:
                  Tu đâu cho em tu cùng.
                  May ra thành Phật thờ chung một chùa.
                  Phải chi cắt ruột đừng đau.
                  Để em cắt ruột em trao anh mang về
                  (1)

                  Tuyệt vú mèo chưa! mây mưa nước nôi “hữu duyên thiên lý tương năng ngộ” nhỉ! Thế là Tẻh mê em tít thò lò, mê em híp mắt, si mê “ẻm” ngay từ “thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Tẻh thèm “ẻm tình hờ” quá cỡ thợ rèn. Cá đã cắn câu do mấy anh xì thẩu cố gài độ,̣ muốn câu móc anh chàng xứ núi già còn “dại gái” tòn ten tỏn tẻn với cô ả ỏn ẻn, ngỏ hầu bọn tài phiệt dễ bề móc nối, xí xa xí xô “làm ăn chuyện lớn” ở nhiều mặt thiết thực khác.

                  Tẻh híp mắt với danh vọng, lạm dụng tình thân, an nhàn sung sướng riêng bản thân, anh về quê xây một căn nhà đồ sộ, mua nhiều hecta đất, mua đàn bò, và mua một căn nhà gạch xây sang trọng ở cuối đường Hoàng Diệu. Ở Sài Gòn Tẻh mua sắm cho bà bé nầy không thiếu thứ gì sang trọng trong một ngôi nhà thuê bao rộng rãi tiện nghi tại Hoà Hưng. Đầy đủ. Trọn vẹn, Tẻh càng vinh thân phì da sung sướng tê người. Bà vợ bé của Tẻh béo ơi là béo phì, còn trẻ, nói tiếng Việt trọ trẹ, nhưng hiểu nhiều, nói nhiều nói luôn mồm nghe thật tức cười. Hạnh phúc ào ào trút xuống lưng, trút xuống vai anh ta:
                  Trẻ em thường thích ở trần.
                  Nhưng mà người lớn muôn phần thích hơn.
                  Nhớ hôm bụi chuối sau hè.
                  Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
                  (2)

                  Năm sau “con đĩ Ba Chệt*” (-từ nầy- là do bà vợ lớn của Tẻh dám trịch thượng ám chỉ bà nhỏ kia thôi. Còn tôi... có đánh chết tôi, tôi chả dám nào), đã “sản xuất” cho anh ta một con bé ngo ngoe bụ bẫm. Trong khi chúng tôi muốn khuynh gia bại sản. Mỗi lần nghe tin Tẻh về quê, Ngọc, Luật lái xe jeep đến nhà. Tẻh tiếp bạn nhạt nhẽo, gượng gạo, lãnh đạm, ú ớ ù ơ, lầm lì. Nhiều khi Tẻh né tránh không giáp mặt. Người gì mà quá đổi tệ bạc vô ơn đến thế không biết. Hầu như chuyện nợ nần, đền ơn đáp nghĩa những ân nhân, thân nhân Tẻh coi như pha. Chức phận của Tẻh chỉ là hư danh, thực tế Tẻh chưa giúp ích thiết thực cho cư dân ở Tỉnh nầy và cho đời (nói chung), và anh chả trả nợ ân tình và nợ bạc tiền cho nhóm tôi. Tôi quên nói là sau khi “Tẻh hiền lành” (trên vài khía cạnh nào đó) với tư cách là đồng viên ở pháp nhiệm I và II đắc cử dân biểu, thì bao nhiêu lời hứa hẹn, (nợ nần tiền bạc xưa của Tẻn chưa trả cho tôi), đều bay theo bà vợ bé nầy. Gia đình tôi và các bạn đã gieo lúa trên đá rồi.

                  Tại nơi nhà Tẻh ở Hòa Hưng hôm nay vừa có thêm gia đình bà vợ lớn và năm đứa con Tẻh gùi những cái gùi to lớn đến lánh nạn. Mỗi buổi sáng bà bé ngủ dậy sau chín giờ, bà ta ẳm con nhỏ hơn một tuổi, (và có cái bụng bầu năm tháng nữa) đi chợ xong, bà bé về nhà quăng giỏ xách cái bạch xuống nền gạch, giống như bố thí. Thì tôi và bà vợ lớn của Tẻn lo xúm lại nấu nấu, xào xào, chiên chiên vài món ăn. Rồi hai gia đình chúng tôi xúm xít ngồi ăn với nhau. Bà bé không hề ăn, bà chỉ ngồi trên võng ôm con đong đưa, và nhìn ngó chúng tôi chằm chằm, mà nói nói nói... Ăn uống đạm bạc như thế, khiến bà vợ lớn tức giận. Hầm hầm mặt, bà nói nhỏ với tôi:
                  - “Ớt nào mà ớt chẳng cay. Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng”. Con đĩ Ba Chệt*” nầy đã cướp chồng tôi. Nó cướp hết tiền của trong gia đình tôi. Vậy mà nó cho cả nhà mình ăn uống tầm thường hí. Trong khi ngày ngày nó đi chợ ăn quà, chiều chiều nó đợi ổng về, là nó tót đít đu lên sau xe honda, ôm siết, bu ổng như đỉa, bắt ổng chở đi ăn tiệm sang hà, không phải à, nè:
                  Bồ hay mơ mộng mông lung.
                  Vợ rất thực tế vô cùng đáng yêu.
                  Bồ luôn đòi hỏi đủ điều.
                  Vợ lo cơm sáng cơm chiều quanh năm.

                  Bồ chỉ lo chuyện ăn nằm.
                  Vợ thường chịu đựng cả năm mới tài.
                  Bồ nào nghĩ đến tương lai.
                  Vợ lo tính toán chuyện dài mai sau. (2)

                  Tôi khuyên can hoài, năn nỉ mong bà có thể hòa thuận đôi đàng thân ái xí, nên bà lớn chưa nổi sùng, nguôi ngoa nhẫn nhịn đôi chút. Nhưng tối tối, khi “hai ông già bà trẻ phong lưu” hú hí du dương đi ăn cơm tiệm về, thì ông Tẻh ỏn ẻn chào hỏi bà lớn xí, nói lí nhí vài ba câu tiếng Thượng xã giao qua loa lạt lẽo. Rồi ông lật đật lẽn vô phòng bà bé, khóa chặt cửa và ở riết, cho đến sáng hôm sau ông vội vàng ra đi. Chỉ vì ông trót:
                  - “Trồng trầu thì phải khai mương.
                  Làm trai nhiều vợ biết thương vợ nào”?
                  (2)

                  Điều kém tế nhị, trắng trợn và không biết cách xử trí nầy, khiến vợ lớn cáu tiết, bà nỗi cơn ghen bốc lửa tam bành lục tặc, không thể ngậm câm nhìn cảnh chướng tai gai mắt, cố làm ngơ hoài, nổi sùng lên bà tức giận không thể tả, vợ Thượng ngồi chờ sẵn ở phòng khách, (nơi gia đình bà lớn đang trải manh chiếu ra sàn gạch, để ngủ mỗi đêm, cạnh ngoài cửa phòng ngủ của họ, thiệt là không công bằng!). Khi hai anh chị “Thượng-thư và Tàu ú nù đĩ-ba-chệt*” (*bà vợ lớn vẫn trịch thượng thẳng thừng ù ơ như thế, có lẽ không chua ngoa lắm hì) ung dung vui vẻ trở về sau buổi ăn cơm ngon lành ngoài tiệm. Bà bé vừa bế con nhỏ tọt vào phòng ngủ, thì bà lớn không thể nín câm nữa, bà túm ngay cổ áo đức ông chồng, khiến ông lớn bị bất ngờ, chao đảo chới với tay chân. Bà lôi giật ông xềnh xệch quay ngược ra phòng khách, bà lớn trợn trừng tráo trưng, nghiến răng chưởi chồng một tràng dài, như bắn súng đại liên thanh bằng tiếng Thượng pha tiếng Việt, lẫn tiếng Tây, chêm chút chút tiếng Anh. (bà có học ở trường Domain De Maria đàng hoàng, ngu sao bà không xổ cả chùm... nho ra, cho con nhỏ kia nể sợ mà khiếp vía, hì).

                  - Nè ông Tẻh đừng tưởng bở nhá, tuy tui là người Thượng, nhưng theo học trường đạo do soeur đầm Tây dạy đàng hoàng. Tui biết ông chê tui già, quê mùa, xấu xí, có thể không xứng với một dân biểu, (tui rành ba bốn ngôn ngữ mà ông chê, là lầm đấy)! Ông sinh ra ở chế độ mẫu hệ, mà có cái tội tày trời là ngang nhiên “tự tiện” dấu nhẹm tui con mụ kia, con riêng, và giờ đây “con đĩ” mang thêm một cái bầu bốn tháng. Úi Trời! đầu năm một đứa, cuối năm một đứa:
                  Trứng rồng lại nở ra rồng.
                  Liu điu lại nở ra dòng liu điu”
                  (cd).
                  “Đồng vợ đồng chồng, con đông mệt quá”! Chẳng lẽ tui để cho ông mang tiếng sở khanh quất ngựa truy phong: “Yêu em mấy núi cũng trèo. Đến khi em chửa mấy đèo anh cũng dông” sao cho đành! Ha!

                  Ông lớn đứng như trời trồng cúi đầu im lặng chịu trận làm tình vờ! Thôi thì... ráng nhịn nhục ngoảnh mặt làm kẻ tình lờ. Bà lớn thấy thế cũng nén giận. Nếu bà biết trước hoàn cảnh éo le và “nghịch đồ” như thế, bà lớn sẽ nằm lì tại Đà Lạt, không thèm vô ở cái nhà đầy dẫy chuyện buồn, xáo trộn đủ thứ kỷ cương, không có “tôn ti trật tự phân giai cấp lớn bé” chi cả. Bây giờ bà lớn nằn nặc đòi ông lớn một hai là:

                  - Tui nói cho ông Tẻh biết, ông phải đưa ngay tiền của, đưa hết tiền bạc vòng vàng xuyến nhẫn tay hòm chìa khóa ra, để tui quán xuyến. Người ta nói: “có tiền mua tiên cũng đặng”, thì nhằm nhò gì chuyện ông Tẻh có con qủy cái ú nần lùn xủn mắt ti hí kia! Tui sống với ông có giá thú hẳn hoi, còn con kia nếu ông khai gian làm giá thú giả với nó, thì tui cho cả lũ vô tù mút chỉ cà tha. Tin đi, rồi một mai lá rụng về cội, ông chẳng tiếc cái tình vờ ấy, mà ông sẽ quay về “cây đa bến cũ con đò năm xưa” cho coi! Ông và nó không có một đồng xu dằn túi, thì mẹ con tình lờ đĩ ba chệt ấy phải ra đi khỏi đời ông, ông xa nơi trơ trẽn hắc ám đầy chướng tai gai mắt. Coi ai chết nhăn răng, cho biết mùi đời cái tình hờ mà ông cho tôi nếm hôm nay. Há...

                  Tôi ngạc nhiên và thừa nhận là bà lớn tuy ở chung một nhà với bà bé, dù bất bình và rất ghen lẫn yêu thương chồng con lắm. Nhưng bà lớn khá biết điều, bà chỉ béo, ngắt, cú đầu ông chút xí, bà cằn nhằn lải nhải dày vò ông chồng biết cúi đầu hổ ngươi, đỏ mặt tía tai ti tí... khi có các đứa con Thượng của mình, vá có vợ chồng con của chúng tôi chứng kiến. Bà lớn có bản lĩnh, lịch sự nghiến răng trèo trẹo, ghé môi vào sát bên mang tai chồng, nhưng khiến ông lớn thật sự run sợ. Bà biết giữ danh dự cho ông chồng dân biểu! Khâm phục.
                  *

                  Bà mẹ Ngọc và hai cô Quy, Cúc, ung dung dẫn nhau đi từ hotel Hưng Đạo 2 tà tà qua chợ Đũi, xuống chợ Thái Bình dạo chơi, rồi ba mẹ con tấp vào ăn bún ốc, bún thịt nướng, ăn xoài, dưa hấu, thơm. Họ ăn xã láng... ăn đã đời. Mấy tháng trước lo lánh nạn từ Cam Ranh chạy riết dài dài về đây, họ ăn uống có phần tiết kiệm khổ sở. Bây giờ yên ổn nơi thành phố vinh sang giàu có, họ cũng sẵn tiền dư bạc rủng rỉnh như ai, ngày ngày ở không trong phòng ngủ không biết làm gì, chẳng lẽ có bộn tiền có vàng leng keng trong túi, mà phải nhịn thèm “ăn mì ngóng cháo ngó” sao. Thế là ngày ngày họ đem con cháu đi ăn hàng xã láng cho đã. Lúc nào về phòng ngủ cô Cúc cũng khệ nệ bưng thêm: Khi thì quày chuối già hương to bự sư, mít ướt, mít ráo, hoặc một chục xoài cát thơm lựng. Do mấy bà vợ thừa nước đục thả câu, được đằng chân lần lên đằng đầu, cô Cúc cô Quy tha hồ leo lên đầu lên cổ đức ông chồng nhẫn nhịn hiền lành, tha hồ ăn hiếp chồng. Cánh đàn ông yêu quá thì hóa sợ mấy mụ vợ một phép, mặc “bà” muốn làm gì thì làm, lớp đàn ông im re xép ve:
                  Lỗ mũi mười tám gánh lông.
                  Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho.
                  Đêm nằm thì ngáy o o.
                  Chồng yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
                  Đi chợ thì hay ăn quà.
                  Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm.
                  Trên đầu những rác cùng rơm.
                  Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
                  (1)

                  Sau vài ba ngày no say ăn uống, thì bà cụ Tài đau bụng, trên ói dưới té re, thổ tả thổ te tá lả hoài! Bà cụ Tài tái phát bệnh đau bao tử ói ra máu tươi, máu bầm, máu loãng, rồi ói ra mật xanh mật vàng. Bà ôm bụng gò lưng quằn quại rên la dữ dội. Anh Ngọc vội vàng thuê xích lô chở bà đi cấp cứu tại bệnh viện Sài Gòn. Đã biết là bà cụ đau bao tử kinh niên, mà còn dám “tộn” mấy thức ăn mát mẻ thế, nếu bà không đau bao tử, cũng bị té re là cái chắc! Không biết bà cụ trúng độc do ăn bún ốc, hay cụ ăn quá nhiều thứ mà “trúng thực”?
                  Ngày ngày chúng tôi ghé vô bệnh viện thăm, thấy bà cụ có phần thuyên giảm. Ngọc bảo cô Cúc ở lại bệnh viện trông coi mẹ. Còn anh sẽ đưa vợ con, gia đình cô em gái là Quy, cùng chúng tôi đi xuống miền Tây trước. Lúc nào bà mẹ khoẻ hẳn, thì cô Cúc sẽ đưa mẹ đi xuống Bạc Liêu. Nghe thế, bà mẹ Ngọc dù rất yếu, bà lắc đầu quầy quậy, giẫy nẩy lên, chồm dậy khăng khăng nhất định đòi trở về hotel. Nếu có đi đâu, mà bà đi không nỗi, thì cõng bà đi cùng, chớ không trước không sau gì cả. Bà rất sợ con trai bỏ rơi. Bà thất kinh hồn vía, không dám kêu rêu con dâu bắt bà nhịn đói, không rên siết trước mặt Ngọc, bà không dám ăn uống bậy bạ nữa.

                  Ngọc đành chìu ý mẹ già, anh đưa mẹ về nghỉ tại hotel Hưng Đạo 2. Thật kinh hồn, chúng tôi chỉ sợ lây lan hết cả đám, thì khốn. Bà phải ở cách ly mình ên. Ngọc đi rước bác sĩ tư đến khám bệnh ghi toa, anh liền đi mua thuốc về cho bà uống. Anh Bàn phụ Quy, Luật, khiêng những tấm nệm chuyển qua phòng của tôi, đặt nệm ở giữa nền gạch cùng nằm xếp lớp với nhau. Bốn gia đình ngủ chung hai phòng cho ấm áp tình người. Chúng tôi cảm thấy vui vui, cũng đỡ lo sợ và buồn. Do thế, chuyện dự tính cả nhóm về miền Tây trước ngày 30-4 đã không thành. Phần vợ chồng tôi, khi thấy tình hình bất an, thì Luật chạy đến nhà anh Tạo rước bà mẹ anh xuống ở phòng ngủ.
                  Tôi đến nhà Yến Nga để hỏi thăm tin tức. Ở nhà, bốn đứa con của tôi tự trông coi nhau. Chẳng may bé Tồ (Hoàng) bị đau bụng ỉa chảy té re. Bé Tuấn thay đồ cho em, giặt giũ áo quần, lau chùi phòng sạch sẽ. Bé DZũng tắm rửa cho em, cõng em và dỗ em ngủ. Bé Bi (Huy) sợ hãi chui vào gầm bàn trốn, và ngủ quên trong xó góc. Khi trở về phòng trọ, nghe các con nói lại, tôi sợ hết hồn. May mắn là bé Tồ chỉ đi cầu hai lần. Tôi cho con uống thuốc, (tôi đã mua sẵn đầy đủ mọi thứ thuốc dự trữ phòng hờ). Ngày hôm sau con đã thuyên giảm nhiều. Tôi lo sợ là con bị lây chứng thổ tả từ bà cụ mẹ của Ngọc thì khốn!
                  Chỉ trừ những đứa trẻ ngây thơ vô tội là ngủ chập chờn trong bóng tối mờ mờ. Còn mọi người lớn thì tắt hết đèn đóm, ngồi tụ vòng tròn lại một góc phòng, nơm nớp lo sợ và mong trời mau sáng. Ngoài đường vắng ngắt đến ghê rợn, khuya Sài Gòn càng khuya càng hoang vắng lạnh lẽo, bầu trời vần vũ mây đen báo hiệu cơn mưa đầu mùa. Đến năm giờ sáng thì quả thật trời đổ cơn mưa rả rích, kéo dài hơn ba giờ, trông thật ngao ngán. Cánh đàn bà lo chuẩn bị làm mì gói cho cả nhóm ăn, uống nước suối Vĩnh Hảo. Bốn người đàn ông bàn tính với nhau là: để tránh tai mắt người khác tò mò dòm ngó, và không biết tông tích của mình làm gì, ra sao, đi đâu, thì bốn anh sẽ đưa từng nhóm ra đi.

                  Điểm hẹn là ở nhà thờ Ngã Sáu (nhà thờ thánh Jeanne D’ Arc, trong khu nghĩa trang Huê kiều, do người Pháp gọi là Plaine Des Tombeaux, ở 116b Hùng Vương, phường 9 quận 5). Luật hướng dẫn lộ trình chu đáo, anh nhắc đi nhắc lại: ai không nhớ, thì ghi vào sổ tay, kẽo nơi xứ lạ không thuộc đường, lớ quớ sẽ lạc nhau. Cứ mươi phút là có một nhóm rời phòng ngủ. (Làm như chúng tôi đi quỵt nợ, trốn nợ tiền phòng không bằng. Mặc dù chúng tôi đã chi trả tiền hết tất cả ba phòng nầy, và đặt cọc tiền phòng thêm trước mười ngày). Anh Bàn không có vợ con gia đình bận bịu lu bu bên cạnh, nên anh rảnh tay dìu bà cụ Tài bệnh hoạn, cùng cô Cúc ẵm đứa con gái ba tuổi ra đi đầu tiên. Kế đến là gia đình Quy. Gia đình Ngọc, sau rốt là gia đình tôi gồm bảy mạng lủi thủi ra khỏi hotel. Tôi cảm thấy thật buồn khi đứng trên cửa sổ tầng hai nhìn mấy anh chị lạ nước lạ cái cúi đầu lầm lủi ra đi, nhất là những đứa trẻ yếu ốm xanh xao, ngây thơ, hồn nhiên vô tội. Sao ai nỡ lòng để con em sớm bơ phờ nếm mùi đau khổ, gánh lấy nỗi ưu phiền, cơ cực đắng cay cuộc đời làm vậy!

                  Bốn nhóm gặp nhau ở nhà thờ ngã sáu rồi, lúc đó đã có nhiều người đi bộ, đi xe đạp, xe honda, xích lô qua lại trên đường đông đúc hơn. Tuyệt nhiên không thấy xe nhà, taxi hoặc xe bus. Chúng tôi ngoắt mãi vẫn không có chiếc xích lô máy, hay xích lô đạp nào chịu ngừng. Chẳng biết họ vội vã chạy đi đâu! Mãi về sau lâu thật lâu mới có hai chiếc xe ba gác trờ tới. Luật mặc cả giá xong, liền cho hai bà cụ cùng bầy nhóc ngồi lố nhố trên xe. Bốn anh kia phụ hai ông ba gác đẫy xe đi tà tà. Chúng tôi dắt díu nhau lẽo đẽo đi xuống khu Chợ Lớn. Quang cảnh ở Chợ Lớn khác hẳn ở khu Sài Gòn. Nơi đây ồn ào náo nhiệt đông đúc, người ta tụm năm tụm mười đông đen trên đường phố xí xa xí xô đi đi, nói nói, la la mắng chưởi om sòm, buôn buôn bán bán đủ mọi thứ.

                  Thỉnh thoảng mới có chiếc xe bus khác tuyến đường chật như nêm vút qua, chạy về hướng xa cảng miền Tây. Ngọc vào nhà bạn thân cùng làm việc ở gần chợ Tam Biên, để dò hỏi tin tức cập nhật. Luật cũng có bạn Thành ở đường Nguyễn Tri Phương. Lúc bạn hai đến nhà đó, mọi người trong nhóm ngồi bệt ngoài vĩa hè nghỉ mệt chờ đợi Luật, Ngọc vào hỏi thăm tin tức. Kiểm chứng lại những tin nghe ngóng suốt dọc mấy lộ trình, thì mỗi người nghe một cách khác hẳn, người nói thế nầy, người nói thế nọ; càng hoang mang, băn khoăn, bồn chồn, lo lắng, rối tung rối mù, không phân định được điều gì xác thật là đúng, điều gì sai. Toàn nghe những tin vu vơ mù mờ như vịt nghe sấm.

                  Chúng tôi không rành đường dưới khu Chợ Lớn, nên cứ đi lo lắng sợ sệt đi lung tung loanh quanh đường nọ qua đường kia, đi vòng vòng khá xa Chợ Lớn. Chẳng biết tại sao đi hoài đi mãi sau cùng chúng tôi quay trở về ngã Bảy? Khùng thiệt. Cuộc ra đi nầy thật vô duyên ngớ ngẩn hết chỗ nói. Thế là chúng tôi mò mẫm tìm về nhà thờ Huyện Sĩ, vì chúng tôi đã quen chỗ nầy. Tôi bàn với Luật để tôi đến khách sạn Hưng Đạo 2 lấy lại những valy áo quần và đồ dùng cần thiết. Luật quát mắng tôi:
                  - Coi chừng tiếc của mà toi mạng. Bỏ hết em ơi.
                  Tôi tiu nghĩu buồn xo theo các bạn vào cha chánh xứ xin cho ở nhờ ngoài vĩa hè trong khuôn viên nhà thờ Huyện Sĩ. Nhà thờ hình cung nhọn oai dũng với công trình thiết kế quy mô, đặc thù, tinh xảo, khang trang xinh lịch, còn được gọi là nhà thờ Chợ Đũi xây năm 1902. Thiết kế giáo đường do đức cha Bouttier kiến trúc theo phong cách gothique tuyệt tác tinh vi, cao sang với vật liệu đá granit. Do ông bà Huyện Sĩ Lê Phát Đạt giàu có nhất thời ấy bỏ tiền ra xây dựng. Sau khi tạ thế hai ông bà có mộ xây bằng đá cẩm thạch ở hậu cung.
                  Hầu hết mọi người quá mỏi mệt ngao ngán chán chường, chẳng thiết tha sự gì ngồi bó gối ủ rũ buồn chán nơi xó góc trong một lớp học bỏ trống. Ông trùm họ đạo nầy đi lễ về ngang chỗ chúng tôi đang ngồi co rúm một xó, thấy chúng tôi hốc hác, trẻ con bơ phờ lem luốc nằm la liệt lăn lóc trên vĩa hè nóng và hanh nắng. Ông vào tận nơi tôi ngồi, ân cần hỏi thăm qua loa, rồi ông bảo tôi cử đại diện vài người đến nhà ông, để ông tiếp tế cho ít thức ăn, hoặc đồ dùng cần thiết.

                  Cô Quy, Cúc và tôi lẽo đẽo theo sau lưng ông, đến bên hai cánh cổng sắt màu xanh kín mít to cao lút đầu người. Mở ổ khoá cánh cửa sắt nhỏ phụ kế bên, ông mời ba chị em vào nhà ba tầng lầu có vườn cây trước sân mát mẻ, rộng rãi, ngôi nhà bề thế sang trọng xây đá hoa cương lát gạch men bóng láng. Ông mời chúng tôi ngồi ở sofa da nhung đỏ. Ông đi xuống nhà bếp. Chúng tôi chưa kịp quan sát kỹ lối trang trí tân thời trang nhã vinh sang trong phòng khách, thì bà vợ ông trùm và mấy con cháu gì đó từ phòng bên cạnh, xách ra ba bốn tụng đồ ăn thức uống đầy nhóc, nhiều nhất là mì gói, bánh mì khô, cá khô, tôm khô, khoai lang, dưa leo và củ sắn. Thêm mấy tụng khá to quần áo trẻ con, một tụng nhỏ hơn bốn tụng kia đựng độ năm bảy lít gạo, (bà vợ chu đáo lo đầy đủ, hình như bà đã nghe ông chồng kể lại, hoặc là gia đình họ đã từng làm việc thiện nầy, tôi không biết).

                  Ba chị em tôi cảm động ứa nước mắt, rối rít cảm ơn lòng từ bi thiện nguyện của ông bà trùm họ đạo Huyện Sỹ. Khệ nệ bưng các giỏ xách về lại góc trường học, chúng tôi cảm thấy có phần vui vẻ an tâm. Cô Quy, Cúc và chị Ngọc xúm lại chia nhau áo quần con trẻ. Còn tôi không nhận (vì đang có, tôi đã vứt bỏ lại ở hotel nhiều lắm, chỉ mang đi những bộ quần áo cần thiết, vậy mà các con mang vác còn không nỗi, nữa là tham lam chi mà quơ vô thêm sao). Mấy chị em rủ nhau đi ra chợ Đũi mua hai cái nồi lớn, mua tô chén, muỗng, đũa, rổ, rá, củi, ba bó rau muống, mắm muối, chút bột ngọt, chuối cau, mua bình để nấu nước, mấy chai ni lông đựng nước (vã chăng thấy ăn uống tầm bậy tầm bạ ở ngoài chợ, sợ trúng nước đi “ị” té re như bà cụ Tài, thì khốn; chúng tôi không dám uống nước trà đá bán sẵn). Có tiền là có của tươi rau ngon.

                  Về lại chỗ cũ, Ngọc xin bà từ trông coi nhà thờ cho mượn hai cái lò để nấu ăn. Bà từ vui vẻ bảo chúng tôi cứ vào trong bếp tự tiện nấu nướng, khỏi mua củi hay mượn lò làm gì mất công. Nhưng chúng tôi không lấy củi của bà. Phụ nữ xăn tay áo lên lo làm bếp. Đàn ông đi tắm rửa cho con cháu, và tắm rửa chính họ ở ngoài giếng hay ở vòi nước. Chẳng mấy chốc nồi cơm trắng, canh mì gói nấu kèm với rau muống, trái bầu xắt nhỏ, khô cá sặc nướng, mọi thứ đã chín. Sau một ngày nhịn đói nhịn khát, kéo nhau đi thất thểu lang thang cầu bơ cầu bất ở ngoài đường mệt mỏi rã rời. Giờ đây cả nhóm ngồi bệt dưới nền xi măng, quây quần quanh hai mâm cơm nóng sốt. Một mâm dành cho trẻ con được cho ăn trước. Một mân cơm của người lớn thì ăn sau. Đây là buổi cơm tối thanh đạm, nhưng quả thật lần đầu tiên trong những ngày xa xứ, kể từ khi tôi về Sài Gòn ăn bữa cơm nầy cảm thấy rất ngon miệng. Thiệt đúng:
                  Đầu tôm nấu với canh bầu
                  Chồng chan, vợ ngó lắc đầu “ham ăn.”
                  Bầu ơi thương lấy bí cùng
                  Mai sau có lúc nấu chung một nồi!
                  (1)

                  Lúc đó có hai gia đình ở Huế, Đà Nẵng di tản vào Sài Gòn, họ cũng tay xách tay mang, con cái đùm đề, vừa vào xin ở nhờ kế bên lớp học cạnh chúng tôi. Luật, Ngọc qua bắt chuyện hỏi thăm, rồi mời sáu người ấy qua bên lớp học nầy, vì chúng tôi nấu cơm và canh thật nhiều, nên nhân tiện mời họ dùng cơm. Hai người đàn bà tỏ vẻ e dè khách sáo hơn hai ông kia. Nhưng khi thấy chúng tôi thành thật chứ không qua loa mời lơi, họ cũng vui vẻ nhập vào nhóm. Cô Cúc đi lấy chén đũa của bọn trẻ vừa ăn xong, chạy ra vòi nước rửa sạch và đem vô. Chúng tôi vừa ăn vừa tỉ tê trò chuyện.
                  Chỉ vài giờ ngắn ngủi, chúng tôi đã thông cảm và hiểu thấu những gian khổ, cơ cực trên bước đường gian truân lưu lạc, đồng hội đồng thuyền thật hợp ý nhau. Được biết hai gia đình Tâm và Phương có ý muốn về Phú Quốc, vì hồi xưa họ đã sinh sống ở đó. Nghe bạn mới tâm tình, chúng tôi hoan hỉ vui mừng như mở được tấc lòng. Vì quả thực chúng tôi rất muốn đi Phú Quốc, mà ngại một nỗi không rành đường, không biết lối mô tê, sợ lạc vào “mê cung Vẹm”, nên quá ngại ngùng. Tâm nói:

                  - Năm giờ sáng ngày mai phải ra bến xe bus Sài Gòn, đón xe đi một lèo tới xa cảng miền Tây, xe không ngừng ở mấy trạm phụ. Một ngày chỉ có ba chuyến xe bus đông nghẹt thôi.
                  - Thì ra bây giờ tôi mới hiểu: nguyên ngày nay chúng tôi đón xe bus lẻ tẻ dọc đường tới Chợ Lớn, mà chả thấy chiếc nào ghé trạm, là do vậy.

                  Thế là mọi người bảo nhau đi ngủ sớm. Phụ nữ rửa dọn nồi son chén bát, lau chùi chỗ nằm dưới nền xi măng (vừa dùng nơi ăn cơm). Đàn ông lo lùa bọn trẻ về lớp học bên hông nhà thờ, để dỗ con cái ngủ. Chị em phụ nữ xin đi tắm nhờ ở nhà bà từ. Cũng may là ở trong miền Nam lúa gạo dồi dào cò bay thẳng cánh, hầu kịp thời cung ứng cho cư dân ở miền Cao Nguyên và miền Trung, sau mỗi khi thấp kém mùa màng hay thiên tai lũ lụt. Chúng tôi mò tìm về miền Tây là phải lắm. Thật cám ơn nông dân và cư dân ở miền Tây Việt Nam hết sức.

                  Những giọt buồn lê thê xin gác lưng mây bay bay sau triền đồi Đà Lạt xa mờ xa nhé! Dù gần hay xa xôi muôn trùng sóng vỗ, thời khắc quý giá nầy vẫn mãi hoài ghi nhớ, chiếm ngữ trong hồn tôi giông bão. Chiến tranh biêu riếu đã hạ bức màn đen trong chung cuộc đầy bi kịch rồi chăng? Ví dù như thế thì họ và tôi hoàn toàn tin tưởng vào cấp lãnh đạo tối cao của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tin các cấp chỉ huy đã và đang dấn thân từ các nơi còn trụ lại, rải rác khắp nơi… có thể là:
                  - Vùng I : Quảng Nam. Quảng Trị. Thừa Thiên.
                  - Vùng II : Dakto. Kontum. Pleiku. Đà Lạt. Khánh Dương.
                  - Vùng III : Bình Long. An Lộc. Long Khánh.
                  - Vùng IV : Nhất là hy vọng từ Long An về Miền Tây, vẫn còn… trấn giữ.

                  "Quốc hữu phân tắc thực" (nước có người giỏi, thì nước mới vững chắc). Mặc dù giàu sự dũng cảm hào hùng của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa: từ tất cả các binh chủng đang ở lại rải rác trên quê hương nầy; họ có kiên cường bất khuất anh dũng và oanh liệt quyết chiến đấu tại các chiến trường sôi động khói lửa, hay tại các địa phương, Tỉnh, Thành, nào... Nhưng nếu họ không còn những vị “thủ lĩnh”, họ đã mất cấp lãnh đạo. Hoặc giả họ không có những vị chỉ huy nữa. E là thua chắc!

                  “Nghĩ thân phù thế mà đau,
                  Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!
                  ” (3)
                  ***
                  (1) = ca dao.
                  (2) thơ tiếu lâm & sưu tầm lượm lặt đó đây.
                  (3) câu thơ của Nguyễn Gia Thiều.
                  ***

                  Tình Hoài Hương
                  Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-06-2018, 08:01 PM.
                  Bút trần nào tả được lưu luyến!
                  Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                  Tình Hoài Hương

                  Comment


                  • Những Ngày Loạn Ly Trung Tuần Tháng Tư


                    Những Ngày Loạn Ly Trung Tuần Tháng Tư


                    Khổng Tử đã nói:
                    "Kẻ sĩ lo trước cái lo của thiên hạ. Vui sau cái vui của thiên hạ”.
                    Cũng như cổ nhân Nguyễn Trường Tộ đã nói:
                    Nhất thất túc thành thiên cổ hận.
                    Tái hồi đầu thị bách niên thân”.
                    (Một bước lỡ để nghìn năm mang hận.
                    Ngoảnh đầu trông lại đã trăm năm
                    ).

                    Quả thực như thế. Những người lính oằn vai nặng gánh, lưng gồnh mối thù oan nghiệt từ phân chia hai miền Bắc. Nam; buộc họ phải làm viên gạch lót đường cho danh vọng, tham tàn, bạo lực: Nay người lính đem xương máu ra chiến trường đã là, đang là… vẫn là những viên gạch lót đường, dài dài… từ vĩ tuyến 17, nơi con sông Bến Hải có cầu Hiền Lương nghẹn ngào đớn đau tạm thời phân giới hai miền Nam + Bắc của nước Việt Nam “con rồng cháu tiên”. Họ quyết ở lại miền Nam Việt Nam dựng nước và giữ nước. Một thời gắn bó keo sơn, mặc dù biết mình vô tình làm ván bài mưu lược chính trị sục sôi. Họ vẫn chia nhau ra trấn giữ đất nước, cố duy trì sự tồn-hưng một quốc gia trong thời chiến tranh: Giống như Mã Viện xưa đã nói: - “Làm trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn, mới đáng qúy. Chớ chết trong tay lũ trẻ nâng đỡ. Nào có hay gì"!

                    Phân chia là thế! Nhưng lòng yêu nước thiết tha, lý tưởng, lập trường và hoài bão mong ước tự do an bình, ấm no cho toàn dân, thì “Quan, Tướng và Lính” đều có ước vọng, lập trường kiên định và hoài bão giống nhau. Hôm nay nếu trải qua chung cuộc ngậm ngùi trong cơn xoáy đục ngầu, tưởng đã chia phần đều nhau: là vậy. Ngày đêm kề cận sự chết, chiến tranh tàn khốc xảy ra trên từng đoạn đường giao tranh, trên những bước ngắn bước dài, bước thấp bước cao. Lòng lính càng quặn từng cơn đau buốt, khi họ đi kè kè hai bên lề đường: để hộ tống từng đoàn dân di tản tất tả chạy dọc theo ven những quốc lộ trên triền dốc quê hương Việt Nam thân yêu.

                    Bỗng dưng tình hình chính trị quyết liệt căng thẳng, vận nước đột biến cuồng loạn từ góc 45/o, chỉ trong vài ba tuần ngắn ngủi, vụt nhảy tọt lên 360/o nhanh như chớp. Khiến tôi vô cùng hoang mang, bàng hoàng sửng sốt, lo lắng, buồn phiền, bối rối tột cùng. Trở lui mắc núi, đi tới mắc sông, xoay quanh mắc vòng lẩn quẩn đủ mọi thủ thuật rối rắm. Sau 21 giờ thì thiết quân luật bắt đầu 100%, màn đêm đã sớm về đến khi khuya lắc khuya lơ, chúng tôi vẫn đứng thấp thỏm, thập thò từ trong cửa sổ ở phòng ngủ Hotel Hưng Đạo 2 đã tắt hết đèn đóm, tôi nhìn xuống đại lộ Trần Hưng Đạo, thì thấy lố nhố hàng hàng lớp lớp lính tráng: Tôi âm thầm quan sát “những tình thương và sự hy sinh cao cả bên lề cuộc sống”: Nào là: Thủy-quân Lục-chiến. Nhảy Dù. Biệt Động Quân. Bộ-Binh, vân vân... (không kể đã có ba Lữ đoàn Dù. Ba Liên đoàn Biệt Động Quân đóng tại Hóc Môn. Gò Vấp. Bình Chánh. Nhà Bè. Tân Sơn Nhứt).
                    Quân đội đã đặt những ụ súng cối, súng máy, do các chiến hữu Sư-đoàn 5 – 18 – 22 – 25, ngỏ hầu chu tất việc bảo vệ an toàn lãnh thổ Việt Nam, Thủ-đô, và lương dân vô tội. Cứ một giờ, tốp lính nầy đến gác, là tốp kia lầm lũi âm thầm ra đi... Súng dài gác bên nhau, mũi súng chụm vào chỉa lên trời, báng súng dựng dưới mặt đường nhựa. Họ nói rất khẽ hay chỉ lặng lẽ ra hiệu lệnh. Họ là những quân nhân Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã và đang anh dũng quyết chiến đấu, hy sinh đến giờ phút cuối cùng. Súng lại đeo lên vai nòng chĩa xuống đất, họ lặng lẽ và tuyệt đối vâng lời thượng cấp, từ từ rút lui có quy củ, trật tự tôn nghiêm trong hàng quân ngũ. Họ nhìn nhau lặng lẽ nhếch miệng cười qua cái bắt tay giã từ vừa đủ chặt, dường như âm thầm nói lên niềm đắng cay trào dâng trên sóng mắt tiếc thương, quặn đau trong lòng họ sự hy sinh vô vụ lợi, không điều kiện.

                    Từng tốp lính mười tốp bảy người, nhiều vô số đang nằm gối đầu trên vĩa hè, tay gác lên trán tư lự. Có người đứng hoặc ngồi bên đường. Dù ở trên vĩa hè, quân nhân đều có trật tự, nhịp nhàng, kỷ cương. Họ chia nhau ra canh giữ quê hương trong giờ phút lâm nguy khốn cùng. Những đóm lửa nhỏ lập loè loé lên trên bờ môi khô. Những đôi mắt dường như đọng ngấn lệ tủi hận đầy bi ai. Có người đang mặc áo giáp, đăm chiêu suy tư, bơ phờ, hốc hác. Có người đội mũ sắt, hất ngược mũ ra sau gáy, sợi quai mũ cứa vào cục yết hầu oan gia nhô cao, nó cay đắng chạy lên chạy xuống cuống cổ. Có người đội mũ sụp che xuống gần tới mí mắt. Có người đội mũ lệch qua một bên. Họ mang giày đinh lấm lem bụi đỏ, lưng đeo ba lô nặng trĩu đường hành quân, râu ria lởm chởm, tóc tai không mấy chỉnh tề. Những bàn tay anh tài vẫn đưa lên ngang tầm mắt, nghiêm nghị đứng thẳng, ngực ưỡn ra oai vệ khi chào thượng cấp.

                    Sài Gòn chóa mắt vì đèn điện thắp sáng rực thâu đêm. Tiết trời quang rạng, gió hiu hiu nhè nhẹ phe phẩy mơn man trên đầu cây ngọn cỏ, không gian se lạnh khi màn sương nhợt nhòa buông lơi. Rồi bình minh ló dạng sau những toà cao ốc tráng lệ, oai sang đứng sừng sững trên các thổ cư: vẫn rạng danh là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Tôi sống tạm bợ nơi Sài Gòn xa hoa, nhộn nhịp, và lắm xô bồ trong những ngày cuối tháng Ba và đầu tháng 4 năm 1975, với ngàn lo âu, run sợ hãi hùng đầy cay đắng, băn khoăn lo lắng trăm mối tơ vò. Tin dữ loan ra thì có, tin lành về lại không. Nhìn xuống lòng đại lộ của khách sạn Hưng Đạo 2, tôi càng run rẩy nghĩ rằng: “Trận chiến nầy, hẳn là sẽ đến hồi quyết liệt để giành thắng. Nay mai sẽ có giao tranh trên cùng khắp các nẽo đường. Chạy đi đâu cho thoát ra khỏi con ngỏ sâu hun hút, đầy đạn bom đây! Hở Trời!? Tôi vô cùng hối hận khi đưa gia đình về đô thành. Chạy đi đâu, cũng không thể thoát khỏi nanh vuốt bạo tàn khi kẻ ác gieo tang thương cùng khắp. Thì thà rằng cứ ở yên lại Đà Lạt, có lẽ gia đình tôi không đến nỗi nào khổ sở đến thế”!

                    Trên những con đường lớn nhỏ tại Sài Gòn đều đông nghẹt người đi bộ, người ta đông hơn kiến tràn ra ngoài lòng lề đường, chen lấn nhau đi kẹt cứng. Mặc cho từng hàng xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp, xe xích lô, xe ba gác vân vân… chồng chất đủ mọi thứ lỉnh kỉnh lên xe. Họ ùn ùn hối hả đi đi, về về! Đi đâu?! Về đâu?! Hầu hết các doanh trại ven đô, các công sở ty mỏ, và thường dân lo đào hầm hố cá nhân. Những đại công sở và cao ốc, cũng như ngoài những đại lộ, gần trung tâm Sài Gòn đều ráo riết chuẩn bị. Mặc dù các bạn trong nhóm cuả tôi có nhiều sáng kiến, có nhận thức thời cuộc chính xác và quyết định đúng đắn, nhưng dẫu sao họ ở nơi xứ lạ quê người ồn ào náo nhiệt, tột cùng hổn loạn thế nầy, năm anh ấy giống chú khỉ bị nhốt trong chuồng kín ở hotel Hưng Đạo 2: lòng và trí nóng như lò lửa, thì ai có tài giỏi đến mấy, họ cũng không biết đâu mà mò. Tuần trước, họ chờ đợi bầy trẻ nhỏ ngủ yên, liền khều mấy bà qua phòng tôi, để bàn tính chuyện lủi xuống miền Tây. Vì, nghe nói tại miền Tây bây giờ hoàn toàn bình yên tĩnh mịch. Ngọc đã cho ba của anh đi xuống miền Tây dò đường đi nước bước trước rùi. Ngọc dặn dò ông ba nếu thấy tình hình bất ổn, thì ông lo tìm đường đi ra Phú Quốc. Ngọc ấn định ngày giờ sẽ gặp ông ba ở điạ điểm chính xác ở miền Tây, hoặc Phú Quốc; có nghĩa là Ngọc sẽ đưa bầu đoàn thê tử, và “hò” bạn bè cùng nhau phải sáng suốt dứt khoát ra đi, khi thấy Quân-lực Việt Nam Cộng Hòa đã triệt thoái hết về miền Nam, thì ở miền Tây ắt sẽ còn là nơi vững chắc như đinh đóng cột.

                    Hầu như cánh phụ nữ thức suốt đêm để may những túi vải nhỏ có dây đeo trên vai cho mọi người, trong đó có vài bộ áo quần và giấy tờ tuỳ thân. Bốn giờ khuya chị Ngọc và tôi nấu nước sôi chờ nguội, để đổ vô bốn chai ni lông to. Tôi nấu ba lít gạo, rang đậu phụng làm muối mè. Chị Ngọc nấu canh mì gói trộn chung với rau muống, và chiên khô cá. Cơm chín, hai chị em lấy khăn ướt mỏng để nhồi cơm nóng thành từng nắm cơm vắt, xắt lát vừa vừa, tôi bỏ cơm vô hộp ni lông mang theo cho mọi người ăn ở dọc đường. Tôi gọi bọn trẻ dậy sớm, cho con cháu ăn chút canh mì gói. Các con cháu còn ngái ngủ, nên chúng ăn rất uể oải. Có lẽ do hôm qua đi bộ nguyên ngày giữa trời mưa, rồi trời nắng chang chang nóng như thiêu đốt, nên bọn trẻ thấm mệt, rã rời, lừ đừ thân xác chăng? Sau đó phụ nữ quét dọn, rửa chén bát nồi niêu sạch sẽ, bỏ vào mấy cái bao cói (hôm trước ông bà trùm đã cho quà). Cô Quy và tôi bưng xách mấy giỏ mùng, quần áo linh tin nhờ ở nhà bà từ, xin cất dùm. Bà từ nói:
                    - Chị cứ để ở bên vĩa hè, không có ai lấy lầm đâu”.

                    Chúng tôi ra đi. Luật một tay dắt bé Bi, tay kia anh xách giỏ cơm vắt, muối mè, khô cá. Bà mẹ Luật mang túi vải bỏ thêm hai chai nước. Tôi bế bé Tồ, một khuỷu tay kia móc thêm hai túi xách quần áo (của tôi và bé Tồ). Năm gia đình bạn thân là: gia đình tôi, Ngọc. Quy. Cúc. Bàn; cùng nhập với hai gia đình mới quen là Phương, Tâm; tất cả hăng hái nôn nao lên đường. Chúng tôi lặc lè đến trạm xe Sài Gòn, kịp lúc có chừng năm chiếc xe bus từ các hướng đi khác nhau, vừa trờ tới. Các anh nhanh nhẹn lùa đám trẻ, đàn bà, lên xe bus đi ra Xa Cảng. Trên xe lác đác có ba người khách. Nhóm chúng tôi ngồi sát gần nhau, người lớn cho trẻ con ngồi trên đùi mình yên ổn xong. Nhìn lui nhìn tới chỉ thoáng chốc thì người và người ở đâu túa ra đông nghẹt, chỉ có người lên xe, không có người bước xuống. Hai hàng ghế kín mít không còn chỗ ngồi, hành khách đứng chật cứng trên lối đi lại. Thật là may, nếu chỉ chậm trể mươi phút nữa, kể như nhóm chúng tôi không bao giờ chen chân lên xe bus nỗi.
                    Quang cảnh tại bến Xa Cảng miền Tây lúc tửng bưng sáng vô cùng náo nhiệt, hổn độn kinh khủng. Những trạm bán vé đông nghẹt người chen lấn ồn ào hơn vỡ chợ. Thế là nạn ăn trộm, cướp bóc, giật giỏ xách, móc túi, bấm dây chuyền, giựt bông tai, bốc hốt, mò mẫm bóp vú... loạn xạ. Dưới đất thì bọn du thủ du thực rượt đuổi nhau huyên náo, đánh lộn, chửi bới inh ỏi cả một vùng. Đàn bà trẻ con nhóm tôi ngồi xép nép, chò hỏ ở một góc kín sát ngoài cửa bến, gần bức tường gạch, (tạo thành một vòng đai tròn sát bên nhau cho bọn trẻ con ngồi ở giữa), các con cháu đứa ngồi đứa nằm gối đầu lên những túi đồ đạc hèn mọn lỉnh kỉnh mang theo. Những người khách đi tới đi lui tò mò đứng lại lỏ mắt nhìn ngó lom lom bầy trẻ bị cái nóng Sài Gòn thiêu đốt, khiến mồ hôi chảy ra như tắm. Mặt mày con trẻ xứ Đà Lạt đa số xinh xắn, hai má đỏ au như dồi phấn, mắt to sáng môi tươi (tuy suốt hai tháng nay bọn chúng sống lăn lóc, cực khổ, cù bơ cù bất, thiếu ăn thiếu ngủ, mà còn xinh như vậy!). Nhìn những đôi mắt phượng long lanh phảng phất mặt hồ thu Đà Lạt mơ màng, hai gò má phinh phính nõn nà màu hồng phấn của các cháu bé, khiến ai cũng thèm cắn một cái ghê! Họ trầm trồ khen bầy nhỏ xinh đẹp là phải! Chúng tôi giữ bọn trẻ chằng chằng, chỉ sợ mình sơ ý, bọn trẻ sẽ bị bắt cóc, thì chết!

                    Bà sương phụ háy một cái thiệt dài, oang oang nói:
                    - Những đoàn xe hiện đang chờ đợi lấy tài. Hôm nay “hết vé” rồi!!!
                    Mới tửng bưng sáng mà “hết vé” sao? Úi Trời! Cả nhóm bàn nhau là nên ngủ đêm tại nơi nầy. Nếu chúng tôi quay trở về nhà thờ Huyện Sỹ, cả “bầu đoàn thê tử” đùm đề lôi thôi lốc thốc toàn trẻ con nheo nhóc, người già yếu đuối và đau ốm, đàn bà lụ khụ, thì quá bất tiện. E rằng ngày mai chúng tôi không thể đến đây. Không thể chen chân với hành khách để leo lên xe bus đi về Xa Cảng, chớ nói gì đi miền Tây!? Quyết định như thế thật đúng. Mấy ông trong nhóm tôi cứ kiên nhẫn đứng xếp hàng chờ đợi mua vé. Họ đứng mỏi rã rời chân từ chín giờ sáng, mà mãi tới bảy giờ tối mới mua được vé xe đi Rạch Giá cho ngày mai. Thế là bao nhiêu vé đều tộn ra ngoài bán giá chợ đen, họ chả sợ bể mánh bể mung giữa chợ đời bát nháo! Mém chút nữa thì chả còn vé để mua.
                    Nhóm phụ nữ yên ổn ngồi trong lòng xe đò cũ kỹ chật như nêm xong, thì đa số đàn ông phải leo lên ngồi trên mui xe, chẳng thể phản đối, hay càu nhàu cằn nhằn la mắng gì! Ai có vé mà không chịu đi chuyến nầy, thì chủ xe lập tức hoàn trả tiền vé lại cho cố chủ. Sẽ có người khác (không ngủ qua đêm ở trạm bán vé) vui vẻ mua vé chợ đen, cao gấp năm bảy lần tiền vé chính thức. Sao không ham. Tự mình muốn cần đi đó đi đây, chớ ai bắt. Thế nên lớp trai tráng ép bụng chịu thiệt thòi ngồi bó gối chút, hoặc ngồi lắt lẻo phơi đầu ngoài trời mưa tầm tã, hoặc trời nắng chang chang một xí. Cũng đành!

                    Ông tài xế bảo tất cả mọi người xuống xe, chỉ trừ những ông bà già yếu ốm và trẻ con thì được ngồi trên xe. Còn mọi người khỏe mạnh phải đi bộ xuống phà Bắc Mỹ Thuận. Cô Cúc mua cho nhóm mỗi người một trứng hột vịt lộn ủ ở rổ trấu nóng hổi. Các con tôi thấy con vịt chết nằm trong quả trứng, thì quá sợ lắc đầu lia lịa không dám ăn. Tôi mua cho cả nhóm bánh mì thịt, trái cây đủ loại, nào là mận, đào, chôm chôm. Bánh trái, kẹo mứt bán nhiều vô số; mà thật rẻ. Thú vị nhất là các em bé bán chim cút lanh lẹ vui vẻ rao hàng:
                    . . . Ăn chim em đi anh.
                    Nè chim em mập lắm.
                    Nè chim em ít lông.
                    Chim em vừa mới lớn.

                    Anh ăn chim em không.
                    Chim em toàn những nạc.
                    Chim em chẳng có xương.
                    Anh sờ đi: toàn thịt.

                    Lại to hơn chim thường.
                    Lại to hơn chim thường.
                    "Ừ, chim em bự lắm.
                    Nhưng anh cũng... có rồi.

                    Anh dừng lại xem thôi.
                    Để anh đi, em nhé".
                    Xe chuyển bánh nhè nhẹ.
                    Cô em còn ghé theo.

                    Chim em, chim rất nhiều.
                    Lần sau anh mua nhé.
                    Nay qua sông Mỹ Thuận.
                    Gặp cây cầu ước mơ.

                    Thương cô em mười tám.
                    Biết tìm đâu bây giờ?...
                    (1)

                    Đoàn xe lại bon bon lên đường xuôi về hướng Rạch Giá. Trùng dương sóng vỗ mênh mông, bạt ngàn nước cuồn cuộn nhấp nhô bên mạn phà to tướng, êm êm. Lần đầu tiên xuôi về miền Nam phồn vinh trù phú, tôi cứ tưởng chỉ có phà Bắc Mỹ Thuận là to lớn sầm uất thôi. Nào dè, một lần nữa tài xế gọi mọi người xuống xe, để qua phà, thì tôi càng sửng sốt mở rộng tầm mắt nhìn phà Bắc Cần Thơ bao la, bát ngát, mênh mông sông nước rộng kinh khủng! Bờ nầy và bờ kia xa tít mờ xa ngàn trùng. Đúng là:
                    đi cho biết đó biết đây.
                    Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn”
                    .

                    Đặc sản nổi tiếng nhất vùng nầy là “bưởi Năm Roi” múi to nhiều nước và ngọt lịm. “Vú sữa Lò Rèn” vỏ mỏng hột nhỏ, khi trái vú sữa chín thì vỏ giống màu cẩm thạch, ruột trắng sữa. Có “Dừa Sáp Cầu Kè”̀ nhiều nước và cũng ngọt lịm. Mít ruột đỏ múi dày giòn thơm ngon, và cả “Dưa Bồn Bồn”. Vân vân… như câu ca dao:
                    Bánh tráng Mỹ Lồng. Bánh phồng Sơn Đốc.
                    Măng cụt Hàm Luông.
                    Vỏ ngoài nâu trong trắng như bông gòn.
                    Anh đây nói thiệt sao em còn so đo!
                    (2)

                    Ôi! Bao nhiêu là quà bánh đặc sản tươi rói ngon lành ở miền quê đều tập trung ở hai bến phà đông đúc, vui vẻ nhộn nhịp, tưng bừng nầy. Chị em chúng tôi chọn mỗi người mua một loại trái cây khác nhau, để mọi người trong đoàn ăn nếm, cho biết vị ngon của lạ trên quê hương.
                    Bến Tre giàu mía Mỏ Cày.
                    Giàu nghiêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
                    Bến Tre biển cá sông tôm.
                    Ba Trì muối mặn Giồng Trôm lúa vàng.
                    Biên Hòa có bưởi Thanh Trà.
                    Thủ Đức nem nướng Điện Bà Tây Ninh.
                    (2)

                    Xe vun vút chạy qua bao nhiêu cầu, bao nhiêu phố xá, ruộng lúa vừa gặt xong còn trơ cuống rạ, vô số cò diệt, le le, bay thẳng cánh ngút ngàn. Vườn tượt kinh rạch làng mạc sông nước hai bên chập chùng. Quê hương mình muôn màu muôn sắc, mỗi nơi có một vẻ đẹp tuyệt vời riêng với mạng lưới kênh rạch chằng chịt. Trên ghe thuyền thương hồ mái chèo tung tăng quẫy nước, vẵng tiếng hò câu ca vọng cổ đó đây, chen lẫn với những cây đàn cò, đàn guitar cùng tiếng trống bập bùng, rộn rịp, bồng bềnh, nhấp nhô trôi theo ghe thuyền sông nước mây trời.

                    Có sông chợ nổi lớn và các mặt hàng hóa treo lên một cây sào cao, hoặc bỏ trong nhiều giỏ cần xế to. Nào là Chợ nổi Cái Răng Cần Thơ, chợ nổi Phụng Hiệp bán rùa, chim, sóc, kỳ đà… rắn đủ loại quanh năm, chợ nầy rất lớn là nơi tuyệt vời đầy đủ các thứ nhất, và chợ nổi Cái Bè. Những chợ nổi ở miền Nam ...ôi bán mua bạt ngàn đủ loại trái cây, dừa, dưa hấu, gạo củi, rau, tôm cá, áo quần, mùng mền gối chiếu, kể cả các mặt hàng ăn uống nhậu nhẹt như: Bánh cuốn, phở gà, cháo vịt, cơm, bún, vân vân... và vân vân... đều được bán trên sông ròng nước lớn.

                    Lòng tôi cảm thấy nao nao cảm xúc ngọt ngào, dịu nhẹ, lâng lâng, dạt dào, ngẩn ngơ. Hạnh phúc lang thang trong lòng tôi rót tơ vàng trôi theo dáng hoàng hôn hây hây, lung linh, huyền ảo với sóng trường giang rộn ràng đập bên mạn thuyền luyến thương nhiều thao thức. Cảnh vật huyên náo vui nhộn không kém phần đặc biệt thi vị thơ mộng: đã thể hiện vào câu hò, điệu lý, được lưu truyền từ xưa đến nay:
                    Dòng sông thì rộng mênh mông.
                    Áo em lại thắt lưng ong làm gì?
                    Anh từ Xà No đến.
                    Em từ Ba Láng sang.
                    Sợi tình yêu ai dệt.
                    Trên mặt nước mênh mang.
                    Bảy sông dồn nước cuồn cuộn nước.
                    Phù sa lớp lớp quyện phù sa...
                    (2)
                    ***

                    Chiếc xe đò cà tàng, thổ tả, lọc cọc, rệu rạo lăn bánh trên những cục đá dăm khi hoàng hôn nhè nhẹ quệt đường nắng yếu ớt, sóng sánh trên dòng sông mờ mờ, thì chúng tôi thực sự đặt chân về miền Tây. Bỗng trời mưa thật lớn. Nhóm tôi đã trải qua một đoạn lãng du dài dằng dặc giữa trời đất tĩnh lặng bao la, hoang sơ, lãng mạn trên nẽo đường gió bụi trôi về xứ lạ, nơi vừa cũ vừa mới, vừa họa, vừa phúc, vừa lương thiện, từ bi… lẫn tội ác quyện bện vào nhau, mà tôi không ngờ! Nhưng lòng trí ai nấy đều nôn nao, bồn chồn, lo âu thấp thỏm: vì xứ lạ phương xa mà đa số bạn của tôi và tôi; chỉ biết ngao du qua sách vở, chứ tôi chưa hề thú vị chứng kiến sông nước ruộng đồng bao la, vườn tượt xanh um bóng mát, như thi sĩ Bùi Giáng đã nói:
                    Chào Lục Tỉnh thu về xuân nức nở.
                    Ở trong cây trong lá ở bên sông.
                    Dòng nước chậm chần chờ con sóng chở.
                    Còn không em? kỷ niệm ở bên lòng!

                    Và:
                    Chưa đi chưa biết Bến Tre.
                    Đi rồi mới biết toàn tre với dừa.
                    Dừa to dừa nhỏ dừa vừa.
                    Trèo lên tụt xuống nước dừa đầy tay.
                    (2)

                    Xuống đến Rạch Giá cảnh vật thôn quê êm đềm tĩnh mịch không kém phần thơ mộng, nhưng đa phần nhà cửa cư dân vắng vẻ, xóm làng quạnh hiu vô cùng, thì nhóm tôi hoàn toàn bị lạc lõng, xa lạ, đơn độc buồn thiu đến độ nào. Chúng tôi líu ríu dắt díu nhau đi tới chỗ lạ cái lạ nước, lạ hoắc, thật lúng túng bất tiện trăm bề. Nhóm người già trẻ lớn bé nầy chẳng hiểu sao lòng cảm thấy bất an, lo sợ, e dè, lấp ló thập thò, kín đáo dè dặt ngó quanh, nhìn trước ngó sau lén lút như kẻ gian, kẻ trộm. Hết cả đám có miệng mà như câm, không ai dám hỏi thăm khi dân địa phương nhìn chúng tôi chằm chằm, xoi mói. Không có bản đồ địa phương, không rành phong thổ cũng như tập quán nơi đây, không thấy xe xích lô, không tìm ra khách sạn hay phòng trọ nào. Thế nên đã nhiều giờ nhóm tôi đi lạc lung tung. Sau đó:
                    Hỏi em, em đã đi rồi.
                    Hỏi chim, chim chỉ mỉm cười bay đi,
                    Hỏi cha, cha chẳng biết gì.
                    Hỏi sư, sư bận vội về tụng kinh.
                    Hỏi cô hàng xóm làm thinh.
                    Hỏi nàng bán bánh cười tình không hay.
                    Nhìn trời một đám chim bay...
                    (2)

                    Mấy anh dấm dớ dò dẫm qua một chiếc cầu gỗ cũ, tới trạm mua vé tàu thủy, dự định ngày mai cả nhóm sẽ đi Phú Quốc. Chiều tà ở tại Rạch Giá từ bước chân khách lạ cô đơn trên đường chiều, khiến lòng tôi buồn vô hạn, đứng trên cầu gỗ nhìn về phía góc vườn dừa rợp bóng nhà ai sông nước chập chùng. Có chút tâm hồn đa cảm, nhạy cảm và hơi lãng mạn... khiến tôi cảm thấy nơi đây thật sự kỳ diệu thanh bình êm ả lắm. Lòng tôi càng xúc cảm vấn vương nỗi buồn thê thiết, khi thấy mấy giang thuyền lạnh lẽo lắc lư nằm im ỉm, trơ trọi bên những cầu tàu quạnh vắng, làm thức dậy trong tâm trí tôi hình ảnh dĩ vãng lãng đãng mộng mơ thiết tha thật gần... Nhưng bây giờ đã rời xa... xa mờ xa nơi chân trời mê-hoặc, xao xuyến mông lung bao tiếc nhớ, bâng khuâng lặng lờ nỗi đau sâu thẳm:
                    Đâu rồi những anh thủy thủ phong trần trẻ trung vui tính ưa huýt gió, vui vẻ, xinh lịch oai hùng hào hoa trong bộ quân phục Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trắng tinh? Họ mặc bộ quân phục với niềm kiêu hãnh vinh quang hào hùng trong dĩ vãng? Mặt nước có còn in bóng chàng trai phong sương đa cảm, đa tình đứng trên bon tàu vu vơ nhìn mây trời quyện bện vào nhau trải dài màu xanh bát ngát? Dưới đáy thuyền sóng cả cuồng phong thịnh nộ ngày ấy vỗ nước bồm bộp vào mạn thuyền, đẫy đưa anh lính Hải-quân có cuộc sống hào hoa phong nhã lang bạt bồng bềnh vui tươi đi xây mộng giang hồ tứ xứ!? Ý chí của bạn và tôi bây giờ chỉ còn là ảo ảnh: trăng tròn giữa dòng sông lắc léo có giòng chảy trên luống đời điệp trùng bóng tối. Tiềm ẩn trong tâm ta hình ảnh đường chiều nâng ước vọng dâng cao ngút ngàn. Các anh có biết không: "hở hoàng hạc ơi! tiếng xưa"
                    Thì thầm lặng lẽ thưa rằng
                    Mai kia nếu lỡ đời càng quạnh hiu
                    Thuyền đà tách bến khuya chiều
                    Bùi ngùi ấp cánh thư điều* nhớ mong

                    Chong đèn lóng ngóng
                    Nghe thông reo trầm bổng… tình biển cạn
                    Cánh chim hư huyển cất tiếng gọi đàn
                    Ngọt ngào ước hẹn văng vẳng lời… có trăng ngà dõi bóng

                    Thuở ấy triền non chung giấc mộng
                    Ngờ đâu nước lũ cuốn mưa sa

                    Phù dung đoá hồng sớm nở mặn mà
                    Mây phiêu lãng nhạt nhòa vương… đứt đoạn
                    Thôi nhé gió tạt lạnh ơi mãnh trăng gầy vừa khuất dạng
                    "Bến không thuyền" hoàng hạc bẵng tin sương
                    Ánh sao lấp lánh sau vườn
                    Hương xưa thoang thoảng tưởng nhạn tới đây
                    Thấu chăng niềm nhớ thương nầy!?
                    (3)

                    Đến gần chân cầu sắt dày cui lót gỗ bên kia trạm vé, thì có một khu nhà tôn chen lẫn nhà lá tồi tàn, nhưng đã đem lại lòng tôi sự ấm áp rộn ràng rạo rực niềm vui, chen lẫn sự xót xa chân thật: khi tôi nhìn cư dân địa phương vất vả, thiếu thốn, nghèo nàn. Các anh vào thuê mấy chỗ trọ. Không phải là phòng trọ như ở nơi khác có phòng riêng sạch sẽ tươm tất, mà lán trọ ở đây giống như khu nhà trống, hoàn toàn không có cửa nẽo, chỉ là những hàng ghế bố cũ mèm nối dài, mái lợp lá dừa trống trơn, hơi giống patio bốn bề lộng gió. Nước mưa lộp độp trên mái lá, bùn đen sền sệt dưới chân ghế bố luôn luôn ướt nhẹp, mốc xì, đen thui, ghế bố có nhiều gián, rận, rệp hôi rình, thậm chí có cả chí mén, chí cồ bò lổm ngổm trên gối. Thế nhưng người ra kẻ vào lội nước lủm bủm vẫn tấp nập ồn ào ngược xuôi đông đúc lắm.

                    Chị Ngọc, Cúc, tôi vội vàng xẹt ra khu chợ xép nhỏ gần xịch một bên, chị em tôi chẳng buồn hỏi khu chợ nầy có tên gọi là chợ gì. Mỗi quầy hàng là một cái chòi bằng tre lợp lá dừa, giống túp lều nho nhỏ luôn kêu kẽo kẹt, nước bùn đen đen đọng dưới chân cột và trên đường nhựa. Quán xá lộn xộn, họ bán đủ thứ: cá, tôm, sò ốc, rùa, ếch... Úi trời! có nhiều con rắn còn sống đang uốn éo thân, cái lưỡi chẽ đôi thò ta thụt vô, cả những chú chuột đồng lông lá lưa thưa có móng nhọn dài to bự sư. Coi thật gớm à! Chị em tôi mua nhiều tôm tươi, cá trê vàng, cá sặc bướm, cá sặc rằn. Rồi day qua hàng khô mua gạo, mua một trái thơm, rau sống, cà chua, mua củi. Họ thật thà hào phóng bán trái cây tươi rói, tính một chục là 16 trái xoài bóng láng, mập ú, thơm ngon. Họ không nói thách, không làm hàng màu mè: không chất thứ to bỏ làm hàng mặt ở trên, trái nhỏ chêm ở dưới thúng. Mà có sao họ bán vậy. Dân quê và dân chợ đa số khá hiền lành chất phác, vui vẻ, chăm chỉ, thật thà. Họ nói ở đây cái gì cũng tươi và rẻ nhất là: cá, tôm... Nhưng họ khó kiếm ra tiền, vì nhà nhà ai ai cũng có cá, có tôm. Thịt ếch và các loại cá ở miệt nầy càng rẻ rề, thì đem bán cho ai đây, để có tiền xây xài? Chúng tôi xin bà chủ nhà trọ cho mượn mấy cái son nồi, để nấu nhờ bữa cơm tối. Bà chủ nhà vui vẻ dễ dãi nhận lời. Chị em tôi xúm lại người nấu cơm, người làm cá. Lớp kho, lớp nấu, chiên xào... Đây là bữa cơm đặc biệt đầu tiên, có thể cũng là bữa cơm cuối cùng tại Rạch Giá. Nhóm chúng tôi ăn uống no nê, dư dả và rất ngon miệng. Sau đó chị em bưng nồi niêu son chảo ra bờ kè rửa ráy, rồi trả lại cho bà chủ nhà tốt bụng. Chị em cho các con ra sông tắm gội sạch sẽ.

                    Khi màn đêm buông xuống, tôi nhìn bên kia kinh lạch tối om vì không có điện, bên nầy ngọn đèn đường tù mù hắt ánh sáng yếu ớt vàng vọt, giống như đèn đêm lốm đốm lập lòe ở khu nghĩa trang. Thiệt cảm thấy quá nãn. Đêm buồn nghe tiếng mưa rơi lộp độp trên lá, gió lồng lộng rít rít từng cơn, thổi bay tấm mùng vải cũ ố vàng đen đen, khiến cái lạnh càng về khuya càng ngấm xuyên qua da thịt tôi thêm dúm dó và rùng rợn. Bầy trẻ suốt ngày đi đường quá vất vả, nên tắm gội xong, vừa đặt lưng xuống ghế bố, là chúng đã “phè cánh nhạn” ngủ say. Riêng bọn già nầy thì bồn chồn, băn khoăn, lo lắng, không sao chợp mắt, dù chỉ vài phút.
                    ***

                    Tình Hoài Hương
                    *
                    (1) sưu tầm
                    (2) ca dao
                    (3) thơ tình Hoài Hương
                    Bút trần nào tả được lưu luyến!
                    Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                    Tình Hoài Hương

                    Comment


                    • Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền - Tình Hoài Hương


                      Bách Niên Thương Hải Biến Vi Tang Điền
                      (43 năm đớn đau buồn thảm)


                      Thật tình tôi không thể nào hiểu nỗi tại sao vận nước Việt Nam lại trở nên quá đen tối: sau khi hiệp định Genève 1954 diễn ra kể từ ngày 26 tháng 4 năm 1954 - rồi bản Hiệp Định được ký kết và kết thúc cùng ngày 21 tháng 7 năm 1954. Thành phần tham dự: Anh, Mỹ, Liên Xô, Pháp, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, Laos, Cambodia, Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Phía Quốc Gia Việt Nam ban đầu do ông Nguyễn Quốc Định làm Trưởng Đoàn. Sau, ông Trần Văn Đổ thay thế. Đáng chú ý: Ông Trần Văn Đổ, Trưởng Đoàn Quốc Gia Việt Nam đã lên tiếng phản đối sự chia cắt đất nước. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (miền Nam Việt Nam) không ký Hiệp Định. Phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (miền Bắc Việt Nam) do Phạm Văn Đồng làm Trưởng Đoàn. Phái đoàn Hoa Kỳ từ chối công nhận Hiệp định Genève.

                      ** Kể từ ngày 21-7-1954 – khi miền Bắc Việt Nam ký Hiệp-định Genève xé đôi lãnh thổ Việt Nam, lấy vĩ tuyến 17 và cầu Hiền Lương Bến Hải làm ranh giới, để chia lìa tách bạch hai miền Bắc Việt Nam và miền Nam Việt Nam ra đôi ngã phân ly nghẹn ngào:
                      - Ngày 11-11-1960 – Đại-tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu cuộc đảo chánh cùng Trung-tá Vương Văn Đông ở Liên-đoàn Dù, và Thiếu Tá Nguyễn Triệu Hồng, Đại-úy Phan Lạc Tuyên: đã đảo chánh nền Đệ-Nhất Cộng-Hoà hụt; thì “chiến tranh nội bộ” bắt đầu manh nha quyết liệt vì cốt nhục tương tàn, nồi da xáo thịt rối rắm bùng nổ liên miên. Từ xưa tới nay, sự thôn tính đất đai, tranh giành quyền lực, thế lực, vinh hoa, là mạng lưới quyến rũ dẽo dai và khổng lồ. Nước càng trong thì không có cá, dù lòng người đơn giản, phước thiện, trong sáng và cao cả; ấy mà nếu du nhập vào hệ thống chính trị, sau khi bị cuốn hút vào cung cầu đó, thì thật khó lòng ít có ai rứt ra được. Tiền tài là vật ngoài thân, đi lại về, về rồi lại đi, nhưng danh dự, địa vị và danh vọng khi đã mất rồi, chẳng thể tìm lại. Cần có uy quyền địa vị và thế lực trong tay, thì không ai có thể chèn ép. Nhưng đôi khi ta có đủ mọi quyền thế thì chính “nó” cũng có thể hại chết mình. Quyền lực giống như một toà lâu đài sang trọng rất rộng lớn và quá cao, ta phải biết cách xây dựng, bão tồn và duy trì cho vững bền. Nếu một khi bức tường rạn nứt, thì có ngày không xa toà nhà sẽ sụp đỗ, họ chỉ có thể đứng ở dưới mà ngước nhìn mình ở trên cao.

                      * Ngày 27-2-1962 - Có 2 chiếc khu trục A1 Skyraider dội bom dinh Độc Lập, do Trung-úy Phạm Phú Quốc và Thiếu-úy Nguyễn văn Cử ném bom bắn cháy dinh Độc Lập. Phi cơ của ông Phạm Phú Quốc bị bắn rớt trên sông Sài Gòn, ổng đã vô tù, tất cả bom đạn còn nguyên, nghĩa là ông ta chưa kịp thả trái bom nào. Ông Cử đào thoát bay mút qua hướng Nam Vang, dân chúng bàn tán là ổng bị chính phủ ở bển bắt nhốt vô tù rùi!?
                      - Sau biến cố 02-11-1963 – Tổng-thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu bị thảm sát. Trải qua bao thăng trầm chính trị sục sôi… thì nền Đệ II Cộng Hòa có Tổng-thống Việt Nam Cộng Hoà Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi.

                      * Ngày 8-3-1965 - Kể từ khi có đoàn Thủy-quân Lục-chiến Mỹ tiên khởi, đông đúc khoảng 3.500 người rầm rộ đổ bộ lên đất liền tại Đà Nẵng, Mỹ viện cớ muốn giữ “an ninh cứ địa”. Do tướng Maxwell Taylor, thỉnh thoảng hút xì gà Schimmelpennick làm đại sứ Sài Gòn, ông dẫn đầu một cuộc phô trương cường quốc Mỹ, để thị oai với các nước tụt hậu, chậm tiến, đang có chiến tranh. Rồi…

                      * Ngày 16-8-1965 - Chính phủ Nguyễn Khánh chủ trương thành lập Hiến Chương Vũng Tàu. Trong nước loạn xạ bởi nhiều phe phái chính trị phản đối chính quyền đã hoạt động ráo riết. Sau đó có nhiều bất đồng ý kiến, các đảng phái, sinh viên lục đục nội bộ, nên tan đàn rẽ đám. Hội-đồng Quân-lực Cách-mạng truất phế ông Nguyễn Khánh, cho ông lưu vong ra ngoại quốc làm đại sứ.

                      * Ngày 9-5-1969 - Hạ-sĩ Henry Kissinger đi lính trong Đệ-nhị Thế-chiến, sau lên làm cố-vấn an ninh quốc gia cho Tổng-thống Richard Nixon. Về sau tiến sĩ Henry Kissinger khai mạc hoà đàm Ba Lê (không có chính phủ miền Nam hay Quân-lực miền Nam). Suốt thời gian hoà đàm dưới sự giám sát chặt chẽ của Nixon, ngoại trưởng Kissinger “ráo riết đi đêm” với quân Bắc Việt.
                      - Người dân luôn dán mắt nhìn vô ti vi trắng đen, theo dõi công ty Pecten Việt Nam (là chi nhánh của Shell) đã sản xuất khoảng 1.500 thùng dầu thô/ngày, trong giếng dầu mang tên Pioncer sâu 4.500 feet dưới lòng biển. Hoan hô đại thắng!
                      - Một phái đoàn Mỹ có tên Project Concern, và phái đoàn Thanh-Thương-Hội Việt Nam do ông Lê Bá Công làm hội trưởng, hướng dẫn phái đoàn săn sóc y tế cho đồng bào Thượng tại miền Nam Việt Nam. Phái đoàn nầy được đồng bào kính trọng và hoan hô nồng nhiệt.

                      * Ngày 27-1-1973 – Trong chương 2 điều 2 tại nhiều năm hội nghị, sau đó Hiệp định Ba Lê đã ký kết đình chiến: Ngưng bắn. Ấy thế mà vào ngày 9 Tháng Ba năm 1974 Việt-cộng câu súng 81ly vào trường Tiểu-học Nhị Quý, Cai-Lậy, Tỉnh Định Tường, giết 32 em học sinh nhỏ, và hơn 50 em học sinh khác đã bị trọng thương nằm ngồi la liệt và trầm trọng. Một số trẻ em bị chết oan, thật đau đớn vô cùng thảm thiết.
                      * * *

                      * Ngày 11 - 3 - 1975 - Mất Ba Mê Thuột. Thiếu-tướng Phạm Văn Phú, Tư-lệnh Quân-đoàn II/Quân-khu 2, ra lệnh quân đội triệt thoái khỏi Pleiku – Kontum (do chỉ thị của TT Nguyễn Văn Thiệu).
                      - Di tản miền Trung: 13 - 3 -1975. & Di tản Cao Nguyên: 14 - 3 - 1975 & 15 - 3-1975: Khánh Dương.
                      - Quân đoàn II triệt thoái: 16 - 3 -1975. * Mất các nơi: Tuy Hoà: 17 - 3 - 1975 *.- Phú Yên: 18 - 3 - 1975 *

                      * Ngày 19-3-1975 – Một Tiểu-đoàn của Trung-đoàn 43 Bộ-binh đóng chốt phòng ngự tại Định Quán, quanh vùng phụ cận núi Chứa Chan. Gia Rai, Tiểu-đoàn nầy anh dũng đánh trả đối phương rất phi thường. Khi mất Đèo Ải Vân: 21 - 3 -1975 thì ngày N+5, 21-3-1975 triệt thoái cuối cùng Lực-lượng Quân-đoàn II khỏi Cao Nguyên, trên tuyến đường Liên-tỉnh lộ B.

                      * Ngày 22-3-1975 - Tỉnh Quảng Đức thất thủ. * Ngày 23-3-1975 – Công-binh VNCH làm xong chiếc cầu dã chiến. Lực-lượng Quân-đoàn 2 cuối cùng vượt qua sông Ba, triệt thoái về Phú Yên.
                      * Ngày 25-3-1975 – Các đơn vị Quân-đoàn I/Quân-khu 1 (Việt Nam Cộng-Hoà) triệt thoái ra khỏi Huế & * Đà Nẵng: 25 - 3 - 1975.
                      - Quảng Nam: 28 -3-1975. *.- * Đêm 28 - 3 - 1975 - Lực Lượng hùng hậu của Quân-đoàn I do tướng Ngô Quang Trưởng lãnh đạo, đã triệt thoái khỏi Đà Nẵng. * Bình Định: 27 - 3 -1975 *.- Sau đó là Lâm Đồng: 29 - 3 - 1975 * Quy Nhơn: 30 - 3 - 1975 * Bình Định: 31 - 3 - 1975.

                      Hết tháng Ba. Qua đầu tháng Tư: Mất các nơi: * Nha Trang: 2 - 4 - 1975 * Phan Thiết: 3 - 4 - 1975 *

                      Các phi trường Tân Sơn Nhất. Cần Thơ. Biên Hoà, có nhiều chiến đấu cơ F 5 – oanh tạc cơ A 37. Không một ai mà không nghe đồn ầm lên là: từ Lâm Đồng dọc theo rặng trường sơn, sông La Ngà chảy từ khu Tánh Linh, qua phía nam Định Quán, Rừng Sát ra cửa biển Cần Giờ: Đang bị đe doạ trầm trọng. Người ta lại đồn máy bay oanh tạc dinh độc lập hụt hay sao đó? Bây giờ thì chuyện không nói có, chuyện có nói không. Chả ai có thể đi đâu kiểm chứng, vì mọi ngã đường đông nghịt người không thể chen chân. Nhưng than ôi! Đúng thế thật, Trung úy Nguyễn Thành Trung, quê ở Bến Tre, đã bay chiếc F5 cất cánh từ Biên Hoà về thả bom xuống dinh Độc Lập. Phi cơ mang bốn quả bom. Y thả hai quả bom trước bị rơi ra ngoài sân dinh.

                      * Việt Nam Cộng Hoà có Sư-đoàn 18 tăng cường Lữ Kỵ-binh: Sư-đoàn 5 Thiết-giáp. Các Liên-đoàn Biệt Động Quân từ Quân-khu I, chuyển về Quân-khu II để bảo vệ Xuân-Lộc, Long Khánh, Dầu Giây; do Chuẩn-tướng Lê Minh Đảo là Sư-đoàn-trưởng Sư-đoàn 18 đảm nhiệm. Từ ngày 8 - 4 đến ngày 19 - 4 ; trận đánh vô cùng ác liệt bắt đầu xảy ra giữa quân đội miền Nam Việt Nam, với Quân-đoàn 4 và Sư-đoàn 6 Chủ-lực Quân-khu 7 của Cộng-sản Bắc Việt.

                      * Từ ngày 10 - 4 - 1975 – Hai Trung-đoàn 43 và 48 (của Sư-đoàn 18 Việt Nam Cộng Hoà) và một Lữ-đoàn Dù. Lữ-đoàn 3 Kỵ-binh, từ Biên Hoà ra Xuân Lộc tiếp ứng. Giao tranh ác liệt dữ dội mạnh mẽ. Đường 12 bị cắt đứt là: Xuân Lộc > Biên Hoà. & Xuân Lộc > Bà Rịa. Cho đến ngày 20 - 4 - 1975 thì Xuân Lộc triệt thoái : 20 - 4 - 1975 * Long Khánh: 22 - 4 - 1975.

                      * Ngày 18-4-1975 - Mất thị xã Phan Thiết và toàn tỉnh Bình Thuận. Thành phần chính phủ do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lãnh đạo đã xảy ra đột biến. Mặc dù vậy tổng thống Thiệu họp báo, lên Truyền-thanh, Truyền-hình đọc hiệu triệu vấn an quốc dân đồng bào. Đài phát thanh cho nhai đi nhai lại bản tin nầy suốt cả tuần.

                      * Ngày 19-4-1975 – Bình Tuy sống trong sôi động. Giao tranh ở tuyến đường số 1, từ phía Đông và Đông-Bắc Sài Gòn, tới Trà Võ. Bàu Nâu. Gò Dầu Hạ.
                      * Ngày 20-4-1975 – Khu Rừng Lá, (cách Xuân Lộc độ 20km) coi như mất liên lạc: Bộ Tổng Tham Mưu. Sân Bay Tân Sơn Nhứt. Bộ Tư-lệnh Biệt-khu Thủ-đô. Tổng Nha Cảnh-sát, vân vân… (Thủ đô Sài Gòn có 12 Quận Nội-thành: Bình Thạnh. Phú Nhuận. Tân Bình. Gò Vấp. 6 quận ngoại thành: Hóc Môn. Củ Chi. Thủ Đức. Bình Chánh. Nhà Bè. Duyên Hải) > Đều báo động đèn đỏ 100%.
                      * Bộ Giáo Dục ra lệnh đóng cửa không thời hạn tất cả các trường: Tiểu-học. Trung-học. Đại-học trong toàn lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam.

                      * Ngày 21-4-1975 - Hằng triệu triệu người già trẻ lớn bé ở miền Nam Việt Nam chồm tới bu quanh nhìn sững vào vô tuyến truyền hình. Toàn dân lắng nghe miết mãi. Khoảng nửa giờ sau vị nguyên thủ quốc gia: Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu chính thức tuyên bố từ chức, ông trở về với quân đội Việt Nam Cộng-Hoà. Ôi! Bàng hoàng sững sốt. Vì; hằng triệu trai trẻ lính tráng, quân đội và dân tộc Nam Việt Nam (có bốn nghìn năm văn hiến quyết chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng trên chiến trường) tin vào chính phủ Nguyễn Văn Thiệu mà. Từ khi nền Đệ Nhứt Cộng Hoà sụp đỗ, thì tất cả mọi thứ trên đời, trật tự xã hội bị đảo lộn tùng phèo sao?

                      Hồi xưa, nhà bác học lẫy lừng Pierre Curie khám phá ra chất phóng xạ radium vào năm 1900. Và, trước khi ông Mc Robert Namara cho trắc nghiệm khai quang hằng loạt chất độc màu da cam (Agent Orange), để tiêu diệt cỏ, hay tiêu diệt đối phương (?!). Thì ngày nay, Tổng thống Thiệu đã lưu lại danh thiên cổ gì cho núi sông? Khi mà ông Trạng Trình đã nói: “Bắc hữu kim thành tráng. Nam hữu ngọc bích thành”. Cố mà gìn giữ Việt Nam keo sơn gắn bó.
                      Thật ra, Tổng-thống Thiệu làm tổng thống hai nhiệm kỳ, đã thành lập đảng Dân Chủ. Nhiều lần Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu lên đài truyền thanh và truyền hình mạnh mẽ đọc diễn văn; trong đó có những câu tuyệt vời bất hủ:
                      - Đừng nghe những gì Cộng-sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng-sản làm!
                      - ... Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng-sản.
                      - Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng.
                      - Đất nước còn, còn tất cả; Cộng-sản thắng, mất tất cả.
                      - Tôi mà tham nhũng, thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong ba ngày!
                      - Nếu Hoa Kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa, thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm, mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập!
                      - Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
                      - Sống không có tự do là đã chết.
                      - Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng-sản.

                      TT Nguyễn Văn Thiệu hùng hồn khẳng định tuyên bố “bốn không” rất chí lý:
                      1.- Không thừa nhận Cộng-sản.
                      2.- Không lập chính phủ liên-hiệp.
                      3.- Không trung-lập-hoá miền Nam Việt Nam.
                      4.- Không nhường một tấc đất cho Cộng-sản.

                      * - Tin đồn đã rùm beng:
                      1.- Việt Nam trung lập.
                      2.- Chính phủ Việt Nam có ba thành phần.
                      3.- Miền Nam Việt Nam bị miền Bắc “giải phóng” lan nhanh (chứ chả phải như lời Phó Tổng-thống Nguyễn Cao Kỳ hô hào: “Xung phong > Bắc Tiến”
                      - Tổng thống Thiệu đã ủng hộ chương trình “Người cày có ruộng”, rầm rộ khuyến khích nông dân, củng cố lúa Thần Nông IR 3 và AR 8. Nhờ thế kho vựa miền Nam dư thừa lúa gạo. Việt Nam sản xuất gạo đi các nước. Sau năm 1967 - do sự quậy phá của Cộng-sản Bắc Việt, nên nông dân thuộc các tỉnh miền Nam, miền Trung, Cao Nguyên, không thể cày cấy, gieo trồng nhiều. Do đó miền Nam Việt Nam bị khan hiếm lúa. Kinh tế hạn hẹp, Cộng thêm an ninh không an toàn yên ổn. Chính trị, kinh tế, tham nhũng, bè phái, bị đe doạ - khiến miền Nam suy thoái trầm trọng. Bây giờ miền Nam Việt Nam phải nhập cảng gạo và “binh khí”, xin viện trợ tiền bạc vào miền Nam Việt Nam. Là vậy!

                      * Tổng-thống Việt Nam Cộng-Hoà Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Phó Tổng-thống Trần Văn Hương lên thay thế! Thành phần nội-các do cụ Trần Văn Hương đảm nhận được mấy ngày vắn vỏi.
                      - Ngày 22-4-1975 – Đường quốc lộ 4 nối liền Sài Gòn > Cần Thơ. Các hướng Tây Bắc. Đông Đông Bắc. Đông Đông Nam. Tây Tây Nam bị cô lập với Sài Gòn.

                      * Thứ Tư, ngày 23-4-1975 - Đô Đốc Noel Gayler Chỉ-huy-trưởng Hạm-đội Thái Bình Dương, đã lập cầu không vận Sài Gòn > Đệ Thất Hạm Đội (trong chương trình di tản người Mỹ và người Việt Nam ra đi), đang đậu ngoài khơi Vũng Tàu, người ta nghe & phao tin sẽ di tản khoảng vài trăm ngàn người Hoa Kỳ và người Việt Nam. (!?)

                      Bảy Ngày Đen Tối Nhất: * Thứ Sáu, ngày 25-4-1975

                      Đêm 24 - 4 - 1975 – Khói lửa bạo tàn đã gây đau khổ quá sức, hằng triệu dân đen lầm than khốn đốn, cơ cực. Miền Nam Việt Nam dỡ sống tức tưởi, dỡ chết không kịp nhắm mắt, không thể há miệng than Trời! Chắc chắn là chính phủ Nguyễn Văn Thiệu & thành phần nội-các đều nghe bùi tai; khi tướng cố vấn Lục-quân Mỹ Weyand gián tiếp khuyên chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Quân-đội miền Nam Việt Nam -bằng mọi giá phải tử thủ!- Toàn thể nam nữ thanh niên trai trẻ, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã vâng lời, họ ở lại giữ gìn từng pháo đài bị vây hãm, giành lại từng tấc đất quê hương ta, quyết phục vụ dân tộc và tử thủ vì dân tộc Việt Nam!

                      Thì, tin đồn chuyện Tổng-thống Thiệu bỏ rơi dân tộc, bỏ quê hương đất nước, chỉ là tin đồn nhảm nhí! Khi chung cuộc kết thúc trong bi thương thế ấy, ai nở ra đi -phản bội dân tộc-, ai lìa bỏ quê hương cẩm tú giàu đẹp sao? Ai đành cao chạy xa bay mưu tìm cho chính mình sự sống riêng, phủi tay trong thau men nước người- cho đành?! Nơi chốn xa lạ đó, ai có dịp lắng nghe tiếng nói của hiền dân vô tội gào than kêu khóc? Ai tận mắt xem đồng bào đau thương bị cấp lãnh đạo bỏ rơi, dân đang sống quằn quại trong cơn lốc chính trị kinh hoàng vỡ vụn? Toàn dân sẽ chết thảm dưới cơn sóng thần cuồng phong bão táp dữ dội nhất lịch sử Việt Nam nầy. Họ làm sao đành đoạn phủi tay bỏ lại quê hương và dân tộc cho đành?!

                      – Sáng sớm bạn Tonny Tơh từ Hạ Nghị Viện tất tả chạy về nhà, đã khẳng định với chúng tôi về việc Tổng-thống Thiệu và đoàn tùy tùng thân tín đã "bôn tẩu bỏ nước ra đi"!!! Người ta lại đồn ầm lên là ông Thiệu chở theo mấy chục tấn vàng của quốc gia (?!). Làm sao cõng cho nỗi hỉ?! Chuyện ấy rất khó tin, không bao giờ tin! Bỏ của chạy lấy người, "may ra còn kịp... sống". Chúng tôi dám khẳng định một điều chuyện "chở theo vàng" là láo khoét. [(1), mời xem trích dẫn thêm dưới bài viết nầy)]
                      Nhưng... khuya Thứ Sáu, ngày 25-4-1975 đương kim Tổng-thống Trần Văn Hương lên đài Truyền-thanh Truyền-hình chính thức xác nhận, ông tuyên bố:
                      - “Gia đình Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu, và một số thân tín trong chính quyền đương thời đã chính thức rời khỏi Việt Nam, bay đi ngoại quốc ngày 24-4-1975”.

                      Ôi! Sự đau đớn ấy có thật ở phi trường Tân Sơn Nhứt là: Tướng Timmes, Đại-sứ Martin, một số đoàn tùy tùng đông đảo “viên chức lừng danh cao cấp nhất” của chính phủ miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đang làm cuộc “tẩu tướng”. Họ nôn nao lo âu đứng xớ rớ ở đó từ rất lâu, chờ đợi sẵn sàng -để dọt đi. Một chiếc xe Mercedes chở ông Nguyễn Văn Thiệu từ bến Bạch Đằng, chạy nhanh vào phi trường Tân Sơn Nhứt lúc 21 giờ 30 đêm 24 tháng 4 năm 1975. Chung quanh “các ngài” có đông đúc thân tín nôn nao "ung dung" ra đi, có lính Thủy-quân Lục-chiến Mỹ đứng dàn ngang dàn dọc bu quanh, để bảo vệ phái đoàn “các ngài” tống lên chiếc phi cơ C-118 lịch sử của Không-quân Hoa Kỳ. Ông Thiệu, Tướng Khiêm và đoàn tùy tùng lẹ làng tót lên máy bay, không hề ngoảnh lại. Hỡi Ôi! là Trời ơi Đất ơi!!!

                      * Thứ Bảy, ngày 26-4-1975 – Ông Khiêu Samphan dẫn một phái đoàn Trung Quốc từ Mimót Nam Vang, đi qua ngả Xa Cam. Tại đó có một Đại-tá Không-quân người Pháp, một Thiếu-tá Pháp, {họ trực thuộc Nha An Ninh Tình-báo hải ngoại Pháp (SDECE)}. Họ đưa phái đoàn Trung Quốc nầy vào ở trong toà Đại-sứ Pháp tại Sài Gòn (!?)

                      Mất thật rồi các nơi:
                      * Vẫn ngày 26-4-1975 - Bão lửa chiến tranh xâm lược đã ùa vào xâm chiếm các khu sau đây: Long Khánh từ hướng Đông-Bắc đi Sài Gòn xa khoảng 80km. Long Khánh nằm giữa hai quốc lộ: 1 và 20- 105 kinh độ đông- 11 vĩ độ bắc, ở múi giờ 17 GMT – Giáp giới mặt Đông hướng Đông Đông Nam về Sài Gòn. Long Khánh có đỉnh núi Gia Ray cao 916 mét, là tấm bình phong che chắn thuận lợi cho toàn vùng. Muốn đi từ miền Cao Nguyên, hay từ miền Trung vào Sài Gòn xuống miền Tây, tất cả loại xe đều phải đi ngang qua vùng Long Khánh.

                      * Sông Ray từ phía Nam của núi Gia Ray có đường đi qua Xuyên Mộc. Trảng Bom. Hố Nai. Biên Hoà. Long Thành. Nước Trong. Đức Thạnh (Bà Rịa). Lang qua vùng Phước Tuy. Xuyên Mộc. Đất Đỏ. Về hướng Tây Tây Nam > Bến Lức. Tân An. Trung Lương. Tân Hiệp. Long Định. Giao lộ 4. Cai Lậy đi An Hữu. Xuống tới Lộc Giang. Vàm Cỏ Đông qua Tây Vĩnh Lộc. Mỹ Hạnh. Hướng Bắc thì các đoạn đường 16 Phú Lợi. Thủ Dầu Một. Tây Bắc về Đồng Dù. Hóc Môn. Bình Dương, Long An: 25 - 4 - 1975 – Bà Rịa: 26 - 4 - 1975.

                      * Bắt đầu từ ngày Chủ Nhật 27 - 4 - 1975 đến hết ngày 29 - 4 - 1975, * Tân Cảng – Sài Gòn : người ta rỉ tai nhau lo tìm đường thoát thân "đào tẩu" ra khỏi Sải Gòn. * ngày 27-4-1975 - Bà Rịa. Phước Tuy. Nước Trong. Trảng Bom. Suối Đĩa. Cầu Rạch Chiếc. Rạch Cát. Cầu Bình Phước. Quán Tre lan ra tận xa lộ Đại Hàn.

                      * Vẫn ngày 27-04-1975 – Người ta bịa đặt ra: Caritas. Usaid. Usom. Juspao. Cords. The Asia Foundation. IUS, chỉ là những thành phần ấy vào cầm đầu trá hình vô miền Nam Việt Nam do CIA. Nay họ lo đóng cửa và chuồn bay đi hết rồi! Tất cả mọi liên lạc trong nội thành Sài Gòn với ngoại thành, đi các Tỉnh, hầu như tê liệt, trục giao thông chính dẫn đến phi trường, hải cảng, các bến xe miền Đông, miền Tây, miền Trung, hoàn toàn ứ đọng và “bế quang tắc lộ”. Chao! Lúc đó thì người người tụm trăm tụm ngàn ở các nẽo đường chính, để nghe ngóng thăm dò tin tức. Toàn là những giả thiết, những tin đồn gây hoang mang. Người ta nhốn nháo, ồn cả lên, chèn ép nhau, xô đẩy nhau mong tìm đường chạy thoát thân, mong khỏi bị trụ lại nơi thành phố đông nghẹt người, từ các nơi dồn về Thủ-đô Sài Gòn hối hả, ngột ngạt, nghẹt hơi. Mọi tiếng động đều đinh tai nhức óc nổi hoài thâu đêm suốt sáng, không bao giờ ngưng. Người ta muốn điên vì đủ thứ chuyện thay đổi liên tục xảy ra từng giờ trên tivi, tin đã xấu càng xấu thảm xấu tệ biết bao! Toàn là những tin chả lạc quan vui vẻ gì!

                      * Thứ Hai, 28-4-1975 – Sân bay Tân Sơn Nhứt to lớn đồ sộ sầm uất nhất miền Nam Việt Nam đến thế, có F5, hoặc A 15, A 37, C 130. Mà nay chỉ còn có một số ít bom Daisy Cutters, và những phi cơ dân sự thường dùng trong nội địa, có phi cơ dân sự cũ từ thời Pháp để lại dùng bay ra ngoại quốc (không kể những phi cơ quân sự hiện có).

                      * Ngày 28-4-1975 Phi công Nguyễn Thành Trung (y thả bom hai lần, lần đầu y thả ở dinh Độc lập bằng F5, y cất cánh từ phi trường Biên Hoà). Lần sau vào chiều 28/04/1975: Một tốp phi cơ Dragonfly A 37 (phi đội Quyết Thắng) do phi công Nguyễn Thành Trung & Nguyễn Văn Lục dẫn đường, ép Trần Văn On & Nguyễn Văn Xanh bay cùng mấy tên “giặc lái” Từ Đề, Mai Vượng, Hán Văn Quang, họ xuất phát từ phi trường Phan Rang bay về thả bom ở phi trường Tân Sơn Nhứt. Nhiều tiếng nổ long trời lở đất đâu đó vang rền, khói lửa ngùn ngụt bốc cháy, đen nghịt thành phố.

                      * Ngày 28-04-1975 – Tổng thống Trần Văn Hương lên nắm chính quyền quốc gia Việt Nam được (7) bảy ngày ; thì tuyên bố rút lui. Theo yêu cầu của Lưỡng-viện Quốc-hội Việt Nam Cộng-Hoà, cụ Trần Văn Hương sữa “hiến pháp, hiến dâng” chức “tổng thống không dân cử” cho Đại-tướng Dương Văn Minh. Chả hiểu sao cụ Hương tụt lẹ xuống, nhường cho ông tướng Dương Văn Minh trồi lên nắm chính quyền nhanh như chớp!? Việt Nam như quả bóng tròn, khi thì đá dưới gót chân, khi đội đầu, khi quay giò lái đá qua đá lại rồi “sút” bóng lăn xuống vũng bùn. Một chính phủ sắp đến ngày diệt vong rồi hay sao, mà suy tàn đến độ xót xa thảm thiết tột cùng!

                      Làm gì… thì cần ngồi lại thân thiện bên nhau, và chia sẻ mọi quyền lực. Cần một lòng trung dũng đoàn kết vì nước vì dân. Thì toàn dân và toàn quân sẽ đứng vững như kiềng ba chân. Miền Nam Việt Nam sẽ không bị sụp đỗ toàn diện đâu. Lúc nầy Tổng thống Dương Văn Minh nói rất hùng hồn:
                      - “Không bao giờ đưa miền Nam Việt Nam cho Việt-cộng”.
                      Câu nói thiệt là "ăn tiền hốt bạc".

                      * Thứ Ba, Ngày 29 - 04 - 1975 – Tổng-thống Dương Văn Minh ra lệnh trục xuất những người Mỹ cuối cùng phải đi ra khỏi đất nước Việt Nam. Chính lúc đó mất thật rồi: Nhơn Trạch. Thành Tuy Hạ. Cát Lái. Cầu Sông Buông. Long Bình. Biên Hoà. Phú Lợi. Lai Khê. Bến Cát. Bình Dương. Tân Uyên. Lái Thiêu. Gò Vấp. Hướng Tây Bắc: Đồng Dù. Củ Chi. Hướng Tây Tây Nam: Hậu Nghĩa. Tân Túc. Tân Hoà. Phú Lâm.

                      Tin tức mỗi ngày mỗi giờ một xấu hẳn đi. Thế là trong thành phố Sài Gòn vốn dĩ ồn ào náo nhiệt, bon chen sợ hãi, càng tăng thêm nhốn nháo, xôn xao, xớn rớn hãi hùng hơn. Sài Gòn chìm trong biển tình đau thương tràn ngập mịt mùng. Sài Gòn như rắn mất đầu, người người xớn rớn ồn ào như núi lở, như động đất, như triều cường sóng thần vùi dập. Sài Gòn đã mất đi vẽ hào nhoáng thanh lịch sang trọng xa hoa của hòn ngọc viễn đông xưa. Thành phố ấy giờ đây ồn ào náo nhiệt hỗn loạn, bụi bặm và rác rưỡi ụ từng đống to tướng. Sài Gòn càng hổn loạn, hoang mang lo sợ bùng lên dữ dội. Nhất là những gia đình giàu sang quyền qúy ở Sài Gòn, cư dân gốc Trung Hoa đã và đang sinh sống ở Chợ Lớn hãi hùng huyên náo loạn cả lên.

                      Lúc xưa hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc dội bom đã cháy Dinh Độc Lập, (vào tháng 2 năm l962), làm hư hại dinh. Tổng-Thống Ngô Đình Diệm cho xây lại dinh Độc Lập. Gia đình Ngô Tổng Thống phải dời sang dinh Gia Long an vị, chờ kiến thiết lại. Bản vẽ Dinh Độc Lập do đồ án của kiến trúc sư đô thị gia Ngô Viết Thụ (đoạt giải Khôi Nguyên La Mã) đảm nhiệm. Theo thiết đồ của Kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, thì có hai vị Công-binh chính là: Đại-tá Nguyễn Văn Quý, Đại-tá Điển điều động một đoàn Công-binh Việt Nam xây dựng. Sau đó hoàn tất tốt đẹp. Tiền đình dinh Độc Lập có quảng trường Pigneau De Béhaine, có đại lộ rộng thênh thang rợp bóng cây, có tượng Đức Mẹ ngự ở trước công viên Hoà Bình làm bằng đá hoa trắc.

                      Thuở còn Tây cai trị nước ta, con đường có tên là Norodom chạy từ dinh Độc Lập suốt tới khu Thảo Cầm Viên. Trong đó có Viện Bảo Tàng tên gọi là Blanchard de la Bross, do Pháp xây dựng năm 1929. Ấy thế mà… Hết rồi vẽ sạch sẽ bóng loáng thanh lịch cao sang rộng rãi trên những phố Catina, đại lộ sang trọng Norodom xa xưa, nào là đường Công Lý, Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt. Trần Hưng Đạo. Hai Bà Trưng, Nguyễn Huệ, vân vân… thậm chí cả đường Duy Tân cây dài bóng mát đang có từng tốp mười tốp hai ba trăm người tụ tập lo lắng, bồn chồn xôn xao, hốc hác, băn khoăn đứng ngồi không yên, kể từ khi phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích.

                      * Ngày Thứ Tư hắc ám 30 tháng 4 đen tối năm 1975.
                      Sài Gòn nóng như một hoả lò. Càng ghê rợn hơn, tin từ đài phát thanh Sài Gòn loan báo kể từ giờ phút nầy: Thiết quân luật 24/24. Tình hình thủ đô Sài Gòn từ sáng tinh mơ vắng lặng như tờ, không giống một thành phố chết, là gì!? Cho đến ngày hãi-hùng. Ngày đớn-hèn bi thảm. Ngày tối đen hắc-ám nhất lịch sử Việt Nam, ngày đánh dấu than trầm-uất, thống-hận:
                      *.- 8 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Sáng sớm, Tổng-thống Dương Văn Minh lên Truyền-thanh Truyền-hình ra lệnh buộc các tuyến phòng thủ của Lữ-đoàn Liên-binh Phòng-vệ Phủ Tổng-thống không được nổ súng.
                      *.- 9 giờ:00 ngày 30-4-1975 - Ông Dương Văn Minh đọc diễn văn trên đài Truyền-thanh: Yêu cầu toà Đại sứ Mỹ và văn phòng tùy viên DAO Hoa Kỳ, phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức.
                      *.- 10 giờ:00 ngày 30-4-1975: Ông Dương Văn Minh leo lên làm "tổng thống" được ba ngày! (3), ông liền “mở cửa khẩu” kêu gọi Quân-lực Việt Nam Cộng Hoà:
                      - “Ở đâu, hãy giữ nguyên vị trí ở đó”.
                      - “Ngưng chiến".
                      - Chờ bàn giao chính quyền miền Nam Việt Nam cho lực lượng Mặt Trận Giải Phóng vào chiếm”.
                      “Chuẩn bị giao nạp vũ khí cho đối phương”

                      * Ngày 30 tháng 4 năm 1975 - Khi Trịnh Công Sơn hát lui hát tới bài “Nối Vòng Tay Lớn”, không có nhạc đệm trên đài phát thanh Sài Gòn. Không những là ngày uất hận “nối vòng tay tang chế lớn”, mà còn là ngày co giật từng cơn run kinh phong nhăn nhúm rúm ró teo tóp lại. Ôi! Quả đúng là có một phép lạ như điềm dự báo trước kia, khi con chim bồ câu đã đậu trên bàn thờ Đức Mẹ Fatima, ở trên khu vực giáo dân Đà Lạt, nơi thường cung nghinh rước ảnh tượng Đức Mẹ đến từng nóc nhà vào đầu năm 1974. Thì người ta nói:
                      - “Con chim bồ câu tượng trưng cho sự hoà bình”.
                      Nay “hoà bình” đã đến thật rồi sao?!

                      Dinh Độc Lập, vương cung Đức Bà và con đường Norodom độc đáo nầy, ấy vậy mà hôm nay đã do tướng Trần Văn Trà cầm đầu mặt trận Cách-mạng Lâm-thời 75 (!) tại Sài Gòn, cùng đoàn xe molotova rền rú ì ầm chạy đến cổng dinh cổng dinh Độc Lập lúc 11 giờ sáng. Khi ấy đại sứ Pháp tại Việt Nam là Jean Marie Mérilon, còn ở trong toà đại sứ ở trên "con đường có tên Thống Nhứt”; (thống nhứt! Ui trời! Chao ôi! Sụp đỗ toàn diện một chế độ). Bàng hoàng cả một dân tộc Việt Nam.

                      Chiến tranh -hai miền Nam Bắc- đưa con người bải hoải lết lết tới đường cùng cuối bờ vực sâu. Khi có những chiếc xe tăng ì ầm chạy trên các đại lộ chính, chở đầy bộ đội đầu đội nón cối, chân mang dép râu, cổ quàng khăn lau mặt, thân hình dắt đầy cành cây. Đoàn xe vượt qua... cán nát- chôn vùi nền Đệ Nhị Cộng Hòa do Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu bôn tẩu lánh cư, do cụ Trần Văn Hương lãnh đạo bảy ngày, cuối cùng trao cho "ông Tổng-thống" (không hề có dân cử) - ông Dương Văn Minh ngồi trên ngai vàng lãnh đạo miền Nam Việt Nam vỏn vẹn chỉ có ba ngày!!!

                      - Quân Bắc Việt được sự hổ trợ tối đa của Nga và Tàu-cộng cung cấp đầy đủ đạn dược, súng ống và xe tăng.
                      - Trong khi miền Nam Việt Nam bị Mỹ hứa lèo hứa cuội, rồi trở mặt lừa lọc phản bội, lãnh đạm bỏ rơi. Mỹ từ chối hết thảy, kể cả chính phủ miền Nam chỉ xin chi viện 300 triệu đồng. Cũng không! Toàn Quân miền Nam thiếu thốn đủ mọi thứ. Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa phải tự anh hùng oai dũng kiên cường chiến đấu, quyết liệt chống trả đến viên đạn cuối cùng, trong sự cô độc, vô cùng đắng cay chua xót và tuyệt vọng dường bao!!! Những Người Lính dũng cảm ấy chưa hề buông súng bỏ cuộc, họ không hề thua cuộc chiến, (hoạ chăng do... "sẩy thua cuộc cờ"...) Họ không bao giờ phản bội dân tộc và cương quyết ở lại giữ gìn quê hương Việt Nam dấu yêu -đến giờ phút cuối cùng-.

                      Cho đến ngày Thứ Tư: 30-04-1975: Họ phải cúi gầm đầu -bật khóc- ; vì buộc lòng phải tuân phục thượng-lệnh. Đời sống ấy phơi bày cuốn phim cay nghiệt, có cảnh-tượng kém thanh-lịch, bóc trần những điều quá thật, làm tan nát đời nhau. Chẳng bao giờ xóa nhòa, tàn phai trong ký-ức mọi người. Tan hoang kinh khủng. Đau đớn tột độ!
                      “Hạnh phúc Hòa Bình” đến, vội-vã chợt đi... ; giật theo tấm áo đơn bạc. Lộ ra quá-khứ trần trụi. Hiện tại đọa-đày, tương lai đen tối mịt mù.
                      Vẫn hay, vô cùng nghẹn ngào cay đắng!!! Thiệt đúng là "bách niên thương hải biến vi tang điền"!
                      ***

                      Tình HOÀI HƯƠNG


                      (2) - Nguồn TỪ > Wikipedia, & THH sưu tầm đó đây.

                      - "Bách niên thương hải biến vi tang điền" là câu gồm 8 chữ, không phải là thơ Đường Luật, có thể là loại thơ Cổ Phong, nghĩa là thơ Cổ trước khi có thơ Luật của Đời Đường ra đời. Cổ Phong có thể gồm thơ 3 chữ, 5 chữ, 6 và 8, không theo Luật Thi. Thơ Đường Luật thường gồm thơ 5 chữ và thơ 7 chữ theo Luật Bằng Trắc và Đối Ngẫu.

                      Bốn cuốn sách tham khảo gồm: Tự Điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh.
                      1. Tự điển Từ, & Ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân.
                      2. Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của GS Trịnh Văn Thanh.
                      3. Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang.

                      4. Theo cuốn Tự Điển Truyện Kiều (trang 68) & cuốn Tự Điển Từ & Ngữ VN (trang 1797) thì đa phần giống nhau trong sự giải thích: "Thương hải biến vi tang điền, mà viết tắt là 'Thương hải tang điền" nghĩa đen là "Biển xanh biến thành ruộng dâu", nghĩa bóng là những cuộc thay đổi lớn lao. Nhưng không ghi xuất xứ điển này từ đâu ra.

                      *5.- Theo cuốn Nguyễn Du Toàn Tập Quyển 1 Thơ quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang thì điển Thương Hải Tang Điền, xuất xứ từ Thần Tiên Truyện vào thời Đông Hán. Tiên nhân Vương Phương Bình xưa đỗ Hiếu Liêm, làm quan chức Trung Tán Đại Phu, rồi bỏ quan đi tu tiên đắc đạo, giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán), cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô bảo Phương Bình rằng: "Tiếp thị dĩ lai, dĩ kiến Đông Hải tam vi tang điền." Nghĩa là: "Từ khi được tiếp hầu ông đến nay, tôi thấy bể Đông đã ba lần biến thành ruộng dâu."

                      6.- Cuốn Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh nói giống như cuốn Thơ Quốc Âm Truyện Kiều của Nguyễn Thạch Giang, nhưng đơn giản hơn một chút. (*)
                      *
                      Tình Hoài Hương

                      [(1), mời xem trích dẫn thêm dưới bài viết nầy)] Trích dẫn nguyên văn từ Facebook Quoc Gia Nguyen

                      Quoc Gia Nguyen
                      April 5 at 6:08am ·
                      - Ngu ngốc & hèn hạ -
                      Nguyễn Văn Hảo sinh năm 1942, là người được học hành đến nơi đến chốn từ trường ta cho tới trường Tây. Hắn có bằng cấp Tiến Sĩ Kinh Tế từ thập niên 1960.
                      Với trình độ học vấn như vậy, Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo đã được Chánh Phủ mời ra nắm giữ những chức vụ quan trọng như Thống Đốc Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam - Tổng Trưởng Bộ Canh Nông và Kỹ Nghệ, cuối cùng đến năm 1974 thì được cử giữ chức Phó Thủ Tướng.
                      Thời làm Thống Đốc NHQGVN, hắn biết rõ ngoài ngoại tệ và giấy bạc nội tệ thì thứ có giá trị lớn nhất được cất giữ trong tầng hầm của Ngân Hàng chính là số vàng dự trữ lên tới 16 tấn gồm hơn 1.200 thỏi, mỗi thỏi nặng 13 kg.
                      Đây chính là tài sản quốc gia hay chính xác hơn là tài sản của toàn thể người dân miền Nam đã đổ mồ hôi và cả máu qua nhiều thế hệ mới tích trữ được.
                      Ngày 29/4/1975 khi Cộng Sản Bắc Việt đã áp sát Thủ Đô, tàu Việt Nam Thương Tín chuẩn bị rời Bến Bạch Đằng, Dương Văn Minh cho lệnh đem tất cả số vàng này xuống tàu đưa ra ngoại quốc.
                      Hảo biết được chuyện đó liền chạy đến Ngân Hàng túc trực và cản trở không cho nhân viên thừa hành đụng tới số vàng này với lý do muốn đưa tài sản quốc gia ra khỏi đất nước thì phải được lưỡng viện Quốc Hội chuẩn thuận.
                      Hắn thừa biết trong tình cảnh rối ren hỗn loạn như vậy thì việc đó là không thể.
                      12g 30 trưa ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh và toàn bộ nội các bị giam lỏng trong Dinh Độc Lập thì Hảo đến xưng tên tuổi, chức vụ và xin lính Cộng Sản gác cổng cho hắn vào để "báo một việc quan trọng". Sau khi vào trong, hắn nói với Dương Văn Minh về số vàng còn giữ lại nhưng ông ta tỏ vẻ không quan tâm làm Hảo mất hứng.
                      Đến ngày 2/5, Cộng Sản thả tất cả mọi người ra khỏi Dinh thì Hảo nài nỉ xin được ở lại để "gặp lãnh đạo Ủy Ban Quân Quản vì có việc quan trọng cần báo cáo". Khi Trần Văn Trà đồng ý gặp, hắn đã dâng số vàng của quốc gia và người dân Việt Nam Cộng Hòa cho giặc để tâng công.
                      Không được xơ múi gì từ bọn cướp, năm 1982 hắn lủi thủi đi Pháp định cư và suốt bao nhiêu năm, để mặc những lời chửi bới, nghi oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Hảo ngậm tăm không dám nói ra sự thật..
                      Thằng Tiến Sĩ - Phó Thủ Tướng khốn nạn !

                      (hình ông Nguyễn Văn Hảo)
                      Last edited by Tinh Hoai Huong; 04-27-2018, 03:38 AM.
                      Bút trần nào tả được lưu luyến!
                      Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                      Tình Hoài Hương

                      Comment


                      • Cố Thiếu Tá Không Quân: TRƯƠNG PHÙNG

                        Cố Thiếu Tá Không Quân: TRƯƠNG PHÙNG
                        (tưởng niệm 43 năm Thiếu Tá KQ TRƯƠNG PHÙNG: 29/4/1975 -> 29/4/2018)
                        ***


                        Chiều ngày 28/4/1975 - khoảng 5:45’ trong phi vụ hộ tống Trung-tá Nguyễn Văn Mạnh SĐ3 KQ và toán chuyên viên Vũ-khí & Đạn-dược đặt chất nổ, để phá hủy các cơ sở của Bộ Chỉ Huy Kỹ-Thuật & Tiếp-vận KQ (Biên–Hoà). Tôi, (Trần Văn Phúc) và Trung-úy Nguyễn Thành Bá, bay từ Dốc Sỏi ngang qua Cầu Mới Biên Hòa. Tôi vừa quẹo trái từ hướng Tây sang hướng Đông, đột nhiên tôi thấy bốn chiếc A37 với đầy đủ bom đạn trong một đội hình dị thường; nghĩa là không giống ai, phi diễn không ra phi diễn, chiến đấu không ra chiến đấu, phi cơ đang từ hướng Đông Bắc lao tới cùng một cao độ với chúng tôi. Tôi cứ lầm tưởng là phi cơ của các phi đoàn bạn đang bay hành quân (từ miền Trung di tản về Tân Sơn Nhứt tháng trước), nên tôi vội vã kéo cần lái, cho phi cơ mình bốc vọt lên cao, để tránh hai bên đụng nhau trong gang tấc. Đồng thời tôi hét trong vô tuyến để lưu ý anh Bá, (bay chiếc số 2 theo tôi trong đội hình chiến đấu):
                        - Hai theo một! Coi chừng bốn A37 hướng 10 giờ!

                        Rồi tôi bay đảo lại và nhìn theo bốn chiếc A37 bay xa dần, tôi ngạc nhiên, thông thường một phi tuần khu trục đi bay hành quân chỉ có hai chiếc, hôm nay là ngoại lệ, đặc biệt vì có tới bốn chiếc. Tôi nói tiếp với Bá:
                        - Giờ nầy mà mấy thằng "ma gà" A37 còn mang bom đạn đi lang thang kìa!
                        Chúng tôi đã suýt đụng nhau với chúng nó trên sông Đồng Nai, mà không thể nào ngờ đó là bọn phản tặc! Trời lúc đó vẫn còn sáng tỏ, tôi chúi mũi cho phi cơ xuống thấp, bay dọc theo quốc lộ 1 đến Thủ Đức, tôi quẹo trái theo xa lộ Biên Hòa đến Long Bình rồi về Biên Hòa đọc theo Quốc Lộ 1. Nhìn xuống dưới, tôi thấy dọc suốt lề đường có rất nhiều xe thiết giáp đậu cách nhau từng trăm thước một. Muốn khích lệ tinh thần cho các chiến hữu Bộ Binh, nên tôi bay rất thấp, vì vậy khi bọn phản tặc dội bom ở Tân Sơn Nhứt, tôi đã không trông thấy. Nếu tôi bay ở cao độ 5.000 bộ, chắc chắn tôi sẽ thấy những cột khói đen bốc lên từ Tân Sơn Nhứt (TSN). Chừng 20 phút sau, Chuẩn-tướng Huỳnh Bá Tính Sư–Đoàn-Trưởng SĐ3KQ báo cho chúng tôi biết:
                        - Có một phi tuần ba chiếc A37 vừa dội bom Tân Sơn Nhứt!
                        Tôi điếng hồn nghĩ ngay đến phi tuần A37 mà mình vừa gặp, nên tôi “chỉnh“ lại ông trên tần số:

                        - Như vậy phải là bốn chiếc A37, vì chúng tôi đã gặp bọn chúng cách đây không lâu! (mãi về sau nầy, khi tôi kiểm chứng với nhà nghiên cứu sử Nguyễn Hùng Kiệt, anh đã xác nhận: phi tuần của đám phản tặc nầy có tất cả bốn chiếc A-37, nhưng không biết vì lý do gì chỉ có ba chiếc dội bom Tân Sơn Nhứt mà thôi !?). Vào thời điểm Tân Sơn Nhứt bị dội bom, chiếc trực thăng của Tướng Tính chuẩn bị đáp xuống TSN, nên ông đã chứng kiến toàn bộ sự việc. Đối chiếu với thông tin của sử gia Nguyễn Hùng Kiệt, cả hai người (Tướng Tính & tôi) đều nói đúng sự thật!
                        Chúng tôi vội vã bay trở về Tân Sơn Nhứt, thì bọn phản tặc đã chuồn đi mất tăm biệt tích. Khi bay trên không phận TSN, Đài Kiểm-soát Không-lưu (Sài Gòn Control Tower) báo cho chúng tôi biết: “phi trường chỉ bị thiệt hại nhẹ. Vài chiếc C-47 bị trúng bom (một chiếc gần phi đạo đang cháy như chúng tôi thấy), vài cơ sở bị hư hại như hậu trạm cũ, nơi trước đây chứa các phi cơ A-1, mới vừa dời về khu Tây lúc 1 giờ trưa, cạnh bãi đậu của A-37. Nhưng thật may mắn hai phi đạo không hề bị trúng bom”.

                        Sau mấy vòng bay quanh Tân Sơn Nhứt, chúng tôi biết chắc chắn phi trường và nhất là hai phi đạo vẫn an toàn, không cần thiết phải bay đi Cần Thơ. Nên tôi yên tâm bay trở lại Biên Hòa, để tiếp tục thi hành phi vụ hộ tống Trung-Tá Mạnh và toán chuyên viên vũ khí. Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ hộ tống Trung-tá Mạnh qua khỏi cầu Bình Triệu an toàn, chúng tôi mang đầy đủ bom đạn về hạ cánh lúc 8 giờ tối. Tôi gặp các anh bay F5 ; họ cho biết là:
                        - Đang chờ lệnh đi ném bom trả đũa ở phi trường Phan Rang.
                        …Nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra -không biết vì lý do gì- !? Tôi thấy nhiều anh em trong Tân Sơn Nhứt có phần giao động tinh thần, vì cuộc dội bom vừa qua. Do Radar không thể phát hiện nếu bọn phản tặc bay thấp như lần vừa rồi, nên nhiều người lo sợ chẳng biết có thêm lần dội bom kế tiếp nào nữa hay không? …Khi trở vào biệt đội khu trục lúc nửa đêm, tôi thấy các anh em thuộc PĐ 514 và 518 đang nằm sắp lớp như cá mòi ngay trên nền nhà. Tôi lặng lẽ nằm xuống một chỗ trống còn lại bên cạnh cái điện thoại dã chiến mới vừa móc dây.

                        Tôi nằm đó, nghiêng qua trở lại rất lâu, không thể nào ngủ được, vì trong lòng ngổn ngang những tiếc nuối & hối hận, cắn rứt tim tôi: khi nhớ lại cơ hội ngàn năm có một. Tôi vô tình để nó trượt thoát khỏi tay, tiếc thay! lúc ban chiều tôi đã không bấm cò đại bác bắn thẳng vào lũ phản tặc A37. (Sau nầy, khi biết tên Nguyễn Thành Trung chính là kẻ đã “rước giặc vào nhà“, bay dẫn đường cho đám phản tặc A37 đó, tôi lại càng hối hận & tiếc nuối nhiều hơn nữa!).

                        Quá mệt mỏi tinh thần và rã rời thân thể, tôi vừa chợp mắt tí xíu, đã phải choàng tỉnh ngay lập tức, vì những tiếng nổ vang trời. Phi trường bị pháo kích! Hàng loạt hỏa tiễn 122ly điên loạn lao xuống rít xé bầu trời, nổ tung lên cùng khắp trong căn cứ & phi trường TSN, nơi đang tập trung dày đặc những quân nhân KQ, và gia đình của họ mới vừa đổ dồn từ ngoài vùng I, vùng II di tản về. Điện bị cúp. Nhưng cho dù điện không cúp, thì tất cả vẫn chìm trong bóng tối như địa ngục, vì sức ép nổ của những quả hỏa tiễn rơi quá gần, làm vỡ tung những bóng đèn trong biệt đội khu trục chúng tôi... Thật là may mắn đến kỳ lạ khi mọi người đang nằm sát nhau dưới nền nhà đều bình an vô sự!

                        Điện thoại reo! Do nằm sát gần điện thoại, tôi bốc máy lên nghe, và chuyển lệnh điều động cất cánh khẩn cấp đến Thiếu-tá Lê Văn Sang, Trưởng Phòng Hành Quân PĐ Phi Long 518. Trong bóng tối dày đặc, không nhìn thấy mặt bất cứ ai, mà chỉ nghe tiếng nói của tôi vừa chuyển lệnh. Thiếu-Tá Sang hỏi luôn:
                        - Phúc đó hả, Phúc đi bay được không?

                        Theo đúng Huấn Thị Khu Trục, tôi vừa mới bay xong phi vụ yểm trợ rút quân hồi đầu hôm, nên tôi có quyền từ chối đề nghị này của Thiếu-Tá Sang. Nhưng hình như cái “mặc cảm tội lỗi “của tôi, (vì thiếu cảnh giác, đã để bọn phản tặc A37 vượt thoát) đang chờ có một cơ hội “chuộc lại lỗi lầm“, tôi đã bật lên tiếng nói:
                        - Đương nhiên là được, nhưng wingman (phi tuần viên) là ai?
                        Chưa có ai kịp lên tiếng, thì từ trong bóng tối cuối phòng, tiếng Thiếu Tá Trương Phùng vang lên:
                        - Trâu đạp cũng chết, chó đạp cũng chết. Tao đi với mi, xem coi có chết thằng Tây nào không!?

                        Phi trường đang bị pháo kích dữ dội, nên lúc đó không có xe đưa đón Phi Hành Đoàn. Không thể chậm trễ, anh Phùng gọi tôi leo lên chiếc xe Jeep dân sự. Anh Phùng lái xe như bay phóng ra khỏi bãi đậu, nhìn anh lái xe vun vút như bay, tôi thầm cảm phục người đàn anh gan lỳ, quả cảm, người hùng của mặt trận Quảng Trị 1972 với chiến tích lẫy lừng đã “nướng sống" 15 chiếc xe Tăng T-54 của bọn Cộng Phỉ!:
                        -… Mẹ nó! Tao chưa hề thấy tụi nó pháo dữ dằn như hôm nay! Tụi nó định “dứt điểm” mình bữa nay sao cà?
                        Rồi anh nói tiếp:
                        - Bất cứ giá nào, mình cũng phải lên (cất cánh), hy vọng có thể bảo vệ bao nhiêu người vô tội ở đây. Nếu như mình bị hy sinh, âu cũng là dịp để mình đền ơn Tổ Quốc.

                        Đến bãi đậu A-1, các anh em phi đạo đã ứng trực sẵn sàng, anh Phùng hét lớn trong tiếng nổ vang rền của đạn pháo:
                        - Nổ máy là “chock out” ngay (rút những khúc gỗ chận bánh xe phi cơ ra) rồi các bạn tìm chỗ núp! Mặc kệ chúng tôi, đừng để chết chùm hết cả đám đấy!

                        Máy vừa quay tròn vòng, thì có nhiều tiếng nổ long trời ở bãi đậu A-37 kề bên, nhiều quần lửa như cây nấm khổng lồ cuồn cuộn bốc phụt lên cao. Không chần chờ, tôi cho phi cơ di chuyển ra khỏi ụ. Anh Phùng vẫn còn đứng cạnh máy bay, anh ra dấu cho tôi biết là bình điện của phi cơ anh bị hư. Vì vậy, tôi quyết định cất cánh một mình, như đã Briefing trước đó. Tôi ra hiệu cho anh Phùng biết, và gọi Đài Saigon Ground Control (Đài Kiểm Soát Diện Địa Sài Gòn) để xin di chuyển ra phi đạo, đài trả lời ngay:
                        - Phi Long 51 (PL51)! Phi đạo sử dụng 25, gió hướng Nam 4 knotts, áp suất 29.92…

                        Nhận thấy gió ngang gần như thẳng góc với phi đạo và rất nhẹ (4 knotts), tôi có thể cất cánh bất cứ hướng nào. Nhưng tôi không thể dùng PĐ25 sẽ vô cùng nguy hiểm; vì khi bay lên, sẽ chui ngay vào đạn đạo của địch đang pháo kích. Nếu cất cánh PĐ 07, tôi quẹo trái để đến đầu PĐ 07, thì phải di chuyển ngang qua bãi đậu A37 đang cháy rực lửa, cũng rất nguy hiểm. Vì vậy, tôi có ý định quẹo phải theo Taxi way #3, để cất cánh PĐ 07, nghĩa là ngược chiều PĐ sử dụng. Tôi chỉ có thể dùng ½ chiều dài phi đạo còn lại. Cứu binh như cứu lửa, không còn phương cách nào khác, tôi quyết định gọi:
                        - Saigon Ground Control! PL51 request taxi ra Whisky number three và cất cánh PĐ 07.

                        Ngay khi được phép, tôi di chuyển nhanh ra phi đạo 07 R, miệng lẩm bẩm: "Người đẹp của tôi ơi! Em ráng giúp anh thêm một lần nữa! Đừng ho hen nha cưng"! (Pilot chúng tôi xem chiếc máy bay mình lái như là người vợ, người tình muôn thuở, đặc biệt là em Skyraider tuổi già sức yếu, nên đôi khi em ưa “nũng nịu, nhỏng nhẽo" ). Sau khi thử máy (dù biết chưa nóng máy), tôi xin đài Saigon Tower cho phép cất cánh khẩn cấp. Vì chỉ còn lại ½ phi đạo, nên tôi phải dùng phương cách “Maximun Peformance Take Off" , và cất cánh lúc 04 giờ 25 phút sáng ngày 29/4/1975. Vừa rời khỏi phi đạo, lòng tôi rộn rã một niềm vui mừng khó tả, và cảm tạ ơn Trên cho tôi cơ hội cứu nguy cho mọi người trong Tân Sơn Nhứt. Sang tần số Paris (đài Kiểm Báo Sài Gòn) tôi báo:
                        - Paris! PL 51 vừa cất cánh một chiếc A1 với 10 trái MK 81. Xin nhận chỉ thị.
                        Đài Paris chưa kịp trả lời, tôi đã nghe:
                        - PL 51! Đây Tinh Long 06 (TL06), bạn đến Phú Lâm ngay! Chỗ có nhiều trái sáng. Bao lâu bạn tới?
                        - TL06! PL 51 mang 10 trái MK 81, sẽ có mặt trong 5 phút và request Random Attact! OK!

                        Khi lên tới Phú Lâm, tôi được Trung-úy Trần Văn Bảo, Trưởng Phi Cơ của chiếc AC-119K hướng dẫn oanh kích: mục tiêu là hai làn khói của hai giàn pháo 122 ly. Tôi rất ngạc nhiên, mục tiêu chỉ cách đài Radar Phú Lâm hơn 500 mét về hướng Tây. Nhờ lặng gió, nên hai làn khói này vẫn còn la đà trên mặt đất. Lập tức, tôi vừa lao xuống vừa gọi:
                        - PL51 in hot và thả từng trái một!
                        Sau khi thả trái bom xuống mục tiêu thứ nhì, tôi ngưng lại và chờ đợi. Trong thời gian nầy, tôi nghe giọng Tướng Kỳ trong vô tuyến:
                        - Phi Long 51 trút hết bom đạn xuống target! Tối nay ghé nhà tôi nhậu!
                        Tôi hỏi lại:
                        - Giới chức vừa ra lệnh cho Phi Long 51, xin cho biết danh hiệu.
                        - Tôi Thần Phong 01, Thiếu Tướng Kỳ đây!
                        - Thần Phong 01! PL51 lên một mình với 10 trái bom 250 cân Anh, tôi có kinh nghiệm chống pháo kích. Thần Phong 01 an tâm. Tôi có thể ở đây thêm ba giờ nữa.
                        Khoảng 15 ; 20 phút sau, có lẽ bọn cộng-phỉ nghĩ tôi đã hết bom, nên chúng bắt đầu pháo trở lại. Tôi nhìn thấy rõ nhiều giàn pháo, mỗi giàn 4 khẩu 122 ly liên tục phóng lên. Liếc nhìn về hướng Tân Sơn Nhứt, và Sài Gòn có nhiều quầng sáng nháng lên, tôi liền lao xuống thả bom và thầm gọi: "Anh Phùng ơi! anh ở đâu, sao không lên tiếp tay với tôi? Một mình tôi làm không xuể đâu! Anh Phùng ơi"! Năm phút sau, khi định nhào xuống thả bom, tôi thấy có vài đám nổ dưới mục tiêu, tôi tưởng lầm là rocket của trực thăng võ trang bắn xuống, tôi liền cự nự Trung-úy Bảo:
                        - TL06! Bạn cho tôi đánh random attack, sao bạn lại cho gunship (trực thăng võ trang) vào “ăn có”? Nó bay cao độ thấp, lỡ tôi không thấy, nện ngay trên đầu nó, thì phiền lắm!
                        Anh Bảo liền cãi chánh:
                        - Không phải đâu PL51, tôi đã đuổi tụi nó qua bên Quốc Lộ 4 rồi. Để tôi quan sát kỹ lại.

                        Lúc đó có khoảng ba bốn chiếc trực thăng quây quần phía Đông Bắc Phú Lâm. Sắp nhào xuống thả bom lần kế tiếp, tôi lại thấy có ánh lửa nổ tung và tiếng anh Bảo la lên:
                        - Ê ...PL 51! Tôi thấy có một chiếc dường như là A-1 vào đánh phụ với bạn đó! Chắc chắn không phải là gunship đâu!
                        Tôi liền nghĩ ngay tới anh Phùng, nên trả lời anh Bảo:
                        - TL06! chắc là Thiếu Tá Phùng! Có thể anh Phùng bị trục trặc về vô tuyến! Bạn an tâm, monkey see monkey do (thấy tôi thả bom ở đâu, anh ấy sẽ thả bom ở đó).
                        Nhờ sự yểm trợ hỏa châu của TL-06, chúng tôi dễ dàng “lượm” những giàn pháo như lấy kẹo trong túi. Thanh toán xong các giàn pháo nầy, thì tôi cũng vừa hết bom.
                        - TL06, tất cả giàn pháo đã “clear“ (bị hủy diệt sạch) tôi giao ở đây cho bạn, PL 51 để dành 800 viên 20ly phòng thủ phi trường. Vì muốn biết người phụ tôi diệt pháo vừa rồi, có đúng là anh Phùng không? nên tôi sang tần số của Đài Sài Gòn:
                        - Saigon Tower! Đây PL51. Bạn cho tôi biết: sau tôi còn có chiếc A1 nào cất cánh không?
                        Tôi được trả lời:
                        - Tụi nó pháo quá, chúng tôi núp dưới hầm trú ẩn, vừa lên nên không biết gì hết bạn à!

                        Khoảng 5:25’ sáng tôi về tới Tân Sơn Nhứt, trời vẫn còn tối đen như mực, ngoại trừ những ánh đèn phi đạo và taxi way, còn có hai đám cháy: một đám ở bãi đậu A37 (như đã nói ở trên), còn đám cháy thứ hai... dù tôi đã đảo nhiều vòng, nhưng vẫn không nhận ra chính xác là nơi nào. Nhưng sau ít phút nhờ ánh sáng lờ mờ bập bùng còn lại của đám cháy, tôi vừa nhận ra là ở phía Nam của dinh Tướng Kỳ độ chừng trăm mét. Tự nhiên trán tôi rịn mồ hôi, tay run lẫy bẫy, tim đập dồn dập, và ứ nghẽn lồng ngực muốn nghẹt thở, vì hình như đám cháy là ở khu cư xá C-7, là nơi vợ con tôi tạm trú. Miệng tôi không ngớt cầu nguyện: "Cầu xin ơn Trên che chở cho vợ con của con, và những người khác được bình yên".
                        Ngay lúc đó, trong lòng lòng tôi bùng lên một cơn giận dữ & căm thù đám cộng-phỉ trong trại Davis, nếu vợ con tôi có mệnh hệ nào, tôi thề sẽ thí mạng với bọn chúng!

                        Mươi phút sau, tôi thấy chiếc TL07 cất cánh lên, để thay thế chiếc TL06 về đáp. Tôi tiếp tục bao vùng trên không phận Tân Sơn Nhứt, cho đến khi bình minh có ánh sáng lờ mờ, tôi nhận ra đám cháy chính là cư xá Nữ Quân Nhân. Tôi nóng lòng muốn đáp xuống, nhưng chưa có phi tuần nào lên thay thế. Vài phút sau, tôi nhìn sang cánh phải: thấy có một chiếc AD-5 còn treo hai trái bom, cứ bám sát theo phi cơ tôi. Tôi sang tần số và gọi đài Saigon Tower một lần nữa, để xác định chiếc AD-5: “có phải là của anh Phùng không”. Câu trả lời vẫn là “Không biết”. Vừa lúc đó, “anh bạn dễ ghét” như muốn chơi trò trốn tìm “ú tim” với tôi, nên anh ấy cho phi cơ hết lòn sang trái, lại chui qua phải. Tôi bất ngờ cắt bán kính, quẹo vòng thật gắt, định ra sau chiếc phi cơ nầy. Nhưng anh bạn “dễ ghét” là một cao thủ tuyệt đỉnh, lúc nào anh cũng bám riết theo sau, khi sang trái khi sang phải, cố ý trêu đùa tôi. Nếu là dog fight (không chiến) thì tôi bị tay lão luyện nầy “dớt rụng càng” rồi!

                        Trên tần số Paris, tôi nghe giọng của Thiếu-tá Hồ Ngọc Ấn, Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 liên lạc với TL07, cho biết: “phi tuần hai chiếc A1 của anh đang ở Long An, trên đường tiến về Sài Gòn. Đại-uý Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2. Khoảng mười phút sau, Trung-uý Trang Văn Thành, Trưởng Phi Cơ của TL07 gọi trên tần số:
                        - Phượng Hoàng 11, tôi nghi ngờ có một toán đặc công độ năm bảy tên, định cắt hàng rào kẽm gai phía Bắc phi trường, chỗ miếng đất trống hình tam giác ở An Nhơn. Bạn cho một trái ngoài hàng rào, đánh trục Đông sang Tây. Tôi giữ cao độ 5.000.

                        Vì biết phi tuần anh Ấn chưa đến nơi, nếu cần thiết tôi có thể dùng bốn cây đại bác 20 ly bắn dọc theo vòng rào. Tôi bay tới đó, mặt trời vừa ló dạng, trời tỏ hơn nhưng ở độ cao 4.000 bộ, nên tôi không thấy gì cả. Thình lình anh Phùng lao xuống thả một trái bom. Thì có tiếng anh Thành hốt hoảng la lên:
                        - Số 1 thả bom “như để“ . Số 2 đánh dài hơn vài mươi thước.
                        Trái thứ nhì rơi dài hơn năm chục thước. Anh Thành hoảng hốt:
                        - Phượng Hoàng 11 Hold High and Dry (ngưng thả bom). Số 2 của bạn đánh gần nhà dân quá!
                        Thiếu tá Ấn liền lên tiếng:
                        - TL07! Ai khác đánh đó, chớ không phải Phượng Hoàng 11! Tôi chỉ mới tới Bến Lức, làm sao thả bom ở đó được!
                        Thì ra anh Thành lầm lẫn phi tuần của tôi- là phi tuần anh Ấn. Tôi vội lên tiếng:
                        - TL07! Đây PL 51. Đó là Phi Long 52 (chiếc số 2 của PL51) nó hư vô tuyến, chỉ còn hai trái, vừa thả hết rồi. Còn tôi đã “Empty” (hết bom).
                        Nhận ra tiếng của tôi, Đại-uý Thụy (người bạn cố tri cùng PĐ Thái Dương 530 với tôi ở Pleiku) gọi tôi:
                        - Ê Phúc! Mày về Cần Thơ đi, đáp ở đó (TSN) nguy hiểm lắm!
                        Nhìn đồng hồ xăng có 800 lbs, vừa đủ để bay đi Cần Thơ, nhưng tôi đã có quyết định đáp Tân Sơn Nhứt từ trước, nên trả lời:
                        - Vợ con tao còn kẹt lại đây, giá nào cũng phải đáp Tân Sơn Nhứt. Tình hình ở đây chưa đến nỗi nào đâu.
                        Đột nhiên anh Phùng gọi tôi:
                        - Ê ...PL51, đi Cần Thơ nha! Bay với mi gần 3 tiếng, chừ mới liên lạc được một xí. Tao nghe được, nhưng bị câm. Bực mình quá!
                        Tôi vội bấm máy trả lời:
                        - Không! Tôi chỉ còn 600 pounds xăng, vả lại vợ con tôi kẹt ở đây. Anh đi Cần Thơ một mình trước nghen!

                        Lúc bấy giờ TL07 đang bay 5.000 bộ, nên anh Thành muốn xuống thấp để dễ quan sát, và nhìn thấy rõ hơn, nên anh báo cho chúng tôi biết:
                        - PL51! TL07 xuống cao độ để nhìn rõ hơn. Tôi không muốn đánh lầm vào nhà dân, tội họ lắm!
                        Không ngờ mấy phút sau, khi chúng tôi bay trên Lăng Cha Cả, ở cao độ 1.500 bộ, anh Phùng gọi tôi:
                        - Ê một! Mình đáp xuống Tân Sơn Nhứt đi!
                        Lo ngại vô tuyến bất thường của anh hư, nên tôi nhường cho anh Phùng đáp trước. Nhưng trước khi Touch Down (chạm bánh), anh Phùng lại gọi tôi:
                        - Một! Mi đáp trước đi, tao Go Around (bay lên lại). Mi chờ ít phút, tao về chở mi vô!
                        Nóng lòng vì vợ con ở kế bên đám cháy (cư xá Nữ Quân Nhân), nên tôi không bay theo anh Phùng như thông lệ. Tôi tiếp tục vào Final (cận tiến), thì Sài Gòn Tower báo cho chúng tôi:
                        - PL51, có SA7 bắn lên. Tôi thấy mấy cục lửa bằng cườm tay bay lên!
                        Vì tôi đã chứng kiến SA-7 bắn ở Kiến Đức vào cuối năm 1973, nên tôi có ý nghi ngờ:
                        - Saigon Tower, SA-7 bắn lên lúc đầu: là một vùng lửa to màu cam, sau đó đổi sang màu trắng xanh, và bay lên rất nhanh. Bạn quan sát kỹ chưa?
                        Anh bạn nầy có vẻ bất bình trả lời:
                        - PL51, tôi báo cho bạn biết, mà bạn không tin, nếu bị bắn, bạn ráng chịu nha!
                        Tự nhiên tôi nhớ đến Trung-tá Phạm Văn Thặng Fulro khi ông "xỉn", ông thường ngâm nga... nên tôi nghêu ngao trên tần số: "Làm sao giết được người trong mộng …1 …2 …3…touch down"!

                        Di chuyển về bãi đậu lúc 6 giờ 55 phút, các anh em phi đạo reo mừng, công kênh tôi như đón một một vị cứu tinh! Rồi chúng tôi cùng nhau theo dõi chiếc TL07 đang nghiêng cánh trái ở cao độ chừng vài ngàn bộ, và xạ kích xuống mục tiêu. Từng tràng đại bác 20 ly (Minigun 6 nòng) nã xuống như mưa, tiếng kêu như bò rống. Tôi trấn an các anh em:
                        - Target đó ở ngoài vòng rào, chỉ là tình nghi thôi! Ông Trung-uý Thành muốn biểu diễn cho mọi người coi chơi cho vui vậy mà!
                        Tôi vừa dứt lời, thì đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*), động cơ bên phải phát hoả và nổ tung, cánh phải gãy xuống, đồng thời phòng lái bốc cháy. Phi cơ ngoặc đầu qua trái, lao xuống và rơi vào spin (xoay tròn như bông vụ). Tất cả mọi người xung quanh tôi hoảng hốt hét lớn:
                        - Nhảy dù đi…
                        - Nhảy dù…
                        - Nhảy dù nhanh lên…

                        Nhưng quá trễ, tôi không thấy cánh dù nào kịp bung ra, chiếc phi cơ đã cắm phụp đầu xoáy xuống đất rất nhanh. Những cột khói đen lửa đỏ cuồn cuộn bốc phụt lên cao hàng trăm mét. Toàn bộ phi hành đoàn đều hy sinh. Tất cả anh em chúng tôi bàng hoàng sửng sốt, đứng chết lặng mà nước mắt tự dưng tuôn trào. Một lúc sau, mọi người cúi đầu lặng lẽ trở về làm nhiệm vụ của mình. Từ giờ phút nầy phi trường TSN thật sự không còn an toàn nữa, vì sự xuất hiện của SA-7 khắc tinh của tất cả các loại máy bay.

                        Riêng tôi, ngồi bệt xuống bãi cỏ bên lề phi đạo, mắt vẫn hướng về những cột khói đen bốc lên cao, như anh linh của Phi Hành Đoàn TL07 đang siêu thoát. Tôi hy vọng Thiếu-tá Trương Phùng bay đi Cần Thơ, tuy nhiên tôi vẫn có ý trông đợi anh Phùng trở về. Tôi chờ mãi… tới khi anh tài xế xe bồn tiếp xăng giục tôi lên xe, để trở vô biệt đội khu trục. Trong lòng tôi thầm nghĩ:
                        - Đúng rồi, anh Phùng nên bay đi Cần Thơ là hợp lý nhất!
                        Sau 9:30’ giờ sáng ngày 29/4/75 bọn chúng bắt đầu nã đì đùng bằng đại pháo 130 ly, đặt ở Nhơn Trạch gần Thành Tuy Hạ - Cát Lái. Nhưng lúc bấy giờ không ai thèm màng tới việc diệt pháo nhỏ giọt vào Tân Sơn Nhứt nữa. Trong phi trường thỉnh thoảng đạn 130 rơi rớt đâu đó, may mắn sao không trúng tôi. (ha ha ha...) Cả căn cứ Tân Sơn Nhứt không một bóng người, bầu trời vô cùng u ám, một phần vì thời tiết chuyển mưa, một phần vì những làn khói đen lan toả la đà từ chiếc TL-07 đang bốc cháy. Tôi có cảm tưởng như mình lạc vào trong bãi tha ma lúc hoàng hôn.

                        Sau khi quân cảnh không cho tôi ra cổng (Phi Long), không được nói một lời gì với vợ con (họ theo gia đình Vân về nhà), tôi trở vào trung tâm hành quân Không Quân chờ lịnh. Nữa giờ sau, tôi định đi ra ngoài bằng cổng trại Hoàng Hoa Thám; nhưng khi đến cuối sân banh, tôi gặp ba Thiếu-tá: Sơn, Bản, Liêu PĐ 530, họ đang chạy ngược chiều và kêu tôi:
                        - Ê Phúc! được lệnh đi Cần Thơ. Nhanh lên.
                        Tôi chạy theo họ ra bãi đậu, chiếc AD-5 của Thiếu-tá Hồ Văn Hiển PĐ 514 đang chờ. Tôi là hành khách bất ngờ bất đắt dĩ và cuối cùng thứ 20. Chúng tôi rời Tân Sơn Nhứt lúc 11 giờ trưa. Lúc bấy giờ trong Tân Sơn Nhứt có lẽ không còn phi cơ nữa (sau khi yểm trợ quân bạn ở Bến Cát xong, trên đường về Cần Thơ, Thiếu-tá Hiển đáp xuống, để rước chúng tôi). Khi đến Cần Thơ, tôi vội vã đi tìm anh Trương Phùng khắp nơi, nhưng tìm hoài không thấy anh Phùng đâu cả!

                        Ôi! Thì ra… thật vô cùng đau đớn, xót xa, nghẹn ngào không sao tả xiết, vì một cánh chim oai dũng phi thường oanh liệt đã một mình một bóng sớm xa tổ lìa đàn, ông thênh thang bay về cõi vĩnh hằng miên viễn... để lại trong lòng anh em bao tiếc thương vô tận. Đó là: cố Thiếu Tá Không Quân TRƯƠNG PHÙNG... sinh năm 1943 tại Thừa Thiên. Ông oanh liệt hy sinh ngày 29 tháng 4 năm 1975 tại Bình Điền, Long An. (Sài Gòn).
                        *
                        Trần Hoài Hương

                        ***

                        Ghi chú thêm: trước 30/4/1975 và sau... 2010:


                        *.- Thiếu-tá Không-quân Hồ Ngọc Ấn Phi Đoàn Phượng Hoàng 514 (hiện ở Dallas).
                        *- Đại-uý Không–quân Nguyễn Tiến Thuỵ bay chiếc số 2, hiện ở Houston.
                        *Đại-úy Không-quân Trần Văn Phúc - Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51, hiện ở Cali :

                        1.- Mãi đến tận ngày hôm nay, tôi... (Trần Văn Phúc) vẫn cảm thấy hối tiếc: vì Trời đã cho tôi một cơ hội ngàn vàng, để tôi có thể bắn hạ bọn phản tặc ác ôn A37 Nguyễn Thành Trung (tôi đã học kỷ thuật không chiến Dogfight trong khoá Phi Tuần Trưởng với Trung-tá Nguyễn Văn Huynh PĐP PĐ 518), mà tôi lại vô tình để vuột mất cơ hội ngàn năm một thuở! Trong trường hợp “tao ngộ chiến" hy hữu đó, bọn chúng không trông thấy chúng tôi, vì bị chói ánh mặt trời chiều, nên không có phản ứng né tránh nào, mà chúng vẫn ung dung bay thẳng tới.
                        Hoặc chúng tôi chỉ cần lách sang một bên, bật nút ARM - ON và bóp cò súng, bắn ngang hông ở phía sau bọn chúng, thì 800 viên đại bác 20 ly trên mỗi chiếc A1 của chúng tôi sẽ không tha bọn chúng. Hoặc lúc đó tôi gọi Paris (đài Kiểm Báo Không Lưu TSN) để báo động khẩn cấp. Các phi cơ F5-E đang ứng trực ở đầu phi đạo TSN, sẽ tức tốc cất cánh lên xơi tái bọn chúng, thì bọn chúng chẳng còn mạng, để sau nầy vung vít mà “bốc phét”! Đây có phải là vận mệnh thảm khốc đau buồn của đất nước Việt Nam đã an bài phải là ngày 30/4/1975 !?

                        *2.- Trên không phận Sài Gòn lúc bấy giờ (29/04/75) chỉ có ba chiếc phi cơ là: TL-07, phi cơ anh Phùng và phi cơ của Phúc. (TL 07 chỉ xuất hiện sau 6 giờ sáng. Phi tuần hai chiếc A-1: của Thiếu-tá Ấn & Đại–úy Thụy trên đường về Sài Gòn).

                        *3.- Có lẽ vì sợ SA-7 nên ông Đại Sứ Martin phải nói dối trước Quốc Hội Mỹ là: “Hai phi đạo bị trúng pháo kích, hư hại nặng nề, và ông ra lịnh di tản người Mỹ bằng trực thăng”?

                        *4.- ... đột nhiên chiếc TL07 trúng hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, đuôi phải gãy lìa. Có một vật màu đen đen rớt xuống(*)... Mãi đến năm 2010, khi vừa mới cải táng cho PHĐ TL07 xong, chúng tôi mới liên lạc được với Th/Sĩ I Nguyễn Văn Chín tự “Chín Dơi“, Gunner của TL07, là người duy nhất nhảy dù ra sống sót, anh chính là “vật” (hi hi)… màu đen rơi xuống từ chiếc TL 07, mà anh em ở trong phi trường TSN đều thấy.

                        *5.- Vì Phi Hành Đoàn TL07 có nhiều người tình nguyện đi bay trong lúc khẩn cấp, nên hầu hết nhân viên trong PHĐ không ghi đúng tên trong phi lệnh. Tôi chỉ biết có:
                        - Trung-uý Trang Văn Thành (Trưởng phi cơ), xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhập ngũ ngày 12/9/1967, khoá 68A TTHLKQ Nha Trang. Anh Thành là cháu rể của cố Thiếu-Tướng Võ Xuân Lành, TLPKQ. Anh Thành có hai biệt danh: ở quân trường Nha Trang anh có tên “Thành Thụt”, vì đôi mắt sâu thẳm, tánh tình anh rất cương trực, hăng say, năng nổ trong mọi công việc. Khi về PĐ C119 anh Thành có thêm một biệt danh: “Thành Kampuchia” (vì màu da ngâm ngâm của anh). Đêm 28/4/75 anh Trung uý Trang Văn Thành tình nguyện bay thêm phi vụ Extra TL 07, mặc dù trước đó anh đã bay phi vụ TL01 hồi đầu hôm rồi. - Trung uý Tào Thuận, hoa tiêu phụ. - Thiếu uý Phạm Tấn Đức. Họ vĩnh viễn ra đi... nhưng để lại sự thương tiếc kính phục vô cùng của hàng vạn người trong và ngoài Tân Sơn Nhứt.

                        *6.- Sau ba năm ba tháng phục vụ trong PĐ Thái Dương 530 – Pleiku trấn thủ Cao Nguyên, tháng 4 năm 1974 tôi trở lại Biên Hoà, được đưa về PĐ Phượng Hoàng 518, KĐ 23 Chiến Thuật, SĐ3KQ. Sau đó tôi thường đi biệt phái ở Biệt Đội Khu Trục tại Tân Sơn Nhứt, cho đến tháng 9 năm 1974, tất cả phi cơ A1 bị “đình động” (vì uống xăng!?). Vì vậy thời gian tôi quen biết, chuyện trò cùng Thiếu-tá Trương Phùng không nhiều. Tôi chỉ nhớ:

                        *7.- Th/tá Trương Phùng sanh năm 1943 tại Thừa Thiên, anh gia nhập Không Quân vào đầu năm 1964, khóa 64B SVSQKQ Nha Trang, tốt nghiệp khóa L- 5 Quan Sát. Sau đó anh được tuyển chọn xuyên huấn T28 và A-1 Skyraider tại Hoa Kỳ. Trở về nước, anh phục vụ tại Phi Đoàn 110 Quan Sát. Sau cùng là Phi Đoàn 518 Phi Long - Khu Trục A-1, KĐ 23CT, SĐ3 KQ Biên Hòa. Anh là mẫu người hùng KQ từng tham dự hầu hết các chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật, là người hùng diệt 15 xe tăng cộng-quân trong hai tuần lễ vào đầu tháng 4 năm 72 ở Quảng Trị. Anh là một người đầy nhiệt huyết, không bao giờ từ chối bất cứ một phi vụ nào, dù nguy hiểm. Anh là một phi tuần trưởng sĩ quan gương mẫu, lấy phương châm: Tổ Quốc, Danh Dự và Trách Nhiệm lên hàng đầu.

                        Tôi được hân hạnh cùng bay chung với NT Th/tá Trương Phùngvào tháng 8/1974, khi CSBV vi phạm Hiệp Định Ba Lê, chúng pháo kích vào phi trường Biên Hòa. Để trả đũa hành động nầy, Đại Tá Hoàng Thanh Nhã, KĐT KĐ23CT, SĐ 3 KQ chỉ thị hai phi tuần, mỗi phi tuần hai chiếc Khu Trục A-1 Skyraider, mỗi chiếc mang 6 trái bom CBU-25, dùng bom CBU - 25 là loại bom dùng để chống chiến thuật biển người, phá giao thông hào, mỗi trái cân nặng 500 cân Anh (lbs), gồm 7 ống thẳng, dài độ 4 mét, buộc lại thành một khối tam giác, mỗi ống chứa 25 quả bom nhỏ như trái lựu đạn, có loại nổ trên mặt đất, có loại nổ chậm. Muốn đạt hiệu quả tối đa, nên thả bom nầy theo cách Skip bom, nghĩa là bay thật thấp, các trái bom nhỏ nầy được phóng xuống đất. Nếu thả bom từ trên cao thì không thể chính xác, càng cao các quả bom nhỏ nầy càng rải rộng ra, nếu thêm sức gió có thể thổi bay đi xa cách mục tiêu hàng ngàn mét).

                        Phi tuần số 1 do Thiếu-tá Phùng và Trung-uý Đinh văn Đức. Phi tuần thứ hai do tôi (Đại úy Trần Văn Phúc) và Trung-uý Nguyễn Tứ Đức thi hành một nhiệm vụ đặc biệt: oanh tạc Tổng Hành Dinh của MTGPMN ở đồn điền cao su Lộc Ninh. Để bảo vệ vùng trời Lộc Ninh, nơi bọn CSBV trá hình MTGPMN đặt Bộ Tổng Hành Dinh. Ngoài hoả tiễn tầm nhiệt SA-7, bọn CSBV đặt rất nhiều khẩu đại bác phòng không 37 ly, hay 57 ly, điều khiển bằng radar. Nếu bay dưới 11 ngàn bộ, chúng tôi sẽ trở thành những “target sống”, để bọn cộng-phỉ tha hồ thực tập tác xạ. Vì tầm quan trọng của phi vụ nầy, là cảnh cáo cho bọn cộng-phỉ biết: Không có bất cứ nơi nào trên lãnh thổ VNCH, là bất khả xâm phạm đối với Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Quân Đội VNCH sẵn sàng trả đũa những vi phạm Hiệp Định Ba lê của chúng. Vì vậy sau khi thảo luận, đồng ý chọn lối đánh mạo hiểm nhất (nhưng an toàn nhất), chúng tôi xin Đại-tá Nhã:

                        - Đại-tá ra lịnh chúng tôi đi dội bom ở đó, thì xin Đại-tá cho phép chúng tôi được chọn cao độ bay. Nếu như bay cao 12 hay 13 ngàn bộ, để tránh phòng không, thì thả bom không thể nào chính xác được, coi như không. Vì vậy chúng tôi xin chọn lối đánh "truy kích".
                        Ông đồng ý và nhấn mạnh thêm về tầm nguy hiểm:
                        - Nếu có ai gặp phải bất trắc, các bạn chịu khó trốn tránh qua đêm cho đến sáng mai, mới có phi vụ rescue. Các bạn khác lập tức bay về đáp, không được ở lại cover.

                        Sau cơm trưa sớm hơn thường lệ (11 giờ), chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những tấm không ảnh (chụp những cơ sở nguỵ trang dưới hàng cây cao su) thảo kế hoạch, tính toán giờ giấc, hướng bay một cách rất cẩn thận từng chặn đường. Để giảm thiểu sự nguy hiểm cho phi tuần thứ nhì (bay sau) của tôi. Thiếu-tá Phùng đề nghị nhập hai phi tuần thành một hợp đoàn bốn chiếc; dùng chiến thuật truy kích với yếu tố bất ngờ, chớp nhoáng, bay lướt trên ngọn cây. Khi bọn chúng thấy, thì chúng tôi đã bay mất rồi, không kịp bắn. Với lối bay nầy, đòi hỏi người Leader phải có một khả năng, kinh nghiệm, bình tĩnh, sáng suốt, cũng như gan dạ. Vì thỉnh thoảng một mình anh Phùng (Leader) phải “trồi lên lặn xuống” năm ba trăm bộ, để nhận dạng những "check point" (điểm chuẩn) để tránh bay lạc. Anh Phùng phân chia nhiệm vụ cho từng người, lập lại nhiều lần: “mỗi chiếc phi cơ chỉ thả một lần, và chiếc kế nối tiếp với nhau”.

                        Theo phi lịnh, chúng tôi cất cánh đúng 2 giờ trưa, nhưng bắt đầu 1 giờ, bỗng dưng trời mưa như trút nước (có thể ông trời giúp chúng tôi?) tưởng chừng như phi vụ bị huỷ bỏ, cho đến sau 5 giờ chiều, cơn mưa tạnh hẳn. Chúng tôi được lịnh cất cánh khẩn cấp, anh Phùng nhắc lại:
                        - Phi vụ của chúng ta rất quan trọng, rất nguy hiểm, nhưng tôi (anh Phùng) tin tưởng vào chiến thuật mình đã thảo ra. Như các bạn đã biết: Tụi mình không bay thẳng tới đó, mà mình bay vòng về hướng Bắc. Các bạn bớt căng thẳng đi! Có thể ông trời đã giúp mình hôm nay, nên đổ mưa mấy tiếng đồng hồ, vì vậy khi mình tới target mặt trời cũng sắp lặn, bảo đảm tụi nó không ngờ mình tới đâu! Chắc chắn mình phải bay đêm, các bạn cẩn thận coi lại tất cả các đèn phi cụ.

                        Như trong phi trình đã hoạch định, chúng tôi “joint up” ở 2.000 bộ, với hợp đoàn chiến đấu (Tactical Formation), tất cả phi cơ bay bên cánh phải của anh Phùng, lấy Lai Khê làm điểm xuất phát, bay thật thấp về hướng Bắc, bên phải Quốc Lộ 13, qua khỏi Tống Lê Chân 5 dặm, thì đổi sang hướng Tây. Như dự đoán, tôi bắt đầu lướt trên nhiều ổ phòng không, nhìn xuống tôi thấy từng cụm năm ba tên cộng-phỉ cố quay vòng những họng súng, để bắn vói theo phi cơ chúng tôi. Tôi gặp ít nhất năm khẩu phòng không trên đoạn đường dài chừng 20 dặm nầy. Khi thấy Lộc Ninh bên phải, và nhận định mục tiêu, anh Phùng ra lịnh:
                        - Tất cả Phi Long coi lại Mills (độ của máy ngắm) lên cao độ 1.500 bộ, target 1 dặm, hướng 10 giờ (quẹo trái về hướng Nam, để thả bom vào bên hông địch).

                        Lần lượt: "số 1 Rolling Hot”, rồi số 2, số 3 và số 4 Rolling Hot khi ánh sáng vàng nhạt cuối cùng trong ngày. Chúng tôi đã vượt qua rất nhiều hàng rào phòng không dày đặc, trên đường đi ngay cả đường về, rất nhiều lần chúng tôi lướt trên những ổ cao xạ, nhìn thấy bọn chúng quay vòng những họng súng, để bắn vói theo (quá trể rồi! lúc đó chúng tôi đã khuất dạng). Khi chúng tôi bay về gần tới Tây Ninh, thì trời đã tối hẳn. Nhờ vào sự can đảm phi thường, nhờ sự thông thạo địa hình, đầy kinh nghiệm của Thiếu-tá Phùng, chúng tôi đã hoàn thành sứ mạng, an toàn về đáp lúc 8 giờ tối. Cám ơn ông trời ban cho chúng tôi một cơn mưa, giúp chúng tôi hoàn thành phi vụ một cách tốt đẹp. Khi đáp xong, tôi ghi nhận thêm: Thiếu-tá Phùng thà ngậm đèn bấm soi sáng những phi cụ để bay, nhưng nhứt định không chịu hủy bỏ phi vụ, dù rằng trong phiên họp buổi trưa Đại-tá Nhã đã lưu ý hai lần:
                        - Nếu có gì bất trắc, các bạn rán chịu đựng qua đêm, sáng mai mới có trực thăng rescue.
                        Anh Phùng cười, rằng:
                        - Mấy chuyện lẻ tẻ làm sao làm khó dễ tao được. Ngày mai tụi mình đi gặp Đại-tá Nhã, xin ông cho tụi mình bay lên đó diệt phòng không, ít nhất mình cũng “lượm” hàng tá cao xạ 37, hay 57 ly. Đứa nào bay với tao, thì theo tao tới câu lạc bộ Trần Thế Vinh.

                        *8.- Để nhớ ơn người anh hùng vị quốc vong thân: cố Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng, có nhiều thân hữu quân dân góp sức truy tìm tung tích anh Phùng. Sau gần bao năm lặn lội tìm kiếm... Trong cơ duyên nhờ anh linh của cố Thiếu-tá Trương Phùng dẫn dắt, ngày 2 tháng 12 năm 2008, cựu KQ Nguyễn Toại Chí đã mang hài cốt Thiếu-Tá Không-quân Trương Phùng (vùi sâu dưới năm thước đất, gần cầu Bình Điền, Long An; trở về với gia đình). Hài cốt của cố Thiếu-tá Trương Phùng được hoả táng, đem về thờ phượng tại chùa Bữu Quang. Theo nhân chứng là cụ H. (cụ còn ở Việt Nam, 90 tuổi, xin tạm dấu tên) kể rõ rằng: “Động cơ của chiếc máy bay bị ra khói, buộc lòng anh Phùng phải đáp khẩn cấp xuống ruộng, gần cầu Bình Điền. Anh Phùng bị bắt khoảng 7 giờ sáng ngày 29/4/74. Ngay tối hôm đó bọn Cộng-phỉ khát máu đã hành quyết anh Phùng cạnh giao thông hào”.

                        *9.- Cũng sau nhiều năm tháng vất vã ngược xuôi tìm kiếm, ngày 21-7- 2010 có một nhóm thân hữu Dân Quân Chánh, gia đình Thiếu-uý Phạm Tấn Đức, cùng cựu Không-quân Nguyễn Toại Chí đã tìm được nhiều hài cốt của PHĐ 07 trong vòng đai của căn cứ Tân Sơn Nhứt. Họ đã mang hài cốt qúy vị ấy về an vị tại nghĩa trang An Khánh - Thủ Thiêm. (KQ NTC phụ trang).

                        *10.- Cư xá Nữ Quân Nhân ở kế bên chưa đầy mươi mét, đã biến thành tro. Tôi (Phúc) vội vã lái xe Honda phóng nhanh trở về cư xá C-7 thăm vợ con. Vào phòng cư xá C-7 thì không thấy ai, hoảng hốt tôi đi vòng theo sidewalk để tới hầm trú pháo. Vô cùng may mắn khi tôi thấy một trái 122 ly không nổ, đã cắm sâu xuống nền ciment, cách phòng của vợ con tôi chừng ba thước, (nơi đó vợ con tôi & gia đình Trung-uý Phạm Trung Vân PĐ C7- 431; là em rễ vợ tôi). Trước kia tôi thấy cái hầm nầy, đã bỏ hoang lâu năm, bên trên chỉ có vài lớp bao cát mục nát, tôi nghĩ chúng tôi không nên ở lâu, vả lại tôi không quen “đường sá” trong khu Tân Sơn Nhứt. Vì vậy bất đắt dĩ tôi phải dời gia đình qua dinh Tướng Kỳ lánh tạm, dù sao ở đó cũng kiên cố hơn...

                        11.- Tôi chứng kiến chiếc trực thăng đáp xuống (khoảng sau 9 giờ sáng) Trưởng phi cơ là Thiếu-tá Quí, anh em Trung-tá Nguyễn Quốc Hưng & Trung-tá Nguyễn Quốc Thành, mỗi người cầm một cây M16. Tướng Kỳ vào nhà, ông cứ đi ra đi vô phòng làm việc nhiều lần. Khi ông bước ngang chỗ tôi đứng, tôi mạo muội hỏi:

                        - Thưa Thiếu Tướng, Thiếu-Tướng định làm gì bây giờ?
                        Ý của tôi hỏi Tướng Kỳ, là tôi muốn biết có di tản về Cần Thơ, (như lời ông kêu gọi tại đây đêm 25/4/75 là: “cần đánh một trận oai hùng cuối cùng”)? Chẳng biết ông có nhận ra tôi hay không, ông lắc đầu than:
                        - Anh em đã bỏ đi hết rồi, lấy ai mà đánh, hở?!

                        Tôi đồng ý với Tướng Kỳ về việc nầy, vì sau khi tôi đáp xuống Tân Sơn Nhứt chừng 20 phút, tôi nghe rất nhiều tiếng phi cơ đủ loại ào ào cất cánh bay lên... Khoảng 9 giờ 30 phút Tướng Kỳ từ phòng làm việc bước ra, khi đi ngang tôi, Tướng Kỳ nói:
                        - Mỹ đã từ chối cho tôi (Tướng Kỳ) một chiếc C-141. Nhờ cậu thông báo các thân hữu của tôi tự tìm đường thoát thân sang DAO, hay xuống bến Bạch Đằng.

                        - Bây giờ tôi đi rước Tướng Trưởng bên Tổng Tham Mưu.
                        Tướng Kỳ lên máy bay, tôi liền đi chuyển lời của ông cho một số người ở trong nhà nầy, lúc bấy giờ tôi mới biết: có hàng trăm người khác đang “tá túc” trên lầu, trong số đó có cựu Dân Biểu Nguyễn Văn Cử. Điều may mắn là mọi người đã thoát khỏi nguy hiểm, dù có rất nhiều trái pháo rơi xung quanh dinh, nhưng không quả nào lọt vô dinh Tướng Kỳ.
                        * * *
                        Tình Hoài Hương

                        Tác giả chân thành cám ơn Đại úy Không Quân Trần Văn Phúc {(Phi-tuần Trưởng PT Khu-trục Phi-Long 51) và quý vị Không-quân đã có tên trong bài viết} đã cho tôi mạn phép chuyển tải sự thật về ngày 28 & 29 tháng Tư năm 1975: trung thực, chính xác, nóng bỏng, & vô cùng đen tối, hắc ám của lịch sử Việt Nam.
                        * Đồng thời THH xin phép cám ơn quý vị nhiếp ảnh gia đã post những tấm hình đầy nhân bản lên internet, cho tôi có thể copy vô bài viết, ngỏ hầu phong phú hoá hình ảnh sống động và tài đức & nghệ thuật của quý vị.

                        *

                        Tình Hoài Hương
                        Last edited by khongquan2; 04-27-2018, 05:51 AM.
                        Bút trần nào tả được lưu luyến!
                        Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                        Tình Hoài Hương

                        Comment


                        • ...Vào khoảng 5 giờ sáng 29/4/1975, chiếc AC-119K danh hiệu Tinh Long 7, do Trung-úy Trang Văn Thành làm trưởng phi cơ, cất cánh từ Tân Sơn Nhất để thay thế Tinh Long 6 trong nhiệm vụ bảo vệ căn cứ. Khi trời bắt đầu sáng, Tinh Long 7 đã bất chấp mọi hiểm nguy do hỏa lực phòng không của địch, trong đó có hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7, xuống thấp để tận dụng các khẩu mingun và đại bác 20 ly tấn công địch quân đang tiến về vòng đai phi trường.

                          Khoảng 7 giờ 30 sáng, chiếc AC-119K bị trúng một hỏa tiễn SA-7 của địch, bốc cháy rồi phát nổ, gẫy làm đôi và đâm xuống đất. Hàng ngàn đồng bào đang chờ di tản ở phi trường Tân Sơn Nhất, và một số phóng viên ngoại quốc đã chứng kiến tận mắt tấm gương can trường bất khuất và sự hy sinh cao cả của Tinh Long 7. Trong phi hành đoàn 9 người chỉ có một người duy nhất sống sót nhưng bị trọng thương là Thượng sĩ xạ thủ Nguyễn Văn Chín.

                          Cùng khoảng thời gian, chiếc A-1 Skyraider của Thiếu tá Trương Phùng, danh hiệu Phi Long 2, thuộc Phi đoàn khu trục 518 (lúc đó đã rời Biên Hòa về trú đóng tại Tân Sơn Nhất), bay lên chặn địch ở Phú Lâm cũng bị phòng không của địch bắn hạ. Tinh Long 7 và Phi Long 2 được chính thức ghi nhận là hai phi hành đoàn cuối cùng của Không Lực VNCH hy sinh trong nhiệm vụ Bảo Quốc – Trấn Không.
                          (trích Quân Sử Không Quân VNCH)

                          LEST WE FORGET



                          (minh họa của Họa sĩ VŨ KHAI CƠ, tức CoHuong)
                          Last edited by Nguyen Huu Thien; 04-28-2018, 11:03 PM.

                          Comment


                          • Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

                            Anh hùng Tử Khí Hùng Bất Tử
                            (43 năm… tưởng niệm quý vị anh dũng hy sinh: Sinh vi tướng, tử vi thần)
                            Tình HOÀI HƯƠNG
                            *

                            Lòng tôi bỗng nhói buốt lên từng cơn rúng động đau điếng, xót xa, bàng hoàng run rẩy khôn tả xiết. Tôi rụng rời, bi phẩn đến cực điểm, điếng lặng, dại khờ, đắng cay, nghẹn ngào, không thể thốt lên tiếng thở dài hoặc nói câu nào. Chúng tôi: trên bước đường ly tán là những lữ hành đơn độc mệt lã, nay xa lạ từ lãnh thổ của chính quê hương mình, đã ôm mặt khóc ròng, hai hàng nước mắt tôi và các bạn đều tuôn chảy. Tôi khóc vì vong gia thất thổ, khóc thân phận con người đớn hèn bọt bèo trôi nổi. Và; bởi chúng tôi ra đi về miền Tây là: Quá hy vọng tin tưởng vào các vị tướng, tá, sĩ quan, các vị quân nhân binh lính oai dũng: vẫn còn đóng chốt kiên cố ở miền Tây, còn giữ vững non sông và dân tộc trong giờ thứ 25.

                            Nào ngờ… tôi đã mất đất dung thân trên quê hương, nỗi đau đớn ấy nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi theo dòng thời gian chảy về. Bây chừ chúng tôi đã quá tuyệt vọng... vì… máu, nước mắt, và tóc của những vị anh hùng đã vắt xỏa lơ lửng ngang lưng trời -mãi hoài không tan biến. Từ đó bầu trời vần vũ mây xám và tạo thành những cơn mưa triền miên đẫm ướt sông hồ sơn khê Việt Nam!!! Ngờ đâu nay càng thương sầu nuối tiếc những vị anh hùng tuấn kiệt bất hủ đã oanh liệt tuẫn tiết. Chúng tôi thương họ hơn cả sự đau khổ cơ cực, đọa đày, biệt xứ vào những ngày ly tán trong tháng 4: Chúng tôi đã sửng sốt, rụng rời, vì nhiều lần trên đường loạn lạc, tai nghe tin khủng khiếp rõ mồn một từ miệng rất nhiều người tất tả xuôi ngược chạy về nơi nầy, chạy đi nơi khác: Tin tức sốt dẽo nhất là do người dân ngang nhiên xôn xao bàn tán ở hai bến phà: Cần Thơ, và Mỹ Thuận. Người ta nói như một lời khẳng định về vấn nạn miền Nam Việt Nam Cộng Hoà ; rằng:
                            - Không còn “Tướng, Tá” gì ráo.
                            - Đừng hòng mà có ý định “mưu đồ” chiếm lại Sài Gòn. Nghe.
                            - Các vị tướng, tá, úy, thậm chí cả hạ sĩ quan, binh lính, đã hy sinh. Họ cương quyết không chịu khuất phục vô tay bọn cướp nước, nên họ đã tuẫn tiết tự sát kìa. Chết thật rồi...

                            Khi từ Rạch Giá tìm đường trở lại thủ đô Sài Gòn, chúng tôi lật đật đến thăm những người bạn thân, (họ đang làm lớn trong chính phủ miền Nam Sài Gòn). Các anh bạn của gia đình tôi đã xác nhận rõ ràng: Những vị anh hùng trung liệt bất khuất lừng danh rất đáng kính trọng, đáng ngợi ca ngàn đời, lưu danh thơm thiên cổ ấy, là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử. Những vị sinh vi tướng tử vi thần mà sử sách đã vĩnh viễn ghi sau:

                            *1.- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú (1929) Tư Lệnh Quân Ðoàn 2, Quân Khu 2. Tướng Phạm Văn Phú tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
                            - 1953.- Ông tốt nghiệp khóa 8 - Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy Dù.
                            - 1954.- Đại úy Phạm Văn Phú Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.
                            - 7/5/1954, Điện Biên Phủ thất thủ, đại úy Phú bị bắt giam. Sau Hiệp định Genève, ông được thả ra; tiếp tục phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. - 1962 Thiếu Tá Liên-Đoàn-Trưởng Liên-Đoàn Quan-Sát 77 Lực-Lượng Đặc Biệt.
                            - 1963 Tư Lệnh Phó Sư Ðoàn 2 Bộ-binh Quảng Ngãi.
                            - 5/1964.- Trung Tá Tham Mưu trưởng Lực Lượng Đặc biệt. - 1966.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
                            - 1968.- Chuẩn-tướng Biệt Khu 44 Đồng Tháp Mười, miền Tây.
                            - 1969.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Lực Lượng Đặc biệt.
                            - 1970.- Chuẩn Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh - Tư Lệnh Quân Đoàn 4.
                            - 1973.- 10/1974 - Chỉ-huy-trưởng Trung-Tâm Huấn-luyện Quang Trung.
                            - 1974.- Tư Lệnh Quân Đoàn 2 và Quân Khu 2 - Tư Lệnh Vùng II Chiến Thuật, Bộ Chỉ Huy đóng tại Pleiku, vùng Cao Nguyên miền Trung.
                            - 29/4/1975.- Thiếu tướng Trần Văn Phú uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

                            *2.- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam.- (23-09-1927) Tư-lệnh Quân Ðoàn 4. Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
                            - 1953.- ông Nguyễn Khoa Nam nhập ngũ Khóa III Thủ Đức - gia nhập binh chủng Nhảy Dù. - - 1965.- Thiếu tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
                            - 1967.- Trung Tá Lữ-đoàn-trưởng Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù. - 1969.- Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ-binh kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. - 1974.- Th/Tg Nguyễn Khoa Nam Tư lệnh Quân-đoàn IV & Vùng IV Chiến thuật.
                            - Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam dùng súng browning tự sát 01-5-1975.

                            *3.- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng.- (27-3-1933 Hốc Môn) Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
                            Ông Lê Văn Hưng: khóa 5 Sĩ quan Trừ bị Thủ Ðức.
                            Tướng Lê Văn Hưng tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy: Ra trường sau đó chỉ huy từ cấp Đại-đội. Tiểu-đoàn. Trung-đoàn thuộc Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
                            - 1966.- Thiếu-tá Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 2/Trung-đoàn 31 Bộ-binh.
                            -1968.- Trung tá Lê Văn Hưng Trung-đoàn-trưởng Trung-đoàn 31 Bộ Binh tại Hậu Giang & thăng Đại-tá Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh.
                            - 6/1971.- Tư lệnh Sư đoàn 5.
                            - 1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-phó Quân-khu 3.
                            - 1973.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
                            - 1974.- Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 4.
                            Chuẩn-tướng Lê Văn Hưng đã tự sát bằng súng lục vào lúc 20g 45’, ngày 30.04.75.

                            *4.- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ - (22-8-1933 Sơn Tây). Tư-lệnh Sư- đoàn 5 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tuần tự giữ các chức vụ chỉ huy:
                            - 1951.- Ông học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ Bị Địa phương Huế. Tốt nghiệp Ðại Học Chỉ Huy Cao Cấp & Tham Mưu tại Mỹ.
                            - Đại úy Quận-trưởng Bến Cát (Bình Dương). - Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thuộc Sư Ðoàn 5.
                            - 1965.- Thiếu tá Vỹ tham gia trong chiến trường An Lộc. Thiếu-tá Tư-lệnh-Phó Sư-đoàn 21 Bộ-binh.
                            - 1972.- Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Phó Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh tại An Lộc.
                            - 1973.- Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ-binh.
                            - 1974.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Sư-đoàn 5 Bộ-binh căn cứ Lai Khê (Bình Dương)
                            - 30-4-1975.- Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư Lệnh Lai Khê.

                            *5.- Chuẩn-tướng Trần Văn Hai.- (1929 Cần Thơ). Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh. Chuẩn-tướng Trần Văn Hai đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
                            - 1951.- Sinh viên Sĩ quan Trường Võ Bị Đà Lạt.
                            - 1960.- Thụ Huấn Khóa Chỉ-huy Tham-mưu tại Hoa Kỳ.
                            - 1963.- Thiếu-tá Chỉ-huy-trưởng TT Huấn-luyện Dục-Mỹ.
                            - 1965.- Trung tá Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Tỉnh Phú Yên, Chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính. - Tư-lệnh-phó Quân-đoàn 2; Quân-khu 2.
                            - 1968.- Tổng-giám-đốc Cảnh-sát Quốc-gia. Tết Mậu Thân, đại tá Hai có mặt ở Liên đoàn 5 Biệt Động Quân trong những giờ giao tranh đầu tiên tại Thị Nghè - Hàng Xanh, phụ trách mặt trận Chợ Lớn, Phú Thọ.
                            - 1970.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh Biệt Khu 44.
                            - 1971.- Chuẩn-tướng Chỉ-huy-trưởng Binh-chủng Biệt-Động-quân.
                            - 1972.- Chuẩn-tướng Tư-lệnh-Phó Quân-đoàn 2 & Quân-khu 2 Đặc Trách Biên-phòng. - Chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn, kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ.
                            - 1974.- Tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh, căn cứ Đồng Tâm Tỉnh Định Tường.
                            Chiều 30.04.1975.- Chuẩn-tướng Hai đã uống thuốc độc tự tử tại văn phòng Tư-lệnh, Ðồng Tâm. Mỹ Tho. Nơi Bộ-tư-lệnh Sư-đoàn 7 Bộ-binh.

                            *6.- Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn .- (24-3–1938 Vĩnh Thanh Vân. Rạch Giá). Đại Tá Tỉnh Trưởng Chương Thiện. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã tuần tự giữ các chức vụ Chỉ-huy:
                            - 1947.- Ông gia nhập vào trường Thiếu Sinh Quân.
                            - 1957.- Liên trường Võ Khoa Thủ Đức. Học chuyên môn: CC1 & CC2 Vũ Khí. Sau 9 tháng thụ huấn ưu hạng, ông làm huấn luyện viên tại trường VKTĐ.
                            - 1962.- TSQ Hồ Ngọc Cẩn vào trường sĩ quan hiện dịch, Đồng Đế. & thuyên chuyển về Biệt Động Quân vùng 4 Chiến Thuật: Trung-đội-trưởng Tiểu-đoàn 42 Biệt Động Quân. Ông tuần tự phục vụ tại các binh chủng: Dù. Thủy-quân Lục-chiến. Biệt-động-quân. Quân-báo. An-ninh Quân-đội. Lực-lượng Đặc-biệt: Tại các tỉnh Cần-Thơ (Phong-Dinh). Chương-Thiện. Sóc-Trăng (Ba-Xuyên). Bạc-Liêu. Cà-Mau (An-Xuyên).
                            - Tiểu-đoàn số 42, Tiểu-đoàn Cọp Ba-đầu-Rằn.
                            - Tiểu-đoàn số 44 Cọp Xám U-Minh Hạ). 1973.
                            - Đại Tá Tỉnh trưởng Tỉnh Chương Thiện.
                            - 30-4-1975.- Trong BCH hết đạn dược, ông đã bị bắt tại nơi đồn trú. - 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đã bị kết án, xử bắn ở sân vận động tỉnh Cần Thơ, trước sự chứng kiến của đồng bào.

                            *7.- Ðại-tá Ðặng Sĩ Vinh.- Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia. Lúc 2 giờ ngày 30.04.75, Ðại-tá Vinh, cùng gia đình gồm: Vợ và Bảy người con, đã tự tử bằng súng lục!!! (chồng+Vợ + 7người con= 9 nhân mạng, - xin vui lòng xem phụ trang sau ở dưới bài viết).

                            *8.- Đại-tá Nguyễn Hữu Thông.- Trung-đoàn-trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22Bộ Binh - Khóa 16 sĩ quan Võ Bị Đà Lạt. 31/3/1975, tự sát tại Quy Nhơn.

                            *9.- Đại-tá Lê Cầu.- Trung-đoàn-trưởng 47 Bộ Binh (* mời xem phụ chú dưới bài viết)

                            *10.- Trung-tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng độc dược ngày 30-4-75.
                            *11.- Trung-tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng súng lục ngày 30-4-1975.

                            *12.- Trung Tá Đường, & Đại úy Bé... Chỉ huy lực lượng Thám-báo, chết ở chân cầu Vị Thanh 30-4-75.

                            *13.- Trung-tá Nguyễn Đình Chi.- Cục An Ninh Quân-đội. Tự sát 30-4-75.

                            *14.- Trung-tá Hà Ngọc Lương.- TT Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát 30-4-75 (cùng vợ, 2 con, 1 cháu).

                            *15.- Trung-tá Phạm Đức Lợi.- Khóa 5, Thủ Đức. Phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM; là học giả, văn, thơ, soạn kịch… (bút danh: Phạm Việt Châu), cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH Hiệp Định Paris tại Hà Nội. Tự sát tại tư gia ngày 5/5/1975.

                            *16.- Trung-tá Nguyễn Văn Long.- Sanh năm 1919 tại Gia Hội. Huế.
                            Ông đã tuần tự giữ các chức vụ: Chỉ-huy Trưởng Phòng. - Chủ Sự. - Ty Cảnh Sát. - Ty Công An. - Khu 1 Đà Nẵng. Chánh Sở Ty Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng.
                            - Ngày 28-3-1975.- Trung-Tá Nguyễn Văn Long được lệnh phải rời Đà Nẵng vào Sài Gòn. Tính tình ông trầm lặng, ít nói, cương trực, mẫu mực, tận tụy, thanh liêm; nên gia đình ông sống rất thanh bạch. Trung tá Long có biệt danh là “Long lý” ; có nghĩa là không thiên vị ai, cứ công lý minh bạch lẽ phải mà thi hành. Khi nghe "tân tổng thống 3 ngày không dân cử", Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội: "ở đâu phải ở đó, buông súng, không được kháng cự", để ông Minh bàn giao chính phủ cho ban tiếp quản miền Nam.
                            - 30-4-1975.- Trung Tá Nguyễn Văn Long đã rút súng tự bắn vào đầu, tuẩn tiết dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến. Trước trụ sở Quốc Hội. Sài Gòn.

                            *17.- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân.- Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2/Bộ TTM. Tự tử ngày 1/5/75.

                            *18.- Trung-tá Phạm Thế Phiệt.- 30-4-75.

                            *19.- Thiếu tá Trịnh Tấn Tiếp.- Quận-trưởng Kiến Thiện là một sĩ quan xuất sắc, trí dũng song toàn. Ngày 14-8-1975, Ông đã bị VC xử bắn tại sân vận động Cần Thơ.

                            *20.- Thiếu-tá Không-quân Nguyễn Gia Tập.- (25-12-1943). Phi-đoàn 514-518, Khu-trục Biên-Hoà. Ông thụ huấn khoá 64D, năm 1964.
                            - Tốt nghiệp T 28 - ở Randolph AFB – TX. Hoa Kỳ.
                            - Tốt nghiệp TopGun – Khóa A 1e - tại Hurburt Field, Florida.
                            - Sĩ quan Liên-lạc trường Huấn-luyện Keesler Hoa Kỳ.
                            - Làm việc tại: Phi-đoàn Khu-trục 514 - 518 – Biên Hoà.
                            - Làm việc tại phòng Đặc-trách Khu-trục, Bộ Tư-lệnh Không-quân.
                            Thiếu tá Nguyễn Gia Tập tự sát bằng súng lục trước sân cờ, trong căn cứ Bộ Tư-lệnh Không-quân.
                            Thân nhân của Th/tá Nguyễn Gia Tập, đã đem thi thể Th/tá Tập về chôn cất tại Long Khánh. Thiếu tá Nguyễn Gia Tập là vị anh hùng phi công Khu-trục A 1 Skyraider.

                            *21.- Thiếu-tá Lương Bông.- Phó Ty An Ninh Cần Thơ. Tự sát 30-4-75.

                            *22.- Thiếu-tá Mã Thành Liên (Nghiã).- Tiểu-đoàn-trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu - khoá 10 Đà Lạt. Tự sát cùng vợ ngày 30-4-75.

                            *23.- Thiếu-tá Nguyễn Văn Phúc.- Tiểu-đoàn-trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa. Tự sát 29/4/1975.

                            *24.- Thiếu-tá Hải Quân Lê Anh Tuấn.- (1943 – 1975). Xuất thân Khóa 14 Sĩ Quan Hải Quân.
                            Ông là Chỉ Huy Trưởng Giang Ðoàn 43 phục vụ trên chiến hạm của Hạm Ðội. Duyên Ðoàn 27. Duyên Ðoàn 23. Phòng Tâm Lý Chiến Bộ Tư Lệnh Hải Quân.
                            Khi nghe lệnh từ ông Dương Văn Minh bắt buộc quân nhân buông vũ khí, giao đất nước Việt Nam vào tay giặc, thì Thiếu-tá Tuấn đứng trên chiếc soái đỉnh dùng súng colt bắn vào đầu tự sát, ông gục ngay trên tấm bản đồ hành quân.

                            *25.- Thiếu-tá Đỗ văn Phát: Quận Trưởng (kiêm Chi Khu Thạnh Trị Ba Xuyên. Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 33, Sư Đoàn 21 Bộ Binh), đã tuẫn tiết ngày 1/5/1975.

                            *26.- Thiếu-tá Trần Thế Anh.- Đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75

                            *27.- Thiếu tá Trần Đình Tự.- Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu đoàn 38 Biệt Động Quân.
                            11 giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975.- tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung-tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn: “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ, để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”- Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng, ông nói: "Tôi sẽ ở lại đánh nữa, tôi không đầu hàng. Tôi không thể nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa"...
                            Nhưng anh Tự không còn nữa, đã tử trận. Tên giặc Cộng rút con dao găm của anh Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng anh Tự. Anh Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu đỏ. (xin xem phụ trang ở dưới).

                            *28.- Đại-úy Vũ Khắc Cẩn.- Ban 3 Tiểu-khu Quảng Ngãi. Tự sát 30-4-75.

                            *29.- Đại-úy Tạ Hữu Di.- Tiểu Đoàn Phó 211 Tỉnh Chương Thiện. Tự sát 30-4-75.

                            *30.- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu, Trưởng ban văn khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM.

                            *31.- Đại-úy Nguyễn Hòa Dương.- Trường Quân-Cảnh Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại trường.

                            *32.- Trung-úy Đặng Trần Vinh.- Phòng 2, Bộ TTM. (con của Thiếu-tá Đặng Sĩ Vinh). Tự sát cùng vợ con 30/4/1975.

                            *33.- Trung-úy Nghiêm Viết Thảo.- Khóa 1/70 Thủ Đức. An Ninh Quân đội. Tự tử tại Kiến Hòa.

                            *34.- Trung-úy Nguyễn Văn Cảnh.- CSQG Trưởng-cuộc Vân Đồn. Quận 8. Tự sát 30-4075.

                            *35.- Thiếu-úy Không-quân Nguyễn Thanh Quan.- Khóa 1/70. PĐ 110 Quan-sát. Tự tử 30-4-75 tại Kiến Hòa.

                            *36.- Thiếu-úy Nguyễn Phụng.- Cảnh Sát ĐB. Tự sát 30-4-75 , tại Thanh Đa.

                            *37.- Thiếu úy Nhảy Dù Hoàng Văn Thái.- Khóa 5/69 Thủ Đức. Tại một bùng binh ở ngã 6 Chợ Lớn, Thiếu uý Thái và một nhóm 7 người bạn, mỗi người một quả lựu đạn, họ cùng mở chốt, để tự kết liễu đời mình vào ngày 30-4-1975.
                            Họ là một toán Nhảy Dù về bảo vệ Đài-phát-thanh. Đài Truyền-hình Việt Nam.

                            *38.- Chuẩn-úy Đỗ Công Chính.- TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát tại cầu Phan Thanh Giản.

                            *39.- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh.- Trường Truyền-tin Vũng Tàu. Tự sát 30-4-75 tại sân trường.

                            *40.- Thượng sĩ Bùi Quang Bộ.- Trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu.

                            *41.- Trung sĩ I Trần Minh.- Quân Cảnh, ông gác ở Bộ TTM. Tự sát 30.4-75.

                            *42.- Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, Tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.- Vũ Tiến Quang vào trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam.
                            - 1972.- Ông Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh. Phục vụ tại Trung-đội Trinh-sát của Trung-đoàn 31 (Cà Mau).
                            Trung sĩ Vũ Tiến Quang làm thông dịch viên (cho cố vấn thiếu úy Hummer).
                            - 1972.- Vũ Tiến Quang có chứng chỉ 1 Bộ Binh.
                            - 1974.- Sau khi có chứng chỉ 2 Bộ Binh, Trung-sĩ Quang về sư đoàn 21 Bộ Binh Tiểu-đoàn Ngạc Thần (tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện. (xin xem phụ trang sau)

                            *43.- Nguyễn Xuân Trân.- Khóa 5 Thủ Đức. Tự sát 01-5-75.

                            *44.- Binh Nhì Hồ Chí Tâm
                            .- TĐ 490. ĐP. (Mãnh Sư) Tiểu Khu Ba Xuyên. Cà Mau. Dùng súng M 16 tự sát ngày 30-4-75 tại Đầm Cùn, Cà Mau.

                            *45.- Luật sư Trần Chánh Thành.- Cựu Bộ-trưởng Thông-tin Đệ Nhất Cộng Hòa- Nguyên Thượng-nghị-sĩ đệ II Cộng Hòa. Tự sát ngày 3/5/75.

                            *46.- 6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. (xin xem phụ trang sau)

                            *47.- Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích. Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác.
                            Và còn nhiều!... Rất nhiều chiến sĩ anh hùng vô danh ẩn tích khác. Họ là những anh hùng vị quốc vong thân. Những bậc anh tài sinh vi tướng, tử vi thần. Là những vị anh hùng tử khí hùng bất tử! Họ là những anh hùng kiện tướng, đầy nhiệt huyết, yêu đồng đội, hy sinh vì dân, vì đất nước quê hương. Nhất là vì danh dự của một quân nhân Vịêt Nam Cộng Hoà. Họ rất anh dũng tự quyết định mạng sống mình, họ không chịu khuất phục địch.
                            Giống như chí sĩ Trần Hữu Lực thời xưa đã có câu tuyệt mệnh:
                            “Non sông đã chết. Ta há lại sống thừa. Từ mười năm giũa kiếm, mài dao. Chí mạnh, những mong phò tổ quốc. Lông cánh chưa thành. Việc bỗng đâu hoá hỏng. Dưới chín suối điều binh khiển tướng, hồn nhiên ngầm giúp bọn thiếu niên…”

                            Đó là sự trả giá tuyệt vời rất đáng kính trọng của một con người coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, qua nhân cách sống của một quân nhân QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ - HỌ đặt tổ quốc - trách nhiệm - danh dự - lên hàng đầu-. Một sự tuẫn tiết vô cùng quan trọng, rất đắt giá về sự: Vinh quang. Chiến thắng. Bi lụy. Can trường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng; cho đến khi thủ đô Sài Gòn hòn ngọc viễn đông hùng tráng bi phẫn đã đớn đau vỡ vụn! Họ không hề đầu hàng "thua cuộc"! HỌ vì lý tưởng tự do ưu trội thật cao vời. Và, vì sự bất tử cao cả, hiên ngang đầy oanh liệt. Kiên cường. Bất khuất của người lính Việt Nam Cộng Hoà quá dũng khí, oai phong lẫm liệt. Ôi! Họ đã lưu danh thơm lẫy lừng thiên cổ.

                            Qúy ông ấy đã anh dũng, hiên ngang đứng vững giữa non sông gấm vóc trong quê cha đất tổ. Họ vĩnh viễn nằm lại trên dãi đất hình chữ S cong cong. Máu của họ đã chan hòa chảy ra - nhào trộn với đất phù sa đẫm ướt cả lòng quê. Hai tay họ thân ái ôm trọn quê hương ghì siết ở trong lòng. Họ đã bất khuất và vẻ vang sống mãi trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam có bốn ngàn năm văn hiến. Lão Tử đã có câu:
                            “Để thân mình lại sau. Thế mà thân mình đứng trước. Gác thân mình ra ngoài. Thế mà thân mình vẫn còn".
                            Trân trọng lắm thay!
                            *

                            Tình Hoài Hương

                            * * *

                            Phần phụ chú quan trọng:

                            *.- Thiếu tướng Phạm Văn Phú.- 10-3-1975.-
                            Trận chiến Ban Mê Thuột bùng nổ. Ngày 14/3/1975, có cuộc họp đặc biệt tại Cam Ranh. Tổng-thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh cho Thiếu Tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ Quân Đoàn 2 ra khỏi Cao nguyên.
                            - 1 giờ 45’ – 2/4/1975, Quân Khu 2 được lệnh sát nhập vào Quân Khu 3. Bấy giờ Thiếu tướng Phú đã có ý định tự tử, nhưng bất thành.
                            - 15/4/1975: Tướng Phú lâm bệnh, phải điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hòa. Sau đó về tư gia. 29/4/1975. Thiếu tướng Trần Văn Phú đã uống thuốc độc tự tử tại nhà riêng ở đường Gia Long. Thân nhân đưa ông vào bệnh viện Grall (Đồn Đất) Sài Gòn, nhưng không cứu kịp. Ông đã tạ thế ngày 30-4-1975.

                            *.- Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam: là một quân nhân đức độ, hiền hòa giản dị; không hề bị tai tiếng tham nhũng, ông thương yêu thuộc quyền như em cháu, được hầu hết binh sĩ kính trọng yêu mến. Khi nghe tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh tất cả quân đội buông súng, Thiếu Tướng Nam đi vào Quân Y Viện Phan Thanh Giản, ở Cần Thơ, thăm chiến hữu thương binh an ủi họ lần cuối cùng. Ông trở về dinh Tư Lệnh ở Cái Khế, Thiếu Tướng Nam đưa khẩu Browning lên bắn vào màng tang lúc 7:00 giờ sáng ngày 1-5-1975’.
                            Lúc đó VC đã tiến vào Cần Thơ. Nhưng anh em tham mưu đã cố gắng lo chôn cất tử tế... Rồi anh em chạy về dấu hết súng, và xoi một cái lỗ nhỏ, để nhìn vào phòng của Tướng Nguyễn Khoa Nam. Nhưng không ngờ... trong ngăn kéo của Tướng Nam còn cây súng nhỏ. Các sĩ quan tự lo chôn cất ông, họ trân trọng kính cẩn nghiêm chào thi thể ông trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ.

                            *.- Anh Phong cũng kể sự nhân đức của Tướng Nam: Lúc Tướng Trương Dành Oai, đem mấy người ở Cần Thơ xuống tàu, chạy ra biển. Thì Tướng Nam ra lệnh:
                            - Phải quay trở lại. Nếu không sẽ bị pháo dập.
                            Tất cả chờ lệnh của Tướng Nam. Khi con tàu sắp vượt ra biển. Tướng Nam buồn bã nói:
                            - Để họ đi...
                            ... Và Tướng Nam thở dài buông điện thoại xuống.

                            *- Tôi; (đại úy Không-Quân Trần Văn Phúc) có một kỷ niệm khó quên với Tướng Nguyễn Khoa Nam:
                            Năm giờ sáng ngày 11/4/75 tôi nhấc điện thoại, nghe từ đầu dây:
                            - Tôi, Tướng Nam Tư lệnh Quân Đoàn 4, cho tôi gặp phi tuần trưởng phi vụ Phi Long 71.
                            Đang mớ ngủ, nhưng hồn phi phách tán, tôi vội trả lời.
                            - Dạ thưa Thiếu Tướng, là tôi…
                            - Anh cho tôi biết tên tuổi, cấp bậc, số quân?

                            Tôi thầm nghĩ: (bụng làm dạ chịu, phen nầy chắc chắn là mình "ngồi trong hộp" ít nhất 30 ngày, (như trong số tử vi đã nói. Chẳng lẽ đêm hôm ấy tôi thả bom lầm vào quân bạn sao đây ha!? Lạy trời đừng chết ai nha).
                            Ngừng giây lát, ông Tư Lệnh QĐ4 hỏi thêm tên phi hành đoàn của tôi, và phi hành đoàn bay trước đó. Tôi vừa đánh thức anh em dậy, vừa suy nghĩ: “Ui ! Có đại sự gì đây? Không lẽ cả hai phi tuần đều ném bom lầm vào quân bạn hay sao? Chắc là có to chuyện gì rồi!!! Không. Không... không đâu”.

                            Cuối cùng Tướng Nam nhân danh Tư lệnh QĐ4 tuyên dương công trạng năm anh em chúng tôi trước Quân Đoàn với ngôi sao vàng; và thay mặt đồng bào Thị xã Cần Thơ, Tướng Tư Lệnh cảm tạ chúng tôi đã lấy lại 2 khẩu đại bác 105 ly (bị mất ở quận Bình Minh), và dân chúng Cần Thơ đã tránh được một cuộc đổ máu kinh dị. Nghe xong cả người tôi nhẹ lâng lâng như muốn bay lên Trời, may quá, suýt chút xíu nữa thì tôi vọt miệng thưa:
                            - Dạ thưa Thiếu Tướng "rượu đậu nành" thả bom, chớ không phải do tôi ạ!!!
                            Có thể ông Tư Lệnh QĐ4 đã biết vận mệnh miền Nam Việt Nam sẽ đi về đâu; nên ông tướng khả kính mới phá lệ gắn huy chương qua điện thoại chăng??

                            - *Anh Ó Đen: Lúc còn ở tù, tôi, (Oden03) nằm sát bên Trung Tá Trưởng-phòng 2/ Q.Đ.4, là anh Nguyễn Đạt Phong có kể:
                            Lúc nghe phu nhân của Tướng Lê Hưng gọi, anh em tham mưu QĐ chạy qua, thì thấy 2 người nằm dưới nền nhà đầy máu, nên anh em đều tưởng cả 2 người chết. Nhưng phu nhân chỉ ôm Tướng Hưng, và yêu cầu cho chôn cất theo lễ nghi quân cách.

                            * Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ.- Bao lần Cộng-quân phía ở Đông Bắc không thể vượt qua căn cứ Lai Khê, mặc dù lực lượng họ đông gấp bội. Ông tận tâm làm việc, lo xây dựng tu bổ hệ thống phòng thủ kiên cố, và nhiệt tâm huấn luyện binh sĩ. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ là một sĩ quan mẫn cán, quả cảm, có tài tham mưu. Một cấp chỉ huy thanh liêm, nổi tiếng về tinh thần dũng cảm, cương quyết chống cộng, bài trừ tham nhũng. Ông có cá tính trung trực dũng cảm và nóng như lửa.
                            - Ngày 30-4-1975 - khi nghe "Tổng thống ba ngày" Dương Văn Minh ra lệnh: "quân đội VNCH buông súng đầu hàng".
                            Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ cho binh sĩ treo cờ trắng trên hành dinh. Chuẩn tướng Vỹ liền triệu tập sĩ quan và binh sĩ dưới quyền, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ dõng dạc tuyên bố:
                            - “Tôi không thể thi hành lệnh này. Tôi cần chọn riêng cho tôi con đường phải đi".
                            Ông oai dũng bình tĩnh nghiêm trang đứng dưới cột cờ của Bộ Tư Lệnh. Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ rút khẩu súng beretta 6.35 giơ lên tự bắn vào đầu, để tuẫn tiết vì quê hương. Ông tự sát lúc 11 giờ, ngày 30.04.75, tại Tổng-hành-dinh Lai Khê. Thi thể Chuẩn-tướng Lê Nguyên Vỹ an táng trong rừng cao su, (gần doanh trại Bộ Tư Lệnh). Lâu năm sau đó thân nhân cải táng về ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp.

                            *.- Chuẩn tướng Trần Văn Hai là một sĩ quan trong sạch, dũng cảm, đúng tư cách của một quân nhân. Trước khi đi Pleiku, làm Tư Lịnh Phó Quân Đoàn 2, (tháng 5/72) Ch/tg Trần Văn Hai đặt điều kiện với Tổng Thống Thiệu:
                            - "Khi nào giải toả núi Chupao, và 3 Quận phía Bắc Bình Định xong. Tôi sẽ rời chức vụ".
                            Khoảng ba tháng sau, ông hoàn thành nhiệm vụ, & về làm Tư Lệnh Sư Đoàn 7 Bô-binh.
                            Vì ông không thể làm việc được với Tướng Toàn. Sau khi nhậm chức, ông không ở Pleiku, mà đặt Bộ-Chỉ-Huy Tham Mưu Tiền Phương tại Plei Mrong. Xa khoảng 10 dặm Tây Bắc Pleiku, cùng với Liên Đoàn 2 Biệt-Động-Quân.
                            - 1969, lúc đó còn là Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên. Trong thời gian làm tỉnh trưởng Phú Yên, tướng Hai đã đối xử với dân khá tốt và hiền đức, nên được dân vô cùng quí trọng. Đại tá Hai tuy giữ chức vụ cao cấp nhứt trong ngành cảnh sát, khi lên tướng, ông Hai vẫn thường xuyên ghé thăm các thuộc cấp cũ trong Biệt Động Quân. Một điều mà những ai ở vào địa vị của ông, rất ít khi làm. Năm 1965 thì được bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên. Trong thời gian tại chức, ông đã chỉ huy các lực lượng Quân Cán Chính trong Tỉnh, bẻ gẫy những cuộc tấn công của Việt Cộng xuất phát từ mật khu Vũng Rô. Quân đội ta nhiều khi còn tổ chức những cuộc hành quân vào tận sào huyệt này. (THH trích dẫn từ Wikipedia).
                            Đầu năm 1966, phu nhơn của Thiếu tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân Đoàn II và Quân khu 2 - ( nữ ca sĩ Minh Hiếu) tới Phú Yên có việc riêng, và lệnh của tướng Vĩnh Lộc là: "phải đón tiếp chu đáo".
                            Thiếu tá Hai lúc đó đã được thăng cấp Trung-tá quyết định: dùng tiền riêng thuê xe dân sự đưa đón bà, thay vì dùng công xa.
                            Vì chuyện này, mà Trung-tá Hai mất chức Tỉnh-trưởng, với lý do: "không hoàn tất chu đáo nhiệm vụ". Ngày ông ra phi trường đi đáo nhậm đơn vị mới, quân dân cán chính ra tiễn đưa rất đông. Không ít người đã nhỏ lệ tiễn đưa ông.
                            - Năm 1969, Đại tá Trần Văn Hai trở lại Phú Yên, để xem xét việc thực thi một số kế hoạch trong chiến dịch Phượng Hoàng, đã đem theo rất nhiều quà để tặng dân chúng. Ông được quân dân tiếp đón hơn cả một thượng khách cao quý, và như một người ruột thịt - khiến cho một trong những người tháp tùng ông lúc đó là Trung-tá Lê Xuân Nhuận, Chỉ Huy Trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Khu II đã ngạc nhiên. Và sau này có thuật lại trong cuốn hồi ký "Cảnh Sát Hoá, Quốc Sách Yểu Tử của Việt Nam Cộng Hoà" rằng: "chắc hẳn là trong thời gian làm Tỉnh- trưởng Phú Yên, Tướng Hai đã đối xử với dân chúng tốt hết mực, nên mới được quí trọng làm vậy". (trích nguyên văn trong QT.ĐĐ.THSQ.QLVNCH & THH trích dẫn từ Wikipedia).

                            * Đại tá Hồ Ngọc Cẩn.- Trước ngày 30-4-1975, Đại tá Tỉnh Trưởng Hồ Ngọc Cẩn và một nhóm sĩ quan, binh sĩ... ở trong Tiểu Khu Chương Thiện, họ vẫn nhịn đói nhịn khát, chiến đấu quyết liệt, đến ngày 30-4-75 khi trong Tiểu khu không còn một viên đạn nào, và thức ăn nước uống không có một giọt! Ðại-tá Hồ Ngọc Cẩn & một tốp sĩ quan binh sĩ vẫn quyết tử thủ, để bảo vệ đồn bót. Sau cùng khi ông nghe tin muộn là tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh quân đội buông súng, Đại Tá Cẩn cho thuộc cấp tan hàng, chỉ còn một tướng, một binh, một chốt trong hầm. Họ đã bị Cộng-sản bắt tại hầm chỉ huy. 14-8-1975.- Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị lên án, Việt Cộng làm pháp trường đem ông ra xử bắn trước đồng bào.
                            Trước khi bị xử tử ông chính khí nói to:
                            - “Tôi chỉ có một mình, trong tay tôi không có súng. Tôi không đầu hàng ai. Muốn bắn cứ bắn đi. “Ninh Thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết không chịu nhục). Nhưng, trước khi bắn tôi, hãy cho tôi mặc bộ quân phục và chào quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng như các anh không cần phải bịt mắt tôi, để cho tôi nhìn thấy rõ quê hương và đồng bào lần cuối cùng. Việt Nam Cộng Hòa muôn năm. Đả đảo Cộng sản... (trích dẫn trong Wikipedia).
                            Tất nhiên là người công giáo thì ông không được phép tự tử - (cho dù tuẫn tiết), nhưng chuyện xử bắn một vị anh hùng suốt đời thanh liêm, tận tụy vì quê hương và dân tộc, thì dường như Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chết vì “đạo - Tổ Quốc & Quê Hương” trên hết. Lời đề nghị của Đại-tá Hồ Ngọc Cẩn chỉ được một phần: là “không bịt mắt”, để ông thân ái mở to đôi mắt nhìn rõ đời, trước lúc Đại tá Cẩn hiên ngang anh dũng đi thẳng vào họng súng... vĩnh biệt thế gian, ông cất cánh bay về thiên đàng, (nơi miền đất hứa trên chốn bồng lai tiên cảnh: bác ái, vị tha, yêu thương & tự do muôn năm...)

                            *.- Major Dang Si Vinh.- He moved in our neighborhood sometime in early 1974. His family - wife and seven children - soon earned sympathy from people along the paved alley of a Saigon suburb where most inhabitants were in lower middle class. His eldest son was about thirty years old and a first lieutenant in the Army Medical branch after graduated pharmacist from the Medical School. The youngest was a 15-year-old pretty girl. It would have been a happy family if Saigon had not fallen to the hands of the Communist North Vietnam army.
                            That was what people in the neighborhood said about the middle-aged RVN Army Major Dang Si Vinh, who was holding a job in the National Police Headquarters in Saigon. At about 2:00 PM on April 30, 1975, almost two hours after RVN President Duong Van Minh surrendered to the Communists, people near by heard several pistol reports from his home. After hesitating for safety, his neighbors got into his home to find Major Vinh, his wife and his seven children lying each on a single mattress, all dead, each by one .45 caliber bullet that gushed pools of blood from the horrible holes at their temples.
                            On a long dining table, decent meals had been served and eaten as if in an usual and peaceful dinner. There were nine small glasses, all had traces of a pink powder left at their bottoms. Apparently, Maj. Vinh and his relatives had taken the drug - probably sleeping pills - before Vinh gave each a finishing stroke with his .45 pistol. In an open small safe he left some hundreds of thousands South Vietnam piasters, rated about 500 dollars at the time, an indication of his poor circumstances as an army major. On the note along with the money, Vinh wrote: "Dear neighbors," "Forgive us. Because our family would not live under the Communist regime, we have to end our lives this way that might be bothering you. Please inform my only sibling, a sister named ... at... and use this money to help her bury us anywhere. "
                            Thank you, Dang Si Vinh.

                            *.- Anh Hoàng Hùng KQ2 dịch từ Major Dang Si Vinh : Vào khoảng đầu năm 1974, Th/Tá Vinh, vợ và 7 người con dọn về sinh sống ở một khu bình dân, ngoài ngoại ô vùng Sài Gòn. Theo một người hàng xóm cho biết. Và sau một thời gian rất ngắn, gia đình của Th/Tá Vinh được sự thông cảm, và quí mến của bà con lối xóm. Người con trai đầu lòng (của Th/Tá Vinh chừng 30 tuổi), Tr/Uy Quân Y, sau khi tốt nghiệp trường Dược (Pharmacist Of medical School), và người con gái út khoảng 15 tuổi.
                            Gia Đình của Th/Tá Vinh là một gia đình sung sướng, hạnh phúc, nếu Sài Gòn đừng có rơi vào tay bọn Cộng-sản miền Bắc. Theo lời kể lại của hàng xóm về chuyện Th/Tá Vinh, người nắm một chức vụ trong Bộ Cảnh Sát Quốc Gia tại Sài Gòn. Chừng 2 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng, thì bà con xung quanh kề cận với gia đình Th/Tá Vinh, nghe vài tiếng súng nổ, xuất phát từ trong nhà của Th/Tá Vinh. Sau khi thấy không còn nguy hiểm, thì những người lối xóm bước vô trong nhà của Th/Tá Vinh. Họ đã chứng kiến Th/Tá Vinh, vợ, và 7 người con nằm kế bên nhau, trên một chiếc giường, tất cả đều đã chết, do thương tích từ viên đạn xuyên qua thái dương. Kế bên là bàn ăn, là bữa ăn rất tươm tất. Kế đó là 9 cái ly uống nước trên bàn, mối cái ly đều có dấu vết tích để lại một chất bột màu hồng, đọng lại dưới đáy mỗi cái ly.
                            Có lẽ đây là thuốc ngủ, mà trước đó Th/Tá Vinh đã cho mỗi người trong gia đình uống. Sau đó tử tự bằng súng lục Colt45. Một cái tủ sắt đã mở sẵn, Th/Tá Vinh đã để lại vài trăm ngàn đồng tiền mặt, tương đương chừng $500 US dollars, cùng với một bức thư ngắn, do chính tay Th/Tá Vinh viết:
                            - “Bà Con mến, Mong Bà Con niệm tình tha thứ cho gia đình chúng tôi, bởi vì chúng tôi không muốn sống dưới chế độ Cộng-sản này. Nên chúng tôi đã chọn cái chết, và chính cái chết đó, có thể đem lại sự buồn phiền đến với bà con. Xin nhờ bà con báo tin này đến người chị (em) của tôi tên là ..., ở ..., và dùng số tiền này, để lo chôn cất cho gia đình chúng tôi. Xin đa tạ Đặng Sĩ Vinh”.

                            * Thiếu tá Trần Đình Tự Tiểu-đoàn-trưởng Tiểu-đoàn 38 Biệt Động Quân.
                            - 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung tá Liên Đoàn-trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn:
                            - “Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ - để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”
                            Trung tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Ông gượng dậy để lấy lại bản lãnh. Sau cú “Sốc”, Trung tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu-đoàn-Trưởng:
                            - Tiểu-đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan.
                            - Tiểu đoàn 33 Thiếu tá Đinh Trọng Cường.
                            - Tiểu đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự.
                            Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Th/t Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung-tá Liên-đoàn-trưởng, anh quay qua Đại-úy Tiểu-đoàn-phó Xường:
                            - Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu anh và cũng là lệnh:
                            - Anh nói cho các đại đội trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung. Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho! Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa". Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội thám báo, nói với họ đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của đại úy Tiểu-đoàn-phó, còn ai muốn ở lại với anh đến giờ chót, thì đứng riêng một bên.
                            - Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ. Trần Đình Tự đưa tay chào Đại úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi anh dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vườn khoai mì để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch. Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía anh Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH, và chỉ ngay mặt anh Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu-tá may dính trên cổ áo). Anh Tự đứng yên nhất định không chịu.
                            Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm anh Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng anh Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột anh Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng anh Tự. Anh Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu. Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn anh Tự rồi nói gọn:
                            - “Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là thứ ác ôn cả đấy”!

                            *.- Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường đễ chúng bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi. Sự đền nợ nước của Th/t Trần Đình Tự là do lời thuật lại của Đại-úy Xường, Tiểu đoàn-phó Tiểu-đoàn 38 BĐQ. (nay anh Xường đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979). Tôi gặp anh Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh Xường bị VC bóp cổ chết trong ngục thất, vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt. Xường xuất thân khóa 22 A Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.

                            Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của cố Thiếu-tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Th/t Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. - May mắn, chỉ có Đức Trọc (tên anh ta) bị thương giả chết, chờ VC đi xa rồi, anh ráng bò vào nhà dân, được dân dấu diếm băng bó, rồi thuê xe Lam chở anh về Saigòn. Đức ráng sống, ráng tìm cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của thiếu tá Tự và đồng đội cho mọi người nghe. ( trích từ Cánh Thép do baotri sưu tầm & Reply ghi lại: May-02-11 22:40)

                            *.- Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang.- (10-9-1956 Kiên Hưng, tỉnh Chương Thiện). 2-9-1969.-
                            1975.- Vũ Tiến Quang thăng Trung-sĩ-nhất. Ngày 1-2-1975.- Ông Quang nổi tiếng trong trận đánh tại Thới Lai, Cờ Đỏ. Trung-sĩ Nhất Quang được tuyên dương trước quân đội, gắn huy chương Anh Dũng. Đơn vị Quang theo là trung đội trinh sát của trung đoàn 31 (Cà Mau).
                            30 tháng 4 năm 1975.- Vì tất cả đạn dược, lựu đạn, đạn M79 đã hết. Cuối cùng chỉ còn một ổ súng trong hầm chiến đấu cũng hết đạn.
                            - Do có một quả lựu đạn cay ném vào trong hầm Cộng Sản vào hầm lôi ra hai người: Đó là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu khu trưởng; và Trung-sĩ Nhất 19 tuổi: Vũ Tiến Quang. Họ đã anh dũng chiến đấu tới khi không còn một viên đạn cuối cùng, không chịu khuất phục đầu hàng. Trung-sĩ Nhất Vũ Tiến Quang bị Cộng-sản bắn ngay tại chỗ chết lúc 15 giờ, ngày 30-4-1975.

                            * 6 toán thám sát của LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù trong chiến khu D... 6 toán thám sát LĐ.81/Biệt Cách Nhảy Dù được trực thăng thả sâu trong mật khu VC. Toán nầy làm việc bằng máy PRC25, UHF-1, nên phải qua hệ thống trạm chuyển tiếp (Radio Relay Station) bằng phi cơ L-19, hoặc các đài tiếp vận truyền tin ở các núi cao.
                            Sau ngày 29 /4/75; họ đã hoàn toàn mất liên lạc bằng truyền tin với bộ chỉ huy LĐ81/BCND. Vì những đài yểm trợ tiếp vận truyền tin không còn, đã bỏ cửa trống không hoạt động. Các đài nầy cũng không hề thông báo cho những cộng tác viên thám sát biết tình trạng đất nước Việt Nam vào những ngày cuối cùng dầu sôi lửa bỏng ra sao!? Ôi! Đau khổ là các toán thám sát không hề hay biết lệnh buông súng đầu hàng ác ôn của T.T Dương văn Minh ngày 30/4/75.
                            Nên Mười tám (18) anh em thám sát của LĐ.81/BCND của 3 toán thám sát nầy, khi đó lương khô 5 ngày đã cạn, họ đã phải nhịn đói, mưu sinh thoát hiểm, lặn lội từ rừng sâu về đến một làng thuộc quận Tân Uyên, cạnh sông Đồng Nai, gần thác Trị An. Thì bị Việt Cộng bắt giam, bị bỏ đói, bị bắn chết, rồi thả xác lềnh bềnh trôi sông. Những xác của anh em thám sát bị sình thối. Việt Cộng liền bắt dân vớt lên, đem chôn dọc theo bờ sông Đồng Nai.
                            * Xác anh em thám sát của LĐ.81/BCND khác đã chôn tập thể trong một cái giếng bỏ hoang. Phần mộ sĩ quan toán trưởng là anh Tuấn đã được gia đình đến bốc cốt từ năm 1993.
                            - Toán viên tên Nguyễn Văn Một đã chết rất thảm thiết.
                            - Anh Nguyễn Văn Sơn và t/s Võ Văn Hiệp đã chết, do bị giam giữ tra tấn vô cùng kinh khiếp ở quận Tân Uyên.

                            * Do dân làng cho biết: có anh Đức còn ngáp ngáp chưa chết, được hai vợ chồng cụ già trong làng đem dấu anh Đức, và cứu sống. Hàng năm mỗi khi Tết đến, anh Đức đều trở lại chốn cũ ân cần chăm sóc hai cụ, để đền đáp ơn cao đức dày của họ, (như cha mẹ tái sinh ra mình, tạ ơn cứu tử của ân nhân).
                            * Các anh trong toán thám sát của LĐ.81/BCND ấy đã bị VC đánh đập, tra tấn rất dã man đến chết. Đó là những vị anh hùng của LĐ81/BCND âm thầm; sa cơ trong thảm cảnh tháng Tư ở Đại An, họ đã nhận lãnh những viên đạn oan nghiệt vào sau cái ngày 30-4-1975 kia! Qúy Chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa: Địa Phương Quân. Nghĩa Quân... & ... vô danh ẩn tích. (do anh Tâm888 kể lại & THH trích dẫn trong Wikipedia)

                            *.- Bổ túc khác về: Đại tá Lê Cầu.

                            Trọng kính thưa độc giả thân quý,
                            Trải qua 43 năm, (khi miền Nam Việt Nam “bị mất nước” từ 1975 đến ngày nay -2018) - hầu như mỗi năm vào khoảng tháng Tư - thì hầu hết trên các diễn đàn, báo chí, … ở hải ngoại thường đăng “bảng DANH SÁCH & tưởng niệm các vị anh hùng miền Nam Việt Nam đã tuẫn tiết”. Nhưng, ... mãi đến nay, thể theo diễn đàn: {“BẢO VỆ CỜ VÀNG” 2013 thì:

                            - Đại tá Lê Cầu - Trung-đoàn Trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh, ông đã KHÔNG TỰ SÁT ngày 10/3/1975”. (! , ?)
                            = Và theo bà Hàn Giang Trần Lệ Tuyền thì:
                            - “Đại tá Lê Cầu đã bị vào tù, ở “Trại Cải tạo T.154”, - “Trại cải tạo Đá Trắng”, tại xã Phước Lãnh, quân Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Sau đó Đại-tá Lê Cầu lần lượt bị chuyển tiếp các trại: “Trại Cải tạo Tiên Lãnh”. - “Trại biệt giam Đồng Mộ”. Trại “Biệt giam Nhà Trắng”. –“Trại 1”, tức “Trại chính”. (trích dẫn ít đoạn ngắn từ BVCV)}

                            - Trung-tá Vũ Đình Duy, Trưởng Đoàn 66 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng độc dược ngày 30-4-75.
                            - Trung-tá Nguyễn Văn Hoàn, Trưởng Đoàn 67 Đơn Vị 101/QLVNCH, tự sát bằng súng lục ngày 30-4

                            Tình Hoài Hương

                            -----


                            Tôi, (tác giả bài viết) trân trọng cám ơn qúy vị, qua: vài chi tiết nhỏ do các anh cho tin:
                            - Đại-Úy KQ Trần Văn Phúc.
                            - KQ thanbaokimnguu.
                            - Anh KQ Vũ Ngô Khánh Truất.
                            - Anh Hoàng Hùng KQ2
                            - & GĐ81/BCND do anh Tâm1888.
                            - Anh Ó Đen 3.
                            - Anh Phạm Phong Dinh . . .
                            - & . . . do Tình Hoài Hương sưu tầm lượm lặt ít chi tiết trên internet.

                            Trân trọng
                            Tình Hoài Hương
                            Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-02-2018, 10:53 PM.
                            Bút trần nào tả được lưu luyến!
                            Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                            Tình Hoài Hương

                            Comment


                            • Mẹ... Ôi! Mẹ !!!


                              "Bông Hồng Cài Áo"
                              Nhạc: Phạm Thế Mỹ. Lời: Thích Nhất Hạnh
                              Giọng ca: Thu Hoài Nguyễn

                              ***


                              Mẹ... Ôi! Mẹ !!!
                              Chúng con đau đớn kính gởi mẹ đóa hoa hồng trắng.
                              Tình Hoài Hương

                              ***


                              Tôi cố gắng giằng co, níu kéo, quyết giành lại chiếc áo gấm sờn nhàu nát cũ mèm với định mệnh. Dù thời gian dài dằng dặc lặng lẽ đơn điệu dần dần trôi qua, đã khiến chiếc áo hư hao, phai mòn, sờn úa mục nát ít nhiều. Và không gian trôi dần, trôi dần về phía tương lai mù xa tách bạch ra đôi bờ cuộc sống. Không ai có cách gì ngăn chận tuổi già héo hắt đến trước thời gian. Vâng! Có lẽ nay tinh thần lẫn thể chất tôi đã già cỗi! Và, chiếc áo gấm năm xưa còn đây, mà ngón tay gầy run run tôi cài hoài mấy nút áo cũ, vẫn chưa xong. Thời gian đã cướp dần đi tất cả. Vẫn biết thế, nhưng tôi mong muốn níu kéo, âu yếm dùng-dằng ngắm nhìn lại chiếc áo gấm. Nếu tôi được nhìn nhiều lần càng tốt.

                              Ngày ấy, chúng tôi vui vẻ dừng chân trên con đường mòn vòng vo gãy khúc uốn lên uốn xuống, quanh co ven đồi thông rì rào ru tình tại Đà Lạt. Chúng tôi chỉ nhìn vài con chim lí lí lắc lắc, rù rì, bay qua bay lại trên những cành cây mảnh dẻ, là cảm thấy hay hay, vui vui. Lần đó, tôi liếc liếc, lí lắc ghé ghé nghiêng nghiêng đầu thẹn thùng e ấp cười, tôi dùng hai ngón tay quệt nhè nhẹ vào một bên má mà lêu lêu Luật, để trêu chọc chàng, và say đắm nhìn Luật. Hai bàn tay tôi nhẹ nhàng, khéo léo khép vạt áo veston của chàng, rồi cài hộ Luật mấy nút áo, cho chàng bớt bị gió lạnh lùa vào cơ thể.

                              Giờ nầy, Luật cùng muôn ngàn người trai trẻ khác đã bị tập trung đi “cải tạo” trong tù rồi! Chàng đã ra đi. Nhưng Luật không ra khỏi đời tôi. Còn mỗi mình tôi đứng lại bơ vơ, lạc lõng, muộn phiền giữa chợ đời sóng sánh muôn mặt, với sợi tơ hồng quá mong manh cứ rung lên bần bật giữa lưng trời. Tôi lặng lẽ chua chát đối mặt với cuộc sống, ấp ủ kỷ niệm thời chớm lớn, những tủi hổ tiếc xót vô vàn, và những đắng cay thăng trầm tột độ trào lên bờ mi mọng từng chuỗi giọt sầu. Ngày bị vào tù “cải tạo”, Luật đã bỏ chiếc áo vét (veston) nầy lại, trên chiếc áo vét đã dính hai ba sợi tóc đen mướt khá dài cuả tôi, và một hai sợi tóc ngắn cuả chàng, cùng với những lá thư tình đầy ắp yêu thương do chàng viết dày cui, còn trang trọng cất trong túi áo. Thư của Luật viết có văn phong gợi cảm, là những bức tranh phác thảo duyên dáng về câu chuyện gia đình, tình yêu, phúng dụ, vỗ về, hứa hẹn, an ủi, mang tính cách gia đình đầm ấm yêu thương, hạnh phúc bền lâu. Đó cũng là chiếc áo gấm lý tưởng thiêng liêng tinh tuyền muôn thuở, có dấu vết đậm đà khắc sâu vào tim rất thân yêu, quen thuộc duy nhất từ buổi thiếu thời. Dù qua phong sương sáng khuya trưa chiều mưa gió… chiếc áo của chàng đã cũ. Thư tình Luật viết ngả màu vàng úa đọng bụi phấn thời gian, cùng năm ba sợi tóc cuả hai chúng tôi vẫn bóng mướt đen tuyền còn duyên tình mãi đến tận bây giờ.

                              Tôi nâng niu giữ gìn những sợi tóc, phong thư, cùng tấm áo từ hồi chưa cưới nhau. Ngày còn trẻ, tôi chưa lo nghĩ đến tuổi xế chiều phôi pha rồi sẽ ra sao. Bởi tình yêu chúng tôi đó, giống dòng sông chảy qua bao dãi đất: Phù sa phì nhiêu có, cằn cỗi có, tươi tốt có, băng giá hoang tàn lẫn đau khổ buồn xo cũng có. Rồi dòng sông xô sóng sau dồn sóng trước, cuồng nộ đập vào gờ đá, hay lặng lờ êm ả, thong dong xuôi chảy ra biển cả. Mỗi khi chạm trán với thực tế bẽ bàng đắng cay, trong lòng ngút ngàn đau thương, lúc đó tôi lặng lẽ vuốt từng nếp nhăn trên tấm áo, và trang trọng nâng mấy sợi tóc trên hai bàn tay khẽ khàng khum khum bụm lại. Tôi sợ gió từ đâu vô tình lướt qua, tóc sẽ cuốn theo chiều gió bay mất hút, thì biết đâu mà tìm? Đó là những kỷ vật ưu ái đã theo tôi trên muôn dặm đường đời cay cực, để xoa dịu nỗi hãi hùng và bàng hoàng rất kinh ngạc trong cuộc đời phù du. Tôi ấp ủ tình luyến nhớ, thút thít, bùi ngùi khi soi bóng mình trên gương, cảm thấy lòng nao nao nỗi buồn da diết. Vì đến nay tôi chẳng thể giữ lại kỷ niệm nào thân thiết nhất về chàng, khi mái tóc mình thấp thoáng những sợi tóc bạc quyện-bện cùng bao sợi tóc chẳng còn đen mướt? ngoài mấy di vật bé tí ti như đã kể. Thế nhưng, ngọn nguồn óng ả tình trần hiện nay có mất đi chăng? Khi thời gian khẳng định ngàn mối lo âu, đói khát cơ cực run rẩy dâng tràn!? Không thể chối quanh từ sau ngày mất nước, thì lòng trí tôi luôn ray rứt, thương-xót hồi tưởng về quá khứ buồn vui lao xao, dẫu đời xáo trộn, chao đảo.

                              Nay tôi đang mặc chiếc áo cũ của chàng, mà lẽ loi đơn côi ghê gớm, tôi âm thầm đi một mình, buồn bã trên con đường xám ngắt thuở xa xưa. Hai bàn tay lạnh giá run rẩy, run lẩy bẩy, tôi không làm sao cài nỗi nút áo bạc phếch thời gian và cũ mèm nầy. Thì ra… giờ đây tôi quá yếu kém và đã già! Kỷ niệm bây giờ chả là gì! Không quan trọng! Chỉ là những chương đã viết trong pho sách tình, xếp lớp lớp trên kệ sách, ít khi được mở ra xem đã phủ lăn tăn bụi vàng. Pho sách cuộc đời từ đây phải đóng lại. Trang giấy đã lật qua quyển mới, thì hồi tưởng nhớ nhung kỷ niệm; chỉ như chiếc lá úa lắc lẽo đong đưa trên cành cao, chờ cơn gió lay để chao đi. Như những áng mây xám lưng đồi lững lờ bay qua bầu trời mùa thu. Như côn trùng biến dạng vào lòng đất mà thôi. Tôi thấy rõ tính chất phù phiếm của quá khứ mang đầy kỷ niệm lãng mạn rồi. Sau ngày “đổi đời”, tôi muốn sống một cuộc sống khác hẳn: Thực tế sung mãn hơn. Nhưng, chả hiểu có thực hiện nỗi không, là còn tùy thuộc vào hoàn cảnh và ý chí: Trước tiên, tôi muốn cho đàn con phải nên người hữu dụng, kiên cường dù bụng đói cồn cào, để vượt qua mọi chông gai thử thách, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ ngất ngư mà. Ý nghĩ nầy như viên sỏi ném xuống mặt hồ phẳng lặng, tạo thành những vòng tròn đồng tâm, ám ảnh tâm thức tôi bồn chồn, băn khoăn, co siết mãi trong lồng ngực quắt quay.
                              ***
                              Tôi vô cùng nhớ Mẹ thân yêu, dù đa đoan với công việc bề bộn, tôi cũng cố tìm giấy bút để nặn lên vần thơ về Mẹ. Ngày mồng 5 tháng 5 năm 1980 âm lịch, anh Chín Dzoãn báo tin sét đánh: Mẹ tôi đã chết ở trong Ta In (khu đất thuộc cuối vùng Tỉnh Tuyên Đức Đà Lạt). Ta In là cuối địa đầu quận Đức Trọng, giáp ranh giới vùng Di Linh. Nơi tít tót đèo heo hút gió, thâm u cùng cốc lạnh lẽo, vô cùng hiểm trở, có đi mà ít có ai về nguyên vẹn. Nơi chó ăn đá gà ăn muối, nơi khốn cùng của vùng “kinh tế mới” khô cằn toàn sỏi đá. Chỉ nhiều rắn, rết; vô số muỗi, vắt, đỉa, ruồi trâu, bò cạp rừng to và độc kinh khủng. Chúng chuyên bu bám vào người để hút máu. Nơi có nhiều mụt măng le, tre rừng, ta ăn vào cho đỡ đói, thì sẽ bị sốt rét ngã nước, mà lăn ra chết toi.

                              Cầm tờ điện tín, tôi lặng người rất lâu, không thể khóc thành tiếng. Nước mắt u uẩn tự động quằn quại tuôn chảy từng dòng rồi dội ngược vào tim mình đau điếng. Hình như tôi nghẹt thở, chết dần chết mòn, không còn cảm giác nào khác, ngoài sự dày vò, ân hận, đớn đau dâng lên tột đỉnh. Vì, giá như trước ngày 30-4-1975, nếu có chiến tranh, có đánh nhau dữ dội, tôi cũng còn chiếc xe hơi riêng mới toanh mang hiệu Peugeot 404 chạy đi... Hay là tôi có thể mua vé máy bay khứ hồi cấp tốc bay về với mẹ, tôi qùy xuống bên mép giường, cầm tay mẹ, ôm chặt mẹ lúc mẹ hấp hối. Ôi! Giờ đây tôi không thể đến bên xác mẹ già yêu dấu, để nhìn mẹ một lần chót trong giờ phút mẹ lâm chung. Tôi không thể nào xin tấm giấy phép đi đường. Tôi cũng không thể chen lấn ra bến xe đông nghẹt người có giấy phép ưu tiên. Vì, tôi là kẻ “ưu tiên u đầu” thì có. Tôi không thể đứng ngày nầy qua đêm khác ngoài bến xe, nhịn đói nhịn khát, mà chẳng dễ dàng gì chờ mua vé xe từ Sài Gòn đi Đà Lạt. Biết tin mẹ chết, cũng đành chịu! Dù từ Hốc Môn đi Ta In, chỉ hơn 300 cây số.

                              Thế là hết thật rồi! Một thân xác héo hon đã thực sự trở về với cát bụi phù dung. Tôi không lẽo đẽo đi sau quan tài mẹ, vật vã khóc than mà tiễn đưa mẹ về nơi an nghỉ nghìn thu. Má con chúng tôi không biết làm gì hơn, ngoài việc quây quần bên nhau, gùy dưới nền đất, bồn chồn lo âu, sụt sùi, băn khoăn, suy niệm lời Chúa, lâm râm dâng lời cầu nguyện. Tôi ứa nước mắt nhìn mẹ trong hồi tưởng:

                              Mẹ tôi sanh tại làng Thuận Nhơn. Nhà ông bà ngoại ở quê (tức ông bà cố ngoại của con tôi. Làng ở bên con sông rợp bóng hai hàng dừa và lũy tre xanh um bóng mát thuộc Tổng Cù Hoan, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Mẹ lớn lên trong một gia đình bế thế, phong lưu giàu có, ruộng vườn của ông bà ngoại cò bay thẳng cánh, lúa gạo trâu bò nhiều nhất trong vùng thời bấy giờ. Ông cố ngoại là một võ quan rất giỏi ở triều đình vua Khải Định, Huế). Mẹ có dáng dấp thon thả, làn da bánh mật, răng hạt huyền nho nhỏ đều đặn, miệng cười chúm chím, mắt phượng mày ngài, mũi cao, mái tóc dài láy đen bối thành một búi to sau gáy. Áo quần mẹ luôn trang nhã, sạch sẽ và tươm tất. Mẹ đi ra ngoài đường, ở trong nhà, hay đi ngủ, mẹ đều thay đổi quần áo đâu ra đó hẳn hoi. Dù đi khỏi xóm, đi chợ, hay đi bán, mẹ luôn mặc áo dài đoan trang kín đáo che thân. Đặc biệt mẹ sống cuộc đời bình dị đạo đức, chất phác lương thiện, dịu hiền phúc hậu. Mẹ siêng năng tần tảo đầu tắt mặt tối, long đong bán buôn xuôi ngược.
                              Mẹ nhẫn nhục lao khó giúp chồng, nuôi đàn con mười mạng nên người. Vất vã vì chồng vì con nheo nhóc, mẹ không hề tỏ lộ bất bình, hay nặng lời to tiếng. Trời mưa tháng gió ở nhà rảnh rỗi, mẹ siêng năng cần mẫn khéo tay tự chằm nón lá. Mẹ may áo quần cho chồng, con. Đôi khi mẹ cũng may biếu cho bạn mẹ, và người thân. Đó là việc vặt trong nhiều hy sinh to lớn khác. Phải nói là hầu như suốt cuộc đời mẹ, chưa có lúc nào an nhàn thảnh thơi, ngưng nghỉ tay chân. Cái số mẹ cực thân đến thế mà! Đồng thời mẹ xứng hợp với đức tính bác ái khoan dung của chồng. Mẹ dễ dãi cả tin khi ai nói điều gì xuôi tai “nịnh” mẹ, thì có bao nhiêu tiền của, mẹ nhẹ dạ trút cho người ấy hết. Dù sau đó biết mình bị lừa, nhưng mẹ không giận lâu, mẹ “hờn mát” một chút, rồi quên ngay.

                              Mẹ chân chất hiền lương đến độ thật thà như đếm. Mẹ tính tiền cũ từ thời vua Bảo Đại ra tiền cụ Ngô, đến thời đổi tiền ở chế độ Sài Gòn, ra tiền mới sau ngày mất nước 75, thì mẹ giống thầy bói mù sờ con voi. Mẹ luôn bị kẻ chợ ăn lường. Thế nên, dẫu bị mất hết tất cả tiền bạc, nhà cửa villa, biệt thự tan hoang, mẹ không thèm tiếc. Mà mẹ chỉ ôm khư khư bình vôi đồng đen nhỏ như cái chén kiểu, nhưng khá nặng, và rất có giá trị, chiếc bình vôi nầy có mấy tiệm vàng như Kim Khánh hoặc Kim Ngọc trả giá 5 cây vàng bốn số 9, nhưng gia đình chẳng ai chịu cho mẹ bán! Thân bình vôi tròn vo, đít vôi bằng phẳng, có quai xách đồng xinh xinh bên tai vôi. Mỗi lần ăn trầu, mẹ khéo léo lấy cây chìa vôi têm vào mấy lá trầu xong, còn dư vôi trên cây que chìa, mẹ quệt quệt lên trên miệng bình, cho “bình vôi hưởng tí xái”. Thế là miệng “bình vôi vui vẻ” nhô cao, còn lỗ miệng bình vôi thì teo tóp dần nhỏ xíu; trông nó hô, loe, vẩu ra, hơi giống miệng con heo nái, coi ngộ nghĩnh sao đâu. Hồi ấy tôi nói với mẹ:
                              - Tại mẹ ưa mời bình vôi ăn trầu, nên cái miệng nó mới loe ra dị hợm kinh khủng nè.

                              Mẹ cười vui vẻ. Mẹ rất thích bình vôi đồng đen nầy, nó đã theo mẹ suốt từ thời mẹ về nhà chồng, đến tận ngày nay. Ấy vậy mà bây giờ mẹ cũng buông thỏng hai từ bỏ hết. Kể cả chồng, con, cháu, chắt, dấu yêu. Mẹ bỏ hết của cải vật chất vinh sang xưa. Một mình mẹ lặng lẽ chết đói ra đi âm thầm, mẹ về bên kia cuộc sống mới.
                              Bà chị dâu của tôi đã kể lại rằng:

                              - Hôm mẹ vĩnh viễn từ bỏ con, cháu, ấy là một buổi sáng trời ốm nắng, lất phất từng đợt mưa phùn, trong nhà ai ai cũng lo đi rẫy, đi rừng rất xa, xa ghê lắm; để kiếm sống. Tửng bưng sáng, anh Dzoãn đi bộ từ trong Ta In ra Tùng Nghĩa (xa xôi khoảng hơn hai mươi cây số); anh chạy đi vay tiền, để mua thuốc cảm về cho mẹ. Ở nhà chỉ có một mình chị vợ loay hoay dọn dẹp nhà cửa. Mẹ nằm im trên giường không động đậy nhúc nhích. Chị (chị dâu) thấy mẹ không dậy ăn trưa như mọi ngày, nên chị bước qua gian liếp bên cạnh, chị đến bên giường tre lạnh lẽo, không nệm ấm chăn êm. (Nhà anh chị quá nghèo, sau 30/4 anh đi tù 5 năm, vừa được tha về, khi cả nhà bị đi kinh tế mới. Họ chỉ có mấy nhúm quần áo tẻo teo, vài bao bố: son nồi chén bát, guốc, dép, linh tinh… Ít mùng mền đơn bạc, và những bàn tay trắng. Con dâu dắt díu mẹ già tám mươi tuổi lom khom leo núi chùng chập, vượt đồi trùng điệp. Chồng đau bao tử cùng bầy nhỏ lút chút tám chín đứa con, đứa lớn nhất mười ba tuổi trở xuống đứa non tháng tuổi, thì lấy đâu ra những thứ xa xỉ ấy trong thời buổi gạo châu củi quế như ri).

                              Mẹ trùm chiếc khăn màu nâu, mặc áo dài nỉ dạ đen, quần đen, áo len nâu khoát bên ngoài, và mang đôi tất đen. Mẹ nằm nghiêng, quay mặt vô phía ván vách bằng bìa gỗ. Mẹ chập chờn thiêm thiếp trong giấc ngủ muộn phiền.
                              Chị e dè hỏi thăm:
                              - Mệ ơi! Mệ có khoẻ không?
                              Chị Ngọ không thấy mẹ trả lời, chị liền cúi sát xuống bên mẹ, nhè nhẹ lay lay đập đập vào cánh tay mẹ:
                              - Mệ ơi! Con nấu cháo cho mệ ăn nghen.

                              Mẹ tôi lừ đừ mở đôi mắt nhiều ánh đục, dường như đã bất thần ra, mẹ cố gắng quay ngoái cần cổ yếu ớt về phía con dâu, thều thào:
                              - Hôm ni có… cháo ăn… hả con.
                              - Dạ. Mệ đau, không ăn được măng luộc hầm mềm như mọi ngày đâu. Để con chạy ra chợ xép, mua chút gạo, con về nấu xí cháo.
                              - Có gạo là mừng hì.
                              - Mệ ráng chờ nghe. Chợ hơi xa. Con sẽ đi về ngay, nấu mau lắm.
                              - Thôi con. Để dành gạo nấu… cho thằng Cu Nâu… có chút nước hồ mà uống, thay cho sữa mẹ không có… Con à.
                              - Thằng bé con không đến nỗi nào đâu. Mệ.

                              Thế rồi, mẹ tôi ư hữ… ú ớ… mệt nhọc rên khe khẽ, mẹ lại lừ đừ, khó khăn mệt nhọc khi quay mặt vào trong vách. Hơn giờ sau, khi chị dâu bưng chén cháo tới gần giường mẹ. Mẹ mỉm nụ cười méo mó, từ từ nhắm mắt, và dần dần lịm thiếp vào giấc ngủ nghìn thu êm đềm không muộn phiền. Chị không hề nghe tiếng mẹ thở, tiếng nấc, chị cứ ngỡ là mẹ mệt muốn ngủ chút xíu như mọi ngày. Mẹ đã đói khát thiếu thốn năm năm rồi, và trước khi lìa đời, mẹ vẫn nhịn đói. Mẹ không đành lòng ăn chén cháo trắng lỏng bỏng với tí muối hột. Nay mẹ không nói một lời từ giã, không một lời trăn trối. Mẹ muốn im lìm sớm ra đi, ngỏ hầu trút bỏ gánh nợ đời, khỏi làm phiền con cháu khó nghèo đông đúc. Con cháu không phải cưu mang “nuôi người vô dụng” thêm một miệng ăn. Mẹ muốn rũ bỏ từ trên vai anh chị tôi, và các cháu nhỏ nỗi âu lo phiền muộn vì bổn phận và trách nhiệm nặng nề. Ôi Mẹ! Mẹ muốn nhịn phần ăn hiếm hoi ít ỏi qúy báu cuối cùng, để chia sẻ cho đứa cháu nhỏ chưa tròn hai tháng. Mẹ đã chết đói. Mẹ âm thầm lặng lẽ êm ái ra đi đúng vào ngày Tết Đoan Ngọ.

                              Lẽ ra, như Tết Đoan Ngọ từ những năm xa xưa, thì mẹ tôi ưa đi chợ mua đầy thức ăn, hoa quả bánh trái. Mẹ làm bánh tro, bánh nếp, bánh bèo, bánh ít, bánh nậm, vân vân... Mẹ làm cả cơm rượu nếp cẩm, nếp than. Mẹ nấu cơm gạo thơm với nhiều thức ăn thịnh soạn, nóng hổi, linh đình, để cho con cháu từ xa trở về nhà thăm cha mẹ. Cha mẹ con cháu hân hoan sum họp gia đình vui vẻ ăn uống. Mẹ nói:
                              - Các con, cháu, ăn bánh tro, ăn cơm rượu, uống chút nước cơm rượu, thì sẽ diệt giun sán trong bụng. Hì.

                              Hầu như cả xóm Trong xóm Ngoài ở Ta In đều thương cảm mẹ của chúng tôi, họ đã cùng nhau đến nhà anh chị Dzoãn, tận tình lo cho mẹ chúng tôi chu đáo. Mỗi người một việc tươm tất từ đầu đến cuối gọn gàng. Trước khi đậy nắp áo quan, họ vẫn để nguyên bộ quần áo cũ, khăn, tất, lúc mẹ chưa đành-đoạn bỏ đi. Và họ mặc lồng thêm cho mẹ chiếc áo gấm, nền áo màu nâu non điểm rải rác những bông hoa cúc đại đóa vàng nghệ. Chiếc áo gấm xưa kia mẹ tôi đã mặc trong ngày trọng đại nhất của đời con gái, khi họ nhà trai hân hoan tưng bừng đến rước dâu. Nay thì những người khác đã thay ba tôi mặc chiếc áo gấm (của ba đã ưu ái trao tặng mẹ). Họ đặt xâu tràng hạt Mân Côi vào bàn tay mẹ lạnh giá, và họ nhớ để bình vôi đồng đen bên cạnh mẹ. Sau rốt, họ choàng thêm cổ áo quan dày cui thô sơ thơm mủ ngo ra bên ngoài toàn thân mẹ.

                              Mọi người tiễn đưa mẹ về an nghỉ nơi nghĩa trang quạnh quẽ. Không một vòng hoa cườm đen cườm tím cùng lời thành kính phân ưu. Không có cỗ áo quan sang trọng đắt tiền, mà chỉ là sáu tấm ván thông đơn sơ hèn mọn thơm lựng mùi nhựa mới. Không hề có bát nhang đèn nến, rườm rà nghi lễ. Không có gì, không còn gì tất cả ngoài nỗi đớn đau kinh hoàng phủ chụp xuống đời lặng lẽ. Ấy thế mà người dân cùng đinh đến thăm viếng mẹ đứng lố nhố đông đúc, từ ngoài ngỏ đầy kín người cho đến trong nhà tranh lụp xụp đìu hiu chật chội nầy. Họ chia buồn, ân cần giúp đỡ gia đình anh chị tôi nhiệt tình. Họ nghỉ đi rừng ngày hôm ấy, không đi rẫy, nghỉ đi làm dù một ngày, là họ nhịn đói nhịn khát và có thể càng thêm đau ốm xanh xao. Họ cùng nhau lặng lẽ khiêng quan tài mẹ tôi băng rừng, leo qua một triền núi thấp, vượt đốc, qua bãi đầm, đi trong thung lũng sình lầy. Rồi họ leo lên ngọn đồi toàn đá ong lởm chởm, đi trên núi cao chót vót và đơn điệu, nơi đây chỉ toàn sỏi đá và gió lồng lộng hú rít, thổi đám bông lau xoay xoay trắng cả lòng quê, và từng cơn gió kéo dài lê thê lạnh thấu xương. Mẹ tôi nằm xuống, vĩnh viễn ở lại nơi rừng núi bạt ngàn hoang vu lạnh lẽo, đơn điệu chơ vơ với cây thánh giá gỗ lắc lư theo gió rì rào. Tấm bia mộ gỗ đơn sơ ghi khắc nơi an giấc nghìn thu đạm bạc và đớn hèn: Mattha Ngô thị Cúc, sanh năm: 1895 >> 1980. Thọ 85 t. Thật đông nghẹt người đói khát nghèo nàn lại lủi thủi buồn xo trở về lối cũ, trên con đường đất đỏ gồ ghề, nơi mẹ đã nhờ người sống thút thít ngáp ngáp mang mẹ đi qua. Khi tôi có thể đến với mẹ… thì nấm mồ mẹ đã lút cỏ xanh. Tôi luôn đau đớn, tủi hổ, dày vò và khóc sưng mắt khi nghĩ về mẹ.

                              Thời gian lật đật buồn bã chán chường qua đi, tôi tất bật, bồn chồn, âu lo với công việc cơm áo khốn đốn mỗi ngày, nhưng gia đình vẫn không đủ sống, nghĩa là thường xuyên đói khát cơ cực. Ngoảnh nhìn lại, mới đó mà đến ngày giỗ đầu của mẹ. Tôi bươn bả đi mót khoai lang, sắn mì, dưa leo và đậu đũa ngoài ruộng Nhị Tân (Hốc Môn). Tôi hớn hở đem mấy thứ ấy về nhà, làm sạch, chu đáo xào nấu xong. Tôi bày thức ăn lên chiếc bàn cũ kỹ xiêu vẹo, bàn chỉ có ba chân rung rinh như răng rụng. Còn một góc bàn thì kê tấm táp lô sứt mẻ, để thay thế một chân bàn què.

                              Bà Nga hàng xóm là người thân cận nhất bây giờ đã nói:
                              - Xời! Việc gì cô phải nhọc lòng! Chứ cô không thấy giờ nầy trời đang mưa xối xả, nhà thì dột và rách nát như ổ chuột. Ơ! cô lại bắt mẹ mặc áo gấm lội nước lụt, trong nhà y như cái ao. Cô làm gì có bàn ghế cho mẹ ngồi chò hỏ chơi, xơi cơm độn với nước. Mẹ cô chưa kịp về ăn chút xí, thì bầy ruồi ốm đói trốn mưa đã trúng mánh, bu lên mấy dĩa thức ăn tám lớp, và o o o… xơi tuốt rồi. Giỗ mí chạp cho mệt! Khéo vẽ!

                              Bà Nga chẳng ngại mất lòng, líu lo nói huyên thuyên, và cười sảng khoái. Tôi lắng nghe mãi, mới hiểu được thâm ý của bà. Thiệt dễ ghét quá đi. Tôi ngẩn ngơ nhìn bà Nga. Những giọt nước mắt nóng hổi đang lăn dài dài xuống má. Giọt khóc quê hương. Giọt hờn tủi khóc ông bà ông vãi cha mẹ khuất mặt khuất mày. Giọt khóc chồng sống đoạ đày ở trong tù “cải tạo”. Giọt khóc bầy con lút chút lù đù, vất vưỡng long đong cơ cực ở vòng ngoài, (tù trong và tù ngoài xêm xêm như nhau, có khác chi, như cá mè một lứa). Giọt đắng cay khóc cho chính bản thân tôi lầm than khốn cùng. Khổ đến nỗi tôi không thể đào đâu ra tiền, chẳng có cắt bạc để mua cặp nến đỏ, bình hoa tươi, không hương nhang cắm trên bàn. Tôi không thể mua bột về làm bánh cúng mẹ dĩa bánh bèo, bánh ít, bánh nậm: thứ bánh mà mẹ thích ăn lúc sinh tiền! Tôi không thể kéo mẹ về trong hương khói, để má con chúng tôi quỳ dưới đất, sì sụp lạy tạ lỗi cùng mẹ, cùng bà ngoại! Sợi dây tơ rung quá mong manh, tơ trời nhẹ tênh thiêng liêng kia đang run bần bật giữa lưng trời mưa trắng. Niềm ước mong nối liền tình yêu thương ngút ngàn giữa mẹ -với má con chúng tôi- đã đứt lìa trong khói hương.

                              Một kỷ niệm bất ngờ về những cơn mưa không sao giải thích nỗi, tâm trí tôi vụt quay về dĩ vãng xa lắc xa lơ: có một thuở nào hình như xa xôi, xa xa lắm… gia đình ba mẹ tôi đang từ trên đỉnh cao sung túc, phù vinh, giàu sang… bỗng rớt tụt xuống vực thẳm, vì ba tôi làm chủ nhà máy cưa cây, bị nó hại cho khánh tận, đã khuynh gia bại sản. "Của rừng, rưng rưng nước mắt thật" mà! Bao nhiêu tiền ba làm thầy thuốc đỗ vô cây cối, cũng như nước đỗ lá khoai. Hồi ấy có màn mưa xám đục buông suốt ngày đêm, rất bé thơ tôi đứng trong khung cửa sổ, nhón chân xem mưa đập lộp bộp vào cửa kính, những dòng nước nhỏ ngoằn ngoèo chảy xuống tấm kính mờ đục, tôi háo hức chờ đợi mẹ về nhà.
                              Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa.
                              Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”
                              (cd).
                              Mẹ đi chân đất, đầu đội nón lá cũ ướt nhẹp, toàn thân mẹ dầm dề nước mưa, chiếc đòn gánh uốn cong đang kẽo kẹt trên vai mẹ, còng xuống hai thùng nước cơm trĩu nặng. Mẹ đã đấu thầu được cơm thừa canh cặn từ ngoài mấy đồn lính, tự mẹ đến gánh về: Một thùng rất sạch đậy kín đựng cơm nóng, có mấy ngăn cào mên đựng thức ăn, còn nguyên trong chảo, (mà chú quản đội vừa múc ra cho mẹ, chưa có người ăn, thì để cả nhà tôi ăn buổi tối). Thùng kia đủ thứ hỗn tạp, là nuôi bầy heo vài chục con. Mỗi buổi nhọc nhằn trở về nhà, mẹ thường dúi cho tôi khi thì vài cái bánh ngọt, khi có miếng chocolate, hay trái chuối, trái bắp. Tôi thèm ăn nhất là lát bánh mì cứng hấp trong nồi nước sôi, bánh mì nóng mà chắm với nước mắm ớt, nước cá hoặc nước thịt, tôi ngấu nghiến ăn cảm thấy ngon hết sẫy.
                              Thương con tần tảo sớm hôm.
                              Cơm đùm chéo áo, cháo đùm lá môn
                              ”. (cd)
                              ***

                              Một lần kia, mẹ kêu chủ thầu các trường học nội trú trong địa phương đến nhà, mẹ bán mão bầy heo thịt. Mẹ và các con cháu trong nhà dẫn bà đầm, cùng phu cai xuống chuồng nuôi heo, cách xa nhà bốn mươi mét. Ngả giá xong xuôi, phu cai trói bầy heo cho vào rọ, họ khiêng những rọ heo lên trên đường cái, và vất vào ba chiếc xe ngựa. Bà đầm cầm cái áo veste của bà (đã máng vào càng xe ngựa đậu trên đường cái), bà ta móc túi lấy tiền, thì đồng tiền không cánh mà bay?! Bà đầm tri hô mất ba trăm sáu chục đồng Đông Dương. Bà ta quyết một quyết hai bảo là:
                              - “Người trong nhà nầy đã ăn cắp”. (!!?)

                              Bà ta tri hô lên làm hung dữ, bà kêu lính hộ tống chạy đi gọi hiến binh, phú lít tới. Hiến binh không cần biết luật lệ phải trái, không cần biết bà ta có mất tiền thật trong túi áo, máng bên sườn xe kéo, để bên lề đường cái; hay không?! Họ còng tay mẹ tôi và xô dụi mẹ lên chiếc xe ngựa. Mẹ nằm với mấy chục con heo kêu la rần trời. Mặc kệ gia đình tôi kêu khóc, phản đối inh ỏi. Chúng hăm doạ:
                              - Nếu lộn xộn làm mất an ninh, sẽ bị bắt - nhốt hết cả đám.

                              Quân cướp cạn hùng hổ, quất ngựa phóng nước đại chạy như bay. Họ tống giam mẹ vào nhà lao. Hơn nửa tháng bặt tin, sau đó chúng thả mẹ ra. Mẹ về như cái xác không hồn, trông mẹ quá tiều tụy thảm thương. Ba tôi, con cháu xúm xít ngồi chung quanh mẹ, lo lắng hỏi thăm. Mẹ im lặng mà rấm rức khóc sưng húp mắt. Mãi lâu mẹ hổn hển kể lại: Suốt bao ngày mẹ bị nhốt, chúng cho mẹ ăn ngày một bữa nửa chén cơm khô, với ít muối hột. Đêm đêm bọn lính Tây lôi mẹ ra tra điện, chúng độc ác tra khảo, chích điện vào người bắt mẹ phải nhận tội, dù mẹ không hề làm. Mỗi lần mẹ bị bọn tà lọt gian ác tra điện, thì mẹ sợ hãi kinh khủng, dòng nước ấm chảy ra ướt dầm thân thể mẹ. Mẹ không thể nén mồ hôi hột lạnh toát, không thể nín lại cơn buồn đái. Mẹ không đủ sức chịu đựng cơn đau, mẹ đau đến ngất xỉu, thì chúng lôi chân mẹ kéo xềnh xệt về phòng giam trống không giường chiếu. Chúng tạt nước lạnh cho mẹ tỉnh lại, mẹ bị chảy máu mũi, máu đầu. Mẹ run rẩy, mặt mày xây xát, sưng húp, bầm tím.
                              Mẹ thật chịu oan ức tột cùng, mà tiền mất tật mang. Suốt từ đó đến nay mẹ luôn luôn sợ hãi và yếu hẳn người. Mẹ bị đau tim và thường xâm xoàng, ngất xỉu vì quá hãi hùng. Bọn Tây thời đó đầy quyền uy, hống hách, ác độc hơn loài hổ sói, người dân thấp cổ hé họng chỉ câm miệng cúi đầu, điếng lặng cắn cỏ ngậm vành, không dám hó hé than van. Vậy đó, mẹ chịu đủ mọi oan ức, khổ sở cay đắng nhọc nhằn, tủi cực trăm bề, để lo nuôi dạy đàn con nên người.

                              Một lần kia, sau thời gian bị tra khảo đánh đập tù đày oan đó khá xa, mẹ vẫn lặn lội đi gánh nước cơm về nhà, mẹ đã thay bộ áo quần ướt sủng nước mưa. Mẹ ngồi bên bếp lò giơ đôi bàn tay nhăn nheo sạm nắng chai cứng, tóp teo vì thấm lạnh ra, để sưởi ấm. Mẹ âu yếm nhìn tôi ngồi kế bên bỏm bẻm ngấu nghiến nhai bánh mì. Bỗng mẹ nhìn tôi sửng sốt, lạnh lùng hỏi:
                              - Đôi guốc mới, con mang đó. Mô rứa?
                              - Dạ... Của con... con... l..a...
                              - Mẹ đã nói rồi, đợi bán heo, mẹ sẽ mua cho con quần áo, dép guốc cho con đi học. Mẹ biết con mau lớn, giày dép cũ con mang không vừa, mà đi chân không thì lạnh lắm. Mẹ lo sợ con đau. Ngặt nỗi, bi chừ chưa có tiền. Mà răn con dám cả gan, đi ăn cắp, của ai rứa?

                              Tôi cúi gầm đầu, một tay túm mái tóc bum bê, nhìn đôi guốc mới mang vừa vặn ở chân mình. Đôi guốc màu đỏ đầy hấp dẫn, có hai quai cánh cam in đủ màu sắc hoa lá. Tôi thấy nó quyến rũ, ước ao vô vàn từ lâu. Khi chị Tư sai tôi vào quán chị Thế mua trứng vịt, tôm khô. Thừa lúc quán xá bận rộn người mua kẻ bán, tôi lấm lét ngó trước nhìn sau, rồi vội thò tay chộp đôi guốc kẹp chặt vào nách, (đã che kín bằng chiếc áo mưa lụng thụng). Trống ngực tôi đánh rất mạnh, mặt mày tái mét, tôi run như cầy sấy, tôi liền lẽn ra và co giò chạy. Vừa chạy tôi vừa ngoái cổ lại nhìn chị Thế, là bà chị dâu của tôi, chị ấy không biết gì hơn, ngoài việc chị thu nhiều tiền đầy nhóc vào tủ sắt.

                              Mẹ già nua trước tháng năm đang gục đầu trên hai đầu gối ướt lạnh, run rẩy, mệt nhọc - và khóc. Mẹ khóc vì tội lỗi của con thơ. Mẹ khóc vì cảnh thăng trầm không thể ngờ, vì mẹ chưa mua nỗi đôi guốc cho con, (chỉ đáng vài xu trong khi tiền ba tôi làm chủ trại cưa cây, thì bạc trăm, bạc ngàn, kể như ba đỗ xuống biển. Và, tiền bán hai chục con heo, mẹ bị bọn chúng trấn lột hết). Trong đêm trường thanh vắng, khuya lắc khuya lơ, tôi nghe rất khẽ nhưng rõ ràng tiếng mẹ đọc kinh cầu nguyện đều đều. Thỉnh thoảng kèm theo vài tiếng thở dài nho nhỏ, lời mẹ nguyện xin cho con cháu bình an, mạnh khỏe.

                              Tối hôm đó mẹ thức rất khuya, ngồi một mình dưới gian bếp đèn dầu leo lét, mẹ đã cắt khúc vải nhung màu vỏ măng cụt, để may áo cho tôi mặc ấm. Chiếc áo ấm gồm ba lớp: lớp nhung ở ngoài, mẹ bọc thêm một lớp gòn rất mịn ở giữa, và may chằn thêm một lớp lụa sa tanh mới lót ở bên trong. Tôi leo lên giường từ lâu, trằn trọc mãi không làm sao ngủ được, tôi rất sợ và lo âu, không dám nhúc nhích. Tôi cứ mở mắt nhìn mẹ chăm chú làm việc. Khá khuya, mẹ lê đôi dép lẹp xẹp lần mò từng bước, mẹ nhẹ nhàng đi trong bóng tối mờ mờ. Mẹ vặn ngọn đèn dầu hột vịt thật lu, mẹ cố không khua động giấc ngủ của mọi người. Trong bóng tối, tôi hé mắt nhìn mẹ ngồi đọc kinh, sau đó mẹ ngả lưng xuống đệm theo tiếng thở dài. Tôi nằm im giả vờ ngủ say. Bàn tay mẹ lạnh ngắt run run sờ soạn tìm con. Mẹ đặt đầu tôi nằm ngay ngắn trên gối mỏng. Mẹ kéo hai chân tôi thẳng ra, và đắp mềm lên tận cổ tôi. Mẹ ôm tôi vào lòng và hôn lên mái tóc tôi khét nắng. Nước mắt mẹ thấm lạnh da đầu tôi.
                              Nuôi con chẳng quản chi thân.
                              Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
                              ”. (cd)

                              Thì ra mẹ đã khóc. Khóc âm thầm lặng lẽ trong bóng tối. Mẹ giống người chèo đò đơn độc ra tay chống chèo trên dòng nước ngược đầy sóng gió, khi đàn con nhỏ sợ sệt, la khóc, run rẩy bám chặt vào mạn thuyền. Mẹ cố sức chịu đựng giông bão, gian truân âm thầm và câm lặng dai dẵng; miễn sao cho con, cháu, bình yên, no ấm. Mẹ là một trong vạn triệu người Mẹ Việt Nam tần tảo, phúc hậu, ôn hoà cao cả, hy sinh xiết bao suốt đời mình. Bốn tuần sau, mẹ bán bầy heo thịt khác. Ba tôi vượt núi băng rừng khổ cực trăm bề làm cúp cây, nay đã hoàn toàn ổn định. Gia đình chúng tôi lại bắt đầu khá giả, vinh sang hơn năm cũ. Nhờ mẹ tôi quáng xuyến, đảm đang, siêng năng, tháo vát. Ba tôi giàu kinh nghiệm và liêm chính đàng hoàng trong việc làm chủ trại cưa, nên ít lâu sau gia đình tôi thoát khỏi cảnh bần hàn.

                              Nhưng dẫu có sung túc giàu có hơn xưa nhiều, rất nhiều, thì vết thương đầu tiên về bài học giáo dục đạo đức trong lòng mẹ và con, hẳn không có cách gì lấp đầy, phôi pha được. Kể từ ngày xa xưa đó, mỗi khi tôi có ý muốn lấy cắp cái gì của ai, thì hình ảnh mẹ tôi ngồi bó gối bên bếp than hồng; nước mắt mẹ chảy ướt thấm vào da đầu tôi, vẫn hiện lên rõ nét. Khiến tôi quắt quay và lặng người, vì hối hận không hề dám tái phạm. Đó là nốt “nghịch phách” đầu tiên trong đời vào chiều mưa giông giá lạnh năm xưa. Ước gì nay tôi được chìm trong dòng sông đã chảy qua thời ấu thơ, nơi mái gia đình êm ấm của tôi ở buổi thiếu thời kia, để tôi có thể nói thật nhỏ:
                              - Mẹ ơi! Cho con xin lỗi.

                              Ôi! Chỉ cần trở về ngày ấy và biết nói câu nầy, thì tôi sẽ sống lại và chỗi dậy trong tâm tư tôi cả quá khứ ngọt ngào, say đắm, êm đềm, nồng nàn, sung sướng xiết bao! Và, bây giờ tôi biết đằm thắm, khôn ngoan gấp bội lần. Người đàn bà còn quá trẻ bỗng co nhói lên từng cơn đau tim nghẹt ứ, xót xa đắng cay khôn tả xiết. Vốn bị nghị lực mài dũa, cọ liếc mỏng tanh, tôi nghẹn ngào, đắng cay, hơn sự cơ cực đọa đày chịu đựng dài lâu. Sự trầm uất nén dưới chiều sâu tâm hồn đã vọt lên tim, lên óc, lên cổ tôi những cục nấc nghẹn ngào tức tưởi. Tôi đứng giữa trời mà khóc, mà cười. Cười khẩy. Tôi không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn, xếp lớp lăn tăn theo sóng đời cơ cực. Gia đình nhỏ chúng tôi lầm than khốn cùng đã rớt dưới tận đáy xã hội phù phiếm.

                              Nơi con đường cũ mà cha mẹ tôi xưa kia rất vinh sang đã từng đi qua đó, và chính gia đình nhỏ cuả tôi từng lả lướt, rộn ràng líu lo ca hát trên đại lộ mỗi độ hoàng hôn… Ngày nay mẹ con chúng tôi dắt díu nhau lọt tọt, líu ríu bước thấp bước cao, lần mò đi từ ngày nầy qua tháng nọ. Đi từ hừng đông đến hoàng hôn không ngơi nghỉ. Những đôi môi khô nứt nẻ run run nếm đủ cay đắng, ngọt bùi xính vính tình đời còn mấp máy và thút thít, như nghiến chặt hai hàm răng, nghiền nát hiện-tại rát bỏng phừng phựt cháy trong lòng. Sau đám sương mù dày đặc ngoài trời kia, là tương lai tối thui và con đường gồ ghề, lởm chởn sỏi đá lẫn lộn bùn tro bầy nhầy. Con đường tiến thân của mẹ con chúng tôi đó, hình như có tiếng âm vọng não nề. Chúng tôi không biết nên bắt đầu từ hướng nào cho phải! Đôi bàn tay tôi khô cứng, chai sạn sần sùi nứt nẻ, hợp lực với những bàn tay các con thơ yếu gầy tong teo bé tí xíu, vẫn quơ quơ về phía trước. Cùng lòng can đảm, tận tụy, chịu đựng gian lao, nghèo khổ siết chặt, thì không có cách gì lay chuyển.

                              Trời bao la xanh xanh trong trong, không có một vắt mây trắng, nhưng sao đôi mắt tôi mù mây xám giăng mắc!? Giống như những sợi tơ tóc ngày xưa đen tuyền óng ả quyện cùng chùm tóc bạc trước thời gian đã phủ khắp nẽo đi lối về? Tôi đang mặc chiếc áo gấm của Lụât để lại, tôi tưởng tượng chiếc áo dù cũ, nhưng có phần nào che gió chắn mưa. Thì hy vọng là tôi bớt cảm thấy cô độc, ấm áp và ít lạnh. Ngỏ hầu tôi sẽ đương đầu, chạm trán, chơi những canh bạc đen đỏ với định mệnh. Đành phải như thế thôi. Nếu định mệnh không thách đố gạt gẫm chúng tôi: Xỏ lá sát phạt, chơi khăm chúng tôi trắng tay –và đểu giả lật ngửa quân bài ra– Khi trận đấu chưa bất phân thắng bại. Thưa ông!

                              _ * _


                              Tình Hoài Hương
                              Last edited by Tinh Hoai Huong; 05-14-2018, 01:23 AM.
                              Bút trần nào tả được lưu luyến!
                              Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                              Tình Hoài Hương

                              Comment


                              • CHA Tôi - Kenda K35 Gumwall 27"


                                CHA Tôi
                                Happy Father' Day. Happy. Happy...
                                THH xin cống hiến quý độc giả bài viết về CHA

                                Thân quý,
                                ***

                                “Tinh thần gia đình là gì?
                                Đó là: Pha trộn tình mến sợ cha. Tình âu yếm sợ mẹ. Kính trọng cả hai. Thán phục nhân đức của cha lẫn mẹ. Bỏ qua các lỗi lầm. Ghi nhớ công ơn. Thông cảm đau khổ. Cảm kích các hy sinh của cha lẫn mẹ” (P. Janet).

                                Ba tôi là người con thứ tư sinh trưởng trong một gia đình bề thế, giàu có, ở Làng Hưng Nhơn, thuộc Tổng An Thơ, Phủ Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ba làm nghề thầy thuốc Đông Y, lương thiện, ân cần và đạo đức, chu đáo tận tụy trị bệnh nhân khá mát tay. Đúng là “lương y như từ mẫu”. Ngoài ra, ba tôi còn có vài ba nghề tay trái nữa là: nghề cưa xẻ cây gỗ, làm nông, và mở một trang trại ươm cây giống rất to lớn. Dĩ nhiên, mọi công việc nặng nhọc về vườn tượt, đồng áng, ba tôi có nhờ lực điền, tá điền & quản gia phụ việc.

                                Nhắc về ba, tất nhiên tôi phải nói lướt sơ sơ ti tí về má. Má tôi sanh ở Làng Thuận Nhơn rợp bóng hai hàng cây, sát bên con sông xanh êm đềm uốn khúc, nước sông rất trong, ngon và ngọt. Làng nầy thuộc Tổng Cù Hoan, Huyện Hải Lăng, Tỉnh Quảng Trị. Ông ngoại là một võ quan rất giỏi trong triều đình Huế thời xưa. Gia đình ông bà ngoại khá giàu có, ruộng lúa cò bay thẳng cánh. Má tôi lớn lên công dung ngôn hạnh vẹn toàn và hiếu học, biết chữ. Má sinh ra trong một gia đình đông con, nhưng rồi ông bà ngoại tôi chỉ may mắn còn lại cậu Cửu Ổn và má, mà thôi. Má tôi luôn tôn trọng chồng, nhỏ nhẹ, đôn hậu, hòa nhã yêu thương chồng con hết lòng.

                                Ba Má tôi rất hiền, đạo đức và giống nhau là lòng nhân ái, phúc hậu, (mà các con ưa nói ba má có tính tào lao: ăn cơm nhà vác ngà voi). Ba má tôi sống cuộc đời khá hoàn thiện, ngày nào họ cũng xem là ngày cuối cuộc đời trước mặt Chúa: Họ không gian dối, không thất đức, không lừa gạt ai, họ chỉ biết sống bác ái, ôn nhu, an lành, yêu tha nhân, tận tình giúp đỡ người cùng khốn, cần mẫn tận tụy làm việc. Ba tôi có hẹn với đại gia đình anh chị em tôi khi ba ở Đà Lạt là: “ba sẽ ra Huế để lo thu xếp công chuyện, chuyển giao việc trại ươm cây và đồng áng lại cho người thân. Sau đó ba má sẽ vào sống yên ổn ấm no ở Đà Lạt với các con, cháu”. Ấy thế mà… đâu vẫn hoàn đó, ba má chưa rứt ra nỗi. Điển hình nhất là ba má bị quật ngã biết bao phen trong cuộc đời thăng trầm sướng khổ, cay cực, mà không chịu lùi bước. Ba má tôi khi đã đắn đo suy nghĩ quyết chí làm một việc gì, thì họ đồng tâm hiệp sức phải thực hiện tạo thành cơ nghiệp ấy cho kỳ được. Dù gian truân đến đâu mặc lòng.

                                Ở quê nhà nay chỉ còn hai ông bà cụ lom khom lui cui đi ra đi vào thui thủi. Tôi cảm thấy ba má sống thật neo đơn, vắng vẻ buồn rầu không ít. Thế mà hầu như ba má không lấy đó làm phiền bên ngọn đèn dầu hột vịt tù mù tỏa sáng, đầu ba tôi luôn suy tư cúi xuống quyển sổ bệnh nhân dày cộm, mà cuộc sống của ba má vẫn cùng khó, đạm bạc, khiêm nhường… là sao thế hở ba? Cuộc đời ba má hầu như cắm rễ khá sâu vào miếng đất gia tiên; gắn liền với ruộng nương, vườn sắn, ao bèo, gốc tre, bụi chuối. Chúng tôi chưa có cách gì gỡ ba má ra nỗi trong cái “tam sơn, tứ hải, nhất phần điền” nầy. Dù chỉ một phần điền tẻo teo, bé tí nị, mà ba má vẫn trìu mến ưa thích nén lại chân quê. Nơi mái nhà xiêu vẹo mà ba má đang ở đó, tôi thiết nghĩ đó là chân trời mở ra một cửa ngỏ buồn thảm, không hứa hẹn vui vẻ, tươi sáng, bình an gì hơn lúc thời kỳ bắt đầu có chiến tranh.

                                Dù có những viên đạn xoáy tít trong không gian tối đen, tạo thành những luồng vàng sáng, loé ánh lửa rực đỏ xẹt xẹt bay vút qua vút lại trên đầu. Thì sự sụp đỗ của một gia đình bề thế do chiến tranh đã bị uốn cong gập, như con đại bàng gãy cánh trên những đống hoang tàn. Mặc cho mặt trời pha máu lửa đỏ chói từ phương Đông lan qua phương Tây. Mặc súng đạn gieo tang tóc lầm than, khốn đốn dày xéo đến bao gia đình, rồi tàn bạo kéo nhau đi nơi khác. Mặc bệnh tật đói rách ở lại, đau thương và khốn nạn trăm điều điêu đứng vẫn còn đây. Ấy vậy mà ba tôi vẫn điềm nhiên ngồi bốc thuốc, vẫn cầm cuốc, cuốc lại từng lát cuốc trên đất cứng pha sỏi đá khô cằn nứt nẻ, với hy vọng bừng lên.

                                Cũng thế, ba má tôi luôn đắn đo, chần chờ, do dự mãi; nếu họ dọn đi ra khỏi vùng Mỹ Chánh, nơi chó ăn đá gà ăn muối, thì ba má thấy thương quá là thương những người dân quê cần cù lao động quá nhọc nhằn, quanh năm cư dân vẫn đói khổ, rách rưới triền miên. Ốm đau bệnh nạn, họ chỉ có nước nằm đó ngáp ngáp quằn quại chịu trận, mà chờ chết. Nếu họ có ba tôi thường lui tới, đi lại an ủi vỗ về, chăm lo, giúp đỡ, săn sóc, thuốc men (có nhiều lần ba tôi làm việc thiện, bỏ công sức và tiền của hoàn toàn không tính toán), thì tình trạng khốn khổ của từng bao nhiêu người đã được vỗ về, an ủi, họ cũng giảm bớt nỗi đau rất nhiều. Họ không có gì đền trả… ngoài sự tận tụy làm việc kiếm sống, niềm tin tưởng, tấm chân tình cưu mang ơn trọng nghĩa cao với ba tôi, bằng cách chia sẻ ngọt bùi, nụ cười thân thiện ấm nồng trìu mến tình quê.

                                Ngoài nghề chính là nghề thầy thuốc, những thì-giờ còn lại, ba tôi muốn vận động cơ thể khỏe mạnh xí, nhưng trên hết là do ba tôi rất yêu đất, mến vườn; nên ba tôi thích đi làm việc bằng tay chân, tùy theo tháng năm chất chồng, chiếc áo cần lao của ba ngày trước còn mịn và mới, do thời gian đã bào mòn sức lực con người, mà những chiếc áo ấy trở thành vá chằn vá đụp, dày cui, khô và cứng đơ. Mỗi lần ba tôi cử động, tấm áo cũ nó kêu sột soạt như mo cau cọ siết rít vào nhau, tiếng kêu hãnh diện, đắc thắng của người dạn dày kinh nghiệm làm đất đai phải thuần thục.

                                Ba chế ngự mọi thử thách gian khó bằng hai bàn tay “thư sinh lẫn cần lao” cần cù, cùng sự từng trải, thấu hiểu. Hai tay làm việc thoăn thoắt, vất vả ấy vậy vì ba má bận tất bật, chân nầy chưa kịp đặt xuống, chưa kịp bén đất thì chân kia đã nhấc lên. Nhiều lần mãi mê làm việc, ba má tôi quên cả ăn uống. Việc đồng áng nhờ có kiến thức và giàu kinh nghiệm, nên ba tôi có thể truyền đạt lại cho những bạn bè thân hữu nông dân cùng quê khá tốt. Đó là kết quả một đời ba má lao lực, suốt ngày đêm phơi mình giữa nắng mưa khuya chiều, cuốc cuốc cày cày đất cứng khô cằn nứt nẻ không ngơi tay. Ba má tôi thật vất vả nhọc nhằn quá chừng. Khiến một người tao nhã, khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, trí thức như ba, đôi khi trở thành trầm lặng, lầm lì, cáu gắt, nghiêm nghị và khó tính. Đã một đời ba vì đất vì đai, vì dân quê làng xã, vì bệnh nhân cùng đinh nghèo khổ đói rách tả tơi rồi. Từng ấy nhọc nhằn khốn đốn, mà ba tôi chưa thất kinh, vẫn không chịu ngồi yên. Nay ba lại bươn bả đi mở đất khai hoang, mong đem bình an ấm no cho bao nhiêu người thất nghiệp, ba tận tình giúp cho họ từ vật chất đến tinh thần và kinh nghiệm ở những tháng đầu tiên, lúc nào họ có thể tự lập, thì thôi. Vì thế túi tiền của ba má không lúc nào đầy, mà hao hụt khá nhiều, dù ba "có nhiều nghề để lập thân, mà vẫn nghèo". Đó là niềm tự hào dân tộc, là niềm vui duy nhất còn sót lại trong đời, khi ba tôi tuổi già sức cạn.

                                Tôi nghe quá đắng cay chua xót trong lòng. Làm sao mà ba có thể mang hết cuộc đời, cả gia tài khiêm nhường dành dụm gần suốt đời người, để lo cho bá tánh nghèo khổ quá đông đúc, cho nỗi hỉ!? Hở ba? Khi tôi tận mắt nhìn thấy ba má xắn tay áo lên, lo cho người thương tật, ốm đau, những người cùng khổ, mà ba má không cảm thấy gớm, ghê, không một lời thở than. Niềm vui đó có phải do ba tôi đã vắt cạn kiệt ra từ chất xám, trầy trụa trên tấm lưng cong, ở bờ vai trần, để ba chia sẻ ban tặng cho đời thụ hưởng!?

                                Ba tôi thường lấy câu của bậc tiền bối, thánh hiền, để răn dạy con cái. Ví dụ như: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư yên. Trạch kỳ thiện giả, nhi tòng chi. Bất kỳ thiện giả, nhi cải chi”. (Ba người cùng đi, tất nhiên có người là thầy ta. Hãy theo đó mà bắt chước, từ thiện. Nhìn người xấu, nên tự sửa mình). Hoặc những câu: “Lễ. Nghĩa. Liêm. Sỉ: là bốn rường cột để duy trì, giữ vững quốc gia. Bốn rường cột ấy nếu không căng được lên, có nghĩa là người trong nước mà vô lễ, vô nghĩa, vô liêm sỉ - thì quốc gia phải sụp đổ, và diệt vong mất. (Quan Tử).

                                Đôi khi mộc mạc đơn sơ bình dân hơn: “Tiên học lễ, hậu học văn”. “Nhân bất học bất tri lý, ấu bất học lão hà vi”. “Sĩ phu mà ba ngày không đọc sách, thì soi gương mặt mũi đáng ghét. Nói chuyện nhạt nhẽo, khó nghe”. (Hoàng Đình Kiên).
                                Ba tôi ưa nói câu của cổ nhân để gián tiếp răn dạy con cái:
                                - “Nếu ta có đứa con phải giáo dục. Ta sẽ lo cho nó cái gì? Tạo cho nó thành thiện nhân, hay vĩ nhân?” Ta tự đáp:
                                - “Phải tạo cho nó thành thiện nhân”.
                                ***

                                Có một lần, tôi và anh trai ngồi học bài ở phòng bên, hai anh em nói chuyện lung tung về việc học hành trong lớp. Sau đó tôi to tiếng phê bình giáo sư của mình thế nầy:
                                - “Ông ta đã thiên vị, và trắng trợn có tình ý riêng tư, thân mật đặc biệt với một con nữ sinh nọ, nó có bầu rùi”.

                                Thế là hai anh em say sưa hí hửng, vui vẻ thao thao bất tuyệt nói xấu, chế nhạo “con nhỏ kia, và vị giáo sư khả kính”. Chúng tôi không ngờ ba tôi đang làm việc ở phòng kế bên, đã nghe rõ mồn một. Lúc khá lâu, ba tôi gọi:
                                - Hai đứa con: Dzoãn và Tuyết Thụy mau qua bên nầy, ba biểu.

                                Chúng tôi chưa biết ba gọi các con qua phòng tiếp bệnh nhân của ba để làm gì, nhưng hai anh em vâng dạ rõ to, và vui tươi hí hửng dắt nhau đi qua phòng ba, vừa đi anh em khúc khích tươi cười về chuyện “ông giáo và con nhỏ” ấy. Ở trong phòng làm việc của ba đã vắng khách, ba tôi cúi xuống trên quyển sổ bệnh nhân một hồi lâu. Ba còn cặm cụi làm việc, dường như ba không quan tâm về sự hiện hữu của con cái. Chúng tôi đứng xớ rớ gần cửa sổ, anh Dzoãn xích lại sát bên em, khều khều vào tay tôi, thì thầm:
                                - Chắc là ba sẽ thưởng cho anh em mình ha… vì anh và em đều có tên trong bảng danh dự tháng nầy đó em.
                                - Dạ… phải.

                                Một lúc sau, ba tôi xếp quyển sổ dày cui và cất trong hộc tủ. Ba tằng hắng vài cái, rồi ba tháo mắt kính xệ xuống ; (vì cái kính lão bị bể mất một bên tròng, khiến bên có mắt kính bị nặng, cọng kính lỏng lẽo kéo xệ xuống, bên trống lổng không có mắt kính thì treo lên cao, nhẹ hẩng, coi thật tức cười). Ba tôi ngẩng lên nhìn hai con:
                                - Hai đứa ngồi xuống đó.
                                - Dạ, thưa ba.
                                - Hồi nãy có khách ở đây, nên ba không tiện kêu hai đứa vô nói chuyện. Bây giờ, hai đứa kể lại việc “ông thầy giáo” cho ba nghe rõ coi nà.

                                Hai anh em liếc nhìn nhau, tôi len lén thò tay qua cào béo vào đùi anh mấy cái, cảm thấy phập phồng, hồi hộp… không biết có chuyện gì đây! Như thế, chắc chắn là chẳng phải do anh trai em gái học giỏi, sẽ được ba “thưởng” cho rồi. Anh ấp úng:
                                - Dạ, thưa ba, con… con…
                                - Sao? Hồi nãy hai đứa ngồi bên phòng, không lo học, mà chuyên nói xấu người thứ ba, nói xấu người vắng mặt. Hừ… Khách và ba đã nghe rõ mồn một mà. Tại sao bây giờ tụi bây lại im re, hả?
                                Anh em chúng tôi lo lắng cúi gầm đầu, anh Dzoãn lí nhí:
                                - Dạ, con… biết lỗi.
                                - Biết lỗi sao!?
                                - Dạ, … thưa ba.
                                - Vậy tốt. Con… (ba chỉ vào anh trai) đi ra ngoài chuồng vịt, bắt con vịt mái, nhớ là bắt con vịt mái thôi nghe, đem vô đây. Còn con Thụy xuống dưới bếp lấy muối, cây đèn, cái rổ, con dao, rồi đem lên đây luôn. Mau.

                                Chúng tôi vâng vâng, dạ dạ… dù có băn khoăn, bỡ ngỡ, ngạc nhiên, thắc mắc… nhưng anh em hí hửng chạy đi làm việc ba sai. Lòng tôi cảm thấy vui vẻ lạ thường, vì nghĩ ba đã bỏ qua chuyện “nói xấu”, ba tha lỗi cho “con dại… cái mang”. Ba sẽ du di xí xóa chuyện con nói hành nói tỏi, nói xấu… và ba sẽ “khao” cho hai anh em đã học giỏi, nên được ba cho ăn thịt vịt, mà ăn thịt vịt mái tơ… thì có trứng non, trứng già, có bộ lòng mềm cùng cái “dồi trường” thơm ngon bá cháy! Khi hai anh em lí lắc cười reo khệ nệ bưng các thứ vô phòng làm việc của ba, con vịt bị anh Dzoãn xách cánh, xách chân, thì nó luôn dẫy dụa kêu la inh ỏi. Thiệt là điếc con ráy quá đi! Ba ra lệnh:
                                - Con Thụy cắt cổ con vịt.
                                - Ôi, dạ… con không thể cắ… cắt… cổ vịt… Con sợ…
                                - Vậy cứ để con vịt sống như vậy, mặc kệ nó kêu la, hai đứa ngồi xuống nhổ lông (khi con vịt còn sống). Sau khi nhổ lông vịt xong, thì thả con vịt ra, cho nó chạy về chuồng, mặc nó bị trọc lóc thân thể, mà đau đớn kêu la, và bị đồng bọn vịt bu lại đấu đá, cắn xé, vì con vật ấy bây giờ không cùng chủng loại, coi dị hợm. Thì tụi bây bỏ lông vịt trong cái rổ nầy, đem lông vịt đi vất ra ngoài trời, cho lông vịt bay đi mọi nơi. Sau đó, hai đứa bây đi lượm lại đầy đủ, lượm sạch lông vịt, đem về đây. Ba sẽ thưởng công cho.

                                Tôi kinh ngạc, làm sao có thể đi lượm lại đầy đủ lông vịt khô? Anh Dzoãn chưng hửng vì nghĩ rằng: “Chắc ba đã già, nên khù khờ, lù đù, lẩm cẩm rồi chăng. Vậy mà ba cũng làm ông thầy thuốc, chắc là ba sẽ cà tửng “bóp cổ, diệt” hết bệnh nhân chết queo, ngoẽo không kịp ngáp rùi. Anh “trả treo” :
                                - Muốn nhổ lông con vịt, thì phải cắt cổ vịt, cho nó chết, và trụng nước sôi. Nếu để vịt sống mà nhổ lông, thì không thể nào! Ba nói con đem lông vịt khô ráo, thả ra ngoài trời, thì lông bị gió cuốn bay đi hết, làm sao con đi lượm lặt lại được. Ba!?
                                - Không làm được như ba đã nói, hay sao?
                                - Dạ phải.
                                - À… Vậy thì… hai đứa bây đã biết có lỗi gì chưa?
                                - Lỗi… ?
                                - Vẫn không biết mình đã phạm lỗi gì à?
                                - Dạ… thưa ba không.
                                - Hừ… Hứ!... Tụi bây xúm lại a dua nói xấu người ta khi họ vắng mặt, mà không cảm thấy xấu hổ nhục nhã hay sao? Lời nói vọt ra từ cửa miệng, bay xa… ai ai cũng nghe, cũng biết; thì giống như con vịt bị trọc lóc, lõa lồ, không còn lông… đang quang quác kêu la đó. Lời nói xấu thoát ra khỏi miệng, cũng giống như những cái lông vịt khô bay đi, thì tụi bây có lượm lại được không? Hả!?
                                Câu nói như mủi tên, không nên bắn bậy. Tên đã lọt vô tai ai, thì không tài nào rút ra được, chỉ có chết. Về việc “muối” và “cây đèn”, thì... Thịt. Cá, nếu không ướp muối, thì thịt, cá sẽ bị ươn, thúi. Cây đèn khi đốt lửa là cho ta ánh sáng, (tượng trưng cho sự thông minh của trí tuệ). Nếu các con không thấm nhuần nền giáo dục chu đáo, có căn bản từ gia đình, học đường, xã hội, không có đức dục và rèn luyện trí dục. Không tri thức, không có ánh sáng, thì các con sẽ hư đốn, như cá không ăn muối, như cây đèn không tỏa sáng vậy.

                                Chúng tôi cúi gầm đầu im re. Dạ, con hiểu rồi! Hai anh em đã bị ba phạt một ngày. Anh Dzoãn lớn hơn tôi, nên anh đi cuốc đất làm vườn trà. Ba “đì” tôi đi nhổ cỏ cú, cỏ chỉ, cỏ ống, cỏ tranh. Thiệt là quá nhọc nhằn, mệt muốn đứt hơi, tôi quá thất kinh vì cái tội vạ miệng “ăn mắm ăn muối, nói bậy bạ” nên phải ngồi buồn hiu vất vả “lam lũ” ở ngoài nắng, dù chỉ "lao động" có một ngày, mà không thể chịu nỗi cái nắng cháy da, cái khát khô bỏng cổ họng! Đáng kiếp! Ôi! Cái chuyện “nhổ lông vịt” muôn đời đáng ghi nhớ ấy… là bài học quý giá hơn trăm ngàn vàng, chẳng thể quên! Anh, chị, em chúng tôi đã được sự giáo dục rất mực tôn nghiêm và chu đáo của mẹ cha. Tôi học hỏi nhiều điều bổ ích từ ơn cha nghĩa mẹ sinh thành dưỡng dục. Con xin trân trọng cảm ơn cha mẹ vô vàn. Tôi nguyện muôn đời ghi nhớ, sau nầy tôi hy vọng… sẽ truyền đạt kinh nghiệm sống và hữu ích lại cho con cháu mình noi theo gương lành.

                                Lòng buồn khi bước về phố cũ
                                Con ra đi đời lãng tử mộng trăng thềm
                                Mơ hồng trần theo sông nước cảnh chiều êm
                                Con nhớ lắm khi trăng lên xóm nhỏ

                                Chân bước ngại ngần mây tím đổ
                                Chiều về khắc khoải áo hồng vương
                                Mẫu thân bên xoan đỏ phía sau vườn
                                Cha dạy: Lý. Văn. Cửu chương. Hóa. Sử cũ

                                Giờ đất khách tri ân mẹ cha trên phím chữ
                                Hiển đạt đời con, ấp ủ mẫu phụ thân
                                Vinh sang hạnh phúc bội phần
                                Công cha dưỡng dục muôn vàn khắc sâu
                                Nghĩa mẹ ngàn thuở bền lâu…
                                (THH)
                                * * *

                                Ngôi nhà ngói ba má tôi đã sinh sống cao năm bậc cấp, có ba gian hai chái, thềm sân rộng lát gạch tàu, bên một gian chái là giàn hoa thiên lý treo chiếc lồng cu gáy sơn son thiếp vàng, chúng đang gù gáy bạn đời, nghe thật hay. Lồng bên cặp cưỡng đen tuyền đang nhảy nhót, chim hót don dỏn "giọng tiếng Việt" do ba dạy nó, nghe líu lo. Ngoài những giờ bận rộn, ba tôi có thú tiêu khiển điền viên tao nhã, tri thức mỗi khi trà dư tửu hậu; ấy là lúc ba cùng vài bạn tri âm ngồi dưới giàn hoa thiên lý cạnh hàng hiên bên giại nứa, họ đầm ấm hiền hòa ngâm thơ, vịnh nguyệt, trồng cây kiểng, nuôi sáo, nuôi cưỡng, huấn luyện bồ câu đưa thư, và nuôi chó quý. Họ bàn thảo với nhau về kinh nghiệm nuôi, chọn chim, chó...:

                                Nào là: Chim mà có mỏ quắp, là chim hung dữ, đáng sợ . “Chim hồng chim hộc cất cánh bay cao, là nhờ lông cánh. Lông to dưới bụng, lông nhỏ trên lưng, mọc thêm một nắm, bay chẳng cao hơn, Rụng mất một nắm, bay chẳng thấp hơn”. (Hàn thi ngoại truyện).
                                Ba tôi có biệt tài nuôi chim và giàu kinh nghiệm khi huấn luyện loại chim bồ câu đưa thư, cũng như nuôi dạy chó khôn đưa tin đi xa.
                                Trước khi muốn nuôi chim bồ câu, ba tôi rất có "hoa tay" tự cưa cây, bào gỗ làm một cái chuồng xinh xắn khá to lớn, chuồng sơn xanh sơn đỏ, vẽ hoa lá cành, nóc lợp ngói, có hành lang song gỗ tròn chạy chung quanh chuồng chim, ba nói:
                                - Chim bồ câu rất thích ở chuồng đẹp và sạch sẽ, cao ráo.
                                Ba làm việc gì cũng khéo tay, coi thật cầu kỳ, đẹp lạ thường. Chuồng chim núp dưới bóng mát của những tàng cây rợp lá, chuồng đặt trên một cây cột cao, có rào kẽm gai ở dưới cột (đề phòng mèo rừng rình bắt chim con). Chuồng có những “ngăn phòng” riêng biệt đóng kín, chỉ có một cửa ra vào hình tròn, mỗi “phòng chim” rộng khoảng 20cm, mỗi bề mặt của các ô cửa có tấm màn lưới mỏng treo lơ lửng.

                                1./ Chọn mua vài ba cặp bồ câu có chân đỏ, mỏ đỏ, mắt đỏ, bộ lông mịn trắng (cũng có khi chọn bồ câu lông màu nâu, màu xám). Khi tôi vãi lúa, bắp khô đã xay bể ba bể tư ra sân rộng, nhìn cảnh gia súc: gà, vịt, ngỗng, ngan… vui vẻ nhộn nhịp “tưng bừng nhậu nhẹt”, coi thật thú vị lắm. Đặc biệt ở cạnh trên bốn góc chuồng bồ câu cao, loài chim thông minh nầy được ăn thêm: đậu xanh cà hột giả dập dập, rồi nhào trộn với cám hơi nhão, (có tẩm xíu nước, để các thứ ấy dính với nhau). Sau khi từng cặp chim bồ câu lớn lên, trở thành “có đôi có cặp”, (việc chọn và biết con chim nào là con trống, con chim nào là chim mái, cũng công phu, phải hiểu biết và có kinh nghiệm). Chim đẻ trứng, ấp trứng nở ra con.

                                2./ Có nhiều cách huấn luyện bồ câu đưa thư: Khi bồ câu đã có con, và “bồ câu nhí” mở mắt, ra ràng, ta để cho bồ câu nhí làm quen và thân thiết với ổ của mình, thì sau đó thả cặp “bồ câu cha mẹ” ra ngoài ổ.

                                3./ Kéo tấm lưới ngăn lại (cho bồ câu nhí không thể bay ra khỏi chuồng, chúng chỉ quanh quẩn ở trong tổ). Bồ câu cha mẹ sẽ đứng ở ngoài tấm lưới mắt cáo, để chúng có thể thò mỏ vô mớm mồi cho hai con nhỏ ăn, uống, dễ dàng.

                                4./ Đem nhốt một trong hai con chim nầy (bồ câu cha, hoặc bồ câu mẹ) ở một cái lồng khác. Chừa lại một con chim ở ngoài trời, Vì cha (hoặc mẹ) không được ở gần con, nên nó luôn luôn quyến luyến, nhớ thương (vợ, hoặc chồng, và con) mà con chim ấy sẽ quanh quẩn bên chuồng, bên con.

                                5./ Đem bồ câu cha đã nhốt trong lồng mới, xách lồng đi thật xa (xa chuồng cũ sơn son thiếp vàng kia), để lồng chim ở đó một ngày đêm. Ngày hôm sau, thả con bồ câu nầy ra. Bồ câu cha (hoặc mẹ) lập tức bay về chuồng cũ, và chung thủy “tìm vợ, tìm con”. Ta sẽ thay đổi vị trí, kiên nhẫn làm lại y như thế nhiều lần (với bồ câu cha, hoặc mẹ kia).

                                6./ Từ đó, ta sẽ kéo đường dài (kéo cây số) đi một khoảng cách khá xa xa. Ví dụ trước kia khoảng cách giữa chuồng chim ở nhà, và lồng chim là 50 mét, nay bồ câu đã quen bay lui bay tới chuồng, thì tuần lễ sau, ta sẽ kéo dài khoảng cách thêm xa xa thành 100 mét. Ở góc khuất rất xa đó, ta thả bồ câu ra, cho nó tìm đường bay về tổ. Vân vân…

                                7./ Cặp bồ câu nhí không nên thả ra cùng một lúc, vì cả hai con nhí nầy khi đã được bay nhảy, thì tung tăng ngoài bầu trời thênh thang và tự do, chúng sẽ hẹn nhau bay đi xây tổ ấm “mút mùa lệ thủy”, chim bay đi… một bay không trở lại.

                                8./ Hai con nhí đã trưởng thành, (mọc đủ lông cánh) thì ta kéo tấm lưới sắt lên, cho “cha mẹ con cái” sống chung một nhà, để cha mẹ chúng huấn luyện con cái tập bay chuyền, bay bổng, và nhập đàn với bạn trong một thời gian dài.

                                9./ Cách phân ly khác: Tách bồ câu trống ra khỏi chuồng, đem một con bồ câu trống cũ nầy thả cho nó bay ra ngoài trời. Ta nhốt một con bồ câu trống xa lạ khác vô trong chuồng, cho nó ở chung với “con vợ cũ”. “Thằng chồng bồ câu cũ” đang cảm thấy mình bị phản bội, bị kẻ khác ve vãn và sẽ cướp đoạt mất vợ, nên nó điên cuồng nổi cơn ghen, cứ lẩn quẩn bên chuồng chim. Ta vẫn làm “cái sách cũ”, nghĩa là cột một cái ống trúc khô, nhẹ, nhỏ, ở cổ chân chim, sau đó nhốt con trống (hoặc mái) vô trong lồng bịt kín, đem lồng chim đi thật xa, xa hẳn chuồng. Ở địa điểm mới, ta thả bồ câu ra, nó sẽ tung cánh lên cao, liền vội vã bay về tổ ấm. Thế là thành công. Ba tôi còn bẫy chim sáo, nhồng, cưỡng… cho chim ăn ớt, ăn bắp xay, lúa… nuôi dạy chúng biết nói tiếng người. Nghe líu lo hay lắm.

                                Ba tôi còn có một “ngón nghề” tuyệt vời nữa là: cách huấn luyện nuôi dạy chó đưa thư, loại giống chó berger khôn thế nầy:

                                1./ Đại cương về cách chọn giống chó: Không chọn giống chó chấm lông ở ngay chính giữa trán, và bị chấm lọ (bất cứ màu gì) ở đuôi, thì không nuôi giống ấy. Nhưng phía trên, gần hai mắt ở cạnh lông mày của chó, nếu có hai chấm tròn, lông xoáy (vàng, đen, hoặc trắng… khác với màu lông của thân thể chó), là giống tốt “đốm đầu thì nuôi, nhưng đốm ở đuôi thì thịt”. Đặc điểm cần chọn của giống chó tốt: Đuôi chó luôn ở bên trái. Lưỡi chó có đốm đen dài. Bốn chân chó cứng cáp trên thân hình chó vạm vỡ. Có nghĩa là ngực nở to, nhưng phần bụng phải thon gọn. Hai tai chó luôn đứng thẳng, chó thính tai nghe rõ (tai chó không cụp qua một bên). Muốn hai lỗ tai chó thẳng đứng và tinh khôn, (vì hai tai chó đứng thẳng, thì nó nghe rất thính) một tuần vài lần, ta nên cho chó ăn trứng gà tươi trộn phổi bò.

                                2./ Chọn giống chó: Nên chọn chó mõm dài. “bạch cẩu hoàng đầu lưng bối nguyệt” = Thân có lông trắng, đầu lông vàng, lưng chó có lông như hình trăng rằm, mắt to đen láy, mũi hồng, lưỡi dài có đốm đen, tứ túc huyền đề. Giống chó nầy đặc biệt rất quý hiếm, ít thấy.

                                3./ Thân chó lông màu đen, bốn chân lông màu trắng, giống như ở chân chó mang đôi vớ trắng (tất), gọi là = “hắc cẩu tứ bạch”.
                                - Toàn thân chó có màu lông vàng óng ả, gọi là = “hoàng cẩu”.
                                - Lông xoáy ở trên lưng chó mọc xuôi từ đầu chạy về đầu đuôi, gọi là = “Bối kiếm cẩu”.

                                a./ Ngoài bốn chân chó, có thêm bốn cái móng đeo nhỏ lủng lẳng ở mỗi chân, gọi là = “Tứ túc huyền đề”.
                                b./ Ngoài bốn chân chó, có thêm hai đeo nhỏ ở mỗi chân trước, và một đeo ở mỗi chân sau. Gọi là = “Lục hợp cẩu”.
                                c./ Ngoài bốn chân chó, mỗi chân chó có thêm hai móng đeo nhỏ. Có 8 móng đeo ở bốn chân, gọi là = “bát long cẩu”.
                                d./ “Lưỡng cẩu” = là bốn chân chó chỉ có hai móng đeo ở hai chân.

                                4./ Ta thân thiện với “chó nhí” từ khi chúng còn nhỏ. – Biết tính nết chó – Đặt tên chó & gọi tên nó mỗi ngày nhiều lần, cho chó quen biết tên của nó - Huấn luyện chó nhí từ việc nhỏ nhất, ví dụ: thường xuyên dạy chó đứng – ngồi – nằm - bắt tay mình – dạy chó ăn, uống khi nào được cho phép – cùng chó đá banh - ném banh, ném lon ra xa, ta và chó đi nhặt về, nhiều lần. Sau đó để chó tự đi nhặt về đưa cho mình. Mỗi lần chó “làm việc giỏi”, ta thưởng cho chó món ăn mà nó ưa thích.

                                5./ Sau đó ta dần dần huấn luyện thêm những việc khó hơn, ví dụ: dạy chó giữ nhà. Chó biết phân biệt người thân và khách lạ, (chó thông minh, chính vì thế mà chó ưa sủa rần trời, mỗi khi có người lạ, hoặc nhà có kẻ trộm rình). Dạy chó phân biệt gia súc của nhà mình nuôi, khác với gia súc của hàng xóm. Dẫn chó đi săn bắt: chuột, chim, gà rừng, vân vân… Dạy chó đi nhận thư ở nhà nầy đến nhà khác: Ta cùng chó đi gửi thư ở bưu điện nhiều lần, cho chó quen hơi người lạ ấy, ta gọi tên của ông ấy hoài, cho chó ngửi mùi người ấy, sẽ quen hơi. Nó biết nơi chỗ cần đến. Sau đó, một mình ta cột thư ở cổ chó, và dẫn chó đến cho người sẽ nhận thư (người mà chó quen hơi biết mặt trước kia), ta vỗ vỗ vào đầu chó, thân thiện vuốt ve và gọi tên chó: “To Bi… hãy để ông (tên X…) mở túi xách ở cổ ra, nhận thư”. Nhiều lần như thế, tất nhiên con chó thông minh, tinh khôn, và hiểu ra ngay.
                                Ba tôi kiên nhẫn dạy chó, chim (tận tụy, giống như ba tôi đã kiên cường trong việc chữa trị bệnh nhân), nên ba tôi rất thành công trong việc nuôi dạy chim & chó.

                                ***

                                Tình Hoài Hương
                                Last edited by Tinh Hoai Huong; 06-21-2018, 12:00 AM.
                                Bút trần nào tả được lưu luyến!
                                Thơ trần đành cam chịu vô duyên...
                                Tình Hoài Hương

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X