Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Truyện Ngắn Lê Văn Trung

Collapse
X

Truyện Ngắn Lê Văn Trung

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Phòng Trực
    replied
    Thế nào rồi cũng phai - lê nam phương

    THẾ NÀO RỒI CŨNG PHAI
    LÊ NAM PHƯƠNG (thi sĩ LÊ VĂN TRUNG)



    Tiếng chuông điện thoại bỗng reo vang phá tan cái im lặng lạnh lẽo của đêm mùa đông mưa rả rích. Người đàn ông trở mình lầm bầm trong miệng: “Không biết giờ này mà ai gọi sớm thế?” Ngoài trời màn đêm nặng nề trùm lên không gian, gió thổi vù vù đẩy những chiếc lá chưa muốn rời cành tạo ra một thứ âm thanh khắc khoải như tiếng nấc của một người đang khóc.

    Tiếng chuông vẫn còn kiên nhẫn reo. Anh nhấc ống nghe:

    - Xin lỗi, tôi nghe đây.

    - Chào ông.

    - Xin lỗi, nhưng tôi đang…

    - Ồ, ông không cần bận tâm.

    - Nhưng xin lỗi, bà là ai?

    - Ông là nhà văn? Chắc không cần thiết biết tôi là ai, ông ạ. Chỉ mong ông nghe. Bởi vì chỉ có ông tôi mới có thể nói chuyện này. Nhưng ông là nhà văn? Vâng, không nghi ngờ gì nữa. Tôi đã nghe về ông từ lâu. Và chỉ có ông, nhà văn, mới có thể, vâng chỉ có ông mới có thể…

    - Nhưng thưa cô, anh thay đổi cách xưng hô, cô nói gì tôi không hiểu. Chuyện gì mới được chứ. Mà tại sao là tôi. Cho dù tôi là nhà văn đi nữa. Tại sao là tôi.

    Giọng người phụ nữ ở đầu dây bên kia vẫn vang lên đều đều như không cần biết sự nôn nóng và thắc mắc của anh.

    - Xin ông bình tĩnh nghe tôi. Tôi nghĩ anh ta sẽ gặp nguy hiểm ông ạ. Không. Anh ta đang gặp nguy hiểm. Xin ông quan tâm cho.

    - Ai? Anh ta là ai? Mà nguy hiểm gì? Tại sao lại gặp nguy hiểm?

    Giọng người phụ nữ trầm lại:

    - Tôi nghĩ anh ta đang gặp nguy hiểm. Thật tội nghiệp. Có thể anh ấy là một nhà thơ ông ạ. Hay ít ra anh ấy giống một nhà thơ. Tôi đã nghe anh ấy đọc thơ một mình, trong đêm.

    Anh bỗng thấy tò mò và nghĩ có thể có một chuyện gì đó nghiêm trọng. Anh nói chậm rãi từng tiếng mong người đang đàm thoại nói rõ hơn.

    - Thưa cô. Tôi đang sẵn sàng nghe cô đây, nhưng mong cô bình tĩnh và cho tôi biết cụ thể hơn.

    Tiếng từ đâu dây bên kia bỗng vang lên:

    - A! Anh ấy đã về. Lạy Chúa! Cuối cùng thì anh ấy đã trở về. Cảm ơn ông đã nghe tôi, làm phiền ông quá. Hẹn gặp ông sau.

    Anh nghe rõ tiếng gác máy từ đầu bên kia nhưng anh vẫn còn cầm ống nghe, lòng bỗng dưng buồn vô hạn. Người phụ nữ này là ai? Ông nhà thơ kia là ai. Tại sao cô ta lại quan tâm lo lắng quá như vậy. Họ có quan hệ gì với nhau. Ông ta đang gặp tai họa gì. Tại sao người phụ nữ này lại gọi cho anh để nói. Anh là nhà văn chăng. Mà nhà văn thì sao. Sứ mạng của một nhà văn là phải …hay sao.

    Có thể anh đã từng là nhà văn, với dăm ba cuốn truyện, viết lách không chuyên lắm trên vài tờ báo trước đây. Nhưng từ cái ngày ấy…

    Trời chưa sáng hẳn. Anh gác ống nghe bước ra sân. Sương mù trắng xóa. Một làn gió lành lạnh nhẹ lay những màng nhện đọng những hạt sương li ti phủ lên thảm cỏ như những chiếc khăn lụa mỏng. Cái thị trấn nhỏ mới khai sinh chưa đầy vài năm này đang còn ngái ngủ trong giấc mơ mong manh về lớp áo văn minh đô thị với những căn nhà cấp bốn xây vội vàng, cái trồi cái sụt, đủ màu sắc, đủ kiểu cách trang trí, không theo một mô tiếp nào, và dĩ nhiên vẫn còn lầy lội. Chỉ duy nhất ánh sáng điện và chiếc điện thoại là biểu tượng cụ thể của văn minh.

    Từ lâu kể từ cái ngày định mệnh ấy anh đã không nghĩ đến chuyện viết lách, lại càng không liên hệ với bạn bè, mặc dù có vài lần một đôi người khuyên anh thôi hãy vì cơm áo cứ viết lăng nhăng gì đó mà sống. Anh cám ơn.

    Viết lăng nhăng ư?. Hỡi ơi, nhà văn, anh là ai? Viết lăng nhăng để kiếm cơm chăng? Còn người đọc của anh là ai? Họ trông chờ gì ở anh?

    Ôi một nhà văn viết lăng nhăng! Anh mỉm cười chua xót.

    Anh quay vào nhà, lòng tự dưng buồn rười rượi. Vợ anh đã pha cho anh một ly cà phê, nàng nhìn anh, nhỏ nhẹ:

    - Ai gọi cho anh mà sớm thế?

    - Một người phụ nữ.

    Nàng mở to mắt nhìn anh.

    - Vâng, một người phụ nữ, em à. Anh linh cảm có chuyện gì đây. Không ổn.

    Rồi anh lẩm bẩm: Hỡi nhà thơ. Không nên anh ạ. Hãy xem như mình chưa sinh ra trong đời này. Đừng làm điều gì dại dột.

    Vợ anh không hiểu anh nói gì nhưng trong lòng nàng bỗng thấy lo lắng vô cùng. Nàng hiểu anh hơn ai hết. Những trăn trở của anh. Những khát vọng của anh. Những đam mê của anh. Văn chương là lẽ sống của anh. Mất nó anh xem như mình đã chết một phần. Nhưng anh đã cam đành. Anh sống lặng lẽ bên nàng, anh đứng bên lề cuộc sống nhìn chính mình càng ngày càng tàn rụi.

    Anh vừa nhấp cà phê vừa lẩm bẩm trong đầu: Một nhà thơ? Là ai? Anh có biết không? Đang ở đâu? Anh đang định làm gì hỡi nhà thơ?

    Nhưng rủi ro anh có gặp gì không may thì làm sao? Tại sao người phụ nữ đó lại gọi cho anh để gần như trông chờ sự cứu giúp. Anh cũng chỉ là kẻ đang qui hàng. Sứ mạng của một nhà văn, dĩ nhiên là không cứu rỗi được ai, nhưng! Nhưng chẳng lẽ cũng bó tay nhìn, không một mảy may xúc động, không một cử chỉ biểu lộ tấm lòng, ít ra là tấm lòng của một con người. Ôi một nhà văn đã không thể viết lăng nhăng mà cũng không còn nhịp đập khắc khoải của con tim.

    Hình như có thời anh cũng làm thơ. Và anh đã thấy rằng thi ca cũng tồn tại từ khi có con người, dù ở thời kỳ tiến hóa nào của con người, từ những dân tộc văn minh nhất đến những bộ lạc rừng rú nhất. Nhân loại không có thơ nhân loại đó sẽ bị hủy diệt. Thơ là con đường đưa nhân loại đến CÁI ĐẸP.

    Thế mà bây giờ anh ở đây, bất lực.

    - Không. Không thể như thế. Tôi sẽ đi tìm anh, anh bạn nhà thơ ạ.

    ***

    - Ô, chào anh, nhà văn.

    Cuộc điện đàm lại tiếp tục sau đó khoảng hơn một tuần lễ. Giọng người phụ nữ bây giờ có vẻ an tâm hơn. Anh nghe giọng chị ấm và tha thiết lạ. Anh rất muốn gặp chị hay ít ra cũng phải biết chị là ai, ở đâu, quan hệ thế nào với nhà thơ kia.

    - Anh ạ, cách đây mấy hôm tôi cứ nghĩ là anh nhà thơ đó đã bị hại rồi, nhưng may quá, vắng mặt hai hôm thì anh ấy trở về. Lạy Chúa!

    - Xin lỗi chị, anh lại thay đổi cách xưng hô, chị có thể nói rõ hơn một tí được không? Tôi sẵn lòng nghe chị đây.

    Im lặng một lát tiếng người phụ nữ bên đầu kia chậm rãi:

    - Anh ấy là một nhà thơ. Chắc chắn như thế. Anh ấy đang thuê một căn gác bên cạnh nhà tôi, ít khi thấy anh ấy xuất hiện, hầu như hiếm khi ra ngoài. Chẳng thấy vợ con. Nhưng anh ấy là nhà thơ. Chắc chắn thế. Bởi vì thỉnh thoảng tôi nghe anh ấy đọc thơ một mình.

    Yên lặng một lát, hình như để nén sự xúc động, chị tiếp tục với một giọng trầm hơn:

    - Anh ấy đọc thơ, những bài thơ buồn rười rượi, tôi đứng khóc một mình khi nghe anh ấy đọc thơ…

    - …

    - Hình như anh ấy không có ai thân thích. Rất hiếm khi, một vài người, có lẽ là bạn của anh ấy đến. Nhưng họ đến và đi trong im lặng, hoặc giả là họ có nói chuyện gì với nhau tôi cũng không nghe rõ, tôi cũng không cho phép mình tò mò nghe lén chuyện của họ.

    - Anh ơi. Lại người phụ nữ ấy phải không? Vợ anh từ sau bếp bước ra.

    - Xin giới thiệu với chị, vợ tôi, anh nói với người phụ nữ ở đầu dây bên kia.

    - Xin gởi lời chào chị. Hiếm khi nào tôi nhìn thấy anh ấy cười. Hình như giờ phút hạnh phúc nhất, hay ít ra cũng là giờ phút anh ấy vui là một đôi lần anh ngồi kể chuyện cho các cháu nhỏ trước hiên nhà trọ. Tôi ngồi bên này giả vờ cặm cuội đan len nhưng vẫn lén nghe anh kể chuyện. Giọng anh ấm và tha thiết lạ thường. Không biết bọn trẻ có hiểu gì về những câu truyện anh kể không nhưng chúng chăm chú và có vẻ mến anh ấy lắm.

    - …

    - Cảm động nhất là khi anh ấy kể chuyện Les Misérables của Victor Hugo, anh ấy thường dừng ngang câu chuyện để nói một cách say sưa về những bất công, những mâu thuẩn, những khổ đau của tầng lớp lao động. Anh ấy kể về Doctor Zhivago, về Lối Thoát Cuối Cùng, về Giờ Thứ Hai Mươi Lăm. Anh ấy nói về những ông chủ cũ và những ông chủ mới.

    Thú thật là đôi khi tôi cũng không hiểu mấy về những điều anh ấy muốn nói. Nhưng tôi luôn thấy bị cuốn vào những câu chuyện anh ấy kể, bọn trẻ thì khỏi nói, chúng há hốc mồm ra mà nghe.

    - Nhưng thưa cô, anh lại thay đổi cách xưng hô, chẳng lẽ cô cũng không biết anh ấy tên gì sao. Theo cô thì anh ấy đang gặp nguy hiểm? Và tôi, tôi làm được cái gì?

    - Có thể anh ấy sẽ gặp nguy hiểm Ông ạ, tôi linh cảm thế, hay tại tôi lo xa quá. Tôi không quan tâm anh ấy tên gì, đối với tôi anh ấy là nhà thơ, hay ta gọi tên anh ấy là NHÀ THƠ.

    - Tôi nghĩ ông có biết anh ấy, có thể anh ấy cùng thời với ông.

    - Tiếc là cô không biết tên anh ấy, không thì tôi không thể nhận ra.
    Thôi được, tôi sẽ cố hỏi tên anh ấy. Nhưng mà tại sao anh biết tôi gọi anh mà không gọi ai khác để nói chuyện này không? Đơn giản anh là một NHÀ VĂN. Thế thôi. Đối với tôi nhà thơ nhà văn là một. Các anh chỉ khác nhau là một người thì diễn đạt điều này theo văn xuôi, người kia thì biểu đạt bằng thơ. Nhịp đập trái tim của các anh giống nhau, khát vọng của các anh giống nhau, và sứ mạng của các anh như nhau. Phải không ông? Nàng cũng lại thay đổi cách xưng hô. Hy vọng có ngày ông sẽ gặp anh ấy. Tôi rất mong điều đó.
    Tôi nghĩ gọi như thế này không phiền anh chị chứ?

    - Vâng. Vâng. Không có gì phiền đâu cô ạ. Tôi cũng mong cô gọi cho tôi luôn, nhất là nói thêm nhiều về anh ấy. Anh ấy có gì, xin cô báo cho tôi ngay, có thể tôi chẳng giúp gì được cho anh ấy, song tôi cũng không thể dửng dưng.

    - Cám ơn anh. Thôi xin tạm biệt anh. Tôi gởi lời thăm chị.

    Anh gác máy. Đứng trầm ngâm một lúc, anh ra trước hiên ngồi xuống bậc thềm, châm thuốc. Mặt trời như một quả cầu lửa đỏ rực đang nhô lên khỏi hàng dương liễu rọi xuống cảnh vật muôn màu máu đỏ tươi. Một vài con chim sâu nhảy ngoài hàng dâm bụt kêu chim chip anh nghe như tiếng than của một người trong cơn mê.

    Suốt mấy tuần lễ nay anh không ngủ yên giấc được, những điều người phụ nữ xa lạ đó kể với anh về con người ấy, nhà thơ, anh cố hình dung những khuôn mặt bạn bè xưa cũ, những người đã cùng anh một thời đam mê, với tấm lòng và nhiệt huyết của tuổi trẻ, mơ về một nhân loại hòa bình, mọi người gặp nhau là tay bắt mặt mừng, xem nhau như anh em ruột thịt, đầu phố cuối thôn lúc nào cũng rộn rã tiếng cười. Suốt cả chiều dài của lịch sử nhân loại là một màu xanh biêng biếc. Những con đường ngang dọc suốt địa cầu cây xanh rợp bóng, rừng xanh sóng biếc rộn rã tiếng chim ca. Những cánh đồng vàng thơm lúa chín. Những thung lũng đầy hoa rập rờn ong bướm. Những cô con gái mười lăm mười sáu, má đỏ hây hây, môi mọng chín thơm mùi hoa cỏ lúc nào cũng hát ca trong thiên đường tình yêu tràn mật ngọt. Và anh, kẻ được giao phó một sứ mệnh cao cả, hỡi nhà thơ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, hỡi anh, người nghệ sĩ của đất trời sẽ tung hô CÁI ĐẸP.

    Ôi nhân loại sẽ không bao giờ còn thấy máu đồng loại đổ xuống trên những khu vườn, trong những khu tập thể, trên những dòng sông. Không có nước mắt của người mẹ khóc con bỏ xác ngoài biên ải xa xôi, không có vành khăn sô trên đầu thiếu phụ. Không có trẻ mồ côi, không có cô nhi viện, không có trại tế bần. Đêm không còn nghe tiếng súng, không còn phấp phỏng lo sợ đạn pháo từ rừng sâu dội về, không còn người Nam kẻ Bắc tay lăm lăm gươm giáo, nhìn nhau mắt đỏ ngầu thù hận. Sẽ không bao giờ còn mồ chôn sống tập thể. Không bao giờ còn thấy cảnh xe đò nằm banh xác, xác người cháy đen. Không còn hố hầm chông mìn lựu đạn…Ôi anh mơ về một nhân loại không hề biết hai từ chiến tranh, không hề biết ý niệm thù hận, không có học thuyết, không trắng không đỏ, không giáo chủ này giáo chủ nọ. Con người chỉ có một chân lý duy nhất để tôn thờ CÁI ĐẸP.

    Ảo tưởng chăng? Không. Đó là con đường nhân loại bắt buộc phải đi, cái đích nhân loại phải tới. Nhân loại ơi! Hãy nắm tay nhau đi về phía cánh đồng tình yêu ngát hoa nhân ái.

    Vợ anh từ trong nhà bước ra, khẽ quàng hai tay lên vai anh, nàng gục đầu vào ngực chồng hôn tha thiết vào chỗ trái tim anh đang đập yếu ớt, ngậm ngùi. Một cơn gió thoảng qua se lạnh. Anh nhớ đến những năm tháng còn ở nơi một thành phố nhỏ có những dòng sông hiền hòa chảy qua, những chiếc cầu nối đôi bờ nho nhỏ xinh xinh, mỗi chiều mỗi sáng tiếng chuông nhà thờ vang lên lan xa trong cái se lạnh của gió mùa, những người đi lễ thấp thoáng dưới bóng những cây long não chập chờn trong màn sương mỏng như những bóng mây trôi. Lúc ấy anh đã mơ về một thế giới thần tiên cổ tích.

    Nhưng rồi, một đêm, có cái gì đó rờn rợn trong hơi gió mùa đông thổi qua lòng thành phố, mang cái âm u, rờn rợn từ rừng xa chảy về luồn vào tận xương tủy anh. Và rồi cái âm thanh hung bạo của đạn pháo dội về từng đêm, từng đêm. Phố không còn ngủ yên. Phố chong mắt từng đêm phập phồng trong âu lo. Rồi mọi người ra đi bỏ phố lại trong tiêu điều. Anh cũng như mọi người, ra đi theo dòng trôi dạt vô bờ.

    Anh nhẫm đọc bài thơ: Phương Nam, khúc ca trôi giạt của khóm lục bình, của một người bạn thơ, mà lòng buồn rười rượi.

    - Vào thôi anh, trời lạnh lắm.

    Vợ anh âu yếm nắm tay anh, một chiếc lá vô tình rơi xuống vai nàng, hình như màu lá còn xanh lắm.

    Và hình như thời gian đang dừng lại ở đấy, lúc hai mươi lăm giờ.

    Thế rồi, bẳng đi một thời gian khá dài, tiếng chuông điện thoại cũ lại vang lên trong ngôi nhà đó, lần này không phải vào buổi sáng sớm như mọi khi, tiếng chuông vang lên trong lúc trời vừa tối:

    - A lô! Chào anh nhà văn.

    - Xin lỗi, tôi không phải là nhà văn, giọng một phụ nữ trả lời.

    - Vậy xin lỗi bà, tôi có gọi nhầm số không ạ?

    - Không.

    - Có phải chị không ạ? Ông nhà đi vắng hả chị?

    - Tôi cũng không phải là vợ ông nhà văn đó, thưa cô.

    - Vậy chị là…

    - …là chủ mới của căn nhà này. Cô là gì của ông nhà văn đó, cô?

    - Tôi chỉ là người quen thôi chị ạ.

    - Hèn gì mà cô không hay biết.

    - ???

    - Ông ấy đã mất cách đây mấy tháng rồi.

    - Chết? Tại sao?

    - Tự tử.

    - Lạy Chúa! Thế vợ của anh ấy đâu?

    - Sau khi lo cho chồng bà ấy bán căn nhà này lại cho chúng tôi, và nghe đâu về dưới quê.

    - Lạy Chúa! Ôi! Xin người cứu con.

    Giọng ở đầu dây bên này an ủi:

    - Thế nào rồi cũng phải, thế nào rồi cũng phải, cô ạ.

    Hình như ở đầu dây bên kia có một tiếng nấc nghẹn ngào, tiếng nấc chảy suốt đường âm thanh trong không gian vang lên tức tửi qua máy điện thoại.


    Lê Nam Phương

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Một ngày tôi đã gặp - lê nam phương (lê văn trung)

    MỘT NGÀY TÔI ĐÃ GẶP
    LÊ NAM PHƯƠNG (LÊ VĂN TRUNG)


    Chiếc xe chở khách cổ lổ sỉ chạy bằng than củi nặng nề ì ạch bò một cách khổ sở trên con đường 9 từ Khe Sanh về Đông Hà, con đường đã đi vào lịch sử đau thương của dân tộc, mang trên mình nó những vết hận thù từ hai phía. Hai bên là rừng núi và vực thẳm, bên nào cũng đầy chứng tích của máu xương, của tàn phá, của những đổ nát, của nước mắt và của kinh hoàng. Rừng cây sau hai mươi năm nhuộm trắng thuốc khai quang không còn đủ sức để hồi sinh. Hình như suối khe cũng khô cạn. Suốt dọc đường từ Khe Sanh về tới cầu Đầu Mầu tôi cố gắng chú ý lắng nghe thử có thứ âm thanh gì, màu sắc gì chứng tỏ đất trời quê hương đang hồi sinh. Một tiếng chim kêu, một mầm xanh mới nhú, chẳng hạn. Không. Không nghe gì. Không thấy gì.

    Mặc dù đang đổ dốc xuống cầu, chiếc xe vẫn mệt mỏi lăn từ từ như sợ cái vực thẳm kinh hoàng dưới kia nuốt chửng lấy nó, giống đồng loại của nó đang nằm hoen rỉ ngổn ngang chen giữa những tàn cây khô rụi. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe nhà binh chạy ngược chiều. Trong xe lố nhố những người lính mặc sắc phục nhàu cũ, xộc xệch, khuất dưới những tàn lá ngụy trang. Xe của họ cũng chạy buồn tẻ và mỏi mệt như chiếc xe chở khách này. Nếu không có âm thanh rền rĩ của động cơ, ta sẽ có cảm tưởng như những bóng xe ma chở đầy oan hồn của bao nhiêu năm chiến tranh giờ trở về cái nơi mình ngã xuống, rồi tìm kiếm để nhìn mặt nhau hỏi rằng, tại sao lúc đó lại nhắm vào nhau mà bắn mà đắm trong mối hận thù không rõ. Một toán người Thượng áo quần tơi tả, lớn có, nhỏ có, không phân biệt nổi đàn ông và đàn bà, lưng mang gùi, tay chống gậy, chân đất, đầu cúi xuống, bước đi, im lặng.

    Xe bỗng dưng xốc mạnh rồi dừng lại. Bên đường, một phụ nữ ước chừng hơn ba mươi lăm tuổi, vẻ mặt phờ phạc, tóc rối, nước da trắng tái, đôi mắt buồn bã, nơi hai khóe mắt áo não đó còn đọng hai giọt lệ chưa đủ sức chảy xuống, khiến gương mặt chị chìm trong một nỗi khổ đau vô bờ. Đứng bên chị là một cháu bé gái khoảng tám, chín tuổi, đôi mắt sáng, mỗi lần ngước nhìn lên đều toát ra sự hoài nghi và lo sợ.

    - Bà con xích xích vô một tí cho khách lên bà con ơi.
    Tiếng bác tài la lên ở đầu xe. Có vài người chửi thề, vài người khác chép miệng thở dài:
    - Thời buổi thật là …

    - Xe ngựa gì cái thời này mà khiếp! Nóng quá bác tài ơi!
    Bác tài mở giọng nhân đạo:
    - Thông cảm tí bà con ơi. Người ta đàn bà con gái lỡ đường lỡ sá mà.
    Người phụ nữ khệ nệ tay xách túi hành lý, tay dắt con, khó khăn lắm mới lên được xe. Tôi nhìn chị ái ngại:
    - Chị và cháu ngồi vào chỗ tôi đây.
    Chị ngước mắt nhìn tôi như thầm cảm ơn nhưng vẫn chưa dám ngồi xuống. Tôi động viên chị:
    - Tôi ngồi lâu rồi cũng mỏi, chị ngồi xuống đi, đừng ngại.
    Chị lí nhí trong miệng lời cảm ơn. Tôi nhìn chị, đôi mắt buồn u uất một nỗi đau tưởng không bao giờ vơi được.
    - Chị đưa cháu đi đâu mà đón xe giữa chỗ rừng núi hoang vắng này?
    Chị bỗng sụt sùi, chị quay về phía khác, lấy tay áo lau dòng nước mắt vừa trào ra nghẹn ngào. Cháu bé thấy mẹ khóc cũng rung rung. Tôi thấy bàng hoàng và chẳng biết làm gì để an ủi chị. Nhưng hình như chị đã trấn tỉnh quay lại, nhưng không nhìn tôi, chị kể:
    - Em đưa cháu ra thăm ba cháu.
    Chị lại khóc.
    - …nhưng không gặp anh ấy…Gần hai năm tôi không có điều kiện để ra thăm anh ấy. Không hiểu vì sao suốt mấy tuần nay cháu cứ đòi đi thăm, tôi càng chần chừ cháu càng la khóc và thúc giục. Lòng tôi cũng cảm thấy có cái gì bất an. Tôi mượn tạm của chị bạn ít tiền mua chút quà và cùng cháu ra từ hôm qua, mới hay anh ấy đã chết gần hai năm rồi. Tôi chưa hề nhận được tin. Hai năm nay tôi vẫn tưởng ảnh còn ở trong trại.
    Tôi nhìn vào đôi mắt chị, đôi mắt đã ráo khô, lạnh ngắt.
    Lòng tôi cũng lạnh băng. Nỗi đau như đã đông cứng lại. Tôi mong cho nó tan chảy ra. Tan chảy ra chắc lòng ta dễ chịu hơn.
    Chị xuống xe ở Đông Hà. Tôi phải đón xe đi tiếp. Chị nhìn tôi tuy không nói gì nhưng tôi đọc được trong mắt chị sự biết ơn, còn tôi, thật vô tình, không hỏi chị tên gì, cả chồng chị nữa, biết đâu là người quen hay bạn bè cũ không chừng. Tôi đã lên xe khác, xe chạy đã lâu mà lòng tôi vẫn nao nao, và đôi mắt nỗi buồn hun hút đó cứ ám ảnh tôi.

    Xe đã thực sự lăn bánh trên đại lộ kinh hoàng, nơi bạn bè tôi, đồng bào tôi đã nằm xuống trong thảm thương. Máu. Xương. Thịt. Răng. Tóc. Khói bụi. Xăng nhớt. Mãnh pháo. Xác xe tăng. Tất cả trộn lẫn vào nhau tạo thành một quang cảnh rùng rợn như thế giới của quỉ ma. Nếu có một nơi gọi là địa ngục thì chắc không có cái địa ngục nào bằng cái địa ngục này. Ôi một thứ địa ngục do bàn tay của con người trần gian tạo ra. Và cũng vì cái địa ngục do con người tạo ra nên nó càng kinh khủng hơn nữa.

    Bây giờ, hơn mười năm rồi, quang cảnh của cái địa ngục đó không còn nữa, nhưng hình ảnh của nười năm về trước vẫn còn ám ảnh mọi người. Và khi đi ngang qua đây, tôi vẫn, hình như còn thấy rõ như in xác của một bé thơ đã chết miệng vẫn còn ngậm bầu vú mẹ mà xác mẹ đã chương sình thẫm đen đầy ruồi bọ.

    Xe vẫn ì ạch lăn bánh về hướng thành phố Huế. Không biết sau gần mười năm Huế đã thoát ra khỏi cơn mơ hãi hùng của cuộc chiến tranh tàn khốc, hay di chứng của mùa hè đỏ lửa, của Mậu Thân vẫn còn mưng mủ linh hồn của Huế.


    Xe về đến bến xe Nguyễn Hoàng khoảng hai ba giờ gì đó. Qua một chặng đường dài trên một chiếc xe cà khố đầy bụi bặm, người tôi mệt rã rời. Tôi đưa tay lần trong túi nhẩm tính có bao nhiêu đồng. Cuối cùng tôi quyết định đi bộ từ từ về An Cựu để mua vé xe vào Đà Nẵng. Vừa đi vừa nhìn cảnh vật chung quanh, tôi không còn nhận ra Huế nữa. Huế của ngày xưa thơ mộng thế nào thì giờ đây trông già cỗi thế đó. Những người ngược xuôi trên đường phố trông người nào cũng có vẽ hớt hãi lo âu, người thì vai mang ba lô nhà binh, đầu đội những loại nón mũ kỳ lạ, hình như chiếc nón của Huế đã biến đi đâu. Tôi nhìn qua bên kia sông mong tìm thấy được tà áo dài tha thướt của Đồng Khánh ngày nào. Nhưng … Ôi Tràng Tiền, Thương Bạc! Những bóng người phờ phạc. Tôi đứng tựa trên thành cầu nhìn mông về phía Vỹ Dạ lòng nao nao nhớ đến “Rặng liễu buồn thiu hoa bắp lay”, nhớ đến H và nhớ vĩa hè Văn Khoa.
    Bỗng một giọng phụ nữ nhỏ nhẹ sau lưng tôi:
    - Anh có mua chi không ạ? Thuốc lá, kẹo cao su nghe?
    Tôi không quay lại:
    - Chị cho tôi vài điếu thuốc.

    - Lấy cả bao luôn đi.
    Tôi vẫn nhìn dòng sông.
    - Không, tôi không đủ tiền.
    Chị vòng tay chìa ra trước mặt tôi mấy điếu thuốc:
    - Đây, thuốc của anh đây, cho em năm hào.
    Tôi cầm thuốc quay lại định mượn cái hộp quẹt, nhưng tôi bỗng bàng hoàng:
    - Trời ơi! Diễm.
    Diễm cũng sững sờ nhìn tôi rồi nhìn xuống cái hộp đựng nào là thuốc là kẹo cao su, mấy lon nước ngọt.
    - Thụy về hồi mô?
    Tôi chưa trả lời, nắm tay Diễm kéo đi về phía An Cựu:
    - Ta tìm một cái quán cốc nào rồi nói chuyện.

    - Làm gì có quán cốc như ngày xưa nữa. Bây giờ đều là cửa hàng quốc doanh cả thôi. Thụy lạc hậu rồi.

    Diễm nhìn tôi, đôi mắt ánh lên một nét tinh nghịch nhưng không giấu nỗi chua chát. Ngày trước tôi và Diễm học cùng trường, nhưng khác lớp. Diễm không đẹp nhưng là mẫu người dễ gây ấn tượng và rất quyến rũ. Khi ra trường chúng tôi mỗi người một nơi, ít có dịp gặp lại nhau, nhưng những thông tin về nhau thì hình như không đến nỗi. Ai lấy chồng, ai lấy vợ khi nào, chồng vợ là ai, có phải là những bạn bè cũ không, làm gì ở đâu…Chúng tôi đều biết rất rõ. Nhưng sau 75 phải nói là biệt vô âm tín, chẳng ai còn thì giờ, điều kiện để cố hỏi han nhau. Họa hoằn lắm mới tình cờ gặp được nhau, như tôi và Diễm hôm nay. Chúng tôi ngồi tạm xuống bậc cấp bên vệ đường, nhìn qua chợ Đông Ba.
    - Tân đã về chưa? Tôi hỏi Diễm.

    - Về hơn năm nay rồi. Suýt chết. Chú yếu lắm. Nhưng phải đi làm thủy lợi. Không đi không được. Ai cũng rứa mà. Còn Thụy răng? Về hồi mô? Chừ làm chi? Ngọc chừ răng?

    Ngọc là vợ tôi. Diễm hỏi một hơi dài. Tôi chậm rãi châm thuốc, nàng lấy một gói thuốc nguyên nhét vào túi tôi.
    - Thụy cất mà hút.
    Tôi lấy gói thuốc để vào trong hộp hàng của Diễm.

    - Cảm ơn, tôi bỏ thuốc lâu rồi. Khi đứng trên cầu bỗng dưng buồn nên định mua vài điếu thuốc. Tôi về cũng được vài năm nay. Bà xã và mấy cháu đã chuyển vào Ninh Thuận. Diễm sao? Có ổn không? Bán như thế này làm sao đủ sống. Mấy cháu có đi học không? Bỏ dạy rồi à?
    Diễm không trả lời, tay mân mê mấy thỏi kẹo, đôi bàn tay hình như đã không còn trắng và mềm mại như xưa. Chúng tôi đều im lặng. Một vài người đi xe đạp vội vã đạp lên dốc cầu, vài ba người đi bộ chậm rãi mệt mõi bước đi, chẳng ai nhìn về chúng tôi.
    - Diễm đi dạy được nửa năm thì có quyết định cho nghỉ, không nói lý do gì. Tân không có nhà. Một mình Diễm phải bươn chảy, thôi thì làm đủ việc, không kể ngày mưa ngày nắng, rạng sáng ra đi, tối mịt mới về tới nhà. Đỡ cái là mấy cháu gởi cho bà ngoại. Có lệnh phải đi vùng kinh tế, nhưng Diễm liều, cứ ở nhà, bây giờ thì yên rồi.
    Diễm nhìn tôi cười buồn:
    - Chỉ mong cho mấy cháu khỏe mạnh và không thất học. Từ ngày có Tân về, Diễm cũng đỡ vất vả hơn, nhưng hai đứa chạy cái ăn cho cả nhà cũng ê ẩm lắm.
    Diễm lại nhìn tôi. Trên gương mặt của nàng vẫn còn phảng phất chút hương sắc của một thời con gái tuy đã nhợt nhạt rất nhiều. Tôi nắm bàn tay Diễm, nói như nói với chính mình:
    - Thế nào cũng cố mà sống và lo cho mấy cháu, đừng nản. Không thể như thế này mãi đâu. Trong hoàn cảnh khó khăn chung như thế này, bạn bè chẳng giúp gì được cho nhau, tôi chỉ mong chúng ta hãy nhìn về quá khứ mà sống, mà bước đi. Nếu gặp bạn bè cũ tôi gởi lời thăm. Thế nào chúng ta cũng gặp lại.
    Diễm bóp nhẹ tay tôi, mắt rưng rưng:
    - Diễm gởi lời thăm Ngọc. Bây giờ Thụy vào Đà Nẵng hả?

    - Ừ, vào Đà Nẵng.

    - Có dịp nào ra lại Huế không?

    - Chưa biết. Chắc khó lắm.
    Tôi muốn hôn vào đôi mắt Diễm như một lời từ biệt. Như đọc được ý nghĩ thầm kín trong tôi, Diễm buột miệng gọi:
    - Thụy!
    Tôi nhìn Diễm nhưng Diễm đã quay mặt đi nơi khác.
    - Thôi Thụy vào đi. Diễm đi bán đây.
    Nàng bước đi về hướng cầu Tràng Tiền, dáng nàng nhỏ nhắn dưới bóng nắng về trưa mang theo nỗi buồn của tôi trên từng bước chân rã rời.
    Tôi lầm lũi bước về bến xe An Cựu. Con đường bỗng rộng ra và lạnh lẽo vô cùng.


    Buổi chiều Đà Nẵng chuẩn bị lên đèn. Tôi đi về hướng chợ Cồn. Vài người đi xe đạp ôm theo mời mọc. Tôi lắc đầu dù mệt vô cùng. Đói lã người. Hình ảnh người phụ nữ và em bé trên đường 9 lại hiện về trong tôi. Hai giọt lệ đọng lại trên đôi mắt buồn hun hút chứa cả nỗi bi thương vô hạn. Và đôi mắt của cháu bé, sợ sệt, nghi ngờ.
    Tôi mua một ổ bánh mì, một bọc trà đá đến ngồi trên bậc thềm trước rạp Trưng Vương. Đói cồn cào nhưng không nuốt nổi mẫu bánh mì khô cứng. Tôi uống hết bọc nước, chỉ muốn nằm xuống trên bậc thềm. Hình như phố xá đã lên đèn. Những bóng người qua lại chập chờn, những tiếng gọi nhau í ới và cả những tiếng xô đẩy. Tôi đang nằm trên bậc thềm của nhà hát trong cái thành phố nơi tôi đã sinh ra cách đây gần bốn mươi năm, và cũng gần bốn mươi năm tôi không sống trọn vẹn với quê hương. Định mệnh khắc nghiệt của lịch sử đã đưa đẩy chúng tôi lưu lạc khắp nơi, để đến khi có thể trở về thì hình như mình chỉ là người xa lạ trên chính ngôi nhà của mình. Tôi ngậm ngùi nhẫm đọc mấy câu thơ của Bạch Cư Dị:
    Sinh trưởng tại Huỳnh Dương,
    Thiếu tiểu từ hương khúc,
    Thiều thiều tứ thập tải,
    Phục đáo Huỳnh Dương túc.
    Bài thơ còn dài, tôi chỉ mang máng nhớ mấy câu. Không biết cái thuở sáng tác bài thơ tác giả phải lưu lạc là do điều kiện gia cảnh phải xa xứ mưu sinh hay cũng như chúng tôi: bom đạn của hận thù từ bốn phía đã nổ tung chúng tôi ra muôn hướng.

    Tôi đang mơ mơ màng màng thì một em bé trai trạc tuổi con đầu tôi đến bên cạnh cất tiếng mời:
    - Chú ơi chú, mua giùm cho cháu cái gì đi chú. Ngày hôm nay bán chẳng được chi cả.
    Em chỉ trước mặt tôi cái thùng giấy đựng nào là thuốc lá, kẹo, nước ngọt. Tôi bỗng nhớ tới Diễm. Hình như rất nhiều người nhất là phụ nữ và trẻ con, chỉ bán duy nhất những loại này. Có lẽ đây là loại dễ mua dễ bán, vì ít vốn và cũng ít bị cấm hơn, bởi vì trong thời buổi cái gì cũng quốc doanh, không ai có quyền làm ăn cá thể được.

    - Cho chú một cái kẹo.
    Tôi nói với cháu và cũng chỉ mua giúp cho cháu thôi.
    - Cháu có còn đi học không?

    - Dạ cháu học một buổi, buổi chiều cháu đi bán tới tối, có khi tới chín mười giờ khuya mới về.

    - Thế ba mẹ cháu đâu?
    Thằng bé trả lời hồn nhiên:
    - Cháu ở với ba. Mẹ cháu đi lâu rồi. Chừ không biết ở mô nữa.
    Tôi tò mò hỏi cho có chuyện để nói, và tôi cũng chưa biết về đâu trong đêm nay.
    - Rứa nhà chú mô?
    Thằng bé nhìn tôi từ đầu đến chân, nó đoán ra tôi là kẻ xa lạ vừa mới đặt chân tới đây.
    - Chú ở xa đến phải không?

    - Ừ.

    - Ở mô lận?

    - Xa lắm.

    - Thôi chú không nói cháu cũng biết rồi. Chú ở trên núi xuống phải không?
    Tôi đưa tay vuốt vuốt đầu tóc bờm xờm ngồi bật dậy. Thằng bé giật mình ngồi lùi ra một tí.
    - Nè, mà ba cháu tên gì vậy?
    Thằng bé không trả lời, đứng lên, hai tay bưng thùng hàng.
    - Thôi cháu về đây. Hôm nay ba cháu bịnh.
    Đường phố đã thưa người…Ánh đèn điện hiu hắt vàng vọt loang trên mặt lộ, chập chờn theo bóng người di động, mập mờ trên những tàn cây, có tiếng rao hàng của ai đó yếu ớt mỏi mệt như tiếng vọng từ cõi âm ty.
    Thằng bé bỗng nhìn tôi ái ngại.
    - Nè chú, tối nay chú ngủ mô?

    - Chú có người quen ở Nại Hiên, chắc chú sẽ về đó.

    - Cháu cũng ở gần đó.
    Tôi xoa đầu thằng bé.
    - Vậy là chúng ta cùng đường rồi.
    Tôi đứng lên theo sau thằng bé, cái bóng gầy tong của nó đổ xuống mặt đường trông tội nghiệp. Tôi nói với nó:
    - Đưa chú bưng hộ cái thùng cho.

    - Cháu bưng được.
    Thằng bé tự tin.
    Tôi bỗng thấy nhớ mấy đứa con vô cùng. Không biết sau gần mười năm xa cách, bây giờ chúng ra sao, có phải lam lũ như cháu bé này không. Nhưng mà tôi nghĩ: cũng vậy thôi. Hoàn cảnh chung mà.

    Con đường Ông Ích Khiêm ngày xưa tôi thấy chật hẹp thế mà giờ đây nó như rộng ra mặc dù chẳng thay đổi gì, nó vắng ngắt và lạnh lẽo như những con đường Thành Nội mùa đông. Thằng bé bước đi thoăn thoắt như một chú sóc con, tôi gắng lắm mới theo kịp nó. Đến cuối đường nó dừng lại hỏi tôi:
    - Đây là đường Hoàng Diệu, chú nhớ không?
    Tôi gật đầu.
    - Hồi nhỏ chú đạp xe trên con đường này hằng ngày.
    Thằng bé vừa đi giật lùi vừa trò chuyện với tôi.
    - Rứa chú người ở đây hả?

    - Ừ. Chú sinh ra ở đây, nhưng lớn lên thì ở chỗ khác. Mười năm rồi chú mới trở lại đây.

    - Rứa chú còn bà con ở đây không?

    - Không.

    Nhanh chân theo thằng bé, đến gần chợ Mới rồi. Cảnh phố xá vẫn có cái gì đó hoang vắng tiêu sơ, tôi phân vân không biết Tạo còn ở đó không. Đến đầu một con hẽm, thằng bé đứng lại:
    - Cháu tới nhà rồi. Vào hết con hẽm này thì tới. Chào chú.

    - Ừ, cháu về.
    Bóng thằng bé đã khuất trong hẽm, tôi vẫn còn đứng lưỡng lự chưa biết đi đâu. Cố hình dung ra cảnh cũ. Tôi cố hình dung ra những hình ảnh của khu phố trong quá khứ, và tôi mường tượng nhà Tạo chắc gần đâu đây. Tôi hỏi một bà cụ đang ngồi trước hiên nhà kế con hẽm:
    - Thưa bà, bà có biết nhà của anh Tạo trước kia ở gần đây không?
    Bà cụ nheo mắt nhìn tôi:
    - Tạo mô hè. Ở đây có hai ông Tạo lận. Một ông thì nhà ở kia kìa, chết lâu rồi. Còn một chú ở xế xế đây thì cái nhà bị lấy rồi. Chừ nghe nói ở sâu trong hẽm. Chú vô hết con hẽm hỏi nhà Tạo Liên đâu thì ai cũng biết.

    Liên là vợ Tạo. Như vậy thì chắc rồi. Tôi hối hả đi vào trong hẽm. Con hẽm quanh co lầy lội, tối tăm. Mới giờ này mà nhà nào cũng đóng cửa im lìm, chỉ còn chút ánh sáng hiu hắt lọt qua khe cửa là tín hiệu của sự sống.

    Tôi tới trước một căn nhà nhỏ ọp ẹp, mấy tấm tôn trước hiên rỉ sét che thấp xuống, nếu không chú ý có thể va vào đầu. Tôi định cất tiếng gọi cửa để hỏi thì thằng bé khi chiều hiện ra ở hiên cười:
    - Ủa! Chú hả? Chú không tìm ra nhà hả?

    - Ai rứa con?

    Có tiếng đàn ông trong nhà hỏi vọng ra. Tôi nói với thằng bé:
    - Chú muốn tìm nhà của ông Tạo, Tạo Liên ấy.
    Thằng bé quay vào thầm thì gì với bố nó rồi chạy ra.
    - Ba nói mời chú vào nhà đã.
    Tôi bước vào nhà. Đúng là Tạo rồi. Tôi nhận ra Tạo ngay mặc dù con người đang nằm đó chỉ là một cơ thể gầy guộc da bọc xương bất động trên tấm ván kê không rộng quá thướt hai. Tôi bồi hồi gọi:
    - Tạo.
    Tạo nghiêng người qua phía tôi giọng thều thào:
    - Ai rứa hè?

    - Thụy đây, nhớ không?

    - Thụy Ngọc phải không?

    - Ừ. Sao mà ra nông nổi này?

    - Tôi bị sốt mãn tính ông à, từ khi còn ở trong … Tưởng bỏ xác trong đó rồi. Lấy nước bác uống con.
    Tạo bảo con, rồi tiếp:
    - Ông về hồi mô? Ngọc và mấy cháu ổn chứ?

    Tôi nhìn quanh căn nhà rộng chừng mười mấy mét vuông, chẳng có đồ đạc gì. Thằng bé đem tới một cái ghế nhựa đặt bên tôi, không nói gì.
    - Chúng tôi cũng ổn cả. Ông về mấy năm rồi?

    - Hơn ba năm rồi, yếu quá chẳng làm gì được, ngày nào khỏe thì đi xe đạp thồ, thằng bé học một buổi một buổi đi bán dạo bậy bạ chi đó, nói chung không chết đói.

    Tôi nhìn sâu vô trong bếp những mong tìm thấy Liên, dù trước đó thằng bé đã nói về mẹ nó rồi.
    - Vì sao mà Liên bỏ đi? Ông có biết giờ cô ấy sống ra sao không?
    Tạo cười mếu xệch:
    - Vì sao bò đi hả? Chuyện thường thôi. Đầy rẩy. Thời buổi này chuyện đó đầy. Ông có phúc đó. Ngọc nhan sắc thế kia mà còn trụ vững đến bây giờ. Ông có phúc đó.

    Tạo im lặng giây phút rồi chua chát:
    - Ông biết răng không? Liên bỏ tôi đi. Không sao. Tuổi thanh xuân của nàng không thể để uổng phí chờ đợi vô vọng, rồi những ức chế sinh lý, những thèm muốn, những nhu cầu…Không sao. Cho dù ngụy biện hay phân trần thế nào, việc đó cũng chưa đến nổi oán hận gì. Nhưng! Ông biết sao không? Một người mẹ bỏ con là điều không thể chấp nhận. Thua cả cầm thú.

    Tạo dừng lại để thở. Tôi chỉ biết im lặng để nghe nỗi đau gặm nhắm trong từng sợi máu. Ngồi xuống bên Tạo, lòng nhớ về một cô Liên hiền thục, sáng chủ nhật nào cũng thướt tha trong tà áo dài trắng đến nhà thờ, làm con chiên ngoan đạo. Ở nhà là người vợ nhu mì, thương con chìu chồng. Tôi không biết con người tự nó thay đổi hay thời gian và cuộc sống làm nó thay đổi. Nhưng mà gì thì gì, những đổi thay mang lại bao bất hạnh cho con người thì đau thương quá.
    Tạo đưa tay về phía tôi:
    - Ông đỡ tôi dậy tí.
    Tôi vòng tay qua cổ Tạo đỡ ngồi dậy.
    - Đêm ni ông ở đây với cha con tôi. Bạn cũ lâu ngày gặp nhau, ăn một bữa cơm, mắm muối thôi, ông đừng từ chối. Con nấu cơm bác Thụy ăn với nghe. Chạy ra đầu hẽm chỗ bà Tư mua ít khô, nhớ mua xị rượu. Tạo nói với con, nhưng tôi can:

    - Thôi, cháu nấu cơm đi. Bác đi mua cho.

    Tôi ra đầu hẽm. Cái quán nghèo nàn chẳng có gì nhiều. Tôi mua ít đồng rượu và ít khô cá hồ. Cơm nóng bốc hơi, mùi khô cá nướng thơm lựng, cả ngày nhịn đói, bây giờ tôi ăn ngon lành. Bạn bè gặp nhua cũng vui nên Tạo ăn được chén cơm và cũng uống vài cốc nhỏ. Ngồi bệt trên nền nhà ấm, chúng tôi tiếp tục trò chuyện, nhắc tới mọi người. Bốn mươi năm trên đời, qua bao dâu bể, niềm vui thì mỏng manh mà khổ đau thì triền miên. Bao nhiêu đổ nát kinh hoàng đã ụp xuống thế hệ chúng tôi. Trách nhiệm thuộc về ai? Ai có quyền phán xét những lỗi lầm. Dầu trách nhiệm thuộc về ai. Dầu quyền lực thuộc về ai. Chúng tôi cũng chỉ là vật hy sinh cho tham vọng bi thương của con người.

    Thằng bé hình như mệt quá, ngồi ngủ gật bên cạnh bố. Tôi đốt một điếu thuốc, Tạo không nhìn tôi, nói:
    - Liên bỏ tôi, bỏ con chạy theo một thằng nào ông biết không? Thằng Huy đó.

    - Huy nào?

    - Thì thằng Huy cận chứ Huy nào. Sau 75 hắn phất lên như diều. Bạn bè ai cũng sợ nó.
    Tôi nhớ ra rồi. Thằng Huy cận. Gia đình hắn có công mà.
    - Thôi cái số ông nó vậy. Biết đâu mai sau ông gặp may thì sao. Tôi an ủi Tạo.

    - Ối trời! Còn sống đến cái ngày vận may nó tới không. Thôi thì còn sống ngày nào hay ngày ấy. Tôi chỉ lo cho thằng nhóc thôi. Ông còn ở lại đây bao lâu?

    - Mai tôi đi. Hy vọng thế nào chúng ta cũng gặp nhau, tất cả.

    Tôi vừa dứt câu thì bóng một người phụ nữ xuất hiện ở bậc cửa. Tạo ngồi quay vào trong nên không thấy. Thoáng một chút bỡ ngỡ tôi nhận ra ngay mặc dù trông Liên đã khác xưa nhiều lắm. Tôi kêu lên:
    - Ôi! Liên! Tạo giật mình quay ra. Liên đứng sững nơi bậc cửa. Thằng bé giật mình tỉnh dậy. Chưa nhận ra ai, chỉ riêng tôi.

    Sau giây phút lưỡng lự, Liên chạy đến ôm chầm lấy con và tôi thấy nước mắt nàng ràng rụa. Thằng bé vẫn chưa hết bàng hoàng. Tạo thì im lặng đông cứng, ngồi như một tảng đá. Không khí chùng xuống nặng nề. Tôi loay hoay không biết xoay sở ra sao, hết nhìn Tạo rồi nhìn Liên, nhìn thằng bé. Liên nước mắt ràn rụa, ôm ghì con vào lòng tức tửi gọi:
    - Con!
    Thằng bé như choàng tỉnh lại, vùng đứng lên, hét to:
    - Không!
    Rồi vụt chạy ra trước con hẽm, khuất trong bóng tối. Liên đứng lên định chạy theo con, nhưng Tạo lạnh lùng:
    - Để cho thằng bé yên.
    Giọng Tạo khô khốc, đanh cứng như một nhát bổ của cái búa cùn hoen rỉ vào một tảng đá, khiến người nghe thấy ghê ghê, gai ốc từ sau cột sống lan đi nóng hổi. Liên đứng lại, nhìn tôi:
    - Chào anh Thụy, xin lỗi, em không cố ý.
    Nhìn gương mặt Tạo lạnh băng, nhưng tôi cũng phải hỏi vài câu xã giao:
    - Liên đang ở đâu?

    - Em đang ở Hải Phòng, nhiều lần muốn về thăm cháu, thăm ảnh. Liên đưa mắt nhìn Tạo – nhưng vừa sợ, vừa xấu hổ, không dám về anh à. Em mới vào chuyến tàu tối nay, vội tới đây, không ngờ được gặp lại anh. Em xin lỗi. Trăm vạn lần tội lỗi em xin gánh chịu. Em chỉ xin thỉnh thoảng cho em được gặp con em.

    - Ngày nào cô ra?

    - Em cũng chưa định.

    Tiếng chuông đồng hồ nhà hàng xóm gõ mười một tiếng, trời đã về khuya, hơi nước sông Hàn theo gió thổi vào lành lạnh. Tôi nói với Tạo:
    - Tạo ơi, chắc tôi phải ra bến xe ông ạ.
    Tạo vẫn lạnh lùng:
    - Ừ, ông đi.
    Tôi buồn bã đứng lên, thấy mình thật vô tích sự, trước hoàn cảnh như thế mà chẳng giúp được gì. Nói gì với Tạo đây? An ủi chăng? Thừa. Chúng tôi sinh cùng thời gian nan vất vả giống nhau, khổ đau tủi nhục giống nhau, đứa nào cùng từng trải bể dâu. Nói gì cũng thừa. Tôi bắt tay Tạo, nhìn Liên:
    - Những gì xảy ra, hãy xem như một thứ định mệnh, thứ định mệnh khắc nghiệt như định mệnh của lịch sử này thôi.

    Tôi bước ra đi trong bóng tối nhập nhòe của thành phố đang trong cơn ngủ chập chờn mộng mị, bỏ lại sau lưng căn nhà của một người bạn, một căn nhà chứ không phải là một gia đình. Liệu tôi có bỏ lại sau lưng được cuộc dâu biển tang thương mà bạn tôi đang gánh chịu trên đôi vai cằn khô như một cành cây mục?

    Tôi vẫn bước đi trong đêm vắng, cố hỏi trong lòng: Mình sẽ về đâu?


    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    GỌI TÊN NGƯỜI YÊU DẤU - Lê Nam Phương (thi sĩ Lê Văn Trung)

    GỌI TÊN NGƯỜI YÊU DẤU

    Lê Nam Phương (thi sĩ Lê Văn Trung)


    1

    Nàng có một cái tên nghe ngồ ngộ, là lạ, hay hay. Cái tên mà mỗi lần kêu lên nó còn đọng lại, sau đó, trong hồn anh như tiếng chim buổi sáng trong vườn xuân tuổi trẻ, nó trải dài mang mang trên con đường chiều anh lang thang, nó làm cho anh bắt gặp anh trong tiếng gió lao xao của hàng dương liễu hòa trong tiếng rì rào của sóng biển trùng khơi.

    Nàng có một cái tên nghe vui vui, trong trẻo, vang vang. Cái tên mà mỗi lần gọi lên thì hình như nó khua từng nhịp trong lòng anh cơ hồ như tiếng bước chân ai rộn rã trên lối đi rãi sỏi nơi công viên một lần hò hẹn, nó làm anh nhìn lên bầu trời trong xanh cao vút, nó làm anh thấy màu mây trời đẹp quá! Nó làm anh bất giác hát vang như một gã ca sĩ cuồng say trước những nhiệm mầu của thanh sắc.

    Nàng có một cái tên mà một lần, chỉ một lần thôi, ai nghe gọi lên, không chỉ riêng anh, nó còn đọng mãi cái âm thanh kỳ diệu đó trong tim, mãi mãi, cho đến bây giờ, cho đến mai sau, cho đến sau cái mai sau, nghĩa là nó vĩnh cửu, nghĩa là nó bất diệt. Và bốn mươi năm nay, cái tên đó vẫn còn nguyên trong anh: Lý Minh Thơ.

    Không ai có thể buồn nữa khi nghe ai đó gọi tên nàng, và cho dù nhiều lúc anh đang trầm tư lắng lòng mình vào tiếng gió áo não thổi qua chiều mùa đông nơi cái thành phố nhỏ nằm ven biển này, bỗng dưng tiếng gọi tên nàng vang trong tim anh, anh gọi tên nàng, thế là âm thanh áo não đó bỗng nhiên réo rắc như tiếng vĩ cầm đang tấu khúc nhạc hồng trong ngày hội tình yêu…Rồi anh đốt thuốc, nhả từng vòng tròn khói đan vào nhau, cuốn vào nhau và bay đi.


    Anh chưa một lần ngắm nhìn nàng một cách rõ ràng. Nàng thường xuất hiện trước anh trong màu áo hoàng cúc điểm những cánh hoa nho nhỏ màu tím nhạt. Bóng nàng nhẹ lướt trong nắng chiều vàng phai, anh cứ nghĩ nàng là một cánh bướm thần tiên trong một truyện thần tiên. Nàng không bước mà lướt đi. Nàng không bay mà la đà mặt đất, hai tà áo gió đẩy về phía sau cũng nhẹ như một giải mây đang trôi.

    Anh luôn nghĩ nàng rất đẹp. Không. Không phải rất đẹp. nàng rất quyến rũ. Vâng. Nàng rất quyến rũ. Chỉ thoạt bắt gặp bóng dáng nàng là anh đã bị mê hoặc.

    Anh thường đứng từ xa, nhìn nàng nhẹ nhàng như mây trên con đường chiều về ký túc xá. Mái tóc nàng như một màn tơ lụa chảy xuống hai bờ vai thon dập dờn theo từng nhịp, đôi lúc làn gió vô tình đẩy hết về một bên rồi bung trở lại đẹp như một nét thư họa.

    Anh chưa một lần ngắm nhìn nàng một cách rõ ràng, dù mỗi lần nàng xuất hiện sức quyến rũ của bóng dáng nàng có ma lực cuốn hút anh, quyến rũ anh và anh thấy mình bềnh bồng theo nàng như trong chiêm bao. Và cái mùi hương kỳ diệu từ nàng hòa trộn vào ngây ngất của hương chiều vương lại trên từng ngọn cỏ, tỏa ngập vào không gian, anh nghe như hồn mình đang trong cơn say dìu dịu.

    Và như thế, anh chỉ biết nàng không hơn một cái tên mà mỗi lần anh gọi lên trong lòng thì tim anh rộn rã. Và nàng thì chẳng hề hay biết rằng, trên cuộc đời này, trong cuộc đời nàng, có một người, đã từng, ngắm nhìn nàng từ xa và bị nét quyến rũ của nàng dẫn anh ta đi vào một cõi mộng mơ thần thoại, như rất nhiều người ngắm nhìn nàng Monalisa, rồi bị nụ cười bí hiểm của nàng cuốn hút, chẳng hiểu vì sao.

    Và rồi, với anh, cũng chỉ có thế.


    Mùa đông 1968, anh đứng trên balcon, như thường ngày, nhìn xuống con đường chiều men theo biển, con đường nàng thường đi về mấy bận mỗi ngày. Đúng vào một ngày của mùa đông năm đó, anh đứng chờ. Thời gian trôi nặng nề. Trôi nặng nề. Trôi lặng lẽ. Anh đứng như một pho tượng, căng mắt nhìn xuống mặt đường nhạt nhòa bóng tối.

    Ngày sau. Ngày sau. Và ngày sau nữa. Anh đứng chờ. Anh mong ngóng. Anh gọi tên nàng nho nhỏ, âm thanh vang vang rồi mất hút.

    2

    Ngôi nhà nho nhỏ nằm khuất bên trong vài mươi bước đi bộ ở cuối đường Nguyễn Thái Học là nơi hội tụ những khuôn mặt bạn bè. Đó là những con người đã được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn bi thảm của lịch sử. Đất nước bị xâm lược bởi đủ loại học thuyết, loại chủ nghĩa, xa lạ hoàn toàn với tình tự dân tộc. Nhưng sức mạnh tàn bạo của nó đã đẩy đất nước vào những đổ nát, những bi kịch, những chia lìa và thù hận. Và cũng không ít nỗi chán chường, phiền muộn và bất cần, hoàn toàn lạc hướng, không mục đích. Một vài cá nhân bám víu vào một cái gì đó của bên này hay của bên kia và bị ảo tưởng đánh lừa, bị giáo điều đánh lừa, bị cả tình yêu đánh lừa.

    Trong căn nhà này, ngoài những con người đại diện cho đủ loại “tư tưởng không hoàn hảo”, mà anh là một trong những con người đó, ngoài họ, bất cứ ai bước vào căn phòng đó cũng sẽ bắt gặp, nơi xó tối này vài cuốn sách của Sartre, của Simon de Beauvoir, nơi kia vài cuốn của Camus, vài cuốn nói về Mars, về Lênin. Thậm chí có cả cuốn “Làm thế nào để trở thành người Cộng Sản” của một tác giả ngoại quốc nào đó. Còn nhật báo, tạp chí thì vô kể. từ loại văn học nghệ thuật chính thống đến văn chương dấn thân. Và nhất là đủ thứ hoan hô đả đảo.

    Anh đã sống cùng, trong ngôi nhà đó, với tất cả như thế. Và anh cũng lạc lối, phiền muộn, khổ đau, ngông nghênh, bất cần. Nếu phải quên hẳn tên nàng chắc anh buồn lắm.

    Hàng ngày, anh nhìn ngắm bạn bè mình, trong căn nhà đó. Cười với họ, trầm tư như họ, văng tục chửi thề như họ, yêu đương và ngủ với gái điếm như họ. Đêm chong đèn uống rượu, nói chuyện chiến tranh, chuyện giết người và người giết, chuyện hận thù và yêu thương. Có lần đã cầm súng suýt bắn nhau.

    Đêm ấy, anh Hoàng Huy từ Nha Trang ra, đây là một người được anh em miền Nam Trung Việt tặng cho cái danh xưng trang trọng là: Mạnh Thường Quân văn nghệ. Đêm ấy, tại căn nhà này, sau khi tất cả đã uống dăm ba cốc rượu, một vài ly bia, Hoài đã rút súng kê sát vào đầu Thái:

    - Mày vừa nói gì? Mày can đảm lặp lại đi. Mày sẽ được chết can đảm.

    Thái nói gì, hình như ít người nghe, nhưng Hoài và anh đã nghe. Trong cơn tức giận, đôi mắt cận gần mười hai độ của Hoài càng lồi ra, tay run run với khẩu Colt 12, mặt Hoài tái nhợt. Anh em ngạc nhiên, sửng sốt không phản ứng. Anh ngồi bất động. Thời gian đông cứng, đặc quánh. Nhưng anh Hoàng Huy vụt đứng lên, kéo Hoài ra ngoài. Hoài ném khẩu súng xuống mặt bàn, bước theo anh Hoàng Huy, đưa tay vuốt đầu tóc bạc, lấy cái mũ vắt nơi cầu vai áo, gỡ kính ra, lau hai giọt nước mắt vừa ứa ra.

    - Em không thể bắn nó, anh ạ.

    - Nhưng Thái nói gì?

    - Hắn bảo em là tên lính đánh thuê. Vậy những người anh em nó đi lính cho ai? Cho ai? Ở bên kia. Hắn không hiểu. Cái thằng ngu. Thằng bạn em nó ngu. Nó không hiểu. Làm sao em bắn nó.

    Anh Hoàng Huy và Hoài đi rồi, còn lại, còn lại Ngạn, Cao và Nhân cùng anh vẫn ngồi uống rượu. Thái bỏ đi lặng lẽ.

    Anh lại nhớ đến tên nàng, bất giác anh mỉm cười một mình. Tại sao mỗi lần nhớ đến tên nàng anh lại thấy an tâm. Như lần này, ở đây, đạn suýt nổ, máu suýt rơi, hận thù bung vỡ…trong lòng anh em bè bạn. Và, cũng có thể, đạn chưa kịp nổ, máu chưa kịp rơi, hận thù chưa kịp bung vỡ, vì cũng như anh, trong lòng Hoài, trong tim Thái, trong tấm lòng của Nhân, của Ngạn, của Can còn vang lên một cái tên nào đó. Hương, Diễm, Phước, Cúc Hoa, cũng như trong anh, tên của nàng, như một tiếng đàn, rung lên.

    - Có ai nghe Thái nói gì mà Hoài giận ghê vậy?

    Nhân hỏi bâng quơ chẳng nhằm vào ai, và hầu như cũng chẳng ai tha thiết được trả lời. Can lấy cái kính cận sáu diop ra khỏi mắt, trong nhóm anh em hay tụ tại căn nhà này có hai anh chàng cận rất nặng: Can gốc Tuy Hòa, Hoài gốc Huế. Can dùng vạt áo để lau kính, chưa vội mang kính vào, Can trả lời câu hỏi của Nhân mà nghe cũng như trả lời vu vơ, chẳng thiết tha đáp lại cho đúng ý người hỏi.

    - Nói gì thì nói, quan trọng gì. Cuộc chiến tranh cứt đái này.

    Ngạn thì im lặng. Cái im lặng rất Huế. Không phải cái Huế của đền đài lăng tẫm, mà là cái im lặng của bên trong những bất công và đàn áp những năm sáu tư sáu lăm.

    Nhân đẩy ly rượu Thái bỏ dỡ về phía anh:

    - Hôm nào tôi lấy cái phép thường niên, cậu về Phan Thiết với tôi. Quê tôi đẹp lắm. Tôi sẽ giới thiệu với cậu cô em họ, rất tuyệt.

    Rồi Nhân cười. Nụ cười hiền khô. Nụ cười rất Phan Thiết, có dòng Cà Ty vắt qua lòng thành phố. Hình như Diễm cũng có lần ngang qua Phan Thiết. Nhân đã nói thế với niềm vui tỏa trên đôi mắt. Và hình như trong lúc này cái tên Diễm đó vang lên trong lòng Nhân, âm vang đó làm tan mờ lớp bụi bẩn trên bộ quần áo màu ô liu, làm rạng lên niềm vui trên gương mặt sạm nắng của thời tiết khắc nghiệt vùng rừng núi Trung Việt.

    Anh Hoàng Huy và Hoài nghiêng người lách vào khung cửa hẹp, đến ngồi vào chỗ cũ.

    - Thằng Thái đâu rồi?

    Can gắn cái kính cận sáu diop lên mắt, cười vu vơ:

    - Hắn chuồn rồi.

    Gương mặt Hoài hoàn toàn đổi khác, anh buồn rũ xuống như một cành lá úa. Hình ảnh cái anh chàng kiêu bạc trên những vỉa hè Qui Nhơn sau những ngày hành quân sống chết như một trò chơi vùng Sa Huỳnh, Bồng Sơn, Tam Quan, Mộ Đức, sau những ngày ròng rã nắng lửa, giá buốt, ăn bụi ngủ bờ cùng sâu bọ muỗi mòng, và những âm thanh đi đứng không ngớt dội vào tim vào hồn của những người - lính - cầm súng - làm thơ - viết văn những tiếng thét hãi hùng và bi uất. Bây giờ Hoài ngồi đó, chiếc mũ nồi vẫn nhét vào cầu vai áo, anh ngồi đó buồn rũ như một cành lá héo. Khẩu Colt 12 vẫn nằm lạnh trên bàn.

    Ngạn vẫn im lặng hút thuốc, cái im lặng của dòng sóng ngầm nằm sâu dưới lòng sông Hương.

    3

    Mỗi người đều có một cái tên để nhớ, để thầm gọi, để nuôi những ước mơ, mà nếu có ai đó gọi ra những ước mơ đó nghe ra đều tội nghiệp. Cái ước mơ quá nhỏ bé của một kiếp nhân sinh mà không bao giờ với tới được. Nhưng dầu sao, trong những phút giây này, trong những năm tháng mòn mõi và bất an này, những cái tên đó được gọi lên nho nhỏ cũng sưởi ấm chút nào nỗi quạnh hiu trong lòng người và trong lòng đời.

    Đôi khi, anh cũng chẳng hiểu tại sao, anh và bè bạn lại tập trung về cái thành phố nhỏ nhắn nằm ven bờ biển miền Trung, cái thành phố chẳng có gì thu hút những người như anh và bạn bè.

    Đã đôi lần anh về Ghềnh Ráng, nơi thi sĩ tài hoa bạc phận Hàn Mặc Tử gởi nhúm tro bụi đời mình. Nhưng rồi anh ngậm ngùi, nhưng rồi anh đau lòng. Mộ phần của một thiên tài, nơi an nghĩ của một bậc tài hoa mà sao nó hiu quạnh thế này, mà sao nó đơn sơ lạnh lùng thế này. Anh đã đến đó một lần, với Ngọc, với chị Ngọc. Vâng. Chị Ngọc. Anh vẫn thường gọi Ngọc là chị Ngọc. Hai người ngồi bên mộ Hàn Mặc Tử ở Qui Nhơn mà nhớ Huế vô vàn, nhớ cầu Tràng Tiền nối hai bờ sông Hương như mái tóc thần thoại lượn lờ qua mặt nước và lặng im như một buổi chiều Thành Nội.

    Anh đọc”Đây thôn Vỹ Dạ” cho Ngọc nghe, cho người dưới mộ nghe:

    “Áo em trắng quá nhìn không ra”

    Áo em trắng quá hay là em trắng quá? Em là ai? Có phải em? Có phải Ngọc? Hay chỉ là một gợn mây? Hay chỉ là bóng-ma-mầu-nhiệm? Hay là cái nguyên-sơ-trinh-bạch, cái hồn thi ca, cái tinh anh trời đất? Nhưng. Đầu tiên. Sau cùng, đó là em. Là cái đẹp. Là Ngọc. Là chị đó Ngọc ơi.

    Qui Nhơn. Phải rồi. Qui Nhơn. Nơi đây có cái gì níu kéo anh và bạn bè, sau những lần đối mặt với tử sinh, với đổ nát, với tang thương trong những vùng quê xơ xác, áo quần, da thịt ẩm mốc bốc mùi, tóc tai râu ria bờm xờm, chỉ còn một chốn quay về: những vĩa hè Qui Nhơn, những quán rượu, và căn nhà rêu mốc ở cuối đường Nguyễn Thái Học. Không biết gọi nơi đây, nơi căn nhà này là gì cho đúng nghĩa. Anh và bạn bè tụ tập nơi đây, mỗi người không biết nỗi rồi mình sẽ ra sao, sẽ về đâu, nhưng mà chuyện văn không bao giờ dứt. Họ nói về chiến tranh. Họ nói về hòa bình. Họ nói về máu xương. Họ nói về đổ nát. Họ nói về thần thánh. Gọi tên người yêu. Và những cái tên Hương, Diễm, Phước, Cúc Hoa…họ viết lên tường với những câu thơ ngậm ngùi. Những bản thảo viết trên bao thuốc lá, trên tờ lịch, trên những tờ giấy vàng ố nhặt ở đâu đó, nằm đầy trên sàng lẫn lộn với đống sách báo. Nếu, anh nghĩ, có ai đó, nhồi sắp xếp, sưu tập, chắc sẽ ngạc nhiên và thú vị vô cùng: Một bảo tàng văn học đấy!

    - Tuần sau, tuần sau nghe – Nhân lại lên tiếng – Tui về, cậu đi Phan Thiết với tui.


    Anh Hoàng Huy nhìn ra ngoài. Trời đang rắc mưa. Ánh điện vàng hiu, hắt qua khe cửa, anh vỗ vai Hoài đang ngồi rũ như một cành lá úa:

    - Đi uống cà phê thôi.

    Hoài với tay lấy khẩu Colt nhét vào lưng. Cả bọn đứng lên. Con đường Nguyễn Thái Học vắng hoe. Nếu không có vài cô gái thập thò ở đầu hẽm, một vài chàng lính Mỹ rú xe Jeep vù qua, mất hút, nếu không có họ, chắc con đường này và cả thành phố này sẽ vắng lặng vô cùng.

    4

    Quán Cà phê nhỏ nằm nơi góc đường Lê Lợi cũng là nơi, mỗi lần về phố Hoài và Nhân và các bạn đều ghé đến, thường là rất muộn, như hôm nay, chẳng hạn. Nơi đây, nơi quán cà phê này, cô chủ quán, tuy nhan sắc đã thoáng chút tàn phai nhưng nét quyến rũ của nàng, vẫn, đôi khi, làm xao xuyến trái tim của khách phong trần. Và nhất là cô có cái tên, gọi lên nghe buồn não nuột: Phù Dung. Ừ nhỉ, sao cô lại mang cái tên nghe buồn lắm vậy? Một cái tên báo trước gì đó mong manh, chóng tàn. Và phải chăng, cái tên của người nào là số phận của người đó. Hình như Phù Dung cũng không tránh khỏi điều này. Nghe đâu, nàng, tuy còn trẻ, mà đã sớm trở thành góa phụ rồi. Chồng nàng hình như tử trận đâu ở chiến trường Quảng Trị khi hai người chưa kịp hưởng tuần trăng mật. Mỗi lần đến đây, ngắm nhìn nàng, trong màu y phục đen tuyền, đôi mắt xa xôi, chưa bao giờ thấy nàng cười, Hoài đều nói cái điều mà anh đã nói hàng trăm lần:

    - Tôi sẽ không lấy vợ, các anh ạ.

    Rồi Hoài thở dài:

    - May mà hai người này – Hoài chỉ Phù Dung – chưa có con.

    Can triết lý:

    - Chiến tranh là vậy.

    Bỗng Hoài đứng lên, tiến về phía quầy, nơi Phù Dung đang ngồi như một pho tượng, người góa phụ ngỡ ngàng, khẽ nhếch mép như muốn hỏi điều gì, nhưng nàng vẫn im lặng. Hoài đến trước người góa phụ, rất nghiêm trang, anh đưa tay chào đúng tư cách một quân nhân, anh nói, giọng thật xúc động:

    - Tôi, thay mặt bạn bè tôi đang ngồi đây, bạn bè tôi còn trong rừng, trong bản làng xa xôi, xin thay mặt họ, cám ơn chị, cám ơn chị.

    Người góa phụ lúc đầu ngơ ngác, nhưng rồi chị chợt hiểu, chợt nhận ra nỗi đau buồn chân thật trên đôi mắt cận của người lính đang đứng trước nàng, nước mắt nàng ứa ra nặng nề, nàng chồm người về phía trước giang hai tay ôm ngang vai Hoài và chị hôn vào đôi kính cận của anh.

    Mọi người trong quán tự động đều đứng lên, lặng yên như một phút mặc niệm.

    Hoài về lại chỗ ngồi. Đôi mắt kính của anh vẫn còn đọng hai giọt lệ của người góa phụ.

    ***

    Càng về khuya phố xá càng vắng vẻ. Mưa nhẹ và buồn. xa xa vọng về vài tiếng nổ lẻ loi. Bầu trời đêm thỉnh thoảng chập chờn ánh hỏa châu sáng lên một lát rồi chìm trong màn mưa ẩm đục. Trong đêm vắng lặng đó, bóng người lầm lủi bước đi, mỗi người một tâm trạng, chẳng ai nói với ai câu nào nữa. Mỗi người trở về với nỗi cô đơn của mình. Mỗi người trở về với cuộc tìm kiếm của mình trong ký ức xa xôi. Ngày mai Hoài và Nhân sẽ trở lại đơn vị, trở về những nơi chốn mà số phận của họ bị treo lơ lửng cùng số phận của quê hương. Họ tiếp tục ăn bụi ở bờ, tiếp tục bò trườn như rắn rít trong đêm tối, họ trở về với nơi giáp mặt tử thần, để dầu muốn dầu không, cũng phải bắn, phải nả súng vào kẻ đối diện. Không nhân danh điều gì. Cả dân tộc này đều phải như vậy. Cả loài người đều phải như vậy. Như một định mệnh. Như một quy luật. Cho dù định mệnh đó, quy luật đó khắc nghiệt như thế nào. Cuộc chiến tranh gây ra tai họa cho cả loài người, cho cả muôn thú, cho cả cây cối, cho cả sông ngòi và đại dương, cái ung độc của nó làm lỡ loét cả tâm hồn con người, làm ô uế cả khí trời. Cuộc chiến đó chỉ làm thỏa mãn cho vài quái nhân mắc chứng bịnh điên cuồng bẩm sinh, làm thỏa lòng kiêu ngạo phi nhân tính, giẫm đạp lên những giá trị thiêng liêng nhất của con người. Tiêu biểu cho quái thai lịch sử đó là Tần Thủy Hoàng, là Hitler, là Pônpôt, là cái ngài đại tá Buêynduê mà Samuel Becket hư cấu nên trong “Trăm năm cô đơn”, là nhân vật Boris trong “Lối thoát cuối cùng”. Họ đấy. Họ là tai hoạ của nhân loại.

    Và trong lúc này đây, trong lúc mà lòng anh trĩu nặng, u uất, đang bước đi trong đêm tối, cùng những bạn bè, trong nỗi trầm lắng của trời đêm, những bước chân muộn phiền.

    Anh cố gọi tên nàng, trong sâu lắng lòng mình, anh đang cố gọi tên nàng, và tiếng gọi bung ra mấp máy nơi môi nhẹ như nụ hôn của người góa phụ lên đôi kính cận của Hoài. Anh thấy nhè nhẹ trong lòng, vơi vơi nỗi nặng nề. Ôi cái tên của người yêu dấu! Nào Hương. Nào Diễm. Nào Phước. Nào Cúc Hoa. Hãy gọi tên người yêu dấu đi các anh. Như anh bây giờ đang gọi tên nàng trong âm vang của sóng biển mùa đông Qui Nhơn: Lý Minh Thơ. Ngọc ơi! Chị Ngọc ơi! Lý Minh Thơ! Nàng không biết anh là ai, nàng chẳng bao giờ biết được rằng trong cõi đời này có một người, đến bây giờ, mỗi khi sầu não, lại gọi tên nàng, đọc tên nàng như đọc lời cầu nguyện. Cả chị nữa, chị Ngọc ơi. Chị buồn như góa phụ Phù Dung, chị có gọi tên ai, tha thiết gọi tên ai, để, gần như được vỗ về, được ủi an.

    Năm người trở về căn nhà bằng hữu đó, các anh thường gọi cái hang cư ngụ của mình là “căn nhà bằng hữu” - friend house - , họ bước vào, thì, thật ngạc nhiên, Diễm và Hương đang ở đó.


    - Các anh đi đâu mà bọn em chờ cả mấy tiếng đồng hồ rồi. Giọng Huế của Diễm nhẹ như một hơi đàn. Hương nắm tay Hoài:

    - Anh biết không? Minh Thơ bị bắt rồi.

    Anh nghe một luồng khí lạnh chạy qua người anh, đóng băng trên não:

    - Chị Hương bảo sao? Anh hỏi mà không biết có nghe nỗi câu trả lời không.

    - Sáng nay, thật sớm - Diễm vừa cầm tay Nhân vừa run - Cảnh sát chạy xe tới, có còi hụ, vào trường, súng lăm lăm trên tay. Ôi em sợ quá.

    Hương chen vào:

    - Họ đọc lệnh bắt Minh Thơ, Lý Minh Thơ ấy. Họ lục tung cả nội trú, nhất là phòng tụi em, bọn em ở chung với Minh Thơ. Họ thu hết sách vở, giấy tờ của Minh Thơ rồi đưa lên xe bít bùng hú còi chạy đi.

    Diễm rưng rưng:

    - Không biết răng mà báo tin cho má Thơ.

    Anh bàng hoàng:

    - Họ có nói lý do gì bắt cô ấy không?

    - Không. -Diễm nói- không ai tiếp xúc với họ, ngoài thầy hiệu trưởng.

    Hương bóp mạnh tay Hoài:

    - Răng chừ anh?

    - Chờ đợi thôi, em ạ. Anh nghĩ cô ấy không sao đâu.

    Hoài nói, dĩ nhiên để trấn an Hương và Diễm, cũng như để tự trấn an mình. Anh hỏi Hương:

    - Em có rõ gia đình cô ấy không?

    - Thơ chỉ có một mình. Không anh chị em. Má Thơ chỉ có mình Thơ. Hỏi về ba thì Thơ không nói. Mọi người đoán đoán hình như ba Thơ theo bên kia.

    Can im lặng nãy giờ, đi tới đi lui, lấy cái kính ra khỏi mắt, gõ gõ cái kính cận vào trán, buông một câu:

    - Cuộc chiến tranh cứt đái này.

    Anh nhớ ra rồi, vào cái buổi chiều hôm đó, và những chiều hôm sau, anh đứng trên balcon chờ nàng đi ngang qua, nhưng từ chiều đó, không thấy bóng dáng nàng, người con gái có cái tên hay hay, có cái vẻ bề ngoài mê hoặc anh, quyến rũ anh, bây giờ, nàng thở thành nạn nhân của cuộc chiến này, nạn nhân tình nguyện hay nạn nhân bị cưỡng bức, cũng vậy thôi. Tuổi trẻ của nàng đã bị đánh lừa, bị âm mưu đánh lừa, bị những cái nhân danh đánh lừa. Cả bạn bè của nàng, cả anh em của nàng, cả ba mẹ của nàng, đều đã bị đánh lừa, dù ở bên này, dù ở bên kia. Nàng có thấy điều đó hay không thấy điều đó, cũng vậy thôi, không chọn lựa khác được.

    Cũng như Hoài và Nhân, cũng như bạn bè anh, không thể tự lơ lững một mình giữa khoảng không, phải rơi vào một cái hố, cái hố này hay cái hố kia. Và thế là đối đầu nhau, chỉa họng súng vào nhau, và hận thù nhau. Và đó là chiến tranh. Và đó là mục đích sau cùng của những học thuyết, của những chủ nghĩa.

    Và cũng như Hoài và Nhân, như bạn bè anh, trong lạc loài và cô đơn cùng tận, trong đau xót và bất an triền miên, trong hiểm nguy bủa vây trùng trùng, réo gọi tên người yêu dấu như thứ bùa chú giải cứu, như một ân huệ sau cùng, như lời khấn nguyện, dù biết rằng rồi ra chẳng còn gì, chẳng còn gì, tất cả, chẳng tồn tại.

    Phải không Hương? Phải không Diễm? Phải không Phước? Phải không Cúc Hoa? Phải không Ngọc? Phải không chị Ngọc? Phải không Phù Dung Và phải không Lý Minh Thơ!


    LÊ NAM PHƯƠNG (LÊ VĂN TRUNG)
    (Viết để tặng các nhà văn Trần Hoài Thư,
    nhà văn Phạm Văn Nhàn,
    nhà thơ Phạm Cao Hoàng)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Bên ngoài khung cửa sổ - lê nam phương

    BÊN NGOÀI KHUNG CỬA SỔ

    LÊ NAM PHƯƠNG
    (THI SĨ LÊ VĂN TRUNG)



    Diệu tì tay vào khung cửa sổ, mắt u ẩn nhìn hút về phía xa. Cánh rừng mùa này đang trở nên xanh dù sương mù có làm cho màu xanh nhạt nhòa hơn. Nàng nghe rõ tiếng gió réo áo não qua các ghềnh đá và lung lay những cành thông, tạo cho từng mảng sương mù biến đổi không ngừng, lúc thì trông như những bóng ma trắng chập chờn từng đàn từng lũ đi về một hướng, rồi đột nhiên quay ngoắc lại tan vào nhau thành một khối lăn sườn đồi. Có một con đường mòn vắt qua cánh rừng nhưng giờ này nom không rõ. Chỉ nhận ra con đường qua bóng dáng nhấp nhô của một vài người vội vã đi về phía rừng xa.


    Gần hai năm nay, Diệu có thói quen đứng tựa khung cửa sổ nhìn mông vào khu rừng, mắt dõi theo những lay động của cành lá, của sương và của những cánh chim lạc loài. Nàng đứng đó, lặng chìm vào nỗi nhớ tiếc xót xa và bóng dáng của Hạ lãng đãng mơ hồ. Tuổi thanh xuân trôi qua cay đắng cùng với những thèm khát tê buốt cháy rưng rưng trong từng tế bào. Nàng cắn chặt môi và nước mắt trào ra cấu buốt vào thịt da những khát khao cháy bỏng.


    Diệu biết mình rất đẹp, và nhìn bề ngoài nàng trẻ hơn độ tuổi hai lăm. Thân hình cân đối, cặp đùi chắc, mông nở, eo thắt lại một đường cong gợi cảm làm nhô lên hai bầu vú căng đầy. Hạ đã từng luồn bàn tay thô bạo của mình mơn man bầu vú nàng. Những lúc đó Diệu thấy phấn khích lạ thường và cơn thèm khát bung vỡ như nổ tung cơ thể nàng. Nàng kéo Hạ nằm xuống, rên rỉ như một con mèo và nàng cắn ngập vào vai anh, cố nén dòng nước mắt hoan lạc trào ra. Nhưng mỗi lần như vậy. Hạ đều nâng đầu nàng lên, hôn đắm đuối vào đôi mắt ươn ướt của nàng, anh vỗ về Diệu:

    - Chúng ta sẽ nén lại em ạ. Ngày hòa bình, ngày hòa bình anh bình an trở về. Bình an trở về, em biết không? Ta sẽ dìm nhau trong cái địa ngục tình yêu, cái địa ngục mà nơi đó xác thịt ta sẽ cháy bỏng ra. Anh sẽ bù đắp cho em. Em sẽ bù đắp cho anh. Ngày hòa bình anh sẽ về em ạ.

    Hòa bình! Chiến tranh đã chấm dứt thật rồi sao? Hơn ba năm rồi đó. Người ta không còn bắn giết nhau nữa thì người ta bảo đó là hòa bình. Người ta không còn gây ra chết chóc máu đổ thịt rơi nữa thì người ta bảo đó là hòa bình. Mà nếu đã hòa bình rồi sao anh không về với Hạ? Người ta bảo anh mất tích? Một con người tự dưng biến khỏi mặt đất này? Thật vô lý! Hay người ngoài hành tinh đã mang anh đi rồi! Một người như Hạ, thuộc từng mảnh đất, từng khu rừng, từng con suối trên đất nước này mà bỗng dưng mất tích, không biết đường quay về? Hòa bình rồi sao anh không về hỡi Hạ? Có thể nào có một thứ hòa bình chưa phải là hòa bình? Hòa bình rồi sao ta vẫn còn xa cách nhau muôn trùng? Hòa bình rồi sao người với người không đến với nhau thân ái? Hòa bình rồi sao em thơ vẫn còn lang thang từ hố rác này đến hố rác khác để bới tìm cái ăn? Hòa bình rồi sao đêm ngủ không yên? Tiếng chó sủa, tiếng gió đập cũng giật mình. Qua đêm thấy ngày mới biết mình chưa bị đưa đi. Rừng sâu nước độc, truông vắng đèo cao. Lùa cả người già, trẻ con, phụ nữ. Hòa bình rồi sao anh vẫn chưa về với Hạ? Ôi hòa bình rồi sao vẫn bỏ quê hương. Chết biển. Chết rừng. Hòa bình rồi sao em không được anh ôm siết dìu em vào cơn mê cuồng thèm khát. Hòa bình rồi sao em vẫn còn ngồi ngóng đợi anh về, vẫn là người chinh phụ bao nhiêu năm tì tay vào khung cửa sổ mà chờ, mà mong, mà hy vọng, mà tuyệt vọng, mà đớn đau! Rồi tự thèm khát thân xác mình như anh thèm khát thân xác em. Rồi nhớ quay quắt cuồng điên những bận anh đã về, áo quần bẩn thỉu, nồng nặc mùi mồ hôi và mùi thuốc lá, ôm ghì lấy em như một con thú hoang dã, đôi bàn tay thô bạo của anh luồn lách khắp thịt da em, hai bầu vú em căng cứng một cơn co giật tê điếng. Em trườn lên người anh quằn quại trong mê cuồng, phấn khích với nỗi đớn đau bung vỡ niềm khoái lạc. Em đã giật đứt tung áo quần. Em trần truồng trinh bạch trong tay anh. Em chết đuối trong tay anh. Nhưng tại sao? Tại sao anh dừng lại, hôn vào đôi mắt đang ứa đôi dòng lệ náo nức đợi chờ nguồn hoan lạc. Anh kéo em dậy, mặc lại áo quần, hôn lên hai bầu vú đang còn căng cứng của em:

    - Chúng ta sẽ đợi chờ nghe em? Hòa bình anh sẽ trở về. Hãy giữ lại phút giây hạnh phúc nhất đời ta chào đón ngày hòa bình. Anh sẽ trở về. Rồi ta sẽ có con, em ạ.

    Nhưng rồi anh không về. Anh không về trong cái ngày người ta nói về hòa bình. Có phải anh là người chinh phu “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Có phải em là người chinh phụ chờ chồng hóa đá? Anh thì biền biệt. Em thì qua bao năm rồi vẫn chưa hóa đá. Em còn nguyên đây trong nỗi đớn đau thân phận, nhưng cơ thể em không tàn mục đi. Càng nhớ về anh nó càng căng đầy rạo rực trong những cơn mơ tràn ngập ái ân.


    Diệu như thiếp đi trong dòng chảy của ý nghĩ, dòng chảy có khi trong veo có khi ngầu đục, có khi dữ dội điên cuồng có khi âm thầm lạnh giá. Diệu không nghe rõ tiếng gõ cửa, khi Diệu uể oải quay ra thì cái bóng già nua lọm khọm của một người đàn ông cũng vừa toan bước đi.

    - Bác ơi bác tìm ai?

    Diệu lên tiếng nho nhỏ và bước đến mở cửa. Người đàn ông trạc chừng sáu mươi, tóc bạc trắng, râu ria bờm xờm, miệng móm, nhìn chung gương mặt phờ phạc và xa xôi. Ông chống một cái gậy tre. Ông đang nhìn vào khu rừng, nói, không quay về phía Diệu:

    - Tôi chẳng tìm ai. Tôi đang khát và cần ngồi nghĩ nhờ chốc lát.

    Diệu mời ông vào trong nhà, ông từ chối:

    - Tôi ngồi tạm ngoài hiên. Cô cho xin cốc nước.

    Nàng đem nước ra:

    - Bác từ đâu đến vậy?

    - Không từ đâu cả. Tôi lang thang đã suốt mấy năm nay rồi, không nhớ mình đã khởi đi từ đâu và đã qua những đâu. Không nhớ hết.

    - Vậy nhà bác?

    - Không nhà.

    - Vợ con bác?

    - Không vợ con.

    - Bác định đi đâu?

    - Không định gì.

    - Bác nói cháu chẳng hiểu gì cả.

    - Vâng.

    - Cháu lấy cái gì bác ăn nghe.

    - Bà ấy chết trên đèo năm 75 cùng với con gái. Tôi tỉnh dậy thấy mình nằm dưới vực.

    Người đàn ông có lẽ đã tỉnh táo lại, ông nói tiếp:

    - Tôi đi tìm họ. Không thấy xác đâu. Từ đó tôi lang thang từ nơi này qua nơi khác. Tôi đi tìm họ.

    Diệu vào sau nhà lấy ít cơm và thức ăn mang lên:

    - Cháu mời bác ăn tạm…

    Ông không để ý nói tiếp:

    - Tôi đi tìm. Bao năm nay tôi đi tìm.

    Diệu tò mò lễ độ hỏi:

    - Bác đi tìm?

    - Vâng, tất cả. Kể cả thằng con trai. Nó đi lính rồi không về. Hòa bình rồi cũng không về. Người ta nói nó mất tích. Lạ thật. Mất tích là sao?

    - Nhưng không có tâm tích gì của ai sao bác?

    - Không.

    - Vậy mà bác vẫn đi tìm?

    Diệu lại hỏi một câu có vẻ ngớ ngẩn, chính nàng, chính nàng, không phải chính nàng cũng đang trông đợi vô vọng đó sao? Lại một người nữa mất tích. Một là sống trở về hai là chết. Sao lại mất tích? Mất tích. Thứ ngôn ngữ đánh lừa làm cho ta vừa thấp thỏm hy vọng vừa đớn đau tuyệt vọng.

    - Tôi ăn nghe cô?

    Ông nhìn Diệu e dè hỏi.

    - Mời bác. Nhưng mà bác đã không gặp anh ấy đã lâu chưa?

    - Trước cái ngày thiên hạ cho là hòa bình mấy tháng. Tôi vẫn tin nó còn sống cô à. Mà nếu nó đã chết rồi thì cũng chỉ chết theo cái nghĩa đen của nó. Nó phải còn cái phần tâm linh của nó chứ. Nhưng tôi cũng không gặp nó ngay trong những giấc mơ của mình. Chẳng lẽ linh hồn nó cũng mất tích rồi sao?

    - Anh ấy đã có vợ chưa?

    - Chưa.

    - Chắc cũng có người yêu rồi.

    - Chắc.

    Người đàn ông đi tìm, ông nghĩ, ít ra là cái hồn của con mình. Diệu nghe lành lạnh sau sống lưng.

    Vừa ăn người đàn ông vừa kể:

    - Tôi bảo nó lấy vợ, nó nói khi nào hòa bình. Rồi người ta nói với tôi đã hòa bình. Thế mà nó không về lấy vợ.

    Diệu nhớ tới Hạ. Có phải anh cũng đã nói với em như vậy? Hòa bình anh trở về. Và nàng nghe cơ thể thổn thức bởi một cảm giác cũ sống lại. Nhớ đôi bàn tay thô bạo của Hạ. Và nàng cúi nhìn xuống ngực mình, đôi bầu vú nàng không mặc áo nịt đang run run lên tê tái.

    - Bây giờ bác vẫn còn đi tìm?

    - Vẫn.

    - Bác có tin sẽ gặp anh ấy không?

    - Có.

    Rồi ông cả quyết:

    - Một là xác hai là hồn.

    - Bác có nghĩ rủi ro anh ấy đã mất rồi, linh hồn anh ấy có về với bác không?

    - Cô tin có linh hồn không?

    - Chúa cũng không biết.

    - Cái hồn của con người mới là cái lớn lao hơn. Thân xác chỉ là tro bụi.

    - Nhưng cháu, cháu muốn có cái phần tro bụi đó hơn.

    - Đúng. Cũng cần, nhưng cô nghĩ thế nào? Nếu nó còn sống, chắc chắn nó phải trở về. Hòa bình rồi mà. Nhược bằng nó đã chết, cái hồn của nó cũng phải trở về chứ? Chẳng lẽ một người mất tích là một người không còn cả hồn lẫn xác?

    - Bác có thường cầu nguyện để xin còn được gặp anh ấy không?

    - Không. Không ai giúp ta được. Chúa cũng vậy. Phật cũng vậy.

    - Vậy bác tin vào gì?

    - Không tin vào gì cả. Tôi chỉ có trái tim. Trái tim tôi thôi thúc. Khi nào máu trong tim tôi ngừng chảy tôi sẽ ngưng cuộc kiếm tìm.

    - Bác không tin vào Chúa, vào Phật, vậy bác cho rằng không có thiên đường địa ngục sao?

    - Thiên đường địa ngục ư? Đó chỉ là ý niệm. Nhưng cho dù có thiên đường thì con người cũng không đặt chân tới được. Vì nó chỉ là ý niệm nên khoảng cách giữa thiên đường và địa ngục không xa. Hay chính xác hơn, nó không có ranh giới. Nhưng như tôi đã nói, con người chưa hề đặt chân tới thiên đường được, bởi chính nó, cái con người ấy, chính nó đã là địa ngục rồi.

    - Vậy sao bác tin có linh hồn?

    - Tôi đã nói thế? Thí dụ tôi nói tôi không tin vào Chúa, vào Phật là hiểu theo cái nghĩa quý Ngài không giải thoát gì cho ta được. Tôi không tin tôi cầu xin sẽ được ân chuẩn. Có Chúa không? Có. Có Phật không? Có. Nhưng cầu xin quý Ngài giải thoát cho chúng ta khỏi những phiền não thì không, các Ngài không giải thoát cho ta được. Cho nên tôi lang thang kiếm tìm, chưa một lần cầu xin ân sũng. Tôi đi tìm theo sự thôi thúc của con tim phiền muộn, sự cô đơn lạc loài của kiếp người. Tôi vẫn đi tìm. Linh hồn ở đó. Là trạng thái tâm lý vượt ra khỏi thực tại. Ta chỉ gặp linh hồn trong những giấc mơ của mình. Nhưng trong những giấc mơ phiền muộn của tôi, nó vẫn không quay về, họ không quay về.

    Diệu trầm ngâm như nói với chính mình:

    - Không biết sau cuộc chiến này còn có bao nhiêu người lang thang tìm kiếm trong vô vọng nhưng không bao giờ từ bỏ.

    - Bao nhiêu? Ừ, không biết bao nhiêu.

    - Bác đã gặp ai đi tìm như bác thế này chưa?

    - Chưa. Cũng không biết.

    Người đàn ông bưng ly nước uống cạn, đứng lên:

    - Tôi cám ơn cô. Tôi đi đây.

    - Bây giờ bác định đi đâu?

    - Chưa biết.

    - Buổi tối bác thường trọ ở đâu?

    - Một người như tôi có rất nhiều chỗ để qua đêm. Gốc cây bên đường, gầm cầu, hiên chùa, chuồng gia súc bỏ hoang nào đó…Thôi chào cô.

    - Nếu bác có đi ngang qua đây xin mời bác vào nghĩ.

    - Chưa hẳn. Tôi chưa bao giờ có ý định quay lại lối mình đã đi qua.

    - Bác đi bình an.


    Người đàn ông bước ra đường, đi chậm rãi. Không rõ ông đi về phía trước hay quay lại lối cũ, chắc ông cũng không nhớ, mà Diệu thì cũng không biết ông đã từ hướng nào đi tới. Nàng mong cho ông gặp lại người con. Niềm mong ước đó nàng cũng mong cho chính mình, chút hy vọng leo lắt trong niềm tuyệt vọng bi thương. Nàng quay lại khung cửa sổ, lại tì tay vào đó, nhìn xa xôi về phía khu rừng. Hình như bóng người đàn ông thấp thoáng cuối con đường mòn dẫn vào khu rừng. Ông ta đi vào rừng ư? Diệu lo lắng. Vào rừng một mình không áo ấm, không nước uống, không thức ăn. Nàng biết, băng qua hết cánh rừng này là một bản làng độ vài chục nóc nhà lụp xụp của những người từ thành phố bị đưa về đây. Qua hết cái làng nhỏ đó lại một cánh rừng nữa kéo tận chân dãy Trường Sơn. Nàng vẫn thường thấy những người ở khu làng kia, thỉnh thoảng, qua lại trên những lối mòn này, họ đến một cái chợ nho nhỏ để trao đổi những thứ họ kiếm được và lấy lại những thứ cần thiết, thường là mắm, muối, dầu, đèn…Họ sinh hoạt gần như những người anh em miền Thượng Du, trông họ cũng lầm lì và im lặng. Diệu chưa hề thấy bóng dáng một đứa nhỏ nào. Trong làng không có trẻ con chăng? Hay người ta không dám sinh đẻ? Nhưng làm sao người ta tránh được cái chuyện ấy. Đúng là Diệu chưa hề thấy một đứa trẻ nào. Nếu có thì ít ra chúng cũng đi học và buộc phải ngang qua đây để đến một cái trường duy nhất ở cuối khu này. Một ngôi trường lợp lá cọ dột nát xiêu vẹo như sẵn sàng đổ xuống nếu có một cơn gió hơi mạnh thổi qua. Hay chúng phải ở nhà chăn trâu, cuốc đất, lượm củi, hái rau…Chúng phải phụ giúp cha mẹ. Chúng không được đi học. Diệu chợt nhớ tới Lão Du Sĩ, năm 75 lão lùa hết vợ con vào rừng sâu, cách ly hẳn xã hội, bắt đầu cuộc sống hoang dã sơ khai. Mấy đứa con lão hoàn toàn không màn tới có một thế giới loài người đang tồn tại bên ngoài bức tường cây cối dầy đặc của rừng xanh.


    Diệu bỗng thấy xốn xang trong lòng. Nếu Hạ không mất tích. Nếu Hạ giữ đúng lời hứa với nàng, nay Diệu đã có con, đã sống hạnh phúc bên Hạ, cho dù phải sống cơ cực đi nữa. Diệu sẽ dạy con học, dạy chúng lòng yêu thương, dạy chúng biết trân trọng cỏ cây hoa lá…Nhưng giờ thì…Hạ đã bay qua một dãy núi nào đó, một khu rừng nào đó và anh đã không trở về.

    ***

    Anh sẽ về.
    Em lo cho anh quá.
    Chắc chắn hòa bình.
    Em thấy xa vời quá.
    Không thể chém giết nhau mãi được.
    Em không hiểu.
    Máu đã đổ nhiều rồi.
    Tâm hồn con người cũng ung vữa rồi.
    Phải hy vọng em ạ.
    Vâng, đừng tuyệt vọng. Cay đắng quá. Ôm em đi anh. Em thèm anh quá.
    Hòa bình anh trở về.
    Yêu em đi anh.
    Anh sẽ về. Chờ đợi anh.
    Rồi anh không về, Hạ, anh không về.


    Nàng nhìn xuống ngực mình, hai bầu vú căng lên dưới lớp vải mỏng. Nàng nhắm mắt lại, nhớ từng sợi tóc, ánh mắt của Hạ, nhớ bàn tay thô bạo của anh bò trườn khắp cơ thể nàng. Bất giác nàng mở cúc áo để lộ bầu ngực đang rung lên, trắng như sữa và hai núm vú đỏ hồng, nàng thèm ngậm vào đó mà mút như Hạ đã từng, giống một thằng bé tham ăn, mút hai bầu vú nàng khiến nàng ngây ngất trong cơn tê dại đớn đau quằn quại niềm khoái cảm đến ứa nước mắt. Nàng đưa tay nâng hai bầu vú của mình lên, chìm sâu trong nỗi tiếc nhớ thăm thẳm.


    ***

    Đã hơn hai tháng trôi qua kể từ ngày người đàn ông lạ ghé vào. Ông ra đi, không để lại dấu vết. Nàng chỉ nhớ mang máng người ông gầy guộc, tóc bạc, râu dài và đôi mắt sâu hun hút bao giờ cũng như nhìn vào cõi hư không nào. Một con người cô độc trên thế gian đầy bất trắc này đang đi tìm một bóng hình hư ảo với niềm hy vọng bi đát. Diệu nhớ tới ông và thấy tội nghiệp cho ông quá. Mối thương cảm này làm nàng thổn thức và khổ sở vô cùng.

    ***

    Anh đã từng yêu ai chưa.
    Chưa.
    Anh đã ngủ với cô gái nào chưa.
    Rồi.
    Ai?
    Gái điếm.
    Ghê.
    Không ghê đâu. Giải quyết bình thường.
    Anh không muốn yêu em à.
    Muốn.
    Vậy hãy yêu em đi.
    Hòa bình anh trở về.
    Em không chờ được.
    Hãy chờ…

    ***

    Diệu nhớ tới người đàn ông.

    - Tôi bảo nó lấy vợ, nó nói chờ hòa bình.

    Hòa bình rồi phải không? Anh không về. Người thanh niên kia cũng không về. Một người cha già nua lang thang đi tìm trong vô vọng. Một phụ nữ ngồi chờ bao nhiêu năm dằng dặc. Cả hai đều không dám tin mình đã mất hay còn người thân yêu của mình. Khi nào có sự bắt đầu tìm kiếm trong vô vọng, có sự chờ đợi trong vô vọng là lúc bắt đầu nghe người ta nói đến hòa bình, phải không? Cả đất nước này, cả loài người này đang như thế và sẽ còn như thế.

    Diệu nhớ tới người đàn ông, một người mang nỗi khắc khoải giống như nàng. Nhưng ông thì dấn thân đi tìm, nàng thì ngồi âu sầu buồn bã đợi chờ vô vọng trong nỗi cô đơn triền miên và trong nỗi thao thức của cơ thể, một nỗi khát khao bi thương làm nàng thấy cả nguồn sinh lực mình như cơn sóng vỡ trào vào một bờ bãi hoang liêu.

    “Hay là mình đi tìm ông già”. Nàng tự nhủ với mình và hình như có một nguồn thôi thúc nào đó trong lòng bảo nàng “Hãy lên đường”. Thà làm một cuộc hành hương vô vọng còn hơn ngồi chờ mõi mệt trăm năm. Hai người sẽ chung một con đường cho dù con đường phía trước mù mịt. Thôi, hãy cất bước là ra đi. Cả đất nước này, cả loài người này hình như cũng đang lên đường, tìm kiếm cái đã mất, tìm kiếm điều chưa có, tìm kiếm cái đã bị tước đoạt, cả hai người – người đàn ông và nàng – đều có thể, không có một điểm rõ ràng để tới, nhưng cả hai đều ra đi với khát vọng vô bờ: có thể, người đàn ông chỉ mong, dù trong giấc mơ phiền muộn của mình, cái bóng cái hồn của người thân yêu. Nhưng với nàng, nàng muốn tìm cho bằng được cái khối vật chất mang hình hài một con người và chỉ có con người đó mới bù đắp nỗi khát khao bị nhấn chìm trong nỗi cô đơn bi thương mà nàng đã chịu đựng.



    Thế là Diệu quyết định lên đường. Nàng chuẩn bị một vài thứ lặt vặt và áo quần, rạng sáng hôm sau, đúng một trăm ngày kể từ ngày người đàn ông lạ ghé qua, túi xách trên vai nàng lầm lủi đi trong sương mù trên con đường mòn dẫn về phía khu rừng.


    Trời đã chuyển sang những ngày của mùa đông.

    Gió se se và bầu trời nhiều mây, sương mù nặng nề bám là đà mặt đất, trời đất nhuộm một màu trắng nhờ nhợ chậm chạp trôi khiến người đi như bềnh bồng trong ảo giác chập chờn. Con đường vắng đến độ không có một sinh vật nào, ngay cả những tiếng kêu rên rỉ của những con dế nấp dưới các lùm cỏ cũng chìm khuất trong cái yên lặng não nề của đất trời. Diệu đi trong miền im lặng đó, nàng chỉ còn mơ hồ nghe con tim mình nhịp u buồn theo từng bước đi nhẹ như bước trên mây. Nàng phải đi như thế ít nhất nửa ngày mới đến bìa rừng. Nghĩ ngơi dăm phút rồi phải vội vã băng qua khu rừng trên một lối mòn quanh co chìm khuất dưới tàn lá cây rừng, nếu không chú ý có thể lạc vào những lối mòn chằng chịt mà những người đi lụm củi tạo ra dọc ngang.

    Hình như đã từng nằm mơ thấy mình thường lang thang trên những con đường như thế này. Nàng đi mãi đi mãi, những bước chân vô định với một tấm lòng nặng trĩu niềm nhớ nhung cùng nỗi khát khao thiêu đốt xác thịt. Rồi ngọn lửa bừng lên trong một cơn phấn khích mê cuồng nàng bấu chặc hai tay vào hai bầu vú căng tràn. Nàng tỉnh dậy và rơi vào nỗi cô đơn triền miên.

    Bây giờ nàng cũng đang đi trên cái lối mòn đó như một xác định sau cùng cái phận người nghiệt ngã đang chơi vơi trong hố thẳm của cuộc kiếm tìm. Nàng đi tìm Hạ hay đi tìm chính số phận mình, đi tìm tia lửa cuồng nhiệt của xác hồn nàng mà Hạ đã nhiều lần thổi bùng lên.

    Ánh nắng ban trưa xuyên qua màn cây bị gió lay nhẹ làm những giọt nắng chập chờn như những cánh bướm trong một câu chuyện thần thoại. Diệu ngồi xuống tựa vào một gốc cây, nhìn bốn bề yên lặng, một con sóc nâu rụt rè ve vẫy cái đuôi, đôi mắt như hai hạt cườm từ bên cành cây khác nhìn nàng như tự lượng có điều gì nguy hiểm xảy ra cho nó không, rồi vụt một cái nó biến vào bụi rậm. Hình như có tiếng người vang nho nhỏ bên con đường mòn rẽ ngang chỗ nàng đang ngồi. Diệu quay nhìn lại: hai người phụ nữ đang vừa đi vừa nói chuyện, họ đang tiến về phía nàng. Diệu đứng lên định bước đến chỗ họ, nhưng họ đã gần kề, nàng lên tiếng:

    - Chào hai chị.

    Hai người phụ nữ, một đã đứng tuổi, một còn trẻ, bỡ ngỡ nhìn nàng từ đầu đến chân, rồi gương mặt họ bỗng trở nên vui ra, thân ái.

    - Cô đi đâu mà ngồi giữa rừng thế này. Người lớn tuổi hỏi.

    - Lối này dẫn vào một ngôi làng phải không hai chị?

    - Vâng, chúng tôi ở đó.

    - Ô, may quá, hai chị cho em theo về

    - Cô đến nhà ai ở đó?

    - Em không quen ai ở đó cả.

    - Thế cô về đó làm gì? Người phụ nữa trẻ im lặng nảy giờ mới lên tiếng.

    - Dạ đi tìm.

    - Tìm ai?

    Diệu ngơ ngác, không biết trả lời ra sao nhưng người lớn tuổi đã nói:

    - Có phải cô đi tìm một người đàn ông cách đây mấy tháng đã ghé ngang qua làng này, phải cha của cô không?

    - Dạ không.

    Tần ngần giây lát rồi Diệu nói:

    - Nhưng em cũng muốn đi tìm ông ấy. Bây giờ ông không còn ở trong làng sao?

    Nàng lo lắng hỏi.

    - Ông ta chỉ ở lại một đêm rồi đi.

    Diệu muốn biết thêm thông tin về người đàn ông nhưng người phụ nữ lớn tuổi đã giục:

    - Thôi chúng ta về, không khéo không kịp trời tối.

    - Các chị đi hái măng rừng hả? Diệu hỏi và nhìn thấy họ sắp đội lên đầu một cái bao đựng măng.

    - Vâng. Người trẻ tuổi trả lời. Chúng tôi ở đây sống nhờ vào núi rừng. Đời sống khổ lắm, nhưng biết làm sao, không quay về được.


    Diệu biết rất rõ những điều này, nàng không muốn đi sâu vào hoàn cảnh của những con người đang cư ngụ trong cái làng này. Những con người đã bị tước đoạt tất cả và bị lùa vào đây bằng những áp lực che đậy đủ mọi danh hiệu tốt đẹp. Có một số người chịu đựng không nổi với đói khổ, sốt rét, đã bỏ trốn về thành phố, nhưng nhà cửa không còn, họ sống chui nhủi bất hợp pháp, dưới những gầm cầu kênh rạch, làm tất cả mọi việc, kể cả ăn cắp để có cái ăn.


    Ba người lầm lủi đi, phút gặp gỡ ban đầu đã qua, sự mệt mỏi và lo âu xâm chiếm lòng họ, nên chẳng còn ai nói với ai, họ im lặng đi trong cái lặng yên của đất trời. Diệu thầm nghĩ trong lòng không biết người đàn ông đã đi về đâu, rồi trên bước đường dong ruổi đó ông có gặp điều gì bất trắc không. Từ lâu, từ cái ngày tì tay vào khung cửa sổ ngóng về một phương trời xa lắc, mà ở đó bóng dáng Hạ chập chờn hư ảo. Nàng sống trong nỗi cô đơn cùng cực, và nàng mãi nghĩ rằng sao trên đời này, cả hàng tỷ con người này, chỉ có mỗi mình nàng đơn độc. Bây giờ trước nỗi đau của người đàn ông đó, nàng chợt nghĩ rằng không phải chỉ một mình nàng, mà còn rất nhiều, rất nhiều những mảnh đời trôi giạt khắp thế gian này, bơ vơ, lạc loài, sau cuộc chiến tranh thảm khốc và phi nhân, cuộc chiến đã đẩy dân tộc này, loài người này vào những cảnh ly tan bi thương. Và để rồi sau khi đã thỏa mãn trong một cuộc tương sát khốc liệt, những người nhân danh hòa bình tự do lại đẩy con người vào những lo sợ kinh hoàng hơn, những tan nát đổ vỡ hơn. Con người không còn chết vì bom đạn nữa mà chết vì đói khát, bệnh tật, chết vì lo sợ trong những khu tập trung. Con người đứng trước nguy cơ sụp đổ cả cái ngôi nhà đạo lý đã dày công xây dựng mấy ngàn năm để đi tôn vinh vật chất, lừa gạt, phản bội nhau…

    Diệu thấy nặng trĩu trong lòng.

    “Sao anh không về hỡi Hạ, người ta nói hòa bình rồi”.

    Con đường đã bắt đầu sẫm lại. Mặt trời khuất vào những dãy rừng xa. Gió xào xạc và lành lạnh. Dù mõi mệt, Diệu vẫn cố bám theo hai người phụ nữ đang hối hả bước đi.

    - Còn bao xa nữa? Nàng hỏi.

    - Đi khoảng một tiếng nữa là tới. Cô mệt sao? Người phụ nữ trẻ ân cần hỏi Diệu.

    - Em cố được. Chỉ hơi đau chân.

    - Gắng tí nữa. Tối nay cô nghĩ chỗ tôi. Người phụ nữ trẻ an ủi Diệu.

    - Đi như thế này có sợ thú dữ không chị?

    - Cô yên tâm, ngay những con thú hung dữ nhất cũng bỏ đi sâu vào núi cao rừng thẳm rồi. Chúng nó sợ loài người.

    “Chúng nó sợ loài người”. Diệu mỉm cười chua chát. Con người bây giờ đã xâm chiếm chốn cư ngụ của muôn thú, giành giật nơi ở cái ăn của chúng, thậm chí chúng còn bị sát hại không thương xót. Cây rừng còn đổ máu. Suối rừng còn khô lệ. Bao giờ thì con người, cỏ cây, muôn thú sống thực hòa bình? Diệu nhớ tới mấy câu thơ của một người nào đó:

    “Hỡi những thiên thần quỷ dữ hãy nằm yên
    Cho em lại là em
    Thuở đất trời nguyên thủy
    Cho tôi cũng là tôi
    Thuở hồng hoang bừng dậy
    Để một giây một phút rất phù du
    Mầu nhiệm mở tung cánh cửa ngục tù
    Em đứng khóc dưới chân đồi hạnh phúc
    Ta viết nốt câu thơ ngàn năm trước…”

    Ước vọng của nhà thơ là một ước vọng đầy nhân bản nhưng sao nghe trong giọng điệu không che giấu được nỗi bi thương của nguồn tuyệt vọng. Diệu lại thấy lòng mình trào dâng một nỗi thương cảm vô bờ. Nàng nhìn bóng hai phụ nữ xiêu vẹo chập chờn phía trước, họ đội mấy bao măng, đầu cuối xuống. Họ thấy gì trong từng bước chân của mình? Họ thấy gì trong nỗi lòng đầy lo âu của họ? Họ sẽ trở thành những con người của rừng núi mãi mãi, mãi mãi, đến cả đời con cháu họ sao? Còn nàng? Nàng đang đi về đâu đây? Khi phía trước là mênh mông mù mịt. Nhưng, nếu không ra đi, không dấn thân vào cuộc kiếm tìm vô vọng, không đợi chờ mòn mõi thì nàng sống vì cái gì? Sống cho ai đây?

    Chân trời hạnh phúc đó ở đâu để em về ngồi mà khóc, khóc trong nguồn hoan lạc bi thương. Để anh về viết tiếp bài thơ ngàn năm trước, những câu thơ từ thuở khai sinh đất trời.

    Ba người phụ nữ vừa đến đầu làng thì trời cũng nhá nhem tối. Diệu đưa tầm mắt dò theo những căn nhà lụp xụp thưa thớt dưới những tàng cây. Vài ánh đèn leo lắt như những con đom đóm khuất khuất hiện hiện sau vách nứa.

    Buổi chiều nơi một vùng rừng núi dù được xây dựng thành một cái làng nho nhỏ sao Diệu chẳng thấy có hình ảnh nào của một làng quê truyền thống. Nó im lặng đến độ rùng mình khiến ta có cảm giác lạc vào một thế giới hoang vu nào. Nếu không có, thỉnh thoảng, vài tiếng chó sủa vu vơ lạc lỏng trong không gian vắng lặng này, và nếu không có bóng ba người phụ nữ di động thì hầu như toàn bộ không gian này là một bức tranh chết. Một bức tranh mà tác giả của nó trong một cơn loạn trí đã tạc cả khối màu lẫn lộn cả đất cát, máu và nỗi tuyệt vọng lên khung vải. Trong toàn bộ cái khung cảnh chết lặng đó Diệu nhìn thấy một cụ già gầy xọp, tóc loe hoe bạc, quàng một tấm bao bố ngồi xụp bên đường, đôi mắt chìm trũng, tối tăm và khổ hạnh. Người phụ nữ trẻ vội chạy đến bên bà cụ.

    - Trời! Sao mẹ ra ngồi đây?

    Quay sang Diệu chị tiếp:

    - Mẹ tôi đấy, bà yếu lắm.

    Chị dìu bà cụ đứng lên, bà móm mém, hơi thở mệt nhọc, nói không thành tiếng rõ ràng:

    - Ai?

    Chị không trả lời, Diệu cũng đến đỡ bà cụ một bên, người phụ nữ nói:

    - Nhà gần đây, cô về với chúng tôi.

    Sau khi chào người đàn bà lớn tuổi, Diệu cùng mẹ con người phụ nữ trẻ rẽ vào một lối mòn nhỏ. Căn lều thấp lè tè nằm sau khoảng sân hẹp. Một đứa bé chừng năm tuổi chạy vội ra:

    - A! Mẹ về. Nó reo lên vui mừng, rồi nhìn Diệu nó vòng tay chào.

    Diệu xoa đầu thằng bé.

    - Cháu ngoan lắm.

    Đó là một thằng bé có đôi mắt hơi tối, da ngăm đen, tóc cứng lõm chõm, nó chạy đến bên mẹ, hỏi nhỏ:

    - Ai đó mẹ?

    Diệu chợt thấy lòng buồn rười rượi. Nàng nhìn lướt quanh. Người mẹ già đã ngồi bên thềm, mắt ngóng ra đường mòn, không nói gì, người phụ nữ lăn xăn nhóm lửa. Đồ đạc trong nhà chẳng có gì, một cái giường tre, trên đó tấm chiếu đã rách, vài cái gối và cái mùng cũ nhầu bẩn. Nàng nghĩ người phụ nữ này không lớn hơn nàng là mấy nhưng đời sống lam lũ thiếu thốn quá trông chị như già hơn nàng cả chục tuổi. Dù cố nén sự tò mò, nhưng cuối cùng Diệu vẫn hỏi:

    - Ba cháu đâu mà không thấy chị?

    Người phụ nữ vừa thổi lửa vừa trả lời:

    - Ảnh mất mấy năm rồi, lúc cháu mới hai tuổi.

    Diệu không thấy bàn thờ đâu.

    - Chị quê đâu?

    - Tôi cũng chẳng nhớ quê quán nơi nào. Hồi chiến tranh chạy tán loạn, cha mẹ anh chị em chết hết, tôi sống ở cô nhi viện.

    Chị thở dài:

    - Lớn lên lăn lóc đường phố, gặp ba cháu cũng dân chạy loạn, vô gia cư, ảnh làm phu khuân vác, tôi buôn thúng bán bưng, che mấy tấm bạt dưới gầm cầu. Nhưng đùng một cái: hòa bình! Họ bảo chúng tôi là thành phần nguy hiểm cho xã hội, lùa lên đây. Mấy năm đầu sốt rét, đói, ỉa chảy…chết nhiều, ba cháu cũng chết vì sốt rét, không có thuốc. Nhiều người trốn về, tụi tôi chịu, đành bám đây.

    Ngưng kể chuyện, chị nhìn thằng bé đang lấy những mụt măng từ trong bao ra đặt cẩn thận lên ngạch cửa:

    - Chỉ tội thằng bé! Thôi thì xin đất trời phù hộ, mai sau này có thay đổi gì…

    Chị bỏ lững câu nói.

    “Mai sau có thay đổi gì”. Diệu thấy cay đắng trong lòng. Nàng, nàng có mong “mai sau thay đổi gì” trong sự chờ đợi khắc khoải vô vọng này không? Diệu nghĩ, nếu có thể đánh đổi được số phận, nàng muốn mình là người phụ nữ này, muốn làm vợ, muốn làm mẹ. Cho dù anh ấy đã chết, vẫn còn thằng bé, hiện thân của anh, máu thịt của anh, nàng đâu phải chịu cô đơn dày vò thế này. Tuổi xuân rồi cũng tàn. Hạnh phúc ái ân đâu có chờ đợi nàng năm năm, mười năm nữa.

    - Cháu, lại đây với cô.

    Nàng gọi thằng bé, nó rụt rè đến bên Diệu, Diệu ôm nó vào lòng, nước mắt ứa ra quặn thắt. “Trời ơi, nếu anh để lại cho em một đứa con! Anh bảo chờ hòa bình. Hay là vẫn chưa có hòa bình? Vì anh chưa về phải không?” Diệu hôn vào trán thằng bé, lòng trào dâng một nỗi khát khao làm mẹ. Nàng quay về phía bà cụ đang ngồi bất động bên hiên nói với người phụ nữ:

    - Chị đưa cụ vào nằm cho khỏe, hình như cụ có điều gì nặng trĩu trong lòng.

    - Từ ngày ảnh mất, bà trở nên âm thầm như cái bóng, sức khỏe sút giảm. Tôi nghĩ mẹ sẽ không sống được bao lâu nữa.

    - Hay chị đưa cụ và cháu về thành phố.

    - Không được đâu cô.

    Về thành phố. Nàng đã chẳng rời thành phố để về một vùng quê hẻo lánh đó sao. Thành phố. Cái thành phố tràn ngập những kỷ niệm lại là một chứng nhân của bao đổ nát, ly tan. Hình bóng của phố phường ngày xưa đâu còn nữa. Bây giờ ở đó là bụi khói, là rác, là cống rãnh của lũ chuột, lũ mèo hoang, là chốn của một lớp người cơ hội từ một hang ổ nào đó nhảy tót lên ngồi vào chiếc ghế thượng lưu, đại gia trong những cao ốc, biệt thự sang trọng bên cạnh đám dân nghèo bán mồ hôi nước mắt cả ngày không đủ mua bữa cơm dưa mắm. Nàng đã rời xa thành phố, rời xa cái cạm bẫy mà những người phụ nữ như nàng, nếu không đứng vững được sẽ rơi ngay vào ổ mãi dâm, vào các quán bia ôm, bán thân xác của mình, ngủ cả với những thằng đàn ông bằng tuổi ông nội ông ngoại, với những thằng nhãi đáng tuổi em tuổi con. Chúng nó có tiền, đồng tiền của chúng không tốn một giọt mồ hôi.

    Diệu nhớ đã gặp một người phụ nữ cũng trạc tuổi người phụ nữ trẻ này, bỏ quê lên thành phố kiếm việc làm, nhưng cuối cùng bị đẩy vào con đường làm gái mãi dâm và đã chết vì không chịu nổi một toán côn đồ thay phiên nhau cưỡng hiếp, để lại một đứa con dại và mẹ già ở quê nhà. Báo chí có nói đến nhưng chẳng đến đâu. Không tìm ra người thân của nạn nhân. Vụ việc chìm vào bóng tối, không ai còn quan tâm tới nữa.

    - Cháu nó ở đây thiếu thốn rất nhiều, người phụ nữ trẻ nói, không được đi học. Trước ở đây cũng có một lớp học nho nhỏ, một cô dưới xuôi lên, được mấy tháng cũng bỏ về. Chúng tôi sống dường như bị quên lãng. May mà chúng tôi vẫn tìm ra cái ăn.

    Người phụ nữ dọn cơm ra trên một cái sàn bằng tre đặt giữa nhà. Diệu ngồi ăn với họ, mỗi miếng cơm và vào miệng nàng nghe cả một nỗi cơ cực chảy vào lòng.

    Diệu đã từng ở những vùng quê thời nàng còn làm giáo viên, nhưng có lẽ không có một vùng quê nào giống ở đây. Nó im lặng đến dị thường. Nỗi lặng yên này hiện ra vẻ chịu đựng cam đành, cuộc sống trôi đi như trôi trong một dòng nước ngầm chẳng bao giờ thoát ra được. Thậm chí sự xuất hiện của người đàn ông lạ, và bây giờ là Diệu, cũng chẳng thể gợn lên chút xao động. Nếu Diệu không hỏi chắc người phụ nữ cũng không đá động gì việc người đàn ông lạ đến đây và vội vã đi sâu vào rừng.

    - Ông ta đến đây lúc đã khuya lắm, vào một nhà gần đây xin nước và nằm ngủ ngoài hiên. Ông không nói gì nhiều nên chẳng ai biết ông từ đâu tới. Ông chỉ hỏi qua khỏi khu này là đi đâu. Đi khỏi khu làng này rồi băng qua một cái truông dài chạy mãi đến chân núi. Đi bộ phải mất hơn ngày đường cô ạ.

    - Ông không nói ông vào núi làm gì hả chị?

    - Ông chỉ nói ông đi cho đến khi nào không thể đi được nữa. Thậm chí có thể băng qua núi. Nhưng cô là gì của ông ta?

    - Em không là gì cả.

    Rồi Diệu kể chuyện ông ghé ngang nhà xin nước, trao đổi với Diệu đơn giản về thân phận và mục đích cuộc ra đi tìm kiếm vô vọng của ông. Diệu cũng không thể nói rõ với người phụ nữ mình đi tới đây với mục đích gì.

    - Gần dưới chân núi có một ngôi chùa cổ cô ạ. Hình như có một vị sư già và một chú tiểu. Dân làng này có người đã đến đó rồi. Họ đến để xin thuốc chữa bịnh. Nghe đâu vị sư biết chữa bịnh và bốc thuốc, phần nhiều là lá cây rừng, ông không lấy tiền, chỉ làm phúc.

    Có lẽ người đàn ông đã đến được ngôi chùa. Diệu hy vọng ông còn ở đó, và Diệu hình như tin như thế. Bởi nếu không, ông đã quay trở lại rồi, cho dù có lần ông đã khẳng định không bao giờ quay lại lối cũ. Diệu cũng không tin ông đủ can đảm và quyết tâm vượt núi trong khi không có một tí hành trang gì. Nếu ông liều lĩnh qua núi chỉ có chết, không đói lạnh, té ngã thì rắn rít, thú dữ cũng quật ngã ông.

    Biết Diệu có ý định sớm vào núi, người phụ nữ trẻ tốt bụng đã dậy từ lúc gà gáy canh hai nấu rồi gói cho Diệu một gói cơm, một ít muối đậu rang và bình nước. Cả đêm Diệu cũng không ngủ được, nàng ôm thằng bé nằm dưới nền nhà, lòng rưng rức nhớ đến Hạ. Cơ thể nàng căng ra trong cảm giác vừa đớn đau vừa tiếc nhớ.

    Cuộc chiến bi thảm mấy mươi năm đã để lại trên quê hương này, trên mặt đất này bao nhiêu người phụ nữ như Diệu, như người phụ nữ trẻ kia? Tuổi thanh xuân bị tước đoạt, bị đánh cướp, để lại trong tâm hồn họ, trên cơ thể họ những vết thương không bao giờ lành sẹo. Để lại bao nhiêu người mất tích không biết đã chết hay sống vô hồn nơi thâm sơn cùng cốc nào, không còn trí nhớ để tìm về nơi chốn thân yêu. Để lại bao nhiêu con người què cụt tàn phế không nhà không cửa lê lết bến xe cửa chợ. Để lại bao nhiêu trẻ thơ không cha không mẹ mà thiên hướng “tính bản thiện” đã bị xóa mờ vì cái đói, vì bản năng sống còn, để cái xấu đồng lõa cả một thế hệ trẻ thơ biến thành kẻ cắp. Mười mấy tuổi đầu đã biết giết người. Mười mấy tuổi đầu đã làm gái điếm. Để lại bao nhiêu trũng mắt sâu hoắm vì đã khô nước mắt của mẹ già, của cha già mấy mươi năm khóc than, héo mòn chờ đợi hòa bình, chờ đợi con về, rồi bây giờ vẫn còn chờ đợi, còn khổ đau, vì các con không về, vì các con chết trên rừng, dưới biển trong những cuộc trốn chạy vì bị khủng bố, bị săn đuổi. Để lại những mảnh đời lang thang kiếm tìm trong vô vọng, như Diệu, như người đàn ông hôm nào.


    Trong cảnh tịch mịch của núi rừng, tiếng gà một lần nữa lại vang lên như nhắc nhở Diệu bóng đêm rồi sẽ qua và ánh sáng của ngày sẽ đến. Và cho dù tiếng gà vẫn còn khàn đục trong sương vẫn cứ là tiếng báo hiệu lên đường. Diệu mở túi lấy ra mấy chục bạc, rất cảm động, nàng nói với người phụ nữ trẻ tốt bụng:

    - Em chẳng có gì nhiều, gởi chị chút đỉnh mua thêm áo quần cho cháu, hy vọng có dịp quay lại em sẽ ghé.

    - Không cô ạ. Tôi không nhận tiền của cô đâu. Tuy chưa biết cô là ai nhưng tôi thương tôi nên tôi mến cô.

    - Vậy thì chị phải nhận cho em. Đây là chút tình, không phải em trả ơn trả nghĩa gì đâu.

    Diệu nhét tiền vào túi người phụ nữ. Hai người ôm nhau và hình như họ đang khóc, khóc cho nhau và khóc cho chính thân phận của họ.

    Diệu hôn thằng bé lần nữa. Tay nải lên vai, nàng cúi đầu trước bà cụ còn nằm không biết đã thức hay đang ngủ, nàng bước ra ngõ, hướng về phía khu rừng, cúi đầu đi không dám quay lại.

    Buổi sáng lạnh và ướt sương, lối mòn mập mờ màu trắng đục. Vài con chim ngái ngủ kêu lên mấy tiếng chim chíp lạc loài rồi cảnh vật chìm vào sự im lặng. Diệu vòng tay lên ngực như tự trấn an mình hãy can đảm bước đi, bàn tay nàng chạm phải hai bầu vú đang rung rung theo từng nhịp bước. Nàng lại nghĩ tới Hạ và lâng lâng tiếc nuối một nguồn ái ân đã mất.

    Nàng đến và đi cũng thầm lặng và vội vã như người đàn ông kia. Ngoài gia đình hai người phụ nữ nàng đã gặp, cả làng hầu như chẳng ai hay biết đêm qua có một người khách lạ ghé qua và đã ra đi như “một người xa lạ”. Người xa lạ muốn giang tay ôm trong vòng tay của mình đám cư dân nghèo đang đành cam sống bị quên lãng nơi vùng rừng núi heo hút này.

    Diệu đã đi hình như cũng quá xa rồi, mặt trời lên cao và dần dần dịu lại về chiều, thế mà cánh rừng thì vẫn xa mù. Nàng chỉ dám dừng lại bên rừng ăn vội vắt cơm, mặc dù hai chân rã rời nàng vẫn cố vội lên đường. Hình như có điều gì thôi thúc trong lòng nên nàng cũng thấy quên đi phần nào sự mệt mõi dưới cái nắng gay gay lạnh của miền rừng hoang vắng này. Trên con đường mòn hun hút băng qua một truông dài toàn cỏ tranh và bông mua, không một bóng người. Giữa không trung vắng lạnh một con chim heo cất tiếng kêu ghê rợn.

    Trong những giấc mơ của mình, hình như Diệu đã từng thấy cảnh này. Nàng thấy nàng băng qua một vùng đồi đá hoang vu, vừa khát vừa đói và mệt lã. Trên đầu nàng từng bầy quạ đen bay loạn xạ và kêu những tiếng kêu ma quái. Khi nàng ngất xỉu nằm xuống bên đường, chúng sà xuống đậy trên xác nàng thành một khối đen và nàng thấy bầu trời tối như mực. Bừng mắt tỉnh dậy nàng thấy hai bàn tay mình bấu chặc vào hai bầu vú gần rướm máu, rồi nàng khóc nức nở một mình. Bây giờ trên lối mòn gần giống như trong giấc mơ, nàng đang cố lê chân về phía khu rừng, nơi có ngôi chùa cổ, và nàng hy vọng gặp người đàn ông hôm nào ở đó.

    Trời càng về chiều khí núi càng lạnh, trong hơi thoang thoảng của gió có mang theo chút hiu hắt của sương chiều, rồi mặt trời khuất hẳn sau núi như vội vã đi về một cõi nào để trả lại mặt đất cho màn đêm. Diệu vừa đi vừa nhìn bóng mình tối dần, tối dần, hòa vào không gian mờ mờ leo lắt những vì sao xa. Lần đầu tiên trong cuộc hành trình Diệu cảm thấy sợ sợ bóng tối, dù nàng đã vẫn thường ngồi tì tay vào khung cửa sổ lặng yên trong bóng đêm nhìn hun hút vào cánh rừng xa.

    Trời càng về khuya càng lạnh, Diệu không muốn dừng lại, vã lại ngồi một mình giữa truông dài mông quạnh này càng thấy sợ hơn là cứ lầm lũi bước đi. Nàng cố tưởng tượng ra cuộc gặp gỡ giữa nàng, người đàn ông và vị sư già nơi chùa cổ. Nàng sẽ nói gì với họ và giải thích sao đây sự có mặt của nàng, một phụ nữ xa lạ giữa nơi tu hành này. Nhưng lại cảm thấy yên tâm vì biết rằng mình sẽ đến, không phải là một nơi nguy hiểm nào, mà là một ngôi chùa, nàng sẽ nhìn thấy Đức Phật, và Ngài sẽ nhìn nàng với hai con mắt từ bi. Rồi nàng sẽ ra sao? Nàng tin, Đức Phật từ bi sẽ dẫn dắt nàng cho dù ước mơ của nàng đầy tính chất trần gian: nhớ về Hạ với niềm khát khao cháy bỏng ái ân.

    Thế rồi không cưỡng lại được cơn buồn ngủ vì mõi mệt, nàng ngồi bệt xuống, hoàn toàn vô thức, dưới gốc một cây cổ thụ già đã bị cụt đầu. Trăng hạ huyền phủ một lớp ánh sáng lạnh lẽo lên cảnh vật. Nàng thiếp đi và chìm sâu vào giấc ngủ.

    Hình như có tiếng chuông mõ công phu văng vẳng, lúc vang vang lúc chìm lắng như từ cõi xa xăm nào vọng về.

    Một con chó màu trắng điểm những đốm vàng từ trong chùa chạy ra như cảm nhận được có người lạ, nó sủa mấy tiếng và chạy đến bên người khách đang ngủ mê man, nó gầm gừ nho nhỏ, cẩn thận bước đến gần, thấy không có gì nguy hiểm, nó đưa mũi ngửi ngửi người lạ, rồi thân mật liếm vào chân tay, ve vẩy cái đuôi như chào đón.

    Diệu ngủ say sưa không hay biết gì. Vị sư già, sau buổi kinh công phu, Ngài thiền tọa một thời gian, ngày nào cũng vậy, xong Ngài đi một vòng quanh chùa, thấy con Cừu Nâu, tên chú chó, Ngài bước thẳng ra, nhìn thấy Diệu, Ngài hơi ngạc nhiên:

    - A Di Đà Phật!

    Sương lạnh đọng một lớp trắng trên áo quần, trên tóc của người phụ nữ. Vị sư già quay vào trong gọi, giọng nhỏ nhẹ:

    - Con ơi, mang ra cho thầy cái chăn.

    Một lát sau, một chú bé, áo quần nâu, tóc để chổm, mang cái chăn ra. Theo lời thầy chú quàng tấm chăn lên người phụ nữ đang ngủ. Trước khi quay vào chùa, thầy dặn chú tiểu:

    - Con ở đây một lát, khi nào cô ấy thức dậy thì dẫn vào gặp thầy.

    - Ta vào thôi con. Ngài nói với con chó.
    ***

    Trời đã rạng sáng. Diệu ngủ ước chừng bốn tiếng đồng hồ. Nàng tỉnh dậy, đưa tay dụi mắt. Một cánh rừng xanh bốn bề lạnh ngắt và se lạnh. Nàng hơi ngạc nhiên vì tấm chăn choàng lên người. Sau một giấc ngủ sâu, nàng thức dậy tỉnh táo và khỏe khoắn hơn. Nàng đoán là mình đã đến gần chùa. Thật ra lối mòn dẫn đến cổng chùa là hết. Muốn vào sâu trong rừng phải đi một lối ở sau chùa. Nàng không để ý chú tiểu ngồi ngủ gật bên cạnh vì nàng mãi nhìn ngược về lối mòn mà nàng vừa mới qua. Diệu nghĩ có ai đó đã đem chăn đắp cho nàng.

    Chú tiểu giật mình vì con Cừu Nâu đang vờn quanh chỗ chú ngồi. Thấy người khách lạ đã thức, chú chắp tay trước ngực:

    - A Di Đà Phật. Cô đã dậy rồi, cháu thấy cô ngủ ngon lắm nên…

    Diệu cũng giật mình quay lại:

    - Chào cháu, đây là đâu?

    - Mô Phật.

    - À, chào chú, chú ở trong chùa gần đây phải không?

    - Dạ. Thầy dặn cháu khi nào cô thức dậy thì mời cô vào.

    - Bao xa nữa thì tới chùa chú?

    - Chùa đây rồi, từ đây vào vài trăm mét, chắc là thầy đang đợi cô.

    Diệu nhìn theo hướng tay chú tiểu chỉ vào bên trong, chỉ thấy những cây cổ thụ cành lá sum suê xanh ngắt gió đang làm lay động. Nàng đứng lên vuốt lại mái tóc lòa xòa, tay nải vẫn còn vướng trên vai, nàng hỏi chú tiểu:

    - Chú tên gì vậy?

    - Dạ thầy thường gọi cháu là Tiểu Khê

    - Chú Tiểu Khê này?

    - Dạ.

    - Có khi nào chú thấy có một người đàn ông lạ vào đây như tôi hôm nay không?

    Tiểu Khê không trả lời câu hỏi của Diệu, chú giục:

    - Chúa đưa cô vào giếng chùa rửa mặt đã, rồi vào gặp thầy.

    Nói xong chú thoăn thoắt bước đi, con Cừu Nâu cũng ve vẫy đuôi chạy theo chú, không quên quay lại nhìn Diệu kêu ư ừ mấy tiếng như cũng muốn mời mọc thân thiện.

    ***

    Vị sư già ngồi chờ Diệu sau hậu liêu, nơi một căn phòng được ngăn ra làm phòng tiếp khách thập phương, phòng này ăn thông với gian nhà tăng, kế đó là phòng trai và giàn bếp. Theo chân chú tiểu, Diệu bước vào. Vị sư già đang ngồi nói chuyện, uống trà với một người đàn ông, người này xoay lưng về phía nàng, nàng chắp tay chào vị sư.

    - Con chào thầy.

    - A Di Đà Phật.

    Người đàn ông quay lại, không giấu nỗi ngạc nhiên:

    - Trời! Là cô sao? Sao cô lại đến đây?

    - Hai người biết nhau à? Vị sư già hỏi. Cô ngồi xuống đây.

    Diệu nhìn người đàn ông đã một lần ghé chỗ nàng và đã ra đi như một kẻ hành hương vô định. Diệu ngồi nép phía sau người đàn ông, giọng nàng không giấu nỗi vui;

    - Dạ bác đây có ghé chỗ con một lần rồi đi, dễ chừng cũng mấy tháng rồi. Từ đó cháu cứ nghĩ tới bác, và cũng từ lâu cháu có ý định viếng chùa.

    Nàng chưa thể nói rõ mục đích của chuyến đi này.

    Vị sư già nhìn nàng rồi lại nhìn người đàn ông:

    - Ông đây đã nói với tôi về việc đi tìm người con thất lạc trong chiến tranh. Thật ra đây không phải là trường hợp duy nhất tôi gặp. Ông đây định vào sâu trong rừng nhưng tôi can, vì từ đây vào chi núi rừng trùng điệp, không có bóng dáng con người. Một mình lạc lỏng trong rừng núi đèo cao hố thẳm, bao hiểm nguy. Mà tìm gì? Tìm một con người trong cõi vô minh đó sao?

    Vị sư già trầm ngâm một lát như muốn nói gì thêm về con đường giải thoát, về nơi, mà con người phải tìm kiếm, phải đến. Những con người đang ngồi trước Ngài đây chưa thoát ra khỏi những mông muội trần gian. Ngài, đôi khi còn thấy bản thân mình còn quẩn quanh. Nhưng Ngài, Ngài đã biết chọn cho mình CON ĐƯỜNG, và chỉ duy nhất CON ĐƯỜNG đó mới giải thoát được. Vị sư già hớp một ngụm trà nóng, phong thái ung dung như một đạo sĩ. Ngài không béo mập như phần đông các vị tu sĩ khác, dáng Ngài ốm, cao và quắt thước, đôi mắt tinh anh và bao dung. Ngài nhìn về đâu thì hình như ở nơi đó trở nên bình yên, và kẻ đối diện với Ngài thấy an tâm và từ đó lóe ra niềm hy vọng không lý giải được vì đâu. Ngài đổi cách xưng hô, nhìn Diệu ôn tồn:

    - Con không nói ta cũng biết trong lòng con thế nào. Con đang còn một nỗi đau đớn trần gian, con đang bị những khát vọng cào xới tâm hồn. Ta cũng biết con nghĩ gì về những điều ta vừa nói.

    Quay về phía người đàn ông vị sư già tiếp:

    - Như ông đây cũng vậy. Không tin vào sự giải thoát sau cùng, không biết cầu nguyện. Con đến đây, dù chẳng nói với ta, ta cũng biết con đang đi tìm gì. Con đi tìm chính con, phải không? Con cảm thấy mình mất chính mình, mình đã thuộc về một khối vật thể khác. Ta nói chắc con hiểu. Nhưng thôi…

    Diệu lễ phép:

    - Dạ thưa thầy…

    - Khoan. Để ta nói cho con yên lòng, như ta đã nói với người này. Ngài chỉ người đàn ông, chúng sanh vạn khổ vô minh. Phật pháp mênh mông vô lượng. Ta luôn đón nhận các con với lòng từ bi. Các con có thể đi, dấn sâu vào cuộc kiếm tìm mù mịt, nhưng ta vẫn mong các con dừng chân, đây mới là nơi con cần tìm đến.

    Người đàn ông từ sớm đến giờ vẫn yên lặng lắng nghe, không biểu hiện một phản ứng nào trên gương mặt, bây giờ quay về phía sau, vừa nhìn Diệu vừa nhìn ra khoảng sân sau nơi có một người đang đi tới đi lui, miệng lẩm bẩm như đang đọc kinh Phật.

    - Cô à, mà cô tên gì nhỉ? Còn tôi, trước kia người ta vẫn thường gọi tôi là thầy giáo, thế thôi, không ai gọi chính xác tên tôi là gì. Thầy giáo cô ạ.

    - Cháu là Diệu.

    - Cô hãy nhìn ra phía sau, ngoài sân kia.

    Diệu nhìn ra. Người thanh niên vẫn đi tới đi lui ung dung tự tại như một bậc thiền giả đang hành thiền. Cái vòng sân vừa đủ rộng bấy giờ hình như đối với anh ta nó cũng vô bờ vô bến. Anh ta đi như một kẻ đi trong cõi vô cùng. Người anh cao, nhưng dáng đi hơi khom về phía trước. Anh vận một bộ đồ màu nâu, đôi tay hơi ôm lại, đầu tóc khô cháy, khuôn mặt anh chìm khuất dưới bóng mát của mấy cây đại, Diệu nhìn không rõ. Anh bước đi thật bình thản, mắt nhìn xuống mặt sân như đi chỉ là đi, đi nhưng không đợi chờ nơi đến.


    Vị sư già nhìn về phía người đang đi lại trên sân, ánh mắt của thầy toát lên vẽ nhân ái từ bi. Cả ba người đang quan sát bậc thiền giả bước đi ung dung lạ thường.

    - Người ta đưa anh ta đến đây gần hai năm rồi, vị sư nói, một nhóm người đi tìm trầm hương, một tối nọ họ đưa anh ấy đến đây. Họ kể: Toán của họ gồm bốn người, vào tận non cao dựng lều và chia nhau đi tìm những cây gió, loại cây cho một thứ trầm hương rất quý. Ngày đi, tối về lều. Một hôm họ phát hiện thức ăn trong lều bị mất. Lúc đầu họ nghĩ lũ khỉ tinh nghịch vào phá. Nhưng sau họ rình. Và đúng là có một con người chứ không phải lũ khỉ. Đấy, con người đang đi đi lại lại ngoài kia. Cả người anh ta đầy thương tích, có chỗ vẫn chưa lành, tóc tai cháy sém, khuôn mặt dị dạng trông thật kinh khủng. Chỉ, rất lạ, và nhiệm mầu, đôi mắt anh ấy vẫn nguyên vẹn. Trí nhớ không còn. Không nói được. Họ bắt được anh ấy, cho ăn uống, thay áo quần, tắm gội. Và họ đành bỏ chuyến đi tìm trầm, mang anh ấy đến đây…

    Vị sư già ngừng kể, nói với hai người:

    - Chúng ta ra gặp anh ấy.

    Ba người cùng bước ra sân. Người thanh niên vẫn bước đi theo từng chu kỳ, không để ý đến ai. Thoạt nhìn Diệu hốt hoảng. Diệu bỗng nhớ tới gương mặt của một nhân vật trong phim, một nhạc sĩ bị cháy bỏng vì acid trong xưởng in. Vị sư dừng lại trước người thanh niên, giang hai tay như muốn ôm. Anh dừng lại, nhìn vị sư, nhìn hai người khách, cái nhìn thân ái.

    - Đi - đi - đi. Sẽ - đến - sẽ - đến - sẽ - đến.

    Người thanh niên chỉ ú ớ và đưa tay chỉ vào bàn chân, chỉ vào tràng hạt vị sư đang mang ở cổ. Anh xòe bàn tay và nhìn vào đó như tìm kiếm điều gì. Vị sư lại nói:

    - Không đi, không dừng lại, không đến đâu.

    Người thanh niên đưa một ngón tay chỉ vào khoảng không. Vị sư tiếp:

    - Đi đi đi đi. Sẽ đến sẽ đến sẽ đến sẽ đến. Không đi không dừng lại không đến đâu.

    Người thanh niên bỗng cười, giọng cười của một đứa trẻ thơ, vị sư cũng cười, giọng cười hiền như tiếng róc rách chan hòa của suối.

    Diệu không hiểu gì cả. Người đàn ông thì chứng kiến cảnh này nhiều lần. Ông ta nói:

    - Họ là hai con người không phải con người bình thường. Họ đang bước lên trên con người.

    - Cháu chẳng hiểu gì cả. Diệu nói.

    - Tôi cũng không hiểu gì hơn. Người đàn ông nói.

    Vị sư già quay về phía hai người khách:

    - Hai vị đang đi tìm…Tìm một con người hay tìm chính bản thân mình. Nhưng không bao giờ gặp, phải không? Tôi chẳng tìm ai. Tôi thấy tôi trong người này, và người này đã thấy tôi trong anh ấy. Chiến tranh ư? Thì cứ gọi đó là chiến tranh. Anh đã tự bắn vào người nhưng anh cũng đã tự bắn vào anh. Viên đạn ghim vào tim người nhưng tim anh chảy máu.

    Ông đến vỗ vai người đàn ông:

    - Ông không tin vào những gì ngoài ông, thánh thần, Phật, Chúa. Ông bảo ông chỉ tin vào ông. Nhưng ông thấy đó, ông đang tự đánh lừa ông. Chiến tranh cũng là trò đánh lừa. Con người tạo ra chiến tranh để đánh lừa nhau và tự đánh lừa mình.

    Vị Sư già lại đến bên người thanh niên, lúc này đã ngồi xuống một tảng đá dưới gốc cây đại, tay anh cầm một cánh hoa màu vàng phai, anh nhìn vào cánh hoa và cười một mình, cười không thành tiếng, nụ cười của anh hiền lành vô cùng dù khuôn mặt của anh dị dạng chẳng giống mặt người.

    - Đây, người này đây, vị sư già nói, là một vật hy sinh bị đẩy vào trò chơi chiến tranh của con người, tôi tin chắc thế. Và bây giờ, anh ở đây, như một đứa trẻ con với khung cảnh chung quanh. Chiến tranh. Hòa bình? Làng mạc quê hương? Cha mẹ anh em? Bạn bè người yêu? Tất cả đối với anh ta không hơn một mảng sương mù, một mảng sương mù bay qua sớm chiều tan biến…

    Diệu nhìn người thanh niên, một ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu: “Có phải là anh không?” Và trong đầu người đàn ông: “Trời ơi! Có phải là con ta?” Nhưng rồi không ai, cả hai người, dám tin đó là người thân yêu của mình. Không thể như thế được. Sau trò chơi tàn khốc của chiến tranh, quá bất công, quá dã man, nếu họ phải nhận lại một phần ruột thịt của mình dưới lớp hình hài đó. Sau những mất mát bi thương, sau những kiếm tìm vô vọng, họ được đền trả như thế sao?

    Vị sư già như đọc được ý nghĩ thầm kín của hai người khách, ông vừa ngồi xuống bên người thanh niên lúc này đang chìm sâu vào giấc ngủ, đầu tựa vào gốc cây đại.

    - Không có gì ràng buộc hai vị tin rằng đây là con người hai vị đi tìm trong bao năm nay. Không có một yếu tố nào chắc chắn khẳng định điều này. Đúng không?

    Hai người “dạ dạ”, nhưng không dám nói gì. Vị sư tiếp:

    - Nhưng tôi tin rằng, hai nười có thừa lòng thương yêu để thương yêu con người này. Phải không?

    Ngưng một lát nhà sư tiếp:

    - Hai người cũng thừa biết rằng sau cuộc chiến tranh này sẽ tiếp diễn một cuộc chiến khác, có khác nhau về hình thái và mục đích nhưng giống nhau về hậu quả mà nó gây ra. Và những con người như con người này, đã có, hiện còn và sẽ còn, ở đâu đó trên mặt đất này, nơi một cánh rừng hoang, một đỉnh núi cao, một hang thẳm. Chắc chắn là còn như thế.

    Diệu thật thà:

    - Thưa thầy, bây giờ hòa bình rồi, con có thấy chiến tranh nào khác đâu.

    Vị sư già cười, nụ cười hiền như một vị Bồ Tát.

    - Người ta có một khái niệm đơn giản về hòa bình và chiến tranh, con ạ. Con cũng vậy. Người ta không còn lăm lăm họng súng vào nhau, người ta không còn đêm đêm nã pháo về thành phố, người ta không còn đem máy bay rải bom trên đất nước này. Và người ta cho đó là hòa bình…Khi nào còn có con người trên lục địa này, khi đó chiến tranh vẫn còn con ạ.

    Người đàn ông im lặng rất lâu, giờ mới lên tiếng:

    - Thưa thầy, tôi không bao giờ tin rằng nhân loại sẽ có một ngày hòa bình.
    -


    Người thanh niên chợt tỉnh giấc, đứng dậy, không nhìn ai, vừa mỉm cười vừa bước đi. Anh lại tiếp tục đi vòng quanh sân như đi trong cõi vô cùng. Vị sư già vừa nhìn cười vừa nói:

    - Ôi. Như vậy là không bao giờ có hòa bình. Hòa bình chỉ là ảo tưởng. Đức Phật đản sanh, Đức Jésus giáng thế, hơn hai ngàn năm rồi mà nhân loại đâu có hòa bình.

    Diệu thưa:

    - Con thì con không nghĩ như thế. Xa xôi quá. Con chỉ cần gặp anh ấy. Sống một cuộc đời bình dị, ở một nơi nào đó, thật yên tĩnh. Chúng con yêu thương nhau, không lo âu, không sợ sệt. Với con như thế là đủ rồi, là hòa bình rồi.

    - Vâng. Vị sư già nói. Đúng như thế nếu tâm lý con người trên hành tinh này đều mong ước như con.

    Người đàn ông cười ha hả:

    - Than ôi, buồn là trong tâm lý con người đó may mắn lắm chỉ có vài ba người mong ước đơn giản như cô thôi. Số còn lại sẽ vẫn cầm súng bắn vào nhau dưới đủ mọi lý do, kể cả tự nguyện và bị bắt buộc.


    Sư già chắp hai tay trước ngực, miệng lẩm bẩm đọc kinh, ngài bước đi chậm rải hướng về phía chánh điện. Người thanh niên cũng dừng lại, đến ngồi dưới gốc cây đại.

    Diệu nhìn người đàn ông, nhìn người thanh niên, rồi nhìn xuống ngực mình, nàng thấy xao xuyến và cay đắng. “Sao anh không về dù hòa bình”. Nàng nói như nói với chính mình.

    Người đàn ông nhìn người đang ngồi xếp bằng dưới gốc cây đại bất động như một pho tượng. Anh mở to đôi mắt trong sáng lạ thường nhìn suốt vào khoảng trời xanh trên đầu. Người đàn ông bước đến bên, khẽ đặt một tay lên vai anh. Ông ngồi xuống, ông nhìn anh như chợt vừa bắt gặp, như chợt thấy ra, như chợt tỉnh thức, ông tựa người vào anh và nhắm nghiền mắt lại.

    Trong lòng Diệu bỗng nghe nôn nao một âm vang mời gọi, nàng thấy trào dâng đến nức nở tiếng thôi thúc của yêu thương, của ân phước cao vời. Nàng bước đi những bước nhẹ như trong chiêm bao, nàng ngồi quỳ gối bên người thanh niên, nắm tay anh như cầm nắm nguồn hạnh phúc cứu rỗi, nhưng trên hai mắt nàng, đôi dòng lệ lóng lánh ánh mặt trời chảy xuống mằn mặn trên môi đang cố mím chặt để khỏi bật ra tiếng khóc.

    - A Di Đà Phật.

    Vị sư già quay nhìn họ, ánh nhìn tỏa xuống điệu đàng như còn sợ cái pho tượng gồm ba con người tan chảy ra và bay đi như những đám mây ngũ sắc đủ hình thù vẫn thường hiện ra và tan đi trong không gian xa lạ.


    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)
    Quê nhà 1979
    Thư Quán Bản Thảo Cái Bè
    nhà thơ Lê Văn Trung.

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    BÀN CHÂN GỬI LẠI - LÊ NAM PHƯƠNG (thi sĩ LÊ VĂN TRUNG)

    BÀN CHÂN GỬI LẠI

    LÊ NAM PHƯƠNG (thi sĩ LÊ VĂN TRUNG)

    (tặng Phan Xuân Sinh)


    - Thiếu úy! Thiếu úy! Em nghĩ chắc vùng này đây.
    - Tui xin ông, đừng có một thiếu úy hai thiếu úy. Bây giờ tui là công dân hạng ba. Ông có biết toa tàu hạng ba không? Người nhốt chung với súc vật. Thế đó.

    Quay về phía Nga, Sang hỏi:

    - Em mệt chưa? Nàng đang đứng tựa vào một gốc cây khô, dùng tay gạt gạt mồ hôi trên trán. Nàng mỉm cười, vừa nói vừa nhìn sâu vào cánh rừng.

    - Anh Tùy đừng gọi ảnh là thiếu úy nữa, phải gọi là ngài Đại tướng, phải không anh?

    Sang thầm nghĩ trong đầu: Ừ nhỉ, ngày xưa anh thường nói đùa với Nga là chắc phải lên đến Đại tướng thì cuộc chiến tranh này mới chấm dứt. Nhưng mới mang cái hàm thiếu úy chưa ấm ngực thì người anh em thân mến nào đó ở bên kia đã dành cho anh một trái mìn. Trái mìn oan nghiệt đó đã giữ lại của anh bàn chân phải. Cám ơn người anh em vô danh nào đó. Cám ơn nhà thiên tài nào đó đã sáng chế ra quả mìn. Anh giải ngũ với tỉ lệ thương tật 75%. Nga khóc một tuần. Anh nốc bia một tháng. Dm! Thế là ấm đời nghe con. Từ nay không còn chui nhủi từng đêm từng ngày trong rừng sâu, trong làng mạc hẻo lánh, không còn sợ người anh em thương mến nào đó giương súng nhắm vào ngực anh, nơi trái tim anh đang đập, nơi cất giấu đôi mắt của Nga. Ô hô! Thế là tao nghĩ chơi nghe tụi bây. Hãy cố mà chơi cho hết mình nghe các con. Hỡi thằng Thi, thằng Kiếu, thằng Thao. Hãy tập làm người máu lạnh. Bắn không thương xót. Càng nhiều đứa chết tụi mày càng mau lên tướng. Hãy ngủ với muỗi rừng. Ngày mai về ngủ trên nệm êm. Caravel Continental. Hãy cố uống nước bùn có mùi nước đái trâu. Ngày mai về nốc Whisky. Hãy ôm xác bạn bè mà ngủ qua đêm vì trực thăng tải thương không tải kịp. Mai về tha hồ ôm mấy em, từ loại 10 đô la đến 100 đô la. Ô hô. Tao nghĩ chơi rồi. Từ giã tụi mày. Giã từ núi rừng Trung Việt. Giã từ giày trận, nón sắt. Giã từ bản làng xơ xác. Giã từ xác chết. Giã từ ngày khát cháy khô, đêm lạnh cóng bầm tím thịt da. Giã từ. Giã từ. Tao sẽ về ngồi trong ngôi từ đường của dòng họ, ngôi từ đường mà đạn pháo làm tung mất một mái. Ông bà tổ tiên không được ngồi yên trên bàn thờ, vung vãi bài vị các ngài. Tao sẽ về trong ngôi từ đường, nhặt từng mảnh gỗ có khắc những dòng chữ mà tao không thể đọc được, nhưng với tao đó là những dòng bí nhiệm. Tao sẽ khám phá theo cách của tao, sẽ trò chuyện với các ngài theo cách của tao. Hãy vui lên đi nghe các con. Tao đếch cần tụi mày thương hại. Mà tụi mày phải mừng cho tao chứ. Tao bây giờ buổi sáng nốc bia. Buổi trưa nốc bia. Buổi tối nốc bia. Có người yêu ôm trong tay. Có người yêu làm tình làm tội. Có người yêu đẩy xe lăn đi khắp phố phường.

    Hãy bắn giết thật nhiều mà lên tướng. Tự do nô lệ cái con khỉ khô! Đứa nào cũng ra rả, tao nghe mà lợm giọng.

    - Anh nhớ tới ai mà xa xôi thế?

    Nga dịu dàng đến bên anh, ấn vai anh ngồi xuống bên cạnh. Nàng mở xắc lấy chai nước.

    - Anh Tùy uống nước đã.

    Tùy đến bên một lùm cây còn ít cành xanh, ngồi xuống đó. Buổi trưa thinh lặng. Cây rừng thưa thớt và khô. Vài con chim thảng thốt bay lên kêu những tiếng kêu buồn rười rượi.

    - Chị với ông Sang uống đi, tui không khát. Ông Sang nè, ông phải cảm ơn cái thằng nào đó gài trái mìn cho ông giẫm lên, chỉ xin của ông có một bàn chân. Nếu không có quả mìn đó ông đã banh ngực vì một thằng kia ngay sau đó rồi.

    - Thì tui đã nói mà, vô cùng cảm ơn trái mìn ân huệ, vô cùng cảm ơn người anh em nào đó. Tui càng cảm ơn trời đất nữa. Ngày đó mà tôi xanh cỏ rồi thì bây giờ Nga đã tay bồng tay bế với một thằng nào đó trong đám bạn của tôi. Phải không em?

    Nga trừng mắt nhìn Sang:

    - Dĩ nhiên! Không biết chừng lại có vài chú nhóc đen như than hầm, bây giờ Nga đã tót sang Mỹ rồi, chứ đâu có lầm lủi theo cái anh chàng thương binh cụt giò này đâu.

    Sang bỗng cười ha hả.

    - Ông nghe không? Ấy, đời nó là thế. Mà em cũng phải cảm tạ đất trời nghe. May mà còn có anh để lầm lủi đi theo. Chứ không thì cũng có nước đi bán bia ôm thôi.

    Nga cấu nhẹ vào vai Sang:

    - Ừ nhỉ, biết đâu đấy.

    Tùy đưa mắt nhìn khắp khu rừng:

    - Ông nhận ra vùng này chưa? Hình như ông bị nơi kia kìa, gần cái mô đá tổ ong đó. Rồi! Đúng rồi!

    Như sực nhớ ra điều gì, Tùy bước đến bên Sang trong khi Nga dùng cành cây quạt quạt cho mát.

    - Ông có nhớ trước khi trực thăng bốc ông đi, ông nói gì với tôi không?

    - Nhớ chứ.

    Tùy quay về phía Nga đang mở to mắt chú ý nghe.

    - Chị biết không? Lúc ấy bàn chân anh ấy đứt lìa, máu ra nhiều lắm, người anh ấy xanh mét, nhưng vẫn còn tỉnh táo. Ảnh nắm tay em và dặn: “Tùy nhớ chôn dùm cái bàn chân của mình. Đừng để dòi bọ nó gặm nhấm, mình đau lắm. Nhớ giúp mình. Mình sợ lắm!”
    Lúc ấy em thấy buồn cười lắm nhưng cũng phải làm theo ý của anh Sang. Và em đã chôn cẩn thận. Sau này mỗi lần về phép em đều đến thăm anh Sang, lúc đó em cũng đã gặp chị rồi. Lúc nào ảnh cũng hỏi đã thật chôn cái bàn chân chưa.

    Ngừng một lát Tùy tiếp:

    - Thật ra thì em đã chôn rất cẩn thận, lại còn lấy một mảnh mìn chôn theo, và đúng là em chôn ngay mô đá tổ ong đó. Đúng rồi.

    Tùy mở ba lô lấy ra một cái xẻng cá nhân, loại xẻng trước kia quân đội Cộng Hòa dùng để đào hố cá nhân, anh nôn nao định bắt tay vào việc đào bới ngay nhưng Sang ngăn lại:

    - Khoan đã. Chúng ta nghĩ ngơi và ăn cái gì đi.

    Quay sang Nga anh nói:

    - Em trải tấm ni lông dưới bóng mát lùm cây kia, anh sẽ mang túi xách tới.

    Nga ngoan ngoãn làm theo, nhưng chân tay chị bỗng run run. Một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người chị. Một người đi đào bới tìm kiếm chính một phần xương thịt của mình. Thật kinh khủng và bi thảm. Lại nữa, phần xương thịt đó mất đi mà được xem như là một may mắn, một sự may mắn làm chảy nước mắt. Mỉa may thay!

    Vừa bày thức ăn ra tấm ni lông. Sang nhìn Nga:

    - Anh không hiểu em nghĩ thế nào về việc này, nhưng với anh, anh thấy cần thiết vô cùng. Anh không thể mang cái ý nghĩ làm một con ma què cụt. Bàn chân của anh, anh phải đem về, sau này nếu phải đến lúc vĩnh biệt cõi trần gian, nó sẽ được nằm chung với xác thịt của anh trong một nấm mồ, anh mới an tâm. Dù khi sống, anh là một người què cụt, nhưng khi chết đi anh không thể làm con ma què cụt được. Làm người chưa trọn vẹn thì cố làm con ma cho trọn vẹn.

    - Anh nói chi nghe mà buồn quá.

    - Thiếu úy, à, anh Sang, khi anh nằm quân y viện có một ông chuẩn úy mới ra trường bổ sung, thay anh, anh biết sao không? Cầm quân chưa được một tuần, lãnh ngay quả B 40. Tụi tôi phải trải tấm poncho ra nhặt từng mẫu thịt, xương, vung vãi khắp nơi, gom lại cũng gần đủ. Chỉ thiếu một cái chân. Nguyên một cái chân. Lạ thật. Chuẩn úy Hải. Anh biết ông này không? Trẻ măng.

    - Không. Nhưng không tìm thấy cái chân thật à?

    - Thật. Gia đình thân nhân không biết. Họ chỉ nhận được chiếc quan tài đã phủ cờ và hoa.

    Sang thở dài.

    - Tội nghiệp. Vậy là anh ta phải làm một con ma què cụt. Sao không kiếm cho anh ta một cái chân giả?

    Nga xen vào.

    - Anh kỳ thiệt. Ai lại đi lắp cái chân giả cho một xác chết.

    - Ừ nhỉ. Ai lại đi lắp cái chân giả cho một xác chết.

    Rồi anh nói như nói với chính mình.

    - Chắc tôi phải tìm cho anh một cái chân, anh bạn ạ.

    ***

    Vài ba người phụ nữ đi nhặt củi khô, theo đường mòn từ trong rừng đi ra, ngang qua chỗ ba người lạ đang ngồi, họ cũng dừng lại, đặt bó củi ở trên đầu xuống, dùng cái nón cời quạt quạt và tò mò nhìn. Một người trong họ trông còn trẻ lắm, nhìn cái xuổng và thức ăn bày trên tấm ni lông, rồi nhìn Nga chị hỏi:

    - Chị và hai anh đây ở đâu tới phải không?

    Sang nhanh miệng đáp:

    - Vâng.

    - Vùng này ít người qua lại – Người phụ nữ trẻ nói tiếp – quanh đây mìn nhiều lắm. Mới tháng trước đây có một người bị mìn đấy. Dưới kia kìa – Chị đưa tay chỉ về cuối cụm gai mắc cở cách chỗ ba người ngồi chừng trăm mét.

    Người phụ nữ lớn tuổi hơn ra vẻ biết rõ khu này, nói:

    - Chúng tôi ở đây chỉ đi trên những lối mòn, tránh những chỗ khả nghi có đánh dấu bằng những hòn đá. Nhưng cũng may may rủi rủi. Vô phúc thì: “Ầm!” Xong!

    Nga lấy nước mời ba người phụ nữ, họ từ chối. Người phụ nữ trẻ nói:

    - Chúng tôi có đủ nước rồi. Anh chị cẩn thận đó. Tụi tôi về.

    - Các chị về.

    Ba người đi nhặt củi vừa khuất, Nga lên tiếng trước:

    - Trời ơi, em sợ lắm. Đi tìm bàn chân của anh, biết có chưa, chưa biết chẳng may để lại thêm cái nữa…

    Sang trấn an:

    - Không có gì đâu. Bây giờ ăn xong, em ngồi đây. Anh với anh Tùy đến đào thử chỗ mô đá tổ ông kia. Nếu không có thì chúng ta về. Anh đành làm con ma què cụt vậy.

    - Anh Sang à. Tùy nói, thời buổi này tôi thấy nhiều người què cụt lắm. Què cụt chân tay đã đành, khối thằng què cụt cả cái đầu. Ấy thế mà chúng vẫn sống phè phởn đấy.

    - Ừ nhỉ. Cái đầu què cụt mà vẫn sống. Hay thật. Em có nhìn thấy anh bị què cụt cái đầu không? Nga?

    Nga tư lự:

    - Một cái đầu què cụt, gắn thêm một thân thể què cụt. Nó giống cái con gì nhỉ?

    - Một con người đấy chị Nga à. Không ai phủ nhận đó là một con người. Thế giới ngày nay xuất hiện nhiều con người như vậy. Anh Sang nghĩ mà xem. Từ Washington đến Moscow, từ Iran đến Iraq. Ôi thôi! Chúa phải ra tay thôi! Cái con người của Ngài không vẹn nguyên hình hài ban đầu rồi!

    - Em thấy nó lộ tùng phèo lên anh à. Đôi khi nằm mơ thấy mình mọc cái đuôi, lông lá đầy người. Hay là đến cái thời kỳ chúng ta trở lại con đười ươi như ông triết gia nào đó đã đưa ra cái thuyết biến hóa gì đó.

    Sang nhìn Nga đùa:

    - Như vậy em vừa công bố thuyết “lùi hóa” rồi đấy.

    - Thôi. Tiến hay lùi gì cũng được, chúng ta ăn trưa đi. Tôi đói lắm rồi – Tùy nói.

    Ba người ngồi quanh tấm ni lông dưới cái nắng trưa đã bắt đầu dịu lại để thời gian chảy vào buổi chiều. Nga cắt từng khoanh bánh mì và kẹp thịt đưa cho từng người. Sang cầm miếng bánh mì đưa lên mũi ngửi, rồi cắn một miếng, anh nói:

    - Tôi phục ông tác giả “Cái chuồng khỉ”. Hồi năm 67, 68 gì đó, tôi nghe nói về Blao thăm anh ấy. Một hôm, cùng vợ chồng anh ngồi ăn bánh mì, như chúng ta hôm nay. Thế là anh ấy nói về bánh mì. Tận ngọn nguồn. Qua từng thời kỳ. Chi tiết. Rõ ràng. Có dẫn chứng. Tuyệt. Một cái đầu siêu phàm. Bánh mì chỉ là một đề thi nhỏ thôi đấy. Anh ấy đi từ Hienghène, Karl Marx, Sartre, Chúa Trời, Thích Ca … Nhưng con người kỳ dị đó chẳng công nhận ai cả. Thiên hạ nhìn anh thấy anh có một cái đầu què quặt. Nhưng để tìm một cái đầu như thế cũng khó lắm đấy.

    Nga nhìn Sang:

    - Anh ăn đi. Nói hoài không biết chán. Còn phải đào bới tìm cái bàn chân của anh nữa chứ.

    Tùy nói:

    - Ăn xong, hai người ngồi đó mà mơ mộng. Để tôi đào. Nghe người phụ nữ khi trưa nói chưa? Đừng có mà đi lang thang.

    - Không. Tôi đi với ông. Em ngồi đây, cố chợp mắt một tí – Sang nhìn Nga âu yếm – Em lận đận với anh nhiều rồi. Đừng để anh phải ngồi mà khóc em. Chúng ta sẽ cố xong việc, về sớm để còn nhìn cho rõ đường mòn mà đi. Ra tới đường cái cũng mất vài tiếng chứ không ít.

    Nga nguýt Sang một cái rỏ dải:

    - Anh mà cũng biết khóc à? Gớm! Nghe mà cảm động. Thôi em chết cho rồi để còn được nghe anh khóc. Ôi chao! Cái thời buổi này sao em thấy tìm một giọt nước mắt cho tình yêu khó quá. Anh Tùy có bao giờ khóc cho tình yêu chưa chứ anh Sang nói em nghi ngờ quá.

    - Nói thật với chị, nước mắt của loài người đã khô cạn lâu rồi. Mấy mươi năm chiến tranh dằng dặc, con người đã khóc triền miên qua bao đổ nát. Người ta khóc lúc mặt trời vừa mọc ngoài ruộng đồng. Người ta khóc lúc hoàng hôn khi chưa kịp ăn bữa cơm chiều. Người ta khóc trên nền nhà cháy rụi. Người ta khóc dọc đường tản cư. Người ta khóc trên rừng. Người ta khóc dưới biển. Khóc người thân, bạn bè. Khóc trước kẻ thù. Ôi nước mắt loài người đã tuôn cạn lâu rồi. Tuổi trẻ chúng ta đâu có khoảnh khắc nào yêu đương. Mà có đi nữa thì nước mắt cũng khô cạn rồi chị ạ.

    - Anh nói chi nghe mà rầu thúi ruột.

    Nga trầm ngâm, nhìn Sang rồi nhìn xuống ngực mình nơi hai bầu vú của nàng đang rung lên thổn thức như ngầm nói với trái tim nàng: Không! Vẫn còn có TRÁI TIM. Trái tim con người. Trái tim nhân loại. Không thể khô cằn như thế.


    Nga ngồi buồn rười rượi. Hai người đàn ông mang dụng cụ đi về phía mô đá tổ ong cách đó non trăm mét. Nàng nói vói theo:

    - Đi cẩn thận nghe hai anh. Nhìn kỹ chỗ nào có dấu mòn mà đi.

    Sang quay lại:

    - Cảm ơn em. Đừng căng thẳng quá như thế. “Anh không chết đâu em”.

    Sang vừa hát vừa khập khiễng bước theo Tùy. Mặt trời đã dịu hẳn. Tùy đến bên mô đá tổ ong, xác định lại vị trí. Dấu vết hơn ngần ấy năm vẫn chưa bị thời gian làm thay đổi nhiều. Chỉ có mô đá tổ ong hình như nhô cao hơn. Có lẽ do đất bị xói mòn.

    - Thấy có gì lạ không anh Tùy? Anh có ngại gì không? Hay để tôi đào cho. Anh đến chỗ Nga ngồi nghĩ đi. Lỡ có nổ thì một người lãnh. Dại gì mà hai thằng cùng lãnh.

    Sang tần ngần nhìn Tùy và nói thế nhưng Tùy cương quyết:

    - Không có gì đâu, thiếu úy, à, anh Sang à. Chẳng lẽ mìn rãi trên từng phân vuông sao? Tôi chỉ nghe người ta nói đi tìm xác đồng đội, thân nhân chứ chưa bao giờ nghe người ta nói về một người đi tìm chính thịt xương của mình, như ông, ông Sang à.

    - Anh Tùy biết không, tôi thường nằm mơ thấy mẹ tôi, bà nói với tôi: “Con có cái bàn chân giống bàn chân bố con lắm!” Rồi bà khóc. Tỉnh giấc, tôi co chân lên sờ vào cái chân bị cụt, và không thể nào ngủ lại được.


    Trầm ngâm một lát rồi anh tiếp:

    - Mẹ kiếp, vào cái lúc mà trên sống dưới chết, vào cái thời con người luôn đi trong bóng đêm của thần chết, cụt mất cái chân để được ra khỏi bóng đêm đó. Mẹ kiếp, lúc đó tưởng mình may mắn. Mình lại cảm tạ đất trời, cảm ơn cái thằng ôn dịch nào đó đã gài trái mìn. Để rồi bây giờ đi đứng trong thế giới của những con vượn hai chân này mình lại thấy khổ sở. Thôi thì, như tôi đã từng nói với ông: ĐÃ LÀM MỘT NGƯỜI CHƯA TRỌN VẸN THÌ CỐ MÀ LÀM CHO TRỌN VẸN MỘT CON MA, đừng làm một con ma què cụt.


    Tùy cặm cụi đào. Bỗng anh la lên:

    - A! Đây rồi! Còn đây ông Sang ơi. Tôi thấy nó rồi.

    Sang vội vồ tới, chụp cái xẻng nơi tay Tùy:

    - Để tôi. Để tôi.

    Rồi anh bỏ cái xẻng sang bên.

    - Không được, phải dùng tay mà bới.

    Anh dùng mười ngón tay của mình bới từng bụm đất nhỏ, từ từ, thong thả, nhè nhẹ, như sợ kinh động xương cốt người chết. Hai ngón tay anh chạm phải mảnh thép, chảy máu, máu nhỏ xuống trộn vào lớp đất nâu đen có phần xương thịt anh tan hòa trong đó. Anh nhón tay lấy mảnh thép lên, vài lóng xương ngón chân vướng theo màu vàng đục. Tùy đưa anh mảnh vải đỏ đã cẩn thận mang theo. Anh trải mảnh vải lên mặt đất, nhặt từng mảnh xương, đặt cẩn thận lên đó.

    - Mẹ ơi đây là xương thịt của con.

    Anh đưa một lóng xương nhỏ cuối cùng lên hôn, cẩn thận gói toàn bộ xương bàn chân lại, bọc thêm một lớp giấy báo rồi bỏ vào một túi ni lông. Anh ôm nó vào người, ngồi nhìn về phía Nga, nàng cũng đang gióng mắt về phía hai người.

    Sang nghe tim mình nhói đau và nhịp yếu ớt, như bao nỗi bi thương dồn về làm trương những mạch máu, dồn nén, ứ đọng, cơ hồ sắp bung vỡ ra, những giây thần kinh nơi chóp cái bàn chân cụt giật giật nôn nao niềm khao khát được nối liền với bàn chân đã mất.

    Thế là về với ta hỡi xương thịt của ta, về với ta hỡi một phần cơ thể của ta, một phần nhỏ bé nhưng lớn lao vô cùng, nó đã giúp ta đi đứng đàng hoàng những bước đi của con người. Sang chợt nhớ tới một người bạn đã không may mắn như anh: Mai Đình Hanh! Tao vẫn còn may mắn hơn mày hỡi Mai Đình Hanh. Hai mươi tuổi mày đã bỏ cả hai chân nát bấy bầy nhầy nơi cánh rừng nào đó của miền Thượng du Trung Việt. Bây giờ tao biết mày vẫn còn sống, sống cơ cực và bi đát ở một vùng quê nào đó. Mày không còn đủ hai chân để đi về cõi chết. Mày bò lê trên mặt đất như một con thú già nua bệnh tật không nhớ nỗi tên mình, không biết mình là ai thì làm sao biết còn có con người trên trần gian này. Tao may mắn hơn mày bởi vì tao vẫn còn cà thọt trên nạng gỗ, tao vẫn tìm thấy xương thịt tao cho dù đã mục rã. Tao chưa hy sinh cho ai, nhưng mày, mày đã hy sinh cho ai? Tuổi thanh xuân và máu thịt thanh xuân. Bắn bỏ mẹ nó đi bọn đầu cơ chính trị, bọn đầu cơ chiến tranh. Bọn ra rã nhân danh tự do, công bằng nhân ái. Bây giờ mày bỏ đi như một con thú già bệnh tật có đứa nào đứng cúi đầu trước mày gắn cho cái chiến thương bội tinh và cho mày mấy đồng trợ cấp? Mẹ kiếp! Tao đếch cần! Cũng chỉ là trò đểu!


    Ba người lần theo con đường mòn xuyên qua mấy đám cỏ dại tới những vạc ruộng mùa này đã khô và nứt nẻ. Chạy dọc theo mấy đám ruộng là con đường rãi đá, con dường giao thông chính dẫn tới quốc lộ I. Hai bên nhà cửa thưa thớt lụp xụp, mái lợp tranh thấp lè tè. Con người ở đây lầm lì, cặm cụi làm việc, chẳng ai quan tâm tới ba người khách lạ vừa đi vừa quan sát họ. Một vài đứa nhỏ, quần cộc, ở trần, da đen nâu, ngồi vắt vẻo trên lưng trâu im lặng chăm chú nhìn một cánh diều bằng giấy đang lơ lững cô độc trên cao.

    Sang bước từng bước gập ghềnh, hai chân không cân đối nên dáng đi của anh nghiêng nghiêng và hơi đổ về phía trước. Nga ái ngại:

    - Anh ổn chứ?

    - Được, không sao. Đi đứng trong đời bằng cái chân giả thì phải cố làm ra vẻ cho nó không giả.

    - Sao lại phải rắc rối vậy ông Sang? Tùy nói. Ông đang bước đi bằng cái chân giả nhưng là những bước đi rất thật của cuộc đời còn lại.

    - Anh Sang thì lúc nào cũng cay đắng thế. Ngày xưa em yêu anh thế nào thì bây giờ vẫn thế. Không ai nhìn anh khác đâu.

    - Có thể. Có thể không ai nhìn anh khác đi. Nhưng anh? Anh nhìn quá rõ mình đã khác đi rất nhiều, em ạ. Thí dụ thế này nhá. Khi anh lên giường với em, vâng, thì không thể nào lại mang theo cái bàn chân giả. Và em, em có thấy hứng thú không khi thấy cái mỏm chân cụt của anh đang ngo ngoe như cái đầu của một quái vật kỳ dị.


    Nga chùng xuống:

    - Thôi anh đừng nói nữa, anh cứ mãi khổ sở thế này thì làm sao mà sống. Mà bây giờ anh cũng đạt cái tâm nguyện của anh rồi, và bên anh lúc nào cũng có em, có bạn bè.

    Sang đọc lẩm bẩm: “May mà có em đời còn dễ thương”. Ôi Vũ Hữu Định, mày đã nói thế sao mày bỏ đi? Đời còn dễ thương quá sao mày bỏ đi? Nga ơi! Bạn bè ta ơi! Ta đang bước đi khập khiễng bên các người. Bàn chân ta què cụt hay tâm hồn ta què cụt? Nhân danh điều gì để ngợi ca một con người què cụt đã hy sinh vì những tham vọng của những quái thai lịch sử.

    - Anh Sang ơi.

    Nghe tiếng Tùy, Sang quay lại, không đợi Tùy hỏi điều gì, anh nói: “Chúng ta đón xe về Cẫm Hải chiều nay, trước để anh và Nga thăm mộ má tôi, và tôi gởi bàn chân này lại cho má giữ hộ. Quay về thành phố vẫn kịp, đừng lo.


    Đó không phải là một nghĩa trang rộng lớn, chỉ là một khu đất lồi lõm lỗ chỗ những gò và hố. Mồ mã cũng không nhiều và chôn cất bình thường, không xây gạch đá như những nghĩa trang lớn, thường chỉ đắp một mô đất và có đặt một tấm bia ghi rõ họ tên, ngày sinh, ngày chết của người quá cố. Một khu chôn cất như bao khu chôn cất của làng xã Việt Nam từ bao đời nay. Mồ mã chen lẫn với vườn cây, ruộng rẫy, đôi khi nằm ngay sau nhà. Người sống và người chết không muốn xa nhau. Dù người chết đã vĩnh viễn về cõi bên kia, nhưng trong lòng người còn lại vẫn cảm nhận họ còn ở đâu đó trong từng ngóc ngách của ngôi nhà. Họ còn ở đâu đó ngắm, dõi theo đời sống của cháu con. Và người còn sống nghĩ rằng họ sẽ được người chết phù hộ độ trì, bởi vậy họ càng ăn ở theo đạo lý nhân đức. Họ không bao giờ quên những ngày giỗ kỵ. Sang không biết má anh có biết anh luôn thương nhớ bà, niềm thương nhớ vô bờ đó đã giúp anh bước đi những bước khập khiễng trong quãng đời còn lại của mình bình an hơn.

    Anh tìm thấy mộ mẹ mình nhanh chóng, bởi anh rất thường về đây đốt nhang cho bà. Sau khi thắp nhang khấn lạy trước mộ, anh bảo Tùy đưa cái xẻng và tự tay đào một cái hố nhỏ bên cạnh phần mộ của mẹ, hơi dịch về phía dưới một chút.

    Không tháo cái bọc ra, anh cẩn thận đặt bọc vào cái hố con rồi lấp đất lại. Xong anh nhờ Tùy khiêng một tảng đá gần đó đặt đè lên. Lấy bó nhang Nga đã đốt sẵn, anh một lần nữa, trước mộ mẹ mình:

    - Lạy má, đây là một phần thân thể của con, một phần nhỏ trong hình hài con mà má đã mang nặng đẻ đau, con gởi nó đây, bên cạnh má. Mai kia chắc chắn có ngày con sẽ về đây, vĩnh viễn bên má, còn có cái bàn chân này, con sẽ được ở bên má trọn vẹn hình hài, má sẽ thấy con đầy đủ chân tay, không còn là một con người què cụt nữa.

    Anh cắm hết bó nhang trước mộ, quày quả bước đi. Tùy và Nga vội vã bước theo anh. Ở đâu đó gần đây, vang lên tiếng chuông mõ và tiếng kêu khóc. Hình như có một đám tang.

    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Không Thể Tiễn Đưa Nhau

    Không Thể Tiễn Đưa Nhau

    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)


    Anh ngồi nhìn những giọt mưa rời rã mỏi mệt bên thềm sân ga lạnh lẽo, xa lạ và cô đơn. Những giọt mưa không gieo một âm vang, nó lặng câm nhỏ xuống như thể giọt nước mắt ngậm ngùi của Trâm lăn âm thầm thấm vào lòng anh xót xa hai mươi mấy năm về trước, khi nàng đứng tội nghiệp trơ trọi trong cảnh chiều mùa đông phi trường Liên Khương sương mù.
    Bây giờ trên sân ga nhỏ ở một thị trấn nhỏ miền Trung, sau những ngày mưa bão tơi bời, bầu trời vẫn còn đang nặng nề và dai dẳng mưa, anh lại mong ước, một cách nhiệm mầu nào đó, Trâm, trong màu áo mưa tím nhạt, chiếc ô màu hoa khế, chạy đến ôm chầm lấy anh, mắt nhòa lệ và nói với anh lời chia tay tràn yêu thương.

    Hai mươi mấy năm trôi qua, bao biến động của lịch sử, bao đổi thay của vòng đời, bao va chạm của những xung đột, bao nổi trôi lận đận của kiếp người, không biết rồi Trâm có còn nhớ đến anh, có còn giữ lại chút hương đời dịu ngọt của một thời hoa dại ngày xưa, hay rồi nàng cũng chỉ, như bao người con gái khác, rũ bỏ những khát vọng tuyệt vời lãng mạn, để bị cuốn vào những lo toan, những mưu cầu trần gian nhất, rồi tự bằng lòng với những gì có được của một đời sống bình thường, nếu không muốn nói là quá tầm thường, và tự tô hồng nó bằng chút màu sắc ảo mộng kiếm tìm trong đó chút hạnh phúc mỏng manh của đời người vốn bao giờ nỗi phiền muộn cũng nhiều hơn niềm hoan lạc.

    Điều đẹp nhất bao giờ cũng luôn còn ở phía trước, hoặc là nó đã mất ở đâu đó rồi, con người trong hiện tại vẫn hoài niệm quá khứ và khát khao tìm kiếm ở tương lại. Nhưng trong lòng anh bây giờ, khi ngồi nhìn mưa rả rích nơi sân ga tỉnh lẽ này, nhìn những con người di động như những cái bóng, lặng lẽ cam đành, dáng vẻ người nào cũng như đang lục tìm, chạy trốn, âu lo, anh lại nhớ đến Trâm, nhớ đến những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, những đêm lửa trại cầm tay nhau hát điên cuồng, những ngày xuống đường bừng bừng nhiệt huyết kêu gọi hòa bình tự do no ấm; những đêm đốt đèn cầy đọc thơ phản chiến, những ngày chạy trốn và những tuần lễ nằm trong trại giam, rồi lại vẫn tiếp tục, vẫn chuyển cho nhau tấm lòng khao khát về một thế giới tràn ngập yêu thương. Nhưng điều đẹp nhất đó chỉ là những ước mơ trong quá khứ. Và cho đến bây giờ, nó cũng chỉ nằm lại ở đó: ở quá khứ!

    ***

    Giờ đây, anh, một lần nữa, không biết bao nhiêu lần trong đời mình đã qua, thực hiện một chuyến đi, có điều khác biệt là ngày xưa, cho dù ở sân ga bến cảng nào, cho dù vào thời khắc nào, những chuyến đi cũng mang đầy những ước vọng, mang đầy lòng thương yêu, những vòng tay ôm giã từ, những nụ hôn thắm thiết và những lời hẹn hò. Bây giờ, một mình, một túi xách với vài cuốn sách, anh cũng đi, cũng trên sân ga, nhưng, một mình, không một người đưa tiễn, không một cái bắt tay, không một lời từ biệt. Và anh, người hành khách cô đơn này, sẽ lên chuyến tàu chiều nay, để lại làm một chuyến đi vô vọng và hoài nghi. Có thể anh không chỉ là người hành khất duy nhất mang đầy tâm trạng như thế. Những bóng người di động trên sân ga, chắc cũng có kẻ như anh. Mà không biết đâu chừng đây là chuyến tàu chung, chuyến tàu của thế hệ anh, chuyến tàu của những người thua cuộc, bó tay bất lực trước định mệnh nghiệt ngã của lịch sử.

    Hình như cũng có một vài người, ở nơi góc sân ga này, nơi góc phòng đợi kia, hoặc đi tới đi lui dưới màn mưa trên sân ga, với nét mặt u hoài và âu lo. Họ tiển đưa nhau? Hay là họ đang vĩnh biệt nhau?

    Bây giờ có thể Trâm đang ở một nơi nào đó rất xa, chắc nàng sẽ không bao giờ tưởng ra nổi anh đang đứng đây, nơi sân ga tỉnh lẽ này dưới màn mưa rả rít này, để tiếp tục cuộc hành trình còn lại của đời mình, đơn độc, lẻ loi, với một ước vọng tội nghiệp: có một người để chào từ biệt.

    Anh đưa mắt nhìn một cách thân thiện nhưng người đi ngang qua anh, những mong nhận lại một ánh nhìn cảm thông, để anh tự ủi an lòng mình, ít ra cũng có một người thầm lặng từ giã anh.

    ***

    Và rồi anh như chợt sững sờ, kinh ngạc và xao động, nhịp đập trái tim anh tê buốt như dừng lại, anh đưa tay bấu chặt vào ngực mình, cái túi xách nơi vai tụt xuống, anh mở to mắt nhìn dán vào chiếc áo mưa màu tím và chiếc ô màu hoa khế đang đứng bất động cuối sân ga. Thật không thể tin được. Chẳng lẽ là Trâm? Điều mầu nhiệm anh mơ ước đã hiển linh thật rồi. Anh ngửa mặt lên trời, đưa tay làm dấu và tiến về cuối sân ga. Khi còn cách chỗ chiếc áo mưa màu tím dăm bước, anh dừng lại, không nén được nỗi xúc động và nguồn vui dâng trào, anh buộc miệng gọi:

    - Trâm!

    Chiếc áo mưa màu tím quay về phía anh, nhưng khuôn mặt còn khuất dưới chiếc ô màu hoa khế. Không kìm lại được, niềm hân hoan và nỗi đớn đau buốt giá vỡ òa trong anh, anh bước tới vài bước, toan đưa tay nắm bàn tay trắng như hoa sứ đang cầm chặt cán chiếc ô màu hoa khế. Một cơn gió nhẹ đẩy chiếc ô lệch về sau một chút lộ rõ khuôn mặt thanh tú có đôi mắt u buồn của cô gái. Anh lúng túng:

    - Xin lỗi, tôi nhầm, xin lỗi cô.
    Cô gái nở một nụ cười hiền dịu để lộ hàm răng trắng sáng như ngọc bên trong đôi môi tím nhạt vì mưa lạnh.

    - Không có gì cả. Không sao anh ạ.

    Tiếng nói của cô ngọt và nhẹ len vào anh như một làn hương làm cho niềm thất vọng tưởng chừng quặn buốt trong lòng được vỗ về và xoa dịu.

    - Xin lỗi. Xin lỗi. Tôi… Cô cũng đi chuyến chiều nay?

    Cô gái quay hẳn về phía anh, ánh mắt không dấu nổi bồn chồn và buồn bã:

    - Không. Em đi tiển một người bạn. Anh đi chuyến tàu chiều nay?

    - Vâng tôi đi chuyến chiều nay.

    Nghe giọng nói lạ của anh, không nhìn anh, cô hỏi:

    - Hình như anh không phải người vùng này?

    - Tôi từ xa đến, được vài hôm. Trên đường đi tôi dừng lại đây hy vọng tìm được người bạn cũ rất lâu không gặp nhau. Nhưng không may, anh ấy không còn ở đây. Còn cô?

    - Gia đình bố mẹ em chuyển về đây gần mười năm rồi.

    Tiếng cô gái dễ thân thiện và gần gũi, lòng anh ấm lại và hạnh phúc. Anh nhớ đến Trâm qua hình ảnh cô gái đứng bên anh trên sân ga dưới màn mưa nhẹ, se lạnh. Anh thèm được nắm bàn tay cô gái, hôn lên năm ngón tay mềm mại và tội nghiệp, để được cám ơn cô, cám ơn trời đất cho anh gặp cô trong buổi chiều cô đơn nơi xa lạ này.

    - Nếu anh ấy đến, anh nhìn cô gái và nói, chúng tôi sẽ làm quen nhau, tôi sẽ có một người đồng hành, chuyến đi chắc đỡ quạnh hiu hơn.

    Cô gái vẫn nhìn hun hút về phía xa, nơi con đường dẫn về sân ga, xe cộ qua lại thưa thớt và vài bóng người vội vã che ô đi ngược về phố.

    - Vâng, em sẽ giới thiệu hai anh với nhau. Tha hồ hai người tâm sự trên chuyến đi này.

    Cô gái thoáng buồn và xa xôi:

    - Chuyến đi chẳng có một dự báo gì rõ ràng ở phía trước.

    Anh như thấy được tâm sự u uất nơi cô gái và cảm thấy, hình như, người bạn đồng hành chiều nay với anh cũng chẳng là một hành khách bình thường.

    - Hai người có hẹn với nhau ở đây.

    Anh thấy mình hơi ngớ ngẩn khi hỏi cô như thế, song anh chẳng dám hỏi gì hơn ngại đi sâu vào riêng tư của cô và người bạn chưa đến của cô. Anh hỏi cốt để được nghe tiếng nói của cô và biết đâu cô gái sẽ bộc bạch cùng anh.

    Trong những chuyến đi đã qua trong đời mình, có lần anh đã để Trâm đợi chờ vô vọng trên sân ga mùa đông ở Huế. Lần đó anh hẹn nàng sẽ đến Huế trong chuyến tàu đêm từ Sài Gòn, nhưng anh đã bị cảnh sát giữ lại trên đường từ cư xá đến Bình Triệu. Tình hình Sài Gòn bấy giờ vô cùng bất ổn, chính quyền tăng cường đàn áp và bắt bớ. Các phe nhóm đối lập, khối Phật Giáo Ấn Quang, các tướng tá cơ hội, công khai hay bí mật ráo riết lao vào cuộc chạy đua chính trị cho tình hình thủ đô miền Nam bấy giờ đã bất an càng náo động và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Anh và một số anh em lần lượt bị bắt và phong trào có cơ tan rã.

    Lúc ấy Trâm đã chờ anh trên sân ga mùa đông Huế với nỗi tuyệt vọng và buồn giận, sau này nàng đã tỏ lại với anh như thế và anh đã để nàng khóc trong tay anh với niềm thương yêu vô bờ.

    Cô gái có nghe anh hỏi nhưng không trả lời, cô đưa tay nhìn đồng hồ, nét mặt hiện rõ nỗi lo âu bồn chồn. Hình như cô đang khóc. Đôi mắt cô ướt long lanh. Nhìn đôi mắt của một cô gái đang khóc, anh thấy đẹp lạ lùng, vẻ đẹp của nỗi đau dồn hết lại nơi hai giọt lệ ứa ra từ hai khóe mắt.

    ***

    Tiếng loa thông báo cho hành khách chuẩn bị lên tàu vang lên trong màn mưa bụi, mọi người vội vã tiến về phía cửa sau phòng đợi. Anh cho tay vào túi xem tấm vé tàu còn không, chưa vội vã từ giã cô gái.

    - Còn những hơn mười lăm phút nữa tàu mới chạy. Chúng ta cố chờ anh ấy.

    Cô gái đưa mắt nhìn anh như thầm cảm ơn.

    - Không biết anh ấy có gặp gì bất trắc không.

    - Chắc không đâu cô. Có lẽ trục trặc xe cộ gì đó thôi.

    Tiếng loa phóng thanh lại vang lên lần nữa. Cô gái quay hẳn về phía anh:

    - Anh lên tàu đi kẻo trễ. Em đứng đây chờ anh ấy đến, em sẽ báo có anh, à mà anh, gọi anh là gì nhỉ?

    - Hoàng. Tên tôi, Hoàng.

    - Em là Trang.

    - Tạm biệt Trang.

    Anh đưa tay muốn bắt tay từ biệt cô gái, nhưng cô gái hình như không để ý, mắt vẫn hướng về con đường dẫn đến ga.

    Anh lầm lũi bước đi về phía cửa ra tàu, lòng buồn rười rượi, thầm mong cho cô gái gặp được người bạn, và anh cũng nôn nao chờ người thanh niên xa lạ chưa một lần gặp đó, kẻ đồng hành với anh trên chuyến tàu chiều nay, chuyến đi mà, như cô gái đã nói: “Không có dự báo gì rõ ràng”.

    Đi chỉ là đi. Không thể đứng lại là đi. Không thể đọng lại như ao tù mà phải chảy như dòng sông. Không thể tụ lại mà phải lang thang như mây trời. Đi chỉ là đi. Không như những chuyến đi mấy mươi năm về trước. Và cũng không thể như mấy mươi năm về trước đi vì những khát vọng sáng ngời, vì những thôi thúc lên đường của tuổi trẻ đẹp như hoa cỏ mùa xuân. Bây giờ, ra đi vì không chịu đựng nổi những vây khốn của đời sống, vì những ức chế như bị giam cầm, vì chán chường và mỏi mệt, vì suy kiệt cả xác lẫn hồn. Đi vì không thể quanh quẩn trong những phân vuông đầy những chất thải của cả một hệ thống cà lăm nhai nhãi suốt ngày từ những hố rác này đến hố rác nọ. Dù biết rằng đi đâu rồi cũng vậy. Nhưng thà lăn đi để biểu tỏ một thái độ, một cách sống, còn hơn nằm chết đi cam đành, mục rữa.

    Anh chưa vội bước lên tàu. Con tàu đen và dài như một con sâu khổng lồ gầm gừ phun khói lên trời và thét một hồi còi xé rách không gian ẩm ướt. Người đi kẻ tiển nắm tay nhau chưa muốn rời. Có những đôi mắt ứa lệ và những nụ cười méo xệch. Anh nhìn hút về cuối sân ga. Cô gái vẫn đứng cam đành, màu tím chìm trong mưa bụi. Anh nhớ Trâm và thương cô gái vô chừng.

    Tàu sắp chuyển bánh rời ga. Anh quay lại nhìn về cuối sân ga. Chiếc áo mưa màu tím vẫn bất động ở đó. Anh nói thầm trong miệng: “Thôi, từ biệt Trang”. Anh đến bên cửa tàu, một tay nắm tay vịn, chân bước hờ lên, lòng buồn vô hạn. Có bàn tay ai đó vỗ nhẹ vào lưng anh:

    - Này anh gì ơi, anh lên cho người khác lên, hay làm ơn tránh ra…

    Anh buông tay vịn, bước hẳn xuống, không nhìn người vừa nói, anh quay vội ra sân ga. Một hồi còi rú lên nghe ghê rợn và tiếng động cơ xình xịch sau anh. Anh chạy băng về cuối sân ga. Sân ga vắng ngắt. Chiếc áo mưa màu tím cũng không còn ở đó. Anh dáo dác đi tìm và tự dưng một nỗi ân hận vô cớ dâng ứ trong lòng. Anh tự trách mình sao không quyết định sớm hơn để ở lại với Trang rồi ngày mai đi cũng có sao đâu. Biết đâu ngày mai tốt hơn cho anh, ít ra cũng hy vọng gặp người bạn của cô gái, hay ít ra khi còn ở bên Trang anh thấy đỡ lẻ loi hơn. Tâm trạng lẻ loi và cô đơn trong buổi chiều mùa đông mưa rả rích trên sân ga này anh nhớ Trâm vô bờ và anh thấy giờ phút gần bên Trang chiều nay thật cần thiết.

    ***

    Thời tiết trở nên âm u hơn. Anh buồn rủ ngồi xuống. Hình ảnh cô gái chập chờn trong đầu. Không biết tìm nàng ở đâu. Điều anh biết duy nhất chỉ là tên của nàng, màu tím của chiếc áo mưa và cái ô màu hoa khế. Anh đốt một điếu thuốc và nghĩ tới cái phòng trọ bình dân bẩn thỉu đêm nay với những cô gái làm tiền chưa quá hai mươi, ăn mặc lôi thôi, mặt mài nhễ nhại phấn son rẻ tiền, căn phòng đầy chuột bọ tối om với những mảng tường vôi nham nhỡ viết đầy những câu tục tỉu.

    Bây giờ ở lại nơi cái thị trấn tỉnh lẽ này, thật vô nghĩa nếu không gặp lại cô gái. Tàu thì đã đi xa. Anh thầm rủa mình và tự mỉm cười chua chát. Anh toan đứng lên đi về phía con lộ dẫn vào trung tâm thị trấn với hy vọng tìm ra cô gái, nhưng một tiếng gọi thật khẻ sau lưng anh:

    - Anh!
    Anh quay lại. Chiếc áo mưa màu tím đang đứng trước mặt anh, mắt đỏ hoe, chiếc ô màu hoa khế gấp lại cầm nơi tay, đầu tóc cô ướt nước mưa. Anh bàng hoàng như mình đang chiêm bao, không nói gì với cô gái, anh lấy cái ô nơi tay cô bung ra và che mưa cho cô.

    - Sao anh còn ở đây?

    - Tôi không nỡ đi được Trang à.

    Cô gái cảm động cầm tay anh.

    - Cảm ơn anh, nhưng lỡ chuyến đi của anh rồi.

    - Không sao, những chuyến đi không có dự báo gì ở phía trước, như cô nói đó, thì trễ một ngày hay sớm một ngày cũng chẳng thay đổi gì. Chẳng thay đổi được gì đâu, Trang à. Nhưng cô ở đâu từ hồi giờ, tôi loay hoay trên sân ga, thất vọng.

    Trang buông tay anh ra, đi sát vào người anh. Mùi hương con gái nơi nàng thoảng vào anh nhẹ như làn hơi thở mong manh và tinh khiết.

    - Tàu sắp chạy, cô nói, anh ấy không thấy đến, em nghĩ phải vào gặp anh để nói cái gì đó, không biết anh lên cửa nào, em dáo dác chạy dọc theo tàu cho đến khi tàu chuyển bánh, chẳng thấy anh đâu. Em đứng nhìn theo con tàu mà khóc. Thất thểu ra về thì gặp anh đây. Không biết em cảm ơn anh hay ân hận vì em mà anh lỡ chuyến đi.

    - Cô đừng bận tâm. Tôi vô cùng cảm ơn là đã được gặp Trang ở đây. Tôi thấy được an ủi trong chuyến đi đơn độc này.

    Dù trong lòng hai người cùng đang nặng trĩu và lo buồn nhưng họ cũng cảm thấy ấm lại phần nào khi đi bên nhau dưới làn mưa rắc lạnh này.

    - Anh định đi tận đâu?

    Cô gái e dè hỏi.

    - Cũng chưa có một chốn dừng chân cụ thể, Trang à. Tôi đi chỉ là muốn thoát ra khỏi cái nhàm chán thường ngày, muốn chạy trốn cái thành phố dày đặc rác bẩn và bụi bặm. Đi để tự đánh lừa mình về một sự đổi thay dễ chịu hơn.

    - Ở đâu rồi cũng vậy anh à.

    - Vâng, ở đâu rồi cũng vậy.

    - Anh ấy cũng đã nói với em như anh, luôn luôn cảm thấy tù túng. Bọn em, phụ nữ dễ an phận. Không biết đến bao giờ thì chúng ta mới an tâm sống bên nhau.

    Hai người đi tới một ngã tư, Trang lưỡng lự chậm bước lại. Trời đã thôi mưa, nhưng đường đầy nước đọng từng vũng. Thị trấn nhỏ bé và nghèo nàn, những hàng quán hai bên đường thưa thớt người. Anh gấp cái ô lại trao cho cô gái:

    - Nhà Trang về ngã nào?

    Nàng cầm cái ô và nhìn anh.

    - Hay là đêm nay em mời anh về nhà em. Ba mẹ em cũng không sao đâu.

    - Thôi được, cám ơn Trang. Tôi sẽ ghé thăm. Nhưng bây giờ ta tìm anh ấy ở đâu?

    Cô gái chưa trả lời thì một tiếng kêu hớt hãi sau lưng:

    - Chị! Chị Trang!

    Cô giật mình quay lui. Một thanh niên chừng hai mươi hăm hai, dáng cao gầy, lao chiếc xe đạp về phía hai người, chiếc xe lạng quạng rồi dừng lại. Đôi mắt anh mở to nhìn người đàn ông xa lạ đứng bên cô gái, rồi nhìn cô. Trang, sau phút giây bối rối, bước đến bên người thanh niên, một tay vịn vào ghi đông xe, một tay vẫn cầm chiếc ô:

    - Có gì không em? Nàng nói với người thanh niên. Anh Tuyên đâu?

    Người thanh niên lại nhìn người đàn ông đang cố ý nhìn tránh đi nơi khác để cho hai người nói chuyện. Cô gái hiểu ra:

    - À, đây là anh Hoàng.

    Quay về phía anh cô gọi nhỏ:

    - Anh Hoàng, Anh Hoàng, đây là Sơn, em họ em. Nhưng anh Tuyên đâu?

    Người thanh niên tên Sơn dẫn chiếc xe đạp vào lề:

    - Anh Tuyên gởi lời xin lỗi chị, anh ấy không thể lên tàu ở ga chính này được. Em phải chở ảnh bằng xe đạp gần hai chục cây số để đến một ga nhỏ. Ảnh đã lên tàu rồi. Ảnh buồn lắm. Không lên ga này được. Có hai người bạn của ảnh đã bị bắt.

    - Nhưng tại sao? Anh Tuyên có làm gì hả?

    - Em không biết. Ảnh chỉ nhắn xin lỗi chị và nói: “Cậu cố gắng săn sóc Trang, anh đi chưa biết khi nào quay về được”.

    Trang, hai con mắt rơm rớm, nàng nhìn anh, nàng nhìn như cầu cứu, như dò hỏi, đớn đau.

    Anh nhìn Trang, nhìn Sơn, rồi nhìn bầu trời ẩm đục đang tối dần.

    Hình ảnh con tàu đang vút đi trong màn mưa đêm, mang trên mình nó một người khách đang trốn chạy vì bị rượt đuổi, lòng vẫn mang hy vọng trở về. Anh không biết Tuyên là ai, đang đeo đuổi những mục đích gì, nhưng anh vẫn thầm cám ơn những con người ấy, ít ra họ cũng biểu tỏ một thái độ, một nhân cách sống, không đầu hàng. Anh thầm nhủ trong lòng: “Tuyên, anh không đơn độc đâu, trên những chuyến tàu xuôi ngược đó, vẫn còn, vẫn còn những người như anh, tiếc là chúng ta chưa có cơ hội để gặp nhau”.

    Anh đưa tay bắt tay Sơn, nhìn Trang:

    - Như vậy là anh ấy đã lên tàu bình an rồi. Cô đừng lo lắm. Chúc chuyến đi của anh ấy may mắn.

    Trang nhìn anh, hai giọt nước mắt long lanh như hai giọt sương:

    - Em xin lỗi, anh đã vì em mà lỡ chuyến tàu.

    - Đừng bận tâm. Những chuyến đi của chúng tôi chưa dừng lại, còn đi mãi, cho đến một ngày …

    Anh bỏ lững câu nói, nhìn Sơn:

    - Thôi xin tạm biệt. Đừng buồn. Hãy hy vọng.

    Anh vội vã bước đi về phía trung tâm thị trấn. Ánh đèn đường bệnh hoạn hắt xuống hiu hắt. Phố xá vắng hoe. Anh vừa đi vừa quay lại, giơ tay vẫy chào. Chiếc áo mưa màu tím chìm trong ánh sáng mờ mờ. Anh thấy một cánh tay của nàng đưa lên rồi buông thỏng xuống. Nàng vẫn chưa chịu bước đi.

    Anh dừng hẳn lại, lòng dâng lên một mối thương cảm vô bờ. Một làn gió nhẹ lan qua lạnh buốt. Anh định bước về phía nàng. Nhưng Trang đã quay đi, lặng lẽ. Màu tím chiếc áo mưa tối lại như một cái bóng trôi đi trong mưa.

    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Không chốn dung thân

    KHÔNG CHỐN DUNG THÂN

    Truyện ngắn Lê Nam Phương
    (Lê Văn Trung)



    Đôi khi người sống không phải vì muốn sống. Người ta phải sống vì không thể chết được. Thế là phải sống. Cho dù sống chui sống nhủi, sống lăn sống lốc, sống trầy sống trụa, sống hụp lên lặn xuống, sống trôi sống nổi, sống cơ sống cực, sống lang thang lếch thếch. Và cứ phải căng hai con mắt ra mà nhìn cuộc đời, nhìn người và nhìn mình, nhìn thấy cái rách rưới tanh hôi, nhìn thấy cái bọt bèo rác rến, nhìn thấy cái lọc lừa xảo quyệt, nhìn thấy đình chùa miếu mảo đầy các ông sư bà vải, tấp nập thiện nam tín nữ xì xụp lạy xin cái lợi cái danh, nhìn thấy ông Chúa ông Phật được sơn son thếp vàng để chở che giùm lắm cái nổi cái chìm nằm trong cái bụng to hơn cái đầu, nhìn thấy phố xá đông vui phố phường tấp nập bên ngoài khu ổ chuột, và nhìn thấy các em cởi truồng đi ngang về dọc khắp chốn khắp nơi để minh chứng cho một xã hội công bằng dân chủ văn minh…và để nhìn thấy lắm kẻ không thể nuốt nổi một bữa điểm tâm trị giá gần cả trăm ngàn đồng bên cạnh những con người không mua nổi ổ bánh mì lót dạ để có sức đạp chiếc xích lô.

    Dĩ nhiên là phải nhìn tất cả, bởi vì còn sống nhăn ra đấy cho dù không đủ cháo đủ rau để lấp đầy cái dạ dày, cho dù tấm vải rách không che đủ ấm cho xương da. Không thể nhắm mắt bịt tai, nên phải thấy phải nghe. Nghe cuộc đời chảy lạo xạo trong đầu một dòng sông đục ngầu đầy xác người và xác súc vật, đầy cứt đáy bọ sâu…. Nghe cuộc đời chảy trong đầu những cơn bão tố thổi sập cả căn nhà đạo lý, thổi bay cả cột kèo chống đỡ bao ngàn năm, thổi bay cả tấm lòng con người, chỉ còn trơ lại đất đá gạch vụn ngổn ngang lúc nhúc một bầy cơ hội…

    Muốn chết cũng không được, nên phải sống, và sống là phải nhìn phải nghe như thế, cho dù vào cái ngày đen tối nhất của lịch sử đời mình ông đã phải quyết định từ bỏ cái xã hội này mà vào sâu trong rừng. Sống với rừng với núi với khe với suối. Sống với chim với chóc với cỏ cây. Ông dắt díu vợ con, gánh gồng linh tinh nào áo rách quần vá, thau bể chậu hư, vào rừng. Chỉ có rừng núi hoang vu. Vợ ông dù không muốn vẫn phải nghe lời chồng. Chị cam đành làm theo quyết định của chồng nhưng chị không khỏi ngậm ngùi mỗi lần nhìn mình trong gương. Người phụ nữ nhan sắc một thời nay đã đành bỏ lại quảng đời thanh xuân đằng sau bức mành lịch sử. Đôi lúc một mình trong suối, chị trút bỏ hết quần áo, đầm mình trong dòng nước mát, chợt những rạo rực xưa cũ trở về làm xao xuyến trong lòng và làm hai bầu vú chị trắng như hoa quỳnh căng cứng lên. Hai giọt nước mắt ứa ra trôi xuống như một số phận đã buông trôi.

    Mấy đứa con chị còn quá nhỏ, chúng chẳng có một ý niệm gì về cuộc đổi thay. Đối với chúng bỏ phố phường vào rừng chỉ là một cuộc dã ngoại, một chuyến du lịch vài ngày. Chúng tha hồ đuổi theo những con bướm màu sặc sỡ, hái những chùm bông dại ngát hương. Nhất là được lội trong suối, những con cá, những con cua đá, những viên cuội đủ màu. Chúng luôn nằm mơ những cảnh thần tiên và chúng cười vang trong mơ.

    Ông thì luôn im lặng. Một mình lầm lũi chặt cây cắt tranh. Một tháng tránh mưa tránh nắng trong mấy tấm bạt, giờ thì cả nhà đã có một cái lều sàn nho nhỏ. Và đêm, ánh lửa chập chờn, than củi nổ tí tách, cả nhà ngồi quanh một nồi khoai mì, một rổ rau rừng, một bát nước muối. Đói, cái gì ăn cũng ngon. Lũ trẻ ăn no lăn ra trên sạp tre ngủ, mơ thấy suối lớn thành sông, thấy chiếc thuyền lá thành chiếc thuyền nan, cứ thế chúng đi vào giấc ngủ say, đưa cái lưng trần cháy nắng cho muỗi đốt.

    Hai vợ chồng ngồi nhìn nhau, thở dài, rồi nhìn ra bầu trời rừng đêm, nghe gió lao xao, tiếng lá rụng và tiếng côn trùng nỉ non.

    Ông tin rằng mình sẽ sống được. Núi rừng sẽ không phụ ông đâu. Cứ chỗ nào có một khoảng đất trống là ông trồng mì, trồng khoai….Ông về dưới chợ cũ mua hạt bí hạt bầu. Chắc chắn sẽ sống được. Không có gì phải âu lo. Lo là lo cho lũ nhỏ không kiếm đâu ra mấy chữ để biết thế nào là con người. Chắc ông phải vừa làm bố vừa làm thầy. Nhìn vai trò thầy giáo lúc này ông cũng buồn.

    Ông đã từng chứng kiến lũ học trò đánh Thầy. Ông cảm thấy bị xúc phạm và đau lòng, cho dù suy cho cùng người thầy giáo bây giờ không còn đứng cái vị trí bao nhiêu năm về trước. Phần đông họ đến lớp không phải vì tương lai của lũ trẻ, họ đi dạy dù chỉ nhận mấy đồng lương chết đói, còn hơn bán mặt cho đất bán lưng cho trời ngoài đồng ruộng, chỉ để được trả cho mấy cân thóc lép không đủ nghiền ra nấu cháo. Ông biết họ cũng cảm thấy hổ thẹn. Nhưng họ không làm khác được. Thôi thì dù có buồn cũng đừng trách họ làm chi.

    Ông ngồi im lặng nghĩ lan man đủ thứ chuyện. Ngày mai phải đi chặt mấy cái măng tre rừng mà chiều qua ông đã để ý thấy, đem xuống chợ cũng đổi được mấy chai nước tương. Lòng buồn rười rượi nhưng ông vẫn mỉm cười. Chị nhìn ông thấy lạ hỏi:

    - Có gì thích trong bụng mà cười vậy?

    Ông không trả lời, chỉ nhìn chị. Lửa nóng làm mặt chị đỏ ửng lên và đôi mắt long lanh. Chị sà đến bên ông, nắm tay anh đặt lên bầu vú đang căng dưới lớp vải mỏng, rồi kéo ông ngã xuống sàn. Ông nói nhỏ:

    - Nhè nhẹ, lũ nhóc dậy bây giờ.

    ***

    Tưởng chừng cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi, cho dù phải vật lộn với bao nổi gian nan vất vả, sên vắt muỗi rừng, gió chướng mưa ngàn, trầy vi tróc vải mới có được củ khoai củ mì, bụi chuối luống rau. Cho dù phải đôi khi ngậm ngùi nhìn quảng đời đã qua, bước cuộc đời trước mặt, lại muốn nhảy từ trên vực cao.

    Nhưng chết để được gì? Dĩ nhiên sống cũng chẳng làm gì, nhưng ai mà không hy vọng. Nuôi chút hy vọng mong manh nhưng vẫn là hy vọng. Và vẫn còn hy vọng thì cớ gì phải chết! Cho nên con người sống, sống vì biết bao cái tưởng chừng. Và tưởng chừng đã về với núi rừng hoang vắng để tránh xa cái thế giới mà ông cảm thấy ói mửa, kinh hoàng và lo sợ. Tưởng chừng!

    Rồi một hôm ông thấy, không biết từ đâu tới từng nhóm người, cũng nhếch nhác rách rưới như ông ngày nào, cũng gánh gồng nào nồi niêu soong chảo, trẻ có già có, nheo nheo nhóc nhóc, chó gà heo qué lào xào lục xục kéo về dưới khu rừng, chặt tre chặt gỗ dựng lều, mỗi ngày một nhóm mang theo cái ồn ào hổ lốn từ phương nào tới. Lại lọt vào tai ông tiếng chửi thề văng tục, tiếng hát eo éo phát ra suốt ngày từ những chiếc máy transistor họ mang theo. Khu rừng trở nên ồn ả.

    Ông nhìn cơ ngơi mình vừa đổ mồ hôi dựng nên, chẳng lẻ lại đi nữa. Tiến sâu vào rừng hay lên tận những rẻo cao. Ông mong rằng họ, những người không mời mà đến ấy, cũng như ông, không hít nổi cái khí độc của nền văn minh suy đồi, không hít thở nổi cái hơi hám giả dối tanh hôi của cả một hệ thống quyền lực đè lên lớp dân đen chưa kịp thoát ra khỏi các thế lực phong kiến thực dân.

    Nhưng ông thất vọng. Họ chẳng có gì giống ông. Họ bỏ quê hương bản làng vào đây chỉ vì cái bao tử. Họ hàng đoàn lủ lượt ra đi vì đói, vì rách. Mảnh đất ít ỏi nơi họ ở không đủ nuôi sống họ, không đủ thỏa mãn những nhu cầu càng ngày càng nhiều của một đời sống duy vật chất. Họ không quan tâm tới lịch sử, không màn đến báo chí sách vở. Nhân quyền nhân phẩm không đáng quan tâm. Họ đến đây vì cái bao tử nên họ bỏ lại đằng sau lưng những nhu cầu khác.

    Họ tự phương nào tới?
    Ông tự phương nào tới?
    Vì đâu?
    Nhà cửa quê hương bản làng họ thế nào?
    Còn ông?
    Vì sao lại bỏ đi?
    Đất nước này của ai?
    Quê hương là chốn nào?
    Từ đường hương hỏa còn không?
    Ai là người thờ phụng tổ tiên?

    Thôi hỏi để làm gì! Trả lời để làm gì! Tất cả chỉ còn là cuộc rượt đuổi, cuộc chạy trốn. Kẻ thù ta và anh em ta. Chạy trốn anh em và chạy trốn luôn bản thân mình. Cuộc trốn chạy tưởng chừng không dứt mà con đường trước mặt thì hình như đã nghẽn lối.

    Ông đang đi về cái thời khắc giờ thứ hai mươi lăm.

    ***

    Những cư dân mới đến đã khuấy động cái yên tĩnh của núi rừng. Tiếng đốn gỗ chặt tre, cây cối ngã ào ào. Tiếng người gọi nhau í ới, tiếng trẻ con la khóc ầm ỉ lẫn trong tiếng gà lợn. Khu rừng bỗng chốc trống hoác để lộ một khoảng trời cao mây mù đọng từng khối đục bay nặng nề.

    Ông nhìn vào cái khối mây đùng đục nặng nề đó như nhìn vào cái địa ngục tối đen, nơi đó ông từng ngày đêm vật lộn với ma quỷ. Ông nói với chị:

    - Chắc ta phải vào sâu trong rừng nữa mẹ nó ạ. Tôi không thể căng tai ra mà nghe tiếng tru tréo của mấy cái loa phóng thanh và cũng không chịu nổi cái đám người hổn tạp này nữa.

    Chị âu sầu nhìn ông:

    - Không đi đâu mà thoát được. Ông định biến mấy đứa nhỏ thành người rừng cả sao?

    - Thành người rừng thì đã sao nào?

    Ông nghĩ, con người sẽ trở về cái thuở nguyên sơ ban đầu, dĩ nhiên là không phải ăn lông ở lổ, nhưng là gần gũi với thiên nhiên, con người sống trong lòng thiên nhiên, không làm vẫn đục bầu trời, không đốt sạch núi rừng, không vét cạn kiệt mầm sống của thiên nhiên. Bởi thế mà từ khi vào đây, dù thiếu thốn trăm bề, ông vẫn dành dụm từng đồng để mua từng cây thông con, cọc cạch chở trên chiếc xe đạp cà tang, ì ạch đẩy lên đồi qua những con đường mòn đất đỏ lầy lội trơn nhẫy. Mua từng cây. Trồng từng cây. Chăm bón từng cây. Da ông thì xanh xao vàng vọt. Da chị thì bạc thếch. Da mấy đứa nhỏ thì vàng óng. Tóc ông đã lốm đốm bạc. Chị thường trùm khăn kín đầu vì mấy cọng tóc oan nghiệt cứ trắng dần ra. Nhưng ngọn đồi thì xanh thắm. Thông càng xanh thì nỗi lo của ông càng lớn. Đã lắm phen phải đối mặt với hiểm nguy để bảo vệ đồi thông, sứt đầu vỡ trán, có lần phải nằm cấp cứu. Một mình ông trồng nhưng có lắm kẻ đến đốn phá. Và cái biệt danh “lão già điên trồng rừng” đã đến với ông lúc nào không biết. Ngoài vài anh nhà báo ở tận xứ mặt trời mọc đến thăm anh và làm vài cái phóng sự về ông với sự quý trọng ông là một nhà trí thức, một nhà văn, và hơn nữa là thái độ ông trước lịch sử, còn có vài đài truyền hình địa phương đến làm phóng sự tôn vinh ông là một người có công trong việc trồng cây gây rừng! Họ chả cần quan tâm ông là ai, đơn giản là một lão nông dân trồng rừng, đối với họ, cái tri thức, cái chức năng văn học của ông là đồ bỏ, là mối hiểm nguy. Nhưng ông chả quan tâm. Việc ông, ông cứ làm, và ông viết rất hăng say. Có điều, tất cả những gì ông viết ra cho hết vào một cái ba lô nhà binh, đi đâu cũng mang theo, bất khả ly thân. Chẳng ai đọc được. Không phổ biến ở bất cứ đâu. Không biết trước khi từ giã cõi đời này, ông có cho công bố những tác phẩm của ông không.

    ***

    Thôi thì ở không được, phải đi. Trời sinh ông ra ban cho ông cái tính khó hòa nhập với thế giới mà ông cảm thấy xa lạ lạc loài, thậm chí ông còn cảm thấy cái thế giới đó quá cay độc. Ông không chấp nhận, và cũng chẳng được chấp nhận.

    Một buổi sớm, sương còn nặng hạt, khí đã lạnh buốt da, ánh sáng vẫn xóa được cái âm u của núi rừng. Một mo cơm độn, một bi đông nước, một cái rựa, ông vào rừng, quyết tâm đi tìm một mảnh đất dung thân, chạy trốn cái thế giới đã đuổi mãi sau lưng ông, chạy trốn cái không khí nồng nặc của thời đại, chạy trốn lòng thù hận mù quáng và tình yêu giả tạo… Ôi không biết bao cái, theo ông, không chịu đựng nổi, đang từng giây từng phút làm ung vữa trí óc.

    Co ro trong manh áo không đủ ấm, chị đứng nhìn theo bóng ông nghiêng ngả trong sương lạnh. Chị nói vói theo cái bóng ông đã dần khuất dưới bóng rừng:

    - Ông đi cẩn thận, nhớ về sớm, đừng để tối quá lạc trong núi.

    Hình như ông cũng không nghe. Chị lâm râm cầu nguyện.

    Tiếng gà rừng lẻ loi đâu đó vẳng tới, tiếng chó sủa vu vơ nơi xóm những người mới đến. Người đàn bà một thời hương sắc chợt thấy lòng mang mang một nỗi hoài nhớ xa xôi. Chị nhớ đến ngôi biệt thự nho nhỏ xinh xắn nằm dưới những tàng cây im bóng trong khuôn viên trường Nông Lâm Súc ở một thị trấn cao nguyên bốn mùa xanh thắm, những triền hoa dã quỳ vàng tận những dòng suối trong vắt. Chị, người con gái bấy giờ, như một đóa hồng rực lửa giữa một thảm hoa vàng và tình yêu như ánh mặt trời hừng hực thiêu đốt da thịt làm bật ra những âm thanh vừa rộn rã vừa lắng buồn.

    Cơn mơ màng chợt tắt khi mấy đứa nhỏ thức dậy gọi mẹ. Chị trở vào lều và tới bếp đun thêm mấy que củi, chuẩn bị bữa ăn sáng cho con.

    Bên xóm xa, đã nghe tiếng người gọi nhau í ới, tiếng máy hát khẹt khè và tiếng loa phóng thanh thông báo quyết định thành lập đơn vị hành chánh mới, chưa có tên chính xác, cứ tạm gọi là Xóm Mới. Chị thở dài đánh thượt một cái:

    - Không biết rồi có yên ổn không.

    Cũng chẳng hiểu cái nghĩa “yên ổn” của chị là sao nhưng rõ ràng là chị nghĩ thế nào cũng có một cuộc bỏ chạy nữa, bởi chị biết quá rõ tính khí của chồng. Đôi lúc chị nghĩ thôi thì cứ sống đại chỗ nào cũng được, cứ che mắt bịt tai mà sống. Cuộc đời ngắn ngủi quá mà cứ chạy mãi thế này thì làm sao gầy dựng được chút gì cho lũ nhỏ. Thằng Tí Anh mười tuổi rồi mà lỏm bỏm không hết hai mươi bốn chữ cái, còn Tí Em thì suốt ngày chỉ đọc được mỗi chữ “đờ-đờ-i-đi”. Chắc chắn nó chẳng có ý niệm gì về việc đi hay ở, nhưng với chị, chỉ mỗi cái chữ “đi” mà thằng nhỏ bập bẹ suốt ngày đó như một điềm báo chẳng khi nào dừng chân được.

    Ba mẹ con đang ngồi nhai mấy củ khoai thì một người đàn ông lạ xuất hiện đột ngột như một bóng ma ngay tấm liếp che mưa tạt trước lều. Không đợi mời, hắn bước xộc vào nhà, hắn hỏi:

    - Ông già người rừng đâu rồi?

    Chị ngơ ngác (?)

    - Ông chồng chị đó, đâu rồi?

    - Ừ, ổng vào núi rồi. Nhưng anh hỏi ổng có chuyện gì không?

    Hắn chìa ra trước mặt chị một tờ giấy lắm lem bùn đất và ướt nước mưa:

    - Đây, có tấm giấy gọi ổng, mai 8 giờ về dưới xã trình diện.

    Không biết lành dữ ra sao, chị nghe mấy từ “có giấy gọi” là chị đã run rẩy tay chân rồi, bởi sống trong cái thời buổi mà muôn vàn đố kỵ, hoài nghi bao phủ như mây đen xuống từng số phận con người ở xứ sở này, khiến ai cũng thấp thỏm lo âu không biết giờ nào bất chợt tai ương ập đến.

    Hắn đưa mảnh giấy cho chị rồi quày quả bước ra cũng nhanh như khi hắn bước vào, thoáng cái hắn đã khuất xa nơi lối mòn cây cối rậm rạp.

    Chị cầm mảnh giấy trên tay thẩn thờ nhìn hai đứa con đang ngồi im lặng bên rổ khoai luộc.

    ***

    Mặt trời chưa khuất núi mà bóng rừng đã âm u như thể chút ánh sáng vàng vọt sau cùng của mặt trời không đủ sức giằng co với bóng chiều đang phủ xuống. Cảnh vật trở nên thê lương vì cái lạnh buốt của núi rừng.

    Cả ngày cứ vào ra thơ thẩn với tấm giấy chị cẩn thận nhét vào lưng quần, chị có cảm tưởng như mình đang mang cái tai họa mà chẳng dám vứt bỏ nó đi. Phần thì cứ nao nao lo cho ông, không biết ông đi những đâu mà giờ này chẳng thấy tăm hơi.

    Chị hết đứng lại ngồi, mắt dán chặt vào con đường mòn dẫn vào rừng sâu, gió lay động cành cây xa xa cũng làm chị thót người chồm về phía trước, tiếng động rất nhẹ của những cành cây khô bị gãy cũng làm chị tưởng bước chân ông.

    Nhưng màn đêm cứ dần dần buông xuống, nhẹ nhàng, thầm lặng và u uất như chẳng để cho bất cứ ai, bất cứ hiện tượng gì, bất cứ quyền phép gì có thể xua đuổi được bóng tối, như thể bây giờ và mãi mãi nghìn sau, đêm tối sẽ chế ngự thế gian này.

    Và cái đêm tối đó, không phải cho đến giờ phút này, mà đã từ bao năm nay đã vây chụp xuống đời ông rồi.

    Đêm cứ dằng dặc trôi qua, lòng chị nặng nề chùng xuống như chìm lắng tận đáy cơn giông bão. Chị không tin đấng thiêng liêng nào có thể ban ơn lành, nhưng chị cứ lâm râm cầu nguyện rồi chìm vào giấc mê mộng mị. Chị thấy ông thất thểu trở về máu me đầy người, máu chảy xuống từng dòng trên lối ông đi, chị ôm choàng lấy ông và những giọt máu sau cùng trong ông lấp đầy hai hốc mắt chị làm chị ú ớ thét vang và bừng tỉnh rã rượi,

    Bên ngoài vẫn một màu đen của đêm thâu.

    ***

    Sáng hôm sau ông vẫn chưa trở về. Chị bắt đầu nghĩ tới những tai ương đổ xuống đời ông sẽ kéo theo những hoạn nạn đời chị, đời hai đứa nhỏ. Chị nhớ đến cơn mộng dữ đêm qua. Chắc chắn đó là một điềm báo chẳng lành. Nhìn hai đứa con ôm nhau ngủ say, không nén được nỗi đau ùa đến xé lòng, hai dòng nước mắt chị ứa ra quặn thắt. Tưởng cứ lâm râm cầu nguyện là ông sẽ trở về, cho dù trở về thương tích đầy mình, nhưng còn được trở về là may mắn lắm rồi.

    Nhưng lời cầu nguyện có lẽ chưa được chấp nhận, vì cho đến giờ này, quá nửa ngày trôi qua rồi mà trời đất thì đang đe dọa một cơn giông bão sắp tới. Chỉ mới quá trưa mà trời đã tối sầm lại, mây đen nặng như chì phủ thấp xuống khu rừng, gió bắt đầu dập từng hồi, cây cối ngả nghiêng, mái lều bị giật từng cơn run rẫy, Trời ầm ầm giông, sấm chớp xẹt lửa ngang dọc. Chị hét hai đứa nhỏ:

    - Ngồi im trên giường, đừng có mà chạy lung tung.

    Hai đứa nhỏ chẳng nghe được mẹ nói gì, nhưng mặt mày đứa nào cũng tái xanh, ngồi ôm nhau co ro một góc giường.

    Hình như gió không phải từ một hướng, những luồn gió giao nhau giận dữ tạo nên những vòng xoáy sát mặt đất rồi bốc cao lên, cây cối hay bất cứ cái gì nằm trong tâm xoáy đó đều bị nhổ tung, bốc lên cao rồi đổ nhào xuống. Căn lều như nhờ một phép lạ dẫu đu đưa lắt lư nhưng chưa bị nhổ đi. Cả một đồi thông nằm chổng chơ nghiêng ngả trông thảm hại.

    Rồi nước từ trời cao ào ào đổ xuống, không thể gọi đó là cơn mưa, đó là thác nước từ trời, nước từ một cái biển bao la treo trên cao tràn xuống, không biết cơ man đâu là nước. Nước chảy thành suối, nước chảy thành sông, không thấy đâu là bờ bến. Và bây giờ là biển nước mênh mông đục ngầu dập duềnh cây gỗ rác rều… Nước tràn vào lều. Nước dâng ngập giường, mùng mền, áo quần, nồi niêu nổi bập bềnh. Chị một tay bồng thằng Tí Em, trên lưng cõng thằng Tí Anh, đứng trên giường. Nước vẫn dâng lên dù cơn mưa hình như có giảm. Nước vẫn ầm ầm đổ về. Càng lúc càng dữ dội. Nhấn chìm tất cả.

    Hình như không còn khóc được, chị ngước mắt nhìn lên cao. Có gì ở trên cao đó không?

    Đột nhiên cả một bờ núi đổ nhào xuống, đất đá cây cối đổ nhào theo với đà sụt lở dữ dội, trong chốc lát, hình như căn lều đã biến mất, và cả cái Xóm Mới cũng vùi sâu dưới lớp đất đá. Và dĩ nhiên chỉ còn trông thấy một vài cành thông cố vươn lên hụt hẩng giữa cái hoang tàn ghê rợn của cuộc tàn phá kinh hoàng.

    ***

    Có lẽ, nếu người đàn ông đã chết trong rừng thì mãi mãi muôn đời sau không ai biết dưới khu rừng này đã từng có một cái xóm mang tên Xóm Mới.

    Ông thất lạc trong rừng hai ngày, ăn lá cây, uống nước suối đục ngầu, đêm co ro trong hốc đá. Hai ngày trôi qua với cơn bão quét kinh hoàng, ông tưởng mình sẽ chết. Tuy nhiên ông vẫn hy vọng vợ con bình yên.

    Ngày hôm sau trở về, không tin mình đúng hướng, không tin mình về đúng cái nơi mình vừa từ đó ra đi cách mới có hai ngày. Vừa ra khỏi núi, một quang cảnh lạ lùng trước mặt, cả một vùng đất đá và nước đỏ ngầu mênh mông, chẳng còn nhận ra chỗ nào. Oái oăm thay, ông không thấy ghê rợn trước sức tàn phá hủy diệt của đất trời mà ông thấy trước mặt mình một cảnh rực ngời hùng tráng của cái chết.

    Chẳng còn nhận ra chỗ nào.
    Ông nghĩ mình đã nhầm.
    Ông mong mình đã nhầm.
    Nhưng ông đâu có nhầm, phải không?
    À, thì ra ông trời cũng không để cho ông còn một chốn để dung thân.

    VN, 1980
    Lê Nam Phương (thi sĩ Lê Văn Trung)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Những xác chết cụt đầu

    NHỮNG XÁC CHẾT CỤT ĐẦU

    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)



    Tôi vừa qua cầu thì chạm mặt nàng.
    Nàng đứng đấy như một pho tượng.
    Mắt hướng về phương Đông.
    Và cũng như mọi lần,
    Nàng trần truồng không một chiếc lá nho.
    Da thịt trắng như sữa
    Và bầu vú căng đầy.
    Không bao giờ nàng nhìn tôi.
    Không bao giờ nàng nhìn ai.
    Nàng nhìn về phương Đông.
    Nhưng nàng biết tôi đang đến cạnh nàng.

    Nàng nói:

    - Ông hãy quay về đi. Phía trước là hố thẳm.

    Tôi búng mẫu tàn thuốc xuống dòng sông. Nàng nói:

    - Lửa đã tắt.

    Tôi thấy dòng sông rất đen và chảy nặng nề. Có tiếng chuông từ bên dòng Chúa cứu thế. Nàng hát thầm trong miệng bài Thánh ca nói về bữa tiệc ly. Những người qua lại trên cầu không nhìn nàng. Bởi vì nàng trần truồng. Chắc nàng ngạc nhiên vì sao con người vốn trần truồng mà không trần truồng. Ấy là tôi nghĩ thế. Nàng không hề thắc mắc vì sao? Thế nào?

    Tôi bỗng nhớ đến nàng Remediot. Nàng trần truồng trinh bạch.

    Tôi đứng cạnh nàng và cũng không nhìn nàng. Tôi nhìn về phương Đông. Có một chòm mây màu vàng giữa một nền xanh màu thiên thanh. Tôi nghĩ nơi đó là biển. Nàng nghĩ nơi đấy là hư không. Tôi thấy nàng hiện hữu. Nhưng nàng thấy nàng đang là hư không. Tôi không biết nói gì với nàng. Có tiếng ai đó hát dưới chân cầu. Nàng bảo đó là tiếng sóng ngầm trong lòng sông.

    Tôi định bỏ đi nhưng nàng cũng không có ý giữ tôi ở lại. Nàng bảo tôi quay về. Trước mặt là hố thẳm. Không xoay về phía tôi, nàng bảo:

    - Ông còn viên đạn nào không?

    - Tôi còn một viên đạn cuối cùng.

    - Hãy bắn vào nỗi cô đơn của loài người.

    Tôi thấy nàng chảy nước mắt và tôi không đành bỏ đi.
    Có một người nào đó mang tấm vải màu trắng đến choàng lên người nàng. Nàng không có phản ứng gì. Mắt vẫn đăm đắm nhìn về phương Đông có giải mây vàng trên nền da trời xanh. Tôi thấy nàng đẹp như Đức Mẹ Đồng Trinh.

    Người mang tấm vải đến là một thiếu nữ rất trẻ và cũng đẹp như nàng. Cô gái nói với tôi.

    - Chị ấy bị rối loạn thần kinh ông ạ từ đêm chị ấy cõng cái xác cụt đầu đã chương sình của anh ấy về từ trong rừng.

    Tôi nói với cô gái.

    - Tôi biết rồi. Tôi đã nghe chuyện đó rồi.

    Nhưng cô gái vẫn tiếp.

    - Chị ôm cái xác không đầu đó không cho ai chạm vào. Đến ngày thứ ba thì chị loạn thần. Và hơn tháng nay đúng vào giờ này, ngày nào cũng vậy, chị ở đây, đứng im như một pho tượng.

    Không quay về phía tôi, nàng lên tiếng:

    - Này ông, ông chưa về sao? Ông có nghe em gái tôi vừa hát? Khúc bi thương của loài người. Khúc hát về nỗi cô đơn.

    Cô gái nắm tay nàng lay nhẹ.

    - Chị ơi, về thôi chị.

    Nàng nói:

    - Về thôi. Ông có nghe không?

    Con người luôn luôn phải quay về. Về đúng cái nơi hắn là. Nguyên vẹn của ban đầu. Không phải về nơi hắn đang là. Trước đây tôi không hề biết nàng là ai. Nhưng những chuyện về một người phụ nữ điên trong thành phố tôi được nghe nhiều người kể lại. Mỗi người một mẫu. Như một huyền thoại. Nàng là một người đẹp có giọng hát hay từ khi còn học ở Jean D’art. Hình ảnh đó vẫn còn lưu mãi trong bốn năm nàng ngồi ở giảng đường. Sau này nàng còn hút thuốc lá và uống rượu. Và nàng thường bật khóc nức nở trong cơn say rất tỉnh táo. Nhiều người đàn ông đeo đuổi nàng. Nhưng nàng chọn sự cô đơn.

    - Ông còn đó không?

    Nàng lập lại.

    - Tôi đang đứng đây.

    Tôi trả lời.

    - Ông không thể đứng đấy mãi mà không mất đi được. Ông sẽ mất đi. Anh ấy cũng mất đi.


    Nàng nói nàng ghét các triết gia nhưng nàng yêu Đức Phật và Jesus. Nàng là một người điên dễ thương nhất mà tôi gặp.

    Vào giai đoạn phát triển cực độ nền văn minh vật chất và công nghệ chiến tranh có rất nhiều người điên trên hành tinh chúng ta.

    “Về gặp gỡ máu tim anh một lúc
    Rồi anh điên như từng đã điên rồi” *

    Mỗi người điên một vẻ. Khó có thể thâm nhập vào thế giới điên của từng con người. Không thể hiểu hết họ. Trừ khi, rồi có một ngày mình cũng phát cơn cuồng điên.

    - Ông còn đó không?

    Nàng lại hỏi.

    Tôi không hề nghĩ nàng điên. Nàng ăn nói rất chuẩn và tỉnh táo, dẫn dắt tôi vào những bí ẩn kỳ lạ. Tôi bị nàng cuốn hút không những với sắc đẹp não nùng mà còn vì những điều nàng nói đầy tính ẩn dụ và nhất là đôi mắt nàng đăm đắm nhìn về một phương.

    Tôi nói với người thiếu nữ:

    - Cô đưa nàng về đi.

    Nhưng nàng bỗng nhiên quay ngoắt về phía tôi:

    - Ông hôn em đi. Anh hôn em đi Thụy ơi.

    Rồi bỗng nàng cười vang. Tiếng cười dội xuống dòng sông và nước mắt nàng ràng rụa. Cô gái nắm tay nàng kéo đi.

    - Về thôi chị ơi.

    Nhưng nàng vùng ra bỏ chạy rất nhanh vào hướng cổng vào thành nội. Tôi bỗng nghe một tiếng rú kinh hoàng và tiếng xe thắng gấp rít lên phía bên kia đường.

    ***

    Hôm sau tôi ôm một đóa hoa hồng đến thăm nàng nơi bệnh viện. Gian phòng trắng lạnh thoảng mùi ete và mùi xà phòng. Nàng nằm ngủ như một nữ thánh. Da trắng bệch. Một vết máu loang đỏ trên tấm băng quấn quanh trán nàng. Cô gái không có ở đó.

    Tôi đặt bó hoa lên đầu giường, định quay đi nhưng nàng mở mắt nhìn tôi rất dịu dàng.

    - Ông đấy à. Ồ hoa đẹp quá!

    Nàng định cầm bó hoa nhưng không cử động được. Nàng nhờ tôi cắm hoa vào chiếc bình đặt trên table de nuit và nàng nói cám ơn.

    Tôi quay lại định nói với nàng vài câu thì nàng đã nhắm mắt chìm vào cơn mõi mệt. Tôi ngồi nơi chiếc ghế đặt ở cuối giường ngắm nhìn nàng. Trông nàng thật đẹp và tội nghiệp.

    Một tay nàng duổi thẳng và một tay đặt lên ngực. Những ngón tay thon, trắng muốt, nổi những đường gân li ti xanh.

    Tôi nghĩ đến Thụy, người đàn ông của nàng … Tôi không biết anh là ai và vì đâu phải nhận cái chết bi thảm như vậy. Mặc dù, đôi khi, tôi nghĩ, thắc mắc về nguyên nhân cái chết của một người thật vô cùng ngớ ngẩn và thừa thải. Thế giới loài người là một thế giới đầy dẫy cái phi lý, không giải thích vì sao được.

    Và cái chết của con người là một ẩn số chứa đầy cái phi lý đó.

    Chúng ta hoài nghi và chúng ta đi tìm một sự giải thích, nhưng tất cả những giải thích của chúng ta đều đưa đến phi lý như một tảng đá oan nghiệt đè mãi lên kiếp người.

    Tôi nghe nói Thụy là một nhà phân tâm học. Khác với nàng, anh yêu các triết gia và nghiên cứu tất cả các học thuyết. Và anh bị chặt đầu vì anh là trí thức. Phải chặt bỏ cái đầu chứa quá nhiều tư tưởng của anh. Và anh chết vì một nguyên nhân vô cùng phi lý.

    Nàng chợt mở mắt nhìn tôi và bảo tôi lấy cho nàng tách nước.

    Tôi rót nước và đỡ nàng ngồi tựa đầu vào chiếc ghế cao sau lưng. Tôi đưa ly nước. Tay nàng yếu quá không đỡ được. Tôi đưa lên miệng nàng. Đôi môi đỏ nhợt. Nàng uống từng ngụm nhỏ. Tôi cảm nhận hơi thở nàng thoáng mùi ngai ngái của rong biển.

    - Người ta bảo em điên ông ạ.

    Nàng nói nhỏ qua hơi thở.

    - Nhưng em thấy em rất tỉnh táo. Người điên là người mất trí phải không ông? Nhưng đầu óc em rất bình an mà. Em còn nhớ hôm qua ông đến thăm em khi em đứng ở nghĩa địa đầy những thây người chưa ai chôn cất.

    Tôi định nhắc nàng hôm qua tôi gặp nàng ở bên cầu lúc mặt trời đang lên có một giải mây vàng và nền trời xanh. Nhưng không hiểu sao tôi lại bảo nàng:

    - Vâng, hôm qua, đúng là thế.

    - Ông đi xem từng thây người, ông bảo xem có ai quen không, nhưng ông tìm không ra vì tất cả đều bị chặt đầu.


    - Vâng, không ai còn cái đầu.

    Tôi biết nàng đã bị ám ảnh một thảm cảnh kinh hoàng. Có thể nàng đã cõng cái xác cụt đầu chương sình nào đó trong đống xác người ở một góc rừng và nghĩ đó là Thụy. Cho đến bây giờ nỗi kinh hoàng đó vẫn đè nặng tâm trí nàng không thể nào thoát ra được.

    - Tôi đỡ cô nằm xuống nhé?

    Tôi nói với nàng mong dẫn nàng ra khỏi cơn mê sảng. Nàng ngoan ngoãn tựa đầu vào tay tôi. Tôi kéo chăn lên đắp ngang ngực nàng và cuối xuống hôn lên dải băng trên trán nàng. Nàng nhắm mắt lại. Không rõ nàng có ngủ không.

    Tôi đứng lên, không định bỏ đi vì không nỡ để nàng nằm một mình. Nhưng cánh cửa phòng xịch mở. Cô gái, em nàng, đứng đấy với một cái làn đựng thức ăn trên tay. Tôi nhìn đồng hồ: Đã mười giờ. Cô gái bước vào:

    - Chào ông. Ồ hoa đẹp quá, cám ơn ông.

    Tôi nói với cô gái tôi phải đi đây. Cô nắm tay tôi ấn xuống ghế.

    - Không. Ông ở lại đây với em. Ở lại đây với chúng em.

    Cô gái nhìn tôi thật lâu rồi nói:

    - Hình như từ khi gặp ông, chị em tỉnh hơn. Em cảm ơn ông vô cùng.

    Tôi nói với cô gái là cô không cần cảm ơn tôi vì sự xuất hiện của nàng trong cơn điên ấy đã gõ vào trái tim tôi những tiếng vọng của quá khứ, cái quá khứ bi thương mà anh em tôi đã hứng chịu, cái quá khứ bi thương bị che đậy bởi những học thuyết, những lừa lọc, những âm mưu. Cái quá khứ mà ở đó anh em tôi đã bị ma thuật quỉ ám che đậy dưới đủ thứ màu sắc tự do trá hình.

    Nàng đã khiến tôi nhớ lại và xin nhắc tất cả hãy đừng quên. Đừng quên như kẻ đang dọ dẫm trong đêm tối nhớ rằng phía trước mặt trên con đường đi tới phải băng qua vực thẳm.

    Nàng đã nói:

    - Ông hãy quay về đi. Phía trước là hố thẳm.

    Trên những con đường tôi đã đi qua trong ba mươi năm đời mình tôi luôn phải băng qua những vực thẳm. Có lắm khi tưởng chừng không vượt nổi. Định mệnh khắc nghiệt của mỗi phận người gắn liền với định mệnh khắc nghiệt của lịch sử.

    Lịch sử của một bộ tộc. Lịch sử của một quốc gia. Lịch sử của loài người. Cho nên hố thẳm anh phải rơi vào là hố thẳm của nhiều người khác cùng bị dìm vào. Vì thế mà cùng một thời điểm có nhiều người chết cụt đầu. Cùng một giai đoạn có nhiều người bỏ xác trên rừng, nhiều người cùng nổi trôi trên biển. Cùng một thòi kỳ nhiều người cùng ở tù. Và cùng một thời kỳ rất nhiều người vong xứ.

    Nàng thường nói: “Ông hãy quay về đi. Phía trước là hố thẳm”.

    Tôi định nói với nàng là chúng ta quay về đâu được bởi vì chúng ta đang nằm trong cái hố thẳm vô hình. Chúng ta là những con thú nằm trong chuồng thú. Cái chuồng thú được cấu tạo bằng những chất liệu có sức hủy diệt tập thể. Chúng ta chưa bị cắt đầu moi tim gan vì chúng ta đang được chọn để chưng bày cho thế giới biết rằng chúng ta cần phải hiện hữu để chứng tỏ không có cái học thuyết hủy diệt con người, hủy diệt tri thức.

    Cô gái đến đứng tựa bên cửa sổ không có rèm che nhìn xuống con đường chạy dọc theo tả ngạn dòng sông.

    Tôi đến bên cô, nói khẻ sau lưng cô và nghe một mùi hương quyến dụ ngây ngất từ cơ thể bé bỏng của cô tỏa ra, khiến lòng tôi nôn nao một nỗi đau kỳ lạ từ một dĩ vãng xa xôi của tuổi thiếu niên.


    - Khi cô lớn lên thì thành phố đã đổi thay nhiều rồi.

    - Vâng, em cũng cảm nhận thế. Cô gái nhỏ nhẹ.

    - Chúng ta mất những ngày tháng bình an.

    Ngày xưa bóng chiều trên dòng sông, trên con đường này là lời ngọt ngào tình tự. Bây giờ, trên mỗi bờ đá, nơi mỗi gốc cây là sự rình chờ của những bóng ma.
    Người ta đang giăng một màn lưới vô hình vây khốn chúng ta, và ai đủ sức phá rách màn lưới đó thì cũng lại bị rơi vào một lớp lưới vô hình khác.

    - Chị em dậy rồi ông kìa.

    Tôi quay lại thấy nàng mở mắt nhìn tôi mỉm cười, nụ cười xanh xao như lời từ biệt. Nàng nói:

    - Ông vẫn còn đấy ư? Bên ngoài trời đang nắng phải không em?

    - Vâng. Cô gái trả lời. Trời đang nắng nhưng se lạnh chị ạ. Chị thấy có đỡ không?

    Nàng không trả lời mà ra dấu muốn tôi đỡ nàng ngồi dậy.
    Đỡ nàng ngồi tựa chiếc ghế sau lưng tôi ra hiệu với cô gái cho nàng ăn, nhưng nàng khoát tay bảo không đói. Nàng nói:

    - Em không đói. Cứ để đấy cho em. Mọi việc rồi thế nào cũng xong ông ạ. Khi đứng bên chân cầu nghe ai đó hát dưới dòng sông, em cảm thấy như lời tiển đưa em về nơi an nghỉ, vĩnh viễn trở về cái nơi mình là, không phải cái mình đang là. Nhưng khi em lội vào cái hố đầy xác người cụt đầu, em chợt nghĩ ra rằng, rồi mình cũng không biết cái nơi mình là đó ở chốn nào?

    Tôi thấy nàng vừa tỉnh táo vừa bấn loạn. Nàng cứ bơi lội trong dòng chảy êm đềm của ký ức, vừa lặn hụp trong cơn cuồng lưu dữ dội của quá khứ.

    Và tôi cảm thấy mơ hồ rằng nàng đang bị ám ảnh bởi một cái chết vô cùng đớn đau một cách thầm lặng như cái buổi chiều tang tóc lạnh lẽo nơi một góc rừng xa, nàng vừa chạy hối hả vừa bước đi lảo đảo như kẻ mộng du bị rượt đuổi bởi chính cái bóng ma của mình, chân nàng lún sâu vào những thây người nhầy nhụa, máu đặc ẩm ướt bám vào chân và áo quần nàng mỗi khi nàng rút chân lên và té nhào nằm đè lên những cái xác không đầu, đôi khi nàng lịm đi và nghĩ mình cũng đang chết một cách kỳ lạ, bởi vì cái xác chết của mình vẫn đang cử động và miệng lẩm nhẩm cầu kinh.

    Tôi không nhìn nàng nhưng tôi nhìn vào một khoảng trống vắng lạnh bên ngoài khung cửa sổ và ở đó bóng dáng nàng ẩn hiện chập chờn như một dải mây, khuôn mặt nàng méo mó và mái tóc chảy dài xuống che lấp nửa bầu vú trắng có từng vòi sửa chảy ra lẫn những sợi máu màu đỏ tươi.

    Tôi nghe lành lạnh ở sống lưng và chợt nhận ra mình vừa ngủ mê nhưng vẫn mở mắt nhìn vào bình hoa có những đóa hoa màu trắng và màu đỏ rung rinh theo thoáng gió từ bờ sông thổi vào.

    Tôi nói với cô gái tôi phải đi đây và dặn cô ép nàng ăn uống đầy đủ. Nàng nhìn tôi mỉm cười xa vắng và nhấc một cách yếu ớt cánh tay lên gởi tôi lời chào từ biệt.
    Tôi bảo với nàng.

    - Tôi lại sẽ đến thăm.

    Nàng nói cám ơn và không nhìn tôi. Tôi khép nhẹ cửa và bước ra ngoài hành lang lạnh lẽo của bệnh viện.
    Những nữ y tá qua lại lặng lẽ trong bộ blue trắng như những bóng ma.
    Tôi băng qua đường và đi dọc bờ sông về hướng cầu. Dòng sông không chảy, chỉ gợn ít sóng làm nhăn nhúm những lớp da trên khuôn mặt già nua của thành phố cổ kính mục rữa.

    ***

    Chiếc cầu sắt bắt qua sông như một gợn sóng chết được một công ty có tiếng ở Pháp xây dựng đâu đầu thập niên thế kỷ 19 thời kỳ Pháp đô hộ xứ này, nó là dấu tích còn lại của chế độ thực dân mà cho đến bây giờ nó lại là hình ảnh được tôn vinh và niềm kiêu hãnh bi thương của người dân xứ này.

    Và trong tâm trí nàng, chiếc cầu là chứng nhân bi phẩn nhất của những tang thương bất chợt đổ lên thành phố yêu dấu của nàng bởi những kẻ nhân danh độc lập tự do, chính họ, cả hai phía, cùng một lúc ra sức hủy diệt cái thế giới mà họ đã giương cao ngọn cờ để bảo vệ.

    Nàng ngây thơ không bao giờ biết được rằng họ, cả hai, chẳng bảo vệ nền tự do nào cả ngoài những âm mưu giành giật và bảo vện quyền lợi của chính họ, và những con người vô tội là vật hy sinh sau cùng cho chính lòng tham lam kiêu ngạo và phi nhân của họ.

    Đã biết bao lần tôi qua lại trên chiếc cầu này và lần nào tôi cũng cảm thấy một nỗi xót xa vô hạn khi chạnh nhớ đến điệu hò Nam Ai lắng đọng trên dòng nước không muốn trôi, điệu hò như một nỗi niềm cay đắng ray rức khôn nguôi về thân phận con người dưới sức đè nặng tàn khốc của những học thuyết.

    Tôi dừng lại trên cầu nhìn về phía bên kia, nơi tôi thường gặp nàng, người phụ nữ tâm thần đứng bất động nhìn về phương Đông, nơi mặt trời sẽ mọc, đỏ thắm như màu máu, và bầu trời thì xanh với một sợi mây vàng như chút lòng nuối tiếc đau thương chảy vào cơn mộng mị phôi phai của nàng.

    Tôi hình như nghe ai đó hát dưới chân cầu, lời hát buồn nói về cuộc chia ly của những mối tình mù mịt trong đạn bom. Nàng thường bảo đó là tiếng sóng ngầm trong lòng sông, con sông đã quằn quại bên những ly tan của kiếp người.

    Tôi mập mờ thấy nàng hình như vẫn còn đứng đó, bên kia cầu, da thịt trắng như sữa, không áo quần, tóc xõa xuống hai bên vai, và đôi bầu vú phập phồng theo từng hơi thở nhẹ. Đôi mắt nàng chứa chất nỗi u hoài và đăm chiêu, đôi mắt của một người điên rất tỉnh táo chìm trong nỗi bình yên ngậm ngùi và quên lãng.

    Tôi thấy nàng đứng đó dù tôi biết một cách chắc chắn rằng nàng đang nằm trong căn phòng trắng lạnh của bệnh viện, rằng nàng yếu đuối và mong manh đến nỗi không nhấc nỗi cánh tay lên mà cầm lấy bó hoa, và vì tôi vừa từ căn phòng đó đi ra và nhận nơi nàng lời từ biệt lặng căm.

    Tôi chợt nghe một tiếng rơi rất nhẹ, như chỉ là chiếc lá khô, như chỉ là một giọt mưa, như chỉ là một hạt bụi từ thân phận cô đơn của một vì sao đã tắt, vừa rụng, làm chao nhẹ mặt sông và làm vỡ trào niềm đớn đau trong tôi.

    Tôi vội chạy trở lại bệnh viện. Không nhìn thấy gì hai bên đường. Một bóng tối đen đặc và lạnh băng phủ xuống lòng đường. Tôi nhảy hai cấp lên một cầu thang. Hành lang bệnh viện vắng lặng chập chờn những bóng trắng như những bóng ma cụt đầu trở về từ quá khứ mù mịt.

    Tôi đến trước phòng nàng. Cửa phòng không đóng. Nàng nằm đó, đôi mắt nhắm như mắt lá chưa kịp mở, đôi môi tái nhợt, một ít máu rỉ ra nơi trán, chưa khô. Tấm drap trắng kéo lên ngang ngực, một cánh tay buông xuôi, một tay khác đặt hờ hững lên bó hoa hồng trên ngực.

    Cô gái gục đầu dưới chân nàng, vai rung lên theo tiếng nấc nghẹn và cam đành. Tôi đứng nhìn nàng, tâm trí đặc cứng và khô quánh. Tôi đặt một tay lên vai cô gái. Cô ngước đôi mắt đẫm lệ nhìn tôi, và từ cô, vẫn mùi hương ấy, mùi hương quyến dụ ngây ngất từ cơ thể bé bỏng của cô, khiến lòng tôi nôn nao một nỗi đau kỳ lạ.

    Cô đưa tay chỉ cái làn đựng thức ăn - bấy giờ và trước đó tôi vẫn nghĩ đó là cái làn đựng thức ăn - đặt trên bàn về phía kề cửa sổ. Tôi với tay xách cái làn lên và vô ý để bật cái nắp bằng mây làm nghiêng và đổ ra: một cái sọ người đã khô và xạm nâu lăn lóc cóc trên nền gạch tráng men.

    Tôi hoảng hốt và lạnh buốt. Trời ơi! Một cái sọ người! Làm sao mà cô gái mang cái sọ người để trong cái làn đựng thức ăn vào đây?

    Tôi bỗng thấy một chuỗi dài những hình ảnh dồn dập ùa về: sọ người chất thành đống. Xương người chất thành đống. Có người ca sĩ cuồng điên “hát trên những xác người”, “chiều đi qua bãi dâu” (**). Đường nội thành chảy máu. Xác nào là em? Xác nào là anh? Xác nào là cha? Xác nào là mẹ? Máu chảy vô tâm. Máu chảy tội tình. Máu chảy trong lời thánh ca bi thương đêm giáo đường hắt hiu trăm ngọn nến. Tôi thắp bao nhiêu ngọn nến để cho đủ tưởng nhớ bao nhiêu người.

    Tôi lay tấm thân đã lạnh cứng của nàng, người phụ nữ tôi không biết tên, người phụ nữ điên trong thành phố. Người phụ nữ đã mang từ cánh rừng lạnh lẽo nào đó một cái xác không đầu. Không biết là ai. Có thể là Thụy, người đàn ông của nàng. Có thể là ai? Là anh? Là em? Là bạn bè? Là ai? Và bây giờ phải đem về cho nàng cái sọ người không biết là ai.

    Có thể là Thụy. Là anh. Là em. Là bạn bè. Là ai?

    - Là ai? Cô biết không?

    Tôi bỗng hét to làm cô gái giật mình sợ hãi ngồi tụp xuống, khóc to lên. Tiếng khóc xé vào tim tôi.

    Tôi vụt bỏ chạy như một người điên.
    Và hình như có một tiếng nổ phía chân cầu. Chiếc cầu oằn xuống như cuộc đời của chúng tôi gãy gấp lại giữa hai lằn ranh hận thù.


    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Ghi chú: (*): Thơ Bùi Giáng.
    (**): Trịnh Công Sơn.

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    Bóng Tối Của Quá Khứ

    Bóng Tối Của Quá Khứ

    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Đường phố chìm trong màn đêm lạnh lẽo. Tiếng gió hú trên ngọn các cây long não nghe như tiếng khóc của một người đàn bà. Những cành cây chìa xuống ngang đầu lung lay như những cánh tay dài ngoằn và lông lá, chập chờn như muốn bấu vào một người đang đi về hướng nhà thờ. Chiếc cầu ngắn vắt ngang qua dòng sông nhỏ nặng nề không muốn chảy, không nối được lời bình an của Chúa qua đôi bờ.

    Đêm tối đen đặc.

    “Mình phải qua được cầu, người đàn ông nghĩ, phải can đảm lên”. Nhưng ông chợt nghe âm vang trầm buồn của tiếng nói từ một gốc cây long não bên đường:

    “Mày sẽ không vượt nổi chiếc cầu này để qua bên kia đâu, hỡi con chiên lạc lõng cuối cùng của Chúa”.

    Ông thấy lạnh buốt trong đầu và máu trong tim đông cứng lại.
    “Ông là ai? Ông vừa nói gì?”

    Không ai cả. Chẳng ai trả lời ông. Đây là ảo giác trong cơn mộng du dai dẳng hay là cõi địa ngục của một trần gian không có thực?

    Tiếng nói lại buồn buồn vọng tới:
    “Sẽ không bao giờ, mày biết không, sẽ không bao giờ mày vượt qua khỏi chiếc cầu này, ôi tội nghiệp mày, đứa con lạc lỏng của đức tin”.

    Người đàn ông nhìn quanh, nhưng bóng tối đậm và lạnh khiến ông không nhìn thấy gì. Ông biết chỉ bước vài mươi bước nữa là đến cầu nhưng sao ông thấy mình đi mãi mà con đường cứ dài ra như thể ảo giác trên sa mạc. Kề bên đầu cầu, về mé trái là một lô cốt bê tông hình như có từ thời Pháp còn chiếm đóng trước 1954, dọc theo sông, cũng về mé trái, đối diện với bờ bên kia, là nơi ở của bà từ Cung. Vương triều nhà Nguyễn chỉ còn là cái bóng của quá khứ. Im lặng. Lãng quên. Bội ân bội nghĩa. Chẳng còn ai nhớ. Và nhớ hay quên cũng thế thôi. Chẳng để làm gì. Lịch sử liên tục đổ xuống đất đá gạch vụn của hận thù, che chắn quá khứ, cản lối tương lai, chỉ còn cái hiện tại què quặt đui mù.

    “Mày nghĩ gì? Này thằng người lạc lối kia! Mày tưởng mày đang trên đường đến đồi Golgota? Để làm gì? Jésus cũng không làm được gì. Hiện tại này! Hiện tại này đây!”

    Ông bất lực, ngồi xuống bên vệ đường ẩm ướt. Bên kia sông, ngôi nhà thờ như một khối mù sương đen thẫm.

    “Người là ai?”
    “Ta là bóng tối. Bóng tối của quá khứ. Quá khứ của những điều tồi tệ hung bạo. Ta là bóng tối. Bóng tối của máu. Máu của ảo tưởng về tự do và nô lệ. Ta là bóng tối. Bóng tối của tình yêu và thù hận. Tình yêu bị đánh cắp và thù hận được vinh danh”.

    Thôi rồi, người đàn ông nghĩ và nhớ, chỗ này đây, ngay chỗ lô cốt cạnh đầu cầu Hải bị bắn vỡ sọ mắt trợn trừng nhìn cây thánh giá trên đỉnh nhà thờ, cả tiểu đội không còn ai. Ông không hiểu nhờ đâu mình còn sống, lành lặn, không trầy trụa, nằm trên vũng máu cạnh những xác người.

    Tại sao ông lại lần mò về đây trong bóng tối lạnh lẽo này?

    “Mày đi tìm tiếng nói của bóng tối. Bóng tối của quá khứ. Quá khứ của những ngụy anh hùng, ngụy vĩ nhân. Quá khứ của sự man rợ cuồng tín và ngụy tín”.

    Tiếng nói yêu ma vọng từ cõi âm ty nào cứ vo vo trong đầu ông, hay là có ai đó, ở quanh đây, hay là ông, một ông khác ở trong ông. Ông đưa tay dụi mắt, căng con ngươi ra nhìn vào bóng tối. Chẳng thấy gì. Ông nhặt một cục đá, ném về phía trước, chỉ nghe một tiếng “cạch” khô khốc vọng lại.

    “Tôi không đi tìm bóng tối của quá khứ, tôi đi tìm tôi trong quá khứ, nhưng quá khứ dày đặc bóng tối”.

    “Và trong bóng tối dày đặc của quá khứ đó, có mày, có Nguyệt và cái sọ vỡ của Hải”.

    Nguyệt là nỗi ám ảnh đau thương của tình yêu và Hải là nổi ám ảnh kinh hoàng của thù hận.

    “Tôi phải đi, tôi phải vượt qua cây cầu này”.

    Dòng sông đục ngầu ở dưới và bầu trời xám xịt trên kia. Trần gian, địa ngục, thiên đàng có gì khác nhau không? Trời ơi làm sao vượt qua khỏi bóng tối của quá khứ!

    ***

    Có những khoảng cách không thể đo bằng năm tháng, không thể tính bằng khái niệm thời gian mà nó được cảm nhận bằng nỗi hoài nhớ ray rức khôn nguôi. Hôm qua! Có thể không là hôm qua. Có thể không là những năm tháng đã qua. Có thể không là trăm năm đã qua. Nó là cái gì ở trong hồn ta chập chờn tan hợp như bóng mây. Nó là cái gì ở trong máu ta chảy buốt qua từng mạch li ti xuôi ngược không cùng. Nó là cuộc đuổi bắt vô vọng và triền miên. Nhưng cái kết cuộc là ở đâu khi ông ngồi ở đây, bên vệ đường, dưới gốc những cây long não, đêm tối âm u và lạnh lẽo.

    Và phía trước là chiếc cầu nhỏ, bắc qua một dòng sông nhỏ đục ngầu, chỉ cần vài mươi bước là qua khỏi chiếc cầu đi về hướng nhà thờ. Thế mà ông đi mãi với với con đường hình như dài ra vô tận, vo vo tiếng nói của bóng tối, bóng tối của quá khứ đặc quánh như vũng máu khô đọng lại trong lô cốt với cái sọ của Hải vỡ ra mà đôi mắt vẫn trừng trừng nhìn về cây thánh giá trên tháp nhà thờ. Và trong lớp bóng tối đó có đôi mắt của Nguyệt nhìn ông. Đôi mắt sầu não về một tình yêu bi thương trong những mạch đời bất trắc và oan nghiệt. Cuộc kiếm tìm như một rượt đuổi về phía hư vô.

    Saigon cuối những năm 60.
    Núi đồi Bảo Lộc.
    Sân ga quạnh vắng bên kia bờ hồ và phi trường Liên Khương mù sương.
    Ngày trở lại Cần Thơ và nỗi tuyệt vọng chán chường.
    Phải không hỡi Nguyệt!
    Phải không hỡi Hải!
    Phải không hỡi bóng tối của quá khứ!

    “Lại mày nữa rồi, kẻ chối bỏ thiên đường, kẻ khinh mạn trước địa ngục, kẻ cô độc cõi trần gian. Lại mày, phải không? Tìm gì ở quá khứ? Ở trong bóng tối của quá khứ”. Sống là một cuộc kiếm tìm thiên thu.

    “Đừng ruồng bỏ tôi, đừng ruồng bỏ tôi”.
    Ông lại nói với cái bóng tối của đêm đen.
    Không đứng dậy nổi. Ông bò lê như con thú bị thương về hướng cầu. Đêm đầy hăm dọa rình chờ. Ánh sáng một trái hỏa châu leo lắt trên bầu trời đen như một vì sao hấp hối. Có tiếng nổ lạc loài đâu phía đồi Thiên An, ông không phân biệt được tiếng súng hay tiếng nổ gì, vì âm vang của nó lạnh lùng và nổi buốt giá chảy trong đầu ông. Chỉ một tiếng nổ và cái sọ của Hải vỡ ra. Sau đó là những lưỡi lê sáng lạnh ghim thật ngọt vào từng trái tim. Máu từng vòi bắn vòng cung qua người ông. Cả tiểu đội không còn ai. Ông nằm trên vũng máu và nghĩ mình đã chết. Đôi mắt Hải trợn trừng. Ông nhớ tới Nguyệt và một nỗi êm đềm chua xót dìm ông vào cơn hôn mê sợ hãi và lặng căm. Rồi ông thấy mình ngồi trên ghế đá ở bến Ninh Kiều, còn Nguyệt thì đang xé vụn một mẫu giấy thả xuống dòng sông. Tình yêu đôi khi chỉ là khoảng khắc ngưng chảy của một dòng sông, nhưng rồi tích tắc, dòng nước lại trôi xuôi cuốn theo bao nhiêu khát vọng dồn ứ suốt tuổi thanh xuân.

    “Mày lại nhớ đến cái quá khứ của một khoảnh khắc, hỡi con người yếu đuối bé nhỏ tội nghiệp. Hay là không có gì cho mày hôm nay và ngày mai?”

    Ánh sáng hỏa châu hấp hối tóe lên rồi vụt tắt. Trong cái chớp mắt lóe lên đó, ông thấy một vật thể đen ngòm cũng bò lê dè dặt về hướng cầu. Ý thức mòn mõi của một người lính trong ông gượng dây. Ông lặng im dừng lại, nín thở, căng mắt nhìn vào bóng tối, lắng nghe. Đằng kia trườn đi không một tiếng động. Chỉ có tiếng gió hú trên đầu các cây long não và tiếng dế chìm khuất dưới sương lạnh.

    “Không có gì cho tôi hôm nay và ngày mai chăng? Tôi chỉ còn khoảnh khắc của quá khứ nhỏ nhoi và đầy bóng tối sao?”

    Ông nhớ Hải hãy còn quá trẻ, hình như chưa có ý niệm gì về chiến tranh, không một chút ý nghĩ về một kẻ thù, chưa bao giờ nhận cụ thể mình phải bắn vào ai, vào một sinh vật nào. Anh cầm súng như một món đồ chơi và khi ngồi gát bên lô cốt. Hải cũng nghĩ mình đang tham dự một trò chơi của thời niên thiếu. Và kẻ nào đó bắn vỡ sọ anh có bao giờ đớn đau vì mình đã hủy diệt mạng sống một con người vô tội?

    Ông cũng nhớ về Nguyệt, nàng quá trẻ như một mảnh trăng non dõi theo đời ông chênh vênh lẻ loi bên trời. Ông đến và đi không hẹn không hò và nàng thì lặng lẽ cam đành. Ngày xa nhau dài vô tận. Đường xa nhau đầy ứ tai ương. Viên đạn sau cùng ông dành cho mình vẫn còn nguyên. Không có ngày về. Chắc chắn không có ngày về. Nhưng không thể vì thế mà có thể kê súng vào đầu bất cứ lúc nào, bởi vì, ông không thể rũ bỏ cái quá khứ đáng rũ bỏ, không thể lãng quên cái quá khứ đáng lãng quên. Ông phải tận mắt nhìn thấy lại rõ ràng kẻ bắn vỡ sọ Hải. Để làm gì. Cũng chẳng để làm gì. Ông không phải là kẻ trả thù xương máu. Chỉ nhìn cho rõ, thế thôi, để không còn ảo tưởng về cái quá khứ được thần thánh hóa. Ông muốn tìm trong bóng tối quá khứ đó, có ông, như một nhân chứng cho lương tri con người.

    “Này con người bé nhỏ tội nghiệp kia, mày không qua nổi chiếc cầu, phải không? Chúa ở bên kia. Không có một cánh tay nào của Chúa giơ ra để dẫn mày qua khỏi chiếc cầu”.

    Cái bóng đen đằng kia vẫn đang di động thận trọng, rất nhẹ, như chẳng hề di chuyển chút nào.

    Ánh hỏa châu lại lóe lên trên bầu trời đêm. Bóng đen như một khối đá bất động.

    Ông cũng nằm lặng yên, áp người sát mặt đường. Nghe ngóng. Hồi hộp. Chờ đợi. Ông nghĩ, nó đấy, nó là một vệt bẩn trong bóng đêm của quá khứ. Nó bỏ về đây làm gì trong cái đêm vắng lạnh của thành phố rêu phong hàng thế kỷ hứng chịu bao vùi dập của lịch sử. Nó về đây để tìm lại quá khứ đổ nát mà nó đã có lần ra tay đập phá, hay nó về đây để tìm lại cảm giác lạnh buốt từ chiếc lưỡi lê trong tay nó đâm suốt trái tim của đồng loại và ngây ngất nhìn vòng máu đỏ bắn vòng cung qua những thây người. Nó về đây để xác định lần nữa nó đã nhúng tay vào tấn bi kịch của lịch sử để khẳng định bạo lực sẽ thống trị được con người.

    Hỡi ơi, những tên ngụy anh hùng, ngụy vĩ nhân, đui mù trong ngụy tín. Nó mò về đây để tiếp tục tạo ra một thứ bóng tối của quá khứ.

    “Mày đang nghĩ gì hỡi con người bé nhỏ tội nghiệp kia. Đừng mang lòng thù hận. Có thể chiếc cầu là điểm nối đôi bờ, nhưng có thể lời bình an của Chúa không thể nối được đôi bờ, nhưng không vì thế mà chúng ta hủy diệt nhau. Hãy để cho chiếc cầu là chiếc cầu, một ngày kia tình yêu sẽ đi qua trên cầu này, một ngày kia thù hận sẽ trôi dưới cầu này”.

    Ông phải làm gì bây giờ. Từng milimet một ông vẫn trườn tới, và đằng kia, chắc cái bóng đen đó cũng đang trườn tới. Nó có thấy ông không, ông không biết, nhưng chắc chắn ông có thấy nó. Ý thức mỏi mệt của một người lính mách bảo ông thế. Ông và nó là hai cái bóng tối quá khứ, nhưng ông biết ông không phải là nó, nó không phải là ông.

    Viên đạn sau cùng vẫn còn nằm nguyên trong ổ đạn và khối thép lạnh băng của khẩu Colt 12 vẫn ép sát vào ngực ông như lời nhắc nhở lạnh lùng về một cái chết tất yếu sau cùng của định mệnh. Nhưng, ông nghĩ, chưa phải bây giờ, càng không biết bao giờ, đôi khi giờ phút đó sẽ đến trong mầu nhiệm đớn đau của số phận.

    Ông không chờ đợi, cũng không sợ hãi.

    Và hình như Nguyệt cũng không chờ đợi ngày về của ông. Có thể nàng cũng còn ở đâu đó trong cõi phiền muộn của mình. Nhưng nàng không chờ đợi. Có những chiếc cầu đã gãy và không bao giờ nối lại đôi bờ, những chiếc cầu đã gãy vì bom đạn hay vì một chia cắt trong một thứ gọi là ý thức hệ mê muội và che đậy. Không bao giờ nối lại. Không thể. Giọt máu chia cắt đã thấm sâu vào những cái đầu cuồng ngông đặc sệt thứ bùn nhão của học thuyết trong quá khứ tạo ra một thứ bóng tối u uất nặng nề.

    Ông không tự đặt cho mình một sứ mạng gì. Ông len lỏi vào cái quá khứ tối đen đó, để nhìn cho rõ kẻ đối diện là ai và ông là ai như một khát vọng chứng giải nỗi đau thương phi lý phủ chụp lên thân phận con người.

    “Này người anh em, giọng nói có vẻ nhẹ nhàng hơn, người anh em đã thấy ra rồi đấy, nhưng không phải chỉ thấy ra rồi chấp nhận hay phẩn nộ. Thấy ra là để mở một con đường mới, là để đôi bờ nối lại nhau, là để tình yêu đi qua trên cầu, và hận thù trôi phía dưới như bèo bọt rác rến. Nhưng người anh em có qua được chiếc cầu không? Ta tin rằng mày, giọng nói lại thay đổi nặng nề, mày sẽ không vượt nổi cây cầu, hỡi đứa con lạc loài của đức tin”.

    Bóng đen hình như di chuyển nhanh hơn, vẫn thận trọng và im lặng. Hắn là ai? Mục đích hắn là gì khi hắn trở về đây trong đêm tối dày đặc này? Mục tiêu của hắn là đâu? Chiếc cầu? Nhà thờ? Hay biệt thự LT? Hay hắn trở về để tìm kiếm cái đã bị đánh cắp, bị lừa dối? Hắn trở về để nhận ra cái ảo tưởng về sự giải phóng con người bằng bom đạn? Hắn trở về để biết rằng bạo lực không là quyền năng giải quyết được những mâu thuẩn? Hắn trở về để nhận rõ lại bàn tay vấy máu của mình chỉ là chứng tích của một sự điên rồ ngây ngô của tuổi trẻ? Hắn trở về để vượt qua cây cầu trước nhà thờ, quỳ dưới bậc đá bên tượng Chúa để sám hối ăn năn, để xin được tha tội, cầu xin cánh cửa thiên đường mở ra cho hắn bước vào?

    Có phải hắn trở về trong cái đêm đầy hăm dọa và hiểm nguy này vì những điều như ông nghĩ không? Hay hắn vẫn còn trong cơn mông muội chưa thoát ra được những vây khốn của học thuyết?

    Cái bóng đen vụt đột ngột lao về phía cầu. Nhanh như chớp, bằng một sức mạnh bản năng, từ một mô đá đầu cầu, ông phóng người lên, hai cái bóng đen ngả nhào trên mặt cầu, hắn cố vùng vẫy để thoát ra hai vòng tay cứng như hai gọng kềm đang ôm siết lấy hắn. Hắn vụt rút tay ra được. Ánh thép phản chiếu ánh sáng leo lắt của những vì sao đêm loáng qua mắt ông, cảm giác đau buốt như một dòng điện cực mạnh xuyên suốt qua người. Hắn vùng đạp ông thật mạnh, tay nắm chặt cán dao, theo đà lao tới của hắn, lưỡi dao được rút phựt ra; Hắn lảo đảo đứng lên định chạy ra giữa cầu, nhưng ông đã lại vùng dậy quật ngả hắn xuống. Một vật gì đó trong người hắn văng ra. Cảm giác bén nhạy của một người lính từng trải, ông biết vật đó là gì. Ông buông hắn ra, chụp lấy khối thuốc nổ, dùng hết sức lực còn lại, chạy bay ra giữa cầu, vận dụng tối đa kỷ năng của một người ném tạ, ông dùng tay phải ném tung khối thuốc nổ về phía hạ lưu dòng sông, càng xa càng tốt. Cùng lúc đó, với sự hung dữ của một con thú, với dao găm trên tay, hắn lao vào người ông. Nhưng tác động phản hồi của lực ném khối thuốc nổ đã khiến ông ngã bật về phía sau, hắn lao tới mất đà, nhào lộn một vòng và vụt rơi xuống. Cùng lúc đó, một tiếng nổ long trời bùng lên, hình như nước bắn lên rất cao, rơi trên mặt cầu, thấm ướt người ông. Chiếc cầu hình như cũng rùng mình vì tiếng nổ và ông có cảm giác đu đưa nhẹ như nằm trên võng.

    Ông đứng lên, với cánh tay trái còn chảy máu và cánh tay phải đau buốt vì té xuống nền cầu, ông nhìn xuống dòng nước đen ngòm bóng đêm, hình như dòng nước vẫn im lìm chảy nặng nề. như thể trước đó chưa có gì xáo động nỗi thầm lặng muôn đời của nó.

    Ông bước trên cầu, hướng về phía nhà thờ.

    Chuông lễ Misa gióng giả vang lên.


    Lê Nam Phương (Lê Văn Trung)

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    replied
    đời có nhiều chuyện đáng buồn

    ĐỜI CÓ NHIỀU CHUYỆN ĐÁNG BUỒN

    http://www.hocxa.com/Truyen/DoiCoNhieuChuyenDangBuon_LeNamPhuong.php

    (Tác giả:LÊ NAM PHƯƠNG tức Thi sĩ Lê Văn Trung)


    1.


    Người đàn ông loay hoay mãi với chiếc xe đạp cà tàng của mình. Gọi là xe đạp cho có vẻ như thế. Thật ra đó chỉ là một mớ sắt hoen rỉ được nối kết lại với nhau. Một cái khung vá chằng vá đụp bằng những mũi hàn lỡm chỡm. Hai vành xe được chế tạo bởi những vòng cắt ra từ cover, một loại ống cống bằng kim loại từ thời quân Mỹ mang sang. Bọc ngoài lớp vành ấy là một lớp cao su được cắt ra từ những ruột xe phế thải. Những nan xe được hàn bằng những thanh sắt phi 10 chen lẫn với nhũng que gỗ. Không có bàn đạp. Không có xích. Không có tay lái. Để điều khiển chiếc xe, người đàn ông phải buộc vào một que gỗ nơi đáng lý phải là cái ghi đông. Ấy thế mà chiếc xe đã cùng ông lang thang trên khắp nẻo đường xuôi ngược. Len lỏi vào các làng mạc hẻo lánh, những vùng nông thôn heo hút. Ăn bờ ngủ bụi là chuyện thường. Có khi ông leo lên tận đỉnh núi, hay vào sâu trong rừng. Lạc mấy ngày, ăn đọt cây đoát, môn rừng, uống nước bùn, ngủ với sên vắt muỗi rừng.


    Người đàn ông ấy là ai? Chẳng ai biết.
    Nhưng ông biết ông là ai.
    Ông đang làm cái việc mà hình như nhiều người cùng thời đang làm để kiếm cái ăn, cho ông và cho người vợ đang ngày đêm trông ông về với món tiền nho nhỏ sống qua ngày: Ông đi thu nhặt phế liệu về bán lại cho các vựa thu mua. Vài ba tuần ông mới về nhà một lần. Bởi vì với chiếc xe như thế ông không thể đi, về dễ dàng được.


    Trong nhũng chuyến lang thang vì cơm áo, ông đã gặp được nhiều người, nghe được nhiều chuyện. Những lúc ấy ông lại nghĩ về đời mình, nghĩ về bao nhiêu người, bạn bè người thân. Kè còn, kẻ mất. Người nằm dưới mộ sâu, người lênh đênh phiêu bạt ở xứ người. Kẻ bỏ xác trên rừng, người gởi thân nơi đại dương thăm thẳm. Và cũng còn bao người như ông đang lang thang lếch thếch khắp cùng trời cuối đất. Tất cả đã mất hết. Chỉ còn lại những thây người biết cử động, đang đi tìm miếng ăn. Bởi vì phải sống. Phải sống.

    Không ai có thể tự chọn lựa cho mình. Làm sao chọn cho mình cái chết?

    2.


    Cho chiếc xe lăn xuống triền dốc. Ông chạy theo với một tốc độ vượt sức chịu đựng. Con đường mòn nho nhỏ, hai bên hình như không có nhà. Trời nắng gắt. Mồ hôi dường như không còn. Người ông khô kiệt. Không chịu nổi. Ông thả tay để chiếc xe tự do lao xuống con đường với một vận tốc không có gì kiềm lại. Ông ngã nhoài bên đường. Hai mắt nhắm lại. Ông thấy người nhẹ tênh. Giá mà chết được lúc này.


    Ông mở mắt. Bầu trời trên cao mây trắng trôi bập bềnh. Ông cũng thấy mình trôi bập bềnh. Giờ này chắc vợ ông đang ngồi ngoài hiên mái chòi lợp lá cọ. Nàng chải tóc và nói chuyện với con mèo lông vàng ngồi dưới chân nàng mong tìm chút hơi ấm của con người vốn từ lâu không còn đủ thời giờ để âu yếm vuốt ve nó. Cái chòi dựng tạm bợ bên bìa rừng hoang vắng quạnh hiu. Ông thấy thương nàng vô hạn. Và ông mơ màng thấy nàng từ xa xa đi gần về phía ông. Ông nhắm mắt để cho ảo giác chập chờn hi vọng đó chính là nàng. Nhưng hình như ông nghe tiếng ai đó đang gọi:
    - Ông gì đó ơi!


    Tiếng gọi yếu ớt, giọng khàn khàn, buồn đục như tiếng gọi từ trong sâu thẳm của rừng già. Ông đã từng nghe tiếng gọi này trong những giấc mơ của mình.
    - Ông ơi? Ông đang làm sao thế?


    Ông mở mắt. Một bà già tóc đã bạc, lưng còng, tay chống một cái gậy tre, người gầy và run run, duy chỉ có đôi mắt là còn linh hoạt. Bà tiến gần về phía người đàn ông và cúi xuống như để kiểm tra xem người nằm đó còn sống hay đã chết.


    - Dạ chào bà, người đàn ông mỏi mệt nói, bà có thể cho tôi xin miếng nước không ạ?


    - Lạy trời! Ông còn sống. Lão cứ tưởng ông đã chết. Thôi hãy ráng đứng dậy, cố đi với lão về nhà. Bà đưa tay chỉ về cuối chân đồi.


    Người đàn ông đứng lên dùng tay phủi bùn đất bám dính vào áo quần và mệt mỏi theo sau bà lão. Con đường mòn chỉ vừa một người đi đổ xuống chân đồi. Hai bên cỏ dại mọc tràn lan, những dây cỏ gai nở bông màu tím nhẹ, những cây cúc dại lác đác những nụ vàng, vài con bướm đủ màu sắc bay chập chờn từ hoa này sang hoa khác. Đồi dốc đổ thoai thoải xa dần xuống tận bờ một con suối mùa này hình như cũng cạn khô nên nom rõ những tảng đá hai bên, những gốc cây đã bị đốn nhô lên như những hình nhân quái dị.


    Bà lão bước đi nặng nề phía trước, lưng còng quá nên có cảm giác mặt bà luôn luôn nhìn xuống đất. Có cái gì đó nơi bà lão này khiến người đàn ông nhớ đến mẹ mình, và ông cảm thấy gần gũi như được chở che. Ông cảm thấy một nguồn thương cảm vô hạn dâng lên trong lòng. Bất chợt ông gọi nhỏ "Mẹ". Bà lão không nghe gì, cứ lầm lủi bước đi.



    3.




    Từ dưới triền đồi chiếc xe đạp của ông nằm chỏng chơ, hai bánh xe với những cái nan xe bằng gỗ vẫn còn quay quay theo mỗi đợt gió thốc tới. Đống sắt vụn đổ tung toé nằm rải rác giống những mãnh bom bên một cái hố con.
    Người đàn ông nhìn chiếc xe buột miệng:
    - Thấy mẹ. Không biết có gãy xe không.


    Bà lão mơ hồ như nghe người đàn ông gọi;
    - Ông nói sao? Ờ, nhà lão ở tận dưới kia gần con suối cạn ấy. Cơ khổ! Làm sao mà ông nằm ở đây vậy?

    Không đợi người đàn ông trả lời, bà lão kể lể;

    - Năm ngoái cũng có một người ngang qua đây, cũng trạc tuổi ông. Mà sao ông lại đến đây? À mà thôi, tôi tò mò chuyện các người làm gì. Hãy vào uống nước nghỉ ngơi, rồi muốn đi thì đi. Mà có ở lại cũng không sao. Lão sống cô độc, buồn lắm, muốn có người trò chuyện cho đỡ buồn.

    Bà lão đưa tay kéo liếp cửa lợp bằng lá cọ, quay về phía người đàn ông:
    - Ông vào trong đi, tôi đi lấy ít nước nấu nắm lá vối. Đây là loại nước giải khát duy nhất và cũng ngon lắm, hơn hẳn các loại danh trà mà ông thường uống đấy.


    Bà lão cười hóm hém sau câu nói đùa của mình và chống gậy đi về phía bờ suối. Người đàn ông bước vào trong. Một chiếc chỏng tre ọp ẹp kê sát vách lợp bằng lá rừng và được nẹp vào nhau bằng những cây sậy tròn cở ngón tay. Phía cuối giường là cái bếp được kê bởi ba hòn đá. Vài cái soong đã móp méo treo lủng lẳng trên vách. Hơi nóng hãy còn trong lớp tro ủ, thỉnh thoảng một cọng khói lẻ loi hiu hắt bay lên. Ông bước ra sân nhặt một ít cành khô đem vào nhuốm bếp. Bà lão vào mang theo một ấm nước với ít lá vối đã rửa sạch. Bà ngồi xuống cạnh người đàn ông, không nhìn ông, bà nói bâng quơ:

    - Đôi lúc lão cũng thấy buồn thật. Nhưng quen rồi.

    Thưa cụ, thế con cái cụ đâu? Cụ sống một mình thế này lỡ đêm hôm mưa gió...

    Bà lão vẫn chăm chú nhìn vào bếp lửa đang cháy, thở dài não nuột:
    - Con với chả cái. À mà tôi cũng có một đứa con đấy chứ. Tôi và ông lão nhà tôi hiếm muộn chỉ có một mặt con. Ôi mà thôi! Thà không có con còn thấy đở khổ hơn, đở đau lòng hơn...

    - Cháu xin lỗi đã gợi lại những chuyện không vui cho cụ. Nhưng mà...

    Người đàn ông bỏ lửng câu nói, nhìn bà lão, lòng ông thấy xót xa, ông linh cảm trong người đàn bà này đang chứa chất một nỗi đau đớn kinh khủng lắm.

    Ấm nước sôi sục sục, bọt tràn ra khỏi miệng, một mùi thơm ngai ngái xông lên khắp căn chòi, ông hít thật sâu, mùi thơm xông lên tận não. Ông cảm thấy dễ chịu vô cùng. Bà lão lấy hai cái bát sành đã sứt miệng thong thả rót nước ra, một lớp bọt trắng trắng vàng vàng sóng sánh trên miệng chén. Đẩy chén nước về phía người đàn ông, bà lão mời:


    - Ông uống đi, nóng thì thêm ít nước lạnh vào. Loại nước này lợi gan, mật, ăn dễ tiêu, đả khát. Này mà ông có con không? Hãy dạy cho con ông cái điều mà trước đây chúng ta không được phép dạy. Đó là lòng thương yêu, sự quí trọng mạng sống của con người. Trước đây chúng chỉ được dạy lòng căm thù, một viên đạn phải giết cho được hai mạng người. Và đau xót hơn nữa, chúng được dạy phải giết chính những người thân yêu của mình để chứng tỏ lập trường kiên định không khoan nhượng đối với những người được qui cho là giai cấp bóc lột, giai cấp tiểu tư sản...

    Hình như khi nói những điều này đôi mắt bà lão ánh lên một tia giận dữ nhưng rồi bà nén lại, đôi mắt chùng xuống. Bà hớp một ngụm nước, lấy tay cời thêm que củi cho lửa cháy bùng lên.
    - Thưa cụ thế ông cụ?

    - Ông nhà tôi mất cách đây hai mươi năm rồi. Chết vì buồn bã quá. Vì đau lòng quá. Vì tủi hổ với giòng giống tổ tiên

    Nhưng mà... Người đàn ông tò mò.


    4.


    - Từ cái đêm cách đây hai mươi năm ấy, ông biết không, từ cái đêm oan nghiệt đó, ông nhà tôi như người mất linh hồn, sống vất vưởng như cái bóng. Suốt ngày không nói. Đôi mắt sâu hun hút như một vực thẳm chứa nỗi buồn của kiếp người. Từ cái đêm ấy.


    Bà lão chợt im lặng. Ngoài kia mặt trời đang xuống thấp. Lác đác có vài cánh chim bay về phía đồi xa. Một luồng gió lành lạnh thổi nhẹ qua khung cửa mang theo mùi hương của chiều. Ông vấn một điếu thuốc rê và châm lửa.

    - Ông lão nhà tôi trước kia cũng hút thuốc. Nhưng từ cái đêm oan nghiệt đó... À, ông có biết uống rượu không? Trong cái chai dưới gầm giường kia còn một ít đấy.

    Người đàn ông lấy cái chai và rót rượu ra cái bát vừa uống nước xong.
    - Mời cụ.

    - Không, tôi không biết uống rượu. Từ hôm giỗ ông nhà tôi vẫn còn đấy. Ông không có con à? Phải dạy chúng đấy ông ạ. Lòng thương yêu. Quí trọng mạng sống của con người. Đừng nuôi lòng thù hận, bất cứ ai.

    Người đàn ông vẫn chưa hiểu tận tường câu chuyện mà bà lão đang kể. Hình như bà thấy quá khó khăn nếu phải kể ra cái điều mà bà muốn quên đi, cái điều mà từ đó tai họa đổ ập lên gia đình bà, lên đời ông cụ, lên đời bà. Ông nhấp một tí rượu và chờ đợi.

    - Ông biết không, nó là một thằng bé rất kháu khỉnh, đôi mắt sáng, môi đỏ tươi, vầng trán thông minh. Nhưng ông biết sao không? Chúng tôi hình như càng ngày càng mất cái quyền được dạy dỗ nó. Không có quyền.

    Giọng bà trầm lại gần như bà đang nói với chính mình. Người đàn ông thấy một giọt nước mắt đặc quánh nặng nề lăn từ hốc mắt sâu hoắm của bà lão, dường như không đủ sức lăn xuống nữa, giọt lệ nằm lại nơi lưng chừng gò má nhăn nheo.

    - Năm mười lăm tuổi nó bỏ nhà đi không nói với chúng tôi lấy nửa lời. Hoảng. Chúng tôi đi tìm nó trong vô vọng. Mất ăn mất ngủ. Bệnh viện nào chúng tôi cũng đến, nhà giam nào chúng tôi cũng đến. Mấy thầy cô nơi trường cháu học cũng không thể trả lời chúng tôi. Chúng tôi chia nhau đi tìm. Ông về tận dưới quê nội, tôi ra tận quê ngoại. Không có. Chúng tôi tuyệt vọng ê chề.

    Người đàn ông nôn nao:
    - Nhưng cuối cùng có tìm ra anh ấy không? Thưa bà.

    Bà lão rót thêm cho mình một chén nước nữa, bà thổi nhẹ lớp váng và uống từ từ. Giọt nước mắt trên gò má nhăn nheo của bà cũng đã khô, chỉ còn để lại một chấm màu xam xám. Bên ngoài trời đã bắt đầu tối. Bà lão đưa tay dò tìm trong góc bếp lấy ra chiếc đèn dầu làm bằng một nửa cái chai nho nhỏ.

    - Ông thắp giùm đèn đi, tôi luộc mấy củ lang. Tôi đãi ông bữa tối bằng củ lang. Nhà chỉ còn có thế. Hôm nay tôi không xuống làng được, hết gạo từ mấy bữa nay.

    Người đàn ông đỡ cái soong từ tay bà lão và bắt lên bếp. Bài trường ca buồn vô hạn của đêm mùa hạ nơi đồi nương bắt đầu rả rích. Bóng của hai người rung rinh lay động trên vách lá rách nát. Hai mái của túp lều không đủ kín để che ánh sáng yếu ớt của những vì sao xa, và những con đom đóm chớp sáng khiến người đàn ông nhớ tới những đêm nằm rừng, ngửa mặt lên trời, nhớ đôi mắt của nàng, đôi mắt chứa đựng cả bầu trời xanh thăm thẳm.

    Mùi của khoai lang đang chín thơm lựng, ông nhớ đôi môi đỏ thắm của nàng. Đôi môi ấy đã mím chặt lại khi lần đầu tiên đưa một mẩu khoai mì lên miệng. Nhưng rồi gần chín năm trời, hai vợ chồng ông đã ăn khoai mì thay cơm.

    Bà lão cẩn thận vớt từng củ khoai để lên chiếc đĩa bằng sành cũng đã sứt mẻ. Từ cái bọc bằng nilon bà lấy ra một ít muối.


    Hai người ngồi ăn trong im lặng. Mỗi người đang thả dòng suy nghĩ của mình theo một hướng. Bà lão hình như chưa thể nói ra điều đau lòng. Người đàn ông lại nôn nao muốn biết tại sao người con bỏ đi, tại sao bà lão lại vừa đau xót vừa có vẻ như uất giận. Cuối cung bà lão lên tiếng:
    - Ừ này, ông ở đâu đi lạc về đây? Ông đang làm gì?

    - Cháu ở cách đây cũng xa, người đàn ông trả lời ậm ừ. Nói chung có nói cụ cũng không biết. Nhưng cụ yên tâm. Cháu là người đang cố sống lương thiện. Bây giờ cháu đi đâu, bất cứ nơi nào cũng chỉ để kiếm cái ăn, kiếm cái ăn bằng mồ hôi của mình.


    - Mà thôi. Trước đây cũng có một người lạc tới chỗ này. Người ấy cũng trạc tuổi ông. Cũng ít nói. Cũng cho mình đang cố sống lương thiện.

    5.


    Bà lão hình như quên mất câu chuyện mình kể dở dang, loay hoay dọn chiếc chõng tre.
    - Tối nay ông trải mấy cai bao kia gần bếp ngủ cho ấm. Đêm ở đây lạnh lắm.

    - Nhưng thưa cụ, người con của cụ sau có trở về không ạ?

    Bà lão leo lên chõng tre, chưa muốn nằm, ngồi thu gối lại, mắt lim dim xa vắng:
    - Thật ra tôi không muốn nhớ tới chuyện này ông ạ. Lại càng không muốn nhớ tới đứa con mà mình đã bứt ruột sinh ra. Nhưng biết làm sao, thưa ông. Giọt máu của chúng tôi mà!

    Người đàn ông đứng dậy kéo liếp cửa lại, trời bắt đầu trở lạnh. Gió thổi qua những khe cửa rách làm những mãnh lá kè rung lên tạo nên một thứ âm thanh rin rít. Xa xa về phía tận ngôi làng vọng đến tiếng chó sủa bâng quơ.

    - Nếu còn sống năm nay nó cũng gần bằng tuổi ông, à, mà tôi có biết tuổi ông là bao nhiêu đâu.

    Bà lão thở dài. Một lần nữa giọt nước mắt khô đặc lại rỉ ra nơi khoé mắt sâu hun hút của bà lão, rồi cũng như lần trước, nó không đủ sức lăn xuống mà đọng lại cam đành, chịu đựng.

    Nó bỏ đi thật ông à, bà lão lại xoay về chuyện cũ, không tin tức, không để lại chút dấu vết gì, như thể nó chưa hề hiện diện trên đời này. Còn chăng là nỗi đau trong lòng chúng tôi.

    Bà lão hít một hơi dài như để lấy can đảm để tiếp câu chuyện:

    - Hai năm sau từ ngày nó bỏ đi, một người trong làng đến nhà tôi với vẻ mặt hớt hải và bí mật, kéo tôi ra một góc sân, kề sát miệng vào tai tôi: "Đêm qua, nó về làng bà ạ." "Ai?". "Thì thằng con bà chứ ai". Giọng người đó nhỏ lại hơn "Nó mang súng có cả hai người lạ nữa cùng đi với nó" Lúc đó tôi nghe hai tai mình ù ù, đôi mắt hoa và không còn đứng vững nữa. Sau khi người khách ra về, tôi vào báo lại với nhà tôi. Ông im lặng. Tôi cũng im lặng. Nhưng trong lòng không khỏi khấp khởi mừng. Ít ra nó cũng còn sống ông ạ.

    Bà lão lại lau giọt nước mắt đã khô và cũng đọng lại một vệt xam xám trên gò má nhăn nheo.
    - Làm sao mà nó không ghé về nhà nhỉ? Ít ra cũng để thăm chúng tôi một lát chứ. Bà lão như nói chuyện với chính mình.

    - Có lẽ anh ấy bận công chuyên quá, người đàn ông an ủi. Ông hiểu ra chuyện gì rồi. Anh con trai đó đi đâu, làm gì, với ai, và trở lại làm gì, ông mơ hồ thấy được. Hình như trong thời kỳ ông sống trước đây, ông đã nghe nhiều chuyện như thế. Dĩ nhiên mỗi chuyện có khác nhau, nhưng cơ bản là giống nhau cái chung nhất

    Hồi còn học trung học, trong lớp ông cũng có vài người tự dưng biến mất, về sau thì nghe nói người này chết chỗ này, người kia đang xuất hiện đâu đó, bí mật, hư hư thật thật. Học xong trung học, cố gắng ngồi ở giảng đường đại học vài năm cuối cùng rồi cũng phải đi đánh nhau, tham dự vào cái trò chơi chém giết chẳng để làm gì, chỉ tìm cách trốn chạy những vây bắt của số phận con người trong cái thời buổi mà con người bị điều khiển bởi một hệ thống đủ màu sắc của cái gọi là văn minh vật chất, trong cái thời buổi mà ngôn ngữ của nhân gian cần phải được định nghĩa lại.

    Im lặng một lát bà lão lại lên tiếng:
    - Ông có mệt lắm thì đi ngủ trước đi, à, mà để lão kể tiếp chuyện này cho ông nghe.

    Bả lão thở ra một cái dài, nằm xuống, nghiêng người về phía người đàn ông, đôi mắt nhắm lại như cố ngăn một giọt nước mắt cũng gần như khô đặc chực len qua hai mí mắt.

    - Hai tháng sau kể từ lần trở về thứ nhất, cũng người hàng xóm ấy, vào buổi sáng sớm hớt hải chạy tới đập cửa nhà tôi, hổn hển "Khi đêm hắn về cũng với hai người lần trước, tập hợp dăm ba người gì đó, bắt chú nó trói lại quì xuống, nó đọc cái gì đó, xong hai người kia đè chú nó xuống và cắt đầu, không một tiếng kêu, chỉ thấy một vòi máu đỏ tươi phun ra. Xong họ lẳng lặng bỏ đi".


    Người hàng xóm nói một thôi dài, tôi chưa kịp nhận ra việc gì cả. Người hàng xóm vụt chạy đi. Tôi thẩn thờ bước vào nhà, không đủ sức gọi ông nhà tôi dậy. Tôi ngồi không biết bao lâu, chìm trong cơn mê và hình như tôi lịm đi cho đến khi tiếng kêu khóc vang lên chung quanh, tôi ngồi bật dậy. Tôi bắt đầu tỉnh lại và hiểu ra mọi chuyện.



    - Xác của chú nó được phủ một tấm vải trắng để nằm trên chiếc giường tre kê trước sân. Tôi thẩn thờ bước ra ngồi xuống bên cái xác đã gần như lạnh ngắt và cứng đờ.


    Tôi hiểu ra mọi chuyện rồi. Nó bỏ đi đâu suốt mấy năm trời, làm gì, theo ai, rồi tại sao chú nó bị chính nó giết. Chú nó làm hội đồng gì đó ông à. Mà tại sao lại giết chú của mình cơ chứ. Đau xót quá ông ơi. Mà ai bảo nó làm việc đó cơ chứ?


    Bà lão nấc lên nhưng tiếng nấc đọng lại trong cổ họng, trong đêm tối người đàn ông mơ hồ thấy một dòng máu lệ đang nghẹn ngào trào ra tận con tim già cỗi của bà lão.

    6.


    Sáng hôm sau, thu gom xong mớ sắt thép phế liệu và chất lên chiếc xe đạp đẩy của mình, người đàn ông sửa soạn lên đường, bà lão ra tận bờ suối. Ban mai trời lành lạnh, sương còn đọng trên lớp cỏ khô. Nhưng giọt sương không giống những giọt lệ khô của bà lão, chúng lóng lánh như những hạt thủy tinh đủ màu sắc. Một vài con chim sẻ ríu ra ríu rít bay tới bay lui như muốn hỏi tại sao con người lại có mặt tại đây và lấy cái gì để ăn khi chính chúng ngay hạt cỏ cũng khó mà tìm.

    - Ông sửa soạn đi đó à? Bà lão lên tiếng.
    - Cháu sẽ vào uống nước với cụ rồi xin phép đi.

    Khi đã vào trong nhà, ấm lá vối đã sôi sùng sục, ông rót ra hai chén, không mời bà lão, ông bưng chén và từ từ nhắp từng ngụm nhỏ.
    - Thưa cụ, ông nói, cháu không có gì nhiều, xin cụ nhận cho.

    Ông lấy cái bọc nilon nhét cẩn thận trong túi áo, lấy ra mấy đồng bạc đặt trước mặt bà lão.

    - Cám ơn ông, tôi không nhận đâu, tôi không cần tiền, tôi chẳng có việc gì phải tiêu tiền. Nếu cần gì tôi chỉ mang những thứ tôi có được xuống làng đổi, không cần tiền. Ông cất đi.

    Người đàn ông không dám nài nỉ. Sau khi uống hết bát nước lá vối, ông từ giả bà lão và lên đường. Chiếc xe đạp không đạp được lại cùng ông lang thang qua muôn dặm đường để tìm cái ăn. Chuyến này ông hi vọng có chút tiền khá khá với đống sắt chất thải chiến tranh này. Vợ ông hẳn đang mong ông về lắm. Chuyến này ông đi hơi lâu, không biết vợ ông ở nhà ra sao, có còn đủ gạo tiền cho nàng không.

    Người đàn ông trong một lúc quên mất bà lão và câu chuyện đau lòng của bà. Ông đang nghĩ đến vợ mình và tưởng tượng cái giây phút hạnh phúc ôm nàng trong tay. Đôi mắt xanh thăm thẳm hun hút một nỗi thèm khát cháy bỏng, cặp môi của nàng lúc nào cũng mọng lên như chờ đợi nguồn ái ân cuồng nhiệt. Thế nào cũng phải có với nàng một đứa con, anh nghĩ thầm và mỉm cười một mình. Không! Phải hai đứa con mới được. Một trai, một gái. Rồi ông lại tưởng tượng ra khuôn mặt của hai đứa con. Thằng cu sẽ giống ông. Bé gái sẽ giống nàng. Bấy giờ ông sẽ không đi làm cái việc này nữa. Sẽ dành dụm tiền mua vài công đất, làm một cái nhà lá, nuôi vài ba con heo, dăm bảy con gà. Hàng ngày ông sẽ làm vườn, nàng chăm các con và lo việc vặt trong nhà. Gia đình ông sẽ sống một cuộc sống bình dị, đầm ấm và hạnh phúc. Ông sẽ trở lại vùng này để đón bà lão về chăm sóc. Ông sẽ gọi bà là mẹ. Các con ông sẽ có bà nội.

    Mãi nghĩ mông lung, ông ra đến đường cái lúc nào không hay. Lòng đang phấn chấn ông đẩy xe chạy bon bon, quên cả mệt nhọc.

    7.


    Với đống chất thải chiến tranh đó ông kiếm được cũng khá. Gởi chiếc xe-đạp-không-đạp-được tại nơi thu mua phế liệu, ông vừa đi vừa chạy mong sao khoảng bốn năm giờ sáng hôm sau là ông về đến nhà. Có lúc khát quá ông ghé vào bất kỳ một nhà dân nào đó xin gáo nước lạnh rồi bối hả đi tiếp. ông đang vui với cái tương lai tưởng tượng của mình, lòng ông tràn ngập về một cái-hạnh-phúc-chưa-có-thật.

    Bóng tối đổ xuống bao giờ ông cũng không hay. Ông vẫn lầm lũi trong bóng tối. Say cái hơi men của một hạnh- phúc-chưa-có-thật trong bóng tối. Bóng tối của đất trời. Bóng tối của thế gian. Bóng tối đã chụp xuống đời ông, đời bao nhiêu người khác trong từng giờ, từng ngày, từng tháng năm. Và bây giờ thì ông đang chạy trong bóng tối mà lòng thì mơ về một thứ ánh sáng của hạnh phúc.

    Ông mệt lã ngồi xuống bên bờ một cái mương trước lối vào cái chòi của minh. Hình như có một tia sáng yếu ớt rựng lên ở phía xa bầu trời, lác đác vài tiếng gà eo óc gáy nặng nề đâu đó không đủ sức xua đuổi khí lạnh u uất đang trùm lên mọi vật.

    Ông gắng đứng dậy đi về phía chòi của mình cũng vừa lúc liếp cửa chòi hé mở. Một người đàn ông hơi khom lưng xuống để bước ra, chợt nhìn thấy có người đến, ông ta quay ngay vào. Ông bỡ ngỡ đứng lại. Và chỉ một thoáng sau, vợ ông bước ra đi vội về phía ông. Khuôn mặt nàng lạnh lùng dù đôi mắt hãy còn ngái ngủ. Nàng không nhìn ông, đưa tay chỉ về hướng mà ông vừa từ đó đi tới:

    - Có lẽ ông nên đi khỏi đây thì hơn, nàng nói, tôi đã tự lo cho tôi được rồi, và ông, ông cũng hãy biết tự lo cho ông đi. Mong rằng ông không bao giờ trở lại đây nữa.

    Tia sáng yếu ớt không đủ sức xuyên qua lớp mây mù đang ùn lên khắp nơi. Trời chưa kịp sáng hình như đã tối lại. Người đàn ông nghe tim mình nhói đau, dòng máu lạnh tanh đọng từng cục len đi lạo xạo trong người ông. Không một lời, ông quay lại lối cũ, con đường ông vừa mới đi qua trong đêm tối, giờ trở lại, ngày vẫn chưa lên.

    (Ghi chú của tác giả: Hình như người đàn ông sau đó có tìm lại căn chòi của bà lão nhưng không gặp, bà đã bỏ đi đâu hay đã chết, không ai biết. Người đàn ông thì nghe đâu sau đó mấy năm đã định cư ở nước ngoài. Và cho đến bây giờ chưa bao giờ tác giả gặp lại hay biết tin tức gì.)


    Lê Nam Phương (vantrungle.blog)
    Thư Quán Bản Thảo tập 31, Tháng 4-2008
    Last edited by Phòng Trực; 10-03-2019, 10:52 PM.

    Leave a comment:


  • Phòng Trực
    started a topic Truyện Ngắn Lê Văn Trung

    Truyện Ngắn Lê Văn Trung

    Như Chiếc Thuyền Trôi – Lê Văn Trung


    Tôi quyết định không về và cũng không ở lại Qui Nhơn làm gì. Tôi sửa soạn ăn thêm một cái tết tha hương. Thật là buồn, làm sao có thể biết rõ ràng quê hương tôi để bây giờ cứ nghĩ tôi là kẻ tha hương. Tôi không có một nơi để nhớ về, không có một thời trẻ thơ để hồi tưởng. Cha tôi lênh đênh như một chiếc thuyền trên bờ vô vọng. Và tôi nằm trong chiếc thuyền đó. Ai cũng có quá khứ, ai cũng có một thời xanh nồng tuổi trẻ đã qua. Tôi bỗng vụt lớn lên, rơi hẳn từ khoảng không mù mịt. Tôi không có khoảng thời gian tuổi trẻ, tôi chỉ thấy tôi đang già nua. Tôi đã nghe Nguyệt kể về tuổi thơ của nàng và tôi thèm.

    Cái gì xuôi tôi buồn bã thế này và khiến tôi không về, dù nơi đó còn có ba và hai em tôi, dù nơi đó còn có những ngọn đồi thấp thoai thoải chập chùng mà đến mùa này bông mua nở tím cả khu mộ má tôi. Cái gì xuôi tôi không ở lại đây dù thân tình vây bọc: chị tôi, mấy đứa cháu ngoan và hồn nhiên. Nhưng tôi biết rằng dù tôi có về, ở lại hay đi thì nơi nào cũng chẳng là quê hương tôi. Nhiều lúc tôi nghĩ phải tạo cho mình một khung trời nào đó có dĩ vãng êm đềm của tôi, như bao người khác; có mẹ tôi đốt đèn dạy tôi những mẫu tự đầu tiên, có những tối mẹ buông màn cho tôi ngủ và trong mơ tôi thấy mẹ biến thành bà tiên đã cho tôi chiếc đũa thần để tôi gõ vào nỗi ước mơ hiền lành của tôi. Ôi, nhưng tôi không thể tưởng tượng để dối mình như vậy được, tôi sẽ rơi vào nỗi thất vọng cay chua.


    Tôi sống và luôn luôn như chọn những quán trọ tạm thời, nên việc ở, về hay đi cũng chỉ là những dấu mốc cho một chặng đường. Cũng như người ta đi tìm một thứ hạnh phúc. Khi đuổi bắt đối tượng người ta loay hoay chạy từ chỗ này qua chỗ khác, và khi đối tượng đó nằm trong tay thì ôi thôi! Không phải là thứ hạnh phúc mà người ta muốn tìm. Cũng như người con gái mười ba tuổi dễ yêu, dễ chán, dễ quên, dễ tạo cho mình những khung trời khác, những giấc mơ khác vì tuổi còn non và đời còn dài. Tôi cũng là người muốn đổi thay và tạo ảo tưởng cho mình. Nhưng tôi dễ chán và khó quên. Thành phố này, con đường này, khu giải trí này đã trở nên quen thuộc đến nhàm chán và tôi muốn bỏ đi, có dịp bỏ đi để hứa hẹn ngày trở lại xem như một đổi thay dù nó chẳng đổi thay chút nào.

    Và tôi đã đi. Hồng đón tôi ở trạm xe ca. Hai đứa bạn sau bốn năm trời gặp nhau mừng rở. Hồng kêu một chiếc taxi. Chúng tôi ngồi băng sau nhìn nhau cười. Phố đã lên đèn, tôi đưa tay xem đồng hồ, gần tám giờ rồi. Đêm nay tôi sẽ đón giao thừa ở thành phố xa lạ này. Lòng tôi bỗng dưng nôn nao kỳ lạ. Phải chăng chút đời thanh xuân còn sót lại, và chiều nay hé nở trong tôi. Không. Đó chỉ là trạng thái khấp khởi của một lần đổi thay. Trạng thái của một người vừa nhận được những sinh hoạt mới, những hình ảnh lạ đã đập vào nhãn quan và chạy luồn trong cơ thể khiến mạch máu dồn dập và trái tim nhịp sai lạc, hết vẻ bình thường. Gió hắt hơi mát của cơn mưa buổi chiều còn sót lại. Tôi ngữa người thoải mái trong lòng xe mơ màng nghĩ về chiếc thuyền của cha tôi trên mặt nước mông mênh. Đời con rồi cũng thế. Phải không. Một chiếc thuyền và một mặt nước vô bờ.

    Nhà Hồng ở trong con hẽm của khu Lò gốm vùng Chợ Lớn. Hồng đưa tôi lên gác. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ lại Hồng. Cái vẻ mặt non và cái đầu tóc quăn ngày nào vẫn còn, nhưng hắn có vẻ ốm quá. Tôi hỏi ra mới biết hắn nhịn ăn cho sụt cân và được hoãn thêm một thời gian vì lý do sức khỏe. Ôi cái thời đại chúng ta. Có những căn bịnh mà y dược văn-minh-đến-mặt-trăng rồi vẫn không sao trị được. Mấy năm rồi tôi đóng cái vai hướng dẫn tinh thần với đám học trò ngỗ ngáo cũng chẳng qua là tránh “cầm súng làm người yêu nước”. Đó cũng là cái bịnh. Tôi mỉm cười và thầm cám ơn căn bịnh đã nuôi tôi còn sống đến hôm nay. Hay ít ra cũng còn đủ tay chân mặt mày. Mỗi người đều có một lý do để sống. Nếu có một đổi thay nào bên kia cõi chết thì tôi cũng tìm một cái chết êm ái cho tâm hồn mình. Tôi không muốn mình đi về bên kia thế giới với thân thể tàn tật. Tôi sẵn sàng chấp nhận cái chết nhưng là cái-chết-phải-có-của-đời-người. Không sống được nữa thì chết. Tôi không chấp nhận cái chết khi tôi còn đủ sức để sống. Người ta thường ca ngợi “chết cho lý tưởng” thì tại sao không để tôi chết cho cái lý tưởng của tôi? Tôi mỉm cười cho ý nghĩ của mình và đứng dậy kéo Hồng xuống phố.

    Hồng lấy chiếc xe máy dầu và hai đứa đèo nhau đi. Chúng tôi quyết định rong ngoài phố cho đến giờ giao thừa. Phố có vẻ thưa người hơn buổi chiều tôi vừa đến. Giờ này chắc ai cũng lo sửa soạn cúng ông bà và đón một năm mới hy vọng hơn năm qua. Tôi không đoán hiểu hết được họ hy vọng gì, nhưng tôi biết rõ ràng trong lòng mọi người là hy vọng ăn cái tết thanh bình, không ước mơ xa hơn, sự hòa bình vĩnh viễn trên đất nước này. Một vài chiếc taxi lướt qua, vài chiếc xích lô đạp vội vàng như muốn bắt kịp giây phút bình yên dễ tan dễ vỡ của đêm tạm ngừng tiếng súng: 24 giờ hưu chiến. Cứ an lòng mà đi. Tôi tự nhủ thầm. Long rong cho hết phố phường. Một đêm hòa bình của đất nước. Bỏ đi uổng lắm. Những dãy phố cao nghệu, đèn sáng rực muôn màu. Những con đường rậm bóng cây. Tự dưng tôi thấy những hàng thép gai quanh những cộng sự cũng có vẻ yên lành. Đi cho hết mấy phố Saigon. Biết đâu ngày mai không còn như thế nữa. Bỗng từng tràng tiếng nổ vang lên. Tôi đánh thót sau xe. Hồng quay lại cười.
    - Pháo giao thừa đó. Yên lòng đi.

    Từng tràng pháo liên tiếp nỗ theo sáng lòe hai bên phố. Xác pháo tung lên đỏ ối như những bông phượng cuối mùa rụng đầy sân trường. Thì ra mọi người vẫn còn yên vui. Sao tôi sớm bi quan thế! Tôi bảo Hồng chạy chầm chậm. Đêm còn dài mà. Những tiếng cười chen với tiếng pháo vang vang trên một tầng lầu cao. Pháo nỗ đầy khắp các ngã đường và ở đâu cũng có vẻ rộn ràng. Thì ra chúng ta còn sống trong một phút thanh bình.

    *
    * *

    Hồng đẩy xe vào nhà. Chúng tôi ngồi trên mấy cái ghế kê gần bên thang gác. Hồng lấy chai rượu ngâm thuốc bắc rót ra hai cái ly nhỏ đặt trên cái thùng kê gần nơi đó dùng làm cái bàn. Hắn nhìn tôi, cười:

    - Bây giờ mình say chớ. Rượu hão hạng đó. Để tao đi lấy dưa chua.

    Hồng vừa nói vừa đi ra phía sau đem ra một bình đựng củ hành củ cải. Tôi với tay bốc một củ hành nhai nhai và ngụm một ngụm rượu.

    - Rượu ngon à. Khá lắm.

    Hai đứa tôi chén tạc chén thù gần nửa chai rượu. Giọng Hồng có vẻ khề khà:

    - Mày không lấy vợ cho rồi mày. Có nghề có nghiệp lo vợ con đi là vừa. Tụi tao …

    - Tụi mày làm sao? Vợ con cái con khỉ. Tao lo cái thân tao còn chưa kham.

    Hồng ngồi ngay dậy.

    - Chả lẽ tụi mình ở giá suốt đời hả mày?

    - Không cả đời cũng vài chục năm nữa.

    Hồng cười nhỏ trong miệng.

    - Mấy năm rồi mày có về ngoài đó không?

    Tôi không trả lời Hồng mà nhìn lên tấm ảnh được lồng khung kỹ lưỡng treo trên vách:

    - Mày còn yêu Mai dữ thế à?

    Hồng chồm dậy:

    - Ai nói với mày đó?

    Tôi chỉ tấm hình, Hồng nhìn theo, thở dài:

    - Tao tưởng quên được. Nhưng không mày à. Có một điều là tao không về ngoài đó nữa.

    Tôi uống thêm một tí rượu:

    - Mày về cũng thừa rồi. Mai đã có con.

    Hồng bưng ly rượu nốc cạn và rót thêm. Tôi đã thấy choáng váng và không uống nữa.
    Hồng hỏi tôi:

    - Mày có định đi Cần Thơ không?

    Thăm Nguyệt? Tôi chưa hề nghĩ từ khi còn ở Qui Nhơn sẽ vào đây đi Cần Thơ thăm Nguyệt. Còn gì nữa mà tìm kiếm nhau. Sáu bảy năm trời rồi. Tôi tưởng tình yêu đã chết hay cố giết chết đi, ít ra nơi Nguyệt, Nàng hẳn đã quên tôi và đang sống bình yên, có thể bên người chồng có chút ít địa vị, danh giá hơn tôi. Tôi còn tìm kiếm làm gì chỉ phá vỡ hạnh phúc của nàng – nếu thực ở đời có một thứ gọi là hạnh phúc – Tôi đã vô tình gây ra đổ vỡ bây giờ tôi phải gánh chịu. Không thể chia xẻ nỗi khổ của mình cho một người mình yêu. Tôi đã vì chút lòng tự ái: một người nghèo, vô nghề nghiệp, không tương lai. Bác nàng đã nói với nàng về tôi như thế. Nàng thì nói mãi về một quá khứ vàng son. Tôi làm gì có được một dĩ vãng êm đềm đó. Tôi đã tự ý lách mình vào lớp vỏ khô cứng sần sùi nghèo nàn của mình. Và nàng đã hận thù tôi phản bội. “Phải thế không? Nguyệt?”


    Tôi thầm gọi trong trí và bảo Hồng:

    - Không, tao vào đây chơi với mày rồi phải lo về dạy chứ. Vả lại ...

    - Sao?
    - Thì mày đủ can đảm về đó không?
    - Tao khác.

    - Ừ thì mày khác nhưng tao cũng có lý do của tao chứ. Mày bắt tao đi sao được.

    Hồng cười méo xệt:

    - Thì ai bắt mày. Cái thằng. Thôi uống đi, uống nữa đi, uống cho say.

    Hồng rót và tôi nốc cạn liên tiếp mấy ly. Hồng vỗ vai tôi cười khà khà:

    - Khá, khá lắm, ha ha! Tửu lượng cao đấy.

    Tôi phải uống cho say để ngủ đêm này, để khỏi phải suy nghĩ gì hết. Tôi cầm phần rượu còn lại trong chai uống cạn và ngữa người ra ghế mệt nhoài.

    - Uống nữa nhé, để tao lấy chai khác.

    Nhưng chai rượu lấy ra để nguyên trên bàn, không đứa nào uống được nữa. Hồng ngữa cổ ra sau ghế lim dim một lát đã nghe tiếng gáy khò khè. Tôi bò lên gác gieo mình xuống chiếc giường bố, rã rời.

    Tôi mở mắt tỉnh dậy tưởng trời sáng. Bên dưới ngọn đèn vẫn sáng trưng và Hồng gục đầu ngủ trên thùng gỗ. Tôi đưa tay xem đồng hồ. Mới 5 giờ. Giờ thứ năm của một năm mới bắt đầu. Tôi lại già thêm 5 tiếng đồng hồ nữa và gần thêm cõi chết một đoạn đường. Tôi không biết tôi mong ước gì, dự tính gì. Tiếng pháo vẫn còn đì đẹt nhặt thưa xa xa. Tôi trở dậy xuống ngồi trên chiếc ghế cũ. Bình dưa chua vẫn còn mở nắp và một ly rượu uống dở. Tôi mở nút chai rót thêm đầy ly. Chất rượu làm mát cổ họng đang khô và lòng tôi tỉnh lại. Đời con rồi cũng thế. Phải không. Một chiếc thuyền trên mặt nước vô vọng. Tôi lục lọi trong ký ức còn tiềm tàng chăng những hình ảnh tôi đã quên vùi. Một vòm trời xanh. Một phiến mây hồng. Một chiều trên đồng cỏ. Một tối trong gian phòng ấm cúng. Một khuôn mặt dịu hiền cúi xuống. Không. Tuyệt nhiên không có gì cả. Tôi chỉ thấy mơ hồ một khoảng mờ mịt. Tôi đã bị cắt đứt mất dĩ vãng. Tôi bị xô bổ vào hiện tại và phải đối kháng với từng nỗi không may. “Rồi con cũng chỉ là chiếc thuyền lênh đênh trên những bến bờ vô vọng. Hiện tại cũng chỉ là cái bến trong muôn ngàn cái bến của một trường giang bất tận”. Tình yêu có níu giữ chúng ta được không? Hỡi Nguyệt. Sáu bảy năm rồi nó vẫn không chết dù tôi cố giết. Tôi đào huyệt chôn lấp, nó vẫn bùng dậy. Nhưng sao nó đày đọa thế này? Hay tình yêu cũng chỉ là cái bến ảo tưởng ta ghé đến trong ngàn nỗi đắng cay.


    Tôi bỗng nghĩ sáng mai tôi phải xuống Cần Thơ. Anh phải tìm gặp em, Nguyệt ạ. Bảy tám năm trời rồi, không thể kéo dài thêm được nữa. Những giọt nước cuối cùng trên phi trường Đà Nẵng của Nguyệt năm nào bây giờ lại nhỏ vào tôi niềm xao xuyến khôn cùng, nhỏ vào tôi từng giọt đắng cay mà giờ đây tôi thấy quí giá, trong và đẹp. Như những giọt sương. Tôi phải gặp em, ít ra cũng cho em hiểu rằng buổi chiều trên phi trường năm xưa là giờ sinh nhật tình yêu vĩnh cửu của chúng ta. Em đâu nhìn thấy được buổi chiều đó, phải không? Em đã ra đi với chút ít giận hờn dù lòng thắt lại. Em đã ngộ nhận. Anh đã im lặng. Và như thế kéo dài mãi cho đến ngày nay. Tôi hận tôi sao không nén một chút tự ái, gạt một chút ương ngạnh, ngày nào.
    *
    * *
    Tôi quyết định ngày mùng ba đi Cần Thơ và không cho Hồng hay biết. Sáng sớm hôm đó tôi đi và để lại cho Hồng mấy chữ. Tôi định tìm cho Nguyệt một món quà nhưng không biết mua thứ gì. Cuối cùng tôi nghĩ đến cái vòng cẩm thạch đã cẩn thận mang theo từ khi còn ở Đà Nẵng. Thứ vòng bằng đá vẫn được làm ở Non Nước. Tôi đã giữ nó như một kỷ vật. Tôi đã mua từ lâu, hồi còn học nhất cấp trong một chuyến đi chơi với bạn bè, tôi định gởi tặng Nguyệt nhưng không biết vì sao tôi còn giữ đến bây giờ.

    *
    * *


    Tôi ra khỏi quán, tìm một chiếc xích lô, nhưng không có, chỉ toàn loại xe lôi giống như loại xe chạy ở Bồng Sơn. Tôi ngồi trên xe và về ngã nhà Nguyệt. Tôi dừng trước căn nhà xa lạ và bỗng dưng tôi muốn bỏ quay đi. Nhưng một người con gái đã tiến ra tận cửa nhìn tôi tò mò:

    - Xin lỗi ông hỏi ai?

    Tôi hỏi Nguyệt và cô gái trả lời tôi biết là Nhụy, em Nguyệt.
    - Chị Nguyệt không còn ở đây, mời ông vào nhà.

    Tôi định cám ơn quay đi, nhưng Nhụy đã quay vào trong.
    - Má, ông này hỏi thăm chị Nguyệt.

    Tôi tần ngần bước vào nhà cúi chào người đàn bà, bà mời tôi ngồi ghế và bảo Nhụy:

    - Pha trà uống con.

    Trong lúc Nhụy đi pha trà, tôi giới thiệu tôi là bạn Nguyệt ở Saigon xuống nhân tiện ghé thăm. Bà hỏi tôi phải người Trung không, làm tôi giật mình. Có lẽ nào bà lại biết tôi. Bà tiếp:

    - Nguyệt đã ở riêng rồi. Nó mới dẫn con nó coi hát bóng về có ghé đây. Mẹ con nó vừa ra khỏi đó.

    Nguyệt đã có chồng. Thế là hết. Tôi thấy chẳng buồn chẳng vui. Cuộc đời rồi mỗi người có một cảnh, phân định từ hồi nào, bởi một bàn tay vô hình nào. Chúng ta chỉ chấp nhận dù trong ngàn nỗi xót xa. Nguyệt đã yên vui. Tôi chẳng còn lý do gì để tìm kiếm nữa.

    Khi Nhụy bưng nước lên tôi đứng dậy xin phép cáo từ và xin địa chỉ của Nguyệt, nhưng chắc là tôi không đủ can đảm đến thăm Nguyệt nữa, dù đến thăm như một người bạn thăm một người bạn.

    Cầm cái địa chỉ Nguyệt trên tay tôi đi thẳng về khách sạn trong lòng thầm nhủ sáng mai phải về sớm. Giờ phút này tôi mới thấy tìm đến Nguyệt là vô lý. Thế là hết. Vĩnh viễn không bao giờ tôi tìm gặp nàng nữa.

    *
    * *

    Khi mở cửa phòng tôi kề tai người bồi phòng nói nhỏ. Hắn gật gật đầu và tôi dúi vào tay hắn tờ giấy năm chục. Tôi khép hờ cửa nằm chờ. Người con gái hiện ra ở khung cửa, tôi ra dấu nàng lách vào không quên khóa cửa lại. Tôi lấy diêm bật lửa đốt điếu thuốc nằm nhả khói lên trần nhà, lòng trống rỗng. Người con gái đã nằm gọn trên giường và mỉm cười với tôi. Tôi quay sang:

    - Em tên gì?
    - Nguyệt.

    Tôi như hốt hoảng và hỏi lại:

    - Tên gì?
    - Nguyệt. Gì mà hết hồn vậy?

    Nguyệt. Tôi thầm gọi trong miệng và Nguyệt quàng tay qua vai tôi.
    - Tại sao em tên Nguyệt?

    Thiếu nữ trố mắt nhìn tôi:

    - Ơ hay.

    Tôi bỉu môi:

    - Mấy cô thì có hàng vạn tên, nhưng tại sao với tôi cô bảo là Nguyệt.

    - Ờ thì em nhớ tên nào nói đại tên đó.

    Tôi thấy nàng tội nghiệp:

    - Anh yêu em, Nguyệt à.

    Nguyệt đẩy tôi ra:
    - Lãng xẹt.

    Tôi lầm bầm:

    - Ừ lãng xẹt nhỉ.

    Nguyệt trườn lên nhìn vào mắt tôi

    - Anh chàng này thất tình hả.
    - Ừ, thất tình em đó, Nguyệt.

    Nguyệt choàng ngồi dậy:

    - Cái gì đây anh.

    Nguyệt mở cái hộp đựng chiếc vòng cẩm thạch của tôi ra.

    - Chèn ơi, anh mua cho ai đây hả?

    Tôi nhìn Nguyệt:

    - Cho em đấy. Nguyệt à.

    Nguyệt nheo mắt:

    - Thôi đi cha.

    Tôi cầm chiếc vòng đeo vào tay Nguyệt.

    - Cho em thật mà.

    Rồi kéo nàng nằm xuống.

    Tiếng động dưới phố đã im. Có lẽ trời đang mưa nhẹ. Tôi vói tay tắt đèn và Nguyệt trườn lên ôm quấn lấy tôi như một con mèo. Tôi trôi trên vùng lặng câm. Đời con ngàn đời vẫn thế. Như chiếc thuyền trôi. Như chiếc thuyền trôi…


    Lê Văn Trung


Hội Quán Phi Dũng ©
Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




website hit counter

Working...
X