Thông báo

Collapse
No announcement yet.

Bạch Mã

Collapse
X

Bạch Mã

Collapse
 
  • Filter
  • Giờ
  • Show
Clear All
new posts

  • Tiếng Còi Xe Lửa

    Tiếng Còi Xe Lửa
    Đoàn Xuân Thu

    Không phải chạy được ra tới nước Úc nầy đây tui mới làm thân lưu lạc, mà ngay hồi trong nước là tui đã lưu lạc triền miên rồi.

    Vì lẽ thân phụ tôi làm công chức ngành Bưu Ðiện. Cứ bổ đồng hai năm lên một trật, là đổi đi từ Ty Bưu Ðiện nầy tới Ty Bưu Ðiện khác.

    Ở một chỗ mới vừa hơi âm ấm, là cả gia đình phải bồng bế nhau đi thì không gọi là lưu lạc sao được hè?

    Lưu lạc rày đây mai đó tưởng đã quen. Ngờ đâu giờ đây trôi nổi tận quê người. Hơn hai mấy năm rồi chưa trở lại dù lòng vẫn ngóng trông về quê cũ.

    Ðêm nay, rót tràn ly rượu đỏ, trước bàn phím vừa gõ cóc cóc viết bài vừa nghe ca sĩ Hoàng Oanh ngâm thơ: “Ôi cố hương xa nửa địa cầu… Nghìn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau… Ðêm nay ta đốt sầu lưu lạc… Trong khói men nồng hạnh phúc xưa …”

    Tui lim dim thả hồn về ngày xưa quê cũ…Tui nghe tiếng còi xe lửa còn đọng lại ở đâu đây.

    oooOooo

    Cuối thế kỷ 19, ông bà mình muốn đi đây đi đó trên bờ, gần thì cuốc bộ, xa hơn một chút thì đi xe bò, xe ngựa.

    Xuống sông gần thì đi xuồng ba lá, xa hơn một chút thì ghe tam bản. Xa hơn nữa thì ghe bầu.

    Rồi Tây tới, nền văn minh cơ khí ăn đứt nền văn minh nông nghiệp, (con trâu đi trước, cái cày theo sau) vì: “Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo/ Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.”

    Khói tàu bay là vì từ thuyền chạy bằng buồm giờ chạy bằng máy hơi nước nên thực dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha… xua quân đi khắp thế giới chiếm nước người ta để làm thuộc địa, để cướp tài nguyên. Tài nguyên là chiến lợi phẩm phải được chuyên chở càng nhanh càng tốt. Vậy là hệ thống giao thông, đường bộ và đường hỏa xa ra đời.

    Giữa năm 1881, thực dân tính đem vật liệu từ Pháp sang để làm đường rầy xe lửa từ Sài Gòn đến Vĩnh Long, sau đó sẽ nối với Nam Vang, thủ đô của Campuchia (cũng là thuộc địa của Tây). Dự chi khoảng 12 triệu Phật lăng (franc).

    Sếp công trình là kỹ sư công chánh, sĩ quan Công binh của Pháp. Cu li là người Việt bản xứ lên tới 11 ngàn người.

    Ðường rầy chạy qua vùng đất yếu, vốn là phù sa của dòng Cửu Long bồi đắp, nên phải tới ngày 20 tháng Bảy 1885, đường xe lửa Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71 cây số, khổ đường rầy bề ngang 1m mới xong.

    Từ Sài Gòn tới Mỹ Tho sông rạch chằng chịt chắn ngang. Do vậy, hãng Eiffel cùng lúc chế tạo nên 2 cây cầu gồm cầu sắt bắc qua sông Vàm Cỏ Ðông ở Bến Lức dài 550m và bắc qua sông Vàm Cỏ Tây ở Tân An dài 133m để cho xe lửa qua sông.

    Thế nhưng 4 năm sau, đường rầy làm xong mà cầu vẫn chưa có. Vậy là các toa tàu đã được tạm tách rời để đưa lên phà qua sông; sau đó lại được nối vào rồi cho chạy tiếp.

    Mãi đến tháng Năm, năm 1886, sau khi 2 cầu sắt được hoàn thành thì xe lửa có thể đi một mạch từ Sài Gòn đến Mỹ Tho.

    Từ Sài Gòn về Mỹ Tho đường rầy xe lửa chủ yếu nằm phía trái, thỉnh thoảng có đoạn nằm bên phải của quốc lộ 4.

    Rồi đôi khi từ bên trái quốc lộ quẹo sang phải là phải cắt ngang đường. Xe mô tô chạy không cẩn thận, đang trên đường nhựa bon bon bỗng lên trên hai đường rầy trơn lùi, là văng xuống sông Bảo Ðịnh như đã từng xảy ra ở Cua Ðạo Ngạn gần nhà tui ở, trước khi vào tới Mỹ Tho.

    Rồi cũng vào năm 1963, lúc học đệ thất trường Petrus Ký, mỗi chiều tan học được anh chở sau “bọt ba ga” xe đạp.

    Qua đoạn đường rầy từ đường Phạm Viết Chánh vào bùng binh Ngã Bảy Cộng Hòa, bao giờ anh cũng kêu: “Ê xuống đi mậy!” Rồi ảnh dắt xe qua đường rầy rồi mới leo lên yên chạy tiếp.

    Vì sợ đường rầy sau mưa trơn trợt làm xe ngã thì thằng nhỏ, tức là tui té u đầu, là về bị má quánh với cái tội hổng thương em.

    Hu hu! Tội nghiệp cho thằng anh của tui quá xá!

    oooOooo

    Chuyến xe lửa đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn nằm ở đầu đường Lê Lai gần chợ Bến Thành, theo các đường: Cống Quỳnh – Phạm Viết Chánh – Hùng Vương – Hồng Bàng – Kinh Dương Vương – Ngã ba An Lạc rồi ra Quốc lộ 4.

    Trên Quốc lộ 4, xe lửa dừng lại ở các ga, bổ đồng cách nhau. 4, 5 cây số như: Bình Ðiền, Bình Chánh, Gò Ðen, Bến Lức, Cầu Voi, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương và kết thúc tại ga Mỹ Tho.

    Ga Mỹ Tho là ga chót ở cuối đường Gia Long, đầu đường Trưng Trắc, gần vườn hoa Lạc Hồng, có cây da cũ bến đò xưa và một hàng dương dọc theo sông Tiền.
    Hồi nhỏ được ba má dắt đi Sài Gòn vô Sở Thú coi khỉ có giống tui hông.Về lại Mỹ Tho, lúc đó đã có autorail, tối tân hơn, tiếng còi kêu “pin, pin”

    Chớ hồi xưa nghe má tui kể lại khi xe lửa chạy bằng hơi nước thì tiếng còi nó kêu “hoét, hoét”!.

    Từ Mỹ Tho lên, sản vật miệt vườn như mận hồng đào Trung Lương, dừa Bến Tre, chôm chôm mít, mãng cầu, sầu riêng miệt Vĩnh Long hay cá mắm từ miền Tây đi bằng tàu tới Mỹ Tho cũng lên xe lửa rồi đi tiếp về Sài Gòn, Biên Hòa.

    Mới đầu nhà thầu tư nhân Joret đã thuê tàu biển chở được ba đầu máy 14 toa hành khách và 70 toa hàng. Sau làm ăn khá quá, lời khẳm chở qua thêm hai cái nữa. Ngày chạy lên xuống 5 chuyến cả thảy.

    Năm 1896, tiền lời là 3.22 triệu francs, đến năm 1912, còn cao hơn đến 4 triệu francs nhờ hành khách lên đến vài ngàn người mỗi ngày.

    Hình ảnh chiếc xe lửa dài ngoằng chạy “xì khói” ầm ầm trên 2 thanh sắt đã là “kỳ quan” đối với người dân miệt ruộng, miệt vườn.

    Cũng nhờ có tuyến đường sắt này mà Mỹ Tho trội hơn so với các nơi khác ở Miền Tây, kể cả Cần Thơ.


    Bảo Huân

    oooOooo

    Thực dân Pháp đứa nào làm lớn cũng khoái nịnh và được nịnh như Mông xừ Charles Le Myre de Vilers (1833 – 1918) làm Thống đốc Nam Kỳ từ 1899 tới năm 1882.

    Ông Tây mũi lõ nầy là người chấp thuận dự án xây đường sắt Sài Gòn Mỹ Tho vào năm 1881 nên được đặt tên cho một trong những đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước đầu tiên.

    Học giả Vương Hồng Sển, người Sóc Trăng chắc đã từng đi tàu khách tới Mỹ Tho rồi lên xe lửa tới Sài Gòn đèn ngọn xanh ngọn đỏ, chọc quê rằng: “Mỗi lần chạy, đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói, vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không nổi… trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng “xả hơi” ồn ào oai vệ khiếp”.

    Không có gì hài hước, xỏ xiên một cách thâm trầm khi so sánh hình ảnh một đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước với một tay Thực dân hạng nặng làm tới chức Thống đốc Nam Kỳ như vậy.

    oooOooo

    Nhưng đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20, xe hơi phát triển cùng hệ thống đường bộ Sài Gòn – Mỹ Tho được đầu tư gần như xa lộ nên người ta chuyển sang đi đường bộ. Có những ngày cả đoàn tàu chỉ có vài chục người.

    Xe hàng xe đò chạy nhanh hơn nên tiện lợi hơn cho hàng hóa và hành khách không phải chờ chực đến ga. Phần hỏa xa cũng thiếu tiền đầu tư thêm. Hậu quả đương nhiên là sập tiệm. Chuyến xe lửa cuối cùng từ Mỹ Tho lên Sài Gòn vào ngày 30 tháng Sáu năm 1958.

    Ðường rầy xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho hưởng thọ được 73 năm rồi vĩnh biệt cõi đời trong sự thương tiếc của biết bao người dân xứ Mỹ (Tho).

    Lúc đó tui mới 7 tuổi, học lớp Tư (tức lớp Hai bây giờ) từ trường tiểu học Trung Anh đi bộ dọc theo đường sắt về nhà mà mãi mãi không còn được nghe tiếng còi tàu, tiếng ‘síp lê’ như con quái vật buồn chơi huýt gió nên tui cũng buồn thôi hết biết.

    Có những điều trong tâm tưởng mình bao giờ cũng nghĩ là chắc chắn như tình em xứ Mỹ (Tho) vì dại khờ nghe em thề bán mạng rằng “Chừng nào xe lửa Mỹ bung vành; Tàu Tây kia liệt máy em mới đành xa anh!”

    Nào ngờ thời thế đổi thay, vành xe lửa bằng thép cứng ngắc mà còn bung thì lời thề hẹn của em xứ Mỹ (Tho) cũng banh xà rông, thì ngu sao mà sầu chi hở bạn?


    DXT – Melbourne
    nguồn:
    http://baotreonline.com/tieng-coi-xe-lua/

    Comment


    • Viết Tặng Cho Người Nằm Xuống Ngày 30/4/1975

      Viết Tặng Cho Người Nằm Xuống Ngày 30/4/1975
      Nguyễn Thanh Tâm

      Để kỷ niệm 30 năm ngày Quốc Hận, tôi xin ghi lại đây cái chết hào hùng một người bạn cũng là một cộng sự viên thân tín, một nhân viên đắc lực đã từ chối ra đi di tản để ở lại tìm cái chết chứ không đầu hàng Cộng Sản. Tôi ghi lại chuyện này cũng để tự nhận mình là kẻ không xứng đáng, tuy là cấp chỉ huy trực tiếp nhưng không bằng một thuộc cấp đã hy sinh ở lại, trong khi tôi tìm đường để thoát thân với gia đình, bỏ lại người bạn thân tín và bao nhiêu thuộc hạ đã cùng tôi sát cánh bên nhau hằng bao nhiêu năm trời.

      Bây giờ sau 30 mươi năm, tôi kể lại sự việc này để hy vọng linh hồn người bạn của tôi nếu có linh thiêng xin chấp nhận lời tạ lổi của tôi. Cũng trong bài này , tôi xin trả lời câu hỏi mà những nhà sưu tập những câu chuyện về ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã hỏi: ngày 30 -4-75 năm đó bạn đang làm gì và ở đâu? Sau đây tôi xin kể lại những gì đã xảy ra sáng ngày 30/4/75 tại Cần Thơ và đã đưa đến cái chết của Thiếu Tá Lương Bông, một phụ tá rất đắc lực của tôi.


      Xin mời bạn đọc theo dõi câu chuyện.

      Thiếu Tá Lương Bông làm Sĩ Quan Phụ Tá cho tôi khi tôi phụ trách cơ quan ANQĐ ở tỉnh Sa-Đéc. Sa-Đéc là một tỉnh nhỏ gồm có 4 quận, trước kia là Tỉnh, trong thời Đệ Nhất Cộng Hoà trở thành Quận trực thuộc Tỉnh Vĩnh Long, sau thời Đệ Nhị Cộng Hoà được trở lại thành Tỉnh như cũ, tuy nhiên bên phía VC thì họ vẫn coi Sa-Đéc là một huyện của Tỉnh Vĩnh Long, trong thời gian này tình hình tại Tỉnh Sa-Đéc tương đối có an ninh, không có những trận đánh lớn, tuy vẫn còn những trận nhỏ nhắm vào các đồn bót xa xôi hẻo lánh, đặc biệt là Quận Đức Tôn (ngày xưa gọi là Cái Tàu Thượng). VC tập trung nỗ lực vào công tác Binh Địch Vận và nội tuyến để phá hoại hàng ngũ xã ấp của ta. Trong thời gian này Thiếu Tá Bông phụ giúp tôi trong công tác ngăn chận và loại trừ các phần tử VC xâm nhập vào hàng ngũ ta rất là hữu hiệu.

      Vào năm 1973, tôi được lệnh thuyên chuyển về Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ, đang ở một tỉnh tương đối nhỏ và có an ninh, nay về một Tỉnh lớn gồm 7 Quận và 2 Quận của Thị Xã Châu Thành mà Quận nào cũng có vấn đề. Hơn nữa, nơi đây còn có Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 4, Phi Trường Trà Nóc, Phi Trường Cần Thơ, Bộ Chỉ Huy 4 Tiếp Vận và hàng chục đơn vị Quân Đội trú đóng rải rác khắp trong Tỉnh lỵ, tuy các đơn vị này đều có Phòng An Ninh hoặc Sĩ Quan AN đơn vị phụ trách về an ninh nội bộ, tuy nhiên về mặt an ninh lãnh thổ thì cơ quan chúng tôi phải phụ trách với sự trợ giúp của Sở 4 An Ninh. Về phần VC thì họ tập trung mọi nỗ lực đánh phá về quân sự, một mặt họ tận dụng mọi cơ hội, bằng mọi cách, dưới mọi hình thức để đưa người của họ xâm nhập làm lũng đoạn hàng ngũ các cơ quan đầu não của ta, một nơi được mệnh danh là Thủ Đô Miền Tây. Nói về các cán bộ Tình Báo CS, theo tôi nhận xét thì những cán bộ cấp dưới thì có vẻ rất mù mờ, khờ khạo nhưng những cấp trên của chúng thì rất tinh khôn, quỹ quyệt vì một số họ có sang học về tình báo ở các nước CS như Liên Sô, Đông Đức chẳng hạn, cũng như chúng tôi được gửi đi du học ở Okinawa (Nhật Bản), Mã Lai hay ở Hoa Kỳ vậy.

      Đảm nhận trọng trách rất nặng nề này, tôi thấy cần phải có một phụ tá đắc lực để đương đầu với địch, cho nên tôi đề nghị và được thượng cấp chấp thuận cho thuyên chuyển Thiếu Tá Lương Bông về với tôi, vì Thiếu Tá Bông rất có năng khiếu về Tình Báo, Phản Tình Báo như đã chứng tỏ lúc còn ở Sa Đéc. TT Bông quả thật xứng đáng cho tôi tin tưởng và khi về với tôi ở Tỉnh Phong Dinh/Cần Thơ đã chứng tỏ khả năng hoạt động chuyên môn, anh ta đã giúp tôi tiêu diệt và phá vỡ rất nhiều vụ binh vận, đặc công, nội tuyến rất ngoạn mục, bắt giữ nhiều cán bộ địch xâm nhập hàng ngũ ta và đặc biệt anh đã tổ chức đưa người của ta xâm nhập vào hàng ngũ địch chẳng những ở cấp Tỉnh Ủy mà còn lên cả BCH Miền của chúng để thu lượm tin tức. Những điệp viên này cung cấp cho ta rất nhiều tin tức rất có giá trị, đến nỗi cơ quan Tình Báo Quốc Phòng cũng như Tình Báo của Toà Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại Cần Thơ phải đến nhờ tôi phối hợp và chia sẽ những tin tức quý báu cho họ. Nhân tiện đây, tôi cũng xin nói thêm về cái ngành rất là bạc bẽo của chúng tôi, chúng tôi âm thầm chiến đấu với địch, tuy không “dàn binh bố trận”như các đơn vị chiến đấu, nhưng chúng tôi đã dùng trí não để đối phó với địch, nếu thành công thì cũng chẳng được nhiều người biết nhưng để thất bại thì lãnh đủ.

      Tôi còn nhớ hồi ở Sa Đéc, một buổi sáng sớm, Đại Tá Tỉnh Trưởng kêu tôi tháp tùng với Ông đi vào thăm một đồn ở Quận Đức Tôn mà đêm qua bị VC tấn công nặng nề, khi trực thăng đáp xuống sân đồn, một cảnh tượng vô cùng đau thương ở trước mặt chúng tôi, tất cả một Trung Đội hơn 30 người trú đóng trong đồn đều bị VC tiêu diệt, xác người nằm la liệt mọi nơi, chỉ duy nhất có một người còn sống sót, nhưng người đó lại là nội tuyến cho địch, lợi dụng lúc canh gác đêm khuya đã mở cửa đồn cho VC vào tàn sát tất cả đồng đội rồi đi theo họ luôn. Vụ này tôi bị “xát xà phòng”nặng nề, mặc dù trước đây tôi đã khám phá rất nhiều vụ tương tợ nhưng đâu có ai biết đến. Thành ra, nếu ngăn chặn được sự việc đừng để xảy ra thì ít người biết đến, nhưng nếu vì lý do gì đó mà không ngăn chặn được thì bị trách cứ là không chu toàn nhiệm vụ.

      Sáng ngày 30/4/75, như thường lệ, tôi đến Tiểu Khu để họp mỗi buổi sáng, khi tôi đến phòng họp thì thấy các sĩ quan Tham Mưu của Tiểu Khu, thay vì vào ngồi trong phòng họp như thường lệ để chờ Đại Tá, Tiểu Khu Trưởng đến chủ tọa thì họ lại tụm năm, tụm ba ở ngoài hành lang hoặc rải rác trong phòng họp để xì xào bàn tán mà tuy tôi không nghe họ bàn luận về việc gì nhưng tôi cũng đoán được là họ đang bàn tán về một sự kiện quan trọng vừa xảy ra tối hôm trước. Sau khi tôi đến bắt tay chào hỏi một số người, có người hỏi tôi: Sao nghe anh đi đêm hôm qua rồi? Tôi chỉ cười và đáp lại: Chứ anh đang bắt tay ai đây? Số là 3 giờ sáng đêm 29 rạng ngày 30/4/75, tôi được tin là Bộ Chỉ Huy Hải Quân Vùng 4 đã kéo cả lực lượng này ra đi và có cả Chuẩn Tướng Ch.D.Q. là Tham Mưu Trưởng của Quân Đoàn 4 đi theo, đặc biệt lại có tin đồn (hoàn toàn là tin vịt) là trong nhóm người đi theo Hải Quân còn có Đại Tá Tỉnh Trưởng và tôi nữa, do đó mà các Sĩ Quan Tham Mưu Tiểu Khu mới bàn tán như đã nói ở trên. Sau khi họp xong, Đại Tá Tỉnh Trưởng gọi riêng tôi ra gần cột cờ (vì chỗ này không có ai đứng gần) để bàn chuyện và sau khi thảo luận, chúng tôi đồng ý là với tình hình này chắc phải ra đi và chúng tôi cũng dự tính là sẽ ra đi tối hôm đó (lúc này vợ và con của tôi còn ở bên Sa-Đéc). Trong lúc này, Đại Tá Tỉnh Trưởng cũng ngỏ ý là đang có tin đồn ngoài dân chúng là ông ta và tôi đã ra đi trong đêm vừa qua, nên ông ta yêu cầu tôi đích thân lái xe đưa ông đi một vòng thành phố để trước là quan sát tình hình, sau là để trấn an dân chúng là chúng tôi vẫn còn có mặt ở đây. Sau khi đi một vòng thành phố, tôi đưa ông ta đến Tòa Hành Chánh Tỉnh, còn tôi trở về cơ quan. Khi về đến văn phòng thì tôi nhận được 2 cái lệnh:

      1.- Của Đại Tá S. (cấp chỉ huy trực tiếp của tôi trong ngành) yêu cầu tôi kiểm soát lại tất cả các Đơn Vị Trưởng trong thị trấn xem ai còn ở lại và ai đã ra đi .

      2.- Lệnh từ Quân Đoàn gọi tôi đến họp gấp, tôi cũng nói thêm là lúc này chưa có lệnh đầu hàng hay buông súng gì cả.

      Việc thứ nhất tôi giao cho Thiếu Tá Bông thi hành, việc thứ hai tôi lại giao cho Thiếu Tá Th. (một phụ tá đặc biệt khác) đại diện tôi đi họp bên Quân Đoàn, phần tôi cố tìm cách liên lạc với gia đình ở Sa-Đéc để thu xếp qua Cần Thơ cho kịp để ra đi tối hôm đó. Sau đó vì có lệnh đầu hàng, buông súng bất ngờ nên chúng tôi phải thay đổi lịch trình ra đi vào xế trưa ngày 30/4/75 Chúng tôi gồm có: Đại Tá, Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ và phần lớn các sĩ quan ở Tiểu Khu, các công chức bên Tòa Hành Chánh, một số sĩ quan ở bên Quân Đoàn 4 và nhiều nữa mà lâu quá rồi tôi không nhớ hết, một số lớn trong nhóm di tản này đều đem được gia đình theo, tất cả chúng tôi đều lên một chiếc ghe đò máy để đi dọc theo sông Hậu Giang hướng ra biển và chi tiết về chuyến ra đi này tôi đã có tường thuật khá đầy đủ trong một bài trước đây có liên quan đến bài viết về ngày cuối cùng của Thiếu Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn 4. Trong khi chúng tôi còn lênh đênh trên dòng sông Hậu Giang thì có ai đó trên ghe bắt nghe được đài phát thanh Cần Thơ, đài này có loan tin là tàu của chúng tôi đã bị bắn chìm trên đường di tản rồi. Sau này tôi mới kiểm chứng lại thì được biết sự việc như sau: Số là sau khi chúng tôi rời Cần Thơ thì Thiếu Tuớng, Tư Lệnh Quân Đoàn 4 đề cử Đại Tá Th. làm Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phong Dinh/Cần Thơ để thay thế Đại Tá D., sau khi nhậm chức, ông này có đưa ra lời kêu gọi gì đó trên đài phát thanh Cần Thơ và cũng trong dịp này, Đài có loan một tin giựt gân (không biết do đâu mà có) là chiếc tàu chở chúng tôi đi trên sông Hậu giang đã bị bắn chìm chết hết, trong đó đã nêu đích danh Đại Tá D. và cá nhân tôi. Tôi cũng xin nói thêm là, sau khi có lệnh buông súng đầu hàng, tôi có tập hợp các nhân viên trong cơ quan lại, lúc này có một số nhân viên đã bỏ đi về với gia đình, tôi cho biết là với tình hình này thì coi như không còn gì nữa, anh em ai về nhà nấy và tùy hoàn cảnh của mỗi người mà quyết định nên ra đi hay ở lại, nếu ai muốn đi thì theo tôi để đi, thật ra trong lúc này tôi cũng chưa biết phải ra đi bằng cách nào vì chúng tôi dự định đến tối hôm đó mới đi nên chưa chuẩn bị kịp ghe tàu gì cả. Tôi có hỏi riêng TT Bông có muốn đi hay không thì anh ta lưỡng lự một hồi rồi trả lời với tôi là với tình trạng này anh chưa biết quyết định ra sao, thôi thì cứ ở lại xem tình thế diễn biến như thế nào rồi sẽ tính sau và anh cầu chúc cho tôi và gia đình đi được bình an. Tôi nhớ có một số nhân viên, trong lúc hốt hoảng đã đi theo tôi, nhưng khi ghe vừa ra gần đến cửa biển thì lại tìm cách quay về vì kẹt gia đình, hơn nữa họ thấy với chiếc ghe cũ kỹ đó thì khó mà tới nơi tới chốn được và một số khác vẫn theo tôi đến đảo Mã Lai rồi cũng nhớ nhà rồi theo mấy chiếc ghe để trở về, lúc này có một số người chủ ghe muốn trở về nên nhà chức trách Mã Lai đồng ý cho họ trở về VN, cũng nhân dịp này tôi mới nhờ những người quen nhắn lại giùm với gia đình là tôi đã tới nhà chú Mã (Mã Lai) bình yên. Khi tôi qua định cư tại Hoa Kỳ, tôi có nghe đồn Thiếu Tá Lương Bông đã tự sát vào chiều ngày 30/4/75 nhưng tôi không rỏ chi tiết như thế nào, mãi cho đến mấy năm sau tôi mới được Hạ Sĩ Thân (anh này vừa là cận vệ vừa là tùy phái cho tôi) viết thư kể hết ngọn ngành về cái chết anh hùng của TT Bông như sau (những chữ trong ngoặc là chú thích của tôi):

      “Thưa Thầy thân mến, (Anh này thường gọi tôi như thế) Khi đặt bút viết thư này cho Thầy thì tự nhiên nước mắt của em lưng tròng, vì khi nhớ đến Thầy tự nhiên em phải nhớ đến người quá cố, người cao cả ấy không phải ai xa lạ là người kế Thầy đó, Anh Lương Bông ( TT Bông là người rất bình dân nên ngoài giờ làm việc các thuộc cấp đều xưng hô anh em với nhau). Cùng một ngày (30/4/75) mà 3 kẻ ra đi, Thầy đi miền đất lạnh, Anh Bông về lòng đất mẹ còn em trở lại xứ nghèo, em xin viết lại ngày quan trọng đó cho Thầy rõ. Lúc 10 giờ30 sáng ngày 30/4/75, sau khi tài xế Như đưa Thầy qua bên Tiểu Khu, nơi cơ quan mình chỉ còn lại Anh Bông, Phụng (một nhân viên thân tín khác) và em, ngoài ra không còn ai khác. Đến khoảng 11 giờ 30 thì ông Ấ. (Th/Sĩ này phụ trách trại giam của cơ quan) cùng một vài người trong trại gia binh phía sau lên đập cửa nhà của Thầy (ở cạnh văn phòng làm việc của tôi) để lấy tất cả đồ đạc, kể cả các đồ vật và mấy thùng rượu mà Thầy mua để chuẩn bị khao lon, chúng tôi chỉ đứng nhìn mà không dám nói gì. Độ 15 phút sau, Anh Bông và em cùng chú Phụng vô nhà thì đồ đạc, máy móc, quần áo v.v.. không còn gì cả, chỉ còn lại rác và những vật dụng không có giá trị nằm tung tóe khắp nhà xen lẫn cùng mấy tấm hình của cô và 2 cháu rơi rớt tùm lum. Em và Anh Bông có lượm mấy tấm ảnh cất làm kỷ niệm. Sau đó Anh Bông và em lấy xe của Thầy, chiếc xe jeep có gắn cần câu và hệ thống truyền tin đặc biệt đó, chạy vòng vòng thành phố và có chạy ra phía cầu Bắc Cần Thơ, khi đến nơi thì Bắc đã ngưng chạy, chúng em bèn quay trở về cơ quan. Lúc ấy khoảng 4 giờ chiều, Anh Bông bảo em lo nấu cơm và vào nhà Thầy coi có gì trong tủ lạnh để lấy ra nấu, trong nhà Thầy, đồ đạc thì tiêu hết nhưng thức ăn trong tủ lạnh vẫn còn. Sau khi nấu nướng xong, chúng em ăn uống trên đầu xe jeep đậu trong garage, ăn xong hơn 5 giờ chiều, Anh Bông vào phòng làm việc của Thầy mở máy lạnh và vặn đèn sáng choang cả phòng, Anh Bông lên ngồi đàng hoàng trên chiếc ghế của Thầy thường ngồi làm việc, lúc đó em còn đang dọn dẹp đồ ăn và ngó vào văn phòng xuyên qua cửa kính thì thấy Anh Bông đang “hý hoáy” viết gì đó, một lát sau tôi lại dòm vào thì thấy anh Bông lấy trái lựu đạn MK3 mà Thầy thường để trên kệ để phòng thân, ra và ôm vào bụng, lúc ấy em sợ quá nên chạy ra nhà xe la lớn lên cầu cứu nhưng lúc này trong cơ quan chẳng còn ai, thì ẦM một tiếng rất lớn, thế là Anh Bông đã ra đi một cách oanh liệt, khi em ôm anh ấy lên thì đôi mắt còn chớp lia và 2 giòng lệ còn lăn dài bên má. Em có nhặt tờ giấy mà anh Bông vừa viết khi nảy, thư này cũng bị cháy xém hết một phần, đại khái anh trăn trối lại với chị Bông là anh ấy xin lỗi chị ấy và cho biết là cả cuộc đời đã chiến đấu mà thất bại nay nay không thể sống để nhìn bọn cộng sản huênh hoang chiến thắng hay bắt tù làm nhục mình nên phải tìm cái chết này. Đến sáng hôm sau, em và Phụng khiên anh Bông ra ngoài để nằm ở nhà xe và tắm rửa, thay quần áo cho anh ấy xong, chúng em năn nỉ Tài xế Năm Lùn đưa giùm thi hài anh Bông về Sa-Đéc. Khi tụi này về đến Sa Đéc thì chị Bông qua Cần Thơ tìm anh Bông vì chị chưa biết tin anh Bông đã mất, khi được tin này và sau khi xem thư tuyệt mệnh của anh Bông để lại chị ấy ngất xỉu trong văn phòng của Thầy, lúc ấy đã hoang tàn đổ nát.”

      Thưa quý độc giả, khi tôi ngồi viết lại chuyện này tôi tự lấy làm hổ thẹn, xấu hổ vì gần suốt cuộc đời trong quân ngũ mà không xứng đáng là một cấp chỉ huy, dù là cấp chỉ huy nhỏ trong Quân Đội, nhưng không có lòng cam đảm ở lại để sống chết với anh em vào lúc đất nước nguy kịch. Anh Bông, nếu linh hồn Anh có linh thiêng, xin tha thứ cho tôi, tôi xin hứa là khi nào tôi được trở về quê hương, tôi sẽ đến trước phần mộ của Anh để đốt nén hương trước là tạ tội sau là lạy Anh 3 lạy để tỏ lòng kính phục sự cam đảm của Anh.(không biết tôi còn sống đến ngày ấy không?).


      San Fransisco, quốc hận 2005
      Nguyễn Thanh Tâm
      Ty ANQĐ / Phong Dinh / Cần Thơ

      nguồn:
      https://www.facebook.com/groups/1051...2002616171175/
      Last edited by BachMa; 05-01-2018, 10:49 PM.

      Comment


      • Linh Hồn Của Ðất

        Linh Hồn Của Ðất
        Bùi Thượng Phong

        Khoảng cuối năm 1967 tôi nhận được sự vụ lệnh về cầm một đại đội cho một tiểu đoàn mới thành lập chưa được bao lâu, thuộc SÐ25BB, lúc đó đang đồn trú tại quận Ðức Hòa.

        Tiểu đoàn này trước đó mấy tháng, được đặt dưới quyền chỉ huy của một vị Thiếu tá rất nổi tiếng bên Biệt Ðộng Quân mới chuyển qua. Vì công sự phòng thủ chưa hoàn tất, Bộ Chỉ Huy/Tiểu Ðoàn (BCH/TÐ) phải tạm thời đóng trong ngôi biệt thự của một nhà máy xay lúa, chủ nhân là ông Sáu Ngô. Ông Sáu Ngô đã giữ kín một điều mà mãi sau này người ta mới biết, là ông có một người em bỏ nhà từ hồi còn nhỏ, theo VC.

        Lợi dụng cơ hội hiếm có này, trong một đêm đen tối, VC đã bất ngờ dùng đặc công và nội tuyến, tràn ngập vào được tuyến đầu của BCH/TÐ. Chỉ sau vài phút đầu bối rối, các anh em binh sĩ của BCH/TÐ đã chống trả rất mãnh liệt và sau đó phản công, đánh bật chúng ra khỏi con đường mương mà anh em đã tạm dùng làm tuyến phòng thủ, khiến chúng phải vội vã tìm đường rút vì chúng dư biết lực lượng tiếp viện của ta đang trên đường tiến tới.

        Tuy phải trả một giá rất đắt, VC cũng đã gây thiệt hại khá nặng cho bên ta, nhất là về phương diện tinh thần, vì trong số các chiến sĩ đã hy sinh ngay tại tuyến đầu đó, có cả vị TÐTrưởng can trường mà ai đã từng là Biệt Ðộng Quân cũng đều phải nghe danh: “Thiếu tá Cọp Ba Ðầu Rằn” !


        Thắm Nguyễn

        Sau trận thất bại này, các anh em binh sĩ trong Tiểu Ðoàn (TÐ) có phần xuống tinh thần. Tiểu đoàn phải chờ bổ sung thêm quân số và cần được “hấp” lại. Và tôi được chuyển về đây cũng trong dịp này.

        Ðược nương nhẹ rất nhiều, nhiệm vụ chính của TÐ lúc đó hầu như chỉ là hành quân mở đường và làm an ninh vòng ngoài cho Bộ Tư Lệnh/Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tại Ðức Hoà. Lâu lâu cũng có hành quân, nhưng chỉ là những cuộc hành quân lục soát quanh vùng, sáng đi chiều về, như công chức!

        Trong khoảng thời gian coi như nhàn hạ này, tôi đã quen biết một đứa bé gái tên là Hân, lúc đó khoảng 8, 9 tuổi, là cháu gọi bằng dì của cô Thanh, chủ ngôi nhà mà tôi đã xin phép để đặt Ban Chỉ Huy/Ðại Ðội. Tôi chọn nhà cô Thanh vì không những nhà có một sân lớn, tầm quan sát tốt, nó lại còn có cả một cái nhà cầu đàng hoàng. Cô Thanh, một phụ nữ khoảng trên dưới ba mươi, không đẹp cũng không xấu, ăn nói rất nhỏ nhẹ, dễ thương. Không thấy cô có chồng, nghỉ dạy học đã lâu để trông coi việc ruộng nương, nhưng bà con lối xóm vẫn quen gọi cô là Cô Giáo. Dĩ nhiên cô Thanh không hề là đối tượng của những sĩ quan còn rất trẻ như chúng tôi hồi đó.

        Còn nhớ ngày đầu tiên gặp và nói chuyện với cô ở ngoài sân, về việc xin tạm dùng căn nhà làm BCH/ÐÐ, tôi thấy có một đứa bé gái đứng dựa lưng một gốc cau gần đó, đang nheo mắt nhìn tôi rất chăm chú. Thấy nó dễ thương, tôi quỳ một chân xuống ngang tầm nó và ngoắc nó lại. Nó phụng phịu lắc đầu, không chịu. Cô Thanh nói như hơi gắt:

        Hân không được hỗn, lại cúi đầu chào Thiếu úy đi con!

        Vẫn còn phụng phịu, nó tiến lại gần tôi và lí nhí nói mấy câu gì tôi cũng không nghe rõ!

        Tôi thông cảm sự thay đổi quá đột ngột đối với gia đình cô giáo, đang vắng vẻ, neo đơn; nay bỗng dưng ồn ào náo nhiệt, ra vào toàn lính là lính!

        Cô Thanh thì còn bận rộn với ruộng vườn, công thợ… chứ bé Hân thì ngoài giờ đi học, nó đụng độ tụi tôi suốt ngày. Mấy ngày đầu, nó có vẻ còn tránh né, nhưng rồi sau đó, quen hết anh hạ sĩ y tá này đến bác thượng sĩ thường vụ kia, nó trở nên vui vẻ và hòa đồng rất nhanh với cái không khí ồn ào nhưng kỷ luật của đời lính chúng tôi. Ðặc biệt, Hân quý tôi hơn cả, vì có mấy lần tôi đã giúp em giải một vài bài toán khó trong lớp. Nó quấn quít bên tôi suốt ngày, chuyện trò líu lo không ngừng nghỉ. Có những lần tôi đi hành quân về, nó núp trong bụi, rồi chợt chạy ùa ra ôm lấy chân tôi cười nắc nẻ … Mới 8, 9 tuổi, mà em đã biết dành dụm tiền để mua đường, nấu đãi chúng tôi những bát chè thật ngọt ngào ấm bụng! Bù lại, những lần đi phép, không lần nào tôi không mua cho em, khi thì đồ chơi, khi khác là sách, tập…

        Hân mồ côi cả cha lẫn mẹ. Quê em ở mãi đâu vùng An Hiệp, Thái Mỹ. Em kể với tôi, nước mắt lưng tròng: Cha em một hôm đi làm ruộng, đạp nhằm phải mìn VC, chết không kịp trăn trối! Hơn năm sau, người mẹ cũng ra đi vì bịnh! Thế là em phải về núp bóng dì của em, là cô giáo Thanh.

        Tôi lúc đó chưa lập gia đình, thực tình, tôi thương Hân như thương người em út, nó còn kém đứa em út của tôi ba, bốn tuổi.

        Tuy ở với dì ruột, tôi biết Hân đang thiếu một tình thương phụ mẫu, nhất là hình bóng của một người cha. Và… không phải là một nhà Tâm lý học, tôi không thể biết nổi: ở tuổi nào sớm nhất, một đứa con gái có thể biết yêu? Vì có một lần, mấy cô bạn gái của tôi từ Sàigòn lên thăm. Khi họ ra về, bé Hân đã đối xử với tôi một cách rất khác thường. Nó lảng tránh và ít nói hẳn, không hồn nhiên như trước nữa! Hình như nó cũng biết hờn, ghen? Tôi nghĩ dù sao, nó chỉ là một đứa con nít. Mà đúng thế, chỉ được hai hôm là cô nàng đã quên hết! Lại giở trò nghịch ngợm, chọc phá như cũ…

        Hồi đó cứ như thế, tôi lấy tình thương yêu của anh em binh sĩ dưới quyền và luôn của bé Hân như một hơi ấm gia đình. Ðang ở cái tuổi tràn đầy nhựa sống, mấy anh chàng sĩ quan lóc chóc như tụi tôi, có thì giờ là la cà tán tỉnh mấy em cỡ tuổi đôi tám, chợt nở rộ như những bông hoa đầy hương sắc miền thôn dã, chẳng hạn như hai chị em cô Huệ, cô Khanh con ông chủ nhà máy xay, hoặc Giáng Tiên, hoa khôi tỉnh Hậu Nghĩa.

        Thế nhưng mấy tháng nhàn hạ qua nhanh như gió thổi, khi TÐ vừa có một sinh khí mới, thì biến cố Tết Mậu Thân xảy ra! TÐ hành quân mệt nghỉ, ngày nào cũng có hành quân, ngày nào cũng có đụng độ, mà trận lớn nhất xảy ra vào trước Tết khoảng 2, 3 ngày. Ðại Ðội (ÐÐ) của thằng bạn cùng khóa nhảy vào giữa một Tiểu Ðoàn VC. Chúng đang ếm quân trong khu vực Rạch Gấu, vùng phụ lưu sông Vàm Cỏ, chờ xâm nhập để đánh vào Phú Lâm ngày mồng một Tết. Hai trực thăng trúng đạn phòng không địch, phải quay về. ÐÐ của nó thành ÐÐ trừ! Không đủ trực thăng, ÐÐ của tôi phải lội bộ vào tiếp cứu. Ðịch áp đảo về quân số, vũ khí có thừa, nhưng mục tiêu của chúng là vùng Chợ Lớn, ngày Tết, không phải chúng tôi. Thế nên chúng chỉ cầm cự để bảo toàn lực lượng, chờ đêm xuống là rút. Vậy mà mãi mờ sáng hôm sau, tụi tôi mới thanh toán xong mục tiêu. Nhờ những phi vụ oanh tạc và pháo binh bắn suốt đêm, VC dù đã cố kéo theo, chúng cũng để lại rất nhiều xác đồng đội và vũ khí. Tuy vậy, chúng tôi cũng không vui gì khi phải đem ra xác thằng bạn Ðại Ðội Trưởng và bốn chiến hữu của anh! Tội nghiệp quá, anh quê ở Hóc Môn, ra trường là xin ngay về Sư Ðoàn 25 cho gần nhà!

        Chúng tôi ra trường, một số người đã may mắn thoát khỏi làn tên mũi đạn, họ đã theo gương các bậc đàn anh, dùng tài thao lược và lòng dũng cảm của mình để làm nên nhiều chiến tích vẻ vang cho quân đội. Thế nhưng chiến trận hàng ngày cũng đã lấy đi không ít những người con yêu của Trường Mẹ, họ đã hy sinh khi còn rất trẻ, trong những trận đánh tuy khốc liệt, tàn bạo … nhưng cũng chỉ là thường tình trong chiến tranh! Không một ai biết, chẳng một ai hay, họ đã nằm xuống như hàng ngàn chiến sĩ vô danh khác, tên tuổi và thành tích không bao giờ được xuất hiện trên trang nhất các nhật báo. Có chăng, chỉ là mấy dòng tiếc thương cô đơn, ngắn ngủi của thân nhân, bè bạn trong những khung hình chữ nhật màu tang đen, nơi trang chót của tờ báo!

        Qua hai đợt Mậu Thân, tôi được thăng Trung úy, nghĩa là sớm hơn quy định khoảng gần nửa năm, nhưng đến cuối năm 1969 tôi bị thương nặng, miểng mìn văng đầy người. Tệ nhất, có một miểng chém vào động mạch bên nách phải, máu ra rất nhiều và nếu không đã theo mấy thằng bạn … vui vẻ về “miền quá cố” rồi!

        Khi cơn thập tử nhất sinh đã qua, tôi được chuyển về Tổng y viện Cộng Hòa ở Sài Gòn.

        Một hôm, tôi đang nằm cho y tá rửa vết thương và thay băng thì có mấy anh em ban 5 Tiểu Ðoàn lên thăm. Tôi ngạc nhiên hết sức khi thấy có cả bé Hân trong đó, nó chạy ngay lại ôm lấy tôi, nước mắt đầm đìa… Ông Thượng sĩ thường vụ của tôi sau khi thăm hỏi xong, nói nhỏ vào tai tôi:

        – Ngày nào nó cũng lên TÐ, xin bằng được nếu khi nào TÐ lên thăm thương bịnh binh, nhớ cho phép nó đi theo!

        Tôi nhìn xuống con bé đang rúc cái đầu bé nhỏ vào bụng tôi, tấm thân mảnh mai của em thì rung rung theo tiếng nấc! Tôi cúi xuống hôn trên mái tóc mềm mại của nó và cứ để như vậy một lúc lâu, bởi vì chính trong lòng tôi cũng đang nghẹn ngào, xúc động…

        Lúc sau, tôi nâng cầm nó lên, trấn an nó:

        – Chú không sao đâu! Chỉ một thời gian ngắn nữa là chú sẽ lành vết thương và sẽ được xuất viện.

        – Rồi Trung úy có trở lại đại đội không? Nó ngước mặt e ngại hỏi tôi điều mà nó quan tâm nhất.

        – Chú cũng không biết nữa, chắc là phải ra một hội đồng quân y để họ giám định. Sau đó mới biết!

        – Vậy khi nào xuất viện, chú xuống thăm Hân nha ?

        Tôi mỉm cười nhìn nó:

        – Chắc chắn là chú sẽ đến thăm Hân và các anh em trong đại đội, ngay khi nào chú có thể đi được.

        Lúc này mới thấy nó nở một nụ cười, rồi cúi xuống nhấc lên một túi nhỏ và lấy từ trong đó ra một ít trái cây để trên chiếc bàn nhỏ đầu giường. Thì ra nó cũng biết đem quà cho thương binh!

        Phái đoàn thăm viếng lúc này đã xin phép tôi để qua thăm các anh em thương binh khác. Trước khi ra khỏi phòng, ông thượng sĩ thường vụ cúi sát tai Hân dặn dò:
        – Khoảng nửa tiếng nữa con ra chỗ đậu xe để về nha. Về sớm cho an toàn!

        Nó ngoan ngoãn gật đầu, rồi bắt đầu bi bô:

        – Bữa trước ai cũng tin là chú đã chết thiệt rồi. Sau mới biết chú còn sống, đang nằm bịnh viện Cộng Hòa. Dì Thanh có dắt Hân đi cầu nguyện trên chùa hoài. Dì con nói gởi lời thăm chú.

        Ðến đây, nó bắt đầu quay qua nhìn mấy vị sĩ quan thương binh khác nằm cùng phòng. Chợt thấy chiếc nhẫn của tôi để trên mặt bàn lúc tháo ra cho y tá rửa vết máu trong các ngón tay, nó cầm lên ngắm nghía rồi hỏi:

        – Nhẫn này của chú? Sao bự và đẹp quá vậy?

        – Ừa, nhẫn của chú. Ðây là chiếc nhẫn lưu niệm của trường Võ Bị Ðà Lạt, lúc mãn khóa ai cũng có.

        – Chú thích nó lắm hả?

        – Chú rất quý nó, và chú đã đeo nó từ khi ra trường.

        Nó nhẹ nhàng để lại chiếc nhẫn vào chỗ cũ, rồi quay ra ôm lấy tôi, như thể không muốn xa rời! Nó kể đủ thứ chuyện ở Ðức Hòa, đâu là đại đội đã có Ðại Ðội Trưởng mới nhưng không còn đóng ở nhà nó nữa, các chú trong BCH/ÐÐ vẫn thường ghé thăm luôn, rồi nó kể cả chuyện vợ lớn trung sĩ Hai ở Sàigòn lên đánh ghen, làm tôi không nhịn được cười…

        Nửa giờ sau, ông thường vụ đã xuất hiện ở cửa phòng, nói với vào:

        – Chào Trung úy đi Hân, đến giờ về rồi!

        Hân bắt đầu lúng túng, vòng tay bé nhỏ, nó cố ôm lấy tôi. Mấy phút sau, tôi phải nhẹ nhẹ gỡ nó ra:

        – Thôi Hân về đi không họ chờ!

        Nó nhìn tôi như muốn khóc:

        – Chú hứa nhen! Tới thăm Hân nhen, Hân chờ đó!

        Nói rồi nó buông tôi, từ từ bước ra cửa, hình như nó đã khóc. Ðến cửa phòng, nó quay lại nhìn tôi, bàn tay bé nhỏ của nó đang cố chùi những giọt lệ…

        Tôi không thể nào quên được ánh mắt của Hân ngày hôm đó! Trong đôi mắt thơ dại và rưng rưng lệ của em, chứa biết bao nhiêu là thiết tha, trìu mến… Nó nhìn tôi như nhìn một người thân yêu, mà nó ngờ rằng sẽ không bao giờ còn có dịp thấy lại thêm một lần nữa! Một ánh mắt của chia ly, của vĩnh biệt…

        Không cầm lòng được, tôi gọi nó:

        – Hân, lại đây với chú!

        Ngoài bộ đồng phục rộng thênh thang của bệnh viện, tôi chẳng có gì ngoại trừ một thân thể đầy những vết thương và băng bó, tôi đành cầm chiếc nhẫn lưu niệm của tôi, nhẹ nhàng để vào lòng bàn tay của nó:

        – Hân giữ cho chú chiếc nhẫn này. Giữ thật kỹ và đừng cho ai biết. Hân biết là chú quý nó như thế nào rồi. Khi nào xuất viện chú sẽ đến thăm Hân và Hân đưa lại cho chú. Thế có được không?

        Thật không ngờ, cái ý kiến bất chợt đến với tôi lúc đó lại có tác dụng ngay! Hân vui mừng ra mặt, ít nhất nó đã có một vật làm tin kèm theo lời hứa. Lau hết nước mắt nó thủ thỉ:

        – Dạ, con sẽ giữ thật kỹ, chờ khi nào Trung úy đến con giao lại!

        Tôi xoa đầu nó rồi đẩy nhẹ nó về phía cửa. Lần này, nó quay lại mỉm cười nhìn tôi và rồi bóng nó từ từ lẫn vào với dòng người thăm viếng bên hành lang bệnh viện …

        Tôi xuất viện sau đó chừng một tháng, và phục hồi mau lẹ. Tuy vậy, phải chờ đến Tháng Ba năm 1973 sau hai lần giám định tôi mới nhận được giấy tờ giải ngũ chính thức. Tôi may mắn toàn thân không mất mát gì, nhưng những ngón tay bên mặt nhất là ngón trỏ, không co duỗi bình thường được. Cầm tờ chứng chỉ giải ngũ trong tay, tôi biết mình đã vĩnh viễn giã từ vũ khí!

        Trong khoảng thời gian chờ quyết định của Hội đồng quân y, tôi đã đi Ðức Hòa thăm lại chốn xưa. Ðại Ðội của tôi gần như hoàn toàn mới, chỉ trừ một vài anh em trong BCH/ÐÐ nhận ra tôi, còn lính tráng hầu hết là lính mới, nhìn tôi như nhìn một người xa lạ! Chiến tranh đã làm thay đổi nhanh không thể ngờ được.

        Tôi lần mò đến nhà cô giáo Thanh để thăm cô giáo và bé Hân nhưng thật không may, người nhà cho biết hai dì cháu cô đã đi ăn đám giỗ bên Bình Thủy, có lẽ đến chiều mới về!

        Tôi buồn rầu về lại Sàigòn, tự hứa sẽ trở lại vào một dịp khác.

        Chiến tranh vẫn còn đó, chiến trận gia tăng khắp mọi nơi, nhưng Sàigòn vẫn còn là một mảnh đất khá bình yên! Nó như một hải đảo nằm giữa một biển lửa. Và tôi đã phải cố gắng để thích ứng với cuộc sống hoàn toàn thay đổi. Dù sao, tôi vẫn còn trẻ. Tôi làm việc như một cái máy, nhưng tôi không còn bị cô đơn, cái cô đơn của một người chỉ huy, dù chỉ là một cấp nhỏ; tôi tự do, không còn bị ràng buộc vào một trách nhiệm có liên can đến sinh mệnh của nhiều người khác! Tâm trạng thả lỏng này đã dẫn tôi đắm mình trong thụ hưởng, để bù lại cho bao năm tháng tuổi xuân đã qua đi trong quân trường và ngoài trận địa .

        Bận rộn vì công việc lúc ban ngày, say mê trong ánh đèn mầu của các vũ trường vào ban đêm, tôi gần như đã quên hẳn Hân, một đứa bé đang ở một nơi thiếu an ninh, mà chỉ một năm trước đây thôi, tôi đã coi nó như một đứa em ruột thịt! Tôi đã tự khất lần, và ngần ngại không muốn ra khỏi Ðô thành, nơi mà lúc nào cũng có những cuộc vui đang chờ sẵn!

        Khoảng đầu năm 1974, nhân một chuyến phải đi Trảng Bàng, tôi ghé vào Ðức Hòa và gặp lại Hân. Căn nhà vắng vẻ, khu xóm cũng thiếu bóng những người lính, có lẽ họ đang bận rộn trong một cuộc hành quân nào đó. Khi tôi đến, chỉ có mình Hân ở nhà.

        Hân lúc này không còn bé nữa, em đang là một thiếu nữ tràn đầy nhựa sống với một vẻ đẹp tự nhiên và tuyệt mỹ mà Thượng Ðế chỉ dành cho những người con gái đương độ thanh xuân! Em mừng đến rơi cả nước mắt khi thấy tôi! Rót nước mời, em vẫn thân mật nhưng tỏ ra hơi e thẹn, cái e thẹn dễ yêu của các cô gái đang dậy thì.

        Hân cho biết em đã trông mong tôi từng ngày, và rất ân hận vì lần trước tôi đến, mà em không được gặp! Lấy chiếc nhẫn giấu kín trong hộc tủ, Hân đưa nó sát mặt tôi, rồi nắm vội nó trong bàn tay và ấp lên ngực:

        – Hân biết đây là chiếc nhẫn lưu niệm của chú, nó lưu lại những kỷ niệm của chú với quân trường Ðà Lạt; nhưng bây giờ, nó cũng đã trở thành một vật lưu niệm của Hân luôn! Nó đã lưu lại những kỷ niệm giữa Hân và chú! Hân muốn được giữ nó lâu hơn nữa, chú có cho phép Hân không?

        Tôi hơi ngạc nhiên, nhưng rất cảm động trước những lý lẽ phát ra tự con tim của em:

        – Hân cứ giữ nó đi, như vậy khi nào chú đến thăm Hân, chú sẽ được gặp cả hai!

        Quá vui mừng, quên cả e thẹn, Hân chạy lại ôm tôi, và nói trong cảm động:

        – Thực ra, khi có chiếc nhẫn bên mình, Hân có linh cảm là chú sẽ luôn luôn quay về tìm Hân, và như vậy Hân sẽ không bao giờ mất chú!

        Tôi ôm chặt Hân, và hôn nhẹ lên trán em như vài năm trước, khi em còn rất nhỏ.

        Hình như Hân muốn nhiều hơn thế ! Trong vòng tay tôi, cơ thể em đang ấm dần lên… Em từ từ ngước mặt lên để mong những làn môi gặp nhau, nhưng tôi đã tự dừng lại bằng cách buông lỏng em! Có phải tôi hơi bị ngu không, hay tôi vẫn còn bối rối giữa Hân, một đứa bé và Hân, một cô gái đang nồng nàn trong độ xuân thì?

        Chúng tôi chia tay nhau khi ánh chiều vừa xuống. Tôi hứa với Hân sẽ lên thăm em thường hơn. Cả hai cùng bịn rịn, không nỡ rời nhau, nhưng rồi phút chia ly cũng phải tới, tôi lên xe về lại Sàigòn mang theo hình ảnh đôi mắt và những lời dặn dò đầy nước mắt của Hân:

        … Nhớ lên thăm Hân nha! Hân chờ đó …

        Những tháng ngày sau đó, thời cuộc biến đổi không ngừng… Tất cả đều thất lợi cho miền Nam chúng ta! Ngay cả con đường từ Sàigòn đi Ðức Hòa cũng không còn an ninh nữa! Tiếp đến là những biến cố dồn dập, nó đến nhanh quá, như dòng thác lũ, như cơn đại hồng thủy, nó cuốn đi hết cả… Không kịp nữa rồi, những gì ta không làm, hoặc chưa làm, đành phải xếp lại trong niềm hối hận khôn nguôi…

        Câu “nước mất, nhà tan” thật là thấm thía với tâm trạng của những người bỏ nước ra đi ngày ấy! Ra đi là không bao giờ nghĩ đến ngày trở lại, ra đi là chấp nhận cả một trời mù mịt, đau thương! Tôi cũng ở trong số ít những người “bất hạnh nhưng may mắn” này! Còn lại tất cả nhân dân miền Nam coi như gẫy cánh nửa đường; có khác chăng, chỉ là mỗi người “gẫy”một kiểu!

        oooOooo

        Sau hơn ba mươi năm vật lộn với cuộc sống trên nước Mỹ, tôi quyết định nghỉ hưu vì đã thấm mệt, cả thể xác lẫn tinh thần. Những chuyện ngày xưa khi nhớ, khi quên. Nhiều chuyện quên hẳn, như gió thoảng, như mây bay!

        Dòng đời đổi thay, cũng chỉ là thường tình của cuộc sống!

        Những ngày, tháng buồn tênh, tôi chợt nhớ đến hai câu thơ, không biết đã đọc được ở đâu và ai là tác giả:

        Khi ta ở, đất chỉ là đất ở,
        Khi ta đi, đất đã hóa linh hồn!


        Vâng, linh hồn của đất, của những nơi ta đã từng đi qua, những nơi đã hơn một lần ta dừng lại… Nó đã có một linh hồn, và linh hồn đó thường hay ám ảnh tim ta, những khi ta quay về nhìn lại quá khứ !

        Tôi đã về thăm lại Sàigòn vào năm 2007!

        Vẫn biết đổi thay là lẽ tự nhiên của cuộc sống, nhưng đổi thay một cách xô bồ, hỗn độn và … ngộp thở như Sàigòn hôm nay, chỉ làm tôi thêm tiếc nuối Sàigòn của những ngày xa xưa!

        Tôi biết Sàigòn khi vừa ở tuổi có trí khôn. Những con đường thời niên thiếu ấy, với những hàng me, hàng phượng vĩ… muôn đời thơ mộng và sống mãi trong trí nhớ của tôi! Ðại lộ Trần Hưng Ðạo lần đầu tiên tôi biết, có tên là Galliéni, đường Nguyễn Huệ là Charner … Rồi đến thời Ðệ nhất Cộng Hòa, đa số đường phố đều mang tên Việt, nhưng không có con đường nào là Ðồng Khởi hoặc Nam Kỳ Khởi Nghĩa cả! Sàigòn chỉ có Tự Do và Công Lý! Có những bác tài xế taxi hoặc xích lô máy, kiếm đủ tiền nuôi vợ con rồi, không tiếp thêm ai nữa mà ngả lưng ngay trên nệm xe của mình, làm một giấc! … So với ngày nay, đời sống thời đó sao mà thanh bình và dễ dàng quá! Thì ra càng cách mạng, càng giải phóng … người dân chỉ càng thêm khốn khổ !

        Lang thang mãi ở Sàigòn, chán! Một hôm, tôi trở lại thăm Ðức Hòa, chỉ vì tò mò muốn biết, nơi đã từng là chiến địa ngày xưa đó, giờ nó ra sao?

        Hơn ba mươi năm trôi qua, đã có biết bao nhiêu là vật đổi sao dời, bèo dạt… hoa trôi… Và những người muôn năm cũ, giờ cũng chỉ như bóng chim tăm cá, không biết họ đã trôi dạt về những nơi đâu?!

        Ðức Hòa đã thay đổi theo một chiều hướng đi xuống! Ngày xưa, dù đang là thời chiến tranh, nó vui nhộn biết là bao: hàng quán, lính tráng, người mua kẻ bán ồn ào, tấp nập. Những con đường, tuy chỉ nhỏ vừa cho hai xe nhà binh tránh nhau, nhưng đầy bóng mát của những hàng cây cao… Giờ đây, có những con đường mới thành lập, rộng thênh thang, thẳng tắp, nhưng trống trơn dưới ánh nắng như thiêu như đốt, không một bóng cây; xe cộ thì lẻ loi vài chiếc! Thị xã giống như một cô gái quê, xấu, đang cố làm dáng với những vết son vụng về tô vội!

        Ðến khu Bình Tả, nơi ngày xưa tôi đã đóng quân. Cảnh vật cũng không thay đổi nhiều, nhưng sao trông thật hoang sơ, buồn thảm! Tại một ngã ba, ngày ấy có một cái quán lụp xụp, lúc nào cũng ồn ào những lính. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ chính tại cái quán lụp xụp đó, tôi đã ăn những tô hủ tiếu ngon nhất trong đời.

        Ði vào sâu hơn khoảng trăm mét là ngôi biệt thự nhà máy xay. Rõ ràng là nó đang bị bỏ hoang, rêu phong nứt nẻ… Cảnh vật sao quá thê lương, ảm đạm! Hỏi thăm thì biết cô Huệ đã định cư bên Úc từ lâu! Cô Giáng Tiên, hoa khôi Hậu Nghĩa, nghe nói sau này lấy một sĩ quan Biệt động quân đẹp trai, giờ này không biết cuộc đời đã xô đẩy họ đến nơi đâu?

        Ði sâu hơn nữa thì gặp tàn tích của một cái đồn, đồn này là của Tiểu Ðoàn chúng tôi hồi đó. Gần đấy có cắm một cái bảng nhỏ, trên đề: “Di tích lịch sử – Cấm đến gần” !

        Tự nhiên, tôi thấy lạnh toát người! Có phải anh linh của bao nhiêu chiến sĩ ngày xưa vẫn như còn đang phảng phất đâu đây, trên những ngọn tre, những tàu lá chuối, hay trên những hàng mù u nơi xa xa kia?! …

        Ra thăm khu trung tâm thị xã, ở đây có thay đổi chút ít. BTL/SÐ25BB nay đang là một công viên dành cho trẻ em, ngay trước cổng vào có một căn nhà nhỏ, trong đó trưng bày hình ảnh và những kỷ vật của một “đồng chí Võ Văn Tần” nào đó!

        Chợ Ðức Hòa xây thêm một mặt tiền mới, quay về hướng khác, nhưng tôi thấy bức tường mặt tiền cũ vẫn còn để nguyên.

        Ðang ngơ ngẩn nhìn ngó cảnh vật, tôi chợt để ý có một bà cụ cứ chăm chú nhìn tôi. Bước đi vài bước, bà lại quay đầu nhìn lại; cuối cùng bà cụ đến gần nhỏ nhẹ hỏi tôi:

        – Nếu không phải, xin ông thứ lỗi! Phải ông đây là Trung úy Phong không?

        Tôi giật bắn người! Chắc chắn đây là một người quen biết với tôi, nhưng nghĩ mãi, tôi đành chịu:

        – Dạ, tôi là Phong đây! Xin lỗi, trí nhớ tôi hơi kém, bà đây là …?

        – Trời đất, Mô Phật! Thiệt không ngờ cũng có ngày tôi lại gặp được Trung úy! Tôi là Thanh đây! Xưa Trung úy có đóng quân nhà tôi, Trung úy còn nhớ không?
        Lúc này thì hình ảnh của một cô giáo Thanh ngày xưa đã lờ mờ lẫn vào khuôn mặt già nua của bà cụ, tôi mừng rỡ:

        -… cô giáo Thanh! Tôi nhận ra rồi! tôi nhận ra rồi! Chà, cô trông còn mạnh lắm. Xin mời cô vô quán nước đây ta ngồi nói chuyện.

        Ðôi mắt già nua của cô Thanh đã thấy có ánh nước, cô cầm tay tôi ân cần:

        – Thôi! quán xá gì! Chắc là Trung úy ở nước ngoài về thăm quê hương? Trung úy có rảnh mời ghé lại tôi uống miếng nước. Nhà cũng gần đây thôi!

        – Dạ! Tôi ra khỏi nước từ năm 75, giờ nghỉ hưu rồi mới có dịp về thăm lại. Hồi nãy đi ngang, tôi thấy khu nhà cũ của cô giờ dường như là một nhà máy gì đó ?

        – Bị nhà nằm trong khu quy hoạch, nghe đâu họ đã bán đất đó cho Hàn quốc lập nhà máy may gì đó. Tôi phải mua bậy một căn nhà cũng gần chợ đây thôi, cho nó tiện! Mời Trung úy đi theo tôi, chút xíu là tới à!

        Lẽo đẽo theo chân bà cụ đi vào một con đường nhỏ ngang hông chợ, tôi ngần ngại ngỏ ý:

        – Tôi giã từ quân đội lâu lắm rồi, cô Thanh cứ gọi tôi bằng tên cho tiện!

        – Không có sao đâu! Ở đây bà con cỡ tuổi tôi, ai cũng quý những người lính Cộng Hòa khi xưa. Lại bởi tôi quen miệng rồi, tôi nhớ Trung úy là Trung úy, gọi khác nghe kỳ lắm!

        Ðến đây, mặc dù tận đáy lòng, như có một chút gì hơi hổ thẹn vì sự thất hứa năm xưa, nhưng tôi không thể quên được Hân:

        – Thế cháu Hân giờ sao rồi? Chắc cũng con cháu rầm rề cả !?

        Cô Thanh bỗng như chùng xuống, cô nói rất nhỏ, giọng run run:

        – Cháu… cháu nó không còn ở với tôi nữa!

        Vừa lúc đó, cô dừng lại trước một căn nhà, nhà của cô. Phải qua một cái sân nhỏ trước khi vào tới phòng khách. Cô Thanh giơ tay:

        – Dạ, mời ngồi! Ðể tôi lấy nước trà mời Trung úy.

        Trong nhà còn có hai vợ chồng người bà con của cô, tuổi khoảng ngũ tuần. Cô Thanh sai họ châm bình nước trà, đoạn rót ra trân trọng mời tôi. Không giữ được kiên nhẫn, tôi hỏi:

        – Hồi nãy cô nói cháu Hân không còn ở với cô, vậy giờ cháu đang ở đâu?

        Sau một hơi thở thật dài, cô Thanh bỗng bật lên khóc nức nở…Hai tay bưng mặt, cô nói trong tiếng nấc:

        – Cháu nó đã mất rồi! Nó bỏ tôi đã gần ba chục năm rồi Trung úy ơi!

        Tôi bàng hoàng, choáng ngợp như vừa bị dội cả một thùng nước lạnh vào người! Không biết tôi có nghe lầm không? Sao sự chết chóc lại có thể xảy đến với một người còn quá trẻ như Hân?!

        Qua một phút chới với vì bất ngờ và xúc động đến tột cùng, tôi lấy lại bình tĩnh:

        – Cháu nó qua đời như thế nào, cô có thể cho tôi biết được không?

        Chuyện cũng hơi dài dòng, vì vậy tôi có ý mời Trung úy tới nhà, mình có nhiều thời gian hơn. Cô Thanh có vẻ đã lấy lại được chút bình tĩnh, cô tiếp:

        – Tôi nhớ nó mất năm Mậu Ngọ, 1978. Lúc đó khó khăn lắm, cả nước đói! Ở quê như chúng tôi mà cũng phải ăn độn! Cháu Hân bỏ học ngay từ năm 75, nó nói học hành gì mà tối ngày họp tổ, họp đoàn, rồi chửi bới chế độ cũ… Vậy mà cũng không thoát, nó phải nhập vào cái gì kêu là thanh niên xung phong gì gì đó, đi làm thủy lợi! Nghĩa là đào kinh, đắp mương đó Trung úy!

        Ngừng lại vài giây như để lấy thêm sức, cô tiếp:

        – Hồi đó nó đang tuổi con gái, mà ăn uống thì thiếu thốn! Lại thêm thi đua này nọ, nó bị mất sức nhiều lắm. Rồi đào kinh đào mương, ngủ bờ ngủ bụi muỗi mòng… bị sốt xuất huyết! Bịnh cũng không đáng gì, nhưng thuốc men hồi đó hoàn toàn không có! Ăn còn không đủ, nói chi thuốc!… Lúc đó nó mới vừa 19 tuổi !

        Ðến đây, cô lại ôm mặt nức nở… Tôi lại gần cô, vỗ về an ủi:

        – Số phận đã an bài như vậy, không cho em qua được cơn khó khăn! Cô cũng không nên rầu rĩ quá không có lợi. Tuổi cô cũng như tôi, ngày một yếu kém…
        – Tôi cũng biết vậy, và tôi cũng đã cố giữ gìn sức khỏe, để sống đến ngày hôm nay …

        Nói tới đây, cô Thanh từ từ đứng dậy, hướng dẫn tôi đi về phía bàn thờ giữa căn nhà.

        Phía trên bàn thờ, tôi thấy có treo hai tấm hình lớn mà tôi đoán là song thân của cô Thanh; đặt trên mặt bàn thờ phía bên trái, có ba tấm hình mà một trong ba tấm đó, tôi nhận ra là em Hân. Hình chụp có lẽ vào lúc em 17, 18 tuổi, trông xinh đẹp như một bông hoa đang nở.

        Khi tôi nhìn em thì đôi mắt của em cũng đã nhìn vào tôi từ lâu lắm rồi, có lẽ ngay từ khi tôi bước vào căn nhà này! Thắp nén nhang, tôi biết tim tôi đang chảy ra thành nước, và dòng nước ấm đó đang chảy ngược lên phía đôi con mắt…

        Khói nhang bốc lên không gian và lung linh tỏa rộng. Ánh sáng yếu ớt khúc xạ qua làn khói, làm như em đang mỉm cười nhìn tôi! Có lúc lại không phải là cười, mà đang nhìn tôi như trách móc!? …

        Mắt tôi bỗng nhiên hơi mờ đi, hình ảnh của Hân, một buổi chiều nào xa xưa trong dĩ vãng bỗng hiện về, bé nhỏ lẫn trong đám người thăm viếng ở bịnh viện Cộng Hòa. Tôi vẫn còn nhớ mãi ánh mắt và nụ cười khi em quay lại nhìn tôi… Và rồi lần cuối cùng tôi gặp, cánh tay bé nhỏ giơ lên chào tạm biệt khi tôi trở về Sàigòn, mắt em đầy lệ …

        Một dư âm mơ hồ như vọng lại từ một nơi nào xa, xa lắm:

        … Ðừng quên đến thăm Hân nha, Hân chờ đó! …

        Người tôi lúc đó như muốn rũ xuống, tôi cố gắng hết sức đứng thẳng người, nhìn tha thiết vào đôi mắt em, cầu xin một tha thứ !

        Ngay trước bức hình của em, tôi thấy có một hộp nhỏ bằng nửa bàn tay, khảm xà cừ màu đen rất đẹp. Thấy tôi nhìn vào chiếc hộp nhỏ, cô Thanh nói như khuyến khích:

        – Trung úy cứ cầm lên và mở ra coi!

        Tôi nhẹ nhẹ cầm chiếc hộp lên bằng hai tay và mở nó. Một làn sáng như lóe lên: chiếc nhẫn lưu niệm trườngVõ Bị Ðà Lạt năm xưa của tôi hiện ra, sáng bóng, nằm trong hộp trên một miếng nỉ trắng.

        Cầm chiếc nhẫn trên tay, tôi chợt rùng mình, dường như có một luồng điện nhẹ đang chạy qua khắp châu thân! Qua biết bao nhiêu năm tháng, chiếc nhẫn vẫn còn đây mà… người xưa đã mất! Chiếc nhẫn như nhắc tôi một lời hứa, một lời hứa tôi đã không giữ trọn!

        Nhìn giọt nước mắt rơi, tôi mới biết mình đang khóc! Thực lòng, tôi cũng không biết tôi đang khóc vì vui mừng thấy lại một kỷ vật xưa, hay đang khóc vì tràn đầy ân hận!

        Rồi trong một thoáng giây vô thức, tôi đưa chiếc nhẫn lên gần miệng, hà một hơi ấm vào viên hồng ngọc rồi chà xát nhẹ nhẹ vào ngực, phía trái tim.

        Nhạt nhòa trong nhang khói, tôi thấy Hân như lại mỉm cười! Có phải tôi tưởng tượng không, hay đang thực sự có một thần giao cách cảm?

        Cô Thanh từ nãy chỉ đứng yên lặng theo dõi, bỗng cô nói, giọng nhẹ như hơi thở:

        – Những lúc còn tỉnh, cháu nó đã kể hết cho tôi nghe vì sao nó có chiếc nhẫn này! Trước đó, nó đã giấu cả tôi, giữ kín và âm thầm chờ mong cho đến những ngày cuối cùng! Trước khi nhắm mắt, nó còn dặn tôi phải để chiếc nhẫn này trong một chiếc hộp thật đẹp, ngay trước hình thờ của nó. Vì nó quả quyết là sẽ có một ngày, một ngày Trung úy sẽ tìm đến!

        Ngừng một phút, cô nói thật nhỏ, như nói với chính mình:

        – Cũng phải mất gần ba chục năm! Giờ thì châu đã lại về hiệp phố!

        Ðặt lại chiếc nhẫn vào trong hộp và trân trọng để chiếc hộp vào đúng chỗ ban đầu, tôi quay qua cô Thanh:

        – Thưa cô, chiếc nhẫn này có lẽ là một trong những kỷ vật quý nhất mà tôi còn có được, kể từ khi vội vã ra đi ngày ấy! Nó đã đánh dấu một thời chinh chiến tang thương của đất nước, nó nhắc tôi một thời tuổi trẻ mà lúc nào tôi cũng hãnh diện và trân quý. Và… nó cũng có cả hình bóng của em Hân trong đó nữa! Nhưng chắc nó không cần về “hiệp phố” nữa đâu! Tôi giữ nó chỉ có khoảng 5 năm, thế mà chiếc nhẫn này nó đã ở bên em Hân những trên ba mươi năm, những lúc em còn sống và cả những lúc em đã qua đời! Tôi không thể hình dung được rồi mai đây, bên hình của em sẽ chỉ còn là một khoảng trống! Tôi còn biết khi xưa,em luôn luôn muốn có chiếc nhẫn này ở bên cạnh. Xin cô cho phép tôi, cứ để chiếc nhẫn bên hình của em. Nó ở đây cũng là nó đang ở mãi mãi, trong tim tôi …

        Không biết mắt tôi có ướt đẫm như đôi mắt cô Thanh không, nhưng giọng nói của tôi, sao bỗng thấy quá nghẹn ngào:

        … Vẫn biết âm dương là muôn đời cách trở, nhưng tôi muốn mượn chiếc nhẫn này, như một vật xúc tác giữa hai linh hồn, một linh hồn đang còn phiêu bạt nơi đất khách quê người, và một linh hồn đang an nghỉ ngàn đời trên quê hương …

        oooOooo

        Cô Thanh ân cần mời tôi ở lại dùng cơm chiều, nhưng tôi phải từ chối vì không muốn trở lại Sàigòn khi quá tối. Tôi hẹn tuần sau sẽ lên để thăm và thắp nén nhang tại mộ phần, nơi an nghỉ cuối cùng của em Hân.

        Khi tiễn tôi qua chợ, cô Thanh cười nói với tôi:

        – Trung úy biết không, khi mua lại căn nhà gần chợ này, tôi cũng có chủ ý là được thấy thật nhiều du khách Việt kiều. Thấy ai có dáng Việt kiều là tôi ngó thiệt kỹ.

        Không dè cũng có ngày Trời Phật run rủi, mà cũng có thể do vong hồn của cháu Hân khiến, tôi lại gặp được Trung úy. Tôi cảm thấy như vừa trút được một tảng đá đã đè nặng trên vai tôi qua bao nhiêu năm tháng… Xin cám ơn Trung úy!

        Tôi mỉm cười trước những ý nghĩ chân chất và đôn hậu của một người miền Nam như cô Thanh. Tôi nắm hai tay cô, rồi ôm cô thật chặt trước khi giã từ. Theo tỉnh lộ 10, tôi trở về Sàigòn qua ngả Phú Lâm. Trước kia con đường này hầu như không bao giờ sử dụng được, nó luôn luôn bị đắp mô, mìn bẫy, đôi khi có cả phục kích …

        Thương hải biến vi tang điền! Ngàn xưa đến ngàn sau, dù muốn hay không, đổi thay vẫn cứ là một bản chất tự nhiên của đời sống!

        Chỉ có tình cảm của con người, có những thứ tình cảm mà suốt cả một đời, không bao giờ thay đổi!

        … Vậy mà nhiều khi tôi vẫn đinh ninh rằng: Ðã mất hết cả rồi!

        BTP – Memorial Day, 2013
        nguồn:
        baotreonline.com/linh-hon-cua-dat/

        Comment


        • Những Ngày Đen Tối (30 tháng 4 năm 1975)

          Những Ngày Đen Tối (30 tháng 4 năm 1975)


          Hình minh họa

          Viết lại tâm trạng của người lính thất trận.

          Phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đồn trú của bộ tư lệnh Không Quân VNCH và Sư Đoàn 5 Không Quân trân mình chịu đựng những cơn pháo kích của Cộng quân . Những chiếc phi cơ đủ loại phơi mình trong nắng như thách thức đạn pháo của địch, một vài chiếc C123 đang bốc cháy vì trúng đạn pháo. Lực lượng phòng thủ phi trường đang cố gắng chống đỡ trong tuyệt vọng.

          Trên bầu trời xanh cuối tháng Tư, khoảng chín giờ sáng chiếc AC119 (*) vẫn lầm lũi, bướng bỉnh đảo vòng quanh phi trường rải những lưới đạn đại liên xuống những vị trí chung quanh vòng đai phi trường nơi đám Cộng quân đang điên cuồng cố gắng thanh toán nốt mục tiêu cuối cùng. Quân cộng Sản cố gắng triệt hạ chiếc AC119 cô đơn bằng nhữnh lằn đạn phòng không. Chung quanh phi cơ, những nấm khói trắng vội vã nở bung như những bông hoa tiếp theo những tràng đạn chát chúa nhưng chiếc phi cơ vẫn lầm lì coi thường đáp trả lại bằng những cơn mưa đạn hung thần xuống đầu bọn chúng mà chẳng cần bay lượn tránh né.

          Bỗng một tiếng nổ xé trời, vệt khói trắng bay thẳng như mũi tên lao thẳng vào chiếc phi cơ. Chiếc AC119 nổ tung trong trái cầu lửa, thân phi cơ gẫy vụn làm nhiều mảnh, những mảnh nhôm vỏ bọc phi cơ bay lờ lững trong không gian như những chiếc lá vàng mùa thu trong cơn cuồng phong, không một bông dù được bung ra. Đất nước vừa có thêm những anh hùng vô danh: Phi Hành Đoàn AC119 đền nợ nước bởi hỏa tiễn Sam hay SA7 của Việt Cộng.


          Hình minh họa

          Người lính kỹ thuật Không Quân trào nước mắt, tay cầm mũ ấp vào ngực cúi đầu chào vĩnh biệt đồng đội vừa anh dũng hy sinh trên chiếc AC119. Động lực nào mà các anh đã dũng cảm chiến đấu một cách vô vọng trong lúc các anh có thừa phương tiện đào thoát trong tay ? Các anh đã vĩnh viễn ra đi bỏ lại mẹ già,vợ dại, con thơ và những người thân ? Chỉ có câu trả lời duy nhất: Thà chết vinh hơn sống nhục, các anh không chịu đầu hàng một cách tủi nhuc như lệnh của ông Tổng Thống cuối cùng sau khi lên nắm quyền chưa đươc 24 giờ.

          Lầm lũi rời khỏi cổng Phi Long (cổng chính phi trường TSN), khẩu súng M16 trên vai và hai kẹp đạn trong túi, tâm hồn tan nát như những mảnh vụn của chiếc C119 vừa nổ tung, hắn quên luôn cả lệnh buông súng đầu hàng, quên luôn những nguy hiểm chung quanh hắn, chỉ một tên “cách mạng 30” với vũ khí vừa nhặt được trên đường phố hay những nòng súng bắn sẻ đâu đó từ những con hẻm, góc phố hay từ sau những cánh cửa nào đó cũng dễ dàng đưa linh hồn hắn gặp các đồng ngũ của hắn vừa ra đi. Dù chợt nhớ tới lệnh buông vũ khí nhưng hắn cũng bất cần, nếu bị bắn sẻ mà ra đi trong lúc này thì chắc còn dễ chịu hơn phải sống như bây giờ.

          Bước chân vô định qua những đống quân phục, nón sắt, giầy bốt, vũ khí của đầy đủ các quân chủng bỏ ngổn ngang trên đường phố, những tiếng súng lẻ tẻ hay từng loạt đạn nổ chát chúa cũng không kéo được hắn ra khỏi cơn mộng du. Ký ức lôi kéo hắn trở lai những ngày sau cùng của cuộc chiến. Mất Ban Mê Thuột, Pleiku, Huế. Đà Nẵng di tản với bao hãi hùng đã rơi vào tay địch, trận Khánh Dương với các chiến binh Dù được tải thương về bằng C130. Hắn đứng nhìn những thương binh được tải xuống từ những chiếc xe bus, những thương binh còn tự lo liệu đươc đã cố gắng lê lết trên những thân hình tàn tạ, bê bết máu hay cõng nhau để lên những chiếc GMC đưa về bệnh viện của đơn vị bên trại Hoàng Hoa Thám, những cánh tay mệt mỏi đưa ra xin hắn vài điếu thuốc. Hắn sót sa chia sẻ bao thuốc cuối cùng cho các chiến thương binh kém may mắn, hy vọng những điếu thuốc sẽ xoa dịu cho bạn đồng ngũ phần nào những đau đớn thể xác.

          Rồi tin KQVN vừa thả xuống mặt trận Xuân Lộc hai trái bom CBU 55 đã tiêu diệt trọn vẹn hai sư đoàn Cộng quân làm mọi người phấn khởi. Nhưng rồi tin vui cũng như đốm lửa chợt bừng sáng rồi tắt lịm, Nha Trang thơ mộng không còn nữa, Bình Long, Biên Hòa cũng mất và giờ này thì căn cứ Tân Sơn nhất, cứ điểm sau cùng của quân lực VNCH chỉ còn là bãi chiến trường hoang vắng. Bước chân lang thang như một thói quen đưa hắn đến nhà người bạn đồng ngũ thân nhất gần căn cứ, ở đó đã có thêm một đồng ngũ ngồi ủ rũ, gặp nhau một cách đột ngột, cả ba đứa đột nhiên ôm chặt lấy nhau cùng òa lên khóc, bọn hắn khóc nức nở như những đứa trẻ thơ, như chưa bao giờ được khóc dù chưa kịp nói được một lời hỏi han.

          Sau cùng thì cũng là những trao đổi xem ai còn, ai mất. Chợt nhận ra cây M16 hắn còn đeo trên vai, bạn hắn nói: “mày điên hay sao mà giờ này còn mang súng?, bọn khốn nạn đó thấy sẽ giết mày không thương tiếc đâu”. Hắn cười, nụ cười khinh bạc, héo hắt: “có lẽ chết giờ này sướng hơn sống”. Giã từ bạn đồng ngũ, hắn lê thân xác nặng nề trên đường phố hoang vắng, đâu đó vẫn lẻ tẻ những tiếng súng cầm cự của lưc lượng Biệt Kích không chịu buông súng đầu hàng một cách nhục nhã. Biết đi về đâu ? Định mệnh tàn ác vừa chụp lên đầu hắn và nhiều triệu dân miền Nam Viêt Nam những ngày đen tối nhất.

          nguồn:
          https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

          Comment


          • Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù

            Bán Tiểu Đội Biệt Cách Dù
            & Trận Đánh Sau Lệnh Đầu Hàng Ngày 30/4

            Hải Triều / Trung Nghĩa bốn


            Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư trằn trọc không ngủ được. Đơn vị anh được lệnh chuyển quân về đóng ở Tam Hiệp, Biên Hòa, nơi mà tinh thần chống cộng của đồng bào Thiên Chúa giáo vững vàng như sắt, như đá. Sự có mặt của những toán Biệt Cách Dù làm các đơn vị quân dân phòng thủ ở đây lên tinh thần. Tư đi hết nhà dân đến nhà thờ. Có những đêm Tư âm thầm vào nhà thờ nhìn chăm chăm vào tượng Chúa để cầu xin một phép lạ, không phải cho anh, mà cho quê hương, để Bắc quân bị tan biến trong trận Long Khánh và không một tên nào mò qua Tam Hiệp để vây Sài Gòn. Anh thấy tượng Chúa buồn buồn, anh thấy tượng Đức Mẹ dường như muốn khóc. Anh về lại đơn vị trùm poncho ngủ. Giấc ngủ vỡ tan theo tình hình tin tức chiến sự căng cứng cứ một ngày gần về phía Sài Gòn.

            Sáng ngày 28 rạng 29 tháng Tư, đơn vị anh được tin cho biết về các hướng chuyển quân của địch, trong đó có một đơn vị cộng sản có chiến xa sẽ di chuyển từ Tân Phong hướng chiến khu D tiến về vòng đai phi trường Biên Hòa theo lộ trình quốc lộ 1 vào Hố Nai. Tất cả đơn vị đã sẵn sàng trong tư thế chiến đấu. Các đơn vị địa phương và nhân dân tự vệ, súng đủ loại bỗng nhiên thành những người lính tử thủ. Họ phân công, tăng cường phòng thủ và di chuyển đồng bào khỏi vùng có thể sắp xẩy ra những cuộc đụng độ đẫm máu.

            Sáng sớm 30 tháng Tư, Tư và các sĩ quan được đơn vị trưởng mời họp khẩn cấp, chờ lệnh Sài Gòn. Trời Tam Hiệp vẫn chờ cơn bão lửa trong tinh thần chuẩn bị cho cuộc thư hùng chết bỏ. Đến khoảng vừa sau 10 giờ sáng, các sĩ quan quay quanh chiếc radio, im lặng, đợi chờ một cái gì vô cùng nghiêm trọng. Bỗng tiếng tướng Dương văn Minh ồn ồn vang lên lệnh buông súng. Tư đập tay xuống bàn. Chiếc đồng hồ vỡ tung, đứt dây văng xuống đất. Các sĩ quan có mặt, người chửi thề, kẻ ôm mặt khóc. Vị sĩ quan Dù, cấp chỉ huy của Tư đang gục mặt xuống bàn, hai vai ông run lên. Một lúc sau, ông đứng dậy nói trong hai hàng nước mắt:

            - Định mệnh oan nghiệt! Định mệnh oan nghiệt! Thế là hết! Anh em tan hàng và thoát khỏi vùng này gấp! Chiến xa địch có thể đang rất gần!

            - Sao dễ dàng vậy ông thầy? Mơ hay thực ông thầy! Hỏa ngục An Lộc mình coi như pha! Sao bay giờ chưa bắn phát đạn lại tan hàng? - Tổng thống đã bó tay hàng, lệnh chúng ta buông súng. Làm sao chuyển xoay thế nước? Làm sao xoay chuyển lịch sử? Công chuyện bây giờ là cứu mạng anh em? Anh em nghe rõ?

            Không khí im lặng, tịch mịch, thê lương. Không một ai trả lời. Một thứ im lặng nặng nề, uất nghẹn. Tư bỗng lên tiếng:

            - Không! Tụi em nghe rõ nhưng không buông súng! Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng là chuyện của ông Dương Văn Minh. Tụi em không thể quăng súng! Biệt Kích Dù không bao giờ quăng súng! Ông thầy mặc tụi em!

            - Thế cậu làm gì?

            Tư không trả lời người chỉ huy của mình. Anh đứng phắt day chào tay người đơn vị trưởng và bỏ ra khỏi phòng:

            - Vĩnh biệt ông thầy và anh em!

            Đây là lần đầu tiên trong đời binh nghiệp mà Tư hành sử như vậy đới với cấp chỉ huy. Đơn vị trưởng Tư lặng lẽ nhìn Tư đi cho đến khi bóng anh khuất ở một góc đường dẫn về vị trí công sự phòng thủ của toán Tư trách nhiệm. Ông thở dài và mọi người giải tán.

            Thiếu úy Tư về vị trí anh em đang bố trí chờ địch. Họ thấy nét mặt Tư như căng ra, căng thẳng và quyết liệt. Anh nói với anh em:

            - Thằng cha Minh Bự ra lệnh buông súng rồi! Mấy ông đại bàng lớn nhỏ đã chấp nhận lệnh của Dương Văn Minh. Tôi thì không. Anh em nào theo tôi thì gom hết súng đạn và M72 xếp hàng theo tôi. Anh em nào nặng gánh gia đình thì ngay từ lúc này, bẻ súng, hay chôn súng, rời khỏi nơi đây gấp! Tôi còn chỉ huy anh em.

            Đây là lệnh! Lệnh sau cùng trước khi chia tay!

            Thầy trò Thiếu úy Tư nhom vào nhau, ôm nhau, kẻ khóc, người gạt nước mắt khi chia tay. Tư gom còn lại anh em khoảng một bán tiểu đội chịu ở lại với Tư, mỗi người hai ống M72, lựu đạn, súng cá nhân và ba lô. Tư dẫn anh em di chuyển nhanh về xứ đạo Kim B... Đó là quê quán của một số anh em trong toán không buông súng của Tư. Tư đưa anh em lẩn vào một dãy nhà quen. Dãy nhà chỉ còn lại một bà cụ già:

            - Bác Tám! Cháu là Vũ Văn Tư! Bác còn nhớ cháu? Bà con đâu hết rồi?

            - À, tôi nhớ rồi! Cậu Tư Biệt Kích Dù! Cậu Tư về đây làm gì, bà con tản cư về Sài Gòn, vì nghe nói cộng sản có thể vô đây! Mà mấy cậu đói không?

            - Sáng giờ tụi con chưa có gì trong bụng hết...

            - Còn nồi thịt kho sau bếp. Tôi nấu nồi cơm cho mấy cậu ăn!

            Mặt tiền nhà thờ Kim B... bên trái là cột cây số 6 tính từ Biên Hòa lên, bên phải là những căn nhà dân bỏ hoang, cách đó không xa là trường tiểu học Hải Phòng có một địa thế che khuất thuận tiện cho một cuộc phục kích. Tư ra lệnh anh em đào hầm và ngụy trang gấp để sẵn sàng cho một cuộc tấn công chớp nhoáng và rút nhanh theo kế hoạch.

            Các Biệt Kích Dù còn lại mặt trận không có lệnh hành quân do Thiếu úy Tư chỉ huy, không có đại bàng trên trời, dưới đất, cũng không có hệ thống truyền tin, không Tổng Tham Mưu, không dinh Độc Lập... Chỉ có thầy trò Tư, Văn, Lễ, Hùng, Sự và Bảy đang dàn trận đối đầu với Bắc quân vào xế 30 tháng Tư, 4 tiếng đồng hồ sau lệnh cho quân đội buông súng của tướng Dương Văn Minh. Lúc này, trên mặt những Biệt Kích Dù không còn nước mắt buổi sáng, mà mặt họ lại đăm đăm chờ giặc như những lần phục kích năm xưa, bất chấp cái gì xẩy ra cho họ.

            Tư phân phối vị trí tác xạ cho từng anh em và chỉ thị:

            - Trận này chỉ xi M72! Không dùng súng nhỏ và lựu đạn, thứ này chỉ để tự vệ trên đường tàng hình mà thôi! Nếu địch xuất hiện trong tầm hiệu quả, xe nhỏ và Molotova vận tải, chơi trực xạ một M72. Nếu T54, tập trung tối thiểu là 2 M72 một chiếc cùng lúc để con cua bị rang muối ngay tức khắc, nếu nó còn sống, nó quay đại liên thì mình không thoát được theo kế hoạch, không về được với vợ con. Tất cả phần đuôi của đoàn xe địch còn lại, chơi xả láng tất cả M72 còn lại vào mục tiêu, kể cả bộ binh tùng thiết... Và tàng hình thật nhanh trước khi địch tỉnh hồn phát giác vị trí tấn công và đường thoát của tụi mình!

            - Rồi sau đó tụi em gặp Thiếu úy ở đâu?

            - Tại nhà thằng Hùng ở Ngã Ba Hàng Xanh tối ngày mai nếu tụi mình không thằng nào rách áo hay đi phép dài hạn! Nhưng mình chơi cú này như ma như quỷ, bố tụi nó cũng không ngờ! Nhớ! Tụi mình phải gặp nhau lần cuối trước khi chia tay mà không biết bao giờ gặp lại!

            Đúng như nguồn tin hôm trước và dự đoán hôm nay, dưới ánh nắng gay gắt, trước nhất là một chiếc jeep đi đầu, ngay sau là tiếng xích sắt nghiến trên mặt đường của một chiếc T54 nòng đại bác kềnh càng chỉa về trước, hai bên hông xe là một số bộ đội, có cả du kích dép râu có lẽ lần đầu tiên được "cưỡi" xe tăng, rồi tiếp theo là 2 chiếc Molotova đầy bộ đội miền Bắc và du kích dép râu, mũ tai bèo, lá ngụy trang. Họ di chuyển dường như khá chủ quan là sau cả buổi lệnh buông súng của Dương Văn Minh loan báo trên đài, các ổ kháng cự của quân đội VNCH đã rời vũ khí, bỏ trống chiến trường. Họ chuyển quân như đi duyệt binh, như phô trương lực lượng.

            Tư và bán tiểu đội Biệt Kích Dù chỉ chú ý đến phần đầu kể từ chiếc xe jeep để có thể tấn công chớp nhóng và rút nhanh trước khi địch hoàn hồn. Đoàn xe tiến ngày càng gần vào vị trí ổ phục kích. Tư bình thản nói nhỏ vào tai các xạ thủ:

            - Jeep có sĩ quan đi đầu, cậu chơi chính xác 1 quả cho tôi!... Chiếc T54 kế, hai cậu chơi hai quả trực xạ ngang hông cùng một lúc!... Hai Molotova đi sau, mỗi chiếc một quả chính xác cho tôi!... Các ống phóng còn lại, các cậu xả láng hết vào bất cứ đoàn xe hay đám tùng thiết nào xuất hiện trong tầm tác xạ! Và ngay sau đó, biến nhanh theo tôi! Không chần chờ ở lại xem kết quả! Hổ nhanh như ma như biến mới sống!

            Tiếng xích sắt chiếc T54 nghiến đường kềnh càng mỗi lúc một gần. Chiếc jeep có một sĩ quan và hai nhân viên truyền tin cùng chiếc T54 vừa lọt vào tầm tác xạ hữu hiệu, có thể nói là quá sát vị trí phục kích, Tư ra lệnh khai hỏa.

            - Ầm!

            Một vệt lửa vụt đi, quả M72 lao như điện xẹt vào mục tiêu. "Tiến về Sài Gòn. Ta giết sạch giặc thù" chưa thấy đâu, nhưng chiếc jeep đi đầu bị thổi tung lên như con diều giấy bốc cháy. Bị tấn công bất ngờ, chiếc T54 hoảng hồn nã một phát đại bác lên tháp chuông nhà thờ. Tháp chuông bị vỡ sụp một góc. Nhanh như chớp, trước khi đại liên và đại bác tác xạ vào các vị trí nghi ngờ khác, hai quả M72 phóng thẳng vào hông phải chiếc T54:

            - Ầm! Ầm!

            Chiếc T54 lật ngửa sang một bên, bốc cháy bên vệ đường. Ba quả M72 tấn công quá nhanh, chỉ trong vòng không tới 30 giây, bộ đội Bắc Việt và các du kích bám trên xe không phản ứng kịp, bị văng xuống như sung rụng. Trong một tích tắc tiếp theo đó, hàng loạt M72 phóng thẳng vào hai chiếc Molotova chở đầy lính đủ loại, nón cối, mũ tai bèo và vài chiếc đi sau.

            - Ầm! Ầm! Ầm...!

            Nguyên một đoạn đường còn lại trong tầm tác xạ của M72 bỗng chốc thành bãi chiến lửa khói đầy xác xe và người chết. Tiếng súng AK khai hỏa từ phía sau đoàn "con-voi" nhưng họ không biết họ bị tấn công từ đâu. Không một tiếng súng nhỏ M16 bắn trả. Bỗng chốc chiến trường thành một thứ chiến trường im lặng chết người. Trong cái khoảnh khắc im lặng mà Bắc quân còn nằm chết dí trên mặt đất bắn lung tung, chưa nắm vững tình hình địch và thiệt hại của các chiếc xe đi đầu, bán tiểu đội Biệt Kích Dù đã biến đi tự lúc nào.

            Sau khi không nghe thấy gì nữa, các đơn vị Bắc quân và chiến xa còn lại thận trọng dàn quân thành một vòng cung bọc tròn khu vực nhà dân, nhà thờ và trường tiểu học. Họ di chuyển chậm và họ nghĩ rằng trận phục kích kế tiếp sẽ diễn ra. Nhưng không! Tiếng nổ lác đác còn lại chỉ nghe thấy từ lòng chiếc T54 với những đạn loại nhỏ bị cháy và còn phát nổ. Vòng vây khép lại như một mẻ lưới, càng lúc càng nhỏ dần.

            Bắc quân uất giận bắt đi vị linh mục già chánh xứ co ro trong nhà thờ và mấy người dân đau ốm tá túc trong nhà thờ. Họ lục soát trong nhà dân, bắt thêm vài người. Tháp chuông nhà thờ đổ nát nhưng tượng Chúa và tượng Đức Mẹ vẫn còn, một tên VC lia vào tượng một tràng AK và ra ngoài, hắn lầm lừ như con hổ bị trọng thương. Một tên chỉ huy hạch hỏi hai người dân điều gì không rõ, song sau đó, họ bắn cả hai ngay trước cổng nhà thờ.

            Toán quân cộng sản tiếp tục di chuyển, áp tải theo linh mục chánh xứ và những người dân vô tội, đến ngay tại cây số 7, họ dừng chân, họ bàn chuyện gì không biết, nhưng sau đó họ lôi ra bắn tiếp 2 người nữa và vứt xác bên vệ đường. Người dân miền Nam, những người bị bắt còn sống chưa bị hành quyết tại cây số 7, những người còn sống trong các nhà bên đường... kinh hoàng, vài người đã la hét trong cơn hoảng loạn tâm thần. Họ thấy cái chết lắc lư trên đầu họ. Và dường như Bắc quân thấy một cái gì không ổn trong hành động của họ trước những tiếng gào thét tuyệt vọng của đồng bào, họ ngưng hành quyết những người còn lại.

            Trên quốc lộ 1, đoạn đường từ cây số 6 trước nhà thờ Kim B đến cây số 7 cũng chính là một phần của đoạn đường "Tiến về Sài Gòn, ta giết sạch giặc thù!" Bài hát "Tiến về Sài Gòn" của Huỳnh Minh Siêng đã hiện thực trên những vũng máu của người dân vô tội.

            Ngày 1 tháng 5, thủ đô Sài Gòn tang tóc. Chiều, gió nhe ïthổi từ sông Sài Gòn như hơi thở tàn hơi trên từng sợi tóc của những người dân phờ phạc, âu lo, trên từng tàng cây hai bên đường như cảm nhận một mùa xuân tang tóc. Sài Gòn thoi thóp thở. Đâu đó, người ta thỉnh thoảng còn nghe tiếng súng, tiếng lưu đạn nổ.

            Tiếng nổ của những người tự tử chết theo thành. Tiếng súng của những anh em còn chiến đấu tuyệt vọng từ những hẻm hóc giữa thủ đô liệm chết.

            Tư lần mò đến địa điểm hẹn anh em ở Ngã Ba Hàng Xanh. Thầy trò Tư lặng lẽ ôm nhau, cùng nhau ăn một bữa cơm ly biệt sau cùng. Tư bùi ngùi nói với anh em:

            - Trách nhiệm của chúng ta đối với Tổ Quốc đã tròn. Không ai lệnh cho chúng ta phải đánh trận sau cùng khi Dương Văn Minh đã đầu hàng. Tôi tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Đức Mẹ đã bảo bọc chúng ta để còn gặp đủ anh em đêm nay. Nhưng ngay trong đêm nay, tôi không còn là người chỉ huy anh em, anh em mỗi người tự thay tên đổi họ để về nguyên quán, lo cho gia đình, vợ con. Tôi sẽ còn ở lại Sài Gòn ít hôm coi tình hình, và có thể trở lại coi tận mặt chiếc T54 bị bắn cháy trước khi về lại Cao nguyên.

            - Em còn độc thân! Ông thầy cho em ở lại và tháp tùng ông thầy!

            - Không! Em về với bà cụ! Tình hình vô cùng nguy hiểm! Thôi, chúng ta chia tay! Coi chừng mấy thằng 30 nằm vùng!

            Đèn trong trong phòng vụt tắt. Bán tiểu đội Biệt Kích Dù không còn quân phục, không còn vũ khí của thiếu úy Vũ Văn Tư ôm nhau trong bóng tối. Người ta không thấy nước mắt, chỉ nghe những tiếng nấc ly biệt, nghẹn ngào...

            Mấy hôm sau, Tư lẻn về lại Hố Nai một mình. Địch vẫn chưa áp đặt gắt gao sự kiểm soát trong vùng. Tư mặc đồ rách rưới như một nông dân lần đến thăm nhà thờ Kim B và khu vực trận địa. Tư lựa một góc nhà khuất, dựa lưng nhìn chiếc T54 và xác chiếc jeep nằm tan nát bên cạnh. Tư được biết một sĩ quan cấp đại tá và hai người lính truyền tin đã tử thương trong trận phục kích, số thương vong trên các chiếc Molotova và đoàn quân phía sau không rõ. Về lại Sài Gòn, Tư gặp một số bạn thân kể lại trận đánh và anh biến mất khỏi Sài Gòn sau đó.

            Một năm sau, Tư hoàn toàn thay tên, đổi họ và sống như một người dân không biết gì về lính tráng. Lặng lẽ, âm thầm, uất ức và chán đời về sống ẩn dật về sống ở Cao nguyên. Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư đã không còn trên cõi đời. Dần dà, anh trở thành người thất chí rồi mất trí. Anh không điên, nhưng người nhà cho biết anh Tư ngày nào cũng như ngày nào, suốt ngày cứ lầm bầm... những câu " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng? Quân phản bội! Quân hèn nhát! Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và trong một đêm mưa Cao nguyên sấm động rung trời như hét lời hận uất giữa không trung, mưa như trút nước, anh Tư nằm liệt giường, mê sảng. Trong cơn mê, anh cũng cứ thều thào... " Tại sao đầu hàng? Tại sao đầu hàng?..." Và sáng hôm sau, anh nằm yên, vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại.

            Thiếu úy Biệt Kích Dù Vũ Văn Tư mất năm 1976 dưới một cái tên hoàn toàn xa lạ, không vinh thăng, không phủ cờ, không huy chương, không một cánh hoa dù có mặt cạnh áo quan. Anh nhắm mắt nhưng mối hờn không chết trên quê hương, và chỉ một mình anh mang theo niềm hận uất khôn nguôi của riêng mình xuống đáy huyệt sâu. Khối hờn chung trong hơn bốn mươi năm vẫn còn vẫn còn bàng bạc trên từng ngọn cây tấc đất... dẫu dấu tích của cuộc chiến bi hùng đã tàn phai theo tháng, theo năm.


            Hải Triều / Trung Nghĩa bốn
            nguồn:
            https://www.facebook.com/groups/1051...2182960819807/

            Comment


            • Cái Thẻ Bài

              Cái Thẻ Bài
              Phi Ngọc Hùng


              Trời sui đất khiến, bỗng dưng không đâu tôi hỏi: “Mày có mối tình lớn nào không?”. Nó nhướng mắt nhìn tôi từ trên xuống dưới, như nhìn người hành tinh. Lừ lừ nốc hết ly rượu mầu hổ phách, ra cái điều tửu phùng tri kỷ thiên bôi tửu. Xong nó lặng lờ như gió thoảng mây bay:

              - Văn sĩ Nga Tourgueien, trong ngày ra mắt quyển “Mối Tình Lớn”, ông được độc giả và giới văn học ca ngợi như một tác phẩm của thế kỷ. Nhưng bị văn hào Dostoiewsky phê bình: “Nếu tôi có mối tình lớn như vậy, tôi sẽ chẳng bao giờ dại dột kể cho ai nghe hết”.

              Nó đặt cái ly xuống…Bố khỉ, tôi ngọng trông thấy!

              ***

              Bạn bè có nhiều thằng tôi phục sát đất thì thằng này là một, mở miệng ra với một mớ kiến thức đóng hộp từ thập niên 60 qua André Camus, Jean Paul Sarte, John Steinbeck. Nhưng ấn tượng mà tôi ghi nhận được là nó có trí nhớ thần sầu và nói thao thao bất tuyệt, nếu cần là nó…bấm cò đi một tràng “ra-phan”.

              Đi một tràng…”ra phan” là có dây dưa đến chuyện súng đạn, truyện xưa tích cũ thì nó cũng một thời khóac áo trây di, lại khóai mầu áo hoa rừng, chỉ vì cái mặc cảm “sữa” từ những ngày còn đi học. Về phép, việc đầu tiên là lên khung bộ quần áo ủi hồ cứng ngắc để bát phố. Nhưng nó chỉ là thằng bám đuôi, cùng lắm là một cái húyt gió bâng quơ. Không sơ múi gì bèn ngồi đồng ở La Pagode nhìn theo tiếc nuối. Khổ một nỗi, nó cũng chỉ nhìn từ đằng sau, một tà áo mờ nhân ảnh nào đó.

              Rồi những mùa thu đi, nó vẫn là con bà cả đọi. Lại nữa, có một số các cô các bà tính khí cũng khác người. Một là chỉ thích kết mái tóc muối tiêu đầy…phong trần tiến để “chú chú, cháu cháu”. Hai là nhúm mấy đấng nhi đồng mặt búng ra sữa để “thấy anh nhỏ xíu em thương”. Và nó. Thằng bạn mà tôi mới gặp lại đây…trong một mùa thu chết có lá vàng rơi, nguyên đại úy mũ nâu biệt động quân, với số ruồi nên nằm chết dí không ngóc đầu lên được ở cái khỏan…thứ hai khốn khổ khốn nạn này. Thế nên mới thành chuyện…

              Ngày ấy, nó mới chỉ là Thiếu úy.

              Một lần, nó kể chuyện tình quán cóc bên đường của nó cho tôi thưởng lãm, chuyện “thiếu úy” đang uống bia tới bến, nhậu tới khuya…Thấy tôi cười tình, nó chửi đổng: Sư mày, mày biết đíu gì chuyện lính tráng. Rồi nó lên giọng dậy đời: Không uống rượu như máy, chửi thề như đĩ thì chỉ huy chó gì lính, thằng nhà quê. Và nó nheo mắt hỏi tôi: Mày có hiểu tao nói gì không. Tôi chưa kịp hiểu gì thì nó đã sàng sê là nó không cải lương. Chuyện sao kể vậy là nó đang đánh vật với chai bia, nó được mợ chủ quán nháy nhó lên lầu để ngắm “mây bay gió thổi”. Mặc dù “quan” mới ra trường, nhưng nó không đến nỗi chậm tiêu cho lắm, lại vừa mới hành quân về thế nên nó lóc cóc bò lên. Trong khi mợ yêu đời ca ong ỏng “Tưởng giếng sâu em nối sợi dây dài, ai ngờ giếng cạn em tiếc gòai sợi dây”, vừa xuống sáu câu xong, đang sửa sọan lâm chiến, bỗng nó nhìn thấy tấm ảnh treo trên tường, một hảo hán đang…tập tạ vai u thịt bắp như Hercule thời La Mã. Hỏi ai? Mới hay là chồng mợ chủ, trung sĩ nhẩy dù. Hỏi chồng đâu? Nó chớ phở, hóa ra đang ở trại Hòang Hoa Thám, chẳng xa cái quán ở Hóc Môn này cho lắm, bắt cái xe lam cũng khoảng mươi phút phù du vì vậy nó…dọt lẹ.

              Nhưng không quên vật bất ly thân là: Cái thẻ bài.


              Hình minh họa

              Lên Trung úy vẫn số con rệp, tiểu đoàn nó đụng trận ở Đông Hà. Thua banh càng, nó chạy chết bỏ, lết tới trước cửa nhà dân thì lăn đùng ra…chết giấc. Nó được chị chiến sĩ gái hương đồng cỏ nội vực vào nhà, tắm rửa, lại còn hiếu khách, nấu cháo gà cho nó bồi dưỡng. Nó kể, tắm táp cũng có chút đỉnh sào khô sào nước, qua chiếc áo ẩm ướt, bộ ngực trời cho nổi cộm như cái cù lao ông Đạo Dừa. Quất xong tô cháo. Nó sắp tính chuyện phải quấy với chị chiến sĩ giải phóng. Nhìn qua cửa sổ, nó tá hỏa tam tinh vì thấy một thằng huyện ủy hay K- trưởng gì đó, ngang hông là khẩu K 54 đang lò dò đi tới. Nó lại thêm một lần…”vượt thoát”. Tôi bật cười khan vì nghĩ chắc cung mệnh nó như có sao thiên di với tả phù hữu bật, nên chuyện lính tráng của nó, láo liên mắt trước mắt sau là chạy vắt giò lên cổ, sau này có thêm màn…cháo gà nữa.

              Như đoán được ý nghĩ của tôi, nó lại lầu bầu: Sư mày, tao cũng bắt được cái bằng “Rừng núi sình lầy” chứ bộ. Rồi nó huyếch: Mưu sinh thoát hiểm tao là bậc thầy, nghề của tao mà mày, nhờ đó tao nắm đại đội trinh sát là vậy. Và vẫn chứng nào tật ấy: Mày có hiểu tao nói gì không. Nó cũng không quên nổ như tạc đạn:

              Cọp ba đầu rằn mà mày.

              ***

              Khôn nhà dại chợ, tôi lại dại dột hỏi chuyện mưu sinh thoát hiểm của nó mới chết một cửa tứ. Mà hình như từ nẫy đến giờ, nó rình rình mãi cái cơ hội trời cho một thưở, một cõi này.

              Nhấc ly rượu lên, rất ư từ tốn và chẳng thể thiếu phần chậm rãi:

              “…Tao không nhớ ngày nào trước 30 tháng Tư, ngay sau khi ông Thiệu từ chức. Liên đoàn 32 BĐQ của tao đang đóng quân ở quận Chân Thành, được lệnh rút về Lai Khê thế chỗ cho Sư Đoàn 5 lui về tỉnh Bình Dương. Tao nghĩ chỉ là cuộc chuyển quân bình thường, nhưng khi nghe được khẩu lệnh phá hủy mọi vũ khí nặng, thì tao hơi rét. Vì nhớ lại, tao sém được “Tổ quốc ghi ơn” trong cuộc triệt thóai thê thảm của Chiến Đoàn 5 BĐQ năm 71, trong trận Kratie ở Cao Miên. Ngay sau đó là lệnh mới, có thể phối hợp với Sư Đoàn 5 tử thủ Bình Dương. Mẹ kiếp, nghe hai chữ “tử thủ”, sao tao hãi quá thể.

              Lủng củng lỉnh kỉnh đập với phá, tháo với gỡ từ sáng đến chiều, lại phải đợi một tiểu đòan nằm kích ở suối Tầu Ô về, tụi tao mới lục đục rời quận lỵ. Như có linh tính, hồi trưa trong lúc họp hành quân bỏ túi, dục tất bất đạt, tao đã nói tại sao không để đến sáng mai hãy rút, vì ban đêm là trận địa của tụi nó, bị phục kích là bỏ mạng sa trường. Sư tụi nó, đíu thằng nào chịu nghe. Y như rằng, trời mới sập tối, đi được gần mười cây số thì vướng mấy cái mô và tụi tao bị tụi nó dằn mặt ngay tức thì. Từ mấy cái dạt làng, phía rừng cao su Dầu Tiếng, tụi nó bắn ra sối xả, đòan quân xa ngừng lại trong rối lọan, thay vì bung ra lọan cào cào như …đàn vịt thì đã đỡ khổ. Tụi tao, quan cũng như lính, co cúm lại chịu trận, dính chùm sau mấy chiếc quân xa, đạn bác 82 ly rơi vãi tứ tung. Tao dùng ống nhòm thấy rõ như ban ngày cái đế súng sơn pháo, tụi nó đặt trong sân nhà dân, từ hướng bắc quốc lộ rót qua. Tụi nó nhởn nhơ thụt từng trái một, còn chỉ chỏ nữa mới tức điên người, tao mà còn cối 57 ly không giật đặt trên xe díp là tụi nó kể như thác”.

              Nghe đến vịt…Ắt hẳn là mặt tôi đang đực ra như vịt đực vì uýnh nhau gì mà lạ vậy cà. Như đoán được ý tôi, nó bèn vén môi lên chửi đổng: “Sư mày thằng nhà quê, mày cứ tưởng gặp cọp ba đầu rằn là Việt Cộng dạt ra đứng ngó chơi gãi háng cho đỡ buồn chắc. Tao báo đời cho mày biết, ngòa trận địa bên nào nhiều tay súng hơn là chiếm thế thượng phong. Giản dị và dễ hiểu vậy thôi, thằng con”. Thấy mình ngồi đồng đã lâu, tôi hỏi cho phải phép: Mày gặp tụi chính quy ?

              Nó lại ngóac mồm lên chửi thề: “Sư nó, đụng tụi Mặt Trận Giải Phóng mới đau. Gặp công trường 5, 7 hay 9 thì tao đâu có ngồi đây với mày. Dám leo lên…”

              Nó khựng lại như suy nghĩ, giọng nhát gừng:

              - Tao đã leo lên bàn thờ ngồi một lần rồi…

              Tôi ngớ người ra, láo ngáo hỏi:

              - Mày nói gì…Bàn thờ…?

              Nó gật đầu: “Ừ, chuyện đó để tao kể sau cho mà nghe, thằng khỉ…”

              “…Vì mấy cái mô lù lù như cái mả Đạm Tiên, tụi tao lại được lệnh tiêu hủy nốt mấy cái xe cơ giới còn lại, ngay cả GMC…Lệnh với lạc, đã bị cụt tay, nay còn cái chân cũng bị chặt nốt. Tao nói với thằng trung tá liên đòan trưởng, để tao dẫn đại đội trinh sát của tao lên quét dọn, là đường ta, ta cứ đi, dễ ợt, có mẹ gì đâu. Thằng gà chết chỉ cho tao hai mươi thằng em, vừa quay lưng đi thì cái thằng tối dạ này ra lệnh đốt ngay đòan quân xa, trong đó có xe díp của tao với lương khô đầy mì gói. Khốn nạn, cứ ngao ngáo nghe lệnh “đại bàng” sỉa xuống, gọi dạ bảo vâng, nói sao làm vậy, tự dưng vạch áo cho người xem lưng. Mẹ, chán gì đâu mấy bố văn phòng nhẩy bổ xuống ruộng cầm quân, cầm đến cái ống liên hợp hết “Dạ…Đại bàng” đến “Vâng…Đại bàng”. Vâng với dạ mãi bộ Việt Cộng nó tha tào sao.

              Y trang, nhân bảo như thần bảo, lửa vừa bùng lên là trung liên RPD của tụi nó quạt như điên. Và tao biết, tụi nó cũng đã gần lắm rồi, có cả đại bác bắn thẳng 75 ly, hỏa tiễn 107, đại pháo 130 .Và tao nghĩ, cú này mà đụng tụi trung đòan tân lập Lộc Ninh, trang bị vũ khí cận đại ngập răng, thì từ chết đến bị thương, chắc thân bại danh liệt quá. Để tránh tên bay đạn lạc, tao dẫn lính lên phía trên quốc lộ, kệ thằng trung tá gà mờ đang hò hét ầm ĩ như gà mắc đẻ. Tao vừa tiến được mấy trăm thước thì nghe tiếng AK “chóc chóc” ròn rã. Nhào xuống lề cỏ tụi tao bắn trả, bắn hỏang bắn tiều vậy thôi, vì đâu biết tụi nó nấp ở đâu. Đến lọat đạn kế, qua ánh lửa của đoàn quân xa bị đốt cháy sáng rực như rừng. Tao thấy một chùm ba thằng đang đong đưa ở trên cây như…khỉ đeo cây, chí chát một hồi thì…Mẹ, hai thằng rụng cái độp như sung rụng. Với thằng còn lại. Tao sẽ tính chuyện phải quấy với nó nên tao tao ra hiệu cho mấy thằng em ngưng bắn để tao hành sử”.

              Nó hóng mỏ: “Mày có hiểu tao nói gì không?”. Vẫn chưa kịp hiểu. Nó tồ tồ tiếp:

              “….Thực tình lúc ấy, không hiểu tại sao cái đầu tao lại có ý nghĩ cùng hình ảnh những ngày còn bé, tay cầm khẩu súng cao su, con chim đang đậu trên cành…Thấy thằng xạ thủ súng cối đang cầm khẩu Carbine M2 xớ rớ gần đấy. Thế là….thế là tao luận về vũ khí căn bản nhập môn cho mày nghe ti nhá, thằng con: Súng trường để bắn xa như mày biết đấy, nhưng trong tất cả đạn đạo của súng không phải đường thẳng mà là…đường cong. Trừ khẩu Carbine M2 có đạn đạo thẳng.

              Rồi, nhìn cái bản mặt nhà quê của mày tao biết mày đíu hiểu gì cả. Nghe cho kỹ nha: khẩu Garant M1 và M16 bắn xa nên đường bắn nó…cong. Khẩu Carbine M2 bắn ngắn nên đạn đạo nó…thẳng. Nói cho mày hay, những ngày ở sân bắn, tao bắn Carbine M2 như để. Cách 50 thước tao bắn cái loong bia bung lên từng phát một. Lon bia vưa rơi xuống đất chưa kịp thở, bụp thêm phát nữa là lại nhẩy dựng đứng lên. Mười phát như một. Như Dăng-gô vậy mày.

              Vô tình thấy thằng lính đang xớ rớ cầm khẩu Carbine M2 đúng ý tao. Hỏi thì nó cho biết xách cối 57 ly ê càng, được lệnh xếp lớn bỏ lại vũ khí nặng, nó mượn đỡ nhân dân tự vệ khẩu Carbine cho…nhẹ hều. Tao quơ khẩu súng của nó. Trong vòng 50 thước. Nheo mắt nhắm một đạn đạo…”

              - “Mày biết không?”. Nhấp ly rượu, nó nheo mắt nhìn tôi cười cười:

              “…Đột nhiên từ trên chạc cây, tiếng nó vọng xuống, giọng giá sống miệt vườn pha giọng đặc Bắc kỳ rau muống: “Ông tha cho con...Ông tha cho con“. Tao đâm chưng hửng và bật cười nền đành buông súng. Nó leo xuống. Tao chưa biết tính gì với thằng du kíck chết tiệt này thì vừa đến trước mặt tao, nó nói: “Ông cho con ăn…cháo gà đi ông ”.

              Tôi nhìn nó. Nó nhìn tôi lừ đừ: Sư mày nghĩ tao ”chế” hả. Mà mày biết đếch gì thằng nhà quê, chưa thấy quan tài chưa đổ lệ, chưa gần giữa cái sống và cái chết. Để thấy những ý tưởng lạ kỳ, khôi hài và bi thảm. Từ từ tao kể cho mà nghe…Khỉ thật, lâu ngày không gặp. Bây giờ thằng mũ nâu này ngầu và hung khiếp, lại còn hung hãn bốc nhằng, bầy đặt triết lý nhân sinh với nhân bản này nọ. Nó lại lều bều:

              “…Sau tao mới ngộ ra: Nó nằm trong ban đặc công, vẫn rình mò tụi tao hay tụ họp ngòai quán và thấy tụi tao hay…ăn cháo gà nên nó…nhập tâm. Nay gặp lại cố nhân trong tiếng súng, cái bao tử nó đòi hỏi theo…quán tính vậy thôi. Nghĩ cũng may. May mà nó chưa quẳng vào chỗ tụi tao đàn đúm một trái lựu đạn ắt hẳn chạy trời không khỏi nắng là nhờ…bát cháo gà. “Ăn mày…” chẳng hẳn lúc nào cũng “…đánh đổ cầu ao” là thế đấy. Mày có hiểu tao nói gì không? Hiểu hay không kệ tía mày. Tao chẳng biết làm gì hơn với nó là tao trói nó vào gốc cây để nhìn tụi tao bắn nhau, để nó quên đi…cái đói của nó. Từ đó tao tìm ra một chân lý bất biến muôn đời là úynh cho lắm cũng vậy thôi, cả hai bên, quan cũng như lính đều…đói cả. Chả được cái nước mẹ gì sất”.

              Triết lý củ khoai xong, nó lại lâm trận:

              “…Quay lại đằng sau…khói lửa kinh thành rực một góc trời, pháo nổ ì ầm. Cờ đang dở cuộc, bạc chửa thâu canh, chắc phải tính quá. Tình hình lúc này coi mòi không xong, mà tương lai thì cũng chẳng sáng sủa gì cho lắm và tao nghĩ đến chuyện tam thập lục kế tẩu vi thượng sách. Thân thằng nào thằng ấy lo, tao cóc ngán thằng trung tá văn phòng bửu giám này, vì tao cứu nó mấy lần rồi. Cú chót nó bị thương bên kia cầu, đạn vẩy như chấu, tao vẫn tỉnh bơ bay qua vác nó về, đạn đuổi theo “chóc chóc”. Và tao nghĩ dọt đã, sau này gặp lại nó cứ giả ngu giả điếc như…lạc đường vào lịch sử là êm, trên răng dưới lựu đạn, mửng này tao làm hòai, mày có hiểu tao nói gì không....”

              Giọng nó nghiêm và buồn:

              - Và tao lùi lũi xách hai mươi tay súng “xuống núi” trong đêm. Để rồi mày sẽ thấy, “mảnh đời rách nát” sau của tao được quẹo ở “khúc quanh” đẹp như mơ này.

              Tôi đang nghĩ : Vừa phải thôi chứ, làm gì mà chơi khó với nhau quá vậy, hết “mảnh đời…” đến “ khúc quanh…”, chữ nghĩa gì mà rắc rối, tối mù mù như đêm củ mật vậy…Nó lại báng bổ tiếp:

              “..Tụi tao lầm lũi đi trong đêm về hướng đông nam. Vì theo kinh nghiệm “đào thóat” của tao, địch đang dồn quân về phía đông, thì hướng nam đương nhiên được bỏ ngỏ. Tao cứ nhắm hướng Lai Khê mà đi, khi nào thấy cái bồn nước là gặp bộ chỉ huy sư đòan 5. Đến rạng sáng thì tao dừng quân ở giữa một cánh đồng, xa xa là là một dạt làng. Không một tiếng gà gáy, không một tiếng chó sủa , tứ bề vắng ngắt, lúa non cao cả thước xanh rì, cao hơn cả đầu người. Tao thấy nằm ngủ rải rác ở đây chẳng ai thấy và đợi tối đến đi tiếp, chấm tọa độ trên bản đồ cũng chẳng còn bao xa, ăn uống qua loa, tao yên chí làm một giấc. Tỉnh dậy thì cũng quá trưa và thấy thiếu ba, bốn thằng con. Hỏi ra thì tụi nó dắt díu nhau vào xóm làng đằng kia để kiếm chút cháo. Giữa cái êm ả, chỉ có tiếng sào sạc của cánh lúa. Bỗng tao nghe thấy tiếng gào, tiếng hét từ dạt làng vọng lại. Lúc dài rên rỉ, lúc tắc nghẹn…”

              Cúi đầu nhấp ly rượu, nó hỏi tôi, giọng ngậm ngùi đâu đâu:

              - Có bao giờ mày nghe tiếng tru ằng ặc của một người bị cắt cổ chưa?

              Tôi lạnh người, không trả lời…Âm hưởng của nó trầm trầm:

              - Không một tiếng súng nổ, im ắng, tao biết ngay là đám con tao đang bị tụi nó làm thịt. Từng thằng. Từng đứa. Bằng mã tấu. Bằng dao rừng…

              “…Tao biết bị động nên âm thầm dọn dẹp, gom mấy thằng còn lại đi về hướng khác. Vừa lầm lũi cúi đầu bước, tao vừa giận mấy thằng con vừa ứa nước mắt…

              Cho đến sẩm tối tụi tao táp vào một con rạch cuối bãi, sát một cái cầu gỗ lửng lơ giữa ánh trăng cuối tháng. Nhưng tao vẫn nhìn thấy mờ mờ mấy thằng du kích lóng ngóng đứng trên cầu, thỉnh thỏang bắn bâng quơ xuống mấy đám lục bình, đang bồng bềnh nổi trôi trên mặt nước. Trong cái tĩnh mịch, ắng lặng đến són đái này, đang nằm sát bên tao, đột nhiên gã thượng sĩ già chết bầm tuổi bằng bố tao, bung ra một tràng ho rũ rượi. Tao sợ muốn thọt dái lên cổ, vội bịt miệng gã lại, nhưng gã húng hắng như như người bị lên cơn suyễn. Như John Wayne, tao rút cái lưỡi lê ra cái rẹc và kê ngay vào cổ để hù gã: “Ông không câm, tôi cho ông …đi”.

              Tôi hồi hộp chết người, nó nhếch mép “Mày biết không? Tao lỡ làm người hùng ci-né, không lẽ lại nhét cái lưỡi lê vào bao cũng chuế, bỗng dưng gã buông một câu làm tao cũng muốn bật cười, gã hổn hển hỏi tao: “Làm sao hết ho hả ông thầy ?”.

              “…Lõm bõm đến sáng hôm sau thì tụi tao lạ vào một cánh đồng, tứ bề ngập nước. Ngơ ngáo chưa biết tính sao, thằng nào thằng nấy mờ người, lờ đờ như cá gặp nắng. Vất vưởng đi thêm một khúc nữa, gặp mấy cồn đất lấp sấp những nước là nước, nằm lăn quay ra nhưng cái lưng ướt nhẹp, loay hoay mãi không ngủ nghê gì được. Đứng dậy nhìn vẩn vơ, bỗng tao thấy một chiếc thuyền câu đi lại. Trên có một lão nông dân ngồi thu lu và một thằng bé vừa chèo vừa nhai nhóp nhép gì đó. Thuyền bơi nhẹ lướt ngang qua tao, cũng bình thường thôi.

              Cả giờ sau, cái đầu củ chuối của tao mới chịu ngọ nguậy…Như có giác quan thứ sáu, tao chột dạ và thuỗn mặt ra ngẫm nghĩ. Lão nông dân này như cố tình, tảng lờ không nhìn thấy tao. Trong khi tao đứng như trời chồng giữa trời và nước, con cái tao thì lổn nhổn, đứa ngồi bó gối, đứa nằm la liệt như chết rồi. Cớ sao mắt lão cứ nhìn thẳng và ngó lơ. Ba giây sau, tao mới ngã ngửa người ra. “Bỏ mẹ…”

              Tao hối đàn em sửa sọan “zulu”, nhưng không còn kịp nữa, tao hồn vía lên mây, ngực đánh trống ngũ liên. Sư chúng nó, người ngợm ở cái lỗ nẻ nào chui ra mà tụi nó đông quá thể, đông như đỉa đói. Từ đằng xa, cả hơn chục chiếc thuyền kéo tới, mỗi chiếc năm, sáu thằng súng ốc trang bị ngập đầu. Gần hơn một chút nữa, hai khẩu RPD đen thui đặt ngạo nghễ trên mui, như hai ông thần mặt sắt đen sì, dương mắt nhe răng, lầm lì cầm thanh xà mâu giữ đền. Đứng trên đầu mũi thuyền, một thằng cầm loa hét: Hàng sống chống chết…Hàng sống chống chết…”.

              Tôi ngứa mồm, hỏi một câu ngớ ngẩn: Dọt…Nghề của mày mà!

              Nó hơi cáu: Mày ngu như lợn. Ruộng nước mênh mông, mày bảo tao chạy đi đâu? Rót thêm chút rượu, nó kể lể giọng nghiêm và buồn:

              “…Tao cho lính dàn hàng ngang. Vừa xong thì tụi nó ập lên như đĩ, la lối vang trời: “Hàng sống chống chết…Hàng sống chống chết”. Tiếng hò hét, tiếng đạn “chíu, chíu” sát mang tai, nghe rợn tóc gáy, RPD khạc đạn 7.6 ly thì còn đíu gì là người với ngợm nữa. Sau nghĩ lại, tụi tao thua, một phần vì quân số như tao vừa nói ở trên. Một phần có mấy thằng con mất tinh thần, dại dột lăn qua nằm sau mấy cồn đất, đạn hai khẩu trung liên bắn chéo rơi lỗ chỗ, đất cát bay tứ tung. Đồng thời tụi nó đạp nước nhào tới, nước bắn tung tóe, vuốt mặt không kịp…không thấy trời trăng mây nước gì nữa, thì còn đứa nào yểm trợ cho đứa nào”.

              Đặt cái ly xuống, nó ngần ngừ: “Lần đầu tiên trong đời, tụi tao đánh cận chiến! “.

              Và giọng nó trầm trầm:

              “….Lâu lắm rồi tao mới thấy ớn lạnh của khẩu “Garant” gắn lưỡi lê…Sư chúng nó, giờ phút thứ hai mươi lăm này chúng còn chơi đồ cổ mới chết người, khẩu M-1 nặng bốn, năm kí lô, nòng dài ngoằng, cái bá súng gỗ to bự sự, nhìn phát khiếp. Lưỡi lê đâm sồn sột vào người như đâm vào thân chuối, máu phọt ra có vòi... Tiếng vũ khí chạm nhau..Tiếng nước văng tung tóe… Tiếng vật nhau hùynh hụych…”

              Nó ngậm nhấm, như không có tôi ngồi đấy:

              - Tao nghe thấy cả tiếng lưỡi lê phập lút cán vào da thịt, hòa lẫn với tiếng rú thất thanh, rên la. Nghe rợn người, không chữ nghĩa nào diễn tả nổi. Tôi không biết nói sao, hỏi cho có chuyện: “Mày bị…”

              “…Không…Trong lúc hỗn quân hỗn quan, có thằng em bị đánh văng bật vào người tao. Tao cờ quạng ngã chúi xuống sát mặt đất, bấy giờ tao mới thấy máu loang và lan rộng trên mặt nước. Cũng vừa lúc tao nhìn thấy bàn tay của thằng em, tay nắm lấy ống quần tao, đôi mắt trắng dã, như tức tưởi trối chăn, như oán hờn trách móc Mặc dù đang bấn lọan, như có cái gì chắn ngang cổ họng, tao muốn ói, muốn ọe, muốn khóc. Cũng vừa lúc gã thượng sĩ già, mở chốt trái lựu đạn, dúi vào tay tao và cả hai cắm đầu chạy thục mạng, bất kể phương hướng…

              Lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Cuối cùng thì hai thằng tao lạc vào một rặng cây dầy đặc khá rộng, như một cánh rừng nhỏ, mặc dù tối khuya, cũng không đi nổi nữa. Hai đứa chui vào cái bụi dầy nằm vật ra đấy và lăn ra ngủ như chết, gần như bất tỉnh nhân sự…”

              - “Có kể cũng không ai tin…”. Nó lắc đầu:

              “…Như trong phim ci-né nào đó, tao không nhớ: Nửa đêm hôm ấy, tao đang mơ mơ màng màng thì có thằng của nợ nào đang bắc cầu vồng đái tồ tồ cả vũng, bụi nước đái rơi lấm tấm ngay sát mặt tao. Sư nó, không hiểu nó ăn uống cái đíu gì mà mùi nước đái khai nồng nặc, tao muốn cho nó một phát nhưng sợ bứt dây động rừng. Thấy không xong, đợi thằng du kích biến một lúc lâu. Hai thằng tao lồm cồm dậy đi tiếp, cho đến lúc mặt trời vừa mới nhú lên, cứ hướng đông mà tiến, cho đến khi thấy nhà dân và quốc lộ 13 trước mặt. Trông thì gần, gần tới nơi thì…

              Thì để rồi hỡi ơi, khuất sau căn nhà ngay bìa đường, là hai thằng mặc quần xà lỏn tay lăm lăm khẩu AK, bên cạnh là chiếc xe díp, hai đứa đứng gác chiếc xe của phe ta như gác mả tổ nhà chúng nó. Trong khi tao có mỗi khẩu Colt 45, gã thượng sĩ già thủ cây M16 còn vài viên đạn. Gã bạn đời tao bò tới, men tới, lẽ dĩ nhiên không một tiếng động. Còn tao tụt hậu, khư khư ôm khẩu súng lục, sửa sọan…chém vè. Thì như tao đã kể lể, nhìn thấy cái xe díp tao lại nhớ đến mấy gói mì ăn liền. Tao lại thấy…đói. Thì “bụp”. Thêm một tiếng “bụp” nữa. Mẹ, chỉ hai tiếng “bụp, bụp” thân thương ấy thôi. Mắt tao mở thao láo nhìn hai cái thân người đổ xuống, như hai thằng say rượu. Chưa bao giờ gã thương sĩ già của tao “chặt” đẹp đến như vậy, bắn đíu gì như bắn bia ấy mới cha đời…Thóat cú này, chắc như bắp, tao phải đưa gã đến quán mợ Tư Ngựa, vợ thằng trung sĩ nhẩy dù, nhậu một trận guắc cần câu cho hết…cơn suyễn. Rồi đến đâu thì đến…hồn ai nấy giữ”.

              “Súp-păng” quá mạng. Hồi hộp cứ như “xi-nê-ma” và tôi hỏi nó:

              - Thế là mày thóat?

              Nó hít một hơi thuốc rồi nhấm nhẳng:

              “…Thoát đíu gì…Buổi sáng đầy nắng ấm, vừa vào đến cửa ngõ thị trấn, tao vừa đang đảo mắt đi tìm cái bồn nước của thị trấn Lai Khê. Chó dại từng mùa, người dại quanh năm vì tao vừa nhận ra mình đang…dại dột thật, đang phạm một lỗi lầm chết người. Ấy là: Gã thượng sĩ lái xe díp. Tao đứng trên xe như đang duyệt binh và tay cầm khẩu AK. Thế là “ầm” một tiếng long trời lở đất, viên đạn B40 thổi ngay vào xe và tao bung lên trời cũng cỡ cả một, hai thước và rớt bịch xuống đất…nằm thẳng cẳng”.

              - Mày biết không, Sư Đòan 5 rút đi từ đời tám hoánh nào rồi. Bố ai mà biết!

              “…Không biết bao lâu thì tao tỉnh dậy, nhưng vẫn nằm quay đơ. Gọi là tỉnh dậy thì không đúng lắm, chỉ nửa mơ nửa tỉnh biết mình nằm đấy và trên mặt được phủ mấy tờ l chuối. Mắt tao như bị bầm sưng nên chỉ mở he hé, nhưng vẫn thấy lóa tia nắng sáng ban mai, lọt qua vết rách mảng lá. Chân tay cứng ngắc, không cục cựa được. Nhưng tao vẫn có cảm giác hình như bị thương ở đâu đó. Mấy con ruồi, con nhặng vo ve quanh vết thương, bò bò, liếm láp, vừa nhột nhạt, vừa xót tê tê, hình như ở dưới ống chân quyển thì phải. Để rồi tao tái người đi, khi ngửi thấy mùi thơm của ba nén nhang cắm ngay sát đầu tao. Tao liên tưởng ngay đến bát cơm với quả trứng gà luộc, để bỗng dưng thấy bụng nôn nao cồn cào, vì mấy ngày nay chỉ lo chạy, chưa có gì trong bụng. Tao suýt bật cười nhưng cười không nổi vì xém nữa mình là…con ma đói.

              Tỉnh dậy lần thứ hai, và lơ mơ nghe có tiếng ai đang quỳ bên tao đang lâm râm đọc kinh. Tao lờ mờ thấy bóng người ấy, chỉ ẩn hiện một mầu đen và trắng hòa nhập. Rồi lom khom lôi cái ví trong túi quần tao ra để sang một bên và lui cui dở tờ lá chuối, rồi tất cả với những động tác thật nhẹ nhàng và cũng thật khoan thai cúi xuống tháo cái thẻ bài. Qua đôi bàn tay, có một chút ấm êm lướt qua bên má, tao ngửi thấy mùi gì khác lạ, không phải là mùi nhang mà thoang thoảng mùi hoa nhài.

              Một lát sau người ấy đứng dậy, qua khe lá, qua ánh nắng chói chang hắt vào của mặt trời. Tao chỉ thấy lung linh mờ nhân ảo đằng sau lưng với một dáng đi nghiêng ngả cùng hai mầu trắng, đen nhạt nhòa trên nẻo xa, đường vắng…”.

              Nó đứng dậy lấy thêm ít đá lạnh, bỏ vào cái ly lắc nhẹ, rồi tiếp:

              “…Tao chỉ bị thương nhẹ hều, chắc bị kích ngất đi vì tiếng nổ. Nên sau đó, tụi nó nhúm tao làm tù binh, đưa tao qua tận Snoul bên kia biên giới, vùng căn cứ chiến lược của “Mặt trận giải phóng miền Nam”. Mấy tháng sau mới đưa tao về, tụi nó tống tiễn tao thẳng vào trại cải tạo. Hơn một năm sau, tao mới liên lạc được với nhà.

              Nhà tao đi thăm và kể chuyện. Chuyện kể sau này cứ như truyện “Nấm Mồ Hoang” của Jean Fougère”.

              “Mồ mả gì mà nghe khiếp quá vậy mày?”. Tôi vừa buột miệng ra hỏi là đã thấy hố. Như ếch vồ hoa mướp, như lúc này nó chỉ đợi có vậy:

              “…Jean Fougère được giải Courteline năm 1957 về truyện ngắn của hàn lâm viện Pháp. Viết về hai vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật ở Châteaudun, miền Normandie. Hai người bị hư xe ngay tại thị trấn Chartres và ngồi đợi ở lữ quán Grand Monarque. Mãi đến tận chiều, ngồi đợi mà xe vẫn chưa sửa xong. Cô vợ mới cưới thấy một nữ tu còn trẻ ở tu viện bên cạnh, tay cầm giỏ hoa băng qua nghĩa trang bên kia đường. Vì ngồi đã lâu nên cô đi theo cho khuây khỏa, thấy người nữ tu đặt bó hoa lên một nấm mồ gần như bị bỏ hoang. Tò mò cô đọc dòng chữ khắc trên tảng đá thô, nằm sô lệch trên nấm mộ:

              - “Thiếu úy Robert Fontant đã hy sinh tại đây để giải phóng thị trấn Chatres”.

              Cô lặng người đi và chỉ mình cô hiểu: Chàng sĩ quan này là người yêu của cô, bị mất tích mới đây năm 54 của Đệ Nhị Thế Chiến”.

              Mân mê cái ly, gịong nó rù rì như tụng kinh:

              “…Ấy đấy, chuyện người nữ tu và nấm mồ hoang với người đi tìm kiếm như vận vào tao. Sau ngày sập tiệm, gia đình tao dọ hỏi khắp nơi nhưng chẳng có tin tức gì, nên nghĩ tao tử trận mất xác ở tận đâu đâu. Một hôm, có một nữ tu còn trẻ, đến gõ cửa và báo tin tao được “Chúa gọi” và đã “về chầu nước Chúa” ngày đó tháng đó và để lại giấy tờ tùy thân của tao. Cả nhà bò lê bò càng ra khóc lóc như mưa như gió, còn sùi bọt mép cầu khẩn có sống khôn chết thiêng thì về phù hộ cho gia đình. Thế là tao được rửa chân nhẩy tót lên bàn thờ ngồi chễm chệ như ông phỗng đá, đâu có ngo ngoe gì được để phù với phép. Chỉ tội nghiệp ông bà cụ tao, cơm nước nhang đèn, sì sụp khấn vái quá thể. Nhưng tao đâu dám hó hé, lỡ dại mồm dại miệng “lầu bầu” rồi hai cụ nghe được…lăn đùng ra tay bắt chuồn chuồn thì khốn!

              Bà cụ tao Công giáo nhưng lại tin bói tóan. Tuần sau bà mò đến cô Tư Ma Gà ở dưới Hàng Xanh xem một quẻ, quẻ dậy tao vẫn còn sống nhăn răng và sẽ “đòan tụ” một ngày không xa. Gia đình tao bán tín bán nghi, bàn nhau đi xuống dòng tu Lai Khê của tòa giám mục Pháp cũ, nhờ người nữ tu đi tìm mộ tao. Đến nơi dòng tu đã bị tụi nó “phẹc-mê-bu-tích”, nên tất cả đều phải cởi áo nhà dòng. Riêng vị ân nhân của gia đình tao nghe đâu buôn thúng bán mẹt ở vùng Hóc Môn rất ư là nghèo túng nhưng hai cụ kiếm mãi không ra. Nhớ lại lời kể của người nữ tu, ông bà cụ tao trở ra đầu cửa ngõ của thị trấn và hỏi mấy nhà quanh đấy và họ chỉ đến nấm mộ chôn tập thể ngay sát quốc lộ 13. Sau này theo tao dò la thì trong nấm mộ ấy có thân xác gã thượng già của tao. Để rồi chẳng biết làm sao hơn, ông bà cụ tao đang loay hoay cầm bó nhang, nhìn quanh quất thì có bà hàng nước bên kia ven đường tới gặp và kể lể: Người nũ tu ấy trước đây vẫn thường ghé thăm mộ, lần nào cũng có một chậu hoa. Bị cởi áo nhà dòng thì để lại chuỗi thánh giá. Bà hàng nước sợ ai lấy mất nên giữ dùm, nhưng bà cũng chẳng biết đưa cho ai. Bà cụ tao Công giáo thuần thành, sợ phải tội nên cụ mang về.

              Ra khỏi trại cải tạo, về đến nhà hình ảnh “lộng kiếng” tao đã được …liệng cống đi từ khuya. Trên bàn thờ, tao vẫn thấy còn cái ví, chuỗi thánh giá.

              Nhưng không có…cái thẻ bài.

              Tôi nghĩ thầm “Gì nữa với cái thẻ bài”. Như tiếc hùi hụi và nó phân bua:

              “…Mày biết không, đi lính thằng nào cũng mắc một cái tật, không thế này thì thế kia, thằng đeo chân thỏ, thằng đeo nanh lợn rừng. Riêng tao thì đeo tấm thẻ bài nó quen rồi, không có thì ngứa ngáy, khó chịu, như thiêu thiếu một cái gì. Thấy chuỗi hạt tiện tay tao đeo vào cổ thế thôi. Như mày biết đấy: Tao đạo gốc, vì tao chưa ở cái tuổi gần đất xa trời mon men đến làm quen với Chúa để cầu cạnh một chỗ trên thiên đàng. Nói dại chứ gặp ngày đẹp trời lớ quớ leo lên cõi trên gặp ông thánh Phê-rô thì ông ấy cũng cấm cửa vì tội lỗi ngặp đầu. Rửa tội chẳng hết mà…tắm cũng không xong. Vì mấy em đầy ra đấy, theo đuôi cũng hết hai ngày cuối tuần nên còn thi giờ đâu dành cho Chúa. Nhưng vì bà cụ cằn nhằn mãi, tao đeo chuỗi hạt cho cụ vui vậy thôi, sau này tao mới thấy như “Chúa đã định…”. Khi không lại đâm đầu chui vào…cái thòng lọng”.

              Lằng nhằng quá thể, ấy vậy mà vẫn chứng nào tật ấy. Nó lại câu giờ vào thăm bác Hồ một phùa nữa cho phải đạo. Về lại để “tọa đàm”, nó khật khừ với câu chuyện đang hương tàn khói lạnh và nó phe phẩy:

              “…Lại chuyện bói toán nữa, kể cho mày nghe khùng luôn, thằng con. Nằm không trong trại cải tạo đuổi ruồi búng ghét mãi cũng khô người. Tao bèn nhờ vả một khứa bạn tù bấm cho một quả bói cho đời lên hương, cho có tí ti le lói cuối đường hầm. Bố khỉ, khứa hươu vượn thế này mới cha đời, khứa dậy số tao thân cư thê và được vợ nuôi báo cô. Ít nữa có quý nhân phù trợ nên mặc sức thong dong vì ngày về cũng chẳng xa là mấy. Thế nên đíu dấu gì mày, tao cũng có ý đợi…Mẹ, quý nhân đâu chẳng thấy, lớ quớ thế nào tao…đợi một quả chín năm chẵn trong tù mới điên người. Và thêm một lần, sau quả B40, tao nghĩ mình…dại dột thật, vì đi nghe thằng bói rùa. Bản mệnh khứa: Vào đây khứa không hay. Ra tù khứa chẳng biết. Huống chi cái thân…tao.

              Hồi cố quận, trên răng dưới dế, tao múa bút để nín thở qua sông, vẽ riết quen tay nên bắt được tí danh còm. Chẳng hẳn là vua biết mặt chúa biết tên, nhưng một ngày cũng có người giới thiệu qua Hóc Môn trang trí một phòng họp một xưởng dệt mới mở. Trời xanh mây tím nắng vàng, qua cái cửa sắt là con đường lát sỏi, tao lững thững thả rong. Để rồi, không hẹn mà gặp, trước mặt tao là một tà áo lụa phất phơ trước gió qua một dáng đi thật thanh thản, một thứ rất hiếm hoi trong khỏang đất trời sô bụi này. Nhưng tao thấy quen quen, chẳng nhớ gặp ở đâu. Nghĩ mãi mới ra mảnh áo lụa ấy có điểm dăm đóa hoa huệ đầy rẫy trong nhà thờ. Chưa hết chuyện, tao lại lãng đãng thả hồn về “giữa đám đông, trong đám đông”, rồi “em có nhớ anh không” của những ngày bát phố Lê Lợi, Tự Do. Bỗng dưng tao chu mỏ…húyt sáo bâng quơ. Người đẹp quay lại, ngúyt tao một cái đến…tái tê”.

              - “Rồi sao nữa”. Tôi hỏi:

              “…Ông sao trên trời thì có…Tao đang ngồi đợi và ngộp thở vì “Lạy Chúa tôi” hình của Đức Mẹ và Chúa sao mà nhiều quá đỗi, chỗ đâu để treo tranh. Đang ngó tới ngó lui, tao quay lại thì ngã ngửa người ra vì người đẹp bước vào lại là…cô chủ hãng. Khi không chỉ vì cái húyt sáo, để bây giờ lấn cấn với hạt sạn vướng mắc trong đôi giầy. Vào chuyện, tao hươu vượn về trường phái ấn tượng, siêu thực qua dao, cọ và mầu sắc. Như đụng vào cái nút máy hát cũ rỉ, tao nói như…“hát”. Tao lan man về nghệ sĩ gắn liền với sáng tạo, với nhân sinh vị nghệ thuật này kia. Với yên sĩ phi lý thuần qua tà áo tung bay cùng gió và mây, tao nói với người đẹp, tao đang nhen nhúm…một sáng tác để đời cho mai hậu.

              Vì bức tranh khổ lớn nên một tháng mới hòan tất. Như một tuyệt tác, tao vẽ trong mộng và mơ, tao chưa bao giờ đam mê cọ và dao đến như vậy, đường nét, mầu sắc như quấn qúyt và quyện vào nhau, từng mảng từng lớp, trải dầy trên khung vải. Tất cả những cảm hứng này, tao gửi gấm qua ánh mắt, nụ cuời đầy thánh thiện của cô ta. Nhưng cũng chỉ luyến lưu, mong với nhớ vậy thôi, để rồi tao chẳng dám nghĩ gì xa hơn. Nhưng hãng xưởng không phải là nơi chốn cho nghệ thuật, cho cái đẹp. Chẳng nói mày cũng thông, mỗi tác phẩm như có định mệnh của riêng nó, nếu được đặt đúng chỗ. Như dưới mái ấm gia đình căn nhà chẳng hạn. Rồi bức tranh cũng được mang về nhà cô ấy. Trong khi đứng ngắm tác phẩm thật hài hòa, trong tao chợt nao nao bứt rứt thấy thiếu thốn một cái gì, như một tách trà chẳng hạn.

              Thế là tao đi lục lọi, mò mẫm tìm cái ấm để pha trà.

              Ngay lúc ấy, qua khe hở của cánh tủ trà, dường như có bóng người đi lại. Như buổi sáng hôm nào, qua vết rách của tầu lá chuối, tao bắt gặp những tia nắng lung linh, hòa nhập cùng hai mầu đen trắng, và thoang thoảng đâu đầy có mùi hoa nhài. Nhưng tất cả những hình bóng và mùi hương ấy chỉ thoáng qua như áng mây trôi mà thôi. Vì lúc ấy tao đang loay hoay tìm thêm cái tao muốn tìm thì…hộp trà ướp hoa nhài có ngay đây. Ắt hẳn là tao bị tự kỷ ám thị nên chẳng gửi gió cho mây ngàn bay gì thêm. Thêm nữa, cũng có thể tao hoa mắt vì ánh nắng hắt qua khung cửa sổ. Thế nhưng cũng nhờ vệt nắng heo hắt này…thì.. ngay góc tủ, tao lặng người đến thẫn thờ, vì đập chát vào mặt tao là một vật rất gần gũi và cũng rất thân quen. Một vật đã vắng mặt lâu ngày nhưng vẫn vấn vương mong có ngày gặp lại như mong gặp lại người tình cũ. Tình cũ không hẹn mà tới khiến tao ngẩn ngơ cả một lúc lâu, vừa suy nghĩ mông lung vừa mân mê cái vật làm bằng thiếc mỏng …mang tên tao.

              Đó là: Tấm thẻ bài.

              ***

              Chó ngáp phải ruồi thế nào chẳng biết nữa, thằng bạn tù trong trại cải tạo bói rùa lạng quạng trúng phóc mới lạ.. Cũng chẳng lạ gì, từ dạo ấy cuối tuần nào tao cũng bám đuôi theo “thân cư thê” của tao đi lễ nhà thờ, cũng quỳ gối chí chát nát người, cũng đấm ngực bình bịch mới …đau. Nói thật với mày nói dối phải tội chứ, chứ tao hiếm khi vác xác hẻo lánh tới sân nhà thờ, nhà chùa…Có Chúa, có Phật ngự ở cõi trên hay không? Tao trèo không lên nên với không tới. Với nhang đèn hương khói, tao đã leo lên bàn thờ ngồi một lần rồi, rõ ra tao hiểu ra cái nhẽ của trời đất với gần đất xa trời là như thế này: Mặc dù ông trời ở xa, nhưng ông đã sắp sẵn cho mỗi người một cái số. Như số vợ chồng tao bây giờ chẳng hạn…

              Như định mệnh đã an bài.

              Phi Ngọc Hùng
              nguồn:
              Last edited by khongquan2; 06-19-2018, 01:27 PM.

              Comment


              • Đời Lính

                Đời Lính
                NĐC


                Hình minh họa

                LTG: Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.

                * * *

                Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa,
                Hoa táo hoa lê nở trắng vườn,
                Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi,
                Em mở lòng xem lại vết thương,
                Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm,
                Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê,
                Hay sương thành lệ tra vào mắt,
                Mờ khuất trong em mọi nẻo về.


                Sau khi đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng thảng thốt. Đã 37 tháng tư trôi qua, bao nhiêu nước đã chảy qua cầu, vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt. Ba mươi bảy năm về trước, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã lớm chớm bạc, “cùng một lứa bên trời lận đận”, sau cơn Đại hồng thủy tháng tư năm 75, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời:

                “Thằng thì đang còng lưng trong các Shop may tại Santa Ana Cali, thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, thằng thì đang cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài gòn”(trích). Mỗi năm đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngác như kẻ mất hồn. Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình, chúng tôi đã làm gì cho Tổ quốc?.

                Trước năm 75, tôi là người lính trong hàng ngũ Quân đội Miền Nam, với cấp bậc thấp nhất là Thiếu Úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng, ngoài số lương đủ sống mà tôi lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ bổng lộc nào từ phía “triều đình”.

                Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của chính mình.

                Cho nên, tôi không hề có một mơ tưởng nào về một hào quang của ngày tháng cũ, và tôi cũng không muốn tiếp tục một hành trình “Việt Nam Cộng Hòa kéo dài”. Tôi viết như để thắp hương tưởng niệm, những đồng đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay tại hải ngoại này.

                Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thời ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên từ Tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam . Mùa Hè đỏ lửa năm 72 là năm Quân đội của hai miền Nam-Bắc dốc sức đánh một trận chiến sinh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong. Niên khóa năm 71-72, tôi là Sinh viên Ban Sử Địa thuộc Đại Học Văn Khoa Saigon, năm đó tôi đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không còn tâm trí đâu để mà học hành, tin tức chiến sự từ các mặt trận gởi về dồn dập, lúc đó bạn bè tôi lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về.

                Sau này ngẫm nghĩ lại,tôi thấy miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa, những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được hỗ trợ bằng tiếng hát ma quái Khánh Ly, đã làm băng hoại chán chường cả một thế hệ thanh niên thời đó. Ngoài ra, còn khá nhiều những bài ca những tiếng hát đã đâm thấu lòng người “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt chân, anh trở về hòm gỗ cài hoa, trên trực thăng sơn màu tang trắng…” Tại sao trong một đất nước đang có chiến tranh mà có những điều kỳ lạ này xuất hiện. Điềm Trời báo trước chăng?.

                Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh tổng động viên, tất cả các nam sinh viên đều phải nhập ngũ, trừ những người xuất sắc. Lúc đó những gia đình có tiền của, họ chạy đôn chạy đáo lo cho con cái của họ chui vào chỗ này chui vào chỗ nọ, miễn sao khỏi ra mặt trận. Đối với họ,chuyện ngoài mặt trận là chuyện của ai khác, không liên quan gì đến gia đình họ Hằng ngày họ xem TV thấy cảnh khói lửa ngập trời, người chết hàng hàng lớp lớp, họ coi đó là chuyện ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới họ.

                Còn tôi thì ngược lại, tôi muốn ra mặt trận càng sớm càng tốt, hình như định mạng đã an bài cho tôi. Trong bài “Đại bác ru đêm” của Trinh Công Sơn có một câu rất “độc”, “đại bác đêm đêm dội về Thành phố, người phu quét đường dừng chổi đứng nghe”, tôi chính là người phu quét đường đó. Tiếng đại bác đã làm lòng dạ tôi nôn nao, tôi muốn ra mặt trận để chia lửa với những người bạn cùng thời với tôi, để chịu chung khổ nạn với đồng bào tôi, trong những ngày tháng điêu linh nhất của đất nước. Tiếng đại bác đã ầm ĩ trong lòng tôi, kéo dài mãi từ ngày đó cho tới tận bây giờ.

                Thế rồi cũng đến phiên tôi nhập ngũ, giã từ Trường Văn Khoa với Đại Giảng Đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lãng, của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, thôi nhé giã từ hết những ước vọng của thời mới lớn. Tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ nên đã đưa một số ra thụ huấn ngoài Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của Miền Nam được tập trung vào hai quân trường này, Miền Nam đã vét cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.

                Vào quân trường, Khóa 4/72 toàn là các sinh viên các trường ĐH tụ họp về đây, chúng tôi làng xoàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết, tuổi trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có Trời tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì sự huấn luyện nhằm biến đổi một con người dân sự thành một người lính thực thụ là điều không đơn giản.

                Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà còn tạo dựng một cơ thể gang thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp. Trong 5 tuần lễ đầu tiên vào trường, gọi là giai đoạn “huấn nhục”, đây là giai đoạn kinh hãi nhất trong đời lính mới của chúng tôi.

                Hằng ngày chúng tôi tuân phục sự chỉ huy điều động của các huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ mọi hình phạt để phạt chúng tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy không được đi… các huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm tới chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần lễ huấn nhục, ai vượt qua được, sẽ tham dự lễ gắn Alpha, để chính thức trở thành Sinh Viên Sĩ Quan.


                Hình minh họa

                Ngày quì xuống Vũ Đình Trường để nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập một kỳ công là tự chiến thắng chính mình để trở thành một người lính, không còn hèn yếu bạc nhược như xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi Nhà Xập, cầu Bến Nọc… cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài đại đội vượt sông, đại đội di hành dã trại…

                Cuối cùng điều mà chúng tôi mong đợi từ lâu, đó là ngày làm lễ ra trường, tất cả chúng tôi trong quân phục Đại Lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường, rồi một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên Sĩ quan chỉ huy buổi Lễ: “Quì xuống các SVSQ”, sau khi đọc các lời tuyên thệ và được gắn lon Chuẩn Úy, tiếng thét chỉ huy lại cất lên một lần nũa: “Đứng lên các Tân Sĩ Quan”. Trong số chúng tôi có người muốn ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã đánh đổi bằng biết bao mồ hôi gian khổ sao kể xiết.

                Ngày hôm sau chúng tôi tụ họp lên hội trường để chọn đơn vị, tới phiên tôi lên chọn có một điều làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi định chọn về Sư Đoàn 7 cho gần Sài gòn, bỗng cái Ông Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng bèn đưa ra lời bàn: “Chuẩn Úy nên chọn về Sư Đoàn 9 vì vùng trách nhiệm nhẹ hơn, SĐ 7 trách nhiệm vùng Cái Bè Cai Lậy rất nặng nề”. Oái oăm thay ngày hành quân đầu tiên của tôi là vùng Cái Bè, bởi lẽ đơn vị tôi tăng cường cho SĐ 7.

                Tôi trình diện Bộ Tư Lịnh SĐ 9 tại Vĩnh Long. SĐ này có 3 Trung Đoàn: 14,15 và 16. Tôi được đưa về Trung đoàn 14. Tôi lại mang vác ba lô về trung đoàn 14 đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài gòn qua Ngã ba Trung Lương, chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt, chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, ngay tại đây chính là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe cái tên Hậu Mỹ là đủ ớn xương sống. Không hiểu sao, ở giữa ĐTM lại có một nơi dân cư sinh sống bằng nghề nông rất trù phú. Đám Tân SQ chúng tôi sau khi trình diện Trung Đoàn trưởng thì được giữ lại Bộ Chỉ huy vài hôm để tập làm quen với cách làm việc của nơi này.

                Sau đó Ban Quân Số phân chia về các nơi. Vị Sĩ quan Quân số hỏi có Chuẩn Úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp nhận. Nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy Súng” tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có một chút oán thù nào về phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh của tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến trường.

                Một Trung Đoàn Bộ Binh có 3 Tiểu Đoàn và 1 Đại Đội Trinh Sát, đám chúng tôi có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu Đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh Sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như không còn gặp nhau nữa. ĐĐ/TS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại Đội Trưởng, lúc đó đơn vị đóng ở ngoài căn cứ của Trung Đoàn.

                Trung Úy Đại đội trưởng có biệt danh là Đại Bàng, dáng người cao to trông rất dữ dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giong nói gầm gừ trong họng, tất cả đều toát ra một nét uy phong làm khiếp sợ người đối diện (trong đó có tôi). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân phong quân kỷ: “Chuẩn úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Đại Bàng”. Ông ta nhướng mắt nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng (mãi về sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi ông ta phán cho tôi một câu nhớ đời: “Anh về làm Trung đội Phó Viễn Thám”.

                Trời đất, tôi nghĩ thầm, cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhĩ? Lúc đó tôi không biết rằng làm Trung đội phó là còn may, các Sĩ quan về sau nữa có khi còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.

                Đai Đội lúc đó có khoảng trên trăm người, được chia làm 2 Trung đội Trinh Sát và 1 Trung đội Viễn Thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường trước tôi vài khóa mà trông rất ngầu, uống rượu như điên đồng thời nói năng rất bạt mạng.

                Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn, phần lớn họ là gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều là tất cả những người lính này đều đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất từ kỷ luật quân đội chăng? Sau một thời gian sống gần gũi với họ, tôi thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phác, rất tôn trọng nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả thân, họ hoàn toàn không dễ sợ như tôi nghĩ lúc đầu.

                Vài hôm sau, gặp bữa Đại đội tề tựu đông đủ, Đại Bàng đưa tôi ra giới thiệu trước ĐĐ, rồi bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi! Tôi run quá, hai đầu gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông khiếp hồn như thế này bao giờ đâu, cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà chồng, bây giờ nghĩ lại tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắc lưỡi bực mình của Đại Bàng đứng sau lưng tôi, nói được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại Bàng phải ra lịnh giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:

                – Chuẩn Úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?

                Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, bởi vì khi ông xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đáp:

                – Tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức.

                Ông ta bèn xáng cho tôi một câu nhớ đời:

                – Vậy mà tôi tưởng Chuẩn Úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân chứ!

                Tôi nghe mà choáng váng mặt mày, ông ta đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì hồi còn là Sinh viên Sĩ quan trong Thủ Đức, chúng tôi coi là điều sỉ nhục, khi bị cấp trên mắng là Nữ Quân Nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi buồn lắm, hình như tôi bị quăng vào môi trường sống không phù hợp với mình, một nơi chốn mà tôi chưa từng biết bao giờ, bởi lẽ trước nay tôi chỉ là anh học trò, bấy lâu chỉ làm bạn với sách vở, với bạn bè với trường lớp. Bây giờ giữa chốn ba quân này, tôi bỗng nổi bật lên như cái gì đó không giống ai. Lúc đó, tôi nhớ Ba mẹ tôi ở nhà, và tôi nghiệm ra một điều rằng, ăn chén cơm của Ba Mẹ tôi sao mà sung sướng quá, bởi lẽ Ba Mẹ chớ hề sỉ nhục tôi, còn khi ra đời, ăn chén cơm của người đời sao đầy cay đắng, tôi lặng lẽ ứa nước mắt.

                Tôi về làm Phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72. Anh ta là người trí thức có bằng Cử nhân CTKD, thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh ta thương tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một chuyện khôi hài dở khóc dở cười, không sao quên được. Chiều đến, lính tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ, thay vì nhảy ào xuống sông bơi lội như mọi người, nhưng tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón sắt múc nước sông mà xối lên người.

                Tắm một hồi, tôi cảm giác có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, và xầm xì bàn tán chuyện gì đó, rồi bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có tên lính lên tiếng: “Sao Chuẩn Úy không xuống tắm như tụi tôi mà đứng chi trên bờ, ý trời ơi! Sao da của Chuẩn Úy trắng nõn như da con gái vậy?”. Tôi ngượng điếng người, máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, có cái ông Thượng sĩ già đứng gần, còn đớp cho tôi thêm một nhát: “Ý cha! cái bàn chân Chuẩn Úy sao mà đẹp quá, bàn chân này có số sung sướng lắm đây!!!” Thiệt là khổ cho cái thân học trò của tôi, hết làm Nữ Quân Nhân, bây giờ lại giống con gái, thiệt là chán.

                Miền Tây là vùng đất nổi danh sình lầy. Hậu Mỹ là nơi đã tiếp đón tôi trong những ngày đầu về đơn vị, cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã người ta cất nhà dọc kinh Tổng Đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa sạ ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi là bắt đầu nai nịt lên đường, súng đạn ba lô trên vai, để tham dự cuộc hành quân thường ngày, bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến ngang đấu gối, rồi khi qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế quần áo ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo tụi tôi nhuộm phèn vàng chạch, trong rất kỳ quái.

                Khi ở quân trường tôi tưởng nỗi gian khổ của người lính là cao nhất, sau khi ra đơn vị tôi mới thấy được rằng, nỗi khổ quân trường chỉ là khúc dạo đầu, không thấm thía gì so với ngoài thực tế. Vùng Hậu Mỹ là vùng lúa sạ nên rất ít bờ ruộng, khi đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được.

                Đất ruộng người dân họ cày xới lên từng tảng to nhỏ như trái dừa, ngổn ngang lỗ chỗ, và nước lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế để đặt chân xuống, sình lầy bám chặt nên rút bàn chân lên thật khó nhọc, mặt trời rọi ánh nắng gay gắt, mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có đệ tử mang vác phụ.

                Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc nhằn, họ phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối… Người thì đeo trên ba lô cái nồi, người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không hề nghe một lời than van nào hết, họ cắn răng lại mà cam chịu, có than van cũng không ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến nỗi, tôi cởi áo ra vắt, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở, bèn nằm vật xuống đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời trăng gì nữa hết, lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc còn sướng hơn, đời lính sao mà khổ quá!

                Theo Đặc San Cư An Tư Nguy (câu này là châm ngôn của Trường BB Thủ Đức) phát hành tại San Diego, thì Quân Trường này đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó có 15 ngàn SQ đã tử trận, và không dưới 10 ngàn người đã trở thành Phế-binh thương tật.

                Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ quan mới ra trường, và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu, Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính, khi đóng quân phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung đội trưởng không có bạn nữa mà chỉ có phía bên kia. Cho nên lính dễ chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như vậy, súng đạn vô tình nên không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết. Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì thế. Vậy mà tôi còn làm Trung đội phó, không biết nói sao nữa.

                Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh một hồi rồi bỗng thấy làm lạ sao thấy C/U Thắng im lìm không có lịnh lạc gì cả. Bỗng tay lính Truyền tin nói với C/U Thắng: “Đại Bàng kêu C/U lên trình diện gấp.” C/U Thắng bỏ đi một đoạn, thì lính Truyền tin lại bảo tôi: “Đại Bàng muốn gặp C/U Châu”.


                Hình minh họa

                Tôi cầm ống nghe áp vào tai, thì nghe Đại Bàng chửi xối xả, giọng Ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra là do C/U Thắng quá sợ nên không dám tấn công, ông hét lên bảo tôi: ” Nè! C/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên đánh mục tiêu trước mặt hay không?”.Tôi nghe mà sợ muốn “té đái”, run lập cà lập cập, rồi trả lời ông xin tuân lịnh.

                Tôi tháo ba lô quăng lên bờ ruộng cho nhẹ người, rồi vói tay lấy khẩu súng trường của người lính bên cạnh, miệng chỉ kịp kêu lớn: “Tất cả theo tôi”. Lúc đó tôi “quíu” quá, nên không nhớ bài bản chiến thuật nào mà tôi từng học ở quân trường, tôi xông lên vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa). Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo tôi. Phía người anh em bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn, tưởng tôi bị điên, bèn lập tức tháo lui, trong lúc vội vã họ còn quăng lại tặng tôi mấy cây súng nữa chứ.

                Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng 10 phút, ai cũng tưởng tôi gan dạ, chứ đâu biết rằng tôi làm thế vì quá sợ ông xếp của mình. Thiệt là khôi hài. Đại Bàng kéo quân lên ông nhìn tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lập chiến công “khùng điên ba trợn” như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy lại cho C/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.

                Sau đó tôi được điều qua các Trung Đội khác, phụ trách công việc tạm thời cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương… Một điều may mắn cho tôi, (hay Trời đãi kẻ khù khờ), khi tôi nắm quyền tạm thời đó, những trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách tốt đẹp. Đại Bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ ái ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi. Đại Bàng sau đó được thuyên chuyển qua một đơn vị khác và một Đại Bàng mới đến thay thế.

                Ông Trung úy mới đến này có dáng dấp thư sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, khiến tôi rất có cảm tình. Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, Đại Bàng cũ giới thiệu các Sĩ quan trong đơn vị cho ĐB mới được biết. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một Trung đội phó, rồi đưa ra một nhận xét làm sửng sốt mọi người: ”Đây là một tay Sĩ Quan xuất sắc, một tay chơi tới bến… “Hai người sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại Bàng mới.

                Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình và cũng không hề muốn bươn chải về phía trước. Đối với ĐB mới, ông ta lấy làm lạ là phải, bởi vì ông cứ ngỡ SQ xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng, sao lại là cái ông Trung đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Tôi cũng không ngờ, cái lời nhận xét đó đã đẩy tôi vào một khúc ngoặt khác, đầy hung hiểm chết người.

                Một thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại Bàng mới cất nhắc lên làm Trung Đội trưởng thực thụ. Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống còn, không còn con đường nào khác, tôi phải “động não” đến cao độ cho công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp Chỉ huy, chính điều đó đã đẩy Trung đội tôi vào nơi Tử địa.

                Khi Đại đội tiến quân vào nơi nguy hiểm, Trung đội tôi được lịnh đi đầu, và khi rút quân từ nơi đó, Tr.đội tôi được lịnh bao chót. Khi tấn công tôi được giao chỗ khó gặm nhất, và khi phòng thủ Trung đội tôi được nằm ở vị trí nặng nề nhất. Người ta thường nói: “Nhất Tướng công thành vạn cốt khô”, tôi không phải là Tướng, chỉ là một Sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều đến nỗi, tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy của Đại Bàng dành cho tôi, mà Trung đội tôi phải gánh chịu những tai ương này.

                Ông ta rất quí mến tôi, ông chưa hề quát mắng tôi một tiếng nặng lời, có món nào ngon ông sai đệ tử đi mời tôi đến cùng ăn với ông, có Huy chương nào quí giá, ông cũng ưu tiên dành cho tôi. Ông quí tôi như vậy vì ông biết rằng, nếu ông cứ sử dụng tôi như vậy, trước sau gì tôi cũng chết. Làm sao tôi sống nổi, khi xua quân đi hết mặt trận này đến mặt trận khác, mà toàn là những nơi đầu sóng ngọn gió. Vậy mà tôi sống, mới kỳ.

                Khi về đơn vị này, tôi có được một sự may mắn là đơn vị lưu động khắp các tỉnh Miền Tây. Khởi đầu của tôi tại Cái Bè -Cai lậy với các địa danh nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển… Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, từ Tuyên Nhơn kéo qua Tuyên Bình, có một chỗ tận cùng tên Bình Thạnh Thôn, đây là một trong những chiến trường ác liệt nhất của đồng bằng Sông Cửu Long.

                Từ nơi này chúng tôi ngồi thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng Ngự, và chính cái lúc băng ngang này, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng đầm lầy kinh sợ nhất, đi suốt 1 ngày với xe thiết giáp, tôi không thấy một cây cỏ nào mọc nổi ngoại trừ loại cây bàng (một loại cây họ cỏ dùng dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước phèn màu vàng chạch, tóm lại không có 1 sinh vật nào sống nổi trong vùng này, đừng nói chi đến con người. Vùng đầm lầy dài ngút mắt đến chân trời, khung cảnh im lìm đến ghê rợn.

                Rời Mỹ Tho, chúng tôi băng ngang Sông Tiền bởi phà Mỹ Thuận, rồi băng ngang Sông Hậu với phà Cần Thơ, xuôi theo lộ tới Cái Răng – Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền – Cầu Nhím, tôi ngạc nhiên trước một vùng đất giàu có tột bực này. Ở đây người dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy lềnh trên mặt sông để đến điểm tập trung giao hàng đi các nơi, nhà cửa ở miệt vườn mà trông rất bề thế.

                Rồi chúng tôi đến Phong Phú-Ô Môn, tiến sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai – Cờ Đỏ, sự trù phú không sao kể xiết, có khi chúng tôi ngồi Tắc-ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, 2 bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ, không hề có nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng có xe máy cày đậu trước sân. Tuy nhiên vào sâu hơn nữa, chúng tôi cũng gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm -Thát Lát, dân chúng tản cư đi hết, nhà cửa hoang phế, trông rất âm u rợn người.

                Trong tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm, vừa thích thú vừa buồn rầu. Mỗi khi hồi tưởng về một thời chiến trận, tôi đều nhớ về nơi ấy. Cuộc chiến đã ngừng 37 năm qua, vậy mà tôi chưa hề một lần nào trở về lại nơi chiến trường xưa, để thắp một nén hương tưởng mộ những đồng đội của tôi đã nằm xuống nơi này.

                Mùa Khô năm 74, Đại Đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi nhảy líp đầu. Khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về vùng đất nơi đây. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ ruộng nào cả (sau này tôi được biết đây là vùng nước nổi, khi nước từ Biển Hồ tràn về, thì không có bờ ruộng nào chịu đựng nổi, nên người ta cứ để trống trơn như vậy, ruộng của ai người đó biết).

                Trên cánh đồng lại có rất nhiều gò nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi Trung đội tôi rời khỏi trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm chiếm 1 gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho tất cả dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ, rồi tôi phóng 3 khinh binh vào lục soát, sau một hồi thấy không có gì, họ khoát tay cho cả Trung đội tiến vào.

                Khi vào tới nơi, sau khi bố trí xong, tôi thấy trên gò có thật nhiều cây xanh che bóng mát, và có vài đìa cá, lính tráng lội ùa xuống xúm lại tát đìa, khi đìa cạn, cá lộ ra lội đặc lềnh như bánh canh. Một lát sau cả Đại đội theo trực thăng kéo tới kéo vào gò trú ẩn cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ trời tối hẳn, Đại Bàng ra lịnh kéo cả đơn vị ra đồng trống để đóng quân đêm, vì vị trí ban ngày đã bị lộ.

                Đêm đó chúng tôi không ngủ được gì cả, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc, lùng sục chỗ đóng quân của chúng tôi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ.

                Tờ mờ sáng hôm sau, có 1 đoàn xe bò đông đảo khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân. Lính tráng hỏi họ đi đâu, họ nói họ kéo nhau đi tát đìa, trời đất, tát đìa mà kéo một đoàn xe bò như thế này ư! Chiều đến, không biết họ đi đến đâu, mà khi kéo xe về, xe nào cũng đầy ắp cá, họ chứa lủ khủ trong thùng trong chậu lớn, sau đó họ kéo ra bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng Ngự


                Hình minh họa

                Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo bờ rạch, có tên là Rạch Cái Cái. Khi vào đến nơi tôi lại đứng trố mắt ra nhìn, nhà gì mà kỳ dị như thế này. Người dân họ cất nhà cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn, tôi biết ngay là họ phải cất nhà như thế để sống cùng với lũ. Nơi đây đúng là cùng trời cuối đất, tiếng bình dân gọi là hóc-bà-tó. Đây cũng là vùng đất tranh chấp giữa hai bên, chiến trận nổ ra liên miên, nên người dân họ sống rất là tạm bợ.

                Cả xã có vài ngàn người mà chỉ có vài người biết đọc biết viết. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa, hay ghe hàng bông (rau quả), được chở tới từ Hồng Ngự. Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào nhà chơi, chủ nhà rất hiếu khách và xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượi đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn giấm tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi ăn với khoai lang hay bắp luộc.

                Lúc đầu tôi thấy sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã hãi nói chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình mệt nghỉ, được đưa về một nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là đã đời, chúng tôi hành quân mà như đi picnic. Nhưng trong tôi linh cảm điều gì đó không ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được tung vào những nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi chơi như thế này.

                Sau một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường 1 Chi đoàn thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này vùng hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hằng ngày, chúng tôi ngồi trên xe thiết giáp hành quân lục soát nơi này nơi nọ, vẫn yên bình, không hề có tiếng súng. Rồi cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó, bình thường như mọi ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân. Đi đến các điểm đã được chỉ định sẵn trên bản đồ, đi đến chỗ này lục soát, không có gì lại đi đến chỗ khác.

                Cuối cùng đoàn xe đến 1 điểm, bất chợt đoàn xe dàn hàng ngang ngoài ruộng, hướng về mục tiêu là một bờ vườn rậm rạp. Lính Trinh Sát tụi tôi được lịnh xuống xe, tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi tiến về phía bên trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng: ”Tất cả tản ra mau, đi túm tụm như vầy dễ ăn đạn lắm!” Không ngờ lời nói của tôi “linh như miễu”.

                Đạn phát nổ vang trời dậy đất, tôi bị trúng đạn, bật người ngã xuống đất, máu ở đâu chảy xuống mặt tôi thành dòng, tôi ra lịnh bắn trả xối xả, nếu không phía bên kia họ thừa thắng xông lên thì thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im lặng, lúc đó tôi mới rảnh rờ rẩm khắp người xem mình bị thương nơi đâu. Tôi giật mình kinh ngạc và cảm thấy hết sức lạ lùng, bởi vì tôi bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn súng tiểu liên AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng ngắn tôi nhét trước bụng, viên đạn bể ra văng tứ tán lên mặt lên cánh tay, nên máu tuôn ra thành dòng là vì thế, song phần còn lại của viên đạn chui tọt vào đùi, máu tuôn ra khá nhiều nhưng không nguy hiểm.

                Viên đạn thứ 2, mới thật là ghê rợn, viên đạn bắn trúng vào cái bóp tôi để trên túi áo trái, ở phía trước trái tim, viên đạn quậy nát cái bóp, tôi để rất nhiều tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn lại, nằm yên trong đó, có lẽ viên đạn được bắn ra trong khoảng cách quá gần, làm viên đạn không đủ sức xuyên phá. Lúc đó tôi sợ lắm, bởi vì tôi nghĩ phải có một phép lạ thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi, chứ trên đời này hiếm có ai bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn mà còn sống như tôi vậy

                Cũng ngay lúc ấy, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử của tôi: ”Thiếu Úy ơi! cứu em! “ Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước mặt, cách tôi chừng dăm ba thước. Thông thường các Sĩ quan Trung đội Trưởng có 2 người lính đệ tử, 2 người này có nhiệm vụ lo chỗ ăn chỗ ngủ và lo mang vác đồ đạc cho ông Thầy.

                Những người lính đệ tử của tôi thường đối với tôi rất chí tình, họ sẵn sàng sống chết vì tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn Trung đội xung trận, 2 người lính này theo sát để bảo vệ cho tôi. Hôm nay, một trong hai người đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó từ ngày ấy cho đến bây giờ. Vậy mà 37 năm đã trôi qua, tôi chưa có một lần nào về đứng trước mộ anh, để đốt một nén nhang nói lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ Nguyễn Văn Đồng, một cái tên vừa bình thường vừa vô danh, nằm lẫn khuất đâu đó trong một triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh tức tưởi này.

                Sau khi tôi bị thương, tôi giao Trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn Úy Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài, leo lên xe Thiết giáp ngồi nghĩ và ngó vào trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn Úy Tường dàn đội hình hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: ”Đừng làm thế, Tường ơi! “. Sau đó, Trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn Úy Tường bị trúng đạn chết tại mặt trận, mắt vẫn mở thao láo, có lẽ anh ta không biết sao mình lại chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. “Tường ơi! Vĩnh Biệt!”

                Không biết sao đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái rất lâu. Rồi tới ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không có cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước mỗi ngày dâng cao cả gang tay, đến lúc này đây mới thấy lúa sạ là một loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì cây lúa cũng dài nhằng ra 5-6 mét, tôi chưa nơi nào cây lúa lại kỳ dị như vậy. Rồi đến lượt cá Linh tràn về, cá nhiều đến nỗi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi lềnh lên cả một khúc sông, và kỳ lạ một điều nữa là người dân ở đây thà ăn mắm ăn muối chớ họ không ăn cá linh, họ nói họ thấy cá Linh cả đời nên tự nhiên họ đâm ngán tới cổ.

                Ô! nước cứ dâng lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chổ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút lên gò thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo trong mùng chúng tôi trông thật ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra thành từng toán. Vào hôm đó toán của thầy trò chúng tôi đi tới một cái gò còn khô ráo.

                Đêm đó như thường lệ tôi ngủ dưới một mái lều, tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình.

                Ở chốn trận tiền ai ngủ cũng phải thật nhạy thức, tôi cũng vậy, tôi tưởng lính gác báo động nên vội ngồi dậy ngay. Tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng vắng vặc một em bé gái khoảng 13-14 tuổi đứng nhìn tôi và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá vội vàng nằm xuống kéo mền trùm kín đầu. Sáng hôm sau, tôi thấy chỗ tôi ngủ nằm kề bên 1 cái bàn thờ bằng gỗ xiêu vẹo mục nát.

                Tôi bèn rảo bước vào xóm để hỏi thăm về cái gò này, được người dân cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày chèo xuồng ra đồng nhổ bông súng, đem vô xóm bán dạo. Một hôm em cũng chèo ghe ra đồng như hàng ngày, sau đó súng đạn nổ ran, em bị đạn lạc chết trên gò, em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm hiện về khóc lóc thảm thiết, dân làng thấy vậy bèn làm cho em một cái bàn thờ gỗ để nhang khói cho em. Câu chuyện thật tội nghiệp. Ở nơi chốn tên bay đạn lạc này,đời sống người dân khốn khổ không sao kể xiết,nếu họ muốn đi đến một nơi chốn an lành khác, họ cũng không biết đi đâu, mà nếu có đi cũng không biết lấy gì mà sống.

                Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm viếng những gia đình có người thân chết trận, vậy mà có một lần tôi đã phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ. Chuẩn Úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi khoảng một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt nét con nít. Tôi nhớ hồi tôi mới ra trường trông đã rất chán, anh chàng này trông còn chán hơn tôi nữa. Mặt của Hà còn đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích ngậm kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống, vừa uống vừa chắc lưỡi hít hà như uống thuốc độc.

                Điều đặc biệt nhất của Hà là anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe súng nổ anh ta nhắm chặt mắt, bịt kín lỗ tai, và mặt mày thì tái mét. Anh ta về làm Phó cho tôi, làm giọng “chảnh”, tôi hỏi anh ta một cách xách mé: “Sao ông nhát như vậy mà xin về Trinh Sát”. Anh ta bèn phân trần, anh ta đâu có xin xỏ gì đâu. Ban Quân số thấy không có ai tình nguyện nên chỉ định bừa, dè đâu trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, còn phải để ý đến anh ta nữa chứ, anh ta có biết gì đâu, thiệt khổ. Càng về sau các Sĩ quan rơi rụng dần dần, C/U Hà cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng.

                Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Cả đại đội được lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một trung đội nữa vỗ vào mặt chính diện, trung đội tôi thọc vào bên cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra 1 trái hỏa tiển B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra trúng ngay vào người Hà. Tội nghiệp Hà chết không toàn thây.

                Lúc Hà còn sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà Hà ở Sài gòn, để mang dùm quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với gia đình của anh ta. Hà mất được chừng một tháng, thì tôi xin được cái phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi bèn ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia buồn với gia đính anh ta. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy tay tôi, rồi hỏi dồn dập:

                – Sao cái hôm em Hà nó chết, mà cháu lại không về đưa đám tang em?.

                Tôi lúng túng trả lời:

                – Thưa, lúc đó chúng cháu đánh nhau tưng bừng, làm sao cháu bỏ đơn vị mà về cho được.

                Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngất ngất, lúc đầu ông bà còn lấy tay lau nước mắt, lúc sau thì để mặc, nước mắt tuôn ra xối xả làm ướt đầm cả ngực áo. Tôi kinh hoàng ngồi chết điếng, tôi chưa bao giờ gặp phải một trường hợp bi thương tột độ đến như vậy. Ông bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết.

                Cha mẹ nào có con ra mặt trận, coi như đã chết nửa linh hồn, đêm ngày sống trong hốt hoảng lo âu, mong ngóng con mình, mãi về sau tôi mới nghiệm ra được điều này. Nghe ông bà than khóc một hồi, tôi không chịu đựng nổi nữa và tôi cũng không nói một lời phân ưu gì nữa hết, bởi vì lời nói nào cho đủ trước một mất mát quá lớn lao này. Rồi tôi nghĩ đến tôi, đến Ba Mẹ tôi, trong lòng tôi bỗng xộc lên một nỗi buồn khủng khiếp. Tôi lảo đảo đứng dậy từ giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu một mình, tôi buồn lắm.

                Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi quá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này đây. Tôi chợt nhớ đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cha mẹ Hà, lúc đó bỗng nhiên tôi thương Ba Mẹ tôi vô cùng. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.

                Cuối cùng vào tháng 2 năm 75, tôi bị thương một lần nữa tại mặt trận Mộc Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Tiểu đoàn 9 Quân Y tại Vĩnh Long. Tại Bịnh xá, tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột, tôi linh cảm có điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-75, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy. Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi Bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4, tôi nhìn về hướng Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm khác, có tên gọi là “Mạt Lộ”.

                Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ niệm rưng rưng.

                Viết xong ngày 1 tháng 6 năm 2012.
                NĐC
                Kỷ niệm ngày QLVNCH 19/06
                nguồn:
                Last edited by khongquan2; 06-19-2018, 01:31 PM.

                Comment


                • Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ

                  Một Đời Binh Nghiệp Hai Màu Mũ


                  Trương Út tức Út Bạch Lan

                  Buổi xế chiều ngày 15 tháng 10 năm 1970 là một buổi chiều chia ly ngậm ngùi với những lời giã từ không thành lời. Bầu trời Nha Trang quang đãng, với sóng biển hiền hòa hết đợt này đến đợt khác, tiếp tục xô vào bờ cát trắng chảy dài từ biệt điện đến Xóm Bóng. Cơn gió nhẹ từ biển khơi phây phất lá cờ VNCH trước sân trại Hải Quân Tây Kết, phía sau là trại Hoàng Diệu, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Nhẩy Dù - Lực Lượng Đặc Biệt – QL/VNCH.

                  Chiếc Dương Vận Hạm 505 (thường gọi là tàu há mồm) rúc lên ba hồi còi luì dần ra biển khơi, trên bãi vẫn còn lố nhố người. Trên đường Duy Tân vẫn còn một dọc xe Jeep, Dodge, GMC, và không biết có bao nhiêu bàn tay vẫn còn vây vẩy tiễn đưa.

                  Trên tàu là ĐĐ 5/TĐ81 BCD và ĐĐ 6/TĐ81 BCD cùng với gia đình cha mẹ vợ con của binh sĩ. Xin giả từ Nha Trang. Xin giã từ quán cơm bình dân Chợ Đầm, Bar số 1, 2, 3, 4, 5, phở Chụt, phở Gà số 1, quán cơm Thanh Phong, nhà hàng Nautique, Hotel Nha Trang, Cafe Thu, quán rượu, Bar Mỹ, Tháp Bà, Hòn Chồng, Cầu Đá. Xin vẫy tay lần cuối Thiếu Tá Nguyễn-văn-Lân (K/17Đà Lạt) Tiểu Ðoàn Phó, người đã lót những viên gạch đầu đời binh nghiệp cho tôi, Đại Úy Bùi-Ngọc-Bích (Khoá11/TĐ) Chỉ Huy Hậu Cứ, người đã tận tình giúp đỡ chăm sóc vợ con tôi, khi Tôi hành quân. Xin vẫy tay lần cuối với tất cả quân nhân của Tiểu Đoàn 81BCD, những người còn ở lại, đang đứng trên bờ cát trắng Nha Trang mang vô vàn kỹ niệm thời chinh chiến. Xin giã từ, không phải giả biệt, vì sau này chúng ta còn hội ngộ trên những chiến trường khốc liệt nhất trong lịch sử chiến tranh cận đại. An Lộc, Kontum, Quảng Trị, Thường Đức.

                  Mới sáng nay, trên sân cờ tiểu đoàn, khi tôi (Đại Ðội Trưởng /ĐĐ5), Đại Úy Nguyễn-Chí-Thanh (K/12TĐ, ĐĐT/ĐĐ6) trao trả Hiệu Kỳ đơn vị cho Thiếu Tá Trần-Phương-Quế (K/10 Đà Lạt TĐT), tôi thoáng thấy nét buồn buồn trên gương mặt và đôi mắt của ông. Nét buồn buồn đó phảng phất một nỗi niềm của một người Cha hay một người Mẹ đang mất hai đứa con trong sáu đứa con mà Ông đã nuôi dưỡng dạy dỗ với tất cả tâm huyết trộn lẫn nước mắt của chính ông, Ông trao lại hai hiệu kỳ cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Nguyễn-văn-Phú. Ban quân nhạc Bộ Tư Lệnh trổi lên khúc nhạc "ò e rô be đánh đu, tạc zăng nhảy dù ...", tất cả đơn vị trên sân cờ như rơi vào những giây phút lắng đọng nghẹn ngào không thành tiếng. Có giây phút chia ly nào mà không ngậm ngùi? Ngậm ngùi như tiếng kêu thất thanh của con chim Đa Đa sao không lấy chồng gần mà phải đi lấy chồng xa, để lại cha mẹ già biết bao giờ gặp lại.

                  Trên con tàu há mồm gần 800 nhân mạng, gồm Sĩ quan, Hạ Sĩ quan, binh sĩ và gia đình của hai Đại Ðội 5 và Ðại Ðội 6 của đơn vị 81BCD đang xuôi Nam.

                  ***

                  Như thường lệ hằng năm, cứ vào khoảng tháng 11 các phái đoàn Quân Binh Chủng của QLVNCH lên truờng Võ B ị QG Ðà Lạt đê thuyết trình về cơ cấu tổ chức, cơ cấu nhân sự, phương tiện và kỹ thuật hành quân tác chiến cho các SVSQ sắp s ửa tốt nghiệp. Cũng giống như tâm trạng các bạn cùng khóa, tôi chỉ ngồi trong Hội Trường mà đầu óc cứ nghĩ vẫn nghĩ vơ cái gì đâu đó:

                  - Muốn "Trong lang miếu ra tài lương đống " thì chọn Công Binh, Quân Nhu, Quân Cảnh, Quân cụ...

                  - Muốn "Biên thùy rạch mũi can tương " thì chọn Nhảy Dù, TQLC, BĐQ, Lực Lượng Ðặc Biệt, các Sư Đoàn BB tinh nhuệ...

                  - Muốn "Hối tàng nơi bồng tất " thì chọn An Ninh QĐ, Đơn Vị 101, Cảnh Sát Đặc Biệt, Biệt phái ngoại ngạch...

                  Sao có nhiều cái "muốn" quá vậy?. Một SVSQ Đà Lạt khi nhập trường cho đến khi tốt nghiệp đều "ÔM " một giấc mộng như nhau:

                  "Làm sao bách thế lưu phương
                  Trước là Sĩ sau là Khanh Tướng"


                  Cho nên khi tốt nghiệp cũng cùng một quan niệm như nhau: "Hoặc xanh cỏ hoặc đỏ ngực". Chẳng có ai nghĩ rằng cũng chẳng xanh cỏ, cũng chẳng đỏ ngực, mà phút chốc có một ngày nào đó không xa mà rất gần, trở thành què cụt đui mù để trở thành kẻ báo cô cho gia đình và thân nhân. Và cũng chẳng có ai nghĩ rằng, cơn đại họa của Mệnh Nước Vận Nhà đổ ập xuống như cơn thác lũ, phải vất kiếm cung, cởi bỏ chiến bào cùng nhau lũ lượt rũ nhau vào tù, để sống những tháng năm dài bất tận thìên thu trong nỗi uất nghẹn của kẻ bại trận. Và cũng chẳng có ai nghĩ rằng, bỗng một buổi sáng hay một buổi chiều, mình phải lìa bỏ quê cha đất tổ, lìa bỏ cả cha mẹ vợ con gia đình để bắt đầu sống một cuộc sống lưu vong ê chề tủi nhục của một kẻ tha phương cầu thực .

                  Vào cuối tháng 11 năm 1967. Phái đoàn Lực lượng Ðặc Biệt đến thuyết trình. Cơ cấu tổ chức và nhân sự, sao mà quá nhiêu khê không giống như Nhảy Dù, BĐQ , TQLC , Sư đoàn Bộ Binh v.v. và v..v...Cái gì đâu là A Team, B, C, CIDG, MIKE Force, Delta, 91 Biệt Cách Dù...Xem một đoạn phim chiếu lại trận Pleime đẫm máu thấy toàn hình ảnh các chiến sĩ anh dũng Yra , Yđê , Ysàriêng, Thạch Khương, Thạch Phịch gì đâu không hà .

                  Nói thì nói vậy, chứ tôi đã mê cái binh chủng này từ lâu rồi.

                  Khi còn ở Trung Học, tôi nói dối Ba tôi cho tiền mua quyển sách đề thi Toán của giáo sư Nguyễn-văn-Phú và Đàm-Quang-Hưng, để đi xem ba xuất xi-nê cuốn phim " Les canon des Navaron ".

                  Trong phim mô tả lại cuộc xâm nhập của một toán Ranger của Liên Đoàn II Lực Lượng Ðặc Biệt Mỹ (tài tử Geogry Peck đóng vai Thiếu Tá trưởng toán, nhằm phá hủy những cỗ đại pháo cực kỳ tối tân của quân Đức Quốc Xã (Gun Battery) tại Point Du Hoc, chỉ cách nơi đổ bộ trên bờ biển Normandie một cây số bên trong đất liền. Nếu nhiệm vụ của toán này thất bại thì không có một chiếc tàu đổ bộ nào của quân đội Đồng Minh đặt chân lên bãi Omaha và Utah Beach .

                  Trung tuần tháng 12 năm 1967, trước ngày chúng tôi mãn khoá 2 tuần lễ, phái đoàn thứ hai của Bộ Tư Lệnh, LLĐB đến trường để chọn tân Thiếu Úy. Chỉ có 27 SVSQ Khoá /22 tham dự, lần lượt tôi cũng được gọi tên phỏng vấn. Đại Úy Bác Sĩ Trần-văn-Út là người trưởng phái đoàn.

                  -Chào Bác Sĩ.

                  -Ngồi xuống đi. Tên anh là Trương-văn-Út hả ?

                  -Dạ vâng!

                  -Tại sao anh thích Lực Lượng Đặc Biệt?

                  -Dạ, tôi không biết.

                  -Tại sao cha anh họ Trần mà anh là họ Trương ?

                  -Da, tôi cũng không biết nữa!

                  Câu hỏi lãng xẹt khiến tôi gần nỗi dóa, định đứng dậy chào rồi đi ra.

                  Nhưng:

                  Bác Sĩ nhìn Em Bác Sĩ cười
                  Em nhìn Bác Sĩ mộng hoa tươi
                  Sau này màu Mũ lá xanh đó
                  Bốn phương tám hướng mặc tung hoành


                  Ông Thượng Sĩ phòng Tổng Quản Trị đọc tuyên ngôn :

                  - Kính quí vị, ai có tên trong danh sách này xin ngồi lại, không có tên xin trở về doanh trại. Cám Ơn

                  Chỉ có tám (8) người còn ngồi lại, trong đó có tên tôi. Cũng dễ hiểu thôi, vì danh sách này đã có trước từ BTL, truớc khi phái đoàn (select team) đến trường.

                  Anh cột chèo chú bác ruột của tôi là Bác Sĩ Ngô-vi-Dương đang kiêm Y Sĩ Trưởng Bộ Tư Lệnh, LLĐB.

                  Tám tân Thiếu Úy Khoá 22 Võ Bị Ðà Lạt trình diện Phòng Tổng Quản Trị BTL/LLĐB ở Nha Trang, sau 15 ngày nghỉ phép.

                  - Trần-văn-Ni vác hành trang trình diện BTL/SĐ1BB...vì an ninh lý lịch.

                  - Xường, Chân, Xinh... trình diện BCH C4

                  - Út, Chẩn, Tiễn... trình diện BCH/TĐ 91 Biệt Cách Dù

                  - Đặng-văn-Lợi... trình diện Bộ Chỉ Huy TĐ MikeForce

                  Ở Nha Trang chỉ còn lại tôi, Chẩn, Tiễn và Lợi hưởng được những ngày cuối năm của Tết Mậu Thân. Tiếng pháo giao thừa trộn lẫn tiếng AK, B40, Beta. Tôi bị thương, nằm bệnh xá Bộ Tư Lệnh ba ngày, đơn vị của Chẩn và Lợi được ném xuống Khe Xanh. Họ không bao giờ trở về với bông mai vàng vẫn còn óng ánh trên vai áo trận giặt ủi hồ thẳng nếp. Có cái đơn vị nào kỳ cục bằng đơn vị này. Thiếu Úy "sữa" vừa ra trường, vừa trình diện Đại Ðội thì có lệnh đi Gác Hòm cho vị ĐĐT của mình (Đại Úy Nghi ĐĐT/ĐĐ3 ) vừa tử trận ở Kontum trước Tết chỉ hai tuần lễ , bây giờ phải đi gác hòm cho cố Trung Tá Lê-Như-Tú (TĐT/TĐ91 BCD) vừa ngã gục trong đêm Giao Thừa Tết Mậu Thân trên phố Độc Lập, Nha Trang, với những giòng nước mắt tưởng nhớ hai người bạn cùng khoá, chỉ cách đây một tuần ngồi uống bia với những con ốc buơu luộc chấm nước mắm gừng ở quán số 5 ven bờ biển.

                  Số mệnh an bài nghiệt ngã chưa chịu dừng lại ở đây. Hai tháng sau, trên mặt trận Cây Quéo, Cây Thị trong đợt tổng công kích đợt hai, tôi ôm xác Huỳnh Kim Tiễn mà không có thủ cấp. Một trái không giật đã lấy đi gương mặt hiền hòa cùng bộ não thông minh của người bạn cùng khoá còn lại của tôi, cùng TĐ 91 BCD. Tiễn chết không nhắm mắt, bởi còn mắt đâu mà nhắm, nhưng nụ cười hiền hoà như vẫn còn vương đọng trong tôi như một lời nhắn nhủ "Tao đã đền xong nợ nước thù nhà ".

                  Thời gian trôi qua như một giấc mơ. Chỉ hơn hai năm tôi phục vụ TĐ 91/ BCD (sau này đổi thành TĐ81 BCD vì xui quá chết như rạ) mà đã trải qua sáu (6) vị ĐĐT: Trần-Hoạt-Thành , Nguyễn-đăng-Lâu, Huỳnh-văn-Thanh, Ngô-Tùng-Lam, Nguyễn-văn-Lân, Phạm-Châu-Tài.

                  Một binh chủng như thế, một đơn vị như thế có xứng đáng để người đời ca tụng:

                  "Kinh Luân Khởi Tâm Thượng, Binh Giáp Tàng Hung Trung ".....

                  ***

                  Ngồi trên mũi boong tầu Dương vận hạm 505. Tầu đang xuôi Nam, điểm đến là quân cảng Bạch Đằng. Ngày mai sẽ ra sao? Nào ai biết ra sao?! Bên cạnh tôi là Đại Úy Nguyễn-chí-Thanh (ĐĐT/ ĐĐ 6/TĐ 81 BCND) Trung Úy Hồng-Quang-Bảo (ĐĐP), Trung Úy Nguyễn-văn-Thinh (ĐĐP) của tôi. Bên dưới lòng tàu lô nhô nam phụ lão ấu chen chút nhau với rương hòm, valy, túi xách, lẫn lộn với ba-lô nón sắt súng đạn cùng hai chiếc xe Jeep của hai Đại Ðội. Trong lòng mỗi người, chắc hẳn đều có một suy tư riêng và cũng chắc rằng chẳng có suy tư nào giống suy tư nào. Những quân nhân và gia đình sinh quán ở Nha Trang mang một nỗi buồn mênh mang xa xứ. Những người gốc gác Sài Gòn, Gia Định, miền Đông, miền Tây tự an ủi mình: thôi gần gia đình sẽ có dịp thăm viếng nhiều hơn.

                  Chắc có lẽ, không có ai trong số người đang nằm đang ngồi, hoặc đi tới đi lui dưới lòng tàu kia nghĩ rằng: "Ngày mai hay ngày mốt còn nhìn thấy chiếc mũ Green Beret ngạo nghễ trên vầng trán của mình hay không ??? ". Một binh chủng đi đông về ít, đi ít về không... hoặc đi luôn không thèm về nữa ".

                  Ngày xưa trước khi Kinh Kha sang sông Dịch, còn được Thái Tử Đan khoản đãi yến tiệc linh đình với cung tần mỹ nữ. Ngày nay chúng tôi sang sông Dịch không kèn không trống, chỉ có chút ít thời gian ôm vợ con hôn từ giã với câu hỏi:

                  - Mẹ con mày còn đủ gạo ăn tháng này hay không ?

                  Hòm gỗ cài hoa đã có Tiểu đoàn Chung Sự lo toan. Còn khăn sô áo tang xe lăn, nạng gỗ, không biết mẹ mày liệu có lo toan được hay không?

                  Tôi quay sang hỏi Thanh:

                  - Anh đang nghĩ gì vậy?

                  Trước khi về TĐ 81 BCD, anh là Trung Úy, Tóan Trưởng Biệt Hải, xâm nhập bờ biển Hải Phòng năm 1966 bằng tàu đánh cá cải trang của Hải Quân QLVNCH.

                  Toán bị " bể ", được cứu thoát khi cánh tay phải của anh lặt lìa, cũng may nhờ Quân Y của Đệ Thất Hạm Đội Mỹ chắp vá cho nên cánh tay phải vẫn hoạt đông bình thường..

                  Vẫn cái giọng nói, cái giọng cười khàn đục của Anh, với cánh tay thương tật vung vẫy:

                  -Mẹ! Từ Biệt Hải, tự ái không thèm giải ngũ, lại về Biệt Cách, bây giờ về Trinh Sát Dù. Thôi cũng được, chứ đưa tao về Biệt Ly là tao Biệt Kinh Kỳ ngay.

                  Trung Úy Thinh hỏi:

                  -Biệt Ly là cái gì vậy Đại Úy?

                  -Là ĐĐT Chung Sự Nghĩa Trang Biên Hòa chứ còn con mẹ gì nữa.

                  Thanh thò tay móc bi đông mở nắp, hớp vài hớp, đưa sang cho tôi. Tôi cũng làm một hớp. Trời đất "Ông già đi bộ " (Jonhny Walker). Tôi giao bi-đông cho Hồng-Quang-Bảo, rồi cho Thinh.

                  Bảo tư lự chẳng nói năng gì, nhìn bâng quơ vào khoảng trời xanh vô tận. Chắc anh đang nghĩ đến giòng họ nhà Hồng Quang của Anh đang ở Đài Loan cùng với gia đình nhà họ Tống. Thinh nắm lấy tay tôi:

                  -Trung Úy! Có Tôi bên cạnh đây!

                  ***

                  Rồi thời gian cũng qua mau như là một giấc mơ...

                  - ĐĐ5/81BCD...cải danh là ĐĐ2 Trinh Sát ND.

                  - ĐĐ6/81BCD...cải danh là ĐĐ3 Trinh Sát ND.

                  Mang cái tên Trinh Sát ND nhưng thịt xương máu huyết là 81 Biệt Cách Dù.

                  Trận Lam Sơn 719 Hạ Lào (1971). Thân xác của Đại Úy Nguyễn-chí-Thanh đã được gởi trọn ở một vùng đất xa lạ nào đó, không phải quê cha đất tổ của Anh. Anh không bị thuyên chuyển về Biệt Ly mà lần này là Biệt Xứ, Biệt Hải, Biệt Cách, Biệt Ly.

                  Biệt Xứ hay Biệt Biệt gì chăng nữa cũng là Vĩnh Biệt. Hồng Quang Bảo cũng theo anh. Thân xác dù được đồng đội gói ghém nhiều lần trong poncho rách tả tơi, mà vợ con gia đình không nhìn mặt được lần cuối. Có lẽ giờ đây thân xác các anh đã hòa tan vào những vùng đất phì nhiêu màu mở của núi đồi phía Tây Khe Sanh, Lao Bảo, trên dãy Trường Sơn trùng điệp ngút ngàn Hạ Lào xa lạ.

                  Charlie - Mùa Hè Đỏ Lửa - (1972). Mặt trận Tây Nguyên, Liên Đoàn 81 BCD, triệt xuất vùng Tam Biên, ĐĐ2 Trinh Sát ND (tiền thân của ĐĐ5-BCD) xâm nhập để đương đầu với SĐ Thép 320 của CS Bắc Việt, cùng với trọng pháo 130 ly, hỏa tiễn 122, xe tăng T-54. Nguyễn-văn-Thinh lúc ấy là ĐĐT/ĐĐ 111 của TĐ 11 ND (Song Kiếm Trấn Ải).

                  Khi Cộng quân tràn ngập Charlie, Thinh như một Rambo. Giầy saut, quần trận, áo thun ba lỗ, đầu chít khăn Viễn thám, ngực quấn đầy dây đạn, hai tay với khẩu M-60 quạt trái, quạt phải, đứng sừng sững trên giao thông hào, miệng không ngớt:

                  -ĐM chúng mày lên đây... lên đây!

                  Rồi thân xác của Thinh cũng rả rời từng mãnh vụn bởi hằng trăm nhát mã tấu thù hận của quân khát máu. Sau này tôi có dịp trở lại Nha Trang. Người mẹ già gầy rọp thân thể của Thinh hỏi tôi, tôi chỉ biết nghẹn ngào trả lời:

                  -Thinh vẫn còn ở lại Charlie với Trung Tá Nguyễn-đình-Bảo.

                  Trận Hạ Lào Lam Sơn 719... ĐĐ 3 Trinh Sát ND (ĐĐ6/ 81BCD) xem như xóa sổ!
                  Kontum kiêu hùng, Quảng Trị vùng lên... ĐĐ2Trinh sát ND (ĐĐ5/81BCD) thân xác còn đó, nhưng thịt xương rã rời, máu huyết tan loãng.

                  ***

                  Tôi không thể nhớ hết, sao tôi còn có thể nhớ hết được khi thời gian quá ngắn, mà trang sử thì quá dài . Đã có bao nhiêu đồng đội thân thương của mình, cùng chung một chuyến tàu há mồm xuôi Nam, giã biệt trại Hoàng Diệu đã nằm xuống, mà tôi vẫn còn đây. Họ nằm xuống, xanh cỏ...để tôi được Đỏ Ngực. Đỏ Ngực vì Huy Chương đầy ngực hay đỏ ngực vì tim tôi rỉ máu. Bao nhiêu tháng năm qua, mỗi khi nhớ đến Họ.

                  Thượng Sĩ, Trung Sĩ Nhất, Trung Sĩ, Hạ Sĩ Nhất, Hạ Sĩ... Họ là những quân nhân ưu tú nhất của QLVNCH, Họ là những bậc thầy của tôi, hướng dẫn, chỉ bảo, trao truyền kinh nghiệm chiến trường cho tôi trong những bước chân đầu đời binh nghiệp. Có một lần đơn vị trực thăng vận vào mục tiêu Asha, Alưới. Chân chạm đất là chạm địch ngay, Hạ Sĩ Nhất tên Minh, mang máy PRC25, nắm cổ áo tôi vật ngã xuống đất và hét:

                  - ĐM! Thiếu Úy Đà Lạt gì mà ngu thấy mẹ!. Cứ la xung phong, xung phong. Ðưa ngực cho nó phạng, chết mẹ hết ráo còn lấy ai xung phong !!

                  Họ là những người lính già không bao giờ chết. Họ chỉ nhạt nhòa đâu đó, trong tim Tôi, trong óc Tôi, chung quanh Tôi, mờ mờ nhân ảnh ... Anh không chết đâu Anh, Anh chỉ vừa bỏ cuộc hôm qua… Hôm nay còn lại gì? Có còn chăng chỉ còn tình Huynh Đệ mong manh như những hạt mưa bong bong. Dễ kết dễ ly. Dễ hợp dễ tan. Cố gìn giữ được cái gì hay cái đó, ngày nào hay ngày đó. "Quân Tử Chi Giao Đạm Nhược Thủy". Tình Huynh Đệ hôm nay không cần vồn vập sôi nỗi, mà cần lắng kết vào bên trong, thông cảm tha thứ cầu mong điều lành cho nhau, sẵn sàng cứu giúp dù phải phá chấp hy sinh, không ra ngoài mục đích hài hòa những mối tương giao tình tự "Một ngày Lính là một đời Lính" Mũ Đỏ, Mũ Xanh, Mũ Nâu, Mũ Đen, Mũ Vàng, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Dân Vệ, Võ Trang Tuyên Truyền... cũng giống như nhau, cũng cùng phơi thây nơi chiến địa dưới họng súng xâm lăng của quân thù không còn nhân tính. Nhưng tiếc thay hôm nay có những Huynh Huynh Tỷ Tỷ quên lãng đi, hay cố tình quên lãng đi: "Nhất Tướng Công Thành Vạn Cốt Khô”.

                  Họ quên đi thời thế thế thời đã đổi thay. Họ vẫn xênh xang áo mão hoàng triều, huy chương đầy ngực, lon lá lé l ói xum xoe trong những lễ hội hoa đăng. Nhưng Họ có bao giờ nghĩ rằng bao nhiêu linh hồn uổng tử đang ở bên cạnh Họ và nguyền rủa Họ.

                  Có những kẻ lúc nào cũng xum xoe khúm núm Đệ Đệ Muội Muội để trở thành "Thời Lai Đồ Điếu Thành Công Vị ". Dậu đổ bìm leo. Họ leo lên những bậc thang Danh Vị của Họ giống như những Công Công của thời vua chúa quân chủ đời nhà Tống, nhà Minh bên Tàu. Họ đạp thẳng chân, thẳng tay, vào mặt những người đàn anh của Họ, mà đáng lý ra Họ phải tôn kính và nhớ ơn.

                  Ngày nay, trong một cuộc sống quá xô bồ, hối hả, căng thẳng với gia tốc của nhu cầu vật chất, tôi được quyền có những giây im lặng, trầm tĩnh trong cuộc sống hằng ngày, để tự lắng vào bên trong, để có dịp gặp lại những hình ảnh thân thương của đồng đội, trên chiếc tàu há mồm xuôi Nam để từ mũ Xanh thành mũ Đỏ. Màu gì cũng là màu, nhưng màu máu của con người không ai thay được.

                  ĐĐ5/81 BCD và ĐĐ2 Trinh Sát ND, chỉ là một.

                  Trương Út tức Út Bạch Lan
                  (Khoá 22/TVBQGVB)

                  nguồn:
                  https://www.facebook.com/groups/1051...2697938768309/

                  Comment


                  • Cái Chết Hào Hùng Ở Giờ Thứ 25

                    Cái Chết Hào Hùng Ở Giờ Thứ 25
                    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, SĐ 9 BB QL/VNCH

                    “Anh bỏ trường xưa, bỏ áo thư sinh, theo tiếng gọi lên đường
                    Anh đi vì đất nước khổ đau, anh đi … anh quên thân mình….”
                    (Nhạc phẩm “Cho người vào cuộc chiến”, nhạc sĩ Phan Trần)



                    Từ xưa tới nay, khi nói về một chiến công, khi ca tụng một anh hùng, người ta thường có thói quen nhắc nhở đến những vị tướng tá trong quân đội hoặc những người có tiếng tăm trong xã hội mà nhiều người biết đến, chứ ít ai nhắc nhở hay đi tìm hiểu những hành động anh hùng của những con người, mà tên tuổi của họ còn xa lạ với mọi người… mà thực ra, nếu chúng ta đem những hành động dũng cảm của họ ra so sánh, chưa hẳn ai đã hơn ai. Tôi cho đây là một sự thiếu sót lớn lao của những người cầm bút, của những nhà viết sử trong thời gian qua.

                    Nếu viết về những hành động dũng cảm, gương hy sinh của những chiến sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà (QL/VNCH) suốt 20 năm cầm súng chiến đấu để ngăn chặn làn sóng xâm lăng của bọn Cộng Sản phương Bắc, thì không phải chỉ có những sự hy sinh của cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí, Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại Tá Nguyễn Đình Bảo, Trung Tá Phạm Phú Quốc… mà theo tôi, sự hy sinh của những vị tướng, tá trên đây cũng không khác gì những hành động và sự hy sinh đầy quả cảm của trên nửa triệu chiến sĩ QL/VNCH khác đã nằm xuống trên khắp chiến trường từ miền Nam ra đến miền địa đầu giới tuyến trong suốt 20 năm chiến đấu chống giặc vừa qua.

                    Cũng như tất cả mọi người, tôi khâm phục những hành động gan dạ, dũng cảm và ca tụng những chiến công hiển hách của những anh hùng đó, dù biết trước khi bước vào cuộc chiến sẽ gặp biết bao hiểm nguy, có thể hy sinh tính mạng. Thế nhưng, họ vẫn hăng hái vào cuộc, chấp nhận những rủi may và thua thiệt cho mình không ngoài mục đích cao cả: Ngăn chặn làn sóng xâm lăng của Cộng Sản, bảo vệ sự Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do cho toàn dân.

                    Chiến tranh là những bất trắc, hiểm nguy luôn luôn rình rập vây quanh. Người chiến sĩ đã chấp nhận vào cuộc là đã chấp nhận đoạn kết của những sự rủi may xảy đến cho bản thân mình bất cứ lúc nào. Hành động lao lên phía trước trong lưới đạn của quân thù của người binh nhì bộ binh cũng có giá trị tương đương như hành động phác họa kế hoạch hành quân và thị sát mặt trận để chỉ huy của một ông tướng. Hai nhiệm vụ tuy khác nhau, nhưng đều có chung một mục đích: tìm và diệt quân thù!. Quân đội rất cần những cấp chỉ huy giỏi và cũng không thể thiếu những anh chiến sĩ gan dạ, kiên cường.

                    ***

                    Nhân tưởng niệm 30 năm mất nước 1975-2005, tôi xin được kể về cái chết của một người lính chiến, một cái chết hào hùng ở vào giờ thứ 25…

                    ...Là người quân nhân, trong cuộc đời lính chiến của mình, ai không một lần được chứng kiến những chiến công hiển hách của đơn vị hoặc một sự hy sinh anh dũng của đồng đội mình. Bởi vậy, suốt hơn 5 năm sống trong quân ngũ, tôi đã được chứng kiến khá nhiều gương hy sinh của cấp chỉ huy, bạn bè và những thuộc cấp của mình. Nhưng có lẽ ấn tượng sâu sắc nhất vẫn mãi mãi in đậm trong tâm hồn tôi cho đến bây giờ, chính là cái chết của Thượng Sĩ Ánh, người trung đội trưởng trẻ tuổi và tài năng của Đại Đội tôi…


                    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi, Trung Đội trưởng Trung Đội 2, Đại Đội 4, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9 Bộ Binh có lẽ là một Thượng Sĩ trẻ nhất của QL/VNCH.

                    Gặp và biết được Ánh, khi tôi được thuyên chuyển về Tiểu Đoàn 3/15, và được Tiểu Đoàn đưa xuống làm đại đội trưởng Đại Đội 4, thay thế cho vị ĐĐT tiền nhiệm vừa thuyên chuyển nhận công tác khác.

                    Cũng như các đơn vị trưởng khác, trước khi tiếp xúc với anh em binh sĩ trong đại đội, tôi cho mời tất cả các cấp chỉ huy từ Tiểu Đội trưởng trở lên, để làm quen và tìm hiểu tâm tình của anh em binh sĩ trong đại đội. Ấn tượng in đậm trong tâm hồn tôi mạnh nhất là hình ảnh một anh lính rất sữa: nhỏ con, dáng dấp trắng trẻo như một thư sinh, rụt rè, bẽn lẽn khi phải tự giới thiệu về mình: E…m, em Trung Sĩ Nhất Nguyễn Ngọc Ánh, số quân…

                    Trong lúc cậu ta đang tự giới thiệu về mình, Thiếu Úy Quang (ĐĐ phó) nói nhỏ vào tai tôi:

                    - Nó thì lúc nào cũng như con gái vậy, nhưng trung úy coi chừng lầm chết… mỗi lần đụng địch là tự nhiên nó lì lợm và dữ như cọp vậy.

                    Từ ấn tượng ban đầu tốt đẹp đó, dần dần tình cảm tôi dành cho Ánh không còn đơn thuần là tình cảm của một cấp chỉ huy đối với một thuộc cấp, mà tôi coi nó như một người em ruột của mình. Ngược lại, Ánh cũng rất qúi trọng và không hề giấu diếm tôi điều gì về cuộc đời và gia đình Ánh:

                    - Trung úy biết không?…

                    Tôi ngắt ngang:

                    - Lại Trung úy, em quên những điều anh dặn rồi à?

                    - Dạ, em nớ, nhưng tại em quen miệng… Thưa anh, ba em bị Việt Cộng giết chết (vì ông là Phó Xã trưởng An Ninh) lúc em mới 16 tuổi, mỗi lần nghĩ đến cái chết của ổng là em không sao học được nữa. Anh biết không, bọn nó tàn ác lắm, nó đập đầu ổng chết rồi còn tàn nhẫn moi óc ra ngoài… Sau khi chôn cất ba em xong, em đã tình nguyện nhập ngũ 3 lần, nhưng không ai nhận em cả vì họ cho rằng em còn quá nhỏ, và họ khuyên em lên về nhà tiếp tục đi học. Đằng đẳng 2 năm, nói là đi học chứ thật ra đầu óc em lúc nào cũng chỉ ẩn hiện những hình ảnh về cái chết thương tâm của người cha, và những căm thù món nợ máu phải trả cho ông già. 18 tuổi, em tình nguyện ngay vào sư đoàn 9, và được cho đi học khóa Hạ Sĩ Quan tại TTHL/Đồng Đế Nha Trang. Ra trường em may mắn được đổi về Tiểu đoàn này cho đến ngày nay…

                    Ánh không kể về những chiến công của mình, về sự gan dạ và cái lon Trung Sĩ Nhất đặc cách được gắn tại mặt trận của mình, chỉ sau một năm có mặt tại đơn vị. Càng gần gũi Ánh, càng chứng kiến sự gan dạ, khôn ngoan và tài lãnh đạo chỉ huy của Ánh, tôi càng khâm phục và thương nó nhiều hơn. Có nhiều lúc, chứng kiến những hành động quá hăng say của Ánh trong chiến đấu, tôi đã phải kêu máy dzũa cậu ta một cách thậm tệ. Cũng vì cậu ta vì quá hăng say chiến đấu, đôi lúc đã quên mình là cấp chỉ huy, lao lên tuyến đầu làm nhiệm vụ của một người lính khinh binh. Bất luận lúc nào, khi nghe tiếng súng nổ là cậu ta như con hổ dữ lao lên phía trước với hai trái lựu đạn trong tay, nhào vào những dãy hố phòng thủ của địch, mặc cho lưới đạn đan kín tứ bề. Chỉ tội cho cậu hiệu thính viên, vừa phải khó nhọc bám theo Ánh truyền và nhận lệnh, vừa phải nghe những lời la hét giận dữ của tôi… và lần nào cũng như lần ấy, điệp khúc: Xin Alfa thông cảm, em thấy mục tiêu ngon quá, phải tấn công nhanh mới kịp…


                    Có một điều khá lạ lùng là, như có một phép mầu nào đó che chở: chẳng có một viên đạn nào thèm đụng đến cậu ta. Và một lần nữa, TSI Nguyễn Ngọc Ánh nhận cấp Thượng Sĩ đặc cách tại mặt trận sau một trận đánh giải tỏa tỉnh lộ từ quận Cai Lậy (Định Tường) vào tỉnh Kiến Tường, với thành tích: Tiêu diệt trọn vẹn một trung đội súng nặng của Việt Cộng. Tịch thu hàng chục cây súng, trong đó có 1 súng cối 82 ly, 1 Đại liên 12 ly 8, 2 B40… trong lúc cậu ta vừa tròn 21 tuổi.

                    Khi tiếng súng đã im bặt, Ánh lại trở về thế giới rụt rè, e lệ cố hữu. Nếu ai chưa từng chứng kiến những hành động gan dạ và dũng cảm của Ánh ngoài mặt trận, khó có ai lại tin được rằng cậu bé với dáng dấp thư sinh đó, lại là một cấp chỉ huy khôn ngoan, dạn dày kinh nghiệm, đã gây ra không biết bao nhiêu thiệt hại đáng kể cho bọn Cộng Sản xâm lăng…

                    Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh, 21 tuổi đời, còn quá trẻ và cấp bậc thì quá nhỏ nhoi trong quân đội. Thế nhưng, anh có đủ tư cách, phẩm chất của một người lính chân chính. Hành động của anh thật xứng đáng là hành động của một anh hùng: Anh đã dùng súng tự kết liễu đời mình, sau khi nhận được lệnh tùy nghi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, do tôi ban lại. Anh đã hành xử đúng phẩm cách của một cấp chỉ huy: thà tự xử mình, chứ không để kẻ thù xử mình.

                    Tiếng súng tuẫn tiết lúc 10 giờ 25 phút, ngày 1/5/1975 tại phi trường Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường của Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã để lại ấn tượng không phai trong tâm hồn tôi, và là bài học nhắc tôi luôn nhớ: là chiến sĩ QL/VNCH, tôi phải luôn luôn sống xứng đáng với tâm niệm Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm.

                    Người chiến sĩ anh hùng Thượng Sĩ Nguyễn Ngọc Ánh đã oai dũng và hiên ngang ra đi không một lời giã biệt, không có lá Quốc Kỳ VNCH phủ ấm thân Anh, nhưng tấm gương hy sinh cao cả của Anh vẫn còn mãi lưu danh cho hậu thế nối tiếp.


                    https://www.facebook.com/groups/1051...1988754172561/

                    Comment


                    • Cố Trung Tá Trương Thành Tâm & Trực Thăng Võ Trang - Không Lực VNCH

                      Trực Thăng Võ Trang - Không Lực VNCH
                      KQ Trung Tá Trương Thành Tâm


                      cố Trung Tá Trương Thành Tâm

                      KQ Trương Thành Tâm là một Trung tá trong Không Lực VNCH, xuất thân Khóa 16 TVBQGVN, Phi đoàn trưởng PĐ Thần Điểu 217 (1969-1973), Không đoàn trưởng KĐ64CT (1973-1975) tại SĐ4KQ (Vùng 4 Chiến Thuật).

                      Từ một sĩ quan xuất thân từ Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (TVBQGVN) vào năm 1962 nhưng lại được chọn phục vụ cho KQVN từ ngày mãn khóa, tôi rất lấy làm hãnh diện được phục vụ trong ngành Phi Hành. Nhưng tôi đã rất thất vọng sau khi về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và được lệnh phải đi Hoa Kỳ ngay để học bay trực thăng. Vào năm 1963, trực thăng đang còn là một ngành bay còn sơ khai mà mộng tôi là được bay khu trục chiến đấu. Tuy nhiên tôi nghĩ số trời đã định, mình không thay đổi được. Giấc mơ của tôi tình nguyện vào TVBQGVN, làm một người sĩ quan hiện dịch với lý tưởng chống Cộng, gìn giữ cho miền Nam này không rơi vào tay Cộng Sản độc tài và luôn bip bợm người dân và quốc tế, đã bị giao động mạnh.

                      Vào năm 1963, trực thăng đang còn là một ngành bay còn sơ khai mà mộng tôi là được bay khu trục chiến đấu. Tuy nhiên tôi nghĩ số trời đã định, mình không thay đổi được. Giấc mơ của tôi tình nguyện vào TVBQGVN, làm một người sĩ quan hiện dịch với lý tưởng chống Cộng, gìn giữ cho miền Nam này không rơi vào tay Cộng Sản độc tài và luôn bip bợm người dân và quốc tế, đã bị giao động mạnh. Nhưng rồi trực thăng đã trở thành một loại phi cơ chiến đấu sát liền với quân bạn trong cuộc chiến, một khí cụ cần thiết và hiệu quả cho cuộc chiến với Cộng Sản sau những năm 1964 Ngoài những phi vụ quen thuộc như bay liên lạc, tải thương, tiếp tế, đổ quân ,v.v… thì năm 1970 đã đưa trực thăng lên một nấc thang quan trọng vô cùng cho Không Lực Việt Nam Cộng Hòa (KLVNCH) với những chiếc Trực Thăng Võ Trang (TTVT).


                      Hình minh họa

                      Phi vụ TTVT đầu tiên của KLVNCH được thực hiện tại Prey Veng (5.1970), trong cuộc chiến xâm nhập Kampuchea (K) để diệt trừ quân CS vẫn lẩn trốn về bên quốc gia này một cách an toàn bao lâu nay dưới sự làm ngơ của Sihanouk, quốc trưởng nước Kampuchea lúc bấy giờ. Cuộc đảo chánh của tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk ngày 18 tháng 3, 1970, đã cho phép quân đội chúng ta truy nã quân Cộng Sản (CS) qua tận vùng an toàn bên Cao Miên của chúng. Đây là diễn tiến của một phi vụ ra quân với TTVT của KLVNCH lần đầu tiên đã làm cho quân CS thất bại não nề, thiệt hại quân số nhiều vì bị hoàn toàn bất ngờ. Một Hợp Đoàn Trực Thăng vẫn thường gồm có một phi cơ bay chỉ huy (C&C), khoảng 6 trực thăng đổ quân (slicks) và 3 chiếc trực thăng võ trang (TTVT) để yểm trợ hỏa lực cho quân bạn. Cho đến ngày 28 tháng 5, 1970, TTVT yểm trợ luôn luôn là từ quân đội Mỹ

                      Những cuộc chiến vào K thì không được TTVT Mỹ yểm trợ vì TT Nixon lúc bấy giờ, chỉ cho quân Mỹ yểm trợ không được quá 7 km vào nội địa K. Prey Veng, thành phố K này nằm quá tầm bay 7 cây số nên quân Mỹ không thể yểm trợ bằng TTVT hay khu trục cho quân lực VNCH. Ngày 28 tháng 5, 1970, Phi Đoàn 217 được lệnh trình diện tại Neak Leung bên K để trực thăng vận quân Thủy Quân Lục chiến của Quân Lực VNCH giúp quân đội Miên giải cứu Prey Veng. Tôi bay C&C và với các sĩ quan chỉ huy của Lữ Đoàn B TQLC do Đại Tá TQLC Tôn Thất Soạn làm lữ đoàn trưởng. Vì không có TTVT yểm trợ nên để tránh tổn thất cho hợp đoàn, tôi đã không cho đổ quân gần sát thành phố được. Tiểu Đoàn 1 TQLC đã tiến quân vào rất nhanh dưới làn mưa đạn của quân CS đang chiếm các cao độ trong thành phố.


                      Hình minh họa

                      Vì là mùa khô nên các đồng ruộng là bãi đáp cũng rất khô và trống nên các anh em TQLC của chúng ta đã phải tiến vào thành phố dưới lợi thế của địch quân đang chiếm các địa thể có cao độ hơn. Sự thiệt hại của quân bạn thật rõ rệt&cuộc đổ quân chấm dứt sau khi TD 1 TQLC đã hoàn thành nhiệm vụ xuống bãi đáp và tiến quân vào Prey Veng. KLVNCH đã yểm trợ chiến trường bằng các đội khu trục A-37 của Sư Đoàn 4 KQ… Qua liên lạc vô tuyến, quân bạn TQLC đã xin yểm trợ TTVT để tránh bớt thiệt hại cho quân lính. Chiều lại, sau khi hướng dẫn hợp đoàn đổ quân PĐ 217 về lại hậu cứ Bình Thủy an toàn, tôi đã có thời giờ để suy nghĩ rất nhiều làm sao để tránh bớt thiệt hại cho quân bạn TQLC của chúng ta trong ngày mai khi phải đổ thêm Tiểu Đoàn 4 TQLC vào chiến trường nối tiếp với Tiểu Đoàn 1 ngày hôm nay.

                      Trên đường bay về hậu cứ, tôi giao phi cơ cho hoa tiêu phó Trung Úy Cao Minh Hoàng và ngồi suy nghĩ phải có giải pháp để TTVT có thể yểm trợ Tiểu Đoàn 4 TQLC trong ngày mai thì mới giảm thiểu được thiệt hại nhân sự cho quân bạn… Đêm 28 tháng 5, 1970, tôi tìm ra được giải pháp. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN, Hoa Kỳ mới bằng lòng cung cấp cho KLVNCH, TTVT cho chiến trường. Họ bắt đầu bằng cách đưa một nhóm huấn luyện viên TTVT với 6 phi cơ và chọn căn cứ KQ Bình Thủy làm nơi huấn luyện TTVT cho tất cả các Phi Đoàn Trực Thăng từ Vùng 1 đến vùng 4 Chiến Thuật. Phi đoàn 211 và 217 được chọn để học khóa huấn luyện đầu tiên về TTVT.


                      Hình minh họa

                      Tôi đã họp PĐ 217 và nói rằng: “Bao nhiêu lâu nay hành quân chúng ta đã là những miếng mồi ngon, bay chậm và thấp, không có hỏa lực mạnh. Nhưng tình thế này đã thay đổi, chúng ta có một cơ hội để bay TTVT với hỏa lực hùng hậu đề yểm trợ quân bạn và tiêu diệt địch quân trước khi mình bị bắn…” Anh em phi đoàn đồng ý và đã tình nguyện cùng tôi học lớp huấn luyện đầu tiên bay TTVT vào tháng 3, 1970. Sau khi mãn khóa học, PĐ 217 đã có 6 phi hành đoàn đầy đủ khả năng để bay TTVT trên chiến trường, yểm trợ cho hợp đoàn đổ quân và quân bạn. Tôi xin được gặp Đại Tá Nguyễn Huy Ánh là không đoàn trưởng Không Đoàn 74 Chiến Thuật, cấp chỉ huy trực tiếp của tôi. Tôi trình bày tình hình chiến trường tại Prey Veng ngày hôm nay và cho đại tá biết là quân bạn và có thể cả phi hành đoàn sẽ phải hy sinh rất nhiều ngày mai khi đổ quân mà không có TTVT yểm trợ.

                      Vậy tôi xin đại tá cho tạm ngưng chương trình huấn luyện TTVT trong một ngày để PD 217 được bay những chiếc trực thăng võ trang yểm trợ cho cuộc đổ quân TD4 TQLC ngày mai. Đại Tá Ánh nói: “Anh đòi hỏi tôi làm một quyết định ngoài thẩm quyền của tôi, để tôi gọi lên trung tướng tư lệnh Không Quân xin chấp thuận phi vụ này.” Trung tướng tư lệnh chấp thuận phi vụ TTVT đầu tiên của KLVNCH này. Về lại phi đoàn tối hôm 28 tháng 5, 1970, tôi lại họp trọn vẹn PĐ 217 và nói rằng: “Ngày mai chúng ta sẽ có cơ hội bay TTVT yểm trợ cho quân bạn lần đầu tiên trong lịch sử của KQVN, tôi sẽ tình nguyện bay chiếc số 1, có ai tình nguyện bay chiếc số 2 và số 3 không?” Sự đáp ứng của phi đoàn đã ngoài sức tưởng tượng của tôi. Ai cũng nhìn thấy sự thiệt hại của quân bạn hôm nay và đều muốn hy sinh bay TTVT ngày mai.


                      Hình minh họa

                      Tôi chọn 3 phi hành đoàn ngay tối hôm đó. Chiếc TTVT số 1 đó tôi làm trưởng phi cơ, số 2 là Thiếu Tá Dương Quang Lễ, bạn đồng khóa 16 với tôi, số 3 là Đại Úy Nguyễn Thanh Hải. Sáng hôm sau, ngày 29 tháng 5, 1970 PĐ 217 xin tình nguyện bay yểm trợ cuộc chiến ở Prey Veng. Hợp đoàn Phi Đoàn 217 Thần Điểu cất cánh với chiếc C&C, 6 trực thăng đổ quân và 3 TTVT. Lần đầu tiên trong cuộc chiến VN các trực thăng đổ quân của PD217 được yểm trợ bằng chính hỏa lực từ TTVT của đơn vị mình. Lúc cả hợp đoàn bay qua biên giới vào nước Miên, tôi cảm thấy một niềm hãnh diện lớn lao cho lực lượng trực thăng của KLVNCH.

                      Hợp Đoàn Thần Điểu đến trình diện Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Đại Tá Tôn Thất Soạn, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn B TQLC tại Neak Leung và được lệnh bốc Tiểu Đoàn 4 TQLC từ Neak Leung đổ vào Prey Veng tiếp nối với Tiểu Đoàn 1 quyết lấy lại thành phố Prey Veng cho Quân Đội Miên từ tay quân Cộng Sản Bắc Việt. Vì có TTVT yểm trợ bằng hỏa tiễn và súng mini-gun bắn ra hàng ngàn viên đạn trong một phút, nên trực thăng đổ quân bạn vào sát gần thành phố hơn, tránh thiệt hại cho quân bạn TQLC rất nhiều…

                      Sau khi toàn thể Tiểu Đoàn 4 TQLC đã xuống bãi đáp và tiến lên như vũ bão, thì tôi hướng dẫn chiếc số 2 TTVT tiếp tục yểm trợ quân bạn. Qua vô tuyến, các anh em TQLC cho chúng tôi biết quân Cộng Sản leo lên những cây xoài trong thành phố, lên hồ nước cao (chateau d’eau) (toàn những điểm có cao độ) để bắn sẻ các chiến binh TQLC từ ruộng khô và trống tiến vào thành phố. Được chỉ điểm rõ rệt như vậy, hai TTVT của tôi và Lễ đã bắn vào những mục tiêu quân Cộng Sản này và họ đã chết rớt từ trên cây xuống như sung rụng… Quân bạn thì reo mừng khi thấy như vậy nhưng mấy anh lính Bắc Việt thì không biết nghĩ sao??? Quân CS bắt đầu cảm thấy thất trận trước sự tấn công anh dũng của TQLC, họ từ từ rút ra khỏi thành phố theo quốc lộ và kéo theo những người dân Miên trong thành phố để làm bia đỡ đạn cho họ.


                      Hình minh họa

                      Tôi và Lễ lại tiếp tục bay theo truy nã và bắn chết những anh chàng VC còn ngơ ngác không ngờ quân đội chúng ta đã được trang bị đầy đủ hỏa lực như vậy. Quân VC chết và để lại xác rất nhiều trước hỏa lực của TTVT… Trong khi hăng say yểm trợ thì chiếc TTVT số 2 của Lễ đã bị trúng đạn, Lễ bị thương nhẹ nhưng anh xạ thủ phi hành Hạ Sĩ Hứa Văn Bá đã bị trúng đạn hư bàn tay. Tôi liền hướng dẫn Thiếu Tá Lễ bay ra khu trống và bay về Neak Leung. Chiếc TTVT số 3 của Đại Úy Nguyễn Thanh Hải lên thay thế. Chúng tôi lại tiếp tục yểm trợ quân bạn dưới đất và truy lùng những chàng VC đang chạy trốn rút lui khỏi thành phố. Ngay chiều hôm đó, thành phố Prey Veng đã được lấy lại từ tay quân CSBV nhờ 2 Tiểu Đoàn TQLC và Phi Đoàn Thần Điểu 217.

                      Cũng cần nói thêm là một tài liệu của Mỹ cho biết Prey Veng được quân Nam Vang phối hợp với quân Mỹ tái chiếm ngày 15 tháng 7. Tài liệu này không đúng sự thật, vì trận này chỉ có quân VNCH tham dự và hợp tác với quân của Nam Vang tái chiếm Prey Veng ngày 28 tháng 5, 1970. Cả hợp đoàn trực thăng vận của Phi Đoàn 217 Thần Điểu được lệnh bay trở về lại phi trường Bình Thủy để chuẩn bị cho một ngày hành quân kế tiếp. Riêng tôi, trên đường bay, tôi lại có thời giờ suy nghĩ trận chiến vừa qua. Nhìn thấy hỏa lực của những chiếc trực thăng võ trang của Phi Đoàn đã tác xạ hùng dũng và yểm trợ quân bạn kết quả vô cùng nên tôi bắt đầu nghĩ phải đặt tên cho Phi Đội TTVT của Phi Đoàn là Hỏa Điểu, người con hùng dũng của đơn vị Mẹ là Thần Điểu. Phi đội TTVT “Hỏa Điểu” đã tiêu diệt bao nhiêu quân Cộng Sản ở miền Tây nước Việt và làm vẻ vang cho KLVNCH.

                      Sau chiến thắng này, Đại Tá Nguyễn Huy Ánh đã gắn huy chương Anh Dũng Bội Tinh với nhành Dương Liễu tuyên dương công trạng của Phi Đoàn Thần Điểu 217 trước quân đội. Riêng tôi một năm sau đó đã được chọn làm Chiến Sĩ Xuất Sắc Nhất của Không Quân trong mặt trận Kampuchea và được tưởng thưởng đi Đài Loan một tuần để thăm viếng và “bồi dưỡng.”


                      cố Trung Tá Trương Thành Tâm

                      Tôi đã rất hãnh diện được đóng góp vào cho Quân Lực VNCH với Phi Đoàn Thần Điểu 217 chống lại sự xâm lăng của quân CSBV. Rất tiếc là khi “Đồng Minh Tháo Chạy” thì quân lực của chúng ta bị trói tay lại vì không còn đủ súng đạn để chiến đấu. Tôi vẫn xem chuyện mất nước của chúng ta là một quốc nạn vì số Trời đã định.

                      KQ Trung Tá Trương Thành Tâm
                      Last edited by khongquan2; 08-17-2018, 01:33 AM.

                      Comment


                      • Trung Tướng Dương Văn Đức

                        Trung Tướng Dương Văn Đức Chọc Tức Cộng Sản
                        Trong Tù Cải Tạo

                        (Câu chuyện hơi tục nhưng khá hài hước)



                        Cũng nằm chung trại với chúng tôi, có nhiều Tướng Lãnh VNCH lắm. Có những vị Tướng lúc nào cũng giữ tư cách Tướng, anh em rất nể phục. Nhưng cũng có những Tướng Lãnh rất là nhàm chán. Tướng Đức là một trong ba Tướng . . . mồ côi, tức là không có thân nhân thăm viếng (Hai vị Tướng kia là Tướng Lam Sơn - Phan Đình Thứ và Tướng Hồ Trung Hậu).

                        Từ khi còn ở ngoài đời, sau vụ đảo chánh TT Diệm, sau vụ các Tướng Lãnh chỉnh lý lẫn nhau, Tướng Đức đã được coi như là một Tướng.. mát giây (điên). Chính tôi đã mục kích một lần, ông đứng ở góc đường Hồng Thập Tự và Thống Nhất, ngay góc Dinh Độc Lập, mà chửi bới Tướng Thiệu. Tuy nhiên, ông chửi bằng tiếng Pháp, nên tôi không rõ ông chửi những gì?

                        Trong một buổi sinh hoạt đặc biệt của trại tù, để kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, một Đại Tá Việt Cộng, tên là Cao Nham, đã được Bộ Nội Vụ của chúng chỉ định đến trại để nói chuyện với các trại viên về chiến thắng này.

                        Từ sáng sớm, anh em đã phải thức dậy lo quét dọn, xếp ghế ngồi để chờ tên cán ngố này đến. Cũng như thường lệ, anh em chúng tôi, dù là ở trong trại tù, vẫn giữ quân phong quân kỷ của riêng mình, nên các Tướng Lãnh được xếp ngồi trước, rồi mới tới hàng Tá, Úy...

                        Tên Nham (nhở) nói chuyện vung cán cuốc, văng nước miếng tùm lum, ba hoa về cái mà chúng gọi là chiến thắng ĐBP. Nham vung tay la hét:

                        Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh.

                        Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng to lớn của đảng cộng sản việt nam.

                        Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp.

                        Trong khi hoa chân múa tay, y để ý thấy Tướng Đức có cuốn sổ tay, đã lúi húi ghi chép những lời nói của y. Y thấy vậy lại càng sung sướng, nghĩ bụng:

                        “Tên Tướng này . . . học tập tốt, nó phục tài ăn nói của mình nên mới ghi chép kỹ lưỡng như vậy, chứ thường thì mấy thằng tù cải tạo đâu có thèm để ý gì tới những lời nói của mình!”

                        Vì thế, thay vì nói có hai tiếng, tên này hăng tiết chó mà nói thêm cả tiếng đồng hồ nữa.

                        Khi nói xong, y theo thông lệ là tự vỗ tay khen thưởng một mình, rồi trịnh trọng hỏi các anh em Cải Tạo:

                        “Các anh ngồi hàng đầu, chắc là cấp bậc “Tướng”, phải không?

                        Khi được xác nhận như vậy, hắn vừa nói vừa chỉ tay vào Tướng Đức:

                        “Tôi thấy có anh gì đây này, học tập tốt lắm, ghi chép cẩn thận! Có vậy mới mong được chóng về với gia đình chứ! Anh tên là gì nhỉ?

                        Tướng Đức vẫn ngồi, trả lời lên:

                        “Tôi tên Đức”

                        Tên Nham hăng hái:

                        “Anh đã ghi được những gì trong bài nói chuyện của tôi? Anh có thể đọc lại cho tất cả hội trường cùng nghe được hay không?”

                        “Ấy, không được đâu! Tôi ghi chỉ cho một mình tôi thôi! Để tôi hiểu một mình tôi thôi, không ai được biết đâu!”

                        Nham nghĩ rằng, Tướng Đức còn khiêm nhường, nên thúc dục:

                        “Anh cứ việc đọc cho mọi người cùng nghe đi! Nếu có thiếu sót gì thì tôi bổ túc thêm cho anh, có gì đâu mà phải ngại ngùng! Đảng và nhà nước biết các anh chưa thấu triệt được những cái ưu việt của xã hội chủ nghĩa, nên không bắt lỗi gì đâu! Vì thế các anh mới phải học tập, chứ nếu các anh đã quán triệt rồi, đâu cần gì nữa! Cứ đọc cho mọi người nghe đi, tôi bảo đảm, không làm phiền gì anh đâu!

                        Tướng Đức nhắc lại:

                        “Tôi đã nói tôi viết thì chỉ có một mình tôi hiểu, một mình tôi đọc mà thôi! Tôi sợ đọc lên, mỗi người lại một ý kiến, phiền lắm! Thôi, cán bộ cho tôi miễn đi!

                        Tên Nham đang ở lúc cao hứng, đâu dễ gì buông tha:

                        “Thôi, nếu anh không muốn đọc, cứ đưa đây cho tôi vậy! Tôi sẽ xem qua và đọc lại cho mọi người nghe để cùng hiểu cho rõ!

                        Tướng Đức nói lần cuối:

                        “Được, tôi đồng ý đưa cho cán bộ xem. Nhưng tôi nói trước, đây là ý kiến riêng của tôi đó nha! Người khác muốn đọc, ráng mà hiểu, ráng mà chịu, đừng có đổ thừa tui”


                        Một tên quản giáo vội vàng chạy lại nhận cuốn sổ tay của Tướng Đức, khúm núm đưa lên cho tên Nham. Tên này hớn hở tiếp lấy, sửa soạn đọc những lời vàng ngọc của y mà Tướng Đức đã ghi.

                        Mọi người hồi hộp chờ đợi! Không biết Tướng Đức đã ghi những gì ở trong đó! Tên Nham vừa mới há miệng ra định đọc, thì mặt mày y đột nhiên tái xám lại!

                        Miệng y mở ra mà không đóng lại được nữa, cứ há hốc ra, khoe những cái răng đen thui bám đầy khói thuốc lào!

                        Tay y run lên, nước miếng từ trong miệng chẩy ra nhễu nhão! Mặt y đanh lại, cặp mắt quắc lên căm hờn! Y thở không ra hơi, nói không ra tiếng!

                        Cả hội trường nín thở theo y!

                        Một lúc sau, tên Nham mới bật ra được vài tiếng lắp bắp:

                        “Bắt .. Bắt.. lấy tên phản động này!

                        Bắt ngay lập tức!

                        Đánh . . . Đờ . . . Đờ . . . Đánh cho nó chết rồi đem chôn!”

                        Nó . . . Nó . . . dám hỗn láo với cách mạng! Nó dám chửi đảng cộng sản!

                        Bắt . . . Bắt! Các đồng chí đâu?

                        Bắt nó ngay lập tức cho tôi!”

                        Những tên vệ binh đứng gác chung quanh vội vàng chạy lại chỗ Tướng Đức, chĩa súng vào ông, lên đạn rốp rốp, làm như chúng bắn ông ngay lập tức.

                        Tướng Đức vẫn ngồi yên, bình tĩnh trả lời tên Nham:

                        “Đánh chết rồi . . . đem ra . . . ăn thịt thì mới đáng nói!

                        Chứ đánh chết rồi đem chôn thì có gì là lạ đâu!

                        Tôi đã nói trước cho cán bộ rồi, tôi viết thì chỉ mình tôi đọc thôi, ai muốn đọc thì nấy ráng chịu!

                        Cán bộ cứ muốn đọc thì tôi đưa! Sao cán bộ còn bắt lỗi tôi làm chi?”

                        Tên Nham lại một lần nữa phùng mang trợn mắt, lắp bắp nói chẳng nên lời!

                        Y ta cứ đứng đó, mặt mày tím bầm lại, mắt trợn trắng lên mà nhìn Tướng Đức, như muốn ăn tươi nuốt sống ông ta vậy.

                        Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, với tư cách là Trưởng Phòng tù cải tạo, đã vội vã đứng lên xin cho Tướng Đức:

                        “Xin cán bộ bỏ qua cho, không nên chấp nhất những ghi chú của anh Đức làm gì, anh bị . . . MÁT đấy mà, trong trại ai cũng biết cả!”

                        Tên Nham gằn giọng hỏi lại:

                        “Mát là cái gì?”

                        “Mát tức là . . . điên, là khùng đó mà! Hồi xưa, anh Đức đã chứi cả Tổng Thống Thiệu, Phó Tồng Thống Kỳ nữa đó! Ông Thiệu cũng đã giận dữ đòi bỏ tù anh Đức. Nhưng khi biết anh ta bị khùng, nên lại tha!

                        Xin cản bộ cứ hỏi tất cả anh em ở đây thì biết!”

                        Thế là cả trại nhao nhao lên, ai cũng nói:

                        “Anh Đức . . . Mát đấy mà, cán bộ chấp làm chi!”

                        Tên Nham thấy cả trại đồng lên tiếng, cho rằng Tướng Đức . . . khùng, không lẽ y còn chấp nhất làm chi! Một người khùng, dù có chửi đảng cộng sản, cũng không có gì đáng nói. Nếu cho Tướng Đức là tỉnh, lời ông ta chửi sẽ bay đi khắp các trại tù khác, còn nguy hiểm gấp mấy!

                        Suy tính một hồi, hắn . . . dịu giọng:

                        “Thôi, nếu các anh nói anh Đức này khùng điên, thì tôi cũng chẳng chấp nhất anh ấy làm gì! Các anh đem anh ta về trại, trị bệnh cho anh ta chóng khỏi, để mà học tập cho tốt!”

                        Rồi y chậm rãi xé nhó cuốn sổ tay của Tướng Đức đi.

                        Thế là buổi lễ kỷ niệm chiến thắng ĐBP của bọn VC bế mạc không kèn không trống!

                        Mấy ngày hôm sau, nhân một dịp đi làm lao động, vào lúc nghỉ trưa, anh em đã tụ họp chung quanh Tướng Đức để hỏi là, ông đã viết cái gì trong cuốn sổ tay, mà làm cho tên việt cộng tức giận tột cùng như vậy?

                        Tướng Đức chậm rãi trả lời:

                        Mấy em có nhớ cái thằng VC đó nó nói gì không?

                        Nó nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng thần thánh”, goa (Qua) móc sổ ra ghi:

                        “CON CẶC!”

                        Rồi đóng sổ lại.

                        Tới khi nó nói tiếp: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là một chiến thắng vĩ đại của đảng Cộng Sản VN” goa lại móc sổ ra ghi:

                        “CON CẶC!”

                        Rồi lại xếp sổ lại.

                        Rổi nó lại nói: “Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đánh nhào Đế Quốc Pháp”, goa lại móc sổ ra ghi:

                        “CON CẶC!”

                        Rồi lại đóng sổ lại.

                        Nó muốn đọc, goa đã nói trước rồi, không nên đọc, goa chỉ viết cho goa đọc mà thôi. Nhưng nó cứ muốn đọc, thì ráng mà chịu, bắt lỗi goa đâu có được!”..

                        Tất cả anh em có mặt lúc đó đều cười nghiêng cười ngửa vì những ghi chú mà Tướng Đức đã ghi trong sổ tay của ông.

                        Hèn chi khi tên Nham há miệng ra định đọc những giòng chữ này thì bị mắc quai. Hắn ta đã tức tối xám mày xám mặt lại mà không biết làm gì!

                        Cả bọn đã cười như chưa bao giờ được cười, không cần biết lúc đó đang đứng ở đâu? Và có ai rình mò gì hay không?

                        Ai cũng muốn nói ra, viết ra câu trả lời giống như Tướng Đực đã trả lởi, nhưng đã không dám nói, không dám làm.

                        Chỉ cỏ Tướng Đức mới dám nói, dám viết!

                        Một người trong bọn lại hỏi thêm:

                        Trung Tướng không sợ nó trả thù, nó . . . giết Trung Tướng hay sao?”

                        Tướng Đức đã khẳng khái trả lời, không có vẻ mát chút nào hết:

                        “SINH VI TƯỚNG, TỬ VI THẦN!

                        Khi còn sống thì goa làm Tướng, có chết đi thì goa cũng thành Thần, sợ chi cái tụi gủy (quỷ) này!”


                        Hồi còn cầm quân đánh VC, goa cứ đem quân đi gọm tụi nó lại một chỗ, rồi kêu pháo binh bắn tụi nó tan nát ra! Trận nào không gom được tụi nó, goa kéo lính về nghĩ khoẻ, chẳng chết người nào hết! Chỉ tiếc rằng hồi đó goa gom tụi nó hổng hết, để nay mới bị như dzầy! "

                        Hào hùng thay lời nói của Tướng Dương Văn Đức.

                        “ Trong chốn tù tội, có những ai dám viết ra những giòng chữ ngạo mạn, chửi bọn VC như Tướng Đức đã làm? Tính mạng đang ở trong tay bọn VC khát máu, đã có bao nhiêu người đã ngang nhiên trả lời bọn VC, như Tướng Đức đã trả lời bọn chúng?

                        Tôi nghe xong câu chuyện, cho rằng Tướng Đức xứng đáng được duyệt xét và chấp nhận là . . . “Đã phục vụ Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hoà”.

                        Tiếc rằng Tướng Đức đã không có dịp qua định cư tại Úc.

                        Bọn VC không dám giết Tướng Đức ở trại tù cải tạo, chúng đã thả ông ra và tìm cách giết ông một cách lén lút, rất là hèn hạ. Chúng đã đã cho người đi rình mò và đánh chết ông, dìm xác ông ở dưới cầu Hàng Xanh.


                        * Nguyễn Khắp Nơi :

                        Tôi viết lên đây, những gì đã được Huynh Trưởng Lê Phước Khánh (khoá 13 Thủ Đức) đã kể lại những sự việc tai nghe mắt thấy ở trại tù cải tạo Hoàng Liên Sơn, nhất là về Trung Tướng Dương Văn Đức.

                        Đã viết thì tôi bắt buộc phải viết lại y hệt những gì tôi đã nghe. Nếu không, tôi sẽ có lỗi với Huynh Trưởng Khánh.

                        Nếu không ghi lại trung thực lời nói và viết của Trung Tướng Dương Văn Đức, tôi sẽ có lỗi với ông Tướng: Vì ông ta đã dám viết và dám kể lại, mà tôi lại không dám viết đúng những gì ông đã viết và đã nói.

                        Hơn nữa, câu chuyện này chỉ có giá trị ở những chữ mà ông đã ghi trong sổ tay mà thôi. Nếu không ghi đúng, câu chuyện sẽ mất hết cả lý thú đi, sẽ không còn là câu chuyện của Tướng Đức nữa.

                        Xin quý độc giả thông cảm, đừng cho rằng tôi viết bậy!



                        https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater
                        Last edited by BachMa; 08-29-2018, 06:03 PM.

                        Comment


                        • Truyện cười người lớn

                          Khi chuyện ấy được tính bằng tiền
                          Bà vợ nói với chồng:
                          - Kể từ hôm nay, mọi việc tôi làm sẽ phải tính bằng tiền! Tôi chán làm không công lắm rồi.
                          - Cụ thể thế nào?
                          - Nấu ăn, 20 đô một bữa; giặt quần áo 30 đô một chậu; "lên giường".... 60 đô!
                          Đến tối ông chồng thì thào:
                          - Trong túi tôi chỉ còn 50 đô, bà bớt cho tôi lần này được không?
                          - Không bao giờ!
                          Hai người đi ngủ. Nửa đêm, ông chồng nghe có tiếng sột soạt, bật đèn lên thì thấy bà vợ đang lục túi xách nên hỏi:
                          - Bà tìm gì đấy?
                          - Tôi tìm 10 đô cho ông vay.



                          Dành dụm cả đời
                          Một ông 70 tuổi lấy cô vợ 25 tuổi và đi hưởng tuần trăng mật.
                          Đến ngày thứ tư, cô vợ trẻ trong rất phờ phạc vì chồng không cho rời nửa bước. Thừa lúc chồng vào nhà tắm, cô vợ lén xuống quầy cà phê của khách sạn để thư giản.
                          Chủ khách sạn hỏi:
                          - Sao? Cô thấy hạnh phúc chứ?
                          - Tôi mệt muốn chết đây! Ông ấy đã lừa tôi...
                          - ???
                          - Ông ấy nói là đã dành dụm cả mấy chục năm nay, không dám xài phung phí. Tôi cứ tưởng là ông ấy nói về chuyện tiền.



                          Tình Trong Thang Máy
                          Trong thang máy, khi ấn nút số tầng thì khuỷu tay của anh chàng nọ vô tình chạm vào “công tắc điện” của cô gái đứng bên cạnh. Anh chàng vội nói:
                          - Ối! Tôi xin lỗi cô! Nếu trái tim của cô mềm mại như bộ ngực của cô thì hy vọng cô sẽ tha thứ cho tôi.
                          Cô gái nhìn anh giây lát rồi trả lời:
                          - Nếu “cái đó” của anh cũng cứng như khuỷu tay của anh thì… tôi ở phòng số 301.


                          Last edited by BachMa; 09-05-2018, 06:27 PM.

                          Comment


                          • Đại Tá Nguyễn Viết Cần

                            Đại Tá Nguyễn Viết Cần


                            Đại Tá Nguyễn Viết Cần

                            Thiếu tá Nguyễn Viết Cần (sau là Đại tá) Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 11 Nhảy Dù. Ông là em ruột của Thiếu tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh quân khu 4 và quân đoàn 4. Ông Thanh là 1 trong 4 tướng sạch, nhất Thắng nhì Chinh tam Thanh tứ Trưởng. Năm 1969 Tiểu đoàn 11 dù được đưa về trấn tại vườn Tao Đàn, sau lưng Phủ Tổng Thống phòng VC tấn công bất ngờ kiểu 1968.

                            Ông Cần và 1 số sĩ quan ra Tour D'Ivoire (Tháp Ngà) ăn nhậu. Có 2 MP của Mỹ vào quán bắt lính Mỹ, có lẽ họ tới số chết nên thay vì đi ra vì không có GI nào ở đó mà chỉ có đám lính dù phe ta, thì họ lại tới hỏi giấy ông Cần. MP Mỹ làm như thế là trái luật, vì thế có cãi cọ qua lại, ông Cần rút súng ra bắn chết 2 MP tại chỗ*, đám MP còn ở ngoài vây Tour D'Ivoir.

                            Bằng cách nào đó có người báo cho Tiểu đoàn 11 Dù ở Tao Đàn biết! Họ mang lính dù tới giải vây cho ông Cần. Sau đó ông Cần chỉ bị kỷ luật, mất chức Tiểu đoàn trưởng dù, có lẽ nhờ thế lực của ông Thanh, thêm nữa đám vũ nữ của Tour D'Ivoire (Có lẽ được mớm lời) đã khai rất tốt cho ông Cần!

                            Năm 1970 Tướng Thanh bị tử nạn phi cơ chung với 1 Đại tá Mỹ, người ta nói Mỹ trả thù, sau này qua đây rồi tôi mới biết chuyện đó khó xảy ra vì Mỹ coi trọng sinh mạng của 1 đại tá Mỹ hơn 1 tướng nước khác. Năm 1972 ông Cần lúc đó là Trung Tá Trung Đoàn Trưởng Trung đoàn 33 Sư đoàn 21 bộ binh, được tăng viện cho mặt trận An Lộc, ông tử trận tại Xa Cam do pháo của VC, năm đó ông 40 tuổi.

                            Người ta cũng nói Mỹ trả thù, điều này có thể xảy ra vì chỉ cần tiết lộ tọa độ của bộ tư lênh tiền phương của Trung Đoàn 33 là VC có thể tập trung pháo bắn nát khu vực đó.

                            Sau này đám VC phao tin là ông Cần dành gái đấu súng với Mỹ rồi chơi gian không đúng luật... đó là chuyện nhảm và hèn hạ. Tôi quen thân với nhiều sĩ quan cao cấp của Dù như Trung Tá Bùi Quyền, Trung Tá Nguyễn Lô (ông này là dân chơi thứ thiệt đó, biệt danh Lô lọ rượu, hỏi lính dù là biết câu "Nhất Mễ nhì Lô" liền, nổi tiếng trong trận Quảng Trị mùa hè đỏ lửa, anh được nhắc tên trong cuốn sách cùng tên của Phan Nhật nam nhiều lần).

                            Đại Tá Trần Đăng Khôi Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Nhảy Dù, khi nhắc tới ông Cần tôi thấy họ đều lộ vẻ kính trọng, dù ông Cần không phải dân Võ Bị Đà Lạt. Nếu ông Cần chơi hèn thì không thể có được sự kính trọng đó.

                            * Không phải ông Cần rút súng bắn, mà hai ông Đại úy ĐĐT, đi cùng, rút súng bắn. Hai ông ĐĐT bị đi tù ở khám Chí Hòa, sau một thời gian ra SĐBB.

                            Kể lại theo lời của Vũ Cử Nhân

                            https://www.facebook.com/photo.php?f...type=3&theater

                            Comment


                            • Phi Hành Đoàn Cuối Cùng Của Không Quân VNCH Hy Sinh Cho Tổ Quốc

                              Phi Hành Đoàn Cuối Cùng Của
                              Không Quân VNCH Hy Sinh Cho Tổ Quốc

                              Lôi Bằng


                              Hình minh họa

                              Tháng Tư Đen lại đến sau 37 năm, tôi xin trích một bài từ Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIGÒN của Thành Giang nói về chuyến bay của Tinh Long 7 trong giây phút cuối cùng của cuộc chiến để tưởng nhớ đến các anh hùng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã Vị Quốc Vong Thân.

                              NGƯỜI HÙNG PHI CÔNG: TRƯỞNG PHI CƠ TRANG VĂN THÀNH VÀ BẢY DŨNG SĨ KHÔNG QUÂN

                              Phi công, trưởng phi cơ, trung úy Trang Văn Thành sinh ngày 16/9/1947 tại Rạch Gía, tình Kiên Giang. Mồ côi cha năm lên 9 tuổi. Cha của Thành là ông Trang văn Cánh, một nhân viên làm việc cho Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Tàu “bobo”của ông đã bị Việt cộng phục kích và tấn công. Ông Cảnh bị trọng thương rơi xuống sông, ông cố bơi vào bờ nhưng đã qua đời vì vết thương trầm trọng.

                              Cậu bé mồ côi cha Trang Văn Thành được mẹ gửi vào trường để theo học Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu, Việt Nam. Trường luyện thép Thiếu Sinh Quân này đã trui luyện một Trang Văn Thành dũng cảm trong chiến tranh, có tinh thần chống cộng cao độ, quyết chiến đấu và đã tử trận cùng phi hành đoàn dũng cảm AC119K của ông, trong ngày Sàigòn thất thủ 29 tháng tư năm 1975.

                              Trang Văn Thành gia nhập Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Hòa năm 1968, ngành phi công. Ông du học Hoa Kỳ năm 1969 và trở về Việt Nam giữa năm 1970. Ông đã phục vụ cho phi hành Xích Long 413, vận tải cơ C119, loại phi cơ chuyên chở hành khách và hàng hóa với tư cách hoa tiêu phụ. Một năm sau, ông được thụ huấn hoa tiêu chánh và rổi trở thành trưởng phi cơ AC119K của phi hành đoàn Vận tải cơ Chiến đấu Tân lập Tỉnh Long 821. Sau khi phi đoàn Vận tải chuyên chở hành khách, Xích Long 413 giải tán vào cuối năm 1971.

                              Trung Úy Trang Văn Thành trong thời gian bay huấn luyện C-119 tại Hoa Kỳ

                              Trung úy Trang Văn Thành trong ngày nhận đôi cánh bay. Trung úy Thành đã chọn vận tải cơ tác chiến cho sự nghiệp quân đội của ông. Trong khi đó Trang Văn Thành có nhiều cơ hội và khả năng để về phục vụ trên một loại vận tải cơ không chiến đấu. Lúc đó, Trang Văn Thành đã kết hôn với chị Võ Thị Hòa là cháu gái của thiếu tướng Võ Xuân Lành, Tư lệnh Phó Không quân, nhân vật đứng hàng thứ hai của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. “Đường chú chú đi, đường cháu cháu đi”. Thành đã không nhờ vả người chú vợ đầy quyền lực. Ông đã hiên ngang chọn lựa con đường chiến đấu trực tiếp trên chiến trường, để còn có cơ hội bảo vệ đất nước và “thù cha phải trả”.


                              Hình minh họa

                              TRẬN CHIẾN CHƯA TÀN

                              Sau hai tiếng đồng hồ chịu đựng trận mưa pháo long trời lỡ đất do Cộng sản Việt Nam dội vào phi trường Tân Sơn Nhất. Khơi dậy cơn phẫn nộ của dũng sĩ Trang Văn Thành, con người không khuất phục định mệnh, không khoanh tay chờ địch đập pháo sát hại, không ngồi yên đợi kẻ thù tràn đến tàn sát “Còn nhân viên, còn phi cơ, còn súng đạn, phải còn chiến đấu”. Thành đã phân tích, so sánh và quyết định: Chết vì bị đạn pháo kích của địch ở phi trường hoặc chết vì đạn phòng không của giặc trên không trung cùng ý nghĩa của sự chết. Nhưng chiến đấu để chết là cái chết oanh liệt, vô cùng ý nghĩa của một quân nhân gan dạ có tránh nhiêm bảo vệ quê hương, vì dân, vì nước, vì sự an nguy của ngừoi thân, bằng hữu và bá tánh.

                              “Thù cha phải trả”giấc mơ bao năm trời, ông đã thức trắng thâu đêm bay tên toàn cõi quê hương, trên không phận đường mòn Hồ Chí Minh, để săn đuổi và diệt địch. Giờ đây, giặc đã tìm đến nhà. Tại sao lại phải cuối đầu rút cổ chờ chết trong bốn bức tường phi đoàn nhục nhã này? Trang Văn Thành đã quyết định phải bay lên không, chiến đấu và diệt địch trước khi ông gục ngã vì kẻ thù.

                              Trang Văn Thành mạnh dạn đứng lên, dõng dạc kêu gọi đồng đội, tự điều động phi hành đoàn dự bị của ông để bay lên không quyết tử chiến. Dù thời điểm đó, Bộ Tư Lệnh Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc Phòng và Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã tê liệt và đang trên đà tan rã.

                              Trong đám đông của hơn 40 nhân viên phi hành hiện diện tại phi đoàn Tỉnh Long 821, AC119K. Người ta đã nhìn ông trong sự ngạc nhiên, thương hại với ý nghĩ thầm lặng “Thằng điên”. Khi cuộc chiến VN đã hoàn toàn kết thúc và thua cuộc, ai ai cũng đang tìm đường bôn tẩu, kiếm cách đưa vợ con và thân nhân ra khỏi nước Việt Nam, để tránh một cuộc trả thù và tàn sát của Việt cộng.

                              Trong ý chí của Thành hoàn toàn trái ngược, với ông trận chiến vẫn chưa tàn và cuộc chơi chiến tranh chỉ mới bắt đầu. Ý nghĩ trả thù cho thân phụ đang bùng cháy mãnh liệt trong tâm tư người sĩ quan mang mối thù cha cao ngất. Cuồn cuộn dâng lên theo những tiếng nổ xé nát không gian của kẻthù.

                              Sự im lặng của mọi người vỡ tan. Trung sĩ nhất Phan Quốc Tuấn, người kỹ sư phi hành dũng cảm, tự cảm thấy mình phải có trách nhiệm thi hành phi vụ để bảo vệ thủ đô. Là một nhân viên phụ tá ngành Kỹ sư Phi hành, nghề nghiệp vững, nhiều tâm huyết phục vụ cho đất nước, đã năm năm chia xẻ những ngọt bùi và gian nguy cùng viên phi công Trang Văn Thành. Há, không sờn gian nguy! Tuy Quốc Tuấn không nằm trong danh sách phi hành đoàn dự bị của Trung úy Thành. Đồng ý nghĩ cứu nước, đáp lời kêu gọi của Thành, Tuấn bước ra khỏi đám đông, trước sự ngơ ngác của mọi người, Quốc Tuấn đã có hàng trăm phi vụ bay đêm với Trung úy Thành, người mà Tuấn vô cùng ngưỡng mộ, quý mến trong tình đồng đội, do tư cách của Trang Văn Thành đã đối xử tốt đẹp với anh em. Người làm việc rất “hợp rơ” với Tuấn.


                              Hình minh họa

                              Tiếng xì xào vang lên trong phi đoàn. Lần lượt sĩ quan phi công Trung úy Trần Văn Hiền, Sĩ quan Điều hành viên, Sĩ quan Hồng ngoại tuyến, một Hạ sĩ quan Hỏa châu, Trung sĩ Chín và Hạ sĩ quan Vũ khí Phi hành dũng cảm khác, lặng lẽ đứng lên tỉến về phía Trang Văn Thành, theo tiếng gọi của non sông. Họ cùng hỗ trợ Trang Văn Thành đứng lên diệt giặc, sống và chết có nhau trong những giây phút tử sinh cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam. Họ đã thành lập một phi hành đoàn bất thường, đoàn kết và gan dạ. Một phi hành đoàn thực sự có tinh thần chiến đấu duy nhất còn sót lại của Không lực Việt Nam Cộng Hòa. Họ đã chiến đấu thế cô, không có phi cơ đồng đội phụ trợ, không cần phi vụ lệnh, không được lệnh của cấp trên, từ Bộ Tư lệnh Không quân, Bộ Tổng Tham Mưu, Bộ Quốc phòng hay lệnh của Tổng Thống VNCH. Tất cả đều đã rã ngũ và đã bôn tẩu. Họ đã thi hành công tác theo mệnh lệnh lương tâm của một quân nhân có trách nhiệm.

                              Gương mặt đầy phẫn nộ cho vận nước đảo điên của trung úy Trang Văn Thành thể hiện lần cuối cùng tại cửa phi đoàn Tỉnh Long 821, trước khi họ lên đường chiến đấu và diệt địch, Thành buồn bã tuyên bố lời cuối cùng với viên sĩ quan này gạn hỏi ý kiến:

                              - Trung úy có cần tôi ghi tên phi hành đoàn của trung úy vào sổ trực hành quân và báo cáo lên Không đoàn không Trung úy?

                              - Ứ! Vô ích. Sổ trực hành quân phi đoàn tôi đã xé rồi, cơ quan đầu não còn nữa đâu mà báo cáo cho mất công chứ. Giờ đây, chúng tôi tự nguyện chiến đấu cho đất nước vì trách nhiệm của một quân nhân, mà không cần đến lệnh của cấp trên. Không làm phiền thiếu úy đâu. Chúng tôi phải gấp rút lên đường thôi!

                              NHỮNG GIỜ TỬ CHIẾN CUỐI CÙNG

                              Chiếc phi cơ AC119K của trung úy Trang Văn Thành gầm thét náo động phi trường Tân Sơn Nhất. Mang một chút sinh lực phấn khởi đến cho những tâm hồn đang bấn loạn với thể xác đã rã rời vì trận mưa pháo kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ vừa qua và còn đang tiếp diễn ác liệt. Sức nổ và sự tàn phá khủng khiếp, chẳng những nó hủy hoại vật chất, cả tinh thần và hồn phách của những chiến sĩ Không quân đang hiện diện trong lòng trận chiến cũng tan biến.

                              Hòa lẫn tiếng động cơ là những loạt đạn pháo kích dữ dội của Cộng sản VN rơi vào sân bay Tân Sơn Nhất. Một bầu không khí hãi hùng của chiến tranh, Cộng sản Bắc việt đã có công triệt hạ Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, cho mục tiêu chiến thắng cuối cùng để đoạt lấy chính quyền từ tay của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Hầu áp đặt một chế độ độc tài gian tham tại Miền Nam VN.

                              Phi cơ của trung úy Thành rời khỏi phi đạo, rẽ mũi bay về bên trái, hướng tây của Thủ đô Sàigòn. Tránh né đạn phòng không dầy đặc ở phía đông bắc phi trường Tân Sơn Nhất. Ông nhanh nhẹn cho phi cơ bay lên cao độ, làm các vòng chờ ở phía tây Thủ đô yên tĩnh, hầu quan sát tình hình chiến sự. Vừa mới bay lên không ông cần nhiều thời gian để quan sát, theo dõi và chọn lựa các mục tiêu trước khi ra tay sát thủ.

                              Sau khi phi cơ cất cánh, trong hai tiếng đồng hồ vắng bặt âm thanh của máy bay, người ta cứ ngỡ đó là chiếc vận tải cơ chiến đấu AC119K hèn nhát, đã cất cánh bay đi và đã di tản khỏi nước Việt Nam.

                              Mất gần hai tiếng đồng hồ bay lượn trên bầu trời Đồng Tháp Mười ven đô, phía tây của thành phố Sàigòn chờ trời sáng, đồng thời quan sát kỹ lưỡng các mục tiêu. Rồi con “Hắc đại bàng dũng mãnh” lại gầm thét ồn ào, lù lù xuất hiện trở lại trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất.

                              Bấy giờ, đã 7 giờ hơn. Mặt trời đang lên, thành phố Saigòn đang bừng sáng ở phía đông. Sân bay Tân Sơn Nhất đang bị sang bằng, mịt mù khói lửa. Vài đám khói trắng để lộ các mục tiêu dàn đại pháo của địch đang rót vào phi trường. Tọa độ phát hiện tại những cánh rừng thưa gần xóm mới, hướng Bắc của quận Gò Vấp ven đô.

                              Có lẽ Hà Nội đã rút tỉa kinh nghiệm sự thất bại nặng nề trong trận tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Hàng trăm xác Việt cộng phơi thây trên quốc lộ 1, do hỏa lực của vận tải cơ chiến đấu AC47, phi đoàn Hỏa Long đã bắn hạ, khi họ tấn công vào Sàigòn bằng hướng tây bắc, đồng ruộng bằng phẳng, trống trải, ít dân cư, phi cơ dễ dàng tác xạ, rải đạn lên chúng. Lần này, chúng tiến chiếm Sàigòn bằng hướng đông bắc, gần rừng thưa, để trà trộn vào những khu đông dân cư, tránh né những cuộc không tập với hỏa lực hùng hậu của Không quân VNCH.

                              SAI MỘT VÁN CỜ

                              Khi chiến cuộc VN bắt đầu mở rộng, Quân đội Hoa Kỳ ào ạt đổ vào phục vụ ở VN. Họ đã bị tổn thất nặng nề qua hai chiến thuật “Du kích chiến, bắn sẻ rồi lẫn trốn an toàn, và Việt cộng đã dùng chiến thuật thứ hai “Tấn công biển người, càn quét địch quân hiệu quả và nhanh chóng. Gây nhiều tổn hại nhân mạng đối phương.

                              Để chống lại Chiến thuật Tấn công biển người vô cùng lợi hại, gây nhiều tổn thất cho Quân đội Hoa Kỳ. Quân đội Mỹ đã phải nghiên cứu và sáng tạo ra các loại Vận tải cơ Chiến đấu. Họ đã dùng phương pháp rải đạn trên một vùng rộng lớn, dài hàng cây số, bằng những loại vũ khí liên thanh, tác xạ bằng điện, mỗi khẩu bắn cùng một lúc bởi 6 nòng súng xoay tròn trên 6.000 viên đạn cho một phút. Khoảng cách của mỗi viên đạn đến mục tiêu đều đặn trên mặt đất độ ba tấc

                              Thoạt đầu, Quân đội Hoa Kỳ thí nghiệm bằng vận tải cơ có trọng tải nhẹ, đó là vận tải cơ chiến đấu AC47. Phương pháp rải đạn này đã đem đến nhiều kết quả lớn lao. Hoàn toàn bẻ gãy chiến thuật tấn công biển người vô nhân đạo của Cộng sản Việt Nam. Lùa dân sự (dân công) càn quét quân đội địch, trước khi lực lượng vũ trang chính quy của họ nhập cuộc, tiến vào mục tiêu và tịch thu chiến lợi phẩm.

                              Phát triển lớn hơn nữa, Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu cải tổ các lọai vận tải cơ có trọng tải lớn hơn, đó là AC119G. Rồi dẫn đến, các loại vận tải cơ chiến đấu trang bị các dàn súng đại bác bắn liên thanh 20 ly, AC119K và AC130. Loại vận tải cơ chiến đấu AC130 tối tân nhất của Mỹ chỉ được sử dụng bởi không lực Hoa Kỳ hoạt động ở VN.

                              Cuộc chiến tranh VN mỗi ngày càng bộc phát và leo thang dữ dội. Sự tổn thất nặng nề của Việt Cộng do những phi cơ vận tải chiến đấu, trang bị vũ khí liên thanh chống biển người hữu hiệu do Hoa Kỳ chế tạo, Cộng sản Bắc việt đã phải cầu cạnh với Cộng sản Quốc tế Liên Sô tăng viện nhiều loại vũ khí tối tân hơn, nhằm chống lại các loại phi cơ lợi hại của Hoa kỳ. Cuối thập niên 60, cuộc chiến tranh VN đổi hướng. Phe Cộng sản cho xuất hiện nhiều loại hỏa tiễn phòng không tự động SAM và các loại hỏa tiễn tầm nhiệt cầm tay SA7. Những loại hỏa tiễn mới này đã gây khốn đốn cho cả Không lực Hoa kỳ lẫn Không quân Việt Nam Cộng Hòa.

                              Suốt giai đoạn Chiến tranh VN, để vô hiệu quả Không quân Việt Nam Cộng Hòa; Việt cộng đã luôn sử dụng hai chiến thuật: Điệu hổ ly sơn hoặc điệu hổ nhập hầm ( bẫy), hầu bảo toàn lực lượng trước sức mạnh của Không quân đối phương. Khi họ dùng một lực lượng chính quy đông đảo để tấn công, càn quét địch và để tránh khỏi một cuộc tàn sát do phi cơ đối phương gây ra.

                              Chiến thuật Điệu hổ ly sơn là một phương pháp chiêu dụ phi cơ đánh sai lạc mục tiêu. Chúng phải dùng đến những toán cảm tử cực nhỏ, chỉ 2 hoặc tối đa là 3 người. Họ sử dụng phòng không và vũ khí bắn ra toàn là đạn lửa chiếu sáng. Các nhóm cảm tử này được đặt ở những vị trí có địa thế bị phi cơ nghi ngờ, nhiều đồi và rừng, họ bố trí rất cẩn thận với hầm trú ẩn sâu và an toàn, gắn những mục tiêu họ đã dự định sẽ tấn công.

                              Toán quân “nhử địch” này có nhiệm vụ bắn máy bay bằng đạn lửa, để chiêu dụ phi cơ, các phi công lầm tưởng những nơi bắn máy bay đó là những lực lượng chính của Việt cộng. Phi cơ sẽ mất nhiều thời giờ đến tác xạ và thả bom các tọa độ giả tạo do họ dàn dựng, mà phi công quên đi mục tiêu chính là đồn bót hoặc căn cứ đang bị Việt cộng tấn công.

                              Trong khi đó, lực lượng chính quy tấn công đồn bót, căn cứ địch, lại xuất phát từ những địa điểm trống trải, yên tĩnh như đồng ruộng, ít bị phi cơ nghi ngờ là con đường chuyển quân. Chúng sẽ tấn công chớp nhoáng và nhanh nhẹn rút lui theo các lộ trình an toàn đó.

                              Chiến thuật “Điệu hổ ly sơn” này của Việt cộng đôi khi cũng bị tổ trác, khi họ gặp phải những phi công trực thăng vũ trang hoặc hoa tiêu vận tải chiến đấu đã sinh sống ở miền quê Việt Nam, biết rõ chiến thuật lừa phỉnh này, Họ luôn đi tìm những mục tiêu chuyển quân âm thầm, yên tĩnh, khu vực ít bị nghi ngờ. Đột nhiên rải đạn đánh phá, đã đem đến những kết quả mỹ mãn, nhiều xác Cộng quân phơi thây bất ngờ, không còn cơ hội mang xác ra đi.

                              Trung úy Trang Văn Thành đã rời vào cái bẫy của Cộng sản Bắc việt, ông đã bị trúng kế “Điệu hổ nhập hần (bẫy)”. Khi nãy quan sát trên không phận ở phía tây Thủ đô Sàigòn. Trung úy Thành chỉ khám phá và ghi nhận được những dàn trọng pháo và hỏa tiễn của Việt Cộng đang bắn vào Thủ đô. Chúng đã được đặt rải rác từ những cánh rừng thưa ở mạn Bắc của Xóm Mới, thuộc Quận Gò Vấp. Cho nên ông đã bất cẩn khi chọn lựa và bay ngang quận Gò Vấp để đánh lên mạn Bắc.

                              Cộng sản Bắc việt đã âm thầm mai phục phi cơ. Lén lút đưa những dàn phòng không và hỏa tiển tầm nhiệt vào bên trong quận Gò vấp. Một xóm nghèo nàn đông dân cư, thuộc ngoại ô hướng Bắc thủ đô Sàigòn. Một chốt chặn đường phi cơ hạ hoặc cất cánh tại đầu phi đạo Tân Sơn Nhất.

                              Cộng sản Việt Nam đã tiên đoán trước Không quân Việt Nam Cộng Hòa sẽ phải xuất phát và tấn công vào họ từ những vùng an toàn nhất. Việc âm thầm di chuyển những dàn phóng không và hỏa tiễn vào quận Gò Vấp là nhất sách với hai cái lợi của sự bất ngờ: Dù phi cơ có phát giác ra họ, phi công cũng không dễ dàng tác xạ vào nhà dân, gây tổn thương lớn đến sinh mạng người dân. Thứ hai là những dàn phòng không được đặt ở đầu phi đạo sẽ có thể bất ngờ bắn hạ, ngăn chận những phi cơ cất cánh để tấn công vào lực lượng quân sự của họ. Hoặc có thể bắn hạ các phi cơ di tản ra khỏi nước VN. Trung úy Thành đã bị trúng kế “điệu hổ nhập hầm”.

                              Giờ hành động đã điểm. Trước khi cho phi cơ bay vào mục tiêu, chuẩn bị trận đánh không địa của chiến đấu cơ AC119K. Trung úy Thành đã hội ý cùng phi hành đoàn lần cuối truớc khi ông quyết định đưa vào trận chiến.

                              - Các anh em có ý kiến gì? Chúng ta có nên tiến vào mục tiêu diệt địch bây giờ hay không?

                              Tất cả những gương mặt đều tự tin trong im lặng. Tất nhiên họ đã hiện diện trên phi cơ là họ chấp nhận một cuộc tử chiến, quần thảo với địch, cứu nguy thành phố Sàigòn đang trong cơn sốt sụp đổ, sắp rơi vào tay địch. Chính vợ con và thân nhân của họ cũng sẽ gánh chịu hậu quả của sự trả thù thê thảm sau một cuộc bại trận, do phe Cộng sản nham hiểm sẽ chiến thắng. Không còn chọn lựa nào khác, nếu phải hy sinh. Một giọng phát ra từ máy liên thoại phi hành đoàn:

                              - Quyết định thi hành phi vụ này là chúng tôi đã chấp nhận sự hy sinh. Tùy theo quyết định của Trung úy.

                              Trung úy Trang Văn Thành lái chiếc phi cơ bay bọc từ phái nam thủ đô Sàigòn vòng lên hướng bắc để đánh vòng bay đầu tiên vào các mục tiêu đã được phi hành đoàn ghi nhận. Một tràng liên thanh ầm ỹ, nòng súng minigun xoay tròn, khói bốc lên, lửa đỏ lóe sáng, 6.000 viên đạn tua tủa bay ra khỏi các nòng súng trong một phút, tạo thành những vệt đạn lửa trãi rộng gần một cây số, nằm trong tầm tác xạ của loại vũ khí độc hại này, địch sẽkhông còn cơ hội sống.

                              Tiếp nối các vòng bay tấn công và diệt địch thứ hai rồi thứ ba. Tiếp tục cuộc chiến đấu đầy dũng cảm, cam go để bảo vệ thủ đô. Mỗi một vòng bay trút hàng ngàn quả đạn đại bác 20 ly xuống đầu địch nơi ven đô. Ba vòng bay tác xạ đầu tiên của phi cơ vào các tọa độ đặt dàn trọng pháo và hỏa tiễn của địch. Việt cộng đã phải im bặt trong hơn nữa tiếng đồng hồ, kể từ khi con diều hâu xuất hiện và gầm thét ồn ào trên bầu trời Sàigòn. Chiến sĩ không quân đang hiện diện trong phi truờng Tân Sơn Nhất tìm được một ít phấn khởi, ngoi ra khỏi hầm trú ẩn ngộp ngạt, tìm những giây phút thoải mái. Hàng triệu đôi mắt hướng về chiếc phi cơ cứu tinh đang bay lượn ở hướng đông, sắp sửa nhả đạn, tác xạ vòng bay thứ tự xuống đầu địch.

                              Phi hành đoàn đã chiến đấu không mỏi mệt, không đầu hàng, không bỏ chạy. Mỗi lúc chiếc phi cơ AC119K lại tiến sâu vào trận địa dày đặc phòng không, trọng pháo của địch quân đang cố xâu xé Thủ đô Sàigòn.

                              60 GIÂY ĐỐI DIỆN TỬ THẦN

                              Trung úy Thành đã hạ phi cơ xuống thấp hơn các vòng bay trước, để đánh địch quân và điều chỉnh. Ông hy vọng cao độ 2.000 bộ, với tầm tác xạ và hiệu quả hơn. Nhưng cao độ này khá nguy hiểm cho một loại vận tải cơ bay chậm chạp, nó nằm trong tầm bắn trả của phòng không và hỏa tiễn tầm nhiệt của địch. Trung úy Thành dự định sẽ rải 2 thùng đạn đại bác liên thanh 20 ly để phá hủy và dập tắt các nòng súng thuộc dàn đại pháo của Việt Cộng, Những tọa độ ông vừa mới phát hiện được trong vòng bay đã qua.

                              Phi cơ của Trang Văn Thành chưa kịp tiến gần mục tiêu của địch. Nó đã bay và lọt vào ổ phòng không bí mật phía đông phi trường. Địch đã im lặng, giữ bí mật đặt dàn phòng không này trong quận Gò Vấp, một khu phố nghèo nàn phía đông, bên ngoài vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất.

                              Tám nhân viên phi hành đoàn AC119K hiện diện trên phi cơ cùng một cảm nhận những tiếng nổ rung chuyển không gian, xung quanh chiếc phi cơ của họ. Dàn phòng không của địch đã đồng loạt nả đạn lên không, tấn công chiếc AC119K nổ rợp trời như pháo bông nổ giữa ban ngày. Đợt tấn công đầu tiên gồm bốn quả phòng không đã không gây thiệt hại nào cho phi cơ.

                              Mấy giây tử thần ngắn ngủi trôi qua. Phi hành đoàn lại cảm nhận một tiếng nổ đơn độc khác, ảnh hưởng trầm trọng trực tiếp đến phi cơ. Toàn thân chiếc máy bay rung chuyển dữ dội theo tiếng nổ. Họ đã kinh hoàng nhìn thấy lửa đỏ lẫn miếng đạn phòng không phóng ra, kèm tiếng nổ ấm và bịt kín từ trong lòng động cơ bên trái.

                              Không còn nghi ngờ gì nữa! Họ đã biết chắc chắn chiếc phi cơ đã bị trúng đạn phòng không SA7 của Việt Cộng.

                              Viên phi công Trưởng phi cơ dũng cảm, 28 tuổi. Trung úy Trang Văn Thành không hề nao núng. Ông rất tin tưởng vào tài nghệ lái máy bay của ông, với hơn 2.000 giờ bay, ông đã trải qua không biết bao nhiêu lần phi cơ bị hư hỏng phải đáp khẩn cấp an tòan. Một trách nhiệm đặt trên vai người Trưởng phi cơ, phải làm mọi cách để đoàn viên phi hành của ông được toàn mạng. Tám sinh mạng trên phi cơ hiện đang nằm trong bàn tay tài nghệ của viên phi công trưởng phi cơ.

                              Trung úy Trang Văn Thành bình tĩnh, một bản tánh chung của những người phi hành, họ đã được trui luyện lòng can đảm, ngay từ những giờ bay đầu tiên, đó là sự bình tĩnh, hành động chính xác và phải làm mọi cách để được đáp bình an và toàn mạng.

                              Thành dõng dạc trên máy điện thoại của phi hành đoàn. Ông công bố tình trạng phi cơ đang nguy ngập với lệnh đáp khẩn cấp.

                              - Phi hành đoàn, chú ý! Đây, Trưởng phi cơ! Phi cơ chúng ta đã bị trúng đạn phòng không. Tất cả nhân viên phi hành đoàn hãy bình tĩnh, ngồi vào ghế, buộc giây an toàn. Tôi đang làm thủ tục đáp khẩn cấp xuống phi trường Tân Sơn Nhất.

                              Vừa ra lệnh,Trung úy Thành vội vã hạ mũi và nghiêng phi cơ về bên trái, theo hướng phi đạo Tân Sơn Nhất, đang nằm ở hướng 3 giờ của chiến phi cơ. Trong ý nghĩ của Trung úy Thành đã có sẵn một quyết định rõ rệt. Ông bình tĩnh dặn dò các nhân viên trong phòng lái.

                              - Bằng mọi giá chúng ta phải mang phi cơ ra khỏi vùng đông đúc dân cư của Quận Gò Vấp. Nếu phi cơ của chúng ta không lết kịp đến phi đạo. Tôi sẽ quyết định cho phi cơ làm crash ngay tại các cánh đồng vắng xung quanh phi trường.

                              “THƯỢNG ĐẾ” CƯỚP LẤY TAY LÁI PHI CƠ

                              “Thượng đế” đã cướp lấy cần lái phi cơ từ tay người phi công Việt Nam Cộng Hòa tài ba và dũng cảm Trang Văn Thành. Phi cơ vừa nghiêng bên trái, gia tăng sức ép của không khí đè nặng lên vết thương vốn đã trầm trọng nơi động cơ trái vừa bị phòng không SA7 xé nát, những mối giáp của 3 phần cánh: cánh trong, động cơ và cánh ngoài của phi cơ đã bị rạn nứt khi đạn nổ, không còn chịu nổi sức ép của không khí.

                              Cánh ngoài, bên trái của phi cơ đột nhiên gãy xếp lên không, lôi động cơ trái gãy đổ theo, rồi rã ra. Nó giựt mạnh những đường dây cáp điều khiển cánh lái nghiêng của phi cơ, làm đứt lìa, khiến cần lái phi cơ vuột khỏi tầm tay của viên phi công, rồi đập mạnh về phía trước bảng phi cụ.Trung úy Trang Văn Thành kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ không còn trong tầm tay điều khiển an toàn của ông nữa. Đồng lúc, 2 chiếc bàn đạp điều khiển cánh lái đuôi phương hướng cũng đập mạnh về trước, khi những dây cáp điều khiển nối liền từ cánh lái đuôi đến bàn đạp cũng bị giựt đứt lìa và rời khỏi phi cơ.

                              Phi hành đoàn bàng hoàng cảm nhận cái chết cận kề. Người này loạng choạng chụp lấy dù cá nhân, người kia tháo gỡ dây an toàn, người nọ mò mẫm đến cửa thoát hiểm. Đôi tay Trung úy Trang Văn Thành nhanh nhẹn chụp lấy lại cần lái, cố gắng điều khiển, đồng lúc chân ông chòi đạp trên cần điều khiển cánh lái phi cơ đều lỏng toát, không có một tác động nhẹ, khi toàn bộ hệ thống dây cáp điều khiển ba bộ cánh lái phi cơ đều đứt gọn. Trang Văn Thành rùng mình, toát mồ hôi lạnh, gào thét thất thanh trên máy liên lạc phi hành đoàn, Ông kinh hoàng, thúc giục đồng đội thoát thân.

                              - Tất cả nhảy dù ra khỏi phi cơ, mau lên, mau lên, mau lên…

                              Thân phi cơ bắt đầu nghiêng đổ hẳn về một bên. Các đồng hồ ngưng hoạt động, tốc độ phi cơ đứng hẳn giữa bầu trời và chuyển đổi sang trạng thái rơi tự do. Hệ thống điện bị cắt đứt. Tất cả bắt đầu im lặng theo sự rơi chao đảo trong 40 giây mặc niệm cuối cùng của sự chết!

                              Các động cơ đã hỏng vì sự rối loạn, tan rã của phi cơ. Tất cả kim đồng hồ dàn phi cụ, đồng loạt rớt xuống số 0. Cánh trái, thân nối liền đuôi phi cơ đã gãy đổ và rời khỏi phi cơ đang bay lơ lững trên không. Hệ thống điều khiển tê liệt. Phi hành đoàn kinh hoàng cảm nhận chiếc phi cơ của họ không còn là một chiếc máy bay thăng bằng, bay bổng trên không trung nữa. Đó là một khối sắt vô dụng đang rơi vùn vụt trên bầu trời Sàigòn.

                              Trung úy Trang Văn Thành tuyệt vọng, buông xuôi và đầu hàng định mệnh. Tám người phi hành đoàn cùng cảm nhận trong hãi hùng với cái chết cận kề trong sức rơi của vùn vụt của phi cơ xuống mặt đất, trên bầu trời trong sáng Tân Sơn Nhất của buổi sớm, ngày 29 tháng tư năm 1975. Cơ hội thoát hiểm của phi hành đoàn gần như chấm dứt khi họ đang ở vào trạng thái rơi tự do của hai vật thể riêng biệt: trọng lượng con người tách rời trọng lượng phi cơ, con người không còn là điểm tựa tên mặt phẳng của chiếc máy bay. Bàn tay của viên kỹ sư phi hành đã mấy lần đụng chạm đến cần khóa cửa thoát hiểm bên cạnh chiếc ghế ngồi của ông, được đặt dưới sàn trong lòng phòng lái phi cơ, bao lần nó đã vuột khỏi tầm tay vì sức rơi chao đảo, nghiêng ngã và lơ lửng trong lòng phi cơ.

                              Chiếc phi cơ nghiêng đổ hẳn về một phía, Những đôi mắt kinh hoàng của họ trừng trừng khiếp đảm nhìn xuống lòng đất cứng rắn hãi hùng, phút chốc nữa đây phi cơ của họ sẽ phải va chạm nổ vỡ tung. Những quả tim, bấn lọan hồi hộp theo cảm nhận của sự chết trong 40 giây ngắn ngủi còn sót lại qua sức rơi chao đảo của phi cơ từ 2.000 bộ xuống mặt đất.


                              Hình minh họa

                              Tinh Long 821 AC-119 Phi hành đoàn cuối cùng của KhôngQuân Việt Nam Cộng Hòa hy sinh cho Tổ Quốc sáng ngày 29 tháng 4 năm 1975, ngay trên không phận vòng đai phi trường Tân Sơn Nhất Thủ Đô Sài Gòn.

                              Tử thần đang chào đón họ trong 40 giây của sự sống cuối cùng, 40 giây để thở, tim vẫn đập, máu vẫn lưu thông, 40 giây của tâm hồn rối loạn, để cảm nhận sự chết của một con người, truớc khi tất cả đều dập tắt theo tiếng nổ kinh hoàng, sự va chạm của phi cơ vào lòng đất.

                              Mười giây sau cùng, Trung úy Thành đã nhắm nghiền đôi mắt đầy lệ thương xót cho người vợ trẻ và hai con dại vẫn hiện hữu trên thế gian. Họ đang lo lắng và chờ đợi một “cuộc di tản không bao giờ có” của chàng đã hứa. Viên kỹ sư phi hành ngồi ở chiếc ghế phía sau, trung sĩ nhất Phan Quốc Tuấn, người đã dũng cảm tình nguyện, chấp nhận chuyến bay trên phi vụ sinh tử cuối cùng của Trung úy Thành, ông đã cùng chung hoàn cảnh một vợ và hai con thơ đang mòn mỏi trông đợi cha về.

                              Tâm hồn phi hành đoàn chìm vào bóng tối theo tiếng nổ long trời, hồn biến, xác tan, để đi vào cõi an lạc, chấm dứt một đời người kiêu dũng trên không trung. Để rồi tên tuổi các anh vẫn sống mãi trong lòng người và lịch sử của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, với ý chí sắt đá “hiến thân cứu nước”và quyết tâm “vì dân diệt bạo”.

                              CHỐNG CHỎI TỬ THẦN

                              Kể từ khi xuất hiện loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt độc hại trên địa cầu, do khối Cộng sản Quốc tế yêu chuộng, chủ chiến, chuyên gây rối trên thế giới, xúi giục và yểm trợ những chính trị gia độc tài quốc tế, tham vọng gây chiến tranh để cướp giựt lãnh đạo, gạt bỏ những sự lựa chọn người tài ba ra điều hành đất nước của nguời dân, áp đặt những chế độ độc tài lên họ, đánh hỏa mù để hưởng tư lợi cá nhân. Chúng đã sáng tạo ra những loại chiến cụ mới gây khiếp đảm cho khối tự vệ, yêu chuộng tự do, công bằng và dân chủ. Trong đó có Miền Nam Việt Nam. Quân chủng Không quân Việt Nam Cộng Hòa đã gặp rất nhiều khó khăn và thiệt hại nặng nề với hàng lọat phi cơ bị bắn hạ bằng loại vũ khí tầm nhiệt SA7 lợi hại này.

                              Trong chiến tranh, không ai có thể lo lắng hơn những nhân viên phi hành của Không lực Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ. Những người phải đối diện trực tiếp với loại vũ khí ghê gớm SA7 này. Mỗi nhân viên phi hành của Không quân đều đã phải suy tính, tự học và luyện tập để chuẩn bị cho chính mình một con đường thoát hiểm nhanh nhẹn nhất truớc những đe dọa của loại vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp, nhanh chóng và chính xác như loại hỏa tiễn tầm nhiệt của khối Cộng sản.

                              Phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành cùng tâm trạng lo âu và đã tiên liệu truớc những sự nguy hiểm của loại vũ khí hỏa tiễn tầm nhiệt, nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào trên các phi vụ của chiến trường Miền Nam Việt Nam.

                              Ngay khi phi hành đoàn của họ đã cảm nhận phi cơ của họ đã bị trúng đạn phòng không. Tám nhân viên phi hành hiện diện trên phi cơ đều cùng có một cảm nghĩ và hành động tìm kiếm cá nhân, hay họ phải chú tâm đặc biệt đến những cánh cửa thoát hiểm gần họ nhất, ngỏ hầu nhanh chóng thực hiện một cuộc thoát hiểm cấp tốc khỏi phi cơ truớc khi nó không còn điều khiển được nữa. Trung úy Trang Văn Thành đã không tiên đoán trước được phi cơ của ông sẽ gãy cánh trong 10 giây sau tiếng nổ. Nhân tính dũng cảm và quyết tâm cố mang phi cơ ra khỏi khu phố Gò Vấp đông đảo, sự an toàn cho sinh mạng người dân. Ông đã kêu gọi đồng đội bình tĩnh, ở lại phi cơ. Bày nhân viên phi hành đã tuân lệnh, sáu người đã không thoát hiểm được khỏi phi cơ và chết tan xác theo chiếc máy bay định mệnh.

                              Tại phòng hàng hóa của phi cơ nơi trang bị 4 khẩu súng minigun 6 nòng và 2 khẩu đại bác liên thanh 20 ly, cùng hàng tấn đạn dược và hỏa châu. Phòng làm việc của các chuyên viên vũ khí phi hành.

                              Nhân viên phi hành chống chỏi tử thần dữ dội nhất để thoát khỏi bàn tay của thần chết, đó là trung sĩ Chín, nhân viên vũ khí phi hành. Ông đang bám chặt ở cánh cửa hành khách bên phải của chiếc phi cơ, kể từ khi chiếc máy bay của họ bị trúng đạn phòng không.

                              Trung sĩ Chín vẫn còn đủ bình tĩnh, bám chặt khung cửa, vật lộn với thời gian, chiến đấu với tử thần. Trung sĩ Chín vất vả, quần thảo để tháo gỡ chiếc chốt pin khóa chặt dàn phóng trái sáng vào chân, chúng án ngữ kín mít ở cửa phòng hành khách, ông không thể nào rướn người ra khỏi phi cơ.

                              Đã mất 10 giây trong sức rơi vùn vụt, cực nhanh của phi cơ. Trung sĩ Chín may mắn giật được chốt pin khóa dàn phóng trái sáng, nó rời khỏi chân dàn phóng rơi xuống mặt sàn phi cơ, để lộ một khoảng trống của khung cửa bao la. Đúng lúc chiếc phi cơ nghiêng đổ về bên phải, Trung sĩ Chín dùng hết sức bình sinh dồn lên đôi chân cứu rỗi, nhanh như cắt, ông búng mạnh đôi chân vào thành phi cơ, để truợt chân người rơi ra khỏi đống thép vô dụng đang lao vùn vụt xuống mặt đất.

                              Trung sĩ Chín rời phi cơ khi chiếc máy bay của ông đang rơi và cách mặt đất độ 600 bộ, chừng 200 mét. Trong 10 giây ngắn ngủi sau cùng còn sót lại cho sự sống. Chín đã lảo đảo trong không khí, đôi tay vẫn chới với, quờ quang tìm kiếm khóa giật để bung dù, chiếc dù đeo lủng lẵng chỉ một bên của thân người gây nhiều khó khăn.

                              Chiếc dù vừa bọc gió đúng lúc trung sĩ Chín cũng vừa rơi xuống mặt đất. Ông đã thoát nạn, nhưng đã bị chấn thương nhẹ nơi cột xương sống.

                              Đồng lúc một tiếng nổ rung chuyển trời đất, quả cầu lửa rựng lên, sức nóng bức của bom đạn hòa lẫn xăng cháy dữ dội, hắt vào người trong khoảng cách gần 100 thước, nơi Chín đã vừa rơi xuống từ phi cơ hư hỏng, vô phương cứu chữa.

                              Tuần lễ sau, trung sĩ Chín đã tìm đến nhà anh trưởng phi cơ Trung úy Trang Văn Thành. Lúc đó chị Võ Thị Hòa là vợ anh Thành đã đi vắng. Chín đã kể lại những chi tiết trên chuyến bay cuối cùng của Không quân Việt Nam Cộng Hòa với chị Bùi Võ Thanh, chị ruột của chị Hòa. Trung úy Thành và 6 đồng đội khác đã không thoát khỏi phi cơ và đã tử trận theo con tàu AC119K, lúc 8 giờ sáng ngày 29/4/1975 tại Tân Sơn Nhất.

                              Trung sĩ Chín xác nhận trung úy Thành đẽ đền nợ nước, chết theo phi cơ. Một hung tin mà gia đình chị Hòa đã biết mấy hôm trước do các nguồn tin từ những người bạn thân cùng đơn vị của anh Thành đã lén báo tin và xác nhận về cái chết anh dũng của anh Thành.

                              Trang Văn Thành đã tự điều động một phi hành đoàn còn đầy đủ tinh thần chiến đấu và tự nguyện hiến thân cho đất nước. Một phi hành đoàn duy nhất còn sót lại của Không lực Việt Nam Cộng Hòa và của Quân đội Miền nam Việt Nam. Họ đã làm nên trang chiến sử oanh liệt cuối cùng trong giây phút kết thúc chiến tranh Việt Nam, và Quân đội Việt Nam Cộng Hòa này đã tan rã và “bại trận”.


                              Hình minh họa

                              KINH NGHIỆM HỎA TIỄN TẦM NHIỆT SA7

                              Nhiều nguồn tin, suy đoán không chính xác và họ cho rằng nhân viên phi hành đoàn của Trung úy Trang Văn Thành đã chết trên phi cơ, ngay sau khi đạn phòng không SA7 nổ tại động cơ. Họ đã chết trước khi phi cơ gãy cánh vàrơi xuống đất. Điều này đúng hay sai?

                              Qua kinh nghiệm nhiều chiếc phi cơ của Không quân Việt Nam Cộng Hòa bị phòng không hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 bắn rơi, sự suy đoán này không chính xác.

                              Thứ nhất, trái đạn hỏa tiễn tầm nhiệt là một loại đạn cá nhân, nó nhỏ và nhẹ để dễ di chuyển, so với các loại bom miểng của đại bác hay hỏa tiễn khác có tầm sát hại rộng lớn. Mục đích chính của loại hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không chủ đích phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành trên không trung. Mục đích chính là nó phá hủy phi cơ. Quả đạn nổ làm rối loạn và hủy họai động cơ máy bay, hủy diệt sức kéo hoặc đẩy phi cơ đi tới. Đồng thời, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 cũng làm rạn nứt lớp vỏ của cánh phi cơ, với những loại máy bay mang động cơ trên cánh. Nó hủy diệt sự chịu đựng sức ép của không khí đè lên mặt cánh và gây ra sự gãy đổ. Khiến phi cơ bị hủy hoại cả hai: sức kéo hoặc đẩy của động cơ và phá hủy bộ cánh lái điều khiển chiếc máy bay.

                              Lý do thứ hai, hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 không thể phát ra nhiều miểng đạn để sát hại nhân viên phi hành. Loại hỏa tiển tầm nhiệt đặc biệt này chỉ tìm sức sống, chui vào và nổ bên trong lòng động cơ. Động cơ được bao bọc bởi một lớp vỏ thép cứng rắn, đã cản trở hầu hết miểng bom, sức công phá không văng tung tóe, rồi miểng quả đạn phải xuyên qua nhiều lớp vỏ của cánh và vỏ của thân phi cơ, khiến nó không thể sát hại quân nhân không quân phi hành như những loại bom đạn thường khác. Dựa trên những dữ kiện chính xác qua ba truờng hợp của Không quân VNCH bị bắn rơi bởi phòng không SA7. Phi hành đoàn đã bị tử nạn vì sự chậm trễ của họ. Phi cơ nhanh chóng chuyển đổi trạng tháng rơi tự do, tách rời trọng lượng con người ra khỏi điểm tựa trên mặt bằng phi cơ, họ không còn đứng vũng để mở cửa hoặc đến gần cửa để thoát hiểm. Chúng ta biết rằng, khi phi cơ đang ở trạng thái rơi tự do. Cả hai trọng lượng con người và trọng lượng phi cơ tách rời nhau như hai vật thể riêng biệt cùng rơi trên không gian, nên con người cũng ở trạng thái lơ lửng trong lòng phi cơ.

                              Trường hợp thứ nhất: Một chiếc F5 hai động cơ phản lực đã bị trúng đạn phòng không SA7. Một máy bay phản lực bị phá vỡ trên không, động cơ còn lại chỉ nằm cách động cơ kia không quá một mét, không bị hề hấn gì, máy nổ vẫn tốt. Ghế phi công đặt cách động cơ bị phá hủy độ 3 mét. Phi công vẫn bình an vô sự, ông đã không nhảy dù ra khỏi phi cơ, vẫn bay và cố mang phi cơ về đến phi trường và đáp khẩn cấp an toàn xuống phi đạo. Sỡ dĩ, hệ thống cánh lái điều khiển phi cơ bay về là vì động cơ phản lực F5 được đặt trên thân phi cơ, không liên hệ gì đến cánh và các bộ phận điều khiển chiếc máy bay. SA7 đã không hủy diệt được các hệ thống cánh lái điều khiển chiếc phi cơ F5 này.

                              Trường hợp thứ hai: Một chiếc EC47, Không thám điện tử, thuộc phi đoàn 718, phi cơ bị trúng đạn phòng không SA7 tại mật khu của địch. Chỉ một mình viên sĩ quan Điều hành viên có chuẩn bị, đã nhảy dù ra khỏi phi cơ truớc khi máy bay gãy cánh, rơi tự do. Ông đã sống sót, bị địch bắt làm tù binh. Vì thế chiếc ghế của điều hành viên đặt gần động cơ bị phá hủy nhất, độ hai thước. Viên sĩ quan này đã không bị miểng hỏa tiễn SA7 gây thương tích hoặc sát hại. Toàn bộ đoàn viên phi hành đoàn khác đều chậm trễ, trong trạng thái phi cơ rơi tự do, không thoát hiểm được và chết theo phi cơ.

                              Trường hợp thứ ba: tương tự chiếc phi cơ Không thám điện tử EC47. Trung sĩ Chín, vũ khí phi hành của phi hành đoàn AC119K, cũng đã nhảy dù thoát hiểm khỏi phi cơ, nhờ may mắn khi ông đang ở trong trạng thái rơi tự do, nhưng ông có chuẩn bị đã bám ở cửa phi cơ không có cánh cửa. Vị trí làm việc của ông trong phòng hành khách là nơi gần động cơ bị phá hủy nhất, ông đã không bị miểng đạn SA7 gây thương tích hoặc sát hại, tương tự viên sĩ quan Điều hành viên EC47.

                              Cả ba truờng hợp chứng tỏ quả đạn phòng không SA7 không có chủ đích sát hại phi hành đoàn bằng sức công phá của miểng đạn. Nó chỉ nhằm hủy hoại phi cơ để sát hại phi công và phi hành đoàn, những ai thiếu chuẩn bị, chậm trễ, không rời khỏi phi cơ truớc khi nó chuyển đổi sang trạng tháo rơi tự do.

                              Như vậy, phi hành đoàn muốn toàn mạng phải chuẩn bị sẵn dù và nhảy ra khỏi phi cơ trước khi phi cơ gãy cánh hoặc động cơ hư hỏng không còn sức kéo hoặc đẩy, đưa đến trạng thái phi cơ rơi tự do.

                              Nhận diện sự khác biệt giữa hỏa tiễn tầm nhiệt SA7 và các loại đạn phòng không khác ở chỗ, loại SA7 chỉ nổ ngay bên trong lòng động cơ với âm thanh tiếng nổ khác thường do động cơ đã bịt kín. Tiếng nổ ấm và nhỏ hơn các loại tiếng nổ của đạn phòng không khác. Các loại đạn phòng không thường khác chỉ có khuynh hướng chạm nổ và phá hủy mặt dưới của thân và cánh phi cơ, do dưới đất bắn lên không. Miểng đạn của nó không bị sự cản trở nào nên tầm sát hại rộng lớn hơn. Vả lại, các loại phòng không thường khác không nhất thiết phải trúng vào động cơ và cũng khó có thể đánh trúng chính xác vào phi cơ đang bay với tốc độ. Ngoại trừ, phi đạn SA7 sẽ bay đuổi theo sức nóng của động cơ, phát nổ và phá hủy.

                              CẢM PHỤC LÒNG DŨNG CẢM CỦA PHI HÀNH ĐOÀN AC119K

                              Lòng dũng cảm đáng kính của phi hành đoàn AC19K ở chỗ, giờ phút lâm nguy cuối cùng, tính mạng bị đe dọa. Xem nặng tính mạng của người dân. Tất cả nhân viên phi hành đều tuân lệnh trưởng phi cơ, nán lại, không rời bỏ phi cơ, tiếp sức trưởng phi cơ cố hoàn thành nhiệm vụ mang phi cơ ra khỏi thành phố đông đúc dân cư, có thể sát hại nhiều người dân. Để rồi phi cơ bị gãy đổ chỉ 10 giây sau tiếng nổ của đạn phòng không SA7, trước khi họ đạt đuợc ước nguyện mang phi cơ ra khỏi thành phố.

                              Trung sĩ Chín đã tìm đến cửa thoát hiểm ngay sau khi đạn nổ tại động cơ. Ông đã dừng lại khi nhận lệnh của trưởng phi cơ, chỉ 10 giây phi cơ gãy cánh đưa đến trạng thái rơi tự do. Trong sự tuyệt vọng, thúc dục đoàn viên thoát hiểm khỏi phi cơ của Trưởng phi cơ. Chín đã vất vả chống chọi với tử thần, mất một nửa khoảng thời gian lộ trình phi cơ rơi trong không trung. Ông may mắn thoát hiểm và đã bị trọng thương.


                              US COPYRIGHT 2005, BY THÀNHGIANG

                              Sử liệu CUỘC TỬ CHIẾN TRÊN KHÔNG PHẬN SAIGÒN của Thành Giang là những tư liệu đã được cấp phát bản quyền Hoa Kỳ 2005. Tài sản của tác giả và thân nhân cung cấp tin tức cùng hình ảnh những vị anh hùng tử trận trên chuyến bay AC119K của Không lực Việt Nam Cộng Hòa tại Tân Sơn Nhất.

                              Lôi Bằng
                              nguồn:
                              http://batkhuat.net/van-phihanhdoan-...-kq-qlvnch.htm

                              Comment


                              • Vị Tướng Già Trong Nhà Dưỡng Lão

                                Vị Tướng Già Trong Nhà Dưỡng Lão
                                Huy Phương

                                “Anh hùng mưu sự chẳng nên
                                Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời!”

                                (Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai)

                                DALLAS - Một người bình thường lúc về già sống cô đơn trong nhà dưỡng lão đã là một chuyện buồn, một vị tướng lãnh đã từng bao năm trận mạc, hôm nay sống trong một nhà dưỡng lão quạnh hiu đã gây không ít cho chúng tôi những cảm xúc bùi ngùi đau xót khi đến thăm ông.

                                Cùng với anh Thái Hóa Lộc, chủ nhiệm tuần báo Người Việt-Dallas, chúng tôi đến thăm Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai vào một chiều Chủ Nhật mùa Ðông tại “Pleasant Valley Healthcare and Rehabilication Center, 1525 Pleasant Valley Rd., Garland, TX 75040.” Khi chúng tôi bước vào phòng, thấy ông đang ngồi trên chiếc xe lăn, ông cho biết đang thay y phục, nên chúng tôi tạm lui ra chờ. Khi trở lại, ông đã tươm tất hơn trong bộ đồ mới.


                                Ký giả Huy Phương và Thiếu Tướng Giai trong nhà dưỡng lão ở Dallas Ft Worth tháng 12, 2015. (Hình: Thái Hóa Lộc)

                                Nhận ra anh Lộc là người quen, thường thăm viếng ông, ông vui vẻ chuyện trò và nhờ chúng tôi đẩy ông ra ngoài phòng khách ngay lối ra vào, nơi mà các y tá có thể quan sát. Ở đây đã có nhiều ông bà già hiện diện, tất cả đều ngồi xe lăn. Ðây là một thói quen của ông, mỗi chiều, hoặc là ngồi đây vui hơn, hoặc là ông đang chờ ai đó, có thể vào thăm ông. Vào chiều Chủ Nhật, nhưng tôi không thấy có một thân nhân nào đến thăm những bệnh nhân ở đây, ngoài chúng tôi đang ngồi với Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai.

                                Ông chuyện trò rời rạc, khi đáp những của thăm hỏi của tôi, là người khách lần đầu đến thăm ông.

                                Lúc còn khỏe và tỉnh táo, trí nhớ tốt, mỗi tuần ba ngày, ông đến sinh hoạt tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cao Niên tại thành phố Garland.

                                Bà Ðỗ Kế Giai qua đời vào tháng 11, 2012 sau khi ông vào bệnh viện được ba tháng. Từ bệnh viện, ông được chuyển thẳng về trung tâm này.

                                Ông bà có tất cả bảy người con, một gái và sáu trai. Bốn người đều ở các tiểu bang xa, chỉ còn lại ba người con trai ở gần ông. Hiện nay, ông còn có thể tự ăn uống và lo chuyện vệ sinh cho mình. Ông đã ở đây hơn ba năm, và tỏ bày: “Ở đây buồn quá!”

                                Những vị cao niên nằm trong viện dưỡng lão như hoàn cảnh của ông, còn nhớ chuyện này chuyện nọ, còn biết buồn, biết vui, có lẽ cảm thấy khổ hơn là những người đã mất trí nhớ hoàn toàn.

                                Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai sinh năm 1929 tại Bến Tre, trong một gia đình điền chủ, ông theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên Quân Ðà Lạt, ra trường vào tháng 4, 1952, và đơn vị đầu tiên của ông là Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù, đóng tại Bắc Việt.

                                Lần lượt ông đã giữ các chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, Tiểu đoàn trưởng Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, Chiến đoàn trưởng Chiến Ðoàn 2 Nhảy Dù (1962), Tham mưu trưởng Sư Ðoàn 25 BB, Tư lệnh Sư Ðoàn 10 BB (tiền thân của SÐ 18BB-1966). Năm 1967 ông mang cấp bậc Chuẩn tướng. Năm 1972, ông là Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Ðộng Quân và được vinh thăng Thiếu tướng vào tháng 4, 1974.


                                Hình Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai 42 năm về trước. (Hình: Gia đình cung cấp)

                                Ngày 28 tháng 4, 1975, Tướng Times bên Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ngỏ lời sẵn sàng giúp đưa cả gia đình ông đi Mỹ, nhưng ông quyết định ở lại vì trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngày 15 tháng 5, 1975, Cộng Sản đến nhà mời ông đi họp và đưa thẳng vào khám Chí Hòa, sau đó đưa ông cùng với các vị tướng lãnh khác ra Bắc Việt.

                                Ðến ngày 5 tháng 5 năm 1992, sau 17 năm ông mới được trả tự do, là một trong 4 vị cấp tướng cuối cùng ra trại với Thiếu Tướng Trần Bá Di, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo và Chuẩn Tướng Thiếu Tướng Lê Văn Thân.

                                Ông và gia đình được xếp vào danh sách H.40 nhưng cuối cùng được đôn lên H.07, đến Mỹ vào tháng 11 năm 1994 và định cư tại thành phố Garland, Texas.

                                Theo lời kể của anh Thái Hóa Lộc, không phải là thân thích của ông, người vẫn thường ghé thăm ông, cho biết ông thích ăn các thức ăn Pháp và thích nhâm nhi chút rượu, nếu có thể. Lúc còn khỏe, ông cũng sẵn sàng nói chuyện xảy ra trong thời loạn lạc, một số chi tiết về Ðại Tướng Cao Văn Viên liên quan đến vụ đảo chánh 1963, cái chết của Thiếu Tá Nhung và một số chi tiết nhưng ông yêu cầu không nên đưa lên báo chí.

                                Bây giờ có chuyện nhớ chuyện quên nhưng ông cho biết vào mùa Ðông thân thể thường đau nhức, “chỉ có Wishky mới trị nổi thôi,” điều mà bác sĩ hoàn toàn cấm, nhưng đôi khi các cô y tá cũng thông cảm cho ông, khi biết ông xưa kia là một tướng lãnh.

                                Ông tâm sự với chúng tôi, là ông đã nghĩ đến ngày ra đi và không sợ chết. Ngày ông mất, xin nhờ bên anh em thuộc binh chủng Nhảy Dù lo chuyện hậu sự cho ông tươm tất là ông cảm thấy mãn nguyện rồi.

                                Ông đọc cho chúng tôi nghe một bài thơ dài ông đã làm trong nhà tù Bắc Việt sau 9 năm bị giam cầm (khoảng năm 1984.) Bài thơ dài 65 câu, lời thơ đầy bi phẫn, xót xa của một tướng lãnh thất trận và là của một người tù không bản án, vô vọng không có ngày về.

                                Chỉ trong vòng mười lăm phút, ông đã đọc đi đọc lại cho chúng tôi nghe bài thơ này ba lần, điều này chứng tỏ ông đã đi vào thời kỳ lú lẫn. Anh Thái Hóa Lộc cho tôi biết, ông thường vào thăm ông, mang thức ăn cho ông, và lần nào, anh Lộc cũng nghe ông đọc bài thơ này. Ông cho biết trong nhà tù ông đã làm bài thơ và ghi nhớ trong đầu, đọc đi đọc lại nên thuộc nằm lòng, mà không dám viết ra giấy.

                                Trong khi Thiếu Tướng Ðỗ Kế Giai đọc đi đọc lại bài thơ viết trong nhà tù Việt Bắc, chúng tôi đã ghi âm lại và chép ra để các chiến hữu và độc giả hiểu được phần nào tâm sự của ông, một vị tướng già, thất trận đang sống những ngày cuối cùng xa quê hương, lẻ loi trong một nhà dưỡng lão xa lạ. Vì khuôn khổ của trang báo, chúng tôi chỉ xin trích một đoạn trong bài thơ của ông, bài thơ chưa đặt tên:

                                ...“Ý thức hệ miền Nam kiếp nạn
                                Chín năm (1984) cố quốc dạ nào quên.
                                Không xoay thế cuộc, anh hùng lụy
                                Hào kiệt ngục trung, nợ nước đền.
                                Anh hùng mưu sự chẳng nên
                                Cúi xuống thẹn Ðất, ngước lên thẹn Trời.
                                Mài gươm rồi để hận đời
                                Chôn vùi thế hệ lụy người tù chung.
                                Oán thế nhân, xin đừng trách nữa
                                Lỗi lầm này hãy sửa sai chung.
                                Ðem xương máu học bài đắt giá
                                Chi đem thành bại luận anh hùng.


                                (Ðỗ Kế Giai-1984)
                                nguồn: https://hon-viet.co.uk/HuyPhuong_ViT...haDuongLao.htm

                                & & &

                                Nỗi Buồn Cuối Năm, Nỗi Buồn Cuối Ðời
                                Huy Phương


                                Hình minh họa

                                Câu chuyện đi thăm Tướng Đỗ Kế Giai tại một nhà dưỡng lão ở Garland, Texas, đã ám ảnh tôi suốt một đêm khó ngủ. Đó là một buổi chiều Chủ Nhật vào cuối Tháng Mười Hai Dương Lịch, trời đã bắt đầu se lạnh, bãi đậu xe trống vắng bóng xe, gần như không có một người khách thăm viếng. Nhưng ông bà cụ già, ngồi trên xe lăn, dồn ra phòng khách, trên lối đi vào, với đôi mắt đờ đẫn không nhìn ai, hay gục mặt nhìn xuống thân mình, trong thói quen chờ đợi, hy vọng có một người thân của mình hiện ra trên ngưỡng cửa với một nụ cười, bó hoa hay món quà trên tay.

                                Tôi biết trên thế giới Tây phương có nhiều đứa con không dám đi du lịch xa, vì sợ con mèo, con chó hay bầy cá ở nhà không ai cho chúng ăn hay săn sóc, nhưng cha mẹ già thì đã có những nhà dưỡng lão. Thậm chí trong tình vợ chồng, người vợ còn mạnh khỏe, siêng đi lễ hay lên chùa, nhưng chồng thì cô đơn, trên chiếc xe lăn trong một nhà già quạnh hiu nào đó.

                                Chúng ta có bao nhiêu lý do để bào chữa, biện minh cho việc bỏ bê cha mẹ già trong một cơ quan y tế, được cho ăn mỗi bữa, áo quần có người giặt, vài ba ngày được đẩy xe vào phòng tắm, trần truồng và được cô y tá hay một nam nhân viên dội nước, xát xà phòng, vo đầu. Những việc săn sóc này dù có mang chút tình người đi nữa thì cũng là những công việc hằng ngày bắt buộc, thương ghét hay xúc động chỉ là những cảm tính vô ích.

                                Có những đứa con nại cớ bù đầu với công việc ở sở, và việc con cái bếp núc ở nhà nên không có thời gian dành cho cha mẹ già, đành phải đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão. Gần đây người ta lên tiếng hoan nghênh những người phụ nữ hy sinh lợi tức để ở nhà toàn thời gian chăm nom, săn sóc con cái, nhưng nào có ai nghe chuyện có những đứa con bỏ việc làm vì còn cha mẹ cần sự giúp đỡ lúc về già! Người ta thường kêu than không có thời giờ, “đầu tắt, mặt tối” nhưng còn có thời gian mua sắm trong các cửa hàng thời trang, mất một hai tiếng đồng hồ trong gym mỗi ngày, năm giờ cho một chương trình ca nhạc ở sòng bài, không tính thời giờ đi về. Đó là chưa kể thời gian “bắt buộc” phải ngồi trước máy điện toán, vào Facebook, hay trao đổi tin nhắn với bạn bè.

                                Người ta có thể mỗi năm tổ chức những chuyến du lịch bắt buộc, ra ngoài để mở tầm mắt trước thế giới, nhưng “nhắm mắt” làm ngơ về một lần sắp xếp thời gian đi thăm cha mẹ già.

                                Ngày xưa một người mẹ nuôi được năm mười đứa con, ngày nay cả năm mười đứa con không nuôi nổi được một mẹ, phải chăng vì vậy mà phải đẩy mẹ vào nhà dưỡng lão, để cho những người xa lạ trông coi. Ở đây có khi mẹ thiếu ăn, cơ thể mất nước, dơ bẩn trong mớ phân và nước tiểu, bị đối xử tàn tệ, cũng chẳng hề ai biết đến. Ngày xưa “bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn,” không có bậc cha mẹ nào có thể ngoảnh mặt trước cảnh con đói khát hay bị lăng nhục bởi một người khác.

                                Con biết giờ đây, “một ông già bằng ba đứa trẻ” cha “lẩm cẩm” bước đi, và mẹ phải nương lưng nhờ gậy chống.

                                Xưa kia khi các con còn thơ ấu, thân xác chưa trưởng thành và tâm hồn con yếu đuối, điều một điều hai vẫn là mẹ. Một đứa trẻ có thể biết lạnh, biết nóng, biết đói, biết khát, biết đau, nên khóc la, nhưng chóng quên, khóc đó rồi cười đó. Trái lại, một ông già còn biết buồn, biết tủi thân, biết xót xa mà chỉ biết gậm nhấm mang lấy nỗi buồn của riêng của mình, nên tuổi già cũng cần chăm sóc, gần gũi, ân cần như là một đứa trẻ, có khi còn hơn thế nữa!

                                Thói quen của người đời, người ta thường hỏi nhau có được mấy con, mấy ai quan tâm xem song thân còn hay mất! Đối với cha mẹ, con là tất cả, nhưng đối với con, cha mẹ là một thứ quá khứ cần xếp lại.

                                Ngày xưa, niềm vui của cha mẹ là nghe tiếng đứa con chập chững bi bô, hay toét miệng cười, ngày nay cha mẹ về già, các con ở xa, chỉ mong nghe tiếng điện thoại reo vui vào những ngày lễ, Tết, và đầu điện thoại bên kia có tiếng nói: “Mẹ ơi!” hay “Mẹ đó hả?”Trong cái tổ ấm cúng ngày xưa, và là cái tổ trống hoác ngày nay, khi các con đã đi xa, những cái phòng của các con vẫn để trống, biết đâu có ngày con về thăm bố mẹ. Con búp bê bằng nhựa, con gấu nhồi bông vẫn còn trên chiếc dương cầm phủ bụi của con gái, tủ sách, nhiều giải thưởng và những lá cờ kỷ niệm của trường đại học vẫn còn gắn trên bức tường trong phòng đứa con trai. Và ngôi vườn kia, đã đầy lớp lá vàng vào Thu hay phủ tuyết mùa Đông, cái ghế xích đu ngoài vườn ngày trước con thích ngồi, vẫn rung khẽ cùng cơn gió nhẹ.

                                Nhiều lúc cha mẹ muốn bán ngôi nhà cũ đầy ắp kỷ niệm, nhiều phòng, để đi tìm một cái condo, nhưng cứ nghĩ khi con về, và còn những đứa cháu nữa, sẽ ở đâu?

                                Cha mẹ Việt Nam tự an ủi, ru mình bằng bốn tiếng “nước mắt chảy xuôi” là mọi chuyện đều cho qua, nhận thức đời sống một phần cũng cho là duyên, là phước. Phải chi cha mẹ như cha mẹ nơi quê người, không hề lưu luyến, bịn rịn, ngay từ lúc đứa con đã trưởng thành rời mái ấm ra đi.

                                Nhưng có lẽ mọi điều không phải như vậy, dù bên trời Tây hay bên phương Đông.

                                Chúng tôi vừa được xem một đoạn phim rất ngắn kể chuyện một người già cô đơn ở phương Tây.

                                Những ngày lễ lớn năm nay, cô con gái tin cho biết là cô không về thăm cha được vì bận việc. Ông cụ lủi thủi một mình, cô đơn trong căn nhà nhỏ với những bữa cơm lặng lẽ hàng ngày. Nhưng rồi, cô con gái nhận được tin cha mình qua đời đột ngột, cô thu xếp cùng chồng trở về nhà.

                                Trên bậc cửa, cô thấy người cha thân yêu của cô hiện ra với tấm lưng còng và mái tóc bạc phơ. Cô bật khóc. Phải chăng vì nghe tin cha chết, cô mới trở về, trong khi còn sống, người cha cần có con, thì không có cô bên cạnh.

                                Nhưng cũng còn may. Cách đây mười mấy năm ở Paris, vào mùa Hè, có một trận nóng kinh khủng giết hàng trăm cụ già trong nhà dưỡng lão. Nhà nước thông báo cho những đứa con trở về lo chôn cất. Nhưng chúng, nhiều đứa đành xin lỗi, vì đang kẹt trong chuyến du lịch dài ngày ở xa!


                                Huy Phương
                                nguồn:
                                https://hon-viet.co.uk/HuyPhuong_ViT...haDuongLao.htm
                                Last edited by BachMa; 10-23-2018, 03:53 AM.

                                Comment



                                Hội Quán Phi Dũng ©
                                Diễn Đàn Chiến Hữu & Thân Hữu Không Quân VNCH




                                website hit counter

                                Working...
                                X